🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hãy Trả Lời Em Tại Sao? – Tập 1
Ebooks
Nhóm Zalo
Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTH TP.HCM
Hãy trả lời em tại sao?. T.1 / Đặng Thiên Mẫn d. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009. 192tr. ; 19cm.
1. Khoa học thường thức. 2. Hỏi và đáp. I. Đặng Thiên Mẫn d.
001 -- dc 22
H412
đặng thiền mẫn dịch
hãy trả lời em tại sao? tập 1
arkady keokum
Đặng Thiền Mẫn dịch
Chịu trách nhiệm xuất bản:
ts. quách thu nguyệt
Biên tập:
trí vũ - thu nhi
Xử lý bìa:
bùi nam
Sửa bản in:
trí vũ - thu nhi
Kĩ thuật vi tính:
vũ phượng
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161B Lý Chính Thắng - Quận 3 - Thành phố Hồ Chí Minh ĐT: 39316289 - 39316211 - 38465595 - 38465596 - 39350973 Fax: 84.8.38437450 - E-mail: nxbtre@ hcm.vnn.vn Website: http://www.nxbtre.com.vn
Chi nhánh nhà xuất bản trẻ tại Hà Nội 20 ngõ 91, Nguyễn Chí Thanh, Quận Đống Đa - Hà Nội ĐT & Fax: (04) 37734544
E-mail: vanphongnxbtre@ hn.vnn.vn
4
Chương 1
Thế giới chúng ta
1
Vũ trụ lớn cỡ nào?
Trí khôn của loài người không thể hình dung đúng được tầm vóc của vũ trụ. Chẳng những không thể biết mà ngay cả hình dung ra nó lớn bằng nào cũng đã là khó rồi.
Xuất phát từ trái đất, ta sẽ thấy tại sao lại như vậy. Trái đất là một phần - và cũng chỉ là phần nhỏ li ti mà thôi - của hệ mặt trời bao gồm mặt trời, các hành tinh xoay quanh nó, các tiểu hành tinh và các thiên thể khác. Toàn thể hệ mặt trời “của chúng ta” cũng chỉ là một phần - và cũng chỉ là một phần nhỏ tí ti mà thôi - của một hệ thống khác lớn hơn gọi là thiên hà (hay dải ngân hà). Thiên hà là một hệ thống gồm hàng triệu các vì sao, trong đó có nhiều vì sao lớn hơn mặt trời “của chúng ta” bội phần. Và các vì sao này cũng có hệ mặt trời riêng của nó.
Các vì sao mà ta thấy trong
thiên hà “của chúng ta” cũng đều
là những mặt trời cả. Chúng ở cách
xa chúng ta đến nỗi không thể
5
dùng đơn vị đo chiều dài thông thường như dặm (mile) hay kilomet (km) mà phải dùng đơn vị “năm ánh sáng”. Để hiểu được một năm ánh sáng dài bao nhiêu km, bạn hãy cứ lấy 300.000 km nhân với số giây trong một năm. Nếu bạn thích thích thì con số ấy được biểu diễn bằng toán học như thế này: 9.461x1012 km. Bạn tính ra đi. Ngôi sao gần trái đất nhất tên là Alpha centauri - xin nhắc lại, gần trái đất nhất - cũng ở cách ta 4,3 năm ánh sáng.
Thiên hà “của chúng ta” có hình dạng và kích thước bằng nào? Nó có hình cái dĩa, hơi phình ở trung tâm, có đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng và bề dày ở trung tâm khoảng 20.000 năm ánh sáng. Tuy nhiên dải thiên hà “của chúng ta” cũng lại chỉ là một phần tí ti của một hệ thống khác lớn hơn. Ngoài hệ thống thiên hà “của chúng ta” còn triệu triệu hệ thống thiên hà khác nữa...
Bởi vậy ta mới hiểu tại sao ta không thể nào hình dung được tầm cỡ của vũ trụ. Đã thế, các nhà khoa học còn cho rằng vũ trụ đang “nở” rộng. Có nghĩa là chỉ trong vài tỷ năm thì hai thiên hà có thể dang xa nhau ra một khoảng cách gấp hai lần khoảng cách trước đó.
2
Tại sao hệ mặt trời
được cấu trúc như hiện nay?
Như ta biết không nhất thiết hệ mặt trời phải có cấu trúc như hiện nay. Nó có thể được sắp xếp theo kiểu khác
6
lắm chứ. Trong vũ trụ, có nhiều
hệ mặt trời có sự sắp xếp khác
với hệ mặt trời “của chúng ta”.
Sự sắp xếp của mỗi hệ mặt trời
- kiểu này, kiểu kia - tùy thuộc
lúc ban đầu.
Loài người đã phát kiến ra
vài quy luật theo đó đã khiến
cho hệ mặt trời “của chúng ta” được sắp xếp theo kiểu hiện nay. Trái đất cũng như những hành tinh khác di chuyển theo quỹ đạo quanh mặt trời. Thời gian cần thiết để trái đất quay đủ một vòng quanh mặt trời là một năm. Những hành tinh khác trong hệ mặt trời có quỹ đạo lớn hơn hoặc nhỏ hơn quỹ đạo trái đất. Các nhà thiên văn chưa giải thích một cách thỏa đáng sự hình thành của mặt trời cũng như bằng cách nào các hành tinh lại có tầm cỡ đó, ở vị trí đó, theo quỹ đạo đó. Các nhà bác học đã đưa ra nhiều giả thuyết nhằm giải thích các hiện tượng đó. Tuy nhiên, có thể quy các giả thuyết đó thành hai nhóm.
Nhóm giả thuyết thứ nhất cho rằng các hành tinh là một phần của sự thay đổi lần lần của mặt trời từ một khối hơi nóng tự xoay quanh mình mà có có tầm vóc và độ sáng như hiện nay.
Nhóm giả thuyết thứ hai cho rằng vào thời rất xa xưa, có một ngôi sao nào đó tình cờ bay sớt ngang mặt trời, làm cho vài mảnh mặt trời bắn văng ra, sau đó các mảnh này
7
tiếp tục chuyển động xoay quanh mặt trời, rồi từ từ nguội đi và thành các hành tinh.
Bất kể nhóm giả thiết nào đúng thì cũng có thể nói hệ mặt trời được sắp xếp như hiện nay cũng là do ít nhiều may mắn. Tại sao hệ mặt trời lại được sắp xếp như vậy? Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh phát biểu rằng: “Quỹ đạo của mỗi hành tinh là một hình bầu dục mà mặt trời là một tiêu điểm” và rằng “hành tinh chuyển động nhanh hơn khi nó ở gần mặt trời và chậm hơn khi nó ở xa”. Nghĩa là có tương quan tỷ lệ giữa khoảng cách và thời gian giữa vị trí của mặt trời và của hành tinh. Định luật Newton về vạn vật hấp dẫn giải thích hai vật hấp dẫn nhau như thế nào.
Với các định luật nêu trên, ta có thể hiểu được tại sao hệ mặt trời lại được sắp xếp như vậy.
Cái gì khiến mặt trời tỏa sáng và 3
tỏa nhiệt?
Nhìn ngôi sao ban đêm và mặt trời ban ngày, ta khó mà tin được đó là cùng một loại thiên thể.
Mặt trời đích thị là một ngôi sao, ngôi sao gần trái đất nhất. Có thể nói đời sống vạn vật trên trái đất lệ thuộc chặt chẽ vào mặt trời. Không có sức nóng của mặt trời, sự sống không thể khởi phát được. Mà dầu cho có khởi phát được thì cũng không thể tồn tại được. Không có ánh sáng mặt trời thì làm gì có cây cỏ. Nếu như không có cây cỏ thì loài
8
người, loài vật lấy gì mà ăn? Mặt trời ở cách xa trái đất khoảng 149.500.000 km. Thể tích mặt trời lớn hơn 1,3 triệu lần thể tích trái đất. Điều thú vị là mặt trời chỉ là khối hơi khổng lồ chớ không phải là thể rắn như trái đất. Bằng cách nào dám quả quyết mặt trời chỉ là một khối hơi? Nhiệt độ bề mặt của mặt trời vào khoảng 6.5000C. Nhiệt độ này chẳng những đủ để làm nóng chảy mà còn làm bốc hơi bất cứ thứ kim loại, hoặc thứ đá nào.
Vậy mặt trời là một khối hơi không phải là một khẳng định võ đoán đâu.
Thời trước các nhà khoa học cho rằng sở dĩ mặt trời tỏa sáng tỏa nhiệt là nhờ đốt cháy nguyên liệu gì đó. Nhưng đâu phải mặt trời mới chiếu sáng và tỏa nhiệt mới vài triệu năm trước đây mà nó đã như vậy hàng trăm triệu năm rồi. Vậy thì nguyên liệu chất chứa ở đâu mà lôi ra đốt dữ vậy? Ngày nay các nhà khoa học tin rằng nhiệt và quang của mặt trời là kết quả của quá trình giống như quá trình xảy ra khi nổ bom nguyên tử, nghĩa là quá trình vật chất biến thành năng lượng.
Hiện tượng biến đổi này khác với hiện tượng đốt cháy. Đốt cháy là vật chất từ dạng này biến thành dạng khác. Thí dụ củi biến thành tro chẳng hạn. Nhưng khi vật chất biến thành năng lượng thì chỉ cần rất ít cũng có thể biến thành năng lượng khổng lồ. Một ounce (tức 28,35 gram) vật chất có thể tạo ra một năng lượng đủ để làm tan chảy một triệu tấn đá.
9
Vậy, nếu giả thiết này đúng thì mặt trời thường xuyên phát quang và tỏa nhiệt từ hồi nào tới giờ nhưng đâu có hao hớt gì bao nhiêu khối lượng của nó. Người ta ước tính rằng chỉ dùng chưa tới một phần trăm khối lượng của mình, mặt trời có thể liên tục phát quang và tỏa nhiệt trong vòng 150 tỷ năm.
4
Trái đất làm bằng gì?
Câu trả lời khái quát nhất cho câu hỏi này có lẽ là: trái đất là một quả banh hầu như làm bằng đá... Xin nói rõ: đá xanh chứ không phải nước đá đâu. Bên trong lòng trái đất đá nóng chảy nhưng vỏ ngoài thì đông đặc. Chưa tới một phần ba bề mặt trái đất là lục địa, phần còn lại được bao phủ bằng nước.
Đi sâu vào chi tiết hơn nữa ta sẽ thấy bề mặt trái đất có lớp vỏ hơi gồ ghề làm bằng đá dày vào khoảng từ 20 đến 50 km. Lớp vỏ mỏng này gọi là thạch quyển. Phần nổi của cái vỏ này là các lục địa và hải đảo, thấp hơn một chút là lớp nước của các đại dương, biển, hồ... Lớp nước này gọi là “thủy quyển”. Con người mới chỉ khảo sát được sơ sơ phía ngoài cùng của cái vỏ đá địa cầu mà thôi. Nếu đào sâu vào lòng đất - mặc dù đã phải sử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất - vài ba km cũng đã là một công trình khó khăn lắm lắm đối với con người. Nhưng cũng chưa phải là cái gì ghê gớm lắm đâu. Vì so với bề dày của vỏ trái đất thì lỗ khoan đó chưa thấm tháp gì.
10
Sợ chưa bằng vết trầy trên da người ta nữa. Tuy nhiên, có điều này đáng để ý: càng đào sâu vào lòng đất thì nhiệt độ càng tăng. Đào sâu vào khoảng 3 km thì nhiệt độ ở đó đã đủ để đun nước sôi rồi.
Các nhà khoa học vẫn có thể nghiên cứu, khảo sát lòng trái đất thông qua cơ chế động đất. Họ tin rằng ở dưới sâu trong lòng đất nhiệt độ có tăng nhưng không tăng lẹ như ở phía ngoài gần vỏ. Vì vậy, họ cho rằng ở nhân - hay trung tâm trái đất - nhiệt độ không quá 55000C. Tất nhiên, nhiệt độ này cũng là quá cao rồi, bởi vì mới ở chỉ khoảng 22000C thì đá đã nóng chảy rồi.
Vỏ ngoài của trái đất gồm hai lớp. Lớp ngoài cùng tức là các lục địa chủ yếu được cấu tạo bằng đá hoa cương (granite). Dưới lớp đá hoa cương là lớp đá rất cứng gọi là đá badan (basalt). Theo các nhà khoa học thì trung tâm trái đất là trái banh khổng lồ làm bằng sắt nóng chảy có đường kính vào khoảng 6500 km. Nằm lót giữa trung tâm này và lớp vỏ đá là một lớp bao gọi là “manti” (mantle) dày vào khoảng 3200 km. Bao “manti” có lẽ là một loại đá gọi là “ôlivin” (olivine).
5
Chòm sao là gì?
Nhìn bầu trời đêm không mây thấy các vì sao lấp lánh, từ một vì sao bạn kẻ một đường thẳng hoặc một đường cong đến một vì sao khác, một số vì sao nữa... Các nét vẽ ấy có thể tạo thành đường nét của một mẫu tự (chữ M chẳng
11
hạn). Hầu như từ thời rất xa xưa, con người đã làm như vậy và đặt tên cho các nhóm sao mà họ quan sát. Nhóm sao đó
gọi là chòm sao.
Tên các chòm sao mà ta dùng ngày nay đã có từ thời La Mã cổ. Những người La Mã cổ này dùng lại các tên của người Hy Lạp trước đó. Và người Hy Lạp cổ thì cũng dùng lại một số tên của người Ba-bi-lon trước đó nữa.
Người Ba-bi-lon đặt tên các chòm sao dựa trên hình dạng các con vật, các vua, các hoàng hậu hoặc các anh hùng theo thần thoại của họ. Người Hy Lạp đã đổi nhiều tên Ba-bi-lon thành tên các vị thần và anh hùng của họ, chẳng hạn như Hec-quyn, Ô-ri-ông, Péc-xê. Người La Mã lại đổi tên các vị thần của Hy Lạp thành tên các thần của họ. Tuy nhiên một số tên cổ vẫn còn được giữ lại. Tuy nhiên thật khó mà nhận ra hình dạng chòm sao nếu mà dựa vào tên của chúng. Chẳng hạn chòm sao “thiên lang”, chòm sao “chó lớn”, chòm sao “chó con”, thật khó mà hình dung ra hình chim ưng, hình chó lớn, chó con ở những chòm sao đó.
12
Khoảng 150 năm sau Công nguyên, nhà thiên văn học rất nổi tiếng thời bấy giờ là Ptô-lê-mê đã liệt kê 48 chòm sao mà ông biết. Danh sách này không bao gồm hết các chòm sao nhìn thấy được trên bầu trời. Và có nhiều điểm còn để trống. Về sau các nhà thiên văn đã thêm vào danh sách của Ptô-lê-mê nhiều chòm sao khác nữa. Một vài chòm được đặt tên theo các ứng dụng thiên văn như “kính lục phân”, “cái compa”, “kính thiên văn”. Ngày nay, trên nền trời, các nhà thiên văn liệt kê được 58 chòm sao.
Chòm sao thật ra là một khoảng không gian rất rộng trên nền trời. Có thể hình dung một ngôi sao nằm trong chòm sao như một đô thị, một thị xã trong một bản đồ quốc gia chẳng hạn. Đường biên của các chòm sao cũng giống như đường biên giữa các nước, nghĩa là rất nhấp nhô chứ không thẳng băng như vạch thước kẻ. Nhưng từ năm 1928, các nhà thiên văn đã quy ước vạch theo đường thẳng để làm đường biên cho các chòm sao.
6
Thiên hà là gì?
Trên bầu trời có lẽ không có cái gì là bí hiểm và đáng ngạc nhiên cho bằng “thiên hà” (hay còn gọi là dải ngân hà). Nó giống như một chuỗi hạt ngọc vắt ngang bầu trời. Thời xa xưa, nhìn ngắm hiện tượng này, con người đã hết sức kinh ngạc. Họ không hiểu thực chất của nó là gì nên họ
13
thêu dệt cho nó đủ thứ chuyện, gán cho nó đủ thứ lạ lùng đẹp đẽ mà con người có thể hình dung ra được. Thời trước Công nguyên, người ta cho rằng dải ngân hà chính là con đường của các thiên thần. Bởi vậy, con người có thể lên trời bằng con đường ấy. Hoặc họ tưởng tượng đó là cái “kẽ hở” của trời để qua đó, đứng dưới đất, con người có thể chiêm ngưỡng được vinh quang thiên quốc.
Nếu hiểu đúng thực chất của hiện tượng thiên hà thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Điều đáng ngạc nhiên là những ý tưởng của người ta gán cho nó.
Thiên hà “của chúng ta” có dạng cái dĩa, nghĩa là hơi tròn và dẹp, hơi phình lên ở trung tâm. Nếu có thể trèo lên ở trên cao phía trên thiên hà để từ đó nhìn xuống thì sẽ thấy dạng hình tròn của nó. Nhưng vì đang ở trong thiên hà, ta có nhìn lên thì cũng chỉ là nhìn từ phía trong ra ngoài rìa của thiên hà. Vì vậy ta mới thấy thiên hà có hình cong vây lấy ta. Cái dải sáng lờ mờ trên nền trời ban đêm mà ta gọi là thiên hà cũng chính là hàng triệu triệu các vì sao.
Bạn nên biết rằng trong thiên hà ấy có ít nhất cũng khoảng ba tỷ ngôi sao. Để hình dung ra bề rộng của thiên hà, ta phải dùng đơn vị đo là năm ánh sáng. Chẳng hạn, một tia sáng từ lúc phát ra từ trung tâm thiên hà cho đến lúc lọt vào mắt ta phải mất xấp xỉ 50 ngàn năm. Tốc độ ánh sáng là bao nhiêu km/s thì bạn biết rồi đó. Bạn thử làm tính xem từ trung tâm thiên hà đến trái đất là bao xa rồi từ đó tính
14
ra đường kính của thiên hà là bao nhiêu km. Thiên hà xoay quanh tâm của nó như một cái bánh xe. Môt vòng xoay của nó chỉ mất độ chừng 200 triệu năm!
7
Ngôi sao sáng nhất?
Ngôi sao mà bạn nhìn thấy sáng nhất trên bầu trời chưa hẳn là thật sự sáng nhất đâu bạn. Và ngôi sao mà bạn vừa nhìn thấy nó mờ mờ, bạn cũng đừng tưởng nó “tối” hơn ngôi sao mà bạn cho là sáng nhất. Sự mờ tỏ của các ngôi sao đối với mắt bạn tùy thuộc vào hai yếu tố: độ sáng của chính ngôi sao và vị trí của nó ở xa hay ở gần trái đất. Nhìn trời, chắc bạn tưởng số sao mà mắt bạn nhìn thấy là nhiều lắm. Bạn vẫn dùng cụm từ “hằng hà sa số” để chỉ số sao mà bạn nhìn thấy trên bầu trời. Thật ra, số sao mà bạn nhìn thấy bằng mắt thường không “hằng hà sa số” đâu, mà chỉ có khoảng 6000 ngôi sao mà thôi. Và quá một phần ba số này nằm ở Nam bán cầu, nên ở phía Bắc bán cầu nhìn không thấy.
Cách nay hơn hai nghìn năm, các nhà thiên văn Hy Lạp đã xếp loại các vì sao dựa theo độ sáng của nó. Cho đến ngày chế tạo được kính thiên văn, các sao được xếp thành 6 hạng sáng nhất và 6 hạng mờ nhất. Những sao mờ hơn 6 hạng ấy, không thể nhìn bằng mắt thường, nhưng đừng vì không nhìn thấy mà nói rằng chúng không tồn tại. Ngày nay với kính thiên văn hiện đại, người ta có thể xếp loại các ngôi sao căn cứ theo độ sáng của nó vào hai mươi mốt hạng.
15
Mỗi hạng phải cách nhau hai lần rưỡi của hạng kế đó. Có 22 ngôi sao có độ sáng nhất. Và sao Sirius là sao sáng nhất trong 22 sao này. Nó có độ sáng 1,6, có nghĩa là sao Sirius sáng gấp 100 lần ngôi sao mờ nhất mà ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Số lượng các ngôi sao tăng dần khi ta đi từ hạng sáng nhất đến hạng mờ nhất. Chóp đỉnh là 22 ngôi sao sáng nhất và đáy là... 1 tỷ ngôi sao mờ nhất.
8
Sao băng là gì?
Từ hàng ngàn năm trước, nhìn thấy sao băng, con người đã kinh ngạc tự hỏi: nó là gì? Nó từ đâu tới? Và con người đã tin rằng nó từ thế giới khác tới.
Thật ra, như ngày nay ta biết, gọi là “sao” thì không đúng. Phải gọi là thiên thạch hay vẩn thạch, tức là những viên đá nhỏ xíu bay lờ phờ trên trời thì mới đúng. Đó là những khối chất vật thể đặc, diện tích nhỏ thôi. Chúng trôi nổi trong không gian, tình cờ đi ngang qua trái đất liền bị sức hút của trái đất kéo vào bầu khí quyển, đốt cho cháy tiêu luôn. Khi một vẩn thạch rớt vào bầu khí quyển ta có thể thấy nó dưới dạng một vệt sáng dài. Vệt sáng này do vẩn thạch cọ xát vào khí quyển sinh nhiệt, vẩn thạch bị cháy sáng lên vậy thôi.
Cũng khá kỳ lạ là vẩn thạch thường rất nhỏ, có khi chỉ bằng đầu kim găm. Họa hiếm cũng có thiên thạch nặng hàng
16
tấn. Hấu hết các vẩn thạch bị cháy tiêu trong bầu khí quyển, chỉ có những thiên thạch lớn mới rơi xuống đất. Các nhà khoa học tin rằng hàng ngày và hàng đêm, trái đất “hứng” được có hàng ngàn đến hàng vạn vẩn thạch. Ban ngày cũng có “sao băng” nghe bạn. Nhưng không nhìn thấy nó vì ánh sáng của sao băng bị ánh sáng mặt trời át đi nên không thấy. Vả lại, hầu hết mặt địa cầu là nước nên các vẩn thạch ấy rớt xuống biển, xuống các đại dương.
Vẩn thạch thường xuất hiện lẻ tẻ và thường chẳng đi theo hướng nhất định nào. Nhưng cũng có khi có những “đám rước” có đến hàng ngàn vẩn thạch. Trong khi di chuyển theo quỹ đạo quanh mặt trời, trái đất có thể đi ngang gần một “đám rước” vẩn thạch. Thế là “đám rước” này được “mời” vào khí quyển của trái đất để làm “hội hoa đăng” - nếu là ban đêm - hay là “mưa rào vẩn thạch” cho bà con coi chơi.
Vẩn thạch từ đâu tới? Ngày nay các nhà khoa học cho rằng định kỳ có những “đám rước” vẩn thạch do mảnh vỡ của các sao chổi tạo ra. Khi sao chổi bị bể vụn thành hàng triệu mảnh nhỏ, các mảnh này cứ phiêu du bềnh bồng trong không gian tạo thành “đám rước” thiên thạch và vẩn thạch.
Ngay từ thời La Mã - năm 467 trước Công nguyên - người ta đã khảo sát hiện tượng các vẩn thạch rớt xuống địa cầu và ghi vào sổ sách.
17
9
Sao chổi là gì?
Đã có thời người ta coi sự xuất hiện của sao chổi như những điềm gở của những đại thiên tai, dịch tễ, đại chiến hoặc chết chóc kinh khủng.
Ngày nay con người đã có một ý nghĩ tốt hơn về sao chổi mặc dù còn rất nhiều câu hỏi về sao mà ngay cả các nhà khoa học cũng chưa thể giải đáp thỏa đáng. Khi sao chổi vừa xuất hiện, ta chỉ thấy nó như một chấm sáng mặc dù nó có thể có đường kính lớn tới vài ngàn dặm. Điểm sáng này chính là cái đầu của sao chổi (nucleus). Các nhà khoa học cho rằng “đầu” của sao chổi không hẳn là một khối rắn chắc nhất phiến như đá tảng mà có thể là những tảng vật chất đặc, dính với nhau, lỗ chỗ như tổ ong và có lộn chất khí. Cái khối vật chất ấy do đâu mà ra thì vẫn còn là một bí mật.
Sao chổi khi ở xa mặt trời thì không có đuôi. Nhưng khi nó lại gần mặt trời, một lực gọi là áp suất do bức xạ của mặt trời tạo nên tác động vào đầu sao chổi và tạo nên cái đuôi. Khi một sao chổi tiến lại gần mặt trời thì đuôi nó hướng về phía sau nhưng khi nó “ra” khỏi vùng mặt trời thì đuôi nó lại quay ngược trở lại, nghĩa là đuôi sao chổi luôn luôn ngược hướng mặt trời. Cái đuôi ấy gồm những loại khí rất nhẹ và các mảnh vật chất cực mịn từ đầu sao chổi bị áp suất bức xạ mặt trời đẩy ra. Bao quanh cái đầu sao chổi là thành phần thứ ba của sao chổi được gọi là “coma” tức là “bộ tóc”. Đó là
18
đám mây vật chất đôi khi có đường kính lên đến 150 ngàn dặm, có khi hơn.
Đuôi sao chổi có hình dạng và kích cỡ rất khác nhau. Có cái thì ngắn và xù ra. Có cái thì dài và mảnh. Thường thì đuôi này có chiều dài 5 triệu dặm. Có những sao chổi có đuôi dài đến 100 triệu dặm. Nhưng có sao chổi lại chẳng có đuôi.
Khi đuôi sao chổi dài ra thì sao chổi tăng tốc, chỉ vì càng lại gần mặt trời thì chịu sức hút mạnh hơn - do đó tăng tốc - đồng thời cái đuôi bị “thổi” ra mạnh hơn. Tại sao khi ra khỏi vùng ảnh hưởng của mặt trời thì đuôi sao chổi lại quay ngược lại về phía mặt trời? Hiện tượng này cũng vẫn chỉ là do sức đẩy của áp suất bức xạ đẩy các phần tử cực nhỏ của đầu sao chổi trở ra làm thành cái đuôi mới. Nói cách khác: đi vào vùng ảnh hưởng của mặt trời thì đầu sao chổi đi trước đuôi nhưng khi ra khỏi vùng ảnh hưởng của mặt trời thì đuôi lại đi trước, đồng thời cái đuôi ấy từ từ ngắn đi, tốc độ sao chổi giảm dần cho đến khi mất dạng. Sao chổi nằm ngoài tầm nhìn của chúng ta nhiều năm. Nhưng hầu hết các sao chổi sau một thời gian đều quay trở lại. Sao chổi chuyển động theo quỹ đạo quanh mặt trời nhưng quỹ đạo này lớn lắm, cho nên cần một thời gian thật dài mới đi được một vòng quỹ đạo đó. Sao chổi Halley chẳng hạn phải mất 75 năm mới đủ đi một vòng, nghĩa là 75 năm ta mới lại thấy sao chổi một lần.
Đến nay, các nhà thiên văn đã ghi được gần một ngàn sao chổi nhưng phải mất vài trăm ngàn năm nữa mới gặp lại đủ mặt.
19
10
Tại sao nước biển có vị mặn?
Nước biển mặn là chuyện đương nhiên rồi. Nhưng tại sao nó mặn và muối đại dương do đâu mà ra? Ta biết muối là chất có thể hòa tan trong nước. Do đó, muối hòa tan trong nước ở đại dương. Muối ở trên mặt địa cầu thường xuyên hòa tan, sau đó theo suối, theo sông chảy hết ra biển. Nhưng điều ta không hiểu được là lượng muối ngày ngày theo suối theo sông đổ vào đại dương có thể giải thích được lượng muối khổng lồ chứa trong các đại dương không. Nếu có cách nào tách được muối chứa trong các đại dương ra thì ta có thể dùng khối lượng muối ấy để xây một bức tường thành cao gần 300 km, dầy 2 km bao quanh quả đất theo đường xích đạo.
Muối ta dùng hằng ngày được sản xuất từ nước biển hay từ các hồ nước mặn, các giếng phun mặn và các mỏ muối. Nồng độ muối trong nước biển các đại dương là vào
20
khoảng từ 3 đến 3,5 phần trăm. Ở các biển nội địa như Địa Trung Hải hoặc Biển Đỏ chẳng hạn thì nồng độ muối cao hơn. Biển chết với diện tích chỉ có 340 dặm vuông nhưng chứa tới 11,6 tỷ tấn muối. Nhiều mỏ muối được tìm thấy ở nhiều nơi trên lục địa là do nước biển đã bốc hơi cách nay cả triệu năm. Bởi vì muốn thành muối mỏ thì phải làm cho 9/10 nước biển bốc hơi. Do đó, người ta cho rằng muối mỏ thực chất chỉ là biển - nhất là các biển nội - đã bị bốc hơi. Có những biển “nội địa” bốc hơi nhanh hơn số lượng nước ngọt đổ vào các biển ấy, do đó lần lần biển nội địa biến thành mỏ muối.
Muối dùng trong công nghiệp thường là muối mỏ. Phương pháp thông thường để khai thác muối mỏ là đào những giếng xuống tới các lớp muối. Sau đó bơm nước ngọt xuống cho hòa tan muối rồi hút nước muối lên. Chắc các bạn thắc mắc: làm chi cho mất công vậy, sao không lấy nước biển? Đồng ý! Nhưng những quốc gia nằm sâu trong lục địa và không có biển thì đành phải lấy muối mỏ là đúng rồi.
11
Đại dương nào sâu nhất?
Bằng nhiều cách, đại dương còn giữ bí mật đối với ta. Ngay như tuổi của đại dương là bao nhiêu ta cũng chưa biết. Rất có thể trái đất vào thời kỳ mới hình thành là không có đại dương!
21
Ngày nay con người thám hiểm đáy đại dương để tìm hiểu. Đáy đại dương xuống đến khoảng 3,5 km là lớp bùn tương đối mềm. Đó gọi là lớp trầm tích biển tạo nên bởi vỏ và xương các loài động vật nhỏ sống trong biển. Đáy đại dương sâu là lớp bùn mịn có màu rỉ sét gọi là “đất sét đỏ”. Lớp bùn này gồm xương động vật nhỏ, các loài rong nhỏ và tro núi lửa.
Ngày nay người ta dùng sóng âm để đo độ sâu của đại dương. Được phóng ra, các sóng âm khi chạm đáy đại dương thì dội lại. Đo khoảng thời gian của chu kỳ sóng âm là tính được độ sâu của đại dương. Nhờ cách đo lường này, ta có một ý tưởng chính xác về độ sâu của những vùng đại dương cũng như độ sâu nhất của đại dương. Thái Bình Dương có độ sâu trung bình lớn nhất. Độ sâu đó là vào khoảng 4km. Biển Baltic cạn nhất. Độ sâu trung bình của nó chỉ vào khoảng 55m. Những điểm cực sâu mà ngày nay ta biết được ở Thái Bình Dương, nằm gần đảo Guam có độ sâu là khoảng 11 km, ở hố Planet gần Phillipines có độ sâu 10,793 km. Độ sâu nhất của Đại Tây Dương nằm gần đảo Puerto Rico có độ sâu 9,2 km. Vịnh Hudson - tuy chỉ là vịnh nhưng lớn hơn nhiều biển khác - có độ sâu nhất là vào khoảng 1,8 km.
12
Cái gì tạo nên sóng nước?
Biển lặng là biển hầu như không có sóng hoặc sóng nhỏ. Vào những ngày có gió lớn, nhất là bão, là biển có sóng
22
lớn. Như vậy ta thấy ngay tác
nhân chủ yếu gây ra sóng trên
các biển, đại dương là gió, bão.
Sóng là do lực di chuyển tác
động trên mặt nước tạo nên.
Quan sát sóng ta thấy các lớp
sóng hàng hàng lớp lớp lô nhô
đuổi theo nhau như cùng tiến
về một hướng. Thực ra sóng
đứng im một chỗ. Thả một vật nổi xuống ta thấy vật nổi ấy di chuyển dời chỗ, ta tưởng sóng làm cho nó dời chỗ. Nhưng, vật ấy dời chỗ là do tác động của gió chớ không phải của sóng.
Vận động của sóng là vận động loại nào? Sóng nhấp nhô, chồi hụp, có nghĩa là sóng “dậm chân” tại chỗ. Các phân tử nước nhô lên rồi hạ xuống tại chỗ. Lực tạo nên sóng chuyển động từ ngoài khơi vào bờ nhưng các phân tử nước thì không vận động theo hướng này. Chẳng hạn, ta cầm một đầu sợi dây thừng, ta truyền lực vào làm sợi dây thừng ấy chuyển động, vận động chồi hụp nhấp nhô của sợi dây thừng không làm di chuyển các phân tử tạo nên sợi dây thừng.
Ở dưới đáy nước, sóng chạm vào đất trên một khoảng cách hầu như không đáng kể. Sự chuyển động của chân sóng bị chậm lại do cọ sát với đáy. Trong khi đó ngọn sóng vẫn tiếp tục bị lực tác động theo chiều và tốc độ của lực. Do đó, ngọn sóng bị gãy, bị đổ xuống. Do hiện tượng này
23
ta thấy sóng “bạc đầu”. Lực tạo nên sóng bị tan đi khi chạm vào bờ. Chỉ cần đứng ở chỗ sóng đánh là bạn cảm thấy ngay lực tạo nên sóng tác động vào bạn: sóng xô đẩy bạn.
Trong sóng biển, các phân tử nước chuyển động theo quỹ đạo vòng tròn. Các phân tử ấy bị lực của gió kéo lên và đẩy đi theo hướng gió, nhưng các phân tử nước ấy đồng thời bị hấp lực của trái đất kéo xuống vào đẩy về phía ngược chiều của hướng gió để các phân tử này trở lại mặt phẳng cũ. Vận động lên xuống của các phân tử nước tạo nên sóng. Nếu gió mạnh nghĩa là có sức đẩy lớn, nó sẽ làm cho nhiều phân tử nước bị đẩy lên, do đó sóng lớn. Khoảng cách các ngọn sóng là độ dài sóng. Phần lõm xuống giữa hai ngọn sóng gọi là “lòng máng”. Do đó, sóng lớn cũng có nghĩa là lòng máng rộng và sâu.
13
Hải lưu là gì?
Hải lưu là một dòng nước trôi chảy ngay trên mặt đại dương. Và cũng có cả hải lưu ngầm chảy trong lòng đại dương. Ở đây, ta chỉ đề cập đến hải lưu “nổi”. Hải lưu nổi tiếng nhất trên thế giới có tên là Gulf Stream. Đó là một dòng sông rất lớn - lớn bằng tất cả các dòng sông trên các lục địa gộp lại - điều khác lạ là dòng sông đó chảy trên nước chứ không phải chảy trên lục địa!
Nương theo bờ biển của các bang Đông Bắc Hoa Kỳ, hải lưu Gulf Stream chảy lên phía Bắc, xuyên qua Bắc Đại Tây
24
Dương tới Đông Bắc châu Âu. Hải lưu này có màu xanh chàm, do đó, nó hiện rõ giữa cái nền xanh màu lục ngả màu xám của phần nước đại dương nó chảy qua.
Nước trong hải lưu Gulf Stream là nước từ mặt biển ở miền xích đạo Đại Tây Dương chuyển động mà ra. Chuyển động này theo hướng Tây. Bởi vậy, khi gặp bờ biển Đông của Hoa Kỳ, hải lưu này chuyển hướng lên phía Bắc, băng ngang vùng biển Caribê. Nó có cái tên Gulf Stream vì nó khởi đầu vận động lên phía Bắc tại vùng biển Đông Hoa Kỳ.
Hải lưu Gulf Stream khởi phát từ vùng biển nóng trên địa cầu - miền xích đạo - nên dòng nước trong hải lưu này ấm. Khối lượng nước ấm này tạo ra nhiều sự lạ và những vùng khí hậu khác nhau tùy từng nơi nó đi qua.
Chẳng hạn, gió thổi qua hải lưu này ở phần Bắc Âu đã đem hơi ấm đến cho các nước Bắc Âu như Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hòa Lan, Bỉ. Kết quả là nhiệt độ mùa đông ở các nước này êm dịu hơn các vùng khác cũng nằm trên phía Bắc. Và nó cũng làm cho các hải cảng dọc theo bờ biển Na Uy không lúc nào đóng băng.
Nhờ dòng hải lưu Gulf Stream, các thủ đô Luân Đôn, Paris được hưởng khí hậu mùa đông ấm áp hơn mặc dù chúng nằm trên cùng một vĩ độ Bắc với thành phố Lavrador, một thành phố phải chịu khí hậu rất khắc nghiệt. Gió thổi qua hải lưu Gulf Stream trở nên ấm và ẩm. Khi gió này thổi đến vùng đất Newfoundland, nó tạo ra sương mù dày đặc. Do đó,
25
vùng bờ biển Newfoundland thường có những buổi sương mù dày đặc rất nguy hiểm.
Ở Bắc Mỹ, hải lưu Gulf Stream không có ảnh hưởng lớn đến khí hậu mùa đông cho bằng ở châu Âu vì gió mùa đông ở Bắc Mỹ không thổi qua hải lưu này như gió mùa đông ở châu Âu.
14
Núi đã hình thành như thế nào?
Đối với con người, núi quá ư là vĩ đại. Vì thế con người cứ tưởng núi - thách đố và bất chấp thời gian - không thay đổi và sẽ tồn tại y nguyên như vậy mãi. Nhưng các nhà địa chất và các nhà khoa học nghiên cứu về núi đã đưa ra bằng chứng chứng tỏ núi bị thời gian khuất phục, nghĩa là, dù có đồ sộ như vậy, núi cũng không giữ được nguyên hình nguyên trạng mãi mãi.
Một vài thay đổi trên bề mặt địa cầu đã tạo ra núi. Và núi cũng bị phá hoại thường xuyên, do đó thay đổi thường xuyên. Do đó tác động của băng tuyết, nước đá, nhiệt... núi bị nứt và bị lở. Đất, đá trên núi thường xuyên bị mưa bào mòn và đưa xuống các khe suối, sông... Cứ như vậy thời gian đã biến các ngọn núi thành các đồi, cao nguyên.
Các nhà địa chất chia núi thành bốn loại tùy theo cách nó được cấu tạo. Nhưng dù được cấu tạo cách nào, núi cũng chỉ là kết quả của sự thay đổi dữ dội của vỏ trái đất.
26
Và hầu hết sự thay đổi này đều đã xảy ra cách nay cả hàng triệu năm.
Núi uốn xếp được cấu tạo do các lớp đá bị dồn lại thành nếp gấp lớn. Ở nhiều nơi trên các loại núi này, ta thấy các lớp đá uốn cong thành nếp nhấp nhô bị ép theo chiều ngang. Dãy Appalachian (Bắc Mỹ) và dãy Alpes (châu Âu) là điển hình cho loại núi này.
Trên đỉnh núi, các lớp đá bị uốn cong lên cao như mái vòm. Trong nhiều trường hợp các phún xuất thạch, do sức đẩy từ lòng đất đã bị tống ra hoặc cả một lớp đá bị nâng cao lên. Dãy Black Hill ở Nam Dakota (Hoa Kỳ) là điển hình cho loại núi này.
Núi khối là kết quả của sự gãy, nứt của vỏ trái đất. Một phần của mặt đất, có khi là cả một khối đá vĩ đại bị đội lên. Dãy Slerra Nevada ở bang California là một khối đá dài trên 600 km, rộng 128 km.
Núi lửa do phún dung nham, tro và đá bọt phun từ trong lòng đất ra. Núi lửa thông thường có hình nón với cái miệng rộng hình phễu. Các núi lửa nổi tiếng là Ranier, Shasta và Hood ở Hoa Kỳ, Fujlyama ở Nhật, Vesuve ở Ý. Có nhiều dãy núi được tạo thành không theo kiểu nào đã mô tả trên. Cũng có dãy núi bao gồm đủ cả bốn kiểu đó như dãy Rocky bên Hoa Kỳ.
27
15
Hang động được
hình thành như thế nào?
Từ lâu, hang động đã dính với lịch sử loài người một cách thi vị. Mãi đến thời kỳ hậu đồ đá, hang động còn là nơi trú đông của những người không có nơi cư trú.
Nhưng về sau, con người không còn dùng hang động làm nơi cư trú nữa. Người xưa đã thêu dệt nhiều bí ẩn lạ lùng liên quan đến hang động. Người Hy Lạp cổ tin rằng hang động là đền, là nơi trú ngụ của các thần linh như thần Jupiter, thần Pan, thần Dionysos và thần Pluto... Người La Mã cổ tin rằng hang động là nhà của các “Nymph” (tiên nữ) và Sibyl. Người Ba Tư cổ đã liên kết hang động với sự tôn thờ các thần Mithra, chúa tể các ma quái trên mặt đất.
Ngày nay, các hang động khổng lồ và đẹp trên khắp thế giới là những địa danh du lịch hấp dẫn.
Hang động là chỗ sâu dưới núi, đồi hoặc vách đá. Những hang lớn gọi là động. Hang được cấu tạo theo nhiều kiểu. Có hang do sóng biển đập liên tục vào đó tạo ra. Có hang nằm sâu trong lòng đất. Những hang này do các dòng nước
28
ngầm bào mòn các lớp đá mềm - như đá vôi chẳng hạn - tạo ra. Có hang do núi lửa phun tạo ra.
Kiểu mẫu phổ biến của hang động ở Hoa Kỳ là hang do dòng nước ngầm bào mòn lớp đá vôi. Trong nước ngầm này chứa chất Carbon dioxide. Ở Indiana, Kentucky, Tennessee có những thềm đá vôi rất lớn với bề dày trung bình là 55 m. Bởi vậy số hang động ở đây rất nhiều. Có hang có lỗ thông hơi xuyên qua trần hang. Thoạt đầu, lỗ này chỉ là một lỗ nhỏ, thậm chí chỉ là một vết nứt. Nước phía bên trên ngấm xuống lần lần khoét rộng ra. Có hang có hành lang, có hai ba tầng chồng lên nhau. Dòng nước ngầm bào mòn tạo thành hang sâu, sau đó, ở một khúc khác, gặp vật cản, dòng nước tạo một lối đi khác hoặc thấp hơn. Thế là nó chảy theo hướng khác, tạo ra hang mới và bỏ hang cũ. Hang này trở nên khô ráo.
Nhiều trường hợp, giọt nước từ phía trên trần ngấm qua đá vôi. Những giọt nước này chứa chất vôi và nhiều kim loại khác. Lâu ngày, trên trần ngay chỗ giọt nước và phía dưới đối diện với giọt nước hình thành một thạch nhũ. Lâu ngày hai thạch nhũ này nối liền lại với nhau gọi là măng đá.
16
Địa khai là gì?
Sự nghiên cứu các địa khai và hóa thạch giúp con người tìm hiểu loài người, loài vật, thực vật đã sống cách nay hàng triệu triệu năm. Sự nghiên cứu này quan trọng đến nỗi nó
29
đã trở thành một khoa học riêng biệt gọi là khoa cổ sinh vật học.
Không như nhiều người tưởng, địa khai không phải chỉ là di hài, di cốt, di tích của cơ thể bị chôn vùi cách nay cả triệu năm. Ngày nay, người ta phân biệt ba thứ vật không bị hư thúi và còn giữ được dạng nguyên thủy. Nhưng địa khai cũng có thể là một cái “khuôn” do trầm tích giữ lại được cái dạng bên ngoài của một sinh hoặc thực vật. Trường hợp này gọi là hóa thạch thì đúng. Sau cùng, hóa thạch có thể chỉ là dấu vết - vết chân chẳng hạn - con vật để lại khi nó đi qua đất mềm, đất sét.
Địa khai là một phần, một cơ phận của sinh vật, là phần cứng nhất của cơ thể sinh vật đó như xương hoặc răng - vì phần mềm đã bị tiêu hủy rồi - tuy nhiên cũng có trường hợp một số loài nhuyễn thể (như con sứa chẳng hạn, chứa tới 99% là nước) mà vẫn là những hóa thạch nguyên vẹn. Có địa khai tìm thấy trong nước đá chẳng những còn giữ được đầy đủ xương mà còn nguyên vẹn cả da và lông.
Kích cỡ của các địa khai, hóa thạch không đáng kể. Chẳng hạn có địa khai của con kiến nhỏ xíu sống cách nay bao nhiêu triệu năm được giữ nguyên vẹn trong hổ phách. Sự may mắn của hóa thạch, địa khai tồn tại được cho đến ngày nay hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào chỗ nó đang sống khi nó bị hóa thạch. Hầu hết các hóa thạch đều là sinh vật biển. Bởi vì khi chết, cơ thể nó mau lẹ được lớp bùn bao bọc nên không kịp thối rữa. Những sinh và thực vật sống trên mặt
30
đất dễ bị tác động của không khí, khí hậu và các tác nhân khác phá hủy hoặc làm hư hại.
Qua nghiên cứu các địa khai và hóa thạch, ta có thể biết về đời sống của sinh vật sống có khi cách nay cả mấy trăm triệu năm. Chẳng hạn một địa khai lấy được từ đá cho ta biết cách nay hằng bao nhiêu triệu năm có thời đại gọi là “thời đại bò sát” với những “quái vật” dài tới 24,5m và nặng tới 40 tấn. Đó là những con khủng long. Những kiến thức ta có được về loài chim nguyên thủy là dựa trên cơ sở những địa khai của loài vật này mà người ta tìm được.
ND: Nhiều người dùng từ “hóa thạch” để dịch hai từ tiếng Anh là fossil và petrification. Từ “hóa thạch” có lẽ chỉ nên dùng cho từ petrification, còn dùng cho cả từ fossil e không đủ nghĩa và không chỉnh. Bởi vì có nhiều sinh vật cổ đã hóa đá nhưng cũng có những sinh vật cổ không hóa đá. Cụ thể như ở dưới các lớp tuyết sâu vùng Sibérie, ngày nay thỉnh thoảng người ta còn đào được những con khổng tượng đã tuyệt diệt từ thời xa xưa. Nhưng nhờ vùi sâu dưới tuyết “ngàn năm” nên xác các cổ sinh vật này còn tươi đến nỗi chó sói còn giành nhau ăn được. Các cổ sinh vật này “chưa hóa đá” hay là không hóa đá. Chúng là “địa khai” nghĩa là đào được dưới đất. Địa khai có nghĩa rộng: nó có thể chỉ tất cả hay một phần hay chỉ là dấu vết của động hoặc thực vật còn sót lại, để lại dấu vết trên đá. Thí dụ như cái răng của một cổ sinh vật hoặc mảnh lá bị ép chỉ còn lại vết trên than đá chẳng hạn, hoặc một con sò đã “hóa đá”... đều được gọi là “địa khai”.
31
17
Thời đại băng hà
đã thật sự chấm dứt chưa?
Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng thời đại băng hà xảy ra cách nay hàng bao triệu năm và nay chẳng còn dấu tích gì nữa. Nhưng các nhà địa chất thì nói rằng hiện ta đang ở giai đoạn cuối cùng của thời kỳ băng hà. Riêng đối với những ai đang sống trên đảo Greenland cho rằng họ đang sống trong thời kỳ băng hà thì cũng không phải là sai.
Cách nay khoảng 25.000 năm, bất cứ ai sống ở miền Trung Mỹ ngày nay đều có thể quanh năm nhìn thấy tuyết và nước đá. Nước đá phủ kín suốt từ bờ biển Đông sang tới bờ biển Tây lên tới phía Bắc. Đây là thời kỳ băng giá cuối cùng. Trong thời kỳ này, phần lớn đất đai ngày nay là nước Mỹ, toàn bộ phần đất ngày nay là nước Canada và hầu hết Tây Bắc Âu ngày nay đều bị đè dưới tấm “thớt” nước đá dày tới hai ba trăm mét.
Nếu bạn tưởng trong thời kỳ băng giá, thời tiết luôn luôn, quanh năm suốt tháng lạnh lẽo thì bạn lầm to. Thật ra nhiệt độ lúc đó chỉ thấp hơn nhiệt độ lúc hiện nay khoảng 6,70C thôi. Cái khiến cho thời ấy được gọi là thời băng giá (hay băng hà) là vì mùa hè của nó mát chứ không nóng như hiện nay. Bởi vậy, trong những tháng hè, nhiệt độ không đủ để làm tan chảy tuyết, nước đá hình thành trong mùa đông. Tuyết và nước đá năm nay chưa kịp tan hết thì đã lại đến mùa đông. Nghĩa là tuyết và nước đá năm sau chồng
32
lên năm trước. Cứ như vậy năm này qua tháng kia, tuyết và nước đá cứ tích tụ và lần lần phủ kín lục địa Bắc Mỹ. Nhưng thời kỳ băng hà thực ra gồm bốn giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn, nước đá hình thành và tràn về hướng Nam, sau đó tan chảy và rút trở lại phía Bắc cực. Người ta cho rằng hiện tượng đó xảy ra bốn lần. Thời kỳ lạnh - gọi là thời đóng băng - xen kẽ với thời kỳ ấm - gọi là thời kỳ “tan băng”. Tại Bắc Mỹ thời kỳ đóng băng lần thứ nhất được cho là đã xảy ra cách nay khoảng 2 triệu năm. Thời kỳ đóng băng thứ hai cách nay khoảng 1,250 triệu năm. Thời kỳ thứ ba cách nay khoảng 500 ngàn năm và thời kỳ cuối cùng cách nay khoảng 100 ngàn năm.
Thời kỳ băng hà cuối cùng không diễn ra cùng một mức độ ở khắp nơi. Chẳng hạn, ở vùng đất nay là bang Wiscosin thì thời kỳ băng hà cuối cùng mới diễn ra cách nay vào khoảng 40 ngàn năm, ở vùng New England cách nay khoảng 28 ngàn năm, ở Minnesota thì mới chỉ cách nay 15 ngàn năm mà thôi. Ở châu Âu, vùng đất thuộc nước Đức ngày nay, thời kỳ cuối của băng hà chỉ mới chấm dứt cách nay 17 ngàn năm và ở Thụy Điển chỉ mới cách nay 13 ngàn năm.
33
18
Tại sao đến ngày nay vẫn còn băng hà?
Thời kỳ đầu của thời đại băng hà, ở vùng Bắc Mỹ ngày nay có thể coi là một lục địa nước đá cũng như Nam, Bắc cực ngày nay vậy.
Cả lục địa Bắc Mỹ bị “đè” dưới khối nước đá dày tới 4,5 km. Xin nói rõ: dày tới 4 kilômét rưỡi! Khối nước đá ấy hình thành và tan chảy ít nhất cũng bốn lần trong thời kỳ băng hà.
Trong thời băng hà, nhiều khối nước đá ở nhiều nơi trên trái đất không có cơ may tan chảy hết. Chẳng hạn toàn thể diện tích đảo Greenland ngày nay vẫn nằm dưới tấm “thớt” nước đá chỉ trừ một dải đất hẹp quanh đảo. Phía bên trong đảo, nước đá dày tới hơn 3 km. Nam cực là cả một lục địa bị bao phủ bởi một lớp nước đá dày từ 3 km đến 3,5 km.
Bởi vậy, ta có lý do để nói rằng ở một vài nơi trên trái đất hiện nay, thời kỳ băng hà chưa chấm dứt vì khối băng hà ấy chưa tan chảy hết. Tuy nhiên hầu hết các băng hà
34
hiện đang tồn tại mới chỉ được hình thành trong thời gian gần thôi. Những băng hà này thường có dạng thung lũng băng.
Ở khởi điểm, thung lũng băng có vách dốc như hình một rạp hát lớn. Tuyết từ trên trời, từ các đỉnh núi và bờ dốc cao rớt xuống. Tuyết này không chảy hết trong những tháng hè. Do đó, ngày càng dày lên. Đồng thời do sức ép từ tuyết bên trên, tuyết bên dưới tan chảy, tái đóng băng và đẩy bọt khí ra để trở thành nước đá. Do sức ép càng ngày càng lớn, khối nước đá bên dưới bắt đầu chậm chạp “bò” xuống thung lũng tạo thành “cái lưỡi”. Đó chính là lúc băng hà bắt đầu di chuyển.
Trên rặng núi Alpes bên châu Âu có tới 1200 băng hà như vậy. Ở các rặng núi như Pyrénée, Carpathes và Caucasus cũng đều có băng hà. Ở miền Nam Alaska có tới hàng chục ngàn băng hà như vậy. Có những “cái lưỡi” băng hà dài từ 40 đến 80 km!
19
Tại sao trong năm lại có các mùa?
Ngay từ thời xa xưa con người đã muốn hiểu về sự thay đổi thời tiết trong các mùa. Tại sao mùa hè nóng, mùa đông lạnh? Tại sao ngày mùa xuân dài hơn ngày mùa đông? Tại sao đêm mùa đông dài hơn đêm mùa hè?
35
Ta đã biết trái đất chuyển động theo quỹ đạo vòng quanh mặt trời và đồng thời xoay quanh trục chính của nó như một con vụ (con quay). Sự kiện trái đất xoay quanh chính trục của nó sinh ra ngày và đêm. Nếu trục của trái đất - một đường thẳng tưởng tượng xuyên qua hai cực Bắc và Nam - thẳng góc với quỹ đạo của nó quanh mặt trời thì chẳng có mùa nào hết và ngày đêm trong năm lúc nào cũng bằng nhau.
Nhưng trục của trái đất lại hơi nghiêng. Nguyên nhân của sự nghiêng là do sự kết hợp của nhiều lực tác động vào trái đất. Lực thứ nhất là sức hút của mặt trời. Lực thứ hai là của mặt trăng. Lực thứ ba là do chính trái đất tạo ra khi nó tự xoay quanh chính nó. Kết quả là trái đất quay quanh mặt trời theo thế nghiêng nghiêng. Và nó giữ cái thế nghiêng nghiêng ấy suốt năm này qua năm kia. Vì trục của trái đất luôn nhắm theo hướng không đổi là sao Bắc cực. Điều này có nghĩa là từng khoảng thời gian trong năm, có lúc cực Bắc trái đất hướng về mặt trời, có khoảng thời gian lại quay ra phía “ngoài”. Chính vì sự nghiêng này mà tia sáng của mặt trời có lúc hóa ra chênh chếch về phía bắc xích đạo, có khoảng thời gian chiếu thẳng vào xích đạo. Sự khác biệt này tạo nên các mùa khác nhau của từng miền trên trái đất.
Khi Bắc bán cầu quay hướng về phía mặt trời thì những miền ở phía bắc xích đạo là mùa hè và những miền phía Nam bán cầu là mùa đông. Khi ánh sáng thẳng của mặt trời
36
chiếu vào Nam bán cầu thì nam bán cầu là mùa hè. Bắc bán cầu lại là mùa đông. Ngày dài nhất gọi là “hạ chí” và ngày ngắn nhất gọi là “đông chí”. Một năm có hai thời điểm trong đó ngày và đêm dài bằng nhau trên toàn trái đất, một ngày vào mùa xuân, một ngày vào mùa thu, một ngày là xuân phân (khoảng ngày 21/3) và ngày kia gọi là thu phân (23/9).
20
Ẩm ướt, tại sao vậy?
Bạn lấy cục nước đá bỏ vào ly nước. Lát sau phía ngoài thành ly có những giọt nước đọng. Tưởng cái ly bị nứt rạn nên nước bên trong rịn ra ngoài thì bạn lầm to. Nước đọng trên thành ly là do hơi nước trong không khí gặp lạnh nên tụ lại đó. Độ ẩm của không khí tùy thuộc vào lượng hơi nước trong không khí.
Trong không khí luôn luôn có nước ở thể hơi. Nhưng hơi ấy “loãng” quá nên ta không thấy được. Chỉ khi nó tụ lại, hay nói cách khác, khi mật độ hơi nước đậm đặc thì ta mới nhìn thấy. Không khí trong bất cứ vùng nào trên trái đất, bất kể mùa nào - kể cả ở sa mạc - cũng đều “ẩm” ở mức độ nào đó. Độ ẩm ở các vùng không giống nhau đã đành mà ngay trong một vùng, độ ẩm cũng không giống nhau trong từng mùa, thậm chí trong từng ngày. Có hai thuật ngữ để nói về độ ẩm là “độ ẩm tuyệt đối” và “độ ẩm tương đối”.
Ẩm tuyệt đối là lượng hơi nước trong một thể tích không khí, nghĩa là có nhiều phân tử nước trong một centimét
37
khối. Lối nói: có x phân tử nước khối trong một centimét khối không khí thì nghe có vẻ khoa học lắm, nhưng về mặt thực tiễn nghe nó ngớ ngẩn lắm. Chẳng hạn, nếu bạn hỏi khí hậu có dễ chịu không, bạn được trả lời là “có x phân tử nước trong một centimét không khí” thì nếu bạn không bực mình cũng phải phì cười. Bởi vì câu trả lời đó không giúp bạn biết không khí ẩm hay khô. Độ ẩm của thân thể bạn dễ bốc hơi bao nhiêu bạn càng cảm thấy dễ chịu bấy nhiêu. Và khả năng bốc hơi nhiều, ít, nhanh, chậm của không khí tùy thuộc vào nhiệt độ chớ lối nói “ẩm tuyệt đối” chẳng cho ta biết gì về khả năng bốc hơi của thân thể ta, nghĩa là khí hậu dễ chịu hay khó chịu.
“Ẩm tương đối” được diễn tả bằng lối nói phần trăm. Một trăm phần trăm có nghĩa là không khí đầy hơi nước đến mức “bão hòa”. Vào những ngày nóng bức, khi nói ẩm tương đối là 90% có nghĩa là trong không khí có độ ẩm cao kinh khủng, và ngày đó là ngày rất khó chịu.
21
Sương mù là gì?
Câu trả lời nghe đơn giản và có phần thơ mộng: Sương mù là mây sà xuống gần mặt đất, là là mặt đất! Không có sự khác biệt cơ bản giữa sương mù và mây bồng bềnh trôi trên trời cao. Khi mây bay là là trên mặt đất hay trên mặt biển thì gọi là sương mù. Sương mù thường được thấy vào ban đêm hay sáng sớm tại những vùng đất thấp
38
hay những nơi có nhiều hồ, ao, đầm lầy. Sương mù là do luồng khí lạnh trên cao đổ ập xuống mặt đất hoặc vùng nước có hơi nước (ẩm).
Mùa thu thường có sương mù vì không khí giải nhiệt mau lẹ hơn đất hay nước. Vào lúc sẩm tối, sương mù nhẹ thường xuất hiện gần mặt đất ở những vùng đất thấp, trũng. Ban đêm mặt đất trở nên mát hơn nên không khí tiếp giáp với mặt đất cũng trở nên lạnh hơn. Chính tại nơi này, không khí lạnh gặp không khí ẩm hơn ở phía bên trên, thế là sương mù hình thành.
Nói chung, sương mù ở thành phố dày đặc hơn sương mù ở quê. Bởi vì, không khí ở thành phố nhiều bụi và muội than hòa lẫn với các phân tử nước khiến cho sương mù “cản quang” nhiều hơn. Ngoài khơi đảo Newfoundland là nơi có nhiều sương mù nhất thế giới. Ở San Francisco thì ngược lại. Cơn gió nhẹ và mát lạnh ban mai thổi trên những đụn cát ấm, nếu đêm trước mưa làm ẩm cát thì hơi ẩm bốc lên gặp cơn gió nhẹ mát lạnh kia sẽ tạo thành sương mù dày đặc.
Lý do khiến người ta thấy sương mù có vẻ dày đặc hơn mây là vì những hạt nước trong đám mây thì lớn hơn trong đám sương mù. Số lượng những hạt nước nhỏ thì hấp thụ nhiều ánh sáng hơn số lượng nhỏ những hạt nước lớn (như trong đám mây) vì vậy mà sương mù có vẻ như “đặc hơn”.
39
22 Sương muối là gì?
Mỗi buổi sáng, hai bên vệ đường, bạn thấy cái gì long lanh trên các lá cỏ, bạn đừng vội mừng vì tưởng đó là kim cương. Quả thật nó giống kim cương lạ thường, mà lại là kim cương loại tốt nữa kìa. Nhưng không, đó chỉ là những giọt sương hay là sương muối mà thôi. Vậy thì nó lại là một hiện tượng tự nhiên quá tầm thường? Vâng, tầm thường nhưng giải thích cách cấu tạo những giọt sương ấy cho lọt lỗ tai các nhà khoa học thì lại không dễ đâu. Giọt sương long lanh ấy được nói đến nhiều rồi. Bằng chứng là đã có nhiều quyển sách bề thế đề cập đến chúng rồi. Vậy mà vẫn cứ bị hiểu lầm.
Kể từ thời cổ Hy Lạp cho đến cách nay gần hai trăm năm, người ta vẫn tin rằng sương muối là từ trên trời rớt xuống, giông giống như mưa. Có khác chăng là ở chỗ chúng không nhiều bằng mưa, không ồn ào bằng mưa mà thôi. Nhưng thực tế, sương muối không hề rơi rớt từ đâu xuống hết.
Để hiểu được sương muối là gì, ta phải hiểu đôi chút về bầu không khí quanh ta. Trong không khí - như ta đã biết - không nhiều thì ít, ở đâu và lúc nào cũng “ẩm”, nghĩa là chứa hơi nước, không khí ẩm lại chứa nhiều hơi nước hơn không khí lạnh. Khi không khí tiếp xúc với một diện tích lạnh, hơi nước - tức là “chất ẩm” trong không khí - tụ lại thành giọt nước nhỏ xíu đọng trên diện tích đó. Sương muối là thế đó, hình thành như thế đó.
40
Tuy nhiên, nhiệt độ trên diện tích đó phải hạ xuống đến một mức nào đó thì sương muối mới hình thành được. Mức nhiệt độ đó gọi là “điểm sương muối” (cũng như nhiệt độ 1000C là “điểm sôi” của nước, nhiệt độ 00C là “điểm đông đặc” của nước vậy). Chẳng hạn, thả một cục nước đá vào cái ly hay lon kim loại. Đợi cho đến khi nào thành ly, thành lon kia lạnh đến cái “điểm sương” thì sương mới bám vào thành ly, thành lon đó. Nhưng ở trong thiên nhiên thì sao? Trước hết, trong không khí ẩm phải có độ ẩm cần thiết. Rồi cái không khí ấm và ẩm đó tiếp xúc với diện tích mát hơn (nghĩa là có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ không khí). Sương muối không bám đọng dưới đất hay trên lòng đường nhựa, vì đất hay lòng đường vẫn giữ nhiệt độ (do mặt trời ban ngày tỏa xuống) ở cái mức cao hơn “điểm sương muối”. Nhưng sương muối đọng bám vào cỏ, cây có nhiệt độ thấp hơn. Nếu vậy, tại sao ta lại nói sương muối đọng trên cây, trên lá không đích thực là sương muối? Lý do là trong số những giọt long lanh trên lá cây chỉ có một số nhỏ là sương muối, còn lại là giọt nước do chính lá cây đó tạo ra. Hơi ẩm của cây thấm qua các “khí khổng” trên lá. Đó là quá trình chuyển dịch nước đo cây hút dưới đất để nuôi dưỡng
cây, lá. Quá trình này diễn ra
cả trong ban ngày lẫn ban
đêm. Nhưng ban ngày có
ánh mặt trời làm khô lượng
nước do cây tiếp cho lá. Ban
41
đêm, quá trình tiếp nước đó vẫn tiếp tục nhưng không có ánh mặt trời, là trở nên “mát, lạnh” hơn. Thế là sương muối hình thành trên lá.
Ở vài nơi trên thế giới, sương muối tụ lại mỗi đêm có thể hứng vào chỗ chứa với số lượng đủ để làm nước uống cho súc vật.
Ở Việt Nam, chỉ các tỉnh vùng núi Bắc bộ và một số vùng trung du phía Bắc mới có hiện tượng sương muối. Còn những giọt nước long lanh trên lá cây mà bạn thấy vào sáng sớm chỉ là sương mà thôi.
23
Tại sao sấm lại đi sau chớp?
Sấm và chớp là hai hiện tượng thiên nhiên đầu tiên khiến cho con người sơ khai sợ hãi và thần bí hóa nhiều nhất. Khi thấy chớp lóe lên kèm theo tiếng nổ ầm, tiếp đó là tiếng ù ù rền rền như tiếng trống liên hồi, người sơ khai tin rằng thần linh đang nổi cơn thịnh nộ. Và sấm, sét chính là cách thức thần linh trừng phạt con người.
Để hiểu chớp, sét và sấm,
ta cần nhớ lại những hiểu biết
về điện. Nhưng trước hết, cần
nói rõ chớp và sét tuy mang
hai tên nhưng chỉ là một hiện
tượng. Khi ta chỉ nhìn thấy tia
42
sáng nháy nháy mà không nghe thấy tiếng nổ, hoặc nghe rất xa, ta gọi đó là chớp. Khi thấy tia sáng lóe, tiếng nổ gần và lớn, ta gọi đó là sét.
Ta biết rằng mọi vật liệu đều có khả năng nhiễm điện và tích điện - điện “dương” hoặc điện “âm”. Dương điện có sức hút rất mạnh đối với âm điện. Điện tích càng lớn thì sức hút nhau càng mạnh. Khi điện tích đạt tới cực điểm - nghĩa là đến mức “quá tải” - thì vật chứa điện sẽ bị “đập bể”. Sự phóng điện - đập bể bình chứa - chính là để giải tỏa sức căng do sự quá tải để làm cho hai điện tích đó được cân bằng về điện. Hiện tượng sét xảy ra theo đúng quá trình vừa mô tả.
Một đám mây chứa điện tích trái với điện tích của một đám mây khác hoặc với điện tích của một vật ở dưới đất (cái nhà chẳng hạn). Khi điện áp giữa hai vật chứa đủ mạnh để có thể “bẻ gãy” sự ngăn cách của không khí giữa chúng với nhau thì một tia lửa điện bật lên. Sự phóng điện sẽ theo con đường có sức đề kháng yếu nhất. Do đó, chớp thường ngoằn ngoèo chữ chi là vậy.
Khả năng dẫn điện của không khí tùy thuộc nhiệt độ, tỷ trọng và độ ẩm. Không khí khô là vật cách điện rất tốt. Nhưng không khí ẩm lại là vật dẫn điện khá tốt. Đó là lý do tại sao khi đã bắt đầu mưa rồi thì sấm chớp cũng giảm lần rồi ngưng. Không khí ẩm tạo thành vật dẫn điện khiến cho các đám mây điện tích có thể “giao lưu” một cách thoải mái nên không có trường hợp tích điện quá căng nữa.
43
Thế còn sấm là gì? Khi có hiện tượng phóng điện, không khí quanh chỗ bị dãn ra sau đó co lại cực nhanh. Sự đụng chạm giữa dãn và co cực nhanh và mạnh giữa hai luồng khí này gây ra tiếng nổ. Tiếng rền rền chính là tiếng vang của sấm từ các đám mây khác phản dội lại.
Ánh sáng truyền đi với vận tốc 300.000 km/giây, trong khi đó âm ba (tức sóng âm) chỉ truyền đi với vận tốc 340 m/giây trong không khí, do đó ta luôn thấy chớp rồi sau đó mới nghe thấy sấm.
24
Cầu vồng là gì?
Cầu vồng là một hiện tượng tự nhiên đẹp đẽ nhất. Ngay từ thời xa xưa, cầu vồng đã gây cho con người biết bao nhiêu ngạc nhiên và tò mò muốn biết nó là cái gì? Ngay đến như Aristotte, một đại triết gia thời cổ Hy Lạp cũng đã tìm cách giải thích hiện tượng cầu vồng. Ông cho rằng cầu vồng là do mưa phản xạ ánh sáng mặt trời. Nhưng giải thích như ông là... sai!
Ánh sáng mặt trời thông thường - mà ta gọi là ánh sáng trắng - thực ra là ánh sáng pha trộn các màu. Có lẽ bạn đã thấy ánh sáng phản chiếu từ mép một tấm kiếng hoặc từ cái bọt xà phòng rồi chứ? Bạn thấy nó lấp lánh màu ngũ sắc? Đó, ánh sáng “trắng” bị tán sắc thành các màu: đỏ, cam, vàng, lục, xanh, tím. Một dụng cụ có khả năng làm tán sắc ánh sáng “trắng” là cái lăng kính. Ánh sáng trắng qua lăng
44
kính sẽ bị phân tán thành một dải màu khít bên nhau. Giải băng màu này gọi là “quang phổ”.
Cầu vồng, thực chất, chỉ là quang phổ có hình bán nguyệt, tức là một dải màu do ánh sáng xuyên qua nước mưa - là một thứ lăng kính - bị tán sắc mà ra. Người ta chỉ nhìn thấy cầu vồng lúc trời vừa mưa vừa nắng. Nhưng nếu lấy bạn làm trung tâm, mặt trời phía sau lưng, mưa phía trước mặt thì bạn không thể thấy cầu vồng. Mặt trời chiếu qua vai bạn rọi vào đám mưa. Mây và mưa là “lăng kính” làm tán sắc ánh sáng mặt trời. Vậy muốn nhìn thấy cầu vồng thì mặt trời, con mắt của bạn, điểm giữa của cung cầu vồng phải nằm trên một đường thẳng.
Nếu mặt trời ở quá cao so với chân trời thì không thể vạch được một đường thẳng như vừa nói. Đó là lý do vì sao ta chỉ thấy cầu vồng vào lúc sáng sớm và lúc xế chiều. Cầu vồng buổi sáng có nghĩa là mặt trời ở phía tây và mưa ở phía đông.
Những người mê tín thường tin rằng cầu vồng là một điềm gở vì các linh hồn đã theo cầu vồng đi lên trời. Do đó,
có cầu vồng có nghĩa là có người sắp chết.
45
25 Tại sao ở miền xích đạo
trời lại nóng?
Mỗi khi nhìn vào mô hình quả địa cầu, bạn thường thấy một đường chỉ đỏ bao quanh ở chính khúc giữa và chia địa cầu thành hai bán cầu bằng nhau. Sợi chỉ đỏ đó tượng trưng cho xích đạo. Thật ra xích đạo chỉ là một đường tưởng tượng. Nếu dùng tàu bay, nhất là tàu thủy từ nam lên bắc hoặc từ bắc xuống nam bạn chẳng bị một sợi chỉ đỏ nào chắn ngang bao giờ. Tuy nhiên mỗi khi đi ngang qua xích đạo, các thủy thủ đều có lệ làm một nghi thức “xuyên xích đạo”.
Chữ “xích đạo” theo tiếng La tinh có nghĩa là bằng nhau. Đây là đường tưởng tượng chia địa cầu thành hai phần bằng nhau. Những đường tưởng tượng khác song song với xích đạo gọi là vĩ tuyến. Đường xích đạo gọi là vĩ tuyến 0. Từ vĩ tuyến 0 ngược lên Bắc bán cầu, vĩ tuyến đầu tiên là bắc vĩ tuyến 1, kế đó là bắc vĩ tuyến 2... cứ như vậy lên đến Bắc cực. Từ xích đạo xuống phía nam thì vĩ tuyến đầu tiên gọi là nam vĩ tuyến 1. Cứ như vậy cho đến Nam cực.
Xuất phát từ Bắc cực đi xuống phía xích đạo, thoạt tiên là miền cực đới, xuống nữa là miền ôn đới, xuống nữa là miền nhiệt đới (bắc), qua xích đạo là miền nhiệt đới (nam), ôn đới (nam) và cực đới (nam). Miền xích đạo từ xích đạo lên tới 23,5 vĩ độ bắc và 23,5 vĩ độ nam. Trong miền này ánh sáng mặt trời rọi xuống hầu như theo đường thẳng đứng.
46
Do đó khí hậu miền này nóng. Ta hãy tìm hiểu xem tại sao vậy? Ta đã biết trục trái đất nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo quanh mặt trời đúng 23,5 độ. Do sự nghiêng này, khi quay quanh mặt trời, trái đất bị ánh sáng mặt trời khi thì chiếu thẳng góc vào phía bắc xích đạo, khi thì thẳng góc với phía nam xích đạo. Tuy nhiên, sự chiếu thẳng này không thể vượt quá 23,5 vĩ độ bắc hoặc nam.
Sự kiện này giải thích tại sao miền xích đạo là miền duy nhất trên địa cầu bị mặt trời chiếu thẳng quanh năm và do đó khí hậu miền này nóng quanh năm.
26
Khói là gì?
Khói là kết quả sự cháy không hoàn toàn của một loại chất đốt nào đó. Điều này có nghĩa là nếu chất đốt hoàn toàn cháy hết thì không có khói.
Các loại chất đốt - nhất là dầu khí - gồm carbon, hydro, oxy và nitơ và một ít sulfure,
có thể thêm tí ti than kim loại. Nếu
chất đốt - dầu - cháy hoàn toàn thì
sản phẩm của sự cháy hoàn toàn này
sẽ là khí carbon dioxide, hơi nước và
khí nitơ tự do. Tất cả những chất khí
này đều độc hại. Nếu trong chất đốt -
nhiên liệu, dầu - có sulfure chẳng hạn,
47
những phần tử cực nhỏ của sulfure dioxide cũng bị nhả ra. Và khi những phần tử khí này tiếp xúc với không khí ẩm, nó trở thành acid.
Để có sự cháy hoàn toàn, nhiều nhiên liệu phải có đủ không khí để có sự oxy hóa hoàn toàn ở nhiệt độ cao. Rất khó thỏa mãn yêu cầu này nhất là với nhiên liệu thể rắn. Do đó kết quả của sự cháy không hoàn toàn là khói. Anthracite và than đá có thể cháy mà không có khói vì chúng không chứa chất nào có khả năng bốc hơi. Nhưng loại than đá bi tumin phân hủy ở nhiệt độ khá thấp nên phóng ra các chất thải: các chất này kết hợp với bụi và than để tạo nên khói.
Không khí trong bất cứ thành phố nào cũng đều có vô số những hạt nhỏ, đặc bay lơ lửng nhưng không hẳn là khói. Nó có thể chứa bụi, các chất thuộc về thực vật hay chất nào khác. Tất cả những chất này sớm muộn gì cũng bị sức hút của trái đất kéo xuống. Trong các thành phố nhỏ hoặc ở ngoại ô các thành phố lớn, hàng năm, một dặm vuông có thể nhận được từ 75 đến 100 tấn các loại bụi này. Ở các thành phố công nghiệp lớn thì con số này có thể lớn hơn đến 10 lần.
Khói có tác hại rất lớn cho sức khỏe, tài sản và thực vật. Tại những thành phố lớn, nó làm giảm cường độ ánh sáng, đặc biệt là tia cực tím.
Nếu gió không làm tan khói đi thì có lẽ tại thành phố ngày nào cũng có sương mù. Trong thực tế, nơi có nhiều khói - sương mù thì tỷ lệ bệnh phổi và tim tăng cao. Tác động
48
của khói vào thực vật hết sức tai hại. Nó gây trở ngại cho sự “thở” của các “lỗ khổng” - tức là cái “lỗ mũi” của thực vật và che khuất ánh sáng mặt trời rất cần thiết cho quá trình diệp lục hóa của lá cây. Đã có nhiều lúc acid trong khói trực tiếp hủy hoại thực vật. Bạn có bao giờ nghe nói “mưa acid” chưa? Nó đó, khói kết hợp với các phân tử nước và trong khói có nhiều phân tử acid như acid sulfuric... Mưa acid có khả năng tiêu diệt cả rừng cây, làm ô nhiễm nước uống...
Ngày nay người ta đang nỗ lực làm giảm khói và ngăn ngừa sự tác hại do khói gây ra.
27
Sương khói là gì?
Trong khoảng từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 12 năm 1952, riêng tại thành phố Luân Đôn có khoảng 4000 người chết vì hậu quả của sương khói. Vậy sương khói là gì và tại sao nó lại nguy hiểm?
Tại nhiều thành phố, sự kết hợp của nhiều loại khí và hơi công nghiệp lan trong không khí đã tạo nên một loại sương mù đặc biệt gọi là sương khói. Từ smog là từ kết hợp của hai từ smoke (khói) và fog (sương mù). Hít phải thứ sương khói này, nhiều người bị ho. Nếu có nhiều khói và những hạt li ti lẫn trong sương khói thì rất độc.
Ngày nay, trong không khí lúc nào cũng có bụi. Bụi là những hạt chất rắn nhỏ li ti bay lơ lửng trong không khí. Bụi
49
có thể từ dưới mặt đất bốc lên, có thể do hoạt động của núi lửa, do sự cháy rừng và do khói xe hơi, khói nhà máy thải ra và nhất là các chất thải của các nhà máy sản xuất hoặc sử dụng hóa chất. Số lượng bụi trong không khí khó mà tin được. Người ta ước lượng nước Mỹ mỗi năm “hứng” được 43 triệu tấn bụi trong đó có 31 triệu tấn do nguồn tự nhiên, số còn lại 12 triệu tấn là do con người tạo ra.
Dĩ nhiên, các thành phố lớn “hứng” được nhiều bụi nhất. Tính trên mỗi dặm vuông, thành phố Detrolt hàng năm lãnh 72 tấn, New York 69 tấn, Chicago 61 tấn, Pittburg 46 tấn và Los Angeles 33 tấn. Nếu tính khu vực trong một thành phố thì khu có nhiều nhà máy, mỗi dặm vuông có thể hứng được 200 tấn mỗi năm.
Đây là vấn đề quan trọng liên can đến sức khỏe trong các thành phố lớn. Do đó người ta phát động nhiều chiến dịch rầm rộ đòi hỏi phải tìm mọi cách để làm giảm lượng bụi công nghiệp trong thành phố. Những nhà máy tạo ra nhiều bụi phải tìm cách làm sao vừa giảm lượng bụi vừa làm cho bụi không lan tỏa ra, người ta dùng nhiều phương cách và nhiều phương tiện. Kể cả phương tiện phun hơi nước để các hạt bụi bị ướt, nặng và rớt xuống đất. Nhưng vấn đề bụi nguy hiểm trong không khí - tức là sương khói - vẫn chưa được giải quyết một cách rốt ráo.
50
28
Kích cỡ một nguyên tử là bằng nào?
Nên nói trước: tất cả những hiểu biết của ta hôm nay về nguyên tử có thể bị thay đổi vào ngày mai. Bởi vì trong khoa học thường xuyên phát hiện ra những điều mới lạ về nguyên tử, nhất là từ khi có máy “nghiền” nguyên tử ra đời.
Atom - nguyên tử - tiếng Hy Lạp có nghĩa là nhỏ quá đến nỗi không phân chia ra được nữa. Người Hy Lạp cho rằng nguyên tử là hạt nhỏ nhất của bất kỳ chất nào.
Ngày nay, chỉ mới tìm trong nhân của một nguyên tử, người ta đã phân định được trên hai chục loại hạt khác nhau. Các nhà khoa học cho rằng hạt nguyên tử chỉ được tạo nên bởi những hạt điện tử (electron), dương điện tử (proton), trung hòa tử (neutron), positron, neutrino, meson và hyperon. Electron là hạt mang điện âm. Hạt proton nặng gấp 1,386 lần hạt electron và mang điện tích dương. Hạt neutron nặng hơn nữa và không mang điện tích nào. Hạt positron kích cỡ cũng bằng hạt elec
51
tron và mang điện tích dương. Hạt neutrino kích cỡ bằng 1/1000 hạt electron và không mang điện tích. Hạt meson hoặc mang điện tích dương hoặc mang điện tích âm. Hạt hyperon lớn hơn hạt proton.
Bằng cách nào các hạt này dính với nhau? Đó vẫn là còn là điều bí mật ngay cả với cả các nhà khoa học. Nhưng các hạt này đã tạo thành các nguyên tố và các nguyên tố đều khác nhau. Sự khác nhau đầu tiên là ở trọng lượng. Vì vậy các nguyên tố được sắp hạng theo trọng lượng, chẳng hạn nếu lấy trọng lượng của một nguyên tử hydro làm đơn vị (“1”) thì trọng lượng của một nguyên tử sắt là 55, tức là một nguyên tử sắt nặng gấp 55 lần nguyên tử hydro.
Nhưng trọng lượng này là quá, quá nhỏ. Một nguyên tử hydro chỉ cân nặng có một phần triệu, triệu, triệu gram. Để có khái niệm về một nguyên tử nhỏ như thế nào, ta xem một gram hydro có bao nhiêu nguyên tử. Câu trả lời là con số 6 kèm theo hai mươi ba con số không (zéro). Nếu cứ lấy một giây đồng hồ ta đếm được một nguyên tử thì ta phải để ra một khoảng thời gian là 10 ngàn triệu triệu năm mới đếm hết được số nguyên tử trong một gram hydro.
29
Nguyên tử năng là gì?
Nguyên tử năng là năng lượng thu được từ nguyên tử. Mỗi nguyên tử đều chứa những hạt năng lượng. Lực đã làm
52
cho thành phần của các nguyên tử “dính” lại với nhau. Trong nguyên tử năng, hạt nhân nguyên tử là nguồn năng lượng và năng lượng này được phóng ra khi nguyên tử bị “đập bể”. Có hai cách để thu được năng lượng nguyên tử.
Cách thứ nhất là “tổng hợp” (fusion) và cách thứ hai là “phân hạch”. Tổng hợp là kết hai nguyên tử thành một. Sự tổng hợp nguyên tử sẽ giải tỏa một năng lượng kinh hồn dưới dạng nhiệt. Hầu hết năng lượng do mặt trời phóng ra là do sự tổng hợp nguyên tử mà ra. Và đó là một dạng của nguyên tử năng.
Dạng khác của nguyên tử năng là do quá trình phân hạch. Quá trình phân hạch diễn ra khi một nguyên tử bị tách ra làm hai. Đây là nguyên tắc để chế tạo bom nguyên tử. Nhà bác học “tách” một nguyên tử ra làm hai bằng cách bắn những hạt khác - hạt neutron chẳng hạn - vào một nguyên tử. Chẳng phải lúc nào bắn “đạn neutron” vào nguyên tử ta cũng có thể tách nguyên tử ấy ra đâu. Trên thực tế, hầu hết các nguyên tử đều hầu như không thể tách ra được. Nhưng có thể tách được nguyên tử uranium và plutonium với phương tiện và điều kiện thích hợp.
Một dạng uranium gọi là “U.235” (hay là uranium đồng vị). Một nguyên tử uranium đồng vị có thể bị hạt neutron bắn bể làm hai. Và khi đó, bạn biết có bao nhiêu năng lượng được phóng ra không? Chỉ một pound (khoảng 450g) có thể cho một năng lượng bằng một triệu pound than đá đốt
53
cháy hoàn toàn, chỉ cần một viên uranium xíu xíu là có thể tạo ra đủ năng lượng để dùng cho cả một cái tàu thủy lớn hay một cái máy điện.
30
Radium là gì?
Radium là chất phóng xạ. Thế nhưng phóng xạ là gì? Ta đã biết, bất cứ nguyên tố nào cũng do nguyên tử cấu thành. Hầu hết các nguyên tử đều “bền”, nghĩa là nó không thay đổi theo thời gian, không bị “biến chất”, bị “phân rã”. Hiện tượng này gọi là phóng xạ.
Một nguyên tử khi bị phân rã đều phóng ra “tia” ở một tốc độ nào đó. Dù làm cách nào thì tốc độ của tia này cũng không đổi, nghĩa là cũng không nhanh cũng không chậm hơn. Tốc độ phóng của mỗi nguyên tố cũng khác nhau. Có nguyên tố phóng nhanh, có nguyên tố phóng chậm. Nhưng mỗi nguyên tố có một tốc độ nhất định, dù làm cách nào cũng không thể tăng hoặc giảm tốc độ phóng của nó.
Trường hợp chất radium thì quá trình phóng tia của chất này diễn tiến hoài hoài cho đến khi chất radium biến thành chì. Chẳng hạn trong khoảng thời gian là 1590 năm, một nửa gram radium sẽ biến thành những nguyên tử có nguyên tử lượng thấp hơn và 1590 năm nữa thì một nữa còn lại sẽ biến đổi. Cứ như vậy, radium biến thành chì.
Ông bà Curie đã phát hiện ra uradium. Họ biết uradium phóng ra các tia không nhìn thấy được bằng mắt thường,
54
nhưng họ cảm thấy đó phải là chất gì khác nữa có năng lượng cao. Thoạt tiên, họ tìm thấy chất polonium, một nguyên tố phóng xạ khác và sau cùng họ thành công trong việc cô lập được một hạt radium.
Radium phóng ra ba loại tia được đặt tên là tia alpha, tia béta và tia gamma. Tia gamma là thành phần chuyển động nhanh nhất của hơi hélium. Tia béta là electron chuyển động nhanh nhất. Tia gamma cũng giống như tia X nhưng có tính xuyên thấu mạnh hơn. Phóng bất cứ tia nào trong ba tia này vào một nguyên tử của một nguyên tố nào đó thì đều có thể làm cho nguyên tử của nguyên tố ấy bị biến chất. Sự biến chất này gọi là “sự biến đổi nguyên tử” (atomic transmutation).
31
Phóng xạ là gì?
Ngày nay không ít người nói đến và lo lắng vì phóng xạ. Thử bom nguyên tử tạo ra phóng xạ. Và đó là vấn đề lớn nhất mà nhân loại ngày nay phải đương đầu. Người ta nhận thức được tai họa và sự nguy hiểm của phóng xạ. Nhưng hỏi phóng xạ là gì thì không phải là điều mà ai cũng trả lời được.
Ta bắt đầu chuyện phóng xạ bằng cách mô tả cấu trúc một nguyên tử. Nguyên tử của bất kỳ nguyên tố nào cũng đều giông giống như nhau và giông giống như cấu trúc hệ mặt trời. Trong hệ mặt trời thì mặt trời là hạt nhân, là
55
trung tâm. Xoay quanh mặt trời
là các hành tinh theo một quỹ
đạo nhất định. Trong nguyên tử
cũng có hạt nhân trung tâm gọi
là nucleus và các hành tinh là các
hạt điện tử. Nguyên tử có thể có
1, 2, 3... hạt tích điện dương tùy
từng nguyên tố.
Sự phóng xạ xảy ra khi có một cái gì khiến cho nguyên tử phóng ra một hay hai hạt từ chính hạt nhân của nó. Đồng thời nguyên tử cũng phóng ra năng lượng dưới dạng tia (tia gamma).
Có một vài nguyên tố tự nó có khả năng phóng xạ, nghĩa là có một vài nguyên tố thường xuyên “loại bỏ” các hạt của nó. Ta gọi hiện tượng này là “tách hạt” hoặc “phân rã”. Khi những hạt bị tách, bị phóng ra thì nguyên tố trải qua quá trình biến chất. Theo cách này, chất (nguyên tố) radium - có khả năng tự phóng xạ - phóng ra các hạt tức là liên tục phân rã để biến thành chất chì.
Các nhà khoa học đã biết cách tạo ra sự phóng xạ nhân tạo bằng cách dùng các hạt “bắn” vào nguyên tử của một nguyên tố nào đó làm cho nguyên tố - và qua đó làm cho nguyên tố đó - bị tách, bị phân rã, bị biến chất, nghĩa là trở nên phóng xạ. Nguyên tử bị bắn cũng phóng ra năng lượng. “Máy nghiền nguyên tử” được chế tạo dựa trên nguyên lý này.
56
Tại sao phóng xạ lại nguy hiểm cho con người? Ta hãy hình dung những hạt được phóng ra từ “máy nghiền”. Khi hạt này bắn vào một nguyên tử thì làm cho nguyên tử ấy bị tách, bị phân rã nghĩa là làm biến đổi hóa tính của nguyên tử đó. Nếu những hạt đó bắn vào tế bào sống thì chắc chắn nó cũng gây ra những biến đổi như vậy. Những hạt đó, “đốt cháy, hủy hoại” da, hồng huyết cầu và gây ra những biến đổi khác trong các tế bào khác.
Sự phóng xạ, tuy vậy, lại hữu ích cho con người bằng nhiều cách nhưng không phải là không nguy hiểm và tác hại. Nó là một con dao hai lưỡi rất sắc bén, nếu người sử dụng nó sơ sẩy thì khó tránh khỏi tai họa.
32
Tia X là gì?
Năm 1895, nhà bác học người Đức tên là Wilhelm Roent gen đã phát hiện ra tia X. Do đó, thay vì gọi là tia X người ta cũng gọi tia Roentgen để tưởng nhớ công ơn của ông.
Tia X có tính xuyên thấu giống như tia sáng thường. Nó khác tia sáng thường ở độ dài bước sóng và năng lượng. Độ dài sóng ngắn nhất phát ra từ ống tia X chỉ bằng một phần ngàn một phần triệu độ dài sóng của tia sáng màu lục. Nhờ độ dài sóng cực ngắn, tia X có thể xuyên thấu qua những chất mà tia sáng thường không thể xuyên qua. Độ dài sóng càng ngắn thì mức xuyên thấu càng mạnh.
57
Tia X được tạo ra từ ống tia X (X ray tube), không khí được rút ra khỏi ống cho đến khi chỉ còn một phần một trăm triệu lượng không khí lúc đầu (tức là gần như chân không). Trong ống - thường làm bằng thủy tinh - có hai điện cực. Một gọi là ca-tốt (cực âm) chứa âm điện. Bên trong cực này là một lõi bằng dây “tung-ten” có thể bị hun nóng bằng dòng điện để có thế phóng các hạt electron đi. Cực kia gọi là “a-nốt” được dùng làm mục tiêu tác xạ.
Các hạt electron được bắn từ “ca-tốt” sang mục tiêu “a-nốt” với tốc độ rất lớn vì sự khác biệt giữa “ca-tốt” và “a-nốt”. Tốc độ ấy có thể từ 96.000 km tới 280.000 km/giây.
Mục tiêu (a-nốt) có thể là một thỏi hay một cuộn dây tung-ten có chức năng “thắng gấp” các “viên đạn” electron. Hầu hết năng lượng của các electron này sẽ biến thành nhiệt, phần còn lại thành tia X và thoát ra khe miệng ống phía dưới.
Bạn có bao giờ tự hỏi: làm thế nào mà với tia X lại có thế chụp được hình phổi, xương của bạn? Hình quang tuyến X trên phim thật ra chỉ là “cái bóng” (shade) của cơ phận được tia X rọi vào. Tia X xuyên qua phần cơ phận được rọi
58
và để lại “cái bóng” của cơ phận đó trên phim. Phim được phết ở cả hai phía một chất nhũ tương rất nhạy. Sau khi đã “bắt hình” thì đem “tráng” như phim thường vậy. Xương và những gì tia X xuyên qua dễ dàng thì sẽ để lại trên phim cái bóng của nó.
Ngày nay, X quang giữ một vai trò quan trọng trong y khoa, khoa học, kỹ nghệ và là một trong những dụng cụ hữu ích nhất của con người.
33
Cái gì tạo ra ảo ảnh?
Hãy tưởng tượng một lữ hành trong sa mạc đang khát khô cả cổ mà nhìn thấy xa xa có một cái hồ nước trong veo, phản chiếu hàng cây bên hồ. Ông ta rảo bước tiến tới “cái hồ” kia. Nhưng rồi hình ảnh cái hồ kia mờ dần đi. Cuối cùng, trước mắt ông, hồ đâu cây đâu chẳng thấy, chỉ thấy trên trời nắng đổ lửa, dưới là biển cát trải dài tới tận chân trời. Hình ảnh cái hồ nước mà người lữ hành nhìn thấy phía xa xa kia - tuy là ngay trước mắt - thật ra chỉ là ảo ảnh.
Cái gì đã tạo ra ảo ảnh? Đó là cái trò tinh quái mà thiên nhiên đã bày ra trước mắt để lừa gạt ta chơi vậy thôi. Nhưng thiên nhiên cũng chỉ có thể chơi cái trò ấy khi có một số điều kiện nhất định trong khí quyển. Trước hết, nên hiểu rằng phải có một vật thật - một cái hồ có bóng cây soi mình trên nước là một cái hồ có thật - thì mới có một vật ảo (hay ảo ảnh).
59
Và chỉ thấy ảo ảnh khi ánh sáng của vật thật ấy “đập” vào mắt ta. Thông thường, ánh sáng truyền theo đường thẳng. Vậy, nếu ta nhìn quá về phía xa, ta chỉ nhìn thấy những vật ở phía bên trên chân trời.
Ta trở lại cái trò lừa gạt bằng ánh sáng của khí quyển. Nhiệt làm cho không khí giãn nở. Trong sa mạc, lớp không khí sát với mặt cát nóng bỏng bị “giãn”, bị “loãng” hơn lớp không khí phía bên trên. Lớp không khí bên trên đóng vai tấm gương (kiếng soi). Đối vật - tức là vật thật - có thể ở ngoài tầm mắt ta, nó nằm đâu đó phía dưới chân trời. Nhưng những tia sáng chiếu từ vật thật phản chiếu lên, gặp lớp không khí “đặc” hơn phía trên, sẽ bị khúc xạ (phản xạ). Tia phản khúc xạ đó đập vào mắt ta. Do đó, ta thấy vật thật như thể nó ở phía bên trên chân trời nhưng trong tầm mắt ta. Thật sự là ta đang nhìn thấy “hình ảnh” của vật thật chớ không phải là nhìn thấy chính vật thật. Nếu ánh sáng phản chiếu một hồ nước, ta sẽ nhìn thấy “hình ảnh” hồ nước. Nếu ánh sáng phản chiếu một lâu đài, ta sẽ nhìn thấy “hình ảnh” một lâu đài lớn trong một tấm gương lớn làm bằng... không khí.
Chẳng cần phải vào tận sa mạc mới thấy được ảo ảnh. Vào một buổi trưa nắng, trên quốc lộ, bạn thấy đoạn đường phía xa xa trước mắt hình như bị ướt. Trời nắng chang chang, mưa ở đâu ra? Ảo ảnh đó bạn! Cái mà bạn nhìn thấy “ươn ướt” thật ra chỉ là ánh sáng từ bên trên đã bị không khí nóng trên mặt đường khúc xạ nên ta tưởng nó nằm ngay trên mặt
60
đường. Ở ngoài biển cũng có thể có ảo ảnh. Mà ảo ảnh ở ngoài biển mới là kỳ quái: ta thấy con tàu đang lướt sóng trên trời! Trường hợp này là không khí nằm phía bên trên mặt biển lạnh (mát) hơn lớp không khí bên trên. Con tàu ở xa khuất phía dưới chân trời có thể được nhìn thấy do ánh sáng từ con tàu bị lớp không khí phía bên trên khúc xạ và truyền đến mắt ta.
Một trong những ảo ảnh nổi tiếng nhất thế giới thường diễn ra ở eo biển Messina. Cả thành phố Messina phản ánh lên trời khiến cho ta nhìn thấy thành phố ấy như đang ở trên trời. Người Ý gọi hiện tượng này là Fata Morgana - đặt theo tên của Morgan Le Fay, một nàng tiên quỷ quái đã tạo ra ảo ảnh này.
34
Tốc độ âm thanh?
Mỗi khi có một âm thanh phát ra có nghĩa là có một cái gì đó bị rung (dao động). Rung có nghĩa là chuyển động qua lại thật nhanh. Nhưng có một cái gì đó bị dao động, không có nghĩa là tất nhiên ta nghe được âm thanh đó. Âm thanh cần một cái gì đó “chuyên chở” nó từ nguồn âm đến tai ta thì lúc đó ta mới nghe thấy. “Cái gì đó chuyên chở âm thanh” chính là “môi trường âm”. Môi trường có thể là bất cứ thứ gì - chất khí (không khí), chất lỏng (nước), chất đặc (đất chẳng hạn). Người da đỏ thường áp tai xuống đất để nghe tiếng động từ xa.
61
Không có môi trường, không có âm thanh! Nếu tạo ra được một khoảng không hoàn toàn trống rỗng (không có không khí...), âm thanh không thể truyền đi được. Lý do vì âm thanh được truyền đi dưới dạng sóng ta gọi là âm ba. Vật dao động khiến cho các phân tử của những vật (chất) khít bên nó dao động lên theo. Mỗi hạt truyền chuyển động cho hạt bên cạnh. Kết quả là sóng âm (âm ba).
Vì môi trường trong đó âm được truyền đi có thể từ gỗ qua không khí đến nước nên hiển nhiên là sóng âm cũng được truyền đi theo những tốc độ khác nhau. Vậy khi được hỏi âm truyền đi theo tốc độ nào thì trước khi ta trả lời, ta phải hỏi lại: “Âm được truyền đi trong môi trường nào?” Biết được môi trường truyền âm thì mới nói được tốc độ âm. Tốc độ truyền âm trong không khí là khoảng 335 m/giây với điều kiện không khí ở nhiệt độ 00C. Trong sắt, thép tốc độ âm đạt tới khoảng 2200 m/giây.
Chắc bạn lầm tưởng âm mạnh (lớn) truyền nhanh hơn âm yếu? Lầm! Tốc độ truyền âm không tùy thuộc ở cường độ âm lượng mà tùy thuộc môi trường truyền dẫn âm. Bạn cứ lấy hai hòn đá chọi vào nhau khi bạn đứng trên mặt nước. Rồi lặn xuống, chọi hai hòn đá vào nhau, bạn nghe tiếng chọi nào rõ hơn? Tiếng chọi dưới nước, phải không?
35
Lửa là gì?
Khi bị đốt thì than củi, bị cháy. Thông thường, khi than, củi cháy thì có lửa. Nhưng các nhà khoa học thì không phải
62
bất cứ hiện tượng cháy nào cũng có lửa, có điều là trong bất cứ dạng “cháy” nào thì cũng có khí oxy kết hợp với chất liệu có thể cháy. Phản ứng kết hợp này tạo ra nhiệt. Nếu quá trình kết hợp này diễn ra nhanh, ta có thể nhìn thấy ngọn lửa đỏ rực và có mùi “cháy” như trong trường hợp cháy bùng. Khi củi, giấy kết hợp với khí oxy ta thường thấy ngọn lửa. Nhưng sự cháy diễn ra ngay cả ở bên trong máy. Chất đốt kết hợp với khí oxy trong không khí ngay trong lòng xi lanh.
Trong máy xe hơi, tiến trình cháy diễn ra rất nhanh đến nỗi ta gọi nó là “nổ”. Ngược với tiến trình cháy rất nhanh, có tiến trình cháy rất chậm - có khi nhiều năm ta mới nhận thấy - ta gọi đó là sự cháy ngầm. Sắt bị rỉ sét chính là hiện tượng cháy ngầm. Khí oxy cần cho sự cháy là một nguyên liệu rất sẵn trong thiên nhiên. Trong không khí bao quanh ta chứa 20% khí oxy. Và khí oxy này lúc nào cũng “hăm hở” tham gia vào quá trình cháy.
Không có oxy, không có sự cháy. Đúng quá rồi! Nhưng nếu không có chất đốt thì cũng không có sự cháy, dĩ nhiên! Chất đốt dễ cháy nhất là xăng. Ngoài ra còn có các chất đốt khác như than, củi khí đốt...
Trong quá trình cháy, hai nguyên tử oxy trong không khí kết hợp với một nguyên tử carbon trong chất đốt để tạo thành một phân tử của chất mới gọi là carbon dioxide. Bạn có biết rằng ngay trong chính thân thể của bạn cũng đang thường xuyên diễn ra một quá trình cháy không? Chính nhờ quá trình cháy này, bạn có thân nhiệt và năng
63
lượng để đi, đứng, làm việc. Và hơi thở ra của bạn chính là để thải khí carbon dioxide phát sinh trong quá trình cháy trong cơ thể bạn đấy.
36
Khí oxy là gì?
Người ta có thể nhịn uống một ngày hay hơn một ngày, có thể nhịn ăn cả tuần lễ, thậm chí cả tháng mà vẫn sống. Nhưng nhịn thở được bao lâu? Năm đến mười phút là quá. Có một chất rất cần cho sự sống con người, đó là khí oxy.
Khí oxy là một trong những nguyên tố dồi dào nhất trong thiên nhiên. Nó góp phần một nửa thành phần tạo nên vỏ địa cầu và một phần năm bầu khí quyển. Ta hít không khí - trong đó có oxy - vào phổi. Khí oxy được các hồng huyết cầu “chở” đi - qua các mạch máu - đến khắp nơi trong cơ thể để nuôi dưỡng các tế bào. Khi oxy “đốt cháy” thực phẩm để tạo ra nhiệt cần thiết cho sự hoạt động của các cơ quan trong thân thể con người.
Khí oxy rất “dễ tánh”. Nó sẵn sàng kết hợp với hầu hết các nguyên tố. Quá trình kết hợp này gọi là “oxyt hóa”. Khi sự oxyt hóa diễn ra mau lẹ, ta gọi là sự cháy. Trong hầu hết các trường hợp, oxyt hóa đều có sự tỏa nhiệt. Khi sự tỏa nhiệt này diễn ra nhanh đến nỗi không có thì giờ để tỏa ra kịp thì nhiệt độ tăng lên rất cao và lúc đó xuất hiện ngọn lửa. Vậy, ở đoạn đầu ta có sự cháy, sự oxyt hóa nhanh, tạo ra lửa. Ở đoạn cuối, ta lại có oxyt hóa “đốt cháy” thực phẩm
64
trong cơ thể để duy trì sự sống. Nhưng sự cháy chậm bằng khí oxy trong không khí thì diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Sắt bị rỉ, sơn bị khô, rượu hóa thành dấm... tất cả đều chỉ là sự oxyt hóa mà thôi.
Không khí ta thở hàng ngày pha trộn khí nitơ với oxy. Ta có thể tạo ra khí oxy nguyên chất từ không khí bằng cách làm lạnh không khí ở nhiệt độ rất thấp, khiến cho không khí hóa lỏng. Nhiệt độ ấy là 3000 Fahrenhelt. Khi không khí lỏng được làm cho ấm dần, nó sẽ sôi lên, lúc đó, khí nitơ bốc hơi, còn lại là khí oxy. Nhiều người bị bệnh phổi được cứu sống nhờ thở khí oxy này một cách dễ dàng.
37
Nước là gì?
Khi các nhà khoa học tự hỏi trên các hành tinh khác có sự sống không thì họ cũng đặt câu hỏi: trên đó có nước không? Đời sống, như ta đã biết, không thể thiếu nước.
Nước - tất nhiên là nước nguyên chất - không mùi, không vị, không màu sắc, là thành phần quan trọng trong mọi sinh vật kể cả thảo mộc. Nước có trong đất, trong không khí. Sinh vật, kể cả thực vật, chỉ có thể tiêu hóa, đồng hóa thực phẩm khi thực phẩm này được hòa tan trong nước. Mô sống cũng chứa chủ yếu là nước. Vậy thì nước được cấu tạo bằng những chất (nguyên tố) nào? Đó chỉ là một hợp chất đơn giản bao gồm hai thứ khí: hydro, một loại khí rất nhẹ và khí oxy nặng hơn, một thứ khí có hoạt tính cao.
65
Nước được hình thành khi khí hydro bị “đốt cháy” trong khí oxy. Nhưng nước không giống với một nguyên tố nào trong số hai nguyên tố đã tạo ra nó. Nước có đặc tính riêng của nước. Cũng giống như các vật chất khác, nước có ba trạng thái: lỏng (trạng thái phổ biến), đông đặc (gọi là nước đá) và hơi (gọi là “hơi nước”). Nước ở trạng thái nào là do nhiệt độ.
Ở nhiệt độ 00C - hay 320F - nước chuyển từ thể lỏng sang thể đông đặc. Ở 1000C hay 2120F - nước chuyển sang thể hơi gọi là sự bốc hơi. Nếu bỏ cục đá vào cái ly đặt ở nơi ấm, nước đá bắt đầu hóa lỏng, ta gọi là tan chảy. Nếu đun nước do nước đá chảy ra, ta thấy nước đó bốc hơi (ở 1000C). Ngược lại làm lạnh hơi nước, ta được nước. Tiếp tục làm lạnh ta được nước đá.
Trong thiên nhiên không bao giờ có dạng nước nguyên chất. Nước trong thiên nhiên là một hợp chất trong đó có các chất khoáng, các chất khí khác và các sinh vật li ti.
38
Đất được cấu tạo bằng chất gì?
Cần nói rõ “đất” nói ở đây là đất canh tác để phân biệt với đất trong các cụm từ trái đất, mặt đất. Tất nhiên, từ đất trong các cụm từ trái đất, mặt đất cũng bao hàm đất trồng trọt (soil). Nhưng đất trồng trọt có một ý nghĩa chuyên môn hơn.
Trên mặt địa cầu, mặt đất không phải chỗ nào cũng được bao phủ bằng đất trồng trọt. Tuy nhiên, không có đất trồng trọt, loài người không thể tồn tại. Không có đất, không có
66
thực vật! Không có thực vật thì cả động vật lẫn loài người (người cũng là một loại động vật) không có thực phẩm. Thực phẩm sinh trưởng trong và trên đất tơi xốp, có dạng hạt. Đất (trồng trọt) được tạo nên bởi những mảnh, những hạt đá li ti và xác động, thực vật đã phân rã. Những hạt đá li ti đó thực chất là đá, xuất phát từ đá.
Không có thứ đá nào không bị phân rã theo thời gian. Trong thiên nhiên, quá trình bào mòn đá diễn ra thường xuyên và liên tục bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, khi băng hà di chuyển nó vừa đẩy vừa bào mòn đá. Những hòn đá cuội tròn, nhẵn thín là đá bị băng hà hoặc sóng bào mòn đó.
Nước, với các chất hòa tan, cũng bào mòn đá. Sự thay đổi thay đổi thời tiết làm cho đá tảng, thậm chí núi đá nứt ra lần lần thành viên đá nhỏ. Nhiệt độ cao làm cho đá “giãn nở”. Nhiệt độ thấp làm cho đá “co lại”. Quá trình “co giãn” đó làm cho đá nứt ra. Nước lọt vào các khe đó, gặp lạnh, nước đông đặc và do đó tăng thể tích khiến cho vết nứt ngày một rộng. Hạt giống lọt vào khe đá có dính đất, hạt giống nảy mầm, lớn lên. Rễ cây làm cho đá nứt ra. Gió bào mòn
67
đá bằng cách thổi những hạt cát khiến cho hạt cát cọ xát vào đá, làm cho đá mòn đi.
Tất cả hoạt động nói trên mới chỉ là khởi đầu của quá trình biến thành đất trồng trọt. Để trở thành đất trồng trọt được, những hạt đá mịn li ti kia còn phải được trộn lẫn với “mùn”. Mùn là các chất hữu cơ do xác thực và động vật phân rã. Nhờ vi khuẩn, xác động và thực vật phân rã trở thành “mùn”. Côn trùng dưới đất cũng góp phần quan trọng làm cho đất phì nhiêu. Lớp đất tốt nhất nằm phía trên cùng gọi là đất trồng trọt. Trong lớp đất này có nhiều “mùn”. Lớp đất phía dưới gọi là “lớp đất cát” (subsoil) gồm phần lớn là đá cuội. Lớp dưới nữa gọi là “lớp đá nền” (bedrock). Lớp này làm nền cho tất cả đất trồng trên toàn thế giới.
39
Chất kim loại bạc là gì?
Kể từ xa xưa, người ta đã biết khai thác mỏ bạc. Tại châu Âu, đã có thời sự giàu có của vua chúa tùy thuộc vào sự khai thác mỏ bạc. Thực ra, tại Tây Ban Nha, khi các mỏ bạc bắt đầu cạn, nhà vua lấy làm sung sướng khi nhận ra rằng sự phát hiện ra châu Mỹ đã giúp mình đoạt được nhiều lượng bạc lớn - kể cả mỏ bạc - ở Mexico và ở Peru. Mỏ Potosi ở Peru hàng năm khai thác được một lượng bạc tương đương với 4 triệu dollar trong suốt 250 năm cho vua Tây Ban Nha.
Trong thời kỳ “đổ xô đi tìm vàng” ở California, người ta quả quyết là “đất đen” có chứa bụi vàng. Thật ra, chỉ do tình
68
cờ mà người ta phát hiện ra quặng bạc. Bạc là một trong những kim loại được phân bổ rộng rãi nhất trên địa cầu. Đôi khi người ta tìm được bạc khối. Ở Na Uy, đã có lần người ta đào được một khối bạc nặng tới 750 kg. Nhưng thường thì bạc xuất hiện dưới dạng quặng tạp, phải đãi, lọc...
Trong quặng, bạc thường kết hợp được với lưu huỳnh dưới dạng sufat bạc, hay dưới dạng các sulfit chủ yếu gồm đồng, chì, thủy ngân. Ở Hoa Kỳ, bạc được tìm thấy lẫn với chì. Do đó cũng có nhiều phương pháp và kỹ thuật để tách bạc khỏi các hợp chất.
Bạc mềm nên ít được dùng trong trạng thái nguyên chất. Nó được tổng hợp với kim loại khác. Đồng tiền làm bằng bạc chẳng hạn chỉ có 90% là bạc, 10% còn lại là đồng. Các đồ dùng và đồ trang sức bằng bạc chỉ gồn 92,5% là bạc, còn lại là đồng.
Nước Anh có đồng tiền được gọi là đồng “sterling”. Tên này có nguồn gốc khá ngộ nghĩnh. Tên đó do nguồn gốc từ chữ Easterling là tên của một dòng họ người Đức, dòng họ này có những thương gia rất lương thiện, đến nỗi năm 1215, họ được vua John nước Anh giao cho nhiệm vụ đúc tiền cho nước Anh. Họ làm ăn đàng hoàng đến nỗi tên của họ được đồng hóa với giá trị bền vững của đồng tiền do họ đúc. Tất cả các đồng “sterling” bạc đều có in hình nổi “chuẩn bạc” cùng với chữ và huy hiệu của từng vùng.
Bạc ròng không bị mờ trong không khí sạch. Nếu nó hóa
69
sạm đen thì đó là dấu hiệu của chất sulfur trong không khí từ một thành phố đầy khói hoặc gần các giếng dầu. Gần giống với vàng, bạc rất dễ “trau” (chạm, khắc). Chỉ một ounce (0,28g) ta có thể kéo thành một sợi dài gần 50 km. Bạc dẫn điện và nhiệt rất tốt.
40
Vì sao ai cũng mê vàng?
Từ thời xa xưa, vàng đã được thiên hạ quý rồi, mê rồi. Có lẽ đó là kim loại đầu tiên mà con người biết được. Một trong những lý do khiến vàng thu hút được sự mê mẩn của con người (kể cả người thời xưa) là người ta có thể khơi khơi tìm được vàng. Nói là vàng khối cho nghe mà bắt ham, chứ thiệt ra chỉ là từng viên nho nhỏ - gọi là “nuggets” tức là vàng hạt - pha lẫn với kim loại khác. Vì cái màu vàng lấp lánh của nó nên ngay cả người nguyên thủy cũng muốn có vàng làm đồ trang sức.
Giá trị của vàng tăng lên khi người ta cho rằng nó là kim loại dễ “trau” nhất. Một hạt vàng có thể giát thành tờ rất mỏng và dễ “uốn” mà không bị rách, bị gãy. Đặc điểm này khiến người cổ xưa lấy vàng giát áp lên những vật mà họ muốn lấy hình, chẳng hạn như muốn lấy hình mặt người đã chết chẳng hạn. Có thời vàng được dùng làm cái vòng cột tóc. Và từ cái vòng cột tóc tiến lần đến cái vương miện.
Số vàng lượm được khơi khơi cũng đâu có nhiều. Tuy
70
nhiên muốn có nhiều, người ta trao đổi: gom lần lần cũng khá. Từ chỗ trao đổi vàng lấy hiện vật, vàng lần lần trở thành giá trị trung gian. Những vật khác có thể bị hư, sét rỉ, hao mòn, nhưng vàng thì không hoặc nếu có thì cũng rất rất ít, chẳng đáng kể. Do đó ngoài giá trị trung gian trao đổi, vàng mang thêm giá trị tồn trữ, để dành và là phương tiện tỷ giá.
Nhiều thế kỷ về sau, vàng được đem ra đúc thành tiền, nghĩa là được sử dụng như một phương tiện thuận lợi chỉ rõ số lượng độ tinh ròng và qua đó định giá trị của nó. Về sau, để đảm bảo an toàn, các nhà ngân hàng đã cất vàng trong kho rồi viết tờ giấy bảo đảm sẽ trao đủ số lượng vàng đã định. Đó là nguồn gốc của tiền giấy do nhà nước phát hành. Thực chất của tiền giấy là sự bảo đảm sẽ trả lại cho người cầm tờ giấy đó số vàng đã ghi trên tờ giấy.
41
Tại sao kim cương cứng?
Bạn đã thấy công nhân của sở giao thông công chánh làm đường cao tốc rồi chứ? Đơn giản hơn, bạn thấy bê tông nhựa rồi chứ? Làm thế nào bê tông nhựa trải trên mặt đường lại trở nên cứng đến nỗi xe tăng 40 tấn chạy trên đó mà mặt đường không bị lún, bị nứt? Chẳng có phù phép gì bí ẩn đâu. Cứ đổ bê tông nhựa xuống rồi cho xe lu nặng mấy chục tấn lăn tới lăn lui. Bánh xe lu sẽ ép cát, đá, nhựa... thành khối cứng như vậy đó. Càng ép, càng cứng, có vậy thôi.
71
Chế tạo kim cương dễ ợt vì nguyên tắc chế tạo kim cương - xin nhấn mạnh: nguyên tắc - cũng chỉ là nguyên tắc xe lu cán đường vậy thôi. Cách nay hàng triệu năm, lúc đó trái đất còn trong quá trình giảm nhiệt, tức là nguội đi từ từ ấy mà, thì ở dưới đất, đá vẫn chưa cứng như ngày nay, đá còn sền sệt. Nó phải chịu nhiệt độ cao, sức ép lớn. Chất carbon chịu sức ép này đã biến thành cái mà ta gọi là “kim cương”. Kim cương là vật liệu cứng nhất mà
ngày nay ta biết được. Nhưng không dễ
mà đo được độ cứng của nó. Chính nó
được dùng để thử độ cứng của các vật
liệu khác bằng cách lấy kim cương vạch
lên các vật liệu khác. Nếu vật bị vạch có
vết, trầy xước trong khi ấy kim cương không hề hấn gì thì có nghĩa là vật kia mềm hơn kim cương. Năm 1820, một người tên là Mohs đã xếp hạng độ cứng của các vật liệu bằng cách này: Ông xếp hạng từ mềm đến cứng: 1 - talc (mềm nhất), 2 - gypsum, 3 - calcite, 4 - fluorite, 5 - apatit, 6 - fedspar, 7 - quartz, 8 - topaz, 9 - corundum, 10 - diamond (kim cương).
Nhưng làm thế nào để so sánh độ cứng của các vật liệu ấy với nhau? Chẳng hạn, người ta thấy theo bảng xếp loại trên thì độ cứng của corundum đứng hạng chín và kim cương đứng hạng mười, nhưng sự khác biệt về độ cứng giữa hai hạng này thì lớn hơn sự khác biệt giữa hạng 9 và hạng 1. Do đó kim cương cứng nhất.
72
Vấn đề đặt ra: nếu kim cương cứng như vậy thì lấy gì mà đẽo gọt nó? Phương tiện duy nhất để đẽo gọt kim cương lại chính là kim cương. Kim cương được cưa bằng cái cưa có lưỡi là chính các hạt kim cương nhỏ xíu. Thật ra, trong công nghiệp, các bàn quay, xay, cắt bằng kim cương được dùng trong nhiều việc khác nhau như mài ống kính (máy ảnh), để cắt các dụng cụ làm bằng đồng, thau, các kim loại khác, nhất là cắt kiếng. Ngày nay hơn 80% kim cương sản xuất được dùng trong công nghiệp.
42
Cao su là gì?
Chắc các bạn tưởng cao su mới được con người biết đến và đưa vào sử dụng gần đây thôi. Đúng và không đúng. Đúng nếu nói nó được sử dụng rộng rãi, không đúng, vì trong các phế tích của người da đỏ Incas và Maya ở Trung Mỹ, người ra đã tìm được những trái banh cao su - tất nhiên là cao su thô - cách nay ít ra cũng 900 năm rồi. Và cây cao su? Nó đã góp mặt với đời từ cách nay 300 triệu năm.
Trong chuyến du hành sang Tân thế giới lần thứ hai, chính mắt Colombo đã thấy một người da đỏ chơi banh làm bằng “nhựa cây”. Trước đó nữa, các thổ dân ở Nam Á đã biết dùng nhựa của một thứ cây để trét vào “cần xé” đặng đựng... nước.
Người ta có thể lấy nhựa từ 400 loại cây khác nhau, kể
73
cả dây leo như cây nho chẳng hạn. Nhưng số lượng nhựa do mỗi loại cây cung cấp rất khác nhau cả về lượng lẫn về phẩm. Cũng có mủ (nhựa) đấy nhưng không nên lấy nhựa của các loại cây như bồ công anh, cây bông tai và ngải đắng.
Đặc điểm của mủ cao su là dính và đàn hồi. Nó khác với loại sáp. Mủ cao su được chứa dưới vỏ, rễ, thân, cành lá và quả. Nhưng nhiều mủ nhất vẫn là da dưới vỏ thân và cành. Mủ cao su gồm rất nhiều hạt nhỏ li ti hòa tan trong chất lỏng. Trong mủ cao su chỉ có 35% là “latex” (mủ, nhựa) thật sự, còn lại là nước. Những hạt mủ dính với nhau.
Cây cao su mọc tốt nhất ở vùng đất nằm trong khoảng 10 vĩ độ xích đạo hoặc khoanh vùng trong khoảng 1200 km hai bên xích đạo. Người ta gọi vùng này là vòng đai cao su. Lý do là vì cây cao su cần nhiệt và khí hậu ẩm, nhiều nước và đất tốt. Giống cây cao su tốt nhất là giống xuất phát từ nước Brazil có tên khoa học là Hevea brasiliensis. Ngày nay, 96% cao su tự nhiên được dùng trên thế giới là do nước
74
Brazil sản xuất. Nhưng trong vùng “vòng đai cao su” ngày nay, cây cao su cũng được trồng nhiều.
Người da trắng đầu tiên lấy mủ cao su để chế thành đồ dùng có lẽ là một người Pháp. Từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, ông ta đã dùng cao su để làm nịt vớ và thắt lưng.
43
Vôi là gì?
Trên thực tế, ngày nay, có lẽ hiếm người chưa một lần tiếp xúc với vôi. Biết bao lớp học xây bằng vôi, ciment. Đã biết bao thế hệ thầy cô giáo và học sinh đã dùng phấn để viết bảng.
Nói chắc các bạn khó tin nhưng đó lại là sự thật: vôi có nguồn gốc... động vật. Nước trong các đại dương có đầy và đủ các loại động vật. Một trong những sinh vật ấy là một đơn bào có tên là “Foraminifera”. Đơn bào, vậy mà nó cũng có một cái vỏ và cái vỏ ấy làm bằng... vôi. Khi chết cái vỏ tí xíu của nó chìm xuống đáy đại dương. Với thời gian, hàng tỉ tỉ con vật với cái vỏ tí hon bằng vôi ấy - di hài của chúng - rớt xuống đáy đại dương làm thành một lớp dày. Các lớp vỏ ấy bị áp suất của đại dương ép dính lại với nhau và hóa thành đá vôi.
Ta biết, trong quá trình hình thành vỏ địa cầu đã trải qua biết bao xáo trộn. Thời kỳ đó hiện tượng bể dâu - nghĩa là đất liền chìm xuống thành đáy biển và đáy biển bị dội lên
75
thành núi - không phải là hình tượng văn học mà là những hiện tượng tự nhiên. Chứng tích hiển nhiên của hiện tượng xáo trộn ấy là vùng Channel, bờ biển nước Anh. Những lớp đá vôi dưới đáy biển bị đội lên. Với thời gian, phần mềm bị hiện tượng xâm thực tự nhiên như mưa, gió bào mòn, còn trơ ra những bờ đá vôi sừng sững và cao ngất. Hai bờ đá vôi nổi tiếng nhất là Dover bên phía nước Anh và Dieppe bên phía nước Pháp của eo biển Channel.
Ở những nơi khác trên thế giới, những khoáng sản đá vôi ở ngoài biển cách xa đất liền cũng là chứng tích trước kia nó ở dưới đáy biển. Và ngày nay trên đất liền cũng không thiếu gì các chứng tích. Tại bang Kansas, bang Arkansas và Texas của Hoa Kỳ có đầy. Nhưng đá vôi tự nhiên và mịn nhất là ở nước Anh. Mỗi năm nước Anh “sản xuất” ra 5 triệu tấn đá vôi.
Từ hàng mấy trăm năm trước, con người đã dùng đá vôi dưới dạng này hay dạng khác. Phấn viết bảng rất quen thuộc với ta là đá vôi trộn lẫn với một loại đất sét để nó không bị tơi tả ra. Phấn viết bảng tốt nhất gồm 95% đá vôi. Người ta trộn màu vào vôi để làm ra bất kỳ loại phấn màu nào.
Quá trình rửa, nghiền thành bột và lọc được gọi là quá trình “tẩy trắng”. Với đá vôi được tẩy trắng, người ta chế tạo được rất nhiều sản phẩm và đồ dùng như kem đánh răng, phấn, sơn, giấy, bột lau kiếng và cả thuốc chữa bệnh...
76
44 Chất diệp lục tố là gì?
Khi cần phải nêu đặc trưng phân biệt thực vật với động vật thì bạn nêu đặc điểm gì? Thực vật có màu lục, nói nôm na là cây thì xanh. Tất nhiên có vài ngoại lệ. Nhưng đúng màu lục là một trong những luật cơ bản của thực vật: diệp lục tố.
Ngày nay, chất diệp lục tố là một trong những chất quan trọng có tính sinh tử trên toàn cầu. Bởi vì, diệp lục tố giúp cho thực vật hút các chất dinh dưỡng dưới đất và trong không khí để “chế biến” thành dưỡng chất nuôi cây. Nếu thực vật không làm được việc này thì thực vật chết. Và thực vật chết thì động vật - trong đó có con người - tìm đâu ra lương thực? Nếu bạn cứ đi ngược quá trình hình thành của bất cứ thứ lương thực nào thì bạn cũng sẽ thấy cái nguồn gốc thực vật của nó. Chắc mấy bợm nhậu không chịu. Nhưng rượu từ đâu ra? Dễ quá mà, từ nho, bắp, ngũ cốc, trái cây... bơ, phó mát rõ ràng là do sữa, sữa do bò. Bò ăn... cỏ!
Ôi, diệp lục tố! Chất huyền diệu giữ vai trò sinh tử trong đời sống con người. Diệp lục tố được chứa trong các tế bào lá, thân và cả hoa nữa. Với sự trợ lực của diệp lục tố, các tế bào thực vật có thể hấp thu năng lượng mặt trời và dùng năng lượng này để biến đổi các chất vô cơ thành hữu cơ. Quá trình này được gọi là quang hợp.
77
Có vài loại thực vật không có diệp lục tố. Làm sao loài thực vật ấy sống được? Các loại nấm không có diệp lục tố nên không thể chế biến thức ăn cho mình được. Vì vậy, nó phải lấy chất dinh dưỡng từ một cái gì khác. Nếu lấy từ cây hay từ động vật khác, ta gọi là nấm ký sinh. Nếu lấy từ các chất đã phân rã của động vật và thực vật, ta gọi đó là “thực vật hoại sinh”.
Ta có thể “chiết” diệp lục tố từ thực vật và dùng vào nhiều việc. Diệp lục tố có thể góp phần hủy diệt các vi khuẩn.
45
Hạt giống là gì?
Một trong những cách để thực vật sinh sản ra một cây khác (cùng loại) là hạt (giống). Cũng như động vật đẻ trứng để duy trì nòi giống, thực vật nuôi hạt để truyền giống.
Hoa - ta cần phân biệt hoa không kết trái, tiếng Anh gọi chung là flower, nhưng hoa có kết trái, tiếng Anh gọi chung là blossom - của một cây cần phải thụ tinh, nếu không hạt của nó không thể nảy mầm.
Sau khi hạt được phát triển đầy đủ, nó phải ngưng một thời gian thì mới nảy mầm được. Nhiều loại hạt không phát triển được cho đến khi nó qua mùa đông.
Hạt phát triển (nảy mầm) đòi hỏi phải có nước, khí oxy và sự ấm áp. Ánh sáng cũng góp phần cho hạt phát triển. Nếu đã phát triển đầy đủ mà trong một thời gian nó không được
78
nảy mầm thì nó sẽ chết. Muốn tồn trữ hạt để giữ về sau phải tồn trữ hạt ở nơi khô ráo và ở nhiệt độ thích hợp. Hạt có nhiều hình dạng, kích cỡ và màu sắc. Mỗi giống thực vật có mỗi hạt giống khác nhau. Chẳng hạn, có loại hạt chứa sẵn cây nhỏ xíu trong “bụng” nó. Xung quanh cây nhỏ xíu này là các chất bổ dưỡng để nuôi cây con cho đến khi cây non phát triển rễ và tự chế biến thức ăn cho mình. Nếu hạt sung mãn, đã ngưng phát triển, nay nhận được các yếu tố cần thiết như độ ẩm, khí oxy thì nó bắt đầu nảy mầm. Khi nhận được đủ nước thì hạt bắt đầu trương lên. Sự thay đổi hóa tính diễn ra, một lần nữa các tế bào của hạt giống lại biểu lộ sự sống và cây non xíu xiu trong hạt giống bắt đầu lớn lên. Hầu hết các phần của hạt đều xâm nhập để rồi đồng hóa với cây non, chỉ có cái vỏ là bị hủy hoại. Cây non lớn dần cho đến khi có thể tạo ra hạt. Hạt giống có thể nhỏ hay lớn. Hạt (giống) của cây thu hải đường nhỏ đến nỗi chỉ bằng hạt bụi, nhỏ tưởng đâu như phấn, bột. Trong khi đó trái dừa - là “hạt” dừa thì đúng hơn - lại rất to và nặng (có khi lên tới gần 2kg). Có giống cây mỗi mùa chỉ có chừng mươi hạt, nhưng cũng có cây mỗi mùa có thể có vài chục ngàn hạt. Hạt giống được hình thành theo nhiều cách và thực vật cũng có nhiều cách để gieo hạt. Nhờ chim, thú, ong, bướm, gió mưa, thực vật gởi hạt giống của mình gieo vãi rộng khắp. Có hạt có “cánh” bay đi, có cây làm nổ trái của mình để tung hạt của mình đi. Có hạt theo dòng nước trôi đi tìm nơi thích hợp.
79