🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hiệp Khách Hành - Kim Dung
Ebooks
Nhóm Zalo
KIM DUNG
HIỆP KHÁCH HÀNH Người dịch: Đông Hải
Nhà xuất bản Văn học
Công ty Văn hóa Phương Nam
Đứa ăn xin đang sắp nuốt một miếng bánh nữa thì bỗng thấy tử thi đột nhiên từ từ ngồi dậy, cặp thiết câu vẫn còn cắm ở bụng. Nó sợ đến ngẩn người, tim đập loạn xạ. Tử thi khuỵu chân cúi xuống, mò mẫm trên mặt đất, sờ thấy vật gì cũng không để ý, cứ sờ đến bánh tiêu thì xé ra rồi vứt đi.
Hồi 1
Huyền Thiết Lệnh
Triệu khách mạn hồ anh
Ngô câu sương tuyết minh
Ngân yên chiếu bạch mã
Táp đạp như lưu tinh
Thập bộ sát nhất nhân
Thiên lý bất lưu hành
Sự liễu phất y khứ
Thâm tàng thân dữ danh
Nhàn quá Tín Lăng ẩm
Thoát kiếm tất tiền hoành
Tương chích đạm Chu Hợi
Trì khương khuyến Hầu Doanh
Tam bôi thổ nhiên nặc
Ngũ nhạc đảo vi khinh
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu
Ý khí tố nghê sinh
Cứu Triệu huy kim trùy
Hàm Đan tiên chấn kinh
Thiên thu nhị tráng sĩ
Huyên hách Đại Lương thành
Túng tử hiệp cốt hương
Bất tàm thế thượng anh
Thùy năng thư các hạ
Bạch thủ thái huyền kinh.
(Khách nước Triệu phất phơ dải mũ,
Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương.
Ngân yên bạch mã huy hoàng,
Vó câu vun vút như ngàn sao bay.
Cách mười bước giết người chẳng trật,
Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi.
Việc xong rũ áo ra đi,
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm.
Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến,
Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi.
Này nem này rượu khuyên mời,
Bên thời Chu Hợi, bên thời Hầu Doanh.
Ba chén cạn, thân mình sá kể,
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng.
Mắt hoa mặt đã nóng bừng,
Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.
Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái,
Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng.
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,
Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.
Người dù chết còn xương thơm ngát,
Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào.
Kìa ai ẩn náu trên lầu,
Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong.)
Đây là bài cổ phong Hiệp Khách Hành của Lý Bạch, viết về chuyện của Hầu Doanh và Chu Hợi, hai vị môn khách của Tín Lăng Quân ở nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ngàn năm sau, hậu nhân đọc lại vẫn thấy lời văn sắc bén, tráng khí hào hùng, như hiệp sĩ oai phong ở ngay trước mặt. Thành Đại Lương trong bài cổ thi này ở cạnh sông Hoàng Hà, sau gọi là Biện Lương, tức là phủ Khai Phong huyện Hà Nam ngày nay. Nơi đây tuy đã mấy đời là chốn kinh thành, nhưng phong tục dân chúng vẫn còn chất phác. Khí thế hào hiệp, khẳng
khái anh hùng từ thời cổ đại truyền mãi về sau cho hậu thế, đến nay vẫn chưa mai một.
* * *
Cách cửa đông thành Khai Phong chừng mười hai dặm có một thị trấn nhỏ gọi là Hầu Giám Tập. Thị trấn nhỏ này có tên như thế, vì Hầu Doanh vốn là Di Môn Giám Giả của Đại Lương. Phía đông thành Đại Lương vốn có một quả núi hình thế bằng phẳng gọi là Di Sơn, nên cửa đông còn gọi là Di Môn. Di Môn Giám Giả chính là một chức quan nhỏ coi việc đóng mở cửa thành phía đông Đại Lương.
Lúc ấy trời đã xế chiều. Dân chúng ngoại thành về họp chợ ở thị trấn, kẻ gánh người đội quay về nhà thật là tấp nập. Đột nhiên, ở phía Đông Bắc văng vẳng có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, cả một đại đội nhân mã, ít ra phải có đến hai trăm kỵ sĩ đang phi như bay. Vó ngựa chạy đã rất gấp, mà người cưỡi ngựa còn cố gia roi cho nhanh hơn nữa. Mọi người bàn tán xôn xao: “Chắc đây là quan quân của triều đình.” Có người nói: “Chúng mình mau tránh ra là hơn, lỡ binh mã quan quân kéo qua xô ngã, đổ cả gánh hàng, cũng phải chịu thôi. Giả tỉ bị xéo chết thì lại càng khốn nạn.”
Đột nhiên lại nghe những hồi còi xen lẫn vào tiếng vó ngựa. Sau chốc lát, những hồi còi này tựa hồ đông gọi tây thưa, nam xướng bắc họa, dường như bốn mặt tám phương đều có tiếng còi, vây chặt Hầu Giám Tập. Mọi người kinh hãi thất sắc. Những ai có chút hiểu biết đều không khỏi phỏng đoán: “Phải chăng đây là cường đạo?”
Trong tiệm tạp hóa ở ngay đầu thị trấn, một tên phụ việc lè lưỡi nói: “Úi chà! E rằng mấy vị lão ca đó sắp đến rồi!”
Chủ quán họ Vương sắc mặt tái mét, giơ cánh tay mập mạp run rẩy lên, tưởng chừng như muốn đập gãy đầu tên phụ việc đó. Hắn quát mắng: “Con mẹ nó! Ngươi nói cái gì mà lão ca với tiểu ca? Giả tỉ các vị đại gia đó đến đây thật mà nghe thấy, thì cái mạng nhỏ xíu của ngươi có còn giữ được không? Vả lại, ta cũng chưa thấy giữa ban ngày ban mặt mà có chuyện như thế bao giờ? Úi chà! Chắc… chắc là có chuyện gì rồi…”
Tới nửa câu cuối cùng, hắn há hốc miệng ra không nói thêm được nữa, vì bỗng thấy mé đông đầu thị trấn có bốn năm con tuấn mã chạy tới. Bọn kỵ sĩ đều mặc áo đen, đầu đội nón rộng vành, tay cầm cương đao sáng loáng. Chúng lớn tiếng quát: “Bà con cô bác ở đâu phải đứng yên đó, không được nhúc nhích. Hễ ai cục cựa thì đừng trách đao kiếm không có mắt.” Chúng vừa quát tháo vừa quất ngựa chạy về hướng Tây. Móng ngựa bịt sắt nện xuống đường lát đá xanh bật lên những tiếng côm cốp, nghe vừa kinh hãi vừa hồi hộp.
Tiếng vó ngựa chưa dứt thì từ hướng tây lại có bảy tám con ngựa chạy đến. Bọn kỵ sĩ cũng mặc toàn áo đen, đầu đội nón rộng vành kéo sụp xuống. Mấy người này cũng hò hét om sòm: “Ngoan ngoãn đứng yên thì không sao hết! Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra.”
Tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bỗng cười khẩy một tiếng, rồi nói: “Đao thì làm gì có mùi…” Hắn chỉ muốn nói giỡn một câu, nào ngờ nói chưa xong thì đã bị một đại hán vung roi vào trong quán quấn trúng cổ, rồi thuận tay giật một cái. Lập tức nghe một tiếng “bình”, gã đã văng ra, nằm lăn giữa mặt đường.
Đại hán đó cứ phóng ngựa chạy về phía trước, lôi cả tên giúp việc đi. Một con ngựa đi sau phóng nhanh tới, vó trước xéo lên một cái. Tên giúp việc chỉ rú được một tiếng rồi im, dĩ nhiên đã mất mạng rồi. Mọi người đứng xung quanh thấy bọn này hung hãn như vậy, làm sao dám nhúc nhích nữa? Có người muốn về đóng cửa lại, nhưng hai chân tựa như bị đóng đinh xuống đất, toàn thân run bần bật, chân tay lóng cóng, muốn nhúc nhích cũng không được nữa.
Cách tiệm tạp hóa đó năm sáu căn có một tiệm bán bánh tiêu và dầu cháo quẩy. Chảo dầu đang sôi sùng sục, trên rổ sắt có đặt bảy tám cái bánh. Một ông lão đầu tóc hoa râm đang ngồi trước cái chảo, cúi xuống nặn bột thành những viên nhỏ, rồi lại đè bẹp ra thành miếng hình tròn, tựa như không nhìn thấy những chuyện kinh tâm động phách xảy ra trước mắt. Lão lại cho một ít nhân vào giữa miếng bột, gói lại thành cái bánh, rắc lên một ít mè, rồi dùng kẹp sắt bỏ bánh vào chảo dầu sôi.
Lúc này tiếng còi bốn mặt đã ngừng thổi, ngựa cũng không chạy nữa. Cả một thị trấn bảy tám trăm người tuyệt không tiếng động. Ngay những đứa nhỏ đang khóc cũng bị bố mẹ chúng bịt miệng lại, không cho phát ra chút thanh âm nào, mọi người hầu như nín thở. Bỗng nghe vang lên những tiếng lộp cộp của giày da nện trên đường phố lớn ở mé tây.
Người này đi rất thong thả, chân bước trầm trọng. Mỗi bước chân của y đều khiến mọi người lo lắng, tưởng chừng như chân y xéo lên trái tim mình. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần.
Mặt trời sắp khuất sau núi phía tây. Một bóng người dài lê thê in xuống mặt đường, theo tiếng bước chân mà chậm chạp nhích gần lại. Mọi người đều sợ hãi đứng thộn mặt ra, chỉ có một mình ông lão kia là vẫn tiếp tục chiên bánh. Tiếng giày da lộp cộp đến trước cửa tiệm bánh này thì dừng lại. Người đó để mắt ngó ông lão từ đầu đến chân rồi đột nhiên bật lên mấy tiếng cười lạnh.
Lão bán bánh từ từ ngẩng đầu lên, thấy người đó thân hình cao lêu nghêu, mặt chỗ lồi chỗ lõm như vỏ cam, chằng chịt những mụn cóc. Lão bán bánh gật đầu chào, hỏi: “Đại gia muốn mua bánh phải không? Một đồng một chiếc.” Rồi lão cầm chiếc kẹp sắt gắp bánh ra, đặt chiếc bánh tiêu nóng bỏng lên một tấm ván màu trắng.
Gã cao kều cười nhạt nói: “Đưa đây!” Rồi hắn đưa tay trái ra. Lão già nheo mắt lại, “Vâng!” một tiếng, rồi gắp chiếc bánh nóng hổi đặt vào bàn tay gã.
Gã cao kều đột nhiên dựng đứng lông mày, giận dữ quát: “Lúc này mà ngươi còn dám giỡn mặt lão gia ư?” Rồi gã cầm cái bánh liệng vào mặt lão già đánh vèo một tiếng. Lão già chậm rãi nghiêng đầu đi, chiếc bánh bay vù qua rồi rớt vào rãnh nước bẩn bên cạnh đường.
Gã cao kều vừa liệng bánh ra, lập tức xoay tay về sau lưng rút ra một cặp song câu. Ánh tịch dương chiếu vào đầu câu liêm, phát ra ánh xanh lè khiến người ta phải kinh hãi. Gã lớn tiếng quát hỏi: “Đến bây giờ còn chưa chịu đưa cái đó ra ư? Họ Ngô kia! Ngươi có hiểu biết thời thế không?”
Lão già bán bánh đáp: “Đại gia nhìn lầm người rồi. Lão họ Vương, người ta kêu bằng lão Vương bán bánh, ở Hầu Giám Tập này ai cũng biết.”
Gã cao kều lại cười khẩy: “Con mẹ nó! Bọn ta đã điều tra rõ ràng, ngươi lại còn giả bộ ư? Ngươi cải trang thì bất quá trốn được một năm sáu tháng, nhất định không trốn được cả đời.”
Lão già bán bánh nheo mắt, chậm rãi nói như không có chuyện gì: “Ta vẫn nghe nói An trại chủ Kim Đao Trại thường cướp của người giàu để giúp người nghèo. Trên chốn giang hồ ai đề cập đến hắn cũng đưa ngón tay cái lên mà khen là hiệp đạo. Thế mà sao hôm nay hắn lại phái bọn tiểu lâu la đi làm càn, lại kiếm chuyện cả với lão bán bánh tiêu nghèo hèn này là nghĩa làm sao?” Nhìn lão thì thấy không có khí lực chi hết, thế mà nói mấy câu này lại rất dõng dạc rõ ràng.
Gã cao kều giận dữ quát: “Ngô Đạo Thông! Ngươi nhất định không đưa ra ư?”
Lão già bán bánh hơi đổi sắc mặt, má bên trái hơi giần giật, nhưng vẫn thản nhiên hỏi lại: “Ngươi đã biết Ngô mỗ mà còn dám đến đây vô lễ, lá gan có bị to quá không?”
Gã cao kều mắng lại: “Gan mật của lão gia to hay nhỏ, đến hôm nay ngươi mới biết hay sao?” Tay trái gã vung câu ra chiêu Thủ Đáo Cầm Lai, nhanh như chớp móc xuống vai bên trái Ngô Đạo Thông.
Ngô Đạo Thông né mình qua phải, cây thiết câu của gã cao kều móc vào quãng không. Gã lập tức rút tay trái về, hữu câu nhằm vào sau lưng Ngô Đạo Thông mà móc. Ngô Đạo Thông đột nhiên lún mình xuống tránh khỏi chiêu này, rồi co chân phải đá vào lò lửa đỏ rực. Toàn bộ than hồng trong lò bay vọt đến gã cao kều, chảo dầu sôi để chiên bánh tiêu cũng tạt thẳng tới.
Gã giật mình kinh hãi, vội nhảy lùi lại tránh được than hồng, nhưng không tránh được chảo dầu sôi. Gã rú lên một tiếng “Úi chao!”, chảo dầu đầy đã tạt trúng hai đùi, đau đớn thét lên be be.
Ngô Đạo Thông vận sức xuống chân để nhảy vọt lên không, hạ xuống nóc nhà đối diện, trong tay vẫn nắm chiếc kẹp sắt để nướng
bánh. Đột nhiên thanh quang lấp loáng, một lưỡi đơn đao chém thẳng xuống đầu lão.
Ngô Đạo Thông đưa kẹp sắt lên đỡ đánh choang một tiếng, lửa bắn tóe ra.
Cái kẹp sắt trông đen thui chẳng đẹp đẽ gì, nhưng lại được đúc bằng thép ròng, nên mới gạt được lưỡi đao ngược trở lại.
Giữa lúc ấy, một cây đoản thương từ bên trái, và một cặp song đao từ bên phải đồng thời đánh tới, thì ra chung quanh nóc nhà đã bố trí mai phục. Ngô Đạo Thông hứ lên một tiếng rồi quát mắng: “Bọn vô liêm sỉ, ỷ đông người để thủ thắng!”
Lão vươn người lên, tách cái kẹp làm đôi. Mỗi tay lão cầm nửa cái kẹp, bên trái gạt thương, bên phải đỡ song đao. Thế là cây kẹp để gắp bánh tiêu biến thành một đôi phán quan bút.
Đôi bút của Ngô Đạo Thông vung ra liên tiếp, chiêu nào cũng nhằm vào huyệt đạo trọng yếu của đối phương, tuy phải lấy một chọi ba mà vẫn chiếm được thượng phong. Bỗng lão quát lên: “Trúng!”. Gã sử đoản thương la lên một tiếng “Úi chao!”, đùi trái trúng một bút, lăn long lóc từ trên nóc nhà xuống.
Trên một mái nhà ở phía tây bắc, có một lão già vừa lùn vừa ốm đang đứng chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nhìn ba người giao đấu.
Ánh bạch quang lấp loáng, gã sử đơn đao lại bị cây bút bên trái của Ngô Đạo Thông đâm trúng ngực té nhào, đầu cắm thẳng xuống đường phố. Gã sử song đao hình như đã khiếp sợ muốn trốn, múa tít cặp đao như tuyết rơi hoa rụng che kín trước người, chỉ thủ chứ không công nữa.
Lão già vừa lùn vừa ốm từ từ bước tới, khi đến gần, ngón tay trỏ đột nhiên chĩa ra, điểm tới mắt trái của Ngô Đạo Thông. Phát chỉ này thần tốc vô cùng, buộc Ngô Đạo Thông vội vã thu bút về gạt. Ngón tay của lão lùn ốm hạ xuống một chút, né được cây thiết bút, rồi đâm thẳng vào yết hầu đối thủ. Thế bút của Ngô Đạo Thông đã hết đà, không thể biến chiêu, đành phải lùi lại một bước.
Lão lùn ốm cũng tiến lên một bước, lại vung ngón trỏ ra toan điểm vào bụng dưới đối phương. Ngô Đạo Thông vung tả bút gạt đi, hữu
bút nhằm đập xuống đầu lão lùn ốm. Ngờ đâu lão lùn ốm lại xông thẳng tới trước, nhảy xổ vào người y.
Lão nhảy vọt tới vừa tránh khỏi chiêu bút của đối phương, vừa vung cả hai tay nhằm nắm vào trước ngực Ngô Đạo Thông.
Ngô Đạo Thông cả kinh thất sắc vội lùi lại phía sau. Bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngực áo lão đã bị đối phương túm lấy rồi xé rách một mảnh lớn. Ngô Đạo Thông trong lúc hoang mang cũng không kịp xem mình đã bị thương chưa. Lão xoay tay đảo ngược song bút, xuất chiêu Hoàn Bão Lục Hợp, hai chuôi bút nhằm gõ vào huyệt thái dương ở hai bên đầu lão lùn ốm.
Lão lùn ốm không né tránh mà cũng không chống đỡ, lại xông về phía trước, vung song chưởng đánh trúng trước ngực Ngô Đạo Thông. Mấy tiếng lách cách vang lên, không biết đã có mấy cái xương sườn bị gãy. Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà nhào thẳng xuống đất.
Cặp đùi của gã cao kều đã bị dầu sôi đổ vào phỏng hết cả. Gã kêu la ầm ĩ, nhưng vì hai chân bị thương mà không thể nhảy lên nóc nhà để liều mạng được. Gã lại biết lão già lùn ốm Chu Mục kia tính khí cao ngạo tự phụ, đã ra tay thì không muốn ai vào trợ lực, nên chỉ nằm ngửa mặt lên xem hai bên giao đấu. Vừa thấy Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà ngã lăn xuống, gã cao kều cả mừng nhảy xổ lại, vung song câu đâm thẳng vào bụng kẻ thù, rồi lấy làm đắc ý, ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.
Chu Mục vội la lên: “Phải hỏi cung đã!” Nhưng chậm mất rồi, song câu đã đâm thủng bụng Ngô Đạo Thông.
Bất thình lình, gã cao kều la lên: “Úi chao!” rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, trước ngực đã bị hai cây thiết bút đâm suốt từ ngực ra sau lưng. Máu từ bốn lỗ vết thương chảy ra ào ào, gã lảo đảo mấy cái rồi té huỵch xuống. Thì ra Ngô Đạo Thông lúc lâm tử còn dồn tàn lực đánh một đòn, gã cao kều không kịp đề phòng nên bị thiết bút đâm vào yếu huyệt. Bọn người Kim Đao Trại vội chạy tới nâng gã dậy, thì gã đã tắt hơi rồi.
Chu Mục không ngó ngàng gì đến gã cao kều, khóe miệng lộ ra một nét cười bỉ ổi. Lão sờ xem Ngô Đạo Thông, thấy họ Ngô đã hết thở, bèn chau mày quát lên: “Lột y phục nó ra, khám xét kỹ lưỡng!”
Bốn tên thuộc hạ lập tức “Dạ” một tiếng, lột sạch áo Ngô Đạo Thông ra thì thấy sau lưng hắn có đeo một cái bọc. Hai đại hán áo đen mở bọc ra xem, thì thấy trong bọc lại còn nhiều lớp bọc nữa, toàn gói bằng vải dầu. Hai gã cứ mở một lớp thì Chu Mục lại vui mừng thêm một chút. Chúng đã mở tới mười mấy lớp vải dầu, những gói sau càng lúc càng nhỏ hơn. Tới lúc cái gói chỉ còn chừng ba tấc vuông, Chu Mục ra vẻ ủ rũ, đưa tay ra giật lấy, nắn thử một cái, rồi giận dữ nói: “Con mẹ nó! Toàn là thứ để lừa bịp người ta, chẳng cần xem nữa. Mau vào lục soát trong nhà.”
Mười mấy hán tử áo đen vâng dạ chạy vào nhà. Tiệm bánh này trước sau chỉ có hai phòng, bọn chúng xông vào lục soát lung tung hết cả gầm giường gầm ghế. Những thứ bát đĩa, quần áo dần dần bị quăng hết ra ngoài.
Chu Mục la hét liên hồi: “Phải tìm thật kỹ, đừng để sót chỗ nào.”
Chúng lục soát mất nửa ngày thì trời đã tối mịt không còn thấy gì nữa. Bọn đại hán đốt đuốc lên tìm tiếp, đập cả tường vách, đập cả bếp lò.
Choang một tiếng, một cái lu bị quăng ra giữa đường vỡ thành mấy chục mảnh. Bột trong lu bay tứ tán đầy đường.
Trong màn đêm, một bàn tay dơ bẩn từ góc tường bên cạnh len lén thò vào rãnh nước bẩn, sờ soạng nhặt được cái bánh tiêu rồi len lén rút về.
Đó là tay của một đứa ăn xin chừng mười hai mười ba tuổi. Nó đã nhịn đói cả ngày, không ngồi tựa vào góc tường nổi nữa. Từ lúc Ngô Đạo Thông đưa cho gã cao kều cái bánh tiêu này, rồi gã lại liệng xuống rãnh nước bẩn, đứa ăn xin cứ mở to đôi mắt, nhìn chằm chặp vào chiếc bánh. Từ lâu nó đã muốn thò tay ra lượm lấy mà ăn, nhưng thấy bọn hán tử áo đen dữ tợn như hung thần ác sát thì sợ đến không dám nhúc nhích. Cạnh cái bánh tiêu này vốn đã có thi thể
của tên giúp việc trong tiệm tạp hóa, lát sau lại thêm hai cái xác của Ngô Đạo Thông và gã cao kều.
Mãi đến lúc trời tối mịt, ánh đèn không chiếu đến chỗ rãnh nước, đứa ăn xin mới đánh bạo thò tay ra lượm lấy chiếc bánh tiêu. Bụng đói quá nên nó chẳng nghĩ đến nước hôi thối hay đất bùn đã thấm vào bánh nữa, đưa lên miệng cắn luôn một miếng, rồi ngậm lại chứ không dám nhai, vì nó sợ nhai tóp tép phát ra tiếng động sẽ bị bọn hán tử cầm đao nghe thấy. Bánh còn ngậm trong miệng chưa nuốt xuống, nhưng trong bụng nó đã cảm thấy khoan khoái rồi.
Lúc này bọn hán tử áo đen đã lục lọi đảo lộn cái tiệm bánh đến không nhận ra nữa, ngay cả gạch lát nền cũng bị móc lên hết. Chu Mục thấy tìm mãi chẳng được gì, cuối cùng cũng quát lên: “Rút lui!”
Những tiếng còi lại vang lên, rồi vó ngựa chạy rầm rập, từng đoàn hảo hán Kim Đao Trại rút ra khỏi Hầu Giám Tập. Hai tên trong bọn khiêng thi thể gã cao kều đặt vắt ngang yên ngựa. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn họ đi hết chẳng còn một ai.
Đến lúc tiếng vó ngựa hoàn toàn không nghe thấy nữa, trong Hầu Giám Tập mới có tiếng người thì thào. Nhưng họ sợ bọn hán tử cưỡi ngựa đi rồi còn quay lại nên không ai dám nói to. Chủ tiệm tạp hóa cùng một tên giúp việc khác ra khiêng thi thể gã lắm mồm vào tiệm, rồi đóng chặt cửa lại, không dám ra nữa. Rồi bên đông nghe ken két, bên tây nghe loảng xoảng, nhà nào cũng vội đóng cửa cài then. Chẳng mấy chốc, mọi đường phố trong thị trấn đã vắng bóng người, cũng không còn âm thanh gì nữa.
* * *
Đứa ăn xin thấy thi thể Ngô Đạo Thông nằm lăn dưới đất không ai nhìn đến thì trong lòng cũng hơi sợ hãi. Nó trệu trạo nhai cái bánh rồi nuốt một miếng nhỏ, đang sắp nuốt một miếng nữa thì bỗng thấy thi thể Ngô Đạo Thông đột nhiên động đậy. Nó giật mình kinh hãi, dụi mắt nhìn lại thì thấy tử thi từ từ ngồi dậy. Nó sợ đến ngẩn người, tim đập loạn xạ. Rồi tử thi duỗi thẳng hai chân ra, đứng thẳng dậy. Mấy tiếng lạch cạch khẽ vang lên, chính là tiếng hai hàm răng của đứa ăn xin khua vào nhau.
Tử thi ngoảnh đầu lại. May mà đứa ăn xin đang ngồi co rúm vào sau góc tường, nên tử thi không nhìn thấy. Lúc này, trăng đang chênh chếch chiếu xuống, đứa ăn xin nhìn rõ khóe miệng tử thi vẫn còn rỉ máu tươi, cặp thiết câu vẫn còn cắm ở bụng. Nó cố cắn chặt hai hàm răng, không để khua lên lách cách nữa.
Rồi tử thi khuỵu chân cúi xuống, thò tay ra sờ soạng, nhặt lấy một cái bánh tiêu, xé đôi rồi vứt đi. Tử thi sờ đến cái bánh thứ hai cũng xé đôi vứt đi. Cảnh tượng này làm trái tim của đứa ăn xin nhảy mạnh như muốn văng ra khỏi miệng. Tử thi vẫn tiếp tục mò mẫm trên mặt đất, sờ thấy vật gì cũng không để ý, cứ sờ đến bánh tiêu thì xé ra rồi vứt đi. Tử thi vừa sờ soạng vừa nhích lại gần rãnh nước. Lúc bọn hán tử áo đen lục lọi trong tiệm bánh, chúng đã hất nguyên cái rổ có hơn hai chục cái bánh tiêu xuống đất. Bây giờ tử thi lại nhặt lên từng cái, nhưng không ăn mà chỉ xé ra xem rồi vứt đi.
Đứa ăn xin thấy tử thi lết dần đến gần góc tường thì sợ quá, chỉ muốn vắt chân lên cổ mà chạy trốn. Nhưng nó đang hoảng sợ đến nhũn người ra, hai chân cất lên làm sao được? Cử động của tử thi rất chậm chạp, thời gian cháy hết nén hương mới xé hơn hai chục chiếc bánh. Tử thi tìm mãi không thấy bánh nữa, bèn từ từ quay đầu lại, như để quan sát bốn phía xem còn nữa không. Lúc này đứa ăn xin đột nhiên phát hiện một điều, hồn vía bỗng bay mất hết. Thì ra nó nấp sau góc tường, ánh trăng từ sau lưng soi cái bóng đầu bù tóc rối của nó xuống đất, ngay cạnh chân của tử thi. Đứa ăn xin vừa thấy chân tử thi nhúc nhích, bỗng kêu được lên một tiếng rồi co giò bỏ chạy.
Tử thi cố gắng mở miệng kêu: “Bánh tiêu! Bánh tiêu!”, rồi cũng cất bước đuổi theo.
Đứa ăn xin vấp phải cái gì đó dưới đất, ngã lăn ra. Tử thi liền khom người xuống, thò tay ra toan nắm lấy lưng nó. Nó lăn một vòng tránh khỏi, rồi lại co giò chạy.
Tử thi loạng choạng mất một lúc mới chống tay xuống đất đứng lên được. Nhưng chân tử thi dài hơn nên bước được xa, tuy đi lắc lư như người say rượu mà chỉ mười mấy bước đã đuổi tới sau lưng đứa ăn xin, túm được gáy nó, nhấc bổng lên.
Tử thi cất tiếng hỏi: “Ngươi… ngươi ăn cắp bánh tiêu của ta phải không?” Đứa ăn xin không dám chối cãi, đành gật đầu.
Tử thi lại hỏi: “Ngươi… ngươi ăn rồi ư?” Nó lại gật đầu.
Tử thi đưa tay kéo áo đứa ăn xin, nghe “soạt” một tiếng, áo nó đã rách, để hở da thịt từ trước ngực xuống bụng. Tử thi lại nói: “Ta phải mổ bụng ngươi để lấy ra.”
Đứa ăn xin hồn bất phụ thể, run giọng nói: “Cháu… cháu… mới cắn một miếng…”
Thì ra Ngô Đạo Thông tuy bị song chưởng của Chu Mục đánh trúng ngực, lại bị gã cao kều đâm song câu vào bụng, nhưng chỉ ngất đi mà chưa chết, hồi lâu dần dần tỉnh lại. Bụng tuy là chỗ trọng yếu của con người, nhưng bị thương vào bụng thì không chết ngay được. Ngô Đạo Thông có một vật không thể nào quên, khi biết người ngựa của Kim Đao Trại đã rút đi hết, bèn mặc kệ vết trọng thương ở ngực và bụng, sống chết cố bò đi tìm vật đó.
Từ khi lão đoạt được vật đó, đã hóa trang thành một ông già bán bánh, ẩn cư tại Hầu Giám Tập ba năm bình yên vô sự, nhưng chưa tìm ra được chủ nhân của vật đó. Khi lão nghe tiếng còi và vó ngựa dồn dập của hai trăm nhân mã bao vây, chưa chắc là chúng đến tìm mình, nhưng cũng thấy cục diện nguy hiểm. Trong lúc cấp bách lão không biết giấu vật đó vào đâu, liền nhét ngay vào một chiếc bánh tiêu. Tới lúc gã cao kều xuất hiện, chìa tay ra bảo “Đưa đây”, Ngô Đạo Thông đi một nước cờ liều là đưa ngay cái bánh có giấu vật đó cho gã. Quả nhiên không ngoài dự liệu, gã cao kều tức giận liệng cái bánh đi.
Sau khi Ngô Đạo Thông trọng thương rồi tỉnh lại, không nhớ được mình đã giấu vật đó trong cái bánh nào, nên phải xé từng cái ra tìm, trước sau vẫn không thấy. Cuối cùng, lão túm được đứa ăn xin, đoán rằng thằng nhóc này đói quá mà nuốt chửng luôn vật kia vào bụng rồi, bèn định mổ bụng nó ra lấy lại. Nhưng lúc này lão không có dao kéo gì, bèn nghiến răng rút cây cương câu đang cắm ở bụng mình ra, xoay mũi câu lại toan rạch bụng đứa ăn xin.
Nhưng cương câu vừa rút ra khỏi bụng, lão bỗng thấy đau đớn không chịu nổi, máu từ vết thương phun ra như suối. Đầu nhọn của cương câu vừa chạm vào bụng gã ăn xin thì tay trái Ngô Đạo Thông bỗng nhũn ra, buông người nó rớt xuống đất. Cây câu trong tay phải Ngô Đạo Thông đâm lạc vào quãng không. Lão ngã lăn ra đất, giãy giụa mấy cái rồi nằm im, lần này thì chết thật.
Thằng bé bị đè dưới người Ngô Đạo Thông, phải cố giãy giụa hồi lâu mới bò ra được, lập tức co giò chạy thẳng. Thật là một phen hú vía. Nó mới chạy được mấy bước thì chân nhũn ra ngã nhào xuống, ngất xỉu đi. Tay nó vẫn nắm chặt cái bánh tiêu mới cắn được một miếng.
* * *
Ánh trăng mờ ảo chiếu xuống thi thể Ngô Đạo Thông, rồi xoay dần sang chiếu vào người thằng bé ăn xin.
Đột nhiên có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng lại, tiến tới rất nhanh, vừa nghe xa xa, chớp mắt đã đến gần. Dân cư ở Hầu Giám Tập còn chưa hết hoảng sợ, lại nghe tiếng vó ngựa giữa đêm khuya thì không khỏi phập phồng lo sợ. Người nào cũng run bần bật, rúc kỹ vào chăn. Nhưng lần này chỉ có hai con ngựa, mà cũng không có tiếng còi.
Đôi ngựa này hình dạng rất kỳ lạ. Một con từ đầu đến đuôi đen nhánh, bốn vó sắc trắng, đó là giống danh câu Ô Vân Cái Tuyết. Còn con kia thì trái lại, chỉ có bốn vó màu đen còn toàn thân trắng như tuyết, trong Mã Phổ gọi là Mặc Đề Ngọc Thố, rất hiếm thấy ở Trung Nguyên.
Người cưỡi ngựa bạch là một thiếu phụ mặc y phục tuyền màu trắng. May mà trên tóc nàng có giắt một bông hồng, ngang lưng lại thắt đai màu đỏ sậm, nếu không thì rất giống như đang mặc tang phục. Trên cái đai màu đỏ có đeo một thanh trường kiếm, vỏ kiếm cũng màu trắng. Người cưỡi ngựa ô là một hán tử trung niên, toàn thân mặc y phục đen, trên lưng đeo một thanh trường kiếm vỏ đen. Hai con ngựa phóng nhanh như bay, sóng vai chạy đến.
Hai người bỗng nhìn thấy thi thể Ngô Đạo Thông trên đường phố, nằm giữa đám đồ đạc bị vứt lung tung, đồng thanh la lên: “Úi chà!”
Hán tử áo đen vung roi ngựa ra quấn lấy cổ thi thể Ngô Đạo Thông, kéo đi mấy thước cho ánh trăng rọi vào mặt. Thiếu phụ lên tiếng: “Đây là Ngô Đạo Thông! Xem ra An Kim Đao đã lấy được cái đó rồi.”
Hán tử áo đen hất roi ngựa một cái, liệng xác Ngô Đạo Thông xuống đường rồi nói: “Ngô Đạo Thông chết chưa lâu, vết thương hãy còn rỉ máu. Ta có thể đuổi kịp được.” Thiếu phụ gật gật đầu.
Hai con ngựa lại phóng về phía tây. Tám vó ngựa gõ xuống đường lát đá xanh nghe lộc cộc rất đều, nghe như chỉ có một con ngựa đang chạy mà thôi. Đôi ngựa này vó trước vó sau cất lên hạ xuống rất nhịp nhàng và đẹp mắt. Bất luận là ai nhìn thấy bước chân của chúng, cũng phải nghĩ rằng chúng đã được huấn luyện lâu ngày, dù phóng nước đại mà cũng chẳng sai lệch chút nào.
Đôi ngựa càng chạy càng nhanh, chốc lát đã tới ngoài thành Biện Lương. Đến quãng đường hẹp không thể đi song song được nữa, thiếu phụ liền dừng cương một chút để nhường cho hán tử lên trước. Hán tử quay lại mỉm cười rồi phóng ngựa đi luôn. Thiếu phụ cho ngựa chạy theo sau.
Đôi tuấn mã này cước lực tuyệt luân, cứ theo tình trạng thi thể của Ngô Đạo Thông mà đoán, thì đã phải đuổi kịp được nhân mã Kim Đao Trại từ lâu, thế mà trước sau vẫn chẳng thấy tung tích gì cả. Hai người không ngờ rằng lúc Ngô Đạo Thông chết thật thì bọn người trại Kim Đao đã đi xa rồi.
Đôi ngựa đuổi không dừng vó thêm một giờ nữa, hai người mới dừng cho ngựa nghỉ một chốc, rồi lại lên ngựa đi tiếp. Tới lúc gần sáng thì họ nhìn thấy xa xa ở trong vùng hoang dã có lửa bốc lên. Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi nhảy xuống ngựa. Thiếu phụ đón lấy dây cương trong tay hán tử, dắt đôi ngựa buộc vào một cành cây to. Hai người thi triển khinh công chạy về phía có lửa cháy.
Lửa ngoài đồng trống xem thì rất gần, mà thực ra xa tới mấy dặm. Hai người thi triển khinh công thượng thặng đi như gió cuốn mây bay, lúc gần đến nơi, quả nhiên thấy một đoàn người ngồi vây quanh mười mấy đống lửa bưng những bát mì lớn mà ăn, nghe cả tiếng húp xì xụp. Hai người cũng muốn xem xét trước đã, nhưng nơi
đây là một khu bình nguyên bát ngát không có chỗ ẩn núp, nên khi còn cách mười mấy trượng, hai người đành phải sóng vai đi thong thả tới.
Trong đám người bỗng có tiếng quát hỏi: “Ai đó? Đến đây làm chi?”
Hán tử áo đen bước lên một bước, ôm quyền cười hỏi: “An trại chúa có trong đó không? Những bằng hữu nào đang ở đây?”
Lão già lùn Chu Mục ngẩng lên nhìn. Giữa ánh lửa sáng, lão nhìn rõ hai người mới đến đều khoảng trung niên, một nam một nữ, một áo đen một áo trắng, sóng vai mà đứng. Hán tử thì tuấn tú phong độ, thiếu phụ cũng thanh nhã diễm lệ, áo xiêm phấp phới, lưng cùng đeo trường kiếm.
Chu Mục chợt động tâm, biết ngay hai người này là ai. Lão uốn mình đứng phắt dậy, chắp tay nói: “Thì ra là phu phụ Thạch trang chúa Huyền Tố Trang tại Giang Nam đại giá quang lâm!” Rồi lão lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ mau mau đứng lên thi lễ! Hai vị này là phu phụ Thạch trang chúa, tiếng tăm lừng lẫy khắp đại giang nam bắc.” Mọi người đều đứng dậy cúi chào.
Chu Mục nghĩ thầm trong bụng: “Vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu vốn chẳng đi lại gì với Kim Đao Trại, thế mà mới mờ sáng lại tìm tới đây, chẳng biết có dụng ý gì? Hay là họ cũng vì vật đó mà đến?” Lão đảo mắt nhìn bốn phía thì thấy chung quanh hoang vắng, tuyệt không có người nào nữa, lại nghĩ: “Nghe nói kiếm thuật vợ chồng này rất giỏi, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông. Không hiểu họ đến đây làm gì?”
Thạch phu nhân là Mẫn Nhu khẽ bảo chồng: “Vị này là Chu Mục lão gia ở Ưng Trảo Môn.”
Tuy nàng nói nhỏ, nhưng Chu Mục cũng nghe rất rõ ràng, không khỏi đắc ý nghĩ thầm: “Thì ra Băng Tuyết Thần Kiếm cũng biết tên mình.” Lão vội lên tiếng: “Không dám! Chu Mục ở Kim Đao Trại xin bái kiến Thạch trang chúa và Thạch phu nhân.” Rồi lão lại cúi mình thi lễ.
Thạch Thanh mỉm cười nói với mọi người: “Các bằng hữu đang dùng bữa, tại hạ không dám quấy nhiễu. Xin các vị cứ ngồi xuống.” Rồi ông quay sang nói với Chu Mục: “Chu bằng hữu không cần khách sáo. Phu phụ tại hạ đã mấy lần được gặp Nhất phi xung thiên Trang huynh Trang Chấn Trung của quý môn. Vậy chúng ta cũng là chỗ quen biết chứ không phải người ngoài.”
Chu Mục đáp: “Nhất Phi Xung Thiên là sư thúc của lão phu.” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Tuổi ngươi còn nhỏ hơn ta nhiều, mà dám kêu sư thúc ta bằng Trang huynh, rõ ràng tự cho mình là bậc trưởng bối.” Lão nghĩ đến đây, bỗng thấy đối phương đến đây chẳng có ý định gì tử tế, bất giác thêm phần cảnh giác. Trong võ lâm, hai chữ “vai vế” hết sức quan trọng. Vãn bối gặp hàng trưởng bối dĩ nhiên phải tỏ vẻ cung kính, trưởng bối sai bảo điều gì thì không được coi thường, nếu không, bị bắt bẻ là phạm thượng thì đuối lý ngay.
Thạch Thanh thấy Chu Mục sa sầm nét mặt, lập tức hiểu ý, liền cười nói: “Thật là đắc tội! Ngày trước gặp nhau ở Tung Sơn, Trang huynh đã nhắc đến võ công quý môn, vợ chồng tại hạ hết sức khâm phục. Cũng là chỗ quen biết, tại hạ có một chuyện lẽ ra không nên nói, mong Chu thế huynh bỏ lỗi cho.” Thạch Thanh gọi Chu Mục bằng Chu thế huynh, rõ ràng tự xếp mình vào hàng trưởng bối.
Chu Mục nói: “Nếu tại hạ có điều mạo phạm tới hai vị, tưởng hai vị cũng nên châm chước cho. Hai vị dạy bảo điều chi mà sức tại hạ có thể làm nổi, nhất định sẽ tuân theo. Còn nếu việc có dính líu đến tệ trại thì địa vị tại hạ kém cỏi, không thể chủ trương được.”
Thạch Thanh nghĩ thầm: “Thằng cha này thật là lão luyện, chưa biết ta muốn gì đã đẩy trách nhiệm qua người khác.” Ông liền nói: “Vụ này không có liên quan gì đến quý trại, tại hạ chỉ muốn hỏi riêng Chu thế huynh một việc. Vợ chồng tại hạ đang tìm một người họ Ngô, tên là Ngô Đạo Thông, chuyên sử đôi phán quan bút. Nghe nói gần đây y cải trang thành một ông già, mai danh ẩn tích ở gần thành Biện Lương. Chẳng hiểu Chu thế huynh có nghe tin tức gì về hắn không?”
Thạch Thanh vừa nói đến ba chữ Ngô Đạo Thông, bọn người Kim Đao Trại đều nhốn nháo. Có tên đặt cả bát mì chưa ăn xong xuống.
Chu Mục nghĩ thầm: “Hắn từ phía đông đến đây, dĩ nhiên đã thấy thi thể Ngô Đạo Thông rồi. Nếu mình không nhận thì cũng không được.” Lão liền cười ha hả, đáp: “Thật là hay quá. Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Hai vị hỏi đến người đó thì thật là xảo hợp. Tại hạ dù võ công chẳng cao cường gì, nhưng đã lập được công lao cho hai vị. Gã Ngô Đạo Thông kia đắc tội với hai vị, nên Kim Đao Trại bọn tại hạ đã xử lý hắn rồi.” Chu Mục vừa nói vừa chăm chú nhìn Thạch Thanh, để xem ông lộ vẻ vui mừng hay tức giận.
Thạch Thanh lại mỉm cười: “Ngô Đạo Thông vốn không quen biết bọn tại hạ, thì làm gì có chuyện đắc tội? Nói ra sợ Chu thế huynh chê cười, bọn tại hạ đi tìm hắn chỉ vì một món vật trong người hắn.”
Da mặt Chu Mục hơi máy động, nhưng trấn tĩnh lại được ngay. Lão cười đáp: “Tin tức của hai vị thật là mau lẹ. Về chuyện này, tệ trại cũng đã biết rồi. Chẳng giấu gì Thạch trang chúa, chuyến này tại hạ dẫn huynh đệ đến đây cũng vì việc đó.” Lão thở dài một tiếng rồi nói tiếp: “Không biết quân chó má nào đã phao tin thất thiệt khiến cho Song bút Ngô Đạo Thông phải uổng mạng. Hơn hai trăm anh em tại hạ uổng công một phen đi lại thì chẳng kể làm chi, nhưng còn sợ khi trở về sẽ bị An đại ca quở trách là hành động bất lực. Trên chốn giang hồ cũng có rất nhiều chuyện đồn đãi. Nếu thiên hạ tưởng Kim Đao Trại được vật đó thật, kéo nhau đến kiếm chuyện với tệ trại, chẳng hóa ra oan uổng lắm ư? Trương huynh đệ! Chúng ta đánh chết họ Ngô trong trường hợp nào, lục lọi đến nát bét cái quán bánh tiêu ra sao, ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ cho Thạch trang chúa và Thạch phu nhân được rõ!”
Một hán tử nhỏ con, vẻ mặt rất tinh quái, lên tiếng: “Võ công của gã họ Ngô đó cũng rất khá. Đầu lĩnh Lý Đại Nguyên cũng bỏ mạng dưới tay hắn. Sau cùng Chu đầu lĩnh phóng song chưởng hất họ Ngô từ nóc nhà xuống đất, gân cốt toàn thân bị chấn động đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát…” Miệng lưỡi gã này rất linh hoạt, nói trơn như cháo lại còn gia thêm mắm muối, kể hết một lượt, thuật cả chuyện bọn chúng cạy từng viên gạch lên, đổ cả lu bột mì ra, phá cả
tường vách, đào hố dưới nền nhà, nhưng chuyện Chu Mục đã lấy cái bọc sau lưng Ngô Đạo Thông thì lại lờ đi.
Thạch Thanh gật gật đầu, nghĩ thầm: “Chu Mục từ lúc mới thấy chúng ta đã có vẻ đề phòng, hồi hộp không yên. Giữa Huyền Tố Trang và Kim Đao Trại trước nay không có chuyện gì xích mích. Nếu lão chưa lấy được vật kia, thì hà tất phải đề phòng vợ chồng mình đến thế?” Ông biết rằng nếu bọn này chưa lấy được vật đó thì thôi, còn nếu đã lấy được thì nhất định ở trong mình Chu Mục. Thạch Thanh liếc mắt nhìn thấy bọn Kim Đao Trại có tới hơn hai trăm người, mà tên nào cũng vừa tráng kiện vừa hung hãn. Tuy trong đám này không có cao thủ hạng nhất, nhưng số đông cũng khó mà đối phó. Vừa rồi Chu Mục nói chuyện tuy khách sáo nhưng không có ý tôn trọng, cũng chỉ vì ỷ thế đông người. Ông nghĩ thế nên vẫn tươi cười, trỏ tay sang một khu rừng xa xa phía trái, nói: “Tại hạ còn có chuyện muốn thương lượng với Chu thế huynh, xin mời qua kia nói chuyện.”
Làm sao Chu Mục chịu đi một mình được? Lão bèn đáp: “Ở đây đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu cả. Không có chuyện gì…” Còn bốn chữ “họ không nghe được” chưa kịp nói ra, thì đột nhiên cổ tay trái lão đã bị Thạch Thanh nắm lấy, rồi cả thân thể tê dại, tay phải cũng không còn chút sức lực nào. Chu Mục vừa kinh hãi vừa phẫn nộ. Từ khi vợ chồng Thạch Thanh xuất hiện, lão đã hết sức đề phòng, thế mà Thạch Thanh đang nói chuyện đã xuất thủ nhanh như điện chớp, chụp lấy cổ tay lão. Cầm nã thủ pháp chính là nghề ruột của Ưng Trảo Môn, thế mà Chu Mục chưa kịp ra tay đã bị đối phương kiềm chế huyệt đạo. Lúc này toàn thân lão không vận kình được nữa, tuyệt không còn cách nào giãy thoát, chốc lát đã toát mồ hôi trán.
Thạch Thanh lớn tiếng nói: “Chu thế huynh đã đồng ý qua bên kia nói chuyện, thật là tuyệt diệu.” Rồi ông quay lại bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Ta cùng Chu thế huynh qua bên kia nói chuyện mấy câu rồi quay lại lập tức. Sư muội hãy chờ ở đây một chút.” Nói xong, ông chậm rãi bước đi.
Mẫn Nhu dịu dàng đáp: “Sư huynh cứ tùy tiện!” Hai người đã kết tình phu phụ từ lâu, nhưng vẫn xưng hô là sư huynh sư muội.
Bọn Kim Đao Trại thấy Thạch Thanh cười nói vui vẻ, cùng đi với Chu Mục tựa hồ không có ác ý gì, vẫn để phu nhân ở lại đây thì không nghi ngờ chút nào. Chúng không ngờ bản lãnh của Chu Mục tới như vậy, mà bị người khác kiềm chế không một tiếng động.
Thạch Thanh nắm tay Chu Mục bước đi mỗi lúc một nhanh. Chu Mục chỉ chậm lại một chút là phải ngã lăn ra, nên cứ cắm đầu cắm cổ đi theo. Từ mấy đống lửa đến khu rừng phải đến một dặm, hai người chỉ đi một chốc đã đến nơi.
Thạch Thanh bỗng bỏ tay ra, cười nói: “Chu thế huynh!…”
Chu Mục nổi giận hỏi: “Ngươi làm trò gì thế?” Tay phải lão biến thành trảo, ra chiêu Bác Sư Thủ chụp vào trước ngực Thạch Thanh.
Tay trái Thạch Thanh vung từ trái sang phải thành một đường cong, lại chụp trúng cổ tay đối phương. Ông hất tay sang bên trái, nắm luôn cả tay kia của Chu Mục, rồi bẻ quặt cả hai tay lão ra sau lưng. Chu Mục vừa kinh hãi vừa tức giận, co chân phải đá ngược ra sau.
Thạch Thanh mỉm cười nói: “Hà tất Chu thế huynh phải giận dữ như thế.”
Chu Mục bỗng thấy hai huyệt Phục Thố và Hoàn Khiêu bị tê nhức, chân phải của lão chưa phóng ra thì đã mềm nhũn đi, thõng xuống lại. Như vậy lão chỉ còn một chân trái chấm đất, nếu lại cất lên đá hậu nữa thì dĩ nhiên phải ngã chúi về phía trước. Lão thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, tức giận ấp úng: “Ngươi… ngươi…”
Thạch Thanh nói: “Cái vật trong người Ngô Đạo Thông, chắc Chu thế huynh đã lấy được rồi. Thế huynh lấy ra cho tại hạ mượn xem một chút.”
Chu Mục đáp: “Đúng là thế, nhưng vật đó không ở trong mình ta. Ngươi có muốn xem, thì chúng ta trở về bên kia trước đã.” Lão muốn gạt Thạch Thanh về đến chỗ đống lửa rồi sẽ ra hiệu cho thuộc hạ vây đánh, thì dù võ công vợ chồng Thạch Thanh có cao cường đến đâu cũng phải quả bất địch chúng.
Thạch Thanh cười nói: “Tại hạ chưa dám tin, xin lục soát trong mình Chu thế huynh một chút. Mong thế huynh đừng trách.”
Chu Mục tức giận hỏi: “Ngươi định khám xét ta ư? Ngươi cho ta là hạng người nào?”
Thạch Thanh không nói gì nữa, đưa tay ra tháo chiếc giày bên trái của lão. Chu Mục bỗng la lên một tiếng: “Trời ơi!” Bỗng thấy Thạch Thanh móc trong giày ra một cái gói nhỏ, chính là cái gói mà Chu Mục đã lấy trong bọc đeo trên lưng Ngô Đạo Thông.
Chu Mục vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, tự hỏi: “Cái này… cái này… Sao hắn biết là ở đây? Chẳng lẽ hắn đã nhìn trộm từ lúc mình cất giấu ư?” Thực ra, Thạch Thanh vừa nói đến chuyện lục soát thì thấy Chu Mục bất giác liếc nhìn chân trái, rồi đảo mắt ra chỗ khác ngay. Ông bèn đoán là lão giấu vật đó trong giày, quả nhiên vừa tìm đã thấy ngay.
Thạch Thanh nghĩ thầm: “Lúc nãy tên kia đã kể lại cảnh lục soát tiệm bánh tiêu, nghe không phải giả dối. Thế mà lão này lại giấu bảo vật trong người, chắc định nuốt lấy một mình.” Ba ngón tay trái của ông nắn cái bao đó mấy cái, rồi hơi lộ vẻ thất vọng.
Chu Mục đỏ bừng mặt, cũng chưa biết có nên mở miệng kêu người cứu viện hay không. Bỗng Thạch Thanh lên tiếng: “Ngươi đã phản bội An trại chủ mà lại còn định hô hoán lên cho mọi người biết, muốn chịu cực hình chặt mười đầu ngón tay ư?”
Chu Mục cả kinh, bất giác run giọng hỏi: “Sao… sao ngươi lại biết chuyện này?”
Thạch Thanh đáp gọn: “Dĩ nhiên là ta biết.” Rồi ông thả lỏng cổ tay hắn ra, nói tiếp: “An Kim Đao thông minh tinh tế. Ngươi giấu ta còn chưa xong, thì giấu y thế nào được?”
Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng sột soạt, rồi tiếng người cười ha hả, dõng dạc nói: “An mỗ xin đa tạ Thạch trang chúa đã quá khen.” Chưa dứt lời, ba bóng người đã tiến vào rừng.
* * *
Chu Mục vừa nhìn thấy bọn này, lập tức sắc mặt xám xịt như đất bùn. Ba người này là Đại trại chủ An Phụng Nhật, Nhị trại chủ Phùng
Chấn Võ và Tam trại chủ Nguyên Trừng đạo nhân của Kim Đao Trại. Lúc An trại chủ phái Chu Mục đi truy bắt Ngô Đạo Thông, y không hề nói chuyện phái người đi tiếp ứng, không hiểu sao lại đích thân hạ sơn. Chu Mục nghĩ đến chuyện mình mưu đồ chiếm riêng bảo vật đã bại lộ, bây giờ dĩ nhiên thân bại danh liệt, tính mạng cũng khó mà giữ được. Trong lúc hoảng hốt, lão vội nói: “An đại ca! Cái đó… cái đó bị hắn cướp mất rồi.”
An Phụng Nhật chắp tay thi lễ với Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa danh vang thiên hạ, An mỗ ngưỡng mộ đã lâu, chỉ giận mình vô duyên chưa được gặp lần nào. Tệ trại cũng ở gần đây, xin mời Thạch trang chúa cùng phu nhân đến chơi mấy hôm để các huynh đệ đều được nghe lời giáo huấn.”
Thạch Thanh thấy An Phụng Nhật mắt tròn râu rậm, người thấp lùn to khỏe, vẻ mặt thô hào, không ngờ hắn nói chuyện rất uyển chuyển. Hắn tuyệt không nhắc nhở gì đến chuyện ông đoạt mất vật kia, lại còn mời đến chơi Kim Đao Trại. Nhưng nếu ông vào trại của hắn rồi thì dễ gì mà thoát thân được? Thạch Thanh liền chắp tay đáp lễ, rồi thuận tay đút cái gói nhỏ vào trong bọc, cười nói: “Đa tạ thịnh tình của An trại chủ…”
Đột nhiên trước mắt thanh quang lấp loáng, Nguyên Trừng đạo nhân đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, vừa phóng mũi kiếm đâm vào cổ tay Thạch Thanh, vừa quát lên: “Ngươi bỏ vật đó ra trước đã.”
Chiêu kiếm này mau lẹ phi thường, nhưng hắn đã nhanh mà Thạch Thanh còn nhanh hơn. Ông uốn người đi một cái đã đến bên Nguyên Trừng đạo nhân, lấy cái gói nhỏ ra đặt vào tay trái hắn, rồi cười bảo: “Cầm lấy!” Nguyên Trừng đạo nhân mừng rỡ vô cùng, không kịp suy nghĩ gì nữa, giơ tay ra đón lấy. Không ngờ cổ tay phải hắn hơi tê nhức, trường kiếm đã bị đối phương đoạt mất.
Thạch Thanh xoay ngược kiếm lại chém vào cổ tay Nguyên Trừng đạo nhân, quát lên: “Bỏ ra.” Nguyên Trừng đạo nhân giật mình kinh hãi, trước mắt hàn quang lấp loáng, mũi kiếm chỉ còn cách cổ tay hắn không đầy năm tấc. Hắn định rụt tay về để tránh thì không kịp nữa, đành xoay tay ném trả cái gói nhỏ lại.
Phùng Chấn Võ la lên: “Hảo công phu!” Không đợi Thạch Thanh đón lấy cái gói, hắn đã vung đơn đao lên, lăn dưới đất chém vào đùi ông. Thạch Thanh vung trường kiếm đánh véo một tiếng, đâm thẳng vào đầu Phùng Chấn Võ. Ông ra chiêu sau mà lại đến trước. Đơn đao của Phùng Chấn Võ chưa kịp chém tới chân phải của Thạch Thanh, thì trường kiếm của ông đã sắp ghim đầu của Phùng Chấn Võ xuống đất.
An Phụng Nhật thấy tình trạng nguy cấp liền lớn tiếng la lên: “Hạ thủ…” Thanh kiếm của Thạch Thanh vẫn tiếp tục đâm xuống. Phùng Chấn Võ trong lòng kinh hãi vô cùng, nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ thấy má bên trái hơi rát. Thanh trường kiếm của Thạch Thanh không đâm tới nữa. Quả nhiên ông đã lưu tình, mũi kiếm phóng tới mặt Phùng Chấn Võ lại thu về. Thạch Thanh xuất chiêu rồi thu chiêu, cả lực đạo lẫn bộ vị đều cực kỳ chính xác. Tiếp theo một tiếng “cạch” khẽ vang lên, Thạch Thanh dùng thanh trường kiếm đỡ lấy cái gói nhỏ về. Lúc đó, hai chữ “…lưu tình” của An Phụng Nhật mới ra khỏi miệng.
Thạch Thanh thu trường kiếm về rồi nói: “Xin đắc tội!” Đoạn ông lùi ra hai bước.
Phùng Chấn Võ đứng thẳng lên, cầm ngược đơn đao, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn, lùi ra đứng sau lưng An Phụng Nhật. Trong miệng hắn lẩm bẩm gì đó, không hiểu là đa tạ Thạch Thanh hạ thủ lưu tình, hay là trách ông dụng tâm gian trá. Chuyện đó thì chỉ có hắn mới biết.
An Phụng Nhật đưa tay tháo chiếc đai đồng trước ngực, rút thanh đao đeo ở sau lưng ra khỏi vỏ. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh triêu dương xuyên qua kẽ lá chiếu vào thanh kim đao lấp lánh trông hoa cả mắt. Thanh đao này sống dày lưỡi mỏng, quả là lợi khí, sắc bén vô cùng. An Phụng Nhật dựng đứng kim đao lên, nói: “Trang chúa võ nghệ kinh người, bội phục, bội phục. Bây giờ tại hạ muốn lãnh giáo mấy chiêu.”
Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Hôm nay được gặp cao nhân, thật là may mắn.” Y lại giơ tay lên, ném chiếc gói nhỏ ra, bốn người đều ngẩn ra nhìn theo. Chỉ nghe “soạt” một tiếng, Thạch Thanh đã phóng
thanh kiếm vừa đoạt của Nguyên Trừng đạo nhân ra theo, cắm chặt cái gói nhỏ vào một cành cây đối diện. Mũi kiếm xuyên vào một góc cái gói, hoàn toàn không tổn hại gì đến vật ở trong. Thủ pháp của Thạch Thanh đã thần tốc mà kình lực lại càng xảo diệu, chẳng kém gì hai chiêu vừa đánh bại Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ.
Bốn người nhìn lên cành cây rồi lại nhìn Thạch Thanh, bỗng thấy trong tay ông đã cầm một thanh trường kiếm màu đen như mực. Thạch Thanh lên tiếng: “Hắc kiếm gặp Kim đao, điểm tới là ngưng, ai thắng được nửa chiêu thì lấy vật kia. Các vị thấy có được chăng?”
An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh cắm vật kia vào cành cây, rồi lại dùng cách tỉ võ để định đoạt, tuyệt không ép người chút nào. Hắn hết sức kính phục, đáp ngay: “Thạch trang chúa, xin mời!” Hắn từng nghe nói kiếm thuật của vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang cực kỳ tinh diệu, vừa rồi lại thấy Thạch Thanh kiềm chế Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ, quả thật danh bất hư truyền. Hắn không dám sơ ý chút nào, thận trọng phóng ra ba hư chiêu.
Thạch Thanh trỏ mũi kiếm xuống đất, toàn thân bất động, chỉ nói: “Xuất chiêu đi!”
Lúc đó An Phụng Nhật mới vung đao chém đến, nhưng mới ra nửa chiêu lại đột nhiên xoay đao chém ngược lên. Hắn vừa động thủ đã dùng tới tuyệt kỹ Phách Quái Đao. Đao pháp này có bảy mươi hai đường, mỗi đường có nhiều chiêu, mỗi chiêu lại có nhiều thức, biến hóa vô cùng. Thạch Thanh cũng vung thanh Hắc kiếm lên, chỉ đón đỡ từng chiêu, phòng thủ nghiêm mật. Tới hơn ba chục chiêu thì ông bỗng quát khẽ một tiếng, triển khai tấn công, kiếm pháp càng lúc càng nhanh. An Phụng Nhật đón đỡ được chừng ba chục chiêu thì hoàn toàn không nhìn rõ thế kiếm của đối phương nữa, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Hắn chỉ còn cách múa đao để giữ kín những bộ vị trọng yếu.
Hai người qua lại tới bảy chục chiêu mà đao kiếm vẫn chưa chạm nhau. Bỗng nghe một tiếng keng nhỏ nhẹ, mũi hắc kiếm đã đè trúng sống kim đao, rồi thuận đà lướt lên phía trên. Chiêu này gọi là
Thuận Lưu Nhi Hạ, là một chiêu số thông thường để dùng kiếm phá đao. Nếu võ công đối thủ kém hơn, thì An Phụng Nhật chỉ cần xoay đao một cái là hất văng lưỡi kiếm ra. Nhưng thế kiếm của Thạch Thanh nhanh đến kỳ lạ, giả tỉ An Phụng Nhật có xoay đao mà gạt được, thì trường kiếm cũng phải chạm đến ngón tay trỏ của hắn rồi. An Phụng Nhật vô cùng kinh hãi, nghĩ bụng: “Bốn ngón tay của ta sắp đứt lìa rồi.” Nếu hắn muốn vứt đao lùi lại thì cũng không kịp nữa. Giữa lúc An Phụng Nhật hoảng hốt thì thanh kiếm của Thạch Thanh đột nhiên dừng lại, rồi chẳng những không lướt tới mà còn lùi lại mấy tấc. An Phụng Nhật biết ông hạ thủ lưu tình, lúc này không bỏ đao cũng không được. Hắn đành buông lỏng tay cho thanh đao rớt xuống.
Không ngờ thanh Hắc kiếm lại xoay nửa vòng, đỡ lấy Kim đao không để rơi xuống đất. Thạch Thanh lên tiếng: “Chúng ta ngang sức ngang tài, khó phân cao thấp.” Rồi ông khẽ rung trường kiếm, hất Kim đao lên trả.
An Phụng Nhật cảm kích vô cùng, năm ngón tay lại nắm chặt lấy chuôi đao. Hắn biết rõ đối phương đã thắng, nhưng muốn giữ thể diện cho mình, vội dựng thẳng Kim đao lên kính cẩn hành lễ. Đó chính là Nam Hải Lễ Phật, thế thu đao của môn Phách Quái Đao.
Bỗng nhiên hắn phát giác mình vừa thi triển xong bảy mươi hai đường Phách Quái Đao, bất giác kinh hãi đến biến sắc mặt. Hiển nhiên đối phương đã thuộc lòng tuyệt kỹ này, đợi mình thi triển tới đường thứ bảy mươi mốt rồi mới xuất chiêu kiềm chế. Nếu vừa giao đấu mà đối phương đã tấn công, thì chẳng hiểu mình có đỡ nổi mười chiêu không.
An Phụng Nhật đang định nói mấy lời cảm tạ thì Thạch Thanh đã tra kiếm vào vỏ, chắp tay nói: “Thạch mỗ xin kết giao làm bằng hữu với An trại chủ, bất tất tỉ thí làm chi nữa. Lúc nào trại chủ tiện đường qua tệ trang, xin mời vào chơi mấy hôm.”
An Phụng Nhật buồn rầu đáp: “Chắc chắn tại hạ sẽ đến bái kiến.” Rồi hắn tung mình nhảy đến gốc cây kia, rút thanh kiếm của Nguyên Trừng đạo nhân ra, đón lấy cái gói nhỏ. Hắn cắm một đao một kiếm xuống đất, đi tới trước mặt Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa
cứ lấy đi.” Tuy hắn được vật rồi lại bị mất, nhưng Thạch Thanh giữ cho hắn cả thể diện lẫn bốn ngón tay, đã là thịnh tình rồi.
Không ngờ Thạch Thanh chắp tay đáp: “Xin có ngày tái hội.” Rồi ông quay người bước đi, không cầm lấy cái gói.
An Phụng Nhật la lên: “Thạch trang chúa, xin dừng bước! Trang chúa đã cố giữ thể diện cho An mỗ, có lý nào An mỗ lại không hay? Hiển nhiên An mỗ đã thua rồi, trang chúa hãy mang vật này đi. Nếu không, hóa ra trang chúa xem An mỗ là kẻ tiểu nhân vô lại không biết tốt xấu ư?”
Thạch Thanh mỉm cười nói: “An trại chủ! Cuộc tỉ võ hôm nay chưa phân thắng bại. Trại chủ còn chưa thi triển những đao pháp tinh diệu như Thanh Long Đao, Đoạn Môn Đao, sao đã gọi là thua? Vả lại trong gói đó chẳng có vật chi hết. Tại hạ e rằng Chu thế huynh mắc lừa người ta rồi.”
An Phụng Nhật sửng sốt hỏi: “Bên trong không có vật đó ư?” Hắn vội xé bao ra xem, cứ xé hết lớp này đến lớp khác, đến lớp thứ năm thì chỉ thấy ba miếng gì đó. Hắn để ý nhìn kỹ, đó chỉ là mấy đồng tiền tròn, giữa có lỗ vuông, vừa dẹp vừa mỏng, nếu không phải là ba đồng tiền xu thì là gì nữa? Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận nhưng cố nén, quay lại hỏi Chu Mục: “Chu huynh đệ! Chuyện này… chuyện này… Ngươi đùa giỡn kiểu gì đây?”
Chu Mục run rẩy đáp: “Thuộc hạ… thuộc hạ cũng không biết, trên người Ngô Đạo Thông chỉ lục được cái gói nhỏ này thôi.”
An Phụng Nhật hiểu ngay, vật đó nếu Ngô Đạo Thông không giấu vào chỗ bí mật dị thường, thì cũng đã giao cho người khác. Phen này thật chẳng những uổng công, lại còn thương tổn đến oai phong của Kim Đao Trại. Hắn liền quẳng cái gói giấy xuống đất, rồi quay sang hỏi Thạch Thanh: “Thật là làm trò cười cho Thạch trang chúa. Không hiểu sao trang chúa lại biết?”
Vừa rồi, khi Thạch Thanh đoạt được cái gói đó, ông đã sờ thử, phát giác trong gói có ba miếng tròn mỏng, tuy chưa biết là ba đồng tiền, nhưng biết chắc không phải là vật mình muốn tìm. Ông mỉm cười đáp: “Tại hạ cũng chỉ đoán bừa thôi. Chúng ta đều bị lừa gạt,
mong rằng An trại chủ đại lượng mà thứ lỗi.” Thạch Thanh dứt lời, lại chắp tay thi lễ với bọn Nguyên Trừng đạo nhân, Phùng Chấn Võ và Chu Mục, đoạn quay người rảo bước ra khỏi khu rừng.
* * *
Thạch Thanh quay lại chỗ đống lửa, bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Đi thôi!” Hai người nhảy lên ngựa, theo đường cũ quay về.
Mẫn Nhu nhìn nét mặt lang quân, không cần hỏi nhiều cũng biết là chẳng được việc gì. Nàng cảm thấy đau lòng, bất giác nhỏ mấy giọt nước mắt xuống vạt áo. Thạch Thanh nói: “Kim Đao trại chủ cũng mắc lừa. Chúng ta quay lại lục tìm trong người Ngô Đạo Thông. Không chừng các bằng hữu ở Kim Đao Trại đã sơ suất.” Mẫn Nhu tuy biết là chẳng ăn thua gì nhưng không muốn trái ý lang quân, nên cũng nghẹn ngào “Vâng” một tiếng.
Đôi ngựa một trắng một đen phi thật nhanh, chưa tới trưa đã về đến Hầu Giám Tập.
Dân cư trong thị trấn này hãy còn khiếp sợ, chưa có nhà nào dám mở cửa. Những chuyện giết người cướp của đã được báo quan trong thành Biện Lương, nhưng chưa thấy ai đến. Hiển nhiên quan lại địa phương chưa dám đến ngay mà còn bận điều binh khiển tướng, theo đúng phương châm “tới trễ một chút là an toàn thêm một chút”.
Vợ chồng Thạch Thanh phóng ngựa đến cạnh thi thể Ngô Đạo Thông, chỉ thấy một thằng bé ăn xin mười hai mười ba tuổi ngồi bên góc tường, còn bốn bề tuyệt không có người nào khác. Thạch Thanh lập tức lục soát trong mình Ngô Đạo Thông rất tỉ mỉ, tháo cả búi tóc, gỡ cả giày vớ ra tìm. Còn Mẫn Nhu thì vào trong tiệm bánh lục lọi tra xét.
Một lúc sau, hai vợ chồng nhìn nhau, cùng thở dài chán nản. Mẫn Nhu nói: “Sư huynh! Xem chừng ông trời đã định là mối thù đó khó lòng trả được. Sư huynh đã nhọc mệt quá rồi, bây giờ chúng ta vào thành Biện Lương nghỉ ngơi, xem kịch hay nghe kể chuyện để giải cơn phiền muộn.”
Thạch Thanh biết vợ mình vốn ưa tĩnh mịch, chẳng thích ca kịch hay đi Biện Lương chơi gì hết, nàng nói vậy là quan tâm tới mình mà thôi. Ông bèn đáp: “Đã tới đất Hà Nam, cũng nên vào thành Biện Lương dạo chơi một tí. Nghe nói bọn thợ bạc ở Biện Lương đều là cao thủ, chúng ta vào đó sắm mấy món trang sức cũng hay.”
Mẫn Nhu nổi tiếng là một mỹ nhân trong võ lâm, vốn đã thích trang điểm. Bây giờ nàng đã vào tuổi trung niên, lại càng chú trọng đến việc trang sức để giữ sắc đẹp. Nàng nở một nụ cười thê lương, đáp: “Đồ trang sức huynh mua cho muội suốt mười ba năm nay, từ lúc Kiên nhi chết đi, đã đủ để mở một tiệm kim hoàn.”
Nàng nói đến câu “từ lúc Kiên nhi chết đi” thì không kìm được nữa, nước mắt tuôn xuống má. Lúc đó nàng trông thấy thằng bé ăn xin đang sợ sệt ngồi ở góc tường trông thật là bẩn thỉu, bất giác sinh lòng thương hại, liền cất tiếng hỏi: “Mẫu thân ngươi đâu? Tại sao mà phải đi ăn xin?”
Thằng bé đáp: “Cháu… cháu… không thấy mẫu thân đâu cả.”
Mẫn Nhu thở dài, móc trong bọc ra một thoi bạc nhỏ, liệng xuống chân nó rồi nói: “Cầm lấy, mua bánh mà ăn.” Nàng đã nhảy lên ngựa, còn quay lại hỏi: “Hài tử! Tên ngươi là gì?”
Thằng bé đáp: “Cháu… cháu là Cẩu Tạp Chủng.”
Mẫn Nhu ngẩn ra, nghĩ bụng: “Là Chó Lộn Giống ư? Sao lại có cái tên lạ như thế?”
Thạch Thanh lắc đầu nói: “Thật là một đứa ngốc nghếch.”
Mẫn Nhu đáp: “Đúng thế! Thật là tội nghiệp!” Hai người vừa nói vừa giật cương cho ngựa chạy về phía thành Biện Lương.
* * *
Thằng bé ăn xin kia đã bị tử thi Ngô Đạo Thông làm hoảng sợ đến ngất đi, đến sáng sớm mới tỉnh dậy. Lúc nó mở mắt ra thì thấy thi thể Ngô Đạo Thông bê bết máu vẫn đang nằm cạnh mình, kinh hãi quá lại vội đứng dậy, chạy trốn vào một góc tường, lại ngủ đi một giấc. Lúc Thạch Thanh đến nơi thì nó đã tỉnh táo, toan chạy trốn xa hơn, nhưng thấy Thạch Thanh lật ngửa thi thể Ngô Đạo Thông lên, lại sợ quá không dám nhúc nhích. Nó không ngờ thiếu phụ xinh đẹp
kia lại ném cho một thỏi bạc, bèn nghĩ bụng: “Mua bánh làm gì, mình đã có rồi.”
Nó đưa tay lên, trong tay vẫn còn cái bánh tiêu mới cắn được một miếng. Lúc này nó đã bớt sợ, lại cảm thấy đói. Nó há miệng ngoạm vào, bỗng nghe “cốp” một tiếng, hai hàm răng đau nhức tựa như cắn phải sắt hay đá gì đó, bèn lấy cái bánh ra khỏi miệng. Nhưng trong miệng vẫn còn một vật rắn, nó nhả ra lòng bàn tay thì thấy đó là một miếng sắt đen sì.
Thằng bé ăn xin liếc qua một cái, cũng chẳng nghĩ xem tại sao trong bánh lại có miếng sắt này, nhìn kỹ cái bánh thấy không còn vật gì nữa, liền cắn ăn lấy ăn để. Chỉ trong khoảnh khắc, thằng bé ăn xin đã ăn hết tấm bánh. Gã đưa mắt nhìn thi thể Ngô Đạo Thông thì thấy gần đó còn mười mấy tấm bánh đã bị xé đôi. Gã tự hỏi: “Bánh tiêu bị con ma đó xé ra vứt đi thế này, chẳng biết còn ăn được không?”
Thằng bé còn đang ngần ngừ, đột nhiên trên đỉnh đầu có tiếng người nói: “Đã bao vây hết bốn mặt rồi.” Nó kinh hãi ngẩng lên nhìn, thấy trên nóc nhà có ba gã đàn ông mặc áo trắng đang đứng. Rồi sau lưng nó lại có tiếng gió vù vù, nó xoay mình lại thì thấy bốn người cũng mặc áo trắng, tay cầm trường kiếm, đang chia hai bên tả hữu tiến đến.
Tiếp theo lại có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người phi ngựa như bay tới, lớn tiếng hỏi: “Có phải là các bằng hữu phái Tuyết Sơn chăng? Các vị đã đến Hà Nam, xin thứ lỗi cho An mỗ không kịp ra xa nghênh tiếp.” Trong chớp mắt, một con ngựa vàng đã xông đến, người cỡi ngựa là một gã thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, râu mọc tua tủa. Hắn không cần dừng ngựa, đột nhiên nhảy xuống. Con ngựa vàng chạy lạng qua một bên, vòng một vòng nhỏ rồi dừng lại, hiển nhiên đã được huấn luyện rất thuần thục.
Ba gã áo trắng từ trên nóc nhà cùng nhẹ nhàng nhảy xuống, trong tay đều lăm lăm trường kiếm. Một hán tử to lớn trạc tứ tuần lên tiếng: “Các hạ có phải là An trại chủ của Kim Đao Trại không? May được gặp ở đây!” Gã vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu cho mấy tên đồng bọn đứng sau lưng An Phụng Nhật.
Thì ra sau khi An Phụng Nhật bị Thạch Thanh đánh bại, hắn ủ rũ một lúc rồi bỗng tự hỏi: “Vợ chồng Thạch trang chúa trở lại Hầu Giám Tập làm gì? Phải rồi! Chu tứ đệ mắc lừa, không lấy được vật kia, vợ chồng y nhất định tới đó tìm lại. Mình đã bị bại về tay y, nếu y lấy được thì ta chỉ biết lấy mắt mà nhìn. Nhưng nếu y không lấy được, chẳng lẽ ta không thể quay lại tìm cầu may lần nữa hay sao? Chắc Ngô Đạo Thông đã cất vật này vào một nơi nào bí hiểm lắm, tìm mười lần chưa thấy thì tìm thêm lần thứ mười một cũng chẳng hại gì.” An Phụng Nhật quyết định chủ ý, rồi lập tức lên ngựa ra đi.
Ngựa của hắn không nhanh bằng đôi tuấn mã một trắng một đen của vợ chồng họ Thạch, hơn nữa hắn cho ngựa đi thong thả vì không muốn tới gần họ quá. Vì thế mà Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lục soát thi thể Ngô Đạo Thông và tiệm bán bánh xong rồi bỏ đi, hắn mới đến Hầu Giám Tập. Hắn vừa đến cửa trấn, đã nhìn thấy xa xa trên nóc nhà có ba người mặc toàn màu trắng lưng đeo trường kiếm. Theo cách ăn mặc thì bọn này nhất định là đệ tử phái Tuyết Sơn gần biên giới Tây Tạng. An Phụng Nhật ruổi ngựa gần tới nơi, thì thấy ba gã kia để hết tâm trí vào mình như gặp đại địch. Hắn tưởng ba gã này đang định đánh lén vợ chồng họ Thạch, nhớ ngay đến ân tình của Thạch Thanh đối với mình vừa rồi, bèn lớn tiếng gọi để cảnh giác. Không ngờ khi hắn chạy đến nơi thì chẳng thấy bóng dáng vợ chồng họ Thạch đâu, chỉ có bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang bao vây một đứa ăn xin.
An Phụng Nhật hết sức ngạc nhiên, nhìn lại thấy đứa ăn xin này tuổi còn rất nhỏ, mặt mũi lem luốc mà cũng không ra vẻ biết võ công. Hắn thấy mắt tên hán tử áo trắng cứ liếc ngang đảo dọc liên tiếp, bèn nhìn kỹ gã ăn xin một lần nữa.
Lần này hắn giật mình kinh hãi, vì nhìn thấy trong tay gã có một miếng sắt đen sì, dường như đó là Huyền Thiết Lệnh trong truyền thuyết. Hắn lại thấy bốn tên áo trắng đứng đằng sau lăm lăm trường kiếm trong tay, dường như đang định chiếm đoạt miếng sắt kia. An Phụng Nhật không kịp suy nghĩ gì nữa, vội xoay tay rút Kim đao ra sử chiêu Bát Phương Tàng Đao Thế. Thân hình hắn vừa chuyển động, đã xoay quanh gã ăn xin đủ một vòng. Thanh Kim đao chia ra tả một đao, hữu một đao, trước một đao, sau một đao, chỉ trong
nháy mắt mỗi phương đã chém ba đao, tám phương là hai mươi bốn đao, mà đao nào cũng chỉ cách gã ăn xin chừng nửa thước. Thân hình gã bao phủ đao ảnh trùng trùng.
Gã ăn xin thấy ánh đao lóa mắt, quanh người gió lộng vù vù, bèn òa lên khóc. Ngay lúc đó bảy tên áo trắng đều vung trường kiếm ra kết thành một màn kiếm quang, bao trùm lấy An Phụng Nhật cùng gã ăn xin. Bảy thanh trường kiếm tạo thành một vòng bạch quang lớn vây bên ngoài, trong vòng này lại có một vòng kim quang nhỏ. Giữa vòng kim quang lại có gã ăn xin đang khóc rống lên, nước mắt nước mũi đầm đìa.
Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập lại vang lên. Một con ngựa trắng một con ngựa đen từ phía tây lao tới, chính là vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu trở lại.
Thì ra khi hai người ruổi ngựa vào thành Biện Lương, đi không lâu đã thấy bọn đệ tử phái Tuyết Sơn xuất hiện. Hai vợ chồng bàn bạc mấy câu, lập tức giục ngựa quay trở lại, thấy tám người đang vung đao múa kiếm, bèn la lên: “Các vị bằng hữu phái Tuyết Sơn! An trại chủ! Chúng ta đều là chỗ quen biết, có chuyện gì xin lấy lời lẽ nói với nhau, chớ nên làm tổn thương hòa khí.”
Hán tử cao lớn đứng đầu bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn giơ thẳng thanh trường kiếm lên. Cả bảy tên cùng thu kiếm lại, nhưng vẫn đứng vây quanh An Phụng Nhật.
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu phi ngựa đến gần, nhìn thấy miếng sắt trên tay gã ăn xin, bất giác cùng la lên một tiếng: “Úi chà!” Tuy hai người chưa hiểu rõ đó có phải là vật mình muốn tìm hay không, nhưng trong lòng đã cực kỳ hồi hộp. Thạch Thanh nhảy vội xuống ngựa, tiến tới mấy bước rồi hỏi: “Tiểu huynh đệ! Trong tay cháu đang cầm vật gì đó? Cho ta xem một chút được không?” Trước nay ông vốn là người điềm tĩnh, nhưng khi nói hai câu này cũng không khỏi hơi run giọng. Ông biết rằng An Phụng Nhật tất không ngăn trở mình, chỉ cần gã ăn xin đưa tay ra là mình lấy được. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn chắc chắn không cản nổi ông.
Hán tử áo trắng cao lớn lại lên tiếng: “Thạch trang chúa! Trong vụ này, bọn tại hạ là người đến trước.”
Lúc này Mẫn Nhu cũng đã xuống ngựa, đáp ngay: “Cảnh huynh! Huynh thử hỏi chú bé xem, thỏi bạc ở dưới chân nó có phải là của ta cho nó không?” Đây là một chứng cớ hùng hồn. Nàng đã cho bạc gã ăn xin, dĩ nhiên là đã gặp nó trước bọn áo trắng nhiều.
Gã hán tử cao lớn họ Cảnh tên Vạn Chung, là một cao thủ trong hàng đệ tử thứ hai của phái Tuyết Sơn. Gã nói: “Thạch phu nhân! Không chừng hai vị có đến trước và đã cho bạc chú em này thật, nhưng Huyền Thiết Lệnh là do bọn tại hạ nhìn thấy trước.”
Ba tiếng Huyền Thiết Lệnh vừa thốt ra khỏi cửa miệng Cảnh Vạn Chung, thì Thạch Thanh, Mẫn Nhu và An Phụng Nhật đều run lên lẩm bẩm: “Quả nhiên là Huyền Thiết Lệnh!” Sáu tên đệ tử phái Tuyết Sơn kia cũng lộ vẻ khác thường. Thật ra thì cả bảy tên chưa một ai nhìn được kỹ miếng sắt trong tay gã ăn xin, nhưng chúng thấy vợ chồng họ Thạch cùng An trại chủ Kim Đao Trại tỏ vẻ nghiêm trọng, bèn đoán vật ấy là Huyền Thiết Lệnh. Còn ba người Thạch, Mẫn, An lại nghĩ rằng bọn bảy người phái Tuyết Sơn không phải là hạng tầm thường, lại đã nhìn thấy tấm thiết bài từ trước, nhất định không phải nói ngoa.
Cả mười người cùng nghĩ như nhau, chẳng ai bảo ai đều xòe tay ra trước mặt gã ăn xin, nói: “Tiểu huynh đệ! Chú hãy cho ta!”
Mười người kiềm chế lẫn nhau, không ai dám xuất thủ cưỡng đoạt. Ai cũng biết rằng nếu dùng cường lực thì gặp bất lợi ngay tức khắc, những người xung quanh nhất định sẽ thừa cơ để tấn công vào chỗ sơ hở. Ai cũng chỉ mong gã ăn xin tự đưa miếng sắt cho mình.
Gã ăn xin có ngờ đâu cả mười người cùng muốn lấy miếng sắt suýt làm nó gãy cả hàm răng? Tuy nó đã ngừng khóc, nhưng lúc này không biết phải làm gì, nước mắt lại long lanh trong khóe mắt, lúc nào cũng có thể tràn ra.
Đột nhiên một giọng rất trầm cất lên: “Ngươi cho ta là tốt nhất!”
Một bóng người nhảy vào giữa vòng đao kiếm, vừa vung tay ra đã giật được miếng sắt trong tay gã ăn xin.
Mỗi người quát mắng một câu: “Bỏ xuống!” “Làm gì thế?” “Đồ liều mạng!” “Khốn nạn!”, rồi cả đao lẫn trường kiếm cùng vung lên nhằm vào bóng người mới đến. An Phụng Nhật đứng gần gã ăn xin nhất, vung Kim đao ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật chém xuống đầu người đó. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã luyện tập rất tinh thục, đồng thời xuất thủ, bảy thanh trường kiếm phóng ra đâm vào bảy phương vị khác nhau. Dù người đó có tránh được trên vai cũng không tránh được dưới chân, giữ được trung bàn thì phải hở hạ bàn hay thượng bàn. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chưa nhìn rõ người đó là ai, nên không muốn hạ độc thủ. Huyền Tố song kiếm vung lên thành một màn kiếm quang sáng chói hình bán nguyệt, phủ quanh người đó.
Bỗng người kia vung tay loạn lên, rồi nghe những tiếng leng keng vang lên liên tiếp. Không biết y dùng thủ pháp gì mà chỉ trong chớp mắt đã đoạt được thanh Kim đao của An Phụng Nhật cùng bảy thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy hổ khẩu tê nhức, suýt nữa rớt kiếm, hốt hoảng vội lùi lại. Thạch Thanh sắc mặt lợt lạt còn Mẫn Nhu thì mặt lại đỏ bừng. Trên thiên hạ chẳng mấy ai có thể thắng nổi song kiếm hợp bích của vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thế mà bây giờ, ngón tay của người đó chỉ búng vào kiếm một cái, mà thanh kiếm trong tay hai người suýt nữa bay đi. Trước nay hai người lâm địch chưa từng gặp phải cảnh này.
Một lưỡi kim đao, bảy thanh trường kiếm đã cắm xuống đất thành một cái vòng, người mới đến ngang nhiên đứng giữa. Lão mặc áo bào xanh, râu ngắn, tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo thanh tú. Mặt lão ẩn hiện sắc xanh, đang lộ vẻ vui mừng khó tả. Thạch Thanh chợt nhớ tới một người, buột miệng hỏi: “Phải chăng tôn giá là chủ nhân Huyền Thiết Lệnh?”
Người kia cười ha hả nói: “Hắc Bạch Song Kiếm tại Huyền Tố trang được người giang hồ xưng tụng kiếm thuật thông thần, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão phu chỉ lấy một phần công lực chia ra đối phó với tám vị bằng hữu này, dùng tới chín phần để đối phó với hiền phu phụ, mà không đoạt được binh khí của hai vị. Hỡi ôi! Công phu Đàn Chỉ Thần Thông của lão phu ngày nay, “đàn chỉ” thì có mà
“thần thông” thì không, xem chừng phải khổ luyện thêm mười năm nữa.”
Thạch Thanh nghe lão nói thì không còn hoài nghi nữa, liền chắp tay nói: “Vợ chồng tại hạ chuyến này đến Hà Nam là có ý định lên Ma Thiên Nhai để bái kiến tôn giá. Tuy nguyện vọng không thành, nhưng có duyên được gặp tôn giá nơi đây, thì chuyến đi này không đến nỗi vô ích. Mấy chiêu kiếm pháp mèo què của vợ chồng tại hạ thật không bõ làm trò cười trong mắt của tôn giá. Hôm nay tôn giá thu được Huyền Thiết Lệnh về, thật là đáng mừng, thật là đáng mừng.”
Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe Thạch Thanh nói vậy thì than thầm: “Lão mặc áo xanh này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh ư? Lão vừa ra một chiêu đã đoạt được hết trường kiếm của bọn mình, không phải lão thì trên đời còn người thứ hai nào như vậy nữa?” Bảy người ngơ ngác nhìn nhau, lẳng lặng không ai lên tiếng.
An Phụng Nhật võ công không cao lắm, nhưng lịch duyệt giang hồ thì hơn hẳn bọn đệ tử Tuyết Sơn, lập tức chắp tay nói: “Vừa rồi tại hạ không biết mà mạo phạm tiền bối, bây giờ xin có lời tạ lỗi.”
Người áo xanh này chính là Tạ Yên Khách ở Ma Thiên Nhai. Lão cười ha hả rồi nói: “Theo quy củ ngày thường của lão phu, các ngươi đã dùng binh khí để công kích ta, là ta phải trả lại từng chiêu một. Tỉ dụ như ngươi dùng Kim đao chém vào vai trái của ta, thì ta cũng dùng Kim đao để chém vào vai trái ngươi.” Lão nói tới đây thì cầm miếng sắt tung lên một cái, mỉm cười nói tiếp: “Nhưng hôm nay lão phu đang vui vẻ, nhát đao đó hãy tạm ghi vào sổ nợ. Ngươi đâm vào ngực lão phu. Ngươi đâm vào huyệt Hoàn Khiêu ở đùi lão phu. Ngươi đâm vào bên trái lưng lão phu. Ngươi chém vào đùi lão phu…” Miệng của lão vừa nói, tay vừa chỉ vào từng tên đệ tử Tuyết Sơn.
Bảy tên này nghe lão nói đúng từng chiêu của mình không sai chút nào thì trong lòng cực kỳ kinh hãi. Chỉ trong chớp nhoáng mà lão nhớ được rành mạch ai xuất chiêu đánh vào đâu. Bỗng lão lại
nói tiếp: “Tất cả những món nợ đó ta sẽ ghi lại, hôm nào gặp chuyện bực mình sẽ đến tìm các ngươi để đòi.”
Tên lùn nhất trong đám đệ tử Tuyết Sơn lớn tiếng nói: “Chúng ta tài nghệ chẳng bằng người, thua thì đành chịu, lão còn chọc ghẹo làm chi? Bất tất lão phải ghi vào sổ nợ, cứ đâm ta một nhát cho thoải mái! Ai hơi đâu mà để món nợ đó trong lòng được.” Gã này tên gọi Vương Vạn Nhận, lúc này tay không binh khí mà dám nói mấy câu này, rõ ràng đã đem tính mạng giao cho địch thủ. Bọn sư huynh đệ đồng môn đều định lên tiếng ngăn cản, nhưng gã chỉ nói một hơi là xong hết.
Tạ Yên Khách gật đầu nói: “Được lắm!” Rồi lão rút thanh trường kiếm dưới đất của Vương Vạn Nhận đâm thẳng ra, gã này vội nhảy lùi ra sau để tránh. Ngờ đâu thế kiếm của Tạ Yên Khách thần tốc phi thường, người Vương Vạn Nhận còn lơ lửng trên không, mũi kiếm đã đâm vào ngực gã. Tạ Yên Khách rung tay một cái rồi thu kiếm về.
Lúc hai chân Vương Vạn Nhận chấm đất, gã thấy trước ngực mát rượi, liền cúi xuống nhìn, bất giác kêu lên một tiếng: “Úi chà!” Gã thấy ngực mình hở ra một lỗ tròn to bằng miệng chén. Thì ra lúc Tạ Yên Khách rung tay, đã dùng mũi kiếm khoét một vòng tròn trước ngực áo gã. Ba lớp áo đều bị khoét gọn để hở da thịt ra, giả tỉ lão xuất thủ nặng hơn chút nữa thì đã móc trái tim gã ra ngoài.
Vương Vạn Nhận sợ đến mặt xám như đất, ngây người ra. An Phụng Nhật thán phục tận đáy lòng, không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô: “Hảo kiếm pháp!”
Nói về phóng kiếm chuẩn xác, kình lực vừa đủ, thì chiêu thức của Tạ Yên Khách vừa rồi, vợ chồng Thạch Thanh nếu cố gắng cũng có thể làm được. Nhưng kiếm thế đi mau lẹ khiến cho đối phương biết rõ chỗ nào mà vẫn không tránh được, thì Thạch Thanh và Mẫn Nhu tự biết mình không bao giờ bì kịp. Hai người đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: “Võ công lão này thật là tinh xảo tuyệt diệu, không biết đến đâu mà lường!”
Tạ Yên Khách lớn tiếng cười ha hả, rồi cất bước đi luôn.
Một thiếu nữ trong phái Tuyết Sơn đột nhiên la lên: “Tạ tiên sinh! Khoan đã!”
Tạ Yên Khách quay lại hỏi: “Có chuyện gì?”
Thiếu nữ đáp: “Vừa rồi tôn giá đã hạ thủ lưu tình, không hạ sát Vương sư ca của tại hạ, cả phái Tuyết Sơn cùng cảm tạ ân đức. Nhưng tại hạ muốn hỏi một câu: Miếng sắt tôn giá đang cầm có phải là Huyền Thiết Lệnh không?”
Tạ Yên Khách ngạo nghễ hỏi lại: “Phải thì sao? Mà không phải thì sao?”
Thiếu nữ đáp: “Nếu không phải là Huyền Thiết Lệnh thì bọn tại hạ còn phải đi tìm, còn nếu là Huyền Thiết Lệnh thì tôn giá có điều lầm lỗi rồi.”
Bỗng trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay lập tức. Cảnh Vạn Chung quát lên: “Hoa sư muội! Không được nói nhiều!” Mọi người đều đã nghe Tạ Yên Khách tàn nhẫn hiếu sát, lúc chính lúc tà, hành sự chỉ theo ý mình, không biết bao nhiêu hảo hán cả hắc đạo lẫn bạch đạo đã chết về tay lão. Hôm nay lão bị mười người vây đánh mà không đả thương một ai, thì đã là đại từ bi lắm rồi, trước nay chưa thấy. Hoa Vạn Tử tính tình cương trực, không biết nặng nhẹ mà dám thốt ra lời xúc phạm, chẳng những bọn đồng môn phái Tuyết Sơn kinh hãi mà vợ chồng họ Thạch cũng lo cho nàng đến toát mồ hôi lạnh.
Tạ Yên Khách giơ miếng sắt lên, lớn tiếng đọc: “Huyền Thiết chi lệnh, hữu cầu tất ứng!” Rồi lão xoay mặt kia lại, đọc tiếp: “Ma Thiên Nhai Tạ Yên Khách”. Lão ngừng một chút, lại nói: “Loại Huyền Thiết này đao kiếm chém không vào, hiếm có trong thiên hạ.” Lão lượm một thanh kiếm ở dưới đất, chém vào miếng sắt đánh choang một tiếng. Thanh trường kiếm gãy làm hai đoạn, đoạn trên văng đi, còn miếng sắt không có chút dấu vết nào. Lão trầm mặt xuống, lớn tiếng hỏi: “Ta lầm lỗi ở chỗ nào?”
Hoa Vạn Tử đáp: “Tiểu nữ từng nghe bằng hữu giang hồ đồn rằng Tạ tiên sinh có ba tấm Huyền Thiết Lệnh, năm xưa đã chia ra tặng ba người có ơn với tiên sinh, thề rằng ai đưa lệnh bài đó đến trao trả
thì có thể nhờ tiên sinh làm một việc, bất luận khó khăn nguy hiểm đến đâu tiên sinh cũng làm cho được. Chuyện đó có thật không?”
Tạ Yên Khách đáp: “Đúng thế! Chuyện này trong võ lâm không ai không biết.” Thanh âm của lão ra chiều đắc ý.
Hoa Vạn Tử nói: “Nghe nói trong ba tấm Huyền Thiết Lệnh thì hai tấm đã quay về tay tiên sinh, vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa. Tấm Huyền Thiết Lệnh này là tấm cuối cùng, có phải vậy chăng?”
Tạ Yên Khách nghe nàng nói “vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa” thì sắc mặt hòa hoãn lại. Lão đáp: “Phải rồi! Vị bằng hữu được ta tặng tấm Huyền Thiết Lệnh này bản lãnh rất cao cường, chẳng có việc gì là không làm nổi, tấm lệnh bài này chẳng dùng làm gì được cả. Ông ấy lại không có con cái, nên khi ngao du tiên cảnh thì lệnh bài không biết lưu lạc nơi đâu. Mấy năm nay bao nhiêu người liều mạng đi tìm kiếm nó để sai lão phu làm việc cho họ. Ha ha! Ngờ đâu hôm nay ta thu được nó về một cách dễ dàng, bằng hữu giang hồ không khỏi thất vọng. Nhưng đó cũng là một điều may, ai nấy đều tai qua nạn khỏi.” Lão vung chân đá thi thể Ngô Đạo Thông ra xa mấy trượng, lại nói tiếp: “Ví dụ như tên này đã được lệnh bài, nhưng muốn tìm ta cũng khó. Hắn chưa kịp đem đến làm phiền ta, thì chính mình đã thành kẻ địch chung của thiên hạ. Trong võ lâm chẳng ai không muốn giết hắn, chẳng ai không muốn đoạt lấy lệnh bài. Ngay cả vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang là người hiền đức cũng chưa thoát vòng trần tục, huống chi người khác. Ha ha! Ha ha!”
Câu nói sau cùng của lão đầy vẻ trào phúng. Thạch Thanh bất giác thẹn đỏ mặt tía tai. Ông vốn đối tốt với mọi người, võ công đã cao, danh vọng lại lớn, trước nay nói gì cũng được nghe theo, chẳng ai phản kháng. Không ngờ hôm nay ông bị Tạ Yên Khách chê cười, luận về lý lẽ hay sức lực đều thua kém. Bình sinh ông rất cao ngạo, lúc này bị mất mặt thật là không thể chịu nổi. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt Thạch Thanh, cũng biết lang quân đang muốn rút kiếm liều mạng với Tạ Yên Khách. Tuy ông biết rõ mình không địch nổi, nhưng nỗi tức này không thể nuốt trôi được.
Tạ Yên Khách lại nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa vốn là anh hùng hào kiệt. Nếu hai vị có tấm Huyền Thiết Lệnh này, bắt lão phu phải bôn ba vất vả làm một việc khó khăn, thì cũng còn được. Nhưng nó mà lọt vào tay kẻ tiểu nhân vô sỉ, không chừng hắn cầm đến bắt lão phu tự chặt chân tay, sống không được chết chẳng xong. Thậm chí nếu hắn yêu cầu ta tự sát, ta mà không chịu thì còn gì là lời thề Hữu cầu tất ứng nữa? May mà vận khí lão phu không tệ, thu hồi được lệnh bài một cách dễ dàng. Ha ha!” Tiếng cười của lão làm rung động cả mái ngói.
Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Nghe nói ngày trước Tạ tiên sinh đã thề độc, bất luận ai đem lệnh bài đến đều được tiên sinh làm theo ý muốn. Dù kẻ đó là oan gia bảy kiếp cũng không bị tiên sinh động đến một ngón tay. Tấm lệnh bài này Tạ tiên sinh đoạt lấy trong tay tiểu huynh đệ kia, sao tiên sinh biết nó không yêu cầu chuyện gì?”
Tạ Yên Khách cười khẩy rồi nói: “Thằng nhóc ăn xin đó là cái thá gì? Tạ Yên Khách này mà đi nghe lời một thằng nhóc ăn xin, ha ha, người ta lại không cười đến chết ư?”
Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Các vị bằng hữu đã nghe thấy chưa? Tạ tiên sinh nói rằng chú nhỏ hành khất kia không phải là người, nên lời thề không đáng kể.” Nghe cô ta nói vậy, lẽ ra mọi người xung quanh đều phải mỉm cười, còn đồng môn sư huynh đệ phải phụ họa thêm mới phải, thế mà lúc này bốn phía vẫn im hơi lặng tiếng, nếu một mũi kim rơi xuống đất vẫn có thể nghe được.
Trên mặt Tạ Yên Khách lại thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay. Lão nghĩ bụng: “Con nha đầu này nói chuyện như thế thật là bắt mình cứng họng, không khỏi bị người ta nói sau lưng là Tạ mỗ không giữ chữ tín.” Đột nhiên lão động tâm la thầm: “Úi chà! Hỏng rồi! Không chừng thằng ăn xin này do chúng cố ý bày ra cạm bẫy, dụ mình đưa tay cướp lấy lệnh bài, rồi xúi nó bắt mình làm gì đó.” Lão cười lạnh, ngạo nghễ nói: “Đối với họ Tạ ở Ma Thiên Nhai, trong thiên hạ chẳng có việc gì là khó nữa. Thằng nhóc kia! Ngươi cứ đi theo ta, rồi có việc gì yêu cầu ta sẽ giải quyết cho, không can dự gì đến người khác.” Đoạn lão dắt tay gã ăn xin toan cất bước đi. Tuy Tạ Yên Khách chẳng xem bọn người trước mặt vào đâu, nhưng lão
e rằng sau lưng gã ăn xin lại có kẻ giật dây, trước đám đông đưa ra một vấn đề nan giải, đại khái như bắt lão chặt chân tay, thì biết làm thế nào? Vì vậy mà lão định đưa nó đến chỗ không người để dò hỏi cho tỉ mỉ.
Hoa Vạn Tử tiến ra một bước, dịu dàng nói: “Tiểu huynh đệ! Cháu là một đứa bé ngoan. Lão bá đây rất thích giết người, cháu mau mau yêu cầu lão từ nay đừng giết…” Nàng chưa dứt lời thì đột nhiên có một luồng kình phong xô vào mặt, ba chữ “…người nào nữa” lại phải nuốt vào, không nói được ra lời.
Thì ra Hoa Vạn Tử biết Tạ Yên Khách đã hứa điều gì là làm đúng như vậy. Vừa rồi nàng cũng phóng kiếm đâm vào mặt lão, lão đã nói là ghi lại đó để sau này lúc nào muốn thì đòi. Như vậy tất có ngày nàng bị lão rạch mặt. Huống chi sáu vị sư huynh nàng, trừ một mình Vương Vạn Nhận ra, ai cũng còn nợ lão một kiếm. Món nợ này còn ghi lại đó, sau này dĩ nhiên có người phải mất mạng. Vì thế nàng mạo hiểm chọc giận lão, bảo gã ăn xin yêu cầu lão không giết người nữa. Chỉ cần nó nói ra thì dĩ nhiên lão phải nghe theo, mình cùng năm vị sư huynh có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ Tạ Yên Khách đã nhìn ra dụng ý, liền phất tay áo phóng kình phong vào mặt, ngăn không cho nàng nói hết câu. Lão tức giận quát lên: “Con nha đầu kia! Lại còn dám lảm nhảm ư?” Rồi một luồng kình phong nữa lại xô đến. Hoa Vạn Tử đứng không vững, ngã ngửa ra sau.
Hoa Vạn Tử lưng vừa chấm đất, liền nhảy bật dậy ngay. Nàng toan kêu la gì đó, nhưng Tạ Yên Khách đã dắt gã ăn xin đi vào ngõ hẻm. Hiển nhiên lão không muốn cho nó nghe người khác xúi giục.
Mọi người thấy Tạ Yên Khách chỉ phất tay áo ở ngoài mấy trượng mà đánh ngã Hoa Vạn Tử, ai cũng kinh hãi, chẳng dám nói gì nữa.
Bỗng thấy một chiếc roi ngựa từ trong kiệu
tung ra, cuốn vào chân trái Vương Vạn Nhận,
giật mạnh một cái. Người Vương Vạn Nhận bị
hất tung lên, thanh Hắc Kiếm trong tay gã bị
roi ngựa cuốn mất. Hoa Vạn Tử rút thanh
Bạch Kiếm ra khỏi vỏ, toan chém tới cái roi
ngựa. Lại nghe véo một tiếng, từ trong kiệu lại
bay ra một viên ám khí trúng vào cổ tay nàng.
Hồi 2
Thiếu niên gây đại họa
Thạch Thanh tiến ra hai bước, nhìn Cảnh Vạn Chung và Vương Vạn Nhận, chắp tay nói: “Cảnh hiền đệ! Vương hiền đệ! Cô nương đây kiến thức đảm lược hơn cả bọn tu mi nam tử, chắc là Hàn Mai nữ hiệp Hoa cô nương vang danh thiên hạ có phải không? Ngoài ra còn bốn vị huynh đệ nữa, xin được giới thiệu cho biết.”
Cảnh Vạn Chung nhăn mặt, không trả lời mà lại nói: “Tại hạ được gặp hiền phu phụ Thạch trang chủ ở đây thật là may mắn, đỡ phải đến Giang Nam ra mắt.”
Thạch Thanh thấy vẻ mặt bảy người kia đều không có thiện cảm, lúc đầu nghĩ là bọn họ vừa bị Tạ Yên Khách đoạt kiếm lại hất ngã người nên buồn bực trong lòng. Nhưng Cảnh Vạn Chung cùng mình là chỗ bạn thân, đất khách gặp người cố cựu tưởng nên tay bắt mặt mừng, sao lại tỏ vẻ lạnh nhạt? Hơn nữa trước nay hắn vẫn kêu mình bằng Thạch đại ca, không hiểu vì lẽ gì mà đột nhiên thay đổi cách xưng hô? Ông ngẫm nghĩ một chút rồi tự hỏi: “Phải chăng đứa con bảo bối của ta đã gây nên tai vạ gì ư?” Ông vội nói: “Cảnh hiền đệ! Phải chăng thằng nhỏ bướng bỉnh của tiểu huynh đã làm cho hiền đệ phải khó chịu? Vợ chồng ta sẽ đền tội cho hiền đệ. Lại đây! Tiểu huynh xin làm chủ nhân, mời cả bảy vị đến thành Biện Lương uống mấy chén rượu.”
An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh ra chiều thân mật với bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, mà bọn này đối với mình lại chẳng thèm nhìn, đừng
nói là thông báo danh tính hay nói mấy câu khách sáo. Hắn cứ đứng trơ ra đó, chẳng ai nói gì tới thì đã không hứng thú gì mà lại tức mình, nghĩ thầm: “Hừ! Phái Tuyết Sơn thì đã là cái gì? Ai lấy nhân nghĩa đối người như Thạch trang chủ, mới thật làm cho người ta thán phục.” Hắn bèn quay sang Thạch Thanh và Mẫn Nhu chắp tay nói: “Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! An mỗ xin cáo từ!” Thạch Thanh cũng chắp tay đáp lễ nói: “Xin An trại chủ miễn trách. Khuyển tử là Thạch Trung Ngọc hiện là môn hạ của Phong huynh tại phái Tuyết Sơn, tại hạ cứ mải hỏi thăm, thật là có điều thất lễ với An trại chủ.” An Phụng Nhật nghĩ bụng: “Chuyện này thì làm sao trách ông được?” Rồi kính cẩn đáp: “Trang chúa dạy quá lời!” Nói xong, hắn quay lưng đi thẳng.
Bọn Cảnh Vạn Chung bảy người thủy chung vẫn không nói nửa lời. Khi An Phụng Nhật đã đi xa, họ cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau ra chiều dè dặt, vẻ mặt lộ vẻ vừa khó chịu vừa lúng túng, vừa phẫn nộ lại vừa khinh bỉ, dường như chẳng ai muốn lên tiếng trước.
Thạch Thanh đã đưa con đến bái sư học võ của đại đệ tử phái Tuyết Sơn Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý. Tuy ông còn thâm ý khác, nhưng chính yếu vẫn là vì đứa con này hư hỏng quá, Mẫn Nhu lại hay bênh con, mình khó mà dạy dỗ. Ông thấy thái độ bọn Cảnh Vạn Chung, sợ rằng thằng con đã gây vạ lớn, liền tươi cười hỏi: “Bạch lão gia tử, Bạch lão thái thái vẫn khỏe chứ? Phong Hỏa Thần Long Phong huynh có được bình yên không?”
Vương Vạn Nhận không nhịn được nữa, lớn tiếng đáp: “Sư phụ và sư nương ta chưa bị thằng tiểu… tiểu… của ngươi làm tức đến chết là phúc lớn lắm rồi!” Chính ra họ Vương muốn mắng là thằng tiểu tạp chủng, nhưng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu cực kỳ khổ sở nên hắn lắp bắp một chút, rồi cuối cùng dừng ngựa bên bờ vực thẳm. Tuy hắn đã nuốt mất hai chữ, nhưng chẳng cần phải nói ra miệng, chỉ nghe giọng nói cũng biết là hắn nặng lời thóa mạ.
Mẫn Nhu mắt đỏ hoe nói: “Vương đại ca! Ngọc nhi thật là quá hư hỏng, đắc tội với chư vị. Ta… ta… xin tạ tội.” Nàng nói xong, cúi mình thi lễ.
Bảy đệ tử phái Tuyết Sơn vội đáp lễ, Vương Vạn Nhận lớn tiếng nói: “Thạch đại tẩu! Thằng tiểu… tiểu… của đại tẩu thật chẳng ra gì. Nếu nó chỉ được một phần giống đại ca, đại tẩu thì đã… đã… không có gì phải nói. Có phải nó đắc tội với Vương Vạn Nhận này đâu, mà dù nó có đắc tội với ta cũng chẳng quan hệ gì. Ta nể mặt hai vị, bất quá chỉ túm lấy nó mà đấm đá một trận là xong. Nhưng nó lại đắc tội với sư phụ sư nương của ta, mà tính Bạch sư ca lại nóng như lửa. Thạch trang chúa! Không phải ta nói lấy lòng đâu, có lúc đã muốn đến thông báo cho trang chúa hay là Bạch sư ca còn muốn đốt cả Huyền Tố Trang… để hai vị tránh đi một chút. Chén rượu của trang chúa mời hôm nay, nói gì thì nói, Vương mỗ không thể uống được. Bạch sư ca mà biết ra, không trở mặt tuyệt giao với ta mới là chuyện lạ.”
Hắn nói huyên thuyên một hồi lâu, thủy chung vẫn không đề cập đến Thạch Trung Ngọc đã phạm tội gì. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, nghĩ bụng: “Mình cùng phái Tuyết Sơn kết giao đã mấy đời nay, mà sao Bạch Vạn Kiếm lại căm hận đến muốn đốt Huyền Tố Trang?” Ông liền nói: “Thằng súc sinh đó thật là hư hỏng đáng chết! Sao nó lại dám đắc tội cả với lão thái gia cùng lão thái thái?”
Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Nơi đây là chỗ thị phi, không tiện đứng lâu. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện hay hơn.” Gã nói xong, rút lấy thanh trường kiếm dưới đất rồi tiếp: “Xin mời Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân lên đường.”
Thạch Thanh gật đầu rồi cùng Mẫn Nhu đi về phía tây, hai con ngựa từ từ đi theo. Dọc đường, Cảnh Vạn Chung cũng đã giới thiệu mấy tên sư đệ sư muội, bọn này cũng nói mấy câu khách sáo với vợ chồng Thạch Thanh.
Đoàn người đi được chừng bảy tám dặm, thấy bên đường có ba cây dẻ cành lá xòe ra như cái lọng. Cảnh Vạn Chung lên tiếng hỏi: “Thạch trang chúa! Chúng ta qua bên kia nói chuyện được chăng?”
Thạch Thanh đáp “Được lắm!” Chín người đi tới gốc cây, chia nhau ngồi trên mấy tảng đá lớn cùng mấy chỗ rễ cây nổi lên. Vợ
chồng Thạch Thanh tuy trong lòng nóng nảy nhưng không tiện mở miệng hỏi ngay.
Cảnh Vạn Chung lên tiếng trước: “Thạch trang chúa! Tại hạ cùng trang chúa giao hảo đã lâu, có lời nói thẳng, xin trang chúa đừng trách. Theo ý kiến tại hạ thì trang chúa hãy giao lệnh lang cho bọn tại hạ mang đi. Tại hạ sẽ hết sức năn nỉ sư phụ, sư mẫu và Bạch sư huynh, chưa chắc đã không bảo toàn tính mệnh được cho nó. Dù nó có bị tước bỏ võ công, còn hơn để hai bên trở mặt thành cừu địch, dấy động can qua.”
Thạch Thanh rất lấy làm kỳ, nói: “Từ khi thằng nhỏ qua bên quý phái, ba năm nay tại hạ chưa được gặp nó lần nào. Hết thảy mọi việc, tại hạ thật sự chưa biết tí gì. Mong rằng Cảnh huynh nói cho tại hạ hay, đừng giấu giếm gì.” Trước nay ông vẫn gọi là “Cảnh hiền đệ”, nhưng thấy vẻ mặt đối phương giận dữ, e rằng hai chữ “hiền đệ” nói ra sẽ bị trách cứ, bèn đổi cách xưng hô.
Cảnh Vạn Chung hỏi: “Thạch trang chúa không biết thật ư?” Thạch Thanh đáp: “Không biết thật.”
Cảnh Vạn Chung vốn hiểu tính Thạch Thanh, trang chúa Huyền Tố Trang danh tiếng lẫy lừng không khi nào nói dối. Ông nói không biết, là không biết thật. Hắn liền đáp: “Thì ra Thạch trang chúa không biết gì hết.”
Mẫn Nhu không nhịn được, liền xen vào hỏi: “Vậy Ngọc nhi không ở thành Lăng Tiêu nữa ư?” Cảnh Vạn Chung gật đầu.
Vương Vạn Nhận nói: “Giả tỉ thằng tiểu… tiểu… đó hiện giờ còn ở thành Lăng Tiêu, thì dù có đến một trăm cái mạng cũng chết sạch rồi.”
Thạch Thanh trong lòng ngấm ngầm tức giận, nghĩ bụng: “Ta cho Ngọc nhi đến môn phái các ngươi học võ, chỉ vì kính trọng Bạch lão gia cùng Phong sư huynh, cũng là xem trọng võ công phái Tuyết Sơn. Nó hãy còn nhỏ tuổi, bản tính bướng bỉnh, dù có phạm môn quy gì thì các ngươi cũng phải nể mặt vợ chồng ta, sao lại nói đến chữ giết? Dù cho phái Tuyết Sơn võ công cao cường, người nhiều thế lớn, nhưng chẳng lẽ trên giang hồ không còn hai chữ đạo lý nữa
hay sao?” Thế mà ngoài mặt ông vẫn thản nhiên, lạnh lùng nói: “Môn quy của quý phái vốn nghiêm ngặt, tại hạ đã biết rồi. Tại hạ đưa khuyển tử đến thành Lăng Tiêu học võ nghệ, vốn cũng muốn y học thêm khuôn phép.”
Cảnh Vạn Chung hơi trầm mặt xuống: “Thạch trang chúa nói quá lời. Tiểu tử Thạch Trung Ngọc lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác, nhưng không phải phái Tuyết Sơn dạy nó như thế.”
Thạch Thanh lạnh lùng hỏi: “Nó còn nhỏ tuổi như thế, thì tám chữ lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác từ đâu mà ra?”
Cảnh Vạn Chung quay lại bảo Hoa Vạn Tử: “Hoa sư muội! Nhờ sư muội đi xem xét bốn phía xem có ai tới đây không.” Hoa Vạn Tử dạ một tiếng rồi xách kiếm đi ngay. Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, đều biết rằng hắn bảo Hoa Vạn Tử ra xa là vì có chuyện không tiện nói trước mặt phụ nữ, trong lòng không khỏi thêm phần lo lắng.
Cảnh Vạn Chung thở dài nói: “Thạch trang chúa, Thạch đại tẩu! Bạch sư huynh của tại hạ không có con trai, chỉ có một đứa con gái, chắc các vị đã biết rồi. Sư điệt nữ của tại hạ năm nay mới mười ba tuổi, thông minh lanh lợi, tính tình khả ái. Bạch sư huynh dĩ nhiên yêu quý nó vô cùng, mà sư phụ sư mẫu tại hạ cũng xem nó như trái tim của mình. Có thể nói nó là tiểu công chúa của thành Lăng Tiêu trên núi Đại Tuyết. Bọn sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội tại hạ đều xem nó như một con phượng hoàng vậy.”
Thạch Thanh gật gật đầu nói: “Chắc là thằng con chẳng ra gì của tại hạ đã đắc tội với vị tiểu công chúa đó. Có đúng thế không?”
Cảnh Vạn Chung đáp: “Hai chữ đắc tội thì còn nhẹ quá! Nó… nó… lớn mật đến độ dám trói chặt chân tay sư điệt nữ của tại hạ, rồi lột sạch y phục, toan bề cưỡng gian.”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu la lên: “Trời ơi!” rồi đứng phắt dậy. Mẫn Nhu sắc mặt lợt lạt hẳn đi. Thạch Thanh nói: “Sao… sao lại có việc đó được? Thạch Trung Ngọc năm nay mới mười lăm tuổi, trong vụ này tất có sự hiểu lầm.”
Cảnh Vạn Chung nói: “Bản thân tại hạ cũng thấy chuyện này khó tin, nhưng đó là chuyện thật, ngàn vạn lần là thật. Hai đứa nha hoàn trông coi tiểu điệt nữ nghe tiếng giãy giụa mà chạy vào phòng, thấy vậy liền kêu cứu, thì một đứa bị chặt đứt cánh tay, còn một đứa bị chém vào đùi, cả hai ngất xỉu tại chỗ. May mà thằng lỏi kia thấy thế kinh hãi, không dám xâm phạm tới tiểu điệt nữ nữa, chạy trốn mất dạng.”
Trong võ lâm thì sắc giới là điều đại kỵ. Ngay cả những tay hảo hán hắc đạo cướp của, giết người, đốt nhà như cơm bữa, mà phạm đến chữ dâm thì lập tức bị đồng đạo thóa mạ. Ngay cả bọn đạo tặc lục lâm cũng không dám phạm vào chuyện hiếp dâm phụ nữ một cách khinh suất, huống hồ là nhân vật hiệp nghĩa. Mẫn Nhu nghe nói thế, mặt mày tái mét, kéo tay áo lang quân hỏi: “Sư ca! Phải… phải làm thế nào bây giờ?”
Thạch Thanh nghe chuyện này cũng tan nát cõi lòng. Giả tỉ ông nghe con trai gây họa giết người thì cũng khó chịu lắm, nhưng còn chịu được, còn vụ này thật không biết làm sao cho phải. Ông cố định thần đáp: “Thế là hoàng thiên còn bảo hộ. Bạch tiểu cô nương vẫn giữ được tấm thân trong trắng, chưa bị thằng nghiệt tử của ta làm ô uế đấy chứ?”
Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Chưa, nhưng đã đến thế thì cũng chẳng khác gì bị cưỡng gian rồi. Tính nết của sư phụ tại hạ thế nào thì trang chúa đã biết. Lão nhân gia lập tức cho người đi truy tầm thằng lỏi Thạch Trung Ngọc, dặn hễ ai thấy gã là chém chết ngay, không được để sống.”
Vương Vạn Nhận tiếp lời: “Gia sư còn nói người cùng trang chúa giao tình không ít, nếu bắt Thạch Trung Ngọc về, tất nể mặt trang chúa mà không giết nó. Tốt nhất là ai gặp nó bên ngoài thì chém một kiếm cho xong.” Cảnh Vạn Chung đưa mắt cho Vương Vạn Nhận, hình như có ý bảo hắn đừng nhiều lời quá. Vương Vạn Nhận cãi: “Sư phụ dặn thế thực. Chẳng lẽ đệ lại nói dối hay sao?”
Cảnh Vạn Chung mặc kệ hắn, nói tiếp: “Nếu thằng lỏi chỉ đả thương hai con nha đầu thì cũng chưa phải chuyện lớn. Nhưng sư điệt nữ của tại hạ tuy tuổi còn nhỏ mà tính tình cương liệt. Nó bị sỉ
nhục như vậy, cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, ngồi khóc sướt mướt suốt hai ngày hai đêm ròng rã. Đến đêm thứ ba, nó lén chui cửa sổ ra ngoài, nhảy xuống vực sâu muôn trượng.”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại la hoảng “Trời ơi!”. Thạch Thanh run giọng hỏi: “Rồi… rồi… có cứu được không?”
Cảnh Vạn Chung đáp: “Vực thẳm ngoài thành Lăng Tiêu thì Thạch trang chúa đã biết rồi, đừng nói là người, dù là hòn đá lăn xuống cũng vụn ra thành bụi. Một tiểu cô nương mà nhảy xuống, chắc chắn phải nát như tương.”
Một gã đệ tử phái Tuyết Sơn tên gọi Kha Vạn Quân, chừng hai bảy hai tám tuổi, cũng nói: “Oan uổng nhất là đại sư ca, vô cớ bị sư phụ chém cụt cánh tay phải.” Thanh âm của hắn cực kỳ phẫn nộ.
Thạch Thanh kinh hãi kêu lên: “Phong Hỏa Thần Long ư?”
Kha Vạn Quân đáp: “Chứ còn ai nữa? Sư phụ thương tiếc đứa cháu gái cưng, lại không bắt được thằng con của trang chúa. Người nổi trận lôi đình trong đại sảnh, la mắng Phong sư huynh dạy đồ đệ không nghiêm, chỉ ăn tốn cơm chứ chẳng biết lo lắng, còn làm sư phụ cái khỉ gió gì. Người càng la mắng càng tức giận, rồi đột nhiên rút thanh kiếm đeo sau lưng Phong sư huynh, chém đứt một cánh tay của y. Sư mẫu tại hạ liền trách sư phụ là nóng nảy đến giận cá chém thớt. Hai vị lão nhân gia gây gổ trước mặt đệ tử, càng nói càng gay cấn. Không hiểu hai vị nhắc đến chuyện gì đó ngày xưa, rồi sư phụ tát sư mẫu một cái. Sư mẫu hầm hầm chạy ra khỏi cửa, nói rằng nếu còn trở lại thành Lăng Tiêu thì không phải giống người.”
Thạch Thanh hổ thẹn không tưởng nổi, nghĩ thầm: “Ta cảm phục võ công của Phong Vạn Lý mới cho thằng con độc nhất bái làm sư phụ, ngờ đâu liên lụy đến ông ấy phải thành phế nhân. Kiếm pháp Phong Vạn Lý mãnh liệt như gió bão, như lửa cháy, nên được người ta tặng cho ngoại hiệu là Phong Hỏa Thần Long. Ông ấy có vô số kẻ thù, nay bị mất hết võ công thì e rằng suốt đời không dám rời khỏi Đại Tuyết Sơn nửa bước. Hỡi ôi! Thật là hổ thẹn với ông bạn tốt.”
Vương Vạn Nhận lại nói thêm: “Kha sư đệ! Ngươi nói đại sư ca bị oan uổng, chẳng lẽ Bạch sư ca không oan uổng hay sao? Con gái bị hại chết, Bạch sư tẩu lại phát điên.”
Thạch Thanh, Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, chỉ mong mặt đất nứt ra một cái lỗ để chui vào cho khuất. Thực tình hai người chưa biết gì đến những thảm sự con mình đã gây ra tại thành Lăng Tiêu. Thạch Thanh cắn răng hỏi tiếp: “Bạch phu nhân… làm sao mà tâm thần bất định?”
Vương Vạn Nhận đáp: “Còn không phải vì thằng con bảo bối của trang chúa ư? Tiểu điệt nữ vừa chết, Bạch sư ca lại trách sư tẩu không trông nom con cái cẩn thận, để nó nhảy qua cửa sổ trốn đi tự tử. Bạch sư tẩu đang than thân trách phận, lại còn phải nghe trượng phu trách mắng, bèn không ngớt la gọi: “A Tú! Mẹ đã hại chết con rồi! Mẹ đã hại chết con rồi!” Từ đó thần trí sư tẩu đâm ra hồ đồ. Hai vị sư tỷ đến nay vẫn không dám rời bà nửa bước, chỉ sợ bà nhảy xuống vực thẳm theo con. Thạch trang chúa! Như vậy thì Bạch sư ca của tại hạ muốn đốt Huyền Tố trang, trang chúa nói xem có nên không?”
Thạch Thanh đáp: “Nên đốt! Nên đốt! Vợ chồng tại hạ không còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, dù phải đi hết chân trời góc biển cũng phải tìm bắt thằng nghiệt tử, đích thân đưa đến thành Lăng Tiêu, treo cổ trước linh vị Bạch cô nương…” Mẫn Nhu nghe tới đây, đột nhiên nấc lên một tiếng rồi ngất đi, ngã lăn vào lòng Thạch Thanh. Thạch Thanh liên tiếp nắn vỗ vào huyệt mạch, hồi lâu nàng mới dần dần tỉnh lại.
Vương Vạn Nhận lại nói: “Thạch trang chúa! Phái Tuyết Sơn còn có hai nhân mạng nữa phải ghi vào món nợ ở Huyền Tố Trang.”
Thạch Thanh kinh hãi hỏi: “Lại còn hai nhân mạng nữa ư?” Thạch Thanh vốn là người quen chịu sóng to gió lớn, nhưng chưa bao giờ gặp phải chuyện ác nghiệt như hôm nay. Năm xưa con thứ của ông là Thạch Trung Kiên bị kẻ thù giết chết, tuy ông vừa phẫn nộ vừa đau lòng đến cực điểm, nhưng cũng không bằng hôm nay phải vừa nhục nhã vừa kinh hãi. Giọng nói ông khản hẳn đi.
Vương Vạn Nhận lại tiếp: “Khi phái Tuyết Sơn gặp phải biến cố này, sư phụ đã phái mười tám đệ tử xuống núi, Bạch sư huynh cầm đầu một toán tới Giang Nam để đốt Huyền Tố Trang, lại còn dặn… còn dặn…” Hắn nói tới đây thì ấp úng không nói được nữa. Cảnh Vạn Chung vội đưa mắt ra hiệu ngăn lại.
Thạch Thanh rất hiểu đời, xem vẻ mặt hai người đã đoán ra họ muốn nói gì. Ông liền hỏi: “Chắc là dặn bắt vợ chồng tại hạ đem lên Đại Tuyết Sơn để đền mạng cho Bạch cô nương chứ gì?”
Cảnh Vạn Chung vội nói: “Thạch trang chúa nặng lời rồi. Đừng nói bọn tại hạ không dám, mà dù có đủ can đảm thì mấy chiêu võ công thô thiển làm sao mà mời được vợ chồng trang chúa? Sư phụ tại hạ chỉ dặn: Bất luận thế nào cũng phải tìm cho bằng được lệnh lang. Nhưng nó tuy nhỏ tuổi mà đã cực kỳ lanh lợi, nếu không thì trong thành Lăng Tiêu đông người truy bắt như vậy, làm sao nó biến mất được?”
Mẫn Nhu sa lệ nói: “Thế thì nhất định là Ngọc nhi nhảy xuống vực thẳm tự tử rồi.”
Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Không phải. Dấu giày gã đi trên mặt tuyết lúc xuống núi rất rõ rệt, về sau lại phát hiện dấu giày đó ở một ngọn đồi. Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ bao nhiêu người lớn mà không bắt nổi một thằng nhóc mười lăm mười sáu tuổi. Tệ sư phụ quả có ý mời hai vị đến thành Lăng Tiêu để bàn luận kế hoạch sau này.”
Thạch Thanh cố trấn tĩnh nói: “Nói qua nói lại, cũng chỉ là muốn bắt chúng ta phải đền mạng cho Bạch cô nương mà thôi. Vương sư huynh bảo còn hai mạng người phải tính, không hiểu là chuyện gì?”
Vương Vạn Nhận đáp: “Tại hạ vừa nói mười tám đệ tử chia làm hai, một toán chín người đi xuống Giang Nam. Còn toán kia thì do Cảnh sư huynh dẫn đi các nơi ở Trung Nguyên để tìm tung tích của con trai trang chúa. Nhưng thật là xui xẻo, thật là họa vô đơn chí…”
Cảnh Vạn Chung ngắt lời: “Vương sư đệ! Sư đệ bất tất phải nói nữa, vụ đó không liên quan gì đến Thạch trang chúa.”
Vương Vạn Nhận cãi: “Sao lại không liên quan? Nếu không vì thằng nhỏ đó thì Tôn sư ca cùng Chử sư đệ đâu đến nỗi phải uổng mạng một cách không minh bạch? Hơn nữa, đối thủ là ai, chúng ta vẫn chưa biết. Rồi đây về núi, Cảnh sư huynh sẽ bẩm lại với sư phụ như thế nào? Sư phụ mà nổi cơn thịnh nộ thì e rằng cánh tay của sư huynh khó mà bảo toàn được. Vợ chồng Thạch trang chúa giao du rất rộng, mình nói ra để hai vị đi nghe ngóng tin tức giùm có phải hơn không?”
Cảnh Vạn Chung nhớ tới Phong sư huynh bị cái thảm chặt tay, liền nghĩ ngay đến mình không có cách nào để phục mệnh cùng sư phụ. Hắn cũng cho rằng nhờ vợ chồng Thạch Thanh đi dò la tin tức cũng là một cách giải quyết, bèn đáp: “Được rồi! Sư đệ muốn kể thì cứ kể đi!”
Vương Vạn Nhận nói: “Thạch trang chúa! Trước đây ba hôm, bọn tại hạ được tin có một tên họ Ngô lấy được Huyền Thiết Lệnh, mai danh ẩn tích tại Hầu Giám Tập ngoài thành Biện Lương, giả làm một lão già bán bánh tiêu. Bọn sư huynh đệ tại hạ chín người bèn thương lượng với nhau, đều cho rằng tróc nã Thạch Trung Ngọc phải gặp may mới được. Thiên hạ bao la biết tìm đâu cho thấy? Nếu mười năm không tìm thấy gã, bọn huynh đệ tại hạ cũng mười năm không dám trở về thành Lăng Tiêu. Giả tỉ bọn tại hạ lấy được Huyền Thiết Lệnh thì dù không bắt được lệnh lang, cũng còn có chút công để về gặp sư phụ. Trong lúc bàn định, không khỏi có người trách mắng lệnh lang tuổi nhỏ gan lớn, thật là đáng chết. Đột nhiên có tiếng một lão già cười ha hả, nói vọng vào: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Thiếu niên như thế thật là hiếm có, thật là lương tài mỹ chất. Trên đời khó mà tìm được con người như gã!”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng: “Người ta tán dương con mình như vậy, nghe còn khó chịu hơn là thóa mạ.”
Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Lúc đó bọn tại hạ nói chuyện trong phòng khách điếm, bốn mặt đều là tường gạch. Thế mà thanh âm kia lọt qua tường vào, nghe rõ ràng chẳng khác gì ngồi đối diện.
Chín người bọn tại hạ cũng nói rất khẽ, không hiểu sao lão lại nghe được.”
Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu động tâm nghĩ thầm: “Cách tường gạch mà nghe rõ, không chừng là tường có lỗ hổng hay khe nứt, cũng không chừng có người ngồi dưới cửa sổ nghe lén. Có khi bọn này cãi cọ om sòm mà lại tự cho là nói khẽ, thì cũng chẳng lấy chi làm kỳ. Nhưng cách tường mà nói cho bên này nghe rõ mồn một, dĩ nhiên nội công lão già đó phải thâm hậu vô cùng. Bọn này dọc đường gặp phải cao nhân, thật là bão trước chưa tan, bão sau lại đến.”
Kha Vạn Quân xen vào: “Bọn tại hạ nghe thấy thanh âm đó, đều phải ngẩn ra. Vương sư ca liền quát lên: “Thế này thì chịu làm sao được? Sao lại có kẻ đi nghe lén chuyện người khác thế kia?” Vương sư ca vừa quát hỏi, bên kia im bặt không còn có âm thanh gì nữa. Một lúc sau, lão tặc kia lại lên tiếng: “A Đang! Bọn này đều là người phái Tuyết Sơn. Sư phụ của chúng là lão họ Bạch, là kẻ mà gia gia ghét nhất trên đời. Nay lại có một thằng lỏi làm cho lão… phái Tuyết Sơn phải tan cửa nát nhà, thế có thú không? Ha ha, thật là tuyệt diệu.” Bọn tại hạ nghe họ nói thế, thì muốn nổi xung ngay lập tức, nhưng Cảnh sư ca vội xua tay ra hiệu cho mọi người đừng lên tiếng.”
“Lại nghe tiếng một tiểu cô nương vừa cười khanh khách vừa nói: “Thú quá! Thú quá! Nhưng lão chưa tức đến chết, thì cũng chưa phải là tuyệt thú.” Con bé đó còn nói mấy câu quỷ quái gì nữa, nhưng cách tường nên nghe cũng không rõ lắm. Chỉ nghe lão già kia ho mấy tiếng rồi nói: “Nếu lão… tức quá mà chết đi thì lại chẳng có gì thú nữa. Để khi gia gia rảnh rỗi dắt ngươi đến thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết, đích thân chọc lão… phải tức đến chết cho ngươi xem, mới thật là thú!” Hắn chỉ nói là “lão…” còn lão gì thì hàm hồ bỏ qua. Chắc là lúc lão già nhắc đến tên sư phụ hắn đã dùng chữ rất hỗn xược, nên hắn phải lờ đi, không dám kể nguyên văn.
Thạch Thanh nói: “Người này cực kỳ vô lễ, dám bất kính cả với Bạch lão gia. Chẳng hiểu hắn dựa vào đâu mà dám thế? Chúng ta không thể bỏ qua cho hắn được.”
Vương Vạn Nhận nói: “Đúng thế! Lão tặc đó coi dưới mắt không người, chúng ta có thí mạng thì cũng phải đấu với hắn một phen. Bọn tại hạ đang tức không chịu nổi, thì nghe có tiếng “úi chà” trong phòng khách, còn phòng bên có tiếng kẹt cửa, hai người tiến vào trong viện. Bọn tại hạ đều rút kiếm ra, muốn xông vào trong viện ngay, nhưng Cảnh sư ca lại khoát tay bảo anh em đừng nóng nảy. Bỗng nghe lão tặc kia lại nói: “A Đang! Hôm nay ta đã giết mấy người rồi?” Con tiểu quỷ kia đáp: “Mới giết có một tên.” Lão tặc lại nói: “Vậy bây giờ có thể giết hai tên nữa.”
Thạch Thanh bỗng “ồ” lên một tiếng, rồi nói: “Nhất Nhật Bất Quá Tam!”
Cảnh Vạn Chung từ nãy vẫn ngồi yên không nói gì, bây giờ vội hỏi: “Thạch trang chúa! Trang chúa có biết lão già đó ư?”
Thạch Thanh lắc đầu đáp: “Tại hạ cũng không biết hắn, nhưng có được nghe tiên phụ đề cập đến. Trong võ lâm có một nhân vật như vậy, ngoại hiệu là Nhất Nhật Bất Quá Tam gì đó, tự hạn chế một ngày nhiều lắm là chỉ giết ba người. Sau khi lão giết người thứ ba rồi, tự nhiên mềm lòng đi, không muốn hạ thủ giết người thứ tư nữa.”
Vương Vạn Nhận cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Một ngày giết ba người còn chưa đủ ư? Thứ gian ác như vậy mà còn sống được đến nay mới là chuyện lạ.”
Thạch Thanh không nói gì, nghĩ thầm: “Nghe nói lão tiền bối họ Đinh này hành sự nửa chính nửa tà, tuy tàn nhẫn hiếu sát, nhưng chưa nghe nói đã phạm trọng tội gì. Những người lão giết đều là đáng chết.” Nhưng mấy câu này mà nói ra là đụng chạm đến phái Tuyết Sơn, nên ông không nói.
Cảnh Vạn Chung lại hỏi: “Không hiểu lão tặc đó tên họ là gì? Thuộc môn phái nào?”
Thạch Thanh đáp: “Tại hạ nghe nói lão họ Đinh, tên thật là gì cũng không biết rõ, chỉ biết ngoại hiệu lão là Nhất Nhật Bất Quá Tam. Các vị tiền bối thường gọi tắt là Đinh Bất Tam.”
Kha Vạn Quân tức tối nói: “Lão tặc đó đúng là cái thứ hồ đồ Bất Tam Bất Tứ.”
Thạch Thanh nói: “Tại hạ còn nghe nói nhà đó có ba anh em. Lão còn một người anh là Đinh Bất Nhị, một người em là Đinh Bất Tứ.”
Vương Vạn Nhận lại mắng: “Con mẹ nó. Bất Nhị Bất Tam, Bất Tam Bất Tứ, lại có những cái tên thối như rắm chó đó hay sao?”
Cảnh Vạn Chung nói: “Vương sư đệ! Trước mặt Thạch đại tẩu, không nên buột miệng như thế.” Vương Vạn Nhận “Vâng” một tiếng, rồi quay sang Mẫn Nhu tạ lỗi.
Mẫn Nhu chỉ mỉm cười rồi nói: “Không chừng đó chỉ là ngoại hiệu. Làm gì có những cái tên cổ quái như thế?”
Thạch Thanh nói: “Địa vị anh em nhà họ Đinh trong võ lâm không phải tầm thường. Chắc Bạch lão gia có chuyện gì xích mích với lão nên không đề cập tới, vì thế mà các vị huynh đệ không biết đến. Thế rồi sao nữa?”
Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Bỗng nghe lão tặc thúi mồm thúi miệng đó hỏi: “Có tên nào là Tôn Vạn Niên đó không? Lại còn một tên Chử Vạn Xuân nữa, hai ngươi chường mặt ra đây!” Nghe lão hống hách như vậy, bọn tại hạ còn nhẫn nại làm sao được, cả chín người liền xông ra một lúc. Nhưng lạ thay, trong viện chẳng có lấy một người. Mọi người tìm khắp bốn mặt, nhảy cả lên nóc nhà dòm ngó mà vẫn không thấy bóng một ai hết. Kha sư đệ thấy cửa phòng khách chỉ khép hờ liền xông vào, chỉ thấy một ngọn đèn cầy đặt trên bàn, chẳng thấy ma nào.”
“Bọn tại hạ còn đang nghi hoặc, thì nghe trong chính phòng mình có tiếng người, đúng là thanh âm lão tặc kia. Hắn nói: “Tôn Vạn Niên! Chử Vạn Xuân! Hai ngươi ở Lương Châu đã dám nhìn cháu gái của ta không chớp mắt, chỉ trỏ trêu ghẹo, mặt mũi đầy vẻ dâm tà. Cháu gái ta tuổi tác còn nhỏ, nhưng dung nhan xinh đẹp, hai thằng súc sinh này nhất định đã nảy ra những ý định xấu xa. Như vậy thì các ngươi còn oan uổng gì nữa không? Mau mau bước vào đây!” Tôn sư ca và Chử sư ca càng nghe càng cáu giận, sùng sục chống kiếm vào phòng. Cảnh sư ca la lên: “Phải cẩn thận đấy!
Chúng ta xông cả vào đi!” Trong phòng đèn lửa tắt hết mà không thấy động tĩnh chi cả. Tại hạ lớn tiếng gọi: “Tôn sư ca! Chử sư ca!”. Nhưng không thấy hai người đáp lại, mà trong phòng cũng không có tiếng đánh nhau.”
“Bọn tại hạ đều sợ đến dựng tóc gáy, vội bật lửa lên xem thì thấy hai vị sư ca quỳ ngay ngắn dưới đất, trường kiếm để một bên. Cảnh sư ca và tại hạ vội nhảy vào để đỡ hai người dậy, nhưng vừa đụng đến thì hai người đã lăn ra đất, thì ra tắt thở chết rồi! Tại hạ sờ khắp thân thể hai người chẳng thấy vết thương nào, chẳng hiểu lão tặc kia đã dùng bùa phép ma quỷ gì hạ sát hai vị sư ca. Nói ra xấu hổ, từ đầu đến cuối bọn tại hạ không thấy bóng lão tặc và con tiểu quỷ.”
Kha Vạn Quân nối lời: “Dọc đường ở Lương Châu, bọn tại hạ chẳng hề để ý đến người già người trẻ chi hết. Mà cho dù hai vị sư ca có nhìn cháu gái của lão mấy cái, thì có gì đáng kể đâu.”
Thạch Thanh, Mẫn Nhu lẩm nhẩm gật đầu. Mọi người cùng im lặng mất một lúc.
Thạch Thanh lên tiếng: “Cảnh huynh! Thằng nghiệt chướng của tại hạ đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu vào ngày nào vậy?”
Cảnh Vạn Chung đáp: “Mùng mười tháng chạp.”
Thạch Thanh gật đầu nói: “Hôm nay đã là mười hai tháng ba, thế là Bạch sư huynh rời khỏi thành Lăng Tiêu đã ba tháng, bây giờ chắc Huyền Tố trang đã bị đốt rồi. Cảnh huynh, Vương huynh cùng các vị huynh đệ! Vợ chồng tại hạ có hai việc phải làm. Thứ nhất là đi tìm thằng nghiệt chướng, nếu bắt được sẽ trói đem về thành Lăng Tiêu để thỉnh tội cùng Bạch lão gia, Phong huynh và Bạch huynh. Thứ hai là phải dò la tin tức lão Nhất Nhật Bất Quá Tam. Vợ chồng tại hạ tuy không làm gì được lão, nhưng sẽ báo tin cho Bạch lão gia hay để lão nhân gia thân hành xuất mã đi lo liệu việc này. Xin cáo biệt.” Thạch Thanh nói xong, bèn chắp tay thi lễ cùng mọi người toan quay lưng đi.
Kha Vạn Quân vội hỏi: “Trang chúa… tưởng chỉ nói mấy câu rồi phủi tay bỏ đi mà được ư?”
Thạch Thanh hỏi: “Kha huynh đệ còn điều gì muốn nói?”
Kha Vạn Quân đáp: “Chúng ta không kiếm được thằng con của trang chúa, chỉ còn cách mời vợ chồng trang chúa cùng đến thành Lăng Tiêu để gặp sư phụ ta, mới coi là xong được.”
Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là vợ chồng tại hạ phải lên thành Lăng Tiêu, nhưng phải tìm ra một chút manh mối trước đã, rồi mới nói chuyện được.”
Kha Vạn Quân hết nhìn Cảnh Vạn Chung lại nhìn Vương Vạn Nhận. Gã phẫn nộ nói: “Giả tỉ sư phụ biết là chúng ta gặp vợ chồng Thạch trang chúa mà không mời được hai vị lên núi thì… thì… chẳng hóa ra…”
Thạch Thanh đã biết ý hắn muốn cậy nhiều người để thủ thắng, cưỡng bức vợ chồng mình phải lên núi Đại Tuyết, bắt không được con thì đem cha ra thường mạng. Ông liền nói: “Bạch lão gia đức cao trọng vọng, oai danh lừng lẫy một góc trời Tây. Tại hạ đối với lão gia trước nay vẫn đem lòng tôn kính như bậc sư trưởng. Giả tỉ Bạch huynh ở đây, vâng mệnh Bạch lão gia gọi tại hạ đến thành Lăng Tiêu, thì nhất định tại hạ phải tuân mệnh. Thôi bây giờ đành thế này vậy.” Thạch Thanh tháo thanh hắc kiếm sau lưng ra, rồi nhìn Mẫn Nhu nói: “Sư muội! Muội cũng bỏ kiếm ra đi!” Mẫn Nhu vâng lời tháo kiếm. Thạch Thanh nâng song kiếm trên lòng bàn tay, đưa cho Cảnh Vạn Chung nói: “Cảnh huynh! Xin Cảnh huynh áp tải khí giới của vợ chồng tại hạ về trước.”
Cảnh Vạn Chung vốn biết đôi Hắc Bạch song kiếm này là binh khí quý giá hiếm có trên đời, trước nay vợ chồng Thạch Thanh coi trọng như tính mạng. Bây giờ ông đã tháo kiếm ra giao nộp, thì phái Tuyết Sơn đã có thể diện lắm rồi, cứ giữ song kiếm thì nhất định ông sẽ phải đến thành Lăng Tiêu để lấy về. Hắn bèn định nói mấy lời khiêm tốn rồi nhận lấy kiếm.
Bỗng dưng Kha Vạn Quân lại lớn tiếng: “Sư điệt nữ thác oan, Phong sư ca bị chặt một cánh tay, sư nương bỏ núi ra đi, Bạch sư tẩu phát điên, lại thêm Chử sư ca và Tôn sư ca chết không minh bạch. Chẳng lẽ hai thanh kiếm lại đủ để đền bồi hay sao? Cảnh sư ca có giao tình với ngươi, còn Kha mỗ thì không quen không biết
ngươi. Họ Thạch kia! Hôm nay bất luận ngươi muốn hay không muốn, cũng phải về thành Lăng Tiêu.”
Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tiểu nhi đã đắc tội rất nặng nề với quý phái, nhưng tại hạ ngoài cách tạ tội, cũng không còn biết nói gì. Kha sư huynh là một nhân tài của phái Tuyết Sơn, bản lãnh cao cường, tương lai rạng rỡ. Tại hạ tuy chưa được quen biết, nhưng đã ngưỡng mộ thanh danh của Kha sư huynh từ lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.” Hai tay ông vẫn nâng hai thanh trường kiếm, chờ Cảnh Vạn Chung đưa tay ra đón lấy.
Kha Vạn Quân nghĩ bụng: “Nếu bây giờ bọn mình bắt vợ chồng tên này phải lên Đại Tuyết Sơn thì khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu. Hắn đã chịu đưa hai thanh bảo kiếm, thì còn gì hay hơn nữa? Cái đó kêu bằng tự mình gây nên tội nghiệt, còn trách ai được?” Gã sợ Thạch Thanh đột nhiên đổi ý mà thu kiếm về, liền tiến lên hai bước, thi triển công phu cầm nã của bản môn nắm chặt lấy hai thanh kiếm, rồi nói: “Vậy thì ta phải giữ binh khí của ngươi trước.” Gã toan lấy kiếm về, thì đột nhiên cảm thấy hai thanh kiếm như bị dính chặt vào lòng bàn tay Thạch Thanh, không thể nào kéo ra được.
Kha Vạn Quân cả kinh, vận kình lực vào hai cánh tay, quát một tiếng: “Lên!”. Ngờ đâu, ngay trong lúc hắn ra sức giật về thì sức hút trong lòng bàn tay Thạch Thanh đột nhiên biến mất.
Kha Vạn Quân đã vận công lực như để nhấc một vật nặng mấy trăm cân, mà hoàn toàn không có đối trọng, kình lực dồn hết vào cổ tay của mình. Chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, gã bị trật khớp cả hai cổ tay, la to lên một tiếng: “Úi chao!” Mười ngón tay gã lại lỏng ra, hai thanh kiếm lại rớt xuống lòng bàn tay Thạch Thanh.
Những người đứng quanh đều thấy rõ ràng hai bàn tay Thạch Thanh vẫn để yên, ngay cả đầu ngón út cũng không nhúc nhích, chỉ là Kha Vạn Quân vận lực bừa bãi, dùng lực đạo mấy trăm cân để tự giật sái cổ tay mình. Kha Vạn Quân vừa giận dữ vừa đau đớn, phóng chân toan đá vào bụng Thạch Thanh.
Cảnh Vạn Chung vội la lên: “Không được vô lễ!” Hắn vừa la gọi vừa nắm lấy lưng Kha Vạn Quân kéo lùi lại phía sau, thành ra phát
cước này không trúng vào người Thạch Thanh được.
Cảnh Vạn Chung biết nội lực Thạch Thanh cực kỳ lợi hại. Giả tỉ Kha Vạn Quân đá trúng vào người Thạch Thanh, thì không chừng chính chân phải của hắn bị chấn động mà gãy mất. Về võ công cũng như về kiến thức, Cảnh Vạn Chung còn cao hơn Kha Vạn Quân rất nhiều. Hắn hít một hơi dài, vận nội kình vào mười đầu ngón tay rồi từ từ đưa ra cầm lấy hai thanh kiếm. Mười đầu ngón tay hắn vừa đụng vào kiếm thì toàn thân đã run bắn lên như bị điện giật, rồi một luồng nhiệt khí truyền vào trong ngực. Hiển nhiên Thạch Thanh đã dồn nội lực vào song kiếm. Gã la thầm: “Hỏng rồi!”, nghĩ rằng Thạch Thanh đã bày ra cạm bẫy để đưa mình vào thế phải tỉ đấu nội lực. Người luyện võ mà tỉ đấu nội lực là nguy hiểm nhất, ai mạnh hơn thì sống, còn kẻ yếu chắc chắn phải chết, không có cách nào tránh được. Trường hợp hai người nội lực chênh lệch không nhiều thì không chừng phải chết cả hai, muốn nhường nhịn hay muốn rút lui cũng không phải dễ. Lúc này tình thế nguy hiểm, không có cách nào xoay chuyển, Cảnh Vạn Chung chỉ còn cách vận nội lực để chống đỡ. Không ngờ nội lực của hai bên vừa đụng vào nhau, lập tức Cảnh Vạn Chung bị hất ngược trở lại.
Bấy giờ Thạch Thanh mới từ từ xoay tay lại, đặt song kiếm vào tay Cảnh Vạn Chung, rồi cười nói: “Chúng ta tình như huynh đệ, khi nào vì chuyện này mà để tổn thương hòa khí? Xin cáo từ.”
Lưng Cảnh Vạn Chung toát mồ hôi lạnh, biết nội lực của mình so với Thạch Thanh hãy còn kém rất xa. Vừa rồi nội lực của mình mới đụng vào nội lực của ông mà đã bị hất văng ra, dĩ nhiên không phải là đối thủ. Ông không đả thương hay làm mất thể diện mình, là đã hạ thủ lưu tình. Cảnh Vạn Chung cầm lấy hai thanh kiếm đứng ngẩn người ra, vẻ mặt đầy vẻ hổ thẹn, không biết nói thế nào cho phải.
Thạch Thanh quay lại bảo: “Sư muội! Bây giờ chúng mình vào thành Biện Lương.”
Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe, ấp úng nói: “Sư ca! Hài nhi…”
Thạch Thanh lắc đầu ngắt lời: “Thà như Kiên nhi bị người ta chém chết, còn dễ chịu hơn.”
Nước mắt Mẫn Nhu trào ra như mưa. Nàng nghẹn ngào nói: “Sư ca! Huynh… huynh…” Thạch Thanh đưa tay ra nắm lấy tay nàng, dắt đến bên con ngựa trắng, rồi đỡ lên yên. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy Mẫn Nhu dáng người yểu điệu, thật khó mà tin được đây lại là Băng Sương Thần Kiếm oai chấn giang hồ.
Hoa Vạn Tử thấy Huyền Tố Song Kiếm cưỡi ngựa sóng vai đi khỏi, liền quay về chỗ cũ, Vương Vạn Nhận đang sửa khớp cổ tay cho Kha Vạn Quân. Còn Kha Vạn Quân thì đang ngoác mồm ra mà thóa mạ, hết “lão gia tử” lại “con mẹ nó”. Hoa Vạn Tử hỏi rõ mọi chuyện, bất giác chau mày nói: “Cảnh sư ca! Vụ này e rằng không ổn.”
Cảnh Vạn Chung hỏi: “Có gì mà không ổn? Đối phương võ công cao quá, dù bọn ta có hợp lực bảy người cũng chẳng giữ họ lại được. Hiện giờ mình áp tải binh khí của họ về thành Lăng Tiêu, cũng có thể phúc trình sư phụ.” Rồi hắn rút kiếm ra khỏi vỏ. Bạch kiếm trắng như tuyết, Hắc kiếm đen như mực, hai thanh kiếm tỏa ra những luồng hàn khí ghê gớm, tưởng chừng như xông vào da thịt làm cho tê nhức. Quả là hai thanh bảo kiếm hiếm thấy trên đời. Hắn bèn nói: “Đôi kiếm này không phải là giả.”
Hoa Vạn Tử đáp: “Kiếm là thật, nhưng chúng ta đã không giữ được người thì e rằng cũng khó giữ được hai thanh bảo kiếm này.”
Cảnh Vạn Chung động tâm hỏi lại: “Hoa sư muội nói sao?”
Hoa Vạn Tử đáp: “Năm ngoái có một hôm tiểu muội ngồi rỗi nói chuyện với Bạch sư tẩu, có đề cập đến bảo đao bảo kiếm trong thiên hạ. Lúc ấy thằng giặc non Thạch Trung Ngọc cũng đứng bên hớt lẻo, khoe Hắc Bạch Song Kiếm của song thân gã là lợi khí vào bậc nhất thiên hạ. Gã còn nói, song thân gã cho gã lên Đại Tuyết Sơn học võ mấy năm không gặp thì còn được, chứ nhất định không rời đôi kiếm này lấy một ngày. Lúc này Thạch trang chúa đã giao bảo kiếm vào tay chúng ta, không chừng mấy ngày sau họ tìm cách lén đoạt lại. Rồi sau này họ lại đến thành Lăng Tiêu đòi kiếm, thì chúng ta khó mà trả lời được.”
Kha Vạn Quân nói: “Bảy huynh đệ chúng ta cứ giương mắt ra mà nhìn, thì dù hai thanh kiếm này có phép thần thông, mọc cánh cũng
không bay đi nổi.”
Cảnh Vạn Chung im lặng một chút rồi nói: “Hoa sư muội không nên quá lo lắng. Thạch Thanh tuy là nhân vật không phải tầm thường, nhưng chúng ta gia tâm đề phòng thì họ muốn lật ngược thế cờ cũng không phải dễ.”
Vương Vạn Nhận cũng nói: “Đề phòng cẩn thận là chuyện rất đúng. Bắt đầu từ hôm nay, sáu nam nhân chúng mình phải thay phen mà trông nom đôi quỷ kiếm này.” Hắn ngừng một chút, rồi lại hỏi: “Cảnh sư ca! Bây giờ vợ chồng thằng cha họ Thạch đi vào thành Biện Lương. Chúng mình có nên đi không?”
Cảnh Vạn Chung suy tính, nếu nói không đi thì tỏ ra khiếp nhược. Đã xuống Trung Nguyên mà không vào nơi đô hội như thành Biện Lương thì chẳng khác gì qua cửa mà không vào nhà, sau này huynh đệ đồng môn nhắc tới thì thật là mất mặt. Nhưng đã biết rõ vợ chồng Thạch Thanh hiện ở thành Biện Lương, mà cứ đem bảo kiếm vào thành, thì thật là mạo hiểm. Hắn trầm ngâm một lúc mà chưa quyết định được.
Bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm, trên đường lớn có một đội quan binh đi tới. Trong đám này có bốn tên kiệu phu khiêng một cỗ kiệu lớn buông rèm xanh, đúng là quan phủ đến.
Cảnh Vạn Chung nghĩ bụng, ở Hầu Giám Tập vừa xảy ra án mạng, cường đạo giết người cướp của. Bọn mình bảy người tay cầm binh khí tụ tập ở đây, không khỏi làm cho người ta phải nghi ngờ. Giả tỉ có xích mích gì với quan phủ thì thật là phiền phức. Hắn liếc mắt nhìn mọi người rồi nói: “Đi thôi!”
Bảy người toan lánh đi cho mau, thì một tên sai nha đã lớn tiếng la: “Đứng lại! Quân cường đạo giết người kia đừng chạy nữa!” Cảnh Vạn Chung không thèm nói gì, vẫy tay cho đồng bọn đi mau. Bỗng lại nghe tiếng sai nha la lên: “Hung thủ giết người là Bạch Tự Tại, chính là lão bất tử chưởng môn của phái Tuyết Sơn. Lão Vô uy vô đức Bạch Tự Tại chỉ chuyên cướp của giết người, thật là tội phạm nguy hiểm.”
Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe vậy thì vừa kinh hãi vừa tức giận. Sư phụ bọn chúng là Bạch Tự Tại, ngoại hiệu Uy Đức tiên sinh. Tên sai nha này dám gọi thẳng tên lão ra thì đã là bất kính, còn dám nói là Vô uy vô đức. Nghe soạt một tiếng, Vương Vạn Nhận rút trường kiếm ra khỏi vỏ, thét lớn: “Đồ cẩu quan vô lễ! Ta phải cắt lưỡi ngươi trước rồi sẽ nói chuyện sau.”
Cảnh Vạn Chung vội cản: “Vương sư đệ hãy khoan! Bọn quan nha làm gì biết được ngoại hiệu cùng tên húy sư phụ? Dĩ nhiên sau lưng chúng còn có người sai khiến.” Hắn liền băng mình tiến lên, chắp tay hỏi: “Không hiểu là vị trưởng quan nào giá lâm?”
Đột nhiên nghe véo một tiếng, từ trong kiệu bay ra một mũi ám khí, bắn trúng vào huyệt Phục Thố trên đùi Cảnh Vạn Chung. Ám khí này rất nhỏ bé, nhưng lực đạo cực kỳ mãnh liệt, chân Cảnh Vạn Chung tức thì mềm nhũn, ngã lăn ra. Nhưng tay hắn vẫn rút trường kiếm ra, vận kình phóng vào trong kiệu. Người hắn tuy té xuống đất, nhưng vẫn sử được chiêu Hạc Phi Cửu Thiên vừa độc địa vừa chuẩn xác. Nghe vù một tiếng, thanh kiếm xuyên qua rèm kiệu đâm vào, hiển nhiên đã trúng người vừa phóng ám khí.
Cảnh Vạn Chung cả mừng, nhưng thấy bốn tên kiệu phu vẫn khiêng kiệu chạy như bay. Bỗng thấy một chiếc roi ngựa từ trong kiệu tung ra, cuốn vào chân trái Vương Vạn Nhận, giật mạnh một cái. Người Vương Vạn Nhận bị hất tung lên, thanh Hắc Kiếm trong tay gã bị roi ngựa cuốn mất.
Hoa Vạn Tử la lên: “Có phải Thạch trang chúa đấy không?” Nàng rút thanh Bạch Kiếm ra khỏi vỏ, toan chém tới cái roi ngựa. Lại nghe véo một tiếng, từ trong kiệu lại bay ra một viên ám khí trúng vào cổ tay nàng. Hoa Vạn Tử cổ tay tê nhức, làm rơi thanh Bạch Kiếm xuống đất. Một gã sư huynh liền đưa chân ra đạp lên thanh kiếm. Đột nhiên trong kiệu lại bay ra một vật chụp lấy đầu gã này. Gã bỗng thấy trước mắt tối sầm lại, vội co chân nhảy lùi ra sau, đồng thời đưa tay lên kéo vật trên đầu ra liệng xuống đất, nhìn lại thì ra một cái mũ của quan binh. Cái roi ngựa lại từ trong kiệu vung ra, quấn lấy thanh Bạch Kiếm rồi giật vào trong kiệu.
Bọn Kha Vạn Quân hò hét đuổi theo. Ám khí trong kiệu lại bay ra không ngớt, bọn đệ tử Tuyết Sơn kẻ bị trúng mặt, người bị trúng lưng, không ai tránh thoát, tuy không trúng vào chỗ trọng yếu, nhưng cũng đau đớn vô cùng. Mọi người nhìn lại loại ám khí này thì không khỏi kinh hãi. Đây toàn là khuy áo bằng đồng, hiển nhiên vừa giật ở áo ra. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đoán chắc người trong kiệu là Thạch Thanh, không chừng lại là cả hai vợ chồng, nếu đuổi theo động thủ thì cũng chỉ thêm mất thể diện.
Kha Vạn Quân giận quá thét lên: “Cái ổ họ Thạch này, thằng nhỏ đã lưu manh vô sỉ, thằng lớn lại càng vô sỉ lưu manh. Hắn vừa gửi binh khí làm tin, chớp mắt đã cướp lại rồi.”
Vương Vạn Nhận cũng trỏ tay về phía sau kiệu, dậm chân thóa mạ: “Quân chó đẻ! Đồ đê tiện!”
Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Vụ này mà đồn đại ra ngoài thì chẳng lợi gì cho danh tiếng phái Tuyết Sơn chúng ta. Mọi người phải giữ mồm giữ miệng là hơn, quay về bẩm báo với sư phụ rồi sẽ tính.”
Chuyến đi này liên tiếp thất bại, lúc ở thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết thì tự cao tự đại võ công phái Tuyết Sơn thiên hạ vô địch, nào ngờ khi gặp chuyện thì đụng đâu cũng như bị trói hết tay chân. Hắn không nhịn nổi phải thở dài sườn sượt, mặt đầy vẻ ảm đạm.
Tạ Yên Khách chợt trông qua bên đường
thấy có ba cây táo lớn, đầy quả chín đỏ, liền
trỏ vào cây táo nói: “Mấy trái táo kia ngon
quá!”
Gã ăn xin hỏi: “Đại hảo nhân! Ông thích ăn
táo phải không?”
Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Đại hảo
nhân cái gì?”
Hồi 3
Ma Thiên Nhai
Cỗ kiệu kia đi thêm mấy dặm rồi rẽ vào một con đường nhỏ. Hễ bọn phu khuân kiệu đi thong thả lại một chút, là roi ngựa từ trong kiệu lại vung ra veo véo đập vào lưng hai tên đi trước. Hai tên phu kiệu đằng trước không dám chạy chậm, hai tên đằng sau cũng chỉ còn cách cố sống cố chết chạy theo, bọn quan sai ở phía sau cũng phải chạy theo. Thêm bốn năm dặm nữa, người trong kiệu bỗng lên tiếng: “Được rồi! Dừng lại đi!”
Bốn tên phu kiệu nghe câu này, chẳng khác gì được nhà vua ban lệnh đại xá. Chúng thở hồng hộc, hạ kiệu xuống. Rèm kiệu vừa vén lên, một lão già dắt một thằng nhóc ăn xin bước ra. Lão già này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh.
Lão nhìn mấy tên sai nha lớn tiếng quát: “Các ngươi quay về bảo với lão cẩu quan, việc hôm nay không được đồn đãi lung tung. Nếu ta mà nghe bất cứ tin tức gì về vụ này, thì lập tức chặt hết đầu của bọn ngươi, lại còn lấy cả ấn tín của lão cẩu quan đó liệng xuống sông Hoàng Hà.”
Mấy tên sai nha vừa lạy vừa đáp: “Dạ! Dạ! Bọn tiểu nhân nhất định không dám nhiều chuyện, lão gia cứ yên tâm thủng thẳng mà đi.”
Tạ Yên Khách nói: “Kêu ta đi chậm ư? Muốn gọi quan binh đến tróc nã ta phải không?”
Bọn sai nha vội đáp: “Không dám, không dám! Vạn vạn lần không dám.”
Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ta dặn bọn ngươi về nói gì với lão cẩu quan, bọn ngươi đã nhớ chưa?”
Bọn sai nha đáp ngay: “Bọn tiểu nhân đã thuộc lòng rồi. Bây giờ bọn tiểu nhân về trình quan là đã đến Hầu Giám Tập, chính mắt trông thấy lão già bán bánh tiêu cùng một tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bị một người tên là Bạch Tự Tại giết chết. Hung thủ chính là chưởng môn phái Tuyết Sơn, ngoại hiệu là Uy Đức tiên sinh, nhưng thực ra là vô uy vô đức. Hung khí là thanh đơn đao hãy còn vết máu. Nhân chứng vật chứng đều đủ cả, chắc lão không còn chối vào đâu được nữa.” Bọn sai nha này đã bị lão Tạ Yên Khách đánh cho sợ đến vỡ mật, bịa ra những gì nhân chứng vật chứng là để nịnh nọt lão. Chuyện tìm một thanh đao để làm vật chứng, cũng chính là ngón nghề của bọn sai nha trong quan phủ.
Tạ Yên Khách cười khẩy, nói: “Nhưng lão họ Bạch kia lại sử kiếm chứ không dùng đao.”
Sai nha đáp ngay: “Dạ! Dạ! Hung thủ cầm một thanh kiếm thép đâm vào lưng lão bán bánh tiêu ở Hầu Giám Tập, mọi người đều trông thấy rõ ràng.”
Tạ Yên Khách cười thầm trong bụng, nghĩ thầm: “Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại muốn giết Ngô Đạo Thông mà phải dùng đến binh khí ư?” Lão không lý gì đến bọn sai nha nữa, tay trái dắt gã ăn xin, tay phải cầm đôi Hắc Bạch Song Kiếm của vợ chồng Thạch Thanh, thong thả bước đi, ra chiều đắc ý.
Thì ra từ lúc Tạ Yên Khách đem gã ăn xin đi, trong lòng vẫn nghi ngờ vợ chồng Thạch Thanh cùng bọn đệ tử phái Tuyết Sơn có mưu đồ bất lợi cho mình. Lão đi được mấy dặm thì điểm huyệt gã ăn xin, giấu vào một bụi cỏ rậm, rồi quay lại nghe trộm. Võ công Tạ Yên Khách so với vợ chồng Thạch Thanh còn cao thâm hơn nhiều, lão lén nấp sau một gốc cây mà Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng không phát giác ra, còn bọn Cảnh Vạn Chung thì chẳng nói làm gì. Tạ Yên Khách nghe rõ đầu đuôi, thấy hoàn toàn chẳng can dự gì đến mình. Lão thấy Thạch Thanh giao song kiếm cho Cảnh Vạn Chung, nảy ý
đoạt lấy hai thanh kiếm này, liền quay lại bụi rậm giải khai huyệt đạo cho gã ăn xin, rồi dắt gã ra đi. Dọc đường lão gặp quan tri huyện dẫn sai nha đến điều tra vụ án mạng tại Hầu Giám Tập. Lão liền lôi quan huyện ra khỏi kiệu, uy hiếp bọn sai nha và bắt bọn kiệu phu khiêng lão cùng gã ăn xin đi đoạt song kiếm. Bọn Cảnh Vạn Chung không nhìn thấy mặt Tạ Yên Khách, dĩ nhiên phải cho rằng đây là thủ đoạn của vợ chồng Thạch Thanh.
Tạ Yên Khách dắt gã ăn xin đi tìm một nơi vắng vẻ. Lão ra đến bờ một con sông nhỏ thấy bốn bề vắng vẻ chẳng có một ai, liền buông tay gã ăn xin ra, cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu kề vào cổ gã, lớn tiếng quát hỏi: “Ai đã sai khiến ngươi? Nói dối nửa câu là ta giết ngay tức khắc.” Rồi lão vung thanh Bạch Kiếm lên, chém nhẹ vào một gốc cây nhỏ ở ven đường. Nghe soạt một tiếng, cái cây đứt thành hai khúc, nửa trên cả cành lẫn lá đều rớt xuống sông, theo dòng nước trôi đi.
Gã ăn xin sợ cuống quýt, miệng nói lắp bắp: “Cháu… cháu… cái gì… sai khiến…”
Tạ Yên Khách lấy tấm Huyền Thiết Lệnh ra, lớn tiếng hỏi: “Ai giao cho ngươi cái này?”
Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu… ăn bánh tiêu… lòi ra…”
Tạ Yên Khách cả giận, xoay tay trái lại toan tát vào miệng gã. Nhưng tay lão vừa sắp chạm tới mặt gã, thì đột nhiên nhớ tới lời thề độc ngày trước, là quyết không gia hại người nào đã giao tấm Huyền Thiết Lệnh cho mình. Lão vội ngừng tay, lại quát hỏi: “Ngươi chỉ ăn nói hồ đồ. Làm sao mà ăn bánh lại lòi miếng sắt ra được? Ta hỏi ngươi, ai đã giao cho ngươi cái này?”
Gã ăn xin đáp: “Cháu lượm cái bánh tiêu ở dưới đất lên cắn ăn. Suýt nữa… cháu cắn phải nó… suýt gãy cả hàm răng.”
Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Không chừng Ngô Đạo Thông đem lệnh bài này nhét vào trong tấm bánh tiêu.” Nhưng lão lại nghĩ: “Sao lại có chuyện quái dị đến thế? Thằng cha Ngô Đạo Thông nắm được tấm lệnh bài này, phải quý hơn cả tính mạng mới đúng, có lý đâu lại nhét vào trong tấm bánh?” Lão không biết lúc đó tình trạng khẩn
cấp, người ngựa Kim Đao Trại đột ngột kéo đến vây kín cả bốn phương tám hướng Hầu Giám Tập, Ngô Đạo Thông cuống quýt không còn đủ thì giờ để giấu cho cẩn thận. Lúc cấp bách lão bèn dùng kỳ mưu, nhét vội Huyền Thiết Lệnh vào trong cái bánh tiêu, rồi trao thẳng vào tay tên đầu lĩnh của Kim Đao Trại. Tên này trong lúc thịnh nộ, vứt luôn xuống rãnh nước bẩn dọc đường. Bọn cường đạo Kim Đao Trại tuy đã nghiêng cả trời xuống, lật cả đất lên mà lục lọi lung tung trong tiệm bánh tiêu, nhưng quên không nhặt mấy cái bánh tiêu bẩn thỉu vương vãi dưới đất lên mà xé ra xem.
Tạ Yên Khách quắc mắt lên nhìn gã ăn xin, lớn tiếng quát: “Tên họ ngươi là gì?”
Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu tên là Cẩu Tạp Chủng.”
Tạ Yên Khách rất lấy làm kỳ, hỏi: “Sao? Tên ngươi là Cẩu Tạp Chủng ư?”
Gã ăn xin đáp: “Đúng đấy! Mẹ cháu vẫn kêu cháu là Cẩu Tạp Chủng.”
Trung bình một năm Tạ Yên Khách chỉ cười mấy tiếng, thế mà bây giờ không nhịn được phải cười ha hả. Lão nghĩ bụng: “Trên đời lắm người mê tín thường đặt những cái tên xấu xí cho con nít mới sinh, mong nó không bị ma quỷ quấy nhiễu, cũng chẳng có chi là lạ. Những cái tên chó, tên mèo mình thường nghe thấy luôn. Nhưng thằng nhỏ này tên là Chó Lộn Giống đã ít thấy, lại là tên do chính mẫu thân đặt cho mới thật là kỳ lạ.”
Tạ Yên Khách cười ngặt nghẹo. Gã ăn xin thấy lão cười rộ, cũng cười hì hì. Tạ Yên Khách hết cười rồi lại hỏi: “Vậy gia gia ngươi tên họ là gì?”
Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Gia gia cháu ư? Cháu… làm gì có gia gia?…”
Tạ Yên Khách lại hỏi: “Trong nhà ngươi có những ai?” Gã ăn xin đáp: “Chỉ có cháu, má cháu và A Hoàng.”
Tạ Yên Khách hỏi: “A Hoàng là người thế nào?” Gã ăn xin đáp: “A Hoàng là một con chó vàng. Má cháu đi rồi không thấy về, cháu đi
tìm má, A Hoàng cũng đi theo. Sau chắc nó đói quá, đi kiếm cái gì ăn rồi mất hút. Cháu tìm tới tìm lui mãi mà vẫn không thấy.”
Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Thì ra đây chỉ là một thằng ngốc. Huyền Thiết Lệnh lọt vào tay nó thì thật là may mắn. Ta kêu nó xin ta một việc gì nhỏ để hoàn thành lời thề, thế là xong xuôi.”
Lão bèn hỏi: “Ngươi muốn yêu cầu ta…” Còn hai chữ “điều gì”, lão chưa nói ra miệng thì vội nuốt lại, chợt nghĩ: “Nếu thằng ngốc này lại bắt mình tìm má nó, thậm chí tìm con A Hoàng cho nó thì biết đâu mà tìm kiếm. Má má nó chắc là đã đi theo thằng cha nào rồi, còn con A Hoàng cũng bị người ta giết ăn thịt rồi chưa biết chừng. Mình tội gì mà rước lấy cái khó nhọc vào thân? Chẳng thà nó bảo mình đi hạ sát chín mười tay cao thủ võ lâm còn dễ hơn là đi kiếm má má nó hay con A Hoàng.”
Tạ Yên Khách trầm ngâm một lúc, sực nghĩ ra một kế, liền nói: “Hay lắm! Ta nói cho ngươi biết, bất luận là ai tra hỏi ngươi với ta đã nói chuyện gì, thì ngươi cũng không được kể lại. Nếu không, ta sẽ lập tức chặt cái đầu ngươi rụng xuống. Ngươi đã biết chưa?” Dĩ nhiên vụ gã ăn xin giao tấm Huyền Thiết Lệnh lại cho Tạ Yên Khách chẳng bao lâu sẽ đồn đại khắp võ lâm. Lão chỉ sợ có người xúi giục gã ăn xin cầu khẩn lão một việc nan giải mà lão không thể khước từ được, vì đã có lời thề ngày trước.
Gã ăn xin gật đầu đáp: “Xin vâng!”
Tạ Yên Khách vẫn chưa yên lòng, lại hỏi: “Ngươi đã nhớ chưa? Là việc gì?”
Gã ăn xin đáp ngay: “Ông dặn, nếu có ai hỏi cháu đã nói chuyện với ông những gì, cháu cũng không được mở miệng. Cháu chỉ nói một câu là ông chém đầu lập tức.”
Tạ Yên Khách nói: “Không sai! Thằng ngốc này cũng không đến nỗi ngu ngốc quá, trí nhớ cũng tốt. Nếu ngươi quả là đứa si ngốc thì khó mà nhớ được. Bây giờ ngươi hãy theo ta!”
Nói xong, lão dắt nó rời khỏi nơi hẻo lánh trở lại đường quan lộ. Hai người đi chẳng mấy chốc thì đến một quán bán bánh bên đường. Tạ Yên Khách mua hai tấm bánh bao rồi há miệng ra cắn
ăn, tỏ vẻ ngon lành. Đồng thời lão liếc mắt nhìn gã ăn xin thử xem gã có mở miệng xin mình cho ăn không? Tạ Yên Khách vừa ăn vừa khen ngon luôn miệng. Một tay lão cầm bánh ăn, còn tay nữa lão với lấy thêm một tấm bánh bò thứ hai đưa qua đưa lại trước mặt gã ăn xin, nghĩ thầm trong bụng: “Thằng lỏi này đi ăn xin đã quen rồi. Nó thấy mình ăn bánh bao, có lý đâu lại không thèm đến chảy nước miếng? Chỉ cần nó mở miệng xin, mình đưa tấm bánh này cho nó là đã giữ trọn lời thề với tấm Huyền Thiết Lệnh, từ đây tiêu dao tự tại, không còn phải băn khoăn về vụ này nữa.” Lão nghĩ đến chuyện trọng đại là thu tấm Huyền Thiết Lệnh về, mà chỉ mất một tấm bánh bao để giải quyết thì có vẻ không nghiêm chỉnh, nhưng lại nghĩ đối với một gã ăn xin thì chỉ một cái bánh tiêu hay bánh bao gì đó là đủ rồi.
Nào ngờ gã ăn xin vừa nhìn tấm bánh bao vừa nuốt nước miếng không ngớt, nhưng mãi vẫn không mở miệng xin ăn. Tạ Yên Khách trong lòng nóng nảy, ăn hết một cái bánh bao rồi lại cầm cái thứ hai đưa lên miệng, còn toan thò tay vào nồi hấp lấy thêm. Gã ăn xin bỗng quay vào bảo chủ quán: “Cháu cũng ăn hai cái.” Rồi gã tự thò tay vào nồi hấp mà lấy.
Chủ quán đưa mắt nhìn Tạ Yên Khách, xem lão có cho thằng nhỏ ăn không. Tạ Yên Khách mừng thầm trong bụng, gật đầu một cái. Trong lòng lão nghĩ: “Thử xem lát nữa chủ quán tính tiền, ngươi có phải xin ta không.”
Gã ăn xin ăn xong cái này lại lấy cái khác, ăn hết thảy bốn cái bánh bao mới nói: “Cháu no rồi, không ăn nữa.”
Tạ Yên Khách ăn hết hai cái bánh rồi thôi, quay lại hỏi chủ quán: “Bao nhiêu tiền?”
Chủ quán đáp: “Hai đồng một cái. Cả thảy sáu cái, cộng là mười hai đồng.”
Tạ Yên Khách đáp: “Không được. Phần ai ăn người nấy trả tiền. Ta ăn hai tấm, vậy ta trả bốn đồng là đủ.”
Lão thò tay vào bọc toan móc tiền ra trả, nhưng sờ đi sờ lại mà chẳng còn một đồng nào. Thì ra hôm qua lão vào thành Biện Lương
uống rượu, đã xài hết bạc vụn rồi. Trong mình lão có mang nhiều vàng lá, nhưng lúc ở Biện Lương lại quên chưa đổi ra tiền lẻ. Cái quán nhỏ xíu bên lề đường này thì lấy đâu ra tiền để đổi vàng? Trong lúc Tạ Yên Khách chưa biết giải quyết cách nào, thì gã ăn xin đã móc trong bọc ra một thỏi bạc, đưa cho chủ quán nói: “Tất cả mười hai đồng, để cháu trả cho.”
Tạ Yên Khách chưng hửng hỏi: “Sao? Ngươi lại trả tiền cho ta ư?”
Gã ăn xin cười đáp: “Ông không có tiền mà cháu có, cháu mời ông ăn mấy cái bánh bao phỏng có chi đáng kể?” Chủ quán cũng lấy làm kinh ngạc, lấy mấy miếng bạc vụn và mấy xâu tiền đồng thối lại. Gã ăn xin thu tiền cất vào bọc, rồi nhìn Tạ Yên Khách xem lão sai bảo gì.
Tạ Yên Khách bất giác nở một nụ cười chua chát, nghĩ thầm: “Tạ mỗ cố chấp thành tính, trước nay dù là một miếng cơm, một ly nước cũng chẳng chịu ơn ai, không ngờ hôm nay lại để một gã ăn xin mời ăn hai cái bánh bao.” Lão bèn hỏi: “Sao ngươi biết ta không có tiền?”
Gã ăn xin cười đáp: “Mỗi khi cháu vào chợ, thấy ai thò tay vào túi định lấy tiền trả, mà móc cả nửa ngày vẫn không ra, sắc mặt biến đổi kỳ dị, thì dĩ nhiên người đó không có tiền. Cháu còn nghe người ta nói, những người không có tiền mà muốn ăn quỵt của người ta đều giống như thế cả.”
Tạ Yên Khách không nhịn nổi phải cười khổ, nghĩ thầm: “Chắc ngươi cũng tưởng là ta tính chuyện ăn quỵt.” Nhưng lão chỉ hỏi: “Đĩnh bạc đó ngươi ăn cắp được ở đâu?”
Gã ăn xin đáp: “Sao lại ăn cắp? Vừa rồi một vị thái thái giống Quan Âm áo trắng đã cho cháu.”
Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ai mà ngươi lại nói là giống Quan Âm áo trắng?” Nhưng rồi lão hiểu ngay đó chính là Mẫn Nhu, liền lẩm bẩm: “Con mụ ấy lại làm hư chuyện của mình rồi.”
Hai người sóng vai mà đi, chừng vài chục trượng thì Tạ Yên Khách lại cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu giơ lên nói: “Thanh kiếm này sắc lắm. Vừa rồi ta chỉ khẽ cắt một nhát đã chặt được cái
cây làm hai đoạn, ngươi cũng nhìn thấy đó. Ngươi có thích không? Nếu ngươi thích thì chỉ cần mở miệng xin ta một câu là ta cho ngay.”
Thực ra Tạ Yên Khách chẳng muốn phiền hà thêm với gã ăn xin dơ bẩn này. Lão chỉ mong cho gã mở miệng xin một điều gì, cho lão được hoàn thành tâm nguyện. Không ngờ gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Cháu không lấy đâu. Thanh kiếm này là của vị Quan Âm thái thái đó. Thái thái đó là người tốt, cháu không muốn lấy đồ vật của bà.”
Tạ Yên Khách lại rút thanh Hắc Kiếm ra, vung lên chém đứt một gốc cây khá lớn rồi nói: “Được lắm! Vậy ngươi có xin thanh Hắc Kiếm này không?”
Gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Thanh Hắc Kiếm này là của vị tướng công mặc áo đen. Tướng công cùng đi một đường với Quan Âm thái thái, cháu cũng không lấy đồ của tướng công đâu.”
Tạ Yên Khách hắng giọng một tiếng rồi nói: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cũng có nghĩa khí lắm nhỉ!”
Gã ăn xin không hiểu, hỏi lại: “Nghĩa khí là cái gì?”
Tạ Yên Khách lại hắng giọng một tiếng, nghĩ thầm: “Ngươi đã chẳng hiểu chuyện này thì có nói cũng như không.”
Gã ăn xin lại nói: “Thì ra ông không muốn nói đến nghĩa khí. Ông… ông không thích nghĩa khí phải không?”
Tạ Yên Khách giận xanh mặt, vung chưởng lên toan đập xuống đỉnh đầu gã ăn xin. Nhưng lão thấy vẻ mặt nó rất ngây thơ, liền thu tay về nghĩ thầm: “Ta đã thề không đụng tới nó dù chỉ một ngón tay, huống hồ nó chẳng biết nghĩa khí là gì, đương nhiên không cố ý mỉa mai mình.” Lão hỏi lại: “Sao ngươi bảo ta không thích chuyện nghĩa khí? Ta thích nghĩa khí lắm chứ!”
Gã ăn xin lại hỏi: “Nói đến nghĩa khí thì có tốt không ông?”
Tạ Yên Khách đáp: “Có nghĩa khí là hay lắm. Nói chuyện nghĩa khí hiển nhiên là việc tốt.”
Gã ăn xin lại nói: “Cháu biết rồi! Ai làm việc tốt là hảo nhân, ai làm việc không tốt là ác nhân. Ông lúc nào cũng làm việc tốt, nhất định phải là người rất tốt.”
Giả tỉ ai khác nói câu này thì Tạ Yên Khách sẽ coi là lời châm biếm, vung chưởng đánh chết lập tức. Suốt đời lão chưa nghe ai khen mình là người tốt, tuy đôi khi cũng làm mấy chuyện tốt nhưng chỉ là do hứng thú mà thôi, so với những chuyện không tốt của lão đã làm thì thật chẳng đáng gì. Tạ Yên Khách thấy gã ăn xin nói rất chân thành, cũng không biết mình nên cười hay nên khóc. Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này ăn nói điên điên khùng khùng, đã bảo mình không thích chuyện nghĩa khí, lại bảo mình là người rất tốt. Giả tỉ chuyện này mà lọt vào tai địch thủ của mình, thì thật là thành chuyện cả võ lâm đàm tiếu, Tạ mỗ chẳng biết phải giấu mặt vào đâu nữa. Bây giờ ta phải mau mau kết thúc vụ này, nhất định không chuốc thêm họa vào thân.”
Gã ăn xin đã không muốn lấy Hắc Bạch Song Kiếm, Tạ Yên Khách liền lấy một tấm vải xanh gói đôi kiếm lại, đeo vào sau lưng. Lão tự hỏi: “Không hiểu mình phải dụ nó yêu cầu mình chuyện gì đây?” Lão còn đang ngẫm nghĩ, chợt trông qua bên đường thấy có ba cây táo lớn, đầy quả chín đỏ, liền trỏ vào cây táo nói: “Mấy trái táo kia ngon quá!”
Lão thấy mấy cây táo rất cao, chỉ mong gã ăn xin nhờ mình hái giúp cho, thì đó cũng là một yêu cầu. Không ngờ gã ăn xin chẳng những không nhờ lão hái cho, lại còn hỏi: “Đại hảo nhân! Ông thích ăn táo phải không?”
Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Đại hảo nhân cái gì?”
Gã ăn xin đáp: “Ông là người rất tốt, nên cháu gọi ông là đại hảo nhân.”
Tạ Yên Khách trầm mặt xuống hỏi: “Ai nói ta là người tốt?”
Gã ăn xin liền đáp: “Ông đã không phải là người tốt thì tất nhiên phải là người xấu. Vậy để cháu gọi ông là đại hoại nhân.”
Tạ Yên Khách đáp: “Ta cũng không phải là người xấu.”
Gã ăn xin hỏi: “Thế thì kỳ thật. Ông đã không phải là người tốt mà cũng không phải là người xấu… À, đúng rồi, ông không phải là người.”
Tạ Yên Khách phẫn nộ quát lên: “Ngươi nói gì?”
Gã ăn xin đáp: “Bản lãnh ông rất giỏi, ông có phải là thần tiên không?”
Tạ Yên Khách lại quát: “Không phải!”, nhưng thanh âm cũng bớt phần nghiêm khắc. Rồi lão lại mắng: “Ăn nói bậy bạ!”
Gã ăn xin lắc lắc đầu, lẩm nhẩm trong miệng: “Thế này cũng không phải, thế kia cũng không phải, thế là thế nào?” Rồi đột nhiên nó chạy lại gốc táo, nhảy lên ôm lấy thân cây, đạp đạp hai chân trèo lên thoăn thoắt.
Tạ Yên Khách thấy nó tuy không hiểu võ công, nhưng chân tay rất linh hoạt. Nó lựa những trái táo lớn nhất, hái nhét vào trong áo, chỉ khoảnh khắc là bụng nó đã phình lên như cái trống. Nó liền tuột xuống, vốc một nắm đưa cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Ông ăn táo đi! Ông không phải người, cũng không phải ma quỷ, chẳng lẽ lại là bồ tát? Nhưng cháu thấy cũng không giống.”
Tạ Yên Khách không lý gì đến nó, cầm mấy trái táo bỏ vào miệng ăn. Táo này ăn vừa ngọt vừa mát, thật là thượng phẩm. Lão nghĩ thầm: “Té ra nó chưa yêu cầu mình điều gì mà mình đã phải yêu cầu nó.” Lão động tâm, lại hỏi: “Ngươi muốn biết ta là ai phải không? Chỉ hỏi ta một tiếng là được. Ngươi chỉ cần nói: Xin ông nói cho cháu biết ông là ai, có phải thần tiên hay bồ tát không? Ta sẽ trả lời ngươi.”
Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không cầu xin ai hết.”
Tạ Yên Khách giật mình vội hỏi: “Sao ngươi lại không cầu xin ai?”
Gã ăn xin đáp “Má má cháu thường bảo rằng: “Cẩu Tạp Chủng! Suốt đời ngươi đừng đi cầu xin ai cái gì hết. Khi người ta muốn cho ngươi cái gì, thì chẳng xin họ cũng cho. Nếu người ta không chịu cho, thì dù ngươi có cầu xin khổ sở cũng chỉ vô ích, lại còn bị ghét cay ghét đắng nữa.” Một hôm cháu thấy má má đang ăn cái gì ngon lành lắm, bèn mở miệng xin. Má má cháu đã không cho mà còn đánh cho một trận, vừa đánh vừa mắng: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cầu xin ta làm gì? Sao không đi cầu xin cái con tiểu tiện nhân vừa xinh xắn vừa yểu điệu kia?” Từ đó cháu nhất quyết không cầu xin ai bất cứ một chuyện gì.”
Tạ Yên Khách hỏi: “Con tiểu tiện nhân xinh xắn đó là ai?” Gã ăn xin đáp: “Cháu cũng không biết.”
Tạ Yên Khách vừa thất vọng vừa ngạc nhiên. Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này đã nhất định không cầu xin cái gì, thì ta biết làm thế nào để hoàn thành tâm nguyện được? Mẫu thân gã này không chừng là một mụ điên. Khi nào con xin ăn mà mẹ đánh đòn bao giờ, lại còn mắng “tiểu tiện nhân xinh xắn yểu điệu” gì gì đó. Chắc là chồng của mụ có mới nới cũ, ruồng bỏ mụ nên mụ mới đem lòng phẫn nộ mà trút lên đầu con. Bọn đàn bà nhà quê đa số đều ngu dốt.” Lão lại hỏi: “Ngươi là một đứa ăn xin, chẳng lẽ lại không xin tiền xin cơm của người ta hay sao?”
Gã ăn xin vẫn lắc đầu đáp: “Cháu chẳng xin bao giờ. Người ta đưa cho cái gì thì cháu cầm lấy. Có lúc người ta không cho, nhưng lúc họ xoay mình đi không để ý là cháu lấy luôn rồi chạy trốn.”
Tạ Yên Khách cười khẩy: “Nếu vậy thì ngươi không phải là một đứa ăn xin, mà là một thằng ăn cắp.”
Gã ăn xin lại hỏi: “Thằng ăn cắp là như thế nào?”
Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ngươi không hiểu ư? Hay là ngươi giả ngốc?”
Gã ăn xin đáp: “Cháu không hiểu nên mới hỏi ông, sao ông lại bảo là cháu giả ngốc? Giả ngốc là như thế nào?”
Tạ Yên Khách chăm chú nhìn gã ăn xin, thấy mặt gã lem luốc đầy bùn đất, nhưng cặp mắt đen lay láy, chẳng có vẻ gì ngu xuẩn. Lão liền nói: “Ngươi chẳng phải là đứa con nít lên ba, ít ra cũng được mười mấy tuổi rồi mà sao chẳng hiểu một cái gì cả?”
Gã ăn xin đáp: “Má má cháu không ưa nói chuyện với cháu, còn nói hễ thấy mặt cháu là phát ghét lên rồi. Nhiều khi cả chín mười ngày, má má cứ mặc kệ cháu, chẳng nhìn gì đến, chẳng nói câu nào. Cháu chỉ thích nói chuyện với A Hoàng. Nó chỉ biết nghe chứ không biết nói, chẳng bao giờ nó bảo cháu là tiểu tặc hay giả ngốc chi hết.”
Tạ Yên Khách thấy ánh mắt gã ăn xin không có vẻ gì là lừa gạt hay xảo trá, bèn nghĩ bụng: “Xem chừng thằng lỏi này không cố ý nói bóng gió để chửi xéo mình.” Lão lại hỏi: “Thế ngươi không nói chuyện với hàng xóm hay sao?”
Gã ăn xin lại hỏi: “Hàng xóm là gì hả ông?”
Tạ Yên Khách chán ngán đáp: “Hàng xóm là những người ở gần nhà mình.”
Gã ăn xin nói: “Gần nhà cháu ư? Gần nhà cháu chỉ có mười một cây tùng lớn. Trên cây có rất nhiều sóc, còn trong đồng cỏ thì có gà rừng, có thỏ rừng. Đó đều là hàng xóm của cháu ư? Bọn chúng chỉ biết kêu chiêm chiếp hay chí chóe chứ không biết nói.”
Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ngươi đã lớn từng ấy rồi, chẳng lẽ chưa nói chuyện với ai ngoài má má hay sao?”
Gã ăn xin đáp: “Nhà cháu ở trên núi, cháu chẳng xuống núi bao giờ, nên ngoài má má cháu ra, cháu cũng không gặp ai để nói chuyện. Mấy hôm trước đây cháu không thấy má má đâu nữa, mới chạy từ trên núi xuống đi tìm, rồi con A Hoàng cũng chẳng thấy đâu nữa. Cháu gặp người nào cũng hỏi má cháu đâu, A Hoàng đâu, nhưng ai cũng nói là không biết. Như vậy có phải là nói chuyện không?”
Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Té ra gã này ở chốn hoang sơn hẻo lánh, mẫu thân nó lại không nói năng gì với nó, chẳng trách nó không biết một tí gì cả.”
Tạ Yên Khách liền đáp: “Thế cũng kể là người ta đã nói chuyện với ngươi. Sao ngươi lại biết dùng tiền để mua bánh bao ăn?”
Gã ăn xin đáp: “Cháu đã thấy người ta mua rồi. Bây giờ ông không có tiền mà cháu lại có tiền, ông muốn lấy phải không? Ông muốn lấy thì cháu cho ông.” Gã vừa nói vừa đưa tay vào bọc lấy mấy miếng bạc vụn đưa vào tay Tạ Yên Khách.
Tạ Yên Khách lắc đầu đáp: “Ta không lấy đâu.” Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này lôi thôi lếch thếch, nhưng tính tình không phải hẹp hòi.” Lão càng nói chuyện lâu với nó càng thấy yên tâm, đã tin chắc nó không phải là một cái bẫy của kẻ khác bố trí hại mình nữa.
Gã ăn xin lại hỏi: “Ông vừa bảo cháu không phải là đứa ăn xin mà là thằng ăn cắp. Vậy cháu là đứa ăn xin hay thằng ăn cắp?”
Tạ Yên Khách mỉm cười đáp: “Người ta có bằng lòng cho ngươi tiền bạc hay thức ăn rồi ngươi mới lấy, thế là ăn xin. Còn nếu ngươi chưa biết người ta có cho hay không mà đã thò tay ra lấy, thì là ăn cắp.”
Gã ăn xin nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói: “Cháu chưa từng hỏi xin ai cái gì bao giờ, nhưng bất cứ người ta có chịu cho hay không, cháu cũng lấy ăn. Vậy thì cháu là thằng ăn cắp. Phải rồi! Ông là lão ăn cắp!”
Tạ Yên Khách giật mình hỏi: “Sao? Ngươi bảo ta là gì?”
Gã ăn xin hỏi lại: “Chẳng lẽ ông không phải là lão ăn cắp ư? Rõ ràng người ta không muốn cho ông hai thanh kiếm mà ông cứ cướp lấy. Ông lại không phải là thằng nhỏ, dĩ nhiên phải gọi là lão ăn cắp.”
Tạ Yên Khách không nổi giận, lại mỉm cười: “Mấy chữ thằng ăn cắp, lão ăn cắp đều dùng để mắng người ta. Ngươi không thể tùy tiện mắng ta như thế.”
Gã ăn xin hỏi lại: “Thế sao ông mắng cháu?”
Tạ Yên Khách đáp: “Được rồi! Ta không mắng ngươi nữa. Ngươi chẳng phải là đứa ăn xin, cũng không là thằng ăn cắp. Ta kêu ngươi là tiểu nhai nhi, ngươi kêu ta bằng lão bá bá.”
Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không phải là tiểu nhai nhi gì hết. Cháu chỉ là Cẩu Tạp Chủng thôi.”
Tạ Yên Khách nói: “Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Má má ngươi gọi ngươi như vậy thì được, còn người ngoài không thể gọi ngươi như vậy. Ta không hiểu sao má má ngươi lại kỳ cục đến thế, gọi con mình bằng Cẩu Tạp Chủng.”
Gã ăn xin nói: “Cẩu Tạp Chủng thì có gì không tốt đâu? Con A Hoàng cũng là con chó, mà cháu đi với nó thấy thích thú lắm, cũng như đi với ông vậy. Có điều con A Hoàng không biết nói, chỉ sủa gâu gâu, còn ông thì nói được.” Gã vừa nói vừa đưa tay lên vuốt ve sau
lưng Tạ Yên Khách mấy cái, ra chiều nhẹ nhàng tình cảm, chắc cũng như lúc vuốt ve con chó của gã.
Tạ Yên Khách liền vận nội lực lên lưng. Gã ăn xin vừa đụng vào người lão đã giật bắn người lên, tựa như sờ phải miếng than hồng. Gã vội buông tay ra, cảm thấy ruột gan nhộn nhạo cực kỳ khó chịu, tựa như muốn nôn ọe ra. Tạ Yên Khách cười nửa miệng, ngó gã ăn xin nghĩ thầm: “Ai bảo ngươi vô lễ với ta? Một vố này đủ cho ngươi biết thân chưa?”
Gã ăn xin vuốt ngực nói: “Lão bá bá! Người bá bá nóng quá, mau lại gốc cây kia nghỉ một lúc. Cháu đi lấy nước về cho bá bá uống. Lão bá bá có thấy chỗ nào khó chịu không? Người bá bá sốt quá, e rằng lâm trọng bệnh mất rồi.” Thanh âm của gã cực kỳ quan tâm thân thiết, lại đưa tay ra định dắt lão vào gốc cây ngồi nghỉ.
Tạ Yên Khách tuy hết sức cố chấp ngang tàng, nhưng thấy gã ăn xin đối đãi với mình chân thành như vậy, cũng không tiện vận nội lực đả thương gã nữa. Lão nói: “Ta vẫn mạnh khỏe như thường, có bệnh tật gì đâu? Ngươi xem, có phải ta đã hết sốt rồi không?” Rồi lão cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó đặt lên trán mình.
Gã ăn xin sờ trán lão thấy mát rượi, lại càng hoang mang hơn, hốt hoảng la lên: “Úi chao! Nguy rồi! Lão bá bá chết đến nơi rồi!”
Tạ Yên Khách tức giận quát: “Ăn nói hồ đồ! Ta mà sắp chết ư?”
Gã ăn xin đáp: “Có một lần má má cháu mắc bệnh, cũng lúc nóng lúc lạnh như thế. Má má cháu kêu la rầm rĩ: “Ta sắp chết rồi! Ta sắp chết rồi! Đau đớn thế này thà chết đi còn hơn!” Quả nhiên lần đó má má cháu bệnh rất nặng, mấy lần chết hụt, phải nằm mấy tháng trời mới khỏi.”
Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Ta không chết đâu.” Gã ăn xin khẽ lắc đầu, ra vẻ không tin.
Hai người lại nhằm hướng Đông Nam đi một hồi nữa. Bây giờ đã vào giờ ngọ, mặt trời nóng như thiêu như đốt. Gã ăn xin đột nhiên chạy vào bên đường hái bảy tám chiếc lá cây lớn. Tạ Yên Khách thấy vậy thì cho là nó còn tính con nít ham chơi, cũng không hỏi gì đến. Ngờ đâu gã ăn xin hái mấy lá cây đó để kết thành cái nón, đưa
cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Trời nắng nóng rất khó chịu. Bá bá đang bệnh, đội cái nón này lên cho đỡ nắng.”
Tạ Yên Khách bị gã ăn xin làm cho nửa giận nửa cười, nhưng cũng không nỡ từ chối tấm lòng tốt của nó, bèn cầm cái nón bằng lá cây đội lên đầu. Dưới nắng chói chang, đội cái nón như thế cũng thấy mát mẻ dễ chịu hẳn. Trước nay chỉ có người sợ lão, hận lão, chưa hề có ai quan tâm, tử tế với lão như thế, nên bất giác trong lòng lão cũng hơi thấy ấm áp.
Hai người đi chẳng mấy chốc lại tới một thị trấn nhỏ. Gã ăn xin nói: “Bá bá không có tiền, không chừng phen này sinh bệnh là vì bụng đói. Vậy bây giờ chúng ta hãy vào quán cơm ăn một bữa thật no.” Rồi nó kéo tay Tạ Yên Khách đi thẳng vào một quán cơm gần đó. Từ nhỏ tới lớn, gã ăn xin chưa từng vào quán cơm bao giờ. Nó cũng không hiểu cách gọi thức ăn, liền thò tay vào bọc moi hết bạc vụn cùng tiền đồng ra để trên bàn, rồi gọi tiểu nhị lại nói: “Cháu cùng lão bá bá này muốn ăn một bữa cơm có thịt có cá. Chú cầm lấy số tiền này.” Chỗ bạc đó có tới hơn ba lạng, đủ làm một bữa tiệc thịnh soạn.
Tiểu nhị cả mừng, liền dặn nhà bếp giết gà vịt, nấu cả thịt cá. Chẳng bao lâu, một mâm cơm đầy thức ăn bày ra. Tạ Yên Khách lại gọi hai cân rượu trắng. Gã ăn xin cũng thử uống một hớp rượu, nhưng nhổ ra ngay rồi kêu lên: “Cay quá, không ngon gì hết.” Rồi gã tự xới cơm gắp thịt mà ăn.
Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Thằng nhỏ này ngây thơ không hiểu việc đời, nhưng được trời phú cho đức tính hào hiệp, mà cũng không đến nỗi ngu xuẩn. Giả tỉ nó được dạy dỗ đến nơi đến chốn, tất sẽ thành một hảo thủ võ lâm.” Nhưng rồi lão lại nghĩ: “Hỡi ơi, trên đời nhiều tên vong ơn phụ nghĩa lắm. Tư chất thằng súc sinh đồ đệ của mình cũng khá, trên đời ít gặp, nhưng đã hại ta thật chẳng thiếu chuyện gì. Sao ta còn định thu đồ đệ nữa làm gì?” Lão nghĩ tới tên đồ đệ cũ thì lửa giận lại bốc lên, im lặng ngồi gắp mấy miếng, uống sạch hai cân rượu trắng rồi bảo: “Đi thôi!”
Gã ăn xin hỏi: “Lão bá đã khỏe chưa?”
Tạ Yên Khách đáp: “Khỏe rồi!” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Ngươi hết sạch tiền rồi, muốn ăn cơm nữa thì nhất định phải mở miệng xin ta. Ta phải tìm đến thị trấn lớn, đổi vàng lấy tiền rồi sẽ tính.”
Hai người rời thị trấn, đi về phía đông. Tạ Yên Khách bỗng hỏi: “Tiểu nhai nhi! Má má ngươi họ gì, đã nói với ngươi chưa?”
Gã ăn xin đáp: “Má má là má má, lại cần có họ hay sao?”
Tạ Yên Khách nói: “Dĩ nhiên là có chứ, người ta ai mà chẳng có họ tên?”
Gã ăn xin hỏi: “Thế cháu họ gì?”
Tạ Yên Khách đáp: “Chính ta cũng không biết. Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Ngươi có muốn ta đặt cho một cái tên không?”
Giả tỉ gã ăn xin mở miệng xin lão đặt cho một cái tên, thì lão chỉ cần đặt bừa một cái là hoàn thành tâm nguyện.
Không ngờ gã ăn xin lại đáp: “Bá bá thích đặt tên cho cháu thì cũng được, nhưng sợ má má cháu không chịu. Má má cháu vẫn gọi cháu là Cẩu Tạp Chủng, cháu cũng quen rồi. Bây giờ cháu đổi tên chắc má má cháu không thích đâu. Mà cái tên Cẩu Tạp Chủng sao lại khó nghe?”
Tạ Yên Khách nhíu mày nghĩ thầm: “Tại sao ba chữ Cẩu Tạp Chủng lại khó nghe thì nhất thời mình cũng không biết giải thích thế nào cho nó hiểu được.”
Giữa lúc ấy, bỗng trong một khu rừng phía trước có tiếng khí giới chạm nhau chan chát. Tạ Yên Khách vừa nghe thấy, liền động tâm tự hỏi: “Ở đây sao lại có người đánh nhau? Hai người này thủ pháp rất mau lẹ, võ công nhất định không phải tầm thường.” Lão liền khẽ bảo gã ăn xin: “Chúng ta qua bên đó xem sao, nhưng tuyệt đối đừng có lên tiếng.”
Rồi lão đưa tay nắm lưng gã ăn xin xách lên, thi triển khinh công chạy về phía có tiếng động, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã đến sau một gốc cây lớn. Gã ăn xin tưởng như mình đi trên mây, thích thú vô cùng, muốn bật lên tiếng cười, nhưng lại nhớ lời Tạ Yên Khách dặn nên vội đưa tay lên bịt miệng.
* * *
Hai người nấp sau một gốc cây nhìn ra, thấy bốn người đang quần nhau thành cục diện ba người đánh một. Người bị bao vây là một lão già mặt đỏ, râu bạc chùng xuống đến ngực, tay không binh khí. Một thanh đơn đao rơi dưới đất cách đó một quãng, thân đao đã bị cong, hiển nhiên là bị người ta đánh rơi. Tạ Yên Khách nhận ra lão này là Đại Bi Lão Nhân ở đảo Bạch Kình, năm xưa đã từng thua mình một chiêu, võ công cũng rất khá.
Ba gã hợp công thì một gã thân hình cao lêu nghêu mà gầy khẳng gầy khiu, một đạo nhân mặt vàng ửng, còn gã nữa thì tướng mạo cực kỳ xấu xa quái dị. Trên má gã có hai vết sẹo rất lớn giao nhau thành hình chữ thập. Gã cao gầy sử thanh trường kiếm, đạo nhân sử liễn tử chùy, còn hán tử xấu xí thì sử một thanh quỷ đầu đao.
Tạ Yên Khách thấy lão già bị vây đánh đã thọ thương, máu đang nhỏ giọt xuống, nhưng song chưởng của lão vẫn đảo đi đảo lại phóng ra những chiêu cực kỳ dũng mãnh. Lão đang chạy quanh một gốc cây tránh tả né hữu, nhờ gốc cây lớn để cầm cự với ba người cầm khí giới. Tay trái lão xuất những chiêu cầm nã, còn tay phải lúc quyền lúc chưởng rất mau lẹ, vừa đẩy vừa kéo để dẫn dụ binh khí của ba người kia chạm vào nhau. Bản lãnh lão thật không phải tầm thường. Tạ Yên Khách đứng xa xa chỉ xem mấy chiêu đã nhận ra lão già kia lâm vào thế hạ phong, nghĩ thầm: “Hôm nay Đại Bi Lão Nhân lâm vào cảnh hổ xuống bình nguyên bị chó lờn, xem chừng khó mà thoát khỏi kiếp nạn.”
Ngọn liễn tử chùy thường xuyên uốn vòng qua thân cây để tập kích vào cạnh sườn Đại Bi Lão Nhân, lại còn tý lực của gã hán tử xấu xí mạnh mẽ kinh người, cây quỷ đầu đao phát ra những tiếng vù vù. Tạ Yên Khách ngấm ngầm kinh hãi: “Đã lâu mình không lăn lộn giang hồ, bây giờ mới biết võ lâm Trung Nguyên đã xuất hiện nhiều nhân vật lợi hại đến thế, lại không nhận ra chiêu số của ba tên này thuộc môn phái nào. Nếu bản lãnh chúng tầm thường thì Đại Bi Lão Nhân đâu đến nỗi phải hoang mang đến thế?”
Bỗng đạo nhân mặt vàng khàn khàn hét lên: “Bạch Kình đảo chúa! Bang Trường Lạc chúng ta với đảo chúa vốn không thù oán, Tư Đồ
bang chúa lại ngưỡng mộ ông là nhân vật nổi danh, có hảo ý dùng lễ vật để mời ông nhập bang, thế mà ông lại đem lời nhục mạ. Bây giờ ông đầu hàng đi, ưng thuận gia nhập bổn bang thì chúng ta lập tức sẽ trở thành hảo huynh đệ, hảo bằng hữu, những việc đã qua nhất định không truy cứu. Như vậy há chẳng hay hơn ư? Chúng ta hợp lực với nhau để đối phó với Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, cùng vượt qua kiếp nạn này lại không tốt hơn ư?”
Tạ Yên Khách vừa nghe câu cuối cùng của lão, trong lòng bỗng dưng chấn động. Chẳng lẽ Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo lại tái xuất giang hồ rồi ư?
Đại Bi lão nhân tức giận đáp: “Ta đường đường là đại trượng phu, có lý đâu lại hòa mình với bọn đê hèn vô liêm sỉ như các ngươi, chẳng thà nhận Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh này để chết ở Hiệp Khách Đảo còn hơn. Các ngươi muốn ta gia nhập vào tà phái, làm những việc đồi bại, thì không được đâu. Các ngươi đừng mơ tưởng hão huyền nữa!”
Đột nhiên lão vươn tay trái ra một chiêu cầm nã chụp xuống vai hán tử xấu xí. Tạ Yên Khách la thầm: “Chiêu Long Trảo Thủ thật là tuyệt diệu!” Chiêu này nhìn có vẻ chậm chạp, nhưng thật ra thần tốc phi thường. Gã hán tử xấu xí tuy thân pháp mau lẹ, cố tránh né ngay, nhưng vẫn chậm mất một chút. Gã cao kều thấy vậy giật mình kinh hãi, hoa trường kiếm lên nhằm đâm vào mắt Đại Bi Lão Nhân.
Bỗng nghe đánh roạc một tiếng, vai áo bên hữu gã hán tử xấu xí đã bị xé rách một mảng lớn, máu tươi chảy ra đầm đìa. Long Trảo Thủ của Đại Bi Lão Nhân đã móc đứt một miếng thịt ở vai gã. Ba người lại càng giận dữ, liên tiếp xuất chiêu tấn công tới tấp như gió táp mưa sa.
Tạ Yên Khách kinh ngạc nghĩ thầm: “Không hiểu Trường Lạc Bang là bang hội như thế nào mà có lắm cao thủ thế này? Mình chưa từng nghe thấy, thì chắc bang này cũng mới sáng lập. Còn Tư Đồ bang chúa là ai, chẳng lẽ chính là Đông bá thiên Tư Đồ Hành? Trong võ lâm cũng ít hảo thủ ở họ Tư Đồ, ngoài người này ra thì không còn ai nữa.”
Bốn người càng đánh càng ác liệt. Gã hán tử xấu xí gầm lên một tiếng điên cuồng, vung đao quét ngang. Đại Bi Lão Nhân né mình tránh khỏi, đồng thời phóng một quyền về phía đạo nhân mặt vàng. Nghe “phập” một tiếng, thanh quỷ đầu đao của hán tử xấu xí đã chém ngập vào thân cây. Gã vận sức cố giật ra, nhưng không được. Đại Bi Lão Nhân thừa cơ hội này, thúc khuỷu tay phải xuống lưng gã hán tử xấu xí.
Thì ra Đại Bi lão nhân đang bị ba cao thủ vây đánh, phải chống đỡ vất vả vô cùng, tự lượng sức mình khó lòng thoát nạn. Giữa lúc đánh nhau khốc liệt, thỉnh thoảng lão vẫn liếc mắt quan sát bốn phương tám hướng, thấy sau gốc cây lớn thấp thoáng có bóng người ẩn nấp. Lão tưởng đây cũng là địch nhân nên nghĩ thầm: “Trước mắt mới có ba tên mà mình chưa chắc đã chống chọi nổi. Nếu đối phương lại thêm cường viện, thì hậu quả thật khó lường.” Đại Bi lão nhân còn nhận ra trong ba địch nhân trước mặt thì gã hán tử xấu xí là võ công kém nhất, nên cách duy nhất để thoát thân là phải mạo hiểm trừ khử bớt một tên. Vì thế khi thúc khuỷu tay vào lưng hán tử xấu xí, lão đã vận đến chín phần công lực.
Nghe “binh” một tiếng, khuỷu tay Đại Bi Lão Nhân đã cắm trúng ngay giữa lưng hán tử xấu xí. Lão mừng thầm trong bụng, chuyển mình lẹ quanh gốc cây để tới bồi thêm một đòn nữa. Giữa lúc ấy đạo nhân từ phía sau lại vung đồng chùy đập tới.
Đại Bi Lão Nhân vung tay trái gạt quả chùy, đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng trước mắt. Lão vội né sang bên trái để tránh. Không ngờ lão tuổi già lại giao đấu đã lâu nên tinh lực không được sung mãn như người trẻ tuổi, định lạng người đi ba thước mới tránh khỏi, nhưng mới lạng ra được bảy tấc thì đã nghe “sột” một tiếng. Mũi trường kiếm của gã cao kều đã đâm trúng vai bên tả Đại Bi Lão Nhân, ghim lão dính vào một cành cây.
Biến cố này thật quá đột ngột, thằng bé ăn xin trong lúc vô ý không nhịn nổi, la lên một tiếng kinh hãi. Từ lúc nó thấy ba người vây đánh một lão già, trong lòng đã thấy bất bình. Bây giờ nó thấy lão nhân bị kiềm chế thì vừa kinh hãi, vừa tức giận vô cùng.