🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hoa Hồng Máu - David Baldacci Ebooks Nhóm Zalo LỜI DẪN Will Robie là một sát thủ bậc thầy, át chủ bài của CIA trong những vụ ám sát các nhân vật cấp cao trên thế giới để bảo toàn lợi ích của nước Mỹ. Một điệp viên sống trong bóng tối, trong cô độc. Không có ai có thể sánh tầm với tài năng của anh, không ai ngoại trừ Jessica Reel. Nhưng rồi, đột ngột như một phát súng chí mạng, Reel trở mặt với CIA và ra tay hạ sát 2 thành viên của tổ chức. Để ngăn chặn Reel, tổ chức cử Robie đi, với nhiệm vụ là mang Reel về, bất kể sống hay chết. Lấy độc trị độc. Muốn hạ một sát thủ bậc thầy, phải viện đến một bậc thầy sát thủ. Nhưng càng lần theo dấu Reel, Robie càng thấy đằng sau sự phản bội đó là vô số uẩn khúc. Những hồ sơ cá nhân bị chỉnh sửa, những manh mối bị lấp liếm, những điệp vụ không ai biết. Và nữa, tại hiện trường ám sát 2 nhân vật của tổ chức, Reel đều để lại những cánh hoa hồng trắng vấy máu. Cô muốn nói gì với anh? Những cánh hoa hồng đó có ý nghĩa gì? Và sau tất cả, ai mới là kẻ phản bội? CHƯƠNG 1 Cảm thấy như được tiếp thêm năng lượng bởi cái chết sắp xảy đến, Doug Jacobs chỉnh lại tay nghe bộ đàm và tăng độ sáng màn hình máy tính. Giờ thì hình ảnh đã rõ mồn một, gần như thể hắn đang ở đó. Nhưng tạ ơn Chúa vì hắn đã không có mặt ở nơi ấy. Nơi ấy cách đây cả ngàn dặm, nhưng không ai có thể nhận ra nếu chỉ nhìn vào màn hình. Họ không đủ sức chi trả để hắn có mặt trực tiếp tại nơi ấy. Vả lại, còn nhiều người khác thích hợp với công việc đó hơn. Hắn sẽ sớm liên lạc với một trong số những người đó. Jacobs liếc nhanh khắp bốn bức tường và chiếc cửa sổ duy nhất trong văn phòng ở Washington D.C đầy nắng của hắn. Đó là một toà nhà ít tầng bằng gạch trông rất đỗi bình thường tại khu phức hợp bao gồm cả những toà nhà lịch sử, hoặc xập xệ, hoặc đang được trùng tu. Nhưng một số yếu tố trong toà nhà của Jacobs lại không bình thường chút nào. Trong đó bao gồm cổng trước bằng thép kiên cố với hàng rào cao chót vót xung quanh khu đất. Lính gác có vũ trang đi tuần khắp các hành lang bên trong và camera giám sát bên ngoài. Nhưng nhìn từ ngoài vào không có dấu hiệu nào cho biết bên trong đang diễn ra chuyện gì. Và có rất nhiều chuyện đang diễn ra bên trong, Jacobs nhấc cốc cà phê mới pha lên, hắn vừa bỏ ba gói đường vào. Phải tập trung cao độ để theo dõi màn hình. Đường và caffeine đem lại cho hắn sự tập trung đó. Nó thích hợp với cảm giác hưng phấn mà hắn sẽ có trong vài phút tới. Hắn nói vào bộ đàm. “Alpha Một, hãy xác định vị trí,” hắn nói dứt khoát. Hắn chợt thấy mình giống như người điều khiển không vận đang cố giữ cho bầu trời bình yên. Ở khía cạnh nào đó thì mình đúng là như vậy. Chỉ có điều mục tiêu của tổ chức là tạo ra cái chết trong mỗi chuyến đi. Câu trả lời đến gần như lập tức. “Alpha Một đang cách mục tiêu bảy trăm mét về phía Tây. Trên tầng sáu, ở mặt hướng Đông của khu chung cư, cửa sổ thứ tư từ trái sang. Cậu có thể thấy họng khẩu súng trường của tôi nếu phóng to lên.” Jacobs nhoài người về phía trước và di chuyển chuột, phóng to hình ảnh vệ tinh thời gian thực của cái thành phố xa xôi này - mái nhà cho nhiều kẻ thù của nước Mỹ. Hắn thấy mũi ống giảm thanh được gắn vào họng khẩu súng trường thấp thoáng bên rìa cửa sổ. Khẩu súng trường đó được chế tạo riêng, có thể giết người ở khoảng cách xa - miễn kẻ sử dụng là tay thiện xạ lành nghề và có con mắt tinh tường. Kẻ đang sử dụng nó vào lúc này đích thực là người như vậy. “Đã nghe rõ, Alpha Một. Sẵn sàng khai hoả rồi chứ?” “Phải. Tất cả đã vào vị trí. Tâm ngắm tại mục tiêu. Giảm thanh sẵn sàng. Mặt trời lặn sau lưng tôi và chiếu thẳng vào mặt chúng. Không phản quang. Đã sẵn sàng.” “Nghe rõ, Alpha Một.” Jacobs xem đồng hồ. “Giờ địa phương là năm giờ chiều phải không?” “Không hơn không kém. Thông tin cập nhật.” Jacobs bật thông tin trên màn hình phụ. “Tất cả theo đúng kế hoạch. Mục tiêu sẽ xuất hiện trong năm phút nữa. Hắn sẽ bước ra từ chiếc limo bên lề đường. Hắn được lên lịch trả lời phỏng vấn trong vòng một phút trên vỉa hè, sau đó sẽ mất mười giây để đi vào toà nhà.” “Thời gian mười giây đi vào toà nhà đã được xác nhận chứ?” “Đã xác nhận,” Jacobs nói. “Nhưng một phút phỏng vấn có thể kéo dài hơn. Cô tuỳ cơ ứng biến.” “Nghe rõ.” Jacobs lại tập trung vào màn hình khoảng vài phút mới nhìn thấy mục tiêu. “Đoàn hộ tống đang đến gần.” “Tôi thấy rồi. Tầm nhìn rõ. Không có chướng ngại vật.” “Đám đông thế nào?” “Tôi đã theo dõi giao thông ở đây suốt một tiếng. Bảo vệ đã chăng dây giới hạn. Họ đã vạch sẵn đường đi của đối tượng cho tôi, như sàn diễn sáng đèn.” “Phải, tôi cũng thấy rồi.” Jacobs khoái được dự phần vào những vụ thế này mà không thực sự phải ở trong vòng nguy hiểm. Hắn được trả công hậu hĩnh hơn nhiều so với kẻ ở đầu dây bên kia. Ở phương diện nào đó thì việc này thật không hợp lý chút nào. Tình trạng của tay bắn tỉa không nằm trong tay cô ta, và nếu phát súng không thành công hay tín hiệu tẩu thoát đưa ra quá nhanh, cô ta sẽ đi đời. Còn ở đây, sự có mặt của hắn hoàn toàn được giấu kín, sẽ không ai biết hắn có liên quan. Tay súng không có tài liệu, không giấy uỷ nhiệm hay giấy tờ tuỳ thân nào có thể chứng minh đều ngược lại. Cô ta sẽ bị treo cổ chết. Và ở đất nước mà cuộc ám sát này đang diễn ra, đó sẽ là bản án của cô ta. Hoặc, có lẽ là chặt đầu. Trong khi Jacobs an toàn ngồi đây và kiếm bộn tiền hơn. Nhưng hắn nghĩ, Thiếu gì những tay có thể bắn và chuồn êm. Mình mới là kẻ phải lo các cuộc chiến về địa chính trị với những tên ngu độn này. Tất cả đều nhờ vào sự chuẩn bị. Và mình đáng đồng tiền bát gạo. Jacobs lại nói vào bộ đàm. “Đến đúng như dự đoán. Chiếc limo chuẩn bị dừng lại.” “Nghe rõ.” “Báo cáo cho tôi trước khi cô chuẩn bị bắn sáu mươi giây. Chúng ta sẽ giữ im lặng” “Nghe rõ.” Jacobs nắm chặt lấy con chuột của hắn, như thể nó là cò súng. Trong những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, hắn thực sự nắm chuột và ngắm mục tiêu biến mất trong quả cầu lửa. Nhà máy sản xuất phần cứng máy tính chắc hẳn chưa bao giờ hình dung được là thiết bị của họ lại được sử dụng vào mục đích đó. Hơi thở của hắn dồn dập hơn mặc dù hắn biết nhịp thở của tay súng đang đi theo chiều ngược lại, gần như về mo, một điều cần thiết cho những phát súng tầm xa thế này. Không có chỗ cho sự sai sót. Phải trúng và giết chết mục tiêu. Chỉ có vậy. Chiếc limo dừng lại. Đội vệ sĩ mở cửa. Những gã to lớn, mồ hôi nhễ nhại, tay cầm súng và tai đeo bộ đàm, nhìn quanh cảnh giác. Chúng khá ổn. Nhưng khá ổn chưa đủ để chơi lại với cừ khôi. Và tất cả những tay mà Jacobs gửi đi đều thuộc loại cừ khôi. Một gã đàn ông bước lên vỉa hè và nheo mắt trước ánh mặt trời đang tắt dần. Gã là một kẻ vĩ cuồng tên Ferat Ahmadi, muốn lãnh đạo một đất nước bạo lực, rối ren đến một con đường còn tối tăm hơn hiện tại. Điều đó sẽ không được phép xảy ra. Bởi vậy, đã đến lúc cần phải loại bỏ rắc rối nhỏ này trước khi nó trở thành cái gai trong mắt. Có một số tên khác tại đất nước của gã sẵn sàng đứng lên thay thế. Chúng đỡ xấu xa hơn, và chịu để các nước văn minh hơn sai khiến. Trong thế giới phức tạp quá mức như hiện nay, nơi mà đồng minh và kẻ thù có vẻ như thay đổi hàng tuần, thì chỉ cần vậy thôi cũng đã đủ tốt. Nhưng đó không phải là việc mà Jacobs quan tâm. Hắn chỉ đơn giản đang thực thi một nhiệm vụ, đặc biêt nhấn mạnh vào chữ “thực thi”. Rồi tai nghe của hắn vang lên ba tiếng: “Sáu mươi giây”. “Nghe rõ, Alpha Một,” Jacobs đáp. Hắn không nói câu gì ngu xuẩn kiểu như “chúc may mắn”. May mắn không có chỗ ở đây. Hắn bật đồng hồ đếm ngược trên màn hình máy tính. Hắn hết nhìn mục tiêu rồi đến đồng hồ. Jacobs nhìn Ahmadi nói chuyện với các phóng viên. Hắn nhấp một ngụm cà phê, đặt cốc xuống, rồi tiếp tục theo dõi Ahmadi kết thúc màn trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn. Gã bước ra xa khỏi đám phóng viên. Đội vệ sĩ ngăn không cho họ đi theo. Lối đi được chọn trước đã lộ ra. Ahmadi sẽ bước đi một mình để các phóng viên chụp hình. Sắp xếp như vậy là nhằm thể hiện cương vị lãnh đạo và bản lĩnh của gã. Đó đồng thời cũng là một lỗ hổng an ninh mà thoạt nhìn có vẻ không đáng bận tâm. Nhưng với một tay bắn tỉa lành nghề ở vị trí trên cao thì đó chẳng khác gì vết cắt dài gần năm mươi mét bên hông con tàu đang được chiếc đèn biển một tỉ nến[1] chiếu vào. Hai mươi giây giờ còn mười. Jacobs nhẩm đếm những khắc cuối trong đầu, mắt hắn dán chặt vào màn hình. Có kẻ sắp chết, hắn nghĩ. Sắp rồi. Điệp vụ sắp hoàn thành, sau đó sẽ chuyển sang mục tiêu tiếp theo. Nhưng trước đó phải ăn tối với beefsteak kèm một ly cocktail ưa thích và ba hoa về chiến tích mới nhất này với các đồng sự của hắn đã. Ba giây giờ còn một. Jacobs chẳng nhìn thấy gì ngoài màn hình vi tính. Hắn tập trung cao độ, như thể chính hắn mới là người sắp sửa nổ súng. Cửa sổ vỡ tan. Viên đạn ghim vào lưng Jacobs sau khi xuyên qua ghế làm việc của hắn. Nó lọt vào người hắn rồi vọt ra từ ngực hắn. Cuối cùng nó làm vỡ màn hình máy tính trong lúc Ferat Ahmadi bình an vô sự bước vào toà nhà. Ngược lại, Doug Jacobs ngã vật ra sàn. Không còn bữa tối với thịt bò beefsteak. Không còn ly cocktail ưa thích. Và không bao giờ còn được ba hoa nữa. Có kẻ đã chết. CHƯƠNG 2 Anh chạy dọc theo con đường mòn trong công viên với chiếc ba lô trên vai. Đã gần bảy giờ tối. Tiết trời khô hanh và mặt trời gần như đã lặn hẳn. Những chiếc taxi đang rú còi ầm ĩ. Những người đi bộ đang sải bước trở về nhà sau một ngày dài làm việc. Xe ngựa xếp thành hàng dài phía bên kia khách sạn Ritz Carlton. Cánh xà ích người Ai Len trong những chiếc mũ chóp cao cũ sờn đang đợi khách trong khi trời dần nhá nhem tối. Ngựa của họ gõ móng xuống mặt đường, đầu chúc vào những cái xô đựng thức ăn. Đó là khu trung tâm Manhattan trong vẻ huy hoàng lộng lẫy nhất của nó, quá khứ và hiện tại đan xen như những kẻ xa lạ rụt rè trong bữa tiệc. Will Robie không nhìn trái cũng chẳng nhìn phải. Anh đã nhiều lần đến New York, đã nhiều lần tới Central Park. Anh không đến đây với tư cách một vị khách du lịch. Anh chưa bao giờ đến bất kỳ nơi nào với tư cách một vị khách du lịch. Chiếc mũ liền áo được kéo lên và buộc chặt để che mặt. Central Park có rất nhiều camera giám sát. Anh không muốn lọt vào tầm ngắm của bất kỳ cái nào trong số chúng. Cây cầu đã ở ngay phía trước. Anh cán đích, dừng lại, và chạy tại chỗ để ổn định hơi thở. Cửa được xây trong một tảng đá. Nó đã bị khoá chặt. Anh lôi khẩu súng chuyên dụng ra và mở khoá. Anh lẻn vào trong rồi đóng cửa lại. Đây là nhà kho kiêm phòng điều khiển điện thuộc quyền quản lý của các công nhân có nhiệm vụ giữ cho Central Park sáng và sạch. Họ đã tan ca và phải tám giờ sáng mai mới quay lại. Như vậy là quá đủ để anh làm việc cần làm. Robie đặt ba lô xuống và mở ra. Bên trong là tất cả những dụng cụ cần thiết. Robie vừa bước qua tuổi bốn mươi. Anh cao hơn mét tám, nặng chừng tám mươi cân, người săn chắc. Cơ bắp vừa phải, dẻo dai. Vai u thịt bắp thì được tích sự gì kia chứ. Chúng sẽ chỉ khiến anh trở nên chậm chạp, trong khi tốc độ là điều tối cần thiết chẳng kém gì sự chính xác. Ba lô của anh chứa nhiều món dụng cụ khác nhau. Chỉ trong hai phút anh đã biến ba trong số chúng thành một thứ có công dụng đặc biệt. Một khẩu súng trường. Món thứ tư cũng quan trọng không kém. Ống ngắm. Anh gắn nó lên giá đỡ nòng trên đầu khẩu súng trường. Anh đã rà soát lại trong đầu mọi chi tiết trong kế hoạch của mình tới hai mươi lần, cả phát súng mà anh phải bắn lẫn kế hoạch thoát thân mà hi vọng có thể thực hiện được. Vốn đã thuộc lòng mọi thứ, nhưng anh vẫn muốn đạt đến cảnh giới không cần phải nghĩ, chỉ cứ thế hành động. Như vậy sẽ giúp anh tiết kiệm được những giây phút quý giá. Tất cả việc chuẩn bị hết chừng chín mươi phút. Rồi anh ăn tối. Một chai G2 và một thanh protein. Đó là khái niệm về buổi hẹn hò tối thứ Sáu với chính mình của Will Robie. Anh nằm xuống nền xi măng trong nhà kho, gối đầu lên chiếc ba lô rồi ngủ. Mười tiếng mười một phút nữa là đến giờ bắt tay vào việc. Trong khi những người bằng tuổi anh hoặc đang trở về nhà với vợ con hoặc đang đi uống cùng đồng nghiệp, hoặc đang hẹn hò, thì Robie ngồi một mình trong căn phòng nhỏ giữa Central Park này để đợi kẻ nào đó đến và giết. Anh có thể đắm chìm trong suy nghĩ về cuộc sống hiện tại của mình để cuối cùng chẳng tìm ra được câu trả lời thoả đáng nào, hoặc đơn giản anh có thể phớt lờ nó đi. Anh đã chọn cách phớt lờ. Nhưng có lẽ nó không còn dễ dàng như đã từng. Mặc dù vậy không khó khăn để anh chìm vào giấc ngủ. Và anh sẽ dễ dàng thức giấc. Và anh đã thức giấc, chín tiếng sau đó. Trời đã sáng. Chỉ vừa qua sáu giờ. Giờ đến bước quan trọng tiếp theo. Tầm nhìn của Robie. Thậm chí đó là yếu tố then chốt bậc nhất. Bên trong nhà kho, anh nhìn đăm đăm vào bức tường đá trống trơn với các vết vữa trát rộng bản. Nhìn kỹ hơn sẽ thấy hai cái lỗ nhỏ trong lớp vữa, được đục ở vị trí chính xác để có thể nhìn ra ngoài. Tuy nhiên tạm thời chúng được che lấp bởi một loại vật liệu mềm dẻo có màu trông như vữa. Đây là thành quả của nhóm giả dạng đội nhân viên cải tạo công viên tuần trước. Robie dùng kìm kẹp một đầu của cái ống dẻo rồi kéo nó ra. Anh làm thêm một lần nữa thì cái lỗ thứ hai hiện ra. Robie luồn họng khẩu súng trường vào cái lỗ bên dưới, sắp chạm tới đầu bên kia lỗ thì dừng lại. Tư thế này khiến góc ngắm của anh bị hạn chế đi rất nhều, nhưng anh không làm khác được. Bắt buộc phải vậy. Anh chưa bao giờ được hành động trong điều kiện hoàn hảo. Vị trí ống ngắm vừa khít với lỗ phía trên, đầu ống ngắm tựa chắc chắn vào lớp vữa. Giờ anh đã có thể thấy góc bắn của mình. Robie nhòm qua ống, đo lường mọi yếu tố khách quan lẫn chủ quan có thể ảnh hưởng tới nhiệm vụ của mình. Ống giảm thanh của anh đã được đặc chế vừa với họng khẩu súng trường và lỗ hổng. Nó sẽ giảm sức rung và âm thanh của nòng súng. Anh kiểm tra đồng hồ. Mười phút nữa sẽ đến giờ. Anh đeo tai nghe bộ đàm và bật bộ nguồn cài trên thắt lưng. Bộ đàm giờ đã sẵn sàng. Anh lại nhòm qua ống. Tầm ngắm đang cố định tại một điểm. Vì không thể di chuyển nòng súng, Robie sẽ chỉ có một phần nghìn giây để ngắm mục tiêu trước khi bóp cò. Nếu anh ra tay muộn một phần nghìn giây, mục tiêu sẽ sống sót. Robie gạt ý nghĩ quái gở đó ra khỏi đầu. Dĩ nhiên anh đã từng thực hiện những nhiệm vụ dễ dàng hơn. Nhưng anh cũng đã hoàn thành không ít các nhiệm vụ khó nhằn hơn nhiều. Anh thở sâu rồi thả lỏng cơ bắp. Thông thường Robie sẽ có người hỗ trợ từ xa giúp theo dõi mục tiêu. Nhưng sự phối hợp giữa anh và các đồng sự trên thực địa gần đây chỉ toàn thảm bại, nên lần này anh yêu cầu được hành động một mình. Nếu mục tiêu không xuất hiện, hoặc thay đổi lịch trình, Robie sẽ nhận được hiệu lệnh hủy bỏ nhiệm vụ từ bộ đàm. Anh nhìn quanh căn phòng chật chội. Đây sẽ là nhà của anh thêm vài phút nữa rồi anh sẽ không bao giờ nhìn thấy nó lần nữa. Còn nếu thất bại, đây sẽ là nơi cuối cùng anh nhìn thấy. Anh kiểm tra đồng hồ. Còn hai phút. Anh chưa vội quay lại với khẩu súng trường. Cầm vũ khí quá sớm có thể khiến cơ bắp của anh bị cứng và phản xạ sẽ không còn linh hoạt, trong khi sự nhanh nhạy và linh hoạt đang rất cần thiết vào lúc này. Khi chỉ còn bốn lăm giây, anh quỳ gối và ghé mắt vào ống ngắm, tay đặt lên cò súng. Tai nghe của anh vẫn im lặng. Có nghĩa mục tiêu đang trên đường đến. Nhiệm vụ vẫn được tiến hành. Anh không nhìn đồng hồ nữa. Giác quan thời gian bên trong cơ thể anh giờ đây chính xác không kém bất kỳ chiếc đồng hồ Thụy Sĩ nào. Anh dồn tất cả sự tập trung vào mắt. Ống ngắm rất hữu dụng, nhưng đồng thời cũng quá bất tiện. Mục tiêu có thể biến mất chỉ trong nháy mắt và những giây khắc quý giá có thể trôi qua trước khi nó kịp bắt lại mục tiêu, thế thì cầm chắc thất bại. Anh có cách riêng để đối phó với tình huống đó. Khi còn ba mươi giây, anh bắt đầu thở sâu hơn, dần điều chỉnh hơi thở và nhịp tim xuống từng chút một. Về mo là điều anh đang nhắm tới, cái thời khắc ngọt ngào để bóp cò mà hầu như luôn chắc chắn sẽ sát hạ mục tiêu. Tay không run rẩy, phản xạ không giật cục, mắt không chớp. Robie không nghe thấy tiếng động từ mục tiêu. Anh chưa thể nhìn thấy hắn. Nhưng chỉ trong mười giây nữa anh sẽ nhìn và nghe thấy hắn. Rồi anh sẽ chỉ có một khoảnh khắc để ngắm và bóp cò. Giây phút cuối cùng trôi qua trong chiếc đồng hồ tưởng tượng của Robie. Ngón tay anh chạm cò. Trong thế giới của Will Robie, một khi điều đó xảy ra, không còn đường trở lại. CHƯƠNG 3 Gã chạy bộ mà không mảy may bận tâm đến sự an toàn của mình. Gã đã trả tiền để người khác lo thay cho gã. Một người khôn ngoan sẽ nhận ra rằng không ai quý trọng mạng sống của mình hơn chính mình. Nhưng gã không phải người khôn ngoan nhất. Gã là kẻ đã tự đâm đầu vào những đối thủ chính trị quyền uy, và gã đã sắp phải trả giá. Gã tiếp tục chạy về phía trước, cơ thể săn chắc của gã nẩy lên nẩy xuống theo mỗi nhịp đẩy của hông và chân. Xung quanh gã là bốn người đàn ông, hai người chạy trước một quãng ngắn, hai người chạy ngay phía sau. Họ to khỏe và nhanh nhẹn, cả bốn người phải chạy chậm hơn tốc độ của mình để khớp với gã. Năm người có chiều cao và vóc dáng tương đương nhau, cùng mặc đồ thể thao màu đen như nhau, nhằm tạo ra năm mục tiêu thay vì một. Tay chân họ vung theo nhịp đều tăm tắp, chân giậm lên đường mòn, đầu và thân di chuyển cùng nhịp nhưng góc độ vẫn có chút khác biệt. Tất cả những điều đó gây khó khăn khủng khiếp cho bất kỳ kẻ nào có ý định bắn tỉa từ xa. Chưa kể, gã chạy giữa đang mặc áo chống đạn có thể chặn hầu hết các loại súng trường. Nhắm vào đầu là cách duy nhất để hạ sát gã, và một phát trúng đầu trong hoàn cảnh này ở bất kỳ khoảng cách nào cũng là điều không tưởng. Có quá nhiều chướng ngại vật. Và gã có tai mắt khắp nơi trong công viên; bất kỳ ai khả nghi hay mang theo vật gì lạ thường cũng sẽ bị chặn lại và bắt ngồi đó cho đến khi gã chạy qua. Tính đến giờ đã có hai người bị chặn lại. Nhưng bốn vệ sĩ kia là dân chuyên nghiệp, họ đã tiên liệu trước rằng, bất chấp những nỗ lực hết sức của họ, có thể vẫn có kẻ nào đó ngoài kia. Họ không ngừng quan sát xung quanh, luôn trong trạng thái sẵn sàng ra tay khi cần thiết. Góc cua phía trước là một yếu tố thuận lợi. Nó loại bỏ mọi tầm ngắm bắn tỉa, và phải cua gần mười mét mới lại đến đường chạy thẳng. Mặc dù được huấn luyện là không bao giờ được mất cảnh giác, nhưng bốn vệ sĩ đã thả lỏng mình trong giây lát. Dù có ống giảm thanh nhưng tiếng động gây ra vẫn đủ khiến đàn bồ câu trên mặt đất vỗ cánh bay lên; tiếng vỗ cánh và tiếng gù gù từ những cái mỏ khoằm nhỏ xíu của chúng vang lên như cự nự khi bị quấy rầy lúc sáng sớm. Gã chạy giữa ngã nhào về phía trước. Khuôn mặt của gã giờ chỉ còn là một cái lỗ toang hoác. Khoảng cách xa đã mang lại cho viên đạn 7,62 mm một động năng kinh người. Thực tế, càng đi xa, nó càng tạo ra nhiều động năng. Cuối cùng, khi chạm tới một vật rắn, như đầu người, sức tàn phá của nó phải nói là kinh hoàng. Bốn vệ sĩ kinh ngạc nhìn đối tượng được bảo vệ nằm sống soài bất động dưới đất, bộ đồ thể thao màu đen của gã lốm đốm máu và óc. Họ rút súng và nháo nhác nhìn quanh tìm người để bắn. Tay trưởng nhóm gọi điện yêu cầu tiếp viện. Nhiệm vụ bảo vệ không còn nữa. Giờ là trả thù. Chỉ có điều không biết trả thù ai. Đó là một phát bắn tỉa, và cả bốn người thắc mắc làm thế nào điều đó có thể xảy ra, nhất là ở khúc cua này. Trước mắt bốn gã chỉ có những người đang chạy hoặc đang đi bộ khác. Không ai trong số họ có thể giấu một khẩu súng trường trong người. Họ dừng cả lại và nhìn chằm chằm kinh hãi vào người đàn ông đang nằm trên mặt đất. Nếu họ biết gã là ai, nỗi kinh hãi đó sẽ chuyển thành nhẹ nhõm. • • • Will Robie không dành dù chỉ một giây để tận hưởng phát súng phi thường mà anh vừa bắn. Khả năng kiểm soát nòng súng và do đó là với cả phát súng này thật không tưởng. Nó giống như chơi trò đập chuột. Bạn không biết tại đâu hay khi nào mục tiêu sẽ nhảy ra khỏi lỗ. Phản xạ của bạn phải thật tuyệt vời, và phải ngắm thật chính xác. Robie đã thực hiện điều đó từ một khoảng cách khá xa và bằng súng trường chứ không phải bằng một cái búa của trẻ con. Chưa kể mục tiêu của anh không phải là một con rối. Gã có thể bắn trả. Anh nhấc ống chất liệu dẻo được dùng để thay thế lớp vữa lên, rồi rút từ trong túi ra một chai dung dịch làm cứng và trộn với bột đựng trong một lọ khác. Anh pha chất vừa pha lên một đầu và thân của hai ống dẻo rồi trét chúng qua lỗ hổng sao cho vừa khít. Rồi anh xoa lên đầu còn lại của ống. Hai phút nữa nó sẽ cứng lại, trông y hệt như như vữa trát tường, và sẽ không thể rút ra. Địa điểm ngắm bắn của anh đã biến mất như người trợ lý biểu diễn biến mất trong chiếc hộp của nhà ảo thuật. Ba lô trên lưng, Robie vừa đi vừa tháo rời vũ khí. Giữa phòng có một miệng cống. Bên dưới Cetral Park có vô vàn đường ngầm, một số thuộc về các công trình tàu điện cao tốc cũ, một số để xả rác thải và nước sinh hoạt, một số được xây vì các lý do không rõ và đã bị lãng quên. Robie chuẩn bị dùng mê cung ngầm đó để thoát thân. Anh đậy nắp cống trở lại sau khi đã chui xuống. Dùng đèn pin soi đường, anh trèo xuống chiếc thang bằng kim loại, được chừng chục mét thì chạm đất. Lối đi đã nằm trong đầu anh. Không có bất kỳ chi tiết nào của điệp vụ này được viết ra. Nếu cứ giấy trắng mực đen, chúng sẽ bị phát hiện trong trường hợp chẳng may Robie bị hạ thay vì mục tiêu của anh. Ngay cả với Robie, người có trí nhớ ngắn hạn tuyệt vời, đó cũng là một quá trình gian nan. Anh cẩn trọng di chuyển, không nhanh cũng không chậm. Anh đã đổ loại dung dịch nhanh đông vào nòng súng của mình và ném nó xuống một đường hầm; dòng nước chảy đều và xiết sẽ cuốn nó ra sông Đông, ở đó nó sẽ chìm vào quên lãng. Ngay cả khi nó bị phát hiện, với nòng súng đã bị bít đó, không một phương pháp kiểm tra đạn đạo nào có thể tìm ra manh mối. Thân súng đã bị ném xuống một đường hầm khác, bên dưới đống gạch đổ nát trông như thể đã nằm đó hàng trăm năm trời, mà nhiều khả năng đúng là vậy. Ngay cả khi phát hiện được thân súng, người ta cũng không thể theo đó lần tới viên đạn vừa giết chết mục tiêu của anh. Trừ khi có kim hỏa mà Robie đang nhét trong túi. Mùi dưới này thật khó ngửi. Có hơn sáu nghìn dặm đường ngầm dưới lòng đất Manhattan, quả là con số ấn tượng với một hòn đảo không có lấy một hầm mỏ nào. Các đường ngầm này chứa hệ thống ống vận chuyển hàng triệu lít nước uống mỗi ngày để phục vụ người dân của thành phố đông đúc nhất nước Mỹ. Một số đường ngầm khác mang rác thải từ chính các cư dân đó tới các nhà máy xử lý khổng lồ để tái chế thành những vật dụng hữu ích.. Robie giữ nguyên bước bộ trong một giờ đồng hồ. Hết thời gian đó, anh ngẩng đầu lên và nhìn thấy nó. Chiếc thang với dòng chữ GNỚƯĐ TỀH. Viết ngược của “HẾT ĐƯỜNG”. Anh không cười trước trò đùa nhạt nhẽo của kẻ đã viết dòng chữ đó. Giết người là một việc hệ trọng. Anh không thấy có lý do gì mà vui mừng cả. Anh mặc bộ áo liền quần màu xanh lam vào và đội chiếc mũ được treo sẵn trên tường. Vẫn đeo ba lô trên lưng, anh trèo lên thang và ra khỏi đường ngầm. Robie đã đi từ trung tâm thành phố tới khu phố trên, dưới lòng đất. Anh nghĩ giá được đi tàu điện ngầm thì thích hơn. Anh xuất hiện giữa công trường với các hàng rào dựng lên xung quanh một nắp cống trên đường. Các công nhân mặc áo liền quần màu xanh giống hệt Robie đang mải sửa gì đó khi anh chui lên. Xe cộ di chuyển xung quanh họ, taxi bấm còi inh ỏi. Khách bộ hành qua lại trên vỉa hè. Cuộc sống cứ thế tiếp diễn. Ngoại trừ cuộc sống của cái gã trong công viên. Robie không nhìn vào bất kỳ công nhân nào, cũng không ai trong số họ nhìn anh. Anh bước tới chiếc xe tải nhỏ màu trắng đỗ cạnh công trường rồi trèo vào ghế của hành khách. Ngay khi anh vừa đóng cửa, lái xe liền vào số và phóng đi. Người lái xe nắm rõ thành phố này như lòng bàn tay và đã chọn các lối đi tắt để tránh đường đông, rồi họ ra khỏi Manhattan, thẳng hướng tới sân bay LaGuardia. Robie trèo ra sau để thay đồ. Khi xe tải dừng lại ở khu vực trả khách tại sân bay, anh đã mặc vét, tay cầm cặp táp bước vào sảnh. Không giống như JFK, người anh em ngang hàng về mức độ nổi tiếng, LaGuardia là ông vua của các chuyến bay ngắn, hơn hẳn bất kỳ sân bay nào khác ngoài cái ở Chicago và Atlanta. Chuyến bay của Robie sẽ rất ngắn, khoảng bốn mươi lăm phút là đến D.C, chỉ vừa đủ để cất hành lý xách tay, ổn định chỗ ngồi, và nghe tiếng bụng réo cồn cào vì bữa ăn sẽ không được phục vụ trên một chuyến bay ngắn như thế này. Phi cơ của anh chạm mặt đất ba mươi tám phút sau tại sân bay quốc gia Reagan. Xe đã đợi sẵn. Anh bước lên, cầm tờ Nhật báo Washington đang nằm trên ghế sau và đọc lướt qua các tin bài. Chưa có tin về sự kiện đó, dĩ nhiên rồi, mặc dù báo mạng chắc hẳn đã đưa tin. Anh không cần đọc. Anh đã biết hết mọi chi tiết cần biết. Nhưng ngày mai, trên trang nhất của mọi tờ báo trên cả nước sẽ là hình ảnh người đàn ông trong Central Park ấy, người đi chạy bộ nhằm nâng cao sức khoẻ để rồi cuối cùng lại vì thế mà tàn đời. Một vài người sẽ thương tiếc gã, Robie biết. Đó là các đồng sự của hắn, những kẻ sẽ không còn cơ hội gieo rắc tai ương và khốn khổ cho người khác, hy vọng là sẽ mãi mãi không còn. Phần còn lại của thế giới sẽ vỗ tay hân hoan trước cái chết này. Robie đã từng giết nhiều kẻ gian ác trước đây. Người ta đã rộn lên vui mừng khi thấy một con ác quỷ nữa lìa đời. Nhưng rồi thế giới vẫn tiếp diễn, vẫn tồi tệ như xưa, và một con ác quỷ khác – thậm chí còn tai quái hơn – lại chồm lên thế chỗ con đã chết. Phát súng của anh trong buổi sáng trong lành và quang đãng giữa Central Park vốn thanh bình đó sẽ được nhớ đến trong một thời gian. Các cuộc điều tra sẽ được tiến hành. Các cuộc chiến ngoại giao sẽ được châm ngòi. Nhiều người khác sẽ chết trong công cuộc trả thù. Và rồi cuộc sống lại tiếp diễn. Để phục vụ đất nước. Will Robie sẽ lại lên máy bay, lên tàu, lên xe bus, hoặc như hôm nay, sẽ bước trên chính đôi chân mình, và sẽ lại bóp cò một khẩu súng khác, hay phi một con dao khác, hoặc bóp nghẹt sự sống của ai đó bằng chính đôi tay trần của mình. Rồi một ngày mai khác lại tới và tất cả sẽ trông như thể có ai đó vừa nhấn nút khởi động lại và thế giới sẽ chẳng khác gì trước đó. Nhưng anh vẫn sẽ tiếp tục thực hiện phận sự của mình, vì một lý do duy nhất. Nếu anh không làm, thế giới sẽ không còn cơ hội trở nên tốt đẹp hơn. Nếu những người có trái tim quả cảm chỉ đứng yên mà không làm gì cả thì những con quái vật sẽ luôn chiến thắng. Anh sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra. Chiếc xe chạy qua những con đường tới rìa Tây của hạt Fairfax, Virginia. Nó chạy qua cánh cổng được bảo vệ nghiêm ngặt. Khi xe dừng lại, Robie bước ra và vào bên trong tòa nhà. Anh không đưa ra bất kỳ thẻ căn cước nào, cũng không dừng lại để xin phép bất kỳ ai, cứ thế đi vào. Anh chậm rãi đi qua một hành lang ngắn để tới căn phòng anh sẽ ngồi lại một chút, gửi đi vài email, rồi sẽ về nhà - một căn hộ ở D.C. Thông thường, sau mỗi nhiệm vụ, anh sẽ đi dọc các con phố, không vũ trang, cho đến khi ngày tới. Đó là cách anh với hậu quả của những gì anh đã làm. Hôm nay anh chỉ muốn về nhà và không làm gì cả, chỉ ngồi xuống nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra. Một người đàn ông bước vào. Đó là người thường mang nhiệm vụ đến cho Robie bằng một chiếc USB. Nhưng lần này ông không mang gì ngoài vẻ mặt đăm chiêu. “Áo Xanh muốn gặp cậu,” ông nói ngắn gọn. Hầu như không gì ông nói có thể khiến Robie tò mò hay ngạc nhiên. Nhưng điều này thì có. Gần đây Robie thường xuyên gặp Áo Xanh. Nhưng trước đó – chính xác là suốt hai mươi năm trước đó – anh chưa một lần gặp ông. “Áo Xanh?” “Phải. Xe đang chờ.” CHƯƠNG 4 Jessica Reel ngồi một mình bên chiếc bàn giữa phòng chờ thương gia ở sân bay. Cô mặc quần tay màu xám và áo choàng trắng. Đôi xăng đan bệt màu đen có một quai ở mũi chân. Chúng nhẹ và được thiết kế sao cho dễ di chuyển và tăng tốc phòng khi cô phải chạy. Vật “lạ” duy nhất cô mang theo là chiếc mũ đang nằm trên bàn trước mặt cô. Đó là chiếc mũ cói màu rơm quấn ruy băng đen, thích hợp cho các chuyến du lịch vì nó có thể gập lại được. Reel đã đến rất nhiều nơi trong những năm vừa qua, nhưng chưa một lần cô đội một cái mũ nào trong các chuyến đi đó. Giờ có vẻ là thời điểm thích hợp để bắt đầu. Mắt cô trượt bâng quơ qua hàng ngàn hành khách vai đeo túi đựng laptop, một tay kéo lê hành lý, tay kia cầm cốc cà phê Starbucks. Những hành khách này lo âu nhìn lên bảng điều khiển để tìm cửa ra chỗ máy bay cất cánh, để xem thông báo hủy chuyến, giờ hạ cánh và cất cánh. Rồi một vài phút, hay một vài giờ sau, thậm chí có thể là nhiều ngày sau, nếu thời tiết không chiều lòng người, họ sẽ trèo lên những con chim bạc và bay hàng trăm hay hàng nghìn dặm để đến nơi họ cần đến, với hi vọng hành lý và sự minh mẫn vẫn còn nguyên vẹn. Hầu như ở mọi đất nước trên địa cầu, mỗi ngày có hàng triệu người nhảy vũ điệu mười nghìn mét trên không như thế. Reel đã làm vậy nhiều năm trời. Nhưng cô luôn di chuyển gọn nhẹ. Không laptop. Chỉ vừa đủ quần áo cho vài ngày. Không mang công việc theo mình. Nó luôn đợi sẵn ở nơi cô cần đến. Cùng với tất cả công cụ cần thiết để cô hoàn thành nhiệm vụ được giao. Và rồi cô sẽ tẩu thoát, bỏ lại ít nhất một người chết. Cô mở điện thoại. Trên màn hình là vé máy bay của cô. Tên trên vé điện tử không phải Jessica Reel. Việc đó có hơi bất tiện đối với cô vào khoảng thời gian nhiều biến cố bất ngờ này. Nhưng nhiệm vụ gần đây nhất của cô đã không diễn ra theo kế hoạch – ít nhất cũng không diễn ra theo kế hoạch của tổ chức cũ của cô. Nhưng dù sao nó cũng diễn ra đúng như những gì Reel đã dự kiến, bỏ lại một xác chết tên Dough Jacobs. Vì điều đó, Reel trở thành kẻ không được hoan nghênh ở tổ chức, không những vậy cô còn bị săn đuổi. Và những người cô từng phục vụ có cả tá điệp viên sẵn sàng đợi lệnh truy lùng và kết liễu cuộc sống của cô nhanh gọn hệt như những gì cô đã làm với Jacobs. Kết cục đó không đời nào nằm trong kế hoạch của Reel, bởi vậy cô phải có tên tuổi mới, giấy tờ mới, và chiếc mũ cói. Mái tóc nâu dài của cô đã nhuộm vàng. Kính áp tròng đổi màu mắt xanh sang xám. Và cô đã có cái mũi mới, cằm mới, nhờ ca phẫu thuật thẩm mỹ tài tình. Xét về mọi mặt, cô đã là một người phụ nữ mới. Và có lẽ một con người được giải thoát khỏi đáy sâu tăm tối. Chuyến bay của cô được xướng lên. Cô đứng dậy. Khi không có giày cô đã cao một mét bảy lăm, một chiều cao bất thường ở phụ nữ, nhưng cô hòa mình khéo léo vào đám đông hối hả. Cô đội mũ, mua cho mình một ly Starbucks và đi về phía cửa gần nhất. Chuyến bay khởi hành đúng như lịch trình dự kiến. Sau khoảng bốn mươi phút bấp bênh trên trời, nó nặng nhọc hạ cánh xuống đường băng rải nhựa chỉ vài phút trước khi cơn bão kịp ùa đến phía chân trời. Thời tiết biến động không khiến Reel bất an. Cô luôn chiến thắng trong trò xác suất. Cô có thể bay ngày ngày trong hai nghìn năm mà không bao giờ gặp phải tai nạn. Tỉ lệ sống sót của cô dưới mặt đất sẽ không cao đến vậy. Cô bước ra khỏi máy bay, đi tới khu vực đợi taxi và kiên nhẫn chờ đến lượt giữa hàng dài hành khách. Doug Jacobs là kẻ đầu tiên nhưng không phải cuối cùng, Reel có một danh sách dài trong đầu những người – mong sao – sẽ nhập bọn cùng hắn ở bên kia thế giới, nếu đó là nơi chứa những kẻ như Jacobs. Nhưng lúc này danh sách đó còn phải đợi. Reel phải đến một nơi. Cô trèo lên chiếc taxi còn trống tiếp theo rồi nhắm hướng trung tâm thành phố thẳng tiến. Chiếc taxi thả cô xuống gần Cetral Park. Công viên lúc nào cũng đông đúc, chật kín người, chó, công nhân và hối hả các sự kiện – một sự hỗn loạn có trật tự, nếu thực sự có điều đó trên đời. Reel trả tiền rồi tập trung chú ý tới cửa vào công viên gần nhất. Cô bước qua cổng và tìm cách tới gần nơi nó xảy ra hết mức có thể. Cảnh sát đã phong tỏa khu vực trên diện rộng để họ có thể thực hiện các giám định pháp y hòng tìm ra chứng cứ, và hi vọng có thể tóm được kẻ sát nhân. Họ đã thất bại. Reel biết điều đó trong khi cảnh sát New York thì không hề hay biết. Cô đứng chen chúc giữa đám đông ngay bên ngoài khu vực phong tỏa. Cô theo dõi cảnh sát tỉ mẫn làm việc, lùng sục từng phân trên mặt đất chỗ người đàn ông ngã xuống. Reel cũng nhìn vào khoảng đất đó và trong đầu cô dần hiện ra các chi tiết mà cảnh sát không hề biết rằng chúng có tồn tại. Mục tiêu của vụ này thì đã rõ. Một con quỷ cần được khai trừ. Điều đó không hề khiến Reel bận tâm. Cô cũng đã giết nhiều con quỷ khác. Và những con khác lại thay thế chúng. Đó là cách mà thế giới này vận hành. Tất cả những gì có thể làm chỉ là đi trước chúng một bước nhỏ. Cô đang tập trung vào những chi tiết khác. Những chi tiết mà cảnh sát không thể nhìn thấy. Cô ngắm hình người được vẽ lại trên mặt đất, hình dung đường đạn. Cô chắc rằng cảnh sát cũng đã làm việc đó, nghiệp vụ cơ bản mà. Nhưng chỉ trong chốc lát, khả năng suy luận và thậm chí là sự tưởng tượng của họ sẽ gặp phải giới hạn nghề nghiệp, và họ sẽ chẳng bao giờ tìm ra câu trả lời xác đáng. Về phần mình, Reel biết rằng điều gì cũng có thể xảy ra. Nên sau khi đã xem xét tỉ mỉ các khả năng và nhẩm tính mọi thuật toán để tìm ra vị trí của tay súng, cô tập trung vào bức tường đá. Một bức tường có vẻ không thể xuyên thủng. Không ai có thể bắn xuyên qua chướng ngại vật kiên cố đến vậy. Và cửa ra vào của căn phòng được bao quanh bởi bức tường đá đó không nằm trong đường ngắm tới mục tiêu. Mà hiển nhiên nó cũng được khóa kỹ. Bởi vậy cảnh sát đã loại bỏ khả năng đó ngay lập tức. Reel rời khỏi đám đông và sải bước về phía Tây, rồi phía Bắc, và cuối cùng mới tới phía Đông. Cô lôi ra một cái ống nhòm rồi chĩa về phía bức tường. Nó buộc phải có hai lỗ. Một cho họng súng lọt qua, đủ rộng để nhét ống giảm thanh. Và một cho ống ngắm. Reel biết chính xác vị trí và độ rộng mà hai cái lỗ đó cần phải có. Cô xoay ống nhòm. Bức tường hiện ra rõ hơn. Reel nhìn vào hai vị trí, một cái cao hơn cái còn lại, cả hai đều nằm trong lớp vữa. Cảnh sát sẽ chẳng bao giờ tìm được hai cái lỗ này vì họ sẽ không bao giờ tìm kiếm nó. Nhưng Reel thì có. Cô không nhìn thấy camera giám sát nào chĩa vào bức tường đá. Cần gì phải thế? Nó chỉ là một bức tường. Chính bởi vậy nó mới là công cụ hoàn hảo. Trên tường có hai mảng vữa hơi khác màu, như thể chúng vừa được trát. Chính xác là chúng vừa được trát, Reel biết chắc điều đó. Ngay sau khi phát súng được thực hiện, các lỗ hổng phải được lấp ngay. Hợp chất làm cứng là trợ thủ đắc lực. Trong khoảng vài giờ đến vài ngày sau, mảng màu sẽ có chút khác biệt, chỉ một chút khác biệt. Rồi nó sẽ giống hệt phần còn lại. Phát súng đã được thực hiện từ chỗ đó. Reel nhìn xuống mặt đất. Phòng bảo trì. Ống nước, đường ngầm. Bên dưới công viên là mê cung đường ngầm – đường nước sinh hoạt, rác thải và đường tàu điện ngầm bỏ hoang. Reel biết rõ điều đó. Cô đã sử dụng chúng trong một vụ ám sát vài năm trước. Có nhiều chỗ để chạy trốn và ẩn náu bên dưới thành phố lớn nhất nước Mỹ này. Hàng triệu người chen lấn phía trên để giành lấy chút không gian, trong khi dưới này, bạn có thể đi lại một mình như đang đi trên mặt trăng. Reel cất ống nhòm rồi lại đi tiếp. Lối thoát hẳn phải ở ngoài rìa thành phố. Rồi kẻ nổ súng sẽ trèo lên mặt đường, nhảy lên xe đi tới sân bay hoặc tới ga và kết thúc điệp vụ. Kẻ nổ súng được an toàn. Còn nạn nhân tới nhà xác. Báo chí sẽ tràn ngập tin về vụ án một thời gian. Đâu đó sẽ nổ ra vài vụ trả đũa chính trị, rồi vụ việc sẽ chìm vào quên lãng. Rồi những vụ việc khác lại thế chỗ. Một mạng người chỉ có ý nghĩa như một hạt cát. Thế giới này quá rộng lớn. Và có quá nhiều người phải chết thảm thương, chẳng ai hơi đâu tập trung quá lâu vào chỉ một trong số đó. Reel đi về phía khách sạn cô đã đặt phòng. Cô sẽ tới phòng tập để giải tỏa đầu óc, sẽ tắm rửa, ăn tối, rồi suy ngẫm. Chuyến thăm Central Park của cô không phải không có mục đích. Will Robie là một trong những điệp viên hàng đầu, đúng hơn là điệp viên giỏi nhất mà họ có. Reel không chút hoài nghi Robie chính là người đã nổ súng vào buổi sáng hôm đó ở Central Park. Anh đã xóa dấu vết, đã tẩu thoát bằng đường ngầm, đã lên máy bay trở về D.C, và quay lại văn phòng. Tất cả chỉ là chuyện thường trong thế giới của Robie. Trong thế giới của mình nữa. Đã từng. Thế giới đó đã chấm hết theo Dough Jacobs. Báo cáo duy nhất về mình mà họ muốn vào lúc này là kết quả khám nghiệm tử thi. Reel chắc chắn rằng Robie sẽ được triệu tập để nhận một nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ của anh ta sẽ là truy tìm và giết chết mình. Cử một sát thủ đi bắt một sát thủ khác. Robie đấu với Reel. Một trận chiến ly kỳ. Chẳng khác gì một trận chiến mang tầm vóc thế kỷ. Và cô cược rằng sẽ đúng là như vậy. CHƯƠNG 5 Ngoài trời đang mưa. Tuy căn phòng không có cửa sổ nhưng Robie có thể nghe được tiếng những giọt nước rơi xuống mái nhà. Trời đã trở lạnh chỉ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Mùa đông chưa đến hẳn, nhưng nó đã bắt đầu gõ cửa. Robie đặt một bàn tay lên mặt bàn và tiếp tục nhìn chằm chằm váo Áo Xanh. Hiển nhiên Áo Xanh không phải tên thật của ông. Tên ông là Roger Walton, nhưng Áo Xanh là cái tên duy nhất Robie có thể dùng để gọi ông. Là vì vị thế quan trọng của anh – chính xác là ở Bậc Áo Xanh. Có các bậc khác trên Xanh, nhưng không nhiều. Trông ông như một vị bô lão. Tóc bạc, cằm chảy xệ, cặp kính tròn, bộ vét không một nếp nhăn, cà vạt đỏ có hoạ tiết, cổ áo kẹp kiểu truyền thống, giày da bóng loáng. Phải, đích thực Áo Xanh có vị thế quan trọng trong tổ chức. Ông và Robie đã làm việc cùng nhau trước đây. Robie tin tưởng Áo Xanh hơn bất kỳ ai khác trong tổ chức. Và danh sách những người Robie tin tưởng thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. “Jessica Reel?” Robie hỏi. Áo Xanh gật đầu. “Ông chắc chứ?” “Jacobs là người điều phối của cô ta. Họ đang cùng nhau thực hiện một nhiệm vụ. Nhưng Jacobs đã bị bắn chết thay vì mục tiêu. Chúng tôi tin chắc rằng thậm chí lúc đó Reel còn không hề tiếp cận mục tiêu. Tất cả chỉ là một màn kịch.” “Tại sao phải giết Jacobs?” “Chúng tôi chưa biết. Chúng tôi chỉ biết là Reel đã phản bội tổ chức.” “Ông có bằng chứng cho thấy cô ta đã giết Jacobs chứ? Biết đâu cô ta đã chết và có ai khác đã ra tay thì sao?” “Không. Đó đích thực là giọng của Reel, cô ta đã liên lạc với Jacobs ngay trước khi phát súng được thực hiện, Jacobs không hề biết cô ta đang ở đâu. Dù cô ta có cách xa một ngàn thước hay một ngàn dặm thì giọng nói vẫn không thay đổi.” Ông dừng lại. “Chúng tôi đã phân tích đường đạn. Reel đã ra tay từ một toà nhà cũ cuối con đường mà Jacobs đang thực hiện nhiệm vụ.” “Văn phòng không có kính chống đạn sao?” “Giờ thì có rồi. Nhưng rèm cửa đã được kéo ra và toà nhà qua mặt được hệ thống giám sát điện tử. Sát thủ phải biết rõ sơ đồ văn phòng của Jacobs mới có thể thực hiện phát súng đó, bằng không chúng sẽ phải bắn bừa.” “Có manh mối nào từ toà nhà cũ không?” “Không nhiều. Nếu Reel ở đó, cô ta hẳn đã xoá mọi dấu vết.” Còn phải bàn, Robie nghĩ. Chẳng phải chính các ông đã dạy chúng tôi phải làm thế ngay khicó cơ hội sao? Áo Xanh gõ ngón tay lên mặt bàn. Dường như cùng nhịp với tiếng mưa rơi. “Cậu có biết Reel không?” Robie gật đầu. Anh biết kiểu gì cũng có câu hỏi đó và ngạc nhiên khi nó không được đưa ra sớm hơn. “Chúng tôi được huấn luyện cùng nhau. Trước kia đã cùng làm vài nhiệm vụ.” “Cậu nghĩ gì về cô ta?” “Cô ta ít nói, tôi thấy như thế khá ổn vì tôi cũng không mấy khi mở miệng. Cô ta làm tốt phần việc của mình. Tôi chưa bao giờ phải lo lắng khi có cô ta bọc hậu. Tôi biết chắc cô ta sẽ được giao các điệp vụ quan trọng hàng đầu.” “Đúng vậy, từ trước đến giờ,” Áo Xanh bổ sung. “Cô ta vẫn là nữ điệp viên duy nhất chúng ta có.” “Một khi đã ra thực chiến thì giới tính chẳng có nghĩa lý gì,” Robie đáp. “Miễn sao ông có thể bắn dưới bất kỳ áp lực nào. Miễn sao ông hoàn thành nhiệm vụ.” “Còn gì nữa?” “Chúng tôi chưa từng chia sẽ thông tin cá nhân gì với nhau,” Robie nói. “Không có thời gian để tâm sự. Chúng tôi không phục vụ cho quân đội. Chúng tôi biết mình sẽ không làm việc cùng nhau lâu dài.” “Đã bao lâu rồi nhỉ?” “Nhiệm vụ cuối cùng chúng tôi làm cùng nhau là hơn mười năm trước.” “Đã bao giờ cậu nghi ngờ lòng trung thành của cô ta chưa?” “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Tôi mặc định nếu Reel đã leo đến vị trí đó thì câu hỏi về lòng trung thành của cô ta hẳn đã được làm rõ.” Áo Xanh gật đầu trầm tư. Robie nói, “Rốt cuộc tại sao tôi lại ở đây? Chỉ để thu thập thông tin về Reel từ những người quen biết cô ta thôi sao? Ông sẽ tìm thấy nhiều người khác biết rõ về cô ta hơn tôi.” “Đó không phải là lý do duy nhất,” Áo Xanh nói. Tay nắm cửa vặn ngược và một người đàn ông khác bước vào phòng. Áo Xanh có vị thế rất cao trong tổ chức. Cấp trên của ông ta, giám đốc cơ quan tình báo CIA, là người tuyên thệ trước Quốc Hội, tiếp cận tất cả các đảng, vận động khắp D.C và đem về ngân sách hoạt động dồi dào hơn cho tổ chức. Gelder phụ trách tất cả những việc còn lại, có nghĩa về cơ bản ông ta là người điều hành tổ chức, hay ít nhất cũng là những hoạt động bí mật của nó mà nhiều người cho là phần quan trọng nhất. Ông ta gần năm mươi, nhưng trông già hơn thế. Có thời ông ta trông cũng gọn gàng, nhưng giờ bụng đã phệ. Tóc ông ta đang mỏng đi nhanh chóng và khuôn mặt nhăn nheo, điều này vẫn thường thấy ở những người từng phục vụ trong hải quân, nơi nắng, gió và muối mặn tàn phá vẻ bề ngoài của tất cả không chừa một ai. Ông ta cao bằng Robie, nhưng bệ vệ hơn. Ông ta liếc nhìn Áo Xanh, Áo Xanh gật đầu kính cẩn đáp lại. Gelder ngồi xuống chiếc ghế đối diện Robie, ngả người ra sau, cởi khuy chiếc áo vét may sẵn, rồi lùa một tay qua mái tóc bạc. Ông ta đằng hắng rồi nói, “Cậu đã được cập nhật tình hình rồi chứ?” “Không phải tất cả,” Robie đáp. Đây là lần đầu tiên Robie giáp mặt Gelder. Anh không cảm thấy e ngại mà chỉ tò mò. Robie chưa bao giờ e ngại bất kỳ ai, trừ những kẻ chỉa súng vào anh khi anh không phòng bị. Mà điều đó thì gần như chưa bao giờ xảy ra. “Jessica Reel,” Gelder nói. “Thật không thể ngờ.” “Tôi đã kể tất cả những gì tôi biết về cô ta. Cũng không có gì nhiều.” Gelder cắn mẩu móng tay lởm chởm ở ngón tay cái bên phải. Robie nhận thấy các ngón tay khác cũng bị cắn đến tận da. Không dễ chịu khi chứng kiến điều đó, nhất là khi ông ta là điệp viên số hai trên cả nước. Nhưng Robie biết người đàn ông này có nhiều điều phải lo nghĩ. Cả thế giới đang bên bờ sụp đổ. Gelder đã giữ chức thiếu tá hải quân trước khi chuyển sang ngành tình báo. Kể từ đó sự nghiệp của ông ta thẳng tiến chóng mặt. Ai cũng biết ông ta có thể giữ vị trí số một nhưng ông ta đã từ chối. Ông ta thích được làm việc, nhưng xu nịnh Quốc hội không phải là loại công việc ông ta muốn làm. “Phải tóm được cô ta,” Gelder nói. “Sống thấy người, chết thấy xác. Sống thì tốt hơn, để còn điều tra việc quái quỷ gì đã xảy ra.” “Tôi hiểu,” Robie đáp. “Tôi chắc rằng các ông đã có kế hoạch để thực hiện điều đó.” Áo Xanh nhìn Gelder. Gelder liếc nhìn Robie. “Thực ra, cậu chính là kế hoạch đó, Robie ạ,” Gelder đáp. Robie không nhìn sang Áo Xanh cho dù anh có thể cảm nhận thấy ánh mắt ông đang chĩa vào mình. “Ông muốn tôi truy bắt Reel?” anh nói chậm rãi. Viễn cảnh này chưa bao giờ nảy ra trong đầu Robie và đột nhiên anh tự hỏi tại sao không. Gelder gật đầu. “Tôi không phải người truy tìm dấu vết,” Robie nói. “Đó không phải điểm mạnh của tôi.” Áo Xanh nhìn anh. “Về điểm đó thì tôi không nhất trí với cậu đâu, Robie ạ.” “Cho dù là thế, cần phái sát thủ đi bắt sát thủ,” Gelder đáp gọn lỏn. “Ông thiếu gì những người khác dưới trướng,” Robie tiếp tục. Gelder thôi không cắn móng tay nữa. “Cậu nổi trội hơn cả.” “Tại sao? Vì những chuyện xảy ra gần đây ư?” “Chúng tôi sẽ bị xem là vô trách nhiệm nếu không buồn để ý đến việc đó,” Gelder nói. “Cậu vừa hoàn thành một nhiệm vụ, sẽ tốt hơn nếu điều động cậu đi truy bắt Reel.” “Liệu tôi có được lựa chọn không?” Gelder nhìn anh chằm chằm. “Có vấn đề gì sao?” “Tuy ông nói như vậy, tôi vẫn không nghĩ mình là người thích hợp cho nhiệm vụ này.” Thay vì trả lời, Gelder rút chiếc máy tính bảng từ túi áo trong ra. Ông ta vừa kéo lướt qua màn hình vừa đọc. “Để tôi cho cậu một vài lý do cụ thể vì sao cậu là người thích hợp nhất cho điệp vụ này. Cậu đã tốt nghiệp hạng nhất với điểm số kỷ lục. Hai năm sau Jessica Reel tốt nghiệp hạng nhất với điểm số đáng lẽ là kỷ lục nếu không có cậu.” “Phải, nhưng mà…” Robie định cự lại, nhưng Gelder giơ tay lên cản. “Trong bài tập thực chiến, cậu là người duy nhất có thể truy lùng và bắt được cô ta.” “Chuyện đó xảy ra đã lâu rồi. Và đấy thậm chí còn không phải là thực chiến.” “Và điều cuối cùng, cậu đã từng cứu mạng cô ta.” “Tại sao điều đó lại quan trọng?” Robie hỏi. “Có thể nó sẽ khiến cô ta ngần ngại trong giây lát, Robie ạ. Và đó là tất cả những gì chúng ta cần.” Ông ta nói thêm, “Tôi không có trách nhiệm phải giải thích mệnh lệnh trực tiếp mà tôi giao cho cậu. Nhưng tôi giải thích rồi đấy, coi như nó là một món quà trong hoàn cảnh cực kỳ đặc biệt.” Ông ta đứng dậy và liếc nhìn Áo Xanh. “Luôn cập nhật tình hình cho tôi.” Ông ta quay lại nhìn Robie. “Cũng giống như mọi lần, thất bại không phải là một lựa chọn.” “Và nếu thất bại, tốt hơn là tôi nên chết trong lúc làm nhiệm vụ, phải không?” Robie nói. Gelder nhìn anh như thể anh vừa phát biểu một điều hiển nhiên. Ngay sau đó, cánh cửa mở ra và người đàn ông số hai bước ra ngoài. Ông ta đóng cửa dứt khoát như thể đang đậy nắp quan tài. Áo Xanh nhìn Robie lo âu, anh vẫn không rời mắt khỏi cánh cửa. Rồi Robie chậm rãi quay qua Áo Xanh. “Ông đã biết trước chuyện này sao?” Robie hỏi. Áo xanh gật đầu. “Vậy ông nghĩ gì?” “Tôi nghĩ cậu hoàn toàn phù hợp cho nhiệm vụ này.” “Sống hay chết? Đó chỉ là chuyện nhảm nhí hay một mật lệnh, hay cả hai?” “Tôi nghĩ họ thực sự muốn bắt sống cô ta. Họ cần phải tra khảo. Cô ta là một trong các điệp viên hàng đầu của chúng ta. Chưa từng có ai trong số họ phản bội.” “Ông biết đó không phải là sự thật còn gì. Gần đây trong tổ chức cứ như đang có phong trào tạo phản ấy.” Áo Xanh có vẻ đau khổ trước lời nhận xét này, nhưng với những sự việc xảy ra gần đây thì ông không thể phản bác được. “Vậy ra đây là suy nghĩ của ông? Cô ta đã bị mua chuộc? Nhưng tại sao phải giết Jacobs? Điều đó chỉ khiến cho chúng ta biết cô ta đã phản bội. Cô ta sẽ không thể quay trở lại tổ chức và thu thập các thông tin đáng giá cho cấp trên mới của mình. Thật không hợp lý.” “Phải có lời giải thích nào đó. Vì chuyện xảy ra đúng là như vậy.” Robie nói, “Jacobs đã chết. Reel mất tích. Việc cô ta phản bội chỉ là một trong các khả năng. Vẫn còn các khả năng khác.” “Giọng nói trong bộ đàm liên lạc với Jacobs đúng là của cô ta.” “Vẫn còn các khả năng khác.” “Và giờ cậu có cơ hội để tìm hiểu chúng.” “Tôi ngờ rằng mình không có cửa từ chối nhiệm vụ này?” Áo Xanh thậm chí không buồn trả lời. “Mục tiêu vẫn sống sót ở Trung Đông. Có vẻ như hắn là người đã mua chuộc cô ta. Tại sao không bắt đầu từ đó?” “Tình cảnh tréo ngeo. Ferat Ahmadi đang đấu đá giành vị trí quyền lực còn bỏ ngỏ ở Syria. Hắn có nhiều nguồn trợ giúp. Rất đáng tiếc, chúng ta quan ngại rằng hắn là một lựa chọn tồi tệ. Đã nhiều lần việc đó diễn ra trong Mùa Xuân Ả Rập. Các nước này muốn lựa chọn những người ghét chúng ta để lãnh đạo họ.” “Hẳn Trung Quốc và Nga không vui vẻ chút nào khi một lần nữa, chúng ta lại tự ý lựa chọn kẻ thắng người thua ở Trung Đông,” Robie nhận xét. “Mưu đồ ám sát bị lộ cũng là điều bất lợi cho chúng ta.” “Nếu mọi chuyện diễn ra theo đúng kế hoạch, các ông định che đậy như thế nào?” “Bằng phương pháp thông thường. Đổ tội cho lãnh đạo phe đối lập với Ahmadi. Cũng không khó khăn gì. Đã hai lần chúng tìm cách giết hắn. Chỉ có điều chúng không được lành nghề. Chúng ta đã định sẽ để lại chứng cứ buộc tội bọn chúng.” “Một mũi tên trúng hai con chim?” Áo Xanh gật đầu. “Chúng ta đã cố để đạt được hiệu quả tốt nhất. Làm như vậy sẽ chừa lại bên thứ ba, bên mà ít nhất chúng ta cũng có thể tìm cách để nói lý lẽ với họ.” “Nhưng tất cả đã tan thành mây khói.” “Phải.” Robie đứng dậy. “Tôi cần mọi thông tin ông có về Reel.” “Trong lúc chúng ta trò chuyện thì tất cả đang được tập hợp rồi.” “Tốt,” Robie nói, nhưng đối với anh, vào lúc này chẳng có gì là tốt cả. “Cậu thực sự nghĩ gì về Reel khi làm việc cùng cô ta?” “Tôi nói cho ông biết rồi còn gì.” “Tôi muốn nghe sự thật.” “Cô ta cũng giỏi như tôi. Giờ có lẽ còn hơn. Tôi không biết. Rồi sẽ có cơ hội phân định.” Trong lúc anh xoay người bỏ đi, Áo Xanh nói, “Gần đây quả là không may mắn, Robie ạ.” “Có lẽ ông nói đúng.” “Dường như cậu càng có thâm niên trong tổ chức thì càng nhiều khả năng có kẻ tìm cách mua chuộc cậu,” Áo Xanh nói. Ông gõ ngón tay lên mặt bàn và nhìn đi chỗ khác. “Càng có thâm niên, ông càng có giá trị.” Áo Xanh nhìn về phía anh. “Có nhiều người đã bị thuyết phục.” “Chỉ một số ít.” “Vẫn là vấn đề.” “Đó có phải là vấn đề đối với ông không?” Robie hỏi. “Cũng không khác gì cậu.” “Rất mừng khi được làm rõ.” Nói đoạn Robie bước ra ngoài để bắt đầu nhiệm vụ mới của mình. CHƯƠNG 6 Robie lái xe qua những con phố ở D.C với chiếc USB trong túi áo khoác. Trong đó là tất cả thông tin về Jessica Elyse Reel, Robie đã biết một phần về cô. Đến mai anh sẽ biết tất cả, trừ những phần chưa được làm sáng tỏ. Mưa đang dần nặng hạt. D.C trong mưa là một quang cảnh kỳ lạ. Thành phố có các đài tưởng niệm, điểm dừng chân ưa chuộng của những chuyến xe bus chở đầy khách du lịch, mà nhiều người trong số đó chắc hẳn cảm thấy khinh miệt thủ phủ này. Nhưng họ vẫn đến để trố mắt ra nhìn những công trình kiến trúc xinh đẹp được xây bằng chính những đồng tiền thuế của họ. Trong dáng vẻ u sầu, đài tưởng niệm Jefferson, Lincoln và Washington dường như trông nhỏ hơn so với các tòa nhà sần sùi mà người ta thường thấy trên những tấm bưu thiếp cũ kỹ sờn nát. Mái vòm của trụ sở Quốc hội hiện ra lù lù, cao hẳn lên so với các công trình xung quanh. Đó là nơi Quốc hội làm – hoặc ngày càng ít làm – việc. Nhưng trong mưa ngay cả mái vòm khổng lồ đó cũng có vẻ nhỏ hơn. Robie lái chiếc Audi về phía vòng xuyến Dupont. Anh đã từng sống trong một căn hộ gần công viên Rock Creek nhiều năm. Chưa đầy một tháng trước anh mới dọn đi. Một trong các nhiệm vụ đã làm khiến anh không thể tiếp tục sống ở đó nữa. Dupont tọa lạc giữa trung tâm thành phố, với cuộc sống về đêm sôi động, với hàng chục nhà hàng thời thượng phục vụ đủ loại món ăn trên thế giới, những cửa hàng sách khổng lồ, và các cửa hàng bán những đồ không thể tìm được ở nơi nào khác. Đó là khu vực sôi động thú vị và đích thực là một mỏ vàng của thành phố. Nhưng Robie không tha thiết gì cuộc sống về đêm. Khi ra ngoài, anh thường ăn một mình. Anh không mua đồ thời thượng. Anh không lởn vởn trong những cửa hàng sách. Mỗi khi đi dạo trên đường, việc mà anh thường làm, chủ yếu là khi đêm muộn, anh không kiếm tìm bất kỳ ai bầu bạn. Anh không muốn tiếp xúc với mọi người. Bởi chuyện đó chẳng để làm gì, nhất là vào lúc này. Anh đỗ xe trong tầng hầm của tòa nhà nơi anh ở rồi đi thang máy lên tầng của mình. Anh nhét hai chiếc chìa khóa vào ổ khóa song song – cả hai đều không có lò xo. Hệ thống báo động kêu lên. Tiếng bíp tắt ngúm khi anh nhập mật mã. Anh cởi áo khoác mà không cầm theo USB. Anh đi về phía của sổ và nhìn đăm đăm xuống mặt đường ướt nhẹp. Mưa đã rửa trôi mọi thứ, hay ít nhất về lý thuyết là vậy. Có những thứ trong thành phố này sẽ không bao giờ có thể tẩy rửa, anh nghĩ. Mà không chỉ ở những khu vực có tỉ lệ phạm tội cao. Anh hoạt động trong thế giới quyền lực của chính phủ, và ở đó cũng dơ dáy không kém gì những con hẻm bẩn thỉu nhất của thành phố. Cách đây không lâu anh đã được biết đến sự bình dị của cuộc sống. Nhưng đó chỉ là một cuộc chạm trán ngắn ngủi, và giờ đã kết thúc. Nhưng nó đã để lại dư âm trong anh. Anh rút ví ra và gỡ lấy tấm ảnh. Cô gái trong bức ảnh đang ở tuổi mười bốn, trông chững chạc hơn tuổi, Julie Getty. Nhỏ, gầy, với mái tóc bù xù. Robie không bận tâm đến vẻ ngoài của cô bé. Anh ngưỡng mộ cô bé vì lòng dũng cảm, trí thông minh và sự gan dạ. Cô bé đã đưa cho anh bức ảnh này khi họ chia tay. Đáng lẽ anh không nên giữ nó. Quá nguy hiểm. Người ta có thể lần ra cô bé. Thế nhưng Robie vẫn giữ. Chỉ là anh không thể vứt đi. Robie không có con, và sẽ không bao giờ có. Nếu có, Julie Getty sẽ chính là đứa con gái có thể khiến anh tự hào. Nhưng cô bé không phải con gái anh. Và cô bé đã có một cuộc sống mới. Anh không thể là một phần trong cuộc sống đó. Buộc phải vậy. Anh không có lựa chọn nào khác. Anh nhét bức ảnh vào lại ví đúng lúc điện thoại đổ chuông. Mới đầu anh mỉm cười khi thấy tên người gọi, rồi nụ cười chuyển thành vẻ nhăn nhó. Anh cân nhắc xem liệu có nên bắt máy, nhưng rồi quyết định nếu không nghe, cô bé tiếp tục gọi. “A lô?” “Robie. Lâu rồi không gặp.” Nicole Vance là đặc vụ FBI. Một đặc vụ siêu hạng theo lời Julie Getty. Julie cũng cho rằng Vance thích anh. Thực ra, cô bé rất chắc chắn về điều đó. Robie không biết có phải thật thế hay không và anh cũng không chắc mình muốn biết. Những điều xảy ra gần đây đã khiến anh không muốn có quan hệ tình cảm với bất kỳ phụ nữ nào. Không phải anh không có ham muốn. Mà vì sự tin tưởng. Khi không có lòng tin, Robie không thể nuôi ham muốn. Robie đã được đào tạo để không bao giờ bị lừa gạt. Không bao giờ bị gán cho vai một kẻ ngốc. Không bao giờ phải đứng mà không có ghế ngồi khi nhạc tắt[2]. Ấy vậy mà anh vẫn bị gạt. Đó là một trải ngiệm anh không bao giờ muốn lập lại. Giọng của Vance vẫn như xưa. Hơi kích động thái quá đối với Robie vào lúc này, nhưng anh cũng phải ngưỡng mộ sinh lực của người phụ nữ ấy. “Phải, đã lâu rồi.” “Gần đây anh có đi du lịch ở đâu không?” Anh ngập ngừng, tự hỏi liệu có phải cô đã xâu chuỗi sự việc ở Central Park với anh. Vance biết công việc của Robie. Là một đặc vụ FBI đã có tuyên thệ giữ gìn và bảo vệ trị an, cô không thể chia sẻ những bí mật mà cô biết. Họ làm việc trong hai thế giới khác biệt, cả hai đều cần thiết và không loại trừ lẫn nhau. Nhưng hai thế giới đó không hòa hợp. Và nếu công việc đã không hòa hợp, thì cuộc sống riêng tư cũng không. Giờ Robie đã biết điều đó. Nói đúng hơn, anh đã luôn biết điều đó. “Không nhiều. Còn em?” “Chỉ lởn vởn quanh những con phố tồi tàn ở D.C thôi.” “Có chuyện gì vậy?” “Anh có rảnh không, đi ăn tối nhé?” Một lần nữa Robie ngập ngừng. Anh ngập ngừng lâu đến nỗi cuối cùng Vance nói, “Câu hỏi đâu có khó đến mức ấy, Robie. Hoặc anh rảnh, hoặc không. Em sẽ không để bụng nếu anh từ chối đâu.” Robie muốn từ chối. Nhưng chẳng hiểu vì sao anh lại nói, “Khi nào?” “Khoảng tám giờ nhé? Em muốn thử nhà hàng mới ở đường Mười Bốn.” Cô đọc tên nhà hàng cho anh. “Em nghe nói họ lọc nước cà chua qua lớp vải lanh để làm cocktail.” “Em thích cocktail đến thế sao?” anh hỏi. “Tối nay thì em thích.” Robie biết phải có lý do ngầm nào đó Vance mới gọi điện rủ anh đi ăn tối. Phải, anh tin rằng cô thích anh. Nhưng không phải vô cớ mà cô trở thành một đặc vụ giỏi. Cô không bao giờ ngừng làm việc. “Được rồi,” anh nói. “Chỉ như vậy thôi sao?” “Chỉ như vậy.” “Em thật sự ngạc nhiên đấy.” Anh cũng vậy, Robie nghĩ thầm. “Anh có đang làm nhiệm vụ nào thú vị không?” cô hỏi. “Dĩ nhiên câu hỏi tu từ thôi.” “Em thì sao?” “Thì vụ này vụ kia.” “Em muốn nói rõ hơn chứ?” “Có lẽ em sẽ đợi đến bữa tối. Hoặc không. Còn tùy vào chất lượng cocktail.” “Vậy thì hẹn gặp lại em tối nay.” Anh đặt điện thoại sang một bên và lại nhìn ra cửa sổ trong lúc khách bộ hành đang vội vã chạy trên mặt đường để tránh cơn mưa như trút nước, cơn mưa đang khiến mọi thứ ướt nhòe, lạnh lẽo và khốn khổ đến mức có thể. Robie chậm rãi đi khắp căn hộ một trăm mét vuông của mình. Đây là nơi anh ở, nhưng nó như chốn không người. Dĩ nhiên trong phòng có nội thất. Trong tủ lạnh có thức ăn. Và trong tủ có quần áo. Nhưng ngoài những đồ vật đó, không có lấy một dấu vết cá nhân nào, chủ yếu vì Robie không để lại dấu tích gì. Anh đã đi khắp thế giới, nhưng chưa một lần mua đồ lưu niệm mang về nhà. Thứ duy nhất anh mang về sau mỗi chuyến đi là bản thân mình, sống sót để lại làm việc vẫn làm. Chưa bao giờ anh mua một tấm bưu thiếp hay một quả cầu tuyết sau khi cướp đi một mạng người. Anh chỉ bước lên máy bay, lên tàu, hay tự lái xe, hoặc đi bộ về nhà. Chỉ vậy. Anh chợp mắt một lát, khi tỉnh dậy, anh đi tắm rồi thay quần áo. Anh có vài giờ thư thả trước khi gặp Vance. Anh mở laptop, cắm USB vào, và tập tài liệu về cuộc đời Elyse Reel hiện lên trước mắt anh, một cuộc đời rực rỡ đến ngoạn mục. Nhưng anh còn chưa kịp đọc, điện thoại lại rung lên. Anh đọc email vừa được gửi đến. Nó rất ngắn gọn. Xin lỗi vì chuyện đã đến mức này, Will. Chỉ một trong hai ta được sống. Tuy ích kỷ nhưng hi vọng đó sẽlà tôi. Trân trọng.JR. CHƯƠNG 7 Ngay lập tức Robie liên lạc với Áo Xanh và thuật lại cho ông nghe chuyện vừa xảy ra. Một cuộc điều tra lần theo dấu vết email mà Robie vừa nhận được tiến hành. Chỉ sau ba mươi phút đã có kết quả báo cáo. Không thểlần ra dấu vết. Đối với tổ chức của Robie, chuyện kết luận không thể tìm ra dấu vết là một việc hệ trọng. Bất kể Reel đang làm việc cho ai, họ cũng không phải là tay mơ. Một chi tiết khác đáng lưu ý là làm thế nào Reel có được địa chỉ email của Robie. Đó hiển nhiên không phải thông tin được công khai rộng rãi. Áo Xanh chắc hẳn cũng đang suy nghĩ tương tự. Nhiều khả năng Reel có đồng phạm trong tổ chức. Tên nội gián được gài ở lại để cung cấp thông tin cho cô. Thông tin đó chắc hẳn cũng bao gồm việc Robie là người được cử đi săn lùng cô, việc vốn chỉ vừa được quyết định vài giờ trước. Bất kể tên gián điệp này là ai, hắn cũng có khả năng truy cập nhiều nguồn thông tin. Robie quay trở lại đọc thông tin về Jessica Reel trong chiếc USB. Reel có nhiều nhiệm vụ khá ấn tượng trong những năm gần đây. Cũng giống như Robie, cô được giao thực thi các nhiệm vụ tối cao và đã hạ được nhiều mục tiêu trong những tình huống mà đến Robie cũng sẽ gặp khó khăn không ít. Robie chưa bao giờ nghi ngờ về chuyện Reel là một điệp viên cừ khôi. Nhưng anh hơi bất ngờ khi thấy cô cừ khôi đến vậy. Và cô ta còn có một gián điệp trong tổ chức cung cấp mọi thông tin cô ta cần biết, đủ để có thể kết liễu đời mình trước khi mình kịp kết liễu cô ta. Có nghĩa bản thân tổ chức của mình cũng là một mối đe dọa. Robie không ngừng nghiên cứu tập tài liệu cho đến khi anh đọc tới vụ Dough Jacobs. Nhanh gọn, sạch sẽ, và rất tài tình. Trừ khử điều phối viên khi hắn nghĩ cô ta đang chuẩn bị kết liễu một kẻ khác. Địa điểm đặt súng được tìm thấy trong một khách sạn ở Trung Đông. Nòng súng được đặt một cách hoàn hảo để khi Jacobs phóng to hình ảnh vệ tinh như lời Reel nói, anh ta có thể nhìn thấy nòng súng. Nhưng không thấy người bắn. Không có bằng chứng chứng tỏ Reel là người đã bắn hạ Jacobs. Nhưng bức thư mà Robie vừa nhận cho thấy rõ ràng cô có liên quan. Người phụ nữ này lúc ấy đáng lẽ phải ở Trung Đông, nhưng có lẽ cô ta đã ở D.C và bắn hạ điều phối viên đang liên lạc với cô ta qua bộ đàm. Nhiều khả năng chính Reel là người đã nổ súng. Nếu đổi lại là Robie, chắc chắn anh cũng muốn biết phát súng có được thực hiện một cách chính xác hay không. Anh sẽ không muốn để ai khác kéo cò. Nghĩa là anh có nơi cần phải đến trước khi gặp Vance ăn tối. • • • Robie hầu như không để mắt đến tòa nhà ba tầng nơi Jacobs ngã xuống. Anh biết chuyện gì đã xảy ra ở đó, nơi viên đạn dừng lại. Giờ anh cần phải biết nơi nó được bắn đi. Tòa nhà cũ chỉ được chống cho khỏi đổ bằng vài cây trụ èo uột. Được xây từ cuối thế kỷ XIX, tòa nhà năm tầng đã được đem ra sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong những năm qua. Bao gồm một trường tư thục và một hộp đêm dành cho các quý ông đã đóng cửa hơn năm mươi năm trước. Nhưng chưa từng có ai nổi tiếng sống ở đây nên nó không được trở thành một tòa nhà lịch sử. Vài năm tới, chắc hẳn nó sẽ bị phá bỏ, nếu nó không tự đổ trước. Robie ngước nhìn mặt tiền của tòa nhà. Nhìn lại anh là những viên gạch cũ kỹ, những nhánh cây leo bám chặt lấy tường, cỏ chết khô và cánh cổng mục nát. Anh thận trọng bước lên thềm, tránh những cái hố trên hiên nhà. Tòa nhà đang được âm thầm canh gác. Những cặp mặt canh chừng đã ra dấu cho Robie bước vào. Anh sử dụng chìa khóa được cấp từ trước để mở cửa và bước vào trong. Điện trong nhà đã bị cắt từ lâu, anh bèn lôi một chiếc đèn pin từ trong túi áo ra và đi tiếp, vòng qua đống gạch đổ nát và bước tránh những chỗ bị mất ván sàn. Toà nhà cách văn phòng của tổ chức, nơi Jacobs làm việc, khoảng vài trăm mét. Hiển nhiên đó là một phát súng từ xa, nhưng là phát súng mười ăn mười với một tay súng lành nghề. Robie đi cầu thang lên tầng năm. Anh đã được thông báo đó là nơi nổ súng. Đó là vị trí duy nhất trong cả toà nhà mà đường đạn không bị cản trở. Anh nghe thấy tiếng mưa rơi càng lúc càng nặng hạt trong khi đặt chân đến tầng năm. Anh đi dọc hành lang. Cái lạnh từ bên ngoài tìm tới anh qua vô số lỗ hổng trên các bức tường của toà nhà. Đáng lẽ anh có thể nhìn thấy hơi thở của mình nếu trong này không quá tối. Anh rọi đèn pin về phía trước, cẩn trọng tránh những điểm không kiên cố trên sàn nhà. Cho dù tầm ngắm thông thoáng, đây vẫn là một vị trí may rủi để chọn làm nơi bắn. Bạn không thể biết khi nào sàn nhà sẽ đổ sụp dưới chân mình. Nhưng nó đã không đổ và Jacobs đã chết. Robie đi chậm lại khi tới gần căn phòng. Nó nằm trong tháp phải của toà nhà. Anh biết các đặc vụ của tổ chức đã kiểm tra nơi này, và anh cũng biết cho đến giờ chưa có bên nào khác can thiệp. Cảnh sát chưa được thông báo về toà nhà, nhưng hiển nhiên một lúc nào đó cuộc điều tra của họ sẽ tới được đây. Tuy nhiên trước mắt, Robie vẫn có cơ hội xem xét. Anh mở cửa và bước vào trong. Trong phòng chỉ có một vị trí duy nhất thích hợp để nổ súng. Phòng áp mái có ba cửa sổ quay về hướng Nam. Cửa sổ ở giữa có tầm ngắm thích hợp nhất. Robie lại gần hơn và rọi đèn. Trên bậu cửa sổ là vết bụi bị mờ đi đôi chút so với xung quanh. Đó là nơi họng khẩu súng trường được đặt. Có thêm một vết bụi bị mờ trên sàn nhà, nơi đầu gối kẻ nổ súng đã đặt lên. Cả trên bậu cửa sổ lẫn trên sàn đều có chút dấu vết của phát súng để lại. Ống giảm thanh chắc hẳn đã đẩy khí ra. Không có vỏ đạn nào được tìm thấy, chúng đã bị lấy đi đúng như lời nhận định của Áo Xanh. Đáng lẽ vết bụi mờ đi cũng có thể dễ dàng được che đậy. Nhưng chúng vẫn được để nguyên trạng, điều này cho Robie biết rằng kẻ nổ súng chẳng hề bận tâm chuyện nơi bắn bị phát hiện. Anh nhặt lên một mảng lót chân tường đã bị bong, quỳ xuống và dùng mảng lót đó như một khẩu súng giả tưởng, nhắm về phía văn phòng của Jacobs. Từ tầng năm nhìn xuống tầng ba. Dĩ nhiên không thể làm ngược lại, vì góc bắn. Bạn không thể bắn lên và giết hạ mục tiêu. Phải bắn xuống. Nếu toà nhà của Jacobs cao hơn năm tầng và anh ta đang làm việc ở tầng cao hơn, thì toà nhà bỏ hoang này sẽ không thể sử dụng làm điểm bắn. Nhưng cũng sẽ dễ dàng tìm được nơi khác để ngắm bắn. Robie cược rằng lúc này kính chống đạn đang được lắp vào cửa sổ rất nhiều văn phòng của tổ chức. Rõ ràng, Reel, hoặc bất kể kẻ nào đã nổ súng, đã có sơ đồ văn phòng của Jacobs. Lưng quay về phía cửa sổ, máy tính trước mặt. Không có chướng ngại vật trên đường đạn. Trúng ngực, làm vỡ tim, chạm xương sườn, rồi xuyên ra ngoài cơ thể và dừng lại ở màn hình máy tính. Robie chỉ đoán chừng về việc viên đạn chạm tới xương sườn. Nếu viên đạn xuyên ngay qua người, nó sẽ trúng mặt bàn chứ không phải màn hình. Góc đạn quá xa. Xương sườn đủ cứng để làm thay đổi đường đạn. Anh chưa nhìn thấy kết quả khám nghiệm tử thi của Jacobs, nhưng anh sẽ không ngạc nhiên khi thấy nội tạng bị phá huỷ như đã dự đoán. Súng đã nổ. Jacobs đã chết. Nếu Reel là người ra tay thì cô sẽ nghe thấy qua bộ đàm tiếng cửa sổ vỡ tan, tiếng Jacobs lúc trúng đạn, và tiếng Jacobs ngã gục. Xác nhận đã bắn hạ mục tiêu. Khi bạn bắn đại qua cửa sổ thì được vậy thật tốt. Mà Reel hẳn phải có sơ đồ văn phòng của Jacobs. Không hẳn là cô phải bắn “đại”. Lại còn thông tin nội gián, cũng như địa chỉ email của mình. Có thể ngay lúc này đây cô ta đang theo dõi mình. Có thể cô ta đang ở đây đợi mình, biết trước được là sớm hay muộn mình cũng sẽ đến toà nhà này. Robie quan sát con đường bên dưới nhưng không nhìn thấy gì ngoài những người đi đường đang vội vã tránh mưa. Nhưng người như Reel sẽ không bao giờ lộ diện một cách bất cẩn. Robie nhìn xuống giày của mình. Có vật gì đó màu trắng lộ ra dưới đế giày. Anh nhặt nó lên. Nó mềm và đang mủn đi. Anh đưa nó lên mũi ngửi. Có mùi. Rồi Robie quên nó ngay khi nghe thấy tiếng ầm ĩ bên ngoài toà nhà. Có người đang lớn tiếng cãi nhau. Tiếng bước chân vang lên trên gần hiên trước. Anh vội vã chạy ra khỏi phòng và đi xuống hành lang, tới cửa sổ để có thể nhìn ra cửa trước. Có một nhóm người đang tụm lại ngoài kia. Họ đang cãi nhau. Robie nhìn thấy một vài người mà anh đoán là của tổ chức. Và một vài người không phải. Rất dễ để phân biệt họ. Những người không thuộc tổ chức của anh mặc áo gió màu xanh với dòng chữ vàng trên lưng. Chỉ có ba chữ, nhưng là ba chữ Robie không muốn nhìn thấy. FBI. Rồi khi nhìn thấy người đang dẫn đầu các đặc vụ FBI, anh quay người và rảo bước nhanh hết mức có thể ra phía sau toà nhà. Anh sẽ gặp Nicole Vance vào tám giờ tại bữa tối. Anh không muốn gặp cô trong toà nhà bỏ hoang này sau hai phút nữa. CHƯƠNG 8 Robie biết cách rút lui êm ái. Anh vừa làm vậy, vòng ra một góc và quan sát từ sau những bụi cây trong lúc Vance tiếp tục tranh cãi với những người khác. Anh lôi điện thoại ra và nhắn tin cho Áo Xanh. Một phút sau Robie thấy một trong số những người đang cãi nhau với Vance đưa tay chạm vào tai. Anh ta ngừng tranh cãi và Robie nghe thấy anh ta nói, “Nơi này là của cô đấy, đặc vụ Vance. Cứ tự nhiên.” Vance bỏ lửng câu nói và nhìn ông ta chằm chằm. Robie thụp người xuống đúng lúc Vance quay ngoắt lại, nhìn tứ phía. Anh cược rằng cô biết chính xác chuyện gì vừa xảy ra. Những con chó săn đã bị gọi lại. Nơi đây đã thuộc về cô. Mệnh lệnh đó hẳn được truyền đến từ cấp trên của họ. Có điều gì đó đó đã thay đổi chỉ trong vài giây vừa qua. Robie bỏ đi, vì anh biết chiến thuật tiếp theo của Vance là cử người của mình lùng sục mọi ngõ ngách để tìm nguyên nhân của sự thay đổi vừa rồi. Anh không muốn cô phát hiện ra rằng anh chính là nguyên nhân. Điều đó sẽ khiến cho bữa tối vốn chắc chắn sẽ không thoải mái càng trở nên khó chịu. Robie lên xe và lái đi. Anh bấm số của Áo Xanh, đầu bên kia bắt máy gần như lập tức. “Cảm ơn cậu đã hỗ trợ,” Áo Xanh nói. Robie nổi cáu, “Tôi sắp phải dùng bữa tối với Vance. Đã đồng ý trước khi tôi biết cô ấy có dính líu đến vụ án này. Nếu tôi được cảnh báo trước thì có phải tốt không. Bị giấu nhẹm thông tin như vậy khiến tôi khó mà tin tưởng đấy.” “Chúng tôi cũng không biết cô ấy được giao cho vụ án này. Chúng tôi không điều hành FBI. Có lẽ thành công trong vụ việc trước đã khiến cô ta lọt vào mắt xanh của Cục.” “Chính xác thì Cục đã biết được những gì?” Robie hỏi. “Việc người của các ông xuất hiện ở toà nhà đó sẽ cho cô ấy biết rằng đây không phải một vụ giết người thông thường.” “Chúng ta không thể che đậy hoàn toàn mọi việc xảy ra với Doug Jacobs. Việc FBI nhúng mũi vào là không tránh khỏi. Nhưng chúng ta mới chính là người điều phối.” “Tôi hỏi lại, họ đã biết được những gì?” Robie hỏi. “Họ biết Doug Jacobs là nhân viên liên bang. Họ không biết và sẽ không biết cậu ta làm việc cho chúng ta. Trên giấy tờ, cậu ta thuộc Cục Giảm thiểu Các Đe doạ Quân sự.” “Cục Giảm thiểu Các Đe doạ Quân sự?” “Cụ thể là Trung tâm Nghiên cứu Thông tin của họ. Toà nhà nơi Jacobs làm việc được thuê dưới danh nghĩa Trung tâm. Một vỏ bọc tốt cho tổ chức chúng ta. Điều đó không có nghĩa rằng chúng tôi đã mong Jacobs sẽ bị bắn hạ giữa văn phòng.” “Và Cục Giảm thiểu Các Đe doạ Quân sự chấp thuận hợp tác?” Robie chất vấn. “Họ biết nhìn xa trông rộng, như chúng ta. Dù sao thì họ cũng là một phần của Bộ Quốc phòng.” “Họ có biết khi bị giết Jacobs đang làm gì trong văn phòng không?” “Sẽ không có gì tốt đẹp đến từ câu trả lời của tôi. Ngu ngơ hưởng thái bình, có lẽ là vậy.” “Có nghĩa Cục Giảm thiểu không hẳn sẽ phải nói dối khi bị FBI chất vấn?” “FBI đã chất vấn.” “Và họ đã nói gì?” Robie hỏi. “Rằng Jacobs bị bắn khi đang làm việc như thường nhật, nhiều khả năng bởi một tên khủng bố căm thù chính phủ liên bang.” “Và ông nghĩ FBI sẽ tin điều đó?” “Tôi không biết họ tin hay không tin,” Áo Xanh đáp. “Đó không phải điều tôi quan tâm.” “Nhưng ông không thể để FBI phát hiện được rằng thực ra lúc đó Jacobs đang sắp đặt vụ ám sát một lãnh đạo nước bạn.” “Hắn chưa phải là lãnh đạo. Chúng tôi luôn làm hết sức mình để nhanh hơn họ một bước. Loại bỏ những kẻ đã nắm quyền trong tay khá phiền phức. Đôi khi cần thiết, nhưng nếu có thể thì tránh, vì dù sao đó cũng là việc phạm pháp.” “Vance rất ngoan cố.” “Phải,” Áo Xanh đồng tình. “Có thể cô ấy sẽ tìm ra sự thật.” “Đó không phải một lựa chọn, Robie.” “Như ông đã nói, ông đâu có điều hành FBI.” “Cậu sẽ nói gì với cô ấy vào tối nay?” Áo Xanh hỏi. “Tôi không biết. Nếu huỷ hẹn cô ấy sẽ nghi ngờ.” “Cậu có nghĩ cô ấy nghi ngờ cậu có liên quan trong vụ lần này?” “Cô ấy rất thông minh. Và đại khái biết về công việc của tôi.” “Đó là một sai lầm, Robie, thật sai lầm khi để cô ấy biết.” “Tôi đâu có lựa chọn nào khác, chẳng phải sao?” “Nếu cô ấy bắt đầu chất vấn thì sao?” “Thì tôi sẽ trả lời. Theo cách của mình.” Áo Xanh có vẻ muốn tiếp tục truy hỏi, nhưng rồi ông nói, “Cậu định làm gì tiếp theo với Reel?” “Có cách nào lần theo dấu vết của cô ta trong vụ nổ súng không? Ý tôi là, chúng ta có chắc cô ta đã ở đây và nổ súng không? Giọng của cô ta trong bộ đàm cũng chưa chứng thực được cô ta là người ra tay.” “Reel đã im lặng trước khi bắn, nên chúng tôi không thu nhận được bất kỳ tiếng động nào từ phía cô ta, chỉ từ phía Jacobs. Nhưng có giọng của cô ta có nghĩa cô ta có liên quan ở mức độ nào đó.” Robie nói, “Còn điểm đặt súng ở Trung Đông? Có manh mối nào không?” “Không hề. Chúng tôi xác nhận đã thấy cô ta, nhưng là hai ngày trước đó. Thừa thời gian để cô ta quay về đây và bắn hạ Jacobs.” “Tin mới nhất về Ahmadi thì thế nào?” “Không có gì mới. Chúng tôi đã xoá mọi dấu vết tại điểm bắn tỉa.” “Và lên kế khoạch khác để kết liễu hắn?” Robie hỏi. “Nếu hắn biết về vụ ám sát hụt và lần ra chúng ta, thì chắc hẳn bây giờ hắn sẽ cảnh giác bội phần. Chúng ta có thể sẽ không nhìn thấy hắn một lần nào nữa cho đến khi hắn trở thành thủ lĩnh mới của Syria.” “Tôi không thích cái việc Reel có địa chỉ email của tôi.” “Tôi cũng vậy,” Áo Xanh đồng tình. “Chúng ta có nội gián. Một kẻ được gài ở lại.” “Có thể. Hoặc có thể cô ta biết thông tin đó trước khi phản bội.” “Làm thế nào cô ta biết tôi sẽ là người được cử đi truy sát?” “Một giả định?” Áo Xanh đề xuất. “Cô ta có thể đang theo dõi tôi ngay lúc này.” “Đừng đa nghi thái quá, Robie.” “Ông cảnh báo chậm vài năm rồi. Cái tính đa nghi của tôi đã không còn giới hạn.” “Cậu đang đi đâu đấy?” “Đi chuẩn bị cho buổi tối.” Robie tắt điện thoại và tăng tốc. Anh kiểm tra kính chiếu hậu hòng tìm xem liệu có Vance, Reel, hoặc một đội khủng bố hay không. Không phải mình đa nghi thái quá. Mình vốn đa nghi. Và ai có thể trách mình chứ? Anh nhấn ga mạnh hơn. Cử sát thủ đi truy bắt sát thủ quả thực có lý. Mình và cô ta cùng nói một thứ ngôn ngữ khác, và nhìn thế giới qua một lăng kính khác mà không ai có thể hiểu. Nhưng ngược lại, Reel cũng hiểu anh hệt như anh hiểu cô ta. Hoặc Reel chết. Hoặc mình chết. Rất đơn giản. Và cũng rất phức tạp. CHƯƠNG 9 Jessica Reel đang ngồi trên giường trong phòng khách sạn. Bộ quần áo thể thao đẫm mồ hôi nằm trên sàn. Mình trần, cô nhìn xuống đôi bàn chân. Ngoài kia, mưa đang càng lúc càng nặng hạt. Như những viên đạn. Chỉ khác là không như đạn, mưa để cho bạn tiếp tục sống. Cô xoa tay lên cái bụng phẳng lì. Bụng cô rắn chắc nhờ chế độ tập luyện khắc nghiệt và ăn kiêng cẩn thận. Không phải vì để có ngoại hình đẹp. Mà vì bụng là trung tâm của nguồn năng lượng. Và mỡ chỉ khiến cô chậm chạp. Trong thế giới của cô, đó là một liều thuốc kịch độc. Cô thông thạo mọi loại võ thuật hữu dụng cho cận chiến. Đã nhiều lần cô sống sót được là nhờ sức khoẻ và kỹ năng chiến đấu của mình. Không phải lúc nào cô cũng dùng súng để ám sát ở tầm xa. Có nhiều khi mục tiêu của cô ở ngay trước mặt và chúng hùng hổ tìm cách giết cô cũng hệt như cô hùng hổ tìm cách giết chúng. Hầu hết chúng đều là đàn ông. Điều đó mang lại cho chúng lợi thế tự nhiên về thể trạng và sức mạnh. Dù vậy, cho đến lúc này, cô luôn là người chiến thắng. Nhưng điều đó chỉ còn đúng cho đến trước nhiệm vụ tiếp theo mà thôi. Trong lĩnh vực của cô, người ta chỉ cần một lần thất bại là sau đó sẽ chẳng ai buồn theo dõi tỉ số nữa. Mà thay vào đó người ta sẽ được nghe điếu văn. Có thể vậy. Cô phân vân không biết liệu có nên gửi cho Robie một thông điệp khác. Nhưng cô quyết định rằng như vậy quá mạo hiểm. Cô không bao giờ đánh giá thấp bất kỳ ai. Và mặc dù điện thoại của cô được cho là không thể truy ra dấu vết, nhưng tổ chức có thể sẽ tìm ra cách, lần ra cô qua các kênh liên lạc và tìm thấy cô. Mà còn gì để nói nữa? Robie đã được phân công nhiệm vụ lần này. Anh ta sẽ làm hết sức để hoàn thành nó. Một trong hai bọn họ, hoặc cả hai sẽ phải chết. Đó là tất yếu. Không công bằng, nhưng buộc phải vậy. Reel khoác áo choàng tắm trên người, băng qua phòng, và lôi điện thoại từ trong túi áo khoác đang treo trên cửa ra. Cô gõ vào bàn phím trên màn hình. Những thiết bị này mới tuyệt vời làm sao. Theo dõi từng bước bạn đi. Cho bạn biết chính xác đường tới bất kì đâu. Chỉ một cú bấm Reel sẽ có được những thông tin tuyệt mật chỉ trong vài giây. Nhưng sự kì diệu này cũng có mặt trái. Có hàng tỉ con mắt theo dõi bạn giữa thời đại này. Không chỉ chính phủ hay các doanh nghiệp lớn. Đó có thể là người đàn ông bất kỳ trên đường với một vật dụng điện tử thời thượng và một ít hiểu biết về công nghệ. Điều đó khiến cho công việc của Reel càng trở nên khó khăn. Nhưng vốn dĩ từ đầu nó đã chẳng dễ dàng. Cô xem xét thông tin hiện lên trên màn hình rồi đặt điện thoại sang một bên, bước vào nhà tắm và cởi bỏ áo choàng. Nước nóng khiến cô cảm thấy dễ chịu. Cô đã thấm mệt, cơ bắp trên người cô kiệt quệ sau một bài tập thể dục quá sức hơn bao giờ hết. Lúc này, vài thanh niên trong phòng tập đang nâng tạ bằng một tay và nhìn vào chính mình trong gương. Một anh chàng đã cài đặt bài tập hạng trung kéo dài hai mươi phút cho máy tập tổng hợp và nghĩ như vậy đã đủ khiến mình ngầu lắm. Cô đi vào phòng kế bên và bắt đầu bài tập của mình. Sau vài phút cô cảm thấy hai trong số họ đang nhìn mình. Không phải nhìn ngắm thân hình cô. Cô không mặc quần bó hay áo ngắn. Rộng rãi và thùng thình là tiêu chuẩn lựa chọn trang phục của cô. Cô ở đó để đổ mồ hôi, không phải để tìm chồng hay săn tìm tình một đêm. Cô cảm thấy họ không phải là mối đe doạ. Họ chỉ đơn giản đang kinh ngạc trước những gì cô làm với thân thể mình. Ba mươi phút sau, khi cô chưa hoàn thành một phần ba chương trình tập, họ đã lắc đầu bỏ đi. Cô biết đây là điều họ đã nghĩ: Mình chắc hẳn không thể chịu được quá năm phút với cường độ tập như vậy. Và họ đã nghĩ đúng. Cô tắt vòi hoa sen, lau người, và mặc lại áo choàng, tóc quấn trong khăn tắm. Cô lướt qua thực đơn của khách sạn rồi gọi salad và tự thưởng cho mình một ly vang đỏ California. Khi cậu thanh niên đẹp trai mang đồ ăn tới, cô nhìn thấy hình ảnh của cậu trong gương. Cậu đang ngơ ngẩn ngắm cô. Reel đã ngủ với nhiều đàn ông trên khắp các châu lục. Tất cả đều liên quan đến công việc. Tất cả đều có một kết cục. Nếu tình dục có thể giúp cô làm việc cần làm, có thứ cần có, thì cô cũng chẳng nề hà. Cô đoán đó là một trong những lí do tổ chức thu nhận cô. Họ khuyến khích cô sử dụng vũ khí trời cho của mình, với lời cảnh báo rằng cô không được có tình cảm với bất kì ai trong số đó. Bất kể đó là loại tình cảm gì. Cô là một cỗ máy và tình dục chỉ đơn giản là công cụ hữu dụng hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ. Ở khía cạnh đó, đàn ông rõ ràng là phái yếu. Phụ nữ có thể khiến họ làm bất cứ điều gì chỉ với một lời hứa về chút thời gian ân ái bên dưới tấm chăn, dựa tường, hay quỳ gối, đại thể là bất kì tư thế nào. Cô kí hoá đơn và cho cậu ta một khoản bo hậu hĩnh. Mắt cậu ta đòi nhiều hơn thế. Cô từ chối lời thỉnh cầu của cậu ta bằng cách quay người bước đi. Cánh cửa vừa đóng lại sau lưng, cô liền cởi áo choàng, thả tóc và mặc vào quần soóc, áo phông. Cô đẩy bàn ra để chặn cửa, ngồi xuống ăn, và chậm rãi nhấm nháp li rượu trong lúc mưa vẫn như trút nước bên ngoài. Cô sắp phải đi. Di chuyển liên tục là điều quan trọng. Những vật đứng yên thường có xu hướng bị đâm phải. Sớm muộn Will Robie cũng sẽ săn đuổi cô một cách sốt sắng. Điều đó sẽ khiến Reel mất nhiều thời gian và sức lực. Cho đến lúc đó, cô phải tận dụng thời cơ. Và cô sẽ tận dụng hết sức. Dough Jacobs đã là một mục tiêu. Giờ Reel sẽ nhắm tới mục tiêu tiếp theo. Sẽ không dễ dàng. Lúc này chúng đã được cảnh báo. Doug Jacobs có vợ và hai con. Reel biết mặt họ. Cô biết tên họ. Cô biết nơi họ sống. Cô biết giờ họ đang trải qua nỗi đau khôn cùng. Vì bản chất công việc nên gia đình Jacobs sẽ không được biết nguyên nhân thực sự về cái chết của hắn. Đó là điều lệ của tổ chức. Và điều lệ đó không bao giờ thay đổi. Bí mật chôn theo người. Tang lễ sẽ được tổ chức, Jacobs sẽ được an nghỉ. Và đó là điều bình thường duy nhất trong cái chết của hắn. Goá phụ sẽ tiếp tục sống, chắc hẳn sẽ đi bước nữa. Có thể cô ta sẽ sinh thêm con. Nếu có thể, Reel muốn khuyên cô ta cưới một anh thợ sửa ống nước hay một nhân viên bán hàng. Cuộc sống của cô ta sẽ ít phức tạp hơn nhiều. Con của Jacobs có thể nhớ hoặc không nhớ đến cha chúng. Theo Reel, đó không hẳn là điều tồi tệ. Trong tâm trí của cô Doug Jacobs chẳng đáng để nhớ đến. Reel dùng bữa xong rồi leo lên giường. Cô nhớ hồi mình còn là một đứa trẻ nằm trên giường lắng nghe tiếng mưa rơi ngoài hiên. Không ai đến xem cô ngủ có ngon không. Gia đình cô không như vậy. Với cô, những người đến tìm mình giữa đêm khuya thường có những động cơ sâu xa, những động cơ không hề tốt đẹp. Bởi vậy ngay từ khi còn là một đứa trẻ, cô đã luôn cảnh giác và cứng cỏi. Cô luôn muốn được ở một mình, luôn tự tìm đến người khác mà không để ai tìm đến mình. Khi có người đến gần bạn lúc nửa đêm, phản ứng duy nhất là ra tay với họ trước khi họ ra tay với mình. Tâm trí cô hiện lên hình ảnh mẹ mình – một phụ nữ mỏng manh yếu ớt thường xuyên bị bạo hành, vào ngày cuối cùng của cuộc đời, trông bà già hơn tuổi thực bốn mươi rất nhiều. Cái chết của bà tang thương và khốc liệt. Bà đã ra đi không hề thanh thản, nhưng rốt cuộc bà cũng được ra đi. Và Jessica Reel, lúc bấy giờ mới lên bảy, đã tận mắt chứng kiến chuyện diễn ra. Đó là một sự kiện đau buồn mà đến tận bây giờ Reel vẫn không thực sự hiểu hay cảm thông được. Trải nghiệm đó đã định hình con người cô, và đảm bảo rằng những điều bình thường mà ai cũng phải trải qua trong đời sẽ không bao giờ là một phần của cô. Những điều xảy ra với bạn khi bạn còn là một đứa trẻ, nhất là những điều tồi tệ, sẽ thay đổi bạn, hoàn toàn và mãi mãi. Như thể một phần bộ não của bạn đã đóng chặt lại và từ chối phát triển thêm nữa. Rồi khi là một người trưởng thành, bạn bất lực trước nó. Mọi chuyện sẽ tiếp tục như vậy cho đến khi lìa đời. Không “phép trị liệu tâm lý” nào có thể chữa khỏi. Bức tường đó đã được xây nên và không gì có thể đập đổ. Có lẽ đó là lí do mình làm những việc đang làm. Tất cả được đặt nền móng từ tuổi thơ. Súng của cô đặt dưới gối, một tay cô ghì chặt lấy nó, bàn vẫn chặn cửa ra vào. Tối nay cô sẽ được ngủ ngon. Đây có thể sẽ là lần cuối cùng cô được ngủ ngon. CHƯƠNG 10 Robie ngồi xuống chiếc bàn trong nhà hàng nhìn ra ngoài đường. Anh hết nhìn ra đường rồi lại nhìn đến chiếc tivi gắn chặt trên tường phía sau quầy bar. Tivi đang phát bản tin về cuộc gặp thượng đỉnh của các lãnh đạo Ả Rập ở Canada. Người ta cho rằng một địa điểm trung lập, xa khỏi các hành động khủng bố và chiến tranh, có thể sẽ tăng thêm khả năng thành công cho hội nghị. Được bảo trợ bởi Liên Hiệp Quốc, theo lời phóng viên nói, hội nghị hi vọng sẽ dẫn đường cho một kỉ nguyên mới của sự hợp tác giữa các quốc gia đã tranh chấp với nhau suốt một thời gian dài. “Chúc may mắn,” Robie nói với chính mình. Một lúc sau tivi chuyển kênh và Robie xem quảng cáo Cialis, có cảnh một ông lão và một bà lão trong bồn tắm đặt ngoài trời. Đó là một ẩn dụ về tình dục mà anh không bảo giờ hiểu nổi. Rồi bồn tắm biến mất và phóng viên lại xuất hiện, đưa tin về chuyến thăm sắp tới của Tổng Thống tới Ai Len, ở đó ông sẽ đứng ra đăng cai một hội nghị về mối đe doạ của khủng bố quốc tế và những biện pháp ngăn chặn. “Cũng chúc may mắn nhé,” Robie lẩm bẩm. Anh rời mắt khỏi tivi vừa kịp lúc thấy Nicole Vance vội vã đi trên đường. Anh nhìn đồng hồ. Cô đến muộn gần mười lăm phút. Cô vừa soi vào chiếc gương cầm trên tay vừa tô son và trang điểm nhẹ. Anh nhận thấy cô đã thay bộ đồ FBI bằng một chiếc đầm, đôi vớ dài và giày cao gót. Có lẽ đó là lí do cô đến muộn. Rất may cô đã không thấy anh đang nhìn cô trong lúc cô băng qua anh để tiến tới cửa nhà hàng, tay nhét đồ trang điểm vào chiếc túi nhỏ. Robie ngờ rằng Vance không muốn bị bắt gặp đang “chỉnh trang dung mạo” trước buổi tối. “Anh có vẻ gầy đi.” Robie ngước lên nhìn Nicole Vance đang ngồi xuống đối diện anh. “Còn em trông có vẻ mệt mỏi,” anh đáp. “Xin lỗi vì đã đến muộn. Em mắc kẹt với một vụ án.” Bồi bàn đến gần và họ gọi đồ uống. Khi bồi bàn đi khỏi, Robie bẻ chiếc bánh mì que ra làm hai rồi ăn một nửa và nói, “Có gì mới không?” “Cuối cùng cũng có vụ thú vị.” “Anh tưởng vụ án nào của em cũng đều thú vị?” “Thủ phạm các vụ án thường khá dễ nhận biết. Tất cả chỉ là vấn đề thu thập bằng chứng. Và việc đó thường rất nhanh trở nên nhàm chán.” “Em muốn kể chứ?” “Anh biết là không nên hỏi mà, Robie. Đang trong quá trình điều tra. Trừ phi anh đã chuyển sang FBI mà không ai nói cho em biết.” Cô nhìn chằm chằm vào anh. “Gần đây anh có đi đâu không?” “Em đã hỏi anh câu đó rồi.” “Nhưng anh chưa trả lời em.” “Có, anh đã trả lời. Anh bảo là không nhiều.” “Nhưng có?” “Tại sao em lại quan tâm đến lịch trình của anh vậy?” anh hỏi. “Vì có những chuyện thú vị đang xảy ra trên khắp thế giới. Thậm chí đang xảy ra trong vườn nhà chúng ta không biết chừng.” “Chuyện thường tình. Vậy thì sao?” “Không hẳn là em mù tịt về công việc của anh đâu nhé.” Robie nhìn trái, nhìn phải, rồi nhìn vào Vance. Anh còn chưa kịp mở miệng, cô đã nói, “Em xin lỗi. Đáng ra em không nên đề cập đến chuyện đó.” “Phải, em không nên.” “Chúng ta mở đầu bữa tối sai cách rồi.” Robie không nói gì. “Được rồi, em đã mở đầu sai cách. Vậy dạo này anh thế nào?” “Bận rộn, cũng như em.” Anh ngập ngừng. “Đã vài lần anh nghĩ đến việc gọi cho em. Chỉ là không có thời gian. Anh xin lỗi. Gần đây mọi chuyện có hơi lộn xộn.” “Em ngạc nhiên khi thấy anh mà cũng nghĩ đến việc gọi cho em cơ đấy.” “Tại sao? Chẳng phải chúng ta đã thống nhất sẽ giữ liên lạc sao?” “Em rất cảm kích, Robie ạ. Nhưng em không nghĩ công việc của anh có nhiều thời gian giải lao.” “Em cũng vậy đấy thôi.” “Đó là chuyện khác. Anh biết mà.” Đồ uống của họ được mang đến và Vance nhấp một ngụm, “Ôi trời, đã quá.” “Có còn vị vải lanh trong đó không?” Cô đặt li xuống và mỉm cười. “Từng sợi luôn.” “Rồi khiếu hài hước sẽ giúp đỡ em rất nhiều.” “Ai cũng nói với em như vậy. Nhưng càng ngày em càng ít thấy có chuyện để cười.” “Thế quay trở lại với chủ đề bữa tối hôm nay. Tại sao em lại gọi anh đi uống rượu và ăn tối? Lí do thực sự là gì?” “Hai người bạn lâu ngày gặp nhau.” “Với một đặc vụ FBI bận rộn? Anh không nghĩ vậy.” “Em không có ý gì khác, Robie.” Robie chỉ nhìn vào cô. “Được rồi, đại thể em cũng có lí do khác.” “Vậy thì hãy nói anh nghe.” Cô nhoài người về phía trước và hạ giọng. “Biết Doug Jacobs chứ?” Robie vẫn bình thản. “Anh ta là ai?” “Hắn từng là ai mới đúng. Jacobs đã chết. Bị bắn hạ giữa văn phòng.” “Anh rất tiếc khi nghe điều đó. Chuyện gì đã xảy ra?” “Em chưa biết. Có vẻ như hắn làm việc cho Cục Giảm thiểu Các Đe doạ Quân sự. Anh có biết họ không?” “Anh có nghe về họ.” “Em nói có vẻ như là vì em tin chắc tất cả những người em đã chấn vấn đều nói dối.” “Tại sao?” “Anh biết tại sao mà, Robie. Đó là vấn đề nhạy cảm. Em tín chắc như vậy. Chưa kể họ lúc nào cũng nói dối.” “Không phải lúc nào cũng vậy,” anh chỉnh lại. “Thì hầu như lúc nào họ cũng nói dối.” Cô nhấp một ngụm cocktail nữa rồi nhìn anh sắc lẹm. “Anh không biết Jacobs thật đấy chứ?” “Chưa gặp bao giờ,” anh nói sự thật. Vance ngả người xuống ghế và nhìn anh ngờ vực. “Em có biết tất cả mọi người ở FBI không?” anh hỏi. “Dĩ nhiên không. Cục lớn đến vậy cơ mà.” “Thì đấy, ý anh là vậy.” “Linh tính mách bảo em rằng tay Jacobs này có dính dáng đến vụ gì đó nghiêm trọng. Và chuyện xảy ra với hắn đã khiến cho một số kẻ quyền cao chức trọng sợ vãi ra quần.” Vếtrước và vế sau đều đúng, Robie nghĩ thầm. “Dù có biết chuyện gì đó thì anh cũng không thể nói với em, Vance. Em biết mà.” “Thì e cứ hi vọng vậy thôi,” cô ngọt ngào nói, uống cạn li cocktail của mình rồi vẫy tay gọi một li khác. Họ gần như im lặng suốt bữa ăn. Khi đã ăn xong, Vance nói, “Em chưa bao giờ được nghe kể về chuyện xảy ra sau khi ở Maroc.” “Anh biết.” “Phải. Tất cả đều ổn.” “Hắn đã nói dối đúng không,” Vance nói thêm. “Về chuyện ở Nhà Trắng ấy?” “Chuyện gì?” “Anh có liên quan đến vụ đó.” “Chính thức thì không.” “Nhưng có liên quan ở các khía cạnh chủ chốt, phải không?” “Đó là chuyện đã qua rồi. Anh không có hứng với quá khứ. Anh đang cố làm người biết nhìn về phía trước.” “Khả năng tách bạch của anh thật phi thường, Robie ạ.” Anh nhún vai. “Công việc buộc phải vậy. Người ta nhìn ra vấn đề khi mà chuyện đã rồi. Em rút ra kinh nghiệm từ những sai lầm của mình rồi bước tiếp. Nhưng mỗi tình huống lại khác nhau. Không thể áp dụng một phương cách cho mọi việc.” “Giống như phá án. Vậy anh định làm việc đang làm thêm bao lâu nữa?” “Em định làm việc đang làm thêm bao lâu nữa?” “Có lẽ cho đến khi em chết.” “Em nghĩ vậy thật à?” “Em không biết nữa, Robie ạ. Anh bảo anh là người nhìn về tương lai, còn em thuộc tuýp người sống vì hiện tại. Vậy anh định khi nào sẽ nghỉ?” “Có lẽ anh không phải là người được đưa ra quyết định đó.” Cô ngả người ra sau, cân nhắc hàm ý trong câu nói của anh, rồi gật đầu. “Vậy thì có lẽ anh nên thử tìm cách để khiến mình trở thành người đưa ra quyết định đó.” “Thế giới này không vận hành như vậy, Vance ạ.” Trong một phút họ không nói gì. Cả hai mân mê li rượu trước mặt mình. Cuối cùng, Vance hỏi, “Gần đây anh có gặp Julie không?” “Không,” anh đáp. “Chẳng phải anh đã hứa với con bé là vẫn giữ liên lạc sao?” “Anh cũng đã hứa như vậy với em và nhìn xem chuyện gì đã xảy ra?” “Nhưng nó chỉ là một đứa trẻ,” Vance đáp trả. “Phải. Con bé có cả cuộc đời phía trước.” “Nhưng đã hứa thì phải giữ lời chứ.” “Không, không hẳn,” Robie đáp. “Con bé không cần có anh bên cạnh. Con bé có cơ hội sống một cuộc đời bình dị. Anh sẽ không phá hỏng tương lai đó của nó.” “Anh thật là thánh nhân.” “Em muốn gán cho anh là hạng người nào cũng được.” “Thật khó để hiểu con người anh.” Một lần nữa Robie không nói gì. “Có lẽ cho đến khi nào anh còn làm công việc này thì chuyện vẫn sẽ như thế.” “Phải.” “Anh có ước giá mà chuyện khác đi không?” Robie định trả lời câu hỏi nghe qua có vẻ đơn giản này rồi nhận ra nó không đơn giản đến vậy. “Anh đã ngừng mơ ước từ lâu rồi.” “Vậy tại sao anh vẫn còn làm? Ý em là, mặc dù cuộc sống của em cũng thật điên rồ, nhưng nó chẳng là gì so với anh. Ít nhất em cũng có được sự thoả mãn khi dẹp trừ tội ác.” “Em nghĩ anh không có sao?” “Em không biết. Anh có không?” Robie đặt tiền xuống mặt bàn rồi đứng dậy. “Cảm ơn em vì đã gọi. Rất vui được gặp lại em. Và chúc em may mắn với vụ án đó.” “Anh chúc thật lòng chứ?” “Có lẽ nhiều hơn em nghĩ đấy.” CHƯƠNG 11 Jessica Reel rời New York và bay tới D.C. Bởi vì việc cô cần làm tiếp theo là ở đó. Có ba cách để triển khai một nhiệm vụ. Nhiệm vụ như của Jessica Reel. Bạn có thể bắt đầu từ dưới lên trên. Hoặc bắt đầu từ trên xuống dưới. Hoặc cứ làm loạn lên, tỏ ra khó lường, thực hiện không theo một qui luật nào. Cách thứ nhất là lựa chọn thường gặp. Nhưng cách thứ ba sẽ tăng tỉ lệ thành công của Reel một cách đáng kể. Và khả năng sống sót của cô nữa. Cô đã chọn tỉ lệ thành công và khả năng sống sót thay vì tạo ra qui luật cho những cái chết. Khu vực này ở D.C toàn những toà nhà công sở, tất cả đều vắng tanh vào lúc tối muộn thế này. Rất nhiều công chức cấp cao làm việc tại đây, cùng với các đối tác doanh nhân giàu có của họ. Điều đó chẳng có nghĩa lí gì với Reel. Giàu, nghèo hay trung lưu, thì cô cũng chỉ đi đến nơi cần đến. Cô đã giết bất kì người nào họ giao cho cô giết. Cô đã là một cỗ máy hữu hiệu, một đao phủ lành nghề. Cô đeo tai nghe lên tai trái, nối dây vào bộ nguồn gắn trên thắt lưng. Cô vuốt tóc và cởi khuy áo khoác. Khẩu súng lục nằm sẵn sàng trong bao đeo trên vai. Cô nhìn đồng hồ, nhẩm tính trong đầu, và biết mình còn khoảng ba mươi phút để lên kế hoạch hành động. Trời đêm thoáng mát và trong lành, mưa cuối cùng cũng đã tạnh. Mùa này là vậy. Đường phố vắng lặng, giờ này trong ngày thì thường như thế. Cô đi tới góc phố và nép mình bên cạnh một cái cây có ghế băng bên dưới. Cô điều chỉnh tai nghe và lại nhìn đồng hồ. Cô là tù nhân không chỉ của thời gian mà còn là của thời gian chuẩn xác, đo bằng giây. Chỉ sai lệch một tích tắc thôi là cô bỏ mạng. Qua tai nghe, cô biết hắn đang di chuyển. Sớm hơn dự kiến; hắn sẽ đến đây sau mười phút nữa. Biết tần số liên lạc của tổ chức cũ là một lợi thế lớn đối với cô. Cô lôi từ trong túi ra một hộp màu đen, dài chừng mười lăm phân, rộng mười phân, có hai nút bấm và hẳn là thứ quan trọng nhất cô mang theo – ngoài khẩu súng. Không có thiết bị này, kế hoạch của cô sẽ cần đến một vận may diệu kì thì mới thành công được. Mà Reel thì không thể trông cậy vào may mắn. Mình đã dùng hết vận may rồi. Cô ngước lên nhìn lúc chiếc xe xuất hiện từ cuối phố. Một chiếc Lincoln mui kín. Màu đen. Người ta có sản xuất xe này màu khác không nhỉ? Cô cần phải xác nhận. Dù sao thì trong cái thành phố này, xe mui kín màu đen nhiều chẳng khác gì cá dưới đại dương. Cô nâng ống nhòm đêm lên và nhìn qua kính chắn gió của chiếc xe. Tất cả các cửa sổ khác đã được phủ màu. Cô nhìn thấy thứ cần nhìn. Cô hạ ống nhòm xuống và nhét trở lại túi. Cô lôi đèn pin ra và nhá sáng một cái. Một luồng sáng nhá đáp trả. Cô cất đèn pin đi, rồi cầm lấy chiếc hộp màu đen. Cô ngẩng đầu lên, nhìn sang phía bên kia đường. Điều sắp xảy ra đã tốn của cô hàng trăm đô la. Cô hi vọng nó xứng đáng. Cô ấn nút bên phải trên chiếc hộp màu đen. Đèn giao thông ngay lập tức chuyển từ xanh sang vàng rồi đỏ. Cô cất chiếc hộp đi. Chiếc Lincoln dừng lại chờ đèn đỏ. Một bóng người trồi ra khỏi bóng tối và lại gần chiếc Lincoln. Một tay cầm xô, tay còn lại cầm vật gì đó. Nó hắt nước lên kính chắn gió của chiếc xe. “Này!” tài xế hét lên và hạ cửa kính xuống. Một thằng nhóc da đen, khoảng mười bốn tuổi. Nó đang dùng chổi cao su gạt gạt nước xà phòng khỏi cửa kính chắn gió. Tài xế tiếp tục hét lên, “Biến khỏi đây!”. Đèn vẫn đỏ. Reel đã rút súng ra, báng súng tựa vào một cành thấp của cái cây cô đang đứng kế. Trên nòng súng là ống ngắm. Thân khẩu súng lục đã được kéo dài ra và được chế tạo đặc biệt cho phát súng tầm xa, xa hơn bất cứ loại súng lục nào có thể bắn. Thằng nhóc chạy vòng ra hông xe và lấy cái chổi gạt nước trên cửa sổ của xe. Cửa sổ ghế khách được hạ xuống. Đó là cơ hội cho Reel, vì hắn đang ngồi trên ghế khách phía sau tài xế. Góc bắn là yếu tố quyết định cuộc chơi. Cô ngắm, thở ra một hơi dài, và ngón tay dò chạm tới cò súng. Không còn lối thoát. Thằng nhóc da đen chạy lại phía tài xế và chìa tay ra. “Sạch bóng tinh tươm rồi đấy. Trả tôi năm đô la.” “Tao bảo mày xéo khỏi đây cơ mà,” tài xế lại hét lên. “Mẹ tôi cần tiền phẫu thuật.” “Cho mày hai giây để cút khỏi đây. Bằng không…” Gã tài xế không còn cơ hội để kết thúc câu nói dang dở vì Reel đã bóp cò. Viên đạn xé gió vụt qua mặt gã ngồi ở ghế hành khách phía trước, xiên một đường chéo qua khoảng cách giữa gã và tài xế, rồi găm vào trán gã ngồi phía sau. Reel cất vũ khí vào túi rồi nhấn nút còn lại trên chiếc hộp đen. Thằng nhóc rửa xe đã bỏ chạy từ bao giờ. Nó đã chạy ngay khi nghe tiếng súng nổ. Gã đàn ông chìm trong máu và não. Reel lẫn vào màn đêm. Cô đã tháo khẩu súng, chỉ bằng một tay, và cất nó trở lại trong túi. Trong xe, Jim Gelder gục về phía trước, vẫn còn trụ lại trên ghế nhờ sợi dây an toàn. Một phần bộ não của ông ta bắn lên cửa kính phía sau. Tổ chức sẽ phải tìm người số hai mới. Trong lúc hai gã vệ sĩ hốt hoảng chạy quanh hòng tìm kẻ sát nhân thì Reel đã bước xuống lối vào tàu điện ngầm gần đó và nhảy lên tàu. Chỉ sau vài phút, cô đã cách xa hàng dặm. Cô loại bỏ cái tên Jim Gelder ra khỏi đầu và nhắm tới mục tiêu tiếp theo trong danh sách. CHƯƠNG 12 Trong thế giới của Robie không có sự khác biệt giữa ngày và đêm. Anh không làm việc theo giờ hành chính, bởi vậy bảy giờ tối cũng là thời điểm thích hợp để bắt đầu nhiệm vụ như bất kì giờ nào khác trong ngày. Bờ Đông Virginia không phải là nơi dễ đến bằng ô tô, xe buýt, hay máy bay. Cũng không có chuyến tàu nào đến đây. Robie chọn cách tự lái. Anh thích được tự kiểm soát. Anh lái xe về hướng Nam cho tới khi đến Norfolk, Virginia. Từ đó anh chạy ngược về hướng Bắc, dọc cầu-hầm Vịnh Chesapeake nối Bờ Đông với phần còn lại của bang. Một cây cầu cao và một cây cầu thấp chạy thẳng xuống hai đường hầm dài hàng dặm bên trong hòn đảo nhân tạo rồi lại trồi lên trên mặt biển. Khoảng mười một giờ, Robie rời cầu-hầm và lái vào đất liền. Địa phận của Virginia ở bờ Đông gồm hai hạt làm nghề nông, Accomack và Northampton. Chúng phẳng như mặt bàn và là cấu phần “va” trong địa danh bán đảo Delmarva[3]. Tổng dân số cả hai hạt khoảng mốn mươi lăm nghìn người, trong khi hạt Fairfax của Virginia diện tích nhỏ hơn lại có dân số khoảng hơn một triệu người. Ở đây chỉ toàn đất nông trại: trồng bông, đậu nành và nuôi gà trên diện rộng. Bờ Đông cũng là nhà của bệ phóng Wallops Flight Facility của NASA, là quê hương của những chú ngựa lùn hoang dã ở đảo Chincoteague. Đêm nay Robie cũng đang đi tìm một sinh vật hoang dã, một điệp viên làm phản đã đầu quân cho một tổ chức khác. Hoặc cho chính bản thân cô ta. Robie lái thêm khoảng mười dặm cho đến khi khu vực nông thôn trở nên vắng vẻ không một bóng người. Xa xa, gần đường bờ biển, anh thấy một khoảng đen còn thẫm hơn cả bóng đêm đang bao quanh mình. Anh rẽ vào con đường đất rồi dừng lại trước khoảng đen, ra là một căn lán gỗ, ván ốp đã chuyển sang màu xám xịt do nắng và hơi mặn trong không khí. Đằng sau nó là Đại Tây Dương đang vỗ sóng vào bờ, những vệt nước bắn tung lên không trung khi sóng chồm lên con đê chắn sơ sài bằng những viên đá bự chảng. Một vùng duyên hải thơ mộng, nhưng Robie không nghĩ nó sẽ sớm trở thành địa điểm du lịch. Anh có thể hiểu tại sao Jessica Reel lại chọn nơi này để sống. Nó hoàn toàn biệt lập. Đối với một người như cô ta, giao lưu bầu bạn là một việc làm vô nghĩa. Anh ngồi trong xe và quan sát xung quanh, từ trái qua phải, từ trên xuống dưới. Phía trên là cơn bão đang đường tiến tới. Bên dưới là đất mùn nhầy nhụa, thích hợp để trồng trọt, nhưng xây nhà thì không. Không thể có tầng hầm, Robie kết luận. Anh hình dung một ngày nào đó đại dương sẽ đòi lại mảnh đất này. Ngoài căn lán chỉ có một gian phụ nhỏ. Không vườn tược, không cây cỏ. Reel chắc hẳn sống rất đạm bạc. Robie không hình dung được là cô ta sẽ đi đâu để kiếm nhu yếu phẩm. Hay tìm một anh thợ sửa nước. Hay thợ điện. Có lẽ cô ta không cần bất kì cái gì trong số đó. Anh thậm chí còn không biết cô ta có thường đến nơi này hay không. Anh không trông chờ sẽ gặp được cô ta ở đây. Nhưng kì vọng và sự thật là hai việc khác nhau. Anh ra khỏi xe, súng đã rút sẵn. Anh tránh xa khỏi đường đạn từ cửa chính hay bất kì cửa sổ nào của căn lán. Không có bất kì cây cối nào xung quanh để ẩn nấp. Đây là một vùng đất phẳng, không có chỗ để sắp đặt điểm bắn bí mật và chờ anh lọt vào tầm ngắm. Đáng lẽ tất cả những điều đó phải khiến Robie cảm thấy an tâm. Nhưng anh không thấy vậy, vì điều đó đồng nghĩa với việc không có gì che chắn cho anh. Và vì nó cho biết anh đang bỏ sót điều gì đó. Ở một nơi như thế này, bạn buộc phải có kế hoạch nào đó. Một thứ gì đó để phòng vệ, kể cả khi mục đích ban đầu của nó không phải vậy. Anh sẽ làm vậy nếu anh sống ở đây. Anh không nghĩ mình và Reel khác nhau trong bản năng sinh tồn. Anh khom người xuống nhìn xung quanh. Căn lán tối om. Dường như không có người. Nhưng như vậy không có nghĩa đã an toàn để bước vào. Jessica Reel không nhất thiết phải ở nhà mới hạ sát được kẻ đột nhập. Anh đi vòng quanh căn lán hai lần, lần sau tiến lại gần hơn so với lần trước. Có một hồ nước nhỏ phía bờ biển, cách cửa sau gần ba mươi mét theo một đường thẳng. Khi rọi đèn pin xuống hồ anh thấy mặt nước trong veo, mặc dù đất xung quanh nhầy nhụa một lớp tảo. Ngoại trừ hồ nước, không có điều gì khác khiến anh để tâm. Và căn lán. Robie ngồi xổm giữa đường và cân nhắc tình hình. Cuối cùng cũng lên được một phương án hành động, anh quay trở lại xe để lấy những vật cần thiết. Anh nhét chúng vào chiếc túi da dài màu nâu đeo trên vai. Anh cẩn trọng tiến đến căn lán, khi còn cách chừng một trăm bước, anh dừng lại. Anh lấy khẩu súng trường báng ngắn ra và nạp vào một viên đạn. Anh ngắm rồi bắn vào cửa trước. Viên đạn xuyên qua gỗ vào bên trong lán. Không có động tĩnh gì. Anh nạp viên thứ hai rồi ngắm bắn bậc thềm. Súng nổ. Ván sàn bật tung lên. Không có động tĩnh gì. Anh nạp viên thứ ba, ngắm và bắn vỡ ổ khóa. Cửa bật mở. Tất cả chỉ có vậy. Robie nhét khẩu súng trường vào túi rồi lại cất nó lên xe. Nhưng anh lấy thêm một vật khác từ cái túi rồi nhét vào trong túi áo khoác. Anh rút khẩu súng ngắn ra rồi tiến về phía trước, người cúi thấp. Khi đến sát căn lán anh lấy dụng cụ kia từ trong túi áo ra, chĩa về căn lán. Anh nhìn vào màn hình của dụng cụ. Không có ảnh nhiệt. Reel không có mặt trong căn lán, và cũng không có bất kì ai khác. Trừ phi cô ta đã tìm cách đóng băng chính mình. Nhưng vẫn không có nghĩa là đã an toàn. Robie không thể quét khắp căn lán để tìm bom như ở sân bay. Cũng không có chó nghiệp vụ phát hiện bom để đem ra sử dụng. Sớm muộn anh cũng sẽ phải mạo hiểm. Và thời điểm đó đang ở trước mặt. Anh cất máy chụp ảnh nhiệt đi, lôi từ trong túi áo ra một vật bằng kim loại ngắn rồi bật nó lên. Anh mở cửa bước vào, vừa đi từng bước cẩn thận vừa dùng thiết bị điện tử để tìm dây bẫy vô hình. Anh cũng quan sát kĩ lưỡng từng mảng sàn trước khi bước lên để xem có tấm ván nào trông còn mới hay không. Thiết bị của anh không thể dò mìn áp lực dưới sàn nhà. Anh di chuyển qua từng phòng nhưng không tìm thấy gi. Không mất nhiều thời gian vì căn lán không rộng lắm. Điều khiến anh bất ngờ là nó giống hệt như căn hộ của anh – không phải ở kích thước và thiết kế, mà ở những gì bên trong nó. Hay đúng hơn là những gì không ở bên trong nó. Không có bất kì thứ gì cho thấy Reel thuộc về bất kì ai hay bất kì nơi nào. Hệt như mình. Robie vừa bước vào bếp thì điện thoại của anh rung lên. Anh nhìn xuống màn hình. Nội dung tin nhắn hiển thị đầy đủ trên màn hình. GELDER BỊ BẮN CHẾT KHI ĐANG NGỒI TRÊN XE Ở D.C. REEL LÀ ĐỐI TƯỢNG TÌNH NGHI. Robie cất điện thoại đi và cân nhắc tin tức này. Đó là một tin đáng báo động, bất luận thế nào, nhưng anh đã được huấn luyện để không phản ứng thái quá trước bất kì tình huống nào. Ưu tiên hàng đầu của anh lúc này là ra khỏi đây. Anh đã mạo hiểm quá nhiều mà thu lại quá ít. Robie nhìn sang bên phải và thấy một cánh cửa. Trông nó như lối vào buồng để đồ ăn hay nhà kho. Anh tự hỏi tại sao anh không để ý tới nó sớm hơn, và rồi nhận ra nó được sơn cùng màu với tường nhà bếp. Nó chưa được đóng chặt, để hở khoảng ba phân. Anh dùng chân đẩy ra trong lúc nhắm khẩu súng trên tay về phía nó. Căn phòng trống rỗng. Chuyến đi này chỉ là vô nghĩa. Và trong lúc anh đang ở đây, Reel đã sát hạ nhân vật số hai của tổ chức. Cô ta đang ghi điểm còn anh vẫn mãi mò mẩm. Anh rọi đèn pin vào phòng để nhìn kĩ hơn, mặc dù nó rõ ràng trống rỗng. Đó là lúc anh nhìn thấy dòng chữ viết trên tường bên trong: XIN LỖI. Robie đạp mở cửa sau, anh cho rằng đây là cách dễ dàng nhất để thoát ra mà không phải đi một vòng trở lại căn lán. Có vẻ là một ý tưởng không tồi. Một ý tưởng an toàn. Nhưng rồi anh nghe có tiếng lách cách và tiếng rít, bỗng chốc ý tưởng an toàn trở thành một cơn ác mộng.