🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồ Sơ Quyền Lực Younger Pitt
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1. Con đường đến với quyền lực
CHƯƠNG 2. Pitt và Vua Anh
CHƯƠNG 3. Thủ tướng Pitt
CHƯƠNG 4. “Tham vọng cuộc đời tôi”: Pitt và công việc chính phủ CHƯƠNG 5. Pitt và Viện Bình dân
CHƯƠNG 6.“Ấn tượng và tình cảm của dân chúng đối với phe của Pitt”: Pitt và nhân dân
CHƯƠNG 7. Pitt và các cường quốc châu Âu
CHƯƠNG 8. Pitt mất dần quyền lực
BẢNG NIÊN ĐẠI
LỜI GIỚI THIỆU
(cho bản tiếng Việt)
Hai thập niên cuối thế kỷ XVIII là giai đoạn diễn ra những biến động mạnh mẽ trong lịch sử thế giới như Cách mạng Pháp, Cách mạng Hoa Kỳ, các cuộc chiến tranh của Napoleon trên toàn châu Âu… Giai đoạn này cũng xuất hiện những chính khách, những nhân vật lịch sử tầm cỡ mà như Tallerand, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp thời đó từng nói ba chính khách vĩ đại nhất thế giới cuối thế kỷ XVIII là Hoàng đế Napoleon của Pháp, Alexander Hamilton -Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ và William Pitt - Thủ tướng Anh trong giai đoạn này.
William Pitt (William Pitt the Younger) là vị Thủ tướng Anh trẻ nhất - lên nắm quyền khi mới 24 tuổi (năm 1783) và cũng là Thủ tướng Anh cầm quyền lâu nhất - tổng cộng 19 năm, cho đến khi qua đời năm 1806 (chỉ ngắt quãng từ năm 1801-1804). Ông được gọi là William Pitt trẻ để phân biệt với William Pitt già, cha của ông, người cũng từng là Thủ tướng Anh.
Trong đời sống chính trị nước Anh, con đường đến với quyền lực nhanh chóng của William Pitt là duy nhất và có lẽ vẫn mãi là trường hợp vô song trên thế giới. William Pitt không giành quyền lực nhờ uy thế và địa vị của cha, mà nhờ tài năng và trí tuệ phi thường của chính mình. Một câu chuyện kể lại rằng năm 1780, trong lần gặp Edward Gibbon − một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã, tại một bữa tiệc, Pitt đã tham gia một cuộc tranh luận cực kỳ xuất sắc về chính trị với Gibbon. Chính sự uyên thâm, trí tuệ sắc sảo của chàng trai 21 tuổi này đã khiến nhà sử học cảm thấy bị dồn đến chân tường, chỉ còn cách đứng lên xin lỗi và rời bàn tiệc: “Tôi không nghi ngờ gì về sự khôn ngoan và sắc sảo của quý ngài trẻ tuổi này, nhưng tôi hoàn toàn không quen với phong cách tranh luận của anh ta, vì thế xin hãy thứ lỗi cho tôi”. Cần biết khi đó, Gibbon đã là một sử gia lớn 54 tuổi và vô cùng uyên thâm thì sẽ hiểu trí tuệ và tài năng của Pitt vĩ đại tới mức nào.
Những thành tựu phi thường mà Pitt đã đạt được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình luôn là những bài học quý giá cho lịch sử. Vì vậy, tiếp nối tủ sách Hồ sơ Quyền lực, với sự hợp tác của Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC), Công ty Sách Alpha lựa chọn dịch và xuất bản Younger Pitt. Thông qua cuốn sách, chúng tôi mong muốn cung cấp cho độc giả những thông tin cần thiết để nhìn nhận rõ hơn lịch sử nước Anh và tài năng, tư duy và cách hành động… của một chính khách phi thường như Pitt.
Xin trân trọng giới thiệu với độc giả và mong nhận được những ý kiến đóng góp!
Tháng 1 năm 2009
NGUYỄN CẢNH BÌNH
Lời mở đầu
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
"Lòng yêu nước đích thực trong thời bình… chính là chấp hành nghiêm pháp luật và giám sát hiến pháp; nỗ lực theo cách thức ôn hòa, vừa phải để điều chỉnh những vấn nạn và tham nhũng…; ủng hộ mạnh mẽ bất cứ ai, bất cứ đảng phái nào, hoặc các mối liên hệ với bất kể chính quyền nào được thiết lập về những điểm mà xét theo khía cạnh nào đó họ có thể đúng, cần phản đối kiên quyết, nhưng bình tĩnh về những điểm mà xét theo khía cạnh nào đó họ có thể sai; nhưng trên hết, điều cốt lõi là trong thời bình phải bảo đảm cho những nguy cơ bất ngờ của chiến tranh, tăng thu nhập nhưng không tạo gánh nặng cho thương mại, thanh toán các khoản nợ chung và phát triển nghệ thuật, khoa học, nông nghiệp, sản xuất và dân số trên khắp vương quốc.
Quả thật, chỉ khi đất nước lâm nguy,… lòng yêu nước mới trở nên sục sôi, giục giã, làm náo động cả thế giới."
Tiểu luận về chủ nghĩa yêu nước và về phẩm chất, tư cách đạo đức của những kẻ giả danh yêu nước nổi tiếng gần đây (1768)
Từ trước đến nay, các công trình nghiên cứu Younger Pitt thường chia sự nghiệp chính trị của ông thành hai phần không đồng đều: những năm hòa bình và cải cách, sau đó là những năm chiến tranh và trấn áp. Tôi cố gắng tránh lối mòn này, bởi tôi nghiêng về ý kiến của “nhà viết tiểu sử chính thức” của Pitt, George Pretyman Tomline, rằng “chính quyền của Pitt là một thể nhất quán, trong đó tất cả các bộ phận hình thành trên cùng một nguyên tắc và hỗ trợ nhau mạnh mẽ”. Các sử gia tranh cãi về nguyên tắc đặc biệt đã thúc đẩy Pitt, nhưng với tôi, dường như cuộc đời và lời nói của ông vẫn âm vang những tình cảm thể hiện trong đoạn trích nêu trên, đại diện cho một người yêu nước lý tưởng hồi giữa thế kỷ XVIII.
Tôi chọn phương thức viết theo chủ đề hơn là theo trình tự thời gian, vì đó là cách tốt nhất để diễn đạt các phạm vi quyền lực mà Pitt thể hiện, cũng như tính liên tục giữa các phần được phân chia theo cách thông thường trong sự nghiệp của ông. Nó cũng biểu thị phạm vi hoạt động rộng lớn của ông, trên nhiều lĩnh vực hơn, với thời gian lâu hơn rất nhiều so với bất cứ bậc tiền bối tài giỏi nào ở thế kỷ XVIII. Ông không những là Thủ tướng trẻ nhất của nước Anh từ trước đến nay, mà việc ông nắm giữ quyền lực cũng thật phi thường. Trong sự nghiệp chính trị 25 năm, có tới 20 năm ông có mặt trong Nội các (và cả chừng ấy năm, chỉ trừ tám tháng, ông là người đứng đầu
chính phủ). Năm 1801, một đồng sự trong Nội các, người luôn ngưỡng mộ ông đã tuyên bố: “Pitt và Nội các không thể tách rời”. Sự nghiệp của William Pitt con rõ ràng là cả một tập Hồ sơ quyền lực!
CHƯƠNG 1. Con đường đến với quyền lực
CON TRAI BÁ TƯỚC CHATHAM VĨ ĐẠI
Trong đời sống chính trị và chính quyền Anh, con đường đến với quyền lực nhanh chóng của William Pitt là duy nhất và có thể mãi sau này sẽ vẫn là trường hợp vô song. Ngày 28/5/1780, William Pitt bước sang tuổi 21. Bảy tháng sau, ông được bầu làm nghị sĩ; sau hai năm hai tháng, ông được đề bạt làm Bộ trưởng Tài chính Anh và là thành viên Nội các Anh; chỉ sau ba năm bảy tháng, ông đắc cử chức Thủ tướng Anh và trở thành người lãnh đạo chính phủ.
Một điều khiến ta ít ngạc nhiên nhất về sự thăng tiến nhanh chóng đến không ngờ này chính là cuộc tuyển cử của ông vào Viện Bình dân ở độ tuổi còn rất trẻ. Hệ thống tuyển cử chưa được cải cách của thế kỷ XVIII đã mang lại cho những người trẻ tuổi nhiều cơ hội. Một phần sáu số thành viên Viện Bình dân ở độ tuổi dưới 30, một vài người cũng trẻ như Pitt. Cửa vào Viện Bình dân luôn rộng mở cho những người trẻ tuổi tìm được người bảo trợ có ảnh hưởng lớn trong Nghị viện, hoặc thông qua mối quan hệ chính trị, quan hệ gia đình, hoặc có người cha nổi tiếng. William Pitt rơi vào trường hợp cuối cùng. Ông là con trai thứ hai của Bá tước Chatham vĩ đại (William Pitt cha) − một ngôi sao chính trị siêu phàm và sáng chói giữa thế kỷ XVIII. Khả năng lãnh đạo của Chatham đã giúp dân tộc Anh giành được chiến thắng lừng lẫy nhất trong cuộc Chiến tranh Bảy năm1. William Pitt sinh năm 1759, năm mà sự nổi tiếng của người cha đã đạt đến đỉnh điểm.
Tuy nhiên, William Pitt lại phát triển khi danh tiếng của người cha đã giảm sút. Chatham là một người yêu nước, ông đã hành động vì lợi ích của dân tộc, không gây bè cánh hay thù oán đảng phái, ghét mọi hình thức tham nhũng và đầu cơ của đời sống chính trị lúc bấy giờ. Ông chống lại sự thống trị theo kiểu quý tộc của Viện Bình dân hay tước vị, bổng lộc và địa vị “ngồi mát ăn bát vàng” mà các chính phủ từng đề nghị để giành được đa số phiếu ủng hộ. Năm 1768, Chatham đã bị công kích trên một số ấn phẩm, như bài viết giấu tên Bàn về chủ nghĩa yêu nước, trong đó lên án ông là “kẻ mạo danh yêu nước”. Ông bị cho là đã để tính tự phụ của mình vượt lên cả tình yêu đất nước khi từ chức vào năm 1761, sau khi những đồng sự trong Nội các không thông qua kế hoạch của ông về cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và từ chối ủng hộ các kế hoạch sau này của cuộc chiến.
Uy tín “một hạ nghị sĩ vĩ đại” của Chatham đã bị lung lay bởi sau khi từ chức, Chatham đã chấp nhận khoản tiền trợ cấp hàng năm 3.000 bảng và một danh vị quý tộc cho vợ mình; hơn thế nữa, ông đã trở thành Bá tước Chatham và là Thủ tướng Anh trong những năm 1766-1768. Nhiệm kỳ thủ tướng của Chatham, một sự trải nghiệm về lý tưởng yêu nước của một bộ không đảng phái ủng hộ nguyên tắc “biện pháp chứ không phải con người” đã bị đứt ngang giữa lúc sự tố cáo lẫn nhau và tranh giành quyền lực xảy ra trong Nội các, cuối cùng bệnh tật đã loại ông ra khỏi cuộc chiến đó. Việc sau này Chatham ủng hộ cải tổ Nghị viện và những người không theo đảng phái đã giúp ông lấy lại uy tín (mặc dù nó cũng khiến ông phải chia tay với nhiều chính trị gia nổi tiếng khác). Tuy vậy, Chatham không được lòng công chúng bởi chính sách ngoại giao theo kiểu đế quốc − thế mạnh lớn nhất của ông. Ông hối thúc cuộc chiến với một quốc gia rất nhạy cảm bằng việc chiếm đóng quần đảo Falkland của Tây Ban Nha vào năm 1770, tiến tới hòa bình và sự hòa giải vô ích với Mỹ trong khoảng thời gian từ 1774 đến 1778, năm ông mất.
William Pitt và cha có mối quan hệ rất sâu sắc. William Grenville, người anh họ của William Pitt, nhớ lại, Pitt “thường trò chuyện với Bá tước Chatham rất trìu mến và không bao giờ có khoảng cách giữa hai cha con”. Mối quan hệ này đã giúp Pitt bước vào đời sống chính trị ngay từ rất sớm. Chatham không chỉ huấn luyện con trai khả năng diễn thuyết trước công chúng từ khi còn nhỏ, mà còn nhắc nhở đạo làm con phải giữ gìn truyền thống yêu nước, tiếp nối truyền thống gia đình của một hạ nghị sĩ vĩ đại và lấy lại uy tín của người cha đã khuất. William Pitt sẽ đưa ra trước Viện Bình dân Anh ngọn đuốc học thuyết yêu nước mà cha ông theo đuổi, dẫu có cả những bài học về lỗi lầm của người cha mà ông không thể nào quên. Song, đó cũng là một quyết định mạo hiểm, bởi ông bắt đầu sự nghiệp chính trị từ cơ sở tài chính không vững chắc. Chatham chết khi đang nợ nần chồng chất. Pitt phải sống dựa vào khoản trợ cấp 600 bảng mỗi năm của người anh trai và không thể trông mong gì hơn, vì tài sản của cha ông đã bị các chủ nợ lấy đi hết. Phải có một khoản thu nhập cá nhân độc lập thì ông mới có thể theo học các khóa dành cho giới thượng lưu. Trong những năm 1779-1780, ông đã theo học ở trường Lincoln’s Inn. Hè năm 1780-1781, ông là luật sư tập sự nghiên cứu các vấn đề của phương Tây. Tuy nhiên, khoản thu nhập từ công việc này vẫn chưa ổn định. Do các nghị sĩ Anh không được trả lương và học thuyết yêu nước của ông là không màng đến danh lợi hoặc bổng lộc nên ông thật sự cần đến một chức vụ được chính phủ trả lương để có thể duy trì sự nghiệp chính trị hiệu quả.
Những năm đầu tiên trong sự nghiệp, dịp may hiếm có đã đến với Pitt,
chỉ còn phụ thuộc vào khả năng ông khai thác nó như thế nào. Cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ (1775-1783) ngày càng trở nên tồi tệ, Pháp và Tây Ban Nha tham chiến để chống lại Anh. Tư tưởng phản đối mối bất hòa với Mỹ của Chatham nay được nhiều người ủng hộ hơn. Việc Bộ của North2chỉ đạo cuộc chiến sai hướng khiến mọi người thấy rõ hướng chỉ đạo mạnh mẽ và hiệu quả mà Chatham đã áp dụng trong cuộc chiến tranh trước. Trong khi đó, sự quản lý lỏng lẻo của các bộ lại được đổ lỗi cho tệ tham nhũng và sự ảnh hưởng quá mức của Vua Anh, những điều mà trước đó Chatham luôn công kích. Cơ hội chứng minh danh tiếng của người cha đã trong tầm tay, đồng thời cơ hội để Pitt gia nhập diễn đàn phù hợp cũng đã đến chỉ sau vài tháng, khi Nghị viện Anh bị giải tán và cuộc tổng tuyển cử được ấn định vào tháng 9/1780.
Tuy nhiên, để chứng minh cho danh tiếng và những nguyên tắc đạo đức của cha, Pitt đã gặp không ít trở ngại. Xét theo góc độ duy tâm, ông cần phải trong sáng hơn cha. Ông không thể chuyển sang bất kỳ một đảng nào hoặc liên hệ nhờ một sự giúp đỡ nào. Cũng như cha, Pitt tuyên bố mình là “một đảng viên Đảng Whig3độc lập”. Điều này có nghĩa là ông không tham gia đảng phái, nhưng cam kết duy trì một hiến pháp cân bằng và pha trộn do những thành viên Đảng Whig lập nên trong cuộc Cách mạng Vinh quang4 năm 1688, một hiến pháp mà Pitt tin rằng nó có nguy cơ bị George III và chính phủ của ngài xâm phạm. Pitt thể hiện sự độc lập của mình đến nỗi ông từ chối tất cả những lời đề nghị ủng hộ của các thành phố, thị trấn, ngay cả khi đó là của những người thân, như Bá tước Temple và Thomas Pitt, mặc dù cha của Pitt đã vào Nghị viện bằng con đường này. Thay vào đó, ông tranh thủ sự ủng hộ của các cử tri độc lập, mở rộng và chuyển hướng sang trường Đại học Cambridge, nơi ông đã học vào năm 1773, khi mới 14 tuổi. Ông nhận bằng thạc sĩ tại trường này năm 1776 mà không cần phải thi cử (vì ông nằm trong danh sách con của khanh tướng). Lúc này, mẹ ông đánh giá ông đã “hoàn thiện ở Đại học Cambridge, sau các buổi rèn luyện trí óc và thể lực, phải thú nhận rằng tôi đã nghĩ nó thật hoàn hảo”. Trong suốt ba năm học cao hơn kết hợp với môn cưỡi ngựa ở trường Cambridge, tinh thần vui vẻ, tính hài hước và khả năng đối đáp nhanh nhạy khi tiếp xúc với những người quen đã giúp Pitt cuốn hút được đông đảo bạn bè và những người có khả năng ủng hộ ông sau này. Ông đã miêu tả vị trí của mình trong trường đại học là “đáng khao khát nhất, không phải chịu một phí tổn nào, hoàn toàn tự do và xét về mọi khía cạnh là quá vinh dự”. Ông bắt đầu chuẩn bị cho một kế hoạch cá nhân trước khi rời trường Cambridge năm 1779, nhưng chính phủ đã quyết định bầu cử sớm ngoài dự kiến, quá trình vận động bầu cử của ông chưa đủ mạnh nên ông nằm cuối danh sách bầu cử.
Hoàn cảnh bắt buộc Pitt phải chấp nhận những lời gợi ý thiện chí của một người bạn học cũ ở trường Cambridge, Công tước Rutland. Mối quan hệ của Rutland với người có ảnh hưởng lớn tại thành phố phía bắc bấy giờ − ngài Lowther − đã giúp Pitt quay trở về Appleby ở Westmorland. Ở đây, Pitt cảm thấy được thỏa mãn nhu cầu độc lập của mình. Pitt nói với mẹ về Lowther: “Am hiểu những nguyên tắc của cha, ông ấy cho rằng mình cũng sẽ tán thành những nguyên tắc của con”. Lowther không đưa ra một thời hạn cụ thể, nhưng hy vọng Pitt sẽ từ bỏ vị trí mà nó có thể khiến những nguyên tắc đạo đức của họ trở nên đối lập.
Cuộc bầu cử diễn ra sớm đột xuất khiến tất cả những người chống đối chính phủ không kịp chuẩn bị. Tình trạng tiến triển tạm thời của cuộc chiến và ảnh hưởng của Bộ Tài chính đã tạo cơ hội cho Bộ của North bảo toàn được đa số phiếu. Thành viên mới của Appleby, cũng như cha ông, bị xếp vào phe đối lập. Khoảng một tháng sau khi giành được ghế nghị sĩ, ngày 26/2/1781, với tư cách nghị sĩ tại Nghị viện, ông đã có bài diễn thuyết đầu tiên ủng hộ dự luật của phe đối lập là chuyển số tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh sang phục vụ các dịch vụ công. Cơ hội đến với ông thật bất ngờ, nhưng ông đã sẵn sàng đón nhận nhờ những bài giảng của cha, những buổi trực tiếp nghe diễn thuyết và thảo luận của cha (tình bạn thân thiết của ông với William Wilberforce cũng nảy nở từ khi họ thường xuyên đi nghe các buổi diễn thuyết, trước khi cùng trúng cử vào Viện Bình dân Anh). Pitt ứng khẩu rất bình tĩnh và quả quyết trước những quan điểm của những người diễn thuyết trong buổi hội thảo. Ngay cả North cũng hào phóng tuyên bố đây là bài diễn thuyết hay nhất của một thanh niên mà ông ta từng nghe. Uy tín của cha Pitt cũng khiến mọi người sẵn sàng đón nghe những gì ông nói, và tất nhiên là sẽ không tránh khỏi sự so sánh giữa Pitt và cha. Edmund Burke khẳng định Pitt “không phải là mảnh vỡ của tòa nhà cũ, chính Pitt là tòa nhà cũ đó”. Cũng có thể sự nổi tiếng của cha đã giúp ông có được sự ủng hộ như vậy. George Selwyn, người được nghe bài diễn thuyết thứ ba của Pitt tại Viện Bình dân vào ngày 12/6, đã đánh giá: “Tất cả những gì tôi có thể nói đó là cậu ấy thật hiểu biết, một chàng trai trẻ đầy hứa hẹn”.
Tiếng tăm của cha càng thúc đẩy sự nghiệp của ông. Tuy nhiên, tự bản thân ông phải có khả năng để tận dụng triệt để sự khởi đầu thuận lợi này, và sau bài diễn thuyết đầu tiên tại Nghị viện vào mùa thu, ngay cả Selwyn cũng phải thừa nhận “bài diễn thuyết hôm nay của Pitt đã gây được tiếng vang lớn”. Sau bài diễn thuyết tiếp theo của Pitt, một người rất có kinh nghiệm như Horace Walpole cũng phải ghi nhận: “William Pitt đã đề cập đến lời tuyên bố suông của North mà cậu đã ghi vào biên bản. Cậu ấy đã thể hiện cho họ thấy khả năng tư duy logic đáng ngạc nhiên nhất. Với tất cả những gì
đã thể hiện, không ai có thể nghi ngờ cậu ấy sẽ trở thành một người tài giỏi thậm chí còn hơn cả Charles Fox”. Nhân dịp năm mới năm 1782, một thính giả khác đã viết về Pitt: “Ông ta là một người tuyệt vời trên mọi phương diện, cả công việc bình thường cũng như sự thăng tiến liên tục và nhanh chóng: Tôi đã nghe ông ta diễn thuyết ba lần và lần diễn thuyết sau hấp dẫn hơn lần trước”.
Mặc dù chịu sự công kích từ Pitt, một tài năng đầy hứa hẹn của phe đối lập (Pitt tham gia phe này để cùng góp tiếng nói với Charles Fox, Burke, Sheridan và những người khác), nhưng North đã tổ chức phiên họp vào mùa xuân năm 1781 với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Henry Dundas, một người chủ trương ủng hộ Scotland. Sự phát triển của Pitt hẳn sẽ không suôn sẻ nếu hoàn cảnh không thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ông. Việc quân đội Anh đầu hàng thê thảm trong cuộc chiến tại Yorktown đã làm sụp đổ cuộc chiến tranh ở Mỹ và đánh mất niềm tin trong Bộ. Tháng 3/1782, mất đa số phiếu ủng hộ, North từ chức.
Sự tan rã của một chính phủ được thiết lập trong nhiều năm của North đã làm thay đổi giới chính trị, nhiều nhóm chính trị tan vỡ. Trong hoàn cảnh này, không chỉ khả năng diễn thuyết giúp Pitt tìm kiếm được sự ủng hộ của nhiều người, mà tài trí và những buổi yến tiệc, đặc biệt là với những người cùng độ tuổi trong Nghị viện, đã biến ông thành nhân vật quan trọng trong Gootree, câu lạc bộ của các thành viên trẻ tuổi. Họ hầu hết là những bạn học cũ của Pitt ở Cambridge, trong số đó có John Jeffreys Pratt và Euston, con trai của Bá tước Camden đáng kính và Công tước Grafton, những người ủng hộ nổi tiếng trước đây của cha ông. Ông cũng biết Edward Eliot và Henry Bankess hồi còn ở trường Cambridge. Wilberforce cũng học ở Cambridge, nhưng chỉ đến khi gặp nhau ở London, họ mới kết bạn với nhau. Richard Pepper Arden cũng là người từng đi chung cầu thang gác với Pitt khi ông đang theo học ở trường Lincoln's Inn. Giám đốc ngân hàng Robert Smith cũng bắt đầu liên lạc với Pitt khi ông được vào Nghị viện. Hai người quen khác ở trường Cambridge là William Lowther và Công tước Rutland (người kiểm soát sáu ghế trong Viện Bình dân) cũng nằm trong số những người ủng hộ thân cận của Pitt. Một số người lớn tuổi hơn Pitt − Arden lớn hơn mười lăm tuổi, Smith hơn bảy tuổi, Rutland hơn năm tuổi, Bankes hơn ba, Euston và Eliot hơn một tuổi − tất cả đều đánh giá cao nhân cách của Pitt, cho rằng Pitt có khả năng giành được cảm tình và sự ủng hộ rộng rãi.
Tại thời điểm này, Pitt ảnh hưởng đến họ nhiều hơn là các lá phiếu chắc chắn của họ dành cho ông, nhưng có điểm đáng chú ý: Tháng 3/1782, Selwyn đã viết: “Pitt sẽ không bị lệ thuộc; ông sẽ không chịu như vậy trong
xã hội của chính mình. Ông sẽ là người lãnh đạo nhiều thanh niên trẻ, và đó sẽ là một quân đoàn tách biệt khỏi quân đoàn của Charley (Fox); do vậy sẽ có một người khác ở vị trí đứng đầu này, người mà không ai có thể vượt qua”. Mười ngày trước, Dundas có kế hoạch yểm trợ cho Bộ của North, trong đó gồm cả kế hoạch giới thiệu Pitt với cương vị là Thủ quỹ của Hải quân Anh, với một ghế ở Bộ Tài chính, Hải quân và Thương mại, cùng với một số bạn bè của Pitt. Pitt đã thu hút được sự ủng hộ của nhiều người.
Tuy nhiên, việc thiếu kinh nghiệm đã khiến Pitt trở thành một người liều lĩnh. Khi chính phủ mới được thành lập, Pitt đã bất ngờ tuyên bố không bao giờ chấp nhận sự phụ thuộc. Ngày 8/3, ông cũng tuyên bố như vậy trước Viện Bình dân. Horace Walpole đã coi điều Pitt làm là sự bất cẩn khó tha thứ:
Đó là lời phát biểu quá ngạo mạn của một đứa trẻ không có lấy một chút kinh nghiệm, thậm chí là của một kẻ có vị trí thấp nhất trong bất kỳ một văn phòng nào, người mà chỉ nhờ những bài diễn thuyết, trên thực tế là rất hay nhưng không chứng minh được năng lực làm việc đã vội tự phụ đòi đứng ở vị trí lãnh đạo. Điều đó chứng minh anh ta chỉ là một đứa trẻ, một con người kiêu căng và đầy tham vọng. Khi bình tĩnh lại, anh ta sẽ nhận thấy đó là hành động điên rồ và muốn cắt bỏ cái lưỡi vì đã thốt ra những điều đó.
Sự việc đó đã đẩy Pitt vào thế không thể đòi hỏi quyền lực và phải phụ thuộc vào lòng tốt của một chính trị gia cấp cao mà Pitt có mối liên hệ mật thiết nhất − Bá tước Shelburne, người được thừa hưởng khả năng lãnh đạo của những người theo Chatham trước đây. Shelburne giới thiệu Pitt với Bá tước Rockingham − một nhà lãnh đạo của nhóm đối lập lớn nhất, được giao phó nhiệm vụ thành lập chính phủ mới. Rockingham có ý định bổ nhiệm Pitt làm Phó giám đốc Bộ Tài chính Ireland với mức lương 5.000 bảng mỗi năm, nhưng Pitt đã từ chối vì e ngại việc nhận chức đó sẽ đi ngược lại những tuyên bố của ông trước công chúng, sợ rằng hình ảnh của một người yêu nước sẽ bị hoen ố. Shelburne đã có một số đề nghị ưu tiên để ấn định một vị trí trong Nội các cho Pitt, nhưng chính phủ mới được thành lập mà vẫn không có Pitt.
Một lần nữa, con đường chính trị của Pitt bị dừng lại, ông nhanh chóng tìm cách củng cố hình ảnh của mình trước mắt dân chúng. Chi phí và cách quản lý sai lầm cuộc chiến tranh với Mỹ đã kích thích yêu cầu phải cải tổ Nghị viện trở thành đại diện tốt hơn cho quan điểm của giai cấp tư sản trong nước. Xuất phát từ tầng lớp cấp tiến ở London, nó đã lan sang tầng lớp quý tộc nhỏ ở các hạt. Năm 1779, Đức cha Christopher Wyvill thành lập Hiệp
hội Yorkshire – nhóm gây áp lực ngoài Nghị viện cho chiến dịch đòi cải tổ, các hạt khác cũng noi gương thành lập hiệp hội. Cha của Pitt là người kiên định mục tiêu cải tổ Nghị viện, và tháng 10/1780, Pitt được bầu vào ủy ban của Hiệp hội Kent5do Mahon, anh rể ông, làm chủ tịch.
Phong trào đòi cải tổ đã gặp thất bại vì North chiến thắng trong cuộc bầu cử, nhưng mọi người vẫn hy vọng nó sẽ được phục hồi khi chính quyền của ông ta sụp đổ. Tháng 4/1782, Wyvill và Pitt, những người có tư tưởng cải cách, đã gặp nhau tại nhà của Công tước Richmond ở London và đi đến thống nhất rằng Pitt sẽ chuyển đến Viện Bình dân với một chân trong Ủy ban Đặc biệt để lưu ý đến tình trạng phản kháng. Pitt đã đưa ra đề nghị cải tổ lần đầu tiên vào ngày 7/5 trong một bài phát biểu kéo dài một tiếng rưỡi, ông đề xuất việc sửa đổi các nguyên tắc và giảm bớt những thiếu sót. Mặc dù đề nghị này bị phản đối với tỷ lệ phiếu 161 141, Pitt vẫn thành công trong việc củng cố hình ảnh của mình như một phát ngôn viên uy tín trong Viện Bình dân về vấn đề cải tổ Nghị viện và có mối liên hệ trực tiếp với những người cùng tư tưởng cải cách bên ngoài Viện. Mười hai ngày sau, một cuộc họp cấp cao đã đi đến thống nhất bắt đầu chiến dịch trưng cầu dân ý toàn quốc, tạo điều kiện cho Pitt tiếp tục vấn đề này trong phiên họp tiếp theo.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH ANH TRONG NỘI CÁC CỦA SHELBURNE
Pitt đã thăng tiến rất nhanh trước khi vận may đến với ông. Chính phủ mới bị chia rẽ thành hai bè phái tranh giành quyền lực, giữa Shelburne và Fox. Việc Pitt không có mặt trong chính phủ lúc này lại là điều kiện để ông tránh khỏi sự chia rẽ bè phái. Ông tự do ứng cử khi Rockingham đột ngột từ trần vào tháng 7, Fox và những người cùng phe từ chức sau khi Vua Anh chuyển giao cho Shelburne quyền lãnh đạo Nội các. Nội các cần bổ nhiệm các vị trí còn trống, và cần tìm một người có thể dũng cảm đương đầu với Fox trong Viện Bình dân, việc Pitt tuyên bố muốn đứng ở vị trí lãnh đạo hồi tháng 3 lúc này đã mang lại kết quả. Có quan điểm cho rằng sau khi thôi kiếm sống trong ngành luật sư, chắc chắn Pitt sẽ không từ chối vị trí Bộ trưởng Tài chính Anh trong Nội các mà Shelburne đề nghị. Trong số bạn bè của ông, Arden trở thành cố vấn pháp luật của chính phủ, Eliot và Pratt được giao giữ các vị trí ở Bộ Tài chính và các ban trong Bộ Hải quân.
Điều đáng nói là Pitt giữ chức bộ trưởng của một bộ yếu trong một Nội các không được vững chắc. Pitt vẫn chưa đủ khả năng đòi một vị trí đặc biệt và những gì ông có được đều là do may mắn mà người khác mang lại. Ban
đầu, Vua Anh và Shelburne định bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Nội vụ, nhưng cuối cùng Thomas Townshend, người có nhiều kinh nghiệm và diễn thuyết rất thuyết phục, đã giành được vị trí đó và có quyền lãnh đạo chính phủ trong Viện Bình dân. Townshend và ít nhất hai người khác đã rời Bộ Tài chính, do Bộ không đủ người nên Pitt nhận vị trí Bộ trưởng. Đây không phải là một bộ nắm quyền, Shelburne với tư cách là Thủ tướng Anh có ý định nắm giữ tất cả mọi vấn đề liên quan đến tài chính. Cả Pitt và Shelburne đều cần phải thử thách. Bá tước Mornington, một người bạn sau này và là người đi theo Pitt, đã lộ rõ sự lo lắng khi nghe những lời đồn đại đầu tiên về Bộ mới: “Chao ôi, William Pitt là Bộ trưởng! Ngài Shelburne là Thủ tướng! Tôi chắc chắn Pitt không có đủ khả năng đảm nhiệm công việc đó, còn Shelburne, theo tôi, khó có thể trông mong ở ông ta”.
Sự bổ nhiệm chính quyền đầu tiên của Pitt là trực tiếp vào văn phòng Nội các, nhưng 9 tháng sau ông mới chính thức được nhận quyền, và chỉ đến khi hai phiên ngừng họp Nghị viện kéo dài mới khiến khoảng thời gian Pitt chờ lên nắm quyền được rút ngắn. Shelburne không mấy uy tín. Nhưng với bản tính thông minh, lanh lợi, cộng thêm sự tư vấn của các cố vấn riêng tài năng, ông đã khéo léo dần tăng uy tín của mình. Tuy nhiên, dù ông đã chiếm được cảm tình của Vua Anh, nhưng đây lại là thời điểm mà uy tín của Vua Anh bị giảm sút bởi cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ6do ngài ủng hộ đã thất bại. Người ta tính rằng ở Viện Bình dân, số người ủng hộ Shelburne và Vua Anh có thể tập trung ở 140 phiếu, Fox được 90 phiếu và North − người đã mất chức − chiếm 120 phiếu, số phiếu ủng hộ những người còn lại không được thống kê chắc chắn. Bởi vậy, phần lớn phụ thuộc vào việc Shelburne lôi kéo mọi người ủng hộ rộng rãi chính sách của ông. Tuy nhiên, ông vẫn phải đối mặt với tình thế phải giải quyết những vấn đề mà sẽ gây bất lợi cho hòa bình với Mỹ và các đối tác châu Âu, có thể chính phủ sẽ phải chịu những điều gièm pha. Bằng sự khéo léo của mình, Shelburne đã giúp dân tộc thoát khỏi chiến tranh, nhưng sự nhượng bộ của ông cuối cùng lại khiến Nội các tan vỡ, tạo điều kiện cho các thành phần chống đối tập hợp chống lại ông trong Viện Bình dân.
Sau khi Nghị viện tái tổ chức phiên họp vào tháng 12/1782 để thảo luận vấn đề hòa bình, Pitt bắt đầu tăng cường vai trò nắm quyền thật sự cho chính mình. Mọi ưu thế về quyền bổ nhiệm trong Bộ Tài chính nằm trong tay Shelburne, Pitt phải phụ thuộc vào việc liệu Thủ tướng có cho ông nghỉ việc hay không. Chẳng hạn, khi sắp xếp lại các vị trí trong Bộ, có năm vị trí còn khuyết, Shelburne đã giành quyền sắp xếp hai vị trí Bộ trưởng Tài chính cho Orde và Rose, còn lại là của Pitt. Vị Bộ trưởng Tài chính trẻ tuổi làm việc đầy nhiệt huyết, nhưng Shelburne dường như chỉ làm việc trực tiếp với các
nhân viên ngân khố dày dạn kinh nghiệm, các cố vấn riêng và vị trí Bộ trưởng Tài chính. Pitt nằm trong kế hoạch cải tổ chính quyền trong Bộ Tài chính của Shelburne, được giao trọng trách đưa hai dự luật ra trước Viện Bình dân, một về việc cải cách thuế hải quan và một về điều chỉnh các văn phòng công cộng. Tuy nhiên, có ít nhất hai dấu hiệu cho thấy Pitt không nằm trong danh sách những người mà Shelburne tin tưởng khi bàn về các công việc của Bộ Tài chính. Thứ nhất, giữa hai người ít khi có sự hòa hợp, đặc biệt khi Shelburne đang giữ một ghế trong Quốc hội ở Bowood mùa thu năm 1782. Dấu hiệu thứ hai là cuộc điều trần của George Rose, Bộ trưởng Tài chính. Mặc dù Rose đã gặp Pitt ở Bộ Tài chính và một vài lần trong bữa tối tại nhà Shelburne, nhưng Rose không thấy thân thiện với vị Bộ trưởng Tài chính cho tới sau khi họ thôi cầm quyền.
Mặc dù Pitt có mặt trong tất cả các cuộc họp của Nội các, nhưng vai trò của ông rất hạn chế. Shelburne luôn điều hành trực tiếp các cuộc đàm phán về các điều luật thông qua cuộc gặp riêng với các đặc phái viên nước ngoài, gửi những đại diện cá nhân, đặc phái viên của Anh hoặc sử dụng hai vị Bộ trưởng. Trong các báo cáo về những cuộc thảo luận trong Nội các, Pitt gần như là ẩn danh. Một số người như Richmond và Keppel mạnh mẽ bày tỏ quan điểm của họ và than phiền về việc thiếu sự bàn bạc thích hợp trong Nội các. Trong thời gian ngắn, Shelburne nắm giữ quyền điều hành đất nước, quyền lực nằm cả trong tay Thủ tướng và những gì mà Pitt rút ra là có rất ít dấu hiệu cho thấy Shelburne thiết lập mối quan hệ thân mật với Pitt. Hai năm sau, Shelburne cử một đặc phái viên tới để bàn về việc Pitt đề nghị ông được nâng lên tầng lớp quý tộc, vị nguyên Thủ tướng ghi nhận: “Tôi biết sự lãnh lẽo trong thế giới mà anh sẽ bước vào, nó đòi hỏi tất cả sự hăng hái nhiệt tình của anh để làm tan đi bầu không khí đó”.
Chỉ đến khi quyền lực của Shelburne bị đe dọa ở Viện Bình dân thì vai trò của Pitt mới có ưu thế và có ảnh hưởng hơn. Vốn quý nhất của Pitt đối với bất kỳ chính phủ nào vẫn là khả năng diễn thuyết. Ông nhanh chóng tiếp cận với nhiều nhà chức trách có thế lực như Tướng Conway và Thomas Townshend. Tuy nhiên, Pitt vẫn không tránh được những sai lầm đáng tiếc. Trong các buổi thảo luận về đàm phán hòa bình ngày 6/12, Pitt đã mắc sai lầm và tiếp tục mắc sai lầm khi thách thức rằng kết quả của các cuộc đàm phán hòa bình cao hơn với Pháp, hòa bình với Mỹ là vô điều kiện. Khẳng định này mâu thuẫn với những gì Shelburne trình với Vua Anh. Vua Anh đã khiển trách sự thiếu kinh nghiệm của Pitt: “Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chàng thanh niên còn quá trẻ đó đã lỡ lời”. Một sơ suất khác mà Pitt đã mắc phải gây ra không ít tai tiếng. Ngày 17/2/1783, trong cuộc thảo luận về hiệp ước hòa bình, Pitt đã phản ứng lại những chỉ trích của Sheridan bằng một
tuyên bố mỉa mai rằng cuộc tấn công bất ngờ còn tốt hơn là phân chia theo từng giai đoạn.
Tuy nhiên, những kỹ năng tranh luận của Pitt là sự ủng hộ tin cậy và không thể thiếu được đối với Shelburne trong Viện Bình dân. Pitt có ảnh hưởng rất lớn khi Thủ tướng Shelburne phải củng cố Bộ của mình đang có chiều hướng lung lay. Khi Richmond từ chức và Carlisle hết nhiệm kỳ, Shelburne đã dành cả hai vị trí này cho những người bạn của Pitt – Rutland, người đã từ bỏ Nội các của đảng khác và Công tước Grafton – mà không cần phải tham khảo ý kiến. Quyết định này chủ yếu là để tìm kiếm một sự ủng hộ an toàn nhằm hòa giải với North hoặc với Fox. Pitt kiên quyết không ngồi vào bất cứ ghế nào trong Nội các của North. Do vậy, mặc dù đã thăm dò ý kiến để nhận được sự ủng hộ của North (đương nhiên là không có Pitt), Thủ tướng Shelburne vẫn không thể đề nghị một chức vụ cao hơn cho North. Trong số những người từng là phe đối lập, Pitt được phép lựa chọn hướng hòa giải với Fox, nhưng Fox đã từ chối tham gia bất kỳ phiên họp nào khi Shelburne vẫn đương chức, Pitt cũng không thể từ bỏ Thủ tướng Shelburne, do đó cuộc thương lượng này không đi đến hồi kết. Sau đó, Fox và North đã xích lại gần nhau hơn, điều này nằm ngoài dự kiến của mọi người. Những thành phần từng được coi là chống đối đã liên kết với nhau để chống lại những đề nghị của Thủ tướng trong các cuộc đàm phán liên tiếp vào các ngày 17 và 21/2, khiến Shelburne phải tuyên bố từ chức sau đó ba ngày.
Đối với Pitt, bài diễn thuyết trong hai cuộc đàm phán cuối cùng này có ý nghĩa quan trọng nhất trong cuộc đời, đánh dấu những kỳ vọng của ông trong việc lãnh đạo chính phủ. Ông hiểu rằng Bộ của Shelburne sẽ bị lên án và ông phải giải thoát chính mình khỏi sự sụp đổ đó. Ông phải chứng tỏ quyền lực của mình mà không cần phụ thuộc vào Shelburne. Lần thử thách cuối cùng này, ông phải thực hiện điều mình muốn song không thể hiện mình không trung thành với Thủ tướng đã bị thất thế. Pitt đã khéo léo giải quyết tất cả các vấn đề của mình bằng việc trình bày một bài diễn thuyết về chủ nghĩa yêu nước kéo dài 2 tiếng 45 phút. Một người phe đối lập đã mô tả ông như “một cột nhà cao nhất mà cha ông chưa bao giờ trèo lên được”.
Ông cho rằng có thể đạt được hòa bình sau khi North đã lãnh đạo cuộc chiến thật tồi tệ. Ông lên tiếng chỉ trích phe đối lập đã tấn công Bộ mà không quan tâm đến lợi ích quốc gia, chỉ đơn giản nhằm hạ bệ Shelburne. Tính tự tư tự lợi của những người thuộc phe đối lập đã bộc lộ thông qua việc liên kết gượng ép hai nhóm North và Fox, mà nguyên tắc của hai nhóm này hoàn toàn đối lập nhau: “Nếu cuộc hôn nhân có nhiều điềm gở này không được cử hành theo nghi thức, tôi biết chỉ có cách ngăn cản việc đăng ký giá thú, và vì
sự an toàn của công chúng, tôi cấm họ thông báo hôn nhân ở nhà thờ”. Ông ca ngợi Shelburne − nạn nhân của các nhóm chống đối – đã đóng một vai trò trung thực và đáng tôn kính trong những hoàn cảnh khó khăn.
Từ việc kiên quyết bảo vệ hòa bình và bảo vệ phẩm chất của Shelburne, Pitt chuyển sang tuyên bố các nguyên tắc cá nhân của mình và của các tổ chức chính trị riêng lẻ. Tên của Chatham được nhắc đến nhiều hơn, ông đã được minh oan:
Tại thời điểm này, tôi đang sống lại những giây phút sôi nổi thời thơ ấu với câu chuyện về những chiến thắng của nước Anh. Tôi đã được một thầy giáo đáng kính dạy rằng thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh thật sự khác xa với hiện nay. Ông đã kêu gọi hòa bình cho các dân tộc. Và cao hơn tất cả là lợi ích chung, là kỷ nguyên đáng tự hào của nước Anh.
Tự gắn mình với người thầy thông thái bậc nhất còn hơn cả Shelburne hay bất kỳ một đối thủ nào khác, trước khi kết thúc bài diễn thuyết, một lần nữa Pitt nhấn mạnh:
Những ấn tượng đầu đời của tôi là mong muốn được phục vụ dân chúng vô tư và trung thực, nó sẽ mãi được trân trọng trong trái tim tôi: Tôi sẽ ấp ủ nó hơn cả những di sản vĩ đại nhất. Tôi mang theo những nguyên tắc này khi bước chân vào Nghị viện và cương vị đảm nhiệm.
Những di sản và nguyên tắc của dòng họ Chatham chính là tấm lòng yêu nước: “Tôi khao khát dốc hết sức lực phục vụ cho lợi ích của đất nước; đó là mối quan tâm duy nhất để làm phần việc chính trực và trung thực”; không có gì phải phàn nàn về cách ứng xử hết sức trang trọng này của ông, “một cách ứng xử có một chút gì đó toát lên tham vọng mưu lợi”. Ông tuyên bố ý định ứng cử trong tương lai bằng việc thừa nhận tham vọng của mình, theo đuổi một địa vị cao và có tầm ảnh hưởng bất chấp dư luận nhưng được khéo léo gắn với chủ nghĩa yêu nước. Khi ông rời chức vị, ông sẽ không phải sử dụng đến phe đối lập với những người kế vị ông nhằm cố gắng củng cố quyền lực, nhưng vì họ có ảnh hưởng lớn đến sự thịnh vượng của một cộng đồng rộng lớn, nên ông hứa sẽ kiên trì ủng hộ họ “trong mọi trường hợp mà tôi có thể hỗ trợ họ trung thực và tận tâm”.
Khi kêu gọi mọi người hiểu về sự liêm chính và kiên định trong phẩm
chất chính trị, ông hùng hồn tuyên bố:
Các người có thể lấy đi lương bổng và những đặc quyền đặc lợi mà cương vị đảm nhiệm đem lại cho tôi, nhưng không thể và sẽ không bao giờ tước bỏ được sự quan tâm thường xuyên và nồng nàn của tôi đối với sự thịnh vượng của Anh quốc. Mối quan tâm đó tạo nên vinh dự, hạnh phúc và niềm tự hào trong cuộc sống của tôi, và tôi tin tưởng rằng chỉ có cái chết mới có thể khiến tôi từ bỏ nó. Và nhờ có sự an ủi này, dẫu có mất đi chức vị hay cơ hội, dù không hề xem thường, nhưng tôi hy vọng tôi sẽ sớm quên được sự mất mát đó.
Đó chính là tinh thần được đúc rút từ lời trích dẫn bằng tiếng Latinh của Horace: “Tôi cầu nguyện vận may đến trong khi nó vẫn đang tồn tại. Nếu vận may vỗ cánh bay đi, tôi không nhận món quà của nó… và sẽ trung thực sống cảnh bần hàn không của hồi môn”.
Rõ ràng câu nói này đã được truyền bá vào “ngóc ngách từng nhà và đi vào quảng đại dân chúng”, vì vậy nó có thể bị gạt bỏ vì bị cho là những lời biện hộ yêu nước mà Viện Bình dân đã nghe quá nhiều từ các chính trị gia thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, nó có sức thuyết phục không chỉ ở chủ nghĩa lý tưởng của tuổi trẻ, mà chính từ nhận thức sâu sắc rằng đức tính liêm chính và kiên định là sự bảo đảm chắc chắn duy nhất đối với sự nghiệp chính trị của một người không có cơ may, phải đi tìm con đường riêng như một thành viên Đảng Whig độc lập. Đối với những độc giả của Pitt, “cuộc sống trung thực bần hàn không có của hồi môn” của Pitt rõ ràng là sự thật. Trong thời gian làm việc ở Bộ Tài chính, tiền ông kiếm được chỉ đủ để có được một kỳ nghỉ kéo dài hai tháng ở Pháp vào mùa thu năm 1783, nhưng ông không dự phòng cho khoảng thời gian rời khỏi Bộ Tài chính, mà dự định trở lại kiếm sống bằng nghề luật sư. Bài phát biểu của Pitt không bảo vệ Bộ của Shelburne, nhưng nó đã bảo vệ được bước tiến trong sự nghiệp của Pitt. Thomas Pelham, một người thuộc phe đối lập nghe ông diễn thuyết trong buổi hôm đó, đã ghi nhận: “Thậm chí kẻ thù của anh ta hay những phần tử chống đối đều phải cùng nhất trí rằng đó là bài diễn thuyết hay nhất mà họ đã được nghe trong Nghị viện”.
Những thành công ban đầu của Pitt đã sớm bộc lộ. Hai ngày sau, Shelburne đề cập đến ý tưởng rằng Pitt sẽ kế nhiệm Henry Dundas, người quản lý chính trị sắc sảo của ông ở Scotland, ông này từng hăng hái khẳng định năng lực của Pitt:
Đứng trên cương vị một người phản đối, tôi thấy tuổi trẻ của anh ta là một điểm có lợi để tiến cử. Ở anh ta có một đặc điểm chính trị hiếm có rất đáng quan tâm, một người sẽ khiến những người bất đồng về tính cách, mối quan hệ, nghề nghiệp, sự cạnh tranh hay có ác cảm không còn phản đối anh ta nữa.
Shelburne đã gửi đề nghị lên Vua Anh, người từng gặp Pitt.
Đây là đề nghị đầu tiên trong ba đề nghị về vị trí lãnh đạo cho Pitt mà Vua Anh đã khước từ trước khi chấp nhận đề nghị lần thứ tư vào tháng 12. Việc Vua Anh từ chối thể hiện rõ sự cân nhắc thận trọng trong việc kiểm soát tham vọng của Pitt. Pitt đã đặt ra mục đích phải giành được chức vị cao trong bài diễn thuyết ngày 21/2. Pitt khẳng định với Vua Anh là sẽ chấp nhận nếu có sự công nhận của đại đa số thành viên trong Nghị viện. Đồng sự cũ của cha Pitt, Bá tước Camden, cảnh báo rằng Pitt còn phải phụ thuộc nhiều vào quyết định của Triều đình. Pitt nói với Dundas rằng mình sẽ phó mặc cho North và bạn bè định đoạt, sẽ không tiếp tục phản đối và “với danh dự tình cảm cá nhân tôi, tôi không thể thành lập một chính quyền mà chỉ hy vọng chính quyền đó sẽ được North ủng hộ hoặc thậm chí sẽ không bị North phản đối…”. Ác cảm thường trực của Pitt đối với North trái ngược hẳn với tất cả những khẳng định của Pitt về nguyên tắc “biện pháp chứ không phải con người”, đi ngược lại nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia lên trên thù oán cá nhân. Nhưng ông cho rằng North phải có trách nhiệm về sự lạm dụng ảnh hưởng của Vua Anh để mua chuộc Nghị viện, về sự đối đầu với các thuộc địa đã đẩy cha ông tới chỗ chết, người đã bị kiệt quệ trong cuộc chiến, và là nguyên nhân dẫn tới việc bại trận dưới tay nước Mỹ.
Trên thực tế, việc Vua Anh khước từ bổ nhiệm Pitt lại củng cố vị trí của Pitt chứ không hề làm vị trí này yếu đi, bởi nó đã bộc lộ rõ sự thiếu vắng những người thay thế có khả năng bảo vệ Vua Anh không phải đầu hàng lần thứ hai với Charles Fox, người mà ngài có mối hận thù còn sâu sắc hơn cả mối thù của Pitt đối với North. Trong khi các bầy tôi trung thành của Vua Anh như Bá tước Gower có thể đứng về phía North, thì rất cần một người lãnh đạo có khả năng đối mặt với Fox trong Viện Bình dân. Nhưng nhiệt tình của Townshend lại nhanh chóng tiêu tan khi vị này được nhận tước vị Thị trưởng Sydney, Dundas lại không giữ địa vị xã hội được lâu nữa. Những người anh em họ của Pitt trong gia đình Grenville được chú ý, nhưng William Grenville đã nói rằng người anh họ Jame của mình không có sức khỏe, không đủ nghị lực để đảm nhận nhiệm vụ đó, còn bản thân ông “không đủ tài giỏi để chèo lái con tàu trên biển cả đầy giông bão, không dám đương
đầu với trận cuồng phong như thế này”. North gần như đã bị đứng riêng rẽ, nhưng cũng không thể phụng sự nếu không có Fox. Gower gợi ý cất nhắc Thomas, người anh họ khác của Pitt, hoặc bất cứ ai khác trong gia đình Thomas, nhưng Thomas Pitt tuyên bố “không đủ tài để đảm đương nhiệm vụ này”, còn những thành viên gia đình Thomas cũng không có gì nổi trội; trong khi liên minh Fox-North luôn gây áp lực bằng việc không đồng ý khoản chi phí hành chính hàng năm của Nghị viện và từ chối thông qua dự luật chống nổi dậy đối với lực lượng vũ trang. Vua Anh buộc phải mở các cuộc đàm phán với Portland – lãnh đạo liên minh North-Fox. Tuy nhiên, ngày 20/3, Portland cho thấy rõ sự bất đồng giữa các bên về việc phân bổ chức vị, George III hối hả quay trở lại tìm Pitt.
Pitt chỉ chấp nhận chính phủ nếu liên minh North Fox bị chia rẽ, bởi như vậy, ông được xem là nhân vật đáng kính vì đã tìm cách bảo vệ đất nước tránh khỏi tình trạng vô chính phủ. Với những hy vọng mong manh này, Vua Anh đã cắt đứt đàm phán với Portland. Tuy nhiên, Pitt đã không chấp nhận cho tới khi ông thấy vị trí của mình trong cuộc thảo luận ngày 24/3. Nhưng nếu ông hy vọng được thấy liên minh North-Fox bị chia rẽ và cần ông đứng ra lãnh đạo thì ông đã thất vọng. Liên minh này đã tập hợp lại để chống lại các lực lượng chống đối và những người không thuộc đảng phái nào phải chịu im lặng. Thiếu sự ủng hộ của họ, Pitt đã cả quyết với Hầu tước Carmarthen: “Portland nên nghĩ rằng trách nhiệm mà ông ta phải thực hiện với Vua Anh mâu thuẫn với nhiệm vụ của ông trước dân chúng, cũng như nó sẽ gây bất lợi cho danh tiếng và quan điểm trong tương lai của ông ta, khi ông ta phải đảm đương nhiệm vụ quá nặng nề là lãnh đạo chính phủ”. Horace Walpole nghĩ là Pitt đã suy xét sáng suốt. Tuy nhiên, điều đáng hãnh diện là ở độ tuổi đó, Pitt đã mong muốn giành được quyền lãnh đạo đất nước, nhưng dù cho Pitt có được đưa lên vị trí lãnh đạo một đảng thì trước sau gì, ông cũng sẽ thất bại do không có được khoản chi phí hành chính của phần đông các lực lượng chống đối. Hành động từ chối lần thứ hai này mang tính quyết định. Shelburne cuối cùng đã phải ra đi vào ngày 26/3 và Pitt cũng từ chức vào ngày 31, sau khi Vua Anh chấp nhận thất bại và đồng ý một chính phủ liên minh.
NHỮNG KẺ ĐỒNG MƯU VỚI THURLOW VÀ TEMPLE
Đối với Shelburne, việc từ chức đã đánh dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị, nhưng Pitt lại nổi lên với uy tín ngày càng được củng cố. Những người ủng hộ Shelburne trước đây đã quay sang ủng hộ Pitt. Dundas giờ đây
gia nhập phe với Pitt, trong khi Hầu tước Carmarthen viết cho Pitt: “Tôi rất tự hào vì nhân cách của tôi đã được nhân cách của anh điều chỉnh”. Đó là điều mọi người thừa nhận, như Thomas Pitt đã khẳng định với Vua Anh vào ngày 28/3:
Thật là điều phi thường, một thanh niên ở độ tuổi 23 đã thu hút được sự chú ý và mong đợi của cả Vương quốc Anh trong khi anh ta đang rất hạnh phúc vì những ý tưởng tốt đẹp của mình. Anh ta chính là người mà chúng ta cần tìm để lãnh đạo đất nước. Thời cơ đã đến. Anh ta có bạn bè và những mối quan hệ mà chắc chắn sẽ đứng ra ủng hộ anh ta.
Trước đó một năm, Pitt đã phát huy khả năng khi ngồi ở ghế Viện Bình dân Anh. Ông càng củng cố uy tín của mình khi đẩy nhanh các biện pháp cải tổ hành chính trong toàn Viện Bình dân mà ông và Shelburne đã cùng chuẩn bị (Pitt và Shelburne bị thất bại ở Viện Quý tộc). Ngày 7/5, ông đưa ra đề nghị cải tổ Nghị viện, trong đó đề xuất bổ sung 100 nghị sĩ cho các hạt và thủ đô London để cân bằng lực lượng. Trong lần đề xuất cải tổ này, Pitt đã thất bại thảm hại với tỷ lệ phiếu 149-293, nhưng tên tuổi của ông đã để lại dấu ấn trong lòng dân chúng. Ông đã nêu bật những nét khác biệt so với liên minh giữa Fox và North − người trước đây chống cải cách.
Pitt thể hiện rõ nét mối quan tâm củng cố uy tín của mình khi ông phúc đáp đề nghị xa hơn của George III. Vua Anh đã bị thất bại nặng nề. Ngài từ chối ban tước vị cho Liên minh và nổi cơn thịnh nộ khi họ đề nghị thanh toán tài chính cho đứa con trai chơi bời phóng đãng của ngài, Thái tử xứ Wales, người đã bước sang tuổi trưởng thành (và cũng là bạn của Fox). Vua Anh trút oán hận lên anh họ của Pitt, Temple, người mới trở về từ vị trí Quan đại diện nhà vua ở Ireland, dưới thời Shelburne làm Thủ tướng. Ngày 19/7, Pitt đích thân được tiếp kiến Huân tước Thurlow, cựu Đại pháp quan và là bạn của Vua Anh. Thurlow quan tâm liệu Pitt có thể gia nhập một chính phủ “trên nền tảng hệ thống chính trị cũ của Triều đình”. Pitt trả lời mà “không quan tâm đến cơ hội có thể mở rộng tầm ảnh hưởng”, mặc dù “phương thức” như vậy vẫn thường được các bộ trưởng sử dụng. Pitt nói với Thurlow rằng ông và Temple sẵn sàng hành động bất kỳ khi nào họ có thể lập nên “một hệ thống cố định, phù hợp với những nguyên tắc của họ và lập trường của dân chúng”, rằng ông ủng hộ việc cải tổ Nghị viện. Pitt hy vọng sẽ có một lời đề nghị từ phía Vua Anh khi thời cơ đã chín muồi, nhưng hy vọng sẽ “giải quyết công việc phù hợp và đáng được trân trọng nhất”.
Điều mà Pitt không hề nghi ngờ là làm thế nào mà các vấn đề lại được giải quyết nhanh chóng. Gác lại mưu tính sẽ tiếp quản chính phủ, Pitt đi nghỉ ở Brighton và sau đó du ngoạn ở Pháp trong hai tháng − lần duy nhất ông rời nước Anh. Ông trở về Anh để tham dự cuộc họp Nghị viện ngày 11/11, nhưng ngay cả sau cuộc họp đó, mọi người cũng không thể đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Thurlow khuyên người bạn Gower rằng “dân chúng hiện đang thất vọng và rất vô vọng khi nhìn về tương lai”, không nên vội vàng vào Nghị viện. Hai ngày sau, Pitt nhận được lời đề nghị của Fox tham gia Liên minh. Ông lập tức từ chối. Có lẽ mọi người đều muốn biết tại sao ông lại không gia nhập Liên minh. Nguyên nhân chính là ngày 18/11, Fox đã đưa Dự luật Ấn Độ ra trước Viện Bình dân.
Cần phải làm một điều gì đó đối với Ấn Độ, nơi mà Công ty Đông Ấn7 − một công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính – có sức thu hút người dân còn mạnh hơn cả các công ty của Anh. Đây là vấn đề nhạy cảm vì lĩnh vực bảo trợ lớn đầy tiềm năng đang bị đe dọa và các quyết định lại phải trì hoãn trong suốt cuộc khủng hoảng tranh chấp của Mỹ. Hiện tại, Liên minh phải thử sức thật sự để giải quyết vấn đề này, nhưng cách giải quyết lại là tước quyền quản lý và bảo trợ khỏi tay Công ty Đông Ấn để chuyển sang các đại diện được Nghị viện bổ nhiệm dưới quyền kiểm soát bốn năm của Liên minh, đảm bảo Liên minh có một nguồn bảo trợ lớn trong kỳ bầu cử tiếp theo.
Những trăn trở về chính phủ và hiến pháp liên quan đến vấn đề này luôn thôi thúc Pitt. Ông hối hả kêu gọi những người ủng hộ mình đến Nghị viện càng nhanh càng tốt:
Dự luật mà Fox đã áp dụng liên quan đến Ấn Độ dù sao đi nữa vẫn mang tính quyết định để ủng hộ hoặc chống lại Liên minh. Tôi nghĩ rằng dự luật đó hoàn toàn không phù hợp với hiến pháp và quá táo bạo, bất chấp mọi hiến chương và thỏa thuận, lấy đi sự bảo trợ và ảnh hưởng rộng lớn từ Công ty Đông Ấn để chuyển sang tay Charles Fox.
Fox đã cố kiềm chế tính hay gây gổ khi đưa ra đề nghị đẩy nhanh việc thông qua dự luật, tin tưởng truyền thống đến muộn trong các phiên họp vốn không tùy thuộc vào các bộ trưởng của Vua Anh. Ngày 27/11, Pitt cố gắng tìm cách trì hoãn tiến trình thông qua dự luật. Ông đưa ra những khó khăn tài chính và kêu gọi huy động tài chính để kéo dài thời gian sao cho những người phản đối dự luật chậm nhất cũng có thể tới được London. Đó là một
mánh khóe nhỏ chứng tỏ Pitt là một người có lập trường vững hơn và thắng phiếu Fox.
Thoạt đầu tưởng như không gì có thể ngăn chặn được việc Viện Bình dân thông qua nhanh Dự luật Ấn Độ. Tuy nhiên, những người phản đối có một đồng minh rất nặng ký ở thành phố London. Công ty Đông Ấn đã thành lập một ủy ban bảo vệ và Pitt thường xuyên tiếp xúc gần gũi với hai người đứng đầu ủy ban này là George Johnstone và Richard Atkinson. Ngày 26/11, cuộc họp Ủy ban Viện Bình dân của thành phố cũng đã biểu quyết chống dự luật bởi nó vừa vi phạm các đặc quyền của công ty kinh doanh xuất phát từ các phường hội cổ của đô thị London, vừa bị lên án là đã làm rớt giá cổ phiếu của Ấn Độ, đe dọa sự ổn định tài chính. Tuy nhiên, thông tin này lại không được truyền bá rộng rãi ra ngoài London, điều đó thể hiện qua việc các nghị sĩ trong cả nước đã phải miễn cưỡng đến Nghị viện trước dịp năm mới. Nghị viện thật sự trở thành nơi diễn ra cuộc chiến lớn. Ngày 25/11, nhiều người phản đối Liên minh cuối cùng cũng tập hợp lại khi những người ủng hộ Vua Anh là Thurlow và Công tước Chandos dùng bữa tối cùng với các đồng minh của Pitt là Công tước Richmond và Bá tước Temple. Pitt đáng ra cũng có mặt ở đó nhưng ông bị giữ lại ở Viện Bình dân. Họ càng được tiếp thêm sức mạnh khi Dundas đến vào ngày 27. Dundas không chỉ có một kế hoạch cải tổ Công ty Đông Ấn mà còn được tiếp xúc với đồng sự cũ John Robinson, một nhà quản lý chính trị của North và là người kiến tạo trong Nghị viện hiện thời, cựu Bộ trưởng Tài chính. Robinson cũng rất lo lắng trước việc Liên minh sẽ buộc Vua Anh phải công nhận dự luật. Sáng sớm ngày 30/11, Dundas rời nhà Robinson để tham dự các cuộc họp cùng ngày ở London. Cũng có thể trong các cuộc họp này, quyết định nhờ Vua Anh can thiệp để chống dự luật đã được đưa ra. Ngày hôm sau, Thurlow đệ trình George III một bản ghi nhớ chung đề cập đến vấn đề này, do chính ông và Temple soạn thảo.
Trong một thời gian rất dài, những người viết tiểu sử về Pitt không thừa nhận rằng chính Pitt cũng biết kế hoạch này, bởi tính đúng đắn của thông tin này chưa được xác minh. Năm 1969, trong tác phẩm The Fox-North Coalition (Liên minh Fox North), John Cannon đã đưa ra những chứng cứ chứng tỏ Pitt là người chủ mưu. Còn Paul Kelly lại phản đối khi tranh luận: “Pitt đã tự đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến chức vụ được bổ nhiệm của ông, cho phép ông đẩy những khởi xướng của người khác và các sự kiện khác”. Tuy nhiên, khẳng định này lại không phù hợp. Những sự kiện đầu năm đó rất hiếm khi cho thấy Pitt cho phép mình đi theo những người khác. Pitt thật sự cần thiết để thành lập nên bất kỳ một bộ thay thế nào sau khi Dự luật Ấn Độ không được thông qua. Hồi đầu tháng 3, John Robinson đã thừa
nhận rằng “không có Pitt thì không thể làm được điều gì”, đồng thời, do Pitt thẳng thừng từ chối hai đề nghị trực tiếp và tránh né đề nghị thứ ba thông qua Thurlow nên ý kiến của ông khó có thể được đưa ra để công nhận. George III chấp nhận điều này bằng việc cử một người làm trung gian tới kiểm tra cùng với Pitt trước khi đồng ý kế hoạch của Thurlow và Temple. Một điều khó có thể tưởng tượng nổi là hai người đã tiếp kiến Vua Anh mà không cần sự hỗ trợ của Pitt. Với vai trò mấu chốt, Pitt là nhân vật công khai khởi xướng mà không cần phải đề phòng Liên minh. Những người đứng ở cương vị như Pitt cũng là những người trung gian đương nhiên bởi các mối liên hệ của họ: Thurlow với Vua Anh; Dundas với Robinson.
Mặc dù Fox rất khéo léo đưa Dự luật Ấn Độ ra trước Viện Bình dân, nhưng hiện Pitt lại được đặt ở cương vị dàn xếp thành công vấn đề này tốt hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Pitt đưa ra quyết định là cương quyết phản đối Liên minh. Quyết định này đã nhận được sự ủng hộ bên ngoài khi ngày 3/11, Ủy ban Viện Bình dân của thành phố London chỉ thị cho các nghị sĩ thành phố biểu quyết chống lại Dự luật Ấn Độ. Hai bức tranh biếm họa chua cay của James Sayers ngày 25/11 và ngày 5/12 (trong đó Fox được miêu tả như một “Carlo Khan” − bạo chúa phương Đông) đã gây ra sự căm phẫn đến mức chính Fox phải thừa nhận rằng ông thật sự bị suy sụp. Dự báo chi tiết của Robinson về tình trạng của Viện Bình dân trong khoảng thời gian từ ngày 6 đến ngày 9/12 đã cho thấy khả năng ủng hộ một chính phủ chống Liên minh sẽ có tỷ lệ là 253/305 ở Nghị viện hiện tại và 369/189 sau cuộc bầu cử, Dundas có khả năng sẽ tiến cử số lượng nghị sĩ có triển vọng nhiều hơn những dự đoán của Robinson. Ngày mồng 6, Pitt đã nói với Rutland: “Vua Anh sẽ làm tất cả để hợp tác và phối hợp nếu cuộc khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, tôi nghĩ rằng nó sẽ lên tới đỉnh điểm”.
Tuy nhiên, sau thất bại nhục nhã hồi tháng 3, George III muốn biết chắc chắn về sự sẵn sàng hành động của Pitt trước khi ngài đưa ra quyết định. Thay mặt Vua Anh, Bá tước Clarendon đã gặp Pitt vào ngày 9 và ngày 11/12. Giữa hai cuộc gặp này, ngày 10, Pitt đã bàn bạc với Temple, Richmond, Thurlow và Gower về những việc nên làm. Mọi người khuyên Pitt nên sử dụng uy tín của Vua Anh để tập hợp lực lượng chống lại Dự luật Ấn Độ trước Viện Quý tộc, nơi dự luật sẽ được đọc lần đầu tiên vào ngày 9. Sự lựa chọn này sẽ tạo đà cho những thử nghiệm về sức chống đối ban đầu, nhưng thất bại của nó có thể khiến Bộ phải chia rẽ hoặc tự giải tán mà không cần có sự can thiệp sâu của Vua Anh. Hơn thế nữa, lựa chọn này cũng sẽ ngăn cản được vấn đề đã trở thành cuộc chiến hiến pháp trực tiếp giữa Vua Anh và Nghị viện. Nó cũng được coi là rất quan trọng để những kiến nghị của Công ty Đông Ấn và thành phố London phải được giải quyết trước khi
biểu quyết nhằm gây ảnh hưởng đối với Viện Quý tộc, để các tập đoàn quan trọng cũng như các cá nhân hiểu và tỏ ý phẫn nộ trước dự luật này, đảm bảo lý do chắc chắn và hợp lý nhằm giải tán Liên minh. Tất cả những điều này là do Vua Anh quyết định. Ngài đã ủy quyền cho Temple nói với các nghị sĩ rằng ai biểu quyết cho Dự luật Ấn Độ sẽ “không những không phải là bạn của Vua Anh mà còn được xem là kẻ thù của ngài”. Các nghị sĩ tiếp nhận lời cảnh báo. Ngày 15/12, họ hoãn phiên họp thông qua dự luật lần thứ hai và ngày 17, họ thống nhất không thông qua dự luật với tỷ lệ phiếu 95/76.
BỘ TRƯỞNG CỦA VUA ANH
Nếu diễn biến các sự kiện diễn ra theo đúng kế hoạch thì đây là cơ hội thuận lợi để bác bỏ Dự luật Ấn Độ. Pitt lao vào cuộc chiến vì sự nghiệp chính trị của mình, giữa lúc cuộc khủng khoảng hiến pháp đang ở giai đoạn trầm trọng nhất. Trong những ngày này, mọi hy vọng về sự chuyển giao quyền lực nhanh chóng và suôn sẻ đã bị tiêu tan khi Liên minh cùng tập hợp chống lại mạnh mẽ.
Pitt từng hy vọng Liên minh sẽ giải tán sau thất bại của Dự luật Ấn Độ, tạo điều kiện thuận lợi để ông có thể thu hút được những thành viên có năng lực của liên minh chống đối cũ chống lại North nhằm duy trì một chính phủ theo đường lối của Đảng Whig tự do. Ông không muốn làm lãnh đạo bù nhìn của Hoàng gia, nơi luôn duy trì chính phủ “trên nền tảng nền chính trị cũ của triều đình”. Đây chắc chắn là động cơ khiến ông đi tìm những nhân vật có thanh thế của Đảng Whig, như Grafton (người mà ông đã tiếp cận thông qua một nhân vật trung gian vào ngày 14/12) và Camden, để nhận vào Bộ mới. Gần một năm sau, ông vẫn tiếp tục tìm những người theo Đảng Whig và bổ nhiệm họ vào Nội các mang hình thái của Đảng Whig, bởi chính sự tham gia của họ sẽ làm nên cục diện đó.
Những hy vọng về khả năng Pitt có thể lợi dụng các sự kiện đã giải thích tại sao không có một sự chuẩn bị nhân sự nào hay không có một kế hoạch nào được vạch ra cho tương lai khi Bộ của Liên minh bị giải tán, lý giải việc Pitt quá lúng túng khi không thể khai thác các sự kiện theo cách của mình. Điều này chính là vì Liên minh đã không bị giải tán. Trong ngày Dự luật Ấn Độ bị bác bỏ ở Viện Quý tộc, Liên minh cũng bảo đảm được tỷ lệ phiếu ủng hộ là 2/1 ở Viện Bình dân cho cuộc vận động đấu tranh chống lại việc sử dụng uy tín của Vua Anh và chống lại những người có ý định sử dụng uy tín này ở Viện Quý tộc. Ngày 18, khi lãnh đạo của Liên minh vẫn chưa từ chức, Vua Anh đã sốt sắng phái sứ giả đến chỗ Portland, Fox và North ngay trong đêm khuya để yêu cầu họ giao nộp lại con dấu. Ngày hôm
sau, Pitt được bổ nhiệm làm Thủ tướng Anh, đồng thời Temple được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng và Gower là Chủ tịch ủy ban Viện Quý tộc.
Pitt nghĩ rằng sau khi tác giả của Dự luật Ấn Độ bị sa thải, những người kế nhiệm họ phải lựa chọn hoặc từ chức hoặc bỏ trốn khỏi Liên minh. Tuy nhiên, sự việc lại không như mong muốn, bởi chỉ trong vài ngày, 55 bộ trưởng và lãnh đạo các ban ngành lần lượt từ chức để thể hiện sự trung thành với nhà lãnh đạo của họ. Ngày 21, Pitt đề nghị thương lượng lần cuối với Fox thông qua Bá tước Spencer, người bạn cũ cùng học với Pitt tại trường Cambridge nay đang ủng hộ Fox, nhưng Fox đã từ chối. Pitt tuyên bố ông sẵn sàng làm những gì có thể để đảm bảo một cuộc hòa giải, nhưng ông sẽ không ngồi cùng Nội các với North hoặc chấp nhận Dự luật Ấn Độ trong phạm vi đề nghị. Fox đã tham khảo ý kiến một số người bạn, nhưng tuyên bố rằng việc ngồi cùng Nội các với North sẽ không bao giờ xảy ra.
Kelly đã chỉ trích Pitt ngờ nghệch lạc quan khi hy vọng tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp, nhưng Pitt có lý do hợp lý cho những hy vọng của ông. Ấn tượng về sự hợp tác trước đây vẫn còn in đậm trong ông, rất nhiều người thuộc phe đối lập của North đều từng có chung quan điểm mong muốn cải tổ hoặc có các mối liên hệ cá nhân, như Spencer hoặc Tom − anh trai của Temple, người có mối quan hệ với cả hai phe. Mọi nỗ lực được cả hai phe thực hiện nhằm khôi phục mối quan hệ hợp tác: Pitt thực hiện vào tháng 2 (và sự trở ngại sau đó − Shelburne bị cách chức) và Fox thực hiện vào tháng 11. Chỉ sau ngày 21/12, sự chia rẽ vĩnh viễn mới thật sự hình thành.
Pitt sẽ gặp nguy hiểm nếu mối bất hòa giữa ông với đồng sự thuộc phe đối lập trước đây không được cải thiện, bởi Fox vẫn có trong tay vũ khí lợi hại để phá hoại những nỗ lực thành lập một chính phủ mới. Dự luật thuế đất đai đã được chính phủ thông qua ngày 5/1 nhằm thu một khoản tiền lớn nhưng Liên minh cầm quyền bắt đầu nghi ngờ về các cuộc vận động bí mật chống lại Dự luật Ấn Độ. Họ trì hoãn thông qua dự luật này để đề phòng, và phải đợi sau phiên họp thứ ba của Viện Bình dân, vấn đề này mới được thảo luận tại Viện Quý tộc. Chính phủ chưa đưa ra được quyết định gì thì một cuộc tấn công khác lại nhằm vào các bộ trưởng mới. Con đường duy nhất để các bộ trưởng thoát thân − giải tán Nghị viện − đã bị chặn lại. Không còn thời gian để tổ chức một cuộc tổng tuyển cử, phải cố gắng bảo toàn được đa số phiếu thông qua Dự luật thuế đất đai mới trước khi chuẩn bị các khoản tiền phải chi cho nó.
Bị vây chặt, Pitt buộc phải nhượng bộ để chờ thời cơ. Để Dự luật thuế đất đai được thông qua, ông đã phải cam kết sẽ không giải tán Nghị viện −
một vấn đề được cho là thứ vũ khí lợi hại nhất của ông. Pitt cũng phải chứng kiến sự thiệt thòi của anh họ, Bá tước Temple, người mà trong vài tháng gần đây đã trở thành đồng minh chính trị thân cận nhất của Pitt. Là một người lãnh trách nhiệm truyền tải thông điệp của Vua Anh đến các nghị sĩ, Temple trở thành trung tâm của sự công kích, và nếu Nghị viện bị giải tán, Temple sẽ là một món nợ chính trị. Hoặc do sợ hãi, hoặc do phải chịu áp lực rời xa Pitt, hoặc cả hai, Temple đã từ chức vào ngày 21. Ngày 22, Viện Bình dân thông báo về việc này, Fox đã cho phép Dự luật thuế đất đai thông qua và đồng ý ngừng họp đến ngày 12/1. Fox đã chứng tỏ được sức mạnh của Liên minh, đạt được hai thành công lớn lao, tạo đà cho cuộc chiến tiếp với Pitt vào mùa thu, khi khoản chi phí hành chính hàng năm và Dự luật Chống nổi loạn (Mutiny Bill) được đưa ra biểu quyết nếu trước đó Bộ vẫn không bị sụp đổ.
Những thất bại này đã giáng xuống Pitt một đòn nặng nề. Thầy phụ đạo của ông ở trường Cambridge và cũng là một người bạn, George Pretyman, đã cho rằng việc Temple từ chức là một sự kiện chính trị duy nhất khiến Pitt có một đêm mất ngủ. Tuy vậy, sáng sớm hôm sau, Pitt kiên quyết “không từ bỏ chức vụ đã đảm nhiệm, phải có được vị thế quyền lực cao nhất, mặc dù còn rất nghi ngờ về kết quả”. Bộ được tái thiết lập tập trung vào bốn vị trí: Pitt, Richmond, Thurlow và Gower. Thurlow vẫn là người đứng đầu Viện Quý tộc, Rutland trở thành Bộ trưởng Không bộ cao cấp của Anh, Bá tước Howe là Bộ trưởng Hải quân, Sydney và Carmarthen là Bộ trưởng Nội vụ và Bộ trưởng Ngoại giao, cả hai vị trí này, theo Robinson “lúc này là lúc đưa ra lý do để sắp xếp lại”. Cảm tưởng mọi vấn đề trở nên trầm trọng thêm và Robinson đã thẳng thừng nói rằng bạn bè thân cận của Pitt (và cả Pitt nữa) đều thừa nhận việc Temple từ chức như là một sự giảm bớt gánh nặng, cắt bỏ những gì đang cuốn chặt quanh cổ Pitt. Tuy nhiên, Pitt vẫn thận trọng. Trong báo cáo về việc thành lập Nội các mới gửi Temple, Pitt còn bổ sung: “Không biết Bộ có thể tồn tại được bao lâu nữa.”
Mọi người hầu như không hy vọng Bộ mới sẽ tồn tại được đến sau kỳ nghỉ lễ Giáng sinh. Bà Crewe, phát ngôn viên chính trị, gọi “đó là chính quyền theo kiểu bánh patê trong dịp lễ Giáng sinh”, nhưng khoảng ngừng họp Nghị viện đã giúp Vua Anh và các bộ trưởng của ngài có đủ thời gian để duy trì các ban ngành và tăng cường nỗ lực để tập trung sự ủng hộ. Bản thân Vua Anh cũng phải gắng sức. Ngài xem cuộc chiến này là thời điểm quyết định đối với ngai vàng của mình. Những nỗ lực tuyên bố thành lập Bộ “trên cục diện của Đảng Whig” bị thất bại do sự phản đối của Fox, Grafton, Camden và những người khác, thậm chí cả Richmond − người ban đầu từ chối ghế trong Nội các, Pitt buộc phải can thiệp vào một số vấn đề, trước hết là cuộc vận động hàng lang của Tử tước Sackville − người cùng với George
Germain, từng là Ngoại trưởng chịu trách nhiệm chỉ huy cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ thảm khốc. Tuy vậy, Pitt không đồng ý bổ nhiệm những người bạn của Vua Anh có liên quan mật thiết nhất với “nền chính trị cũ theo kiểu Triều đình” như Robinson và Charles Jenkinson, cũng như không đưa vào Bộ một người tiền nhiệm không mấy được ưa chuộng, đó là Shelburne.
Trong thời gian tái họp Nghị viện, hầu hết các vị trí trong chính phủ đã được lấp đầy bởi những “người bạn trẻ” của Pitt, vì những người vốn theo Shelburne và những người khác thuộc phe đối lập với North không tham gia phe của Fox, North hay đứng về phía Vua Anh. Một số người cho rằng dường như không có nền tảng vững chắc cho một chính phủ thành công. William Eden, một người thuộc phe đối lập, bình luận: “Mọi người, kể cả già lẫn trẻ đều đang ở trong tình trạng tuyệt vọng”. Benjamin Keene, người từng tuyên bố không bao giờ làm bạn với Liên minh, viết: “Hiện tại, Bộ không có khả năng tồn tại lâu dài nên khó có thể trông mong sự ủng hộ của những người không có quan hệ họ hàng gì như tôi”. Việc thiếu niềm tin vào khả năng tồn tại của Bộ đã ảnh hưởng lớn đến giới quý tộc. Ngày 29/12, Camelford là người uy tín duy nhất tuyên bố ủng hộ Thomas Pitt. Sự thất bại của Pitt trong việc phải cam kết không giải tán Nghị viện trong tháng 12 hóa ra lại là một may mắn, bởi Bộ cần phải chứng tỏ mình rất nhiều trước khi có thể vượt qua được sự phản đối của những người không theo đảng phái nào về chi phí của một cuộc bầu cử sớm; đồng thời cần thu hút sự ủng hộ của các chủ sản nghiệp trong thành phố − những người hy vọng nhận được sự bảo trợ của một Bộ tồn tại lâu dài. Không như dự đoán của Robinson, một cuộc bầu cử sớm có thể sẽ không chiếm được đại đa số phiếu ủng hộ chính phủ như bình thường.
Hơn tất cả, Pitt vẫn phải chứng tỏ mình. Liệu Liên minh còn lan truyền câu: “Billy còn quá trẻ để có thể lãnh đạo chúng tôi”? Trong việc thành lập một Bộ mới, mối lo ngại về những phản ứng tương tự như vậy có thể gây ra tiếng xấu khi kết hợp tên của Pitt với những chính trị gia lão luyện: Gower và Temple vào ngày 19, Gower, Thurlow và Richmond vào ngày 23/12. Thật ra Dundas từng có ý nghĩ rằng Gower sẽ là người đứng đầu Bộ. Tuy nhiên, Pitt dự định sẽ lãnh đạo và vào ngày 18, Dundas giải thích với Orde về việc loại bỏ Shelburne: “Chàng trai trẻ tuổi này (Pitt) sẽ không để mọi người nghi ngờ về một bộ trưởng có năng lực”. Nhưng liệu Pitt có đảm nhiệm được trọng trách đó không? Robinson coi Pitt “là một người tinh tế, tài trí và hăng say, được vây quanh bởi những cậu bé, những nhà lý thuyết và những người thành kiến”. Liệu Pitt có thể vượt lên sự nhiệt tình của tuổi trẻ và chủ nghĩa lý tưởng của những người phục tùng ông? Theo Benjamin Vaughan, một người có khả năng ủng hộ Pitt, những gì mà Pitt thể hiện đã cho thấy “tham
vọng quyền lực trong công việc” − trong việc giải quyết vấn đề hòa bình và Dự luật Ấn Độ tại Viện Bình dân − và Pitt cũng muốn làm nguội bầu không khí căng thẳng ở đây. Những ấn tượng không tốt về “cậu bé nóng nảy” đã không còn. Pitt phải thể hiện khả năng tồn tại nếu ông duy trì được niềm tin trong dân chúng.
Trong suốt thời gian ngừng họp của Nghị viện, Pitt và các đồng sự quyết định rằng chiến lược tốt nhất để tồn tại là đấu tranh bằng lý lẽ, đưa ra Dự luật Ấn Độ do chính họ soạn thảo, chứ không đơn thuần là phòng thủ trước những đòn tấn công không thể tránh được của phe Fox. Dundas từng rất quan tâm đến Ấn Độ và đã có một kế hoạch được soạn thảo sẵn để thay thế cho dự luật của phe Fox, điều đáng nói là dự luật này ủng hộ Công ty Đông Ấn. Do tất cả mọi người đều nhận thấy cần phải làm một điều gì đó cho Ấn Độ, nên đây chính là lý do thuyết phục nhất để thu hút sự ủng hộ tối đa. Sau tất cả những vận động hành lang nghị viện trong thời gian ngừng họp của Nghị viện, ngày 12/1/1784, Pitt bước vào Viện Bình dân với niềm tin giành được đa số phiếu ủng hộ.
Tuy nhiên, sự lạc quan của Pitt đã nhanh chóng tiêu tan bởi ông không thể có mặt vào thời điểm bắt đầu vấn đề. Ông phải kiềm chế mình vì còn có việc bầu lại chức vụ đã được bổ nhiệm. Do đó, Fox đã giành được quyền phát biểu ý kiến khi Pitt được chấp nhận là một thành viên mới trong cuộc tái bầu cử. Fox bảo vệ thành công tuyên bố của mình và thắng thế trong cuộc chiến tuyệt vọng cho sáng kiến mà ông ta đang theo đuổi. Cuộc thảo luận đầu tiên đã nghiêng về lập trường của Fox, Pitt phải bảo vệ mình trước những cáo buộc là đã sử dụng một thế lực ngầm. Pitt kiên quyết phản đối, ông tin tưởng uy tín cá nhân là sự liêm chính mà ông đã gìn giữ từ lâu.
Ông (Pitt) tuyên bố, ông đường hoàng bước vào phòng họp kín của Vua Anh, … rằng ông không hề biết đến một thế lực ngầm nào và sự liêm chính sẽ là vật bảo hộ giúp ông tránh được nguy hiểm, nhưng Viện Bình dân vẫn kiên quyết, bất kể khi nào ông bị phát hiện ra một điều gì đó, ông sẽ không thể ngồi ở cương vị hiện tại thêm một phút nào nữa.
Sự tự bảo vệ đó không trung thực, cũng không hoàn toàn giả dối, nhưng rõ ràng nó còn rất xa với sự thật. Trên thực tế, Pitt đã không trực tiếp đi lên cầu thang sau của Hoàng gia, mà chính sứ thần của Vua Anh đã đến gặp ông. Người ta đã bác bỏ giả thiết có một thế lực ngầm ủng hộ ông khi viện dẫn ý nghĩa thực của từ “thế lực ngầm” như trong bài viết nổi tiếng của Burke năm
1770 − Thoughts on the Causes of the Present Discontents (Một vài suy nghĩ về nguyên nhân của những điểm bất bình hiện nay). Theo tác giả, một Nội các hai mặt đã tồn tại hợp lệ, với những cố vấn bí mật luôn đề xuất mong muốn của họ với các bộ trưởng chính thức. Điều đó không đúng trong trường hợp cố vấn là những người cũng có đầy đủ trách nhiệm của các bộ trưởng: Một lần nữa, Pitt khẳng định, ông “không bao giờ hạ mình để làm công cụ của bất kỳ nhà cố vấn bí mật nào”.
Uy tín của Pitt đã giúp ông tránh được sự chỉ trích cá nhân, nhưng đa số phiếu (54/39) đã ủng hộ cho điều khoản bổ sung lên án việc ông sử dụng bất hợp pháp tên tuổi của Vua Anh để gạt đi những trở ngại trong quá trình giải tán Nghị viện, lập nên một chính quyền chiếm được niềm tin của Viện Bình dân và công chúng. Không đạt được số phiếu ủng hộ như mong đợi, Pitt mất hết hăng hái. Ngày hôm sau, trong bữa tối ở Nội các, ông “thậm chí còn nói xa xôi rằng sẽ vứt bỏ tất cả”. Ông được các đồng sự khuyến khích tiếp tục công việc, trong số đó có Richmond − người tình nguyện tham gia Nội các, và Vua Anh − người đã gửi một bức thư bày tỏ sự ủng hộ Pitt mạnh mẽ. Pitt vẫn chuẩn bị sẵn một Dự luật Ấn Độ của riêng mình và hy vọng một lần nữa đưa ra trong phiên họp giới thiệu dự luật vào ngày 16. Ngày hôm đó thật sự là một cơ hội tốt cho nhà lãnh đạo trẻ. Liên minh đã quá tập trung chỉ trích đặc quyền của Vua Anh trong việc lựa chọn các bộ trưởng, trong khi cuộc thảo luận về cải tổ Nghị viện của York đã đem lại cho Pitt cơ hội gợi nhắc mọi người về niềm tin sẽ cải tổ Nghị viện, điều này đối lập với những lời kết tội của phe đối lập rằng Pitt đã sử dụng thế lực ngầm. Cùng ngày hôm đó, thành phố London nhất trí chúc mừng Vua Anh vì đã giải tán được Bộ của Liên minh.
Hy vọng vừa nhen nhóm lại chưa được bao lâu đã bị dập tắt vào ngày 23/1, khi Liên minh đánh bại phiên họp thông qua đề cương của Dự luật Ấn Độ mà Pitt đưa ra. Đối với Pitt, đây không hẳn là một thất bại lớn bởi ông chỉ thua tám phiếu, nhưng nó đã phá vỡ cơ hội giành số phiếu ủng hộ tốt nhất cho ông. Trong hai giờ tiếp theo, Pitt ngồi im lặng, trong khi mọi người tới tấp yêu cầu ông phải đảm bảo chắc chắn là sẽ không giải tán Nghị viện. Trong cuộc thảo luận ngày hôm sau, Pitt chỉ hứa hẹn sẽ không giải tán Nghị viện trước khi Viện Bình dân họp phiên tiếp theo vào thứ hai, ngày 26. Có thể chính Pitt cũng không biết phải làm gì, và kỳ nghỉ cuối tuần của ông chìm ngập trong những cuộc thảo luận đau đầu. Vua Anh hối thúc giải tán Nghị viện. Trong cuộc họp Nội các kéo dài 5 giờ vào buổi sáng và 6 giờ vào buổi tối chủ nhật, các cuộc tranh luận vẫn không đi đến hồi kết. Pitt, một người luôn quan tâm đến uy tín về sự liêm chính, cũng cảm thấy buộc phải cam kết không giải tán Nghị viện trong tuyên bố của ông vào ngày 22/12.
Nhưng điều quan trọng là ông cảm thấy không còn thời gian để tổ chức một cuộc tổng tuyển cử và ra mắt một Nghị viện mới trước ngày 25/3, khi Dự luật Chống nổi loạn − một dự luật được xem là rất cần cho tính kỷ luật của lực lượng vũ trang − hết hiệu lực. Vua Anh xem đây là sự thất bại và triệu tập cuộc họp toàn Nội các vào sáng hôm sau nhằm hô hào hành động và cảnh báo rằng ngài thà đầu hàng Fox còn hơn “phải rời xa Anh quốc mãi mãi!”
Mánh khóe kéo dài thời gian lại được sử dụng để hình thành kế hoạch thu hút đa số phiếu ủng hộ. Cơ hội luôn rộng mở nhờ áp lực của nhóm nghị sĩ không theo đảng phái vận động hành lang, những người từng gặp gỡ nhau tại St Alban’s Tavern để giải quyết cuộc khủng khoảng bằng cách liên kết các đảng đối lập. Pitt bày tỏ mong muốn đàm phán, nhưng phản đối những lời kêu gọi ông từ chức, điều này giúp ông kéo dài thời gian thêm hai tuần. Trong thời gian đó, danh sách các nhà bảo trợ luôn thay đổi, ngày 31/1, thêm ba khanh tướng tuyên bố ủng hộ. Ngày 4/2, các nghị sĩ được lôi kéo vào cuộc với một bản kiến nghị lên án các hành động của Viện Bình dân là bất hợp pháp. Công chúng đều biết đến phẩm chất không vụ lợi của Pitt khi ông từ chối công việc nhàn nhã − làm thư ký cho Pells, với mức lương 3.000 bảng/năm, một vị trí vẫn còn khuyết trong ngày 11/1. Ông đã trao nó cho một người thuộc phe Shelburne, Đại tá Barré. Để vận động các hiệp hội ở các hạt noi gương thành phố London ủng hộ Vua Anh và các bộ trưởng của ngài, nỗ lực phải được nhân đôi.
Lời kêu gọi gửi đến dân chúng đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi không ngờ, tiếp thêm sức mạnh để Pitt duy trì trong cuộc khủng hoảng. Giữa tháng 1, sự ủng hộ Vua Anh và các bộ trưởng của ngài chỉ là một dòng chảy nhỏ lăn tăn, đến tháng 2 đã trở thành một luồng chảy mạnh và dần dâng thành một trận lụt vào tháng 3 với sự có mặt của 200 người (gấp 5 lần so với các phong trào ủng hộ khác trong 30 năm qua). Fox trả đũa bằng cách tổ chức một cuộc gặp các cử tri tại khu vực bầu cử của ông ta ở Westminster vào ngày 5/2, nhưng những việc tiếp theo vào ngày 14 đã bị những người ủng hộ các bộ trưởng chặn lại, cuối cùng Westminster đã gửi hai thỉnh nguyện thư của những người trung thành với 8.000 chữ ký.
Đối với Pitt, sự ủng hộ từ bên ngoài như vậy là rất cần thiết khi cuộc đình chiến tạm thời ở Viện Bình dân kết thúc vào giữa tháng 2. Các cuộc đàm phán liên kết bất ngờ dừng lại do Liên minh yêu cầu Pitt phải từ chức và Bá tước Portland được tiếp kiến Vua Anh trước khi bất kỳ một Bộ hợp nhất nào được thành lập trên cơ sở bình đẳng và công bằng. Ngày 14/1, Fox kêu gọi thành lập một Bộ đáp ứng được niềm tin của cả Viện Bình dân và công
chúng. Đến giờ, Pitt có thể chỉ ra rằng niềm tin của Viện Bình dân và công chúng là không giống nhau. Ngày 20/2, Pitt đã coi Fox là “thủ lĩnh của đại đa số thành viên trong Viện Quý tộc chống lại tiếng nói của người dân”.
Điểm mà Pitt dễ bị tấn công nhất vẫn là ông cần phải thông qua khoản chi phí hành chính của Nghị viện và Dự luật Chống nổi loạn trước Viện Quý tộc mặc dù rất nhiều người phản đối. Ngày 23/12, ông thật sự lo lắng khi hỏi những người ủng hộ thân cận nhất của mình rằng phải làm gì nếu Liên minh cản trở dự luật cung cấp khoản chi phí tài chính. Mahon cho rằng họ sẽ không mạo hiểm mù quáng, nhưng việc công chúng ngày càng ủng hộ Vua Anh và các bộ trưởng của ngài đã khích lệ Pitt mạo hiểm để biến điểm yếu của mình thành điểm mạnh. Ngày 10 và 18/2, Liên minh trì hoãn thông qua Dự thảo Ngân sách quân nhu cho đến khi Vua Anh tuyên bố trước Viện Bình dân cách chức các bộ trưởng của ngài. Pitt lập tức lên án Liên minh về việc cản trở cung cấp các khoản chi phí tài chính và ngày 19, Pitt “cảnh báo Viện Quý tộc hãy thận trọng trước sự nhầm lẫn có thể khiến dân tộc bị nhấn chìm nếu các khoản chi phí tài chính không được thông qua”. Khi Fox thỏa hiệp vô điều kiện để làm dịu những người không theo đảng phái, cho phép thảo luận về dự thảo ngân sách tài chính mà không cần biểu quyết, Pitt lóe lên những tia hy vọng sẽ giành được chiến thắng. Vẫn phải chịu thất bại trong các vấn đề hiến pháp (đa số phiếu đã chống lại ông vào ngày 16/2) và chịu áp lực liên tục từ những người không theo đảng phái về việc thành lập một liên hiệp, ông buộc phải có những cuộc hòa đàm sau đó với Liên minh vào ngày 15 và 26/2. Nhưng sáng sớm ngày 17, Pitt nghĩ rằng “đúng hơn là đối thủ phải chùn bước trước việc trì hoãn khoản chi phí tài chính, trong khi những người không theo đảng phái vẫn đấu tranh không mệt mỏi cho một liên hiệp nhưng không mang lại kết quả”. Số phiếu ủng hộ Fox trong việc đề nghị hoãn phiên điều trần về dự thảo ngân sách sang ngày 20 đã giảm xuống 1. Mặc dù hai ngày sau đó, số người ủng hộ các vấn đề hiến pháp đã tăng lên 20 và 21, cuối cùng, Fox vẫn cho phép thông qua Dự thảo Ngân sách quân nhu để lảng tránh sự cáo buộc của Pitt về việc ngừng cung cấp khoản chi phí tài chính cho Nghị viện.
Fox vẫn đe dọa sẽ giữ nguyên Dự thảo Ngân sách quân nhu và Dự luật Chống nổi loạn của mình, nhưng giờ đây chính ông ta lại gặp khó khăn. Tháng 3/1782 và tháng 12/1783, việc Nghị viện trì hoãn chi phí tài chính đã đủ để ông giành chiến thắng, nhưng bây giờ, Vua Anh và Pitt chắc chắn sẽ kiên quyết chống. Với những nỗ lực tranh thủ sự ủng hộ bên ngoài, Fox phải làm việc rất vất vả để duy trì số người ủng hộ. Ngày 26/2, Fox cảnh báo những người ủng hộ mình rằng có thể cuối cùng họ phải từ chối khoản chi phí tài chính và thông qua Dự luật Chống nổi loạn trong một thời hạn nhất
định. Ngày hôm sau, bản kiến nghị trì hoãn thêm dự luật của họ chỉ được bảy phiếu biểu quyết.
Vấn đề được đẩy nhanh đến đỉnh điểm. Những năm sau này, Wilberforce vẫn có thể hồi tưởng rất chính xác “chúng tôi đã lo lắng như thế nào khi chứng kiến các sự kiện sau mỗi ngày thành công, tính toán từng phiếu bầu, với hy vọng tha thiết rằng Pitt có thể chiến thắng trong cuộc chiến chống lại Liên minh”. Ngày 1/3, ngay cả khi trước đây số phiếu ủng hộ chắc chắn của Fox về các vấn đề hiến pháp đã tụt xuống 12 và hiện tại ông ta đang bị đẩy đến bước đường cùng thì Fox vẫn khẳng định Viện Bình dân có quyền cố vấn cho Vua Anh trong việc sử dụng đặc quyền của mình để cách chức các bộ trưởng. Ngày 4/3, Hoàng gia phản ứng rất kiên quyết: Vua Anh hiểu rằng không cần phải thực hiện bước tiếp theo để đáp ứng được những mong muốn của Viện Quý tộc. Phản ứng trì hoãn xem xét Dự luật Chống nổi loạn của Fox trong ngày hôm sau chỉ nhận được 9 phiếu biểu quyết, sau đó phe đối lập đột nhiên bị tan rã. Ngày 7/3, cuộc biểu tình ủng hộ Fox của công chúng ở Westminster đã bị áp đảo bởi cuộc biểu tình chống lại Fox do những người ủng hộ Pitt tổ chức. Ngày 8/3, việc Fox đề nghị Viện Bình dân nên phản đối quyết định cuối cùng của Vua Anh chỉ được duy nhất một phiếu biểu quyết nhất trí. Ngày 9/3, cuộc họp của Liên minh đã quyết định họ không thể chống đối Dự luật Chống nổi loạn, cho phép một dự luật đầy đủ được thông qua ủy ban vô điều kiện, điều này cho thấy họ sẽ không phản đối việc thông qua Dự luật Chi phí tài chính của Nghị viện sau đó. Ngày hôm sau, Pitt viết cho Rutland: “Tôi đang viết với tâm trạng hết sức hồi hộp, thậm chí cả với niềm tin chiến thắng, bởi tôi nghĩ địa vị xã hội hiện tại của chúng ta là hơn hẳn ông ta”. Khi Dự thảo Ngân sách quân nhu và Dự luật Chống nổi loạn vừa được thông qua và việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử của chính phủ tương đối hoàn tất, Vua Anh đã giải tán Nghị viện vào ngày 25/3, với niềm tin rằng ngài có thể bảo đảm số phiếu ủng hộ mang tính quyết định cho vị bộ trưởng trẻ của mình.
Trong các cuộc tranh luận gay gắt của Viện Bình dân diễn ra từ ngày 12/1/1784, Pitt luôn phải đối mặt với hơn 50 người phản đối nhưng chỉ hai tháng sau, ông đã lật ngược tình thế, trở thành người đứng đầu trong chính phủ của Vua Anh, bất luận tuổi còn rất trẻ. Mặc dù đã được Dundas và bạn bè thân cận hậu thuẫn vững chắc, nhưng trách nhiệm của một vị lãnh đạo luôn đè nặng lên vai ông, không một thành viên Nội các nào ở Viện Bình dân có thể cùng chia sẻ. Không những phải đối phó với những lời công kích liên tục của các đảng phái, Pitt còn chịu cả đòn tấn công thể xác khi xe ngựa của ông bị đám đông ủng hộ Fox phá hỏng khi ông đang trên đường trở về từ lễ trao giải thưởng Freedom của thành phố London ngày 28/2. Trong quá
trình xử lý những vụ việc này, Pitt đã trở thành một nhân vật tầm cỡ. Nghị sĩ John Acland, người đã lăng mạ Pitt là “thanh niên mới lớn” hồi tháng 11, chỉ trong vài tuần đã trở thành người ủng hộ trung thành của ông. Luôn ý thức phải tuyệt giao với “cậu bé nóng tính”, Pitt đã làm việc vất vả để tạo ấn tượng là một người có quyền thế biết cư xử đúng mực. Ngày 2/2, ông phát biểu trước Viện Bình dân rằng “trong suốt các buổi thảo luận được tổ chức bất thường, ông phải gắng sức để tránh vi phạm nghi thức của buổi thảo luận, và ông đã kiềm chế, cố giữ bình tĩnh để hiểu bản chất vấn đề”.
Rõ ràng, trong thời điểm hiện tại, khi quốc thể bị làm nhục và khủng hoảng liên tiếp xảy ra, danh tiếng của Chatham là một khối sức mạnh đối với Pitt, nhưng chính việc Pitt quan tâm đến danh tiếng và uy tín kể từ khi bước chân vào Nghị viện nay lại có lợi cho ông. Trong biên bản cuộc họp Nghị viện tháng 7/1783, Horace Walpole ghi nhận về Pitt:
Với sự chuyên tâm không một phút nghỉ ngơi, anh không hề đơn giản và cử xử rất có chừng mực, thậm chí anh không ngừng quan tâm đến sức khỏe của mình… Không một khuynh hướng của vị thành niên nào có thể làm chệch hướng những nghiên cứu của anh, cũng không có gì đáng phải chê trách về nhân cách của anh. Fox dường như phải từ bỏ ước mong của mình trong tiếc nuối; Pitt đang thể hiện sự cần cù và đức hạnh trên những nấc thang tham vọng của mình.
Sự cần cù và đức hạnh giờ đã mang lại kết quả cho Pitt, đặc biệt giúp ông lên án bản chất của Liên minh Fox-North và bảo vệ mình trước những lời cáo buộc của phe chống đối. Ngày 12/1, ông khẳng định: “Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại bị buộc tội làm công cụ và kẻ tiếp tay cho một thế lực ngầm nào đó. Sự đổ tội lạ lùng này chỉ làm cho nó trở nên đánh khinh bỉ hơn”.
Tuy nhiên, uy tín của Pitt và người cha cùng với dũng khí và tham vọng của ông cũng chỉ giúp ích cho ông được phần nào nếu không có hai đồng minh cần thiết: Vua Anh và dân chúng. Đối với George III, vấn đề đã trở thành một cuộc chiến quyết tử, hay đúng hơn là cuộc chiến chống thoái vị và “ngăn chặn tư tưởng bè phái hòng phá hủy một hệ thống tổ chức xã hội hoàn thiện nhất của loài người − Hiến pháp Anh”. Trong khi đó, Fox yêu cầu Viện Bình dân phải có quyền định đoạt sự lựa chọn của các bộ trưởng. Vua Anh bảo vệ đặc quyền của Hoàng gia, vận động hành lang ủng hộ và tạo ấn tượng về nghị quyết của mình đối với các bộ trưởng. Tuy nhiên, sự ủng hộ của Vua
Anh cũng không thể bảo vệ được Shelburne, nó thật sự cần được tiếp thêm sức mạnh của dư luận.
Những dấu hiệu chứng tỏ Viện Bình dân đánh mất niềm tin của dân chúng đã xuất hiện trong cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ cũng như yêu cầu cải tổ Nghị viện. Ở một góc độ nào đó, mối quan tâm của Vua Anh đối với quyền lực đã dịu bớt nhờ việc cải tổ kinh tế và các biện pháp chống tham nhũng của Bộ Rockingham. Luôn mong chờ nền chính trị được khôi phục ổn định tạo cơ sở phục hồi đất nước sau cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ tàn khốc, dân chúng không có tâm trạng chú ý đến cuộc khủng hoảng hiến pháp mà Viện Bình dân luôn tăng các yêu sách nhằm chống lại quyền lực của Vua Anh. Phong trào chống Dự luật Ấn Độ do Liên minh soạn thảo đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Ở Ludlow, John Scott nghe nói đến bảy ủy viên hội đồng của Liên minh được miêu tả như “bảy nhân viên hội đồng của đại tư bản”; ở Westminster, Fox được đón chào với những tiếng la ó: “Phản đối kẻ độc tài! Bạo chúa chống lại Ấn Độ! Kẻ cướp quyền! Kẻ phản bội!” Chưa thể biết chính xác có phải việc dân chúng tin tưởng đức tính liêm chính của vị bộ trưởng mới đã cổ vũ họ tập trung biểu tình để bảo vệ quyền lực của nhà Vua Anh hay không nhưng chắc chắn một điều, nó chính là yếu tố dẫn đến việc Wyvil và Hiệp hội Yorkshire đứng lên chống lại Liên minh, và chắc chắn không có phản ứng tương tự khi Shelburne là người bảo vệ Vua Anh. Nhưng hiện tại Liên minh cũng đưa ra những yêu sách cao hơn rất nhiều so với một năm về trước, đồng thời có rất nhiều cáo buộc rằng Fox đang đóng vai trò của Cromwell. Thỉnh nguyện thư của những người trung thành từ mọi miền đất nước đã giúp Pitt bước vào vai trò mà ông hằng khao khát – vai trò của một nhà chính trị yêu nước, được nhân dân ủng hộ, cổ vũ, tán thành một hiến pháp cân bằng và pha trộn nhằm chống lại sự tấn công của tư tưởng bè phái. Ngày 20/2/1784, Pitt tự tin phát biểu trước Viện Bình dân: “Hoàn cảnh thời đại đòi hỏi phải có tôi và tôi muốn nói thêm rằng cả nước gọi tên tôi, rằng tôi sẽ bảo vệ được thành trì này; và bởi vậy tôi quyết tâm sẽ bảo vệ được nó”.
Thành tựu cuối cùng của việc động viên toàn dân yêu nước đã đạt được trong cuộc tổng tuyển cử sau này, khi mà quy mô và bản chất của chiến thắng mà chính phủ đạt được đã vượt quá sự mong đợi. Tháng 12, trong khi tính toán để đạt được đa số phiếu ủng hộ bằng phương pháp truyền thống của chính phủ, John Robinson bổ sung: “Tôi rất tiếc phải nói rằng nó đòi hỏi tốn nhiều tiền”. Trong sự kiện này (của Pitt), Bộ Tài chính đã chi 32.000 bảng cho cuộc bầu cử, so với 62.000 bảng mà Robinson đã chi trong năm 1780 và 50.000 bảng năm 1774. Những tính toán ban đầu của Robinson dựa vào sự đào ngũ khỏi Liên minh và sự thương lượng với các nhà bảo trợ của các thành phố lân cận, nhưng tinh thần của đảng xung quanh vấn đề chính trị
quan trọng đã khiến nó trở thành một cuộc chiến không giống với các cuộc bầu cử thông thường. Trên thực tế, những chia rẽ đầu tiên trong Viện Quý tộc mới đã đem lại cho Pitt số phiếu ủng hộ là 147/168. Phần lớn những thành công của Pitt là nhờ cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại Liên minh ở nhiều khu vực bầu cử mở rộng. Các tỉnh và thành phố đã công bố kết quả bầu cử là 90 phiếu ủng hộ Pitt, trong khi đó Liên minh chỉ đạt 53, với ba người khác chưa biết chính xác. Ban đầu Robinson hy vọng những vị trí có uy tín ở hạt sẽ phân chia theo tỷ lệ 40-40, nhưng thực tế là tỷ lệ 48 phiếu nghiêng về Pitt, 29 phiếu thuộc Liên minh, còn ba người khác chưa biết chính xác. Năm 1780, thủ đô London chỉ bầu duy nhất một thành viên cho chính phủ, 11 thành viên cho phe chống đối, nhưng năm 1784 đã bầu 9 thành viên cho chính phủ.
Việc dân chúng phản ứng như vậy kết thúc chuỗi các sự kiện bất ngờ và khó có thể dự đoán, liên quan đến việc bổ nhiệm Pitt trước sinh nhật lần thứ 25 của ông. Mỗi khi sự nghiệp đang tiến triển có chiều hướng bế tắc, ông lại được tiếp sức từ những yếu tố tạo bước phát triển mới: Yorktown, cái chết của Rockingham, Dự luật Ấn Độ, việc khơi dậy quan điểm trung thành của dân chúng và cả sự rời bỏ cương vị lãnh đạo nhanh chóng đến mức ngạc nhiên của các nhà lãnh đạo chính trị lão luyện: Rockingham chết, North và Shelburne không được tín nhiệm, đồng thời, trong số những người kế vị tiềm tàng, Fox lại mắc vào cuộc chiến cá nhân với Vua Anh, còn những người khác như Townshend, Thomas Pitt và Grenville lại mất hết dũng khí trong cuộc khủng hoảng chính trị đang leo thang. Trong tình trạng bấp bênh này, chỉ có Pitt mới ngẩng cao đầu, thể hiện được dũng khí và khả năng khai thác vận may. Trong những năm sau này, Wilberforce nhận xét: “Tinh thần lạc quan đã giúp Pitt luôn tin tưởng rằng trong sự tình cờ chắc chắn sẽ có một điều gì đó đáng để hy vọng”. Auckland lại đề cập đến “quan điểm của Pitt rằng tất cả mọi thứ đều đến đúng lúc”. Hiểu được sự chuyển hướng gây ấn tượng sâu sắc khi khai thác vận may trong suốt những năm tháng đầu tiên đầy đau buồn của Pitt trong sự nghiệp chính trị, ta dễ dàng nhận thấy ông đã phát triển khuynh hướng lạc quan của mình như thế nào.
CHƯƠNG 2. Pitt và Vua Anh
Nhiệm kỳ đầu tiên của Pitt kéo dài 17 năm 3 tháng (từ 19/12/1783 đến 14/3/1801) và trở thành nhiệm kỳ hoạt động dài thứ hai trong thế kỷ XVIII, sau nhiệm kỳ của Robert Walpole (1721-1742). Pitt là vị Thủ tướng Anh thứ 9 được Vua Anh bổ nhiệm trong vòng 23 năm đầu tiên ngài trị vì. Cha Pitt đảm nhận chức Thủ tướng năm 1766 khi còn là Bộ trưởng Không bộ cao cấp, song ông cũng chỉ giữ cương vị này được hai năm. Di sản của Chatham để lại cho Pitt giúp ông nổi tiếng khắp đất nước, nhưng nó cũng cản trở mối quan hệ của ông với Vua Anh, người luôn có ác cảm với hành vi mang tính độc đoán của cha ông. Một Nội các ứng biến vội vàng khó có thể đảm bảo cơ sở vững chắc cho một chính quyền lâu dài, và một phần trong nhiệm kỳ với cương vị là Bộ trưởng Tài chính, Pitt chưa có kinh nghiệm lãnh đạo − Vương quốc Anh “đã phải tin vào sự chăm lo của một cậu bé đang học phổ thông”, đó là câu châm biếm của phe đối lập trong tác phẩm The Rolliad năm 1785.
LIÊN MINH CỦA CÁC PHE ĐỐI LẬP
Để tồn tại, Pitt cần phải thiết lập một mối quan hệ công việc tin cậy với George III. Chiến thắng gần đây của Pitt cho thấy đời sống của một Bộ thế kỷ XVIII nhìn chung phụ thuộc vào sự lựa chọn bầy tôi trung thành của Vua Anh hơn là quyền ưu tiên của Viện Bình dân. Vua Anh luôn biết ơn Pitt vì đã cứu ngài khỏi bàn tay thù địch của Fox và Pitt cũng không ngừng nuôi tham vọng lãnh đạo đất nước, nhưng sự bắt tay hòa thuận của hai người gặp nhiều trở ngại. Pitt trưởng thành cùng với lòng căm phẫn triều đình và quyền lực của nó, những thứ mà truyền thống gia đình Chatham lưu giữ và được coi là nguyên nhân phá hủy sự nghiệp chói lọi của người cha. Trong đám tang của cha, Pitt cảm thấy như bị sỉ nhục: “Triều đình không thể hiện sự tôn trọng chúng tôi với vẻ nghiêm trang, cũng không để cho đám tang được long trọng như đáng ra phải có”.
Không lâu trước khi lên nắm quyền, Pitt đã từ chối tham gia bất kỳ chính phủ nào được xây dựng trên nền tảng “hệ thống chính trị cũ của triều đình”. Ông còn tiên đoán “một phần trong Hiến pháp của chúng ta sẽ bị xóa bỏ là sự đặc quyền của Vua Anh”. John Robinson nhận thấy Pitt và Temple khi được bổ nhiệm chức vị đã “thể hiện vụng về Tôi nhất định ở một hướng nhất định, họ không cương quyết, không thuyết phục lương tri của mọi người hoặc tình cảm của những người tài trí, những người hay gây phiền nhiễu hoặc đàn áp, nhưng đã bất ngờ đề xuất những điều không dễ gì đạt
được mà không cần đề xuất hay gợi ý một cái gì đó có lợi”. Trong các vị trí bổ nhiệm ban đầu, Pitt đã loại tất cả những người thân cận với Vua Anh trong Viện Bình dân vốn đã mang tiếng xấu. Thay vào đó, ông luôn tìm kiếm một bộ trên “lập trường rõ ràng của những người theo Đảng Whig”. Thậm chí, mãi đến cuối năm 1790, “ông do dự không nói, nếu có bất kỳ nghi ngờ gì về một trong ba nhánh của Hiến pháp, thì chắc chắn nghi ngờ đó là quyền hành pháp”. Nghịch lý là, một người đàn ông bảo vệ quyền lực của Vua Anh trước sự liên kết chính trị của các đảng phái trong những năm 1783 1784 nay lại chính là người tỏ ra nghi ngờ sự thi hành quyền lực của ngài.
Những thành kiến như vậy chắc chắn sẽ khiến mối quan hệ giữa Pitt với George III trở nên lạnh nhạt và thận trọng. Khi bổ nhiệm Pitt làm Bộ trưởng, George đã có kinh nghiệm 23 năm lãnh đạo chính phủ và là vị vua trị vì trong khoảng thời gian dài chỉ kém một năm so với tuổi đời của Pitt. Đằng sau ngài là cả một nhóm bầy tôi và bạn bè trung thành có kinh nghiệm tầm cỡ ở cả Bộ và Nghị viện. Vua Anh và những người ủng hộ ngài chắc chắn sẽ quan tâm đến hành trang chính trị mà Pitt mang theo mình: Thurlow lo lắng cảnh báo ngài về cam kết của Pitt trong vấn đề cải tổ Nghị viện tại cuộc họp tháng 7/1783; trong khi đó, tháng 12, Robinson lại đặt vấn đề “liệu khi mọi thứ đã được sắp đặt và Pitt đã tìm thấy chỗ đứng vững chắc, tinh thần của cha Pitt có tỏa sáng?” Vua Anh thật sự bị “tổn thương” khi Pitt từ chối bảo vệ ngài vào tháng 3/1783, hẳn ngài sẽ không bao giờ quên mình đã phải quy phục Liên minh nhục nhã như thế nào. Đầu năm 1789, khi đang trong tình trạng mê sảng vì bệnh tật, “Vua Anh đã lăng mạ Pitt rất nhiều… và gọi ông là đứa trẻ ranh, ngài nói ngài muốn Pitt tiến bước đến gần chính quyền của Shelburne, nhưng ngài sợ”. Giữa Pitt và George III có những quan điểm khác nhau trong chính sách – về cải tổ Nghị viện, sự buộc tội Warren Hasting, bãi bỏ việc buôn bán nô lệ hay chính sách ngoại giao – nhưng điều khác nhau cơ bản lại là tính khí của mỗi người. Vua Anh tự hào rằng “quan điểm của ta được hình thành trên nguyên tắc chứ không phải dựa trên sự kiện, do đó nó không thể thay đổi”, trong khi đó vị Bộ trưởng của ngài lại tin tưởng rằng “sẽ là không sáng suốt nếu thiết lập những luật lệ hoặc nguyên tắc chung trong chính phủ hoặc trong chính sách”.
May thay, trong mối quan hệ cần thiết này, Pitt nhận thấy rằng biết tự kiềm chế là một nguyên tắc dễ dàng hơn nguyên tắc của cha ông hay của đối thủ Fox. Ông không tự ném mình vào mối thù truyền kiếp cá nhân với Vua Anh như cha ông đã làm với George II hay như Fox với George III. Theo Nathaniel Wraxall, bạn bè đã cảnh báo Pitt về khuynh hướng này, nhưng ông phớt lờ. Thái độ không đúng mực của Fox là một trong những cơ sở chính khiến George tiếp tục ủng hộ Pitt, thay mới lực lượng khi Fox tỏ rõ thái độ
bênh vực nguyên nhân của Cách mạng Pháp1trong năm 1792 1793. Do vậy, một cách đối phó xuất hiện giữa Vua Anh và Pitt, cả hai đều phải học cách tự kiềm chế. Vua Anh không muốn lặp lại lời kêu gọi toàn Nội các hồi tháng 1/1784, lặp lại trường hợp tương tự như ở Bộ của North năm 1779 và năm 1781, khi ngài cảm thấy các bộ trưởng của mình cần phải được tiếp thêm nghị lực. Thành công của Pitt trong việc chấm dứt cuộc khủng hoảng đã xóa đi mối nghi ngờ kéo dài của Vua Anh về cách giải quyết của ông. Khi các cuộc tấn công của Liên minh thất bại vào tháng 3/1784, Vua Anh đã nói với Bộ trưởng của mình: “Ta rất hài lòng vì khi một người sử dụng sự khôn ngoan và tính chính trực của mình trong Viện Bình dân để tạo nên một sự thay đổi lớn như thế này, và anh ta có thể hài lòng rằng khi ủng hộ ta, anh ta đã bảo vệ Hiến pháp, một hệ thống tổ chức xã hội hoàn thiện nhất của loài người”.
Sau đó, Vua Anh đã cho phép Pitt chỉ đạo các vấn đề cải tổ mà trước đây ngài không nhất trí, với điều kiện Pitt phải cam kết rằng các tiến trình cải tổ đó hoàn toàn là hành động cá nhân, không được tìm kiếm sự ủng hộ của chính phủ. Thỏa hiệp này cũng đã được Pitt chấp thuận khi ông thừa nhận trước Viện Bình dân tháng 1/1784 về khả năng khó có thể cải tổ Nghị viện, nhưng tuyên bố cá nhân ông sẽ tiếp tục ủng hộ nó. Điều này rất có lợi cho Vua Anh bởi mọi việc sẽ được duy trì với những người cầm đầu “nguội hơn” so với những nhân vật cấp tiến ở London. Tuy nhiên, Vua Anh đã hoảng sợ và bị tổn thương khi tháng 1/1785, Christopher Wyvill tuyên bố Pitt quyết tâm đưa vấn đề cải tổ trong phiên họp tiếp theo “với tư cách một công dân và với tư cách một Bộ trưởng”.
Trên thực tế, Pitt cố gắng vượt qua những cản trở của Vua Anh với nỗi ám ảnh rằng những nỗ lực với tư cách là một công dân của ông thất bại chắc chắn sẽ gây tổn hại đến khả năng hành động với tư cách Bộ trưởng. Khi thông báo cho Vua Anh về những đề nghị của mình, Pitt nhấn mạnh sự điều hòa giữa con người công dân và con người Bộ trưởng trong ông và cảnh báo rằng nếu những người ủng hộ Vua Anh bỏ phiếu phản đối vấn đề cải tổ thì việc đó có thể sẽ “làm giảm hoặc làm mất hoàn toàn niềm tin trong dân chúng, như vậy sẽ ngăn cản mọi nỗ lực phục vụ trong tương lai của Vua Anh, nó quá bất lợi và phù phiếm”.
Tuy nhiên, Vua Anh là một chính trị gia dạn dày kinh nghiệm. Sau khi tham khảo ý kiến Sydney, nhân vật phản đối cải tổ Nghị viện trong Nội các, về phản ứng có thể của Pitt, ngài đã hối thúc rằng biện pháp cải tổ nên để là một vấn đề hoàn toàn mở. Tin tưởng tính đúng đắn của việc cải tổ, Pitt đưa những suy nghĩ của mình ra trước Viện Quý tộc và “không quan tâm đến
những tình cảm cá nhân dành cho ông”. George III ngồi im lặng, nhưng ngài cảnh báo Pitt không được dùng địa vị của mình để áp đặt bất kỳ ai biểu quyết ủng hộ cải tổ: “do tính chất trọng đại của sự việc, ta đã nghĩ rất nhiều về những người tham gia ủng hộ hoặc phản đối mà không cân nhắc kỹ càng, và về những người vì phép lịch sự với một ai đó mà phải đưa ra những ý kiến biểu quyết trái với quan điểm của mình”. Trên thực tế, ác cảm của Vua Anh đối với việc cải tổ Nghị viện khó mà đoán biết được, bởi ngài im lặng, không đưa ra một ý kiến trái ngược nào. Mặc dù Pitt đã nỗ lực để bịt miệng cận thần của Vua Anh, nhưng cuối cùng họ đều biểu quyết với đa số phiếu chống lại Pitt. Vua Anh đã an ủi vị Bộ trưởng của mình bằng cách phát biểu ca ngợi “sự thể hiện ưu việt của Pitt”.
Việc Pitt chấp nhận thất bại khiến Vua Anh càng thêm tự tin rằng hiến pháp hiện tại đang an toàn trong tay ngài. Sự thỏa mãn của ngài càng tăng lên khi Pitt phản đối bãi bỏ các Đạo luật về Hội và Đạo luật Thử nghiệm năm 1787, 1789 và 1790 cũng như khi Pitt phản đối cải tổ Nghị viện những năm 1790. George III tin rằng Pitt sẽ làm cho “tất cả những người yêu mến trật tự hoàn hảo và hiến pháp tuyệt vời của chúng ta” yêu mến. Ngài chấp nhận sự ủng hộ của Pitt về việc mở rộng các quyền công dân cho tín đồ Công giáo ở Anh năm 1791 và ở Ireland năm 1792, đồng thời miễn cưỡng chiều theo các bộ trưởng của ngài về việc cho phép những tín đồ Công giáo Ireland đủ điều kiện được tham gia bầu cử năm 1793. Vua Anh đã vạch ra cách thức tiến hành khi quan đại diện nhà vua ở quận mới được bổ nhiệm, Bá tước Fitzwilliam, phản đối việc bãi bỏ các Đạo luật Thử nghiệm ở Ireland năm 1795, thể hiện mạnh mẽ trong một bản ghi nhớ dài gửi Thủ tướng. Tuy nhiên, theo Pitt, đề nghị đó quá nguy hiểm, nói đúng hơn là không đúng lúc, do vậy, một thỏa thuận rộng rãi vẫn được duy trì cho đến khi đề nghị này lại được đưa ra và gây nên những hậu quả tai hại năm 1801. Bộ của Pitt là một bộ đặc biệt, vừa đưa ra vừa bãi bỏ các vấn đề hiến pháp, do vậy, việc kiềm chế các vấn đề này lâu như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong thời gian ông tại vị.
Khi các mối quan tâm về Hiến pháp lắng xuống, Vua Anh toàn tâm toàn ý cho việc cố vấn, hỗ trợ và khích lệ vị Bộ trưởng của mình trong Viện Bình dân, nhanh chóng giải tỏa và chia sẻ với những thất bại ban đầu của Pitt. Hai người hoàn toàn nhất trí về chính sách khôi phục chung cần thiết sau cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ: vấn đề hòa bình, củng cố tài chính quốc gia và mở rộng thương mại. George III thể hiện sự “bằng lòng vô hạn” trước những nỗ lực của Pitt nhằm tăng thuế trong năm 1784 và 1785, ngài cũng rất hài lòng với Quỹ chìm (quỹ dùng để trả nợ) và Hiệp định Thương mại với Pháp năm 1786, đồng thời hoan nghênh những bước đi táo bạo của Pitt trong việc
cải cách hải quan − năm 1786 chuyển đánh thuế rượu từ thuế nhập khẩu sang thuế đánh vào một số mặt hàng được sản xuất, bán hoặc dùng trong nội địa và năm 1787 đưa thuế vào một quỹ đơn, từ quỹ đó phí tổn quốc gia sẽ được chi trả theo diện ưu tiên. Vua Anh coi đây là “một biện pháp quan trọng” đến nỗi đích thân ngài đến Nghị viện để trao bản phê chuẩn của Hoàng gia.
Tài chính quốc gia không phải là vấn đề thu hút được sự chú ý của Vua Anh, cũng không khiến ngài phải hiểu đủ để tạo một cuộc xung đột giữa ngài và Bộ trưởng của mình. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao, sự bảo trợ quốc gia và các vấn đề của Hoàng gia lại được ngài chú ý quan tâm. Ngài luôn tránh những bất đồng với Pitt trên các vấn đề này để hy vọng có được mối quan hệ hòa hợp với Bộ trưởng.
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO
Chính sách ngoại giao là vấn đề đặc biệt khó giải quyết bởi George III cũng là cử tri của Hanover và từ đó ngài luôn ở vị trí theo đuổi chính sách riêng biệt của Đức. Pitt sớm phát hiện ra điều này vào năm 1785, khi George III tới Hanover với tư cách là thành viên sáng lập Liên minh các quốc gia Đức do Phổ lãnh đạo nhằm phản đối kế hoạch Áo chuyển giao các tỉnh của Hà Lan cho Bavaria, mặc dù việc làm này của ngài đã ảnh hưởng đến những nỗ lực của Anh nhằm thiết lập đồng minh với Áo và Nga − đồng minh của Áo. Trong bất cứ trường hợp nào, Vua Anh cũng luôn cứng nhắc cho rằng nước Anh nên tránh vướng mắc vào khó khăn của châu Âu cho đến khi phục hồi đất nước sau cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ. Một nhiệm vụ lớn đặt ra với Pitt và Ngoại trưởng Carmarthen là phải thuyết phục Vua Anh nắm bắt cơ hội tranh giành ảnh hưởng của Pháp đối với Hà Lan trong những năm 1786- 1787.
Do trước đó Pitt đã chia sẻ những quan điểm tiêu cực của Vua Anh nên ngài thường đáp lại những quan điểm của Pitt nhiều hơn là với Ngoại trưởng; ngài cũng bị chi phối quá nhiều từ đặc phái viên của ngài ở Hà Lan (cũng là người trước đây ủng hộ Liên minh), James Harris. Một lần nữa, Pitt cần đảm bảo về tài chính để đối phó với sự phản đối của Hoàng gia đối với biên bản Nội các của Carmarthen về khoản cho những người ủng hộ Thái tử của hạt Orange, một người thân Anh, vay 70.000 bảng tháng 5/1787. Khi cuộc khủng hoảng nổ ra vào tháng 9 (xem Chương 7), chính Pitt là người thuyết phục Vua Anh đồng ý tổng động viên toàn nước Anh ủng hộ sự can thiệp của nước Phổ nhằm khôi phục quyền lực cho Orange. Pitt đã gửi phái viên của mình, Grenville, tới Hà Lan và cung cấp các báo cáo của mình cho Vua Anh để ngài xóa bỏ nghi ngờ về Harris. Với tài ứng biến, Pitt đã lôi
cuốn Vua Anh, thuyết phục ngài rằng “nguyên tắc mà Đức vua đồng ý đưa ra sẽ là nguyên tắc duy nhất được chấp thuận đúng đắn”. Thành công trong cuộc khủng hoảng với Hà Lan đã khiến Vua Anh mong muốn được nghe đề nghị của các bộ trưởng về chính sách ngoại giao nhiều hơn, nhưng sáng kiến bây giờ lại đều xuất phát từ Vua Anh rồi truyền xuống các bộ trưởng, sự tán thành của ngài có thể sẽ không bao giờ được đưa ra như vẫn thực hiện khi ngài gặp khó khăn trong chính sách Baltic năm 1788.
Các vấn đề của phe đối lập lại nổi lên khi Vua Anh nhiệt tình ủng hộ cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp năm 1793. Đây trở thành điểm bất đồng thường xuyên xảy ra giữa Vua Anh và các bộ trưởng của ngài, trong đó bao gồm cả những vấn đề về quân sự và chính sách ngoại giao. Việc Vua Anh ủng hộ các chiến dịch của con trai yêu, Công tước York, ở Flanders làm cho các bộ trưởng bối rối. Trong một những bức thư dài gửi Vua Anh, Pitt giải thích những cố gắng nhằm hạ tầm quan trọng của York xuống ngang hàng với các vị chỉ huy khác. Cuối cùng (tháng 11/1794, sau khi đã giải quyết những bất đồng với các đồng minh theo Đảng Whig của Portland, đảm bảo được chỗ đứng của mình trong Nghị viện), Pitt rất kiên quyết, nhưng không kém phần khéo léo, đề nghị bãi miễn chức vụ của York. Vua Anh “thật sự đau lòng” nhưng phải miễn cưỡng tán thành. Ba tháng sau, Pitt lập tức làm dịu lòng tự ái của Hoàng gia bằng cách bổ nhiệm York làm Tư lệnh quân đội. Các bộ trưởng đều có mối quan hệ tốt với York, người đã chứng tỏ được năng lực của một nhà quản lý, nhưng ngay cả York và các bộ trưởng cũng không thể thuyết phục Vua Anh cho phép họ sử dụng “lực lượng cảnh vệ” của ngài để tăng cường sức mạnh của đội viễn chinh miền Tây Ấn Độ năm 1795.
Năm 1795, Hà Lan bị Pháp chiếm đóng, nước Phổ ký kết hòa ước riêng, bất đồng giữa chính sách của bộ trưởng và lợi ích cử tri của Vua Anh lại xảy ra. Hanover nằm trong số những tổ chức kêu gọi hòa giải chung với Đức, và vào mùa thu, toàn bộ cử tri tuyên bố thái độ trung lập. Trong khi đó, Pitt và Ngoại trưởng Grenville đang nỗ lực để giành được sự ủng hộ của dân chúng và các đồng minh nước ngoài đang dao động. Họ đưa ra viễn cảnh của các cuộc đàm phán hòa bình chung với Pháp và tiếp thêm sức mạnh cho nỗ lực chiến tranh của hai thế lực quân sự Đức. Nước Phổ bị lôi kéo quay trở lại cuộc chiến với một đề nghị cái giá nhận được là các bang nhỏ hơn của Đức, trong khi đó lại cho phép Áo chuyển giao Hà Lan cho Bavaria. George III quyết liệt chống lại những đề nghị này. Tháng 1/1796, Vua Anh gửi một bức thư tới các bộ trưởng của các bộ quan trọng để phản đối đàm phán hòa bình. Hy vọng bảo toàn được sự ủng hộ của dân chúng đã bị tiêu tan khi Vua Anh nhận được sự đáp lại: “Chúng tôi không quá ngây thơ để có thể bị lôi kéo chỉ
bằng một chút tán thưởng hoặc một vài câu lăng mạ phòng ngừa. Tính chính trực là mục tiêu quan trọng của chúng tôi”. Năm 1785, Vua Anh gạt bỏ lời giải thích của Grenville với nhận xét chua cay: “Ta thường hành động dựa trên những nguyên tắc đơn giản. Hệ thống chính trị của Italia là những lối mòn quá phức tạp để ta có thể hiểu”.
Cuối cùng Vua Anh phải chịu thua, đó chính là lý do khiến những lời đáp lại của ngài nhức nhối đến vậy. Thất bại của ngài trong năm 1796 là thất bại về chính sách ngoại giao lớn nhất trước các bộ trưởng trong thời gian ngài trị vì. Bằng cách nào mà Pitt có thể làm theo ý mình? Một phần, tuổi tác và khối lượng thông tin nhận được quá lớn đã khiến Vua Anh không chú ý vào các vấn đề ngoại giao. Ngài thú nhận với Grenville vào tháng 4 rằng “khi trách nhiệm quá nặng nề, ta nhận thấy tâm trí ta chẳng thể nhớ được nội dung nào…, ngay cả phương thức xúc tiến thư từ trao đổi với dân chúng cũng rườm rà và lộn xộn hơn so với 30 năm trước”. Bởi vậy, Vua Anh trở nên quá yếu để có thể chống chọi được vị Ngoại trưởng nổi tiếng cả về trang bị thông tin tốt lẫn sự ngoan cố trong quan điểm, người quá thân cận với Pitt. Vua Anh thấy mình bị Pitt và Grenville tấn công tới tấp, dồn dập đưa ra những tranh luận trước các quyết định then chốt, thông thường là bằng thư từ, nhưng cũng có khi ngài phá tiền lệ, trực tiếp mời họ đến hội kiến ở Windsor vào cuối tháng 7.
Bên cạnh kiến thức và sự kiên trì của Grenville, vũ khí chính của Pitt vẫn là bản tính ngoan cố, các đồng sự trung thành và sự vận dụng sắc sảo những kinh nghiệm mà ông tích lũy được về cách xử trí trước những thành kiến của Vua Anh. Năm 1792, Pitt cách chức Thurlow, một nhân vật ủng hộ trung thành nhất của Vua Anh trong Nội các và là Chủ tịch Nghị viện. Năm 1794, ông hợp nhất Đảng Whig của Portland vào Nội các của Liên minh vừa được khôi phục (cuối cùng Nội các cũng đứng trên “lập trường của những người theo Đảng Whig” như Pitt đã mong muốn từ lâu). Những việc làm này đã củng cố vị trí của Pitt, giúp ông đối diện với Vua Anh trong việc thống nhất Nội các mà ngài chắc chắn sẽ phải miễn cưỡng chấp nhận. Một lần nữa, trong mối bất đồng quan điểm những năm 1795-1797, Vua Anh được thông báo Nội các đã thông qua các đề nghị.
Tháng 1/1796, Vua Anh quá mệt mỏi khi phải tiếp tục làm việc với những quan điểm ủng hộ chiến tranh của Dundas mà không đem lại kết quả gì. Windham, vị Bộ trưởng căm ghét các cuộc đàm phán hòa bình nhất, cũng thích bị ghi vắng mặt hơn bị ghi là người bất đồng chính kiến trong biên bản cuộc họp Nội các. Thậm chí, tháng 6/1797, Grenville đã bất đồng quan điểm với một số chính sách của Pitt, song hy vọng của Vua Anh đã tiêu tan khi vị
Ngoại trưởng này tuy bất đồng nhưng vẫn trung thành giám sát các cuộc đàm phán do Pitt chỉ đạo.
Chỉ cần các bộ trưởng kiên quyết, đoàn kết và trước mắt không bị một chính phủ khác thay thế thì Vua Anh hoàn toàn không có khả năng chống cự. Đây không phải là vũ khí mà Pitt hay bất cứ vị thủ tướng nào muốn sử dụng thường xuyên, bởi mối quan hệ hòa hợp với Vua Anh là rất cần thiết để mọi công việc của chính phủ được thông qua suôn sẻ. Những người tiền nhiệm là Walpole và North đã đánh mất niềm tin của dân chúng vì cuộc chiến không thành công, vì vậy Pitt buộc phải đối diện với Vua Anh để tự bảo vệ mình. Tuy nhiên, ông cũng biết cần phải thận trọng để giảm thiểu sự bực tức của Vua Anh, tránh việc ngài ban bố tối hậu thư. Pitt rất lịch sự, tôn kính ngài nhưng cũng hết sức kiên quyết. Bất kể khi nào Vua Anh không đồng ý với biên bản của Nội các, Pitt đều hỏi liệu ngài có muốn vấn đề được thảo luận lại theo ý kiến của ngài không. Những cuộc nói chuyện cá nhân diễn ra hết sức thận trọng. Khi Malmesbury, một nhà đàm phán của Anh, đến diện kiến Vua Anh trước khi lên đường sang Pháp vào tháng 10/1796, trước khi bước vào phòng họp kín của Hoàng gia, ông đã nghe lỏm được một cuộc nói chuyện kín, trong đó Pitt nói với người anh họ về ông: “Tôi đã cho anh ta một bài học trước khi tới đây!”
Pitt đã sớm rút ra kết luận là những cuộc gặp gỡ riêng không phải là cách để xoay chuyển Vua Anh. Công việc giữa Vua Anh và Bộ trưởng được giải quyết ngay trong phòng họp kín của Hoàng gia. Tính nhút nhát vốn có của Pitt khi đối diện với những người mà ông cảm thấy khó có thể thiết lập mối quan hệ hòa hợp, đặc biệt người đó lại là Vua Anh, đã khiến ông phải dùng đến cách nói quá nghi thức. Đây không phải là cách nói là thuyết phục trong phòng họp kín, nơi mà ông chỉ có thể bày tỏ quan điểm khi Vua Anh tạm ngừng câu chuyện của ngài, điều này khiến ông cảm thấy bối rối bởi “Vua Anh sẽ hăm hở nói, liên tục nói, không chấp nhận dừng, cũng không trả lời và thường xuyên nói đến những vấn đề theo ý thích của ngài mà hoàn toàn không gắn với vấn đề cần bàn”. Phương cách tốt nhất Pitt tìm được để vượt qua rào cản này là thận trọng viết tất cả vào một bức thư, như Grenville có lần giải thích với ông: “Tất cả mọi quan điểm có thể được thể hiện mạnh mẽ bằng việc tập hợp và gắn kết với nhau sao cho cách nói ngẫu hứng của Vua Anh không thể phát huy được”. Bằng cách này, Pitt đã khôn khéo chuyển thành kiến của Vua Anh thành những điều có lợi. Khi thuyết phục Vua Anh áp dụng chính sách hòa bình trước sự thay đổi của Grenville năm 1797, Pitt đã cầu khẩn khiến ngài nguôi giận: “Ông ấy biết Đức vua sẽ cảm thấy nguyên tắc đàm phán khi đã được đặt ra sẽ không được phép đi chệch”. Đây là thất bại cuối cùng và duy nhất của các cuộc đàm phán này, tuy nhiên
nó lại tiếp tục sự thống nhất trong chính sách ngoại giao giữa Vua Anh và Bộ trưởng của ngài, nhưng cuộc chiến kéo dài là tác nhân khiến những bất đồng giữa hai người tiếp tục xảy ra.
QUYỀN BỔ NHIỆM VÀ ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
Quyền bổ nhiệm là một chất bảo dưỡng cần thiết cho hệ thống chính trị thế kỷ XVIII và được Vua Anh quan tâm chặt chẽ. Trong vấn đề này, cách đối xử sống sượng của Vua Anh đối với thủ tướng gần đây của ngài, George Grenville (bác của Pitt, cha của Grenville), đã khiến George Grenville phải mất chức. Pitt có lần tuyên bố rằng “sự sắp đặt” khiến ông “dễ nổi cáu”, nhưng ông nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nó đối với bất kỳ một bộ nào. Cuối năm 1788, khi Vua Anh mất khả năng lãnh đạo, Pitt đã phòng thủ bằng cách lấy đi quyền được bổ nhiệm của phe đối lập nếu họ nhậm chức dưới thời nhiếp chính.
Dự luật Chế độ nhiếp chính của Pitt có nhiều hạn chế, và tất nhiên, ông đã chọn một hoàng thân nhiếp chính chưa lập gia đình chứ không phải là một hội đồng nhiếp chính như đề nghị của Chủ tịch Nghị viện Thurlow, vì nó sẽ giúp ông biện hộ tốt hơn cho những hạn chế đó. Nữ hoàng (là người mà ông có thể trông cậy) sẽ tiếp tục chăm sóc Vua Anh đang bị bệnh, quản lý cận thần của ngài và có quyền bổ nhiệm những cận thần này. Hoàng thân nhiếp chính có thể không được thừa kế của cải của Vua Anh, không được kế thừa chức vị, không được trợ cấp cho các khanh tướng ngoại trừ anh em ruột đã đến tuổi. Hoàng thân nhiếp chính chỉ được ban các chức vị theo ý muốn của Hoàng gia (nghĩa là sau này những chức vị đó có thể được thu hồi), ngoại trừ ban cho những người mà luật pháp quy định.
Quyền được bổ nhiệm là quyền lực và để lãnh đạo hiệu quả, một bộ trưởng phải là người thi hành quyền đó. Năm 1805, Pitt đã phản ứng trước việc Vua Anh phản đối ông bổ nhiệm Tổng Giám mục Canterbury2. Ông cho rằng ông và dân chúng không thể hiểu nổi, rằng “quyết định của Vua Anh không tôn trọng ông, không dành cho ông niềm tin mà những người tiền nhiệm của ông được hưởng” và thiếu niềm tin đó, ông không thể quản lý hiệu quả công việc của Vua Anh. Rõ ràng, Pitt đã cố kiềm chế từ chính yêu cầu của bản thân. Vua Anh rất biết ơn vì sự cứu giúp của Pitt năm 1784, ngài đã sốt sắng để lại một khoản tiền lớn cho Bộ trưởng của ngài phòng khi ngài qua đời, và đã hai lần ngài thể hiện sự tiếc nuối khi Pitt đề nghị chức kiểm phiếu ở Bộ Tài chính (chức ngồi mát ăn bát vàng) cho người khác chứ không phải cho bản thân. Năm 1790, ước muốn trao cho Pitt huy hiệu cấp tước Ga-
tơ (cấp tước cao nhất trong hàng hiệp sĩ ở Anh) sau thắng lợi lớn trong Khủng hoảng Nootka3đã không thành. (Liệu có phải Pitt muốn Vua Anh rút lại sự xem thường của ngài đối với cha Pitt, và giờ đây Pitt yêu cầu phải trao lại huy hiệu đó cho chủ gia đình, anh trai của Pitt, Bá tước Chatham để thay thế?). Cuối cùng, năm 1792, Vua Anh tuyên bố ngài chấp nhận ủng hộ vị Quản lý Cụm cảng Cinque và Pitt, cả hai người đều phải chịu áp lực về mặt tài chính và rất cần sự ủng hộ rộng rãi của Hoàng gia trong một năm đầy khó khăn này. Thông thường, Pitt thích chờ đợi sự ban thưởng của Vua Anh và sự ủng hộ rộng rãi của Hoàng gia đối với bạn bè và người thân của ông. Trong bức thư đề nghị Tom Steele được nhận chức nhân viên thu nợ cho Vua Anh ở Bộ Tài chính, ông viết: “Ngài Pitt sẽ là người được nhận sự ban thưởng cá nhân lớn nhất”, và “chính ngài Pitt sẽ cảm thấy đây là sự ủng hộ và sự chiều ý lớn nhất mà Vua Anh dành cho mình” khi Vua Anh đồng ý trao cấp bậc quý tộc Anh cho bạn của Pitt là Mornington − cả hai người đều được chào đón ân cần năm 1797, thời điểm mà sự nổi tiếng của Pitt đã dần bị giảm sút.
Nói chung, Vua Anh buộc phải làm thế, mặc dù ngài đã đặt ra mức hạn chế tối đa cho việc đáp ứng những đòi hỏi cá nhân từ phía Pitt. Năm 1784 và 1789, Vua Anh đã không chấp thuận đề nghị của Pitt về việc ban địa vị Công tước cho người anh họ là Bá tước Temple, mà chỉ đồng ý phong tước hầu vùng Buckingham. Trong khi năm 1785, George III sẵn sàng chấp thuận những yêu cầu của Pitt trong việc đảm bảo một cuộc sống giàu có cho thư ký riêng và thầy giáo cũ − Tiến sĩ George Pretyman, thì năm 1787 ngài lại tỏ ra khó tính hơn khi Pitt tuyên bố ông “có thể không đòi hỏi Vua Anh những thứ mà cá nhân ông hết sức quan tâm” và bổ nhiệm Pretyman thay cho anh trai của Thurlow làm Giám mục Lincoln và Trưởng tu viện St Paul’s. Vua Anh muốn trợ cấp cho Pretyman (1.500 bảng mỗi năm), nhưng lại cho rằng việc trợ cấp thêm cho anh trai của Thurlow (1.800 bảng mỗi năm) là quá nhiều. Pitt thấy mình chịu ơn Pretyman và cảm thấy cần phải thể hiện thiện chí đối với Hoàng gia như đối thủ của ông – Thurlow – đã làm. Ông thỉnh cầu Vua Anh cho tới khi ngài miễn cưỡng chấp nhận: “Thần không thể để lý trí buộc mình phải ép buộc Đức vua… mặc dù, thần tin chắc chắn nhiều người quan tâm sẽ nghĩ rằng điều đó là không thể”. Tuy nhiên, Pitt đã quá lạm dụng ơn huệ của Vua Anh khi ông cố gắng bổ nhiệm Pretyman làm Tổng Giám mục Canterbury năm 1805. Việc Vua Anh từ chối đề nghị của Pitt đã gây nên phản ứng. Tương tự, khi Vua Anh muốn phê chuẩn thăng chức cho luật sư tin cẩn của Pitt, Pepper Arden, làm Bộ trưởng Tư pháp và Chánh án Tòa thượng thẩm, thì năm 1799, ngài ủng hộ bổ nhiệm John Scott chứ không phải Arden làm Chủ tịch Tối cao Pháp viện Anh.
Điều mà Pitt lo ngại nhất khi bắt đầu đảm đương chức vụ chính là Vua Anh sẽ được xem là người có quyền quyết định bổ nhiệm các chức vụ và vị trí quyền cao chức trọng. Pitt buộc phải chấp nhận để những người được Vua Anh tin tưởng, như Thurlow và Howe, vào Nội các nhưng mãi đến những năm 1786-1787, ông mới đồng ý nhận những cố vấn cũ của Vua Anh là Jenkinson và Robinson. Tháng 6/1784, Thomas Orde nhận thấy một số biểu hiện ngờ vực ở Pitt. Bất kỳ một vấn đề bổ nhiệm nào trong chính phủ có liên quan đến Vua Anh hoặc một lời nói nào về sự tiến cử của Hoàng gia đều khiến Pitt biến sắc. Tuy nhiên, Pitt không thể loại bỏ được lợi ích của Vua Anh trong các vấn đề bổ nhiệm nhân sự. Năm 1788, Grenville đã giải thích về một trong những điểm bất đồng của Buckingham, khi ông này còn là Quan đại diện nhà vua ở quận, với Vua Anh về quyền bổ nhiệm ở Ireland:
Tôi tin rằng đối với một bộ trưởng chuyên quyền nhất từng lãnh đạo đất nước cũng chưa bao giờ cảm thấy ông ta có quyền loại bỏ tất cả sự can thiệp cá nhân của Vua Anh trong việc bổ nhiệm các chức vụ. Tôi tin chắc đó không phải là chính sách mà bất kỳ bộ nào mong muốn; và ít nhất cũng không phải là chính sách của chính phủ hiện tại,… những hạn chế được nhìn thấy dễ dàng khi sự tiến cử của Vua Anh luôn là những nỗ lực ủng hộ cá nhân và khi ngài dùng quyền lực can thiệp một cách có hệ thống với bề tôi của mình.
Vua Anh không bao giờ can thiệp quá sâu vào Bộ của Pitt. Khi các vấn đề chính trị cần được bàn thảo, ngài thường chiều theo ý của Pitt, ngoại trừ với những người mà ngài đã có mối ác cảm sâu sắc, đặc biệt là với Fox và Buckingham − người mà ngài cho rằng đã trốn chạy hồi tháng 12/1783. Năm 1784, Vua Anh đồng ý bổ nhiệm con rể của Bá tước Gower làm cố vấn pháp luật của chính phủ để thiết lập mối quan hệ với Gower, mặc dù ngài nghĩ vị trí này sẽ phù hợp hơn với Scott, người được Thurlow bảo trợ. Tuy nhiên, năm 1799, khi bổ nhiệm Scott làm Chủ tịch Pháp viện, Vua Anh đã rút ra một điều là không nên từ chối yêu cầu của Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow. Vua Anh chiều theo mong muốn của Pitt là thuyết phục Loughborough trở về từ hàng ngũ phe Chống đối năm 1792, nhưng vị trí Chủ tịch Viện Quý tộc lại được lựa chọn theo ý muốn cá nhân của ngài. George III từng chiều theo các khanh tướng để củng cố North trong cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ, và bây giờ ngài thực hiện điều đó rộng rãi hơn để củng cố Pitt, đồng thời cảm thấy thỏa mãn khi bổ nhiệm một số nhân vật theo ý muốn – Carleton năm 1786, Joseph Yorke năm 1789, Edgcumbe năm 1790 và John Rushout, người mà Pitt đã quên lời hứa và được ngài lưu ý, năm 1797. Năm 1790, Vua Anh phải
miễn cưỡng chấp nhận danh sách bổ nhiệm nhiều chưa từng có, mặc dù ngài lo ngại Viện Quý tộc sẽ trở nên quá đông và gây rất nhiều phiền phức (nó sẽ đe dọa đến sự cai quản các khanh tướng của Viện Quý tộc), đồng thời ngài không chấp nhận ban địa vị Công tước cho bất cứ ai, trừ các thái tử.
Nhà thờ, nơi mà luật lệ và lực lượng vũ trang của Vua Anh mạnh hơn, là nơi ngài thể hiện các dấu hiệu đầu cơ chính trị của mình đặc biệt thận trọng. George III đã rất lo lắng bởi Pitt chuyển hướng vận động sang trường Đại học Cambridge khi ông tranh cử một ghế trong Nghị viện năm 1784 và nhận thấy rằng vị Bộ trưởng của mình sẽ phải chịu áp lực từ phía các đại biểu tăng lữ trong Nghị viện về quyền bổ nhiệm giám mục. Chính Pitt cũng sớm tiêu tan hy vọng khi nói: “Sự đề bạt trong giáo hội là tai họa lớn nhất mà tôi phải chịu”. Đối với Pitt (và cả những người tiền nhiệm), sự đề bạt đó phải thỏa mãn cả yêu cầu của những người ủng hộ và nhu cầu thiết thực của các giáo hội. Người ta thường trình lên Vua Anh tên tuổi của các nhà bảo trợ chứ không phải ưu điểm của người được bảo trợ.
Trong khi đó, năm 1797, Vua Anh đã nói với Pitt: “Ta thiết nghĩ quyền bổ nhiệm giám mục và thẩm phán là một sự tín nhiệm cao nhất, do vậy cần quan tâm đặc biệt tới việc bổ nhiệm giám mục trong tôn giáo cũng như thẩm phán trong lĩnh vực tư pháp”. Vua Anh đã gạt bỏ quyền bổ nhiệm của Pitt đối với các giáo hội khi ngài thực hiện những cam kết ban đầu, trong đó nêu rõ Vua Anh sẽ là người thẩm tra phẩm chất của Tổng Giám mục và nghiên cứu chức Giám mục của Chichester do Richmond tiến cử, và đôi khi ngài chỉ đạo Pitt nên chọn ai − chẳng hạn Hiệu trưởng trường Đại học Cambridge làm Giám mục Hereford, “một người đáng kính” với danh tiếng là Trưởng tu viện Windsor (Vua Anh gợi ý, Pitt chấp nhận chức Giám mục Carlisle). Pitt muốn bổ nhiệm chức giám mục cho William Paley, người có những bài viết được nhiều người mến mộ, nhưng Vua Anh cho rằng “triết lý đạo đức” của Paley quá tự do và ngài đã không đồng ý. Đối với việc bổ nhiệm trong quân đội, Vua Anh còn kiên quyết hơn. Pitt chỉ can thiệp để tránh những đòn tấn công chính trị khi Vua Anh lật đổ những người dưới quyền, ví như khi Vua Anh thăng chức cho quan hầu của mình để chống lại cháu của Buckingham giai đoạn những năm 1788 1789 (trong vụ này, sự kiên trì của Pitt cuối cùng đã tạo cơ hội thuận lợi cho người này, nhưng không lâu sau Buckingham bị mất chức quan đại diện nhà vua ở Ireland); hoặc khi Dundas quá hăng hái thành lập tiểu đoàn bộ binh số 52 mà không có lực lượng dân quân Staffordshire năm 1799, Vua Anh nhất quyết yêu cầu phải giải tán ngay tiểu đoàn này, kết quả là Gower phải xin thôi chức Quan đại diện nhà vua ở quận và suýt nữa chính Dundas cũng phải từ chức.
Để tránh xung đột, Pitt thường nhất trí với Vua Anh khi bổ nhiệm các vị trí trong quân đội. Tuy nhiên, giữa Vua Anh và Pitt thường xuyên có những cuộc giành giật gay cấn các vị trí ngồi mát ăn bát vàng, quyền cao chức trọng và cả trong Giáo hội. Ngay khi có tin khuyết một vị trí nào đó, mỗi người đều nhanh chóng đề xuất ngay tên một người mà họ đã có sẵn trong đầu để ngăn chặn người kia đưa ra bất kỳ lời hứa nào với những người khác cũng như tránh một dòng người đang chờ vào vị trí đó. Trong khi đó, sự trung thành của Pitt đối với dòng họ trước kỳ vọng của người anh họ Buckingham cũng khiến Hoàng gia mất hết kiên nhẫn. Điển hình nhất là năm 1794, Pitt đã lặp lại sơ suất như người bác từng làm khiến Vua Anh bị xúc phạm. Vua Anh muốn trao cấp tước Ga-tơ cho Howe, đô đốc yêu quý của ngài, vì chiến thắng của lực lượng Hải quân trong “Ngày 1/6 Huy hoàng”4, nhưng Pitt cương quyết cho rằng cấp tước đó phải được trao cho Portland vì ông này đã dàn xếp thành công liên minh với một bộ phận phe Chống đối. Vua Anh phản đối, nhưng Pitt nhấn mạnh Howe có thể chấp nhận một sự đề bạt khác trong hàng ngũ quý tộc.
Pitt đã khiến Howe phải từ bỏ cấp tước Ga-tơ để nhường cho Portland (Howe từ chối địa vị tước hầu ngay sau khi Portland được đề bạt). Ngay cả trong trường hợp này, Pitt vẫn giữ được thể diện cho Vua Anh và cuối cùng, năm 1797, Howe cũng được nhận cấp tước Ga tơ. Pitt nhận thức rõ ràng rằng ông không thể làm Vua Anh mất mặt trước dân chúng, ông cũng biết khi nào cần lấn tới, khi nào cần rút lui để duy trì mối quan hệ hòa hợp với ngài.
NHỮNG SỰ VỤ TRONG NỘI BỘ HOÀNG GIA
Cuối cùng, vấn đề tế nhị nhất mà Pitt phải giải quyết là những sự vụ trong nội bộ Hoàng gia. Ở thời điểm mà những chi phí của chính quyền dân sự và quy mô của Hoàng gia không ngừng tăng khiến khoản tiền Nghị viện cấp cho Vua Anh không đủ, Pitt phải làm hài lòng cả Vua Anh − người cần ông trang trải các khoản nợ, và cả những người không theo đảng phái ở Nghị viện − những người luôn kêu ca về sự hoang phí của Hoàng gia. Hơn nữa, thành viên vô độ nhất của Hoàng gia lại là Thái tử Wales, người từng từ bỏ Vua Anh để đứng về phe Fox. Pitt cần phải lôi kéo Thái tử, bởi các vị trí trong Hoàng gia và những lời hứa bổ nhiệm khi Thái tử trở thành vua sẽ là sự ủng hộ hữu ích và là công cụ đối với phe đối lập, đồng thời là tác nhân làm giảm quyền lực Bộ trưởng của một vị vua sinh năm 1738.
Nhiệm vụ đầu tiên của Pitt là thiết lập lại tài chính của Vua Anh bằng cách trang trải hết các khoản nợ mà ngài còn khất trong khoản tiền Nghị viện
cấp. Pitt đã làm được điều đó nhờ khoản tiền trợ cấp của Nghị viện là 60.000 bảng năm 1784 và 210.000 bảng năm 1786, mặc dù Vua Anh phẫn nộ trước đề nghị của Pitt là ngài phải công khai các khoản chi tiêu của Hoàng gia trong tương lai để được Viện Bình dân thông qua các khoản đã chi trước đó. Tuy nhiên, năm 1785, do Thái tử Wales từ chối lời gợi ý rằng tất cả các khoản nợ của Thái tử sẽ được trả dễ dàng nếu Thái tử từ bỏ phe đối lập, cộng thêm việc Vua Anh từ chối sự hỗ trợ và không tuyên bố nguyên nhân của những khoản nợ, ngài cũng không cam kết tích cực thanh toán nợ và không mắc nợ thêm nữa nên nợ nần của Thái tử tiếp tục tăng, đến năm 1787 đã lên tới 370.000 bảng. Vấn đề này cần được giải quyết để tránh dẫn đến việc mọi người đánh mất niềm tin vào chế độ quân chủ. Sử dụng Henry Dundas để bắt đầu các cuộc thương lượng đầu tiên với Thái tử (cả Dundas và Thái tử đều là hội viên Hội Tam điểm5), Pitt dàn xếp: cấp số tiền để hoàn thành cung điện mới của Thái tử ở Carlton House trong một lần và cấp thêm 10.000 bảng mỗi năm từ khoản tiền Viện Quý tộc cấp cho vua Anh để Thái tử thiết lập một “quỹ chìm” ngoài thu nhập của mình nhằm trang trải các khoản nợ. Đây thật sự là cơn ác mộng chính trị đối với Pitt, bởi ông phải đảm bảo sự nhất trí của cả Vua Anh và Thái tử − những người vốn đã không mấy hòa hợp cũng như của Viện Bình dân − vốn đã thù địch với Vua Anh. Do đó, Pitt cần phải hết sức kiềm chế và phát huy tối đa khả năng của mình để tránh bàn về cuộc hôn nhân vụng trộm của Thái tử với người đàn bà góa tên là Fitzherbert, trái với Đạo luật Hòa giải và Đạo luật Hôn nhân của Hoàng gia. Trước việc Pitt đàm phán thành công vụ việc này và kiềm chế được tính xa hoa của Thái tử, Vua Anh đã phải thốt lên: “Pitt khiến ta không có ấn tượng nào khác ngoài sự đồng ý”.
Tuy nhiên, Pitt đã không lôi kéo được Thái tử, điểm yếu của Pitt càng bộc lộ rõ ràng vào mùa thu năm 1788 khi Vua Anh mắc chứng bệnh rối loạn chuyển hóa porphirin di truyền. Triệu chứng dễ thấy nhất của căn bệnh này là người bệnh nói liên thiên, mê sảng khiến người ta lầm tưởng là bệnh điên. Một chế độ nhiếp chính có thể lại bắt đầu. Nếu trở thành quan nhiếp chính, chắc chắn Thái tử Wales sẽ loại Pitt để ủng hộ những người thuộc phe đối lập. Chỗ dựa của Pitt là Vua Anh không còn vững chắc nữa. Trong cuộc chiến vì sự nghiệp chính trị của mình, Pitt đã được bảo toàn nhờ bốn yếu tố. Thứ nhất, Nghị viện căm ghét sự xa hoa lãng phí và phẩm chất không xứng đáng của Thái tử. Thứ hai, bác sĩ Willis đã đem lại cho Pitt một chẩn đoán may mắn: bệnh của Vua Anh có thể được chữa khỏi. Thứ ba, Pitt hội tụ khả năng của một nghị sĩ dày dạn trong việc khai thác những yếu tố trên để kéo dài thời gian và thiết lập được những giới hạn đối với một chế độ nhiếp chính. Cuối cùng, thể tạng sức khỏe của Vua Anh đủ mạnh để vượt qua được kiểu chữa trị sai lầm đối với một căn bệnh cũng bị chẩn đoán nhầm, ngài có
thể cùng Pitt giữ vững được chức vị trong tháng 2/1789.
Tuy nhiên, việc khắc phục thành công cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính vẫn đẩy Pitt vào thế phải đối mặt với những vấn đề tài chính cơ bản của Hoàng gia. Khoản tiền Nghị viện cấp cho Vua Anh không đủ vì chính phủ ngày càng gia tăng các khoản chi phí và Thái tử không thể kiềm chế nổi sự trác táng của mình. Giờ lại nảy sinh những vấn đề phức tạp hơn: thứ nhất, Nghị viện đã cấp thêm tiền, không dễ dàng gì thuyết phục họ cấp thêm nữa; thứ hai, những năm 1790 là thời điểm tiến hành cuộc cách mạng ngoài nước và yêu cầu cải cách triệt để và đánh thuế chiến tranh cao đang được thực hiện trong nước. Việc đề nghị cấp thêm tiền cho Hoàng gia có thể sẽ kích động những thành phần cấp tiến yêu cầu Nghị viện phải kiểm soát chặt chẽ hơn những khoản chi tiêu của Hoàng gia.
Tình trạng khó xử của Pitt bộc lộ rõ vào năm 1794 khi cuối cùng món nợ không ngừng tăng lên của Thái tử Wales đã buộc Thái tử phải hòa giải với Vua Anh bằng cách đồng ý kết hôn để duy trì dòng dõi Hoàng gia. Xét ở góc độ chính trị, đây có vẻ như là một chiến thắng đối với Pitt, nhưng sau đó Nghị viện đã để Pitt tự dàn xếp vấn đề tài chính cần thiết. Pitt phàn nàn rằng điều này có thể gây nguy hiểm cho quyền lực của ông ở Nghị viện, nơi mà “ông có thể bị mất niềm tin nếu đồng ý trang trải những món nợ” và đối với cả quyền lực Hoàng gia của ông, nơi mà “Thái tử sẽ tức giận nếu ông không đồng ý trang trải nợ nần cho Thái tử ngay”. Mùa thu năm 1795, khi Pitt thăm dò ý kiến ở Viện Bình dân, ông đã gặp phải sự phản đối và gần như thất bại, buộc phải giải quyết một khoản tiền ít hơn với những điều kiện nhất định, điều này khiến Vua Anh tức giận bởi ngài đã thất hứa với Thái tử.
Trong vòng một năm, Vua Anh tiếp tục phàn nàn nhiều hơn về việc lập Dự thảo Nghị viện chậm chạp, nghĩa là Thái tử không được những người cho vay bảo vệ như mong muốn; đồng thời Thái tử tan vỡ ảo tưởng, ly thân với vợ và một lần nữa lại từ bỏ Vua Anh và các vị bộ trưởng.
Để thoát khỏi những vấn đề phức tạp hơn, Pitt tránh đề nghị thanh toán các khoản nợ trong khoản tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh, do đó, ông phải mất một năm giải quyết những công việc còn dang dở. Năm 1798, Pitt đệ trình các bản kê khai tài chính về khoản tiền Nghị viện cấp cho Vua Anh trong ba năm trước để Tiểu ban Tài chính Viện Bình dân không can thiệp vào, điều này có thể ảnh hưởng đến việc Pitt ép Vua Anh phải đóng góp 1/3 quỹ riêng của ngài cho chiến tranh. Tương tự, để tránh phải chi thêm vào khoản tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh, Pitt đã dùng tiền trợ cấp chung của Nghị viện để trả cho các chi phí quản lý chiến tranh và bất ổn dân sự
phát sinh. Đến năm 1799, khoản tiền này đảm bảo cho những chi phí của chính phủ dân sự nhiều hơn là khoản tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh. Pitt cũng sắp xếp vị trí cho những đứa trẻ của Hoàng gia khi chúng đến tuổi. Do vậy, đến năm 1802, 4/5 số tiền trợ cấp cho những người này là trợ cấp trực tiếp của Nghị viện.
Không biết chủ tâm hay không, nhưng việc làm này đã giảm bớt sự lãng phí của Vua Anh bằng cách chi tiêu dần khoản tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh. Trong khi đó, Vua Anh cần phải độc lập về tài chính để quản lý chính phủ dân sự mà không có sự can thiệp của Nghị viện, tạo khả năng cho Nghị viện giành được quyền kiểm soát một phần đáng kể tài chính của chính phủ và tài chính của Hoàng gia mà trước đây ngài quản lý. Năm 1800, Vua Anh đã đề nghị một khoản thu nhập riêng để đảm bảo cho hoàng tộc khi ngài thừa nhận quyền sở hữu tài sản cá nhân của ngài khác với sở hữu tài sản của vua. Pitt chấp nhận Đạo luật Sở hữu tài sản cá nhân của Vua Anh, nhưng yêu cầu các khoản thu nhập cá nhân chung của vua đều phải chịu thuế như những thần dân khác. Pitt là vị bộ trưởng đầu tiên dám thu thuế của Vua Anh! Những nghi ngờ vốn ăn sâu trong dòng máu Chatham trước đó đã khiến ông kém thận trọng trong việc gìn giữ những đặc quyền đặc lợi và quyền lực của Vua Anh, ông tin tưởng chắc chắn việc Vua Anh trở thành tấm gương yêu nước trong cuộc chiến sẽ có vai trò rất quan trọng. Tuy vậy, những gì mà Pitt đạt được trong nền chính trị đã gia tăng thêm thanh thế và lòng mến mộ mà dân chúng dành cho Vua Anh và thiết lập lại công đức của ngài đến một chừng mực khiến vị Thủ tướng phải tiếc nuối sau năm 1801.
Bộ trưởng Pitt và Vua Anh đã thiết lập được mối quan hệ công việc đủ mạnh trong suốt 17 năm, nhưng mối quan hệ này chưa bao giờ là thân thiết. Họ chưa bao giờ phá bỏ sự đề phòng lẫn nhau, do vậy, mối quan hệ này luôn mang tính hình thức và xa cách, mặc dù năm 1798 Vua Anh đã ân cần nhắc nhở vị Thủ tướng đang đau ốm phải quan tâm chăm sóc sức khỏe. Lần duy nhất ngài gọi “Pitt yêu quý” là trong bức thư đáp lại đơn từ chức của Pitt năm 1801. Pitt cũng như cha mình, khi còn đương quyền luôn coi Vua Anh là một thể chế hơn là một con người. Cận thần Robert Greville tỏ ra rất ngạc nhiên là làm thế nào mà trong suốt cuộc khủng hoảng dưới chế độ nhiếp chính, Pitt lại có thể kiềm chế không hỏi các bác sĩ, Nữ hoàng cũng như những người chăm sóc Vua Anh về sức khỏe của ngài. Thực tế, Pitt thích giải quyết những vấn đề rắc rối với Vua Anh thông qua thư từ, và Vua Anh cũng thấy việc ngài thể hiện những quan điểm mạnh mẽ của mình thông qua các bản ghi nhớ chung gửi Bộ trưởng Pitt là tốt hơn. Không thể khẳng định là có một tình cảm thật sự giữa họ. Năm 1797, Westmorland, một người bạn lâu năm của Pitt và là viên chức trong Hoàng gia, tuyên bố rằng ông không
dám chắc Pitt có thể gặp Vua Anh để tâm sự riêng được mười lần. Pitt không có cùng mối quan tâm về nghệ thuật và nông nghiệp với Vua Anh.
Là một người độc thân, Pitt không có một gia đình để Vua Anh có thể thể hiện sự quan tâm như ngài đã làm với North và với người kế nhiệm Pitt là Addington. Pitt cũng không thẳng thắn tâm sự để có được tình bằng hữu với Vua Anh. Năm 1804, trong một so sánh hầu như không úp mở giữa Addington và Pitt, Vua Anh đã nói với Pitt rằng ngài chỉ coi trọng những người coi ngài là một người bình thường chứ không phải là một vị vua hay vì một lợi ích nào đó mà không hề có tình bằng hữu. Khi mối quan hệ công việc này bắt đầu đổ vỡ vào năm 1800 và đầu năm 1801, họ vẫn giữ thái độ tôn trọng nhau nhưng không hề có chút tình cảm nào.
CHƯƠNG 3. Thủ tướng Pitt
MỘT BỘ TRƯỞNG CÓ THẾ LỰC TRONG NỘI CÁC LIÊN MINH
Năm 1803, trong một tuyên bố được coi như định nghĩa đầu tiên về cương vị Thủ tướng, Pitt khẳng định:
Hiện nay, điều hết sức cần thiết trong việc quản lý các vấn đề của đất nước là cần có một bộ trưởng thật sự, được công khai thừa nhận, có quyền lực trong Nội các và chiếm được niềm tin của Vua Anh. Đảm bảo được điều đó thì có thể sẽ không có sự cạnh tranh và phân chia quyền lực. Quyền lực phải tập trung vào Bộ trưởng thứ nhất1và vị bộ trưởng đó phải là người nắm quyền về tài chính… Nếu không may có một quan điểm khác biệt hoàn toàn, mà không thể nhượng bộ hoặc hòa giải, thì phải tôn trọng ý kiến của vị bộ trưởng đó để các thành viên khác của chính phủ hành động thống nhất.
Trong bốn sự kiện của tháng 2/1784, tháng 3/1791, tháng 8/1792 và tháng 3/1803 (thời điểm lời tuyên bố ở trên đưa ra), Pitt đều từ chối những gợi ý ông phụng sự ngang hàng với đối thủ, dưới danh nghĩa một thủ tướng bù nhìn. Năm 1804, Bá tước Richmond viết: “Tôi sợ tham vọng của ông sẽ không bao giờ cho phép ông tham gia ngang hàng và đặt mình ngang hàng với bất kỳ ai. Ông hoặc trở thành Hoàng đế hoặc là vô danh tiểu tốt”. Pitt phải nỗ lực tìm kiếm một vị trí xuất sắc, bởi vị trí đó không dễ dàng được chấp nhận.
Nhiều người coi Bộ trong những năm 1783-1801 là một bộ hợp nhất. Vua Anh đã mời Richmond, Gower, Thurlow và Pitt thành lập nên bộ này. Một đặc phái viên có kinh nghiệm tin rằng Pitt, Thurlow và Shelburne sẽ chi phối những vấn đề trong nước (gồm cả Shelburne vì Pitt từng là học trò của Shelburne và có hai bộ trưởng theo phe Shelburne). Shelburne nhanh chóng bị loại khỏi danh sách những người có ảnh hưởng đến các vấn đề của dân tộc và nhận địa vị tước hầu, còn Pitt lại gặp nhiều khó khăn hơn trong việc khẳng định uy quyền tối cao của mình tại Nội các. Ít nhất trong hai trường hợp gần đây, các đồng sự đã thắng phiếu trong những vấn đề mà ông rất tâm
huyết: vấn đề cải tổ Nghị viện vào tháng 3/1784 và những đề xuất về Ireland của ông tháng 7/1785.
Trong khi những đối thủ của Liên minh Fox-North nhận thấy họ không thể thành lập chính phủ nếu thiếu Pitt thì vẫn chưa có một sự xác định rõ ràng phạm vi quyền hạn của ông trước các đồng sự. Trên thực tế, khi Thurlow giữ chức Chủ tịch Viện Quý tộc, Pitt vẫn là một Bộ trưởng có thế lực chứ chưa hẳn là Thủ tướng, bởi Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow được Vua Anh tin tưởng tuyệt đối. Bá tước Richmond cho rằng Vua Anh thiên vị Thurlow “nhiều và có tính quyết định” đến nỗi “không một bộ nào mà bộ trưởng không cùng phe với Thurlow lại có thể chiếm được niềm tin của Vua Anh”, và những người ủng hộ Pitt sợ rằng nếu Thurlow “có thể hành động mà không cần Pitt thì ông ta cũng không ngần ngại gì mà không bán rẻ Pitt”. Ngay cả Grenville, đồng minh của Pitt, cũng phải thừa nhận Thurlow uyên thâm, sắc sảo, có tài chỉ huy và có vốn kiến thức sâu rộng được thể hiện qua tài hùng biện sôi nổi và gây ấn tượng mạnh mẽ. Wraxall và đặc phái viên vùng Sardinian xác nhận ưu thế vượt trội của Thurlow trước Viện Quý tộc. Năm 1789, Vua Anh mong muốn Thurlow và Pitt hòa thuận bởi “cả hai người đều cần thiết đối với ngài, một người cần ở Viện Quý tộc, còn một người ở Viện Bình dân”.
Thurlow cũng có một số thành kiến giống Vua Anh đối với việc cải tổ mà Pitt đưa ra. Giữa Thurlow và Pitt có những điểm đối nghịch nhau: Pitt thận trọng và lạnh lùng trong phần lớn các mối quan hệ cá nhân nhưng sôi nổi, nhiệt tình và kiên trì xúc tiến công việc vốn đã chiếm hết tâm huyết của ông, trong khi đó, Thurlow cởi mở, nhạy cảm khi tiếp xúc với mọi người nhưng lại chậm chạp và khó khăn trong công việc. Pitt và bạn bè của ông đồng ý với North rằng “trong Nội các, Thurlow không phản đối, không đề nghị và không quyết định điều gì”. Thậm chí Vua Anh đã phản ứng trước những lời phàn nàn của Pitt rằng “vị Chủ tịch Nghị viện đó (Thurlow) khá nổi tiếng vì thích trì hoãn”. Thay vì xử sự khoan dung với Thurlow như lời thuyết phục của Vua Anh, Pitt đã bỏ qua Thurlow mỗi khi có thể trong những vấn đề liên quan công việc, khiến vị Chủ tịch Nghị viện phải phàn nàn rằng ông ít được tham khảo ý kiến. Lỗi là ở cả hai người. Nếu Pitt coi thường sự chậm trễ và phớt lờ những quan điểm phản đối cải tổ của Thurlow thì Thurlow lại có thái độ khinh thị cải tổ mà vị Thủ tướng tự cho mình là “liêm chính” dung thứ cho sự lợi dụng chức vụ của các cố vấn riêng, thậm chí còn hợp pháp hóa một số điều về quyền bổ nhiệm và quyết định cấp lương hưu. Sau một thời gian hợp tác, mối quan hệ giữa hai người ngày càng tồi tệ và trở thành thù địch từ năm 1788.
Pitt có thể hy vọng sự ủng hộ hiếm hoi từ những người còn lại trong Nội các để chống lại vị Chủ tịch Viện Quý tộc uy quyền và gây nhiều trở ngại như Thurlow. Bộ trưởng Hải quân Howe thì coi vị trí của mình hoàn toàn là vì công việc và tránh đưa ra các quan điểm chính trị. Khi Howe từ chức vào năm 1788, Grenville khẳng định rằng Bộ của Howe chưa bao giờ liên kết với các bộ khác trong chính quyền “dù ở cấp độ nhỏ nhất”. Bá tước Gower, Chủ tịch Viện Cơ mật, lại là bạn cũ của Thurlow. Các quan chức hành pháp quan trọng của chính phủ, hai ngoại trưởng là Sydney và Carmarthen cũng được Grenville miêu tả là “không đảm đương được nhiệm vụ bình thường nhất ở cương vị của họ”. Mặc dù họ là những kẻ tình nguyện bất đắc dĩ vào tháng 12/1783, nhưng Pitt vẫn cảm thấy phải chịu ơn họ vì họ đã kìm nén những quan điểm bất đồng với Pitt. Sydney cũng có cùng tư tưởng thù địch như Thurlow đối với việc cải tổ Nghị viện và bãi bỏ buôn bán nô lệ, nhưng là cha vợ của anh trai Pitt, Sydney phải thận trọng trong cách cư xử. Pitt đặc biệt thất vọng đối với Bá tước Richmond, một nhà quản lý năng lực và có kinh nghiệm cả về quân sự lẫn ngoại giao. Sau khi Rutland đến Ireland vào tháng 3/1784, Richmond là thành viên duy nhất trong Nội các nhất trí hoàn toàn những quan điểm cải tổ của Pitt. Trong năm năm đầu tiên của Bộ, Pitt thân với Richmond hơn bất kỳ thành viên nào trong Nội các. Ông thường xuyên hỏi ý kiến Richmond. Nhưng thật đáng tiếc, Richmond lại tự bộc lộ mình là người không đáng tin cậy. Grenville cho rằng ý kiến của Richmond “đồng bóng và hão huyền, thường dao động với những ấn tượng nhất thời”, thể hiện bộc trực.
Do vậy, Pitt phải sớm thực hiện mọi nỗ lực để kiến tạo một chính quyền mới có hiệu lực hơn, một chính quyền hy vọng dựa vào những người theo Đảng Whig nhiều hơn nhằm đối phó với sự ảnh hưởng quá mức của Hoàng gia, đồng thời quan tâm chặt chẽ tới tài nguyên đất, một yếu tố rất quan trọng giúp dân chúng chấp nhận một Nội các của thế kỷ XVIII. Pitt đã không thành công khi thuyết phục Richmond thay Sydney làm Bộ trưởng Nội vụ, sau này Richmond chuyển sang làm Bộ trưởng Không bộ cao cấp (vị trí mà Rutland đã xin thôi). Sau đó, Pitt cố lôi kéo Grafton vào Nội các thay vị trí của Sydney, và khi Grafton từ chối Bộ Nội vụ, Pitt đã cố gắng chuyển ông sang Bộ Ngoại giao, nhưng lại thấy Carmarthen không muốn rời chức vị khi mà những sáng kiến về chính sách ngoại giao của ông ta chưa được thực hiện. Thành công duy nhất của Pitt là đưa Chủ tịch Viện Quý tộc dưới thời cha ông, ngài Camden, lên làm Viện trưởng Viện Cơ mật vào cuối năm 1784, Gower chuyển sang làm Bộ trưởng không bộ cao cấp (Camden đã được phong Bá tước, còn Gower được đưa phong làm Hầu tước Stafford năm 1786). Không thể phủ nhận Camden là một người theo Đảng Whig và là người bạn trung thành của gia đình Chatham, nhưng tuổi tác và sức khỏe ốm
yếu đã ảnh hưởng đến uy tín của ông cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông đối với Pitt.
Do vậy, Pitt đành phải giữ nguyên một Nội các yếu kém và thiếu quyết đoán. Năm 1784, Richmond than vãn: “Nội các luôn thiếu thông tin đáng tin cậy, và… ở một số ban ngành, hành động còn lề mề”. Năm 1785, từ Ireland, Rutland đã viết thư bày tỏ tán thành quan điểm với Richmond: “Tôi đã làm việc trong Nội các của anh một thời gian đủ để quen với sự cãi lộn và cố chấp từ một vài đồng sự của anh” − điều này thường được nói đến sau các cuộc họp Nội các, nơi “có quá nhiều cãi lộn và những điểm bất đồng không có hồi kết về những chuyện lặt vặt, không có vấn đề gì được quyết định trước khi mọi người có mặt ở Nghị viện”. Bản tường trình khá quan trọng về cuộc họp Nội các bàn về chính sách ngoại giao được tổ chức vào tháng 5/1787 cho thấy Pitt còn lâu mới có thể chiếm ưu thế hơn. Trên thực tế, Thurlow và Richmond là những người trình bày chính. Trong những năm đầu tiên này, chính phủ là sự thống nhất của các bộ ngành độc lập.
Giữa những năm 1780, Pitt đã phải vật lộn trong Viện Bình dân một vài lần nhằm bảo vệ phương sách của các bộ trưởng khác về những vấn đề mà ông không thể kiểm soát. Về Dự luật Cảnh sát London năm 1785 của Bộ Nội vụ, một dự luật vốn gây nhiều tranh cãi, “ông tuyên bố không hiểu sâu sắc về vấn đề này, do vậy không thể phán xét là điều khoản được đưa ra sẽ áp dụng tới mức nào”. Chương trình củng cố các căn cứ hải quân của Richmond gây nhiều tranh cãi năm 1786, sự đề bạt trong lực lượng hải quân của Howe năm 1787 là một số trường hợp khiến Pitt khó xử. Những điều này cũng bộc lộ sự thối nát ở các bộ ngành: Bộ Hải quân phản đối chương trình củng cố các căn cứ và Howe cho phép các thành viên của Bộ này cùng người thân của họ bỏ phiếu phản đối dự án của Richmond; để trả đũa, ngay sau đó các thành viên của Bộ Quân nhu bỏ phiếu chống lại sự điều chỉnh trong Bộ Hải quân, đồng thời phản đối việc đề bạt chức vụ của Howe.
Tháng 10/1785, một cựu Bộ trưởng Tài chính than vãn rằng ông có ấn tượng ngày càng mạnh mẽ về việc “Pitt muốn được ủng hộ và trợ giúp, và nhiều vị trí quan trọng của chính phủ không được bổ nhiệm cho những người vì công việc, chu đáo hoặc có khả năng tương xứng với vị trí đó”. Hơn nữa, việc Pitt xử trí thiếu tự tin trước những người nằm ngoài danh sách bạn bè thân thiết đã cản trở cơ hội chiến thắng của ông. Sau này Carmarthen nhớ lại:
Pitt thường có cách xử sự khiếm nhã khác thường, mặc dù mong muốn
thể hiện phép lịch sự và sự quan tâm, nhưng ông thường thể hiện với sự vụng về ngay thật…
Những nỗ lực cải tổ của Pitt càng làm tăng bất đồng trong Nội các. Khi Thurlow và Sydney ngăn chặn Dự luật Cải tổ bầu cử ở các hạt tại Viện Quý tộc năm 1785, Pitt gây áp lực buộc Sydney phải cho phép thông qua dự luật này vào năm sau trong khi Chủ tịch Viện Quý tộc vắng mặt vì bị ốm, việc làm này đã khiêu khích sự bất bình cũng như tức giận trong một số người. Năm 1786, Pitt tham gia phe đối lập để lên án Warren Hastings, cựu Thống đốc bang Ấn Độ, một người chuyên quyền nhưng có năng lực, từng ủng hộ Thurlow (và cả Vua Anh). Năm 1788, khi Thurlow và Sydney cản trở dự luật của Dolben nhằm cải thiện các điều kiện của việc buôn bán nô lệ, Pitt đã rút ngắn chuyến thăm Cambridge và vội vã trở về London, ông xác định nếu bị Viện Quý tộc phản đối, từ Viện Bình dân, một lần nữa ông sẽ gửi dự luật này lên Viện Quý tộc. Ông nói với Grenville: “Nếu vẫn thất bại, những người phản đối dự luật và tôi sẽ không thể tiếp tục cùng là thành viên của một chính phủ, và tôi có ý định tuyên bố rõ ràng tại Nội các trước khi cuộc họp Nội các bắt đầu vào ngày mai”. Các đồng sự của Pitt lại một lần nữa từ chối bản dự thảo luật, nhưng họ bực tức thoái lui khi Pitt tiếp tục gửi từ Viện Bình dân bản dự thảo đã được chỉnh sửa.
THOÁT KHỎI SỰ KIỀM CHẾ CỦA NỘI CÁC
Để giải quyết những vấn đề cơ bản trong Nội các, Pitt đã hướng sang một nhóm nhỏ gồm người thân và các chuyên gia để tham khảo ý kiến và xin tư vấn. Khả năng của những người này, thông tin và điều kiện xúc tiến công việc mà họ cung cấp cho Pitt chắc chắn sẽ củng cố vị trí của ông. Tuy nhiên, nó cũng làm tăng thêm những khó khăn trong Nội các, bởi các bộ trưởng phẫn nộ và cảm thấy họ nằm ngoài “vòng bí mật”, và bởi Pitt và những cố vấn của ông bắt đầu can thiệp vào lĩnh vực mà họ đảm trách.
Thành viên đầu tiên của vòng nội bộ này là Henry Dundas. Những kỹ năng chính trị của Dundas trong Viện Bình dân rất cần thiết đối với Pitt, người mà Dundas luôn ủng hộ trong các cuộc thảo luận. Trong suốt các phiên họp Nghị viện, Dundas là người duy nhất hàng ngày có thể gặp Pitt. Dundas đã nhanh chóng chiếm được niềm tin của Pitt bằng chính khả năng và kinh nghiệm làm việc của mình. Một người bạn Scotland, ngài John Sinclair, đã viết về Dundas như sau: “Tôi chưa bao giờ gặp một người nào có thể thực hiện một khối lượng công việc lớn trong một thời gian ngắn hoặc sự phán xét của người đó lại có tính quyết định trong những trường hợp đặc
biệt khẩn cấp như Dundas”. Thậm chí người bạn khó tính của Pitt, Wilberforce, cũng phải thừa nhận Dundas là “một con người tuyệt vời của công việc… Sự cần cù của anh ta làm tôi cảm thấy xấu hổ!”
Mối quan tâm đặc biệt của Dundas về Ấn Độ đã sớm giúp ông có tầm ảnh hưởng lớn đối với Ban Kiểm soát Ấn Độ mới, mà nhà lãnh đạo trên danh nghĩa của ban này muốn trao lại quyền quản lý cho Dundas. Dundas không chỉ giúp ích cho Pitt trong việc giải quyết các vấn đề ở Viện Bình dân, các vấn đề về Scotland và Ấn Độ, mà nếu có một việc không mấy hay ho buộc phải làm, Dundas cũng không nề hà. Ông là “dấu ấn” chính trị của Pitt. Pitt dường như bị những khả năng tiềm tàng của con người tham công tiếc việc và hiểu biết rộng rãi này cuốn hút. Cả Pitt và Dundas đều nghiện rượu, cùng yêu thích vùng thôn quê và họ thường tận hưởng thú vui này ở biệt thự Wimbledon của Dundas. Chẳng bao lâu, các bộ trưởng đều thể hiện sự ghen ghét đối với sức ảnh hưởng của Dundas. Tháng 11/1784, trong chuyến thăm London, Bộ trưởng Ireland phát hiện ra “những dấu vết của lòng ghen tỵ liên quan tới Dundas, người luôn bị cho là đã chiếm cảm tình của Bộ trưởng Pitt và tùy ý chỉ đạo ông”. Thậm chí năm 1789, một người trung thành như Camden cũng phàn nàn là Pitt đã bị ảnh hưởng quá mức từ Dundas. Bá tước Bute, Bộ trưởng Scotland, cũng nhận định rằng việc nâng cao phẩm giá của Dundas là một vấn đề nhạy cảm, đặc biệt khi ông đã lợi dụng tầm ảnh hưởng của mình để thăng chức cho một người bạn người Scotland, và một số người cảm thấy Dundas không đủ địa vị xã hội để đứng vào hàng ngũ Nội các. Mối liên kết thân mật giữa Dundas và Pitt càng thể hiện rõ nét khi Pitt bổ nhiệm Dundas làm Bộ trưởng Nội vụ tháng 6/1791. Đấu tranh để Dundas phụ trách chỉ đạo cuộc chiến tranh năm 1794, Pitt nhấn mạnh: “Đó là nhờ khả năng giải quyết công việc trôi chảy của Dundas, và tất cả mọi hành động của Dundas đều hợp ý tôi”.
Charles Jenkinson là “con người của công việc” thứ hai của Pitt, một người mà đáng ra Pitt phải tránh, bởi Jenkinson có tiếng là một cận thần tinh quái của Vua Anh, người đã phục vụ hầu như trong tất cả các bộ kể từ năm 1762. Tuy nhiên, vị Thủ tướng trẻ Pitt sớm nhận thấy mình cần sự tinh thông của Jenkinson trong vấn đề thương mại và tài chính. Được bổ nhiệm vào Ủy ban Thương mại năm 1784, Jenkinson đã gây được ảnh hưởng lớn và có những đóng góp quan trọng đối với các đề xuất thương mại ở Ireland của Pitt cũng như những đàm phán thương mại với Pháp và một số nước khác. Tháng 7/1786, Jenkinson tự cho mình là người “chiếm được phần lớn niềm tin của Pitt, bởi ngài Pitt mang tất cả các vấn đề có thể tới Hội đồng Ủy ban và họp mỗi tuần hai lần dưới sự chủ trì của tôi”. Pitt đã bổ nhiệm Jenkinson làm Chủ tịch Ủy ban Thương mại năm 1786, phong cho ông là Huân tước
Hawkesbury và địa vị ngồi mát ăn bát vàng là Đại pháp quan, Công tước xứ Lancaster. Pitt đã giải thích với mẹ: “Con nghĩ điều này có vẻ có gì đấy không bình thường trong thời điểm hiện nay và liên quan tới quan điểm của những người đi trước, nhưng anh ta đã đạt được tước vị đó chính đáng và giành được nó trong quyền kiểm soát của con”. Tuy nhiên, giữa họ chỉ có mối quan hệ công việc, bởi Hawkesbury − một kẻ quan liêu đến lạnh lùng, không bao giờ trở thành người nằm trong nhóm thành viên thân mật của Pitt.
Mặc dù ông ta không còn hoạt động như một cố vấn và một người cung cấp tin tức cho Vua Anh, Pitt vẫn hết sức cảnh giác. Năm 1789, Hawkesbury phàn nàn: “Ngài Pitt vẫn tiếp tục đắc thắng và không chia sẻ với Công tước Leeds (Carmarthen) hoặc tôi hay bất cứ ai có quan hệ với tôi”. Mãi đến năm 1791, Pitt mới để Hawkesbury ngồi vào ghế Nội các, phong cho ông chức Bá tước Liverpool năm 1796, nhưng Pitt vẫn rất thận trọng, ông bổ nhiệm những người thân với mình (Grenville, sau đó là Ryder) làm Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại. Do vậy, thế lực của Liverpool gần như chỉ về thương mại, và những người nhiệt tình theo chính sách để mặc tư nhân kinh doanh như Grenville cũng thấy Liverpool như một cánh tay kiềm chế Thủ tướng. Ông chịu trách nhiệm đối với việc soạn lại Dự luật Hàng hải vào năm 1786, tăng cường bảo vệ cho các tàu thuyền của Anh, trong khi đó, trong suốt cuộc khủng hoảng lương thực năm 1800, Grenville phản đối ý kiến của Pitt về kiểm soát thị trường: “Sự thật là chúng ta đã hình thành những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề, tôi không tin nhiều vào tính đúng đắn của lý thuyết kinh tế chính trị của Adam Smith như anh cho đến khi Huân tước Liverpool quyến rũ được anh khỏi tay chúng tôi để vào mê cung của hệ thống cũ”.
Cuối năm 1783, Robinson đã mô tả những người tùy tùng của Pitt là “những cậu bé, những nhà lý thuyết và những người thành kiến”. Điều này cho thấy sự yếu kém của Pitt trên con đường tiến tới quyền lực. Kinh nghiệm trong công việc chưa nhiều, Pitt lại thiếu những cố vấn riêng có kinh nghiệm đáng tin cậy dẫn dắt và ủng hộ. Người anh họ Temple và anh rể Mahon của Pitt đã sớm bộc lộ sự không kiên định và thất thường, do vậy, ông buộc phải chuyển hướng sang những người như Dundas và Jenkinson đến từ Bộ của North cho tới khi những thành viên thân cận của Pitt có đủ kinh nghiệm và chứng minh được năng lực làm việc của họ. Người đầu tiên làm được điều đó, đạt được tầm ảnh hưởng mà chỉ Dundas mới sánh được, chính là anh trai của Temple, William Grenville. Mối quan hệ họ hàng đã giúp Grenville gia nhập đội ngũ những người nắm quyền năm 1784, nhưng ông chỉ được bổ nhiệm đến làm ở Ban Kiểm soát Ấn Độ và Ủy ban Thương mại. Pitt sớm nhận thấy giá trị của Grenville và giới thiệu ông với Rutland để làm Bộ
trưởng ở Ireland năm 1785, bởi “xét về tính cách và khuynh hướng thì Grenville có những điểm trái ngược với em trai mình, sự nhạy cảm và những thói quen trong công việc của ông ta rất phù hợp với vị trí đó”. Tuy nhiên, Pitt nhanh chóng nhận thấy ông có thể dùng những khả năng của người anh họ, bổ nhiệm Grenville làm Chủ tịch Ủy ban Viện Bình dân phụ trách việc kiểm tra tài chính công để chuẩn bị cho Quỹ chìm và làm việc bên cạnh ông để chỉ đạo các cuộc đàm phán thương mại với Pháp những năm 1785-1786.
Về sau, khi có công việc khó khăn cần phải thực hiện, Pitt hoàn toàn trông cậy vào Grenville. Pitt đã cử Grenville tới Hà Lan và Pháp với tư cách là đặc phái viên riêng của mình trong suốt cuộc khủng hoảng Hà Lan năm 1787, bổ nhiệm ông làm phát ngôn viên của Viện Bình dân khi người giữ chức vụ này bị chết trong thời gian Khủng hoảng chế độ nhiếp chính, cử ông lãnh đạo các nghị sĩ để chế ngự Thurlow năm 1790. Sự chuyên tâm của Grenville với công việc, sự thấu hiểu từng chi tiết và tính quyết đoán của ông là tài sản lớn đối với Pitt, mặc dù ngài Thủ tướng cũng nhận thấy đó là con dao hai lưỡi. Cũng giống như Pitt, Grenville say mê đọc các tác phẩm kinh điển, yêu phong cảnh miền quê và thích đọc thuyết kinh tế hiện đại (họ cùng đọc Adam Smith và được Dundas giới thiệu với nhiều người uy tín trong cộng đồng người Hinđu). Dundas và Grenville trở thành những người bạn và đồng sự thân cận nhất của Pitt. Mặc dù có những điểm khác nhau về vấn đề cải tổ Nghị viện và về Hastings, Grenville vẫn có cùng ác cảm sâu sắc như Pitt đối với việc buôn bán nô lệ. Nỗi kinh sợ của Buckingham về chi phí tái bầu cử ở các tỉnh của Pitt và mong muốn trấn an nhẹ nhàng Sydney của Pitt đã ngăn cản ông bổ nhiệm Grenville làm Bộ trưởng Nội vụ trước tháng 6/1789. Khi Grenville chuyển sang Bộ Ngoại giao năm 1791, một vị Thứ trưởng đã mô tả hai người như “hai người bạn… đến nỗi mối quan hệ của họ không thể tách rời được, giữa họ được gắn kết bởi tình cảm”, còn nhà ngoại giao Auckland ghi nhận “những gì được viết về Pitt cũng là những gì có thể viết về Grenville”.
Tiếp tục duy trì mối quan hệ liên minh bên ngoài Nội các mãi đến cuối những năm 1780, Dundas và Grenville trên thực tế là “những kẻ đâm thuê chém mướn” cho Pitt. Pitt đã mở rộng ảnh hưởng của mình sang các lĩnh vực quản lý ngoài Bộ Tài chính. Quyền bổ nhiệm ở Scotland và Ấn Độ cũng được chuyển từ Sydney sang Dundas. Việc kiểm soát của Bộ trưởng Nội vụ cũng bị Pitt qua mặt khi ông trao đổi thư từ trực tiếp với Quan đại diện nhà vua ở quận và là bạn của Pitt, ngài Rutland. Sau khi Rutland chết năm 1787, Grenville lại tiếp tục trao đổi thư từ với người kế nhiệm Rutland, ngài Buckingham. Năm 1786, Orde nhận thấy Sydney “ít được hỏi ý kiến và ít được coi trọng trong Bộ của ông ta, và tôi có lý do để tin tưởng Sydney rất
căm phẫn vì sự qua mặt này”.
Trong năm đó, cả Sydney và Carmarthen đều chờ xin thôi việc do cách đối xử lỗ mãng của Pitt, nhưng Bộ trưởng đầu tiên trong Nội các từ chức lại là Howe − sau khi Pitt thiết lập mối quan hệ hợp tác thân mật với Trưởng ban quản lý lực lượng Hải quân, Charles Middleton. Pitt ép Howe để Middleton thay vào vị trí của Howe, khác với tiền lệ, Middleton được bổ nhiệm làm đô đốc năm 1787. Howe giận sôi lên vì bị mất mặt trong lực lượng hải quân suốt gần một năm trước khi ra đi vào tháng 7/1788. Ngay sau đó, Pitt giành được cơ hội mở rộng quyền kiểm soát chính quyền bằng cách tiến cử anh trai mình là Bá tước Chatham với Vua Anh. Wilberforce đã nói: “Tôi cảm thấy sự sắp xếp này có thể gây ác cảm đối với một số người, nhưng tôi rất hài lòng vì những phản đối đó không đáng gì so với cái lợi là thiết lập được một sự phối hợp hoàn hảo với một bộ quan trọng và loại bỏ được sự hiện hữu của lợi ích cá nhân”.
Pitt mở rộng hơn nữa tầm ảnh hưởng của mình trong Nội các, khi một năm sau đó Grenville thay Sydney và hai năm sau, Dundas được bổ sung vào Nội các. Sự nắm giữ quyền lực này đã khiến các bộ trưởng nằm ngoài vòng thân mật của Pitt phẫn nộ. Richmond giận dữ khi việc trao cấp bậc quý tộc và quyền lãnh đạo Viện Quý tộc cho Grenville tháng 7/1790 lại không tham khảo ý kiến của ông, đồng thời cảnh báo: “Nước Anh sẽ không thỏa mãn đứng nhìn ngài (Pitt) để hai người anh của mình lãnh đạo lưỡng viện cũng như cách ngài điều hành đất nước”. Thật vô lý khi “những đồng sự của ngài trong Nội các không bao giờ biết trước việc gì cho tới khi nó đã được thực hiện xong, những việc mà trước đây những người có mối quan hệ chính trị cũng như bạn bè thường chú ý quan tâm thông báo trước với tôi”. Richmond còn lên án Pitt: “Khuynh hướng của ngài không mang lại hiệu quả gì, ngài quá thờ ơ trong việc nuôi dưỡng tình bạn với những người có gắn bó mật thiết với ngài nhất, khiến ngài bộc lộ những phán xét của mình theo quan điểm của một phạm vi hẹp những người mà ngài cho là thân thiết với mình”.
Từ đó, Richmond ngày càng vắng mặt nhiều hơn trong các cuộc họp Nội các. Thurlow càu nhàu rằng mong muốn có được niềm tin giữa các thành viên có cùng cách quản lý “không chỉ gây khó chịu cho nhiều cá nhân mà còn tổn hại đến lợi ích chung của chính phủ”. Tương tự như vậy, Carmarthen (từ năm 1789 là Công tước Leeds) cảm thấy trong thời gian đó, Pitt đã không thật sự tin ông, bởi Pitt ngày càng can thiệp sâu vào công việc của ông. Và khi Pitt rút tối hậu thư mà ông gửi cho Nga, Leeds đã từ chức vào tháng 4/1791.
GIỮ VỮNG ĐƯỢC CHỨC THỦ TƯỚNG: PITT ĐỐI MẶT VỚI THURLOW
Giữa những năm 1788-1791, Pitt đã rất cố gắng để giành được quyền kiểm soát Nội các, nhưng chừng nào Thurlow còn đương chức thì những nỗ lực của Pitt vẫn chưa mang lại hiệu quả. Được Vua Anh và những luật sư giỏi nhất lúc bấy giờ, đặc biệt là Lloyd Kenyon (Chánh án Tòa thượng thẩm, năm 1784) và John Scott (cố vấn pháp luật của chính phủ, năm 1788) hậu thuẫn, Pitt được đánh giá là người hoàn hảo. Thật ra vấn đề khó khăn lớn đối với Pitt là không có ai thay thế Thurlow, trừ một luật sư nổi tiếng của phe đối lập là Loughborough. Ưu thế của Thurlow ở Viện Quý tộc, với quan điểm pháp luật quan trọng về các dự luật và các hiệp ước quốc tế, cũng như nhu cầu cần phê chuẩn trong các vấn đề bổ nhiệm đã đem lại cho Thurlow nhiều cơ hội cản trở Pitt. Mãi đến năm 1792, vấn đề lớn nhất của Pitt ở trong nước không phải là việc Vua Anh đang nỗ lực áp dụng những chính sách của ngài như lúc đầu Pitt lo sợ, mà là Thurlow vẫn đương chức trong Bộ, Vua Anh đã hạn chế được khả năng của Pitt để thực hiện những chính sách của ngài.
Từ năm 1788, Thurlow và Pitt bắt đầu khẩu chiến. Mối bất hòa bắt nguồn từ những khiêu khích có thể nhận thấy ở cả hai phía. Pitt tức giận bởi Thurlow đã lãnh đạo phe chống đối trong Viện Quý tộc chống lại Dự luật Cấm buôn bán nô lệ của Dolben. Thurlow lại giận sôi lên vì Pitt đã có hai quyết định bổ nhiệm đơn phương xâm phạm tới quyền hạn của mình. Khi Kenyon trở thành người cầm đầu Pháp viện Anh, Pitt đã giành được cơ hội bổ nhiệm bạn mình là Pepper Arden làm Chánh án Tòa thượng thẩm. Trước đó, Thurlow đã không bằng lòng về việc thăng chức cho Arden và bây giờ lại trì hoãn sự bổ nhiệm này. Pitt đã lường trước điều này, ông hùng hổ nói với Arden: “Tôi có thể sẽ bất đồng với ông ta về vấn đề này và về tất cả các vấn đề khác nữa”. Pitt buộc phải thể hiện quan điểm của mình trong một cuộc phỏng vấn mà “mặc dù không được hoàn toàn như ý” nhưng ít nhất nó cũng đã gỡ bỏ được những rào cản. Tuy nhiên, cú đau thật sự của Thurlow trong cuộc chạy đua này lại là Pitt đã tiến cử thành công Bộ trưởng Tài chính, George Rose, vào vị trí Thư ký Viện Quý tộc. Rose muốn bổ sung vào bộ sưu tập các chức vị của mình và cũng muốn có được quyền thừa kế hợp pháp cho con trai. Thurlow nghĩ rằng vị trí đó phải là một người năng động, và mặc dù không ngăn cản được Pitt bổ nhiệm cho người phụ tá Rose ở Bộ Tài chính, Thurlow vẫn không thông qua quyền thừa kế cho ông này.
Kết quả của mối bất hòa này đã sớm được thể hiện qua cách quản lý độc lập của Thurlow trong suốt thời kỳ Khủng hoảng chế độ nhiếp chính. Vị
trí Chủ tịch Viện Quý tộc cho phép ông ta trực tiếp gặp gỡ với Thái tử Wales, và có thể, ông ta cũng gây ảnh hưởng đáng kể đằng sau những đòi hỏi của Thái tử đối với chế độ nhiếp chính đang nắm quyền nhằm củng cố vị trí. Pitt hiểu rằng Thurlow đang bắt tay với phe đối lập và theo Wilberforce, ngay thời điểm mà Thurlow phát biểu trước Viện Quý tộc, Pitt cũng không biết là ông nên ủng hộ hay phản đối. Tuy nhiên, phe đối lập lại chọn lựa người của họ là Chủ tịch Viện Quý tộc và lời tuyên bố nổi tiếng của Thurlow: “Tôi mà quên Vua Anh thì Thượng đế sẽ quên tôi” đã bảo vệ được cả dự luật của Pitt và củng cố uy tín của Thurlow trước công chúng.
Khi Vua Anh phục hồi sức khỏe, ngài thể hiện mong muốn Pitt và Thurlow có một mối quan hệ hòa hợp, nhưng một cuộc xung đột mới lại bùng nổ vào năm 1789 khi Pitt sa thải Francis Hargrave, luật sư của Bộ Tài chính và cũng là bạn của Thurlow, do cuốn sách mà ông này viết không thừa nhận các điều khoản trong Dự luật Nhiếp chính. Thurlow trả đũa bằng cách nghi ngờ tính hợp lệ của khoản tiền trợ cấp mà Pitt dự định ban cho Auckland. Lại một lần nữa, Vua Anh phải đứng ra hòa giải. Ngài cử Kenyon, người mà cả Pitt và Thurlow đều tin tưởng, giải quyết vấn đề liên quan đến tiền trợ cấp (Kenyon đã khẳng định ý kiến của Thurlow đúng). Xung đột giữa hai người tạm thời được giải quyết, mặc dù theo Camden, nó chỉ là một sự ngừng bắn không thành thật, chứ chưa phải là hòa bình bởi cả hai người đều nghi ngờ lẫn nhau. Điều đó được chứng minh khi Thurlow cản trở việc thông qua Dự luật Thuế thuốc lá do Pitt đưa ra trước Viện Quý tộc. Nhiều người cho rằng Chủ tịch Viện Quý tộc thường xuyên mời các vị thẩm phán đến dùng bữa tối để thuyết phục họ đứng về phía mình, và tháng 10-11/1790, sự thù địch giữa hai người lại tiếp tục khi Dundas thắng Thurlow trong vấn đề bổ nhiệm ở Scotland. Thurlow dọa sẽ đình chỉ tất cả các mối quan hệ hợp tác trong Viện Quý tộc. Vua Anh kêu gọi hai người bớt căng thẳng, Dundas đến gặp Thurlow để xóa tan bầu không khí đó nhưng ông này vẫn cảnh báo chừng nào vấn đề của Rose còn thì không thể có sự thân mật giữa Thurlow và Pitt.
Được tiếp thêm sức mạnh nhờ kết quả của cuộc tổng tuyển cử và thắng lợi trong chính sách ngoại giao với Tây Ban Nha năm 1790, Pitt ép các vấn đề phải đi đến hồi kết. Grenville được cử đến đảm nhiệm cương vị lãnh đạo Viện Quý tộc để đối phó với những ảnh hưởng chi phối của Thurlow. Công tước Grafton một lần nữa được mời tham gia Nội các để củng cố thêm lực lượng của những người theo Đảng Whig. Pitt nghiên cứu phát triển các mối quan hệ với phe đối lập, bảo vệ quyền của Viện Bình dân nhằm tiếp tục bôi nhọ Hastings, làm dịu phát ngôn viên của họ là Burke. Tháng 3/1791, Grenville thăm dò ý kiến Tom, anh trai của Fox, về khả năng những người
theo Đảng Whig tham gia chính phủ với ba vị trí trong Nội các (những vị trí đó sẽ là Leeds, Stafford và Camden). Ý định này gần như là chắc chắn bảo toàn vị trí mạnh nhất có thể, từ đó đi đến cuộc quyết đấu cuối cùng để hòa giải với Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow. Tuy nhiên, ý định táo bạo này bị thất bại do phe đối lập một mực đòi Pitt phải từ bỏ cương vị lãnh đạo Bộ Tài chính; hơn thế nữa, họ phản đối kịch liệt vấn đề Vũ khí Nga do Pitt khởi xướng mà Grafton cũng tham gia và lần này, phe đối lập tìm thấy cơ hội có thể lật đổ Bộ.
Do vậy, việc cải tổ nhân sự trong Nội các hiện thời bị hạn chế hơn. Pitt củng cố vị trí bằng cách đưa thêm hai cố vấn của mình là Dundas và Hawkesbury vào Nội các (sau này họ cũng trở thành những người thân cận với Thurlow). Lúc đó, Thurlow tin rằng Pitt có ý định đẩy mình ra nếu tìm được người kế nhiệm và lại tiếp tục phàn nàn không được tham khảo ý kiến, đồng thời cáo buộc Pitt triệu tập các cuộc họp Nội các trong những thời điểm mà Tòa đại pháp đang họp. Thurlow cũng chỉ mới biết Grenville được chuyển sang làm Ngoại trưởng thông qua thư phúc đáp của các đặc phái viên ngoại giao đối với thông tư của chính phủ. Những nỗ lực hòa giải của Grenville gặp phải thất bại thảm hại khi Thurlow phát hiện giấy kết hôn của Công tước York với Công chúa nước Phổ được cấp mà không tham khảo ý kiến ông (tất cả mọi người đều nghĩ Vua Anh đã thông báo điều này cho Thurlow biết). Ở Viện Quý tộc, Thurlow cản trở những dự luật do Pitt đưa ra nhằm giảm bớt những hạn chế đối với Công giáo Anh và để Ban bồi thẩm, chứ không phải các quan tòa, quyết định các vấn đề mang tính phỉ báng, lăng mạ Grenville vì đã đưa ra “những lý do ngu xuẩn nhất để tiếp tục những dự luật ngớ ngẩn nhất”. Đến cuối năm 1791, Grenville từ bỏ hy vọng kiềm chế Thurlow và để sự việc diễn ra tự nhiên.
Tuy nhiên, Pitt và anh họ của mình không đứng ở vị trí có thể chiếm được sự thiên vị thật sự của Vua Anh. Dự luật Vũ khí Nga thất bại khiến Pitt do dự khi đưa ra những vấn đề tế nhị và Grenville bị chỉ trích là đã nhận một địa vị ngồi mát ăn bát vàng ở thời điểm đó (Thurlow cũng không thừa nhận tính hợp lệ của việc Pitt ban địa vị đó cho Grenville để đảm bảo cuộc sống). Pitt vẫn không có sự thay thế thỏa mãn cho chức Chủ tịch Viện Quý tộc. Do vậy, Pitt ra sức tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận những người thuộc phe đối lập, trong đó có Loughborough − một người có ảnh hưởng lớn – khi ông bất đồng với Fox về cuộc Cách mạng Pháp và những yêu cầu về cải tổ trong nước ngày càng gia tăng. Pitt từ chối việc hủy bỏ bằng chứng về các cuộc tiếp xúc của phe đối lập với Hoàng hậu Nga khi cuộc thảo luận về khủng hoảng ở Nga được nối lại vào tháng 4/1792. Ngày 1/5, Pitt ủy nhiệm Auckland mời đồng sự cũ là Loughborough cùng phối hợp hành động để giải
quyết những bất ổn trong nước. Thurlow đã đoán trước được ý đồ này vào tháng 5. Cản trở thành công Dự luật Bãi bỏ buôn bán nô lệ mà Pitt đã trình bày trong một bài diễn văn ấn tượng trước Viện Quý tộc, Thurlow lại tấn công các điều khoản trong Quỹ chìm của Dự luật Nợ quốc gia mà Pitt rất tâm đắc và vận động đủ số người ủng hộ để bỏ phiếu bất tín nhiệm Pitt. Nhưng lần này, Thurlow đã đi quá xa. Ông ta đã tấn công trực tiếp vào cách giải quyết trong Bộ của Pitt. Bây giờ Pitt đã có đủ lý lẽ buộc Vua Anh phải chấp nhận vấn đề và phớt lờ lời đề nghị khẩn thiết của Hoàng gia mong muốn Pitt và Thurlow hòa hợp. Pitt một mực khẳng định hoặc ông hoặc Thurlow phải ra đi. Bị dồn vào thế bí, Vua Anh rất tuyệt vọng, nhưng cuối cùng cũng phải nhượng bộ. Điều này khiến “ngài phải ớn lạnh”, tuy nhiên “chính sự sắc sảo của Thurlow giúp ông ta nhận thức rằng dù ta có ủng hộ ông ta mạnh mẽ đến đâu đi nữa thì ta cũng không thể cách chức Pitt”. Thurlow ngạc nhiên vì Vua Anh để mình ra đi dễ dàng đến thế, nhưng ông ta vẫn nói thêm: “Cũng như bất kỳ người nào khác, Pitt đã hành động đối với tôi giống như những gì mà đáng ra tôi phải làm đối với ông ta nếu tôi có thể”.
Rutland, bạn của Pitt, từng cảnh báo chỉ có ba điều có thể hạ bệ được Pitt, đó là: cái chết của Vua Anh, cuộc chiến tranh thất bại hoặc mối bất hòa với Thurlow. Pitt đã hành động rất nhanh để ngăn ngừa hậu quả tai hại này. Ông xem xét những người quan trọng theo phe của Thurlow như Kenyon và Scott để biện minh cho mục đích cuối cùng của mình. Thurlow được Vua Anh làm nguôi lòng bằng việc trao quyền thừa kế tước vị quý tộc cho các cháu nội. Ông ta hào hiệp khuyên những người bạn của mình kiên định giữ vững vị trí cho đến khi chức Chủ tịch Viện Quý tộc có ứng cử viên. Điều này vẫn là điểm yếu nhất của Pitt và là điểm mạnh nhất của Thurlow. Dundas hối thúc bạn mình là Scott và đồng sự cũ là Loughborough đoàn kết hiệp đồng, đề nghị bốn vị trí trong Nội các (Chủ tịch Viện Quý tộc, Bộ trưởng Nội vụ, Chủ tịch Viện Cơ mật, Bộ trưởng Không bộ cao cấp), hai hoặc ba ủy viên hội đồng cơ mật và quan đại diện nhà vua ở Ireland, và cuối cùng cũng can thiệp vào quyền đối với Ấn Độ.
Tuy nhiên, Fox vẫn có thể đưa ra mối nghi ngờ của phe đối lập rằng Pitt sẽ không bao giờ chấp nhận ông ta trong Nội các ở vị trí ngang hàng cần thiết để thỏa mãn danh dự và niềm tự hào của lực lượng chống đối. Thậm chí, ông ta còn đưa ra phương án thành lập một chính quyền mới thay thế mà ở đó Pitt có thể bị loại ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo. Trên thực tế, vì quá lo lắng đến việc đạt được mục đích của mình, Pitt đã vượt quá xa sự cho phép của Vua Anh. Khi Pitt và Dundas gặp Loughborough vào giữa tháng 6/1792, Pitt phải thừa nhận đường lối của ông không theo lệnh của Vua Anh, mặc dù ông
phải bảo đảm được cả Vua Anh và Hoàng hậu tán thành. Khi buộc phải chấp nhận cả Fox, Pitt thú nhận ông từng nghĩ sự chia rẽ trong phe đối lập sẽ không còn nữa. Ông không đưa ra một sự phản đối nào, nhưng sợ rằng việc Vua Anh có thái độ thù địch với đường lối chỉ đạo ủng hộ Pháp của Fox sẽ ngăn cản ông nhanh chóng đạt được vị trí trong Bộ Ngoại giao. Đáng ra Pitt phải hiểu rằng vị trí đó còn quá xa vời. Khi Pitt và Fox gặp lại nhau, Pitt tự bào chữa bằng cách khẳng định sự thù địch trong hàng ghế các bộ trưởng đã ngăn cản Fox có mặt khi đó. Điều này đã chấm dứt hiệu quả các cuộc thảo luận, mặc dù vào tháng 7, Pitt lại cố gắng nối lại chúng với một đề nghị phong tặng huy hiệu cấp tước Ga-tơ cho lãnh đạo của phe đối lập, Công tước Portland.
Tuy nhiên, phe đối lập lại tinh quái hơn Pitt tưởng. Họ trực tiếp đề đạt với Vua Anh thông qua cựu Ngoại trưởng, Công tước Leeds, người có thể lãnh đạo chính phủ liên minh trên cơ sở bình đẳng giữa Pitt (người sẽ từ chức ở Bộ Tài chính để chuyển sang Bộ Ngoại giao) và chính họ. Vua Anh vô cùng sửng sốt khi biết những gì đang xảy ra sau lưng ngài, và Pitt (vừa được Vua Anh giao cho chức Quản lý Cụm cảng Cinque) thật sự bối rối và buộc phải từ chối rằng bất kỳ “một sự sắp xếp mới nào, hoặc là thay đổi hoặc là liên minh, cũng đều nằm trong dự định”. Trong tháng 10, Vua Anh trút hết giận dữ vào Dundas bằng cách từ chối bổ nhiệm ông làm Thống đốc Charterhouse với lý do là không đủ địa vị xã hội, nhưng vai trò của Dundas trong việc hối thúc các cuộc đàm phán thì ai cũng biết. Hoàng gia từ chối dứt khoát đã khiến Pitt phải chấp nhận thất bại và thú nhận với người đồng sự rằng “thật bất khả kháng, hoặc anh hoặc tôi ở vào hoàn cảnh của chúng ta đều cảm thấy bất bình”. Dundas đã hạ thấp mình khi viết một bức thư thuyết phục Vua Anh dịu lại. Tình trạng bất ổn này chỉ được giải quyết khi xảy ra cuộc khủng hoảng trong nước và ngoài nước vào tháng 11, mà sau này là cuộc Cách mạng Pháp, khiến Vua Anh rất cần đến sự hỗ trợ của Pitt. Nó cũng khiến Loughborough có lý do rời bỏ phe đối lập và trở thành Chủ tịch Viện Quý tộc mà Vua Anh miễn cưỡng phải chấp nhận vào tháng 1/1793. Chỉ sau đó, Pitt mới có thể đảm bảo chắc chắn thắng lợi của mình trước Thurlow.
LIÊN MINH VÀ CHÍNH SÁCH NGĂN CHẶN CỦA ĐẢNG WHIG DO PORTLAND LÃNH ĐẠO
Những vấn đề trong Nội các của Thủ tướng vẫn còn nan giải. Cuộc chiến tranh bùng nổ vào tháng 2/1793 đã bộc lộ nhiều yếu kém của Nội các. Pitt đã đưa ngài Amherst, một cựu chiến binh, vào Nội các với vị trí Tổng tư
lệnh quân đội, chức vụ mà Amherst đã giữ trong suốt cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ. Tuy nhiên, kinh nghiệm và tầm nhìn của Amherst cũng mất dần theo tuổi tác, điều này được chứng minh trong cách quản lý của ông. Dundas vẫn chỉ đạo quân sự cho cuộc chiến với sự tư vấn của Pitt, nhưng Richmond về cơ bản không nhất trí với chiến lược của hai người. Richmond dưới thời Ordnance và Chatham ở Bộ Hải quân từng bị nhiều người chỉ trích vì thất bại trong đợt tấn công Dunkirk vào tháng 9, và sau đó khi Richmond gây khó khăn cho việc chuẩn bị cho cuộc viễn chinh miền Tây Ấn Độ, Pitt nhận thấy cần phải đưa ông ta vào hàng ngũ của mình với lời cảnh báo sắt đá rằng “khi mà lòng chân thành và những báo cáo là quá cần thiết trong mối giao hữu giữa các bộ trong chính phủ, thì các ban ngành phục vụ của Vua Anh, trong đó có cả Ban Quân nhu, sẽ không còn tiếp tục kiếm lợi như hiện nay”. Pitt giờ đã có ưu thế trong Bộ và rất ít khi phải chịu sức ép của các bộ khác về những vấn đề trong chính phủ.
Tuy nhiên, về cơ bản, Nội các của Pitt thật sự cần phải bổ sung. Stafford và Camden đã có tuổi, và đến tháng 4/1794, Camden mất. Vòng nội bộ của Pitt (gồm những vị trí có quyền lực cao trong Nội các) thiếu địa vị xã hội để tự duy trì Bộ. Richmond đặt vấn đề liệu đất nước có thể duy trì một chính phủ gồm toàn những thế hệ trẻ tuổi như vậy được bao lâu, ông cho rằng một người có “địa vị xã hội cao sang, giàu có và nhân cách hơn” sẽ lãnh đạo Nghị viện. Trong khi đó, năm 1792, Chesterfield, một người ủng hộ chính phủ, lo sợ “chúng ta sẽ không thể tiếp tục lãnh đạo tốt nếu không có thêm một vài hecta đất bổ sung”. Chỉ có Richmond, người thường xuyên vắng mặt trong Nội các và Stafford đã cao tuổi là có nhiều đất. Carmarthen cũng có nhiều đất, nhưng đã từ chức năm 1791. Camden và Chatham thì có một diện tích đất rất nhỏ, Hawkesbury thậm chí còn có ít hơn. Pitt, Grenville và Dundas vẫn là những thành viên trẻ tuổi so với thế hệ trước. Pitt dành dụm đủ tiền mua một ngôi biệt thự ở vùng nông thôn Kent năm 1785, nhưng ông còn rất nhiều khó khăn về tài chính và phần nào giảm được gánh nặng khi ông chấp nhận làm Quản lý Cụm cảng Cinque. Việc Grenville bằng mọi giá bảo vệ các phương thức duy trì địa vị quý tộc mới của mình và cố cưới con gái của Camelford làm vợ đã khiến ông cảm thấy ngượng với Pitt vì cố tìm một địa vị ngồi mát ăn bát vàng mãi cho tới khi ông ta nhận được một vị trí béo bở là kiểm toán viên của Bộ Tài chính năm 1794. Vua Anh cũng nghi ngờ về địa vị xã hội của Dundas khi ông này còn là Thống đốc của Charterhouse. Dân chúng hy vọng chính phủ sẽ gồm những nhân vật mà họ đặt trọn niềm tin.
Những mối lo ngại này cũng như mong muốn thành lập một chính phủ đoàn kết yêu nước để tiếp tục cuộc chiến đã khiến Pitt nỗ lực kêu gọi sự hợp
tác của các cá nhân thuộc phe đối lập năm 1793 và năm 1794 tái thiết lập các cuộc đàm phán để thành lập một liên minh với cánh bảo thủ thuộc phe đối lập của Portland, cánh này hiện cắt đứt quan hệ hoàn toàn với Fox. Thời gian này, Pitt không sử dụng những người trung gian mà đàm phán trực tiếp với Portland. Cuộc gặp gỡ giữa hai người đàn ông cùng có bản tính dè dặt này vào tháng 5/1794 được coi như một thành công. Họ đã tìm được quan điểm chung là cần phải xóa bỏ tư tưởng Gia-cô-banh (thời Cách mạng Pháp 1789). Do vậy, để có được điểm chung này, Pitt phải đề nghị 3 vị trí trong Nội các, vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland và hứa sẽ lấp đầy 5 chỗ còn khuyết trong Nội các ngay lập tức, chuyển vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland ngay khi có thể. Pitt cũng phải hy sinh ước muốn của bản thân là bổ nhiệm Hawkesbury làm Chủ tịch Viện Cơ mật và về cơ bản chấp nhận ý muốn của phe Portland − coi việc khôi phục chế độ quân chủ Pháp là mục đích của cuộc chiến. Tuy nhiên, Pitt vẫn bảo đảm ông, Dundas và Grenville duy trì việc kiểm soát hầu hết các vị trí hoạt động cơ bản của nhà nước, đặc biệt là việc quản lý cuộc chiến. Ông đã đề nghị chức Bộ trưởng Ngoại giao cho Portland để chia trách nhiệm lãnh đạo Bộ Nội vụ cho Bộ trưởng Nội vụ phụ trách các vấn đề trong nước và Ireland (mục đích cuối cùng là làm hài lòng Portland và những người theo phe ông ta) và Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách chiến tranh (Dundas). Ban đầu Dundas từ chối nhận vị trí mà ông cho là thừa vì Pitt với tư cách là Bộ trưởng Tài chính cũng là Bộ trưởng Chiến tranh. Pitt đã ra sức thuyết phục Dundas chấp nhận, cuối cùng Vua Anh phải yêu cầu Dundas chấp nhận vị trí này và đích thân ngài gửi thư tới Wimbledon, mặc dù điều này trái với những mong muốn của ngài. Cuối cùng Dundas đã đồng ý.
Ngày 11/7/1794, các vị trí đã được sắp xếp. Portland làm Bộ trưởng Nội vụ; Bá tước Fitzwilliam làm Chủ tịch Viện Cơ mật, hứa hẹn sẽ là quan đại diện nhà vua ở Ireland; Bá tước Spencer làm Bộ trưởng Không bộ cao cấp; William Windham làm Bộ trưởng Chiến tranh; Bá tước Mansfield làm Bộ trưởng Không bộ, cùng rất nhiều tước vị cao cho những người theo họ. Cuối cùng, Pitt cũng thiết lập được một Bộ “mang cục diện của Đảng Whig” như ông hằng mong muốn. Những người ủng hộ Pitt đều muốn biết liệu ông có ban phát quá nhiều địa vị khi ông còn nắm quyền và họ có quyền hy vọng một địa vị cho mình hay không. Hiện có sáu thành viên của phe đối lập trước đây có mặt trong Nội các mới, bao gồm cả Loughborough. Khi Addington hỏi liệu Pitt có sợ bị người khác thắng phiếu trong chính Nội các của mình không, Pitt đáp lại rằng “ông không bao giờ phải nghĩ đến điều đó, vì ông đặt nhiều niềm tin vào những đồng sự mới cũng như tin tưởng bản thân”.
Sự lạc quan của Pitt đã sớm được kiểm chứng. Những người theo Đảng
Whig của Portland đã lấy chính phủ Ireland là điều kiện cần thiết cho sự liên minh giữa họ với Pitt. Họ lập kế hoạch về những thay đổi chủ yếu trong giới quan chức nhằm làm suy yếu tầm ảnh hưởng của phe đảng đang điều hành Ireland theo ý Pitt. Quan đại diện nhà vua ở Ireland theo đề xuất của họ, ông Fitzwilliam, thường nghi ngờ Pitt là người có cách cư xử hai mặt. Ông ta không thể kiên nhẫn thêm nữa khi đến cuối năm đó (1794) đã kín đáo theo dõi Pitt và phát hiện vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland của ông đã có Westmorland thay thế. Đến tháng 10, những đồng minh mới của Pitt bất ngờ đưa ra một tối hậu thư đe dọa sẽ từ chức tập thể nếu Fitzwilliam không được bổ nhiệm ngay lập tức.
Dundas hối thúc Pitt không nên chùn bước, hãy quan tâm đến các sự kiện hồi tháng 7 và “cố gắng mềm mỏng khi ngài lo lắng về một vấn đề nào đó”, nhưng Pitt nhận thấy nhất thiết phải đưa ra thách thức. Trong khi sẵn sàng lấp đầy các vị trí bằng người của mình, ông khăng khăng Fitzwilliam không thể được bổ nhiệm trước khi tìm được một người khác thích hợp thay thế Westmorland, rằng công việc ở Ireland vẫn phải chịu sự phê chuẩn của toàn Nội các, không nên có một hệ thống mới ở Ireland và không có sự đại bại của những người ủng hộ ông ở đó. Thực tế, chẳng có bên nào muốn bất hòa xảy ra, do vậy, một sự thỏa hiệp đã được sắp xếp trong các cuộc đàm phán giữa Pitt và Fitzwilliam ngày 11/11, điển hình nhất là cuộc gặp ngày 15 giữa Pitt và Grenville với Fitzwilliam, Portland, Spencer và Windham. Một vị trí ở tòa án được sắp xếp cho Westmorland, tạo điều kiện để Fitzwilliam nhậm chức Quan đại điện nhà vua. Đáp lại, Fitzwilliam từ bỏ ý định cách chức Đại pháp quan của Ireland như mọi người đồn đại và đồng ý rằng bất kỳ sự thay đổi nhân sự nào đều phải được thực hiện từng bước một. Họ cũng nhất trí không áp dụng thêm bất kỳ biện pháp nào giải phóng Công giáo mà chính phủ đề xuất.
Tinh thần hợp tác này khiến Pitt có nguy cơ phải hy sinh thêm ba vị bộ trưởng của mình để quản lý cuộc chiến tốt hơn. Những đồng minh mới của ông ngấm ngầm thể hiện sự bất bình với cách quản lý của Chatham ở Bộ Hải quân và sự vắng mặt của Richmond ở Nội các, bởi những người này thường được Pitt coi là cùng ông chia sẻ trách nhiệm. Tháng 12, chính Pitt đã cứng rắn hơn khi yêu cầu anh trai mình trao đổi vị trí với Bộ trưởng Không bộ cao cấp − Bá tước Spencer và đề nghị Vua Anh thuyết phục Chatham chấp nhận. Pitt lảng tránh đề nghị của Richmond rằng để Chatham tiếp tục vị trí đó. Khi chuyên gia quân sự Cornwallis được thuyết phục thay thế, ông đề nghị Chatham từ chức vào cuối tháng 1/1795. Cùng thời điểm đó, Amherst bị buộc phải từ chức, nhường vị trí Tổng tư lệnh cho York, một người bên ngoài Nội các.
Tuy nhiên, ngay cả khi Pitt đã hoàn tất việc cải tổ nhân sự thì cuộc khủng hoảng vẫn nổ ra ở Ireland. Fitzwilliam nhanh chóng nhận thức được tính nghiêm trọng của tình hình Ireland. Được các đồng minh ở đó thuyết phục rằng sẽ không thể thực hiện được điều gì nếu không có những thay đổi lớn, ông đã đột ngột cách chức năm quan chức lãnh đạo, gồm cả một lãnh đạo ngành hải quan có ảnh hưởng lớn là Beresford. Fitzwilliam cũng bổ nhiệm một đồng minh của mình trực tiếp làm trợ lý tư pháp thứ nhất của Bộ trưởng Tư pháp, bất chấp thỏa thuận của ngày 15/11 (là phải thay đổi nhân sự từng bước một).
Bận bịu với các vấn đề thay đổi Nội các, Pitt phản ứng rất chậm trước sự sụp đổ bất ngờ của Hà Lan khi chịu đòn tấn công của Pháp và chậm mở các phiên họp Nghị viện mới. Chính Grenville là người phản ứng trước vào ngày 28/1 bằng việc nhắc nhở Fitzwilliam nhớ lại những lời hứa trước đây của ông ta. Grenville cũng thể hiện mối quan tâm với Portland. Ngày hôm sau, Vua Anh đã bày tỏ với Pitt về mối quan tâm của ngài trước việc thay đổi hệ thống và mối quan tâm này nhanh chóng chuyển sang lo sợ khi quan đại diện nhà vua đề nghị cho phép thông qua Dự luật Giải phóng Công giáo tư nhân trước Nghị viện Ireland. Bản ghi nhớ chung khá dài của Hoàng gia tuyên bố sự giải phóng Công giáo là:
... nằm ngoài sự quyết định của bất kỳ bộ trưởng Nội các nào. Không vị bộ trưởng nào đưa ra ý kiến ủng hộ biện pháp đó. Nó có thể sẽ rất nguy hiểm, cũng không thể có sự phối hợp trước với các nhà lãnh đạo của mọi tầng lớp, không ai có thể khuyến khích quan đại diện nhà vua ở Ireland làm điều này.
Vua Anh chấp nhận việc thay đổi chính quyền mới ở Ireland còn hơn nhìn thấy nó sụp đổ. Câu trả lời của Pitt cho thấy những công việc trước mắt khiến ông lơ là với những gì đang xảy ra ở Ireland, ông nài nỉ để được đệ trình với Vua Anh về “những gì có thể nảy ra trong đầu ông về vấn đề này còn thấu đáo hơn những gì ông có thể nói ra được lúc này”. Mãi tới ngày 9/2, Pitt mới nói với Fitzwilliam rằng những thay đổi về nhân sự của ông ta là không thể chấp nhận được, bởi nó đã vượt quá xa những thỏa thuận ban đầu. Fitzwilliam phản ứng lại bằng một bức thư khẳng định không thể làm khác được. Ông ta yêu cầu được nói riêng với Pitt về ý định sa thải Beresford, đồng thời đề nghị Pitt chấp nhận rằng chính phủ có thể buộc phải chấp nhận Dự luật Giải phóng Công giáo do yêu cầu của đông đảo dân chúng. Fitzwilliam cũng tuyên bố là không thể ngừng những gì mà theo ông
ta là đang tiến triển tốt đẹp.
May thay, Pitt đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng với Vua Anh hay mối bất hòa với các đồng minh mới nhờ những hành động của Portland, vị lãnh đạo của các đồng minh mới này. Portland nhận thấy Fitzwilliam đã đi quá xa và quá nhanh. Ngày 21/2, trước Nội các, ông đề nghị thải hồi Fitzwilliam. Thật bất ngờ, cuộc khủng hoảng lại gắn kết những đồng minh mới vào Bộ. Thay vì hành động như một nhóm ủng hộ cho đồng sự của mình (Pitt) như hồi tháng 10 thì trong Nội các, những người này lại ủng hộ Portland chống lại Fitzwilliam. Fitzwilliam phản ứng giận dữ, cho rằng họ phản bội và coi Pitt là kẻ mánh khóe, lôi kéo mọi người về phe mình. Pitt cố gắng làm vơi bớt sự đau lòng của Portland do mối bất hòa này bằng việc cho phép Fitzwilliam tiếp tục giữ một ghế trong Nội các, nhưng ông ta đã từ chối. Fitzwilliam là người căm thù Pitt nhất và cũng là người nhiệt tâm nhất ủng hộ các thành viên của phe đối lập trước đây tiếp tục hợp nhất thành một đảng, do vậy, sự rút lui của ông ta khỏi Nội các lại là điều kiện thuận lợi để phát triển mối quan hệ thân mật trong liên minh mới.
Những tình tiết xung quanh sự kiện Fitzwilliam đã thể hiện cả điểm mạnh và điểm yếu trong phương thức lãnh đạo của Pitt. Những gì mà Fitzwilliam tin là ông ta đã tuân thủ theo thỏa thuận hồi tháng 11 cho thấy mối nguy hiểm của phương pháp tiến hành công việc của Pitt. Fitzwilliam đã ghi chép sơ bộ cuộc gặp ngày 15/11, sau đó ông ta cho Pitt xem, Grenville cũng khẩn trương làm thành một bản ghi chép tóm tắt dễ hiểu phục vụ các đồng sự vào tháng 3 năm sau, nhưng Pitt lại thiếu các văn bản đó. Fitzwilliam tin rằng ông được phép thẳng tiến (không cần phải xin ý kiến), trong khi đó những người ở London cảm thấy cần phải có sự tham khảo ý kiến. Pitt có thể nhận ra là họ không đề cập đến Bereford. Những lời lẽ mà Pitt khẳng định về giải phóng Công giáo có vẻ như đúng, mặc dù chắn chắc ông đã suy nghĩ rất nhiều, bởi ông đồng ý với Portland là hoãn xem xét vấn đề này đến khi kết thúc chiến tranh. Pitt còn có điều đáng lưu tâm khác là ông không thể đoán biết được cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra, cả trong tháng 10 hay tháng 1 năm sau, nhưng ông đã có Grenville − một người ủng hộ trung thành – làm thay việc đó. Hơn nữa, Pitt cũng rất may mắn bởi các sự kiện xảy ra lại quá thuận lợi cho ông và những liên minh mới của ông đã tự tách khỏi Fitzwilliam.
Giữa những năm 1788-1795, thành phần Nội các đã thay đổi hoàn toàn. Thurlow bị mất chức năm 1792, Pitt có được ưu thế vượt trội nhưng vẫn chưa có cơ sở lâu bền. Để đảm bảo ưu thế vững chắc, Pitt sẵn lòng mất đi ưu thế độc quyền bằng việc liên minh với những người theo Đảng Whig của
Portland. Đây là việc làm liều lĩnh “được ăn cả ngã về không”, tuy nhiên nguy cơ đó đã lắng xuống bởi tính hấp tấp của Fitzwilliam đã phá vỡ mối đoàn kết của họ. Sau đó, chỉ có một lần họ liên kết với nhau vào tháng 7 năm sau để thuyết phục Pitt chuẩn bị một việc tiếp theo có quy mô lớn đối với sự đổ bộ thành công của những người theo chế độ quân chủ Pháp ở Quiberon, Pháp. Những đồng minh mới của Pitt không thể hành động như một nhóm hợp nhất gây áp lực trong Nội các. Chiến dịch Quiberon thất bại thảm hại khiến Windham kiên định lập trường của những người theo chế độ quân chủ nồng nhiệt mà họ đã gây áp lực với Pitt trong suốt các cuộc đàm phán để thành lập liên minh năm 1794.
Thủ tướng Pitt có khả năng thuyết phục những người khác về sự cần thiết phải đàm phán với Cộng hòa Pháp. Thậm chí ông còn có khả năng phục hồi chính phủ Ireland khi không ai muốn kế nghiệp Fitzwilliam và làm lễ nhậm chức cho người bạn cũ là Pratt, bây giờ là Bá tước Camden II. Khi Mansfield chết năm 1796, Pitt đã tranh thủ cơ hội để hòa giải với anh trai mình, thăng chức ông làm Viện trưởng Viện Cơ mật. Pitt đã để trống chức Bộ trưởng Không bộ cao cấp mà Chatham giữ trước đây cho những dự định tương lai, và cuối cùng, ông bổ nhiệm Westmorland vào vị trí đó năm 1798. Người cuối cùng được bổ sung vào Nội các là Camden, trong khi Cornwallis thay thế Camden làm Quan đại diện nhà vua ở Ireland tháng 6/1798. Tại thời điểm đó, các thành viên của phe đối lập trước đây bị rút lại còn bốn người (gồm cả Loughborough) trong Nội các 12 thành viên.
ĐỈNH ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỘ THỦ TƯỚNG PITT
Kết quả sắp xếp nhân sự này đã giúp Pitt, người được Grenville và Dundas ủng hộ, kiểm soát Nội các và quản lý chính sách chiến tranh vững chắc hơn. Trong hoàn cảnh này, sự thân mật từng làm rối tung sự việc xung quanh câu chuyện của Fitzwilliam nay lại có lợi hơn đối với Pitt. Ban lãnh đạo có ba người trong nội bộ đã nhóm họp trước khi họp Nội các nhằm đưa ra một quan điểm chung, bởi theo như Grenville tuyên bố: “Trước khi chúng ta họp đầy đủ Nội các, thì tốt hơn hết là bộ ba nên bàn bạc thống nhất mọi vấn đề”. Nhờ giải quyết trước những thắc mắc và hành động như một mặt trận thống nhất, họ có khả năng khai thác những điểm chặt chẽ trong thủ tục của Nội các. Năm 1799, Windham than phiền vô ích rằng các cuộc họp Nội các được triệu tập mà không thông báo trước về các vấn đề cần bàn thảo, không có những ghi chép chính thức mà các bộ trưởng có thể tham khảo và có quá nhiều vấn đề được thảo luận nằm ngoài chính sách chung, do vậy ông không biết khi nào cần phải đưa ra ý kiến phản đối. Những quyết định thật
sự đều do Pitt và người của ông (không nằm trong Nội các) đưa ra. Khi các bộ trưởng khác kích động những đồng sự của họ nghi ngờ về kết quả Chatham thực thi chính sách chiến lược tháng 3/1800, một cuộc họp bộ ba khác được tổ chức vào 11 giờ ngày hôm sau − trước khi Nội các họp vào buổi trưa − nhưng không có sự thay đổi nào cho đến khi Dundas thay đổi hướng giải quyết 10 ngày sau đó vì một số nguyên nhân khác. Chỉ khi bất đồng xảy ra trong nhóm bộ ba này thì những người còn lại trong Nội các mới có một vai trò đáng kể trong việc giải quyết chính sách.
Những vấn đề lớn trong Nội các diễn ra thường xuất phát từ bất đồng giữa ban lãnh đạo bộ ba, đặc biệt khi Pitt bất đồng với người anh họ cứng đầu về vấn đề chính sách ngoại giao. Tháng 2/1795, Grenville không đồng ý với việc Pitt mong muốn ký kết hiệp ước trợ cấp mới với nước Phổ nhằm giành lại Hà Lan, vì nó sẽ gây nguy hiểm cho những nỗ lực tạo ra Đồng minh ba nước Anh, Áo và Nga. Khi cuộc họp bộ ba không đi đến thống nhất, Pitt đã đưa đề nghị của mình ra trước Nội các. Grenville xin từ chức ngay tại thời điểm mà Pitt đang theo đuổi mong ước của mình. “Những gì tôi có thể nói công bằng là với ý kiến mà cậu đã quyết định về vấn đề này, tôi nghĩ rằng nó đáng phải thế”. Pitt thật “khổ sở” vì điều này, ngày 1/3, tại Nội các, ông đã dành hàng giờ thuyết phục Grenville thay đổi ý kiến và kiên trì đề nghị Grenville tránh “nổi danh” ở thời điểm nhạy cảm này, cố gắng trì hoãn khuynh hướng chính trị mới của mình tới gần cuối phiên họp Nghị viện. Cũng trong thời gian này, Pitt lại được Hoàng gia ủng hộ. Ông lợi dụng mối quan tâm của Vua Anh về vấn đề Hanover để củng cố số phiếu ủng hộ trong Nội các. Ngày mồng 8, Pitt đã được Hoàng gia phê chuẩn thời điểm mà ông sẽ đưa ra trước Nội các. Tuy nhiên, những nguồn tin không chắc chắn từ lục địa châu Âu đã trì hoãn quyết định thêm một tháng nữa. Sau đó, được Vua Anh nhiệt tình hối thúc, ngoại trừ Grenville, toàn bộ Nội các đã chấp nhận đề nghị của Pitt. Grenville phản đối tới cùng, những ý kiến phản đối của ông được ghi trong biên bản họp Nội các. Tất nhiên, cách thức không bình thường này (rõ ràng đây là lần đầu tiên ý kiến phản đối được ghi trong biên bản) được Pitt nghĩ ra để tránh việc từ chức của Grenville, bởi điều này sẽ không được đề cập thêm nữa, nhưng sẽ được đưa ra bất kỳ lúc nào nếu người Phổ dàn hòa trước khi có những chỉ thị do Dundas ký.
Mùa xuân năm 1797, bất đồng thứ hai giữa hai người anh em họ này lại càng nghiêm trọng hơn, khiến mối quan hệ bạn bè của họ gần như tan vỡ. Nhận thấy cần thiết phải tiến tới hòa bình, Pitt giải quyết bằng cách đàm phán trực tiếp với Pháp, trong khi đó Grenville lại cho rằng hòa bình kiểu đó sẽ khiến quốc thể bị nhục và phải nhượng lại đất đai, Anh quốc sẽ mất an toàn và danh dự. Trong ba tuần của tháng 5, Grenville luôn cố ngăn cản Pitt
đưa quan điểm bất đồng giữa hai người ra trước Nội các để tìm kiếm một nghị quyết, nhưng trong suốt hai cuộc họp đầy bão tố ngày 31/5 và ngày 1/6, các đồng sự đã ủng hộ Pitt về việc tiến tới thương lượng với Pháp. Phía Pháp đáp lại là muốn được đàm phán mà không có sự tham gia của các đồng minh của Anh. Điều này đã khiến Grenville yêu cầu là phải có một sự đáp trả “kiêu căng” hơn. Ngày 14/6, Nội các chứng kiến “những tranh chấp quyết liệt”, sau đó Pitt đã hành động nhân lúc Ngoại trưởng vắng mặt và tham khảo ý kiến Thứ trưởng Canning về việc sửa đổi bản dự thảo của Grenville. Sáng hôm sau, Nội các tiếp tục họp và còn “quyết liệt hơn”. Mọi việc khó có thể nghiêng về phía Pitt (vì tất cả những người theo Đảng Whig của Portland ủng hộ Grenville) nếu Liverpool cuối cùng không quay sang ủng hộ Pitt, giúp Pitt đạt được tỷ lệ phiếu ủng hộ là 6-4. Trước khi cuộc thảo luận tiếp tục vào buổi tối, Pitt đã nghĩ ra phương án lựa chọn. Hoặc Grenville phải tán thành với những gì trước đó ông ta đã phản đối hoặc là gây nguy hại cho Bộ bằng việc từ chức ngay ở thời điểm nguy hiểm. Grenville đã đoán biết được cuộc thảo luận sẽ đi theo hướng nào, nhưng khác với người có cùng tư tưởng phản đối như ông là Windham, ông không vắng mặt mà bằng mọi giá đấu tranh trong cuộc họp Nội các kéo dài đến nửa đêm. Canning ghi nhận: “Thật kịch liệt! Grenville gần như là đình công”. Nhưng Pitt vẫn rất cứng rắn và lại một biên bản cuộc họp Nội các nữa được gửi tới Vua Anh ghi lại ý kiến phản đối của Grenville. Một lần nữa, Pitt phải dựa vào sự phê chuẩn của Vua Anh để đảm bảo giành được chiến thắng, và nhờ bức thư giãi bày rất thông minh, ông đã được Vua Anh đồng ý. Khi nhận được câu trả lời tiếp theo từ phía Pháp, cách phúc đáp do Grenville đề nghị không bị Pitt phản đối trước Nội các vào ngày 24. “Thật kịch liệt!” – Canning lại một lần nữa khẳng định. Thực tế Grenville đã quát tháo trước cuộc họp. Pitt vẫn giữ vững lập trường, đưa ra những lý lẽ của riêng mình và trước cuộc họp Nội các ngày hôm sau, Pitt đã nói với Grenville rằng hoặc là ông ta ngừng phản đối hoặc là phải từ chức. Grenville chấp nhận và đề nghị ông phải có những bảo đảm về một vị trí ở nơi khác. Canning rất hoan hỉ khi Pitt “đã ráng sức, và bây giờ ông thật sự là một người có tài thao lược”.
Sự tài ba của Pitt đã được thể hiện một vài lần trong các cuộc đàm phán sau đó, nhưng giờ đây Pitt hiểu được rằng mong muốn của ông còn mạnh hơn của người anh họ. Pitt nói với Malmesbury, đặc phái viên của mình: “Những khó khăn còn chồng chất, tôi vẫn có thể nghĩ tôi luôn vượt qua những khó khăn đó nhờ sự kết hợp hài hòa giữa tính quyết đoán và sự bình tĩnh”. Pitt luôn trao đổi riêng với Malmesbury trước khi đàm phán và duy trì trao đổi thư từ liên tục với ông này. Canning được giao nhiệm vụ theo dõi những gì Grenville viết và bảo đảm cung cấp thông tin tốt nhất về mọi khía cạnh của cuộc đàm phán cho Pitt, nhưng điều đó cũng chẳng mang lại ích lợi
gì khi cuộc đảo chính ở Paris nổ ra vào tháng 9 đã khiến Pháp cắt đứt các cuộc đàm phán và Malmesbury phải về nước. Đàm phán thất bại ít nhất cũng tạo điều kiện cho Pitt và Grenville nối lại mối quan hệ bạn hữu thân thiết như trước đây.
Đối với Pitt, Nội các chưa bao giờ là công cụ hiệu quả của chính phủ. Nó là nơi thể hiện sự ủng hộ chính trị xung quanh ông, và về thành phần Nội các, ông cố gắng tuyên bố giá trị của những người theo Đảng Whig chiếm ưu thế trong Bộ của ông. Ông nhận thấy sự nhất trí của Nội các là vũ khí hữu dụng để tác động tới Vua Anh. Ngoại trừ thời gian đầu khi Pitt không thể tránh việc thu nhận một người ủng hộ Vua Anh, và một lần khi ông chấp nhận người do Portland tiến cử vào một vị trí quan trọng năm 1794, còn Pitt bảo đảm rằng ảnh hưởng chi phối của ông là sự giới thiệu duy nhất vào các vị trí cần được bổ nhiệm trong Bộ. Có một số thay đổi ông đã thảo luận với Grenville (như việc người kế vị Howe năm 1788 và Sydney năm 1789) hoặc thảo luận với Dundas (như việc thay Spencer vào vị trí của Chatham năm 1794). Grenville cũng tham gia một số cuộc thương lượng với phe đối lập năm 1791 và Dundas tham gia năm 1792, nhưng một mình Pitt đã tiến hành thành công cuộc đàm phán cuối cùng năm 1974.
Thông thường, các đồng sự trong Nội các chỉ biết sẽ có thành viên mới khi họ nhận được thông báo. Ngay cả Dundas cũng phải thừa nhận ông không hay biết trước về việc bổ nhiệm Westmorland năm 1798. Người duy nhất được Pitt tham khảo ý kiến trước là Vua Anh, và một vài lần Pitt cần sự hỗ trợ của ngài để thuyết phục các bộ trưởng bất đắc dĩ phải rời chức vụ, như trường hợp của Dundas, Mansfield và Chatham năm 1796. Bên cạnh việc quan tâm đến địa vị xã hội và quyền lực chính trị, Pitt còn tìm kiếm một số người có kinh nghiệm quân sự (như Richmond, Amherst, Cornwallis) làm chuyên gia cố vấn cho mình. Ông thường đứng ở tư cách hội viên để kính cẩn đối xử lại với những bề tôi trung thành phải rời khỏi chức vị cao (Westmorland và Camden, cả hai người này đều được bồi thường xứng đáng vì những hy sinh của họ ở Ireland). Tuy nhiên, trong khi sự thiếu tin tưởng các đồng sự trong Bộ những năm 1780 khiến Pitt phải gài người tin cẩn (như Grenville, Dundas, Hawkesbury) vào các vị trí có thế lực của nhà nước thì Pitt vẫn để họ nằm ngoài Nội các, dự định để các vị trí còn trống trong Nội các như Bộ trưởng Không bộ cao cấp (từ tháng 3 đến tháng 11/1784, từ tháng 9/1796 đến tháng 2/1798) dùng cho những sắp xếp chính trị trong tương lai. Pitt ấn định việc thay đổi các vị trí trong Nội các khi kết thúc phiên họp Nghị viện. Chỉ có Howe và Leeds ra đi để phản đối lựa chọn của Pitt, nhưng Pitt cố gắng trì hoãn sự ra đi của Howe cho đến kỳ nghỉ của Nghị viện để tránh “bị để ý”.
Pitt vẫn có những hạn chế nhất định trong việc nâng ưu thế của mình trong Nội các. Chừng nào ông thiếu những mối tiếp xúc riêng trong các bộ thì ông vẫn thiếu thông tin và không đủ sức mạnh. Pitt không hề hay biết về những gì đã được thông qua ở văn phòng của Portland. Đối với các vấn đề chính trị bên trong các bộ, Pitt hoặc các đồng minh của ông là Dundas và Grenville có thể gợi ý hoặc thi thoảng còn lôi kéo họ, nhưng Pitt không thể ra lệnh cho Bộ trưởng Nội các làm bất kỳ điều gì. Chỉ có quyết định của toàn bộ Nội các mới có thể thực hiện được điều đó.
Pitt thật sự gặp khó khăn khi ông bất đắc dĩ phải ép các bộ trưởng không cần thiết từ chức. Sydney, Carmarthen và Richmond được phép tiếp tục phục vụ lâu hơn nhiệm kỳ của họ, riêng Richmond thậm chí còn không tham gia Nội các trong vài năm. Pitt cũng không thể bỏ rơi Dundas và Grenville khi cả hai người bị mất chức vào năm 1800. Các bộ trưởng từ chối hợp tác với chính sách cải tổ nhân sự theo đề án của Pitt được phép ở lại vị trí cũ của họ: Carmarthen năm 1784; Liverpool đã không từ bỏ địa vị Công tước Lancaster năm 1796; Windham từ chối giữ chức Thống đốc Sở Đúc tiền Hoàng gia năm 1799 và Thủ quỹ của Hải quân Anh2năm 1800. Pitt để họ tiếp tục giữ những cương vị cũ vì ông không muốn có sự đối đầu không đáng có. Pitt đã phớt lờ lời thỉnh cầu lặp đi lặp lại của Richmond năm 1795 và trì hoãn đến sáu tuần, và cuối cùng thông báo sa thải Richmond qua thư. Nhưng ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng cho thấy vai trò của Pitt trong Nội các ít được kính trọng. Đối với Pitt, sự ủng hộ của Nội các là rất cần thiết và ông phải đấu tranh không mệt mỏi khi có sự đe dọa nổi lên trong Nội các. Tuy nhiên, Pitt thường coi những đe dọa đó là phản động và không mang tính tiên phong thực hiện, ông thích áp dụng quyền lực thật sự của mình bên ngoài các cuộc họp của Nội các.
CHƯƠNG 4. “Tham vọng cuộc đời tôi”: Pitt và công việc chính phủ
NIỀM ĐAM MÊ CHỦ ĐẠO
Khi từ chức năm 1801, Pitt nuối tiếc vì “đã để mất chức vị, tham vọng của cả cuộc đời tôi, và cảm xúc trong trái tim tôi vẫn tiếp tục tràn đầy”. Giống như cha, Pitt coi đó là số phận lãnh đạo đất nước của ông. “Sự gắn bó đặc biệt với quyền lực và địa vị của Pitt” sau này đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Burges ghi nhận và bổ sung rằng “tham vọng vinh quang và quyền lực là những nguyên tắc chủ đạo của Pitt”. Nghị sĩ Wraxall cũng đã nói đến “tham vọng nắm giữ quyền lực của Pitt”. Bạn bè đều công nhận điều đó. Pretyman nhấn mạnh: “Nếu Pitt khao khát vinh quang, thì đó là vinh quang được phục vụ đất nước với lòng trung thành, nhiệt huyết và không vụ lợi; nếu Pitt mong mỏi quyền lực, thì đó là vì quyền lực sẽ mở ra một lĩnh vực rộng lớn hơn đối với những nỗ lực và sự chuyên cần của ông. Tham vọng của ông khi là ưu điểm, khi là thiếu sót, khi là hạnh phúc, cũng có khi là tai họa, tùy thuộc vào động cơ mà nó được thực hiện, đối tượng mà nó hướng tới cũng như cách thức thực thi để thỏa mãn tham vọng đó”. Wilberforce cảm thấy “rất thú vị khi nói chuyện với Pitt về những kế hoạch mà ông đã lập ra để phục vụ lợi ích của dân chúng; hoặc chứng kiến niềm vui thích của Pitt khi ấp ủ những hy vọng mang lại lợi ích cho đất nước”. Đây là “những tiếng lòng” điều khiển hướng hành động của Pitt và phân biệt ông với các chính trị gia hàng đầu bấy giờ. Fox, đối thủ của ông, đã nghĩ “theo mọi quan điểm, đây là một nghề ưa thích trong hoạt động chính trị” và thú nhận năm 1804 rằng “quyền lực hiện giờ là một mục tiêu vô hình đối với ông”, trong khi đó Grenville khẳng định “khái niệm về sự phục vụ không giới hạn trong tình huống như của tôi không hề phù hợp với tâm trạng của tôi”. Khi nhiều mong muốn giằng xé tâm trạng thì mong muốn lãnh đạo luôn thắng thế trong con người Pitt. Ngoại trừ sự nản lòng khi lần đầu gặp thất bại tháng 1/1784, Pitt chưa bao giờ có ý niệm bỏ cuộc cho đến khi ông bất ngờ phải ra đi vào tháng 2/1801. Những ý nghĩ được kích động bởi điều sỉ nhục từ tình hình Ochakov trong năm 1791 đã nhanh chóng qua mau với lời biện minh là nó có thể ảnh hưởng đến quan điểm của Vua Anh, trong khi đó kế hoạch định thực hiện đầu tháng 6/1797 giao cho Addington chỉ được vạch ra để thuyết phục Pháp tiến tới những đàm phán hòa bình, và Pitt sẽ quay trở lại khi hòa bình được ký kết, nhưng kế hoạch đó đã nhanh chóng tan vỡ khi Pháp thể hiện mong muốn đàm phán với Pitt với tư cách là Thủ tướng.
Bước lên nắm quyền với kinh nghiệm quản lý chưa đầy 9 tháng và được bầu nhờ khả năng lãnh đạo Viện Bình dân, Pitt nhanh chóng chiếm được niềm tin của mọi người bởi ông là “con người vì công việc” đầy nhiệt huyết, điều này cũng là phần thưởng lớn cho chính phủ của Vua Anh. John Ehrman coi đặc điểm nổi trội của Pitt là tính hệ thống. Ông có thể tiếp cận các vấn đề, thận trọng tìm kiếm các sự kiện thực tế trước khi lập kế hoạch: Việc ông sử dụng những thông tin và biện pháp có tính hệ thống được coi là công cụ mang tính quyết định để đưa tinh thần hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa vào quy trình của chính phủ. Phong cách này đã thể hiện năng lực của ông. Ông có khả năng lĩnh hội thông tin thật phi thường. Theo Dundas thì “trí nhớ của Pitt tuyệt vời đến nỗi ông có thể nhận rõ bản chất của mọi thứ”, sự thấu hiểu vấn đề nhanh chóng đến mức “tường tận” và “tột bậc” của Pitt được nhiều người từng làm việc với ông ghi nhận. Có dịp làm việc với Pitt khi kê khai khoản tiền phải trả của Thái tử Wales, Cholmondely đã trầm trồ “thật khó tưởng tượng về khả năng tính toán rõ ràng và nhanh chóng của Pitt. Chỉ trong vài phút, ông đã tính toán và giải quyết xong tất cả các mục khiến tôi phải thán phục về khả năng của ông”. Douglas, thành viên Ủy ban Tài chính của chính phủ, khẳng định Pitt “có tài năng đặc biệt trong việc biến đổi văn bản mang tính thể thức như các báo cáo, các điều khoản luật… sang dạng ngắn gọn, tao nhã, chính xác và có chất lượng nhất”. Khả năng thẩm thấu các chi tiết được kết hợp với “trí nhớ phi thường” “chặt chẽ đến nỗi Pitt không bao giờ quên những điều đã được học”. Rõ ràng ông đã khai thác thế mạnh này. Douglas cho rằng cách thức mà Pitt nghe những lời đề nghị có vẻ “khó khăn và không mấy vô tư”, nhưng “những nghi ngờ và sự quan sát của ông thật sự là của một người tài giỏi đáng tin cậy”. Khả năng nắm bắt các chi tiết được thể hiện trong lời giải thích rõ ràng về các vấn đề quản lý và tài chính phức tạp tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về ông. Đầu năm 1785, quý bà Gower miêu tả “những người thông minh nhạy cảm” đã ngạc nhiên như thế nào khi nghe Pitt thể hiện “một vốn kiến thức quá hoàn thiện về thương mại, tài chính và chính phủ đến nỗi người ta có cảm tưởng đang được nghe một người có vốn kinh nghiệm 50 năm về những vấn đề này”.
Theo Wilberforce, tất cả những nhân vật nổi tiếng hoặc lãnh đạo của các cơ quan đều phải thừa nhận “Pitt là người… đơn giản nhất và dễ tính nhất mà họ từng trao đổi công việc”. Các bộ trưởng của Pitt cũng khẳng định tính tình nhã nhặn của ông. Pretyman ghi nhận “ông luôn bình thản, thoải mái trước những khiêu khích nặng nề, và tự kiềm chế tới mức mà tôi chưa thấy ở một người nào khác”; trong khi đó, Dacres Adams khẳng định “tất cả những lần tôi mắc khuyết điểm, chưa bao giờ Pitt có lời nói gay gắt hoặc cái nhìn khinh miệt, tất cả những gì tôi nhận được là lòng tốt và sự khoan dung”. John Fordyce là một viên chức có ấn tượng rất mạnh về “sự quan tâm trọn
vẹn và khách quan mà Pitt dành cho mình”, còn Dudley Ryder đã mô tả “tài năng đặc biệt của Pitt là khiến mọi người có thể sẵn lòng đưa ra ý kiến của họ khi trò chuyện với ông, ông đã mở rộng tầm nhìn và phát triển nhận thức của họ”. Công việc đối với Pitt thật sự là một hoạt động xã hội. Ông ghét cay ghét đắng việc trao đổi qua thư từ và thích bàn trực tiếp các vấn đề với những người liên quan, tìm kiếm lời khuyên, thông tin và phổ biến những ý kiến của mình. Chẳng hạn năm 1784, Chánh án Tòa thượng thẩm được yêu cầu bàn luận 15 phút về bộ máy tư pháp của Ấn Độ. Hay năm 1788, khó xử trước một điều khoản trong cuộc đàm phán với Hà Lan, Pitt đã triệu tập Grenville với lý do “tôi không muốn tin vào quan điểm của chính mình, nó gần như là tất cả những gì mà tôi phải tin về vấn đề này trong thời điểm hiện nay. Do vậy, tôi rất sẵn lòng bàn luận vấn đề này với anh về tất cả những gì có thể”. Pitt thích làm việc càng dân dã càng tốt. Sau này, Dundas nhớ lại: “Khi giải quyết công việc của nhà nước hay lập kế hoạch… chúng tôi không bao giờ quay trở về Bộ để bàn bạc. Tất cả những vấn đề này được chúng tôi thảo luận và giải quyết hoặc là khi trên đường chạy bộ buổi sáng hoặc là khi đi dạo buổi tối ở Wimbledon. Chúng tôi đã quen với việc đi dạo buổi tối bắt đầu từ 8 giờ, cũng có khi là 10 giờ hoặc thậm chí là 11 giờ vào mùa hè”.
Khi Pitt đang trong thời kỳ huy hoàng nhất, một ngày của ông ở London bắt đầu rất sớm bằng việc đọc hoặc viết. Ông thường dùng bữa sáng lúc 9 giờ, thỉnh thoảng với những người quen mà ông cần bàn thảo công việc. Đôi lúc, theo như lời người phục vụ, ông mải mê công việc đến nỗi quên cả bữa sáng và tất nhiên ra khỏi nhà lúc 12 giờ mà không ăn gì. Khoảng giữa buổi, ông thường chạy bộ ở công viên, phần lớn thời gian còn lại ông dành cho các buổi phỏng vấn ở các ủy ban cho đến tận bữa tối lúc 5 giờ. Đây là lúc ông muốn nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng. Pitt ít khi ăn tối một mình, ông thường ngồi với một số người mà ông quý mến và kính trọng, “chăm chú lắng nghe những câu chuyện của họ cho tới giờ làm việc buổi tối”. Vị khách thường xuyên của Pitt là Pepper Arden, người đóng vai trò là chú hề thường gây cười trong thời gian Pitt rảnh rỗi. Pitt hưởng ứng nhiệt tình lời mời ăn tối cùng bạn bè. Trước khi áp lực của cuộc chiến tranh cuốn hút sự chú ý của ông, ông thường tới dự những cuộc hội họp thân mật vào buổi tối do phu nhân Công tước Gordon tổ chức. Tuy nhiên, công việc lại bắt đầu vào khoảng 9 giờ tối, sau khi ông đã quay trở về phòng, tắm mát thoải mái và tiếp tục làm việc đến khuya. Thông thường, các bộ trưởng và những người có vai trò tích cực trong công việc ở các vị trí xã hội khác nhau cũng tham dự cùng ông. Bức thư mà Pitt và Grenville viết ở phố Downing lúc 11 giờ đêm ngày thứ bảy năm 1786 đã giải thích cho Jenkinson rằng họ đang cùng xem xét tỉ mỉ bản dự thảo và hướng dẫn thực hiện Hiệp ước Thương mại với Pháp, đồng thời cần sự có mặt của Jenkinson trong