🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Danh Nhân Việt Nam – Tập 2: Những Người Việt Nam Đi Tiên Phong Ebooks Nhóm Zalo Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTHTP.HCM Lê Minh Quốc Những người Việt Nam đi tiên phong / Lê Minh Quốc. - Tái bản có chỉnh sửa, bổ sung. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009. 228tr. : tranh ảnh, hình vẽ ; 24cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam ; T.2) 1. Danh nhân -- Việt Nam. I. Ts. II. Ts: Kể chuyện danh nhân Việt Nam. 959.7092 -- dc 22 L433-Q16 nhà xuất bản trẻ 4 Lời nói đầu Nhìn lại lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta tự hào Tổ quốc ta có những danh nhân đã đóng góp trí tuệ, tài năng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa... Qua đó, chúng ta nhận thấy, một trong những truyền thống tốt đẹp góp phần tạo nên bản sắc của dân tộc ta là tinh thần hiếu học, say mê nghiên cứu, tìm tòi không mệt mỏi và dũng cảm thực hiện hoài bão của mình để từ đó, hình thành cái mới, cái đẹp phù hợp với nhu cầu phát triển của thời đại. Lịch sử đã cho thấy bất kỳ trong giai đoạn nào đất nước ta cũng có những con người tài hoa, họ đã đi những bước tiên phong trên nhiều lĩnh vực văn hóa, chính trị, xã hội... để khai quang mở lối, rồi thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện. Trong chiều hướng ấy, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản tập sách Những người Việt Nam đi tiên phong - nằm trong bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn. Bộ sách này được thực hiện từ nhiều năm trước, đã nhiều lần tái bản. Nay theo yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi sắp xếp lại nhân vật, bổ sung thêm nhiều hình ảnh, tư liệu nhằm phục vụ bạn đọc tốt hơn nữa. Do khuôn khổ có hạn, tập sách chưa thể đề cập đầy đủ các nhân vật như mong muốn, chúng tôi sẽ bổ sung thêm sau. Về thứ tự của nhân vật, trước mắt chúng tôi sắp xếp theo lĩnh vực hoạt động. Mở đầu tập sách là sử gia Lê Văn Hưu – người đặt nền móng cho nền sử học Việt Nam với tác phẩm Đại Việt sử ký hoàn thành năm 1272; là Tiến sĩ Đặng Minh Khiêm – người mở đầu cho thể loại vịnh sử Nam bằng chữ Hán. Cũng nằm trong lĩnh vực văn hóa của nước nhà, chúng tôi tiếp tục đề cập đến những tiếng tăm của thế kỷ XX 5 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM như họa sĩ Nam Sơn – người đã có công sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cùng Victor Tardieu – đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ thuộc lớp đầu đàn của nền hội họa Việt Nam. Là nhà viết kịch Vũ Đình Long, người đã viết vở Chén thuốc độc công diễn năm 1921 tại Nhà hát Hà Nội – mà trong chuyên đề Lướt qua một thế kỷ, Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã ghi nhận: “Vở kịch đã đi vào văn học sử và sân khấu Việt Nam với tư cách một sự mở đầu cho kịch nói dân tộc” (Tạp chí Xưa-Nay số 1/2000). Chúng tôi cũng không quên được vai trò tiên phong của nhà thơ, nhà báo Thế Lữ, Phan Khôi, Tam Lang, Hoàng Tích Chu... đã có nhiều đóng góp không thể phai mờ trong lịch sử phát triển báo chí Việt Nam, văn học của nước nhà. Và chúng tôi cũng không quên những nhân vật khác. Đó là nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị – người đã có những bước tiên phong trong nghệ thuật chèo truyền thống; là nghệ sĩ Tống Hữu Định – người có sáng kiến “ca ra bộ” góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của loại hình nghệ thuật cải lương... Hoặc Nghệ sĩ Nhân dân Tạ Duy Hiển – người có công đầu trong việc hình thành loại hình nghệ thuật xiếc ở Việt Nam từ thế kỷ XX. Hoặc nhà báo Trần Tấn Quốc, người đầu tiên lập ra giải Thanh Tâm rất đáng ghi nhận, vì ông là người tiên phong góp phần tích cực để xóa bỏ thành kiến “xướng ca vô loài” và nâng đỡ tâm hồn cho người nghệ sĩ về ý thức đem tài đức của mình cống hiến cho xã hội. Hiện nay, để phát huy ý nghĩa tích cực của giải thưởng này, Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức giải Trần Hữu Trang kế thừa công việc mà Trần Tấn Quốc đã khởi xướng từ thập niên 50 của thế kỷ XX v.v... Riêng về lĩnh vực võ thuật của nước nhà, chúng tôi đề cập đến võ sư Nguyễn Lộc – người đã có công sáng lập VoViNam (Việt võ đạo) mà các thế hệ sau tôn vinh là Võ sư Sáng tổ. Ngoài phần võ thuật và tinh thần võ đạo, ông còn muốn giáo dục các môn sinh sau này của ông về danh dự của Tổ quốc. Nghĩa là thanh niên Việt Nam phải có phương pháp tự vệ mang danh dân tộc Việt Nam, tiêu biểu cho tinh thần tự chủ bất khuất của tiền nhân, để khi chiến đấu có được hùng khí, quyết đem vinh quang về cho Tổ quốc, cho môn phái. 6 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, trước hết chúng tôi đề cập đến nhà doanh điền Thoại Ngọc Hầu – đã trực tiếp chỉ huy đào và hoàn thành kinh Đông Xuyên nối liền Châu Đốc đến cửa biển Giang Thành (Hà Tiên) vào năm 1824. Sự kiện vĩ đại này được ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí: “Từ đây đường sông mới lưu thông, việc biên phòng, việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”. Về sau, trong lĩnh vực kinh tế còn có những nhân vật hoạt động sôi nổi, nhằm cạnh tranh với ngoại bang và qua đó, họ đã đóng góp nhiều tiền của cho phong trào yêu nước. Chúng tôi đề cập đến nhân vật Trần Chánh Chiếu – một trong những trụ cột của phong trào Duy tân, Đông du tại Nam kỳ. Có một điều rất thú vị, chính ông đã lập tập đoàn kinh tế đầu tiên ở miền Nam và cũng là người đã biết dùng công cụ báo chí để tạo trong quảng đại quần chúng ý thức mới trong kinh doanh thương nghiệp nhằm cạnh tranh với các thế lực tư bản ngoại quốc đang thống lĩnh trong lĩnh vực kinh tế của nước nhà. Nối tiếp vai trò tiên phong trong lĩnh vực này, chúng tôi tiếp tục đề cập đến những tên tuổi lừng danh khác. Đó là ông Bạch Thái Bưởi – “ông vua” của ngành vận tải đường thủy ở nước ta đầu thế kỷ XX – dám cạnh tranh với tư bản Pháp và Hoa Kiều khi mà nền kinh tế nước nhà đang bị họ thao túng nhiều mặt; là ông Nguyễn Sơn Hà – người Việt Nam đầu tiên sản xuất sơn theo công nghệ hiện đại để cạnh tranh với sản phẩm của người Pháp; là ông Trương Văn Bền – người đã vinh danh xà bông Việt Nam qua nhãn hiệu “Xà bông Cô Ba” v.v... Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc, chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để bộ sách này ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin quý độc giả ghi nhận nơi đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. Nhà xuất bản TRẺ 7 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM 8 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG LÊ VĂN HƯU Người soạn quốc sử đầu tiên của Việt Nam Thời Chiến quốc ở nước Tề có nhân vật Mạnh Thường Quân- tên thật là Điền Văn. Ông là người nghĩa hiệp và hiếu khách, thường nghĩ rằng, muốn làm nên sự nghiệp ở đời thì nhà võ phải có võ tướng theo hầu, nhà văn phải có văn nhân tài tử theo giúp. Vì thế khi kế nghiệp cha, ông bỏ tiền ra chiêu hiền đãi sĩ, để lại tiếng thơm trên đời. Ở nước ta vào thế kỷ thứ X, tại quận Cửu Chân, Châu Ái (nay là Thanh Hóa) cũng có một Mạnh Thường Quân như thế. Đó là gia đình ông Lê Lương, giàu có nhất trong vùng, làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Trong nhà ông trữ thóc đến 110 lẫm, nuôi 3.000 người khách, thường bỏ tiền ra để xây chùa, dựng miếu và dốc lòng làm việc thiện. Gặp lúc thiên tai, hỏa hoạn nhân dân trong vùng lâm vào cảnh đói rét thì ông đem thóc trong nhà ra phát chẩn. Thế lực của ông rất lớn nên ai ai cũng kính nể. Năm 968 anh hùng Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, nghe tiếng tốt của ông nên phong cho làm chức Đô quốc dịch sứ ở Châu Ái, lại ban cho hàm Kim tử quan lộc đại phu. Đến thời vua Lê Đại Hành chống giặc Tống, ông được giao chức Bộc xạ tướng công chuyên lo việc quân lương. Ông Lê Lương là ông tổ bảy đời của nhà sử học Lê Văn Hưu. Lê Văn Hưu sinh năm 1230, là con trai của ông Lê Văn Minh và bà Đỗ Thị Hòa người làng Phủ Lý (tên nôm là Kẻ Ry) nay là xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa). Khi bà Hòa mang thai 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê Văn Hưu được mấy tháng thì ông Minh bị bạo bệnh mất. Do đó, mẹ con Lê Văn Hưu về sống với ông ngoại là Đỗ Tất Bình – vốn là một nhà nho tinh thông địa học, phong thủy và là người từng lấy đất đặt mộ cho dòng họ Lê. Tương truyền, lúc mới sinh ra Lê Văn Hưu diện mạo khôi ngô tuấn tú nên cả dòng họ mừng rỡ, ông ngoại đặt tên là Hưu với nhiều ý nghĩa: “Hưu” là để trừ điều may rủi (nghĩa là nghỉ đi, dứt đi) ; còn có nghĩa là vui vẻ; là tên con thú lớn khỏe mạnh (tì hưu), được các loài thú kính nể và cũng có nghĩa là lấy sơn sơn vật cho đẹp. Chắc chắn, sự giáo dục chu đáo của ông ngoại có ảnh hưởng sâu đậm đến Lê Văn Hưu. Ngay từ nhỏ, Lê Văn Hưu đã tỏ ra thông minh và hiếu học hơn người. Theo truyền thuyết dân gian, lúc ông đi học, bà mẹ thường thấy bốn đám mây che râm mát trên đầu! Ban đầu Lê Văn Hưu được ông ngoại dạy dỗ, sau theo học với ông đồ họ Nguyễn ở làng Phúc Triền, Kẻ Bôn (cạnh Kẻ Ry). Ngày nọ thầy sai Lê Văn Hưu sang chỗ bác thợ rèn mượn cái dùi về đóng sách. Nghe tiếng cậu học trò này là thần đồng, tư chất thông minh nên bác thợ rèn bèn ra câu đối để thử tài: - Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở. Thông thường ra câu đối thì dễ, chỉ có đối lại mới khó. Bác thợ rèn vừa dứt lời, Lê Văn Hưu đã đọc ngay vế đối lại: - Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên. Bác thợ rèn kinh ngạc, vì không chỉ vế đối rất chuẩn mà khẩu khí hơn người. Sau này, khi lớn lên, Lê Văn Hưu trọ học ở chùa Báo Ân (núi Nhôi, Đông Sơn). Ngày nọ, có đạo sĩ tu tiên ở núi Nhôi xuống chơi chùa Báo Ân, thấy cậu học trò có gương mặt sáng láng nên muốn thử tài. Đang thong thả đứng ngắm cảnh, ông buột miệng đọc: - Cây thiên tuế sống ngàn năm. Không ngờ, dù đang để tâm trí học bài, nhưng mới thoáng nghe qua, cậu học trò liền trả lời: - Hoa thiên lý thơm vạn dặm. Khẩu khí của vế đối khiến vị đạo sĩ khen ngợi mãi. Một bên lấy “trường sinh bất tử” làm lẽ sống thì một bên muốn “lưu danh muôn 10 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG đời” làm chí hướng! Thật vậy, sau này Lê Văn Hưu sẽ là người như thế. Trong thời đi học, ông tỏ ra là người siêng năng, cần mẫn dù học giỏi nhưng không kiêu, thường giúp cho bạn học yếu hơn mình. Nhận thấy cậu học trò tính tình điềm đạm, tốt bụng như thế, thầy đồ họ Nguyễn đã gả con gái là Nguyễn Thị Thanh cho ông. Có giai thoại kể lại rằng, ngày nọ Lê Văn Hưu đang ngồi học thì hai cô con gái của thầy ra trước sân phơi đậu. Hình ảnh hai cô thôn nữ xinh tươi làm cậu học trò mải nhìn mà không để tâm trí vào bài vở. Thầy đồ biết vậy bèn đọc to vế đối: -Sân trước phơi đậu, sân sau phơi đậu, ngươi muốn đậu, ta cho đậu! Lê Văn Hưu giật mình! Chao ôi! Thầy đã biết tỏng tình ý của mình rồi. Vế đối này ngụ cả hai ý, nếu mình muốn thi đậu thì thầy dạy cho đậu, còn nếu muốn lấy con gái của thầy thì thầy sẽ gả cho! Dù bị “tấn công” bất ngờ như thế, nhưng cậu học trò giỏi nhất lớp vẫn nhanh nhẹn lễ phép cúi đầu: - Bẩm thầy, con xin thầy cho phép được đối lại ạ! Thầy bao dung mỉm cười, Lê Văn Hưu đứng dậy vòng tay đáp: - Cô lớn hái hoa, cô bé hái hoa, thầy thám hoa, con thám hoa. Nghe xong thầy gật gù khen ngợi vì vế đối lại cũng ngụ hai ý một là trò khẳng định mình sẽ đậu Thám hoa, và một ý khác là cũng muốn thăm hoa (thám còn có nghĩa là thăm). Lần khác, do đi học trễ nên Lê Văn Hưu phải đứng tựa gốc bàng ở ngoài cửa. Thầy đồ thấy vậy liền ra câu đối, nếu đối lại được thì thầy cho vào lớp học, còn không thì bị phạt. Thầy đọc: - Con mộc tựa cây bàng nhìn nhà Bảng nhãn. Cái khó của vế đối này là thầy ghép chữ “mộc” với chữ “bàng” thành chữ “bảng” – tức bảng nhãn. Không ngờ thầy vừa dứt lời thì trò cũng đối luôn: - Thằng quỷ ôm cái đấu tựa cửa khôi nguyên. Hay quá! Vì Lê Văn Hưu đã dùng chữ “quỷ” ghép với chữ “đấu” thành chữ “khôi” – tức khôi nguyên. Từng chữ đối nhau chan chát thật hoàn chỉnh. 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Năm 1247, vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh. Lúc này Lê Văn Hưu mới 17 tuổi cũng lai kinh ứng thí. Ở khoa thi này có 40 người đậu, trong đó có ba người đầu bảng gọi là Tam khôi. Từ đây, danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa mới bắt đầu xuất hiện. Điều đáng chú ý cả ba danh hiệu này đều lọt vào tay của những thần đồng trẻ tuổi: Trạng nguyên Nguyễn Hiền mới 13 tuổi, Bảng nhãn Lê Văn Hưu, 17 tuổi và Thám hoa Đặng Ma La, 14 tuổi. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà sách Đăng khoa lục ghi nhận: “Tam khôi tinh trung thiếu niên, cổ kim hãn kiến” (Học vị tam khôi đều thuộc về tuổi thiếu niên, xưa nay hiếm thấy). Được biết, sử cũ còn ghi lại đề bài thi của khoa thi này là “Áp tử từ kê mẫu du hồ phú” (Bài phú về con vịt từ giã mẹ gà đi chơi hồ). Sau khi thi đậu, Lê Văn Hưu ra làm quan, giữ chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi về tư pháp, hình luật), rồi Binh bộ thượng thư, sung chức Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Có một chi tiết thú vị, Lê văn Hưu cũng chính là thầy dạy học của Chiêu Minh Vương – tức Thượng tướng Trần Quang Khải - con trai vua Trần Thái Tông, một danh tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Trong những năm tháng làm quan, Lê Văn Hưu đã thực hiện một công trình khoa học có tầm vóc, đó là việc hoàn thành bộ quốc sử đầu tiên trong lịch sử nước nhà và trở thành một nhà sử học có uy tín. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Năm 1272, mùa xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc soạn xong bộ Đại Việt sử ký từ thời Triệu Vũ đế (207- 136 trước CN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) gồm 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi“. Đến thời đại của chúng ta, giáo sư Phan Huy Lê đánh giá xác đáng: “Điều có ý nghĩa quan trọng hơn là vào đời Trần (1226-1400) và có thể từ đời Lý (1010-1225) công việc biên soạn lịch sử dân tộc đã bắt đầu và ngày càng phát triển. Trước và sau Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, đã có những bộ sử như Sử ký của Đỗ Thiện, Việt chí của Trần Phổ, Trung Hưng thực lục, Đại Việt sử lược, An Nam chí lược của Lê Trắc , Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc…, những công trình thu 12 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG thập các truyền thuyết dân gian như Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp… Đó là những tác phẩm và tác giả đặt cơ sở cho sự ra đời của nền sử học Việt Nam, một bộ phận tạo thành của nền văn hóa Thăng Long đang phát triển rực rỡ lúc bấy giờ. Trong bối cảnh ấy, Lê Văn Hưu với tư cách là người đứng đầu viện Quốc sử, đã biên soạn bộ Đại Việt sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta. Tham gia biên soạn hẳn còn nhiều sử thần của viện Quốc sử mà tư liệu lịch sử không ghi chép. Trong lịch sử phát triển của nền sử học Việt Nam, Đại Việt sử ký giữ vị trí bộ quốc sử đầu tiên”(1). Theo Lê thị gia phả thì sau này Lê Văn Hưu “nghiên cứu sâu rộng về môn địa lý… thường đi chơi khắp nơi để xem phong thủy”. Đây cũng là một trong những hoạt động cần thiết cho người viết sử. Việc làm này khiến ta nhớ đến nhà viết sử nổi tiếng đời nhà Hán bên Trung Quốc là Tư Mã Thiên, ông cũng đi khắp nơi quan sát, ghi chép để bộ Sử ký của mình sát với thực tế và phong phú về sử liệu. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà học giả Trần Văn Giáp khẳng định: “Vậy bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đối với lịch sử Việt Nam rất là quan trọng, không khác gì bộ Sử ký của Tư Mã Thiên đối với lịch sử Trung Quốc”. Đến nay, bộ Đại Việt sử ký đã thất lạc, không rõ bị mất trong trường hợp nào. Điều này cũng dễ hiểu vì căn cứ vào Lịch triều hiến chương loại chí, nhà bác học Phan Huy Chú cho biết: “Trải qua bao phen bể dâu, nhiều phen binh lửa, như cuối đời nhà Trần bị nạn giặc Minh, thư tịch đã bị mất một lần trước (khi nhà Nhuận Hồ thất thủ, tướng Minh là Trương Phụ lấy cả sách vở đưa về Kim Lăng), đầu nhà Lê bị loạn Trần Cảo, thư tịch lại tan mất một lần sau (cuối năm Bia ghi công trạng của Bảng nhãn Lê Văn Hưu 1 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB Khoa học Xã hội - 1983, trang 19. 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Bia và mộ Lê Văn Hưu Hồng Thuận 1509-1516, Trần Cảo làm loạn, kinh thành bị mất, nhân dân tranh nhau vào các nơi cung cấm dinh thự lấy tiền của, văn thư, sách vở ném ra đầy đường). Từ Trung hưng về sau, tuy có tìm tòi, nhưng sau khi đã tản mát đi, thu thập lại cũng khó. Nội các thì không có kho chứa sách riêng, sử thi lại không chép văn tịch, khiến cho điển cố các triều không còn nữa, người muốn khảo cổ vì thế phải phàn nàn mà rất tiếc”. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta vẫn còn có thể tìm hiểu được quan điểm và bút pháp của sử gia Lê Văn Hưu - khi đọc 30 đoạn “Lê Văn Hưu viết” trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư do các sử thần triều Lê biên soạn. Những lời bình xác đáng của “đại thủ bút đời Trần” (Ngô Sĩ Liên), có “nghĩa lớn khen chê đã rõ rệt ở lời công luận của sử bút” (Phạm Công Trứ) cho đến nay vẫn còn giá trị. Nổi bật trong Đại Việt sử ký là tấm lòng yêu Nước thương Dân, bàn về đạo làm vua và bàn những việc về trị nước. Khi bàn đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử phương Bắc tham tàn đày đọa đau khổ, ngòi bút của ông như trào ra những dòng nước mắt: “Xin trời vì nước Việt ta sớm sinh thánh nhân tự làm đế, nước nhà để khỏi bị người phương Bắc cướp vét”; và “Chỉ vì không có người thống suất mà thôi! Thời không bỉ mãi, tất có lúc thái, thế không 14 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG khuất mãi, tất có lúc duỗi…”. Do đó, khi các vương đế nước ta giành được thắng lợi thì ngòi bút của ông như reo lên, hào sảng lạ thường. Về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, ông viết: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế nước Việt ta đủ dựng nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy”. Chỉ riêng lời bình luận tuyệt hay này, về sau các nhà viết sử cũng chịu ảnh hưởng từng câu chữ – chẳng hạn cụm từ “hô một tiếng”, “xưng vương dễ như trở bàn tay”, “bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc”… Khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, ông viết: “Có thể nói một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy”. Khi bàn sự nghiệp hiển hách của Đinh Tiên Hoàng, ông viết: “Có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để nối quốc thống của Triệu Vương chăng?” Nhưng với tư cách của một sử gia, Lê Văn Hưu không ngần ngại khi phê phán những việc làm sai trái của các bậc đế vương. Chẳng hạn, vào năm 1129, vua Lý Thần Tông phong tước cho Lý Tử Khắc và Lý Lộc vì hai người này dâng con hươu trắng – vì cho đó là điềm lành – ông phê phán: “Phàm người xưa gọi là điềm lành, là nói việc được người hiền và được mùa, ngoài ra không có gì đáng gọi là điềm lành cả”, vậy trong trường hợp trên “người thưởng và người nhận thưởng đều sai cả”. Sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “đều do tính trẻ thơ mà không có người can ngăn”, còn sử gia Lê Tung phê phán nặng nề: “Sao mà ngu thế!”. Năm 1130, vua Lý Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan không được lấy chồng vội, phải đợi sau khi sung vào hậu cung, người nào không trúng tuyển mới được lấy chồng! Trước quy định vô lý này, Lê Văn Hưu không ngần ngại chỉ trích đích đáng: “Nói về lòng trời thì trời sinh ra dân mà đặt người làm vua để giữ việc chăn dắt dân, chứ đâu có phải dùng dân cung phụng riêng 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM cho mình đâu. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất, con trai có vợ, con gái có chồng. Nay Thần Tông hạ chiếu như thế có hợp với đạo lý của người làm cha mẹ dân không?”. Sự việc này sử gia Ngô Thì Sĩ có lời bình: “Sáu cung của vua thiếu gì phi tần, mà cũng phải kén người hiền thục mới phải, đâu lại có xét khắp con gái bách quan tìm sắc đẹp. Xưa kia Tôn Hiệu và Tấn Vũ đã làm như thế. Nay vua Thần Tông cũng mọi thói ấy, ham mê nữ sắc quá lắm”. Còn việc vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu, Lê Văn Hưu cũng phê phán: “Từ xưa chỉ lập hoàng hậu một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nỗi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậu. Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy”. Ngay cả việc các vua thậm xưng như vua Lý Thái Tông bảo các quan gọi mình là “triều đình”, Lý Thánh Tông tự xưng mình là “Vạn thặng”, Lý Cao Tông bảo mọi người gọi mình là “Phật” thì ông chỉ trích: “Không theo khuôn phép ở đâu, mà là tính khoe khoang. Khổng Tử nói: “Danh không chính thì nói không thuận” là thế”. Hoặc vua Lý Thái Tông chịu cho bầy tôi dâng cho 8 chữ “Kim dũng, ngân sinh, Nùng bình , Phiên phục” vào tôn hiệu thì ông đánh giá nghiêm khắc đây là việc: “Khoe khoang lại thô bỉ nữa, Thái Tông không có học nên không biết, nhưng bọn nho thần dâng lên những chữ ấy để nịnh hót thì không thể bảo là không có tội”. Ngẫm lại, thấy những lời phê phán ấy nghiêm khắc biết chừng nào! Năm 1010, sau khi dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ xây dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức; trong thành làm chùa Ngự Thiên, Ngũ Phượng; ngoại thành phía Nam dựng chùa Nghiêm Thắng; rồi trùng tu chùa quán ở các lộ… Lê Văn Hưu có lời bình mà nay đọc lại khiến ta vẫn còn phải suy nghĩ: “Thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là việc làm phúc được chăng?”. 16 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Trong đạo trị nước, Lê Văn Hưu cũng có nhiều lời bàn xác đáng. Khi bàn giữa vua Lê Đại Hành với vua Lý Thái Tổ, sau khi phân tích công trạng của hai ngài, ông viết: “Hơn thì không biết, chỉ biết đức của họ Lý dầy hơn họ Lê. Vì thế nên noi theo họ Lý” . Đối với kẻ thù, ông vẫn chủ trương dùng đức để thu phục nhân tâm: “Nếu họ chịu phục thì lấy đức mà vỗ yên, nếu làm phản thì lấy uy mà tỏ cho biết”. Theo ông “Người khéo trị nước phải nên cẩn thận việc chọn người” và ông đòi hỏi người làm vua phải có chữ hiếu để làm gương cho muôn dân. Vì lẽ đó, ông phê phán gay gắt việc vua Lý Thần Tông khi chưa hết tang cha, đã xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở và đón hai hậu phi vào cung: “Không hiểu bấy giờ lấy gì để làm khuôn mẫu cho thiên hạ và biểu đạt với quan. Thần Tông còn nhỏ tuổi, bề tôi trong triều cũng lấy việc để tang ngắn làm may không có một lời nói đến. Có thể bảo là trong triều không có người vậy”. Theo ông, người làm vua – như Lý Thái Tông – không nên “Say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên cái nghĩa lớn của nhà vua”. Ông viết như thế, vì bấy giờ việc sùng đạo Phật đến mức không còn chỗ cho lý trí phán xét. Hãy đọc lại đoạn ông phê phán vua Lý Thần Tông: “Phàm việc trù tính ở trong màn trướng quyết định được chiến thắng ở ngoài nghìn dặm, đều là công của người tướng giỏi cầm quân làm nên thắng lợi. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Thần Tông đáng lẽ phải cáo thắng trận ở nhà Thái Miếu, xét công ở triều đường để thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc. Nay lại quy công cho Phật và Đạo, đi các chùa quán để lạy tạ, như thế không phải là cách ủy lạo kẻ có công, cổ lệ chí khí quân sĩ”. Thiết tưởng, lời bình này nay đọc lại vẫn còn thấy hợp lý. Tuy nhiên, đây là bộ sử đầu tiên nên trong Đại Việt sử ký cũng có những sai lầm. Chẳng hạn ông đã đánh giá cao Triệu Đà – vua nước Nam Việt vào năm 216 trước CN đã dùng mưu giảng hòa và thông gia với An Dương Vương để chiếm nước Âu Lạc vào năm 179 trước CN. Dù có một vài hạn chế và sai sót ấy, nhưng Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu vẫn là một di sản quý báu của văn hóa dân tộc. 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất (1322) thọ 93 xuân, mộ táng ở xứ Mả Giòm, thuộc địa phận thôn phủ Lý Nhân, xã Triệu Trung, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa). Mộ chí bằng đá, đã bị chuyển dịch cách mộ bia. Mộ chí cao 0,95m, rộng 0,45m, phía trên đề “Bảng nhãn Lê tiên sinh bi” và tóm lược tiểu sử. Đây là di tích văn hóa lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng và cấp kinh phí xây dựng. Nhà nghiên cứu Đặng Đức Thi đã nhận định xác đáng về sự nghiệp của Lê Văn Hưu: “Đại Việt sử ký đã mở đầu và có ảnh hưởng lâu dài, sâu rộng đối với nền sử học nước ta trên nhiều phương diện, cả về nội dung khoa học, nội dung tư tưởng lẫn phương pháp ghi chép. Cho nên nếu nói rằng Đại Việt sử ký là sản phẩm của nền văn minh Đại Việt thì cũng phải nói thêm rằng, Đại Việt sử ký đã làm cho nền văn minh Đại Việt càng thêm kiêu hãnh vì đã sớm có một Đại Việt sử ký và một Lê Văn Hưu từ thế kỷ XIII”(1). 1 Lê Văn Hưu - nhà sử học đầu tiên của nước ta - Đặng Đức Thi - NXB Tp. Hồ Chí Minh 1994, trang 206. 18 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG ĐẶNG MINH KHIÊM Người mở đầu loại thơ vịnh sử Nam bằng chữ Hán Đêm tối. Ngồi bên án thư, ông Tiến sĩ nhìn bâng quơ ra sân. Vầng trăng tròn treo lửng lơ trên ngọn cau. Hương cau thoảng mơ hồ trong gió. Lập lòe những con đom đóm. Xa xa vọng lại tiếng trẻ con đọc sách, giọng đọc đều đều chậm rãi. Lắng tai, ông biết đó là một đoạn sử xa xôi bên Tàu... Bất giác, ông khẽ thở dài ngẫm nghĩ: - Sử nước nhà có biết bao anh hùng hiệt kiệt xứng đáng để đời sau ngưỡng vọng công đức. Sao không ai viết lại thành thơ để dễ nhớ, dễ đọc? Chao ôi! Ai cũng phải biết sử nước nhà cả, nhất là bọn trẻ con rất cần phải học, phải nhớ! Cầm chén trà trên tay, ông chiêu một ngụm nhưng hương trà đắng nghét. Dĩa dầu đang cạn dần, ngọn bấc vẫn mờ tỏ soi ánh sáng xuống án thư. Ngồi thừ người suy nghĩ trong chốc lát, ông Tiến sĩ trải trang giấy ra trước mặt rồi cầm bút chấm vào nghiên mực... Khi tiếng gà gáy le te trong đêm khuya, ông giật mình buông bút. Từng dòng chữ thanh thoát như phượng múa, rồng bay đã hiện trên trang giấy: “Làm thơ vịnh sử chủ yếu là để gửi gắm cái ý khen chê. Đề tài thường lấy tên người, tên đất, hoặc lấy núi sông hoặc lấy những người tôn thất, những văn nhân tài tử cổ kim, đặc biệt những người thực hành điều nghĩa thì càng được chú trọng. Trời Nam từ thuở dựng nước đến nay, các bậc đế vương, hậu phi, công hầu, tướng võ, tướng văn, kẻ sĩ và phụ nữ được ghi chép trong sử sách không phải là không có nhiều, nhưng được người sau đề vịnh thì mười chỉ mới một hai”. 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Có thể xem những dòng chữ này là một quan niệm cổ nhất về thể loại thơ vịnh sử ở nước ta. Người viết là Tiến sĩ Đặng Minh Khiêm, tự Trình Dự, hiệu Thoát Hiên sinh năm 1456 (?); vốn thuộc dòng dõi Đặng Tất, Đặng Dung – những sĩ phu yêu nước thời Hậu Trần. Nguyên quán của ông ở huyện Thiên Lộc, nay thuộc Hà Tĩnh, nhưng sau đó chuyển đến cư ngụ tại làng Mao Phổ, huyện Sơn Vì nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã nổi tiếng là người học giỏi và thi đậu Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487) dưới thời vua Lê Thánh Tông. Bước đường hoạn lộ không mấy gập ghềnh, ông làm quan đến Thượng thư Bộ lễ, kiêm phó tổng tài Sử quán, coi việc ở Chiêu văn cục và Tú lâm cục. Nhà bác học Phan Huy Chú khi biên soạn phần Nhân vật chí trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí có nhận xét: “Ông học vấn rộng rãi, khẳng khái, có tiết tháo lớn”. Trong thời gian làm quan, ông có hai lần đi sứ Trung Quốc và làm được nhiều điều ích nước lợi dân. Ý thức vịnh sử nước Nam đã hình thành trong tâm thức Đặng Minh Khiêm từ lúc nào? Chính ông viết: “Khoảng niên hiệu Hồng Thuận (1509-1516), tôi vào giữ chức vụ ở Sử quán, từng có ý thuật cổ. Hiềm vì những thư tịch tàng trữ ở Bí thư, trải bao phen binh lửa, thành ra sách vở bị tàn khuyết khá nhiều. Đọc thấy toàn tập, chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế Pháp mà thôi. Dưới những sự ghi chép của tác phẩm ấy, mở mà duyệt đọc, tàng trữ mà khảo cứu và dựa theo đó mà ca vịnh, ngày qua tháng lại... Tự biết mình tuổi già tài kém, chức vụ thấp, học vấn nông, bình luận phải trái nếu có sai lầm, nhất định sẽ bị những bậc quân tử kiến thức cao minh, hiểu biết sâu rộng chê cười, nhưng đối với việc truyền thụ và học tập của gia đình, về tài liệu sử học thì chưa hẳn là không phần nào bổ ích”. Thật ra, trước Đặng Minh Khiêm từ nửa sau thế kỷ XV đã có Cổ tâm bách vịnh – tập thơ vịnh Bắc sử chữ Hán của vua Lê Thánh Tông cùng dăm bài thơ vịnh sử Nam của các tác giả thời Hồng Đức. Nhưng phải đợi đến Đặng Minh Khiêm thì thơ vịnh sử mới tiếp tục phát triển về số lượng lẫn chất lượng. 20 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Tác phẩm để lại của ông là Việt giám vịnh sử tập (còn gọi là Thoát Hiên vịnh sử tập), gồm ba tập, 125 bài thơ thất ngôn tuyệt cú – vịnh 125 nhân vật từ Kinh Dương Vương đến thời Hậu Trần. Tập thơ này được các học giả thuở ấy khen là “danh bút”. Theo nhà bác học Lê Quý Đôn đây là một áng “văn chương kiệt tác”, còn nhà bác học Phan Huy Chú đánh giá “Văn chương ông thanh nhã, dồi dào đời vẫn truyền tụng... không hổ bậc khoa danh”, còn Tiến sĩ Hà Nhậm Đại cho biết “đến đâu cũng thấy người ta nói đến thơ Thoát Hiên”... Và ngày nay các nhà nghiên cứu hiện đại khẳng định “là tập thơ đầu tiên vịnh Nam sử quy mô và hệ thống” (Tổng tập văn học Việt Nam tập 6 - NXB Khoa học Xã hội - 1987). Để hiểu thêm về Đặng Minh Khiêm, thiết tưởng ta cũng nên biết về thể loại thơ vịnh sử. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân: “Thơ vịnh sử là thơ vịnh truyện cũ, người xưa, với ngụ ý răn dạy người đời, tính chất sùng cổ và mục đích giáo huấn thể hiện rõ rệt, nhân vật được chọn lọc, vừa phải là nhân vật lịch sử, vừa phù hợp với chuẩn mực đạo đức chính thống. Nhà thơ vịnh sử của ta thường biết nhiều nhân vật lịch sử Trung Quốc, nên thơ vịnh Bắc sử xuất hiện sớm và có số lượng nhiều. Ở thể loại Nhượng nước kính anh yêu đức độ Bắc Nam phân trị dựng phong cương (Thơ Đặng Minh Khiêm vịnh Kinh Dương Vương) 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM thơ vịnh sử, tính chất giáo huấn thể hiện khá lộ liễu, thơ vì thế mà hay khô khan, đơn điệu. Nhưng trong mảng thơ vịnh lịch sử dân tộc, tính chất giáo huấn thường được thể hiện chững chạc, tinh tế, thơ vì thế mà sống động, nhuần nhuyễn, giàu cảm xúc. Ở đây cái đẹp là cái đạo đức, đạo đức ấy là sự hỗn dung giữa đạo đức truyền thống dân tộc với phần tích cực của đạo đức Nho giáo. Cho nên không ít bài thơ vịnh sử đã vượt lên trên quan niệm giáo huấn khô khan gò gẫm của Nho giáo bảo thủ, trở nên những bài ca yêu nước và tự hào về truyền thống văn hiến cao đẹp của dân tộc. Thơ vịnh sử lấy con người làm đối tượng, nhưng thường đối chiếu con người lịch sử với chuẩn mực đạo đức để đánh giá bình luận, nêu cái ý khen chê, chứ ít khi đi sâu vào khắc họa nội tâm nhân vật. Đó chính là điều như Đặng Minh Khiêm – nhà thơ vịnh sử nổi tiếng này từng nhận xét: “Làm thơ vịnh sử chủ yếu là để gởi gắm cái ý chê khen”. Tuy nhiên, khi có sự tâm đắc với nhân vật thì các nhà thơ vịnh sử cũng rất chân tình trong cảm xúc yêu thương, trân trọng hoặc căm ghét, khinh bỉ”(1). Mở đầu tập thơ(2), Đặng Minh Khiêm đã vịnh Kinh Dương Vương: Khai thiên lập địa có Hồng Bàng Dòng dõi thần minh sản thánh vương Nhượng nước kính anh yêu đức độ Bắc Nam phân trị dựng phong cương Mỗi bài thơ vịnh của ông đều khắc họa được thần sắc của nhân vật. Chẳng hạn viết về vịnh Trưng Vương: Sinh tiền dũng mãnh nêu Mai Lĩnh Hiển thánh làm mưa lại có công Dòng dõi Mê Linh dòng võ tướng Nữ nhi liệu được mấy anh hùng? Viết về oai linh của Trần Quốc Tuấn với những câu như “Sau khi mất mà oai thanh còn bẻ gãy giặc Bắc” thì khí thơ hào sảng lạ thường: Gia hấn mà trung sáng tỏ thêm Trùng hưng công nghiệp dựng xây nên 1 Tổng tập văn học Việt Nam tập 6 (NXB Khoa học Xã hội - 1987). 2 Khi trích dẫn chúng tôi sử dụng bản dịch của Tổng tập văn học Việt Nam, cho dù căn cứ vào bản dịch nghĩa thì bản dịch thơ ở đây chưa phải là bản dịch hay nhất. 22 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Mất rồi, uy vẫn tan hồn giặc Gươm tựa trời cao nổi gió đêm Thật lạ cho thể thơ này, không phải cứ là văn nhân hay chữ thì đều có thể vịnh được nhân vật lịch sử. Ở đây, người đọc còn đòi hỏi cái tâm của nhà thơ ấy như thế nào nữa. Mọi người yêu thích thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm, vì chỉ có 28 chữ nhưng đã nói được công đức của danh nhân đó bằng tất cả sự ngưỡng mộ chân thành. Khi vịnh Lý Thường Kiệt, ông viết: Anh em gần gũi đấng quân vương Tài mạo hơn người rất vẻ vang Đánh Bắc dẹp Nam công rạng rỡ Phải đâu hoạn thị bọn tầm thường Hoặc vịnh vua Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn: Trung nghĩa hình ra khi khóc chúa Mệnh trời về với được suy tôn Thăng Long đất vạc đà yên ổn Muôn thuở trời Nam dựng nước non Mộng thấy Kim tiên được giáng sinh Đảm đang việc lớn võ công thành (Thơ Đặng Minh Khiêm vịnh vua Trần Nhân Tông) 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Có thể nói, vì có lòng tự hào dân tộc qua các nhân vật lịch sử, vịnh thành thơ mà đời sau mới còn nhớ đến Đặng Minh Khiêm; chứ không phải đời sau nhớ đến những chức vụ ngất ngưởng danh vọng của ông thuở sinh thời. Không chỉ làm thơ vịnh sử nước nhà, Đặng Minh Khiêm còn vâng mệnh triều đình sửa lại bộ Đại Việt sử ký. Đặng Minh Khiêm mất năm 1522 ở Hóa Châu, lúc ông theo vua Lê Chiêu Tông lánh nạn. Tấm lòng ngưỡng vọng của ông đối với tiền nhân vẫn còn sống mãi cùng sử xanh. Mưu mô, tài lược, giữ thành công Lễ nhạc huy hoàng võ bi hùng (Thơ Đặng Minh Khiêm vịnh vua Lý Thánh Tông) 24 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG THOẠI NGỌC HẦU Dấu ấn đầu thế kỷ XIX trên dòng kinh ở phương Nam Trời xanh thẳm, mồ hoang lợp lợp Trăng soi nhòa mấy lớp bia tàn Mây che bao nấm đất vàng Sương sa sao dọi gò hoang đổi dời Máy tạo thể trò chơi lũ trẻ Bóng quang âm như kẻ qua đường Lúc sanh khi lớn không tường Là trai hay gái khó tường họ tên? Hiền hoặc dữ, hư nên nào rõ Cha anh đâu, còn có cháu con? Việc người ta biết chưa tròn Xưa làm chi đấy, hãy còn nghĩ suy Đào kinh trước mấy kỳ khó nhớ Khoác nhung y chống đỡ biên cương Binh man máu nhuộm chiến trường Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) Bọc thây da ngựa gửi xương chốn này! Âm vang bi thiết của Văn tế nghĩa trủng như còn vang vọng mãi. Nó nhắc nhở đến công sức của tiền nhân đã bỏ mình nơi “dưới sông 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM cá lội, trên rừng cọp um” như những anh hùng vô danh. Người chỉ huy công cuộc khai phá vĩ đại ở miền Hậu Giang vào thế kỷ XIX chính là Thoại Ngọc Hầu. Ông tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26/11 năm Nhâm Tý (1761) tại huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc làng An Hải, quận Sơn Trà - Đà Nẵng) con của hai cụ Nguyễn Văn Lượng và Nguyễn Thị Tuyết. Cuối thời chúa Nguyễn, gia đình ông theo lưu dân vào định cư tại làng Thới Bình, Vũng Liêm (Vĩnh Long). Năm 17 tuổi, Nguyễn Văn Thoại tòng quân dưới ngọn cờ của Nguyễn Ánh và chính ông là người phò giá Nguyễn Ánh chạy ra Côn Lôn, Phú Quốc, Thái Lan... để trốn tránh những đòn phản công oanh liệt của nhà Tây Sơn. Trong cuộc đời binh nghiệp, vó ngựa của ông tung hoành từ Nam ra Bắc, từng đi xứ sang Thái Lan, Lào, Campuchia; từng trấn thủ biên giới phương Nam, sang Bảo hộ nước Campuchia; làm đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân, được phong tước Thoại Ngọc Hầu; thậm chí sau khi ông mất, vua Minh Mạng còn sắc phong nhiều chức tước khác. Nhưng sự nghiệp để lại ngàn thu của ông không phải là con đường binh nghiệp, mà ông đã chứng minh mình là nhà doanh điền với những công cuộc khai phá để lại dấu ấn trên bước đường mở cõi về phương Nam. Năm 1818, Nguyễn Văn Thoại được cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. “Toàn cõi trấn Vĩnh Thanh ngày ấy thật là rộng lớn. Chúng ta có thể phác qua những nét đại cương về địa giới theo danh xưng ngày nay: nó gồm có các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Kiên Giang (một phần), Sa Đéc và Vĩnh Long”(1). Ông nhận thấy rạch Đông Xuyên từ bờ tây sông Ba Rạch ở Hậu Giang chảy về phía tây nam 4 dặm thì đến cửa sông Lạc Dục, rồi từ đó chảy về phía nam thì gặp sông Song Khê, gần với đất Chân Lạp. Trong sách Đại Nam nhất thống chí đã miêu tả “cây cỏ um tùm, đường sông lấp đầy, ghe thuyền không đi được”. Ông nghĩ đến việc làm con đường tắt để thuận lợi cho vận chuyển nhất là từ Kiên Giang đến Đông Xuyên và tâu lên vua xin tiến hành đào kênh Đông Xuyên. 1 Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang - Nguyễn Văn Hầu - NXB Hương Sen - 1972. 26 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Công việc đào kinh này khởi đầu từ năm 1818 với chừng 1.500 nhân công Việt và Campuchia, họ được chu cấp lương thực, tiền trong suốt thời gian lao động cật lực. Do việc đào kinh tiến hành bằng phương tiện thủ công nên họ đào theo lạch nước cũ đặng dễ dàng. Chỉ trong thời gian một tháng, họ đã đào được dòng kinh rộng 20 tầm, dài 12.410 tầm!(1) “Đó là một đường sông dài đầu tiên được đào tay tại miền Nam với mục đích phát triển giao thông và thương mại”(2). Công việc hoàn thành, Thoại Ngọc Hầu cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên. Vua Gia Long khen Bản chép lại văn bia núi Vĩnh Tế ngợi và ra lệnh lấy tên ông đặt cho sông. Từ đây, sông Ba Rạch (cũng gọi là sông Long Xuyên) được đổi thành tên Thoại Hà (tức sông Thoại). Không chỉ được vinh dự to lớn như thế, tên ông còn được đặt cho một ngọn núi ở về phía đông bắc của sông Thoại Hà. Ngọn núi này vốn có tên là núi Sập (Đại Nam nhất thống chí ghi là núi Lấp), để biểu dương công lao khó nhọc của ông, nhà vua cho đổi tên là Thoại Sơn. Trong văn bia Thoại Sơn, ông cho biết: “Núi ở gần bờ kinh, cao ước hơn 10 trượng, chu vi được 2.478 tầm, sắc biếc dờn dờn, dựng cao sừng 1 Trong Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang NXB Hương Sen xuất bản năm 1972, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu cho biết: “Một tầm có 8 doanh tạo xích: 2m56; một trượng có 10 doanh tạo xích: 3m20” (tr.172). Tuy nhiên, trong Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam do Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự Bộ Quốc phòng biên soạn - NXB Quân đội Nhân dân xuất bản năm 1996 không giải thích về “tầm” nhưng cho biết một trượng là 4,25m (tr.963). 2 Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang - Nguyễn Văn Hầu - NXB Hương Sen - 1972. 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM sững, sống động như rồng thần giỡn nước, phượng đẹp lượn trên sông, cảnh anh tú ấy, há không phải tay thợ tạo chung đúc mà nên sao? Lâu nay trời đất giấu kín, chân người ít tới nơi, nay nhân cớ đào kinh xong mà núi, kinh cùng được ghi lên họa đồ dâng trình ngự lãm, ấy cũng là ngày kỳ ngộ của núi non vậy”. Lời văn trong văn bia sảng khoái lạ lùng, chứng tỏ Thoại Ngọc Hầu rất tâm đắc với công việc của mình. Trước thành quả lao động này, Gia Long rất vui mừng, với một tầm nhìn chiến lược, nhà vua không chỉ nghĩ đến việc khai thông sông rạch phương Nam thuận lợi cho việc phát triển giao thông, thương mại mà về lâu dài nó còn đáp ứng trong việc dụng binh để bảo vệ an ninh nơi vùng đất mới. Theo Quốc triều chánh biên toát yếu, trước đây, khi chưa đào kinh Thoại Hà, xem bản đồ Châu Đốc, nhà vua cho rằng: “Đất này mở đường sông đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân đến đông đúc, đất mở rộng, có thể thành một trấn to lớn”. Với quyết tâm như thế, nhà vua sai trấn thủ Hà Tiên là Mạc Công Du đi đo đường sông Châu Đốc một lần nữa, rồi vẽ bản đồ dâng lên để vua tôi tiếp tục xem xét, thảo luận. Nhân đó, có sứ thần Chân Lạp sang chầu, nhà vua đưa chủ trương này ra thăm dò thì được nghe trả lời: “Nếu đào được sông đó thì thật lợi ích cho dân Chân Lạp(1) mà vua Phiên cũng muốn thế...” Vì thế, tháng 12/1819, một lần nữa nhà vua tin tưởng giao phó cho Thoại Ngọc Hầu thực hiện chủ trương này. 1 Chân Lạp: “Quốc gia cổ hình thành cuối thế kỷ thứ V ở hạ lưu sông Sê Mun (nay là Nam Lào và Nam Cò Rạt, Thái Lan). Lúc đầu lệ thuộc Phù Nam, đến giữa thế kỷ VII đã đánh thắng và chiếm đất Phù Nam. Cư dân thuộc người Môn cổ, tự coi mình là con cháu hai vị thần Kambu-Mera (Campuchia: Kampuja - con cháu Kampu) và tự gọi là Khơme, theo cách ghép đôi tên tổ tiên. Từ thế kỷ VII đến đầu thế kỷ VIII, mở rộng địa bàn cư trú ra quanh vùng Biển Hồ và những thềm cao của hạ lưu sông Mê Kông. Khoảng những năm 710-716, trong hoàng tộc Chân Lạp xảy ra cuộc tranh giành quyền lực đưa tới việc chia tách thành hai triều Bắc Nam là Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Giai đoạn sơ kỳ (thế kỷ 5-8) của vương quốc Chân Lạp chấm dứt, nhưng người Trung Hoa vẫn dùng tên này để gọi Campuchia nhiều thế kỷ sau. Người Chân Lạp theo đạo Hindu và đạo Phật, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ”. (Từ điển bách khoa Việt Nam - Hội đồng chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam - Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 1995, tr.410). 28 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Trước khi dân binh Việt - Chân Lạp tiến hành đào kinh nối liền Châu Đốc - Hà Tiên, nhà vua đã xuống Dụ để làm “công tác tư tưởng”: “Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và phòng bị biên phòng quan hệ chẳng nhỏ. Tuy rằng các ngươi khổ nhọc, nhưng đem lại lợi ích cho muôn đời sau. Vì vậy các ngươi phải động viên lẫn nhau, đừng sợ gian khó”. Dưới quyền chỉ huy tối cao của Thoại Ngọc Hầu và Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên đốc suất có đến 5.000 dân phu, 500 dân binh đồn Uy Viễn và 5.000 người Chân Lạp có mặt trong đợt ra quân lần thứ nhất. Các dân phu và dân binh này được chu cấp mỗi tháng 6 quan tiền và 1 phương gạo. Công việc gian nan không kể xiết. Những dân binh làm việc ngày đêm, dưới chân đá sỏi khô cằn, trên đầu nắng thiêu khô da cháy thịt. Dụng cụ làm việc thì chủ yếu bằng sức lực của cơ bắp. Khí hậu rừng núi lam chướng độc hại. Mưa nắng thất thường, người ngã bệnh cũng nhiều. Thuốc men thiếu thốn. Rừng rú còn rậm, cọp dữ bắt người cũng lắm... Không ai có thể thống kê bao nhiêu người đã bỏ mình vì việc nghĩa, khi thực hiện con kinh này. Chỉ biết trong bài văn tế có những đoạn đau xót, đầy thương cảm: Than ôi! Ai cũng người ta Mà sao người lại thân ra thế này Mồ ba thước gởi thây cỏ lạ Lễ thanh minh ai sá quét cho Ai trừ gai gốc lan bò Gió dồn mưa dập làm cho mòn dần Ngày viên huyệt hú rân thê thảm Đêm tử quy ảm đạm khóc than Mênh mông đất rộng mây ngàn Vật vờ lững dững hồn an nơi nào? Móc đỡ dạ, mây bao xác ốm Đèn ma trơi lửa đốm lập lòe Bờ sông đất chở trời che Vì ai cảnh vật cũng tê tái lòng! Bia Vĩnh Tế đặt tại Núi Sam 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Dấu ấn Thoại Ngọc Hầu đầu thế kỷ XIX tại phương Nam (Theo bản vẽ của Nguyễn Văn Hầu) Về hướng đào dòng kinh người ta bắt đầu vào một nơi nhằm phía tây sông Hậu, đo từ một cái hào sau thành Châu Đốc thẳng về Tịnh Biên, rồi tiến thẳng, tiếp giáp với sông Giang Thành (Hà Tiên). Trong lúc công việc đang tiến hành thì vua Gia Long băng hà, vua Minh Mạng kế nghiệp xét thấy công việc nặng nhọc quá nên xuống Dụ phải tích cực chăm sóc dân binh chu đáo hơn nữa. Tháng 3/1820, nhà vua lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt điều động hơn 35.000 dân binh người Việt và 10.000 dân binh Chân Lạp tham gia. Trong suốt 5 năm tiến hành việc đào kinh, nhân lực đào kinh đã lên đến 80.000 người! Sau này khảo sát thực địa, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu đã phát hiện ra một chi tiết quan trọng: “Để cho con kinh được ngay, người ta đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, đốt đuốc trên đầu những cây sào cao rồi nhắm theo đường thẳng mà cặm. Muốn điều khiển những cây “sào lửa” ấy cho thật ngay hàng, người ta cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí”. 30 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Năm 1824, công trình hoàn thành, dòng kênh dài gần 98.300 m, bề ngang 50m, sâu 6m nối liền Châu Đốc đến cửa biển Giang Thành (Hà Tiên). Sự kiện vĩ đại này được ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí: “Từ đây đường sông mới lưu thông, việc biên phòng, việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng”. Còn vua Minh Mạng khi nối nghiệp của vua cha, ngài cũng tin tưởng vào tài năng của tổng chỉ huy Thoại Ngọc Hầu nên trong năm 1822 có đến hai lần ngài ban cho ông ơn mưa móc. Đó là sắc ban cho mẹ ông là cụ bà Nguyễn Thị Tuyết hiệu Thục Nhân, dù đã mất “Ngươi là trang mẹ hiền, con ngươi là bề tôi tốt. Nay đem đạo hiếu mà trị đời nên phải ban khen cho ngươi được vui nhuần ơn huệ. Tiếng tốt nết hay của ngươi hãy như còn đó, thì sao chẳng làm cho ơn báo đáp kia được tốt đẹp vẻ vang?”; và sắc ban cho cha ông là cụ Nguyễn Văn Lượng chức Anh dũng tướng quân, Khinh xa đô úy, Thần sách Vệ úy Nguyễn Hầu “Ngươi có đức dày, con ngươi mới nên tài giỏi”. Không những thế, nhà vua còn quyết định lấy tên vợ ông là Châu Thị Vĩnh Tế đặt tên cho con kinh mới đào: kinh Vĩnh Tế, còn ngọn núi Sam đứng trên dòng kinh cũng được đổi thành núi Vĩnh Tế. Như thế cả vợ chồng ông cùng được đứng tên sông núi ở sơn hà xã tắc phương Nam. Thật là một vinh dự hiếm có. Đặc biệt, năm 1835, vua Minh Mạng đã cho khắc hình ảnh dòng kinh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh trong bộ Cửu đỉnh quốc bảo của triều Nguyễn – mỗi đỉnh nặng từ 1.921 ký đến 2.584 ký, cao từ 2,48m đến 2,50m, vòng thân từ 4,80m đến 5m. Như vậy vua Minh Mạng đã đánh giá vị trí chiến lược mọi mặt của dòng kinh này to lớn như thế nào! Có thể xem đây là một ghi nhận của triều đình đối với Thoại Ngọc Hầu và các dân binh tham gia thực hiện công trình này. Ngày nay, dòng kinh Vĩnh Tế đã thay đổi nhiều. Nối tiếp truyến thống khai sơn phá thạch của tiền nhân, các thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện dòng kinh này để đạt đến mục đích vì dân giàu nước mạnh. Nhà văn Nguyễn Lập Em, quê An Giang đã nói lên cảm nghĩ của một người sống trong thế kỷ XX khi Xuôi dòng kênh Vĩnh Tế (Tuổi trẻ Chủ nhật số ra ngày 30/8/1998): 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM “Chiếc ghe lồng trọng tải hai tấn rưỡi chở hàng bông từ Châu Đốc đi Hà Tiên đưa tôi cùng xuôi dọc suốt dòng kênh Vĩnh Tế. Trời tháng năm vòi vọi trên cao. Mây trắng vẩn vơ bay giữa ngày hè nắng ráo. Tôi ngồi ở mũi ghe, trông vời mặt nước trắng lấp lóa phía trước và hai hàng cây xanh mướt tăm tắp ở hai bên bờ. Xóm làng ẩn hiện sau đôi bờ xanh thẳm ấy. Dù biết mình đang đi trên dòng kênh biên giới, tôi vẫn cảm thấy rất rõ sự yên ả và bình dị của một vùng quê. Tôi xuôi theo dòng kênh Vĩnh Tế vào một ngày hè bình lặng mà vẫn biết rằng dòng nước trong lành kia đã trải qua mấy bận can qua, biết bao biến cố. Máu đã loang nơi đây. Bom đạn cũng đã trút vào đây. Và, với chính số phận của mình, như sông Bạch Đằng của nghìn năm trước, dòng Vĩnh Tế nhỏ nhoi đã nhiều lượt vừa làm chứng nhân lịch sử vừa cùng với bao đời con cháu Việt Nam bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn từng ngọn rau tấc đất quê hương. Niềm tự hào không của riêng tôi. Niềm tự hào đã lưu truyền đến biết bao người, qua bao thế hệ. Rằng khoảng 200 năm trước, ông Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, thượng quan của triều đình Huế, khi được bổ nhiệm cai quản vùng địa đầu biên giới Tây Nam, đã qui tập hàng vạn lượt người từ khắp đồng bằng sông Cửu Long về đào đắp con kênh biên giới này. Gần 100km kênh đào nối từ sông Châu Đốc đến thẳng Hà Tiên ra biển tây đã hoàn thành chỉ với sức người. Mồ hôi, nước mắt và máu xương của bao người đã đổ xuống để mở mạch lưu thông từ sông Hậu ra biển lớn, tạo nên một chiến hào bằng nước trấn giữ biên cương, một đường thủy quan trọng có lợi cả về quân sự lẫn kinh tế. Thế mới biết con kênh là sự hun đúc trí tuệ, tầm nhìn chiến lược của người Hình kinh Vĩnh Tế chạm vào cửu đỉnh ở Huế xưa. Thế mới hiểu vì 32 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG sao dòng kênh bình dị xa xôi hẻo lánh này lại được triều đình nhà Nguyễn cho chạm khắc vào Cao đỉnh để lưu danh. Tôi xuôi theo dòng kênh bằng tâm cảm của kẻ hậu sinh, chiêm ngưỡng kỳ tích của ông cha, chợt như thấy lại ánh đuốc bập bùng trong những đêm trường xa xưa, thuở lão thượng quan Nguyễn Văn Thoại vượt núi băng rừng chỉ huy phòng tuyến khởi công đào đắp kênh Vĩnh Tế. Hai trăm năm trước, ông Thoại Ngọc Hầu đã tạo nên một kênh đào lịch sử, kênh Vĩnh Tế, để lại cho muôn đời sau. Ngày nay, tôi nhìn ba con kênh mới đào T4, T5 và T6 chạy song song trên bản đồ địa giới tỉnh An Giang, chia nhánh từ kênh Vĩnh Tế, chợt hiểu rằng ước mơ thoát nước của người xưa đang được con cháu mình tiếp nối, nhân lên ở tầm qui mô rộng lớn. Kênh Vĩnh Tế, dòng chảy này sẽ qua Đông Hồ rồi ra cửa biển Hà Tiên như từ trước đến nay. Giờ đây kênh Vĩnh Tế sẽ chia lưu lượng ra thêm ba nhánh nữa, ra kênh T4, T5, T6, rồi đổ ra biển tây bằng ba cửa khác ở Kiên Lương và Hà Tiên. Bằng những lối thoát ấy, nước lũ từ thượng nguồn xuống sông Hậu không còn cơ hội dâng cao, kéo dài gây thiệt hại nặng cho sản xuất và mọi mặt đời sống của nhân dân vùng tứ giác Long Xuyên rộng lớn. Còn gì nữa về hiệu quả của những dòng kênh thoát lũ? Cũng theo số liệu của UBND tỉnh An Giang, mùa lũ năm 1997 nước lũ từ sông Hậu đổ vàoVĩnh Tế chia lưu lượng quaT4, T5, T6, thoát nhanh ra biển tây. Nhờ vậy diện tích bị ngập úng kéo dài trước đây giờ đã xuống giống được sớm hơn 20 ngày so với cùng kỳ năm trước. Riêng ở Tri Tôn, kênh T5 đã tiêu rửa phèn cho 4.000 ha đất lúa mùa và 11.000 ha đất hoang hóa. Cũng từ nguồn nước tưới của kênh T5 đã có 2.000 ha lúa một vụ chuyển sang hai vụ; thêm diện rộng đủ nước tưới để trồng rẫy đậu, rẫy dưa... Quí hơn nữa là có nguồn nước sạch ngọt cho sinh hoạt đời sống nhân dân mà suốt bao đời nay người dân ở vùng nhiễm phèn nặng này luôn khao khát.” Như thế ước mơ của người xưa đã sống lại trong đời thực của người nay. Thoại Ngọc Hầu mất ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1829, được an táng trên triền núi Sam và ngày nay trở thành một Di tích Văn hóa Lịch sử của nước nhà. Nhớ đến ông, không ai trong chúng ta quên bao nhiêu mồ hôi, xương máu của dân binh thuở đốt đuốc đào kênh trong đêm, thuở dầm mưa đội nắng trong ngày, thuở chống 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lại sấu, cọp dữ, rắn độc... để cho đời sau có được những dòng kinh xanh mát: Ngày 11/10/1999, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chủ trì Hội thảo khoa học về lịch sử phát triển kênh Vĩnh Tế đã khẳng định mục đích “là để tìm về nguồn cội, để đánh giá đúng mức công lao của Thoại Ngọc Hầu, để thế hệ hôm nay biết tận dụng và phát triển công trình của tổ tiên...” Hiện nay, tại An Giang chúng ta thấy nhân dân đã lấy chữ Vĩnh đặt đứng đầu tên các làng như Vĩnh Ngươi, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia... rồi các xã lân cận ta cũng thấy có Vĩnh Xương, Vĩnh Hầu, Vĩnh Trường... chính là để tưởng nhớ công lao của tiền nhân. Lăng Thoại Ngọc Hầu ở An Giang Lăng thờ Thoại Ngọc Hầu hiện nay tại TP. Đà Nẵng 34 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG TỐNG HỮU ĐỊNH Người có sáng kiến “ca ra bộ” mở đầu nghệ thuật sân khấu cải lương Về lịch sử cải lương trong tác phẩm khảo cứu Nghệ thuật sân khấu cải lương của nhà nghiên cứu Trần Văn Khải có viết những nét chính - mà ngay cả học giả Vương Hồng Sển cũng phải trích lại trong Hồi ký 50 năm mê hát và khẳng định “rành rẽ, đầy đủ,không ai chối cãi được”. Và đây cũng là tài liệu mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều căn cứ vào đó khi viết về lai lịch của loại hình nghệ thuật độc đáo này. “Hai tiếng Cải lương có nghĩa” sửa đổi cho tốt hơn”. Từ xưa ở Việt Nam không có lối diễn tuồng nào khác hơn là hát chèo hay hát Tống Hữu Định (1869-?) tuồng (ở Bắc phần) và hát bội (ở Trung và Nam phần). Đến năm 1917, khi cải lương ra đời, người mình nhận thấy điệu hát này có vẻ tân tiến hơn điệu hát bội, nên cho đó là việc cải thiện điệu hát xưa cho tốt hơn. Vì lẽ ấy người mình dùng hai tiếng “cải lương” để đặt tên cho điệu hát mới mẻ này. (Tiếng cải lương gốc ở câu Cải lương phong tục mà ra)” (trang 81). Theo nhà nghiên cứu Trương Bỉnh Tòng thì sau này, gánh hát Tân Thinh năm 1920 cũng có ghi hai câu như tuyên ngôn: Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ông Trần Văn Khải viết tiếp: “Trước kia ở rải rác trong các tỉnh Nam phần có những ban tài tử đờn ca trong các cuộc lễ tại tư gia tân hôn, thăng quan, giỗ quải v.v... Nhưng không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng. Qua lối năm 1910, ở Mỹ Tho có ban nhạc tài tử của Nguyễn Tống Triều(1) tục gọi Tư Triều (đờn kìm), Chín Quán (đờn độc huyền), Mười Lý (thổi tiêu), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), cô Ba Đắc (ca). Ban tài tử này đờn ca rất hay vì phần đông đã được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp mới về. Kế năm 1911, tài tử Nguyễn Tống Triều muốn đưa ca nhạc ra trước công chúng, nên thương lượng với chủ nhà hàng “Minh Tân khách sạn” ở ngang ga xe lửa Mỹ Tho - Sài Gòn để ban tài tử đờn ca giúp vui cho thực khách, đến nghe càng ngày càng đông. Nhận thấy sáng kiến này có kết quả khả quan, Thầy Hộ - chủ rạp hát bóng Casino phía sau chợ Mỹ Tho - muốn cho rạp hát mình đông khán giả bèn mời ban tài tử Tư Triều đến trình bày tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu, trước khi chiếu bóng. Lối ca trên sân khấu được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Lúc bấy giờ, lối năm 1912, chúng tôi tòng học tại tỉnh lî Mỹ Tho, có đến xem. Cách chưng dọn sân khấu còn đơn sơ. Cái màn bạc dùng làm bối cảnh (fond), kế đó có lót một bộ ván, trước bộ ván có để cái bàn chưn cheo. Hai bên sân khấu có để cây kiểng và khán giả có cảm giác đứng trước một cái phòng khách hạng trung lưu. Cách bài trí sân khấu này tuy đơn giản, nhưng nó gợi cho các nhà giàn cảnh cải lương mai hậu những ý niệm về việc trang hoàng sân khấu. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem nghiêm trang. Cô Ba Đắc ca rất hay và biết đủ các bài bản cổ điển. Nhất là cô ca bản Tứ đại oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga rất duyên dáng (lớp đầu): Kiệm từ khi thi rớt trở về Bùi Ông mắng nhiếc nhún trề 1 Ông Diệp Văn Cương ở Gò Vấp, lúc sanh tiền thường nói: “Khi tôi nghe Tư Triều đờn kìm và cậu Nam Diệm đờn ty rồi, tôi không muốn nghe ai đờn nữa”. Xin đừng lộn Tư Triều (tức Nguyễn Tống Triều) người Cái Thìa, với Bảy Triều, tức Trần Văn Triều, người Rạch Gầm, con cụ Năm Diệm và thân sinh của nhạc sĩ Trần Văn Khê. Bảy Triều có sáng chế bản Oán dây Tố Lan. 36 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Một ban nhạc tài tử Nam bộ đầu thế kỷ XX “Cũng tại mày ham bề vui chơi” Kiệm thưa: “Tài bất thắng thời Con dễ nào không lo bề công danh Tuổi con còn xuân xanh Công ơn cha mẹ, con chưa đáp đền, đó cha ôi!” Bùi Ông nghe Tiếng nỉ non vuốt ve khuyên Kiệm: “Thôi con ở lại nhà Đặng hôm sớm với cha” Trên đây là bài ca Tứ đại oán soạn theo lối văn kể chuyện. Khi muốn ca kịch hóa bài Tứ đại, người ta phải sửa đổi câu ca bằng lối vấn đáp như sau: (Bùi Ông đương ngồi trong phòng khách, Bùi Kiệm ở ngoài bước vào xá một cái) Bùi Ông (hỏi): - Sao việc thi cử thế nào con? Bùi Kiệm (vô ca Tứ đại lớp đầu): - Dạ thưa cha, con nay thi rớt trở về. Bùi Ông (ca tiếp): - Kiệm à, nghe qua tao tức tối trăm bề Cũng tại bởi mày, sao ham bề vui chơi? 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Bùi Kiệm: - Thưa cha, tài bất thắng thời Con dễ nào không lo bề công danh Tuổi con còn xuân xanh Công ơn cha mẹ, con chưa đáp đền, đó cha ôi!” Bùi Ông: - Già đây nghe tiếng nỉ non (quay sang nói với Kiệm) Thôi thôi, con Kiệm, con hãy ở lại nhà Đặng hôm sớm với cha. Đây là một bài ca có đối thoại giữa Bùi Ông, Bùi Kiệm và Nguyệt Nga. Nó khơi nguồn cho các soạn giả đặt những bài ca có vấn đáp cho điệu cải lương sau này. Cô Ba Đắc ca bài Tứ Đại oán với một giọng như có vấn đáp, nhưng cô không ra bộ. Ngoài ra, cô Hai Nhiễu cũng có phụ ca với cô Ba Đắc trước công chúng. Cái sáng kiến đưa đờn ca tài tử lên sân khấu của Tư Triều từ năm 1912 tại Mỹ Tho lan tràn đến Sài Gòn và nhiều tỉnh ở Nam phần. Trước hết lối năm 1913-1914, ông chủ nhà hàng Cửu Long Giang ở sau chợ mới Sài Gòn nghe tin ban tài tử Tư Triều ở Mỹ Tho được ăn khách, xuống mời về đờn ca tại nhà hàng của ông (sau đổi hiệu Mékong). Lần lần bài ca Tứ Đại oán Bùi Kiệm, Nguyệt Nga của cô Ba Đắc ca được phổ biến trong mấy tỉnh trung tâm Nam phần như Vĩnh Long, Sa Đéc, Mỹ Tho v.v... Đến năm 1915, ông Tống Hữu Định, tục danh ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long quy tựu anh em tài tử, rồi cho ba người thủ vai Bùi Ông, Bùi Kiệm, Nguyệt Nga đứng trên ván vừa ca vừa ra bộ”(1). Và cũng qua diễn xuất, người nghệ sĩ mới có thể diễn đạt hết cái hay, cái đẹp 1 Nghệ thuật sân khấu Việt Nam – Trần Văn Khải – Nhà sách Khai Trí xuất bản tại Sài gòn năm 1970, trang 80-85. Với sáng kiến quan trọng này, từ nay nghệ sĩ không còn ngồi ca đơn thuần mà phải có động tác phù hợp với lời ca. Điều này đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của khán giả, không những nghe giọng hát hay mà họ còn được xem trình độ diễn xuất của nghệ sĩ. 38 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG trong ca từ. Rõ ràng, nó đã đặt nghệ sĩ vào một tình thế chủ động hơn, không chỉ rèn luyện về thanh âm mà còn phải nỗ lực trong cách biểu cảm của hành động. Có thể nói, ca ra bộ là hình thức của trình diễn sân khấu, là gạch nối của hình thái âm nhạc chuyển dần sang hình thái sân khấu. Như vậy vai trò tiên phong này thuộc về ông Tống Hữu Định, hiệu Tịnh Trai, còn gọi là thầy Phó vì ông làm Phó cai tổng Bình Long (Vĩnh Long) và Mười Hai vì theo thứ hạng trong gia đình. Ông sinh năm 1869 tại làng Long Châu (Vĩnh Long) vốn dòng dõi Tống Phước Hiệp – công thần của chúa Nguyễn. Đồng ý với nhận định này, nhà văn hóa Vương Hồng Sển có viết: “Nay thử hỏi, người đứng đầu công buổi tiên khởi là ai? Khó nói cho đúng. Hay là muốn nói ít sai thì phải dài dòng. Sơ khởi nên kể công cho ông Tống Hữu Định. Kế đó người có gan đưa lên sân khấu thiệt thọ, gầy dựng thành hình hát cải lương như ngày nay lại là thầy André Lê Văn Thận, quê ở Sa Đéc” và có cho biết thêm đôi nét về cuộc đời của Tống Hữu Định. Đó là người ăn chơi bậc nhất đất Vĩnh Long vào năm 1915, thường tổ chức tiệc tùng đờn ca và thường dạo chơi đây đó. “Từng ghé Mỹ Tho ngủ đêm tại đây để chờ sáng đáp tàu hỏa lên Sài Gòn, nhân dịp đó có lẽ thầy đã từng xem hát bóng có đờn ca tài tử; cũng như thầy từng ngồi uống rượu nhà hàng như nhà Cửu Long Giang góc d’ Espagne Aviateur Garros, nay là góc Lê Thánh Tôn – Thủ Khoa Huân, và như tại nhà hàng Thầy Bảy Phương gọi là Lương Hữu khách sạn đường Carabilli, nay là đường Nguyễn Thiếp, thầy thấy giàn đờn tài tử, thầy chíp để bụng về nhà bày đờn ca ngồi trên ván ngựa v.v...”(1). Trong buổi chơi nhạc tại nhà mình, Tống Hữu Định đã tổ chức ca bài Tứ đại oán về Bùi Kiệm thi rớt thì ông giáo Du đóng vai Bùi Ông, ông giáo Diệp Minh Ký trong vai Bùi Kiệm và cô Ba Định trong vai Kiều Nguyệt Nga. Hình thức cách tân này đã được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó, nó không còn bó gọn ở Vĩnh Long mà dần dần lan tỏa rộng ở những nơi khác như 1 Hồi ký 50 năm mê hát - Vương Hồng Sển - Cơ sở Phạm Quang Khai XB năm 1968, trang 22-24. 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Sa Đéc, Vũng Liêm v.v... Nhờ bước đột phá ngoạn mục này, mà sau đó, năm 1918, ông André Thận đã mạnh dạn lập gánh hát Thầy Thận gồm có ca ra bộ và diễn xiếc với những nghệ sĩ nổi tiếng như Bảy Thông, Tám Cang, Hai Cúc, Năm Thoàng, Ba Vui... Người soạn giả có công đầu tiên cho gánh hát này và cũng đặt những viên gạch đầu tiên cho kịch bản cải lương là nhà nho yêu nước Trương Duy Toản.(1) Chính ông Toản là người đã gộp những bài ca lẻ thành tiết mục hẳn hoi như Bùi Kiệm thi rớt trở về, Kim Kiều hạnh ngộ v.v... Và dần dần trải qua nhiều năm tháng nó đã đạt đến điều mà những người đi tiên phong mong muốn: “Nghệ thuật cải lương lấy ca nhạc thính phòng làm gốc, nhưng khác với thính phòng ở chỗ sân khấu cải lương phải có tính hành động, hò, lý, ca, ngâm là những điệu nhạc đượm thuần sắc thái dân tộc. Tích truyện dân gian đi sát với trình độ thưởng thức của quần chúng. Khi xem loại vở xã hội hiện đại trên sân khấu, khán giả có cảm tưởng hoàn cảnh của nhân vật có thể xảy ra thực tế ở ngoài đời, nên càng xúc động lòng người. Thêm vào đó, cải lương có góp phần thay đổi sân khấu theo lối mới: vẽ tranh cảnh làm trang trí, lấy phông màn, chia lớp lang theo phương pháp mới. Nghệ thuật cải lương được đa số quần chúng hâm mộ và ủng hộ là điều dễ hiểu, vì ngôn ngữ của nó giản dị rõ ràng, biểu diễn rất gọn gàng, mạch lạc, nó gần gũi với 1 Nhà văn Trương Duy Toản tự là Mạnh Tự, bút hiệu Đổng Hồ sinh năm 1885, người huyện Tam Bình, Vĩnh Long. Năm 1905, ông làm thư ký tại văn phòng tòa Khâm sứ ở Nam Vang (Phnôm Pênh), sau đó đổi về Sài Gòn, tại đây ông tham gia phong trào Minh tân của Trần Chánh Chiếu. Năm 1910, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân. Năm 1913, ông hoạt động trong phong trào Việt Nam Quang Phục Hội và bí mật sang Hương Cảng. Sau đó ông cùng Đỗ Văn Y, Lâm Tỷ tháp tùng Cường Để sang châu Âu với vai trò làm phiên dịch tiếng Pháp, Anh, Đức. Tại Paris, ông được trao sứ mệnh đưa thư Cường Để đến cụ Phan Châu Trinh. Nội dung thư là phê phán chính sách cai trị của Pháp ở Đông Dương, để cụ Phan chuyển lên Bộ thuộc địa. Sau khi đưa thư, thực dân Pháp cho biết sẽ có một cuộc gặp gỡ giữa Toàn quyền Albert Sarraut và Cường Để. Biết đây chỉ là trò gài bẫy của thực dân, Cường Để âm mưu này đã lên tàu về Trung Quốc , chỉ còn ông và Đỗ Văn Y bị bắt. Chúng quản thúc hai ông một thời gian rồi bị tống giam vào khám đường La Santé tại Paris. Mãi đến tháng 4/1916, hai ông mới được trả tự do, nhưng bị trục xuất về Sài Gòn. Về đây, thực dân Pháp đã quản thúc Trương Duy Toản tại làng Nhơn Ái, huyện Phong Điền (Cần Thơ). Trong những tháng năm này, ông bắt đầu sáng tác các bài ca, soạn tuồng... Ông mất năm 1957. 40 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG đủ hạng người, từ trí thức đến bình dân đều ưa thích. Đó là phần ưu điểm của cải lương”(1). Là người mê đờn ca, câu hò điệu hát nên Tống Hữu Định có tâm hồn thi sĩ cũng là điều dễ hiểu. Ông cũng có sáng tác thơ và đáng quý hơn nữa ông là một Mạnh Thường Quân, biết chiêu hiền đãi sĩ để phong trào ca nhạc tại địa phương mình phát triển mạnh. Bên cạnh đó, ông còn đứng ra vận động nhân dân Nam Kỳ lục tỉnh xây dựng lại Văn Miếu Vĩnh Long – nhằm biểu dương nét văn hóa lâu đời của vùng đất mới phương Nam. Tâm nguyện của ông thể hiện qua bài thơ Vịnh Văn Miếu: Chùa hư, miếu dột dạ nào yên, Trời đất hay chăng chút nghĩa thiền. Trong điện vuông tròn con bóng dọi, Ngoài hiên to nhỏ ngút mây chuyền. Dấu xưa nhìn đó lòng thêm tủi, Tích cũ thấy đây dạ lại phiền. Biến họa đua bơi tài mấy kẻ, Nỡ nào ngơ lấp mắt tai riêng. Như chúng ta đã biết, Văn Miếu Vĩnh Long được xây dựng từ năm 1864 và khánh thành năm 1866 trong những ngày ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ lọt vào tay giặc Pháp. Hành động này biểu hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, chí khí bất khuất của các sĩ phu yêu nước. Các tao nhân mặc khách, văn nhân tài tử thường đến đây xướng họa thơ văn để qua đó bày tỏ nỗi lòng trước vận mệnh đất nước. Do đó, việc đứng vận động mọi người góp công, góp sức trùng tu Văn Miếu của Tống Hữu Định có ý nghĩa sâu sắc. Công việc này diễn ra từ năm 1902 đến giữa năm 1903 thì hoàn tất. Chỉ riêng việc xây dựng lại Văn Miếu của Tống Hữu Định đã là một điều rất đáng quý, đáng để đời sau ngưỡng mộ, đằng này ông còn là người đi tiên phong trong việc đặt những viên gạch đầu tiên 1 Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương - NSND Sĩ Tiến - NXB TP. Hồ Chí Minh, 1984, trang 8. 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Văn miếu Vĩnh Long - nơi Tống Hữu Định có công trùng tu năm 1902 trong nghệ thuật cải lương. Nhà nghiên cứu Hoài Ngọc trong bài Thành công và thất bại của “Nửa thế kỷ cải lương” xét trên quan điểm nghệ thuật đã đưa ra những nhận định xác đáng: “Ca ra bộ dần dần phát triển thành phong trào, trên sân khấu gỗ dưới sân khấu đất và lan rộng đến tận những nơi có đông đảo quần chúng tụ họp tiệc vui, tiệc cưới, các đám ma, tế lễ v.v... Qua sự sôi nổi của phong trào ca ra bộ, chúng ta có thể kết luận rằng: cổ nhạc của ta cách đây hơn 50 năm rất được đông đảo quần chúng mến chuộng, dẫn đến một nhu cầu: nghe hát, chưa đủ; cần được xem hát, quần chúng mới thỏa mãn hoàn toàn. Giai đoạn chuyển biến từ ca đến diễn do đòi hỏi bức thiết của quần chúng như thế, đó chính là một bước ngoặt quyết định sự cấu thành của sân khấu cải lương sau này. Phong trào ca bộ cứ lần tiến lên chiếm lĩnh sân khấu. Tiếp theo hình thức ca ra bộ là hát chập. Hát chập có nghĩa là hình thức liên ca, gồm nhiều bài ca nối tiếp nhau có nhiều động tác, lồng vào đó là một cốt truyện ngắn, có ý nghĩa, có nội dung. Đà phát triển của ca ra bộ và hát chập hết sức nhanh chóng. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ vị trí “phụ diễn” hết sức khiêm tốn, màn độc đáo “Bùi Kiệm - Nguyệt Nga” được dựng lên thành vở ca kịch hoàn toàn. Đó là vở “Lục Vân Tiên” tức “Nguyệt Nga cống Hồ”- vở cải lương đầu tiên trên sân khấu thầy Năm Tú tại Mỹ Tho, do nhà soạn giả đầu tiên là ông Trương Duy Toản biên soạn. 42 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Đó là một kỳ công của những người khai sơn phá thạch”(1). Những nhận định chính xác này đã khẳng định tầm quan trọng vai trò tiên phong của Tống Hữu Định và những người cùng thời với ông trong việc đặt nền móng cho nghệ thuật cải lương. Cải lương còn thì tên tuổi của họ mãi mãi còn. Một cảnh trong vở Khúc oan vô lượng của gánh Trần Đắt (khoảng năm 1931) tác giả vở tuồng là Huỳnh Thủ Trung tự Tư Chơi - một trong những bước phát triển của “ca ra bộ” 1 Bán nguyệt san Tân Văn số 13 - Sài Gòn 1966. 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ Người quyết định sự nghiệp hiện đại hóa sân khấu chèo nửa đầu thế kỷ XX Chèo Việt Nam có từ bao giờ? Và nên hiểu chèo như thế nào? Theo nhà nghiên cứu Trần Gia Linh(1) thì đó là “Một hình thức kịch hát dân gian Việt Nam, một loại kể truyện bằng sân khấu độc đáo của dân tộc bắt nguồn từ những trò diễn cổ truyền, thường diễn lại những truyện cổ tích, truyện Nôm quen thuộc, có tính trào lộng đặc sắc, nảy sinh và phổ biến chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ, nhất là vùng Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hải Hưng... Ban đầu, nhân dân diễn chèo trên những chiếc chiếu trải giữa sân đình (gọi là chiếu chèo), việc hóa trang, bài trí thô sơ, đơn Nguyễn Đình Nghị (1886-1954) giản. Chèo sử dụng tổng hợp nhiều chất liệu trong vốn văn nghệ cổ truyền và kết tinh ở một mức nhất định những chất liệu đặc sắc của chất liệu ấy và trở thành một trong những thể loại tiêu biểu, độc đáo của nền văn nghệ dân gian”. Trong đó, “Tính hài hước, trào phúng là một đặc điểm nổi bật. Do đó, có ý kiến cho từ “chèo” là do “trào” 1 Từ điển văn học (NXB Khoa học xã hội - 1983, tập 1, trang 120). 44 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG đọc chệch ra”. Nhà nghiên cứu Thái Bá Vân cũng viết: “Nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cho rằng chèo là do nói trệch chữ trào, một chữ Nôm có khoảng thế kỷ XIII, dưới thời Trần; và loại hình sân khấu này hoàn thiện vào thế kỷ XIV, XV”(1). Nhưng nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan(2) không đồng ý “Sở dĩ có sự lầm lẫn như vậy là do hài tính của sân khấu chèo và do thói quen giải thích theo lối phát âm” và theo ông: “Nguồn gốc của chèo là một nền ca vũ cổ sơ của dân tộc thường biểu diễn trong dịp tang lễ thời trước, lời ca than vãn là lời biệt ly và tiễn đưa người quá cố, điệu vũ hình dung những động tác chèo thuyền, chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người chết sang thế giới bên kia. Chèo như một nghệ thuật sân khấu được phát triển trên cơ sở của nền ca vũ đó, bằng cách tiếp thu thêm nhiều điệu hát và điệu múa khác của những nguồn hát và múa khác của dân tộc. Do vậy, chữ chèo không phải do chữ trào mà ra” và theo Vũ Khắc Khoan thì ở thế kỷ thứ X “bộ môn chèo đã dứt khoát tách ra khỏi gốc nghi lễ để hình thành như một bộ môn sân khấu đích thực và biệt lập”. Trước đây, chèo thường được biểu diễn trước sân đình trong những kỳ hội hè, lễ chạp nên mọi người thường gọi là “chèo sân đình”. Bước sang thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, có một số nghệ sĩ muốn cách tân chèo, họ pha chất liệu của tuồng và chèo nên gọi là “chèo văn minh”. Nhưng do sự lắp ghép đầu Ngô mình Sở nên loại chèo này không được khán giả ủng hộ và lâm vào tình trạng dở sống dở chết. Bức xúc trước tình trạng này, có một nghệ sĩ tiên phong đứng ra tiếp tục cải tiến chèo, hình thành một hình thức giá trị mới là “chèo cải lương”. Thể loại chèo mới này là cơ sở quan trọng để sau này, các nghệ sĩ khác tiếp tục hoàn thiện thành “chèo hiện đại” như ngày nay. Nghệ sĩ đó là Nguyễn Đình Nghị. Ông sinh năm 1886 tại xã Thụy Lôi, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên - đây cũng là vùng đất nổi tiếng về chèo và sinh ra nhiều nghệ sĩ tài danh. Thuở nhỏ, ông ở nhà học chữ Hán với chú, rồi sau theo học chữ Pháp. Trong những năm tháng chập chững bước vào đời, ông 1 Bùi Xuân Phái - Sưu tập của Trần Hậu Tuấn - Sở VHTT TP.HCM - 1995. 2 Tìm hiểu sân khấu chèo - NXB Lửa Thiêng - Sài Gòn, 1974. 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Một cảnh biểu diễn tại sân khấu đình làng ở Bắc bộ đầu thế kỷ XX ôm mộng đem vốn chèo của quê hương ra Hà Nội để đi vào con đường hoạt động nghệ thuật. Là một người đang ấp ủ nhiều hoài bão, từ năm 1914, Nguyễn Đình Nghị không ngần ngại bắt đầu công việc ở hậu đài – mà mọi người thường gọi đùa là “đại hầu” – tại rạp Sán Nhiên Đài. Đúng như tên gọi, ông đã “hầu” mọi thứ linh tinh từ nhắc tuồng sau cánh gà, khiêng vác đạo cụ đến kéo phông màn v.v... Đối với thanh niên, những việc này thường khiến họ ngại ngùng, vì cái nhiệm vụ ấy chẳng được mấy ai kính nể! Nhưng với người có chí thì đây là cơ hội tốt để học hỏi. Bởi vậy Nguyễn Đình Nghị đã để tâm ghi chép lại tất cả những kinh nghiệm sân khấu mà mình đã quan sát, đã thu thập được. Sự nghiệp của ông bắt đầu từ năm 1923, đó là năm ông bắt tay vào viết chèo cải lương sau khi đã tích lũy được lý luận, thực tiễn thành công và thất bại của chèo văn minh. Nếu chèo văn minh chủ trương hát theo lối mới, diễn viên không nhất thiết phải thuộc vở, nhiều lúc tùy trường hợp mà ứng khẩu thì ở chèo cải lương, Nguyễn Đình Nghị chủ trương bất cứ các câu hát nào soạn giả cũng phải viết đúng tâm 46 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG lý nhân vật và diễn viên phải tuân thủ nghiêm ngặt theo điệu hát cổ, tuân thủ theo kịch bản, không được ứng khẩu hoặc hát sai... Chí hướng của ông được sự chia sẻ và hợp tác của hai đồng nghiệp là Nguyễn Văn Thịnh và Trịnh Thị Lan. Cả ba người thành lập ban hát riêng, thể nghiệm chèo cải lương. Nếu Nguyễn Đình Nghị là người khởi xướng, thì hai người còn lại tạo nên hương sắc. Họ đã đưa thể loại chèo từ sân đình lên không gian sân khấu diễn trong nhà hát của đô thị hóa. Một loạt vở chèo của Nguyễn Đình Nghị như Một trận cười (tức Hoảng vì tình), Trận cười Tác phẩm của Nguyễn Đình Nghị thứ hai (tức Khôn có giống), Trận cười thứ ba (tức Khôn trẻ bẽ già), Trận cười thứ tư (tức Quá chơi nên nỗi)... đã được khán giả chào đón, hoan nghênh nhiệt liệt. Đúng như “Nhời tán” của soạn giả: Trận cười như pháo nổ ran Tượng sành, bụt đá, đố ai nhịn cười Mười vai giống hệt cả mười Bày gương kim cổ, vẽ người dở, hay Trong lời Tựa của tác phẩm Một trận cười (in năm 1924), Nguyễn Đình Nghị có cho biết: “Vì thấy lâu nay các quý khách đi xem, phần nhiều đã bình phẩm cho điệu hát chèo là khó, là hay, thực lối hát rõ ràng, mà giọng tình êm ái, vậy nên soạn giả có tuân theo ý kiến của quý hội Sán Nhiên Đài mà soạn ra tích hài kịch “Một trận cười” này, cũng nhân điệu cũ mà tả thành lối mới, gọi là theo tài học nói, để hiến liệt quý chư tôn được thỏa lòng hâm mộ”. Sức viết của Nguyễn Đình Nghị thật dữ dội, chỉ trong vòng 20 năm, từ năm 1924 đến năm 1944, ông đã viết 60 vở với quan điểm: “Các vở tôi soạn đều chú 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM trọng vào việc răn đời, lấy lời ca giọng hát và tiếng cười tao nhã mà duy trì phong hóa, mà cảnh tỉnh thế đạo nhân tâm”. Trong các vở chèo của ông, nay đọc lại, chúng ta thấy ngồn ngộn hơi thở của thời đại mà ông đang sống. Những nhố nhăng của buổi giao thời lần đầu tiên được thể hiện qua thể loại chèo, chẳng hạn, trong vở Trận cười thứ tư, ông đề cập đến nhân vật Ngô Kham – một công tử lỡ thời, may lấy được Vũ Xuân Nương – con nhà hào Tác phẩm của Nguyễn Đình Nghị phú. Sau, mẹ vợ mua cho Ngô Kham chức thừa phái. Từ đó, chàng rể mê gái, phụ nghĩa tào khang, nghiện hút, vướng nợ Tây đen... Chẳng hạn, cảnh hát ả đào, cảnh hai, Nguyễn Đình Nghị soạn cho nhân vật diễn thật khéo, thật sống động, dù chỉ đôi nét nhưng ta đã thấy hết những nhố nhăng khi một loại hình nghệ thuật cổ truyền đã bị tha hóa dưới thời Pháp thuộc. Ngôn ngữ chèo của Nguyễn Đình Nghị khá trau chuốt, giàu chất văn học. Thử đọc: “Chị Liên (cô đầu): – Xin mời các quan cho chầu ạ! (Ba ông khách mời nhau v.v... Ngô Kham đánh trống). Yến Hoa – cô đầu (mưỡu): - Sắc, tài ai khéo cầm cân Giai nhân sánh với văn nhân mấy vừa Tơ duyên se sẵn bao giờ Tự nhiên hờ hẫng, hẫng hờ mà săn (hát): - Gió giăng, giăng gió, hỏi gió giăng rằng, có duyên gì, bỗng tơ vương se đoạn tình si, chừng để khách tân chi dan díu. Nào những lúc tiếng phách, 48 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG tiếng đàn, câu ngâm, câu mưỡu, khéo bứu bo, bo bứu vì tình. Mái tây sương bóng nguyệt gác chênh vênh, gà gáy giục sang canh xao xác, kết giải đồng tâm thêu chỉ bạc, mơn câu tri kỷ giãi lòng son: Rằng chưa già, núi vẫn còn non, rằng mấy gió, nước mấy non, còn mãi mãi. Cuộc nhân thế lấy chơi là lãi, kho trời chung, giăng gió riêng ai, chút gì, gắn bó một hai. Hoặc trong Trận cười thứ ba, ở cảnh 3, ông đã cho nhân vật của mình xuất hiện trên đồng ruộng với ngôn ngữ dân dã, nhưng giàu hình tượng: “Thị Lan( gọi bọn thợ rạ ra, nói): - Này các chị, cơm nước trầu cau đã rồi, nào đi ra đồng mấy tôi chứ, sao chị nào, chị nấy đứng ngẩn người như vậy? Bọn thợ rạ (kể sa mạc): -Vì tôi vẩn vơ mơ tưởng sự nhà, nào đường xa dễ mấy biết ai mà nhắn nhe! (Hát đường trường): - Cây lúa chửa, chia vè, cô ơi ngày ngày tôi đi, a lúa chửa, cây lúa chửa, chia vè, giờ trông cây lúa, đã... nó đỏ hoe, trông đầy đồng, cho nên riêng, riêng buồn riêng, tôi ái ngại ấy, thường ái ngại cho chồng, thay mình bấy lâu chăn dắt... ấy mấy bồng bế đứa con thơ, xa xôi trông, trong ngày trông, dẫu mà, thôi, tháng chứ này thôi tháng lại chờ. Năm canh đó, đây luống những... ấy mấy phật phờ giấc chiêm bao, ai ơi, khi tỉnh ra, dẫu mà nào thấy, chứ nào thấy đâu nào, nên nhớ rằng chúng tôi thơ thẩn... lắm lúc ra vào nó ngẩn ngơ nhưng, nhưng việc, việc phận mình dẫu mà, đâu dám, chứ này đâu dám, hẫng hờ...”. Với sức sáng tạo dồi dào, Nguyễn Đình Nghị lúc mới khoảng 40 xuân đã trở thành ông trùm lớn nhất của ngành chèo nửa đầu thế kỷ XX. Do đó, không phải ngẫu nhiên khi giới thiệu tài năng của Nguyễn Đình Nghị với công chúng Pháp, học giả Phạm Quỳnh khẳng định đó là “Molière Annamite” (Molière của Việt Nam). Đây là lời ca ngợi chói lọi khi so sánh ông với Molière – nhà viết hài kịch lừng lẫy nhất của nước Pháp ở thế kỷ XVII. Trước hết, Nguyễn Đình Nghị cải tổ rạp Sán Nhiên Đài và Cải lương hí viện trở thành nơi chuyên diễn chèo cải lương. Đồng thời, ông mở lớp đào tạo thế hệ 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM học trò giữ lấy “nghiệp nhà” – mà sau này đều là những người có tên tuổi như Nguyễn Thị Minh Lý, Trần Kính, Xuân Mai, Lệ Hiền, Phạm Thị Lừng... và giữ vai trò quan trọng tại Nhà hát chèo Việt Nam, Ca kịch Trung ương sau năm 1954 tại miền Bắc. Sau đó, ông còn đứng ra thành lập và quản lý gánh hát Tự Lạc ban (sau đổi tên thành Nghị Lập ban, Đức Thịnh ban, Như Ý ban và cuối cùng là Đan Thanh ban). Các vở chèo của ông đã chiếm lĩnh sân khấu từ Nam chí Bắc, rồi sang diễn cả Lào, đâu đâu cũng được công chúng hoan nghênh. Ngoài những vở kể trên, Nguyễn Đình Nghị tiếp tục viết: Đức Mẫu thoải, Tam đại dở hơi, Say mà tỉnh, Hai rể cưới một ngày, Nữ tú tài v.v.. Sau này, nhà nghiên cứu chèo Hà Văn Cầu và Nguyễn Ngọc Phương có nhận xét: “Chỉ xin nói rằng câu lục bát trong tay cụ Nghị đã biến hóa thành các làn điệu chèo: ngoài ngâm, vỉa, bỉ, ví ra lời thơ còn có thể ngả thành đường trường, sa lệch, hát cách, nồi niêu, hát thảm, hát nhịp đuổi, hát nhịp chờ, hát vãn, hát sắp... đồng thời lại có thể chuyển thành hát trống quân hoặc cách hát dân ca khác. Để chiều theo thị hiếu của khán giả đương thời, cụ Nghị còn sử dụng cả các làn điệu cải lương, làn điệu tuồng như: ca Nam thương, Nam bình, Nam xuân, Cổ bản, Kim tiền, Vọng phu hành... Đôi lúc cụ còn dùng cả bài hát Tây như Madelon, Marseilaise... ví dụ: Đồng lòng từ xưa, muôn dân mong khấn Đấng trên cho Chúa ra đời, cứu muôn loài ta... Tất nhiên trong điều kiện hạn chế của lịch sử, cụ Nguyễn Đình Nghị chưa được tiếp cận với thực tiễn và lý luận sân khấu phương Tây, cho nên nhìn các tác phẩm của cụ luôn luôn còn gợi lên những chỗ bất cập, song nhìn chung cái được của cụ vẫn như một nét son rực rỡ trong suốt mấy trăm năm tồn tại của nghề chèo hát. Cụ thật sự là một thiên tài, đơn thương độc mã, xông xáo suốt nửa thế kỷ và để lại cho chúng ta một khối lượng của cải tinh thần, không vàng nào mua được”(1). Còn nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền khẳng định: “Đất nôi chèo lớn nhất sinh thành ra những người con tài năng cống hiến trọn đời mình vào sự nghiệp phát triển sân khấu dân tộc, mà trong đó, tiêu biểu nhất là nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị, người giữ vai trò tiên phong và quyết định sự nghiệp hiện đại hoá sân khấu 50 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG chèo ở nửa đầu thế kỷ XX”(2). Có thể nói, với sự xuất hiện của Nguyễn Đình Nghị ngành chèo đã được chấn hưng một cách mạnh mẽ và thắng lợi rực rỡ. Sau năm 1945, tình hình đất nước có nhiều biến động. Đoàn chèo của Nguyễn Đình Nghị giải thể, ông cùng các con Nguyễn Thị Định, Nguyễn Đình Đàn náo nức đi theo ngọn cờ chính nghĩa của Việt Minh. Ông vào Thanh Hóa, lên Yên Bái, Phú Thọ... để tiếp tục hoạt động nghệ thuật chèo phục vụ cho cách mạng và kháng chiến. Thời gian này, ông vẫn dành nhiều tâm huyết để truyền nghề cho thế hệ sau. Từ năm 1952, vì ốm nặng nghệ sĩ Nguyễn Đình Nghị phải trở về Hà Nội dưỡng bệnh và mất ngày 13.5 âm lịch 1954. Nhằm ghi nhớ công ơn của một bậc tiền bối khai sáng nghệ thuật chèo hiện đại, mùa xuân năm 1993, Cục Nghệ thuật sân khấu, Nhà hát chèo Việt Nam và Sở Văn hóa thông tin Hải Hưng (nay là Hưng Yên) đã cùng gia đình xây lại mộ của ông và dựng bia kỷ niệm. Trên bia có khẳng định công lao Nguyễn Đình Nghị: “Đã cống hiến nhiều sáng tạo có giá trị vào sự nghiệp kế thừa và phát triển nghệ thuật chèo nửa đầu thế kỷ XX” và câu vọng cảm: Nhân sinh đành hữu hạn, Nghệ thuật vẫn vô cùng. 1 & 2 Tuyển tập chèo cải lương - Nguyễn Đình Nghị (tập 1) Cục Nghệ thuật sân khấu XB 1994. 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM CAO VĂN LẦU Cha đẻ của bài “vọng cổ” - bản nhạc vua trên sân khấu ca kịch Ánh trăng nhợt nhạt trải dài trên sông nước mênh mang. Gió lao xao ngoài rừng tràm, rừng đước... Đâu đó vọng về tiếng hò như mơn trớn, như quyến luyến không dứt: “Hò ơ... ơ! Anh thương em, anh sắm cho em bộ áo dài màu cà, màu huyết. Anh đây nói thiệt, chẳng phải nói càn. Anh đây sắm cho em một cây kiếng vàng chạm tòng, chạm bá; một bộ cà rá chạm cửu long hườn. Anh sắm cho em áo túi đủ màu, lụa Hà Đông, Nhạc sĩ Cao Văn Lầu lục soạn. Anh chỉ sắm cho anh một cái nón lá đáng giá hai đồng xu. Ăn cơm rồi, anh hút thuốc rê vấn lá trâm bầu. Miễn cho anh một chữ ăn nằm tình chồng nghĩa vợ, cực khổ gì anh cũng chẳng có than...”. Tiếng hò lao xao lời tình tự của đôi lứa đang yêu. Còn chẳng lẽ, mối tình đầu của mình lại kết thúc buồn bã thế này sao? Chàng trai của vùng đất mới phương Nam nén tiếng thở dài. Trên vòm trời lập lòe một vài con đom đóm bay qua. Bất chợt, lại có tiếng hò vọng lại buồn não ruột: “Hò ơ... ơ! Gió thổi liu riu, giề lục bình trôi líu ríu. Xin đừng bận bịu bớ điệu chung tình...”. Một giọt nước mắt nóng lăn dài trên 52 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG má. Chàng đã khóc. Lẽ nào vì quan niệm “tam niên vô tử bất thành thê” mà mình phải “để” vợ? Nhớ ngày nào cũng trên sông nước mênh mông này, qua câu hò, mình tỏ tình với nàng, cùng thề ăn đời ở kiếp với nhau. Đêm ấy, ánh trăng cũng tái nhợt như đêm nay nhưng tiếng cười trong trẻo của nàng vang lên nghe ấm áp quá chừng! Chao ơi! Mường tượng lại giọng cười ấy, chàng tưởng chừng như ai đó lấy dao đâm vào trong trái tim mình. Chàng đau nhói trong ngực. Theo chữ tình hay theo chữ hiếu? Tâm hồn chàng rối bời. Tiếng vạc ăn sương rơi lạc lõng trên thinh không... Đêm đã khuya. Sương thấm áo. Gió thổi qua rặng cây mắm, mù u, ô rô... những âm thanh của quê kiểng. Nhớ đến vợ mà nay mai phải xa cách, chàng cầm cây đàn trút tâm sự buồn bã của mình xuống dây Bắc với từng cung bậc “Hò lìu xang xế cống...”. Lẽ nào, người tình từng đầu ấp tay gối, chỉ vì không sinh con mà mình phải bỏ để ăn nằm với người khác? Trời xanh thăm thẳm nào chứng giám cho sự bội bạc này? Vợ chàng dù rất yêu chàng, nhưng cũng sợ lời mắng nhiếc của mẹ chồng nên đã trốn về nhà cha mẹ. Còn chàng bị mẹ canh chừng nên không đi tìm vợ được. Gạt nước mắt, chàng ngước nhìn lên vòm trời và cất tiếng hát(1): 1. Từ là từ phu trướng 2. Bửu kiếm sắc phong lên đàng 3. Vào ra luống trông tin chàng 4. Đêm năm canh mơ màng 5. Em luống trông tin nhạn 6. Ôi! Gan vàng quặn đau 1 Ở đây chúng tôi theo bản của nhà nghiên cứu Trần Văn Khải. Tuy nhiên, một vài bản khác có sự khác biệt đôi chỗ nhưng không đáng kể. Chẳng hạn, GSTS Trần Văn Khê theo bản của Bùi Trung Tín thì: “1. Từ là từ phu trướng; 2. Báu kiếm sắc phân lên đàng; 3. Vào ra luống trông tin nhạn 4. Năm canh mơ màng; 5. Em luống trông tin chàng; 6. Ôi! Gan vàng thêm đau; 7. Đường dầu xa ong bướm; 8. Xin đừng phụ nghĩa tào khang; 9. Còn đêm luống trong tin bạn; 10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu; 11. Vọng phu luống trông tin chàng; 12. Lòng xin chớ phụ phàng; 13. Chàng là chàng có hay; 14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây; 15. Biết bao thuở đó đây sum vầy; 16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai; 17. Là nguyện cho chàng; 18. Hai chữ bình an; 19. Trở lại gia đàng; 20. Cho én nhạn hiệp đôi (Báo Thanh Niên số 30/9/1998) v.v... 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM 7. Đường dầu xa ong bướm 8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang 9. Còn đêm luống trông tin bạn 10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu 11. Vọng phu vọng, luống trông tin chàng 12. Lòng xin chớ phụ phàng 13. Chàng hỡi chàng có hay 14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây 15. Biết bao thuở đó đây sum vầy 16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai 17. Thiếp cũng nguyện cho chàng 18. Nguyện cho chàng hai chữ bình an 19. Mau trở lại gia đàng 20. Cho én nhạn hiệp đôi. Tiếng hát bật ra từ lồng ngực đang đau đớn điên dại. Từng câu chữ cứ trào ra, trào ra những cảm xúc chân tình, nồng nàn nghĩa vợ tình chồng. Lúc ấy, trong tâm trí của chàng nghĩ đến điển tích “Chức cẩm hồi văn” qua tâm trạng của nàng Tô Huệ – vợ Vương Thao. Chồng của nàng đi lính đóng ở phương xa lâu ngày không về, nàng ở nhà thương nhớ chồng da diết, không biết làm sao bèn làm bài văn thêu lên Nhạc sĩ Cao Văn Lầu gấm. Sau đó, nàng đem dâng lên nhà vua, xin cho vợ chồng cùng sum họp. Vua xem xong động lòng thương người vợ có tài, thủy chung mà cho chồng về cố hương. Tiếng hát vừa dứt, chàng cũng cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm. Chắc chắn, lúc ấy chàng không nghĩ bản “Dạ cổ hoài lang”(Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ 54 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG chồng) sẽ trở thành bài “Vọng cổ” thông dụng nhất trong giới cải lương, bản nhạc vua của sân khấu ca kịch (1). Chàng thanh niên có tâm sự buồn đó là nghệ sĩ Cao Văn Lầu (thường gọi Sáu Lầu) sinh năm 1892 (có tài liệu ghi năm 1890), là con thứ sáu trong một gia đình nghèo ở xã Thuận Mỹ, Tân An (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Long An). Nhưng do sinh kế, năm ông lên bốn tuổi thì cha ông đã đưa gia đình về Cà Mau lập nghiệp và định cư ở Bạc Liêu. Do người cha mê nhạc cổ nên ngoài thời gian đi học, Sáu Lầu còn được cha cho đi học ban đêm lớp cổ nhạc ở nhà thầy Nhạc Khị – người mà giới mộ điệu thời bấy giờ tôn vinh là nghệ sĩ chơi nhạc tài tử giỏi nhất. Càng học, Sáu Lầu càng chứng tỏ mình là người sáng dạ, ai ai cũng thán phục. Có lần, Sáu Lầu điều khiển ban nhạc lễ lớn với các thầy đờn ở lục tỉnh về thi thố tài năng. Thầy Nhạc Khị nói: “Thằng Lầu xứng đáng thay mặt thầy đi thi mà không lo lắng gì cả”. Đây cũng là thời gian mà Sáu Lầu thầm thương trộm nhớ cô Hai Thân – con gái của thầy. Nhưng rồi do gia đình quá nghèo, cuộc tình duyên này không đi đến đâu cả. Buồn bã, Sáu Lầu nghỉ học. Thời gian sau, chàng đứng ra thành lập ban nhạc lễ để phục vụ bà con chòm xóm và dần dần có tiếng vang khắp lục tỉnh. Năm 1916, cô Hai Thân bước lên xe hoa về nhà chồng thì gia đình cũng đứng ra cưới vợ cho Sáu Lầu – cô Trần Thị Tấn. Cuộc hôn nhân này, ai cũng khen là đẹp đôi. Nhưng mãi đến ba năm sau, năm 1919 cả hai vẫn chưa có con nối dõi. Bởi vậy nên mới 1 Theo nhà nghiên cứu Bùi Trung Tín, nhà giáo Trịnh Thiên Tư (Long Xuyên) có kể lại với nhạc sĩ Chín Tâm thì bản Dạ cổ hoài lang của nhạc sĩ Cao Văn Lầu ban đầu có 22 câu, đặt tên là Hoài Lang và ông đưa cho danh ca Bảy Kiên nhuận sắc. Đọc xong, thấy có vài câu trùng ý nên danh ca Bảy Kiên đề nghị rút lại còn 20 câu và thêm vào tựa hai chữ “Dạ cổ” thành ra “Dạ cổ hoài lang”. 1. Từ là từ phu trướng; 2. Báu kiếm sắc phân lên đàng; 3. Vào ra luống trông tin nhạn; 4. Năm canh mơ màng; 5. Em luống trông tin chàng; 6. Ôi gan vàng thêm đau; 7. Đường xa dù ong bướm; 8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang; 9. Hàng đêm luống trông tin bạn; 10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu; 11. Vọng phu luống trông tin chàng; 12. Lòng xin chớ phụ phàng; 13. Chàng là chàng có hay; 14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây; 15. Biết bao thuở đó đây sum vầy; 16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai; 17. Lời nguyện với trời; 18. Chứng giám lòng tôi; 19. Khi góc biển chân trời; 20. Em chúc chàng vạn an ý; 21. Nay trở lại gia đàng; 22. Cho én nhạn hiệp đôi. Bản 22 câu, năm 1992 nhạc sĩ NSƯT Tất Đạt ca trên Đài Tiếng Nói Nhân Dân TP.Hồ Chí Minh trong chương trình CLB Truyền thống (Xem báo Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh số 89 ra ngày 13/5/1993). Vấn đề này chúng tôi nêu ra để bạn đọc tham khảo thêm. 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM có chuyện bắt ông để vợ và sự ra đời của bản Dạ cổ hoài lang như đã nêu ở trên. Lạ thay, sau khi hoàn thành bản “Dạ cổ hoài lang” thì ít lâu sau vợ ông thụ thai. Có lẽ, trời đất không phụ người sống có nhân nghĩa chăng? Trước tin vui này, nhiều người đã chúc mừng ông và nói vui: “Chao ơi! Con của thầy đờn có khác, nó chờ ba nó viết xong bản nhạc nó mới chịu ra đời”. Hai người có với nhau được bảy người con – năm trai và hai gái. Bản “Dạ cổ hoài lang” được Cao Văn Lầu đem ra đờn cho anh em nghệ sĩ nghe để họ có ý kiến đóng góp. Trong số những người này có ông Trần Xuân Thơ – thầy tuồng của gánh hát Ba Xú ở Bạc Liêu đề nghị tác giả đổi hai chữ “Dạ cổ” (tiếng trống đêm) thành chữ “Vọng cổ” (trống vọng lại) cho rộng nghĩa hơn. Thế là từ đó, nó mang tên Vọng cổ hoài lang, được mọi người yêu thích, chiếm vị trí trụ cột trong các buổi biểu diễn và dần dần thay thế cho bài Tứ Đại oán trong tỉnh Bạc Liêu. Nhà nghiên cứu Trương Bỉnh Tòng cho rằng: “Là một bài bản thuộc điệu thức Oán, gồm 20 câu, mỗi câu 2 nhịp. Giai điệu nhạc rất đặc sắc, mới nghe qua có chút gì đó của hơi Xuân (Hành vân) lại có một chút gì đó của hơi Ai (Xuân nữ), rồi từng chập lại nghe hơi Dựng (Tứ đại oán). Cả ba làn hơi Xuân, Ai và Dựng quyện lấy nhau, làm cho Dạ cổ hoài lang càng nghe càng hấp dẫn”(1). Sau đó, gánh cải lương Tập Ích Ban của nghệ sĩ Tư Chơi (tức Huỳnh Thủ Trung) và nhiều nghệ sĩ khác đã có công phổ biến rộng rãi và phát triển từ nhịp đôi lên nhịp 64... Thời kỳ từ năm 1920-1926 là nhịp đôi nguyên thủy, người đầu tiên đưa Dạ cổ hoài lang lên sân khấu là Nguyễn Trọng Quyến với vở Bội phu quả báo do Phạm Công Bình sáng tác – trong đó, nhân vật Lý Ngọc Thơ đã ca nhịp đôi do Nguyễn Trọng Quyến viết; thời kỳ 1927-1935 tăng lên nhịp 4 với tác phẩm tiêu biểu là Tiếng nhạn trong sương của tác giả Tư Chơi và đầu tiên nó được sử dụng trên sân khấu cải lương qua vở Giá trị danh dự của soạn giả Năm Châu; thời kỳ 1936-1945 tăng lên nhịp 8 qua tác phẩm đầu tiên là Văng vẳng tiếng chuông chùa do nghệ sĩ Năm Nghĩa ca tại Bạc Liêu, rồi được thu dĩa phát hành rộng rãi; thời kỳ 1946-1954 1 Nghệ thuật cải lương, những trang sử – Trương Bỉnh Tòng, Viện Sân khấu XB 1997, trang 81. 56 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG tăng lên nhịp 16 với tác phẩm Tôn Tẫn giả điên do đệ nhất danh ca Út Trà Ôn thể hiện rất độc đáo; thời kỳ 1955-1964 tăng lên nhịp 32 như bản vọng cổ tiêu biểu là Đội gạo đường xa của soạn giả Kiên Giang với giọng ca của nghệ sĩ Hữu Phước; thời kỳ 1965 trở về sau này tăng lên nhịp 64, tiêu biểu như bản vọng cổ Ba Râu đi Chợ Lớn của soạn giả Viễn Châu do nghệ sĩ Văn Hường ca v.v... “Quá trình phát triển lượng đổi và chất cũng đổi, làm cho vọng cổ trở nên một tác phẩm độc đáo vừa nâng cao, vừa pha tạp, vừa mang tính bác học, vừa mang tính dân gian. Có thể nói, ai cũng ca được vọng cổ. Nhưng ca vọng cổ cho thật hay, phải phấn đấu suốt đời. Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn đã từng nói như vậy. Trong thực tiễn sáng tạo, dễ nhận thấy điều đó. Phàm viết lời ca cho bất cứ bài bản cổ nhạc nào, người viết bị gò bó theo từng nốt nhạc. Còn lời ca của vọng cổ phóng khoáng hơn, thường là lời thơ hoặc những vần điệu hò lý. Chất văn học của kịch bản cải lương nhờ đó cũng được nâng lên. Tóm lại, từ khi có vọng cổ, cải lương càng thu hút khán giả”(1). “Người Việt chúng ta ưa thích vọng cổ vì bản ca ấy thường được dùng cho tuồng cải lương trong những lớp gay cấn và cảm động nhất. Một tuồng hát mà không có ca vọng cổ hoặc ca ít quá sẽ bị bỏ rơi. Giọng ca vọng cổ được chậm rãi, rõ ràng, minh bạch và người ca có thể nhấn mạnh những điểm quan trọng để lưu ý người nghe. Đây là một giọng ca đặc biệt vừa ca vừa nói chuyện rất hạp cho những cuộc tranh luận có tính cách giải thích và van cầu mà các giọng ca khác không thể thay thế đặng”.(2) Những lời bình luận của các nhà chuyên môn đã khái quát được sức sống từ Dạ cổ hoài lang đến vọng cổ và cũng là cả một quá trình sáng tạo độc đáo. Trên báo Dân Quyền ra ngày 21/11/1963 xuất bản tại Sài Gòn, ông Cao Văn Lầu có cho in bức tâm thư, trong đó có đoạn: “Bây giờ bản vọng cổ từ nhịp đôi đã đổi đến nhịp 32 mỗi câu là nhờ công sửa đổi của quý vị nhạc sư, nhạc sĩ, soạn giả để trở thành đứa con tinh thần chung của quý vị. Tôi xin giao đứa con ấy cho quý vị thương nó mà giữ giùm, đừng để nó biến thành đứa con hoang mất hết căn gốc về nhịp điệu và lối ca. Tôi thú thật tôi chịu không nổi mỗi lần nghe ca sĩ dùng bản vọng 1 Nghệ thuật cải lương, những trang sử – Trương Bỉnh Tòng, Viện Sân khấu XB 1997, trang 81. 2 SĐD, Trần Văn Khải, trang 170. 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM cổ để giễu cợt làm mất hết tánh chất thuần túy của nó. Tôi cũng khẩn thiết ước mong quý vị nhạc sĩ, soạn giả, ca sĩ thương tôi, thương nó mà dùng bản vọng cổ cho đúng giọng, hợp cảnh, hợp tình...”. Ngoài bản Dạ cổ hoài lang, Cao Văn Lầu còn viết những tác phẩm khác như Minh Hoàng thưởng nguyệt, Giọt mưa đêm nhưng lại không mấy người nhớ đến. Ông mất năm 1976, thọ ngoài 80 xuân. Trong đời thường, Cao Văn Lầu là người yêu nước, có nhiều đóng góp cho cách mạng. Để ghi nhớ công lao của người đi tiên phong, hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bạc Liêu đều có những con đường được mang tên Cao Văn Lầu. Từ năm 1989, Tỉnh ủy Minh Hải (cũ) đã tổ chức Hội thảo khoa học về 70 năm ra đời bản Dạ cổ hoài lang và năm 1992 lại tiếp tục kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông làm đậm thêm ý nghĩa của bản vọng cổ. Đánh giá về bản Dạ cổ hoài lang, GS.TS Trần Văn Khê khẳng định: “Trong cổ nhạc Việt Nam chưa có bài nào, bản nào được như bài Dạ cổ hoài lang, biến thành “vọng cổ”, từ một sáng tác cá nhân đã thành một sáng tác tập thể, sanh ra từ đầu thế kỷ, lớn lên, sống mạnh, phát triển không ngừng, biến hóa thiên hình vạn trạng, mà sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt trong nước và rải rác khắp năm châu”. Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển cho rằng: “Vai trò của Dạ cổ hoài lang trong âm nhạc truyền thống và dân ca của dân tộc rất lớn: nó là cái nền của điệu vọng cổ mà ta được nghe trong các chương trình cải lương; hơi Xuân, hơi Ai của điệu hát chi phối các điệu Nam Xuân, Nam Ai, nhiều bài bản khác của nhạc tài tử Nam Bộ, dân ca và các điệu lý của đồng bằng sông Cửu Long. Dạ cổ hoài lang là nhạc nền của âm nhạc truyền thống, nhạc tài tử và dân ca Nam Bộ. Xét về mặt ca từ, có thể gọi ca từ của Dạ cổ hoài lang rất đẹp. Cái đẹp ấy được xây dựng trên những từ ngữ thật cổ kính: phu tướng, bảo kiếm, sắc phong, luống trông, gan vàng quặn đau, ong bướm, nghĩa tào khang, sầu tây, tin nhạn, én nhạn hiệp đôi. Cái đẹp ấy nằm trong chất thơ theo sát từng đoạn nhạc, câu nhạc: sắc phong lên đàn, luống trông tin chàng, năm canh mơ màng; có hay, sầu tây, sum vầy, lợt phai... Chắc hẳn khi sáng tác Dạ cổ hoài lang, cố nghệ sĩ Cao Văn Lầu đã nghiên cứu rất kỹ yếu tố văn chương và yếu tố cấu tứ của Chinh phụ ngâm khúc. 58 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Ngay cả khái niệm “Dạ cổ” (tiếng trống đêm khuya) cũng đã nhắc ta nhớ lại câu thơ trong Chinh phụ ngâm khúc: “Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt” (Cổ bề thanh động Tràng thành nguyệt). Cả ca từ và cấu tứ của Dạ cổ hoài lang cho ta thấy được đây là tâm sự của một nguời vợ, người tiết phụ phương Nam nhớ thương chồng, mong ngóng chồng về. Chất nhân bản, nhân đạo của tác phẩm là khát vọng về cuộc sống lứa đôi đoàn tụ... Dạ cổ hoài lang là một tác phẩm ai nhi bất thương, thán nhi bất oán (có buồn mà không đau thương, có thở than mà không oán trách) tiêu biểu cho phong cách nhạc truyền thống, nhạc tài tử và dân ca của đồng bằng Nam Bộ.” Mộ của nhạc sĩ Cao Văn Lầu 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM VŨ ĐÌNH LONG Người đầu tiên soạn kịch theo lối Âu Tây Từ những năm cuối thế kỷ XIX, có một vài đoàn kịch Pháp sang nước ta, chắc chắn những lần biểu diễn ấy đã tạo được sự kích thích cho những nhà hoạt động nghệ thuật của chúng ta thời bấy giờ. Tại Sài Gòn, Nhà hát lớn đã khánh thành vào tháng 1.1900. Năm 1918, Ông đốc phủ Lê Quang Liêm và ký giả Đặng Thúc Liêng cho công diễn vở Hoàng tử Cảnh du Tây (hoặc Gia Long tẩu quốc), nhưng chưa phải là kịch nói và không được công chúng hoan nghênh. Mãi Nhà viết kịch Vũ Đình Long (1896-1960) đến năm 1925, người đầu tiên viết kịch nói của Sài Gòn là Trung Tín đã viết các vở như Toa toa moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước… trong đó có xen lẫn vài điệu hát cải lương, nhưng lại không công diễn trên sân khấu. Trong khi đó tại Hà Nội, so với Nhà hát lớn Sài Gòn thì phải đến hơn mười năm sau, năm 1911 Nhà hát lớn Hà Nội mới xuất hiện. Ngày 25/4/1920, tại đây đã diễn vở Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire) của Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Việt. Báo chí đã ghi nhận sự kiện này và “mong rằng sân khấu Việt Nam sẽ diễn những vở hài kịch theo lối Thái Tây để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước 60 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG nhà” (Thực Nghiệp dân báo số 7.1920). Sau đó công chúng được xem những vở kịch khác như Ai giết người của Tô Giang – phỏng theo truyện ngắn của Mân Châu in trên Nam Phong tạp chí số 28, Già kén kẹn hom của Phạm Ngọc Khôi, rồi Mảnh gương đời, Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải v.v… Sân khấu kịch nói Việt Nam thuở bình minh đang đi những bước đầu tiên trên đường hình thành. Thế nhưng, phải đợi đến ngày 22/10/1921 người ta mới thật sự tin tưởng vào loại hình nghệ thuật này. Đó là ngày công diễn vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long (tại Nhà hát lớn Hà Nội) do Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái hữu tổ chức. Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng cho sân khấu kịch nói. Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan ghi nhận: “Vũ Đình Long là người đã có ý thức soạn những vở kịch có thứ lớp theo lối Âu Tây trước nhất”, “là nhà soạn kịch lối mới trước nhất ở nước ta” và “vở kịch Chén thuốc độc là cái mốc đầu tiên trên con đường hài kịch Việt Nam lối mới”. Hầu hết các báo chí lúc bấy giờ như Thực Nghiệp, Hữu Thanh, Nam Phong hoặc L’ avenir du Tonkin, France-Indochine v.v… đều có bài tường thuật, phê bình. Thi sĩ lừng danh Tản Đà nhận định: “Vở kịch của ông Vũ Đình Long so với văn giới các nước thời chưa biết ra làm sao, so với quốc văn sau này cũng chưa dám biết ra làm sao. Nhưng cứ trong áng văn chương hiện thời của ta nay thì vở kịch của ông tưởng cũng đáng là có giá trị”. Ông Nguyễn Mạnh Bổng không tiếc lời ca ngợi: “Ngày hôm 22 Octobre 1921 này là một ngày kỷ niệm lớn trong văn học sử nước ta” và “văn học sử nước ta sau này chép đến lối văn kịch có lẽ sẽ kể đầu từ bản kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long”. Gần đây, hai nhà nghiên cứu Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý khi biên soạn Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam (NXB Văn Hóa 1978) cũng khẳng định: “Vở Chén thuốc độc ra đời đã có tiếng vang lớn. Đối với đương thời, Chén thuốc độc là một thành công báo hiệu sau những lần thử thách, lần mò. Kịch nói Việt Nam đến đây đã hình thành và chính thức gia nhập đại gia đình sân khấu Việt Nam”(trang 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM 26). Mới đây, trong chuyên đề Lướt qua một thế kỷ, Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã ghi nhận: “Vở kịch đã đi vào văn học sử và sân khấu Việt Nam với tư cách một sự mở đầu cho kịch nói dân tộc” (Tạp chí Xưa-Nay số 1/2000). Với những ý nghĩa quan trọng như đã nêu trên, ta thử xem qua nội dung của Chén thuốc độc. “Vũ Đình Long nêu rõ cái tác hại ghê gớm của đồng bóng quàng xiên, cùng là thói chơi bời, cờ bạc, cô đầu con hát, đàn địch dông dài. Theo tác giả thì tất cả hạnh phúc, gia sản, đạo đức luân lý gia đình sẽ vì nó mà tiêu tan. Cảnh sống của nhà thầy thông Thu cũng khá tiêu biểu cho một gia đình trung lưu ở thành thị. Sẵn tiền họ đi tìm lạc thú. Mẹ có thú vui của mẹ, con có lạc thú của con, chồng tìm cách chơi của chồng, vợ tìm cách tiêu khiển của vợ. Lớp thanh niên trong vở kịch (Ấm Sứt, Cả Nhắng...) mà danh từ đương thời gọi “công tử bột” là hạng người đàng điếm, vô giáo dục. Chúng chỉ biết ăn cắp tiền của cha mẹ cho nhà thổ cô đầu, suốt ngày đàn địch, chơi bời lêu lổng, hết bình phẩm cô này xấu đến cô kia đẹp. Lúc nào chúng cũng cặp kè máy ảnh đi chụp trộm thiếu nữ về làm ngoạn tập (Ấm Sứt). Đối với thiếu nữ, chúng chỉ cốt dụ dỗ để thỏa lòng vật dục, tàn hại đời trinh tiết của những cô gái nhẹ dạ (Cả Lém). Chén thuốc độc mô tả sự xung đột giữa dục vọng và lương tri, giữa tệ lậu xã hội với hạnh phúc gia đình”(1). Cho đến nay, bản kịch này chưa tái bản, nhưng chúng tôi hiện đang có bản quay ronéo dành cho kịch sinh Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn (1970). Ở trang trong có cho biết: “Hí kịch lối mới, ba hồi, chia làm 36 xen”. Cả ba hồi đều chung một cảnh trong nhà thầy thông Thu – một gia đình quý phái, giàu có, ta thấy trong phòng khách “bày toàn đồ sang trọng như tủ chè, giá gương độc bình, hoành phi, câu đối, sạp sơn son thếp vàng, án thư...”. Bố mất, thầy thông còn trẻ, thường “khoắng” tiền nhà để vào chơi bời ở xóm cô đầu hoặc cờ bạc trác táng. Cụ thông – mẹ thầy và vợ thầy thì mê đồng bóng; còn cô Huệ – em thầy thì không có người dạy dỗ mà chửa hoang! Sau đây là một cảnh cầu hồn tuyệt hay được thể 1 Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam - NXB Văn Hóa - 1978, tr. 93. 62 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG hiện qua ngòi bút trào phúng, châm biếm của Vũ Đình Long ở hồi thứ nhất, sen 4: “Mẹ đồng quan: - Kìa cô hồn đã lại, sao chậm chạp thế? Cô hồn: - Lạy mẹ! Lạy bà lớn! Lạy cô! Cụ thông: - Không dám, cô ngồi chơi. Mời cô xơi chén nước. Cô hồn: - Xin rước mẹ, rước cụ lớn xơi nước. Cụ thông: - Mời cô. Quýt lấy dĩa trầu cau hương hoa. Quýt: - Dạ! Cụ thông: - Đặt quẻ bao nhiêu cô? Cô hồn: - Bẩm, một tiền bốn mươi đồng ạ! Hay đâu thưởng đấy! Cụ thông: - Ừ được, nhưng mà hễ không hay thì tôi lấy tiền lại đấy! Cô hồn: - Vâng, bẩm tên tín chủ là gì? Tên vong là gì? Bao nhiêu tuổi? Chôn ở đâu? Cụ thông: - Tên tín chủ là Trần Thị Ba, vong tên Nguyễn Văn Đông, mất ngày rằm tháng giêng, năm Khải Định thứ tư, chôn tại Thịnh Hào, xóm Vườn Dưa. Cô hồn (nâng dĩa trầu lên ngang đầu): - Sụtt... Nam vô ai di đà Phật, Nam vô ai di đà Phật! Sụtt... Khải Định lục niên, lục nguyệt, sơ thập nhật, tín chủ là Trần Thị Lan, thành tâm, có tên vong Nguyễn Văn Đông chết hôm rằm tháng giêng năm Khải Định thứ tư... Sụtt... chôn ở Thịnh Hào, vườn Xóm Dưa, trách cứ thần kỳ thổ đại dẫn hồn Nguyễn Văn Đông về nơi dương gian để giãi tấm lòng ly biệt... sụtt... Nam vô ai di đà Phật, Nam vô ai di đà Phật! (khấn xong một lát, cô hồn phe phẩy quạt vào mặt rồi ngáp mấy cái, hát): Thương nhau nên hồn về đây Hồn ở dưới này nhớ vợ cùng con (Từ đây trở xuống, cô hồn cứ hát xong một câu lại cầm quạt phe phẩy cụ thông một cái). Cụ thông: - Thế ai nhớ hồn mà gọi hồn thế? Cô hồn: - Anh thương em lắm em ôi! Anh về em luống lẻ loi những ngày 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Cụ thông (khóc): - Ối anh ôi là anh ôi! Mẹ đồng quan (nói nhỏ với cụ thông): - Đấy cô hồn có thiêng không? Cô hồn: - Anh thương em lắm em ơi! Song the chiếc bóng cùng ai, em chuyện trò? Cụ thông: - (khóc hu hu) Mẹ đồng quan: - Thế hồn chết, ai khâm liệm cho hồn? Cô hồn: - Khi hồn sắp bước chân ra Họ hàng, làng nước cùng là anh em Mẹ đồng quan: - Thế đám đưa có đông không? Cô hồn: - Đưa đám gần lúc giữa trưa Kẻ khóc cũng lắm, người đưa cũng nhiều Mẹ đồng quan: - Thế không nói gì đến vợ à? Cô hồn: - Vợ hồn lẽo đẽo đi theo Vừa lăn, vừa khóc, vừa kêu, vừa gào (Cô Huệ đi chợ về, tay cắp rổ, đẩy cửa bước vào) Sen 5: Mẹ đồng quan: -Kìa, cô Huệ... Cô hồn: - Con ta đấy, phải ai đâu Thương con luống những mạch sầu chứa chan Cụ thông: - Chịu hồn, thế hồn ở dưới ấy có yên không? Có đi lại thăm nhà được không? Cô hồn (không thấy thưởng): - Thôi trưa rồi! Hồn về đây! Cụ thông: - Thôi, không mấy khi hồn đã về chơi thì hãy thư thư đã, nói mấy chuyện nữa rồi còn mấy hào tôi thưởng nốt! Cô hồn: - Từ khi hồn xuống âm ty Hồn vẫn hiện ra con đom đóm hồn đi về nhà Cụ thông (nói với mẹ đồng quan): - Thảo nào, hôm qua tôi thấy con đom đóm to tướng, xanh lè lè, bay vào chuồng lợn rồi lên trên thềm, cứ múa tít đi. Thế thì ra hồn cũng đi lại thật mẹ ạ! 64 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Cô hồn: - Chuồng lợn cho chí chuồng gà Chỗ nào hồn cũng la cà hồn xem Xem xong hồn bước lên thềm Vừa nhảy vừa múa ngoài đèn hồn chơi (ngáp mấy cái, vứt quạt xuống, thăng) Mẹ đồng quan (nói nhỏ với cụ thông): - Cô hồn này xem được đấy chứ! Cụ thông: (gật)” Vở kịch đã tạo ra những tiếng cười náo nhiệt trên sân khấu. Khán giả cười vì sự ngu muội, mê tín, dốt nát của cụ thông khi tin vào lời của bọn buôn thần bán thánh. Đã thế, trong đó còn có những đoạn rất thú vị về chuyện lên đồng với những nhân vật như cung văn, mẹ đồng quan... Sau đây là những đoạn lên đồng để... chữa bệnh cũng được khán giả tán thưởng: “Cụ thông: -Tấu lạy đức bà, đức bà đẹp chín nghìn! (Mẹ đồng quan chèo đò) Cung văn (hát): Tối hôm qua chớp bể mưa nguồn Trông ra đã thấy cánh buồm xa xa Khoan khoan hồ khoan, phách nhất kia ơi! Chèo mở lái ra, khoan khoan hồ khoan! Phách nhị giữ nhịp, khoan khoan hồ khoan! Săm săm săm săm, khoan khoan hồ khoan! Tối cảnh tắt đèn, khoan khoan hồ khoan! Đền xinh cảnh đẹp, khoan khoan hồ khoan! Mọi đồ phong quang khoan khoan hồ khoan! Cụ thông: - Tấu lạy đức bà, đức bà đẹp chín nghìn! Cung văn: Chèo nhởi chèo chơi, khoan khoan hồ khoan! Lấy quả đào tiên, khoan khoan hồ khoan! Bà dạo chơi băm sáu phố phường, khoan khoan hồ khoan! Ai hay phép thánh, khoan khoan hồ khoan! Ai tường phép tiên, khoan khoan hồ khoan! Bà chèo chơi băm sáu động tiên, khoan khoan hồ khoan! Chiếc thoi bán nguyệt, khoan khoan hồ khoan! Lên đền Đông Cương, khoan khoan hồ khoan! Cụ thông: - Tấu lạy đức bà, đức bà đẹp chín nghìn! 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Cung văn: Nhác trông ra cửa bể mờ mờ, khoan khoan hồ khoan! Có ô bà Thượng, khoan khoan hồ khoan! Có cờ vua ban, khoan khoan hồ khoan! Lơ lửng bên giang, khoan khoan hồ khoan! Hay thuyền bà Thượng chèo sang đền Ghềnh, khoan khoan hồ khoan! Bà ơi, sai cô nàng bắc cầu noi lên bờ, phẳng lặng bằng tờ, khoan khoan hồ khoan! (Mẹ đồng quan thăng rồi lễ tạ) (Mẹ đồng quan đang ngồi uống nước thấy thầy thông đẩy cửa vào, đứng dậy kiếu) Mẹ đồng quan: - Thôi bà lớn nghỉ, mẹ về có tí việc. Cụ thông: - Mẹ hãy thư thả đã. Mẹ đồng quan: - Lâu lắm rồi, mẹ còn chút việc bận, mai bà lớn lại chơi, mẹ nói chuyện. Chào bà! Chào ông thông! Thầy thông (lạnh lùng): - Không dám chào cụ! Cụ thông (hai tay vái): - Lạy mẹ ạ! Sen 12 Thầy thông (trông thấy lễ vật đầy bàn, lắc đầu...) Cụ thông: - Thôi, tôi xin ông! Ông văn minh vừa chứ. Mẹ con tôi khổ sở tai hại vì ông đấy, ông ạ! Thầy thông: - Thưa mẹ, con có làm điều gì mà đến nỗi thế? Cụ thông: - Ông có biết vợ ông làm sao mà ốm không? Thầy thông: - “Đá còn có khi đổ mồ hôi” huống chi là người, trong mình khí huyết không được điều hòa hay là phong sương cảm nhiễm nên ốm chứ sao! Cụ thông: - Không phải, thánh troàn rằng tại ông hay báng bổ lắm nên thánh phạt vợ ông đấy! Thầy thông: - Theo mẹ, thế sao mẹ không kêu cho rằng con làm nên tội thì phạt con, chớ sao lại phạt người vô tội? Cụ thông (hơi gắt): - Thánh bảo rằng mày Tây, thánh không thèm chấp. Mày thử nhìn cái bụng con Huệ xem! Thầy thông (kinh ngạc): - Chết chửa! Sao bụng mày to ra thế, Huệ? Hay là mày đổ đốn ra rồi, hử? 66 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Quýt: - Thưa thầy, ban nẫy đức bà, ngài về ngài bảo các cậu phạt cô con đấy ạ! Thầy thông (gắt): - Thế nào, Huệ? Tao hỏi sao mày không nói, làm sao mà bụng mày to ra hử? Huệ (cúi mặt khóc): - Thưa anh, em không hiểu! Thầy thông (gắt): - Mày không biết à! Rồi mày sẽ biết! Quýt, vào lấy cho tao cái roi song ra đây mau! Bằng ngần ấy mà đã... Cụ thông: - Khoan đã, Quýt! Thôi đi, ông thông, ông đừng đánh oan, mắng oan con tôi! Con tôi, tôi biết nó không hư đâu. Để tôi làm lễ tam phủ thục mệnh cho chị nó khỏi đã, rồi làm lễ tứ phủ trình đồng cho nó, rồi ông xem bụng nó có bé đi không? Thôi vào đây với mẹ con! (vừa nói vừa kéo Huệ vào)” Và sau đây là một cảnh trai gái tán tỉnh với nhau. Nghĩ cũng lạ, thời trước chỉ cách đây hơn một phần hai thế kỷ mà lời lẽ người ta trò chuyện lại “bay bướm” quá, “văn chương” quá! Nếu thời buổi này được nghe, chắc hẳn ta cũng phì cười. Thế mới biết, mỗi thời cách tỏ tình mỗi khác. Ở sen 13, Vũ Đình Long viết: “Cậu Lém: - Tôi chào mình! Cô Huệ (vẫn xem báo, chỉ hơi đưa mắt, miệng mỉm cười) Cậu Lém (ngồi ghế bành): - Mình ơi! Hôm nay mình cho tôi mở khóa động đào, rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai, tôi vui sướng không sao kể xiết! Mình yêu mình quý của tôi ơi! Tôi xa mình lúc nào tôi cũng nhớ, tôi thương, tôi sầu, tôi não. Thực hồ: Năm canh trằn trọc tình lai láng Sáu khắc bồi hồi dạ nhớ mong! Chẳng biết rằng ai nhớ ai chăng? Cô Huệ (không nói gì vẫn xem báo, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười, hơi đưa mắt tỏ tình âu yếm mà thôi). Cậu Lém: - Mình ơi chẳng hay mình thấu cho chăng? Tôi thương mình, tôi nhớ mình không lúc nào khuây, lúc nào cũng phất phơ như mình ở trước mắt! Lắm khi bể tình lai láng, nên mấy câu này tôi đọc để mình nghe: 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Mình ơi! Mình đẹp, đẹp như hoa, Yểu điệu thanh tân rất mượt mà. Má phấn môi son, con mắt phượng, Yếm đào da trắng, nước da ngà. Miệng cười đón bạn trăm hoa nở, Mắt liếc đưa tình chiếc nhạn sa. Tài tử giai nhân duyên gặp gỡ, Trăm năm ta nguyện bóng trăng già! Cô Huệ: - Cậu ơi! Hôm nay tôi nhân nhà vắng mời cậu lại đây, cậu chớ cho tôi là một phường với bọn trong dâu trong bộc. Tôi cũng con nhà gia thế, tôi cũng biết mời cậu đến nhà thế này là phi lễ. Nhưng đau đớn thay là phận tôi! Khó khăn thay là cảnh nhà tôi! (nói đến đó, lấy mùi-soa gạt nước mắt) Cậu Lém: - Chẳng hay mình có điều chi sầu não, xin cho tôi biết, tôi tuy bất tài, song cũng tận tâm kiệt lực để giúp đỡ mình”. Những xung đột trong kịch đã diễn ra dồn dập, lôi cuốn được người xem. Gia đình thầy thông về sau nợ ngập đầu, nhà bị tịch biên. Lúc quẫn trí, thầy định kết thúc cuộc đời với chén thuốc độc, thì may thay, bạn của thầy là thầy giáo Xuân đem lời phải trái can ngăn. Sau, nhờ có cái măng-đa sáu nghìn của em trai thầy gửi từ Lào về, cứu vãn được tình thế. Từ đó, gia đình thầy tỉnh ngộ, lo tu tỉnh làm ăn, vui vẻ lại như xưa. Sau vở Chén thuốc độc, Vũ Đình Long còn tiếp tục viết Tòa án lương tâm (1923). Trong đó, thầy ký Thu chí thú làm ăn, yêu thích văn chương nhưng vợ – cô giáo Quý – lại thích đua đòi, ăn chơi, chê chồng là “ký kiết”, rồi làm nhân tình cho Ả Quay để bòn rút tiền đánh bài bạc. Đôi gian phu dâm phụ này còn bàn cách giết thầy ký Thu. Trước bi kịch không chỉ vợ giết chồng mà còn giết cả đày tớ trung thành và người bạn tốt của chồng, nhưng công lý vẫn không phơi bày ra ánh sáng. Có một nhà báo nhận trách nhiệm điều tra ba cái chết oan khiên này, nhưng vì lóa mắt trước tiền của Quý nên ngậm tăm! Từ đó Quý và Ả Quay sống chung với nhau, nhưng chúng 68 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG cũng không thể nào yên ổn vì lương tâm ngày càng cắn rứt. “Nghiêm ngặt, ghê gớm thay là tòa án lương tâm. Luật pháp của xã hội thì có thể vượt qua được, chứ cái lưới của tòa án lương tâm thì tội nhân, ác phạm không tài nào trốn thoát”. Thế là cuối cùng chúng phải mượn mấy phát súng để tự kết liễu cuộc đời! Từ Chén thuốc độc thể loại kịch trên sân khấu Việt Nam đã tiến rất nhanh về số lượng lẫn chất lượng và bài trí sân khấu. Chỉ dăm năm sau, nếu so vở kịch “có thứ lớp theo lối Âu Tây trước nhất” của Vũ Đình Long so với các vở Uyên ương (1927), Hai tối tân hôn (1929)... của Vi Huyền Đắc thì người ta đã thấy khoảng cách “một trời một vực”. Đó là tín hiệu đáng mừng cho con đường phát triển của kịch nói Việt Nam – mà Vũ Đình Long là người có vinh dự được ghi nhận đóng vai trò tiên phong. Nhưng Vũ Đình Long là ai? Ông sinh năm 1896 và mất ngày 14/8/1960 tại Hà Nội. Trước khi bước vào trường văn trận bút, Vũ Đình Long làm nghề dạy học. Tác phẩm của Vũ Đình Long ngoài Chén thuốc độc (1921), sau Cordier dịch sang tiếng Pháp và xuất bản thành sách năm 1927; còn có Tòa Tranh họa sĩ Duynh minh họa trong kịch bản Chén thuốc độc (in năm 1927) 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM án lương tâm (1923), Đàn bà mới (1944), Tổ quốc trên hết (1946-dịch vở Horace của Corneille). Là nhà giáo nên trong tháng năm này, ông còn viết nhiều sách giáo khoa như Quốc văn độc bản (1932), 300 bài toán đố xếp riêng từng loại, có lời giải và trả lời (1932)... Sau năm 1954, ông là ủy viên BCH Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Từ năm 1925 ông chuyển hẳn sang hoạt động xuất bản, làm chủ nhà in nổi tiếng Tân Dân tại nhà số 93 Hàng Bông (Hà Nội) và chủ trương nhiều tờ báo như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ích Hữu, Tao Đàn, Phổ thông bán nguyệt san... quy tụ được hầu hết các nhà văn tiếng tăm của thời đó, để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử văn học và lịch sử báo chí Việt Nam. Và khi lao vào kinh doanh, làm xuất bản thì Vũ Đình Long cũng là người có sáng kiến cho đăng tiểu thuyết nhiều kỳ trên báo, bên cạnh truyện ngắn, truyện dịch để lôi cuốn độc giả. Nhà hát lớn Hà Nội - nơi công diễn vở Chén thuốc độc (1921) 70 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG TRẦN TẤN QUỐC Người đứng ra lập giải thưởng cho nghệ sĩ “Xướng ca vô loài” là câu nói miệt thị những người đeo đuổi nghề tuồng hát. Nhìn lại lịch sử ta thấy, Quốc triều hình luật dưới thời Hồng Đức quy định các quan lại lấy đàn bà con gái làm nghề hát xướng, dù làm vợ hay làm hầu, đều phải phạt 70 trượng và lưu đày; con cháu các quan lại lấy hạng phụ nữ kể trên, phải phạt 60 trượng và phải ly dị. Và những con nhà phường chèo, phường tuồng, ả đào... con cháu đều không được đi thi; ai trái luật phải tội đầy hay tội đồ. Quan giám ty biết mà không tố giác phải chịu tội. Luật lệ khắc nghiệt và bất công này đã loại bỏ Trần Tấn Quốc (1914-1987) biết bao người muốn đem tài năng ra giúp nước. Mãi đến đời vua Lê Dụ Tông (1706-1729) do bà Trương Quốc mẫu xuất thân là ca nữ, được tiến vào cung, chúa Trịnh Cương rất yêu quý. Quốc mẫu năn nỉ với chúa để bỏ lệ ấy. Từ đó, con nhà ca kỹ mới được đi thi như lương gia tử đệ. Tuy thế, trong quan niệm dân gian thành kiến trên vẫn chưa thay đổi. Trong thập niên 50 của thế kỷ XX, tại miền Nam, một nhà báo tiên phong đã đứng ra thành lập giải thưởng dành cho 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM người nghệ sĩ “với cao vọng xây dựng một thế hệ cải lương tài và đức đi đôi, hầu xóa bỏ ít nhiều thành kiến đối với nghề hát xứ ta.” Người đó là Trần Tấn Quốc – một trong những nhà báo lão thành của làng báo miền Nam. Ông tên thật là Trần Chí Thành, sinh ngày 25/9/1914 tại làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh (Sa Đéc) – con trai thứ năm của đông y sĩ Trần Tấn Hưng và Lê Thị Lư. Chí hướng theo nghề báo đã hình thành ngay từ lúc ông còn học Trường Tiểu học Cao Lãnh. Bấy giờ, nhà báo Diệp Văn Kỳ có đến thăm trường. Là một người nổi tiếng trong làng văn trận bút, một người “danh gia vọng tộc”, du học ở Pháp về với nhiều bằng cấp, nhưng ông Kỳ không thèm ra làm quan mà lại nhảy vào làng báo! Đứng trước học sinh, ông dặn dò: “Các em ráng học để sau này giúp ích cho nước nhà. Chắc thầy các em đã nói cho các em biết tôi là ai hỉ? Có người lại bảo, tại sao không ra làm quan? Nhưng làm quan để mà chi? Khi ta chỉ sung sướng một mình còn bao nhiêu đồng bào ta cực khổ thì làm quan có ích gì? Tuy nhiên, về sau muốn làm nghề gì thì lúc còn nhỏ, cũng phải ráng học cái đã. Tôi khuyên các em ráng học”. Cậu học trò Trần Tấn Quốc đứng nghe như uống lấy từng lời và suy nghĩ: “Không phải tôi ước muốn có vợ giàu như ông Kỳ, điều khiến tôi suy nghĩ mãi là người viết báo không có chức phận gì cả, không giống như ông Đốc phủ, ông cò-mi hay ông Quận, cũng không như ông bác sĩ, ông giáo sư nhưng theo tôi nghe biết thì ai ai cũng tỏ ý mến phục người làm báo vô cùng”. Những năm tháng này, cuộc đời học sinh của Trần Tấn Quốc không diễn ra êm ả. Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và đã phát động trong quần chúng những cuộc biểu tình long trời lở đất để đòi tự do, cơm áo, đòi giảm sưu cao thuế nặng... Ông đã tham gia vào cuộc biểu tình nổ ra ở Cao Lãnh vào ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930. Chỉ mới 16 tuổi, ông đã bị thực dân bắt đày ra Côn Đảo với tội danh “hoạt động phá hoại chống nhà nước”. Trong rủi có may. Ra đến địa ngục trần gian, ông may mắn được gặp người bạn tù cộng sản là Nguyễn Văn Nguyễn, lớn hơn ông 4 tuổi và quê ở Mỹ Tho. Chính nhờ sống chung với người bạn tù này mà về sau tư tưởng của ông đã có những chuyển biến tích cực. Có một 72 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG điều thú vị là dù sống trong tù đày, nhưng bao giờ chính trị phạm cũng lạc quan, yêu đời vì họ biết lý tưởng của mình sẽ có ngày trở thành hiện thực. Chẳng hạn, ở Côn Đảo, họ đã lập ra gánh cải lương An Hải. Sau này trong hồi ký của Trần Tấn Quốc có kể lại: “Cho đến năm 1932, hình như lần thứ nhứt, dưới chế độ thống trị, Côn Đảo có một cuộc hát xướng như thế, tổ chức trong ba ngày Tết... Trong đoàn hát, chỉ có anh Nguyễn là người “mưu sĩ” nhứt. Nhơn dịp gánh hát được ra diễn tại Châu Thành, anh mới nghĩ một kế cho bọn chánh trị “lên hương” phen này. Anh Nguyễn là soạn giả kiêm đạo diễn và cũng là một diễn viên trội nhứt. Trước ngày gánh dọn ra Châu Thành, anh triệu tập nội bọn và nói: “Theo phép của ông Chánh, bọn mình chỉ được hát ba đêm tại Châu Thành, tối mồng 1 đến tối mồng 3. Đêm đầu tiên đầu năm chúng mình lựa một tuồng vui, có đông đủ “đào kép” gọi là khai trương đầu năm, đến đêm mồng 2, theo ý tôi phải hát tuồng “Tứ đổ tường” rồi qua đêm mồng 3, muốn hát tuồng gì cũng được. Mọi người chưa ai kịp hỏi ý nghĩa của sự lựa chọn này, anh Nguyễn nói tiếp: - Trong tuồng “Tứ đổ tường” có một màn Tòa xử. Theo ý tôi, màn này các diễn viên đóng vai Tòa, Biện lý, Trạng sư đều nói tiếng Pháp và bỏ tất cả mấy bài ca. Nghĩa là chúng ta diễn một màn thoại kịch đúng nghĩa. Một anh hỏi nửa đùa nửa thật: - Anh Nguyễn tính “lòe” ai mới được chớ? Nguyễn cười bí mật, đoạn anh giải thích thẳng thắn: - Từ ngày bị đày ra đây đến nay, chắc anh em nhận thấy điều này: đại đa số thầy chú đều là kém học, có cha viết không nổi tờ giấy “ráp-bo” tội trốn, thế mà họ thường chửi chúng ta là “đồ dốt như con bò”, “đồ ngu như lợn”! Có cha còn tỏ mình bảnh, chửi vào mặt chúng ta: “Đồ ngu dốt, nghe lời xúi biểu... làm bậy”! Bởi vậy, dịp này tôi muốn chúng ta trả lời cho bọn thầy chú về vấn đề học thức chơi và cũng để “mấy chả” bớt làm tàng. Họ làm 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM việc cho Tây, tay sai của Tây và chỉ biết phục Tây. Bây giờ chúng ta nói... tiếng Tây cho họ nghe chơi. - Nghĩa là... - Phải, nghĩa là nơi màn Tòa xử trong tuồng “Tứ đổ tường” chúng ta nói tiếng Tây, phải nói thật trúng và nói cho có giọng rất... Tây. Anh Nguyễn nghiêm nghị nói thêm: - Tuy chuyện “báo thù” rất trẻ con, nhưng chúng ta tin rằng sau buổi hát này, có nhiều thầy chú sẽ thay đổi thái độ với nhóm chúng ta nói riêng và cho chánh trị phạm nói chung. Rồi anh Nguyễn kết luận: - Nếu anh em tán thành ý kiến của tôi vừa trình bày thì tôi nhờ anh Khình tiếp với tôi mà viết rút màn Tòa, toàn tiếng Pháp để chúng ta kịp tập dượt, từ điệu bộ đến giọng nói. Anh em hoàn toàn tán thành...”. Quả thật, sau này mọi việc đã diễn ra đúng như dự kiến của anh Nguyễn. Năm 1934, Trần Tấn Quốc được thả tự do và trong đầu của ông đã ít nhiều hình thành về chuyện sân khấu. Từ đây với mảnh bằng Thành chung, ông bắt đầu lao vào nghề viết báo. Cuộc đời của Trần Tấn Quốc có thể nói là một nhân chứng sống của nền báo chí Việt Nam, ông đã sống bằng ngòi bút cho đến năm 1975 gắn liền tên tuổi mình với các tờ Việt Nam, Nhựt báo, Công luận, Truyền tin, Điển tín, Tin điển, Dân tộc, Tiếng dội, Đuốc nhà Nam v.v... Vì lẽ đó, ông từng tự hào phát biểu: “Từ khi bước chân vào trường đời, tôi tôn thờ một đạo. Đạo của tôi là nghề làm báo”. Và tại sao là một người làm báo nhưng Trần Tấn Quốc lại tiên phong đứng ra lập giải Thanh Tâm, là giải dành cho nghệ sĩ sân khấu? Trước hết, ta thử tìm hiểu xem ông quan niệm về “mối đạo” nghề báo như thế nào mà đã đeo đuổi ngót bốn chục năm ròng: “Trước hết, người làm báo có cái sung sướng hơn những ai khác, là mình được đem tất cả những chuyện gì mà chính mắt mình thấy, chính tai mình nghe, thuật lại 74 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG cho muôn vạn người khác cùng biết với mình, bằng văn chương rèn luyện quy củ từ trường học đến trường đời. Người làm báo là con chim trời, chu du cùng khắp, để tìm thấy trước hơn ai những điều hay lạ, để hãnh diện khám phá bao nhiêu việc kỳ bí trên đời, rồi trở về thuật lại cho hàng muôn vạn người khác cùng nghe cùng biết, bằng văn chương sáng tạo và kỹ thuật viết lách của mình. Người làm báo còn bị nghề nghiệp bắt buộc học tập và học tập mãi để mở rộng kiến văn và trau dồi kiến thức nữa, để chuyện nào mình cũng biết, chuyện đâu mình cũng hay. Người làm báo là vị luật sư. Nhưng không chỉ đứng trên cương vị luật pháp để biện hộ cho một người hay một số người trong vụ án trước công lý, mà người làm báo luôn luôn đứng trên cương vị của Công bằng và Chánh nghĩa để bênh vực cho tất cả, từ cá nhân đến đoàn thể, từ đoàn thể đến đại chúng và bênh vực cho cả một dân tộc trước dư luận và lịch sử. Người làm báo binh vực cho lẽ phải và công bằng một cách hăng say với tinh thần hiệp sĩ, không cần ai kêu gọi, không màng việc oán trả ơn đền. Nơi nào có tiếng thì thầm than thở của dân là có tai của nhà báo ghé vào, nơi nào có sự lộng quyền ỷ thế, là có mắt của nhà báo ngó tới. Người làm báo còn là một chiến sĩ nữa. Chẳng những túc trực ở mặt trận bảo vệ tự do chung mà mặc nhiên trở thành anh lính tiên phong trong cuộc đấu tranh của dân tộc chống xâm lăng vì chánh nghĩa. Nghề làm báo cao cả như vậy, lý tưởng cao sâu của người cầm bút như vậy, há chẳng đáng gọi là một đạo sao?” Có thể nói, Trần Tấn Quốc đã kiên trì, thủy chung với đạo của mình. Ngòi bút của ông chưa một lần vấy bẩn vì đồng tiền mua chuộc hoặc uốn cong vì cường quyền bạo lực. Ông là nhà báo chân chính và để lại những tác phẩm như Nam bộ kháng chiến (sưu tập tài liệu), Cô gái Côn Đảo (ký sự), Kỷ niệm làm báo 1936-1975 (hồi ký), Ba tháng khói lửa đô thành (phóng sự), Đồng lương nghệ sĩ (phóng sự), v.v... hầu hết chưa xuất bản thành sách. Chính từ công việc làm báo mà Trần Tấn Quốc đã có sáng kiến lập ra giải Thanh Tâm – một đóng góp lớn đối với sự phát triển của sân khấu miền Nam. Sau này, khi Trần Tấn Quốc mất, 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nhắc lại sự nghiệp của ông, soạn giả Viễn Châu có khóc câu đối thật hay: Công nhân, Buổi sáng, Tiếng dội, Đuốc nhà Nam, giải Thanh Tâm gắng sức vun bồi, duyên bút mặc, nghiệp báo chương, xếp lại hành trang, đất Cao Lãnh bao dài bao nuối tiếc; Phùng Há, Năm Châu, Ba Vân, Lê Thị Phỉ, lòng ca kịch góp phần tô điểm, nợ phấn son, tình sân khấu, tàn rồi mộng ước, sông Đình Trung, mấy khúc mấy u sầu. Nhà báo Trần Tấn Quốc đọc diễn văn trong lễ phát giải Thanh Tâm (1959) Từ năm 1958, giải thưởng Thanh Tâm chính thức ra đời nhằm mục đích khích lệ và nâng đỡ lớp nghệ sĩ trẻ hăng hái tiến lên thay thế lớp nghệ sĩ lành nghề đã luống tuổi. Có ba tiêu chuẩn để tuyển chọn: diễn, ca, sắc vóc và đạo đức. Phần đức hạnh được đặt ra vì theo ông làm nhằm ngăn chận, kiềm chế phần nào nếp sống buông thả của nghệ sĩ nói chung. Ban tuyển chọn gồm có những ký giả kịch trường, nghệ sĩ ưu tú, soạn giả tên tuổi... đủ uy tín và chính xác trong việc xét giải. Chẳng hạn, trong ban tuyển chọn đầu tiên năm 1958 ta thấy có nghệ sĩ Phùng Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu; nhà báo Trần Tấn Quốc và ông Nguyễn Hoàng Nam - đại diện cho khán giả đã trao Huy chương vàng cho một nữ nghệ sĩ duy nhất có “nhiều triển vọng” là Thanh Nga. Qua năm 1959, trong ban tuyển chọn có nghệ sĩ Phùng Há, Bảy Nhiêu, Duy Lân; soạn giả Kiên Giang, Hà Triều, Viễn Châu; ký giả Ngọc Linh, Nguyễn Ang Ca, Anh Nguyên, Lê Hiền, Phong Vân, Trần Tấn Quốc, Hoài Ngọc, Bạch Tùng Dương và trao Huy chương vàng cho hai nghệ sĩ Lan Chi, Hùng Minh. Rồi các năm tiếp theo, các nghệ sĩ được trao Huy chương vàng là 76 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Bích Sơn, Ngọc Giàu (1960), Thanh Thanh Hoa (1961), Ngọc Hương, Ánh Hồng (1962), Bạch Tuyết, Kim Loan, Trương Ánh Loan, Tấn Tài, Diệp Lang, Thanh Tú (1963), Lệ Thủy, Thanh Sang (1964), Thanh Nguyệt, Bo Bo Hoàng (1965), Phượng Liên, Phương Quang (1966), Mỹ Châu, Ngọc Bích, Bảo Quốc, Phương Bình (1967). Còn giải Diễn viên xuất sắc năm 1965 trao cho Hữu Phước trong Biểu tượng giải Thanh Tâm tuồng Chuyện tình 17, Bạch Tuyết trong tuồng Nỗi buồn con gái; năm 1966 trao cho Thành Được trong tuồng Tiếng hạc trong trăng, Thanh Nga trong tuồng Sân khấu về khuya; năm 1967 trao cho Ngọc Giàu, Thanh Hải. Thành phần ban tuyển chọn mỗi năm đều mời thêm những nhân vật tiếng tăm trong nhiều giới để tạo uy tín cho giải, chẳng hạn năm 1965 có mời thêm luật sư Dương Tấn Trương; nhân sĩ Phùng Văn Quý, Phan Bá Thúc, bà Đỗ Dư Ánh để hợp tác chấm giải Tuồng hay nhứt trong năm. Giải này, năm 1965 trao cho soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng với tuồng Nỗi buồn con gái; năm 1966 trao cho Nguyễn Thành Châu với tuồng Nước biển mưa nguồn, Yên Ba – Loan Thảo với tuồng Tiếng hạc trong trăng. Về hình thức của Huy chương vàng được chạm khắc với trọng lượng bốn chỉ vàng – nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan giải thích: “Số 1 là hình “vương miện” không phải có đặc tính “vua chúa” mà tượng trưng sự “vinh quang, tối cao”; số 2 tiêu biểu màn nhung của sân khấu; số 3 là hai cành dương liễu giao ngọn, tượng trưng “danh dự” và cũng có ý nghĩa “tươi trẻ mãi” vì dương liễu là loại cây xanh lá suốt năm; số 4 hình “bội tinh”; số 5 hai hàng chữ hơi cong bao quanh bội tinh là “Nghệ sĩ có nhiều triển vọng nhứt”. Huy chương trao năm nào thì chạm con số của năm đó”(1). 1 Trần Tấn Quốc, bốn mươi năm làm báo, Thiện Mộc Lan, NXB Trẻ, 2000. 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Điều đáng lưu ý là khi đứng ra tổ chức giải Thanh Tâm, Trần Tấn Quốc đã bỏ tiền túi ra để thực hiện, chứ không nhận nguồn tài trợ nào. Tồn tại trong vòng 10 năm trời, giải thưởng này Soạn giả Điêu Huyền và các nghệ sĩ Diệp Lang, Thanh Sang, Lệ Thủy, Bạch Tuyết từng đoạt giải Thanh Tâm đã có tác động nhất định đến sinh hoạt sân khấu miền Nam và ta thấy, những nghệ sĩ được tuyển chọn từ giải này đều là những tài năng thật sự và đã khẳng định qua thời gian. Sau năm 1967, giải Thanh Tâm tạm ngưng vì tình hình chiến cuộc ngày càng khốc liệt... Có thể nói, thiện chí của Trần Tấn Quốc đã được nung nấu trong tâm trí từ những năm 1950. Bấy giờ, ông đã ý thức: “Ngược thời gian, chúng ta thấy cũng tội cho nghệ sĩ cải lương xứ mình. Vì cái thành kiến “xướng ca vô loài” mà người ta như cố tình lựa chọn những danh từ không đẹp để gán cho giới sân khấu. Như nam nghệ sĩ thì gọi “thằng kép”, nữ nghệ sĩ thì “con đào”. Và thằng kép, con đào có danh từ chung là “con hát’. Soạn giả được gọi là thầy tuồng, nhạc sĩ thì không gọi bằng thầy mà cũng không kêu bằng thằng, họ gọi chung là “thằng cha thầy đờn”, anh em dàn cảnh thì gọi là “tụi dọn lớp” hay bọn “kéo đề-co” v.v... Còn gọi chung nhân viên của một đoàn hát thì có một danh từ khác “bạn hát” hay “tụi cải lương”; chữ “bạn” trong danh từ “bạn hát” có nghĩa là “bầy” chớ không phải là thân hữu. Vì cảm thấy bị xã hội bỏ rơi, thêm đời bạc đãi, đa số người theo nghề hát như muốn bỏ phí cuộc đời mình, tạo ra một nếp sống riêng biệt từ vật chất đến yêu đương, bất chấp dư luận, vả lại dư luận có để ý đến đâu mà cần! Họ không còn nhận thấy trách nhiệm hay nghĩa vụ nào khác hơn là “làm trò tiêu khiển cho thiên hạ”. 78 TẬP 2: NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TIÊN PHONG Cũng vì xã hội không ngó đến, nên trước kia trong làng ca kịch nảy sinh lắm tệ nạn: Bầu thì mặc tình thao túng, xem anh chị em nghệ sĩ là những người làm mướn cho mình, không hơn không kém. Bóc lột thẳng tay bằng nhiều thủ đoạn, nhứt là kể từ ngày chế độ trả lương tháng được thay thế bằng cách phát lương theo mỗi suất hát, tức “lương đêm” cho nghệ sĩ và nhơn viên trong đoàn, thì nghệ sĩ không bao giờ lãnh đủ số lương trong mỗi tháng! Có nhiều ông bầu còn đối xử hà khắc như đánh chửi đào kép, sa thải ngang ngược mà không hề bị thưa gởi hay bị phản đối. Có một ông bầu khi xưa luôn luôn cầm chiếc roi gân bò để đánh đào kép của mình. Gây lộn trong gánh là bị đánh đòn, hát mà không thuộc tuồng cũng bị đòn ngay khi vừa bước vô hậu trường. Vì nợ nần hoặc vì một lý do nào đó mà phải trốn gánh hát - là cô đào hay anh kép ấy thấy gông cùm và tù tội trước mắt. Sống vào thời buổi “kim ngân phá luật lệ”, ông bầu tung vãi tiền ra là nắm gọn luật pháp trong tay để đối xử với đào kép của mình”. Viết được những dòng như là người trong cuộc, ta thấy Trần Tấn Quốc đã thấu hiểu, thông cảm và chia sẻ với bao đoạn trường của đời người nghệ sĩ. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà khi làm báo, ông đã mở trang “kịch trường” như trên báo Tiếng dội để kịp thời bệnh vực, biểu dương lẫn phê phán những điều được và chưa được Các nữ nghệ sĩ Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lan Chi, Bích Sơn từng đoạt giải Thanh Tâm 79