🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hãy Trả Lời Em Tại Sao? – Tập 11 Ebooks Nhóm Zalo Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTH TP.HCM Hãy trả lời em tại sao?. T.11 / Huỳnh Thu Hương d. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009. 176tr. ; 19cm. 1. Khoa học thường thức. 2. Hỏi và đáp. I. Huỳnh Thu Hương d. 001 -- dc 22 H412 Huỳnh Thu Hương dịch 4 NHỮNG ĐIỀU BÍ ẨN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Tại sao các địa điểm bạn cần 1 tìm trên bản đồ thường hay nằm ở phần rìa bản đồ? Nếu bạn hay tra bản đồ tìm đường, hẳn bạn sẽ bực bội khi thấy những địa điểm mà bạn cần tìm lại thường nằm ở rìa bản đồ, những vị trí hết sức bất tiện. Sao lạ thế nhỉ? Điều này được giải thích bằng một vài phép tính hình học đơn giản trong trường học. Thử hình dung một tấm bản đồ vuông với “phần khó nhìn” là khu vực giống như một dải băng quanh chu vi của tấm bản đồ. Đáng ngạc nhiên là cho dù bề rộng của dải băng chỉ bằng khoảng một phần mười bề rộng tấm bản đồ, diện tích của nó lại chiếm đến 36% diện tích tấm bản đồ. Vì vậy, mỗi khi bạn tìm kiếm một địa 5 điểm nào trên bản đồ thì có tới hơn một phần ba khả năng địa điểm đó xuất hiện trên phần rìa quanh bản đồ. Điều khiến chúng ta bị đánh lừa chính là mặc dù phần rìa đó trông khá hẹp nhưng độ dài của nó lại lớn nhất trong bản đồ, vì vậy nó chiếm một diện tích lớn đáng ngạc nhiên trên toàn bản đồ. Tại sao khi lái xe ta lại hay 2 bị đến những đoạn đường có nhiều trở ngại cùng một lúc với những chiếc xe khác? Nhiều nhà khoa học có thể cho rằng hiện tượng này là do mọi người quên mất thời điểm nào thì họ lái xe gặp nhiều trở ngại hoặc thuận lợi. Đó cũng là một lời giải thích khá hợp lý. Nhưng còn có những nguyên nhân khác nữa. Trên thực tế, khi nhìn thấy một trở ngại phía trước mặt, chúng ta sẽ có xu hướng nhìn qua các đường khác tìm thử xem có chiếc xe nào chạy đến có vẻ như gây phiền phức cho ta không. Rõ ràng là các chiếc xe ở quá gần hoặc quá xa các trở ngại so với chúng ta thì có vẻ như không phải là tác nhân làm phiền. Cho nên, một điều hợp lý là chúng ta cảm thấy bực bội nhiều nhất với những chiếc xe cùng ở quanh chúng ta với một khoảng cách nhất định. Giả sử rằng các chiếc xe chạy trên một đường thẳng 6 có khuynh hướng chạy với cùng vận tốc, vậy thì một điều chắc chắn là bạn sẽ đến khu vực bị trở ngại cùng lúc với các chiếc xe đến từ các con đường khác. Vậy tại sao chúng ta lại quá ngạc nhiên? Có thể là do khi ngồi trong xe của chính mình, chúng ta chỉ nhìn theo những chiếc xe có vận tốc gần với vận tốc xe của mình và có khuynh hướng không nhận thấy chúng ta cùng chạy theo lẫn nhau ở một vận tốc tương tự nhau. Tại sao trong các cuộc hành 3 trình, lúc đi khỏi thường dài hơn lúc trở về? Đây là cảm nhận thông thường và cảm nhận đó là mạnh mẽ nhất khi thực hiện một chuyến đi đâu đó lần đầu tiên. Lời giải thích hợp lý nhất dựa trên cơ sở là các cuộc ra đi tới một nơi xa lạ thường chỉ kết thúc khi người ta đặt được chân đến địa giới nơi đó. Ngược lại, người ta sẽ cảm thấy hành trình quay về sắp sửa kết thúc khi họ nhìn thấy những cột mốc địa giới quen thuộc ngay khi họ vẫn còn cách nhà một khoảng cách khá xa. Còn những nhân tố khác cũng rất quan trọng. Ví dụ như, 7 có những hội chứng sợ hãi như “Mình đã đến nơi đó lần nào chưa?” thường có ở những trẻ nhỏ ngay cả đối với những hành trình rất ngắn. Đây có thể là hệ quả của một thực tế là một giờ ngồi xe ở trẻ em ba tuổi có tác động nhiều gấp mười lần so với một người lớn ba mươi tuổi đang lái xe. Trẻ em ba tuổi sẽ hỏi chuyến đi sắp đến nơi chưa sau một giờ ngồi xe trong khi một người ba mươi tuổi sẽ hỏi như vậy sau mười tiếng ngồi xe. Việc làm nóng tách trước khi 4 pha trà có mang lại lợi ích thật sự nào không? Nhiều người có vẻ bị thuyết phục trước luận điểm rằng tráng đều nước sôi quanh tách pha trà rồi đổ nước đó đi là một bước quan trọng để pha ra một tách trà hoàn hảo, mục đích của việc đó là giữ cho tách trà nóng lâu hơn, nhờ đó giữ được mùi vị của trà tốt hơn. Nhưng giả sử rằng các tách trà có khả năng giữ nhiệt trung bình, thì nghi thức tráng nước sôi quanh tách trà còn có mục đích khác. Đó là nước nóng sẽ lấy đi các chất tannin gây vị đắng còn đọng lại trong tách trà do những lần pha trà trước đó. 8 Tại sao tiếng kêu của các ấm 5 nước lại tạm lắng xuống ngay trước khi nó bắt đầu sôi? Hiệu ứng “tạm lắng trước khi hình thành hơi nước” liên quan với cách mà nước được đun nóng. Các ấm nấu nước thường được đun nóng từ phần đáy ấm cho nên phần nước ở phần đáy ấm sẽ đạt tới điểm sôi trước tiên. Khi các bong bóng hơi nước hình thành, chúng sẽ đi xuyên qua phần nước còn lạnh hơn ở phía trên và bị làm lạnh dần trong quãng đường đi lên này. Do không thể duy trì đủ áp suất để giữ cho phần nước lạnh xung quanh không tiếp xúc với nó, các bong bóng này sẽ thình lình va chạm với phần nước lạnh đó với một tiếng nổ bốp. Nếu sự va chạm giữa bong bóng và nước lạnh đủ nhiều bạn sẽ nghe thấy tiếng sôi ùng ục quen thuộc của ấm nước. Nếu việc đun nóng vẫn được tiếp tục, toàn bộ khối nước bắt đầu đạt đến điểm sôi, tạo ra những bong bóng lớn đi lên bề mặt nước. Kết quả là một âm thanh sâu hơn và êm hơn - báo hiệu toàn bộ nước đã bắt đầu sôi, có thể pha trà. 9 Có phải làm nước đá bằng 6 nước sôi sẽ mau đông hơn so với làm bằng nước lạnh? Làm cho một tách trà rất nóng nguội đến nhiệt độ có thể uống được thì nhanh hơn so với làm nguội một tách trà ít nóng hơn không? Hai trường hợp này đều liên quan đến hiện tượng làm lạnh nhưng có một vài lắt léo nếu chúng ta không thật sự hiểu rõ. Theo quy luật căn bản, nếu sự chênh lệch nhiệt độ giữa một vật và môi trường xung quanh nó càng lớn, thì quá trình nguội đi của vật đó diễn ra càng nhanh. Cho nên một tách trà rất nóng sẽ lạnh đi nhanh hơn so với một tách trà ít nóng hơn. Điều này không có nghĩa là nó sẽ lạnh xuống nhiệt độ uống được sớm hơn, mà chỉ có nghĩa là nó có thể nhanh chóng lạnh đến cùng một nhiệt độ với những tách khác - sau đó thì tốc độ lạnh đi của nó cũng sẽ bằng với các tách kia. Nếu lúc ban đầu tách trà nóng hơn rất nhiều thì rõ ràng tách trà nóng hơn đó phải mất nhiều thời gian hơn mới nguội tới nhiệt độ có thể uống được. Cùng một lập luận, nước sôi không thể nào đông đặc thành nước đá nhanh hơn nước lạnh được. Vấn đề ở đây là, nước sôi không chỉ nóng hơn nước lạnh mà nó còn chứa ít khí hòa tan hơn nước 10 lạnh và sẽ đông đặc ở nhiệt độ cao hơn một chút so với nước lạnh (nước chứa nhiều tạp chất hơn thì sẽ có nhiệt độ đông đặc thấp hơn và nhiệt độ sôi lại cao hơn). Ở nước nóng, sự bốc hơi cũng làm giảm đi một lượng đáng kể nước cần được làm lạnh. Và trong những trường hợp như vậy thì kết quả đúng là nước đá hình thành mau hơn - đây là một hiện tượng mà thuật ngữ gọi là hiệu ứng Mpemba, do một sinh viên người Tanzani phát hiện lần đầu năm 1969. Có cách nào lấy đi đá đông trên 7 kính chắn gió của xe hơi một cách nhanh chóng không? Để tránh việc cạo bỏ đá rất nhàm chán bằng một tấm bìa cũ hay sử dụng các bình phun mắc tiền, nhiều người nghe theo những lới khuyên chưa đúng là sử dụng nước ấm - và kết quả là kính chắn gió của xe họ lại bị phủ kín đá khi họ lái xe ra đường và họ có nguy cơ gây ra tai nạn. Đá phủ trên bề mặt kính chắn gió là dấu hiệu cho thấy nhiệt độ không khí đã xuống dưới 00C được một thời gian, cho nên kính chắn gió sẽ cần một lượng 11 nhiệt vừa đủ để làm nóng nó và làm tan đá. Đổ nước sôi vào sẽ làm tan đá nhưng một khi làm vậy, một lớp mỏng của nước ấm, bốc hơi nhanh sẽ chảy xuống lại kính chắn gió, lớp nước này không đủ nhiệt để làm ấm kính và nhanh chóng đông lại thành đá. Đáng mừng là, điều đó không có nghĩa là chúng ta chẳng thể nào sử dụng những cách cạo bỏ đá như trên. Bởi vì để đá hình thành trở lại, không chỉ cần nhiệt độ âm mà rõ ràng là cũng cần phải có sự hiện diện của nước. Cho nên, bí quyết để lấy đá đi một cách nhanh chóng là đổ nước nóng trên toàn bộ mặt kính chắn gió và các thanh gạt (để gạt nước mưa, tuyết...) trên kính chắn gió và sau đó nhanh chóng cho bật công tắc cho các thanh gạt hoạt động với vận tốc cao nhất. Nhưng bạn nhớ phải tưới nước ấm lên phần làm bằng cao su của thanh gạt trước, nhằm bảo vệ nó khỏi bị nứt. Các thanh gạt sẽ gạt bỏ lớp nước mỏng có khả năng biến lại thành đá trên kính chắn gió, giữ cho kính chắn gió xe bạn không bị phủ đá cho đến khi bạn chạy xe trên đường và bộ phận làm nóng kính chắn gió hoạt động. Đối với cửa sổ hai bên xe, bạn có thể đổ nước nóng từ trên xuống và gạt bỏ phần nước đá vừa tan ra bằng một dụng cụ lau kính có cạnh bằng cao su. 12 Cái gì làm cho keo siêu dính 8 lại có khả năng dính mạnh như vậy? Keo siêu dính được phát hiện ra năm 1942 bởi tiến sĩ Harry Coover của công ty Eastman Kodak trong quá trình nghiên cứu các vật liệu phù hợp để chế tạo các thành phần trong suốt. Trong khi tìm kiếm một loại vật liệu thích hợp để chế kính ngắm platic cho súng, ông tìm hiểu tính chất của hợp chất metyl cyanoacrylate và nhận thấy chúng có một đặc tính kì lạ là dính chặt vào bất kì vật gì mà chúng tiếp xúc. Tiến sĩ tình cờ gặp lại chất metyl cyanoacrylate vào chín năm sau trong khi giám sát một nhóm người làm việc trên các tấm plastic chịu nhiệt dùng làm vòm che buồn lái máy bay chiến đấu. Một lần nữa, chất này thể hiện một khả năng dính đến khó chịu nhưng lần này nó khiến ông để ý và đã phát hiện ra một dạng bám dính mới, không cần áp suất hay nhiệt độ để dán dính các vật vào với nhau. Điều tuyệt vời là quá trình dán sẽ xảy ra ngay khi chỉ có sự hiện diện của một lượng rất nhỏ nước - như lớp hơi nước có trong không khí (do độ ẩm tự nhiên của không khí) bao phủ mọi 13 vật chẳng hạn. Kodak đã chế tạo thành sản phầm và lần đầu tiên đưa ra thị trường vào năm 1958. Keo siêu dính có khả năng tự chuyển đổi từ cấu trúc là một tập hợp của nhiều phân tử riêng biệt thành một chuỗi phân tử có độ liên kết cao, khó phá vỡ. Các electron trong những phân tử nước tác động đến mối liên kết giữa hai nguyên tử carbon trong phân tử cyanoacrylate, biến nó thành một cái móc có hai đầu có thể gắn với những phân tử keo khác. Những liên kết này ngược lại sẽ cho electron cho các phân tử khác, kích hoạt sự hình thành của một chuỗi phân tử, chuỗi phân tử này nối các phân tử với nhau bằng một lực rất lớn. Quá trình này diễn ra vô cùng nhanh và dễ dàng khi có sự hiện diện của nước đến nỗi các nhà sản xuất keo siêu dính phải trộn nó với một lượng nhỏ acid, để có thể làm ngừng các quá trình phản ứng một cách dễ dàng. Chỉ cần một chút hơi nước, ngay cả hơi nước dính trên đầu ngón tay cũng đủ để phá hoại chất ổn định acid và phản ứng hình thành chuỗi bắt đầu xảy ra một cách dữ dội. Tiến sĩ Coover là người dẫn đầu trong việc cấp bằng sáng chế của việc sử dụng keo siêu dính trong giải phẫu, dán các cơ với nhau mà không cần may lại. Keo siêu dính được sử dụng lần đầu tiên trong giải phẫu trong chiến tranh ở Việt Nam và ngày nay thường được sử dụng trong tiểu phẫu. 14 Tại sao xe đạp lại cân bằng 9 hơn khi nó chuyển động? Nguyên nhân của sự cân bằng này là kết hợp của cơ học đơn giản với việc luyện tập. Đó là, khi tập chạy xe đạp, chúng ta huấn luyện cho bản thân mình thoát khỏi sự loạng choạng mà chúng ta gặp phải khi vừa bắt đầu đạp xe bằng cách hơi nghiêng người một chút trên tay lái của xe. Khi chúng ta đạp xe được một lúc, hiệu ứng luân chuyển của bánh xe quay tròn bắt đầu phát huy tác dụng, khiến cho xe đạp thăng bằng hơn. Tuy nhiên, động lực của bất kì vật gì có chuyển động quay tròn không bao giờ đi theo đường thẳng. Những phân tích chi tiết cho thấy hiệu ứng luân chuyển được khuếch đại của các bánh xe đang quay, vốn thường được giải thích cho sự thăng bằng của xe đạp, hầu như không quan trọng. Điều đáng ngạc nhiên là nguyên nhân chính khiến xe đạp có thể đứng thẳng là hình dạng của những chiếc căm giữ cho bánh xe cố định. Những chiếc căm này thường hướng thẳng về phía mặt đất cho nên một đường thẳng tưởng tượng vẽ từ những chiếc căm này sẽ chạm mặt đất ở ngay phía trước của bánh xe. Nó có thể chỉ khoảng 2-3 cm nhưng chính số lượng “vệt 15 nhỏ” đó làm nên tất cả sự khác biệt trong việc thăng bằng của xe đạp, đem lại lực chịu đựng trên các bánh xe giúp hãm lại sự chao đảo. Một chiếc xe đạp với những căm xe thẳng đứng, tức là không có những “vệt”, sẽ bị chao đảo nhiều hơn mỗi khi tăng tốc, trở nên rất khó điều khiển. Tất nhiên, với việc luyện tập, bất cứ chiếc xe đạp nào cũng có thể lái được, ngay cả xe đạp một bánh với các căm xe thẳng đứng. 10 Thanh nam châm có thể bị mòn không? Các đồ chơi bằng nam châm đôi khi có gắn kèm các lời cảnh báo là đừng làm rơi hoặc làm nóng chúng khiến chúng bị mất đi lực từ. Tuy vậy, cho dù các đồ chơi này được giữ gìn cẩn thận, các thanh nam châm cưối cùng cũng mất đi lực từ, dù rất chậm. Đó là do các thanh nam châm có được các đặc tính từ trường của chúng nhờ vào sự tồn tại của một số lượng khổng lồ của “chất cho”. Cứ mỗi 1mm chiều dài của nam châm chứa những nguyên tử có các electron tự quay nằm thẳng hàng với nhau. Trạng thái sắp xếp này tạo nên từ trường và cũng khiến nam châm dễ bị tổn hao khi gặp phải hơi nóng hay bị rơi, vì khi đó các chất cho bị đánh bật khỏi các hàng. Cho dù một thanh nam châm tránh được các trường 16 hợp trên, nó cuối cùng cũng sẽ bị hao mòn bởi tác động của nhiệt độ môi trường xung quanh và điện từ trường gây hại đến sự sắp xếp thẳng hàng của các electron tự quay và làm yếu lực từ một cách liên tục. May mắn thay đó là một quá trình rất chậm, một thanh nam châm coban mất khoảng 700 năm mới mất đi một nửa lực từ của mình. 11 Tại sao chỉ có một vài chất có tính từ? Với tất cả các tính chất quen thuộc của mình, hiện tượng từ là biểu hiện của một hiện tượng vật lý rất cơ bản, liên kết cao với quỹ đạo chuyển động và hướng tự quay của electron trong các nguyên tử. Sự sắp xếp chắc chắn của các electron tự quay này - như các electron tự quay trong nguyên tử sắt chẳng hạn - tạo nên một vật liệu có tính từ mạnh nhưng do mọi vật chất đều chứa electron tự quay nên chúng đều có tính từ: nước, gỗ và kể cả sương. Nguyên nhân khiến chúng ta không nghĩ rằng chúng là nam châm là bởi vì hiệu ứng từ của chúng khá yếu, chỉ bằng khoảng một phần tỉ của lực từ của các kim loại như sắt. Do vậy, cũng có thể sử dụng nam châm để hút một cái tăm xỉa răng lên nhưng cần có một từ trường mạnh - gấp 200.000 lần lực hút của trái đất. Nhưng vẫn có thể làm được: nhà vật lý người Đức Werner Braunbeck hít lên được một mẩu nhỏ graphite không nhiễm từ năm 1939 trong khi các nhà vật lý Pháp cũng thực hiện thí 17 nghiệm trên đối với các giọt nước. Nhưng thành tựu tuyệt diệu nhất thì phải rất lâu sau mới đến vào năm 1997, khi một nhóm đứng đầu là tiến sĩ Andre Geim của Đại học Nijmegen ở Hà Lan đã thành công trong việc hít lên một giọt sương. Tuy nhiên, việc tạo ra đủ từ trường để làm việc đó cần đến cả một nhà máy điện hạt nhân, có vẻ quá đắt đỏ cho một màn “ảo thuật”, bạn nhỉ? 12 Tại sao một nam châm khi để gần tivi sẽ sinh ra các màu sắc kì ảo? Câu hỏi này đã gây khó khăn cho các nhà khoa học gần một nửa thế kỉ. Hiệu ứng này được nhà vật lý người Đức Julius Pluecker tìm ra trước phát minh của tivi vào năm 1858. Ông đã thực hiện thí nghiệm cho dòng điện chạy qua các ống thủy tinh đã được rút hết không khí. Ông tìm thấy rằng các tia sáng rực rỡ tạo ra từ những ống thủy tinh này có thể bị bẻ cong bởi nam châm. Lời giải thích được tìm ra vào năm 1897, khi nhà vật lý của trường Cambridge Joseph Thomson chỉ ra rằng ánh sáng rực rỡ được tạo nên bởi cái mà bây giờ chúng ta gọi là các electron và ánh sáng đó có 18 thể bị tác động bởi lực hút của nam châm. Các tivi thông thường (hoặc màn hình máy vi tính) khai thác hiện tượng tạo ra ảnh màu bằng cách đốt nóng các điện tử trên màn hình để tạo nên hình ảnh. Khi một thanh nam châm để gần màn hình, các điện tử bị kéo bật ra khỏi đường đi, tạo nên màu sắc kì ảo. Di chuyển nam châm đi vòng quanh không gây nguy hại cho sức khỏe nhưng nó có thể gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh do nó thường xuyên làm từ hóa hệ thống dùng cho việc định hướng chùm electron. Những màn hình hiện đại nhất có mạch “khử từ”, giúp loại trừ bất cứ từ trường kéo dài mỗi khi bật màn hình lên. 13 Tại sao màn hình tivi lại có các điểm đỏ, xanh dương và xanh lá cây? Ở trường, chúng ta được học rằng để tạo ra bảy sắc cầu vồng, cần phải có màu đỏ, xanh dương và màu vàng nhưng chứ không phải màu xanh lá cây. Câu giải thích nằm trong sự khác nhau giữa các màu sắc hình thành bởi ánh sáng phản xạ (như màu sơn) và các màu sắc hình thành bởi ánh sáng phát xạ. Các loại sơn tạo ra màu bằng cách hấp thụ tất cả các màu ngoại trừ một màu từ ánh sáng trắng đập vào nó. Phương pháp “trừ” này cần phải có sự hiện diện của màu vàng, vì khi màu vàng này kếp hợp với màu 19 xanh dương, nó sẽ xóa sạch các màu sắc khác, ngoại trừ màu xanh lá cây. Ngược lại, tivi tạo ra màu một cách trực tiếp bằng cách sử dụng các ánh sáng phát xạ và để tạo ra tất cả các màu, phương pháp “cộng” này cần phải có màu đỏ, xanh dương và xanh lá cây. 14 Lò vi sóng (lò vi ba) có phá hủy các vitamin trong thức ăn không? Lò vi sóng chắc chắn cũng sẽ phá hủy vitamin trong thức ăn giống như bất kì hình thức nấu ăn nào khác, nếu thức ăn được nấu thật chín. Nếu dùng đúng, không nấu thức ăn quá chín, chẳng có lý do gì mà lò vi sóng phá hủy các vitamin hay các chất dinh dưỡng khác. Các nhà khoa học đầu thập niên 1980 đã xem xét toàn diện khả năng phá hủy chất dinh dưỡng của lò vi sóng và kết luận là không có tác hại đặc biệt nào. Thật vậy, phát hiện duy nhất rất đáng ngạc nhiên là dùng lò vi sóng ở chế độ năng lượng thấp là cách khiến cho thức ăn giữ lại được nhiều giá trị dinh dưỡng hơn so với các cách nấu thông thường. 20 15 Tại sao máu có màu xanh bên dưới da? Có khi nào bạn nghĩ rằng máu chảy khắp người chúng ta thật sự có màu xanh và chỉ trở thành màu đỏ khi nó tiếp xúc với không khí không? Tại sao máu trông lại có màu xanh khi nằm dưới da? Cho đến giữa thập niên 1990, thắc mắc này mới có lời giải đáp. Theo nghiên cứu của tiến sĩ Lothar Lilge và các đồng sự ở Trung Tâm nghiên cứu Laser và Ánh sáng Ontario, Canada, khi ánh sáng đập vào làn da trắng, thời gian chạm vào càng lâu, các bước sóng thuộc dải quang phổ đỏ thấm càng sâu hơn và cuối cùng bị hấp thụ bởi các mạch máu. Kết quả là ánh sáng bị phản xạ ngược lại từ da đi qua các mạch máu có tỉ lệ bước sóng ngắn hơn nằm trong vùng quang phổ màu xanh dương - tím làm cho mạch máu trông giống như nó thật sự màu xanh dương. Hiệu ứng này không rõ đối với những người có da màu tối, do các sắc tố đen trong da của họ hấp thụ hầu hết các bước sóng của ánh sáng trên bề mặt da. 21 16 Cái gì khiến cho máy vô tuyến bị nhiễu khi di chuyển xung quanh? Những âm thanh rột rẹt khó chịu đó là do sự nhiễu đa đường, vì máy vô tuyến bắt các sóng phản xạ của tín hiệu FM. Do có một bước sóng chỉ khoảng vài mét, những tín hiệu này có thể bị nhiễu bởi các tia sóng phản xạ từ các ngọn núi, các tòa nhà văn phòng, hay các cần trục, thậm chí là những người đi bộ ngang qua. Chỉ cần xịch máy qua một chút cũng đủ để “xử” được chuyện này. Nhưng nếu máy vô tuyến vẫn không hoạt động tốt, có thể bạn nên đầu tư anten xịn hơn một chút. 17 Tại sao các máy bay nhỏ bay có vẻ nhanh hơn nhiều so với máy bay chở hành khách lớn? Đó chính là một hiệu ứng quang học, thường được gọi là thị sai. Chúng ta đánh giá tốc độ của một vật bằng cách so sánh xem tốc độ chúng vượt qua tầm nhìn của chúng ta nhanh cỡ nào. Các máy bay nhỏ thường bay ở độ cao thấp hơn nhiều so với các máy bay chở hành khách 22 loại lớn, khiến cho chúng ở gần chúng ta hơn. Điều đó có nghĩa là chúng vuợt qua tầm nhìn của chúng ta nhanh hơn mặc dù tốc độ bay của chúng lại thấp hơn. Tương tự, các vệ tinh quỹ đạo dường như chuyển động chậm hơn máy bay khi bay ngang qua bầu trời ban đêm, mặc dù các vệ tinh này có thể có tốc độ lớn hơn 8.000 m/s. Thị sai đã được Gerry Anderson và đội phụ tá của ông đưa vào một áp dụng rất ấn tượng trong phim Thunder birds. Họ tạo ra một ảo ảnh về một không gian khổng lồ bằng cách đặt các lớp phong cảnh nằm sau các mô hình xe tải và di chuyển các lớp ra xa liên tục, càng ra xa thì các lớp di chuyển càng chậm - giống như chúng chạy trên cảnh thực. 18 Tại sao các boomerang bay vòng trở lại? Boomerang thường được nghĩ rằng là phát minh của thổ dân Úc. Nhưng qua nhiều năm, suy nghĩ đó đã thay đổi khi tại các địa điểm khảo cổ nằm rất xa Arizona và Ấn Độ, các mẫu boomerang cổ nhất được biết đến. Chúng khoảng 23.000 năm tuổi, làm từ ngà của voi mammoth, được tìm thấy trong các hang động ở Oblazowa Rock, miền nam Phần Lan năm 1987. Cho nên chỉ có vẻ như 23 là khả năng bay ngoạn mục của boomerang đã được phát minh ra độc lập với nhau nhiều lần. Bất kể nguồn gốc tiển sử của mình, boomerang là công cụ đầu tiên khai thác sự kết hợp khéo léo giữa lực nâng và lực xoáy. Để tăng cường lực nâng, boomerang được ném ra từ một vị trí gần như thẳng đứng, ở một góc khoảng 15 độ so với trục ngang. Điều này cho phép chúng xoáy và cắt ngang không khí ở một góc nghiêng, làm chệch hướng bay của nó và tạo ra lực nâng khi nó bay. Khả năng nổi tiếng của boomerang là quay ngược trở lại nơi vừa ném nó ra nhờ vào một hiện tượng, đó là nhờ vào sự xoáy. Do khả năng xoáy của mình, phần trên của “cánh” của boomerang cắt ngang dòng không khí đi đến với một tốc độ tương đối cao hơn phần bên dưới và do vậy tạo ra nhiều lực nâng hơn. Lực nâng này tạo ra một lực quay trên boomerang khiến boomerang bắt đầu bay theo một đường cong, hơi giống như con quay đồ chơi xoay tròn trên đế của nó. Chưa hết, độ lớn của vòng tròn mà boomerang bay theo không phụ thuộc vào sức mạnh ném boomerang đ i hay tốc độ xoáy của boomerang mà nó phụ thuộc đầu tiên là vào sải cánh và hình dạng của boomerang, là sự kết hợp hài hòa giữa lực xoáy và nâng. Ném tốt, boomerang sẽ bay lâu hơn và quỹ đạo vòng bay có thể dài tới hơn 120 m. 24 19 Tại sao hạt chanh bỏ trong rượu gin và thuốc bổ lại nổi lên và chìm xuống? Không chỉ các hạt chanh trong rượu gin và thuốc bổ, hiện tượng lạ tương tự cũng có thể xảy ra bằng cách thả một quả nho khô vào nước có gas mới khui. Đầu tiên, nó sẽ chìm xuống đáy ly, sau đó diễn ra một sự bập bênh hơi kì lạ, trước khi nho khô nổi lại lên bề mặt và bắt đầu lặp lại chu kì vừa rồi. Lời giải thích nằm ở hiệu quả của bề mặt sần sùi của hạt nằm trên bọt khí CO2 trong nước uống. Do có khối lượng riêng nặng hơn chất lỏng một chút, các hạt chìm xuống đáy. Ở đó, các phân tử CO2 hòa tan bị giữ lại trong các vết nứt và các góc của hạt. Sau một lúc, CO2 tập trung đủ để tạo thành các bong bóng, các bong bóng này làm tăng thể tích của hạt và làm khối lượng riêng của nó trở nên nhỏ hơn khối lượng riêng của chất lỏng trên bề mặt ly nên nó bắt đầu nổi lên. Trên mặt ly, các bong bóng vỡ ra, các phân tử khí thoát ra, hạt bị mất đi cái phao của nó nên bắt đầu lặp lại quá trình chìm và nổi vừa rồi. 25 20 Áp suất bên trong một bình phun có thể cao đến cỡ nào? Theo Hiệp hội Sản xuất Bình phun Anh, bình phun có thể được tạo áp đến khoảng từ 2 đến 8 atmosphere, tương đương với khoảng 20 đến 85 tấn trên 1 mét vuông. Nếu bị đâm thủng hay đun nóng, chúng có thể bị nổ với sức nổ dữ dội có khả năng gây chết người, đặc biệt khi các bình phun này có chứa các chất lỏng dễ cháy. Vì lý do đó, các bình thường chỉ được chứa một phần chất lỏng và được thiết kế có thể chịu được sự giãn nở thông qua các đáy và đỉnh có dạng lõm. Các bình phun cũng được kiểm tra một cách đặc biệt trước khi đưa khỏi nhà máy sản xuất bằng cách đưa qua một bồn nước nóng để nâng áp suất trong bình lên và kiểm tra độ bền cũng như độ nguyên vẹn của nó. Các nhà sản xuất cũng đưa ra các cảnh báo về việc tránh để các bình phun gần với các nguồn sinh nhiệt. Đáng buồn là, những cảnh báo này không phải luôn luôn được chú ý và hậu quả có thể rất lớn. Vào tháng hai năm 2000, một phụ nữ lớn tuổi ở Maryland để các bình phun trong căn nhà di động của mình tiếp xúc với đèn điều khiển của lò sấy bằng gas của mình và chúng đã 26 phát nổ như một quả lưu đạn, thổi tung các cửa sổ và khiến các bức tường đổ oằn đi. Nên hiểu rằng không phải chỉ có một ngọn lửa trần mới có thể khiến một bình phun nổ: trong mùa hè nóng bức, các bình phun có thể bị nổ một cách dễ dàng nếu bị đặt trong xe hơi đậu dưới trời nắng. 21 Làm cách nào để tạo được các đường sọc trong kem đánh răng? Các ống kem đánh răng không chứa đầy kem đánh răng dạng sọc. Đa số các ống kem đánh răng đều chứa kem đánh răng trắng thuần túy. Bí quyết để các đường sọc nằm trên đầu các ống kem đánh răng trắng là các ống kem này có phần cổ nghiêng chứa kem đánh răng có màu. Khi ống kem bị bóp, kem màu trắng chảy về hướng cổ ống đã mở và trên đường đi của nó, kem trắng sẽ đẩy phần kem ở cổ nghiêng lên. Điều này khiến một số kem có màu bị nén vào các cạnh chạy quanh bề mặt bên trong phần miệng gần sát với đỉnh ống, kéo các kem màu này lên bề mặt của kem trắng đang đi lên - kết quả là tạo ra kem đánh răng có sọc. 27 22 Tại sao các lá nhôm lại gây đau đớn khi nó chạm vào các chỗ trám răng của bạn? Một cảm giác nhói lên rất khó chịu giống như bị điện giật chính là cảm giác mà bạn gặp phải. Khi một mẩu giấy nhôm từ vỏ bọc kẹo chạm vào hỗn hống thủy ngân trám trong răng của bạn, nó sẽ tạo thành một bộ pin nhỏ xíu, với các electron chạy từ nhôm đi vào chỗ trám của bạn thông qua nước bọt trong miệng bạn. Dòng điện rất yếu nhưng vẫn đủ lớn để các các dây thành kinh nằm dưới răng của bạn nhận ra. 23 Các tinh thể đá thạch anh giúp các đồng hồ chạy đúng giờ? Phát minh năm 1927, bởi kĩ sư Warren marrision ở Phòng Thí Nghiệm ở New Jersey, đồng hồ bằng đá thạch anh dựa trên hiệu ứng áp điện. Khi các dạng rắn chắc của tinh thể - như thạch anh - bị nén ép hay kéo căng, các nguyên tử của chúng sẽ sản sinh ra một trường electron. Trong các đồng hồ thạch anh, mặt trái của hiệu ứng này được sử dụng. Đó là, một trường electron tác động vào các tinh thể khiến nó thay đổi 28 hình dạng. Marrison nhận ra rằng bằng cách áp dụng một điện áp qua lại cho các tinh thể, chúng có thể rung động ở một tốc độ từ 33.000 đến 4 triệu lần một giây, và tốc độ đó được duy trì với độ chính xác đặc biệt. Sử dụng các electron và hệ thống bánh răng cơ khí, Marrison có thể tạo ra một đồng hồ thạch anh chính xác tới từng giây trong vòng mười năm. Việc nhét tất cả các phụ kiện cần thiết vào đồng hồ có thể đeo trên tay tốn mất bốn mươi năm nữa: những đồng hồ thạch anh đầu tiên được đưa ra thị trường bởi công ty Seiko vào Lễ Giáng Sinh 1969. 24 Có phải các giày trượt băng hoạt động nhờ vào áp lực của lưỡi dao làm tan đá? Hãy thử thực hiện một thí nghiệm thế này: cầm một tảng nước đá, quấn một sợi dây đàn piano qua nó và gắn một khối nặng vào mỗi đầu của sợi dây. Đợi một lúc (khoảng 30 phút), bạn sẽ thấy đoạn dây đã tự tạo thành một đường hầm đi về tâm của tảng đá một cách thần kỳ, không để lại dấu vết nào về đoạn đường nó đi từ trên xuống tâm tảng đá. Đây 29 là minh họa của sự đóng băng do áp suất cao sinh ra. Trong trường hợp này, do các vật nặng buộc ở hai đầu đoạn dây - làm cho nhiệt độ điểm tan rã của nước đá giảm xuống, sau đó nước đá hình thành lại, bít kín phần trống của tảng đá do đoạn dây đi xuống để lại. Từ minh họa này, ta có thể giải thích cho câu hỏi tại sao các vận động viên truợt băng lướt đi rất nhẹ nhàng quanh sân băng. Đó là do áp lực sinh ra bởi sức nặng của các vận động viên trượt băng tạo nên một lớp màng nước mỏng bên dưới các lưỡi dao. Lời giải thích đúng được đưa ra bởi nhà vật lý thời nữ hoàng Victoria, Michael Faraday. Khi nước đông đặc thành đá, một lớp mỏng của các phân tử nước còn lại trên bề mặt đá - chính nó khiến cho mặt đá trơn hơn và vận động viên truợt đi dễ dàng hơn chứ không phải do áp lực. Tuy nhiên, khi ở dưới âm 100C, lớp mỏng này biến mất, khiến cho mặt đá ít trơn hơn nhiều. 25 Bộ phận giảm thanh của súng làm việc như thế nào? Bằng việc khiến cho các khí dễ nổ từ phát súng bay ra giãn nở vào một ngăn trước khi đập vào không khí xung quanh, bộ phận giảm thanh có thể làm giảm tiếng ồn xuống khoảng 10.000 lần hoặc hơn. Vấn đề là, súng gây ra tiếng ồn rất lớn ở vị trí xuất phát, gần 100dB ở hầu hết các loại súng và lên tới 140dB đối với các súng 30 ngắn (đủ để gây điếc tức thời) nên chúng sẽ vẫn gây ồn ngay cả khi đã lắp bộ phận giảm thanh. Tuy nhiên, khi sử dụng các loại súng thiết kế đặc biệt bắn đạn hạ âm và một bộ phận giảm thanh, hiệu quả sẽ rất mạnh: tiếng ồn còn lại chủ yếu là do chốt đập vào vỏ đạn, theo sau là một tiếng kêu ù ù khi đạn rời khỏi súng. 26 Có đúng là bóng đèn tròn sẽ dùng được lâu hơn nếu bạn luôn để nó sáng? Tuổi thọ của những bóng đèn bình thường phụ thuộc rất nhiều vào điện áp sử dụng cho chúng, cho nên một mạch điều chỉnh có thể giúp kéo dài tuổi thọ bóng đèn. Tuy nhiên nguyên nhân thật sự làm hư dây tóc bóng đèn là sự thay đổi nhiệt độ mạnh gây ra do việc bật và tắt bóng đèn, mà sự chênh lệch nhiệt độ có thể lên đến hơn 2.0000C. “Chu kì nhiệt” này làm hư hại dây tóc, tạo ra các vết nứt, và cuối cùng là làm đứt gãy toàn bộ dây tóc (đó là lý do tại sao các bóng đèn thường nổ khi được bật lên). Một cách rõ ràng để tránh chu kì nhiệt và nhờ đó làm tăng tuổi thọ của bóng đèn là để đèn sáng thường trực. 31 27 Tại sao các bóng đèn “hiệu quả điện năng” có vẻ như mờ hơn những đèn cao áp? Mặc dù mắc hơn các bóng đèn thông thường, bóng đèn hiệu quả điện năng được cho là sáng bằng nhưng sử dụng chỉ khoảng hai mươi phần trăm năng lượng. Chúng cũng được cho là có tuổi thọ đến 15.000 giờ, lâu hơn đến trên 10 lần so với một bóng đèn tròn thông thường. Tuy nhiên, mọi người thường hoài nghi rằng các bóng đèn hiệu quả điện năng 60W trong có vẻ mờ hơn nhiều so với các bóng đèn 60W cũ mà họ đổi đi. Lời giải thích nằm ở sự khác nhau cơ bản trong cách mà hai loại đèn tạo ra ánh sáng. Một đèn tròn thông thường cho phép dòng điện chạy vào một dây tóc Vofram mảnh có nhiệt độ lên đến trên 2.5000C, trở thành cực kì nóng và rất sáng. Ngược lại, các đèn sử dụng điện năng thấp thật chất là một ống phủ huỳnh quang thu nhỏ sinh ra ánh sáng bằng cách chuyển dòng điện vào một ống bịt kín bên trong chứa khí có áp suất rất thấp. Các khí phản ứng lại với dòng điện bằng cách phát ra các tia cực tím (UV), các ánh sáng cực tím này khi đập vào một lớp phủ đặc biệt bên trong ống sẽ chuyển thành ánh sáng nhìn thấy được. Toàn bộ quá trình này 32 cần một ít thời gian để tiếp tục, cho nên khi một bóng đèn hiệu quả điện năng mới bật lên chỉ phát ra khoảng tám mươi phần trăm của mức độ sáng cao nhất mà nó có thể có. Do đó, bất cứ ai bật một trong những đèn này lên sẽ nghĩ là mức độ sáng của nó tệ hơn là những bóng đèn cao áp cũ trong khoảng ba mươi giây hoặc lâu hơn bởi lý do đơn giản trên. 28 Tại sao xi đánh giày làm cho giày trông có vẻ sáng bóng? Các vật thể được cho là sáng bóng nếu chúng có khả năng phản xạ ánh sáng lại theo những đường song song. Một bề mặt trơn và phẳng giống như tấm gương làm điều đó rất tốt trong khi các bề mặt thô nhám khiến ánh sáng đập vào nó phản xạ lại theo nhiều góc chứ không theo những đường song song. Sáp ở trong xi đánh giày sẽ trám vào những chỗ lồi lõm trên giày do trầy xướt, cho phép ánh sáng phản xạ lại theo những đường có trật tự hơn, do vậy trông có vẻ sáng bóng lên. 33 29 Các vi mạch điện tử có thể bị mòn hết khi dùng quá lâu không? Mặc dù các mạch vi xử lý có vẻ như là một khối không có các bộ phận chuyển động, nhưng chúng phải ngăn chặn các electron xung quanh sinh ra nhiệt có thể gây ra các trục trặc. Do đó, có một tổn hại gây ra bởi dòng điện tĩnh, các bức xạ tự nhiên và sự hình thành oxide bên trong cấu trúc có dạng xốp của nó. Kết quả là các xi mạch xử lý trong các máy tính gia đình có tuổi thọ trong khoảng mười đến mười lăm năm. Mà đa số chúng ta đánh giá tuổi thọ của máy không chính xác, do vậy chúng ta thường bị buộc phải nâng cấp máy tính để đối phó với những phần mềm dung lượng lớn mới nhất rất lâu trước khi máy tính thật sự hư. 30 Tại sao lau sạch nước bằng giẻ ướt dễ hơn là bằng giẻ khô? Để lau cho sạch sẽ một chỗ bị ướt chúng ta cần một lực nâng đủ mạnh để kháng lại lực hút trái đất và nâng nước lên khỏi mặt sàn. Với một giẻ lau khô, lực nâng đến từ lực hút phân tử giữa các ngóc ngách và các vết nứt của giẻ lau với các phân tử nước (thường được gọi 34 là hiện tượng mao dẫn) giúp kéo nước lên trên tấm giẻ. Với một tấm giẻ ướt, các phân tử nước có trên giẻ có thể sử dụng lực liên kết phân tử khá mạnh của chúng để liên kết với nước còn trên sàn nhà, kéo chúng lên sẽ hiệu quả hơn nhiều. 31 Cách nhanh nhất để tìm một ai đó bị thất lạc là gì? Phương pháp hiển nhiên là sắp đặt trước: nếu thất lạc, người đó sẽ ngay lập tức đi đến một điểm hẹn đã được sắp xếp trước để tìm cách thông báo. Tuy nhiên, cẩn thận vẫn không thừa, bạn cũng nên có sẵn một kế hoạch B dự phòng. Có một phương pháp do giáo sư Lyn Thomas của đại học Southampton đưa ra vào thế chiến thứ hai về việc săn đuổi dưới biển. Phương pháp dựa trên thực tế thời gian tìm kiếm càng lâu, thì cơ hội thành công càng lớn, nhưng nguy cơ bỏ phí thời gian để tiếp tục tìm kiếm người đã được tìm thấy rồi càng cao. Để việc tìm kiếm có hiệu quả nhất, lúc bắt đầu tìm kiếm, bạn nên quy định một thời gian cụ thể, ví dụ là 35 15 phút, để bắt đầu tìm quanh điểm hẹn đã ngầm quy định trước. Nếu việc tìm kiếm trong thời gian này không thành công, thì bạn sẽ bắt đầu một cuộc tìm kiếm mới nhưng với khoảng thời gian ngắn hơn - ví dụ là mười hai phút - nhưng lần này đã có kinh nghiệm từ lần tìm trước. Và cứ tiếp tục như thế. Như vậy, bạn sẽ tận dụng thời gian tìm kiếm cho phép tốt nhất, đặc biệt nếu như điểm hẹn được chọn tốt. Thế nhưng ai mà biết được mình sẽ bị lạc mà hẹn trước chỗ để tìm nhau? Thật ra chỗ hẹn này là chỗ cả người lạc và người tìm đều ngầm hiểu là sẽ dễ tìm thấy nhau nhất, ví dụ như chỗ để xe, chỗ thông báo tìm người lạc (nếu trong khu vui chơi hay siêu thị), hay cổng ra vào (trong hội chợ)... 32 Người ta làm cách nào để dán lớp vỏ không dính lên các vật dụng nhà bếp? Được phát hiện ra vào năm 1938 bởi nhà hóa học người Mỹ là tiến sĩ Roy Plunkett của công ty DuPont, polytetrafluorethylene (PTFE) - tên thương mại là Teflon, nổi tiếng nhờ vào khả năng không dính của nó. Nó cũng là một chất rất bền và trơ, chịu được acid, kiềm, nhiệt và các dung môi. Tất cả những khả năng của nó đều rất tuyệt vời cho đến khi người ta tiến đến thật sự sử dụng 36 nó như một vỏ bọc, khi các đặc tính hóa học trơ của nó biến thành một trở ngại. Làm sao có thể dán nó dính vào bề mặt kim loại? Vấn đề khiến PTFE dính vào các bề mặt kim loại được Louis Hartmann giải quyết vào năm 1954. Ông sử dụng acid để khắc các lỗ trên bề mặt kim loại, sau đó ép vào một lớp PTFE và nung nó ở nhiệt độ 4000C. PTFE nóng chảy thấm vào các lỗ và đông đặc lại, ghim chặt lớp vỏ vào bề mặt. 33 “Môi trường bảo quản” thực phẩm trong siêu thị ngày nay như thế nào? Các phản ứng dữ dội đối với những chất bảo quản đã thúc đẩy các kĩ thuật viên thực phẩm tìm ra những phương pháp tinh vi hơn khiến cho các sản phẩm trông tươi ngon lâu hơn, bao gồm việc sử dụng các môi trường bảo quản. Những phương pháp này dựa trên công nghệ hóa sinh để làm cho thức ăn trở nên mới như ban đầu. Ví dụ, chất ethylene thoát ra trong quá trình chín là nguyên nhân của sự mất màu của các loại rau củ như bông cải xanh, trong khi màu nâu của các loại rau củ 37 được phát hiện là do tác dụng của các loại enzyme nào đó. Việc để các miếng thịt tươi bên ngoài không khí quá lâu khiến nó chuyển sang một màu nâu không hấp dẫn, do các oxymyoglobin giúp cho thịt có màu đỏ tươi biến đổi thành metmyoglobin. Trong phương pháp Đóng gói trong môi trường khí quyển thay đổi (MAP), sản phẩm được đóng kín trong một hỗn hợp khí đặc biệt, hỗn hợp này làm chậm các phản ứng hóa sinh làm hỏng thực phẩm. Ví dụ, MAP giàu CO2 làm chậm sự hư hỏng gây ra do vi khuẩn, làm tăng thời gian sử dụng của rau củ lên khoảng 5 lần và cho phép thịt duy trì được màu sắc và hình dạng ban đầu của nó ít nhất là bốn mươi tám tiếng. MAPs nền Nitơ làm chậm quá trình biến thành màu nâu do các enzyme trong rau củ, trong khi một hỗn hợp của CO2 và N2 với tỉ lệ 60/40 được sử dụng để bảo quản cá có nhiều mỡ như cá trích và cá thu. Lớp màng trong suốt để bọc sản phẩm bên trong cũng được điều chỉnh để làm chậm quá trình hỏng thức ăn; màng lọc bằng ethylene được sử dụng để làm sạch các khí gây ra sự mất màu ở rau xanh. Rõ ràng, thách thức lớn nhất hiện nay là phải tìm ra phương pháp để làm chậm tốc độ hư của bánh mì. Một giải pháp được yêu thích hơn trong nhà chúng ta là quy trình kĩ thuật có tên gọi “ăn ngay”. Cách này sẽ không có tác dụng phụ nào. 38 34 Cái gì gây ra sự sốc điện khi một người đi ra khỏi một chiếc xe hơi - và làm sao để tránh hiện tượng đó? Một chiếc xe có thể phóng điện với một dòng điện tĩnh do hiệu ứng ma sát của không khí thổi qua nó nhưng nguyên nhân chính là sự rời khỏi xe quá đột ngột. Khi bạn lướt qua ghế ngồi, ma sát sẽ tách các electron ra khỏi các sợi vải của quần áo, sinh ra một sự phóng điện mạnh. Một trường hợp sốc điện khác có số lần xảy ra bằng khoảng một nửa trưòng hợp trên là khi bạn đút chìa khóa vào cánh cửa kim loại của xe hơi để khóa nó, dòng điện tích sẽ chạy xuống đất và nếu đường đi của dòng điện ngang qua các ngón tay của bạn, kết quả có thể gây ra sốc. Một trường hợp cũng có thể gây ra nguy cơ chết người nếu sự phóng điện xảy ra ở các cây xăng: những tia lửa sinh ra có thể kích ứng một trận hỏa hoạn nghiêm trọng. Đã từng có nhiều cố gắng tìm kiếm các vật kiệu có thể làm giảm hiệu ứng phóng điện, nhưng ngành vật lý về tĩnh điện học vẫn chưa được hiểu rõ và các kết quả vẫn chưa gây được ấn tượng mạnh. Vài người đề nghị tránh gây ra các dòng tĩnh điện bằng cách sử dụng các vỏ bọc làm từ các viên gỗ cho ghế của các xe hơi này. Có một kĩ thuật cũng rất hiệu quả, đó là mở rộng bàn tay của bạn và chạm nhanh vào xe bằng lòng bàn tay. 39 Mật độ của điện tích xung quanh phần tương đối nhẵn và tròn này của bàn tay nhỏ hơn nhiều so với dòng điện tích ở ngón tay, nên sự phóng điện rất nhỏ. Một mẹo nhỏ giống như vậy cũng được thực hiện trong các tiệm bán hàng, nơi mà các tấm thảm bằng nylon gây ra sự phóng điện dữ dội khi chúng tiếp xúc với kim loại. Đó là tiếp xúc bằng phần lòng bàn tay với bất cứ kim loại nào nối với mặt đất, như giá treo đồ, sẽ có thể ngăn ngừa một cơn sốc khiến bạn giật điếng người. 35 Tại sao kim loại tóe lửa khi đặt trong lò vi sóng nhưng các vật liệu khác thì không? Lò vi sóng sinh ra các sóng năng lượng điện từ có khả năng tách các electron trong các nguyên tử của vật đặt bên trong lò vi sóng. Các electron trong các kim loại đặc biệt linh động (đó là lý do khiến kim loại dẫn nhiệt và điện vô cùng tốt) và có khuynh hướng tập trung lên xung quanh bất kì điểm nhọn nào (chẳng hạn như các răng của nĩa) đặt trong lò. Nếu như trường vi sóng đủ mạnh, những electron này sẽ đập vào không khí xung quanh mạnh đến nỗi chúng có thể chạy xuyên qua không khí - kích ứng một ánh chớp nhỏ. 40 Không phải lúc nào kim loại đặt trong lò vi sóng cũng phát ra tia lửa điện, bởi vì nếu nó không có điểm nhọn nào để tập trung các electron thì dù cho trường vi sóng đủ mạnh để cho không khí xung quanh bị xuyên qua, thì sẽ vẫn không có bất kì tia lửa nào. Tuy nhiên, chớ mà dại dột thử đặt kim loại vào lò vi sóng. Sử dụng các vật liệu dùng riêng cho lò vi sóng vẫn an toàn nhất. 36 Có phải các chất làm thơm phòng tốt hơn là các khẩu trang ngăn mùi? Giống như các khẩu trang ngăn mùi, như táo và chanh, các chất làm thơm thương mại chứa các hợp chất gọi là chất chống mùi hôi, những chất có khả năng đặc biệt trong việc ngăn mùi hôi. Được phát hiện ra bởi các nhà khoa học ở Monsanto vào giữa thập niên 1970, chính xác cách họ làm là gì thì vẫn chưa rõ. Theo như giáo sư Tim Jacob, một chuyên gia trong nhận định mùi của đại học Cardiff, những chất hóa học hữu cơ bay hơi có thể phản ứng với giống như một chất gây tê, ngăn cản các tế bào nhận mùi trong mũi chúng ta phản ứng với các chất như sulfur thường có mùi thức ăn thúi. Chúng cũng có thể cản sự truyền tín hiệu mùi lên bộ não. 41 37 Tại sao nước sốt cà chua rất khó đổ ra từ một cái chai mới? Đây là một hiện tượng của sự keo tụ, hiện tượng thường gặp trong nước sốt cà chua trộn, cát lầy và sơn đặc. Khi để riêng, những chất lỏng này khá đặc và dính nhưng trở nên dễ chảy hơn nhiều khi bị đặt dưới một ứng suất trượt - giống như lực tạo ra bởi một chiếc lược kéo ngang một cái khay sơn đặc. Tất cả những chất lỏng trên là hỗn hợp hóa học có các liên kết hoạt động như một khối thẻ: chúng có thể chống lại được áp lực đè xuống nhưng lại bị tách rời ra khi bị tác dụng một lực trượt. Vấn đề xảy ra với các chai nước sốt cà chua mới là do chúng còn đầy, cho nên có rất ít diện tích bề mặt của nước sốt rơi vào vị trí có ứng suất trượt tạo bởi việc lắc cho cà chua trong chai chảy ra. Khi chai rỗng, việc đổ tương cà ra trở nên dễ dàng hơn - đặc biệt nếu đổ chai tương cà ở một góc nghiêng, để lộ ra càng nhiều diện tích bề mặt càng tốt. 38 Tại sao nước thoa sau khi cạo râu thường gây cảm giác lạnh trên da? Nước thoa sau khi cạo râu thường có một tỉ lệ cồn nhiều hơn 80%, chất cồn này là dung môi cho các tinh 42 dầu tạo mùi. Là một dung môi tuyệt hảo, cồn là chất bay hơi hoàn toàn, có nghĩa là các phân tử của cồn cần rất ít điều kiện là có thể bốc hơi. Khi chúng rời khỏi da bạn, chúng sẽ thu nhiệt năng trên đường đi của chúng - cho cảm giác mát lạnh ngay cả trong một ngày nóng bức. 39 Cái gì khiến cho sữa đun bằng lò vi sóng trào ra khỏi nồi? Lò vi sóng rõ ràng là dùng để đun nấu không liên tục, tạo nên các “điểm nóng” trong thực phẩm. Đối với thức uống, các điểm nóng này có thể tạo ra các túi chất lỏng siêu nóng không ổn định ở nhiệt độ cao hơn điểm sôi thông thường. Chỉ cần thêm vào hạt đường cũng đủ khiến cho hơi nước siêu nóng tập hợp xung quanh chúng, hình thành các bong bóng khí giãn nở nhanh, khiến cho chất lỏng ở phía trên trào lên. Nguyên nhân khiến cho nó hiếm khi xảy ra là do hầu hết các tách có các vết nứt nhỏ hoặc các hạt bụi bên trong chúng, khiến cho các bọt khí hình thành chậm hơn trong suốt quá trình nấu. Điều này khiến cho những tách còn mới toanh và tách vừa mới lấy ra từ máy rửa chén đặc biệt dễ bị trào khi dùng nấu sữa trong lò vi sóng. 43 Nhằm giảm thiểu nguy cơ bị phỏng (hàng năm có hàng tá người phải nhập viện vì phỏng), cần đảm bảo thời gian đun sữa hợp lý (không quá 2 phút hoặc hơn một chút cho một chén sữa), khuấy sữa sau khi bắt đầu đun khoảng một phút hoặc lâu hơn và để sữa nguội một lát sau khi lấy sữa ra ngoài. 40 Tại sao thường có một cơn gió rất lớn thổi quanh các khối cao ốc? Kể cả trong những ngày lặng gió, vẫn thường có một cơn gió nhẹ thổi xung quanh chân của các tòa nhà cao tầng, làm bốc lên trời cao những cơn gió xoáy. Thí nghiệm quan sát với những mẩu giấy cho chúng ta một đầu mối để nhận biết cái gì đang xảy ra: các mẩu giấy bay quanh và bị giữ lại trong các cơn gió xoáy xung quanh chân của các tòa nhà. Đây là dấu hiệu rõ ràng của tòa nhà hoạt động như một chiếc thuyền buồm khổng lồ, điều khiển các cơn gió tương đối mạnh ở tầng cao thổi qua cao trên đầu chúng ta mà chúng ta không nhận thấy, rồi đi xuống mặt đất, ở đó chúng thổi với một lực mà chúng ta có thể nhận thấy được. Không chỉ có cường độ của các cơn gió mới gây ra các vấn đề mà không khí lạnh bị kéo xuống cũng lấy bớt nhiệt của tòa nhà. 44 Vào thập niên 1960, dòng không khí lạnh chẳng may thổi ngang đầu các kiến trúc sư khi họ xây dựng một sân chơi công cộng quanh chân của các khối cao ốc, các sân chơi này sau đó đã bị trẻ con tẩy chay để tránh bị lạnh cóng hoặc bị các vật lạ bay trúng. 41 Liệu một tấm gương có thể phản chiếu các vật không nằm trực tiếp ngay trước mặt gương không? Quả thật là nó có thể, như được chứng minh rất rõ bởi những tấm gương có một nửa độ cao thường thấy trong rất nhiều phòng thay quần áo. Mặc dù gương chỉ kéo dài ở độ cao từ đầu xuống đến thắt lưng của ta, ta vẫn nhìn thấy được toàn bộ thân hình của mình - đó là hệ quả của việc khi ánh sáng đập vào một tấm kính ở một góc nào đó thì sẽ bị phản xạ ngược lại theo một góc đối xứng với góc ban đầu. 45 42 Tại sao những cái cân cho ra những chỉ số khác nhau khi đặt trực tiếp trên mặt sàn cứng và khi đặt trên các tấm thảm? Những người ăn kiêng thường khăng khăng cho rằng cân nặng của họ thay đổi rất nhiều, tùy thuộc vào vị trí mà họ đặt cân trong phòng tắm. Theo như các báo cáo, bạn có khả năng mất đi nhiều kí một cách rất đơn giản bằng việc đặt cân trực tiếp trên nền nhà thay vì đặt trên các tấm thảm. Cho đến gần đây, vẫn chưa thể hiểu rõ vì sao các tấm thảm trong phòng tắm lại chịu tác động nhiều hơn của lực hút trái đất - hoặc là chỉ số nào của cân là đáng tin cậy? Câu trả lời giờ đây đã được đưa ra bởi John Pender gast và tiến sĩ David Mackay, của đại học Cambridge. Xem xét cơ chế của các loại cân cơ học thông thường đặt trong các phòng tắm, hai người thấy hệ thống đo trọng lượng của cân hoạt động dựa trên một bộ trục đứng gắn với đế phẳng của cân. Khi đặt trên các bề mặt cứng, đế này đứng im trên sàn, và cong lại khi một người bước lên cân. Sự sắp xếp của các đòn bẩy sẽ cho ra các chỉ số về trọng lượng của người đó. Khi đặt cân trên 46 các tấm thảm mềm, cân sẽ bị lún vào các lớp lông mịn của thảm và đế cân không thể cong lại một cách chính xác. Kết quả là chỉ số cân nặng bị sai: các nhà nghiên cứu thấy rằng sai số có thể cao hơn tới mười phần trăm so với giá trị đúng. Cho nên, dường như có nhiều người nghĩ rằng cân nặng của họ có vấn đề chứ không nghĩ rằng các tấm thảm có vấn đề. Những người vẫn muốn trải thảm trong phòng tắm có hai lựa chọn: đầu tư mua một bộ cân kĩ thuật số (hoạt động dựa trên một cơ chế khác), hoặc tự dối mình rằng họ vẫn đang ở trạng thái cân nặng lý tưởng của bản thân, chứ không như chỉ số do tác động xấu của các tấm thảm. 43 Xà phòng hoạt động như thế nào? Một thỏi xà phòng là một phép màu hóa học - chỉ một khối nhỏ xà phòng thơm sẽ giải phóng ra lực phân tử mạnh khi bị nhúng vào nước. Các phân tử xà phòng có tính chất rất kì lạ đó là có một đầu ưa nước và một đầu kị nước. Tính chất đó khiến xà phòng có hai đặc tính cơ bản cho việc làm sạch các vật dụng: thứ nhất, nó làm giảm lực hút lẫn nhau giữa các phân tử nước, buộc các phân tử nước tự dàn trải trên bề mặt các vật dụng được đặt vào nước xà phòng một cách hiệu quả hơn; thứ 47 hai, nó cho phép các phân tử xà phòng hoạt động theo cách của chúng đối với các chất bẩn, bẩy chất bẩn lên rồi đẩy chất bẩn bị bao quanh bởi bong bóng xà phòng trôi ra xa - những bong bóng xà phòng này cũng ngăn cản không cho chất bẩn trôi ngược lại phía các vật dụng. Một điều lạ là mặc dù người Babylon là những người đầu tiên làm ra xà phòng (có lẽ do tình cờ) khoảng 4.800 năm trước, ban đầu nó được dùng để điều trị các bệnh về da; khả năng làm sạch bụi của nó không được nhận thấy cho đến tận thời Trung cổ. Nếu có rất nhiều bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn và virus (đặc biệt là bệnh cảm lạnh) lan truyền do tiếp xúc qua da, sự phát minh ra xà phòng phải được xếp vào một trong những phát minh y học chính yếu xuyên suốt lịch sử. Hiệu quả của nó đối với các phân tử nước rất có ích cho việc làm sạch các tấm gương bị hơi nước phủ mờ, khi có vô số giọt nước li ti ngưng tụ ngăn cản các tấm kính phản xạ ánh sáng tốt. Một lớp màng rất mỏng xà phòng trải khắp mặt kính sẽ phá vỡ ứng suất bề mặt của các giọt nước, khiến chúng trải căng ra thành một lớp phẳng và trả lại cho bạn một tấm gương trong sáng, tha hồ mà chải chuốt. 48 44 Tại sao các các củ hành khiến mắt bạn bị cay và phải làm gì để tránh chuyện đó? Việc xắt lát mỏng hoặc bào một củ hành gây nên một chuỗi các phản ứng hóa học, kết quả cuối cùng là nước mắt chảy đầm đìa xuống mặt của chúng ta. Các tế bào hành bị cắt sẽ giải phóng ra hai loại chất hóa học: các phân tử hữu cơ amino acid sulphoxide tạo mùi đặc trưng cho hành và các enzyme, các allinase. Các enzyme chuyển các sulphoxide thành một hợp chất thứ ba, gọi là tổ hợp propanethial - S - oxide khiến mắt bạn bị cay. Trong cơ chế tự vệ của mình, mắt sẽ phản ứng lại bằng cách chảy nước mắt để pha loãng nồng độ của các chất đó. Hoặc ít nhất, nước mắt chảy ra cho đến khi chúng ta không còn dùng ngón tay dính các hợp chất trong hành để chùi sạch nước mắt. Có nhiều cách xử lý được vấn đề khiến bạn “rơi lệ” này, dễ nhất là chẻ hành trong một tô nước vì tô nước sẽ cản hơi bay lên mắt chúng ta. Có người còn khẳng định rằng đặt hành trên một viên đường, chanh hay một mẩu bánh mì cũng rất có tác dụng. 49 45 Điều bí mật của những cái đèn bàn sáng lên khi bị chạm vào là gì? Các đèn cảm ứng cũng giải quyết nhẹ nhàng vấn đề mọi người thường gọi là Nghịch lý Công tắc Điện: trong phòng tối, bạn cần bật đèn lên để tìm ra công tắc bật đèn! Với một cái đèn cảm ứng, bạn chỉ cần có một ý niệm mơ hồ về vị trí mà chúng có thể có, chạm vào bất kì điểm nào trên nó cũng khiến đèn sáng lên. Các đèn này hoạt động nhờ vào các mạch điện, những mạch này cho ra một dòng điện tích nhỏ phủ khắp bề mặt của đèn, dòng điện tích bên trong và bên ngoài đèn giữ nguyên ở một mức ổn định. Khi bạn chạm vào đèn, nó sẽ tự nối mạch với bạn - lúc này đóng vai trò là một vật công suất lớn hơn nhiều - và mạch điện sẽ cảm nhận được sự khác biệt. Các đèn cảm ứng đơn giản sẽ thay đổi trạng thái: mở thành tắt và tắt thành mở khi được chạm vào. 50 46 Tại sao nước lại giãn nở khi ở dưới 40C trong khi hầu hết các chất khác tiếp tục co lại? Sự giãn nở “bất thường” này của của nước khiến cho các ống nước bị nổ trong mùa đông, khi nước đá bên trong chúng có thể tích tăng lên đến chín phần trăm so với thể tích của nước ban đầu. Giống như hầu hết các chất lỏng khác, nước co lại khi bị làm lạnh nhưng khi ở trong khoảng 40C chúng bắt đầu giãn nở, ban đầu thì giãn nở từ từ và khi rất gần 00C thì tốc độ giãn nở vô cùng nhanh. Dưới nhiệt độ đông đặc, nước đá lại co lại giống như các chất rắn bình thường. Sự giãn nở kì lạ này không phải là đặc điểm duy nhất đáng tìm hiểu của nước: việc làm nóng chúng lên cũng khó khăn một cách đáng ngạc nhiên (cần năng lượng gấp mười lần so với một miếng sắt tương đương) và chúng có lực căng bề mặt lớn hơn cả glycerol. Nguyên nhân của tất cả những điều bất thường này nằm ở các liên kết hydro yếu bên trong các phân tử nước dạng chữ V, khiến cho các phân tử nước hình thành các cấu trúc không bền trong trạng thái lỏng. Thông thường nhất là cấu trúc ba chiều do sáu phân tử nước sắp xếp thành. Trong khi các chi tiết đầy đủ vẫn chưa được tìm ra, chúng ta chỉ biết rằng hoạt động của những cấu trúc sáu phân tử là nguyên nhân chính của nhiều đặc điểm kì quái của nước. 51 47 BÍ ẨN CỦA SỰ SỐNG VÀ CÁI CHẾT Có phải khi thời tiết ẩm ướt và lạnh sẽ làm tăng nguy cơ bị cảm lạnh? Dù cho tên gọi của nó là cảm lạnh (được đặt vào năm 1537 trong tập sách chuyên đề của King Henry VIII), dường như không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa chứng cảm lạnh và việc ngoài trời có nhiệt độ thấp. Các nghiên cứu đã được thực hiện để tìm hiểu liệu có phải trời lạnh và ẩm ướt làm giảm khả năng miễn dịch đối với virus cảm lạnh hay không, nhưng kết quả cho ra điều ngược lại. Các nghiên cứu nói lên rằng có thể có một mối liên hệ gián tiếp: Khi bên ngoài trời lạnh chúng ta có khuynh hướng dành nhiều thời gian ở trong nhà hơn, và do đó càng tiếp xúc nhiều với virus từ những người khác. 52 Giáo sư Ronald Eccles, giám đốc Trung tâm Cảm Lạnh Thông Thường của Đại học Cardiff đã cho rằng thời tiết lạnh và ẩm ướt cũng có thể dẫn đến thu hẹp khả năng giữ nhiệt của mạch máu trong lỗ mũi. Cũng có thể vì hệ thống miễn dịch chống bệnh tật của chúng ta bị tổn thương bởi hậu quả của tâm lý khổ sở khi hoàn toàn bị lạnh và ướt. 48 Các viên kẽm có thật sự trị được bệnh cảm lạnh thông thường không? Trong nhiều năm, các nhà khoa học khăng khăng rằng không có cách nào để điều trị bệnh cảm lạnh, đặc biệt là do các virus biến đổi rất nhanh đến nỗi mỗi loại dược phẩm được tạo ra để điều trị chúng đều có khuynh hướng nhanh chóng trở nên vô hiệu. Do một vài nguyên nhân: các đường rãnh phân tử trên bề mặt của các virus cảm lạnh ít bị tác động bởi các đột biến hơn và giữ một vai trò quan trọng trong việc tấn công các tế bào khỏe mạnh. Có một hợp chất có thể ngăn chặn hoạt động của những vùng rãnh phân tử này và nhờ đó có thể chặn đứng cơn cảm lạnh trên đường đi của nó. Đó là kẽm gluconat. Qua nhiều năm, nhiều nhóm nghiên cứu cho là các viên thuốc chứa hợp chất này có thể làm giảm 53 thời gian của bệnh cảm lạnh hay thậm chí có thể làm ngừng sự phát triển của bệnh cảm lạnh một cách hiệu quả. Vấn đề ở đây là không có một chỉ dẫn nào cho biết bệnh cảm lạnh trong mỗi trường hợp sẽ kéo dài bao lâu. 49 Mất bao lâu để tỉnh táo trở lại sau khi uống say? Lâu hơn là đa số mọi người vẫn nghĩ, thật vậy, thật sự rất dễ để uống say một chút trong buổi tối và đến sáng hôm sau vẫn vượt quá giới hạn nồng độ cồn khi lái xe. Có rất nhiều cách để đánh giá tác dụng của thời gian lên mức độ say mà một người cảm thấy hoặc chính xác hơn, trên nồng độ cồn trong máu (BCA). Đối với một người đàn ông nặng trung bình 70 kg cần 3 giờ để tỉnh táo hoàn toàn sau khi uống gần nửa lít bia mạnh vừa (3,5% độ cồn). Ở mức độ đó, bất kì ai với cùng cân nặng uống gấp ba lượng đó trong một buổi tối sẽ không thể hoàn toàn mất hết nồng độ rượu trong máu trong vòng mười lăm giờ cho tới ngày hôm sau. Và họ cũng vẫn có thể bị vuợt quá giới hạn nồng độ cồn cho phép khi lái xe đi làm vào sáng ngày hôm sau. 54 Do BCA tùy thuộc vào lượng cồn trong máu, nên nói một cách đại khái thì cân nặng có tác động chủ yếu đến thời gian cần thiết để lấy lại sự tỉnh táo. Bởi vì trong cơ thể những người to lớn có nhiều nước hơn, có thể pha loãng cồn. Nên một người nam nặng 90kg sẽ tỉnh táo lại nhanh hơn khoảng mười hai phần trăm so với một người nam nặng 70kg uống tương tự. Đối với phụ nữ, họ sẽ lâu tỉnh táo lại hơn nam giới. Thứ nhất, đa số phụ nữ không nặng bằng nam giới và do đó có thể nhận thấy là họ có ít nước trong cơ thể để pha loãng lượng cồn mà họ uống. Thứ hai, họ cũng có mức độ enzyme ADH thấp hơn, đây là loại enzyme có thể phá vỡ cấu trúc của cồn. Kết quả là, một phụ nữ cân nặng trung bình khoảng 55kg sẽ mất khoảng bốn tiếng để tỉnh táo hoàn toàn sau khi uống nửa lít bia (tương đương hai ly rượu vang). Sự khác biệt về cân nặng và sinh hóa này giữa các giới tính cũng có một vài gợi ý thú vị cho phụ nữ, những người khẳng định rằng mình có thể đối chọi được với tửu lượng của bất kì người nam nào. Điều này hoàn toàn có thể được nếu một phụ nữ cân nặng hơn người nam khoảng 15%. Nên, nếu một phụ nữ nặng 55kg muốn gây ấn tượng với người bạn trai mới nặng 70kg của mình bằng cách thể hiện tửu lượng của cô với anh ta thì cô cũng cần gây ấn tượng với anh ấy bằng khả năng ăn uống của mình để tăng cân khoảng 20kg. 55 50 Điện thoại di động có thể khiến cho các khớp nối nhân tạo bị đau không? Một người bị đau ở khớp nối nhân tạo của mình kể từ khi anh bắt đầu để điện thoại di động của mình trong túi quần bên phải, gần kề với khớp nối đó. Tuy anh ấy không xem điện thoại di động là nguyên nhân của tất cả các bệnh tật y khoa, nhưng anh vẫn nghĩ rằng có thể giữa chúng có mối liên hệ nào đó. Điện thoại di động phát ra các vi sóng ngay cả khi chúng đang không được sử dụng để gọi điện nhằm báo hiệu vị trí của chúng cho trạm phát sóng cơ sở gần nhất. Tiến sĩ Michael Clark của Bộ Bảo vệ Bức xạ Quốc gia xác nhận rằng có thể sóng điện thoại di động tạo ra một kích thích rất nhỏ trong các tế bào thần kinh xung quanh khớp nối. Do vậy, để điện thoại trong túi khác có thể giải quyết được vấn đề - mặc dù Tiến sĩ Clark khuyên rằng bất cứ ai có những triệu chứng kéo dài như thế thì nên tham khảo ý kiến của bác sĩ. 51 Liệu phép chữa vi lượng đồng căn có tác dụng không? Ý tưởng về phép chữa vi lượng đồng căn (bắt nguồn từ Hy Lạp có nghĩa là “nỗi đau tương tự”) cách đây hơn 56 2.500 năm theo nhà y học Hippocrates, người cho rằng “bằng những chất tương tự với chất do một căn bệnh sinh ra và bằng việc thêm vào các những thứ tương tự, các bệnh nhân có thể lấy lại sức khỏe từ tình trạng bệnh tật”. Nói nôm na đây là liệu pháp “lấy độc trị độc”, nhưng với lượng thuốc cực nhỏ. Điều đó nghe có vẻ điên rồ cho đến khi một người nhận ra rằng đó là nguyên tắc của tiêm chủng. Góp phần thành công cho ý tưởng đó, một số nhà y học - đặc biệt là nhà y học thế kỉ 18 người Đức Samuel Hahnemann - tự hỏi rằng liệu một ý tưởng tương tự có hiệu quả không cho các bệnh tật không lây nhiễm. Hahnemann tin rằng có một kinh nghiệm ủng hộ cho ý tưởng này, đó là thuốc kí ninh, một loại thuốc trị sốt rét rất hiệu quả trích từ vỏ cây canh-ki-na. Tuy nhiên, Hednemann vấp phải vấn đề: đó là một liều lượng quá cao sẽ gây hại. Vì vậy, ông đã hòa tan và lắc các chất trích từ cây canh-ki-na và thực hiện phép chữa bệnh đồng căn trái ngược với khoa học thông thường, do ông khẳng định rằng, lượng dung môi càng lớn, thuốc càng hiệu nghiệm. Phát hiện này của ông không chỉ đơn thuần là một nghịch lý mà trong nhiều trường hợp, mức độ của dung môi không chỉ là phân tử đơn do chất ban đầu được trích ra còn lại. Trong khi giới khoa học nghi ngờ hiệu quả dung môi và than thở về việc thiếu các lời giải thích rõ ràng, dân chúng có vẻ như không nghi ngờ gì phát hiện trên nhưng còn câu hỏi: liệu phép chữa đồng căn có tác dụng không? 57 Cho đến nay, hiểu biết về kĩ thuật gây mê vẫn rất nghèo nàn nhưng chưa có nhà khoa học nào bác bỏ việc sử dụng nó trước khi phẫu thuật. Điều đó nói lên rằng, chúng ta chắc chắn đúng khi yêu cầu những chứng cứ xác đáng hơn về hiệu quả của liệu pháp vi lượng đồng căn chứ không chỉ đơn thuần là những giai thoại. Các nghiên cứu về liệu pháp vi lượng đồng căn không phải là ít: có hàng trăm nghiên cứu trong các tài liệu y khoa. Đáng buồn là, chất lượng của chúng thường kì cục và không thể đưa ra một kết luận chắc chắn. Kết quả thường không chính xác do thí nghiệm không phải là “thí nghiệm mù kép” (cả các bệnh nhân và bác sĩ điều trị cho họ đều không biết ai là người nhận liệu pháp trị bệnh thật và ai là người chỉ được điều trị bằng tâm lý). Các nghiên cứu chống đối, ngược lại thường rất nhỏ, họ thường ít có cơ hội để phát hiện ra bất cứ thứ gì ngoại trừ sự ấn tượng mạnh về tính hiệu quả của liệu pháp. Vào tháng 3 năm 2003, một khảo sát chính yếu trong Annals of Internal Medicine kết luận rằng chứng cứ về hiệu quả của liệu pháp vi lượng đồng căn còn rất thiếu thuyết phục trong hầu hết các trường hợp và không nên sử dụng nếu có một giải pháp thay thế khác. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu vẫn xem xét dùng nó chữa cho một vài loại bệnh, đặc biệt là dị ứng và tiêu chảy ở trẻ em, hiện nay có nhiều chứng cứ chứng minh rằng nó rất hiệu quả. Nếu sử dụng phép chữa vi lượng đồng căn 58 rộng rãi, chắc chắn rằng phe ủng hộ và phe hoài nghi còn tranh luận dài dài. 52 Thuốc kháng sinh diệt trừ vi khuẩn như thế nào? Đa số thuốc kháng sinh được chế tạo từ các chất hóa học tạo ra bởi vi khuẩn và nấm để tấn công những sinh vật khác: đó là penicillin và dẫn xuất của nó từ nấm Penicil lium, và tetracycline được sinh ra từ vi khuẩn Streptomyces. Thuốc kháng sinh tấn công vi khuẩn bằng nhiều cách. Một số thuốc kháng sinh chứa penicil lin xen vào các protein liên kết với thành tế bào của vi khuẩn, làm cho chúng yếu đi. Những thuốc kháng sinh khác gây trở ngại cho việc sản xuất các protein thiết yếu bên trong vi khuẩn, hoặc tấn công ở một mức độ cơ bản hơn như ngăn cản quá trình tạo gen. Chọn lọc tự nhiên dẫn đến một vài vi khuẩn đạt được các đột biến cho phép chúng chịu đựng được sự tấn công của một vài loại thuốc kháng sinh. Ví dụ, loại vi khuẩn rất đáng sợ Staphylococcus tạo được một loại enzyme ngăn chặn penicillin chỉ trong vòng bốn năm sau khi “phương thuốc kì diệu” này được đưa ra. 59 53 Tại sao sự lên cơn động kinh thường diễn ra vào những lúc trăng tròn? Mốt liên hệ giữa sự lên cơn động kinh và các giai đoạn của mặt trăng có một lịch sử dài và mọi nghiên cứu thường thấy khác khẳng định rằng có thể chứng minh được mối liên hệ đó đều chỉ là lời quảng cáo. Tất nhiên, điều mà mọi người chưa được nghe tới là tất cả những nghiên cứu đã thất bại trong việc tìm ra một mối liên hệ giữa chúng và hiện nay mọi người đều nhất trí rằng đó vẫn là điều bí ẩn. 54 Cái gì gây ra sự xóc hông khi chạy? Các nhà khoa học về sức khỏe ngày nay đặt tên nó là Cơn đau cơ bụng thoáng qua liên quan đến luyện tập (ETAP), tên gọi này nghe có vẻ rất ấn tượng nhưng không thể giải thích chính xác điều gì và nguyên nhân gây ra xóc hông vẫn còn nhiều điều bí ẩn. Các sách vở y khoa có khuynh hướng quy các cơn đau do sự thiếu máu cục bộ ở lục phủ ngũ tạng - đó là máu cấp cho các cơ ở ngực và bụng trong suốt quá trình luyện tập chưa phù hợp - nhưng lý do căng các dây chằng trong vùng này có vẻ là một lời giải thích dễ chấp nhận hơn. 60 Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng xóc hông thường tác động nhiều nhất tới vận động viên bơi lội và điền kinh, và cho rằng đau xóc hông có liên hệ với sự vận động lặp lại của thân trên. Các nhà nghiên cứu ở đại học Otago chỉ ra rằng uống 0,7 lít nước trước khi chạy sẽ gây nên xóc hông, rõ ràng là khối lượng của chất lỏng kéo các cơ của lục phủ ngũ tạng. Điều đáng vui cho những vận động viên điền kinh có sức chịu đựng dai là các nhà nghiên cứu cũng tìm ra vài cách để điều trị chứng xóc hông: uốn người về trước trong khi làm căng các cơ bụng, làm căng thắt lưng hoặc mím chặt môi và thở thật sâu. Nhưng có lẽ không chạy là cách tốt nhất để khỏi bị xóc hông. 55 Điều gì xảy ra với thức ăn được chiếu bức xạ? Ý tưởng sử dụng tia bức xạ để giết các vi sinh vật nguy hại và tăng thời gian tươi của thức ăn đã được có khoảng 100 năm nay. Hiện nay, khoảng bốn mươi quốc gia đã phê chuẩn việc dùng tia bức xạ để xử lý thực phẩm từ trái cây và ngũ cốc đến tôm cua và gia cầm. 61 Hàng trăm nghiên cứu về hiệu quả của việc chiếu bức xạ vào thực phẩm đã được thực hiện và Tổ chức Y Tế thế giới đã tuyên bố rằng quá trình chiếu bức xạ là rất hiệu quả và không có hậu quả độc hại nào. Ở Anh, pháp luật hiện hành cho phép sự chiếu bức xạ lên bảy danh mục thực phẩm, nhưng bạn vẫn khó mà tìm thấy một loại nào trên các kệ hàng trong các siêu thị ở Anh, bởi vì không có công ty nào hoạt động ở Anh có được giấy phép cần cho thực phẩm chiếu bức xạ ngoại trừ các loại thảo mộc và gia vị. Có lẽ, những nhà hoạt động thương mại nghĩ rằng người tiêu sẽ không đụng đến những thực phẩm mang một nhãn hiệu liên quan đến thảm họa Chernobyl và Hiroshima. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng người tiêu dùng hoàn toàn vui vẻ mua thực phẩm chiếu bức xạ khi được nói rõ về những nguy cơ và lợi ích tương ứng. Một vài năm trước, một quầy bán lẻ thực phẩm nhỏ ở Chicago đã bán trái cây bình thường và trái cây được chiếu bức xạ cạnh nhau cùng với nhãn hiệu ghi rõ và lời quảng cáo rộng rãi, và tỉ lệ trái cây đựơc chiếu bức xạ được bán ra với so với trái cây bình thường là 9:1. 56 Tại sao muỗi không thể truyền bệnh AIDS? Do muỗi chắc chắn truyền nhiều căn bệnh chết người bởi virus như bệnh sốt vàng da và sốt xuất huyết, ý nghĩ cho rằng chúng có thể đóng một vai trò trong việc làm 62 lan rộng bệnh HIV hợp lý kinh khủng. Nó đã là mối quan tâm thật sự của các nhà khoa học trong thời kì đầu của dịch AIDS, nhất là khi có những câu chuyện đồn đại về việc muỗi gây lây lan AIDS trong một cộng đồng ở nam Florida. Rất may, các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chứng minh rằng bất kì virus HIV nào có trong bữa ăn bằng máu của muỗi đều bị phá hủy bởi các enzyme tiêu hóa của côn trùng và không thể đi qua tuyến nước bọt của muỗi để chích vào nạn nhân kế tiếp của nó. Điều này giải thích tại sao hơn hai mươi năm kể từ đại dịch HIV, sự lan rộng của ăn bệnh không liên quan đến việc truyền bệnh do muỗi hoặc bất kì loài côn trùng nào. 57 Tại sao các loại nước rượu pha trộn với nhau thường gây cảm giác bị khó chịu nặng sau khi uống? Dư vị khó chịu là hậu quả của một phản ứng hóa học kép. Đầu tiên, cồn tác dụng với các chất được giải phóng ra từ hormone chống đi tiểu vasopressin, dẫn đến việc bạn đi vệ sinh rất nhiều lần. Cứ mỗi một ly rượu vang uống vào, một người có thể bị mất đi một lượng nước nhiều hơn 63 2 đến 3 lần lượng rượu đó. Từ đó dẫn đến tình trạng mất nước làm gia tăng nồng độ các độc tố chứa trong rượu (ethanol). Những độc tố này chứa các “đồng bọn” như methanol sinh ra trong suốt quá trình chế biến và tạo cho thức uống mùi, vị và tính chất đặc trưng của nó. Cho nên khả năng dẫn đến một cảm giác rất khó chịu là hiển nhiên. Nói một cách đại khái, rượu có màu càng tối thì càng chứa nhiều “đồng bọn” độc tố và càng gây đau khi uống quá nhiều. Đứng đầu là cognac, tiếp theo là rượu vang đỏ, rum, whisky, vang trắng, gin và vodka. Lời khuyên không nên trộn rượu nho với rượu làm từ lúa mạch rất đúng: chỉ riêng bản thân mỗi thứ rượu sẩm màu trên cũng đủ nặng rồi, hòa trộn chúng với nhau sẽ dẫn đến những phản ứng chéo và gây đau nhiều hơn. Để điều trị sự khó chịu, việc uống nước cùng với rượu cũng có hiệu quả rất tốt. Sau khi uống rượu, thì thuốc giảm đau cũng có thể giúp giảm đau. Tuy nhiên, tránh dùng thuốc giàm đau nếu bạn cảm thấy buồn nôn vì chúng có thể gây loét bao tử nhiều hơn. Một vài nhà khoa học cũng cho rằng vitamin B6 có thể giúp ích. Cuối cùng, cách trị say được chứng minh duy nhất là thời gian. 58 Có chứng cứ nào cho thấy người ăn chay khỏe mạnh hơn người ăn mặn không? Các nhà khoa học có một thói quen là đáp lại những câu hỏi ngớ ngẩn với một bài thuyết giảng rằng việc đó 64 phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà một người có thể tưởng tượng. Trong vấn đề chế độ ăn, họ đã làm đúng. Đầu tiên, ta phải phân biệt giữa những người ăn chay có ăn cá và người ăn chay hoàn toàn về một bên, còn những người ăn cả đống hamburger béo và người đôi khi ăn thịt gà về một bên. Các chứng cứ dịch tễ học luôn vững chắc tới kinh ngạc: người ăn chay có khuynh hướng sống lâu hơn người ăn mặn, hầu hết là vì họ có tần suất mắc bệnh thấp hơn về nhiều dạng bệnh ung thư và bệnh tim mạch. Mức độ lợi ích thì thật ấn tượng. Một nghiên cứu trong 12 năm trên gần 2.000 người ăn chay bởi Trung tâm nghiên cứu ung thư của Đức (German Cancer Research Centre) phát hiện rằng tần suất chết do tất cả các nguyên nhân chỉ bằng một nửa so với dân số, với tần suất bệnh tim mạch và bệnh ung thư bị cắt giảm tới hai phần ba và một phần hai cho mỗi bệnh. Những người ăn chay nhìn chung thường sống lành mạnh hơn trong mọi chuyện: họ ít hút thuốc hơn, ít say xỉn hơn, ít ngồi lì hơn so với những người ăn mặn. Thật đáng tiếc, những nghiên cứu so sánh giữa người ăn chay và người ăn thịt cho tới hiện giờ vẫn chưa thể chứng tỏ 65 liệu có phải những lối sống như vậy lại quan trọng hơn là chế độ ăn. Có một số lí do sinh hóa rất tốt để tin rằng chế độ ăn chay là hiệu quả, ít ra là phần nào đó. Các phân tích của chế độ ăn chay có dinh dưỡng tốt chứng tỏ rằng họ ít ăn cholesterol hơn, chất gây nghẽn mạch trong các bệnh tim mạch. Chế độ ăn chay cũng thường nhập vào một lượng chất antioxidant cao hơn, giúp bảo vệ tế bào khỏi những tổn thương gen có thể dẫn tới ung thư. Tuy nhiên, những chứng cứ mạnh để ủng hộ cho lí thuyết có vẻ hợp lý này vẫn chưa xuất hiện. Kết quả cuối cùng: vẫn còn mối nghi ngờ rằng các yếu tố kinh tế xã hội có trách nhiệm chính cho lợi ích sức khỏe của người ăn chay. 59 Có phải phụ nữ thường sống lâu hơn đàn ông? Các nghiên cứu gần đây cho rằng phụ nữ duy trì được một hệ miễn dịch phòng chống bệnh tật thật mạnh lâu hơn đàn ông. Tuy nhiên, cách giải thích được chấp nhận rộng rãi nhất là do đàn ông thường phải tiếp xúc với những việc nguy hiểm tới tính mạng - ít nhất là ở những nước mà việc sinh con hiện giờ đã tương đối an toàn cho bà mẹ. 66 60 Việc tư vấn sau một chấn động tâm lý có thực sự ích lợi không? Các báo cáo gây xúc động mạnh trong cộng đồng về các bi kịch thường được kết thúc bởi một phóng viên ảm đạm phát biểu: “Các nạn nhân đang được đề nghị tư vấn”. Vậy việc tư vấn có thực sự mang lại lợi ích? Vào năm 2002, tạp chí y khoa Lancet đã đăng một báo cáo của các nhà nghiên cứu ở đại học Amsterdam, những người đã rà soát các tài liệu khoa học cho các nghiên cứu về việc người ta sẽ ra sao sau khi được đề nghị tư vấn “trong một buổi”, tại đó những nạn nhân được khuyên bảo về những tác động tâm lý họ có thể gặp phải trong những ngày sắp tới. Các nhà nghiên cứu đã không thể tìm được bất kì chứng cứ nào rằng việc cảnh báo trước như vậy là có lợi. Vào năm 2003, bác sĩ Suzanna Rose và các đồng nghiệp tại văn phòng tư vấn tâm lý Berkshire đã xem xét lại kết quả của các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát của các ca tư vấn sau chấn động tâm lý (các thử nghiệm như vậy thường được đánh giá là cách đáng tin nhất để tìm ra cái gì thật sự tốt và cái gì không). Họ phát hiện được ba thử nghiệm đã chứng tỏ lợi ích, sáu thử nghiệm không có lợi ích và hai thử nghiệm làm cho mọi việc còn tệ hại hơn. Điều đáng chú ý là các thử nghiệm sau cũng là những thử nghiệm đã quan sát nạn nhân trong thời gian dài nhất. Vậy liệu có phải tất cả các ca tư vấn đều sẽ trở nên tệ hại về lâu dài? 67 Người ta vẫn còn nghi ngờ là liệu các ca tư vấn đó có làm cho người được tư vấn dễ bị ám thị và sau đó cứ cho rằng họ có các triệu chứng mà họ đã được báo trước. Do đó, trong khi chưa có gì chứng minh lợi ích của việc tư vấn sau chấn động tâm lý thì cũng không nên quá phụ thuộc vào việc tư vấn. 61 Thực phẩm béo có thật sự gây ra mụn trứng cá không? Mụn trứng cá bị gây ra do các hormone (chủ yếu là testosterone) kích thích quá mức sự sản xuất chất béo của da, làm cho các lỗ chân lông bị lấp đầy. Do đó, mặc dù chất béo có rất nhiều mối liên hệ với mụn trứng cá nhưng chất béo trong thực phẩm thì lại không thực sự có liên quan. Ngược lại, người ta ngày càng nghi ngờ rằng chế độ ăn nhiều chất béo còn có thể giúp giảm mụn, bằng cách giảm lượng carbonhydrate nhập vào. Đường và các chất carbonhy drate tinh chế (như bánh mì và ngũ cốc) dẫn đến sự tăng cao của insulin vì cơ thể phải cố khống chế sự quá tải đường. Quá trình này có thể làm tăng nồng độ các hormone gây ra mụn. Các dữ liệu ủng hộ cho 68 mối liên kết giữa mụn và carbonhydrate đến từ một nghiên cứu gần đây của một nhóm tại đại học bang Colorado. Họ đã so sánh da của những người sống bằng một chế độ carbonhydrate thấp ở Papua New Guinea và Paraquay với những người phương Tây. Họ không phát hiện được một ca mụn trứng cá nào ở những người có chế độ carbonhydrate thấp, trong khi gần một nữa đàn ông và phụ nữ trên 25 tuổi ở phương Tây lại bị mụn. 62 Cách tốt nhất để tránh mệt mỏi sau khi đi máy bay là gì? Một người bạn của tôi phải bay 100 ngàn km mỗi năm và anh ấy rất tin tưởng chất melatonin, một hormone được giải phóng bởi tuyến tùng, giúp cơ thể biết được hiện tại là giờ nào trong ngày. Bằng cách uống melatonin trong vài ngày sau chuyến bay, anh ấy dường như đã khỏe mạnh hẳn lên với một tốc độ thật ấn tượng. Theo các kết quả nghiên cứu được xuất bản năm 2003 trên tờ báo y khoa British Medical Journal của bác sĩ Andrew Herxheimer tại trung tâm Cochrane và bác sĩ Jim Waterhouse tại đại học Liverpool John Moores, họ đã khẳng định rằng hiện giờ họ đang có các chứng cứ rằng uống 2 - 5mg melatonin vào giờ ngủ tối sau chuyến bay là có hiệu quả và ta nên tiếp tục lặp lại liều đó trong hai tới bốn ngày nữa. Thật không may, mặc dù melatonin có thể được mua 69 trong siêu thị tại Hoa Kỳ, người ta vẫn chưa thể mua nó tại Anh mà không được kê toa bởi bác sĩ. Điều này lại dẫn đến một câu hỏi là liệu có còn những phương pháp khác để làm giảm tác động mệt mỏi do vượt múi giờ hay không. Herxheimer và Waterhouse đã chỉ ra rằng đồng hồ sinh học của ta còn có thể bị tác động bởi những dấu hiệu của môi trường bên ngoài, đặc biệt là cường độ ánh sáng. Sau một chuyến bay về hướng Tây, họ khuyên rằng ta hãy ráng thức trong ban ngày, ngủ một giấc ngắn nếu thật sự cần thiết để đảm bảo rằng ta sẽ ngủ thật sâu sau khi trời đã tối. Sau một chuyến bay về hướng Đông, họ khuyên rằng ta nên thức nhưng hãy tránh ánh sáng mạnh buổi sáng sớm và ra ngoài trời thật nhiều vào buổi trưa. Trong bất kì chuyến bay nào, họ đề nghị nên ăn những thực phẩm giàu chất xơ, chẳng hạn như táo và hãy uống nhiều nước lọc hay nước trái cây thay vì trà hay cà phê. Thời gian của chuyến bay và số múi giờ vượt qua đương nhiên là quan trọng trong việc xác định ta cảm thấy mệt mỏi tới mức nào sau khi đến nơi. Bay về hướng Đông dường như ít mệt mỏi hơn hướng Tây. Đồng thời, thời điểm khởi hành và tới nơi cũng tác động rất lớn tới sự mệt mỏi. Khi lựa chọn giờ bay, hãy luôn ghi nhớ rằng việc khởi hành từ 10 giờ tối đến 1 giờ khuya 70 hay tới nơi vào khoảng từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa là đặc biệt dễ gây mệt mỏi. Giờ tốt nhất để khởi hành là từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa còn giờ đến nơi là từ 6 giờ chiều đến 10 giờ tối. 63 Tại sao dịch dạ dày không tiêu hóa luôn cả dạ dày? Nếu cho nó một cơ hội, nó sẽ thật sự tiêu hóa được dạ dày. Dạ dày sử dụng một dạng hydrochloric acid khá mạnh để giết những vi khuẩn được ăn vào và chỉ có một lớp mỏng chất nhầy ngăn cản acid tấn công vào chính dạ dày. Nếu lớp màng này không toàn vẹn - hầu hết là do trực khuẩn kháng acid Helicobacter pylori - dạ dày sẽ bị viêm, kế đến là một vết loét trong đường tiêu hóa và thậm chí là một biến chứng chết người như thủng dạ dày. 64 Cái gì làm cho các vết bầm có màu đặc biệt như thế? Sau khi mô mềm bị va chạm mạnh, vị trí tổn thương sẽ bắt đầu đỏ lên, rồi trở nên xanh đen và tím. Sau một tuần, những vết màu xanh lá đầu tiên bắt đầu xuất hiện, 71 tiếp đến là những vết màu vàng và màu nâu. Có thể phải mất gần nửa tháng để toàn bộ vết bầm biến mất. Những biểu hiện này là kết quả của một loạt những phản ứng hóa học phức tạp. Màu đỏ khởi đầu là kết quả của máu tươi giàu oxygen bị rỉ ra từ những mao mạch bị nghiền vỡ. Sau khoảng 48 giờ, máu bị ứ đọng này không thể giữ được oxygen nữa và khiến nó trở nên sẫm màu hơn, vùng bị thương thì trở thành tím, xanh dương hay thậm chí là đen nếu lượng máu ứ đọng đủ lớn. Trong vài ngày tiếp theo, khi cơ thể bắt đầu phá vỡ các tế bào máu ứ đọng, màu này lại một lần nữa chuyển đổi, trở thành màu xanh lá hay vàng. Sau đó gần một tuần, việc phá vỡ gần như đã hoàn thành và vết bầm bắt đầu mờ đi. 65 Đọc sách trong ánh sáng yếu có làm tổn thương mắt không? Một số thí nghiệm trên động vật cho thấy nếu mắt không được tiếp xúc với ánh sáng trong giai đoạn đầu đời thì chúng sẽ dễ bị cận thị hơn, mặc dù không ai biết tại sao. Vì đôi mắt của một đứa trẻ vẫn đang phát triển hình dạng cho tới tận ba tuổi, ánh sáng yếu có thể 72 sẽ dẫn đến các khiếm khuyết thị giác về sau này. Nhưng bởi vì có quá hiếm những đứa bé ở tuổi đó phải đọc sách hàng giờ dưới ánh đèn nên điều này thật khó mà xảy ra được. Ánh sáng có thể không có tác động tai hại nào tới tầm nhìn, các chứng cứ có tính quyết định vẫn còn thiếu và do đó vẫn chưa có gì chứng minh được đọc sách trong ánh sáng yếu lại bị cận thị. 66 Có đúng là nồi nhôm có thể gây ra bệnh Alzheimer không? Những dấu hiệu đầu tiên của khả năng có mối liên hệ giữa nhôm và bệnh Alzheimer đã nổi lên vào năm 1965, theo kết quả của những thí nghiệm ở thỏ: thỏ được tiêm các hợp chất nhôm sẽ phát triển các cấu trúc rối trong tế bào thần kinh của chúng. Mối liên hệ càng rõ hơn vào những năm 1980, khi các nghiên cứu về bộ não của những người già bị chết do bệnh Alzheimer đã phát hiện được sự hiện diện của nhôm. Điều này đã dẫn đến những nỗi ám ảnh rằng nhôm rỉ ra từ các dụng cụ nấu ăn và đã khiến nhiều người vất bỏ những dụng cụ nhà bếp bằng nhôm của họ đi. 73 Hiện tại, người ta nhất trí rằng nỗi sợ nồi nấu ăn là không có lí do xác đáng. Cơ thể con người rất giỏi đào thải những lượng nhôm thông thường mà nó hấp thu vào. Hơn nữa, các nghiên cứu về những người tiếp xúc với một nồng độ nhôm tương đối cao (qua một vài loại thuốc) đã thất bại trong việc tìm kiếm một mối liên hệ với bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, nỗi sợ đó cũng đã cho chúng ta một lí do để thay thế những chiếc nồi cũ bám rỉ bằng những chiêc nồi thép không rỉ xinh xắn. 67 Cách tốt nhất để đốt cháy calori khi đang trên đường đi làm là gì? Hiển nhiên là sẽ có người chọn cách đi làm khỏe mạnh nhất, đó là chạy bộ đến tận nơi làm việc. Thật may mắn, đối với những người trong chúng ta mà không muốn đến nơi làm việc với một chiếc áo đầy mồ hôi thì vẫn còn một giải pháp. Mặc dù chạy bộ thì có tốc độ đốt cháy calori nhanh hơn đi bộ, chạy bộ cũng sẽ giúp bạn đến nơi làm việc nhanh hơn và do đó thời gian bạn phải chạy bộ cũng sẽ ngắn hơn. Một câu hỏi được phát sinh là: liệu tốc độ chạy cao hơn có giúp tránh khỏi việc có tốc độ đốt cháy năng lượng cao hơn hay không? Câu trả lời là có. Ví dụ, một người 74 nặng 60 kg chạy ở tốc độ 10 km/giờ sẽ đốt cháy khoảng 11 kilocalori/phút, tốc độ đốt năng lượng này gần bằng ba lần tốc độ đốt năng lượng của một người đi 3 km/ giờ. Tuy nhiên, chạy ở tốc độ đó cũng sẽ đưa bạn đến nơi nhanh hơn ba lần. Do đó, nếu nơi làm việc của bạn có một khoảng cách cố định, tổng số calori bị đốt cháy cũng sẽ chẳng có gì khác biệt, dù bạn chạy hay bạn đi. Nếu bạn đã sẵn sàng để chạy hết sức như một vận động viên thì sự tăng độ dẻo dai sung sức của bạn sẽ làm tăng tốc độ chuyển hóa cơ bản của bạn, và bạn sẽ đốt cháy nhiều năng lượng hơn, nhưng tác động này không lớn lắm. Thêm vào một điều là đi bộ sẽ ít tác động mạnh tới khớp hơn, không cần phải tắm lại và không phải là một cuộc thi, do đó bạn nên đi bộ, đừng chạy. 68 Món ăn nào làm bạn tốn nhiều calori hơn cả lượng do nó cung cấp? Giá trị calo của một thực phẩm là một thước đo hàm lượng năng lượng do nó cung cấp và ở cấp độ căn bản, nó phụ thuộc vào số lượng tương đối giữa các nguyên tử carbon, hydrogen và oxygen mà nó chứa. Theo quy luật chung, các thực phẩm nhiều calori có tương đối nhiều carbon và hydrogen 75 hơn so với oxygen, cho chúng nhiều cơ hội hơn để liên kết với oxygen mới và giải phóng năng lượng hóa học. Đây là lí do tại sao chất béo, với tỉ số carbon và hydro gen trên oxygen tương đối cao, có nhiều calori hơn các carbonhydrate đơn giản như đường. Để một loại thực phẩm trở thành nguồn “calori âm”, nó phải cung cấp ít calori hơn lượng dùng để tiêu thụ nó. Thật đáng buồn, không có loại thực phẩm không calori nào: tất cả thực phẩm đều là sự kết hợp của oxygen, carbon và hydrogen, có khả năng giải phóng năng lượng. Do đó, trong cuộc tìm kiếm một loại thực phẩm không calori hay thậm chí là calori âm, cần phải có thêm một chút mẹo vặt. Ví dụ, ta có thể tiêu thụ các thực phẩm mà năng lượng của nó không bao giờ được giải phóng, vì cơ thể không thể phá vỡ chúng. Cellulose là một trường hợp như vậy: một loại carbonhydrate chứa nhiều năng lượng ở một dạng mà con người đã mất khả năng tiêu hóa, do đó nó đã đi qua ruột với lượng calori toàn vẹn. Đây là lí do tại sao các loại rau như cần tây và bắp cải lại có hàm lượng calori thấp như vậy, chỉ từ 10 tới 20 kilocalori trong 100 gram: chúng chứa đầy năng lượng nhưng hầu hết đều ở dạng mà con người không thể phá vỡ và sử dụng. Những thực phẩm này có thể trở thành calori âm nếu năng lượng cần thiết để tiêu hóa chúng vượt quá lượng chúng cung cấp. Người ta thường nói rằng hành động nhai một cây cần tây là đã dùng hết hàm lượng năng lượng của nó. Thực tế, năng lượng của quá trình nhai là rất nhỏ; điều thực sự quan trọng chính là năng 76 lượng được sử dụng trong hoạt động tiêu hóa - “hiệu ứng nhiệt” của thức ăn. Các thí nghiệm gợi ý rằng tiêu hóa một bữa ăn thực vật sẽ đốt cháy khoảng 50 tới 60 kilocalori, do đó một tô xà lách thực chất sẽ cung cấp calori âm; vì nó cho ta ít hơn lượng calori trên. Nhiều calori âm hơn có thể được tạo ra bằng việc tráng miệng với nước uống “ăn kiêng” được làm lạnh. Các chất làm ngọt được sử dụng ở đây có khá nhiều năng lượng nhưng chúng có độ ngọt cực mạnh nên chỉ cần một lượng nhỏ là đủ cho một món uống - do đó chỉ chứa vài calori trong một lon. Còn năng lượng âm sẽ được tạo ra từ một thực tế là một khi ta đã uống nó, chúng ta sẽ tốn khoảng 10 kilocalori để làm ấm chất lỏng tới nhiệt độ cơ thể. Vì thức uống làm lạnh chứa khoảng 3 kilocalori, việc uống nó sẽ cung cấp khoảng 7 kilocalori âm. Bây giờ là tin buồn cho người muốn giảm cân: lượng calori âm mà ta có thể dùng hàng ngày một cách hợp lí thì không quá một vài chục, trong khi ta phải tốn 3.500 kilocalori để đốt hết nửa kg chất béo. Nói cách khác, thực phẩm calori âm có thể tồn tại nhưng chúng không thích hợp cho trận chiến chống bệnh béo phì. 69 Uống bằng những ly pha lê có chì có nguy hiểm không? Pha lê chì là thủy tinh bình thường được làm cho lấp lánh hơn bằng cách thêm vào 20% tới 30% chì oxide. 77 Tính độc của chì đã thúc giục các nhà nghiên cứu tìm hiểu kĩ hơn về tác động tiềm ẩn của nó tới sức khỏe người dùng, thật may là kết quả không mấy đáng lo. Năm 1991, tờ báo y học Lancet đã trình bày một báo cáo của hai nhà nghiên cứu dược lý của đại học Colombia, New York, cho thấy chì có thể rỉ ra từ các bình rượu pha lê, tạo ra một lượng chì có tác hại tiềm ẩn trong rượu và các chất cồn mà chúng chứa đựng. Nhưng còn có trường hợp ngộ độc chì ở những người uống bằng ca thiếc, thứ có chứa từ 10% tới 20% chì. 70 Bệnh phong có lây không? Bệnh phong do trực khuẩn Mycobacterium leprae gây nên và bệnh này hầu như chỉ có ở loài người. Vi trùng phong chỉ sống được trong tế bào người mà thôi, không thể nuôi cấy trong phòng thí nghiệm được. Bệnh phong có khả năng lây nhiễm qua đường không khí, do hít phải vi khuẩn phong, hoặc qua các vết thương, nước từ mũi hay miệng của người bị bệnh phong. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp dạng phong u, dạng có nhiều thương tổn ở da; ngược lại, dạng phong củ thì ít lây hơn nhiều vì hiếm có các thương tổn ở da hơn. Nhưng may mắn là các nghiên cứu đều cho thấy chỉ độ 5% trong chúng ta có khả năng bị nhiễm bệnh phong. 78 Còn lại đều có tính miễn dịch đối với bệnh này, nhờ hệ thống phòng thủ trong cơ thể chúng ta. Hơn nữa, nếu chúng ta tiếp xúc với bệnh nhân phong một cách trực tiếp và lâu dài thì mới có nguy cơ bị lây bệnh. Vi khuẩn bệnh phong sinh sản rất chậm vì vậy thời gian kể từ khi bắt đầu nhiễm vi trùng phong cho tới khi phát hiện dấu hiệu của bệnh thừơng có khi đến 5-10-20 năm. Vậy mới thấy, bệnh phong cũng không dễ lây nhiễm như mọi người nghĩ. Vì vậy cho nên trong các trại phong có rất nhiều bác sĩ và y tá chăm sóc cho bệnh nhân lâu dài mà không bị nhiễm bệnh. 71 Có đúng là ăn cà rốt sẽ tốt cho mắt không? Thỏ chẳng bao giờ bị cận thị vì món ưa thích của nó là cà rốt! Có đúng vậy không nhỉ? Thật ra thỏ có bị cận thị hay không thì chỉ có... thỏ mới biết. Nhưng thực sự là cà rốt có chứa một hợp chất có thể làm tăng sự nhạy bén của mắt. Màu cam của cà rốt là một lời mách bảo về hàm lượng beta-carotene tương đối cao của chúng, một hợp chất hydrocarbon mà khi vào cơ thể sẽ được chuyển 79