🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồi Ức Của Một Thiên Tài Đầu Tư Chứng Khoán Ebooks Nhóm Zalo LỜI NÓI ĐẦU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Vào cuối những năm 1970, khi tôi đang tìm kiếm một công việc trong ngành báo chí, tờ Thời báo phố Wall đã thuê tôi phụ trách mảng thị trường kim loại đồng. Công việc của tôi là theo dõi những nhà giao dịch các hợp đồng mua bán đồng trên thị trường và sau đó viết báo cáo về những dao động hàng ngày. Đó là thời kỳ tỉ lệ lạm phát đang ở mức cao và giá đồng cũng nằm trong xu hướng đó. Dưới con mắt quan sát cẩn thận của một người chưa hề được đào tạo như tôi, tôi nhận thấy rằng giá đã tăng từ 80 xu lên 90 xu và cuối cùng là một đô-la một cân (1 cân Anh = 454g). Sau khi phát hiện ra những nguồn tin mới ngay lập tức tôi làm báo cáo rằng giá đồng tăng lên là do “có nhiều người mua hơn người bán.” “Người mua nhiều hơn người bán!” vị sếp của tôi cười lớn. Ông luôn là một người hài hước và sắc sảo; Ông luôn nhìn thấy sự hài hước trong mọi việc, đặc biệt là đối với người phóng viên mới này. “Công việc của anh là cho chúng tôi biết tại sao lại có nhiều người bán hơn người mua.” Đây dường như một lời khuyên thẳng thắn đã đưa tôi vào mê cung của những nhà giao dịch, trong đó mọi thứ đều hầu như chỉ dựa vào sự phỏng đoán nếu không muốn nói là do tưởng tượng. Một ngày kia, tôi được người ta nói cho biết rằng sự tăng giá (hay giảm giá) do những “nhà đầu tư” khởi xướng có thể suy đoán được xu hướng của tương lai. Một ngày khác, sự thay đổi giá cả lại được gán cho những “nhà đầu cơ”. Đặc biệt hơn nữa, giá cả có thể biến động do những “nguyên nhân kỹ thuật”. Trong những trường hợp đó, người ta nói rằng cho dù nguyên nhân nào thì nó cũng không mấy quan trọng. Tuy nhiên, giá vẫn tăng lên? Giá đồng vượt quá mức 1,5 đô-la và trong suốt quá trình tăng giá, nó không chịu ảnh hưởng gì từ những nguyên nhân như trên đây. Tôi biết rằng trong những phân tích của mình có cái gì đó không ổn, nhưng tôi không biết đó là yếu tố nào. Vấn đề ở đây là do thiếu sự chuẩn bị chu đáo. Tôi chưa được đọc cuốn Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán của Ledwin Lefèvre, do đó tôi không biết cách viết như thế nào về các thị trường hàng hoá, thị trường chứng khoán hay bất cứ thị trường nào khác. Nếu tôi được đọc cuốn sách này, tôi đã có thể hiểu được rằng bảng tin có sức mạnh thuyết phục hơn bất kì lý lẽ hay những lời hứa hẹn, tuyên thệ nào. Bạn không thể tranh luận với bảng tin, bạn không phải giải thích về nó hay tìm cách phá hoại nó. Và tôi đã có thể đọc được đoạn văn như sau: Tất nhiên những sự dao động giá cả luôn có lý do của nó, nhưng bảng tin bản thân nó không quan tâm tới những lý do của sự dao động đó. Nó không đưa ra những lời giải thích. Tôi không bao giờ đặt ra câu hỏi với bảng tin khi tôi 14 tuổi và bây giờ khi tôi đã 40 tuổi, tôi cũng không bao giờ làm như vậy. Điều đó thì có ý nghĩa gì chứ? Tác giả của những dòng viết này, con trai của một sĩ quan quân đội, được đào tạo để trở thành một kỹ sư mỏ nhưng theo tiếng gọi của lòng đam mê, vào những năm 1890, ông đã chuyển sang viết về những thương vụ diễn ra tại phố Wall. Mặc dù thời đó cũng như bây giờ, công chúng luôn mong muốn khám phá những ẩn khuất diễn ra trong thị trường chứng khoán, nhưng vào giai đoạn đó thông tin còn rất hạn chế. Lefèvre là một nhà văn kiêm nhà báo, luôn có sở trường trong trong việc nắm bắt những âm thanh hình ảnh diễn ra ngay tại thị trường phố Wall. Năm 1922, ông tạo nên một cơn chấn động với câu chuyện được đăng nhiều kỳ về một nhà đầu cơ chứng khoán nổi tiếng – hay cũng có thể nói là đáng hổ thẹn - người đã tiết lộ những bí mật của công việc giao dịch cho độc giả của tờ báo The Saturday Evening Post. Câu chuyện của ông ta đã được tái bản thành sách sau đó một năm. Mặc dù Lefèvre viết cuốn sách này dưới ngôi thứ nhất, nhưng cuốn hồi ký được dựa trên một số cuộc phỏng vấn với nhà giao dịch mà ông gọi là Larry Livingston. Livingston không thực sự tồn tại; đó chỉ là một tên gọi khác của Jesse Livermore, một trong những nhà đầu cơ chứng khoán vĩ đại nhất mọi thời đại. Livermore khởi đầu sự nghiệp vào cuối thế kỷ trước với một công việc có đồng lương còm cõi tại một công ty mua bán cổ phiếu chui, do những người chủ không thể tạo một tài khoản tại các công ty môi giới tham gia vào những thương vụ quy mô nhỏ. Công ty này đã đuổi việc ông do một “sai phạm” là thường xuyên giành chiến thắng. Đến cuối Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Livermore kiếm được và cũng đã mất hàng triệu đô-la, đồng thời bị cáo buộc là thủ phạm của tất cả các vụ khủng hoảng trên thị trường chứng khoán hay thị trường hàng hoá, mặc dù không phải không có lý do. Mặc dù ông đóng vai trò hàng đầu trong vụ sụp đổ thị trường năm 1929, trước khi sự nghiệp của ông kết thúc quá sớm trong bi kịch, song cuốn hồi ký chỉ tiểu thuyết hoá những ký ức về thời kỳ đầu và cũng là những năm tháng thành công của Livermore. Bạn không nên đặt câu hỏi phần nào là thực, phần nào là hư cấu; Livermore chính là một trong những nhân vật độc đáo của nước Mỹ mà mỗi sự hư cấu (đặc biệt là dưới ngòi bút tài năng của Lefèvre) chỉ tăng thêm vẻ thật trong mỗi câu chuyện của ông. Và như vậy chúng ta sẽ được theo dõi một lời tự thú về công việc của những nhà giao dịch trong giai đoạn trước khi Luật Chứng khoán Liên bang ra đời; về những ngươi cung cấp tin nội bộ; về công việc vận động làm giá, những cố gắng không mệt mỏi của những vị giám đốc tìm cách thao túng cổ phiếu của chính họ và luôn được biết những thông tin quan trọng trước công chúng. Giờ đây, gọi cuốn hồi ký này là chân dung của “một giai đoạn của thị trường chứng khoán đã không còn tồn tại nữa.” Điều này vừa đúng lại vừa không đúng. Bản chất của con người không thay đổi nhiều từ thời Lefèvre và cả những nguyên tắc đạo đức của những người bị thu hút tới phố Wall nhằm tìm kiếm một nguồn lợi nhuận dễ dàng cũng vậy. Khi Lefèvre trong nhân vật Livingston quan sát rằng “trong những đợt bùng nổ thị trường nhiều công ty được thành lập vì lý do chủ yếu, nếu không muốn nói là chỉ với một mục đích duy nhất, đó là nhằm kiếm lợi từ nhu cầu cổ phiếu của công chúng”, chúng ta sẽ nghĩ tới không ít những kẻ vụ lợi trong thời đại hiện nay (ví dụ như những người khởi xướng các công ty dot.com). Tuy nhiên, những ngôn ngữ nhân vật của ông sử dụng thực sự thuộc về những năm 20 ồn ã của thế kỷ trước. Livingston tại thành phố Atlantic, khi nghỉ ngơi và tách khỏi thị trường chứng khoán, hoàn toàn có thể trở thành một tay ham mê đua ngựa tại trường đua Damon Runyon. Một buổi sáng sau khi ăn sáng và đọc xong các tờ báo của New York, và sau khi đã chán ngồi xem đám chim mòng biển nhặt những chú sò, ngậm chặt chúng bay lên cao hai mươi foot và ném xuống nền cát để kiếm một bữa sáng, chúng tôi bắt đầu đi dạo lên phố Broadwalk… Anh em nhà Harding có một chi nhánh tại Broadwalk và chúng tôi thường ghé qua đó mỗi buổi sáng xem họ mở cửa. Đó chỉ là một thói quen mà thôi… Điều này cho thấy Livingston luôn có niềm đam mê đối với công việc giao dịch và chỉ cần thị trường có một động thái khác thường nào đó. Tôi đang theo dõi bảng báo giá các loại cổ phiếu, chú ý tới những mã có thay đổi. Phần lớn giá đều tăng lên. Bỗng nhiên tôi chú ý tới Union Pacific. Tôi có cảm giác rằng mình cần bán ra số cổ phiếu này. Tôi không thể nói gì hơn. Tôi chỉ cảm thấy cần phải bán ra. Mọi việc đều có lí do của nó. Nhưng ít nhất chúng ta có thể đề cập tới ở đây hai lý do. Thứ nhất đó là tính cá nhân. Kể từ sau khi chia tay với công việc theo dõi thị trường kim loại đồng, trong phần lớn sự nghiệp của mình tôi đã theo đuôi những nhà buôn tài chính, những người chúng ta có thể nói không hề thánh thiện gì thậm chí đôi lúc rất gian xảo. Phần lớn họ đều giấu mình sau những kẻ phát ngôn đã được thuê từ trước (và sau đó là sau lưng các luật sư của họ). Họ thường chỉ đưa ra một nhận xét được xử lý rất khéo léo hay đôi khi chẳng có nhận xét nào cả. Livingston mặc dù được thừa nhận chỉ là một hình tượng văn học nhưng qua đó tác giả đã nói thẳng thắn với chúng ta. Ông đã chỉ mặt đặt tên những nhân vật rất cụ thể. Chẳng phải đã có một vị chủ tịch của Borneo Tin Company, một ông Wisenstein nào đó đã nói với vợ của Livingston trong một bữa tiệc tại Palm Beach rằng bà ta có thể kiếm được một khoản kha khá nếu mua cổ phiếu của ông ta? Cuốn hồi ký của Livingston đã phơi bày tất cả những cám dỗ của tình trạng tham nhũng lan tràn tại phố Wall trong những ngày chưa được quản lý chặt chẽ, nhiều hơn bất kì nguồn thông tin nào khác, chứ không nói đến bất kì ấn phẩm nào nào khác. Phản ứng của Livingston đối với lời “tiết lộ” này, chúng ta sẽ không nhắc tới ở đây, nhưng cần nhận thấy rằng Livingston đã chuẩn bị trước cho chúng ta về nhân vật của bối cảnh đó. Một ông Weisenstein nào đó cũng chính là giám đốc một tổ hợp đầu cơ. Điều đó có nghĩa là một vị chủ tịch tập đoàn cũng đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động trên thị trường chứng khoán (việc này hiện nay được coi là phi pháp) đang tìm cách thao túng làm giá cho chính cổ phiếu của công ty đó! Khi công chúng bắt đầu chỉ trích về những quy định đang tồn tại khi đó thì chúng ta cần đặt ra câu hỏi rằng những “ngày xưa tươi đẹp” đó có thật sự tươi đẹp không? Livingston cũng không hề phải hổ thẹn khi nhớ lại những chiến dịch vận động làm giá của chính mình. Tôi chưa từng nghĩ rằng người ta có thể, thông qua việc mua vào một cách đúng lúc và có tính toán cẩn thận, mang về những khoản lợi nhuận khổng lồ do đẩy giá của một cổ phiếu nào đó lên trong khi phân phối lại số cổ phiếu đó. Livingston coi trò lừa đảo tại hãng Imperial Steel là một “nghệ thuật vận động làm giá tuyệt vời” khi ông ta tự cho phép được tán dương công việc của chính mình. Có thể ông ta đã có chút gì đó muốn tự bảo vệ cho bản thân mình khi cho rằng việc vận động làm giá không có gì là xấu và cho rằng không có gì lừa lọc hay lén lút trong đó. Đó là một cuộc chơi đòi hỏi sự dũng cảm, tuy nhiên trong những phương pháp do ông đề nghị nhằm làm trong sạch thị trường chứng khoán, nhiều ý trong đó cũng tương đồng với luật chứng khoán được ban hành ngay sau đó, đã đi ngược lại điều này. Nhưng suy cho cùng, chúng ta cũng được nghe chính một nhà đầu cơ chứng khoán chuyên nghiệp thổ lộ những mưu đồ của chính mình. Một lý do khác mà bạn nên đọc tác phẩm của Lefèvre đó là kèm trong những giai thoại của mình, ông đã đưa ra những lời khuyên rất quý báu mà bất cứ nhà giao dịch nào cũng có thể tìm thấy điều gì đó có ích. Bản thân tôi không phải là một nhà giao dịch, nhưng tôi thừa nhận rằng nếu chỉ theo dõi những điều diễn ra trên bảng thông báo thì nó chỉ dẫn tới một con đường tất yếu, đó là mua đắt bán rẻ. Tất nhiên, Livingston cũng nhận ra mối nguy hiểm này, và bạn có thể tìm thấy câu trả lời của ông tại đây. Ông cũng nhận thấy rằng những điều ông làm hoàn toàn khác với việc đầu tư thuần tuý. Các nhà đầu cơ mua vào theo xu thế còn những nhà đầu tư luôn có những tính toán dài hạn, họ có những mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Một lý do khiến ngày nay người ta vẫn tự làm mất tiền của mình, đó là họ đã không thể phân biệt được sự khác nhau này. Họ luôn đinh ninh trong đầu rằng mình đầu tư dài hạn nhưng sau đó họ không thể từ chối nhưng cám dỗ của việc kiếm được một khoản lợi nhuận nhanh chóng. Livingston không có những ảo tưởng như vậy, ông vẫn luôn là một nhà đầu cơ từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, một điều đáng ngạc nhiên là những phẩm chất đã giúp ông thành công cũng chính là những phẩm chất của một nhà giao dịch chứng khoán vĩ đại. Đó chính là tính kiên nhẫn, tính kỷ luật và một trí óc suy xét độc lập. Một người có thể nổi giận với bảng tin, nhưng ngược lại bảng tin không hề quan tâm tới những điều như vậy. Livingston cho rằng tốt hơn hết nên học từ những sai lầm thay vì cố gắng ngăn bản thân không mắc phải sai lầm. Đặc điểm nổi bật nhất ở ông đó là sự tự ý thức được về bản thân. Trong cờ bạc cũng như trong thể thao, kẻ thù nguy hiểm nhất chính là con quỷ trong bản thân mỗi người. Bạn có thể cho rằng một nhà đầu cơ luôn thèm thuồng những nguồn tin nội bộ - Livingston gọi đó là “món cocktail hy vọng” – nhưng ông ta lại khuyên chúng ta (và chính bản thân ông) nên kiềm chế bản thân trước sự cám dỗ đó. Điều này thể hiện sự đánh giá của ông đối với triết lý chung của thị trường. Nếu một người thích một cổ phiếu nào đó, thì nó phải thể hiện ưu thế rõ ràng trên bảng tin, nếu không nguồn tin nội bộ đó chỉ là một nguồn sai lệch. Công chúng luôn mong chờ những nguồn tin nội bộ, họ mong có một ý kiến tư vấn nào đó. Nhưng Livingston vẫn luôn tự tin mà nói rằng “tôi luôn làm việc độc lập.” Tất nhiên, điều đó đúng trong phần lớn thương vụ của ông. Một lần tại Saratoga Springs, một trong những khu nghỉ dưỡng nơi ông thường lui tới để làm ra vẻ đang đi nghỉ, Livingston đã bán một cổ phiếu mà ông đang tích luỹ (một lần nữa đó là Union Pacific) dựa trên nguồn tin nội bộ của một nhà môi giới. Nguồn tin này sau đó hoá ra là sai lầm. Đó là một sai lầm phải trả giá đắt - một bài học đáng giá cho ông ta cũng như cho chính chúng ta. Người thầy đáng thương của chúng ta cho thấy rằng ông ta có thể học được những bài học như vậy với cái giá rẻ hơn nhiều. “Nhưng thần định phận không phải lúc nào cũng cho bạn quyết định số “học phí” phải bỏ ra. Vị thần tự đưa ra những bài học và sau đó tự mình ghi hoá đơn.” Thật may mắn rằng vị thần định phận đã cho chúng ta một bài học với cái giá thấp hơn nhiều. Và đó chính là những gì các bạn có thể tìm thấy trong cuốn hồi ký này, một cuốn hồi ký trong đó với một phong cách kể chuyện lôi cuốn, Lefèvre đã cuốn hút rất nhiều người đam mê chứng khoán đến với những câu chuyện về một thị trường hết sức khô khan của những con số tăng giảm. Roger Lowenstein Phần. 1 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Tôi bắt đầu đi làm khi vừa học xong trung học trung học phổ thông. Tôi nhận công việc trông coi bảng yết giá tại một văn phòng môi giới chứng khoán. Tôi rất nhanh nhạy với những con số. Khi còn đi học, tôi đã học hết chương trình đại số ba năm chỉ trong có một năm. Công việc trông coi bảng yết giá của tôi là dán những con số lên một cái bảng lớn đặt trong phòng khách hàng. Một trong số những khách hàng sẽ ngồi ở vị trí trung tâm gần bảng tin và đọc to các mức giá, không có gì là quá nhanh với tôi. Tôi luôn nhớ trong đầu những con số. Chẳng có gì khó khăn. Còn có nhiều nhân viên khác trong văn phòng này. Tất nhiên là tôi có chơi với những cậu bạn khác cùng làm công việc mà tôi đang làm ở đó. Vào những hôm thị trường nhộn nhịp có thể khiến tôi phải bận rộn suốt từ mười giờ sáng tới ba giờ chiều, và chẳng còn thời gian mà chuyện gẫu. Dù văn phòng có náo nhiệt đến đâu, tôi cũng không khỏi nghĩ đến công việc mình làm. Với tôi, những con số trên bảng yết giá không nói lên được giá cổ phiếu là bao nhiêu đô-la. Đó chỉ đơn thuần là những con số. Tất nhiên chúng cũng có ý nghĩa nào đó. Những con số luôn thay đổi. Đó là tất cả những gì mà tôi quan tâm - những thay đổi. Tại sao chúng lại thay đổi? Tôi không biết cũng chẳng quan tâm làm gì. Tôi không nghĩ đến điều đó. Chỉ đơn giản là tôi thấy chúng thay đổi, vậy thôi. Cái ý nghĩ rằng những con số đó luôn thay đổi cứ ám ảnh tôi suốt 5 tiếng đồng hồ trong những ngày làm việc bình thường và 2 tiếng đồng hồ ngày thứ Bảy. Chính ý nghĩ ấy khiến tôi bắt đầu thấy thích thú những biến động về giá cả. Phải nói là tôi có khả năng nhớ số rất tốt. Tôi có thể nhớ đến từng chi tiết các mức giá cổ phiếu trong ngày hôm trước, ngay cả trước khi chúng lên hay xuống. Niềm say mê cách tính nhẩm của tôi lúc này đã tỏ ra hữu ích. Tôi để ý và nhận ra rằng dù lên hay xuống, giá cổ phiếu cũng có xu hướng tuân theo những quy luật nhất định. Những trường hợp như vậy thường diễn ra tạo đường hướng cho tôi. Khi đó tôi mới có 14 tuổi nhưng sau hàng trăm lần quan sát, tôi đã tự kiểm chứng độ chính xác của những quy luật đó bằng cách so sánh giá cổ phiếu của ngày hôm nay với những hôm khác. Việc đó xảy ra không lâu trước khi tôi dự đoán được những động thái về giá cổ phiếu. Như tôi nói, chỉ dẫn duy nhất của tôi chính là những biến động của giá trong những ngày đã qua. Tôi lập ra những “trang thông tin chi tiết” trong đầu. Tôi tìm kiếm thu thập thông tin về những cổ phiếu để đưa vào trang thông tin. Tôi đã ghi chép lại. Anh hiểu ý tôi chứ? Ví dụ như anh có thể chỉ ra tại điểm nào thì mua sẽ tốt hơn chút ít so với bán. Có một trận chiến diễn ra trên thị trường chứng khoán và bảng niêm yết giá chính là kính viễn vọng của anh. Anh có thể dựa vào nó bảy trong số mười trường hợp. Một bài học nữa mà tôi sớm nhận ra là trên phố Wall không có gì là mới cả. Nguyên nhân không phải là vì hình thức đầu cơ ở đó đã xưa như trái đất. Bất kể cái gì diễn ra trên phố Wall ngày hôm nay cũng đã diễn ra trong ngày hôm qua và sẽ xảy ra trong những ngày tiếp theo. Lúc nào tôi cũng nhớ như in điều đó. Tôi cho là mình đã rất cố gắng để nhớ được khi nào điều đó diễn ra và diễn ra theo cách nào. Đấy chính là cách tôi thu thập vốn kinh nghiệm của mình. Tôi quá say mê và hào hứng với việc đoán trước biến động lên xuống của giá những cổ phiếu giao dịch nên đã mua một cuốn sổ nhỏ. Tôi ghi những quan sát của mình vào đó. Đó không phải là những ghi chép các phiên giao dịch tưởng tượng mà nhiều người vẫn bám theo đơn thuần chỉ để kiếm lời hay thua lỗ hàng triệu đô-la mà vẫn không tỏ ra kiêu ngạo hay không phải vào trại tế bần. Nó là ghi chép về những lần tôi tính toán sai bên cạnh đó là những dự đoán của tôi về những động thái giá cổ phiếu. Tôi thích nhất khi kiểm tra xem liệu những gì tôi quan sát được có đúng hay không, nói cách khác là xem xem tôi dự đoán có đúng không. Sau khi tìm hiểu giá lên xuống trong một ngày của cổ phiếu đang giao dịch, tôi có thể đi đến kết luận rằng cổ phiếu biến động cũng y như cũ, như khi nó 8 hay 10 điểm. Tôi viết nhanh tên và giá cổ phiếu trong ngày thứ Hai, nhớ lại biến động giá những ngày trước rồi viết lại dự đoán của mình về những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong ngày thứ Ba và thứ Tư. Sau đó, tôi sẽ kiểm tra độ chính xác của những dự đoán mà mình đưa ra bằng cách so với ghi chép thực của bảng yết giá. Tôi bắt đầu thích thông điệp mà bảng tin đem lại như vậy đấy. Tôi cho là những biến động giá cổ phiếu có mối liên hệ trước hết là với những động thái lên và xuống. Tất nhiên là biến động giá cả luôn có nguyên nhân của nó, nhưng bản thân bảng tin không bao giờ đề cập đến nguyên do tại sao lại có những biến động như vậy. Nó không giải thích lý do. Tôi không bao giờ đặt ra câu hỏi với bảng tin khi tôi 14 tuổi và bây giờ khi tôi đã 40 tuổi, tôi cũng không bao giờ làm như vậy. Hôm nay, giá cổ phiếu có thể biến động là do nguyên nhân này nhưng hai ngày, ba ngày, hàng tuần hoặc hàng tháng sau lại do nguyên nhân khác. Nhưng như vậy có sao đâu. Anh ghi chép những gì diễn ra ở hiện tại chứ không phải trong tương lai. Có thể gác lý do sang một bên. Nhưng anh phải hành động thật nhanh nếu không anh sẽ không theo kịp. Đã có lần tôi gặp chuyện này rồi. Chắc anh nhớ có lần cổ phiếu Hollow Tube giảm ba điểm. Sau đó, trong một ngày khác, giá các loại còn lại trên thị trường tăng mạnh. Đó là thực tế. Vào thứ Hai tuần sau, anh thấy đấy, các vị giám đốc đã bỏ qua số cổ tức có thể thu về từ vụ này. Họ biết nên làm gì, họ sẽ không tự tay bán ra thậm chí cũng chẳng mua vào cổ phiếu loại này. Không có vụ mua nội bộ nào diễn ra và cũng không có lý do tại sao nó lại không xuống giá. Tôi giữ cuốn sổ tay ghi chép của mình trong khoảng sáu tháng. Trong suốt thời gian đi làm, thay vì tranh thủ về nhà, tôi say mê ghi ghi chép chép những con số tôi cần dùng và theo dõi xem chúng biến đổi thế nào fa bao giờ tôi cũng tìm xem có biến đổi nào lặp lại hay tương tự nhau không. Đó là cách tôi đọc thông điệp của bảng tin mặc dù thật ra mà nói thì cho đến lúc đó tôi chưa nhận biết hết giá trị thực của nó. Một hôm, khi tôi đang ăn trưa, một cậu bạn làm cùng văn phòng, lớn tuổi hơn tôi, lại gần và hỏi nhỏ xem tôi có tiền không. Tôi hỏi: “Cậu biết làm gì?” “Ồ, vừa có người khuyên tớ hay lắm, về cổ phiếu Burlington. Tớ định chơi nếu có ai chơi cùng.” “Chơi á? Cậu định chơi thế nào” Tôi hỏi. Với tôi, chỉ có khách hàng mới là những người có thể chơi cổ phiếu - những kẻ “hốt bạc” với bao nhiêu là tiền. Phải tốn đến hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn đô-la mà sao cậu lại định chơi cơ chứ? Chẳng khác nào cậu sở hữu một cỗ xe ngựa và ông kéo xe đội mũ bạc trên đầu đâu.” “Đúng đấy, chơi đi. Cậu có bao nhiêu?” - cậu ta nói. “Cậu cần bao nhiêu?” “À tớ sẽ mua 5 cổ phiếu bằng cách đặt 5 đô-la” “Cậu sẽ chơi thế nào?” “Tớ sẽ mua tất cả cổ phiếu Burlington mà văn phòng cho phép với số tiền hoa hồng tớ đã nộp cho họ. Nó sẽ lên giá, chắc đấy. Cứ như nhặt nhặt được tiền vậy. Tớ sẽ tăng gấp đôi chỗ tiền của chúng mình chỉ trong chốc lát.” “Khoan đã”, tôi nói với cậu ta rồi lôi cuốn sổ nhỏ của mình ra xem. Tôi không quan tâm lắm đến chuyện khoản tiền của mình có tăng gấp đôi hay không nhưng rõ ràng cậu này khẳng định rằng cổ phiếu Burlington sẽ tăng. Nếu như thế, cuốn sổ tay của tôi cũng sẽ thể hiện điều đó. Tôi xem. Đúng rồi! Theo những tính toán của tôi thì cổ phiếu Burlington đang biến động giống hệt như trước khi nó tăng giá. Tôi chưa từng mua hay bán cái gì trong đời mình, tôi cũng chưa cá cược với những cậu bạn khác bao giờ. Nhưng đây sẽ là một cơ hội ngàn vàng để tôi kiểm chứng lại xem những gì mình đã làm bấy lâu nay như một sở thích cá nhân liệu có chính xác hay không, và đấy mới là mục tiêu cuối cùng của tôi trong thương vụ này. Một ý nghĩ chợt loé lên trong đầu tôi: nếu những ghi chép của tôi không có tác dụng gì thì người ta sẽ không bao giờ chú ý đến mớ lý thuyết tôi viết trong đó. Vì thế tôi đưa cho cậu ta tất cả số tiền mình có và rồi với tất cả chỗ tiền dành dụm được của tôi, cậu ta đến một trong những công ty chứng khoán chui gần đó để mua cổ phiếu Burlington. Hai ngày sau, tôi nhận được một khoản lãi là 3,12 đô-la. Sau vụ làm ăn đầu tiên đó, tôi bắt đầu đầu cơ cho tài khoản của riêng mình tại những công ty chui. Tôi thường ra ngoài vào giờ ăn trưa để mua bán cổ phiếu. Từ trước đến nay, với tôi mua hay bán cũng không có gì khác. Tôi chơi tất cả các loại, không nhất thiết phải là cổ phiếu nóng hay cổ phiếu người ta đưa ra để cá cược. Tất cả những gì tôi biết đó là những phép tính về cổ phiếu đó. Thực tế cho thấy cách làm của tôi là lý tưởng nhất để kinh doanh cổ phiếu trong những công ty chui như vậy. Tại thời điểm đó, tất cả những việc mà khách hàng trong những công ty này làm là cá cược về những biến động giá cổ phiếu ghi trên bảng tin. Chẳng bao lâu, số tiền tôi kiếm được từ những công ty chứng khoán chui còn lớn hơn rất nhiều so với ở văn phòng môi giới. Vì thế tôi xin nghỉ làm ở văn phòng môi giới. Bạn bè tôi phản đối nhưng họ không thể nói được gì khi chứng kiến những gì tôi đang gây dựng nên. Tôi mới chỉ là một cậu bé và đồng lương văn phòng môi giới trả cho tôi rất ít ỏi. Tôi đã làm rất tốt bằng sức lực của chính mình. Khi 15 tuổi, tôi mang theo một nghìn đô-la đầu tiên về nhà và đặt trước mặt mẹ tôi – đó là tất cả số tiền tôi kiếm được từ công ty chui cạnh số tiền tôi đã xin nhà. Mẹ tôi kêu ca phàn nàn ầm ĩ. Mẹ tôi muốn tôi gửi tiết kiệm trong ngân hàng để khỏi tiêu xài phung phí. Bà nói chưa bao giờ nghe chuyện một cậu bé mười lăm tuổi bắt đầu với bàn tay trắng mà lại kiếm được từng ấy tiền. Hình như mẹ tôi không dám tin đó là tiền thật. Bà hay lo lắng và tỏ ra không hài lòng với số tiền lớn như vậy. Nhưng tôi chẳng nghĩ đến điều gì khác ngoài chuyện tiếp tục chứng minh những tính toán của tôi là đúng. Quả là thú vị nếu tôi có thể tự mình chứng minh mình đúng. Khi mua mười cổ phiếu mà tôi tính chính xác thì khi mua một trăm cổ phiếu, độ chính xác đó phải tăng lên mười lần. Tất cả những lợi ích mà tôi quan tâm là càng ngày tôi càng chứng minh được những tính toán của tôi là chính xác, thậm chí là rất chính xác. Tôi có dũng cảm hơn không ư? Không! Không có gì khác cả. Nếu tôi mạo hiểm đầu tư toàn bộ số tiền có trong tay là 10 đô-la chẳng hạn thì tôi còn dũng cảm hơn rất nhiều so với đầu tư 100 đô-la trong khi có 100 đô-la khác gửi tiết kiệm. Dù sao thì tôi đã có thể tự kiếm sống mà không cần dựa vào văn phòng môi giới khi mới chỉ có 15 tuổi. Tôi khởi nghiệp từ những công ty chứng khoán chui, nơi nếu có ai mua hay bán hai mươi cổ phiếu kẹp trong một cái kẹp bằng kim loại sẽ bị nghi ngờ là John W.Gates hay J.P. Morgan cải trang. Các công ty chứng khoán chui thời bấy giờ hiếm khi quan tâm lợi ích của khách hàng. Thực ra họ không cần phải làm như vậy. Có nhiều cách khác để những công ty này lấy tiền từ khách hàng ngay cả khi họ dự đoán đúng. Đó là ngành kinh doanh kiếm lời lớn. Kể từ khi những công ty kiểu chui đi vào hoạt động cho đến nay, ngành kinh doanh này vẫn được tiến hành hợp pháp và những động thái giá lên xuống là rất nhỏ. Để thu được khoản tiền hoa hồng của điểm là chuyện không khó. Và ai trốn nợ sẽ không được phép quay lại chơi nữa. Ở ngành khác cũng vậy. Tôi không có một ai theo sau ủng hộ. Tôi kinh doanh cho riêng tôi. Nói gì thì nói, đó cũng là công việc của một mình tôi. Đó là công sức của tôi, đúng không? Tôi đã tự mình tính toán mà không có ai giúp đỡ, giá cổ phiếu có khi biến đổi theo đúng những tính toán ấy cũng có khi không, nhưng bạn bè không một ai có thể giúp tôi. Tôi không biết nên chia sẻ với người khác về công việc của mình như thế nào. Tất nhiên là tôi cũng có bạn nhưng công việc tôi làm vốn dĩ vẫn là việc chỉ dành cho một người. Đó là lý do tại sao tôi luôn luôn đơn thương độc mã. Chẳng bao lâu tôi đành phải tạm dừng những thương vụ tại các công ty chứng khoán chui. Tôi phải xem xét và hạ giá biên nhưng những công ty này không hề thay đổi. Họ nói với tôi rằng chẳng có gì phải làm cả. Thời gian đó họ gọi tôi là “tay đầu cơ trẻ tuổi”. Tôi phải liên tục thay các nhà môi giới từ công ty này sang công ty khác. Tôi làm như vậy cốt là để tạo ra danh tiếng giả. Tôi bắt đầu với rất ít cổ phiếu, chỉ chừng hai mươi đến ba mươi cổ phiếu. Nhiều lần họ bắt đầu sinh nghi nên tôi đành phải từ bỏ mục đích ban đầu của mình rồi sau đó mới lại tiếp tục hoạt động. Tất nhiên chẳng bao lâu sau, người ta cho rằng mức giá tôi đưa ra là quá cao và họ yêu cầu tôi đi nơi khác và không can thiệp vào việc làm ăn của họ nữa. Ngay sau khi phải tạm dừng công việc kinh doanh mà tôi đã duy trì trong hàng tháng trời, tôi quyết định cắt giảm đầu tư cổ phiếu ở những công ty đó. Những công ty chui mà tôi tham gia có các chi nhánh trên khắp thành phố, trong các tiền sảnh khách sạn, và ở các thị trấn lân cận. Tôi đến một trong những chi nhánh ở các khách sạn và hỏi vị giám đốc một vài câu hỏi, cuối cùng tôi bắt đầu mở kinh doanh. Nhưng ngay sau khi tôi chơi chứng khoán theo cách đặc biệt của mình, vị giám đốc này nhận được tin nhắn từ văn phòng quản lý hỏi ai đang kinh doanh. Ông giám đốc khách sạn nói lại với tôi những gì họ hỏi. Tôi nói tôi tên là Edward Robinson đến từ Cambridge. Vị giám đốc gọi điện và báo tin vui cho quản lý của mình. Nhưng ở đầu dây bên kia, người ta lại muốn biết hình dáng tôi thế nào. Khi vị giám đốc nói lại với tôi, tôi bảo ông ta “hãy nói với người ta rằng tôi béo, thấp, tóc đen và râu ria rậm rạp”. Nhưng thay vì nói những gì tôi dặn, vị giám đốc tả đúng hình dáng tôi và nổi giận sau khi ông ta nghe điện thoại, ông ta gác máy và nói với tôi hãy từ bỏ vụ làm ăn này. “Họ đã nói với anh những gì?” – tôi lịch sự hỏi. “Họ nói rằng “Anh ngốc quá đấy, chẳng phải chúng tôi đã nói với ông là đừng mua bán gì với Larry Livingston hay sao? Vậy mà anh đã để anh ta hốt mất của chúng ta 700 đô-la.” Ông ta không nói gì thêm. Tôi cố gắng đến những chi nhánh ở các khách sạn khác, nhưng rồi tất thảy họ đều biết tôi là ai và tiền của tôi cũng chẳng còn ý nghĩa gì ở những nơi như thế nữa. Thậm chí lúc nào bước chân vào những công ty chui để xem các bảng yết giá, tôi cũng đều bắt gặp ánh mắt giễu cợt của mấy cô thư ký. Tôi cố gắng buộc họ phải để cho tôi tham gia giao dịch bằng cách luân phiên đến các công ty chui. Nhưng cách làm đó cũng không ổn. Cuối cùng chỉ còn lại một nơi mà tôi có thể giao dịch, đó cũng là công ty chui lớn nhất và giàu nhất – Công ty Môi giới Chứng khoán Cosmopolitan. Công ty Cosmopolitan được xếp hạng A1 và có quy mô lớn. Công ty có chi nhánh ở khắp các thị trấn ở vùng New England. Họ đồng ý nên tôi đã mua và bán, thắng và thua trong hàng tháng trời nhưng họ cũng dần quen với chuyện đó. Họ không phũ phàng từ chối tôi như ở một số nơi người ta đã làm. Họ cho tôi kinh doanh không phải vì từ chối tôi có nghĩa là họ không thẳng thắn mà vì họ biết rằng nếu từ chối tôi, họ sẽ mang tiếng xấu là không để cho tôi kinh doanh chỉ vì tôi không mang lại nhiều lợi nhuận cho họ. Nhưng họ chơi không đẹp khi buộc tôi phải nâng giá biên[1] 3 điểm và trả mức phí là điểm trong thời gian đầu, sau là một điểm và cuối cùng là một điểm rưỡi. Như thế rất bất lợi cho tôi. Bất lợi thế nào ư? Thật dễ hiểu. Giả sử anh mua cổ phiếu thép với giá bán ra là 90 đô-la. Như thường lệ, thẻ của anh là “thẻ mua 10 cổ phiếu thép Bot giá 90 .” Nếu anh nâng giá biên lên 1 điểm có nghĩa là giá giảm 89 thì anh sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Tại các công ty chứng khoán chui kia, anh không phải nâng giá biên hay buộc phải yêu cầu môi giới bán cổ phiếu ra để ít nhất thu về được một cái gì đó. Nhưng khi công ty thêm vào khoản phí tức là họ chơi xấu tôi. Tức là thế này, nếu anh mua cổ phiếu thép giá bán ra là 90 đô-la thì thay vì ghi thẻ “thép Bot 90 ” người ta sẽ thay thế bằng “Thép Bot 91 .” Tại sao sau khi tôi mua, giá cổ phiếu đó vẫn tăng 1 và nếu tôi có kết thúc giao dịch đi chăng nữa thì tôi vẫn thua lỗ. Nếu tôi nâng giá biên lên 3 điểm ngay từ đầu thì chắc là số lượng giao dịch của tôi sẽ giảm đi . Nhưng dù sao đó cũng là công ty duy nhất mà tôi được giao dịch và tôi vẫn phải chấp nhận mọi thứ, nếu không tôi sẽ phải từ bỏ vụ làm ăn. Tất nhiên, dù có lúc lên voi xuống chó nhưng nói chung tôi thắng cuộc nhiều hơn. Người của công ty Comospolitan gây khó dễ cho tôi bằng những việc mà họ cho là quá đủ đối với những người khác nhưng có vẻ họ vẫn chưa thỏa mãn. Họ muốn chơi hai mặt với tôi nhưng không thể làm gì tôi. Tôi vẫn thắng được nhờ có khả năng dự đoán. Như tôi đã nói, với tôi, công ty Comospolitan là nơi cứu cánh cuối cùng. Nó là công ty chứng khoán chui giàu có nhất ở New England, và đã thành lệ, họ không đặt ra giới hạn cho bất cứ giao dịch nào. Tôi cho rằng mình chính là một nhà đầu tư nặng ký nhất trong số những khách quen hàng ngày ở đó. Họ có văn phòng thật đẹp và có bảng yết giá to nhất, hoàn hảo nhất so với tất cả những cái bảng yết giá mà tôi đã từng nhìn thấy. Tôi đi dọc theo chiều dài căn phòng và quan sát thấy những thứ được niêm yết trên đó thật tuyệt vời. Tôi muốn nói đến những loại cổ phiếu được người ta mua bán trao đổi ở các sàn lớn như sàn giao dịch chứng khoán New York và sàn giao dịch chứng khoán Boston - bông, lúa mỳ, thực phẩm dự trữ, kim loại – tất cả những thứ người ta mua bán ở các thành phố lớn như New York. Chicago, Boston và Liverpool. Tôi biết ở các công ty chui, người ta buôn bán thế nào. Anh đưa cho thư ký tiền của anh rồi nói với thư ký anh muốn mua hay bán cái gì. Thư ký sẽ nhìn vào bảng tin hoặc bảng yết giá để đọc giá và tất nhiên là mức giá cuối cùng. Thư ký cũng sẽ ghi thời gian trên tấm thẻ như một báo cáo thường xuyên của người môi giới, theo đó anh biết họ đã bán hay mua cho anh bao nhiêu cổ phiếu trong số anh đã đưa ra tại mức giá ấy, ngay thời điểm trong ngày hôm ấy và họ nhận được bao nhiêu tiền từ anh. Khi anh muốn kết thúc giao dịch, anh thông báo với thư ký đó. Anh ta sẽ lấy mức giá cuối cùng hoặc nếu cổ phiếu đó vẫn chưa được giao dịch, anh ta sẽ đợi đến lần yết giá tiếp theo trên bảng tin. Anh ta viết giá và thời gian lên thẻ của anh, duyệt rồi đưa lại cho anh, sau đó anh đến thủ quỹ và nhận lại bằng tiền mặt quy đổi. Tất nhiên khi thị trường biến động không theo ý muốn, giá vượt quá giới hạn giá biên anh đặt ra, phiên giao dịch của anh sẽ tự nó kết thúc và tấm thẻ của anh sẽ chỉ còn là một mấu giấy loại. Ở những công ty chứng khoán chui có quy mô nhỏ hơn, người ta được phép mua hoặc bán 5 cổ phiếu, thẻ cũng nhỏ hơn có màu sắc khác nhau cho bên mua và bán – và tại thời điểm thị trường có giá nóng lên chẳng hạn, những công ty này sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn do người bán đầu cơ giá lên và họ đều dự đoán đúng. Sau đó, công ty sẽ chiết khấu tiền hoa hồng có được từ cả hai bên mua và bán và nếu anh mua cổ phiếu giá 20, thẻ của anh sẽ được đọc lên là 20 . Do đó anh chỉ có được điểm cho mình. Nhưng Comospolitan là công ty “hạng nhất” ở New England. Họ có đến hàng nghìn khách quen và thực sự tôi nghĩ là họ chỉ sợ có mình tôi. Kể cả việc đặt mức phí chết người hay mức giá biên ba điểm như họ yêu cầu tôi tăng đều không ảnh hưởng gì đến việc làm ăn của tôi. Tôi vẫn tiếp tục mua và bán nhiều cổ phiếu ở mức tối đa họ cho phép. Tôi giao dịch nhiều nhất là 5.000 cổ phiếu. Tôi sẽ kể cho anh nghe về lần tôi nắm giữ 3.500 cổ phiếu đường. Tôi có bảy tấm thẻ màu hồng cỡ lớn trị giá 500 cổ phiếu mỗi thẻ. Công ty Comospolitan sử dụng những tấm thẻ cỡ lớn với những khoảng trống dành để viết mức giá biên bổ sung. Tất nhiên là những công ty chui này không đòi hỏi tăng giá biên bao giờ. Với họ, mức biên càng nhỏ càng tốt đặc biệt là khi anh bị loại khỏi cuộc chơi, họ càng có lợi. Ở những công ty nhỏ hơn, nếu anh muốn nâng giá biên giao dịch của mình, họ sẽ ghi cho anh một tấm thẻ mới buộc anh phải nộp tiền môi giới bên mua và chỉ cho anh nắm điểm trong mỗi lần giá giảm một điểm, có như vậy họ mới có thể tính chính xác tiền môi giới bán như trong một phiên giao dịch mới. Bây giờ tôi vẫn nhớ mình đã kiếm được đến hơn mười nghìn đô-la nhờ các mức giá biên. Tôi chỉ mới hai mươi tuổi khi lần đầu tiên nắm trong tay 10 nghìn đô-la tiền mặt. Anh hẳn đã nghe kể về mẹ tôi rồi đấy. Anh biết không, 10 nghìn đô-la tiền mặt còn nhiều hơn số tiền mà John D. kiếm được và trước đây, ngoài anh ta ra không còn ai khác làm được như vậy. Mẹ tôi thường khuyên tôi nên thỏa mãn với số tiền lớn như vậy và chuyển sang ngành kinh doanh khác ổn định hơn. Tôi đã phải rất vất vả để thuyết phục bà rằng tôi không đánh bạc mà tôi kiếm tiền bằng những phép tính. Tất cả những gì mẹ tôi nhận thấy là 10 nghìn đô-la là khoản tiền quá lớn nhưng tất cả những gì mà tôi nghĩ đến là giá biên. Tôi đầu tư vào 3.500 cổ phiếu đường với mức giá 105 . Có một người nữa cùng phòng tôi, anh bạn Henry Williams muốn đầu tư 2.500 cổ phiếu. Tôi hay ngồi gần bảng tin và đọc giá cho cậu bé trông coi bảng yết giá. Giá cổ phiếu biến động y như tôi dự đoán. Giá giảm mạnh 2 điểm và dừng lại trong thời gian ngắn trước khi giảm tiếp. Nhìn chung thị trường khá “mềm” và dường như mọi thứ đều đầy hứa hẹn. Tôi không thích những biến động giá cổ phiếu đường vì nó tăng giảm không dứt khoát. Tôi bắt đầu thấy không ổn. Tôi nghĩ mình nên rút lui thì hơn. Sau đó, giá bán là 103 - mức thấp trong ngày hôm đó – thay vì cảm thấy tự tin hơn, tôi lại thấy rất hoang mang. Tôi biết có cái gì đó không ổn nhưng tôi không biết chính xác là ở đâu. Nhưng nếu có chuyện gì không ổn mà tôi không chỉ ra là ở đâu thì chắc tôi sẽ không thể tự bảo vệ được mình. Đó chính là trường hợp mà tốt hơn, tôi nên rút lui. Anh biết đấy, tôi làm việc gì cũng có tính toán chứ không nhắm mắt làm liều vì tôi không thích và cũng chưa bao giờ như vậy. Thậm chí tôi như một đứa trẻ, bao giờ cũng muốn biết mục đích của việc mình làm là gì. Nhưng lần này tôi không đưa ra được một lý do nào cho việc làm của tôi nên tôi thấy rất bất an, đến nỗi tôi thấy không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi gọi điện cho một anh bạn tên là Dave Wyman và nói với anh ấy: “Dave này, anh đến đây thay tôi nhé. Tôi muốn anh làm gì đó cho tôi. Trước khi đọc to giá cổ phiếu đường, anh nhớ đợi một lát nhé, được chứ?” Anh bạn nói với tôi anh sẽ làm như vậy và tôi đứng dậy, nhường chỗ cho anh ấy ở ngay gần bảng tin để anh ấy có thể đọc to giá cho cậu bé trông coi bảng yết giá. Tôi rút bảy cổ phiếu ra khỏi túi và đi quanh quầy thu ngân, nơi thư ký ngồi để đánh dấu thẻ khi kết thúc phiên giao dịch. Nhưng tôi thực sự không biết tại sao tôi cứ có ý nghĩ là mình phải ra khỏi sàn giao dịch nên tôi chỉ biết đứng đó, dựa vào quầy thu ngân, số thẻ vẫn trong tay tôi nên thư ký không thể nhìn thấy chúng. Chẳng bao lâu sau, tôi nghe thấy tiếng lách cách của máy điện báo và tôi thấy Tom Burnham, quay đầu và chú ý lắng nghe. Tôi thấy có cái gì đó như sắp vỡ tung ra và tôi quyết định không đợi thêm nữa. Ngay sau đó, anh thư ký Dave Wyman, bắt đầu nói “đườ…ng” rồi nhanh như chớp tôi đặt thẻ lên bàn quầy thu ngân ngay trước mặt anh thư ký và reo lên “chốt giá đường” trước khi Dave đọc to giá bán. Tất nhiên sau đó, cả văn phòng phải kết thúc chốt giá và giá cuối cùng khớp với cổ phiếu của tôi. Giá mà Dave đọc to hoá ra là 103. Theo những ghi nhận của tôi, đến thời điểm đó, giá cổ phiếu đường là 103. Nhưng cả hệ thống hoạt không như thông lệ của nó. Tôi có cảm giác như có cạm bẫy ở xung quanh. Sau tất cả mọi chuyện, tôi nhận ra hình như máy điện báo có vấn đề thì phải. Tôi để ý thấy thư ký Tom Burnham không đánh dấu lên những tấm thẻ của tôi mà vẫn đặt chúng ở chỗ tôi đặt ban đầu lúc tôi còn đang chú ý nghe tiếng lách cách của băng điện báo. Hình như anh ta đang đợi một cái gì đó. Thế nên tôi nói lớn: “Này Tom, anh đang đợi cái quái gì đấy? Đánh dấu giá lên những cái thẻ này đi chứ - 103! Nhanh đi nào!” Mọi người trong phòng nghe tiếng tôi và bắt đầu nhìn về phía chúng tôi và xôn xao hỏi có chuyện gì, và như anh biết đấy, nếu công ty Comospolitan không làm như vậy thì tôi sẽ chẳng nói gì, điều hành một công ty chui như thế không khác gì điều hành một ngân hàng cả. Nếu một khách hàng sinh nghi thì những người khác cũng sẽ như vậy. Nhìn vẻ mặt của thư ký Tom lúc này trông tối sầm nhưng rồi anh ta cũng viết giá vào thẻ của tôi “chốt giá 103” rồi đẩy bảy tấm thẻ về phía tôi. Chắc anh ta chẳng tử tế gì cho cam. Từ chỗ đứng của Tom đến quầy thu ngân cách không quá hai mét rưỡi. Nhưng tôi không để cho nhân viên thu ngân cầm tiền của mình lúc Dave Wyman đang đứng gần những tấm thẻ, miệng reo to “Trời đất! Đường 108!” Nhưng đã quá muộn vì vậy tôi chỉ cười và nói với anh ta “Không ăn thua đâu Tom, đúng không anh bạn?” Tất nhiên công việc của anh ta đôi khi phải như vậy. Henry William và tôi cùng đặt mua 600 cổ phiếu đường. Công ty đó đã có giá biên của tôi và Herry. Có thể còn có nhiều người khác cũng muốn mua cổ phiếu loại này với số lượng có khả năng lên đến tám nghìn hoặc mười nghìn cổ phiếu. Giả sử rằng có 20 nghìn cổ phiếu đang ở nhiều mức giá biên. Như vậy cũng là quá đủ để công ty này bám sát thị trường cổ phiếu tại Sàn giao dịch Chứng khoán New York và loại chúng tôi ra khỏi cuộc chơi. Trước đây khi nào công ty chứng khoán chui lâm vào tình trạng quá tải do có quá nhiều đầu cơ giá lên vào cùng một loại cổ phiếu nhất định, văn phòng môi giới thường cử chuyên gia môi giới hạ giá loại cổ phiếu đó nhằm loại một một số khách hàng đang chờ cơ hội đầu cơ ra khỏi cuộc chơi. Công ty chẳng tốn mấy thời gian cho việc này. Họ chỉ thiệt hại hơn hai điểm trong hàng vài trăm cổ phiếu trong khi số tiền họ thu được lên đến hàng trăm đô-la. Đó là cách mà công ty chui Comospolitan muốn thu hút tôi, Henry và những nhà đầu cơ lớn khác mua cổ phiếu từ phía họ. Những nhà môi giới của họ tại New York nâng giá lên đến 108. Tất nhiên sau đó giá sẽ lại giảm nhưng cuối cùng thì Henry và một số nhà kinh doanh khác cũng bị loại. Bất cứ khi nào giá cổ phiếu có xu hướng giảm mạnh mà không rõ nguyên do, và phục hồi nhanh chóng ngay sau đó, giới báo chí thời đó sẽ gọi đó là cơ chế hoạt động theo kiểu công ty chứng khoán chui. Điều nực cười nhất là sau khi công ty môi giới chứng khoán Comospolitan tìm cách đánh bật tôi, một anh bạn kinh doanh cổ phiếu đến từ New York đã đẩy Comospolitan đến chỗ thua lỗ mất 70 nghìn đô-la. Anh bạn này, một thương nhân đến từ sàn giao dịch chứng khoán New York, đã thực sự trở thành một thành viên quan trọng của thị trường chứng khoán trong thời kỳ đó. Trước đây anh ta đã nổi tiếng là một nhà đầu cơ cổ phiếu giá xuống trong suốt thời kỳ khủng hoảng Bryan năm 1996. Những quy định do các sàn giao dịch chứng khoán đặt ra luôn gây khó khăn cho anh và anh phải thực hiện một số kế hoạch (mua bán cổ phiếu) của mình thông qua một số người bạn. Một hôm, anh suy tính rằng cả sàn giao dịch lẫn các cơ quan chính sách cũng sẽ không thể kêu ca phàn nàn gì nếu như anh chỉ ra một số việc làm bất chính của những công ty chui ở đây. Tôi nói ví dụ như anh bạn này gửi đến những công ty này 35 người với vai trò là khách hàng. Họ tới những văn phòng chính và những chi nhánh lớn. Vào một ngày nào đó tại một giờ đã ấn định, các đại lý sẽ mua nhiều cổ phiếu cùng loại trong giới hạn nhà quản lý cho phép. Khi đạt được lợi nhuận ở một mức nào đó, họ sẽ nhận lệnh rút khỏi cuộc chơi. Tất nhiên những gì họ làm ở sàn giao dịch là khuyên những người bạn tham gia đầu cơ giá lên rồi lên sàn đấu giá lên, lúc này họ đã có sự hỗ trợ từ phía các thương nhân trong sàn giao dịch, những kẻ cứ nghĩ rằng họ chơi đẹp. Họ thận trọng lựa chọn các loại cổ phiếu để thực hiện kế hoạch của mình, lúc này, đẩy giá lên ba hay bốn điểm không còn là việc khó. Các đại lý của anh bạn này tại các công ty như thế chỉ việc ngồi một chỗ mà thu lợi nhuận. Một người bạn của tôi nói rằng anh bạn đi đầu này đã kiếm ra 70 nghìn đô-la lãi trần còn các đại lý của anh ta luôn đảm báo được các khoản chi phí cũng như việc chi trả lương. Anh ta đã chơi như thế vài lần trên khắp đất nước và lần lượt trừng trị các công ty môi giới dưới dạng các công ty chứng khoán chui kiểu này ở New York, Boston, Philadenphia, Chicago, Cincintina và St. Louis. Một trong những loại cổ phiếu anh bạn này yêu thích là Western Union vì đối với những loại cổ phiếu bán hoạt động như vậy, việc tăng hay giảm giá vài điểm quả là không khó. Các đại lý của anh ta sẽ mua cổ phiếu cùng loại ở một mức giá nhất định, bán ra hơn hai điểm lãi, sau đó mua lại với giá cao hơn 3 điểm nữa. Sau đó, tôi đọc báo mới biết anh ta qua đời trong nghèo khổ. Nếu thời điểm đó là vào năm 1896 thì báo chí New York ít nhất cũng phải dành hẳn một cột báo trên trang nhất để bàn tán về cái chết của anh ta. Nhưng lúc ấy, người ta chỉ dành cho anh một mẩu tin dài hai dòng. Phần. 2 Sau khi áp dụng mức giá biên ba điểm và mức phí 1,5 điểm chết người nhằm gây khó dễ cho tôi nhưng không thành, tôi nghĩ công ty môi giới chứng khoán Comospolitan sẽ sẵn sàng dùng những thủ đoạn bẩn thỉu khác để đánh bại tôi. Ngoài ra còn có những dấu hiệu cho tôi thấy rằng họ không muốn tôi giao dịch chứng khoán ở đó nữa. Vì vậy, tôi nhanh chóng quyết định chuyển đến sàn giao dịch chứng khoán New York. Tôi không muốn đến chi nhánh nào của Boston vì ở đó người ta dùng máy điện báo để yết giá. Tôi muốn tiếp cận với cội nguồn của thị trường chứng khoán. Tôi đến New York khi tôi 21 tuổi đem theo tất cả số tiền 2.500 đô-la trong túi. Như tôi đã nói với anh rồi đấy, khi hai mươi tuổi, tôi đã có mười nghìn đô-la và vốn liếng của tôi tăng thêm mười nghìn đô-la nữa nhờ vụ đầu tư vào cổ phiếu đường. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng thắng. Tôi thường lên những kế hoạch hợp lý cho những thương vụ đầu tư cổ phiếu, vì thế tôi thắng nhiều hơn là thua. Nếu tôi đã chơi thì xác suất số lần tôi tính chính xác có thể là bảy trên mười lần. Thực ra tôi luôn thắng khi tôi biết chắc mình đúng ngay từ đầu cuộc chơi. Tôi chỉ thất bại khi tôi thiếu sáng suốt hay nói đúng ra là tôi không sẵn sàng vào cuộc hay thấy chưa thấy yên tâm về những điều kiện tiền đề cho thương vụ. Mọi thứ đều có thời gian của nó nhưng tôi không để ý đến điều đó. Đây cũng chính là yếu tố khiến cho những khách hàng không thường xuyên trong sàn giao dịch chứng khoán New York phải gánh chịu thất bại. Có những kẻ ngốc nghếch hay mắc sai lầm ở mọi nơi mọi lúc và trên phố Wall cũng có những kẻ cho rằng lúc nào cũng có thể kinh doanh cổ phiếu được. Không phải lúc nào người ta cũng chỉ ra được lý do chính đáng cho việc vì sao mình lại mua hay bán cổ phiếu và tìm ra được những giải pháp thông minh trong những thương vụ của mình. Tôi có thể chứng minh điều này. Khi đọc cuốn sổ tay ghi chép và nghiệm lại xem mình đã kiếm tiền như thế nào, tôi mới nhận ra rằng mỗi lần tính sai là một lần tôi thất bại. Tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ. Một cái bảng yết giá lớn đập vào mắt tôi, bảng tin đang làm việc, người ta mua bán trao đổi và đợi xem những tấm thẻ của mình sẽ được chuyển thành tiền mặt hay chỉ thành đoán giấy loại. Tất nhiên, cái tôi cảm nhận thấy rõ ràng nhất là sự háo hức. Ở những công ty chứng khoán chui, là số tiền ít ỏi mà anh sẽ không thể dựa vào nó kinh doanh lâu dài được. Chẳng bao lâu người ta sẽ dễ dàng loại anh ra khỏi cuộc chơi. Trên phố Wall, người ta phải gánh chịu thất bại chẳng qua là vì họ luôn mong muốn duy trì việc kinh doanh lâu dài nhưng lại bất chấp những điều kiện tối thiểu. Thậm chí có những nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn đặt mục tiêu ngày nào cũng phải kiếm được tiền về cho gia đình mặc dù hàng ngày họ vẫn có việc làm và được trả lương đều đặn cũng gặp không là ngoại lệ. Còn tôi, anh nên nhớ lúc đó, tôi vẫn còn là một cậu bé. Tôi không biết sau này, tôi sẽ học được gì, và mười lăm năm sau, cái gì có thể khiến tôi đợi trong hai tuần ròng rã để chứng kiến số cổ phiếu mà tôi đặt vào chúng bao nhiêu là hy vọng tăng lên 30 điểm rồi mới yên tâm mua chúng. Tôi luôn trong tình trạng túng thiếu và tôi muốn làm lại nhưng không còn đủ tiền để bám theo lối chơi táo bạo của mình nữa. Nhất định những tính toán của tôi là chính xác. Tôi cố đợi. Đó là vào năm 1915. Một câu chuyện dài. Khi nào tiện, tôi sẽ kể cho anh sau. Còn bây giờ, hãy tiếp tục câu chuyện về cái nơi mà sau bao nhiêu năm “chiến đấu” với những công ty chui kia, họ đã giành mất những cơ hội chiến thắng từ tay tôi. Tôi xem xét kỹ lưỡng và quyết định phải đấu tranh. Đó cũng không phải là lần duy nhất trong đời tôi làm việc này. Một nhà kinh doanh cổ phiếu phải biết chiến đấu với những kẻ thù quanh mình. Dù sao thì tôi cũng đến New York với hai mươi nghìn đô-la trong tay. Ở đây không có công ty chui nào, tức là tôi không có lấy một người bạn đồng hành đáng tin cậy nào. Sàn giao dịch ở đây có quan hệ khá chặt chẽ với cảnh sát trong vùng. Hơn nữa, tôi muốn tìm những nơi mà ở đó, ngoài chỗ vốn liếng hạn hẹp của mình, không gì khác có thể cản trở tôi kinh doanh. Tôi không có nhiều tiền, nhưng tôi cũng không muốn vốn liếng của mình chỉ dừng lại ở con số ít ỏi đó. Vấn đề chính yếu đầu tiên là phải tìm được nơi nào mà tôi không còn phải lo lắng về sự công bằng nữa. Bởi vậy, tôi đến sàn giao dịch chứng khoán New York, tôi quen biết một vài thư ký ở chi nhánh của sàn. Họ đã nghỉ việc ở đó lâu rồi. Nhưng sau đó, chỉ vì không thích một người bạn ở đó nên tôi chuyển đến văn phòng A.R. Fullerton & Co. Chắc hẳn đã có ai đó kể về tôi nên chẳng bao lâu sau, họ gọi tôi là thương gia trẻ tuổi. Lúc nào trông tôi cũng trẻ trung. Xét về khía cạnh nào đó thì đấy cũng là một trở ngại cho tôi vì nhiều người muốn lợi dụng một người trẻ tuổi như tôi nên tôi phải tự đấu tranh bảo vệ mình. Những kẻ mặc quần bò da tại những công ty chui kia chỉ coi tôi như một cậu nhỏ và lúc nào họ cũng cho rằng tôi là một tên ngốc ăn may. Đó là lý do duy nhất buộc tôi phải đấu tranh với họ. Đó là vào khoảng gần sáu tháng trước khi tôi bị khánh kiệt. Tôi là một nhà đầu tư cổ phiếu khá hoạt bát và luôn khao khát danh tiếng của một kẻ chiến thắng. Tôi đoán chắc khoản tiền hoa hồng của mình hẳn phải đáng giá lắm. Tôi tăng tài khoản của mình ít một, nhưng tất nhiên, cuối cùng thì tôi cũng thua. Tôi chơi rất thận trọng nhưng tôi vẫn thua lỗ. Tôi sẽ nói cho anh thấy lý do: đó chính là vì thành công đáng kể mà tôi đã đạt được ở các công ty chứng khoán chui kia. Tôi chỉ có thể chơi theo lối chơi riêng của mình ở những công ty chui, nơi tôi cá cược về những biến động lên xuống về giá cổ phiếu. Cuốn sổ ghi chép giúp tôi thành công xuất sắc. Khi tôi mua cổ phiếu, giá của nó ở ngay trên bảng yết giá, ngay trước mặt tôi. Thậm chí trước khi mua, tôi còn có thể biết chính xác giá mà tôi sẽ phải trả cho cổ phiếu đó là bao nhiêu. Ngay sau đó, tôi có thể bán chúng đi. Tôi có thể mua vào bán ra rất thành công vì tôi hành động nhanh như chớp. Tôi có thể chớp lấy vận may và giảm thiệt hại chỉ trong giây lát. Ví dụ như, có lúc tôi biết chắc rằng cổ phiếu nào sẽ có động thái tăng hay giảm ít nhất là một điểm. Chẳng phải tôi nói quá nhưng tôi có thể tăng giá biên lên một điểm hoặc bớt đi một điểm và tăng gấp đôi số tiền của mình trong nháy mắt. Nếu cứ kiếm được tiền dựa trên một hay hai trăm cổ phiếu thì tình hình cuối tháng cũng không đến nỗi tệ, đúng không? Nhưng việc này thực ra cũng gây khó dễ cho tôi. Tất nhiên là công ty chui có đủ sức để gánh chịu thua lỗ lâu dài nhưng họ không chịu như vậy. Họ không muốn trong công ty của mình có một vị khách hàng lúc nào cũng chỉ thích mình thắng. Sau tất cả mọi chuyện tôi nhận thấy rằng không thể áp dụng những kinh nghiệm ở những công ty chứng khoán chui để kinh doanh tại văn phòng Fulleton được. Tại văn đây, tôi mới thực sự mua và bán cổ phiếu. Giá cổ phiếu đường có thể là 105 theo như dự đoán trong sổ ghi chép của tôi và tôi thấy nó sắp giảm ba điểm. Nói đúng ra, ngay tại thời điểm con số 105 được in lên bảng tin, giá thực trên sàn giao dịch chỉ là 103 hoặc 104. Trước khi lệnh bán một nghìn cổ phiếu của tôi đến tay nhân viên sàn Fulleton để khớp lệnh, giá còn có thể thấp hơn nữa. Tôi không thể nói trước một nghìn cổ phiếu của mình sẽ ở mức giá bao nhiêu cho đến khi tôi nhận được một tin báo cáo từ tay thư ký. Nếu như ở những công ty chui, tôi biết chắc mình sẽ có ba trăm đô-la trong một phiên giao dịch thì tại văn phòng này, tôi không kiếm được lấy một xu. Tất nhiên đấy là tôi nói đến trường hợp xấu nhất nhưng thực tế cho thấy rằng bảng tin luôn nhắc tôi về những ngày đã qua của mình, về quá trình phát triển sự nghiệp của tôi mà bản thân tôi sẽ không thể nhận biết được. Cũng trong thời gian sau đó, nếu lệnh tôi đưa ra là lệnh cỡ lớn, giá trị của chúng có thể giảm nếu tôi mua hay bán trong thời gian dài. Ở những công ty chui, tôi giao dịch dựa trên những tính toán mà không chịu ảnh hưởng của quá trình giao dịch. Tôi thua lỗ ở New York cũng là vì đó là một sân chơi khác hoàn toàn. Người ta nói rằng tôi là một người rất có khả năng đọc bảng tin. Nhưng đọc bảng tin như một chuyên gia thực thụ cũng không thể cứu vãn thất bại. Giá như bản thân tôi là một nhà kinh doanh, một khách hàng quen trên sàn thì tình hình hẳn sẽ lạc quan hơn nhiều. Giữa đám đông khách hàng trên sàn giao dịch, có lẽ tôi phải nghĩ ra cách nào đó để hệ thống của mình thích nghi với những điều kiện ở đây ngay lập tức, thậm chí hệ thống ấy phải thích nghi trước cả tôi. Nhưng tất nhiên, nếu tôi tiếp tục kinh doanh theo quy mô như hiện tôi đang áp dụng thì hệ thống đó sẽ không thể đem lại thành công cho tôi vì quá trình giao dịch có ảnh hưởng khá lớn đến giá cổ phiếu. Nói ngắn gọn, tôi thực sự không hiểu hết “trò chơi” đầu cơ tích trữ. Tôi chỉ biết một phần nào đó, một phần cũng khá quan trọng và có thể sẽ luôn hữu ích đối với tôi. Nhưng nếu với tất cả số tiền tôi có trong tay mà tôi vẫn thất bại thì đâu mới là cơ hội chiến thắng. Nói đúng hơn, đâu mới là cơ hội đầu cơ dành cho một người không phải thành viên nội bộ của sàn với vốn kinh nghiệm còn quá ít ỏi như tôi? Chẳng bao lâu sau tôi nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trong lối chơi của tôi nhưng tôi không biết chính xác nó là cái gì. Đã từng có những lần hệ thống của tôi hoạt động khá hoàn hảo và rồi, thật không ngờ, tôi phải chịu hết thất bại này đến thất bại khác. Tôi mới có 22 tuổi, anh hãy nhớ cho tôi điều đó, ý tôi không phải là ở tuổi đó tôi không muốn biết mình sai ở đâu mà tôi muốn nhấn mạnh rằng các bạn đồng trang lứa với tôi, không mấy ai biết được nhiều điều như tôi. Những người trong văn phòng Fullerton đối xử rất tử tế với tôi. Tôi không dám tự ý làm gì và nguyên nhân không phải do những yêu cầu về mức giá biên họ đưa ra mà bởi vì ông A.R. Fullerton và những người còn lại trong công ty rất tốt với tôi. Họ đã cho tôi vay vài trăm đô-la khi tôi đã thua lỗ và mất hết số tiền trong tay cùng với những đồng kiếm được tại văn phòng sau sáu tháng kinh doanh ở đó. Ở đó, tôi là một cậu bé thực sự, một cậu bé chưa bao giờ xa nhà với bàn tay trắng nhưng tôi biết bản thân tôi không có vấn đề gì cả, chỉ có lối chơi của tôi mới có vấn đề. Tôi không biết tôi có tự biến mình thành kẻ ngốc hay không nhưng thực sự tôi chưa bao giờ mất bình tĩnh khi chơi trong thị trường chứng khoán. Tôi chưa bao giờ tranh luận với bảng tin. Có những bài học trên thị trường chứng khoán dù có đau đớn cũng không đưa anh đi đến đâu. Tôi sốt sắng muốn khôi phục lại sự nghiệp kinh doanh của mình nên tôi tiết kiệm từng phút từng giây, tôi đến gặp ông Fullerton và nói với ông rằng: “ông A.F., hãy cho cháu vay 500 đô-la.” Ông hỏi: “Để làm gì?” “Cháu phải có một ít tiền” Ông hỏi lại: “Để làm gì?” “Tất nhiên là để đặt giá biên rồi ạ”- tôi nói. Ông nheo mày hỏi: “500 đô-la?” Cậu biết người ta chỉ cho cậu đặt 10% giá biên tức là chỉ được đặt một nghìn đô-la cho một trăm cổ phiếu. Tốt nhất là tôi cho cậu thiếu nợ” “Không.”- tôi nói –“ 2 Cháu không muốn vay tín dụng. Cháu đã nợ văn phòng rồi. Những gì cháu cần bây giờ là bác cho cháu vay 500 đô-la để cháu có thể ra ngoài làm ăn kiếm lãi rồi cháu sẽ quay lại.” Ông A.R. hỏi: “Cháu định làm gì với số tiền này?” Tôi nói với ông: “Cháu sẽ mua bán cổ phiếu ở công ty chứng khoán chui”. “Mua bán ở đấy ư?” – ông nói. “Không.”- tôi nói – “Cháu không chắc là mình có thể kiếm được tiền ở đây nhưng ở công ty chui thì có. Ở đấy, cháu biết nên chơi thế nào. Hình như cháu đã sai lầm khi đến đây.” Ông cho tôi vay một ít tiền và tôi ra khỏi văn phòng nơi “tên khủng bố trẻ tuổi” của những công ty chứng khoán chui, như cái tên người ta vẫn gọi người vừa bị thua lỗ nặng nề. Tôi không thể quay về nhà vì ở đó người ta không cho tôi mua hay bán cổ phiếu. New York không còn là mối quan tâm của tôi nữa vì khi đó ở New York cũng không mấy ai kinh doanh cổ phiếu. Người ta nói với tôi rằng những người kinh doanh cổ phiếu tập trung nhiều ở số 90 phố Broard hay phố New. Nhưng khi tôi muốn nhờ ai đó tham gia vào thương vụ của mình thì chẳng có ai hết. Vì vậy sau một hồi đắn đo suy nghĩ, tôi quyết định đến St. Louis. Tôi được nghe kể về hai công ty kinh doanh lớn xuyên Trung Miền Tây. Chắc hẳn lợi nhuận của họ phải lớn lắm. Họ có văn phòng chi nhánh ở hàng tá những thị trấn. Người ta nói rằng nếu nói về quy mô kinh doanh thì không công ty nào ở Miền Đông có thể so sánh được với họ. Họ hoạt động công khai và những người giỏi nhất kinh doanh ở đó mà không phải lo lắng điều gì. Thậm chí một người bạn nói với tôi rằng chủ của một công ty trong số đó là phó chủ tịch Phòng Thương mại nên chẳng mấy khi có mặt ở St.Louis. Bằng mọi giá, đó cũng là nơi tôi đến và mang theo 500 đô-la để hoàn vốn rồi dùng để đặt giá biên tại văn phòng của ông A.R. Fullerton & Co., thành viên của sàn giao dịch chứng khoán New York. Khi đến St. Louis, tôi trọ ở khách sạn. Tôi ra ngoài để tìm những công ty chứng khoán chui. Có hai công ty kiểu này là công ty J.G.Dolan và công ty H.S.Teller & Co. Tôi biết tôi có thể đánh bại họ. Tôi quyết phải chơi hết sức thận trọng và kiên quyết. Chỉ có một điều làm tôi sợ đó là sẽ có người nhận ra tôi và đuổi tôi đi bởi vì những công ty chui như vậy trên khắp cả nước đều đã nghe danh tiếng của “vị thương nhân trẻ tuổi”. Việc kinh doanh lần này sẽ giống như đem nhà ra đánh bạc vậy. Công ty Dolan ở gần chỗ tôi hơn so với Teller, vì vậy tôi đến Dolan trước. Hy vọng tôi sẽ được kinh doanh vài ngày trước khi người ta buộc tôi phải chuyển đi nơi khác. Tôi bước vào trong. Đó là một nơi cực kỳ rộng lớn và tôi đoán chắc phải có hàng trăm người đang tham gia yết giá ở bên trong. Tôi mừng thầm vì giữa đám đông hàng bao nhiêu người như vậy, sẽ chẳng có ai có thể nhận ra tôi. Tôi đứng quan sát tấm bảng yết giá, nhìn thật kỹ cho đến chọn ra được loại cổ phiếu cho lượt chơi đầu tiên của mình. Tôi nhìn quanh và thấy thư ký khớp lệnh ở phía cửa sổ nơi người ta đặt tiền và nhận thẻ. Bác thư ký này nhìn tôi nên tôi đi về phía bác và hỏi: “Có phải ở đây người ta mua bán cổ phiếu vải cốt tông và lúa mỳ không bác?” “Đúng vậy anh bạn trẻ ạ.” – bác thư ký nói. “Tôi mua cổ phiếu được chứ?” Bác nói: “Có thể nếu anh có tiền mặt.” Tôi nói như một cậu bé kiêu hãnh: “Tôi có, được thôi.” “Anh có thật không?” - Bác vừa nói vừa cười. Tôi hỏi, vẻ như tức giận: “Tôi có thể mua được bao nhiêu cổ phiếu với một trăm đô-la?” “Một trăm đô-la; cậu có thật không?” Tôi nói với bác: “Tôi có một trăm. Hai trăm tôi cũng có.” “Chúa ơi!” – bác thốt lên. Tôi với giọng nhấn mạnh: “Bác để tôi mua hai trăm cổ phiếu.” “Cậu nói hai trăm cái gì cơ?”- bác hỏi, lần này thì giọng rất nghiêm túc. Đây là công việc kinh doanh cơ mà. Tôi nhìn lại bảng yết giá như là để đoán giá với ánh mắt thông minh và nói với bác thư ký: “Hai trăm” Bác nói: “Thôi được rồi.”. Bác cầm lấy tiền của tôi, đếm rồi viết lên thẻ. “Tên cậu là gì?” – bác hỏi và tôi trả lời “Horace Kent.” Bác đưa cho tôi tấm thẻ và tôi đi ra, ngồi giữa đám đông khách hàng để đợi bức rèm cuốn được kéo lên. Tôi hành động nhanh chóng và giao dịch đến vài lần trong ngày hôm đó. Ngày hôm sau cũng vậy. Trong vòng có hai ngày tôi đã thu về 2.800 đô-la và hy vọng người ta vẫn để tôi chơi tiếp đến hết tuần. Cứ như thế có tốt hơn không. Rồi tôi đến công ty khác và nếu may mắn cũng lại đến với tôi như ở công ty kia thì tôi sẽ trở lại New York với cả một núi tiền và tôi có thể sẽ làm nên chuyện với số tiền đó. Buổi sáng ngày thứ ba, với cái vẻ như đang xấu hổ, tôi đi về phía cửa sổ để mua 500 cổ phiếu B.R.T. Bác thư ký nói với tôi “Này cậu Kent, ông chủ muốn gặp cậu.” Tôi biết trò chơi sắp kết thúc. Nhưng tôi vẫn hỏi bác “Ông ấy muốn biết gì về cháu?” “Tôi không biết” “Ông ấy ở đâu?” “Trong phòng riêng. Cậu đi lối kia kìa.” Rồi bác thư ký chỉ về phía cánh cửa. Tôi bước vào. Dolan đang ngồi trên bàn. Ông ta quay lại và nói: “Ngồi xuống đi, Livingston” Ông ta chỉ vào cái ghế. Hy vọng cuối cùng của tôi cũng vụt tắt. Tôi không biết làm thế nào mà ông ta lại biết tôi là ai, có thể là do tôi đăng ký phòng khách sạn. Tôi hỏi “ông muốn biết gì về tôi ?” “Nghe này cậu bé. Tôi sẽ không làm gì để chống lại cậu đâu, hiểu chứ ? Không gì hết. Hiểu chứ?” “Tôi không hiểu” - tôi đáp. Ông ta đứng ra khỏi cái ghế xoay. Đó là một người đàn ông to béo vạm vỡ. Ông ta nói với tôi: “Hãy đến đây nào” và ông ta đi ra phía cửa, mở cửa ra rồi chỉ ra đám đông khách hàng trong căn phòng lớn kia. Ông ta hỏi: “Anh có thấy họ không?” “Thấy gì cơ?” “Những người đàn ông kia. Hãy nhìn họ đi. Có đến ba trăm người. Ba trăm kẻ mê mẩn với chứng khoán. Họ nuôi sống tôi và gia đình tôi hàng ngày. Cậu thấy không ? Ba trăm người. Rồi cậu đến, và chỉ trong có hai ngày cậu đã lấy đi của tôi cả đống tiền, nhiều hơn cả số tiền tôi kiếm được từ ba trăm con người kia trong vòng hai tuần. Như vậy không phải là kinh doanh, cậu bé ạ, nhất là với tôi. Nhưng tôi sẽ không làm gì chống lại cậu đâu. Cậu cứ vui mừng với số tiền mà cậu đã kiếm được. Nhưng cậu đừng có kiếm thêm nữa. Đây không phải là chỗ dành cho cậu.” “Tại sao? Tôi…” “Tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thấy cậu từ hôm kia và tôi không thích cậu. Nói thật là tôi không thích. Tôi đã giao cho tổng quản để mắt đến cậu. Ý tôi là cái gã ngốc ở đằng kia kìa” - ông ta chỉ vào bác thư ký - “rồi tôi hỏi xem cậu đã làm những gì, và khi gã kể cho tôi nghe, tôi đã nói với gã ‘tôi không thích cậu ta. Cậu ta giả danh đấy. Rồi cái gã trông chẳng khác gì một mẩu pho mát ấy nói: ‘Hãy tin vào mắt tôi đi, ông chủ. Tên cậu ta là Horace Kent và cậu này chỉ chơi theo kiểu quen mui thôi. Không sao đâu.’ Tôi đã để cho gã làm theo ý mình. Và rồi tôi mất đến 2.800 đô-la với cậu. Tôi không gây khó dễ cho cậu, cậu bé của tôi ạ, nhưng cậu không còn được an toàn ở đây nữa đâu.” Tôi bắt đầu nói “Ông nhìn đây này…” “Cậu nhìn đây, Livingston,” – ông ta nói – “Tôi đã biết tất cả về cậu. Cậu làm người ta chẳng muốn cá cược ở đây nữa. Cậu không thuộc về nơi này. Tôi muốn chơi đẹp còn cậu thì vui mừng với những gì cậu đã lấy được từ chúng tôi. Cậu còn làm nhiều việc khác nữa để biến tôi thành một kẻ ngốc. Bây giờ thì tôi đã biết hết cậu là ai. Hãy đi khỏi đây, anh bạn trẻ.” Tôi rời khỏi công ty của Dolan với số tiền 2.800 đô-la vừa kiếm được. Công ty của Teller nằm ngay trong cùng khu phố. Tôi biết Teller là một tay giàu có, cũng là một người có rất nhiều phòng giao dịch. Tôi quyết định tới công ty chứng khoán chui của ông ta. Tôi băn khoăn không biết bắt đầu giao dịch thật khiêm tốn rồi sau đó sẽ bán một nghìn cổ phiếu hay là đánh quả liều, cách nào khôn ngoan hơn, mà theo lý thuyết, nếu làm liều thì tôi sẽ chỉ được tham gia giao dịch trong không quá một ngày. Sau khi thất bại, họ cũng đã đủ thông minh nhanh nhạy còn tôi lại thực sự muốn bán ra một nghìn cổ phiếu B.R.T. Tôi chắc mình có thể thắng ăn đứt đến bốn hoặc năm điểm. Nhưng trong trường hợp họ sinh nghi hoặc có quá nhiều người cũng muốn cùng loại cổ phiếu đó thì có thể họ sẽ không để cho tôi mua bán gì hết. Tôi nghĩ có lẽ tôi nên chia nhỏ các phiên giao dịch của mình trước đã rồi sẽ bắt đầu giao dịch rất ít cổ phiếu. Văn phòng ở đây không lớn như ở công ty của Dolan nhưng trang trí đẹp hơn và rõ ràng là khách hàng ở đây thuộc tầng lớp cao hơn. Những thứ đó như hút lấy tôi nên tôi quyết định bán một nghìn cổ phiếu B.R.T. Vì thế tôi tiến đến phía cửa sổ và nói với thư ký: “Tôi muốn bán một ít cổ phiếu B.R.T. Giới hạn là bao nhiêu?” Thư ký nói: “Không có giới hạn. Anh có thể bán tất cả nếu anh muốn - nếu anh có tiền” “Tôi bán 1.500 cổ phiếu” Tôi nói và rút tiền trong túi ra, còn tay thư ký bắt đầu viết thẻ. Sau đó tôi thấy một người đàn ông đội mũ đỏ bất ngờ đẩy anh thư ký ra khỏi quầy thu ngân. Ông ta đứng chắn ngang và nói với tôi rằng: “Này, Livingston, cậu hãy đi mà quay lại văn phòng của Dolan. Chúng tôi không muốn cậu mua bán gì ở đây hết.” “Hãy đợi tôi lấy thẻ đã” – tôi đáp – “Tôi chỉ mua một ít cổ phiếu B.R.T thôi mà.” “Cậu không được nhận một tấm thẻ nào ở đây hết.” – ông ta nói. Những tay thư ký đứng sau ông ta cứ chăm chú nhìn tôi. “Đừng bao giờ đến đây mua bán cổ phiếu nữa. Chúng tôi không muốn cậu kinh doanh ở đây. Hiểu không?” Tôi không nổi giận cũng chẳng muốn tranh cãi nên tôi quay lại khách sạn, trả tiền phòng rồi bắt chuyến tàu sớm nhất về New York. Thật khó nhọc. Tôi như một kẻ ham chơi trò ô chữ, chỉ tranh thủ chơi trong lúc rảnh rỗi và chỉ thấy thỏa mãn khi chiến thắng. Tất nhiên tôi muốn tìm đáp án cho trò chơi đoán ô chữ của mình. Tôi cứ nghĩ mình đã chấm dứt sự nghiệp kinh doanh ở những công ty chứng khoán chui nhưng tôi đã sai. Hai tháng sau khi tôi quay trở về New York, một anh bạn lớn tuổi đến văn phòng của Fullerton. Anh ta biết ông A.R. Người ta nói rằng họ đã cùng nhau sở hữu rất nhiều ngựa đua. Đó là những tháng ngày tươi đẹp. Tôi được giới thiệu cho ông McDevitt. Ông ta đang nói với đám đông về một nhóm tội phạm đường đua ở các nước Phương Tây vừa thắng trong “skin game” ở St. Louis. Tên cầm đầu là chủ sở hữu sàn giao dịch có tên là Teller. “Gì Teller cơ? ” – tôi hỏi ông ta. “Hi Teller; H.S. Teller” “Tôi biết gã này” – tôi nói “Gã chẳng có gì là tốt đẹp cả”- McDevitt nói “Còn tệ hơn như vậy” – tôi tiếp – “tôi còn có chuyện để giải quyết với gã.” “Nghĩa là sao?” “Cách duy nhất mà tôi có thể chiến đấu với những kẻ chơi xấu như gã là tấn công túi tiền của chúng. Ngay bây giờ, tôi chưa thể tiếp cận gã ở St. Louis nhưng việc đó để sau.” Và tôi nói với McDevitt về nỗi bức xúc của mình. “Ồ”- ông Mac nói “gã cố tìm cách để liên kết với New York nhưng không thể, vì vậy gã đành hoạt động ở Hoboken. Người ta nói rằng có một cuộc chơi vô hạn ẩn dưới cái mái nhà làm bằng đá Gibraltar của gã.” “Là nơi nào vậy?” Tôi nghĩ ông Mac nói đến sàn giao dịch của Teller. “Công ty chứng khoán chui.” – ông Mac nói. “Ông có chắc là nó mở cửa không?” “Chắc. Tôi gặp mấy người bạn, họ nói cho tôi như vậy.” “Nhưng chỉ là lời đồn đại thôi” – tôi nói – “Ông có dám chắc là nó vẫn đang hoạt động không. Nếu có, chúng để cho khách hàng giao dịch như thế nào?” “Chắc chắn đấy anh bạn trẻ ạ” – ông McDevitt nói – “Ngày mai tôi sẽ tự đi tìm hiểu rồi quay lại nói cho cậu biết.” Đúng như vậy. Dường như Teller đang kinh doanh lớn và hắn sẽ vơ vét tất cả những gì có thể. Hôm đó là vào thứ Sáu. Thị trường chứng khoán nóng lên trong suốt cả tuần – anh nên nhớ tôi đang nói về thời điểm hai mươi năm trước – và báo cáo ngân hàng thông báo chắc chắn về số dự trữ thặng dư giảm mạnh. Như vậy thì các nhà kinh doanh lớn càng có cơ hội nhảy vào thị trường chứng khoán và ra sức thu lợi nhuận nhờ những tài khoản yếu của công ty môi giới (weak commission-house accounts). Sẽ có những phản ứng bất thường vào nửa tiếng đồng hồ cuối cùng của phiên giao dịch, nhất là đối với những loại cổ phiếu dân chúng nóng lòng mong đợi nhất. Tất nhiên, khách hàng của Teller cũng rất muốn những loại cổ phiếu như vậy và có thể công ty sẵn sàng để họ đặt bán chúng. Tuyệt vời nhất vẫn là thâu tóm được khách hàng bằng cả hai cách và với mức giá biên một điểm thì việc ấy sẽ dễ như trở bàn tay vậy. Sáng thứ Bảy hôm đó, tôi tới Hoboken để tìm Teller. Căn phòng lớn dành cho khách hàng như chật cứng với một cái bảng yết giá, mấy tay thư ký, một tay cảnh sát đặc nhiệm trong bộ đồ màu xám và khoảng hai mươi lăm khách hàng. Tôi bắt chuyện với người quản lý. Anh ta hỏi tôi liệu anh ta có thể giúp được gì cho tôi nhưng tôi chẳng nói gì. Anh ta còn nói cho tôi hay về một anh bạn chiến hữu chỉ dựa vào những con số lẻ cũng có thể kiếm được rất nhiều tiền và còn được thả sức cá cược bằng cả túi tiền của mình và thắng đến hàng nghìn đô-la chỉ trong phút chốc, không như nhiều người chỉ biết chờ đợi một cách vô ích. Anh ta nói bây giờ chơi cổ phiếu trở nên an toàn hơn và khách hàng có thể kiếm được bao nhiêu tiền – anh nên nhớ anh ta là một chuyên gia môi giới chứng khoán chuyên mua và bán cổ phiếu của anh trên sàn giao dịch – và nếu một người chỉ mua bán đơn thuần thì tội gì anh ta phải lấy lòng tất cả mọi người. Hẳn anh ta nghĩ rằng tôi là chủ sở hữu một phòng giao dịch nào đó. Anh ta muốn lấy tiền ra khỏi túi tôi trước khi những kẻ khác xâu xé mất, vì thế anh ta nói rằng tôi phải nhanh chân lên bởi vì vào các ngày thứ Bảy, văn phòng sẽ đóng cửa lúc 12 giờ. Điều này càng thôi thúc tôi dành hết cả buổi chiều còn lại ngày hôm đó cho những gì mình đang theo đuổi. Có thể túi tiền mà tôi mang theo sẽ còn đầy hơn nếu tôi lựa chọn đúng loại cổ phiếu. Tôi tỏ vẻ không tin nên anh ta lại ra sức thuyết phục tôi. Tôi nhìn lên đồng hồ. Lúc 11 giờ 15 phút tôi nói: “Thôi được” và bắt đầu đưa cho anh ta lệnh bán với rất nhiều cổ phiếu. Số tiền mặt của tôi tăng lên đến hai nghìn đô-la và anh ta vui vẻ nhận tiền. Anh ta nói chắc tôi đã kiếm được rất nhiều tiền và hy vọng tôi sẽ lui tới thường xuyên. Tôi kiếm được nhiều tiền cũng là nhờ tôi đã tính toán đúng. Các thương gia đều cố giữ những loại cổ phiếu mà họ cho là ổn định nhất về giá nhưng chắc chắn thế nào giá cũng sẽ xuống. Tôi chỉ kết thúc thương vụ của mình ngay sau khi những vị khách quen kia kết thúc trong năm phút cuối. Tôi thu về được khoảng 5.100 đô-la. Tôi đem đi gửi ngân hàng. “Tôi rất vui vì đã được thực hiện giao dịch.” – tôi nói với người quản lý và đưa cho anh ta những tấm thẻ của mình. “Này” – anh ta nói với tôi, “tôi không thể đưa tất cả số thẻ cho anh được. Tôi không ngờ anh lại đặt nhiều đến vậy. Sáng thứ Hai tôi sẽ đưa cho anh, chắc chắn đấy.” Tôi nói: “Được đấy, nhưng hãy cứ đưa tất cả số anh có trong văn phòng này cho tôi trước đã.” “Anh phải để cho tôi tạo điều kiện cho những chiến hữu khác nữa chứ.” – anh ta nói: “Tôi sẽ đưa cho anh tất cả chỗ anh yêu cầu, và cả những gì còn lại nữa. Hãy đợi tôi đổi những tấm thẻ khác ra tiền mặt đã.” Vì anh ta nói vậy nên tôi đợi cho đến khi anh ta thương lượng với những người thắng cổ phiếu khác. Ồ, tôi thầm nghĩ số tiền của mình chắc đã được an toàn. Teller sẽ không thất hứa với một văn phòng hoạt động kinh doanh tốt như vậy đâu. Nếu gã thất hứa, tôi phải làm gì để lấy được hết tiền gã có đây? Tôi đã có khoản tiền 2.000 đô-la của riêng mình cộng với khoảng 800 đô-la là tất cả số tiền gã có trong cái văn phòng ấy. Tôi nói tôi sẽ quay lại vào sáng thứ Hai. Viên quản lý hứa hẹn rằng sẽ chuẩn bị sẵn tiền để đợi tôi. Tôi ghé qua Hoboken một lát trước 12 giờ hôm thứ Hai. Tôi thấy một anh bạn đang nói chuyện với người quản lý, tôi đã gặp người này tại văn phòng ở St. Louis vào cái ngày mà Teller xua đuổi tôi quay trở lại văn phòng của Dolan. Tôi đoán ngay ra rằng người quản lý đã gửi điện báo về văn phòng và người ta đã cử người đến để thám thính tình hình. Những kẻ như Teller chẳng tin ai bao giờ. “Tôi đến lấy thẻ như đã hẹn.” – tôi nói với tay quản lý. “Có phải người này không?” – tên đến từ St. Louis hỏi. “Đúng” - người quản lý trả lời, và rút ra một tệp những tấm thẻ vàng từ túi sau ra. “Dừng lại đã” tên kia nói với người quản lý rồi quay sang tôi: “Này Livingston, chẳng phải là tôi đã nói với anh rồi đấy thôi, chúng tôi không muốn anh kinh doanh ở đây” “Đưa tiền cho tôi trước đã” – tôi nói với người quản lý và anh ta trả cho tôi trên 2.000 đô-la, bốn đồng năm trăm đô-la và ba đồng một nghìn đô-la. “Các anh đã nói gì ấy nhỉ?” tôi nói với tên đến từ St. Louis. “Chúng tôi nói rằng chúng tôi không muốn anh mua bán cổ phiếu tại các văn phòng của chúng tôi.” “Vâng”, tôi nói, “đó cũng là lý do tại sao tôi đến đây.” “Đừng đến đây nữa. Hãy đi đi.” – anh ta nổi cáu với tôi. Tay cảnh sát trong bộ đồ màu xám xuất hiện, vẫn như thường lệ. Gã đến từ St.Louis vẩy tay trước mặt người quản lý và hét tướng lên: “Lẽ ra ông phải biết chứ, đồ ngốc nghếch, ông đã bị gã này xỏ mũi rồi đấy. Gã là Livingston. Ông đã nhận lệnh rồi còn gì.” “Hãy nghe đây.” – tôi nói với tay đến từ St. Louis “Đây không phải là ở St. Louis. Anh không có quyền cấm tôi chơi cổ phiếu ở đây, như ông chủ của anh đã làm với cậu bé đến từ Belfast trước đây.” “Cậu ra khỏi văn phòng này ngay! Cậu không được mua bán gì ở đây hết.” – hắn hét lên. “Nếu tôi không được mua bán cổ phiếu ở đây thì không ai khác được làm như vậy.” – tôi nói với gã “hãy đi khỏi đây cùng với những thứ hay ho của anh đi” Rồi gã từ St. Louis đổi giọng ngay lập tức “Hãy nhìn đây cậu bé” – ông ta nói và lên giọng quát nhặng xị “Để chúng tôi được yên. Đừng có vô lý như thế. Cậu biết rồi đấy ngày nào cũng thế này thì làm sao chúng tôi chịu nổi. Ông Teller sẽ nổi khùng lên khi biết cậu chính là người đã làm việc này. Hãy mở lòng từ bi đi, Livingston!” “Đơn giản thôi, tôi sẽ đi” – tôi hứa. “Hãy nghe tôi nói lý do nào, được chứ? Vì tình yêu thánh Peter, hãy đi đi. Hãy cho chúng tôi cơ hội khởi nghiệp suôn sẻ. Ở đây chúng tôi vẫn còn lạ lẫm. Được chứ?” “Từ nay tôi cũng chẳng muốn làm ăn với những người kiêu ngạo như các ông.” – tôi nói rồi quay ra và bỏ lại gã ở lại nói chuyện với người quản lý về số tiền một triệu đô-la chỉ trong một phút. Tôi đã kiếm được ít tiền từ văn phòng của họ theo đúng như cách họ đã đối xử với tôi hồi còn ở St. Louis. Tôi không hề nổi nóng và cố gắng quên họ đi. Tôi trở lại văn phòng của ông Fullerton và kể cho McDevitt những gì đã xảy ra. Rồi tôi hỏi anh ta xem anh ta có chịu đến nơi của Teller và bắt đầu mua bán hai mươi đến ba mươi cổ phiếu ở đó, để cho họ quen với anh ta. Sau đó, khi nào tôi thấy có thể quét được một mẻ lớn, tôi sẽ gọi cho anh ta và anh ta sẽ hành động. Tôi đưa cho McDevitt một nghìn đô-la rồi anh ta tới Hoboken và làm như những gì tôi bảo. Anh ta trở thành một trong những khách hàng thường xuyên của văn phòng đó. Vào một ngày nọ, tôi phát hiện ra giá sắp giảm đột ngột, tôi liền báo cho McDevitt và anh ta bán hết tất cả số cổ phiếu trong giới hạn họ cho phép. Anh ta đã thu về được 2.800 đô-la trong ngày hôm đó. Nhưng sau khi chia chác tiền lãi và trả một số khoản phí, tôi nghi là Mac có bỏ túi một ít tiền cược. Không đầy một tháng sau, Teller phải đóng cửa chi nhánh của mình ở Hoboken. Cảnh sát trở nên bận rộn hơn. Dù sao thì vụ này cũng chẳng thấm tháp gì vì tôi cũng mới chỉ kinh doanh ở đó có hai lần. Chúng tôi đổ xô vào một thị trường cổ phiếu lên giá hỗn loạn vì không phản ứng kịp để loại một số khách hàng ra khỏi cuộc chơi thậm chí với giá biên một điểm, và dĩ nhiên, khách hàng ở đó đều là những người đầu cơ lên giá, họ thắng cuộc rồi lại tiếp tục chơi theo kiểu hình tháp. Những công ty chui vẫn không ngừng hoạt động trên khắp đất nước. Trò chơi của họ đã thay đổi. Mua bán cổ phiếu trong những công ty chứng khoán chui lỗi thời còn tốt hơn so với đầu cơ cổ phiếu trong văn phòng của một nhà môi giới chứng khoán có tiếng tăm. Nguyên nhân là ở chỗ việc anh tự động kết thúc giao dịch khi giá biên hạ xuống mức thấp nhất chính là loại lệnh ngừng thua lỗ (stop-loss order) tốt nhất. Anh sẽ không sợ bị thua lỗ quá nhiều và cũng không bị buộc phải ra lệnh mua/bán theo kiểu cũ, v.v... Ở New York, những công ty chui như thế này chưa bao giờ đối xử thoải mái đối với khách hàng như ở các nước châu Âu theo như tôi được biết. Ở đây họ thường giới hạn tiền lãi khách hàng có thể thu được từ một loại cổ phiếu nhất định nào đó, ví dụ như đối với bóng bầu dục là 2 điểm. Đường và than đá Tennessee cũng vậy. Dù họ có tăng lên 10 điểm trong vòng mười phút, anh cũng chỉ được phép tăng 2 điểm với mỗi tấm thẻ. Tuy nhiên, họ biết có một khách hàng đã thu được những khoản lãi lớn và anh ta đã chịu mất một để được mười. Sau đó, có không biết bao nhiêu lần tất cả những công ty này, trong đó có cả những công ty lớn nhất không chịu nhận lệnh mua bán đối với một số loại cổ phiếu nhất định nào đó. Năm 1890, trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ mà McKinley được đánh giá là ứng cử viên sáng giá nhất có thể nắm chắc phần thắng trong tay, không một công ty nào cho phép khách hàng mua cổ phiếu. Tỉ lệ chênh lệch phiếu bầu là ba trên một nghiêng về McKinley. Bằng cách mua cổ phiếu của ngày thứ Hai, anh có thể tăng từ ba lên đến sáu điểm hoặc hơn nữa. Người ta có thể đặt cược cho Bryan, mua cổ phiếu và chắc chắn anh ta sẽ kiếm ra tiền. Nhưng những công ty chứng khoán chui lại không chịu nhận lệnh mua cổ phiếu vào cái ngày hôm đó. Nếu vì họ chịu nhận lệnh mua của tôi hôm đó thì chắc tôi vẫn còn kinh doanh tại công ty của họ. Và rồi tôi sẽ chẳng bao giờ vỡ vạc ra rằng còn có nhiều việc khác phải làm với trò đầu cơ cổ phiếu hơn là cá cược về những biến động lên xuống không đáng kể của giá cổ phiếu. Phần. 3 Người ta phải mất rất nhiều thời gian mới có thể rút ra bài học từ những sai lầm của bản thân mình. Mọi thứ đều có hai mặt của nó. Nhưng thị trường chứng khoán lại chỉ có một mặt, không phải là mặt lên giá hay xuống giá mà là mặt phải. Tôi đã phải tốn rất nhiều thời gian mới hiểu ra nguyên tắc đó, còn nhiều hơn cả thời gian dành cho những khâu kỹ thuật trong trò đầu cơ chứng khoán. Tôi đã nghe kể nhiều về những người có thú vui chứng minh xem mình tính toán chính xác đến mức nào bằng cách mở hàng loạt những thương vụ ảo trên thị trường chứng khoán với những khoản tiền tưởng tượng. Đôi khi những “con ma cá cược” này có thể kiếm về hàng triệu đô-la. Một nhà đầu cơ chứng khoán sẽ chẳng thấy khó khăn gì khi làm việc đó. Cũng giống như câu chuyện kể về một người tiếp tục đương đầu với cuộc chiến mới trong những tháng ngày tiếp theo như thế nào. Người trợ lý của anh ta hỏi: “Anh có phải là một tay súng cừ không?” “Ồ”, anh ta nói “tôi có thể bắn trúng cổ chai ở cự ly hai mươi bước chân,” và tỏ vẻ khiêm tốn. “Như vậy là rất tốt rồi,” tay trợ lý nói với vẻ không có gì là ấn tượng cho lắm, “Nhưng anh có thể bắn trúng cổ chai nếu cái chai ấy đang nhằm một khẩu súng lục vào tim anh không?” Tôi nghĩ đến số tiền tôi đã kiếm được. Những lần thất bại đã chỉ cho tôi thấy rằng chỉ khi nào tôi đã chắc chắn hoàn toàn, tôi mới được tiến xa hơn. Nhưng nếu tôi không tiến xa hơn, tôi đã chẳng phát triển được. Tôi nói như vậy không có nghĩa là người ta không cần phải hạn chế thiệt hại khi anh ta mắc sai lầm. Anh ta nên như vậy nhưng không nên do dự mà phải biết quyết đoán trước một quyết định nào đó. Trong cả cuộc đời mình, đã có nhiều lần tôi tính không chính xác nhưng sau khi kinh doanh thua lỗ, tôi lại tích luỹ thêm kinh nghiệm cùng với những bài học quý báu về những việc mình không nên làm. Đã vài lần tôi làm ăn sa sút nhưng thất bại với tôi chưa phải đã là tất cả. Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ lặp lại những sai lầm tương tự. Tôi luôn biết mình còn có những cơ hội khác và sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm tương tự đến lần trong đời. Tôi luôn tự tin vào chính mình. Người ta cần phải tự tin vào chính mình và khả năng đánh giá của mình nếu họ thực sự muốn tồn tại trong một cuộc chơi nào đó. Đó là lý do tại sao tôi không tin khi người ta khuyên tôi về những mánh lới làm ăn. Nếu vì nghe theo lời khuyên của ông Smith mà tôi mua cổ phiếu thì khi muốn bán chỗ cổ phiếu ấy tôi cũng phải đợi ông ấy khuyên. Giả sử ông Smith qua đời trong một lần đi nghỉ trong khi sắp đến lúc phải bán cổ phiếu đó. Không, tất nhiên là không rồi anh bạn ạ, người ta sẽ không thể kiếm nhiều tiền nhờ nghe theo những gì người khác khuyên bảo đâu. Từ kinh nghiệm mà ra, tôi thấy chỉ có những nhận định của bản thân mới có thể cho tôi những lời khuyên và giúp tôi thu về được những khoản tiền khổng lồ. Tôi phải mất năm năm để biết được rằng chơi theo cách nào mới là thông minh, mới mang lại những khoản tiền lớn khi tôi đã có được những nhận định chính xác. Tôi đã có những kinh nghiệm thật thú vị nhưng chắc không được nhiều như anh tưởng tượng đâu. Ý tôi là quá trình tôi học cách đầu cơ cổ phiếu về bản chất cũng không có gì là quá kịch tính. Tôi đến các công ty môi giới vài lần nhưng chưa bao giờ tôi thấy hài lòng và tôi thua lỗ cũng như bất cứ ai khác trên phố phố Wall mà thôi. Đầu cơ chứng khoán quả là một công việc khó khăn đòi hỏi anh phải nỗ lực rất nhiều và cần phải đầu cơ liên tục. Nếu không, chẳng bao lâu anh sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Công việc của tôi rất đơn giản: quan sát xem người khác đầu cơ tích trữ ra sao. Lẽ ra tôi nên hiểu ra điều đó ngay trong những ngày đầu tiên đầu cơ tại văn phòng của ông Fullerton. Nhưng tôi không hề biết rằng trong trò chơi đầu cơ, tôi còn phải học nhiều thứ hơn so với ở những công ty chứng khoán chui kia. Ở những công ty như thế, tôi cứ tưởng mình đang đầu cơ chứng khoán nhưng thực tế mà nói, tôi chỉ đang đấu tranh với những công ty lừa đảo. Cũng trong thời gian đó, khả năng đọc bảng tin ngày càng phát triển đồng thời trí nhớ của tôi cũng có cơ hội tập luyện và trở nên lanh lợi hơn. Đối với tôi, phát triển khả năng phân tích bảng tin và luyện tập trí nhớ đều là những việc không khó. Tôi có được những thành công ban đầu của nhà đầu tư cổ phiếu là nhờ vào hai thứ quý giá đó chứ không phải nhờ vào hiểu biết của mình bởi vì tôi không được học hành bài bản và bắt đầu từ một kẻ không biết gì. Chính trò chơi đã dạy tôi phải chơi như thế nào. Và khi dạy, nó không hề dùng roi vọt. Tôi nhớ những ngày đầu tiên đặt chân đến New York. Như tôi đã kể, sau khi những công ty chứng khoán chui không chịu cho tôi kinh doanh, tôi lao đi tìm công ty môi giới danh tiếng như thế nào. Một trong những cậu bạn cùng làm với tôi trong những ngày tháng đầu tiên ở công ty chui đang làm việc cho văn phòng Harding Brothers, cũng là một thành viên thuộc sàn giao dịch chứng khoán New York. Tôi đến thành phố này vào một buổi sáng, mở tài khoản ở công ty Harding Brothers và sẵn sàng mua bán cổ phiếu ở đó. Tôi quên chưa giải thích cho anh rằng công việc kinh doanh ở đó không khác gì những việc tôi đã làm trước kia ở những công ty chứng khoán chui; cũng là cá cược dựa trên những biến động giá cả và người ta cần nắm bắt được những biến động dù nhỏ nhưng chắc chắn của giá cổ phiếu. Chẳng có ai khiến tôi chỉ cho họ thấy những khác biệt cơ bản nhất hay là họ không cho rằng tôi đúng? Nếu có ai đó nói với tôi rằng những tính toán của tôi không chính xác thì tôi sẽ cố gắng chứng minh để khẳng định chắc chắn hơn. Khi tôi tính sai, chỉ có một việc có thể thuyết phục được tôi rằng tôi sai là khi tôi thua lỗ. Khi nào kiếm ra tiền thì khi đó những tính toán của tôi mới chính xác. Đó là thời kỳ tươi đẹp. Thị trường chứng khoán cũng hoạt động rất tích cực. Vì thế, người ta cũng thấy hứng khởi theo. Tôi trở về nhà. Trước mặt tôi là một cái bảng yết giá cũ kỹ, trên đó là thứ ngôn ngữ mà trước đây tôi học khi còn mười lăm tuổi. Có một cậu bé đang làm những việc y như tôi đã từng làm ở văn phòng môi giới trước đây. Cũng có khách hàng - rất nhiều người già - họ đang quan sát bảng yết giá và đứng gần bảng tin bàn tán về thị trường chứng khoán. Cả một hệ thống giống y hệt hệ thống mà tôi đã từng là một phần trong đó. Vẫn cái không khí ấy kể từ khi tôi kiếm được 3,12 đô-la đầu tiên từ cổ phiếu Burlington. Vẫn là loại bảng tin ấy và cũng tầng lớp thương nhân ấy, vì thế nên trò chơi cũng không có gì thay đổi. Anh nên nhớ lúc đó tôi mới chỉ có 22 tuổi. Tôi cho rằng mình đã hiểu trò chơi này tường tận từ A đến Z. Tại sao lại không kia chứ? Tôi quan sát bảng yết giá và thấy có cái gì đó có thể sẽ rất có ích cho tôi. Nó đang biến động theo đúng hướng. Tôi mua một trăm phiếu với giá 84 rồi bán ra với giá 85 trong không đầy nửa tiếng sau. Tôi lại quan tâm đến loại khác, lại làm tương tự và thu về khoản lợi ròng là trên mỗi điểm trong chốc lát. Tôi khởi sự như vậy là rất tốt, đúng không? Bây giờ hãy để ý điều này nhé: trong những ngày đầu tiên là khách hàng của một sàn giao dịch chứng khoán nổi tiếng, chỉ trong hai tiếng đồng hồ, tôi đã mua vào bán ra 1.100 cổ phiếu. Và kết quả cuối cùng của những phiên giao dịch là tôi đã thua lỗ đúng 1.100 đô-la. Như vậy tức là trong những nỗ lực đầu tiên của tôi, gần vốn cổ phiếu của tôi đã không cánh mà bay. Anh nên nhớ rằng trong một vài thương vụ mua bán cổ phiếu, tôi có kiếm ra tiền. Nhưng tôi đã đánh mất gần 1.100 đô-la chỉ trong có một ngày. Tuy nhiên chuyện này cũng không làm tôi lo lắng vì tôi thấy mình không sai. Những việc tôi làm đều đúng cả đấy chứ. Nếu như chơi ở công ty môi giới chứng khoán Comospolitan thì tôi đã làm tốt hơn rồi. 1.100 đô-la biến mất đã cho tôi thấy rằng có cái gì đó bất thường ở bảng tin. Nhưng miễn là tôi đúng thì sẽ chẳng có gì phải lo cả. Sự nông nổi ở cái tuổi 22 cũng chưa phải đã là tất cả. Ít ngày sau tôi tự nhủ: “Mình không thể kinh doanh ở đây theo lối này được. bảng tin không còn giúp ích gì cho tôi được nữa.” Tôi cứ để yên mọi chuyện và chẳng thèm tìm hiểu nguyên do nữa. Tôi gác chuyện đó sang một bên, sống tiếp những chuỗi ngày vui có, buồn có, hay có, dở có cho đến khi tôi lấy lại thăng bằng. Và tôi trở về từ St. Louis với số tiền tôi kiếm được từ những công ty chứng khoán chui ở đó nhờ những cuộc chơi buộc tôi phải luôn luôn biết đấu tranh. Tôi chơi thận trọng hơn và hiệu quả hơn. Trong hoàn cảnh tốt hơn, cuộc sống của tôi cũng được cải thiện. Lúc đó tôi đã gần hai mươi ba tuổi, anh lưu ý điều đó, một mình tôi trên đất New York với những đồng tiền trong túi do tôi kiếm được dễ dàng và luôn giữ vững một niềm tin rằng mình đang dần dần hiểu ra hoạt động của hệ thống mới. Tôi được phép giao dịch thực sự trên sàn và hoạt động thận trọng hơn rất nhiều. Nhưng tôi vẫn có thói quen dán mắt vào băng tin. Như vậy tức là tôi vẫn bỏ qua những nguyên tắc chung và chừng nào còn giữ thói quen đó thì chừng ấy tôi vẫn chưa tìm ra được đâu mới thực sự là sai lầm trong lối chơi của mình. Chúng tôi đổ xô vào thị trường chứng khoán đang bùng nổ năm 1901 và kiếm được rất rất nhiều tiền, ý tôi là nhiều đối với một cậu thanh niên ở tuổi tôi. Anh còn nhớ thời kỳ đó không? Chưa bao giờ nước Mỹ thịnh vượng đến thế. Không chỉ có chúng tôi hối hả liên kết công nghiệp và hợp tác vốn với tất cả số tiền mình có cho đến thời điểm đó mà dân chúng cũng phát cuồng lên vì chứng khoán. Tôi có nghe người ta nói trong thời kỳ hưng thịnh trước đây, phố Wall thường đưa tin về những ngày giao dịch từ 200 đến 5.000 cổ phiếu với những cổ phiếu mệnh giá 25 triệu đô-la được trao tay. Nhưng vào năm 1901, ngày cao điểm trên phố Wall là ngày giao dịch cổ phiếu mệnh giá ba triệu đô-la. Ai ai cũng kiếm ra tiền. Một đoàn các cổ đông thép là những nhà tỉ phú đến thị trấn. Họ quan tâm đến những anh thủy thủ “nghiện”chứng khoán hơn là quan tâm đến tiền. Chưa bao giờ phố Wall lại được tận mắt thấy những tên tuổi lớn đến vậy, John. W. Gates, người nổi tiếng với câu chuyện “cược 1 tỷ đô-la”và những người bạn của ông như John A.Drake, Loyal Smith. Còn lại là tập đoàn Reid-Leeds-Moore đã từng bán cổ phiếu thép và mua phần lớn cổ phiếu của hệ thống Rock Island bằng số tiền lãi thu được cùng với Schwab, Frick, Phipps và tập đoàn Pittsburgh. Khỏi phải nói ai cũng biết đến những thành tích mà họ đạt được dù cũng đã có lần họ bị thua lỗ vì bị lừa nhưng họ vẫn xứng đáng là những nhà đầu cơ chứng khoán lớn của thời đại. Một người trong số họ có thể mua tất cả số cổ phiếu có trên phố Wall. Keene đã thiết lập nên thị trường chứng khoán cho ngành thép Hoa Kỳ. Trong đó còn có một nhà môi giới đã bán ra 100 nghìn cổ phiếu chỉ trong vài phút. Đúng là thời kỳ tuyệt vời! Những chiến thắng cũng rất tuyệt! Người ta bán cổ phiếu mà không phải trả thuế và không phải lo về tương lai. Tất nhiên, một thời gian sau, tôi nghe thấy rất nhiều lời bàn tán xung quanh. Nhưng những nhà đầu tư cổ phiếu kỳ cựu nói rằng trừ họ ra, tất cả mọi người đều đang phát cuồng lên vì chứng khoán. Nhưng trừ họ ra còn lại tất cả mọi người đều đang kiếm ra tiền. Và tất nhiên, tôi biết giá cổ phiếu dù tăng đâu cũng có giới hạn của nó, người ta có hối hả đi mua cổ phiếu bất kể nó là cổ phiếu gì (bất cứ cái gì, từ lóng: A.T.O - Any Old Thing) đến mức nào thì rồi cũng có lúc mọi thứ lại trở lại bình thường. Còn tôi, bao giờ tôi cũng chọn mua loại xuống giá nhất. Nhưng lần nào tôi bán ra cũng bị thua lỗ, đấy là tôi còn hành động rất mau lẹ, nếu không có lẽ tôi còn mất nhiều tiền hơn cũng nên. Tôi tìm mua loại cổ phiếu xuống giá nhưng lối chơi của tôi vẫn an toàn - tức là tôi vẫn có thể kiếm ra tiền khi tôi giao dịch theo hình thức bán trước mua bù sau. Vậy là, tôi đã không thu được nhiều lợi nhuận từ cơn bùng nổ thị trường chứng khoán, chắc là không như anh nghĩ khi anh biết tôi kinh doanh lớn như thế nào từ khi còn là một cậu bé. Có một loại cổ phiếu mà tôi chưa bao giờ để ý là Northern Pacific. Khả năng phân tích bảng tin của tôi lần này đã phát huy tác dụng. Tôi nghĩ rằng giá của hầu hết các loại cổ phiếu sẽ ổn định sau khi được mua vào, nhưng giá cổ phiếu Little Nipper hình như vẫn tăng. Chúng ta đều biết rằng cả hai loại cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi hiện đang nằm trong tầm ngắm của nhóm liên kết Kuhn-Leob-Harriman. Tôi đã đợi mua một nghìn cổ phiếu Northern Pacific loại phổ thông và sẽ mua hoặc bán nó theo lối chơi riêng của tôi mà không cần lời khuyên của bất cứ ai trong văn phòng. Khi giá tăng đến khoảng 110, tôi sẽ có ba mươi điểm lãi, thế nên tôi chớp lấy cơ hội này. Tôi đã có được số tiền gần 50 nghìn đô-la nhờ môi giới, số tiền lớn nhất tôi tích luỹ được được từ trước đến nay. Như vậy đối với một người đã mất đến những xu cuối cùng trong những phiên giao dịch tại chính văn phòng này cũng đã là tốt lắm rồi. Anh nhớ không, tập đoàn Harriman đã thông báo cho Morgan và Hill biết rằng họ định sẽ tham gia nhóm liên kết Burlington-Great Northern-Northern Pacific rồi trước hết người của Morgan sẽ chỉ dẫn cho Keene mua 50 nghìn cổ phiếu của N.P nhằm thâu tóm tài sản của họ. Tôi còn nghe nói rằng Keene đã yêu cầu Robert Bacon ra lệnh mua 150 nghìn cổ phiếu và các ngân hàng đã chấp nhận. Sau tất cả mọi chuyện, Keene gửi những nhà môi giới chứng khoán của mình đến nhóm thành viên N.P rồi anh ta mua một trăm nghìn cổ phiếu. Tôi cho rằng sau đó sẽ có lệnh mua bổ sung 50 nghìn cổ phiếu và vụ đầu cơ đó sẽ trở nên nổi tiếng. Sau khi thị trường này đóng cửa vào tháng 5 năm 1901, cả thế giới đều biết rằng trận chiến giữa những tên tuổi lớn về lĩnh vực tài chính sắp bắt đầu. Trước đó, trên khắp cả nước, chưa bao giờ xảy ra xung đột giữa hai tập đoàn vốn tư bản lớn này. Nhưng đến thời điểm này, Harriman và Morgan trở thành hai tập đoàn đối lập, một tập đoàn như không gì có thể chống lại được đối đầu với tập đoàn còn lại cũng rất khó lay chuyển. Vào sáng ngày 9 tháng 5, tôi đến đó với gần 50 nghìn đô-la tiền mặt và không có một cổ phiếu nào trong tay. Như tôi nói với anh rồi đấy, tôi chỉ tìm mua loại cổ phiếu xuống giá nhất trong vài ngày và đây là cơ hội cuối cùng của tôi. Tôi biết sắp có một đợt giảm giá khủng khiếp và người ta sẽ thỏa thuận về giá cổ phiếu. Những người chọn mua cổ phiếu thỏa thuận về giá sẽ thu được những khoản lợi nhuận lớn. Tôi cũng không thể nhờ Sherlock Holmes điều tra ra chính xác lợi nhuận sẽ là bao nhiêu được. Chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu xem làm thế nào họ có thể kiếm ra nhiều tiền một cách chắc chắn như vậy. Mọi việc diễn ra đúng như những gì tôi đã dự đoán được. Tôi như chết điếng đi khi mất đến những đồng xu cuối cùng dính túi và bị loại ra khỏi cuộc chơi chỉ vì một một điều bất thường nào đó xảy ra. Nếu như không có những điều bất ngờ xảy ra thì sẽ không bao giờ có sự khác biệt giữa người này với người khác thì cuộc sống sẽ chẳng còn gì là thú vị nữa. Trò chơi cũng giống như phép tính cộng trừ vậy. Nó có thể khiến ta thấy mình như những người làm sổ sách vất vả khó nhọc. Việc anh phải dự đoán sẽ giúp anh phát huy được năng lực của bộ óc. Hãy cứ thử ngẫm lại xem những gì anh đã dự đoán, anh sẽ hiểu những gì tôi nói. Thị trường chứng khoán nóng lên y như tôi đã dự đoán. Nhiều phiên giao dịch diễn ra và chưa bao giờ giá cả lại biến động đến vậy. Tôi đặt rất nhiều lệnh bán. Tôi như chết ngất đi được khi người ta báo giá bởi vì chúng giảm khủng khiếp. Những nhà môi giới của tôi vào cuộc. Họ tỏ ra rất chuyên nghiệp và tỉnh táo nhưng giá đã giảm những hai mươi điểm trước khi họ khớp lệnh bán của tôi. Bảng tin báo tin chậm hơn cả tiến độ của thị trường, tin báo cáo cũng chậm hơn do quá tải vì quá nhiều người đổ xô vào thị trường. Khi tôi phát hiện bảng tin báo giá cổ phiếu tôi nắm giữ có giá 100 và người ta mua cổ phiếu của tôi với giá 80, thấp hơn 30 đến 40 điểm so với phiên giao dịch đêm hôm trước, tôi phát hiện ra rằng tôi đã bán số cổ phiếu hiếm ở mức giá có thể biến chúng thành cổ phiếu mua thỏa thuận mà trước đó tôi định mua. Thị trường không thể nào giảm mãi được. Vì vậy tôi quyết định giữ lại số cổ phiếu hiếm của mình và đợi. Khi nhân viên sàn nhận lệnh bán mà tôi đặt, những nhà môi giới của tôi mua số cổ phiếu đó với giá phổ biến trên sàn giao dịch chứ không phải giá do tôi yêu cầu. Tính trung bình thì họ trả cao hơn mười lăm điểm so với những gì tôi dự tính. Bị thua đến 35 điểm chỉ trong có một ngày quả là ngoài sức chịu đựng của con người. Bảng tin đã khiến tôi khốn đốn chỉ vì nó báo tin quá chậm so với diễn biến thị trường. Lâu nay tôi luôn coi bảng tin như người bạn nhỏ tốt nhất mà tôi có bởi lẽ tôi cá cược thế nào cũng đều nghe theo những gì nó mách bảo. Nhưng lần này chính nó lại gây khó dễ cho tôi. Thất bại lần này không khác gì so với những lần thất bại trước. Rõ ràng là chỉ đọc và phân tích bảng tin thôi mà không quan tâm đến việc khớp giá của những nhà môi giới thì chưa đủ. Tôi tự hỏi tại sao trước đây mình không chịu xem xét kỹ càng nguyên nhân và tìm ra giải pháp cho vấn đề này nhỉ. Tôi chẳng những đã không xem xét vấn đề ấy kỹ càng mà còn làm nhiều việc tệ hơn. Ấy là tôi vẫn tiếp tục kinh doanh, mua vào rồi lại bán ra mà không hề quan tâm đến việc những nhà môi giới của tôi khớp lệnh ra sao. Anh thấy đấy, tôi không thể kinh doanh trong một giới hạn nào cả. Tôi phải chớp lấy mọi cơ hội trên thị trường. Đó chính là điều mà tôi lấy làm mục tiêu chiến đấu, nhưng tôi không chiến đấu với giá cổ phiếu mà chiến đấu với thị trường. Khi tôi nghĩ mình nên bán cổ phiếu, tôi sẽ bán. Khi tôi nghĩ giá cổ phiếu sẽ tăng, tôi sẽ mua. Sự trung thành của tôi với nguyên tắc chung về đầu cơ tích trữ đó đã cứu tôi bao phen. Phải mua bán cổ phiếu trong giới hạn nào đó về giá ở những công ty chứng khoán chui giúp cho tôi có được một phương pháp kinh doanh riêng, và sẽ là thiếu hiệu quả nếu tôi áp dụng phương pháp cũ đó để kinh doanh tại một công ty môi giới chứng khoán nổi tiếng. Tôi chưa bao giờ hiểu được thế nào là đầu cơ tích trữ nhưng tôi vẫn có thể tiếp tục cá cược khi vốn kinh nghiệm còn ít ỏi của tôi cho thấy có thể ăn chắc được. Mỗi khi tôi cố gắng hạn chế mức giá biên nhằm giảm thiểu những yếu tố bất lợi cho phiên giao dịch của mình trên sàn, nhất là khi bảng tin làm việc chậm hơn tiến độ thị trường, tôi dễ dàng nhận ra rằng thị trường chứng khoán muốn từ chối tôi. Việc này diễn ra liên tục khiến tôi phải dừng các thương vụ của mình lại. Tôi cũng không biết mình mất bao nhiêu năm mới hiểu ra điều đó và chấm dứt trò cá cược về những lần yết giá tiếp theo, trò chơi mà trong đó, việc chính tôi làm chỉ là đoán xem sẽ xảy ra những sự kiện lớn nào trong thị trường chứng khoán. Sau lần xui xẻo hôm mùng 9 tháng 5, tôi cố thử dùng biện pháp khác, tuy đã có thay đổi so với phương pháp cũ nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót chưa hạn chế được. Giá như trong vài lần kinh doanh trước, tôi không kiếm được tiền thì có lẽ tôi đã trở nên nhanh nhạy hơn với diễn biến thị trường rồi. Nhưng tôi vẫn kiếm được tiền, đủ để tôi có thể sống tốt. Tôi thích có bạn và thích sống một cuộc sống vui vẻ. Mùa hè năm đó, tôi chuyển đến sống ở bờ biển Jersey, như hàng trăm bậc vương giả trên phố Wall vẫn làm. Nhưng số tiền kiếm được từ những lần thắng cổ phiếu không đủ để tôi bù lỗ và trang trải những chi phí sinh hoạt. Tôi không khăng khăng kinh doanh theo lối chơi cũ của mình nữa. Chỉ đơn giản là vì tôi đã đầu hàng trước vấn đề của mình và tất nhiên tôi chẳng còn dám hy vọng mình có thể giải quyết được vấn đề đó nữa. Tôi nói nhiều về những thất bại như vậy để anh thấy được tôi đã phải vượt qua khó khăn như thế nào trước khi tôi đến được một nơi kiếm tiền đích thực. Khẩu súng lục cũ kỹ của tôi cũng không thể giúp tôi bắn những phát súng kỳ diệu và liên hồi để chiến đấu với trò chơi lớn này. Đầu mùa thu năm đó, trắng tay và gần như kiệt sức, tôi thấy mình không còn sức chiến đấu. Vì thế, tôi quyết định rời khỏi New York và tìm kiếm cơ hội ở nơi khác. Tôi kinh doanh cổ phiếu từ khi mười bốn tuổi. Khi mười lăm tuổi, tôi đã kiếm được một nghìn đô-la đầu tiên và có 10 nghìn đô-la đầu tiên khi còn chưa đầy 21 tuổi. Có hơn một lần tôi thua lỗ 10 nghìn đô-la. Ở New York tôi kiếm về rồi lại đánh mất đi hàng nghìn đô-la. Tôi đã từng có trong tay 50 nghìn đô-la và chỉ hai ngày sau chúng đội nón ra đi. Tôi không kinh doanh nghề nào khác ngoài nghề này, cũng chẳng biết đến trò nào khác ngoài trò đầu cơ cổ phiếu. Sau vài năm tôi lại trở về điểm xuất phát ban đầu. Không, thực ra là tệ hơn lúc ban đầu vì tôi bắt đầu có những thói quen và lối sống luôn cần có nhiều tiền, mặc dù những thứ ấy chưa khiến tôi phiền lòng bằng những sai lầm mà tôi liên tiếp mắc phải. Phần. 4 Vâng, tôi trở về nhà. Nhưng khi về đến nhà, tôi lại nhận ra mình có một nhiệm vụ lớn lao trong đời: phải kiếm được một ít vốn liếng để quay trở lại New York. New York là nơi duy nhất mà tôi có thể làm ăn lớn được. Một ngày nào đó, mọi thứ sẽ lại ổn và tôi rất cần một nơi như vậy. Khi một người biết anh ta đúng, anh ta sẽ muốn đón nhận tất cả những gì sắp xảy đến với mình, những gì anh ta sẽ nhận được nhờ vào sự đúng đắn đó. Nhưng tất nhiên là tôi không hy vọng quá nhiều, tôi cố tìm cách kinh doanh ở những công ty chứng khoán chui. Có ít công ty như vậy hơn so với trước đây và một số công ty là do những người tôi không quen biết điều hành. Người nào còn nhớ tôi là chắc hẳn sẽ không cho tôi có cơ hội mà trình bày tôi quay lại với tư cách là một nhà kinh doanh. Nhưng tôi có thể nói với họ sự thật là tôi làm ăn thua lỗ ở New York mặc dù trước đây khi còn ở nhà tôi có thể kiếm được bao nhiêu, và rằng thực ra tôi cũng không hiểu biết nhiều như tôi tưởng, và rằng chẳng có lý do gì để họ không cho tôi làm ăn với họ, một thương vụ tốt. Nhưng tôi biết họ sẽ không cho tôi cơ hội. Còn những công ty mới lại không đáng tin cho lắm. Những ông chủ của những công ty mới sẽ nghĩ rằng nếu quý ông thực sự tin vào khả năng dự đoán chính xác của mình thì 20 cổ phiếu sẽ là số lượng lớn dành cho ông ta. Tôi rất cần tiền trong khi đó những công ty lớn hơn đang kiếm về rất nhiều tiền từ khách quen của họ. Tôi nhờ một người bạn chuyên đến mua bán cổ phiếu tại một công ty. Còn tôi chỉ tạt qua để nghe ngóng tình hình. Tôi lại cố gắng dụ dỗ tay thư ký thu lệnh chấp nhận cho tôi đặt lệnh cỡ nhỏ dù chỉ là 15 cổ phiếu. Tất nhiên anh ta nói không được. Tôi lại nhờ đến bạn tôi để khi nào mua vào hay bán ra loại cổ phiếu nào, tôi sẽ nói với anh ấy và anh ấy sẽ thực hiện theo những gì tôi đã nói. Thế nhưng như thế chẳng ăn thua. Rồi văn phòng công ty đó bắt đầu khó chịu với việc đặt lệnh của bạn tôi. Cuối cùng, một ngày nọ, khi chúng tôi cố gắng bán một trăm cổ phiếu loại St. Paul thì họ từ chối. Sau đó, chúng tôi mới biết có một vị khách hàng đã bắt gặp chúng tôi nói chuyện với nhau ngoài đường và cùng đi vào văn phòng. Vị khách hàng này mách với văn phòng. Khi bạn tôi gặng tay thư ký thu lệnh để bán 100 cổ phiếu St. Paul, tay thư ký nói: “Chúng tôi sẽ không nhận lệnh bán cổ phiếu St. Paul nào của anh hết.” “Tại sao? Có chuyện gì vậy Joe?” bạn tôi hỏi. “Chẳng có gì hết. Chỉ có vậy thôi.” Joe trả lời. “Có chỗ tiền này mà không tốt à? Hãy nhìn kỹ xem. Tất cả ở kia kìa.” Và bạn tôi quay về phía một trăm đô-la - mười đồng mười đô-la, một trăm đô-la của tôi. Bạn tôi cố tình tỏ vẻ phẫn nộ còn tôi giả bộ làm ngơ như không liên quan dính líu gì đến vụ này nhưng hầu hết những khách hàng khác đều đã tiến lại gần phía chúng tôi, cũng giống như mỗi lần khách hàng có chuyện to tiếng hoặc cãi vã với khách hàng. Họ chỉ xem diễn biến câu chuyện để thỏa mãn trí tò mò. Thư ký Joe, trợ lý giám đốc bước ra. Anh ta đi về phía bạn tôi, nhìn bạn tôi và rồi nhìn tôi. “Thật nực cười!”, thư ký Joe chậm rãi nói – “Thật nực cười đấy, anh không tự làm được một cái trò trống gì ở đây nếu anh bạn Livingston của anh không đến. Anh chỉ ngồi đó mà nhìn chăm chăm cái bảng yết giá trong hàng tiếng đồng hồ. Chẳng bao giờ anh lên tiếng. Nhưng khi nào bạn anh đến thì bất ngờ làm sao, anh lại trở nên bận rộn hẳn. Có lẽ anh làm như vậy là vì anh nhưng đừng có làm cái trò đấy ở đây và tại cái văn phòng này thêm nữa. Chúng tôi không muốn Livingston nhúng tay vào.” Tôi không mua thêm được một ít cổ phiếu nào nữa. Nhưng số tiền tôi đã kiếm được nhiều hơn đến vài trăm so với số tôi đã tiêu và tôi băn khoăn tự hỏi mình nên sử dụng chúng như thế nào khi càng ngày nhu cầu trở lại New York của tôi càng bức xúc hơn bao giờ hết. Tôi có linh cảm lần sau mình sẽ làm tốt hơn. Có lần tôi bình tĩnh nghĩ lại những lần chơi ngớ ngẩn của mình. Người ta sẽ nhìn nhận tổng thể vấn đề rõ ràng hơn khi biết nhìn xa trông rộng hơn. Vấn đề tức thời lúc đó là phải tạo ra một nguồn vốn mới. Một ngày nọ, tôi lên tiền sảnh một khách sạn và trò chuyện với một vài người bạn quen biết là những nhà đầu tư khá ổn định. Mọi người đều bàn tán về tình hình thị trường chứng khoán. Tôi phát hiện ra rằng tất thảy họ không ai tham gia chơi cổ phiếu mà lại phải phụ thuộc vào khâu khớp giá do các nhà môi giới tiến hành như tôi, nhất là khi giao dịch trên thị trường đó. Một người bạn hỏi tôi cụ thể về những nhà môi giới mà tôi nói đến là những người như thế nào. Tôi nói: “Họ là những người giỏi nhất trên sàn giao dịch” và anh bạn hỏi tôi cụ thể hơn nữa. Tôi có thể biết trước rằng anh ta sẽ chẳng tin là tôi đã từng mở kinh doanh tại những sàn giao dịch hạng nhất. Nhưng tôi vẫn nói “Ý tôi là bất kỳ thành viên nào của sàn giao dịch chứng khoán New York cũng có thể làm nhân viên môi giới. Không phải là do họ không thẳng thắn hay họ bất cẩn, nhưng khi một khách hàng đưa lệnh cho họ để mua cổ phiếu tại sàn, chỉ sau khi nhận được báo cáo từ phía môi giới thì anh ta mới biết giá cổ phiếu là bao nhiêu. Có nhiều khả năng điểm sẽ tăng hoặc giảm một đến hai điểm hơn là biến động lên hoặc xuống 10 hoặc 15 điểm. Nhưng những nhà đầu tư không phải là khách quen của sàn giao dịch chỉ có thể nắm bắt những cổ phiếu có động thái tăng hoặc giảm nhẹ do khâu khớp giá. Chỉ cần những công ty chứng khoán chui chịu để khách hàng kinh doanh lớn, tôi sẽ kinh doanh ở đó vào bất kể ngày nào trong tuần.” Trước đấy, tôi chưa bao giờ gặp người bạn vừa nói chuyện với mình. Tên anh ta là Roberts. Anh này tỏ ra rất dễ gần. Anh ta đi cạnh tôi và hỏi xem liệu tôi đã bao giờ giao dịch cổ phiếu ở sàn giao dịch nào khác chưa và tôi nói chưa. Anh ta nói có biết một vài văn phòng là thành viên của sàn giao dịch chứng khoán Cotton, sàn giao dịch Produce và một số sàn giao dịch chứng khoán khác nhỏ hơn. Những công ty này rất thận trọng và đặc biệt chú ý đến khâu khớp giá. Anh ta cho hay rằng họ có mối quan hệ mật thiết với những văn phòng lớn nhỏ tại sàn giao dịch chứng khoán New York; họ có những chiến lược riêng và có thể đảm bảo cho việc giao dịch hàng trăm hay hàng nghìn cổ phiếu mỗi tháng và kiếm được khoản lợi nhuận lớn hơn rất nhiều so với một khách hàng nào đó có thể kiếm được. Anh ta nói “Thực ra những văn phòng này tự ý cung cấp cổ phiếu cho những khách hàng nhỏ. Họ có những cách đối đãi đặc biệt đối với những khách hàng đến từ bên ngoài thị trấn. Họ chỉ đặc biệt quan tâm đến những lệnh mua hoặc bán mười cổ phiếu giống như đối với lệnh mua hoặc bán mười nghìn cổ phiếu vậy. Họ rất chuyên nghiệp và trung thực.” “Đúng thế. Nhưng nếu họ trả sàn giao dịch chứng khoán New York tiền hoa hồng thì thế nào?” “Họ bắt buộc phải trả tiền hoa hồng, nhưng anh biết rồi đấy…”anh ta quay sang tôi. “Đúng. Nhưng có một việc một công ty thuộc sàn giao dịch chứng khoán New York sẽ không bao giờ làm là chia tiền hoa hồng. Những người quản lý thà chấp nhận thành viên của mình phạm tội, ví dụ như gây hỏa hoạn hoặc theo chế độ đa thê còn hơn là để họ kinh doanh với người ngoài chỉ để kiếm những khoản lợi nhuận còn thấp hơn so với số tiền hoa hồng có được. Dù họ có hay không vi phạm quy định này đi chăng nữa thì sự tồn tại và phát triển của sàn giao dịch chứng khoán New York cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn.” Tôi đoán là anh ta thế nào cũng nhận ra tôi đã từng nói chuyện với những người ở sàn giao dịch chứng khoán New York bởi lẽ anh ta nói: “Anh nghe này! Bao giờ cũng vậy, nếu một trong những công ty này vi phạm luật, họ sẽ bị đình chỉ hoạt động trong một năm, đúng không? Và có rất nhiều cách để kiểm soát nên họ cũng không thể làm càn.” Khi nhìn mặt tôi chắc nghĩ tôi không tin nên anh ta nói tiếp: “Hơn nữa dù là hoạt động theo hình thức kinh doanh gì thì chúng ta – ý tôi là những công ty khá “rắn” này - vẫn phải trả thêm một khoản khác ngoài số tiền hoa hồng định kỳ ra, họ không hề hài lòng với việc đó. Họ chỉ trả khoản thêm kia trong một số tình huống bất ngờ hoặc chỉ khi tài khoản của công ty trong tình trạng bán hoạt động, nếu không họ sẽ không bao giờ trả thêm. Họ kinh doanh đâu phải chỉ vì bản thân họ.” Trước đó tôi có nghe nói anh ta đang lôi kéo một số chuyên gia môi giới lừa đảo. “Anh có biết văn phòng nào kiểu đó có thể tin cậy được không?” – tôi hỏi. “Tôi có biết công ty môi giới lớn nhất nước Mỹ” – anh ta trả lời – “tôi đã từng kinh doanh ở đấy. Họ có chi nhánh ở bảy mươi tám thành phố ở Mỹ và Canada. Họ có quy mô lớn lắm. Họ sẽ không thể hoạt động tốt nếu không nghiêm túc tuân thủ luật lệ đó, đúng không?” “Tất nhiên rồi.” – tôi đồng ý – “Có phải họ cũng mua bán cổ phiếu của các mặt hàng như ở sàn giao dịch chứng khoán New York không?” “Tất nhiên, ở tất cả các sàn giao dịch chứng khoán khắp nước Mỹ và bất kỳ sàn giao dịch nào khác ở Châu Âu cũng đều như vậy. Họ kinh doanh cổ phiếu lúa mỳ, vải cốt tông, các mặt hàng thực phẩm và bất cứ thứ gì anh muốn. Họ có thông tín viên ở khắp mọi nơi và gửi thành viên đến khắp các sàn giao dịch chứng khoán, hoạt động công khai hoặc bí mật.” Tôi biết nhưng tôi nghĩ cứ để cho anh ta nói tiếp. “Vâng” – tôi nói: “Nhưng điều đó cũng không thể phủ nhận được một thực tế là luôn phải có một nhân viên khớp lệnh. Không ai có thể nói chắc được tương lai thị trường chứng khoán sẽ ra sao và giá cổ phiếu do bảng tin báo cáo sát với giá thực tế trên sàn giao dịch chứng khoán đến mức nào. Ở đây trước khi một khách hàng được báo giá và cầm trong tay lệnh mua hay bán cổ phiếu và thông tin được gửi điện báo đến New York, người ta đã bỏ qua một khoảnh khắc đáng giá. Có lẽ tốt hơn hết là tôi nên trở lại New York và rồi lại thua lỗ ở một công ty nổi tiếng nào đó.” “Tôi không biết thua lỗ sẽ như thế nào, khách hàng của tôi không quen như vậy. Họ thường kiếm ra tiền. Chúng tôi rất quan tâm đến điều đó.” “Khách hàng của các anh là thế nào?” “Ồ, tôi rất quan tâm đến công ty này đấy, và nếu tôi có thể mở kinh doanh theo cách của họ thì tôi sẽ làm bởi vì họ đối xử với tôi rất công bằng còn tôi thì lại kiếm về rất nhiều tiền nhờ họ. Nếu anh muốn, tôi sẽ giới thiệu anh với giám đốc.” “Tên công ty đó là gì?” – Tôi hỏi anh ta. Anh ta nói cho tôi tên công ty. Hoá ra tôi đã nghe nói đến công ty này từ lâu. Họ đăng quảng cáo trên khắp các mặt báo nhằm kêu gọi mọi người chú ý đến những khoản lợi nhuận lớn mà khách hàng của họ kiếm được. Những khách hàng này luôn theo dõi sát sao thông tin nội bộ về những loại cổ phiếu lên sàn. Đó chính là đặc điểm khác biệt của công ty này. Họ không phải là công ty chứng khoán chui nhưng lại là công ty lừa đảo. Người ta cho rằng họ là những nhà môi giới chuyên nhận và khớp lệnh nhưng bằng hình thức cải trang tinh vi, họ thuyết phục cả thế giới rằng họ là những nhà môi giới bình thường và hoạt động hợp pháp. Họ là một trong những tàn dư của hình thức công ty chứng khoán chui ở Mỹ. Họ chính là hình mẫu của của hàng tá những chuyên gia môi giới đang hoạt động trên thị trường chứng khoán nước Mỹ năm đó. Những quy tắc và phương pháp cũng chẳng có gì khác biệt mặc dù họ sử một số thiết bị đặc biệt để dụ dỗ cho dân chúng thích một loại cổ phiếu nào đó. Một vài chi tiết nhỏ cũng đã thay đổi vì mọi người đã biết rõ những trò lừa đảo trước đây. Theo như kế hoạch mách nước mà họ vạch ra nhằm thúc đẩy cạnh tranh giữa khách hàng với nhau, họ gửi đi những lời mách nước bán hoặc mua một loại cổ phiếu, phát đi hàng trăm bức điện tín khuyên người ta nhanh chóng mua cổ phiếu đó, đồng thời, hàng trăm bức điện tín khác lại khuyên người ta bán cổ phiếu cùng loại. Công ty này cũng sẽ mua một nghìn cổ phiếu cùng loại thông qua một công ty giao dịch chứng khoán có tiếng và nhận báo cáo thường xuyên về loại cổ phiếu mà họ đã mua. Đây chính là điều khiến Thomas sinh nghi nhưng khi anh nói đến quá trình khớp lệnh mua hay bán cổ phiếu, người ta lại quy cho anh là khiếm nhã. Họ cũng thành lập các nguồn vốn tự góp tự ý sử dụng tại văn phòng của mình và coi đó như là một việc làm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Trên giấy tờ mà nói, họ cho phép khách hàng buôn bán bằng tiền của mình và ký danh bằng tên của mình còn khách hàng tưởng rằng như vậy đã là tối ưu nhất. Họ tăng giá một loại cổ phiếu nào đó, cho đăng trên các báo để lôi kéo khách hàng rồi thực hiện theo đúng cơ chế kiểu như những công ty chứng khoán chui đã làm. Họ sẽ loại hàng trăm khách hàng đặt mức giá biên quá thấp ra khỏi cuộc chơi. Bất chấp khách hàng là ai, phụ nữ, giáo viên hay người già, ai họ cũng coi là những quân bài tốt nhất mà mình có. “Tôi đã có nhiều kinh nghiệm đau đớn với các chuyên gia môi giới lắm rồi.” – tôi nói với anh bạn kia – “tôi sẽ suy nghĩ kỹ hơn.” Và tôi bỏ đi khiến anh ta chẳng còn nói chuyện với tôi được nữa. Tôi đã hỏi chuyện về công ty này. Khó khăn với tôi lúc ấy là phải tìm được ai đó đã từng thắng ở văn phòng này nhưng rồi tôi cũng làm được. Mọi thứ sau đó dường như đều ổn thoả, và tôi phát hiện ra rằng dù trò chơi có không như ý muốn, họ cũng sẽ không bỏ cuộc. Tất nhiên, cuối cùng họ cũng tìm đến những chuyên gia môi giới. Đã có lần người ta liên tục nghe đồn về chuyện các công ty chứng khoán chui lỗi thời phá sản, cũng giống như hoạt động của một vài ngân hàng khi xuất hiện một ngân hàng khác phát triển vượt trội hơn hẳn. Khách hàng của những ngân hàng làm ăn thua kém hơn sẽ hoang mang và rút tiền ra khỏi những ngân hàng đó. Tôi chưa nghe thấy có chuyện gì nghiêm trọng ở công ty của anh bạn kia chỉ trừ một điều: không phải lúc nào họ cũng trung thực. Họ chuyên vơ vét tiền của những kẻ dễ bị lừa nhưng muốn phất nhanh. Nhưng trên giấy tờ, họ luôn hỏi ý kiến trước khi lấy tiền của khách hàng. Một nhà đầu cơ kể cho tôi nghe chuyện ông ta đã tận mắt chứng kiến: trong một ngày, sáu trăm bức điện tín được tung ra để khuyên khách hàng nên mua một loại cổ phiếu nào đó và ngay lập tức sáu trăm bức điện tín đến tay những khách hàng khác để thúc giục họ bán cổ phiếu cùng loại. “Vâng, tôi biết đó là trò lừa đảo.” – tôi nói với nhà đầu cơ đang nói chuyện với mình. “Đúng” – anh ta nói – “Nhưng ngày hôm sau họ sẽ lại gửi điện tín đến cùng những khách hàng đó và khuyên họ hãy bỏ qua loại cổ phiếu ngày hôm qua để chuyển sang mua hoặc bán loại khác. Tôi hỏi một anh bạn dày dạn kinh nghiệm hơn làm tại văn phòng đó rằng ‘Tại sao các anh phải làm như vậy? Phần đầu tôi hiểu rồi. Nếu nghe theo những bức điện tín thì một số khách hàng sẽ kiếm ra tiền trong chốc lát nhưng cuối cùng thế nào họ cũng thua. Nhưng gửi điện tín như vậy thì khác nào các anh giết họ. Mục đích của các anh là gì vậy?” “Ồ” anh bạn tôi nói “cho dù khách hàng mua cổ phiếu ở đâu, mua khi nào hay như thế nào thì cuối cùng họ cũng sẽ thua. Khi họ mất tiền, tôi sẽ mất khách. Tôi có thể kiếm được bao nhiêu tiền từ những khách hàng như vậy? Rồi tôi sẽ lại thu hoạch những mùa vụ mới.’ Tôi phải thẳng thắn mà thừa nhận rằng tôi không thèm quan tâm đến vấn đề đạo đức kinh doanh của công ty này. Tôi đã nói cho anh nghe rằng tôi cảm thấy thế nào khi công ty Teller chọc tức tôi. Nhưng với công ty này, tôi không hề có cảm giác như vậy. Có thể về bản chất, họ không phải là những kẻ lừa đảo hoặc cũng có thể họ không xấu xa đến mức như vậy, mọi chuyện chẳng qua là do người ta tô vẽ lên. Tôi cũng không định làm ăn với họ, nghe theo những lời mách nước của họ hay tin vào những lời dối trá của họ. Mối quan tâm duy nhất của tôi bây giờ là gom vốn và quay trở lại New York để lại được giao dịch cổ phiếu công bằng tại một văn phòng nào đó. Ở đó, anh sẽ không phải lo rằng cảnh sát sẽ săm soi nguồn vốn góp chung của anh như ở những công ty chứng khoán chui, cũng không sợ phải ngồi nhìn người ta kiểm soát và nắm giữ số tiền của anh để rồi nếu may ra thì một năm rưỡi sau, anh sẽ được nhận tám xu trên một đô-la tiền lãi. Dù gì thì tôi cũng quyết định tìm hiểu xem công ty này sẽ được lợi gì nhờ những kẻ mà chúng ta gọi là những nhà môi giới chứng khoán hợp pháp. Tôi không có nhiều tiền để đặt giá biên. Trong khi đó, những công ty này thoáng hơn rất nhiều trong vấn đề này, cũng bởi vậy mà vài trăm đô-la ít ỏi có thể sẽ sinh lợi rất nhiều trong văn phòng của họ. Tôi đến văn phòng của họ và nói chuyện riêng với người quản lý. Khi anh ta phát hiện ra tôi là một nhà đầu tư dày dặn kinh nghiệm có tài khoản tại các công ty thuộc sàn giao dịch chứng khoán New York và đã thua tất cả số tiền mang theo khi đến New York, anh ta thôi không hứa hẹn với tôi về số tiền tôi sẽ kiếm được nếu để anh ta đầu tư nữa. Anh ta cho rằng tôi chính là một nhà môi giới lão luyện, một kẻ chuyên theo dõi băng điện tín và chơi không biết mỏi, thắng thua cũng là chuyện thường nhật, một nhà cung cấp những chuyên gia môi giới với mức thu nhập ổn định. Liệu họ có thể khớp lệnh của anh không hay họ chỉ từ tốn lừa anh để anh trả tiền môi giới cho họ? Tôi nói với người quản lý rằng tôi đang tìm kiếm văn phòng nào thực hiện khớp lệnh nghiêm túc bởi vì tôi thường xuyên giao dịch trên thị trường chứng khoán và tôi không muốn nhận những bản báo giá chênh lệch những một nửa điểm đến một điểm so với giá báo từ băng điện tín. Anh ta nói hết lẽ với tôi bằng cả lòng thịnh tình rằng tôi sẽ thấy những gì họ làm là đúng. Họ muốn tôi kinh doanh ở đó vì họ muốn cho tôi thấy môi giới cấp cao là gì. Họ nói họ thuê được những chuyên gia môi giới giỏi nhất trong ngành kinh doanh cổ phiếu. Thực ra, họ chỉ nổi tiếng vì cách họ thực hiện khâu khớp giá mà thôi. Nếu giá trên bảng tin và giá trong báo cáo do môi giới đưa ra khác nhau thì chẳng qua cũng là vì họ muốn tốt cho khách hàng mặc dù họ không dám đảm bảo chắc chắn về điều ấy. Nếu tôi mở một tài khoản tại văn phòng của họ, tôi có thể mua hoặc bán ở mức giá theo bảng tin và họ vẫn rất tự tin về đội ngũ nhân viên môi giới của mình. Về bản chất, điều đó có nghĩa là tôi vẫn có thể giao dịch ở văn phòng của họ với những kế hoạch và mục đích như trước đây tôi đã làm ở những công ty chứng khoán chui - tức là họ để cho tôi tham gia giao dịch trong lần yết giá tiếp theo. Tôi không muốn tỏ ra quá lo lắng, vì vậy tôi lắc đầu và nói với anh ta rằng tôi đoán mình sẽ không mở tài khoản ngay trong ngày hôm đó nhưng sau, tôi sẽ cho anh ta biết lý do. Anh ta ra sức thúc giục tôi mở tài khoản ngay lập tức vì đây chính là nơi cho tôi kiếm tiền. Thực chất có một điều mà ngay bản thân họ cũng biết quá rõ: thị trường chuyển biến hết sức chậm chạp. Giá chỉ tăng hoặc giảm nhẹ vì mục đích của họ là thu hút khách hàng rồi loại họ ra khỏi cuộc chơi khi giá của những loại cổ phiếu họ mua theo những lời mách nước giảm hoặc tăng mạnh. Tôi cũng khó lòng mà bỏ cuộc được. Tôi cho anh ta biết tên và địa chỉ của mình. Cũng trong ngày hôm đó, tôi bắt đầu nhận được những bức điện tín và thư khuyên mua cổ phiếu này, cổ phiếu nọ. Trong thư điện tín, họ nói rằng họ biết có một nguồn vốn góp chung nội bộ đang hoạt động và cần tăng thêm năm điểm. Tôi tất bật đi lại và tìm mọi thông tin liên quan đến những văn phòng môi giới kiểu như vậy. Nếu tôi muốn chắc thắng mà không bị họ kiểm soát thì cách duy nhất để tôi kiếm tiền chính là mua bán tại những công ty chứng khoán chui ở gần đây. Khi tôi tìm được ba công ty mà mình có thể mở tài khoản, tôi chọn lấy một văn phòng và cho người chuyển những bức điện báo trực tiếp đến ba công ty trên. Tôi kinh doanh hết sức khiêm tốn, tránh để họ không thấy hoang mang ngay từ lúc đầu. Tôi cũng đã thu về ít tiền sau bao nhiêu đắn đo cân nhắc. Và chẳng bao lâu sau, họ nói với tôi họ thực sự mong đợi những khách hàng đã nhận được những bức điện báo trực tiếp từ các văn phòng của họ sẽ kinh doanh thực sự. Họ không muốn khách hàng kinh doanh quá dè dặt. Họ tính tôi càng đầu tư nhiều thì khả năng thua lỗ càng cao; và tôi bị loại ra khỏi cuộc chơi sớm bao nhiêu thì họ sẽ thắng lớn bấy nhiêu. Nếu xem xét kỹ, anh sẽ thấy rằng những người chỉ giao dịch với quy mô trung bình và những nhà đầu tư bình thường sẽ chẳng tồn tại được lâu, đó là lý thuyết về tài chính, nghe cũng có vẻ hợp lý đấy chứ? Khách hàng nào kinh doanh yếu kém sẽ khó lòng mà phát triển được, họ sẽ thường xuyên than vãn và tìm cách luồn cúi gây khó khăn cho chính ngành kinh doanh này. Tôi cũng thiết lập mối quan hệ với một công ty trong vùng. Họ đánh một bức điện báo đến thông tín viên của sàn giao dịch chứng khoán New York. Tôi nhờ người ta lắp đặt một bảng tin giá cổ phiếu và bắt đầu mua bán theo cách của riêng mình. Như tôi đã nói, công việc kinh doanh ở đó rất giống với ở những công ty chứng khoán chui, chỉ có điều diễn biến chậm chạp hơn chút ít. Đây là trò chơi mà tôi có thể tham gia được, và tôi đã vào cuộc. Tôi chẳng bao giờ chờ giá giảm đến mức mà tại đó, khả năng thắng của tôi là 100%. Trái lại, hết tuần này sang tuần khác, tôi chiến thắng nhờ những cân nhắc kỹ càng. Tôi lại có thể sống cuộc sống khá sung túc nhưng lúc nào cũng phải thực hiện chính sách tiết kiệm sao cho vốn liếng của mình càng ngày càng tăng để có thể trở lại phố Wall. Tôi gửi hai bức điện báo đến hai công ty môi giới nữa, nâng tổng số lên thành năm công ty và tất nhiên đều là những chỗ làm ăn tốt của tôi. Đã có nhiều lần kế hoạch của tôi đổ bể và giá cổ phiếu biến động không theo đúng quy luật của nó mà hoàn toàn trái ngược với những gì đã diễn ra trước đó. Dù sao thì tất cả những thứ đó vẫn chưa khiến tôi gục ngã dù có những lần tôi buộc phải đặt rất ít. Mối quan hệ của tôi với những công ty môi giới rất tốt. Không phải lúc nào tài khoản và điểm số của họ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tôi, thậm chí những chênh lệch giá nhiều khi còn phản lại tôi. Chẳng bao giờ có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào cả. Nhưng tôi đã chiến đấu cho chính mình và luôn tìm thấy lối thoát trong phút chót. Họ luôn hy vọng sẽ lấy lại được những gì tôi đã lấy đi của họ. Tôi cho rằng họ coi số tiền tôi kiếm được chỉ là những khoản tiền mà họ cho tôi vay tạm. Thực ra họ chơi không đẹp. Họ kinh doanh là để vơ vét tiền bằng những cạm bẫy hoặc trò lừa đảo và không bao giờ tự bằng lòng với những gì mà văn phòng công ty của họ đã có. Anh nên gọi ngành kinh doanh kiểu này là một ngành phi pháp bởi mặc dù người ta vẫn nghĩ rằng hoạt động của nó là hợp pháp vì trong đó, những kẻ mê cổ phiếu luôn luôn mất tiền khi họ “đánh bạc” bằng cổ phiếu – nói cách khác, họ chưa bao giờ đầu cơ thực sự. Những người trong cuộc không bao giờ hiểu được như vậy và họ vẫn cứ tiếp tục lao vào cuộc chơi. Đã có vài lần họ gây khó dễ cho tôi với những trò lừa đảo cũ rích. Họ thắng tôi hai lần vì tôi không tính toán cẩn thận. Họ chỉ làm được điều đó khi tôi không kiếm được nhiều tiền như thường lệ. Tôi nói rằng họ chơi không đẹp nhưng họ luôn chối cãi và kết cục là, tôi lại tiếp tục quay lại mua bán ở chỗ họ như thường. Thực ra cái hay của việc kinh doanh cổ phiếu với những trò lừa đảo là ở chỗ người ta sẽ tha thứ cho anh nếu anh phát hiện ra sơ hở của họ, miễn là anh vẫn tiếp tục làm ăn với họ. Và theo họ thì như vậy đã là ổn lắm rồi. Họ sẵn sàng gặp anh trong hiệp đấu khác. Đúng là những tâm hồn cao thượng! Tôi không thể kiếm đủ vốn để quay trở lại New York với tốc độ như thế này được, tất cả cũng chỉ vì những trò lừa đảo của những văn phòng môi giới này. Thế nên tôi quyết định phải dạy cho họ một bài học. Tôi chọn mua một số loại cổ phiếu mà người ta đổ xô vào đầu cơ trong thời gian trước và bây giờ đã trở thành loại ế ẩm. Tôi mua thật nhiều. Nếu tôi chọn loại cổ phiếu chưa bao giờ “sốt” như vậy thì thế nào họ cũng sinh nghi. Tôi trao lệnh mua của mình cho năm nhà môi giới. Khi họ đã nhận lệnh mua của tôi và số cổ phiếu đó đang chờ đến lần yết giá tiếp theo, thông qua văn phòng giao dịch chứng khoán nơi tôi đang mua bán ở đó, tôi gửi lệnh bán một trăm cổ phiếu loại đặc biệt. Tôi thúc người ta làm việc nhanh hơn. Ồ, anh hãy cứ tưởng tượng mà xem chuyện gì sẽ xảy ra khi đưa lên sàn lệnh bán một loại cổ phiếu hầu như không ai giao dịch văn phòng công ty môi giới với rất nhiều mối liên hệ với bên ngoài thị trấn lại muốn bán gấp. Một số người sẽ mua loại cổ phiếu giá rẻ. Nhưng giá giao dịch được in trên bảng tin mới chính là giá mà tôi sẽ trả cho năm lệnh mua của mình. Tôi kiên nhẫn đợi bốn trăm cổ phiếu loại đó xuống giá. Văn phòng môi giới hỏi tôi có nghe được thông tin gì ở đâu không, tôi nói tôi có người mách nước. Trước khi đóng cửa phiên giao dịch, nhanh như chớp, tôi gửi một lệnh mua đến một văn phòng có tiếng để mua lại một trăm cổ phiếu đó, dù gì thì tôi không muốn thua lỗ và tôi cũng chẳng quan tâm họ đã trả bao nhiêu. Bởi vậy, họ nhanh chóng gửi điện tín đến New York và lệnh mua một trăm cổ phiếu đó đẩy giá của chúng tăng nhanh chóng. Tất nhiên là tôi cũng gửi lệnh bán năm trăm cổ phiếu kia. Mọi việc diễn ra đúng như những gì tôi mong đợi. Tuy nhiên, vẫn không có gì biến chuyển nên tôi còn làm như vậy với họ trong vài lần nữa. Tôi không dám trừng phạt họ đến mức như họ đáng bị phạt, hiếm khi lên đến hơn một hay hai điểm trên một trăm cổ phiếu. Nhưng cũng nhờ vậy mà chỗ vốn liếng của tôi tiết kiệm để trở lại phố Wall cũng đã tăng lên đáng kể. Thỉnh thoảng tôi thay đổi lối chơi của mình bằng cách bán một số loại cổ phiếu hiếm nhưng tôi cũng không làm gì quá đáng hơn như vậy. Tôi lấy làm hài lòng vì mỗi lần trừng phạt họ, tôi thu về đến sáu trăm hay tám trăm đô-la. Mọi việc tiến triển vẫn rất tốt thậm chí giá cổ phiếu còn tăng nhanh hơn nhiều so với mức tăng mười điểm mà tôi dự tính. Tôi không mong đợi điều này cho lắm. Nó xảy ra khiến cho số cổ phiếu mà tôi đưa cho mỗi nhà môi giới đã tăng lên hai trăm chứ không còn là một trăm như thường lệ nữa mặc dù cả bốn văn phòng, chỉ có một trăm cổ phiếu. Như vậy cũng đã quá đủ với họ rồi. Họ cay cú về chuyện này và bắt đầu nghi ngờ về những bức điện tín. Đó là nguyên nhân tôi phải đến gặp người quản lý, chính là người đàn ông đã sốt sắng khuyên tôi mở tài khoản và tôi xin anh ta lượng thứ vì tôi đã “nắn gân” anh ta khi anh ta định chơi xấu tôi. Anh ta đã cao giọng, mà lẽ ra ở địa vị của anh ta người ta không nên lớn tiếng như vậy. “Đây chỉ là thị trường giả đối với loại cổ phiếu đó. Và chúng tôi sẽ không trả anh lấy một xu m. nào đâu đấy.” – anh ta chửi thề. “Một khi anh đã chấp nhận đơn mua của tôi thì đây không phải là thị trường giả nữa. Anh đã lôi kéo tôi, đúng chưa, vậy thì giờ anh phải để tôi ra. Anh không thể lừa gạt như vậy được, phải không?” “Tôi có thể đấy”. Anh ta thét lên. “Tôi có thể chứng minh là có ai khác nữa nhúng tay vào chuyện này.” “Ai nhúng tay vào chuyện này?” – tôi hỏi. “Một số người bạn của anh là cái chắc.” – anh ta nói. Nhưng tôi nói với anh ta: “Anh thừa biết là tôi chỉ chơi có một mình còn gì. Tất cả mọi người trong cái thị trấn này đều biết. Thậm chí họ biết như vậy kể từ khi tôi bắt đầu chơi cổ phiếu kia. Bây giờ tôi muốn khuyên anh một điều chân thành thế này: anh nên gửi lại tôi số tiền đó. Tôi không muốn xảy ra bất hoà. Hãy cứ làm những gì tôi nói đi.” “Tôi không trả. Đó chỉ là trò gian lận”. Anh ta vẫn thét lên. Tôi đã chán ngấy việc nói chuyện với anh ta vì vậy tôi nói: “Anh hãy trả tiền cho tôi ngay tại đây và ngay bây giờ.” Anh ta còn làm ầm lên một lúc nữa và còn trắng trợn buộc tội tôi là con bạc lừa đảo nhưng cuối cùng thì anh ta vẫn phải giao số tiền đó cho tôi. Những người khác trong văn phòng cũng không làm ầm lên như vậy. Ở một văn phòng nọ, vị quản lý đã biết được lối chơi cổ phiếu ít giao dịch nên khi nhận lệnh mua của tôi, anh ta mua cổ phiếu đó, trước là để cho tôi sau là nhờ vậy mà anh ta cũng kiếm được ít tiền. Những người như anh ta không ngại bị khách hàng kiện tụng tôi lừa đảo vì thường thì họ có thể tự bảo vệ được mình trước pháp luật. Nhưng họ sợ tôi sẽ tịch thu tài sản của họ vì họ không có những khoản dự trữ trong ngân hàng để phòng bị cho tình huống nguy hiểm này. Người ta nói họ làm ăn bất chính thì điều đó cũng không ảnh hưởng gì đến họ nhưng sẽ nguy hiểm chết người nếu họ bị mang tiếng xấu là chạy nợ. Với khách hàng, mất tiền ở công ty môi giới không phải là chuyện hiếm thấy. Nhưng đối với một khách hàng là một nhà đầu cơ chứng khoán, làm ra tiền mà không nhận được số tiền đó thì quả là chưa có gì tồi tệ bằng. Tôi đã nhận được số tiền của mình từ tất cả những thương vụ đó nhưng quãng thời gian tôi phải đối đầu với những trò lừa đảo đã kết thúc sau lần tăng giá mười điểm đó. Bây giờ, họ cũng phải trông chừng những trò lừa mà trước đây chính họ đã dùng để che mắt những khách hàng có ít tiền. Tôi trở lại kinh doanh như bình thường nhưng thị trường chứng khoán lại diễn biến không khớp với hệ thống của tôi, tức là tôi vẫn bị hạn chế số lượng lệnh mua hoặc bán cổ phiếu. Bởi vậy tôi không thể kiếm được những khoản lãi lớn. Tôi đã kinh doanh như thế trong suốt một năm và đã dùng mọi cách có thể để kiếm tiền tại những văn phòng môi giới chứng khoán kia. Tôi đã sống rất thoải mái. Tôi mua một chiếc ô tô và tiêu pha không có giới hạn. Tôi phải gom vốn nhưng tôi vẫn phải sống. Nếu vị thế trên thị trường của tôi thuận lợi, tôi phải cố gắng chi tiêu ít hơn số tiền mình làm ra để còn tiết kiệm được chút gì đó. Nếu những tính toán của tôi sai, tôi sẽ không thể kiếm lời, và như vậy có nghĩa là tôi sẽ không được tiêu pha gì. Như tôi đã nói, tôi cũng đã tiết kiệm được kha khá và ở năm văn phòng môi giới chứng khoán này cũng chẳng còn nhiều tiền cho tôi kiếm chác nữa. Bởi vậy, tôi quyết định trở về New York. Tôi sắm xe riêng và mời một người bạn cũng là một nhà kinh doanh cùng tôi trở lại New York. Anh ấy đồng ý và chúng tôi lên đường. Chúng tôi dừng xe ở New Haven để ăn tối. Tại khách sạn, tôi gặp một người bạn làm ăn cũ. Anh ta kể cho tôi biết bao nhiêu là chuyện trong đó tôi nhớ anh ta đã nói rằng có một công ty có bảng tin trong thị trấn đang làm ăn khá phát đạt. Tôi rời khỏi khách sạn để tiếp tục đến New York, nhưng tôi ghé qua khu phố có công ty chứng khoán chui kia xem tình hình bên ngoài thế nào. Tôi đã thấy nó và không thể không dừng lại để xem những gì đang diễn ra bên trong. Phòng giao dịch không lộng lẫy cho lắm, nhưng tôi đã thấy ở đằng kia một cái bảng đen cũ kỹ, cơ số những khách hàng và trò chơi đang diễn ra. Người quản lý là một người đàn ông đứng tuổi trông như thể trước đây ông ta đã từng theo nghề diễn viên hoặc nghề diễn giả. Nhìn ông rất ấn tượng. Ông ta nói chào buổi sáng như thể đã mười năm nay, ông ta đi khám phá vẻ đẹp của buổi sáng bằng cái máy tính của mình và như thể ông ta coi anh như một món quà tặng của khám phá đó, một món quà tặng của bầu trời, của mặt trời và của những tệp tiền trong ngân hàng vậy. Ông ta nhìn thấy chúng tôi đang lại gần trên một chiếc ô tô dáng rất thể thao. Chắc vì cái vẻ ngoài trẻ trung và non nớt của hai chúng tôi – nhưng tất nhiên tôi không cho rằng lúc đó nhìn mình như mới hai mươi – ông ta đã kết luận chắc chắn rằng chúng tôi đến từ xứ Yale. Tôi cũng không giải thích rằng không phải như vậy. Ông ta chẳng cho chúng tôi lấy một cơ hội được nói mà bắt đầu diễn thuyết. Ông rất vui khi gặp chúng tôi. Liệu chúng tôi có làm ăn gì ở đây được không nhỉ? Chúng tôi nhận ra trong buổi sáng ngày hôm đó, thị trường chứng khoán đang có chiều hướng giảm. Như vậy, thực tế mà nói, ở tuổi sinh viên đại học như chúng tôi mà muốn đầu tư vào thị trường này thì nhất định phải được chu cấp nhiều thêm tiền tiêu, mà từ thuở bình minh của lịch sử loài người đến bây giờ, sinh viên đại học có đủ tiền tiêu bao giờ. Nhưng chính tại đây trong giờ phút này, một khoản đầu tư nhỏ ban đầu có thể sẽ giúp chúng tôi thu được đến hàng nghìn đô-la tiền lãi do những lợi ích mà bảng tin mang lại. Kiếm được nhiều tiền hơn những khoản chi tiêu của bất cứ ai khác chính là mục đích của cả thị trường chứng khoán. Tôi cho rằng chắc sẽ đáng tiếc lắm nếu không làm theo những gì mà người đàn ông tốt bụng ở công ty chứng khoán chui kia rất muốn chúng tôi làm theo. Bởi vậy tôi nói với ông rằng tôi sẽ làm theo những gì ông bảo chỉ vì tôi cũng đã nghe nhiều người kể rằng họ kiếm được rất nhiều tiền trên thị trường chứng khoán. Tôi bắt đầu mua bán cổ phiếu, rất dè dặt và tăng quy mô mỗi khi thắng. Bạn tôi làm theo. Tôi ở lại qua đêm tại New Haven, đến sáng hôm sau đã thấy mình đang ở trong văn phòng của một công ty mến khách lúc mười giờ kém năm. Vị diễn giả kia rất vui khi gặp lại chúng tôi, chắc ông nghĩ rằng hôm nay sẽ đến lượt mình. Nhưng tôi chỉ kiếm có vài đô-la của 1500 cổ phiếu trong ngày hôm đó. Đến sáng hôm sau nữa, khi chúng tôi đến gặp “vị diễn giả vĩ đại” và đưa cho ông ta lệnh bán năm trăm cổ phiếu công ty đường, ông chần chừ một lát nhưng cuối cùng cũng lẳng lặng chấp nhận. Cổ phiếu đó giảm hơn một điểm, tôi đưa thẻ cho ông. Chính xác là tôi thu về được năm trăm đô-la lợi nhuận cùng với năm trăm đô-la tiền đặt giá biên của tôi. Ông lấy hai mươi đồng năm mươi đô-la từ ngăn tủ ra, tần ngần đếm đi đếm lại ba lần rồi lại đếm lại trước mặt tôi. Trông như thể tay ông đang đổ mồ hôi nhễ nhại, hình như đếm tiền lúc ấy là một cực hình với ông thì phải. Nhưng cuối cùng, ông cũng trả cho tôi. Ông khoanh tay, hơi mắm môi, chỉ một lát rồi thôi và nhìn chằm chằm lên chớp cửa ngay phía sau tôi. Tôi nói tôi muốn mua thêm hai trăm cổ phiếu thép nữa nhưng không thấy ông có động tĩnh gì. Ông không nghe thấy tôi nói thì phải. Tôi nhắc lại nguyện vọng của mình, chỉ thay đổi hai trăm thành ba trăm cổ phiếu thép. Ông quay sang tôi. Tôi đợi câu trả lời... một bài diễn thuyết nữa chăng. Nhưng tất cả những gì ông có thể làm lúc đó là nhìn tôi. Rồi ông mắm môi, nuốt nước bọt như thể ông sắp tấn công những tên quan tham đã ăn hối lộ của phe đối lập trong suốt mười lăm năm cai trị vậy. Cuối cùng ông vẩy tay về phía những đồng tiền có mặt sau màu vàng trong tay tôi và nói rằng: “Hãy đem những thứ bauble này đi” (“baule” theo tiếng địa phương nghĩa là tiền) “Đem cái gì đi cơ ạ?” – tôi hỏi. Tôi hoàn toàn không hiểu ông đang nói đến cái gì. “Các cậu định đi đâu, hai anh chàng sinh viên?” – ông nói, vẫn với cái vẻ đầy ấn tượng. “New York.” – tôi nói. “Hay đấy” – ông nói và gật đầu phải đến hai mươi lần – “Cực kỳ là hay. Các cậu sẽ đi khỏi đây ngay bây giờ, hay đấy, bởi vì tôi đã biết được hai điều, hai điều, hai anh chàng sinh viên ạ! Tôi biết các cậu không phải là ai và các cậu là ai. Đúng, đúng, đúng rồi!” “Thật vậy à, thưa ông?” – tôi nói rất lịch sự. “Phải. Cả hai cậu.” – Ông dừng lại một lát rồi im lặng đến đáng sợ và bắt đầu cằn nhằn: “Cả hai cậu đều là những con cá mập to nhất nước Mỹ, đúng không? Ừ…! Chắc các cậu mới vào nghề! Ừ…!” Chúng tôi bỏ đi mặc ông độc thoại. Có thể ông chẳng thèm bận tâm đến số tiền. Sẽ chẳng có con bạc chuyên nghiệp nào lại như vậy. Đó là tất cả những gì có thể diễn ra trong một trò chơi và rồi may mắn sẽ lại đến. Ông thấy mình trở thành kẻ ngốc trước chúng tôi và lòng tự tôn ít nhiều cũng bị động chạm. Tôi đã cố gắng tìm hiểu xem đâu là vấn đề trong hệ thống của mình, nguyên nhân gây ra những thất bại của tôi trong quãng thời gian ở văn phòng A. R. Fullerton và Co là gì. Tôi đã kiếm được mười nghìn đô-la đầu tiên khi tôi hai mươi tuổi, và sau đó tôi để mất số tiền ấy. Nhưng tôi biết tôi đã mất tiền như thế nào và vì sao – đó là vì lúc nào tôi cũng kinh doanh mà không quan tâm đến mùa vụ của nó, vì tôi vẫn cứ lao đầu vào đánh bạc ngay cả khi tôi không thể chơi theo hệ thống của mình, cả một hệ thống những tính toán mà tôi có được là nhờ dày công nghiên cứu và thử nghiệm. Tôi mong mình luôn chiến thắng nhưng ngược lại, tôi lại không nhận thức được rằng mình phải thắng theo một cách nào đó. Khi tôi mới hai mươi hai, vốn liếng của tôi đã lên đến năm mươi nghìn đô-la, và tôi đánh mất số tiền đó vào ngày mồng chín tháng năm. Nhưng tôi biết chính xác vì sao tôi thua và thua như thế nào. Đó là vì bảng tin báo giá chậm hơn so với diễn biến thị trường và những bứt phá trong động thái giá cổ phiếu chưa từng có trong cái ngày tồi tệ ấy. Nhưng anh có biết tại sao tôi lại thua lỗ sau khi trở về từ St. Louis - chính là sau cái ngày khủng khiếp mồng chín tháng năm đó không? Tôi đã có cơ sở lý luận, chúng sẽ là những phương thuốc cứu chữa cho những sai lầm mà tôi đã mắc phải và tôi nghĩ tôi đã tìm ra chúng ngay trong những cuộc chơi của mình. Nhưng tôi còn cần phải có thực tế. Tôi thấy sẽ chẳng có gì có thể sánh với việc mất tất cả những gì anh có trên thế giới này để được những bài học quý giá về những gì mình không nên làm. Và khi anh biết được anh nên tránh những gì có thể khiến anh thất bại, anh sẽ bắt đầu biết được mình nên làm gì để chiến thắng. Anh có hiểu ý tôi không? Anh sẽ bắt đầu biết được điều đó. Phần. 5 Tôi nghi ngờ rằng những kẻ săn tìm thông tin trên bảng tin hay người ta thường gọi là những con sâu của bảng tin đã quá sai lầm do tính chuyên môn hoá của chính họ. Điều đó có nghĩa là họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt cho những sự cứng nhắc của mình. Suy cho cùng trò chơi đầu cơ không hoàn toàn phụ thuộc vào những phép tính toán học hay các quy tắc đã định sẵn, cho dù những nguyên lý đó có thể vững chắc đến thế nào. Ngay trong quá trình đọc bảng thông báo của tôi vẫn cần có một cái gì đó nhiều hơn là số học thuần tuý. Có một yếu tố tôi thường gọi là cách ứng xử của một cổ phiếu, có thể giúp bạn thấy được liệu mọi việc có diễn ra đúng theo những sự tiên đoán được rút ra từ những quan sát của bạn hay không. Nếu một cổ phiếu nào đó thể hiện không giống những điều bạn đã dự đoán thì bạn không nên giao dịch nó nữa, nguyên nhân là nếu bạn không thể nói chính xác bạn đã sai lầm điều gì thì bạn không thể tiên đoán xu hướng của nó. Không có sự hội chẩn thì bạn không thể đưa ra sự chẩn đoán. Không có sự chẩn đoán, bạn không thể có lợi nhuận. Từ cách đây rất lâu người ta đã nghiên cứu cách ứng xử của một cổ phiếu và những động thái của nó đã xảy ra trong quá khứ. Khi tôi tới New York lần đầu tiên, tại văn phòng công ty môi giới có một người Pháp thường xuyên trình bày những biểu đồ của ông ta. Ban đầu tôi nghĩ rằng anh ta cũng chỉ là một dạng nhân viên làm công ăn lương bình thường tại công ty đó vì họ rất đôn hậu, tốt bụng. Nhưng sau đó, tôi phát hiện ra rằng anh ta là một trong những người có khả năng thuyết phục ấn tượng nhất. Ông ta nói rằng điều duy nhất không thể nói dối đơn giản vì nó không thể nói dối đó là chính là toán học. Thông qua các biểu đồ của mình, ông ta có thể đưa ra những dự đoán về các động thái của thị trường. Ngoài ra, ông ta còn có thể phân tích những động thái đó, chẳng hạn, chỉ ra tại sao Keene đã thành công trong thương vụ đầu cơ giá tăng rất nổi tiếng tại Atchison và tại sao sau đó ông lại thất bại trong vụ của tổ hợp đầu cơ Southern Pacific. Đôi khi cũng có những nhà đầu cơ chuyên nghiệp đã thực hiện thử theo hệ thống của người Pháp đó – và sau đó lại quay trở lại với phương pháp năm ăn năm thua của mình. Tôi nghe người Pháp đó nói rằng, chính Keene cũng thừa nhận rằng phương pháp biểu đồ là chính xác 100%. Tuy nhiên ông cũng cho rằng phương pháp nảy quá chậm khi sử dụng cho những mục đích thực dụng trong một thị trường năng động. Sau đó cũng đã có một cơ quan lưu giữ những động thái lên xuống hàng ngày của giá cả. Tuy nhiên, điều đó chỉ cung cấp một cái nhìn rất khái quát về những biến động của một cổ phiếu nào đó trong hàng nhiều tháng liền. Thông qua cách so sánh những đồ thị riêng biệt với đồ thị của thị trường chung và kết hợp với những nguyên tắc nhất định, khách hàng hoàn toàn có thể dự đoán được loại cổ phiếu mà họ đã mua vào theo một nguồn tin nội bộ nào đó có thể tăng lên hay không. Họ sử dụng các biểu đồ với tư cách một nguồn bổ sung cho các thông tin nội bộ. Ngày nay tại rất nhiều các công ty môi giới, bạn đều có thể tìm thấy những biểu đồ như vậy. Những biểu đồ đó là sản phẩm của các chuyên gia thống kê và nó không chỉ thể hiện về cổ phiếu mà còn về nhiều loại hàng hoá khác. “Tôi có thể nói rằng một biểu đồ sẽ giúp ích rất nhiều cho ai có thể đọc được nó hay tốt nhất là có thể “tiêu hoá” được những gì anh ta đã đọc được từ nó. Tuy nhiên, một người đọc biểu đồ thông thường có thể sẽ bị ám ảnh bởi quan niệm cho rằng, việc đầu cơ cổ phiếu chỉ bao gồm những điểm cực đại, cực tiểu trên biểu đồ hay những động thái trên thị trường sơ cấp và thứ cấp. Và nếu anh ta để lòng tin của mình đi quá những giới hạn logic của nó, thì rất có thể anh ta sẽ không tránh khỏi sự phá sản. Trước đây, một nhà đầu cơ rất lành nghề, là cựu cộng sự của một công ty môi giới nổi tiếng trên thị trường chứng khoán New York đồng thời là một nhà toán học được đào tạo chuyên môn đã tốt nghiệp tại một trường đại học công nghệ nổi tiếng, ông ta phân tích các biểu đồ dựa trên những nghiên cứu rất kỹ lưỡng và tỉ mỉ về những động thái của giá cả trên nhiều thị trường khác nhau – cổ phiếu, trái phiếu, ngũ cốc, bông, tiền tệ … Năm này qua năm khác, ông ta nghiên cứu những mối tương quan, những động thái thay đổi theo mùa, nói chung là tất cả mọi thứ liên quan tới giá cả. Và tất cả những việc ông ta làm thực sự đều hướng tới việc sử dụng một phương pháp mang tính khoa học cao. Người ta nói rằng, ông ta đã kiếm được khá thường xuyên cho tới khi chiến tranh thế giới nổ ra khiến tất cả các nhà giao dịch gần như phá sản. Tôi cũng nghe nói rằng, ông ta và những người ủng hộ đã mất hàng triệu đô-la trước khi ngừng giao dịch. Tuy nhiên, ngay cả một cuộc thế chiến cũng không thể khiến một thị trường không tăng giá khi các điều kiện tạo tâm lý tăng giá đã xuất hiện, hay giúp thị trường không giảm giá khi tâm lý giảm giá xuất hiện. Và tất cả những điều người ta cần làm để kiếm lợi nhuận chính là đánh giá được các điều kiện đó. Tôi không muốn nói lan man như vậy nhưng tôi không thể không nghĩ tới những ngày đầu tôi tới New York. Có những điều hiện nay tôi đã hiểu nhưng trước kia thì không, và tôi thường nghĩ đến những sai lầm bắt nguồn từ sự ngây thơ của mình vì đó cũng là những sai lầm mà các nhà đầu cơ vẫn mắc phải từ năm sang tới năm khác. Sau khi tôi quay trở lại New York nhằm thử sức với thị trường lần thứ ba tại một công ty môi giới chứng khoán, tôi đã nỗ lực giao dịch rất nhiều. Tôi không hy vọng có thể làm được như tại các cửa hàng buôn bán cổ phiếu chui nhưng tôi cho rằng sau một thời gian tô sẽ tiến bộ hơn và có thể giao dịch những khoản cổ phiếu lớn hơn. Đến bây giờ, tôi có thể nhận ra sai lầm của mình. Đó chính là không phân biệt được sự khác nhau sống còn giữa đánh bạc cổ phiếu và đầu cơ cổ phiếu. Tuy nhiên nhờ vào bảy năm kinh nghiệm đọc bảng thông báo cũng như những phẩm chất tự nhiên trong giao dịch cổ phiếu, nên tuy tôi chưa kiếm được nhiều thu nhập nhưng những cổ phiếu đó vẫn có tủ suất lợi tức rất cao những khoản cổ phiếu của tôi tuy không mang lại một lượng lợi nhuận lớn nhưng cũng có một tỷ suất lợi nhuận lớn. Vẫn như trước đây, tôi có khi thắng khi thua nhưng nói chung là thắng nhiều hơn thua. Càng kiếm được nhiều tôi càng tiêu tiền nhiều hơn. Đó cũng là tâm lý chung của rất nhiều người. Không nhất thiết chỉ là của những người kiếm tiền một cách nhanh chóng mà đó là một tâm lý chung của con người trừ những kẻ nô lệ của việc tích trữ tiền bạc. Cũng có những người như lão già Russell Sage khốn khổ, người sở hữu cả hai bản năng kiếm tiền và tích trữ tiền một cách xuất sắc và tất nhiên những người như vậy đều chết dí trong giàu có và tiền bạc. Công việc trên thị trường thường chiếm hoàn toàn thời gian của tôi từ mười giờ tới ba giờ mỗi ngày và sau ba giờ thì đó là thời gian tôi dành cho cuộc sống riêng của mình. Các bạn không nên hiểu lầm. Tôi không bao giờ để cho những trò ăn chơi ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của mình. Mỗi khi tôi thua lỗ thì đó là do tôi sai lầm mà hoàn toàn không phải do tôi phung phí. Tôi không bao giờ để những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới công việc của mình. Tôi không muốn làm bất cứ việc gì khiến tôi cảm thấy không thoải mái cả về mặt thể chất và tinh thần. Ngay cho tới bây giờ tôi vẫn giữ thói quen đi ngủ lúc 10 giờ tối. Khi còn trẻ, tôi cũng không bao giờ thức quá khuya vì tôi không thể thực hiện công việc một cách suôn sẻ nếu bị thiếu ngủ. Về cơ bản, tôi vẫn kiếm được nhiều hơn so với bị thua lỗ vì thế chẳng có lý do gì để tôi từ bỏ công việc hiện tại. Những điều kiện thị trường luôn ủng hộ tôi. Và dần dần, tôi có được sự tự tin đối với phương pháp đang tự nuôi sống được bản thân mình. Thay đổi đầu tiên trong cách chơi cổ phiếu của tôi chính là vần đề thời gian. Tôi không thể đợi đến khi các điều kiện trở nên rõ ràng và chắc chắn để rồi sau đó kiếm được một hai điểm như khi còn làm tại các công ty chứng khoán chui nữa. Tôi phải bắt đầu sớm hơn nhiều nếu muốn nắm bắt được những động thái xảy ra tại văn phòng của Fullerton. Nói cách khác, tôi cần nghiên cứu xem điều gì sẽ xảy ra hay chính là dự đoán những động thái trong tương lai của một loại cổ phiếu nào đó. Điều nay nghe có vẻ rất hiển nhiên nhưng có lẽ các bạn cũng hiểu tôi muốn nói gì. Đó là sự thay đổi trong thái độ của tôi đối với cách chơi cổ phiếu. Và nó sẽ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp của tôi. Dần dần, nó dạy cho tôi hiểu được sự khác biệt thiết yếu giữa việc đánh bạc một cách may rủi với những dao động lên xuống của cổ phiếu và việc phán đoán những đợt tăng giảm giá với xác suất cao hơn, hay chính là giữa đánh bạc và đầu cơ. Tôi thường nghiên cứu nhiều giờ đồng hồ liền những thay đổi của thị trường trước khi đưa ra quyết định, một điều tôi sẽ không bao giờ làm được dù tại một công ty buôn bán cổ phiếu chui lớn nhất. Tôi cảm thấy thích thú đối với những bản báo cáo giao dịch, các bản doanh thu của ngành đường sắt và những con số thống kê về tài chính và thương mại khác. Tất nhiên, tôi rất thích việc giao dịch với số lượng lớn và người ta thường gọi tôi là một “tay đầu cơ hạng nặng”. Ngoài ra tôi cũng thích nghiên cứu những động thái của thị trường. Tôi không bao giờ nghĩ công việc đó là tẻ nhạt nếu nó giúp tôi giao dịch một cách khôn ngoan hơn. Trước khi giải quyết một vấn đề, bản thân tôi cần hiểu rõ nó trước. Và tôi đã tìm ra được giải pháp khả năng chứng minh rằng tôi đã đúng. Chỉ có một cách để chứng minh điều này, đó chính là bằng số tiền tôi bỏ ra. Những tiến bộ của tôi khá chậm chạp nhưng tôi cho rằng mình đang cố gắng học nhanh nhất trong khả năng của mình vì tôi vẫn kiếm được lợi nhuận khi cân đối thu chi. Nếu tôi thất bại thường xuyên hơn thì điều đó càng thôi thúc tôi phải nghiên cứu nhiều hơn nữa. Tất nhiên, tôi cũng đã mắc phải nhiều sai lầm nhưng tôi không nhớ rõ giá trị của những vụ thua lỗ này. Tuy nhiên, nếu tôi lỗ quá nhiều thì chắc chắn tôi đã không thể có đủ tiền để kiểm chứng những tiến triển trong phương pháp giao dịch của mình. Khi xem xét lại những thương vụ thành công của tôi tại văn phòng Fullerton tôi phát hiện ra một điều: Mặc dù tôi thường dự đoán một cách chính xác 100% những động thái của thị trường – ý tôi muốn nói những dự đoán của tôi về các điều kiện thị trường và những xu hướng chung – nhưng tôi vẫn không thể kiếm được nhiều tiền. Điều mà lẽ ra tôi phải có. Tại sao lại như vậy? Ngay trong những chiến thắng chúng ta cũng có nhiều điều để rút ra, giống như khi bạn thất bại. Chẳng hạn, tôi theo đuổi tâm lý tăng giá ngay từ thời điểm đầu tiên của một thị trường giá tăng và cũng do tâm lý đó tôi bắt đầu mua vào cổ phiếu. Sau đó, giá bắt đầu tăng lên đúng như tôi đã dự đoán. Cho đến lúc này mọi việc vẫn rất tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi có thể làm gì được hơn thế? Lý do là vì tôi nghe theo lời khuyên của những người đi trước và cố gắng kiềm chế sự bốc đồng của tuổi trẻ. Tôi quyết định phải tỏ ra khôn ngoan và tham gia cuộc chơi một cách cẩn trọng. Mọi người đều biết rằng cách làm như vậy là nhằm kiếm những khoản lợi nhuận chắc chắn và mua lại cổ phiếu của bạn khi có những phản ứng từ thị trường. Đó chính là những việc tôi đã làm trước đây hay ít nhất là cố gắng để làm được; và do đó tôi kiếm được những khoản lợi nhuận chắc chắn nhưng đồng thời cũng chờ đợi những phản ứng chẳng bao giờ xảy ra của thị trường. Tôi chứng kiến cổ phiếu của mình tăng lên thêm 10 điểm và tôi vẫn án binh bất động với khoản lợi nhuận chắc chắn 4 điểm trong túi. Người ra nói rằng bạn không bao giờ trở nên nghèo khó nếu kiếm những khoản lợi nhuận chắc chắn. Tuy nhiên liệu bạn có thể giàu lên được không với khoản lợi nhuận 4 điểm trong một thị trường giá tăng. Lẽ ra tôi đã có thể kiếm được hai mươi ngàn đô-la nhưng tôi lại chỉ kiếm được hai ngàn. Đó chính là kết quả của sự bảo thủ. Và ngay khi tôi phát hiện ra rằng, tôi chỉ kiếm được một phần nhỏ số tiền mà lẽ ra tôi hoàn toàn có thể kiếm được thì tôi cũng có thể phát hiện ra một điều khác nữa. Đó là ngay trong số những tay mơ trên thị trường chứng khoán, cũng có sự khác nhau do kinh nghiệm của mỗi người. Những kẻ mới vào nghề hầu như không biết gì cả, mọi người, trong đó có cả anh ta, đều hiểu điều đó. Tuy nhiên, ở một cấp độ thứ hai, người ta lại nghĩ rằng mình biết rất nhiều thứ và cố gắng khiến người khác cũng cảm thấy như vậy. Anh ta cũng là một kẻ khờ khạo, nhưng đó là một kẻ khờ khạo đã có chút kinh nghiệm, đã từng chịu khó nghiên cứu. Nhưng thay vì xem xét bản thân thị trường, anh ta lại nghiên cứu những bản báo cáo thị trường do những kẻ khờ khạo ở cấp độ cao hơn cung cấp. Những kẻ khờ khạo cấp hai này biết cách tránh không khỏi bị mất tiền tốt hơn những người vừa mới bắt đầu. Đó có thể coi là những kẻ khờ khạo một nửa và không đến nỗi quanh năm là nạn nhân của những công ty môi giới. Trung bình, anh ta thường duy trì được khoảng ba năm rưỡi so với khoảng thời gian chỉ được từ ba tới bốn mùa của những người mới tham gia phố Wall lần đầu tiên. Đây cũng chính là những người thường xuyên trích dẫn những câu cách ngôn nổi tiếng trong giới giao dịch hay những nguyên tắc trong kinh doanh cổ phiếu. Anh ta biết tất cả những điều không nên làm được truyền lại như những lời sấm truyền của các bậc tiền bối đi trước - trừ một câu rất quan trọng, đó là: “Đừng bao giờ để cho mình bị biến thành một kẻ khờ khạo!” Đây cũng chính là những người luôn tự cho mình là đã “mọc răng khôn” khi luôn tìm cách mua vào khi giá giảm. Anh ta luôn chờ đợi những đợt giảm giá như vậy. Anh ta đánh giá mức giá hời của mình bằng số điểm thấp hơn so với giá trần mà anh ta đã mua được. Những khi thị trường tăng giá mạnh mẽ thì những kẻ chất phác đến khờ khạo này, bất chấp những nguyên tắc và tiền lệ, vẫn mua vào một cách mù quáng. Anh ta kiếm tiền dựa trên sự thông thái của những người khác cho tới một ngày nào đó, những phản ứng từ thị trường sẽ lại lấy đi tất cả của anh ta. Tuy nhiên, đó cũng chính là những việc mà tôi đã làm trước đây và đã từng cho rằng đó là một phương pháp rất thông minh. Tôi biết rằng tôi cần thay đổi những phương pháp giao dịch còn sót lại từ khi làm tại các công ty chứng khoán chui và tự nói với mình rằng tôi sẽ giải quyết vấn đề này của mình bằng bất kì sự thay đổi nào cần thiết, đặc biệt là những thay đổi quý như vàng rút ra từ kinh nghiệm của những nhà giao dịch giàu kinh nghiệm trong số các khách hàng của tôi. Phần lớn trong số họ - tôi gọi là các khách hàng - đều giống nhau. Hiếm khi bạn có thể tìm thấy một ai có thể nói một cách thành thật rằng phố Wall không nợ tiền họ. Tại công ty Fullerton’s luôn có cả đám đông người tụ tập, thuộc đủ mọi cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có một người không giống với những đám đông khác. Trước hết, đó là do ông ta đã khá già. Một điều nữa đó là ông ta không bao giờ tự nguyện đưa ra các lời khuyên và cũng không bao giờ khoe khoang về những chiến thắng của mình. Ông ta luôn lắng nghe một cách rất chăm chú đối với những những nhà giao dịch khác. Ông ta thường không thích tìm kiếm những nguồn tin nội bộ - ông ta không bao giờ hỏi những người cung cấp tin nội bộ rằng họ nghe được những gì hay biết được những gì. Nhưng mỗi khi có ai cung cấp cho ông ta một nguồn tin nào đó thì ông ta luôn cảm ơn một cách lịch sự. Đôi khi ông ta còn cảm ơn người cung cấp tin một lần nữa khi nguồn tin đó tỏ ra hữu ích. Nhưng nếu nguồn tin đó là sai lệch, thất thiệt ông ta cũng không bao giờ cằn nhằn. Chính vì vậy người ta không thể biết được ông ta có nghe theo hay lại bỏ ngoài tai những nguồn tin đó. Tại văn phòng này có truyền thuyết về một nhà giao dịch khá giàu có và có thể mua bán một lượng lớn cổ phiếu. Tuy nhiên, ta trả phí hoa hồng cho hãng không mấy hào phóng. Ít nhất thì đó là những gì mọi người thấy. Ông ta tên là Partridge, nhưng người ta thường gọi ông ta là “gà tây” do bộ ngực khổng lồ và thói quen đi khệnh khạng khắp các phòng với cái cằm sệ xuống tới tận ngực. Các khách hàng, những người thường thích được xô đẩy lôi kéo làm một việc gì đó nhằm có chỗ đổ lỗi những thất bại sau này, thường tìm tới Partridge và nói với ông ta rằng một người bạn của người bạn của một lãnh đạo nội bộ đã khuyên họ có động thái đối với một loại cổ phiếu nhất định. Họ sẽ nói với ông ta những việc họ chưa làm khi nhận được nguồn tin nội bộ và sau đó ông ta sẽ khuyên họ nên làm gì. Nhưng cho dù nguồn tin họ có khuyến khích mua vào hay bán ra thì câu trả lời của ông ta vẫn luôn giống nhau. Người khách hàng sau khi kết thúc câu chuyện khá rắc rối phức tạp của mình thường đặt câu hỏi: “Ông nghĩ tôi phải làm gì bây giờ?” “Gà tây” bắt đầu lúc lắc đầu và nhìn vào khách hàng của ông ta với một ánh mắt hiền hậu như giữa cha và con, cuối cùng luôn là một câu nói rất ấn tượng: “Anh biết không, đó chính là một đợt tăng giá của thị trường.” Hết lần này tới lần khác tôi đã nghe ông ta nói rằng: “Anh biết không, đó chính là một đợt tăng giá của thị trường”, như thể ông ta đang trao cho bạn một tấm bùa may mắn vô giá được gói trong một hợp đồng bảo hiểm tai nạn trị giá hàng triệu đô-la vậy. Và tất nhiên, tôi không thể hiểu được ông ta muốn nói gì. Một ngày kia, một người tên là Elmer Harwood lao sầm sập vào văn phòng, viết tờ lệnh giao dịch và trao cho người thủ quỹ. Sau đó anh ta lao về phía ngài Partridge đang lịch sự lắng nghe câu chuyện của John Fanning kể về lần ông ta nghe lén Keene đặt lệnh cho một trong những nhà môi giới của ông ta. Tất cả những gì John làm được là kiếm một khoản chênh lệch ba điểm cho 100 cổ phiếu. Tất nhiên, cổ phiếu đó đã tăng lên tới 24 điểm chỉ ba ngày sau khi John bán ra. John đã kể ít nhất bốn lần câu chuyện đau khổ của anh ta nhưng “gà tây” vẫn mỉm cười một cách đẩy cảm thông như thể ông ta mới nghe câu chuyện đó lần đầu tiên. Elmer lập tức tiến về phía “ông già” mà không có một lời xin lỗi đối với John Fanning tội nghiệp, anh ta nói với “gà tây”: “Ông Partridge, tôi vừa bán số cổ phiếu Climax Motors. Người của tôi nói rằng thị trường sẽ sớm đổi chiều, do đó tôi sẽ có thể mua vào với giá rẻ hơn. Ông cũng nên làm đúng như thế di. Ý tôi muốn nói là nếu ông vẫn còn số cổ phiếu đó.” Elmer nhìn một cách nghi ngờ vào người mà trước đây anh ta đã cung cấp nguồn tin nội bộ khuyên ông ta mua vào. Những người cung cấp tin nội bộ nghiệp dư hoặc miễn phí thường nghĩ rằng anh ta có thể tin chắc chắn vào nguồn tin đó dù anh ta chẳng biết nguồn tin đó sẽ đưa đến đâu. “Vâng, thưa ông Harwood, tôi vẫn còn loại cổ phiếu đó. Tất nhiên!” “gà tây” nói một cách biết ơn. Elmer đã rất tốt bụng khi nghĩ tới ông già tội nghiệp. “Bây giờ chính là lúc ông kiếm được lợi nhuận và sau đó mua lại cổ phiếu khi giá giảm xuống,” Elmer nói – nghe giống như anh ta đã ban một ân huệ to lớn đối với ông già tội nghiệp. Không thể tìm kiếm được sự biết ơn hay háo hức trên vẻ mặt của người nhận tin, Elmer đành nói tiếp: “Tôi vừa bán ra toàn bộ số cổ phiếu của mình.” Thông qua thái độ và giọng nói của anh ta bạn có thể ước đoán số cổ phiếu phải lên tới 10.000. Tuy nhiên, Patridge lắc đầu một cách tiếc nuối và kêu lên: ‘Không! Tôi không thể làm như vậy được.” “Cái gì?” Elmer kêu lên. “Đơn giàn là tôi không thể làm như vậy!” Patridge nói. Ông ta có vẻ đang rất bối rối. “Không lẽ tôi không cung cấp cho ông nguồn tin mua vào?” “Có chứ, ngài Harwood, và tôi rất biết ơn ngài. Thực sự tôi rất biết ơn, nhưng…“ “Đợi một chút! Để tôi nói trước! Cổ phiếu đó sẽ không tăng thêm bảy điểm trong tuần tới chứ? Có phải không?” “Có chứ. Và tôi rất biết ơn anh đó. Nhưng thực sự tôi không thể bán ra loại cổ phiếu đó.” “Ngài không thể?” Elmer hỏi và bắt đầu cảm thấy nghi ngờ bản thân mình. Đó đã trở thành một thói quen khi những người đi cung cấp tin nội bộ lại chính là những người sau đó lại trở thành người nhận tin.” “Không tôi không thể.” “Tại sao không?” Elmer tiến sát hơn. “Tại sao à, vì đó là một thị trường giá tăng!” Ông ta nói như thể đã đưa ra một sự giải thích đầy đủ nhất và chi tiết cho toàn bộ câu chuyện này. “Đúng rồi,” Elmer nói với vẻ giận dữ vì thất vọng. “Tôi cũng biết thị trường đang tăng giá như ông vậy. Tuy nhiên ông nên bán ra toàn bộ số cổ phiếu của ông và sau đó mua bù trở lại khi thị trường có phản ứng. Như vậy ông cũng sẽ được mua với giá thấp hơn.” “Anh bạn ạ,” ông lão Partridge nói với vẻ rất đau đớn – “anh bạn ạ, nếu tôi bán số cổ phiếu của tôi bây giờ thì tôi sẽ mất đi vị thế của mình, và sau đó tôi sẽ làm gì được?” Elmer Harwood vung tay lên và lắc đầu, anh ta tiến về phía tôi để tìm kiếm sự thông cảm “Anh thấy thế nào?” anh ta thì thầm với tôi “tôi hỏi anh đó!” Tôi không nói gì cả. Do đó anh ta tiếp tục: “Tôi cung cấp cho ông ta một nguồn tin nội bộ của Climax Motors. Ông ta mua 500 cổ phiếu. Ông ta đã kiếm được lợi nhuận với 7 điểm chênh lệch và bây giờ tôi khuyên ông ta nên bán ra và sau đó mua bù vào khi thị trường có phản ứng, thị trường đã tăng quá mức rồi. Vậy mà ông ta đã nói gì với tôi? Ông ta nói rằng nếu ông ta bán ra thì ông ta sẽ đánh mất công việc của mình. Anh thấy thế nào?” “Anh nghe nhầm rồi Harwood ạ, tôi không nói là tôi sẽ mất việc,” ông lão “gà tây” xen vào. “Tôi nói tôi sẽ mất đi vị thế của mình. Và khi anh đến tầm tuổi tôi bây giờ và anh đã trải qua không biết bao nhiêu đợt tăng giảm giá như tôi bây giờ, anh sẽ hiểu rằng việc đánh mất vị thế là một điều không ai có thể chấp nhận được, cho dù đó là ngài John D. Rokefeller đi nữa. Tôi hy vọng rằng số cổ phiếu đó sẽ đổi chiều và anh có thể mua lại số cổ phiếu của mình với giá thấp hơn, nhưng bản thân tôi chỉ có thể giao dịch dựa theo những năm kinh nghiệm của mình mà thôi. Tôi đã phải trả một cái giá rất đắt cho những năm kinh nghiệm đó và tôi không muốn trả thêm một khoản “học phí” lần nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết ơn anh mặc dù tôi không còn tiền trong nhà băng nữa. Anh biết đấy, thị trường đang tăng giá mà.” Sau đó ông ta khệnh khạng bước đi, bỏ mặc Elmer đứng đó trong sự ngỡ ngàng. Những điều ông lão Partridge nói không làm tôi bận tâm lắm cho đến khi tôi bắt đầu nghĩ về vô số những thất bại của mình khi không thể kiếm được số lợi nhuận lẽ ra tôi phải có khi tôi luôn có những dự đoán chính xác về động thái của thị trường. Càng nghiên cứu, tôi càng thấy rằng những lời nói của ông lão đó rất có lý. Rõ ràng là ông ta cũng đã trải qua vô số những sai lầm giống như tôi và ông ta hiểu được những điểm yếu của con người mình. Ông ta không để cho bản thân mình bị rơi vào những cám dỗ mà kinh nghiệm và những khoản “học phí” rất đắt đã dạy cho ông ta, cũng giống như hoàn cảnh của tôi lúc đó. Tôi nghĩ mình đã tiến một bước dài trong quá trình học hỏi trên thương trường khi cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng, ông lão Partridge nói với những khách hàng của mình rằng: “Anh biết đấy, thị trường đang tăng giá mà!” thì ông ta quả thực muốn nói rằng những khoản tiền lớn thường không nằm trong những đợt dao động giá cả riêng biệt, mà chúng nằm trong những xu hướng lớn hơn – nghĩa là không phải chỉ thông qua những con số trên bảng tin mà nó tổng hợp từ các yếu tố của thị trường và xu hướng của nó. Đến đây cho phép tôi được nói một điều. Đó là: sau nhiều năm lăn lộn tại thị trường phố Wall và sau khi đã kiếm được cũng như đánh mất hàng triệu đô la, tôi có thể nói với các bạn rằng chưa bao giờ tôi kiếm được những khoản tiền lớn thông qua tư duy. Đó đều là nhờ vào vị thế của tôi. Các bạn hiểu không? Một vị thế vững chắc. Không có một thủ thuật nào để tìm đúng thời điểm của thị trường. Bạn hoàn toàn có thể tìm thấy rất nhiều những người đầu cơ tăng giá sớm trong những đợt tăng giá của thị trường hay những kẻ đầu cơ giá hạ sớm trong những thị trường giá hạ. Tôi đã từng biết rất nhiều người luôn có mặt đúng thời điểm của thị trường, họ mua vào hay bán ra khi mức giá còn đang ở mức có thể mang lại cho họ nhiều lợi nhuận khác. Và những kinh nghiệm họ thu được cũng rất giống với tôi – đó là họ không hề kiếm được nhưng khoản tiền thực sự từ những thương vụ như vậy. Rất hiếm khi ta gặp được một nhà giao dịch có thể vừa xuất hiện đúng thời điểm vừa có một vị thế vững chắc. Tuy nhiên, đối với một nhà đầu cơ chuyên nghiệp, chỉ sau khi anh ta nắm chắc được điều này, anh ta mới có thể kiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ. Quả thực như vậy, một nhà giao dịch lành nghề có thể kiếm được hàng triệu đô-la dễ dàng hơn nhiều so với một người mới vào nghề kiếm được 100 đô-la. Nguyên nhân ở đây là một nhà giao dịch có thể thấy rất rõ những động thái của thị trường và anh ta trở nên mất kiên nhẫn, nóng vội hoặc nghi ngờ khi thị trường cần có thời gian để chuyển biến theo những kế hoạch của anh ta. Đó là lý do tại sao rất nhiều nhà giao dịch tại phố Wall, những người hoàn toàn không phải thuộc tầng lớp những kẻ khờ khạo, nhưng vẫn thường xuyên đánh mất những khoản lợi nhuận của mình. Không phải thị trường đã đánh bại họ. Họ đã thất bại bởi chính bản thân mình, mặc dù họ có trí óc nhưng họ không có được sự kiên nhẫn. Những hành động và lời nói của “gà tây” là hoàn toàn chính xác và hợp lý. Ông ta không chỉ có được sự dũng cảm để bảo vệ những lý lẽ của mình đồng thời có đủ trí thông minh để tỏ ra kiên nhẫn trước những động thái của thị trường. Đối với tôi việc bất chấp những dao động của thị trường và cố gắng xen vào những động thái đó là một việc quá mạo hiểm. Không ai có thể nắm được tất cả những dao động của thị trường. Trong khi thị trường tăng giá thì việc của bạn chính là cố gắng mua vào và sau đó giữ lại cho đến khi bạn tin rằng thị trường tăng giá đã gần đến hồi kết thúc. Để làm được việc này bạn cần nghiên cứu những điều kiện chung của thị trường thay vì nghe theo các nguồn tin nội bộ và những điều kiện của một cổ phiếu cá biệt nào đó. Sau đó bán ra toàn bộ số cổ phiếu của bạn, bán cho tất cả những ai muốn giữ chúng! Đợi cho đến khi bạn thấy rằng - hoặc nếu muốn thì đợi đến lúc bạn nghĩ rằng mình đã thấy được - thời điểm thị trường thay đổi. Nghĩa là thời điểm những điều kiện chung của thị trường bắt đầu đảo chiều. Để làm được việc này, bạn cần sử dụng trí não và tầm nhìn của mình. Nếu không, lời khuyên của tôi ở đây cũng chỉ như việc đề nghị bạn mua rẻ bán đắt mà thôi. Một bài học rất hữu ích cho tất cả mọi người, đó là cần cố gắng từ bỏ việc theo đuổi những khoản cuối cùng hay đầu tiên. Đây chính là hai khoản đắt giá nhất trên thế giới. Chúng đã khiến các nhà giao dịch chứng khoán mất đi nhiều triệu đô-la, số tiền đủ để xây một con đường bằng bê-tông xuyên qua cả lục địa này. Một điều nữa mà tôi nhận thấy trong quá trình nghiên cứu những thương vụ của mình khi làm tại văn phòng của Fullerton đó là những hoạt động đầu tiên của tôi hiếm khi khiến tôi bị lỗ. Điều đó khiến tôi bắt đầu với những thương vụ lớn hơn. Nó cũng tạo cho tôi sự tự tin vào những lý lẽ của mình và cho phép tôi bỏ ngoài tai những lời khuyên của mọi người và đôi khi tránh được cả sự thiếu kiên nhẫn trong công việc. Nếu không có lòng tin vào những lý lẽ của mình, một nhà giao dịch khó có thể tiến xa trong lĩnh vực này. Đó là tất cả những gì tôi đã học được trong thời gian này – nghiên cứu những điều kiện của thị trường, chọn cho mình một vị thế nào đó và kiên định với nó. Tôi có thể chờ đợi mà không cảm thấy mất kiên nhẫn. Tôi có thể chứng kiến những điều kiện bất lợi trước mắt nhưng không thấy dao động vì tôi biết rằng nó chỉ xảy ra trong một thời điểm nhất định. Tôi từng bán khống tới 100.000 cổ phiếu và sau đó chứng kiến một đợt phục hồi giá mạnh mẽ đang tới gần. Tôi nhận ra rằng – và tôi đã nhìn nhận đúng – đó là một đợt phục hồi giá tất yếu không thể tránh được, cho dù là đối với một khối lượng cổ phiếu lớn, và nó sẽ mang lại cho tôi một khoản lợi nhuận lên tới một triệu đô-la trên giấy tờ. Tuy nhiên, tôi vẫn án binh bất động và chứng kiến một nửa khoản lợi nhuận trên giấy của tôi ra đi mà không hề nghĩ tới những lời khuyên nên mua bù lượng bán khống và sau đó đặt lệnh bán khi giá đang phục hồi. Tôi biết rằng nếu tôi làm như vậy thì tôi sẽ mất đi vị thế của mình và kèm theo đó là một nguy cơ của một cuộc sát phạt lớn. Đó chính là một thương vụ lớn có thể mang lại cho bạn những khoản lợi nhuận khổng lồ. Tôi mất nhiều thời gian cho những bài học như vậy là do tôi học được qua những sai lầm của mình và luôn cần có thời gian từ khi mắc sai lầm đến khi nhận ra nó. Sau đó tôi còn cần nhiều thời gian hơn kể từ khi nhận ra và xác định được một cách chính xác lỗi lầm đó. Tuy nhiên đồng thời tôi vẫn cảm thấy khá hài lòng vì tôi còn rất trẻ, do đó tôi có thể sửa lỗi bằng cách khác. Phần lớn những thành công của tôi vẫn nhờ vào những kết quả tôi đọc được từ bảng tin do những điều kiện thị trường lúc đó khá phù hợp với phương pháp của tôi. Tôi cũng không bị thua lỗ nhiều như những năm đầu tại New York nữa. Đó không phải là điều gì đáng tự hào khi các bạn biết rằng tôi đã bị cháy túi tới ba lần trong chưa đến hai năm. Như tôi đã nói trên đây, bị phá sản cũng là một bài học rất hiệu quả đối với mỗi nhà giao dịch. Tôi không muốn tăng nhanh khoản tiền dẫn vốn của mình do tôi luôn cố gắng sống một cách đẩy đủ. Tôi không cố gắng tránh khỏi những cám dỗ mà bất cứ một người nào vào tầm tuổi tôi đều mong muốn. Tôi có xe hơi riêng và tôi không thấy có lý do nào để mình phải quá tiết kiệm khi tôi có thể kiếm được từ thị trường. bảng tin chỉ nghỉ vào ngày chủ nhật và các ngày lễ như thường lệ. Mỗi khi tôi tìm ra nguyên nhân của thua lỗ hay tìm ra nguyên nhân của một sai lầm, tôi lại thêm vào danh sách của mình một dong chữ “Không lặp lại” mới toanh. Do đó, cách tốt nhất để tăng thêm tài sản của tôi không phải thông qua việc cắt giảm những chi phí trong cuộc sống. Tất nhiên, tôi có những kỷ niệm rất thú vị và cũng có những kỷ niệm không thú vị. Tuy nhiên, nếu tôi kể hết ra ở đây thì có lẽ tôi không bao giờ kết thúc được. Và những điều đọng lại nhiều nhất trong tâm trí tôi đó là những bài học hữu ích trong công việc giao dịch, những kỷ niệm đã giúp tôi hiểu rõ thêm về công việc kinh doanh cổ phiếu – và cả về bàn thân mình. Phần. 6 Vào mùa xuân năm 1906, tôi đi nghỉ tại thành phố Atlantic. Lúc đó tôi đã bán hết cổ phiếu và chỉ muốn tới đây để nghỉ ngơi và thay đổi không khí. Tiện thể, tôi muốn trở về thăm những nhà môi giới đầu tiên của mình, Hardy Brothers, và tài khoản của tôi lúc đó cũng đã khá năng động. Tôi có thể giao dịch ngay lập tức khoảng ba, bốn ngàn cổ phiếu. Đó không phải là một lượng cổ phiếu lớn so với ngày tôi làm tại công ty Cosmopolitan khi mới hai mươi tuổi. Tuy nhiên ở đây có sự khác biệt giữa khoản số dư ký quỹ một điểm tại công ty chứng khoán chui trước kia và khoản số dư ký quỹ hiện nay khi các nhà môi giới thực sự mua bán cổ phiếu bằng tài khoản của tôi trên sàn giao dịch New York. Có thể các bạn vẫn nhớ câu chuyện tôi đã kể khi tôi bán khống 3.500 cổ phiếu Đường tại Cosmopolitan trong khi tôi có linh cảm có điều gì đó không ổn và đáng lẽ tôi nên hủy bỏ vụ giao dịch này. Tôi rất thường xuyên có cảm giác kỳ lạ này. Tông thường tôi nghe theo linh cảm này. Nhưng cũng đôi khi tôi gạt bỏ ý tưởng này vì cho rằng thật ngu ngốc khi nghe theo những linh cảm mù quáng này để đảo chiều vị thế của mình. Tôi cho rằng linh cảm đó chỉ là do tôi hút quá nhiều thuốc hay thiếu ngủ, đau gan hay những chuyện tương tự mà thôi. Mỗi khi tôi tự khuyên bản thân mình bỏ qua những linh cảm như vậy tôi luôn có lý do để phải hối tiếc sau đó. Trong hàng chục trường hợp khác nhau khi tôi không bán ra theo giác quan thứ sáu của mình, ngay ngày hôm sau khi xuống phố, thị trường đang rất năng động và thậm chí là đang tăng giá, tôi tự nhủ với bản thân mình đã ngu ngốc khi không tin theo những linh cảm mờ mịt kia. Tuy nhiên khi vào ngày hôm sau nữa, giá đột ngột giảm mạnh. Đã có chuyện gì đó xảy ra và tôi kiếm được một khoản lợi nhuận mà không phải nhờ vào sự khôn ngoan và logic tự nhiên. Rõ ràng rằng lý do ở đây không thuộc về triết lý mà là do tâm lý. Tôi muốn kể với các bạn một trong những trường hợp như vậy. Chuyện xảy ra khi tôi đang đi nghỉ tại Atlantic City vào mùa xuân năm 1906. Tôi có một người bạn cũng là khách hàng của hang môi giới Harding Brothers. Tôi không có ý định tham gia vào thị trường mà chỉ muốn đi nghỉ và thư giãn mà thôi. Tôi hoàn toàn có thể từ bỏ việc giao dịch một thời gian trừ khi thị trường trở nên khá nóng. Tôi nhớ rằng khi đó đang là thời điểm thị trường tăng giá. Triển vọng kinh doanh tương đối thuận lợi và tuy thị trường đang có dấu hiệu chậm lại nhưng tốc độ rất ổn định và tất cả các yếu tố khác đều hướng tới việc tăng giá. Một buổi sáng sau khi ăn và đọc xong các tờ báo ra buổi sáng của New York, chúng tôi bắt đầu đi dạo lên phố Broadwalk. Đó là chính là công việc thú vị nhất trong ngày của chúng tôi. Lúc đó là vào buổi sáng muộn, chúng tôi đi dạo một cách chậm chạp nhằm giết thời gian và hít thở luồng không khí mặn mà của biển. Anh em nhà Harding có một văn phòng chi nhánh tại Broadwalk và chúng tôi thường ghé qua đó mỗi buổi sáng xem họ mở cửa. Đó chỉ là một thói quen vì tôi không có ý định làm gì ở đó. Chúng tôi nhận thấy thị trường đang rất mạnh mẽ và năng động. Bạn tôi, với tâm lý đợi giá tăng đã mua vào một lượng tương đối lớn với giá thấp hơn một vài điểm. Anh ta bắt đầu nói rằng cần khôn ngoan giữ lại số cổ phiếu chờ cho giá tăng lên cao hơn. Tôi không mấy chú ý tới anh ta và cũng không buồn đồng ý với anh ta. Tôi đang mải xem bảng yết giá, chú ý tới những thay đổi - phần lớn giá đều tăng lên – cho tới khi tôi bắt gặp cổ phiếu Union Pacific. Tôi có cảm giác rằng tôi nên bán chúng đi. Tôi không thể nói được gì hơn nữa. Tôi chỉ có cảm giác cần bán ra mà thôi. Tôi tự hỏi bản thân mình tại sao lại có cảm giác như vậy, và tôi không tìm ra lý do tại sao tôi lại có ý định muốn bán khống cổ phiếu của Union Pacific. Tôi đứng xem chăm chú mã giá cuối cùng trên bảng tin cho đến khi tôi không thể nhìn được bất kì con số hay bảng tin hay bất kì thứ gì nữa. Tất cả những gì tôi nghĩ tới lúc đó là tôi muốn bán ra cổ phiếu của Union Pacific và tôi không thể hiểu tại sao mình lại muốn làm như vậy nữa. Có lẽ trông tôi khá kỳ quặc vì người bạn đang đứng bên cạnh tôi bỗng thúc vào tay tôi và hỏi: “Có chuyện gì thế?” “Tôi chẳng biết nữa.” Tôi trả lời. “Có muốn đi ngủ không?” anh ta nói. “Không cần đâu,” tôi trả lời. “Tôi không muốn đi ngủ. Việc tôi cần làm bây giờ là bán ngay loại cổ phiếu đó đi.” Tôi vẫn thường kiếm được những khoản lợi nhuận khá lớn khi tin theo linh cảm của mình. Tôi tiến lại chiếc bàn nơi người ta để sẵn một số tờ lệnh trắng. Anh bạn của tôi cũng đi theo. Tôi viết lệnh bán ra một ngàn cổ phiếu của Union Pacific và đưa cho người quản lý. Ông ta mỉm cười khi nhìn thấy tôi viết lệnh bán và sau đó nhận lấy tờ lệnh. Nhưng khi nhìn vào tờ lệnh ông ta không cười nữa và bắt đầu nhìn vào mắt tôi. “Ngài đã viết đúng chưa?” ông ta hỏi tôi. Tuy nhiên tôi chỉ nhìn thoáng qua ông ta và đưa lệnh cho người nhân viên trực. “Ông đang làm gì vậy?” anh bạn tôi hỏi. “Tôi bán cổ phiếu!” tôi nói với anh ta. ”Bán cổ phiếu nào cơ?” anh ta hét lên với tôi. Nếu anh ta đang đầu cơ giá lên thì tại sao tôi lại đầu cơ giá hạ? Chắc phải có vấn đề gì ở đây. “Một ngàn cổ phiếu Union Pacific,” tôi nói. “Tại sao?” anh ta hỏi tôi với vẻ rất ngạc nhiên. Tôi lắc đầu tỏ ý tôi cũng không hiểu tại sao nữa. Tuy nhiên, có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi phải nhận được một nguồn tin nội bộ nào đó, vì sau đó anh ta nắm tay tôi và kéo tôi ra khỏi khu hội trường nhằm tránh khỏi tai mắt của các khách hàng và những kẻ tò mò khác. “Ông nghe thấy gì vậy?” anh ta hỏi tôi. Anh ta có vẻ rất háo hức. Union Pacific là một trong những cổ phiếu con cưng của anh ta và anh ta cũng đang đầu cơ giá lên cho cổ phiếu này do khoản doanh thu cũng như những triển vọng rất tốt của nó. Tuy nhiên anh ta vẫn sẵn sàng chuyển sàng đầu tư giá hạ cho loại cổ phiếu này. “Không có gì cả!” tôi nói. “Không ư?” anh ta không giấu được vẻ nghi ngờ của mình. “Tôi chẳng nghe thấy gì cả.” “Thế tại sao ông lại bán ra?” “Tôi chẳng biết nữa,” tôi nói với anh ta một cách thành thật. “Ồ đừng như thế chứ Larry,” anh ta nói. Anh ta biết răng tôi có thói quen luôn biết được lý do tại sao mình lại giao dịch như vậy. Tôi vừa bán ra một ngàn cổ phiếu của Union Pacific và chắc chắn tôi phải có một lý do hợp lý khi bán ra một lượng cổ phiếu lớn như vậy khi thị trường đang tăng giá. “Tôi không biết,” tôi lặp lại một lần nữa. “Tôi chỉ có cảm giác là sắp có chuyện gì đó xảy ra.” “Điều gì sẽ xảy ra?” “Tôi không biết nữa. Tôi không thể đưa ra được lý do nào cả. Tôi chỉ biết rằng mình phải bán ra số cổ phiếu đó. Và tôi sẽ bán ra tiếp một ngàn cổ phiếu nữa.” Tôi đi trở vào văn phòng và đặt lệnh bán tiếp một ngàn cổ phiếu nữa. Nếu tôi đã đúng khi bán ra một ngàn cổ phiếu đầu tiên thì tôi cũng nên bán ra thêm một chút nữa. “Điều gì có thể xảy ra chứ?” anh bạn của tôi vẫn tiếp tục gặng hỏi, anh ta vẫn không thể quết định làm theo tôi. Nếu tôi nói với anh ta rằng tôi đã nghe được thông tin Union Pacific sẽ xuống giá thì anh ta sẵn sàng bán ra mà không cần hỏi tôi đã nghe thông tin đó từ đâu hay nguyên nhân tại sao. “Điều gì có thể xảy ra chứ?” anh ta hỏi tôi một lần nữa. “Hàng triệu thứ có thể xảy ra. Nhưng tôi không thể hứa đảm bảo với anh bất cứ điều gì cả. Tôi không thể đưa ra bất cứ lý do nào cũng như không thể dự đoán trước cho anh được,” tôi nói với anh ta. “Vậy anh bị điên mất rồi,” anh ta nói. “Anh điên thật rồi khi bán ra từng đó cổ phiếu mà không có lý do hay nguyên nhân gì cả. Anh có chắc là anh không biết tại sao mình lại làm như vậy không?” “Tôi không biết tại sao mình lại muốn bán ra số cổ phiếu đó. Tôi chỉ biết rằng mình muốn làm như vậy mà thôi,” tôi nói. “Tôi muốn làm như vậy, chỉ thế thôi.” Linh cảm thôi thúc tôi bán ra thêm một ngàn cổ phiếu nữa. Thế là quá đủ đối với anh bạn của tôi. Anh ta nắm lấy tay tôi và nói: “Lại đây! Chúng ta phải đi ra khỏi đây trước khi anh ta bán ra toàn bộ số cổ phiếu vốn của mình.” Tôi đã bán đủ số cổ phiếu theo linh cảm của mình do đó tôi đi theo anh ta ra ngoài trước khi nhận lại bản báo cáo về hai ngàn cổ phiếu tôi bán ở đợt sau. Tôi đã bán ra một lượng cổ phiếu rất lớn, cho dù là với lý do gì đi chăng nữa thì đó cũng là một việc rất kỳ lạ, đặc biệt là khi toàn bộ thị trường đang rất mạnh mẽ và năng động, và không có lý do gì để nghĩ tới một thị trường giảm giá cả. Tuy nhiên, tôi nhớ rằng những lần trước khi tôi không hành động theo những linh cảm của mình thì sau đó tôi luôn có lý do để phải hối tiếc. Tôi cũng đã kể với bạn bè một số câu chuyện như vậy, và một số người bạn nói với tôi rằng đó không phải là linh cảm mà điều đó thuộc về tiềm thức, tức là trí não vẫn làm việc một cách vô thức. Đó là một trạng thái tâm lý khiến những người nghệ sĩ đôi khi làm những việc mà sau đó họ không thể hiểu được tại sao mình lại làm như vậy. Đối với tôi có lẽ đó là hệ quả của những yếu tố riêng rẽ nhỏ lẻ được tích tụ dần dần. Có thể việc đầu cơ tăng giá không mấy sáng suốt của anh bạn tôi đã khiến tôi có cảm giác ngược lại và tôi chọn Union Pacific vì nó không được chào mời nhiều lắm. Tôi không thể nói được nguyên nhân hay động lực của những linh cảm như vậy. Tôi chỉ biết rằng khi tôi đi ra khỏi văn phòng chi nhánh Atlantic City của Harding Brothers thì tôi đã bán ra ba ngàn cổ phiếu Union Pacific trong khi thị trường đang tăng giá và tôi không có gì phải lo lắng cả. Tôi muốn biết mức giá họ đã bán hai ngàn cổ phiếu đợt sau của tôi nên sau bữa trưa chúng tôi đi lên văn phòng. Tôi cảm thấy hài lòng khi thị trường chung đang năng động và giá của Union Pacific đã tăng lên. “Tôi thấy anh hết tất cả rồi,” anh bạn tôi nói. Có thể thấy rất rõ sự vui mừng của anh ta vì đã không bán ra một cổ phiếu nào. Ngày hôm sau thị trường tiếp tục tăng giá và tôi chỉ còn bắt gặp những lời nhận xét chúc mừng của anh bạn của tôi. Nhưng tôi vẫn cảm thấy chắc chắn mình đã làm đúng khi bán ra số cổ phiếu của Union Pacific, đồng thời tôi không bao giờ cảm thấy thiếu kiên nhẫn khi biết rằng minh đúng. Điều đó cỏ nghĩa là gì? Chiều hôm đó cổ phiếu của Union Pacific bắt đầu ngừng tăng giá và đến cuối ngày hôm đó nó bắt đầu giảm giá. Nó nhanh chóng giảm xuống thấp hơn một điểm so với mức giá trung bình tôi đã bán ra 3.000 cổ phiếu kia. Tôi cảm thấy rất phấn khích khi biết mình đã đúng, và cũng do cảm giác đó tôi muốn bán thêm một lượng cổ phiếu nữa. Đến trước khi đóng cửa tôi bán ra thêm 2.000 cổ phiếu nữa. Như vậy tôi đã bán ra 5.000 cổ phiếu của Union Pacific chỉ dựa vào linh cảm của mình. Đó là số cổ phiếu lớn nhất tôi có thể bán được tại văn phòng của Harding với số dư ký quỹ tôi có ở đây. Trong một kì nghỉ, tôi bán ra một lượng cổ phiếu như vậy là khá nhiều, do đó tôi quyết định kết thúc kì nghỉ và trở về New York ngay trong đêm hôm đó. Không thể nói trước việc gì sẽ xảy ra nên tôi cố gắng luôn trong tình trạng sẵn sàng nhằm có những phản ứng đúng lúc nhất. Ngày hôm sau tôi nhận được tin tức về vụ động đất tại San Francisco. Đó là một thiên tai rất khủng khiếp. Tuy nhiên thị trường chỉ giảm giá hai điểm. Các thế lực đầu cơ tăng giá nhanh chóng bắt tay vào việc, và công chúng không bao giờ phản ứng một cách riêng rẽ với những tin tức trên thị trường. Điều này bạn có thể kiểm chứng bất kì lúc nào. Chẳng hạn khi có những nền móng vững chắc cho một đợt tăng giá thì cho dù báo chí có nói rằng đó là hoạt động làm giá hay không thì những tin tức đó cũng không có được tác dụng như mong muốn nếu thị trường phố Wall chuyển sàng tâm lý giảm giá. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tâm lý chung trong thời điểm đó. Trong trường hợp này, phố Wall không đánh giá hết tác động của thảm họa đó chỉ đơn giản là nó không muốn làm như vậy. Trước khi phiên giao dịch cuối ngày kết thúc, giá bắt đầu tăng trở lại. Tôi đã bán khống 5.000 cổ phiếu. Linh cảm của tôi đã hoàn toàn đúng tuy nhiên tài khoản của tôi tại ngân hàng vẫn không tăng lên, cho dù là trên giấy tờ. Người bạn của tôi tại Atlantic City khi tôi bán ra cổ phiếu Union Pacific tỏ ra vừa vui vừa buồn về thông tin đó. Anh ta nói với tôi: “Đó chỉ là linh cảm thôi ông bạn ạ. Tuy nhiên khi tất cả mọi người cũng như tiền bạc đang đổ về hướng đầu cơ tăng giá thì tại sao anh lại đi ngược lại xu hướng đó chứ. Rốt cuộc thì họ cũng chiến thắng thôi.” “Cần phải có thời gian,” tôi nói. Ý tôi muốn nói ở đây là về giá cả. Tôi sẽ không mua bù vì tôi biết rằng thiệt hại sẽ rất lớn và Union Pacific sẽ chính là nạn nhận lớn nhất của cuộc thiên tai này. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy khó chịu trước sự mù quáng của thị trường phố Wall. “Cần có thời gian và sau đó anh cũng sẽ bị vắt kiệt như những người đầu cơ giá hạ khác mà thôi,” anh ta khẳng định với tôi như vậy. “Thế anh sẽ làm gì?” tôi hỏi anh ta. “Mua vào cổ phiếu Union Pacific à, khi mà Souther Pacific và hàng loạt hãng khác đang phải chấp nhận mức thiệt hại lên tới hàng nhiều triệu đô-la à? Họ sẽ lấy gì để trả cổ tức khi đang phải chịu những khoản thiệt hại lớn như vậy? Anh chỉ có thể hy vọng vào một điều đó là thiệt hại không trầm trọng hơn mà thôi. Nhưng đó liệu có phải là lý do để mua vào cổ phiếu của những con đường đã bị tàn phá nặng nề như thế không? Anh thử trả lời tôi xem.” Tuy nhiên anh bạn tôi lại nói rằng: “Điều đó nghe có lý đấy. Nhưng tôi nói với anh rằng thị trường không đồng ý với anh về điềm này. Bảng tin không bao giờ nói dối phải không?” “Không phải trong trường hợp nào nó cũng nói sự thật đâu,” tôi nói. “Nghe này. Một người đã đến nói với Jim Fisk ngay trước ngày Thứ Sáu đen tối[2] về mười nguyên nhân nên bán ra thay vì giữ lại số vàng mà họ có. Anh ta cảm thấy quá phấn khích trước những lời nói của mình đến nỗi ông ta nói với Fisk rằng sẽ quyết định bán ra một vài triệu đô-la vàng. Và Jim Fisk chỉ nhìn anh ta và nói, “Đi đi, bán ra đi! Bán khống nhé và sau đó nhớ mời tôi tới lễ tang của anh nhé.” “Được thôi,” tôi nói; “và nếu người đó đã bán ra số vàng đó thì thử hình dung cuộc sát phạt mà anh ta sẽ tạo ra! Bản thân anh cũng nên bán ra một số cổ phiếu Union Pacific đi.” “Không! Tôi không phải là người thích làm giàu bằng cách chèo thuyền ngược gió đâu.” Ngày hôm sau khi xuất hiện những bản báo cáo chi tiết hơn, thị trường bắt đầu giảm giá, tuy nhiên đến thời điểm đó nó vẫn chưa giảm mạnh như dự kiến. Biết rằng không có gì trên trái đất này có thể giúp tránh khỏi một sự sụp đổ của cổ phiếu đó. Tôi quyết định gấp đôi số lượng bán ra và bán thêm 5.000 cổ phiếu nữa. Tất nhiên đến lúc đó nhiều người cũng đã nhận ra tình hình thực sự và các nhà môi giới của tôi cũng đã sẵn sàng giao dịch hơn. Đó không phải là hành động bồng bột của tôi hay của họ hoặc cách tôi đánh giá thị trường. Vào ngày hôm sau, thị trường bắt đầu đi đúng theo dự định. Sẽ có kẻ phải trả giá. Tất nhiên tôi cố gắng tận dụng sự may mắn của mình bằng việc gấp đôi số cổ phiếu bán ra lên tới 10.000 cổ phiếu và đó là việc duy nhất tôi có thể làm vào lúc đó. Tôi không nghĩ gì khác ngoài việc cho rằng tôi đã đúng – chắc chắn 100% – và đó quả là một cơ hội trời cho. Chỉ còn vấn đề là tôi có thể nắm bắt được nó hay không mà thôi. Tôi cố gắng bán ra thêm nữa. Liệu lúc đó tôi có nghĩ tới việc bán khống một lượng lớn cổ phiếu như vậy thì chỉ cần một đợt phục hồi giá cũng có thể quét sạch toàn bộ số lợi nhuận trên giấy tờ của tôi và thậm chí là cả nguồn vốn kinh doanh của tôi? Tôi không nhớ là tôi có nghĩ nhiều tới việc đó hay không nữa. Tuy nhiên tôi không cảm thấy bị áp lực nhiều lắm. Tôi không đánh bạc một cách mạo hiểm. Tôi đang giao dịch một cách rất cẩn thận. Người ta chẳng thể làm gì được để quay ngược lại trận động đất đó nữa. Họ cũng chẳng thể nào xây dựng và khôi phục lại tất cả cơ sở hạ tầng ngay lập tức một cách hoàn toàn miễn phí có phải không? Dù dồn tất cả tiền trên thế giới vào đó thì cũng chẳng thể khắc phục hậu quả trong vòng vài giờ đồng hồ, có phải không? Tôi không đánh cược một cách mù quáng. Tôi không phải là một kẻ điên khùng đầu tư giá hạ. Tôi không ngủ quên với những thành công hay cho rằng do thành phố San Francisco bị xóa khỏi bản đồ mà cả đất nước này sẽ trở thành một đống phế liệu. Thực sự tôi không nghĩ như vậy. Tôi không trông mong vào một cuộc đổ vỡ. Ngày hôm sau nữa tôi bắt đầu thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ. Tôi kiếm được 250.000 đô-la. Đó là chiến thắng lớn nhất của tôi tính đến thời điểm đó. Và khoản lợi nhuận đó kiếm được chỉ trong thời gian một vài ngày. Phố Wall không mấy chú ý tới trận động đất đó trong một hay hai ngày đầu. Họ cho rằng đó là do những bản báo cáo đầu tiên cho thấy tình hình không mấy nghiêm trọng, nhưng tôi nghĩ rằng đó là do mất quá nhiều thời gian để thay đổi quan điểm của công chúng đối với các thị trường chứng khoán. Ngay cả những nhà giao dịch chuyên nghiệp, phần lớn cũng tỏ ra chậm chạp và thiển cận. Tôi không thể đưa ra lời giải thích nào ở đây, cho dù là về mặt khoa học hay vì những lý do ấu trĩ nào đó. Tôi chỉ có thể kể cho các bạn việc tôi đã làm, tại sao tôi làm việc đó cùng những kết quả của nó. Tôi không quan tâm nhiều tới sự bí ẩn của những linh cảm của mình mà nghĩ nhiều hơn tới việc nhờ có nó mà tôi đã kiếm được triệu đô-la. Điều đó có nghĩa là tôi có thể giao dịch một khoản cổ phiếu lớn nhất từ trước đến nay của mình, nếu có cơ hội. Mùa hè năm đó tôi đi Saratoga Springs. Tuy đó là một kì nghỉ nhưng tôi vẫn luôn theo dõi sát sao các biến động của thị trường. Trước hết là do tôi không cảm thấy quá mệt vì vậy tôi vẫn nghĩ tới nó. Và sau đó là tất cả những người tôi biết ở đó đều thích thú đối với chủ đề này. Do đó chúng tôi nói chuyện một cách rất tự nhiên. Tôi nhận thấy có một sự khác biệt to lớn giữa việc nói và giao dịch thực sự. Một số người ở đây có thể khiến bạn nghĩ tới một nhân viên trơ trẽn đang nói chuyện với ông chủ hay gắt gỏng của họ như nói chuyện với một kẻ đê tiện nào đó. Harding Brothers có một văn phòng chi nhánh tại Saratoga. Ở đó họ cũng có rất nhiều khách hàng, tuy nhiên, theo tôi lý do thật sự ở đây là vì giá trị quảng cáo. Mở một văn phòng chi nhánh tại một khu nghỉ dưỡng như vậy sẽ là một công cụ quảng cáo rất hữu ích tới tầng lớp thượng lưu. Tôi từng ghé qua và ngồi ở đây một vài lần giữa những đám đông này. Người quản lý ở đây là một gã khá dễ chịu từ văn phòng New York tới, đó là người sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có thể. Đây là một thiên đường cho các loại tin đồn - từ đua ngựa cho tới thị trường chứng khoán và cả những nguồn tin của những người bồi bàn. Họ biết rằng tôi không có ý định tìm kiếm những tin đồn như vậy nên viên quản lý cũng không tới thì thầm cho tôi những nguồn tin nội bộ mà anh ta vừa nhận được từ văn phòng tại New York. Anh ta chỉ chuyển cho tôi những bức điện đại loại nói rằng “đây là những gì người ta gửi đi,” hay tương tự như thế. Tôi vẫn theo dõi thị trường. Với tôi, việc đọc bảng tin và những ký hiệu trên đó là một quá trình liền mạch. “Người bạn tốt” của tôi, Union Pacific, có vẻ như đang tăng giá. Giá vẫn đang ở mức cao nhưng có dấu hiệu đang có sự tích luỹ loại cổ phiếu này. Tôi theo dõi cổ phiếu này trong hai ngày liền nhưng không tham gia giao dịch. Càng quan sát tôi càng cảm thấy chắc chắn rằng có ai đó đang mua cân bằng cổ phiếu này. Đó chắc hẳn không phải là một tay cờ bạc dè dặt, một người không chỉ có tài khoản kha khá tại ngân hàng mà đồng thời cũng giao dịch rất lành nghề. Tôi cho rằng đó là một đợt thu mua tích luỹ rất khôn ngoan. Ngay khi tôi cảm thấy chắc chắn về vấn đề này, tôi bắt đầu mua vào với mức khoảng 160 điểm. Giá cổ phiếu vẫn rất ổn định do đó tôi tiếp tục mua vào, một lần 500 cổ phiếu. Tôi càng mua nhiều thì cổ phiếu đó càng mạnh hơn, điều đó làm tôi cảm thấy rất thích thú. Tôi không thể hiểu tại sao cổ phiếu đó không tăng giá nhanh hơn nữa, ít nhất là từ những gì tôi đọc được trên bảng tin. Bỗng nhiên người quản lý tìm tới tôi và nói rằng anh ta vừa nhận được một tin nhắn từ văn phòng tại New York - tất nhiên họ có một đường dây điện trực tiếp riêng - hỏi rằng tôi có mặt tại văn phòng không, và khi nhận được một câu trả lời là có, một bức điện khác được đưa tới: “Giữ ông ta ở đó. Nói với ông ta rằng ngài Harding muốn nói chuyện với ông ta.” Tôi nói rằng tôi sẽ đợi, và tôi mua thêm 500 cổ phiếu của Union Pacific. Tôi không thể nghĩ ra Harding có chuyện gì muốn nói với tôi. Tôi không nghĩ rằng đó là vấn đề về công việc kinh doanh. Số dư ký quỹ của tôi lớn hơn mức cần thiết cho số cổ phiếu tôi mua vào. Một lát sau người quản lý tới nói với tôi rằng ngài Harding muốn nói chuyện với tôi thông qua một cuộc điện thoại đường dài. “Chào Ed,” tôi nói. Tuy nhiên anh ta nói, “Có vấn đề quái quỉ gì với anh vậy? Anh có bị điên không vậy?” “Có phải anh không đó?” tôi nói. “Anh đang làm gì vậy?” anh ta hỏi. “Anh muốn nói gì?” “Việc anh mua cái cổ phiếu đó.” “Tại sao, số dư ký quỹ của tôi có vấn đề gì à?” “Đây không phải là vấn đề số dư ký quỹ, đó là vấn đề của một tên khờ ngu ngốc.” “Tôi không hiểu anh muốn nói gì.” “Tại sao anh lại mua vào cổ phiếu của Union Pacific?” “Tại giá đang tăng.” “Tăng giá quái quỉ gì! Chẳng lẽ anh không thấy là giới lãnh đạo nội bộ đang tìm cách đẩy số cổ phiếu đó cho anh sao. Anh chính là một đòn bẩy để họ tăng giá. Anh sẽ trở thành trò cười trong vụ giao dịch cổ phiếu này. Đừng để chúng lừa bịp anh như vậy chứ.” “Không có ai lừa bịp tôi cả,” tôi nói với anh ta. “Tôi còn chưa nói với ai về chuyện đó.” Tuy nhiên anh ta trả lời tôi rằng: “Anh không thể mong chờ vào một phép màu sẽ lại giúp anh thắng lợi đối với cổ phiếu đó một lần nữa. Cố gắng rút ra khi anh còn có thể làm được.” anh ta nói. “Quả là một tội ác khi mua vào cổ phiếu đó trong thời điểm này – khi mà những kẻ đầu cơ đang tống vô khối cổ phiếu ra thị trường.” “Bảng tin cho thấy họ đang mua vào,” tôi vẫn nài nỉ. “Larry, tôi cảm thấy đau tim khi thấy lệnh đặt mua của anh được chuyển tới. Vì tình yêu đối với Mike, đừng trở nên khờ khạo như vậy. Rút ra đi, ngay lập tức. Bây giờ anh bán ra số cổ phiếu đó vẫn kịp đó. Tôi đã làm hết sức của mình rồi. Tạm biệt!” Và anh dập máy. Ed Harding là một tay rất thông minh, luôn đầy đủ thông tin và là một người bạn thực sự, không vụ lợi và rất tốt bụng. Ngoài ra, tôi biết rằng anh ta có thể biết được rất nhiều tin nội bộ. Còn cơ sở của vụ giao dịch lần này của tôi khi mua vào cổ phiếu của Union Pacific, chỉ là sự mách bảo của nhiều năm nghiên cứu những động thái của cổ phiếu và một cảm giác về những biểu hiện mà kinh nghiệm của tôi đã cho thấy luôn đi kèm với một đợt tăng giá ổn định. Tôi không hiểu điều gì đã xảy ra với mình. Tuy nhiên, có lẽ tôi đã cho rằng số cổ phiếu đó được mua vào đơn giản chỉ là do một thủ thuật làm giá khôn ngoan của giới nội bộ nhằm khiến bảng tin đưa ra những số liệu không đúng sự thật. Có lẽ tôi bị ấn tượng bởi viễn cảnh tồi tệ mà Ed Harding đã vẽ ra trước mắt tôi khi anh ta cho rằng tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp. Không có gì phải đặt câu hỏi về khả năng cũng như động cơ của anh ta. Tôi không thể nói rõ ràng, nhưng cuối cùng tôi đã nghe theo lời khuyên của anh ta. Tôi bán ra toàn bộ số cổ phiếu Union Pacific của mình. Tất nhiên, nếu việc mua vào số cổ phiếu đó là một sai lầm thì việc bán ra lại càng sai lầm hơn nữa. Sau khi quyết định từ bỏ, tôi bán khống 4.000 cổ phiếu với mức giá khoảng 162 điểm. Ngày hôm sau ban giám đốc của Union Pacific công bố mức cổ tức 10% cho cổ phiếu của công ty. Ban đầu không ai tại phố Wall có thể tin vào điều đó. Câu chuyện giống như một cuộc lũng đoạn thị trường của những con bạc liều lĩnh. Tất cả các báo đều hướng về phía những thành viên của ban giám đốc. Tuy nhiên khi những tay lão luyện của phố Wall còn đang phân vân thì thị trường đã bắt đầu nóng lên. Số cổ phiếu của Union Pacific được giao dịch với mức giá và số lượng kỷ lục. Một số nhà giao dịch đã kiếm được cả một gia tài chỉ trong vài giờ đồng hồ. Tôi nhớ rằng sau đó có nghe câu chuyện về một chuyên viên giao dịch đã đút túi 350.000 đô-la nhờ vào một “lỗi” trong quá trình giao dịch. Ngay tuần sau anh ta bán chỗ của mình và tháng sau đó anh ta đã trở thành một ông chủ đồn điền phong lưu. Tất nhiên, ngay khi nghe thông tin về mức cổ tức 10% chưa từng có từ trước đến nay tôi đã nhận ra mình đã phải trả giá như thế nào khi thay vào tin tưởng kinh nghiệm của bản thân tôi lại nghe theo một nguồn tin nội bộ. Tôi đã bỏ niềm tin của mình sang một bên để nhường chỗ cho những nghi ngờ của một người bạn chỉ đơn giản vì anh ta hoàn toàn không vụ lợi và do đó anh ta biết mình đang làm gì. Ngay khi thấy giá cổ phiếu Union Pacific đạt mức tăng kỷ lục, tôi đã tự nhủ với bản thân mình, “Mình chẳng còn cổ phiếu nào để bán nữa rồi.” Tất cả những gì tôi còn lại chính là số dư ký quỹ tại văn phòng của Harding. Tôi không cảm thấy vui vẻ hay chán nản khi biết được thông tin này. Rõ ràng rằng tôi đã đọc chính xác những thông tin từ bảng tin và tôi đã quá dại dột khi để Ed Harding lung lay những quyết định của mình. Lúc này việc buộc tội lẫn nhau cũng không có ý nghĩa gì nữa. Tôi phải cố gắng tranh thủ