🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Harry Potter Và Hoàng Tử Lai - Tập 6 - J. K. Rowling Ebooks Nhóm Zalo CHƯƠNG MỘT ÔNG THỦ TƯỚNG KIA Đ ã gần nửa đêm và ông Thủ tướng đang ở một mình trong văn phòng, đọc một cái biên bản dài lòng thòng cứ trôi tuồn tuột khỏi đầu óc ông mà không để lại đằng sau một tí xíu vết tích ý nghĩa. Ông đang đợi cú điện thoại của ông Tổng thống ở một nước rất xa, và vừa tự hỏi chừng nào thì cái ông chết tiệ ấy sẽ gọi, vừa cố gắng đàn áp cái ký ức khó chịu về những chuyện đã xảy ra trong một tuần lễ khó khăn, mệt mỏi và dài lê thê vừa qua, nên chẳng còn chỗ đâu trong đầu để chứa thêm cái gì khác nữa. Ông Thủ tướng càng cố gắng tập trung vào cái điều in trên trang giấy trước mặt, thì ông càng thấy rõ hơn bộ mặt lãng đãng của một tay trong đám đối thủ chính trị của ông. Cái tay đối thủ cá biệt này đã xuất hiện trên báo chí mỗi ngày, không những điểm qua tất cả những chuyện khủng khiếp đã xảy ra trong tuần vừa qua (làm như thể người ta cần nhắc nhở vậy) mà hắn còn giải thích nguyên nhân của mỗi chuyện và mọi chuyện hóa ra đều là sai lầm của chính quyền. Cứ nghĩ về mấy vụ buộc tội này là nhịp tim của ông Thủ tướng lại tăng nhanh, bởi vì đó toàn là những cáo buộc tầm bậy và oan ức.Chứ làm cách nào mà chính phủ có thể ngăn cây cầu sập xuống? Người nào cho rằng chính quyền đã không chi đủ tiền bảo quản cây cầu thì đúng là muốn sỉ nhục. Cây cầu ấy chưa đầy mười tuổi, và những chuyên gia giỏi nhất cứ ú ớ khi phải giải thích tại sao mà nó lại đứt đôi gọn gàng, tống hàng tá xe hơi xuống đáy nước của con sông chảy dưới gầm cầu. Và làm sao có kẻ lại dám cho rằng vì thiếu cảnh sát nên mới có cái hậu quả là có hai vụ sát nhân ghê tởm nổi đình nổi đám ấy? Hoặc cho rằng chính quyền đáng lẽ ra phải làm cách nào đó nhìn thấy trước trận cuồng phong quái đản ở Miền Tây đã gây ra vô số thiệt hại cho người lẫn của cải? Và chẳng lẽ đó cũng là lỗi của ông Thủ tướng nốt khi một trong mấy ông Phó Thủ tướng, ông Herbert Chorley, lại chọn đúng cái tuần lễ này để có hành vi khác thường là bỏ ra khối thì giờ ở nhà hủ hỉ với vợ con? “Đất nước ta đang mắc kẹt trong một tình thế ngặt nghèo.” Gã đối thủ đã kết luận như vậy, chả cần giấu giếm nụ cười toe toét nham nhở của mình. Mà rủi thay, điều nay lại hoàn toàn đúng. Chính ông Thủ tướng cũng cảm thấy như vậy; người ta quả thật có vẻ sầu thảm hơn mọi khi. Đến cả thời tiết cũng trở nên ảm đạm; cả cái trận sương mù lạnh cóng giữa tròi tháng bảy này nữa… Thật chẳng đúng gì cả, thật chẳng bình thường… Ông lật qua trang hai của biên bản, thấy nó còn tiếp tục lê thê hơn nữa, đành dẹp nó đi như một công việc nuốt không trôi. Vươn tay qua khỏi đầu để duỗi thân, ông Thủ tướng rầu rĩ nhìn quanh văn phòng của mình. Đó là một căn phòng đẹp, có một cái lò sưởi bằng đá hoa cương đối diện với những cửa sổ dài có khung kính trượt đã được đóng kín gài kỹ để ngăn cơn sương giá trái mùa. Khẽ rùng mình, ông Thủ tướng đứng dậy đi tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn sương mỏng đang cố ép vào lớp kính cửa sổ. Chính lúc đó, ông đang đứng quay lưng về phía căn phòng, ông nghe một tiếng ho nhẹ sau lưng mình. Ông đứng chết trân, giáp mặt với chính cái bóng khiếp sợ của gương mặt mình trong kính cửa sổ tối om. Ông đã biết rành tiếng ho đó. Ông đã từng nghe nó trước đây. Ông từ từ xoay người lại đối diện với căn phòng vắng hoe. “Chào?” Ông nói, với giọng cố gắng tỏ ra có can đảm. Trong một thoáng ngắn ngủi, ông tự cho phép mình có một niềm hy vọng không thể xảy ra là sẽ chẳng có ai đáp lời cả. Thế nhưng ngay lập tức, một giọng nói đáp lại liền, một giọng đanh thép cả quyết nghe như thể đang đọc một tuyên bố đã được soạn sẵn. Theo như ông Thủ tướng từng biết qua lần ho đầu tiên, thì giọng nói đó xuất phát từ một gã đàn ông nhỏ thó trông như con ếch đội một đầu tóc giả óng ánh bạc, được vẽ trong một bức tranh sơn dầu nhỏ nhắn đặt ở mút trong góc phòng. “Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Chúng ta cần gặp mặt khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Thành kính, Fudge.” Gã đàn ông trong bức tranh nhìn ông Thủ tướng dò hỏi. “Ờ,” ông Thủ tướng nói, “Thế này nhé… lúc này không thuận tiện cho tôi lắm… Anh biết đấy, tôi đang chờ một cú điện thoại… của ông Tổng Thống nước…” “Cái đó có thể dàn xếp lại.” Người trong tranh nói chặn ngay. Trái tim ông Thủ tướng chùng xuống. Ông đã lo ngại chuyện đó. “Nhưng thực tình tôi có phần mong muốn nói chuyện...” “Chúng tôi có thể dàn xếp để cho ông Tổng Thống quên béng đi vụ gọi điện thoại. Bù lại ông sẽ gọi vào tối mai,” gã đàn ông nhỏ thó nói. “Hãy lịch sự hồi âm ông Fudge ngay lập tức.” “Tôi… ơ… thôi được.” Ông Thủ tướng yếu ớt đáp. “Vâng, tôi sẽ gặp ông Fudge vậy.” Ông Thủ tướng vội vã trở lại bàn làm việc, vừa bước đi vừa chỉnh lại cái cà vạt. Ông chưa kịp ngồi xuống ghế và điều chỉnh gương mặt mình cho ra cái vẻ mà ông hy vọng là đỉnh đạc thong dong, thì những ngọn lửa xanh biếc chợt bùng cháy lên bên dưới cái bệ lò sưởi bằng đá hoa cương. Ông Thủ tướng nhìn, cố gắng không để lộ ra một tí tẹo ngạc nhiên hay sợ hãi nào, khi một người đàn ông bệ vệ xuất hiện từ trong ngọn lửa, xoay tít như con vụ. Chỉ giây lát sau, ông ta trèo ra khỏi lò sưởi, bước lên tấm thảm thuộc loại đồ cổ xinh xắn, phủi bụi tro bám hai ống tay của chiếc áo khoác dài bằng vải sọc nhuyễn, và cầm trong tay ông ta là một cái nón tròn như trái dưa màu xanh vỏ chanh. “A… Chào ông Thủ tướng.” Ông Cornelius Fudge vừa sải dài bước chân tiến về phía trước vừa chìa bàn tay ra. “Hân hạnh gặp lại ông.” Ông Thủ tướng không thể thành thật đáp lại lời chào mừng đó, nên chẳng nói năng gì cả. Ông ta chẳng có tí xíu hân hoan nào trong chuyện gặp gỡ ông Fudge, người mà những lần xuất hiện đặc biệt thường có nghĩa là ông Thủ tướng sắp phải nghe toàn điều chẳng lành, không kể chính sự xuất hiện của ông ta đã là sự rất chẳng lành rồi. Đã thế, ông Fudge lại tỏ ra lo lắng đến tiều tụy một cách rõ ràng. Trông ông ta gầy đi, đầu hói thêm, tóc bạc thêm, và bộ mặt ông ta thì trông thiệt là bèo nhèo thê thảm. Ông Thủ tướng đã từng nhìn thấy trước đây vẻ bèo nhèo tương tự nơi những chính khách, và vẻ mặt kiểu đó chẳng khi nào báo trước điềm lành. “Chẳng hay tôi có thể giúp gì được cho ông?” Ông Thủ tướng nói, hờ hững bắt tay ông Fudge và ra dấu về phía cái ghế ít êm ái nhất trong đám ghế đặt đằng trước bàn giấy của ông. “Thật khó mà biết bắt đầu từ đâu.” Ông Fudge lẩm bẩm, vừa kéo cái ghế, ngồi xuống, và đặt cái nón hình trái dưa xanh lên đầu gối. “Cái tuần gì đâu, cái tuần gì mà...” “Ông cũng trải qua một tuần lễ nát bét sao?” Ông Thủ tướng hỏi giọng cứng cỏi, hy vọng thông qua đó truyền đạt cái ý là chưa có thêm ông Fudge thì chính ông cũng đã có đủ chuyện để bù đầu rồi. “Vâng, tất nhiên rồi.” Ông Fudge nói, mệt mỏi dụi hai con mắt của mình, rồi buồn bã ngó ông Thủ tướng. “Tôi cũng bị một tuần te tua như ông, ông Thủ tướng à. Cây cầu Brockdale... rồi vụ ám sát Bones và Vance... ấy là chưa kể vụ um xùm ở Miền Tây...” “Ông... Ơ... Dân ông... Ý tôi muốn nói là, một số thành viên trong giới của ông có... có dính líu tới mấy... mấy sự kiện đó, đúng không?” Ông Fudge trân cho ông Thủ tướng một cái nhìn khá nghiêm khắc. Ông nói, “Dĩ nhiên rồi. Chứ ông không nhận thấy chuyện gì đang diễm ra à?” “Tôi...” Ông Thủ tướng ấp úng. Đây đích thị là cái kiểu cư xử đã khiến cho ông Thủ tướng không mấy ưa những cuộc viếng thăm của ông Fudge cho lắm. Nói cho cũng, ông đường đường là một vị Thủ tướng và chẳng thích thú gì khi bị bẽ mặt như một đứa học trò dốt nát. Nhưng mà dĩ nhiên, cái kiểu cư xử này vốn đã như vậy ngay từ lần gặp đầu tiên giữa ông và ông Fudge, trong ngay cái đêm đầu tiên ông mới trở thành Thủ tướng. Ông nhớ vụ đó rõ như thể mới xảy ra ngày hôm qua và biết rõ vụ đó sẽ ám ảnh ông mãi cho tới ngày chết mới thôi. Lúc đó ông đang đứng một mình trong chính căn phòng này, thưởng thức hương vị chiến thắng mà ông đã tốn bao nhiêu năm mưu đồ, mơ ước mãi mới đạt được, thì chợt nghe một tiếng ho đằng sau lưng, giống y như tối nsy, và khi quay lại thì ông nhận ra bức chân dung xấu xí đang nói chuyện với ông, thông báo là ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sắp đến viếng thăm xã giao. Đương nhiên lúc đó ông cứ tưởng là chiến dịch tranh cử căng thẳng và kéo dài đã khiến cho ông mụ mẫm. Ông đã cực kỳ kinh hoảng khi phát hiện ra một bức chân dung đang nói chuyện với mình, mặc dù chuyện này chẳng thấm thía vào đâu so với cảm giác của ông sau đó, khi một kẻ tự xưng là pháp sư vọt ra từ trong lò sưởi đến bắt tay ông. Ông đã cứ thế mà nín khe trong suốt buổi ông Fudge giải thích rằng hãy còn những phù thủy và pháp sư đang sống bí mật trên khắp thế giới, đồng thời cam đoan rằng ông Thủ tướng chẳng cần phải bận tâm rối trí về họ làm gì bởi vì đã có Bộ Pháp thuật chịu trách nhiệm về toàn bộ cộng đồng Pháp thuật và ngăn cách không cho dân chúng phi-pháp-thuật dính dáng gì tới họ cả. Ông Fudge có nói đó là một công tác khó khăn bao gồm mọi thứ, từ những qui định về việc sử dụng có trách nhiệm những cây chổi bay đến việc kiểm soát dân số rồng. (Ông Thủ tướng nhớ là nghe tới điểm này ông đã bíu vô bàn mới ngồi vững được.) Ông Fudge lúc đó với cái giọng cha người ta đã vỗ vai ông Thủ tướng đang khiếp đảm đến ngọng luôn. “Đừng lo,” ông ta nói. “Rất có thể là ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại tôi lần nào nữa. Tôi sẽ chỉ quấy rầy ông nếu bên phía chúng tôi xảy ra chuyện gì đó thực sự nghiêm trọng, chuyện có thể ảnh hưởng dân Muggle- đúng ra tôi nên nói là dân chúng phi-pháp-thuật. Ngoài ra, mạnh ai nấy sống. Và tôi phải nói thêm, ông đã tiếp thu khá hơn nhiều so với ông Thủ tướng trước. Cái ông đó đã tính quẳng tôi qua cửa sổ, tưởng tôi là đồ xỏ lá do phe đối lập dàn dựng ra.” Tới đây, ông Thủ tướng bỗng kiếm lại được cái lưỡi của mình, bèn hỏi: “Vậy... ông... ông không phải là đồ xỏ lá hả?” Thực tình đó là hy vọng tha thiết cuối cùng của ông Thủ tướng. “Không.” Ông Fudge nhẹ nhàng đáp. “Không. Tôi e rằng không phải. Xem đây.” Và ông đã biến xong cái tách trà của ông Thủ tướng thành ra một con chuột lóc chóc. “Nhưng,” ông Thủ tướng thều thào nói, vừa ngó cái tách trà của ông gậm nhấm cái góc của bài diễn văn sắp tới của ông. “Nhưng tại sao... tại sao không ai báo cho tôi biết...?” “Bộ trưởng Pháp thuật chỉ tiết lộ bí mật về mình cho đương kim Thủ tướng mà thôi.” Ông Fudge vừa nói vừa nhét cây đũa phép vô trong áo khoác. “Chúng tôi nhận thấy đó là cách giữ bí mật tốt nhất.” “Nhưng vậy thì...” Ông Thủ tướng lí nhí, “Tại sao ông Thủ tướng tiền nhiệm không báo trước cho tôi...?” Nghe câu này ông Fudge thực sự lăn ra cười. “Thưa ông Thủ tướng yêu quí của tôi, liệu chính ông có định nói cho bất cứ ai biết không?” Vẫn còn cười khà khà, ông Fudge quăng một ít bột vô trong lò sưởi, bước vô ngọn lửa màu xanh biếc, và biến mất trong một tiếng vút. Ông Thủ tướng vẫn đứng đó, hoàn toàn bất động, và hiểu rằng mình sẽ không đời nào, cho đến hết đời, dám kể với bất cứ sinh linh nào về cuộc gặp gỡ này, bởi vì ai trong cái thế gian rộng lớn này tin ông được chớ? Mất một lúc lâu cơn sốc mới qua đi. Có lúc ông Thủ tướng đã cố tự thuyết phục mình rằng ông Fudge thực ra chỉ là một ảo giác, hậu quả của sự thiếu ngủ trong suốt chiến dịch tranh cử khốc liệt. Trong một cố gắng vô ích nhằm gạt bỏ hết tất cả những gì gợi nhớ đến cuộc gặp mặt khó chịu này, ông đã đem con chuột lóc chóc cho đứa cháu gái mừng húm và ra lệnh cho viên thư ký riêng gỡ xuống bức chân dung gã đàn ông nhỏ thó xấu xí đã thông báo về cuộc viếng thăm của ông Fudge. Tuy nhiên, bức chân dung đã chứng tỏ là nó bất khả di dịch, khiến ông Thủ tướng sa sút tinh thần ghê gớm. Khi mấy người thợ mộc, một hay hai thợ hồ, một sử gia nghệ thuật, và cả ngài Chưởng ấn kho tàng quốc gia đều đã không thành công trong cố gắng nạy bức tranh ra khỏi bức tường, ông Thủ tướng đành phải bãi bỏ lệnh đó và giải quyết vấn đề một cách đơn giản là hy vọng cái đồ đó cứ ở yên một chỗ và lặng thinh cho đến hết nhiệm kỳ của ông. Ông Thủ tướng dám thề, rằng thỉnh thoảng, ông thoáng thấy bằng đuôi mắt, cái lão trong tranh có ngáp dài hoặc ngoáy mũi, thậm chí một hay hai lần lão còn đi ra khỏi khung tranh, bỏ lại đằng sau vỏn vẹn tấm vải bố màu nâu bùn. Tuy nhiên, ông Thủ tướng đã tự rèn luyện mình không nhìn vô bức tranh thường xuyên lắm, và nếu mà có lỡ nhìn thấy chuyện lạ diễn ra trong tranh thì ông luôn luôn khẳng định với chình mình là chẳng qua con mắt mình đã đánh lừa mình ấy thôi. Thế rồi, cách đây ba năm, vào một đêm rất giống đêm nay, ông Thủ tướng đang ở trong văn phòng một mình thì cái chân dung lại một lần nữa thông báo cuộc viếng thăm sắp sửa diễn ra của ông Fudge. Ông này lại vọt ra từ lò sưởi, ướt lem nhem và trong trạng thái hơi bị hoảng hốt. Trước khi ông Thủ tướng kịp hỏi tại sao ông khách lại nhễu nước khắp Dinh Thủ tướng, thì ông Fudge đã thao thao nói về một cái nhà tù mà ông Thủ tướng chẳng bao giờ nghe nói tới, và một người đàn ông nào đó tên Black “Nghiêm trọng”, cùng một cái gì đó kêu là “Hogwarts”, với một thằng nhóc tên Harry Potter, mà chẳng có cái nào gợi lên một tí tẹo ý nghĩa nào đối với ông Thủ tướng. “...Tôi vừa từ Azkaban đến đây,” ông Fudgevừa thở hổn hển vừa giũ một đống nước trên vành cái nón hình trái dưa vô túi áo. “Ở giữa biển Bắc, ông biết đấy, chuyến bay cực quá... Bọn giám ngục đang náo loạn,” – ông rùng mình - “trước đây chúng có bao giờ gặp cảnh tù vượt ngục đâu. Nhưng thôi, tôi phải gặp ông, ông Thủ tướng à. Black là một tay giết dân Muggle nổi tiếng và có thể đang tái đầu quân cho Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy... Nhưng dĩ nhiên, ông cũng đâu có biết Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy!” Ông Fudge ngó chằm chằm ông Thủ tướng một cách tuyệt vọng một lúc, rồi nói: “Thôi được, ngồi xuống, ngồi xuống, tôi nên giải thích cho ông thì tốt hơn... làm một ly rượu whisky nhé...” Ông Thủ tướng bị biểu ngồi xuống trong chính văn phòng của ông đã đủ để nổi khùng rồi, huống chi còn bị mời bằng chính rượu whisky của mình nữa, nhưng dù sao thì ông cũng ngồi xuống. Ông Fudge rút ra cây đũa phép của ông, phù phép từ trong không khí ra hai cái ly to đầy ắp một chất lỏng màu hổ phách, ấn một ly vô tay ông Thủ tướng, rồi kéo một cái ghế lại gần để ngồi. Ông Fudge nói một hơi hơn một tiếng đồng hồ. Có một chỗ ông không chịu nói to lên một cái tên mà chỉ viết nó ra một mảnh giấy da, rồi nhét nó vô bàn tay không bị cầm ly rượu của ông Thủ tướng. Cuối cùng khi ông Fudge đứng dậy để ra đi, ông Thủ tướng cũng đứng dậy. “Vậy là ông cho rằng...” Ông Thủ tướng liếc mắt xuống cái tên trong bàn tay trái của mình. ”Chúa tể Vol...” “Kẻ-chớ-gọi-tên-ra!” Ông Fudge nạt ngay. “Xin lỗi... Vậy là ông cho rằng, Kẻ-chớ-gọi-tên-ra vẫn còn sống?” “Ừ, cụ Dumbledore nói kẻ ấy còn sống.” ÔNg Fudge vừa nói vừa gài chặt cái áo khoác bằng vải có sọc lên tới tận cằm. “Nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm ra kẻ ấy. Nếu ông muốn biết thì kẻ ấy hiện không nguy hiểm trừ khi có được sự hỗ trợ, cho nên chính gã Black mới là mối lo lắng cần quan tâm. Thế ông sẽ cho phát ra thông báo cảnh giác chứ? Vậy tốt, tôi mong chúng ta sẽ không phải gặp nhau lần nữa, ông Thủ tướng à. Chúc ngủ ngon.” Nhưng rồi hai ông lại phải gặp nhau nữa. Chưa đầy một năm sau, một ông Fudge trông thê thảm hết chỗ nói lại từ không khí hiện ra trong văn phòng Thủ tướng để thông báo cho ông Thủ tướng biết là đã xảy ra một tình huống gây phiền phức trong giải Cúp thế giới Kwidditch (hay cái gì đó nghe na ná vậy) và nhiều dân Muggle đã bị “dính líu” vô; nhưng chuyện đó ông Thủ tướng cũng khỏi cần lo , cái sự kiện mọi người nhìn thấy Dấu hiệu của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai đấy thực ra không có nghĩa gì hết; ông Fudge tin chắc rằng đó chỉ là một sự cố riêng lẻ, và trong khi họ đang nói chuyện ở đây thì Sở Bịp dân Muggle đang thanh toán tất cả các vụ điều hòa trí nhớ. “À, suýt nữa tôi quên mất” Ông Fudge nói thêm. “Chúng tôi đang nhập khẩu ba con rồng ngoại quốc và một con Nhân sư cho kỳ thi đấu Tam Pháp thuật, cũng thông thường thôi, nhưng Bộ Qui định và Kiểm soát Sinh vật huyền bí báo cáo cho tôi biết là theo như sách hướng dẫn thì tôi cần lưu ý ông nếu chúng tôi đem vào đất nước này những sinh vật cực kỳ nguy hiểm.” “Tôi... cái gì... Rồng hả?” Ông Thủ tướng lắp ba lắp bắp. “Ừ, ba con” Ông Fudge nói. “Và một con nhân sư. Thôi, chúc ông một ngày tốt lành.” Ông Thủ tướng đã hy vọng hơn cả hy vọng rằng rồng và nhân sư là những thứ ghê gớm hết mức rồi, nhưng ai dè đâu. Chưa đầy hai năm sau, ông Fudge lại vọt ra từ lửa một phen nữa, lần này với thông tin là đã xảy ra một cuộc vượt ngục tập thể ở nhà tù Azkaban. “Một cuộc vượt ngục tập thể à?” Ông Thủ tướng lặp lại bằng giọng khàn khàn. “Không phải lo! Không phải lo!” Ông Fudge quát, một chân đã thò vô ngọn lửa. “Chúng tôi sẽ gom chúng lại ngay thôi – chẳng qua tôi nghĩ rằng ông cũng nên biết!” Và trước khi ông Thủ tướng kịp quát lại, “Khoan, chờ cho một phút!” Thì ông Fudge đã biến mất trong một chùm tung tóe những tia sáng lóe xanh biếc. Cho dù báo chí hay phe đối lập có nói gì đi nữa, thì ông Thủ tướng vẫn không phải là một thằng ngu. Ông đâu có dễ bỏ qua mà không nhận thấy rằng, bất chấp sự cam đoan của ông Fudge trong lầm gặp gỡ đầu tiên, giờ đây họ gặp gỡ hơi bị nhiều, và cứ mỗi lần gặp ông Fudge lại càng te tua rối rắm. Mặc dù ông Thủ tướng không muốn suy nghĩ nhiều về ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật (hay, theo như cách của ông luôn gọi ông Fudge trong trí là ông Thủ tướng kia), ông Thủ tướng này không thể nào không lo sợ rằng lần sau ông Fudge mà tái xuất hiện thì lại sẽ có thêm tin xấu trầm trọng hơn nữa. Do vậy, cái cảnh mà ông Fudge bước ra khỏi ngọn lửa một lần nữa, trông tả tơi, cáu gắt và ngạc nhiên một cách nghiêm khắc về cái sự ông Thủ tướng không biết chính xác tại sao ông lại có mặt tại đây, báo hiệu điều này sẽ tồi tệ nhất trong những điều đã xảy ra trong diễn biến của tuần lễ cực kỳ tăm tối vừa qua. “Làm sao tôi biết được chuyện gì đang xảy ra trong... ơ... cộng đồng phù thủy chứ?” Bây giờ thì ông Thủ tướng nạt lại. “Tôi có cả một đất nước phải cai trị với đủ mối bận tâm và không cần thêm...” “Chúng ta có cùng mối bận tâm.” Ông Fudge ngắt lời ông Thủ tướng. “Cây cầu Brokdale không sập vì cũ quá. Vụ cuồng phong không thực sự là cuồng phong. Những vụ giết người không phải tội ác của dân Muggle. Và gia đình ông Herbert Chorley sẽ được an toàn hơn nếu không có ông ta. Hiện giờ chúng tôi đang dàn xếp để ông ta được chuyển đến bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật. Việc chuyển viện sẽ được thực hiện tối nay.” “Ông muốn... Tôi e là tôi... Cái gì?” Ông Thủ tướng lắp bắp. Ông Fudge hít một hơi thở sâu, nói, “Ông Thủ tướng à, tôi rất tiếc là tôi phải báo cho ông biết kẻ ấy đã trở lại. Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy.” “Trở lại? Khi ông nói “trở lại”... có nghĩa là hắn còn sống à? Ý tôi nói...” Ông Thủ tướng cố mò trong ký ức những chi tiết về cuộc đối thoại cách đây ba năm, khi ông Fudge báo cho ông biết về vị pháp sư đáng sợ hơn hết thảy, vị pháp sư đã thực hiện một ngàn tội ác khủng khiếp trước khi biến mất một cách bí mật mười lăm năm trước. “Vâng, còn sống.” Ông Fudge nói. “Ấy là – tôi chẳng rõ – có thể nói một người là vẫn còn sống nếu không cách nào giết được hắn chăng? Tôi không thực sự hiểu điều đó lắm, và cụ Dumbledore sẽ không giải thích một cách thỏa đáng – nhưng dù sao chăng nữa, kẻ ấy nhất định đã có được một hình hài, và đang đi lại, đang nói năng, đang giết chóc; cho nên, để cho cuộc nói chuyện của chúng ta trôi chảy, tôi cho là, vâng; kẻ ấy còn sống.” Ông Thủ tướng không biết nói sao về chuyện này, nhưng một thói quen bướng bỉnh mong muốn tỏ ra mình được thông báo đầy đủ về bất cứ đề tài nào đã khiến cho ông cố lục lọi những chi tiết mà ông có thể nhớ được về những cuộc đối thoại trước đây. “Có phải Serious Black là… ơ… Kẻ-chớ-gọi-tên-ra?” “Black? Black hả?” Ông Fudge bối rối nói, vừa xoay tít cái nón trái dưa trong mấy ngón tay. “Ông muốn nói Sirius Black hả? Quỷ thần ơi, không phải. Black đã chết rồi. Hóa ra chúng tôi đã… ơ… sai lầm về Black. Ông ta rốt cuộc vô tội. Và ông ta cũng không hề liên minh với Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Ý tôi nói là,” ông nói thêm với vẻ phân trần, cái nón trong tay ông càng bị xoay nhanh hơn nữa, “tất cả chứng cớ đều cho thấy vậy – chúng tôi có hơn năm mươi nhân chứng mà – nhưng dù sao đi nữa, như tôi đã nói, ông ta cũng đã chết rồi. Thực ra là đã bị ám sát rồi. Ngay trong cơ quan Bộ Pháp thuật. Đúng là sẽ có một cuộc điều tra…” Ở điểm này ông Thủ tướng ngạc nhiên nhận ra mình thoáng cảm thấy tội nghiệp cho ông Fudge. Tuy nhiên, cảm giác đó hầu như tức thì bị khuất lấp ngay bằng một luồng hưng phấn ích kỷ khi nghĩ rằng cho dù bản thân mình có kém cỏi trong lãnh vực hiện hình ra từ lò sưởi, nhưng ông chưa từng để xảy ra vụ ám sát nào trong bất kỳ một cơ quan công quyền nào dưới trướng của mình... Dù sao thì cũng chưa... Trong khi ông Thủ tướng bí mật mân mê mặt gỗ của cái bàn giấy, ông Fudge tiếp tục nói, “Nhưng giờ đây Black đã là chuyện cho-qua rồi. Vấn đề là chúng ta đang lâm chiến, ông Thủ tướng à, và chúng ta phải hành động.” “Lâm chiến?” Ông Thủ tướng lo lắng lặp lại. “Chắc là ông có hơi cường điệu một tí chứ?” “Kẻ-chớ-gọi-tên-ra giờ đây đã được bọn vượt ngục Azkaban hồi tháng giêng theo phò tá.” Ông Fudge nói càng lúc càng nhanh, và quay mòng mòng cái nón của ông nhanh đến nỗi trông nó như một cục màu xanh lờ mờ. “Từ khi chúng chuyển ra hoạt động công khai, chúng đã phá hoại tàn hại. Vụ cây cầu Brokdale – chính kẻ ấy đã gây ra, ông Thủ tướng à. Kẻ ấy đe dọa một cuộc tàn sát tập thể dân Muggle trừ khi tôi bước ra một bên tránh đường hắn và…” “Hay dữ à. Vậy ra do lỗi của ông mà người ta bị giết và tôi thì đang phải trả lời chất vấn về thiết bị lắp đặt cùn gỉ và những khớp nối giãn nở hao mòn và tôi không biết còn thêm gì nữa.” Ông Thủ tướng tức tối nói. “Lỗi của tôi hả?” Ông Fudge nổi nóng lên, nói “Chẳng lẽ ông đang nói là đáng ra phải nhượng bộ một sự hăm dọa như thế sao?” “Có thể không.” Ông Thủ tướng nói, vừa đứng dậy và sải bước quanh căn phòng, “nhưng nếu là tôi thì tôi sẽ đặt tất cả nỗ lực của mình vào việc bắt cho được kẻ hăm dọa trước khi hắn thực hiện bất kỳ một hành động tàn bạo nào như thế!” “Chẳng lẽ ông thực tình cho rằng tôi đã không thực hiện tất cả mọi nỗ lực sao?” Ông Fudge vặn hỏi trong cơn giận bừng bừng. “Mỗi Thần Sáng của Bộ Pháp thuật đã và đang cố gắng truy lùng hắn, nhưng chúng ta chẳng may đang nói về một trong những pháp sư quyền lực nhất của mọi thời đại, một pháp sư đã đào thoát trong gần ba thập niên!” “Vậy thì tôi đồ rằng ông sắp nói cho tôi biết là cũng chính hắn đã gây ra vụ cuồng phong ở miền Tây?” Ông Thủ tướng nói, cơn bực tức của ông tăng theo đà mỗi sải chân ông bước. Ông nổi điên lên khi mình thì được biết nguyên nhân của tất cả những tai họa kinh hoàng này trong khi lại không thể công bố cho dân chúng nghe, mà như vậy thì thậm chí còn tệ hơn là cứ coi phứt đi đó là lỗi của chính quyền. “Đó không phải là cuồng phong. ” Ông Fudge rầu rĩ nói. “Xin lỗi à! ” Ông Thủ tướng quát lên, lúc này ông đã chuyển sang dậm lên đạp xuống từng bước chân chắc nịch. “Cây cối tróc gốc, nóc nhà bị tốc bay, cột đèn đường cong vòng, thương vong khủng khiếp…” “Đó là do bọn Tử thần thực tử gây ra. ” Ông Fudge nói. “Bọn tay chân của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy. Và… và chúng tôi nghi ngờ có sự tham gia của người khổng lồ. ” Ông Thủ tướng đứng khựng lại như đụng phải một bức tường vô hình. “Sự tham gia của cái gì?” “Lần trước hắn đã sử dụng người khổng lồ, khi hắn muốn đạt được hiệu quả lớn,” ông Fudge nhăn nhó. “Sở Tin Thất thiệt hiện đang làm việc ngày đêm, chúng tôi đã phái những toán Cán sự Lú đi điều hòa trí nhớ của tất cả những Muggle nào đã chứng kiến những gì đã thực sự xảy ra, chúng tôi đã cử hầu hết nhân viên của Bộ Qui định và và Kiểm soát Sinh vật huyền bí chạy quanh khu vực Somerset, nhưng vẫn chưa thể tìm ra người khổng lồ, thật là một đại nạn.” “Ông đừng có than!” Ông Thủ tướng điên tiết nói. “Tôi sẽ không chối cãi là tinh thần ở Bộ đang xuống thấp.” Ông Fudge nói “Được gì với tất cả những chuyện đó, để rồi lại mất Amelia Bones.” “Mất ai?” “Amelia Bones. Trưởng phòng Thi hành Luật Pháp thuật. Chúng tôi cho là rất có thể đích thân Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã giết cô ấy, bởi vì cô ấy là một phù thủy rất tài giỏi và tất cả bằng chứng cho thấy cô ấy đã trải qua một cuộc chiến đấu ác liệt.” Ông Fudge tằng hắng, và có vẻ như bằng một nỗ lực lớn, đã ngừng được việc xoay tít cái nón trái dưa. “Nhưng vụ giết người đó có đăng báo,” ông Thủ tướng nói, tạm thời xao nhãng cơn thịnh nộ của mình. “Báo của chúng tôi. Amelia Bones... Báo chỉ đăng cô ta là một phụ nữ trung niên sống một mình. Vụ... vụ giết người đó thiệt bi thảm há? Vụ đó nổi tiếng lắm. Cảnh sát đang bó tay, ông biết đó.” Ông Fudge thở dài. “Vâng, dĩ nhiên là họ bó tay.” Ông nói “Cô ta bị giết trong một căn phòng khóa trái từ bên trong, đúng không? Chúng tôi ngược lại biết chính xác ai đã ra tay, nhưng điều đó cũng chẳng giúp chúng tôi tóm được thủ phạm. Và rồi đến Emmeline Vance, có lẽ ông chưa từng nghe nói đến tên người này...” “Ồ, tôi có biết chứ!” Ông Thủ tướng kêu lên. “Đúng ra, vụ đó xảy ra ngay ở góc đường gần đây thôi, báo chí được dịp đưa tin nóng: Suy đốn luật pháp và kỷ cương ngay trong sân sau Dinh Thủ tướng...” “Và làm như thế tất cả ngần ấy vẫn chưa đủ,” ông Fudgenói, hầu như chẳng buồn để tai đến lời ông Thủ tướng. “Chúng tôi gặp giám ngục tủa ra khắp nơi, tấn công người cánh tả, cánh hữu, và cả trung lập...” Vào cái thời xa xưa còn vui vẻ hơn bây giờ, câu nói này ắt hẳn là bất khả tri đối với ông Thủ tướng, nhưng giờ đây ông đã khôn ngoan hơn nhiều. “Tôi tưởng là bọn giám ngục canh gác tù nhân ở Azkaban chứ?” Ông dè dặt nói. “Trước đây.” Ông Fudge mệt mỏi nói. “Bây giờ thôi rồi. Chúng đã bỏ nhiệm sở ở nhà tù mà đi theo Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Tôi sẽ không giả bộ làm như chuyện này không phải là một cú đấm vô mặt.” “Nhưng,” ông Thủ tướng nói, với ý thức về một nỗi hải hùng đang ló dạng, “có phải ông từng nói với tôi chúng là những sinh vật rút cạn hy vọng và hạnh phúc của người ta không?” “Đúng vậy. Và chúng đang sinh sôi. Đó là nguyên nhân của tất cả mớ bòng bong này.” Ông Thủ tướng rũ xuống, đầu gối bủn rủn, ngồi sụp xuống một cái ghế gần đó. Cái ý nghĩ về những sinh vật vô hình đột kích khắp thành thị và thôn quê, làm lây lan nỗi cùng đường tuyệt vọng trong lòng đám cử tri, khiến ông Thủ tướng cảm thấy suýt ngất xỉu. “Thế này nhé ông Fudge... Ông cần phải làm điều gì đó! Đó chính là trách nhiệm của ông với tư cách Bộ trưởng Bộ Pháp thuật!” “Ông Thủ tướng thân mến của tôi ạ, thực lòng ông không thể nghĩ rằng tại sao tôi vẫn còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sau tất cả những vụ việc này à? Tôi đã bị mất chức cách đây ba ngày rồi! Toàn thể cộng đồng Pháp thuật đã kêu gào tôi từ chức trong vòng nửa tháng. Tôi không hề biết họ đoàn kết đến như vậy trong suốt thời tôi còn tại chức!” Ông Fudge nói, cố gắng nở một nụ cười. Ông Thủ tướng tạm thời không kiếm ra từ để nói. Bất chấp cơn phẫn nộ về cái vị thế mà ông bị đặt vào, ông vẫn cảm thấy tội nghiệp người đàn ông bộ dạng quắt queo ngồi đối diện mình. “Tôi rất lấy làm áy náy.” Cuối cùng ông nói. “Tôi có thể giúp gì được không?” “Ông thiệt là tử tế, ông Thủ tướng à. Nhưng chẳng làm được gì đâu. Đêm nay tôi được phái đến đây để giúp ông cập nhật hóa kiến thức về những sự kiện gần đây và để giới thiệu ông với người kế nhiệm tôi. Tôi cho rằng lẽ ra giờ này ông ta đã có mặt ở đây, nhưng dĩ nhiên lúc này ông ta rất bận, với bao nhiêu là chuyện đang diễn ra.” Ông Fudge ngoái đầu ngó bức chân dung người đàn ông nhỏ thó xấu xí đội một đầu tóc giả màu bạc dài thoòng xoăn tít, cái ông này đang ngoáy lỗ tai bằng đầu nhọn của một cái lông ngỗng. Bắt được ánh mắt của ông Fudge, bức chân dung nói, “Chút xíu nữa là ông ấy tới. Ông ấy đang viết cho xong một lá thư gửi cụ Dumbledore.” “Tôi cầu chúc ông ta may mắn.” Ông Fudge nói, lần đầu tiên nghe ông tỏ vẻ cay đắng. “Trong vòng nửa tháng qua tôi đã viết thư cho cụ Dumbledore hai lần mỗi ngày, nhưng cụ chẳng hề lay chuyển. Nếu ông ta chỉ chuẩn bị để thuyết phục cậu bé, thì tôi vẫn còn có thể... Mà thôi, biết đâu ông Scrimgeour lại chẳng thành công hơn.” Ông Fudge chìm vào một cõi rõ ràng là yên lặng phiền muôn, nhưng hầu như ngay tức thì bức chân dung phá tan cái cõi yên lặng đó bằng cách thình lình cất lên cái giọng rành rọt trịnh trọng: “Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Yêu cầu hội kiến. Khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Rufus Scrimgeour, Bộ trưởng Bộ Pháp thuật.” “Vâng, vâng, được.” Ông Thủ tướng luống cuống nói, và ông ta không chút nao núng khi ngọn lửa trong lò sưởi bùng lên màu xanh biếc, bốc cao, hiện hình ra vị pháp sư thứ hai đang quay mòng mòng ở giữa ngọn lửa, và trong tích tắc sau đó đã vọt ra đứng lên tấm thảm đồ cổ ngoạn. Ông Fudge đứng lên, và sau một thoáng ngập ngừng, ông Thủ tướng cũng làm theo, quan sát người mới đến đang chỉnh đốn trang phục, phủi bụi bám trên tấm áo choàng đen dài và nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên hơi ngốc nghếch của ông Thủ tướng là cái tay Rufus Scrimgeour này trông hơi giống một con sư tử già. Có mấy vệt tóc bạc trên mớ tóc bờm hung hung và bộ lông mày rậm rạp. Ông ta có đôi mắt vàng vàng sắc sảo ẩn sau cặp kiếng viền kim loại và có một vẻ duyên dáng uyển chuyển uy nghi nhất định, mặc dù bước đi hơi cà thọt. Ấn tượng ngay tức thì là sự khôn ngoan và kiên định; ông Thủ tướng nghĩ ông hiểu tại sao cộng đồng Pháp thuật lại chọn ông Scrimgeour thay cho ông Fudge làm lãnh tụ trong thời kỳ nguy biến này. “Chào ông.” Ông Thủ tướng lịch sự nói, giơ tay ra. Ông Scrimgeour bắt tay ông Thủ tướng rất nhanh, mắt ông lướt qua khắp căn phòng, rồi ông rút ra một cây đũa phép từ dưới tấm áo chùng. “Ông Fudge đã nói với ông tất cả rồi hử?” Ông ta sải chân bước tới cánh cửa, gõ cây đũa phép của ông lên cái lỗ khóa. Ông Thủ tướng nghe ổ khóa đóng một cái kịch. “Ờ... vâng,” ông Thủ tướng nói. “Và nếu ông không phiền, tôi thích để cánh cửa ấy không khóa hơn.” “Tôi thì thích không bị chen ngang hay rình mò hơn.” Ông Scrimgeour nói ngắn gọn. Ông chỉa cây đũa phép về phía cửa sổ, khiến cho tấm màn kéo ngang che kín mít, nói thêm: “Được, thế này, tôi là một người bận rộn, cho nên chúng ta hãy bàn ngay vào công việc. Trước tiên, chúng ta cần thảo luận về sự an toàn của ông.” Ông Thủ tướng rướn người lên hết mức chiều cao của mình, và đáp, “Tôi tuyệt đối hài lòng về sự an toàn mà tôi đã có, cám ơn ông rất...” “Chà, chúng tôi thì không.” Ông Scrimgeour cắt ngang. “Dân Muggle sẽ không có được sự canh phòng tử tế nếu ông Thủ tướng của họ bị ếm phải Lời nguyền độc đoán. Viên thư ký mới của ông ở phòng ngoài...” “Tôi sẽ không gạt bỏ ông Kingsley Shacklebolt đâu, nếu ông tính đề nghị như vậy.” Ông Thủ tướng nóng nảy nói. “Ông ta rất năng nỗ, mẫn cán, làm việc nhanh gấp hai lần tất cả đám còn lại...” “Bởi vì ông ta là một pháp sư,” ông Scrimgeour nói mà không hề hé một cái mỉm cười. “Một Thần sáng được huấn luyện cao cấp, người được ủy thác nhiệm vụ bảo vệ ông.” “Khoan, chờ một tí!” Ông Thủ tướng tuyên bố, “Ông không thể ngang nhiên cài đặt người của ông vô văn phòng của tôi, tôi quyết định nhân sự làm việc cho tôi...” “Tôi tưởng ông hài lòng với ông Shacklebolt mà?” Ông Scrimgeour lạnh lùng nói. “Tôi thì... Ấy là nói... Tôi đã...” “Vậy thì không có vấn đề gì hết, phải không?” Ông Scrimgeour nói. “Tôi... thôi được, miễn là công việc của ông Shacklebolt vẫn tiếp tục... ơ... xuất sắc.” Ông Thủ tướng nói lọng ngọng, nhưng ông Scrimgeour dường như chẳng buồn nghe ông nữa. “Bây giờ đến lượt ông Herbert Chorley, Phó Thủ tướng của ông,” ông Scrimgeour tiếp tục. “Cái ông lâu nay đang giải trí cho công chúng bằng cách thủ vai một con vịt.” “Ông ta làm sao?” Ông Thủ tướng hỏi. “Ông ta rõ ràng là đang phản ứng lại một Lời nguyền độc đoán bị ếm vụng về.” Ông Scrimgeour nói. “Nó khiến ông ta quẫn trí, nhưng ông ta vẫn có thể trở nên nguy hiểm.” “Ông ta đâu có kêu cạp cạp!” Ông Thủ tướng nói một cách yếu ớt. “Chắc là chỉ một chút cả hơi... Có thể uống hơi nhiều...” “Một đội chữa thương của bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật đang khám nghiệm cho ông ta trong lúc này. Cho tới lúc này, ông ta đã tính vặn cổ ba người trong đội.” Ông Scrimgeour nói. “Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta nên đem ông ấy ra khỏi xã hội Muggle một thời gian.” “Tôi... Chà... ông ta sẽ không sao, phải không?” Ông Thủ tướng nói một cách lo lắng. Ông Scrimgeour chỉ nhún vai, lúc đó ông ta đã đi về phía lò sưởi. “Thôi, đó quả thật là tất cả những gì tôi phải nói. Tôi sẽ thông báo cho ông để nắm kịp tình hình tiến triển, ông Thủ tướng ạ. Hay ít nhất, nếu tôi quá bận không thể đích thân tới được, thì trong trường hợp đó tôi sẽ phái ông Fudge đến đây. Ông ấy đã đồng ý tiếp tục phục vụ với tư cách cố vấn.” Ông Fudge cố gắng mỉm cười, nhưng không thành công lắm. Trông ông chỉ giống như đang nhức răng. Ông Scrimgeour đã lục lọi trong túi áo một thứ bột bí mật khiến cho ngọn lửa trở nên xanh lè. Ông Thủ tướng ngó chằm chằm hai vị phù thủy một lát trong tuyệt vọng, thế rồi những lời lẽ mà ông đã cố hết sức đè nén trong suốt cả buổi tối cuối cùng đã vọt ra. “Nhưng trời đất quỉ thần ơi... Các ông là phù thủy! Các ông biết làm pháp thuật! Chắc chắn là các ông biết giải quyết... Chà... bất cứ vấn đề gì!” Ông Scrimgeour chậm rãi xoay người lại tại chỗ và trao đổi một ánh mắt ngờ vực với ông Fudge, lần này ông Fudge đã cố bẹo ra được một nụ cười khi tử tế nói: “Rắc rối là ở chỗ, đối phương cũng có thể làm pháp thuật nữa, ông Thủ tướng à.” Và sau mấy lời đó, cả hai phù thủy lần lượt bước vào ngọn lửa xanh lè chói lọi mà biến mất. CHƯƠNG HAI ĐƯỜNG BÀN XOAY L àn sương mù lạnh lẽo ép vô cửa sổ văn phòng ông Thủ tướng đã lãng đãng trôi xa cách đó vài dặm đến một dòng sông bẩn thỉu uốn éo chảy giữa đôi bờ tràn ngập rác rưởi đổ bừa. Một cột ống khói khổng lồ, tàn tích của một nhà máy không còn hoạt động nữa, chọc lên trời, trông như một cía bóng lờ mờ và xíu quẩy. Chẳng có âm thanh nào khác ngoại trừ tiếng rì rào của dòng nước đen, và chẳng có dấu hiệu nào của sự sống ngoại trừ một con cáo ốm lòi xương đã lén lút mò xuống bờ sông để hít hửi trong hy vọng tràn trề tìm ra được mấy miếng bao bì gói cá và khoai tây chiên vứt lẫn trong đám cỏ cao. Thế nhưng, đồng thời với một tiếng nổ bốp mơ hồ, một hình thù mảnh khảnh đội mũ trùm xuất hiện từ trong không khí ngay trên mép sông. Con cáo đứng ngây ra, đôi mắt cảnh giác bám chặt vòa hiện tượng mới mẻ lạ lùng này. Cái hình thù ấy có vẻ mất vài phút để ổn định vóc dáng, rồi bắt đầu di chuyển với những bước chân dài, nhẹ nhàng, nhanh chóng, với vạt áo khoác dài của nó loạt soạt trên cỏ. Cùng lúc với một tiếng bốp thứ hai, nghe to hơn, một hình thù đội mũ trùm khác cũng hiện hình. “Chờ với!” Tiếng kêu khàn khàn làm con cáo giật mình, lúc đó gần như đang ép dẹp lép thân mình trên mặt đất. Nó nhảy vọt ra khỏi chỗ ẩn nấp và phóng ngược lên phía bờ sông. Một tia sáng xanh lè lóe lên, một tiếng kêu ăng ẳng phát ra, và con cáo rớt lại xuống mặt đất, chết queo. Cái hình thù thứ hai dùng đầu ngón chân lật ngược xác con thú. “Chỉ là một con cáo.” Giọng của một người đàn bà vang lên một cách thô lỗ từ dưới cái mũ trùm. “Ta cứ tưởng có thể một Thần sáng… Cissy, chờ với.” Nhưng cái hình thù mà mụ ta theo đuổi, lúc nãy dừng chân và ngoái đầu nhìn lại khi ánh sáng lóe lên, giờ lại đang trèo lên phía bờ sông mà con cáo rớt xuống. “Cissy… Narcissa… Nghe lời tôi này…” Người đàn bà thứ hai bắt kịp người đàn bà thứ nhất và túm lấy cánh tay của bà ta, nhưng bà này giật mạnh tay ra. “Về đi, Bella!” “Cô phải nghe lời tôi!” “Em đã nghe rồi. Em đã quyết định, giờ để em yên!” Người đàn bà tên Narcissa đã lên tới chỗ cao nhất của bờ sông, chỗ có một đường rầy xe lửa cũ kỹ tách con sông ra khỏi con đường rải đá cuội. Người đàn bà kia, Bella, bám sát theo tức thì. Họ đứng bên cạnh nhau cùng nhìn qua bên kia con đường, nơi hàng dãy tiếp hàng dãy những căn nhà gạch đổ nát, cửa sổ âm u mịt mờ trong bóng tối. “Nó sống ở đây à?” Bella hỏi bằng giọng khinh khỉnh. “Ở đây? Ngay trong đống cứt dân Muggle à? Chị em mình ắt hẳn là những người đầu tiên trong giới chúng ta đặt chân tới...” Nhưng Narcissa chẳng buồn lắng nghe; bà ta đã tuột qua một chỗ trống trên đường rầy rỉ sét và vội vã băng qua đường. “Cissy, chờ với!” Bella đuổi theo, tấm áo khoác phấp phới phía sau, và mụ ta thấy Narcissa xẹt qua một con hẻm nằm giữa những căn nhà để đến con đường thứ hai, cũng giống hệt con đường thứ nhất. Một số đèn đường đã bể, hai người đàn bà chạy giữa mấy bệt ánh snags và bóng tối mịt mùng. Người rượt theo đã bắt kịp người bị theo đuổi vừa khi người này định quẹo qua một góc đường. Lần này mụ ta tóm giữ được cánh tay của người kia và xoay mạnh người đó lại để hai bên nhìn thẳng vào mặt nhau. “Cissy, cô không được làm điều này, cô không thể tin tưởng thằng ấy...” “Chúa tể Hắc ám tin tưởng ông ấy, đúng không?” “Chúa tể Hắc ám bị... Chị tin là... bị lầm.” Bella thở hổn hển, đôi mắt mụ long lên một thoáng dưới lớp mũ trùm khi nhìn quanh kiểm tra để chắc chắn là quả thực chỉ có mỗi mình họ mà thôi. “Trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta đã được dặn là không tiết lộ kế hoạch cho bất cứ ai. Làm vầy là phản bội lại lệnh của Chúa tể Hắc ám…” “Thôi đi, Bella.” Narcissa gầm gừ, và rút cây đũa phéphù thủyừ dưới lớp áo khoác ra, chĩa nó vô mặt người kia đầy đe dọa. Bella chỉ cười. “Cissy, dọa chính chị của cô à? Cô chẳng…” Narcissa thở gấp, có dấu hiệu của chứng cuồng loạn trong giọng nói, và khi bà ta hạ cây đũa phép xuống như chém một nhát dao, một tia snags nữa lóe lên. Bella buông cánh tay em gái ra như thể bị phỏng. “ Narcissa!” Nhưng Narcissa đã chạy ù tới trước. Vừa xoa vuốt bàn tay của mình, người săn đuổi bà ta lại rượt theo, nhưng giờ đây giữ một khoảng cách an toàn, khi cả hai đi sâu vào mê cung hoang vắng của những ngôi nhà gạch. Cuối cùng, Narcissa bước vội lên một con phố có tên Đường Bàn xoay, vươn cao bên trên phố này là cột ống khói nhà máy sừng sững hăm he như một ngón tay khổng lồ giơ lên đe nẹt. Bước chân của Narcissa khua vang trên nền đá cuội khi bà ta đi ngang qua mấy cái cửa sổ bị bể kiếng được đóng bít lại bằng giấy bồi, đến tận ngôi nhà cuối cùng, nơi có chút ánh sáng lờ mờ le lói của một căn phòng tầng trệt. Narcissa đã gõ cửa trước khi Bella bắt kịp, vừa thở vừa nguyền rủa. Hai người cùng đnưgs đợi với nhau, trống ngực khẽ đập, hít thở cái mùi bốc lên từ dòng sông bẩn thỉu được làn gió đêm nhẹ thổi về phía họ. Sau vài giây, họ nghe có sự chuyển động đằng sau cánh cửa và rồi cửa mở ra một cái cạch. Một người đàn ông ló chút thân mình ra nhìn họ; một người đàn ông với tóc đen dài rẽ ngôi giữa tém qua hai bên gương mặt vàng bủng có đôi mắt đen. Narcissa trật cái mũ trùm ra sau. Bà ta xanh xao đến nỗi trông gần như sáng lên trong bóng tối; mái tóc vàng dài thả đổ xuống lưng tạo cho bà cái vẻ của người chết trôi. “Narcissa!” Người đàn ông kêu lên, mở cánh cửa rộng hơn một chút, để cho ánh sáng rọi tới soi tỏ Narcissa cùng bà chị. “Thật là một ngạc nhiên thú vị!” “Severus.” Narcissa nói bằng giọng thì thào căng thẳng. “Tôi có thể nói chuyện với ông được không? Khẩn cấp!” “Dĩ nhiên là được.” Người đàn ông đứng lùi lại để cho Narcissa bước vào trong nhà. Bà chị của bà ta vẫn đội mũ trùm cũng đi theo vào không cần mời. “Snape,” mụ nói khi đi ngang. “Bellatrix!” thầy Snape đáp lại, cái miệng mỏng dính cong lên thành một nụ cười mai mỉa khi thầy đóng cánh cửa lại một cái cạch sau lưng hai người đàn bà. Họ đi thẳng vào trong một căn phòng khách nhỏ, căn phòng này tạo cảm giác như thể đó là một cái xà lim kín mít. Những bức tường được bịt kín hoàn toàn bằng sách, hầu hết những cuốn sách này đề được đóng bìa da nâu, da đen cũ kỹ. Có một cái ghế sofa đã mòn trơ chỉ, một cái ghế bành, và một cái bàn ọp ẹp, cả đám đứng túm tụm với nhau thành đám trong một vũng sáng lờ mờ phát ra từ một cây đèn thắp bằng nến thòng từ trên trần xuống. Nơi này có một vẻ bị bỏ bê, mặc dù không hẳn thường xuyên là không có người ở. Thầy Snape ra dấu cho Narcissa ngồi xuống ghế sofa. Bà ta cởi áo khoác ra, quẳng nó qua một bên và ngồi xuống, đăm đăm nhìn hai bàn tay trắng bệch và run lẩy bẩy của mình đang đặt trên đùi. Bellatrix hạ mụ trùm xuống một cách chậm rãi hơn. Bà em mụ tái nhợt bao nhiêu thì mụ đen đúa bấy nhiêu, với đôi mắt có quầng có nọng nặng nề và một bộ xương hàm chắc khỏe, mụ chẳng hề rời mắt khỏi thầy Snape trong lúc di chuyển ra đứng đằng sau lưng Narcissa. “Vậy, tôi có thể làm gì được cho bà?” Thầy Snape hỏi, tự mình an tọa trong cái ghế bành đối diện hai chị em. “Chúng ta… chúng ta không có ai khác nữa chứ?” Narcissa khẽ khàng hỏi. “Dĩ nhiên là có. Vâng, Đuôi Trùn đang ở đây, nhưng chúng ta đâu có tính đến sâu bọ, phải không?” Thầy Snape chĩa cây đũa phép vô một bức tường đầy sách đằng sau lưng mình và một tiếng nổ vang lên, một cánh cửa bí mật bật mở ra, để lộ một cầu thang hẹp và một gã đàn ông loắt choắt đang đứng sững như trời trồng trên cầu thang. “Đuôi Trùn, chắc mi cũng thấy rõ là chúng ta đang có khách.” Thầy Snape nói bằng giọng uể oải. Gã đàn ông loắt choắt khòm lưng rón rén bò xuống mấy bậc thang cuối cùng để di chuyển vô trong phòng. Gã có đôi mắt nhỏ hí ươn ướt, một cái mũi nhọn và đeo một nụ cười màu mè chẳng thoải mái chút nào. Bàn tay trái của gã đang xoa xoa bàn tay phải, bàn tay này trông như thể bọc trong một cái găng tay bằng bạc. “Bà Narcissa!” Gã chào bằng một giọng rin rít như chuột kêu. “Và bà Bellatrix! Thật là quyến rũ biết bao…” “ Đuôi Trùn sẽ bưng nước cho chúng ta, nếu các bà muốn uống,” Thầy Snape nói. “Và rồi hắn sẽ trở về phòng ngủ của hắn.” Đuôi Trùn nhăn mặt như thể Thầy Snape vừa mới quăng cái gì đó vô mặt gã. “Tôi không phải đầy tớ của ông!” Gã rít lên, lẩn tránh ánh mắt của Thầy Snape. “Vậy sao? Ta lại có cảm tưởng là Chúa tể Hắc ám đặt mi ở đây để trợ giúp ta chứ?” “Trợ giúp ông, ừ… nhưng không phải làm việc bưng nước cho ông và… lau nhà cho ông!” “ Đuôi Trùn à, ta đâu biết mi ao ước những công tác hiểm nghèo hơn,” Thầy Snape nói giọng ngọt xớt. “Chuyện này cũng dễ dàn xếp thôi: ta sẽ nói với Chúa tể Hắc ám…” “Tôi cũng có thể tự nói chuyện với Chúa tể Hắc ám nếu tôi muốn!” “Dĩ nhiên là mi có thể.” Thầy Snape cười nhếch mép, nói. “Nhưng tạm thời trong lúc này, mi hãy bưng nước cho chúng ta. Loại rượu gia tinh pha chế nào đó cũng được.” Đuôi Trùn dùng dằng một lát, trông như thể muốn cãi tiếp, nhưng rồi gã quay lưng đi về phía cánh cửa bí mật thứ hai. Mọi người nghe tiếng cửa đóng một cái rầm và tiếng ly tách chạm nhau kêu tanh tách. Chỉ vài giây sau gã đã trở lại, bưng một cái mâm trên đó có một cái chai bám đầy bụi bặm và ba cái ly. Gã liệng mấy thứ này xuống cái bàn ọp ẹp rồi mau mắn đi khuất mắt mọi người, đóng sập cánh cửa ngụy trang bằng kệ sách lại sau lưng. Thầy Snape rót ra ba cái ly một thứ rượu đỏ như máu và đưa hai ly cho hai chị em. Narcissa lẩm bẩm mấy tiếng cám ơn, trong khi mụ Bellatrix chẳng thốt một lời nào, nhưng vẫn tiếp tục nhìn Thầy Snape trừng trừng. Điều này xem ra chẳng làm Thầy Snape bối rối tí nào ; ngược lại, ông còn tỏ ra khoái trá. “Chúc sức khỏe Chúa tể Hắc ám.” Thầy Snape nói, nâng ly lên uống cạn. Hai chị em làm theo ông ta. Thầy Snape lại rót đầy ly của họ. Khi Narcissa uống hết ly rượu thứ hai, bà ta hấp tấp nói. “Ông Severus, tôi xin lỗi đã đến đây như thế này, nhưng tôi phải gặp ông. Tôi nghĩ ông là người duy nhất có thể giúp tôi…” Thầy Snape giơ một bàn tay ra để ngăn Narcissa, rồi chĩa cây đũa phép của ông về phía cửa cầu thang bí mật một lần nữa. Một tiếng nổ to vang lên và một tiếng thét ré lên, tiếp theo là tiếng Đuôi Trùn lật đật bò trở lên lầu. “Tôi xin lỗi,” Thầy Snape nói. “Dạo gần đây hắn đâm ra nhiễm cái trò rình nghe ở cửa, tôi chẳng biết hắn làm vậy để làm gì… Bà Narcissa, bà đang nói…” Narcissa hít một hơi thở vĩ đại đến rùng mình và bắt đầu lại một lần nữa. “Ông Severus, tôi biết tôi không nên đến đây, tôi đã được căn dặn là không được nói với bất cứ ai, nhưng…” “Vậy thì cô nên liệu mà giữ mồm giữ miệng!” Mụ Bellatrix nạt ngang. “Đặc biệt với người có mặt tại đây.” “Người có mặt ở đây à?” Thầy Snape nhắc lại một cách nhạo báng. “Và tôi nên hiểu điều đó như thế nào đây, thưa bà Bellatrix?” “Nghĩa là tôi không tin ông, Thầy Snape à, như ông đã biết quá rõ rồi!” Narcissa bật ra một âm thanh có thể gọi là tiếng khóc than, và đưa hai tay bưng mặt. Thầy Snape đặt cái ly của mình lên mặt bàn rồi ngồi thẳng lại, hai bắp tay ông đặt trên chỗ tựa tay của cái ghế bành, cười mỉm với gương mặt trâng tráo của Bellatrix. “Bà Narcissa à, tôi nghĩ chúng ta nên nghe điều mà bà Bellatrix đang hăm hở nói; để tránh những sự chõ mỏ phát mệt. Nào, tiếp tục đi chứ, bà Bellatrix,” Thầy Snape nói. “Tại sao mà bà không tin tôi?” “Có hằng trăm lý do!” Bellatrix nói to, bước vòng qua cái ghế sofa để dằn mạnh cái ly của mụ ta lên bàn. “Bắt đầu từ đâu đây! Khi Chúa tể Hắc ám suy sụp thì ông ở đâu hả? Tại sao ông không bao giờ ra sức tìm kiếm ngài khi biến mất hả? Suốt những năm tháng mà ông sống trong túi áo của lão Dumbledore ông đã làm những gì hả? Tại sao ông cản trở Chúa tể Hắc ám thu phục Hòn đá Phù thủy hả? Tại sao ông không trở lại ngay tức thì khi Chúa tể Hắc ám phục sinh hả? Ông đã ở đâu cách đây mấy tuần lễ khi chúng tôi chiến đấu để phục hồi lời Tiên tri cho Chúa tể Hắc ám hả? Và tại sao hả, Thầy Snape, tại sao mà Harry Potter vẫn sống nhăn trong khi nó nằm trong bàn tay sinh sát của ông suốt năm năm trời hả?” Khi mụ tạm ngừng lấy hơi, ngực mụ phập phồng, hai má đỏ ửng. Sau lưng mụ, Narcissa ngồi bất động, mặt vẫn còn vùi trong hai bàn tay. Thầy Snape mỉm cười. “Trước khi tôi trả lời bà – À vâng, bà Bellatrix à, tôi sẽ trả lời bà chứ! Bà có thể nói lại lời của tôi cho những người khác, những người ngồi lê đôi mách sau lưng tôi, rồi loan truyền những câu chuyện tầm bậy vè sự bội bạc của tôi đối với Chúa tể Hắc ám! Trước khi tôi trả lời bà, tôi có đề nghị, hãy để cho tôi được hỏi bà một câu trước. Bà có thực sự nghĩ là Chúa tể Hắc ám đã chẳng hỏi tôi từng vấn đề một trong những vấn đề bà vừa nêu ra không? Bà có thực sự nghĩ rằng nếu tôi đã không thể nào đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, thì liệu tôi còn có thể ngồi đây mà hầu chuyện cùng bà được chăng?” Mụ Bellatrix lúng túng. “Bà nghĩ là ngài lầm chăng? Hay là tôi bằng cách nào đó bưng tai bịt mắt ngài chăng? Chúa tể Hắc ám, pháp sư vĩ đại nhất, bậc quảng đại thần thông xuất chúng nhất mà thế giới từng được chiêm ngưỡng lại bị lừa sao?” Mụ Bellatrix không nói gì, nhưng lần đầu tiên trông có vẻ nối rối. Thầy Snape không bồi thêm vòa điểm chí tử ấy nữa. Ông lại cầm ly rượu của mình lên, nhấm nháp, rồi nói tiếp. “Bà hỏi tôi đã ở đâu khi Chúa tể Hắc ám suy sụp à. Tôi đã ở nơi mà ngài ra lệnh cho tôi phải có mặt, tại Hogwarts – trường đào tạo Phù thủy và Pháp sư, bởi vì ngài muốn tôi do thám Albus Dumbledore. Tôi xin mạo muội nói rằng, bà cũng biết, tôi nhận lãnh công việc ở trường Hogwarts là do lệnh của Chúa tể Hắc ám.” Bellatrix gật đầu một cách khó nhận thấy và toan mở miệng, nhưng Thầy Snape đã cướp lời mụ trước. “Bà hỏi tại sao tôi đã không cố gắng tìm kiếm ngài khi ngài biến mất. Lý do của tôi tương tự như lý do của Avery, Yaxley, gia đình Carrow, Greyback, Lucius...” thầy nhẹ nghiêng đầu về phía bà Narcissa , “và nhiều người khác cũng đã không nỗ lực tìm kiếm ngài. Tôi tin là ngài đã yên nghỉ ngàn thu. Tôi chẳng lấy làm hảnh diện gì về chuyện này, tôi đã lầm, nhưng sự thể là vậy... Nếu ngài đã không tha thứ cho chúng ta, những kẻ đã đãnh mất lòng tin lúc ấy, thì ngài hẳn sẽ còn lại rất ít đồ đệ.” “Ngài vẫn còn có tôi!” Mụ Bellatrix nói một cách say sưa. “Tôi, người đã nằm ngục Azkaban bao nhiêu năm trời vì ngài!” “Vâng, quả thực đáng khâm phục nhất,” Thầy Snape nói bằng giọng chán chường. “Dĩ nhiên, nằm ngục thì bà cũng chẳng được tích sự gì cho ngài cả, nhưng làm điệu làm bộ thì chắc chắn là hay rồi...” “Làm điệu làm bộ à!” Bellatrix ré lên; trong cơn cuồng nộ, trông mụ ta hơi giống một con mẹ điên. “Trong khi tôi chịu đựng lũ giám ngục, ông vẫn an nhiên ở lại Hogwarts, thoải mái đóng vai con chó cưng của lão Dumbledore!” “Đâu có được như vậy! bà biết đấy, lão đời nào chịu giao cho tôi bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Dường như lão nghĩ rằng điều đó có thể, ừ, đưa đến chuyện ngựa quen đường cũ… cám dỗ tôi trở lại cuộc sống trước đây.” “Việc này mà tính là cả một sự hy sinh của ông cho Chúa tể Hắc ám. Sao, cái chuyện ông không được dạy bộ môn mà ông khoái nhất ấy?” Mụ Bellatrix buông lời giễu cợt. “Tại sao ông cứ ở lỳ nơi đó suốt thời gian ấy hả Thầy Snape? Tiếp tục do thám lão Dumbledore cho ông chủ mà ông tin là đã chết rồi à?” “Không hẳn vậy,” Thầy Snape nói. “Mặc dù Chúa tể Hắc ám hào lòng là tôi đã không bao giờ rời bỏ nhiệm sở : tôi có mười sáu năm tình báo về Dumbledore để giao cho ngài khi ngài trở lại, một món quà chào mừng ngài có ích hơn những hoài niệm vô tận về sự nằm ngục Azkaban khó chịu như thế nào…” “Nhưng ông đã ở lại…” “Phải, bà Bellatrix à, tôi đã ở lại,” Thầy Snape nói, lần đầu tiên để lộ dấu hiệu thiếu kiên nhẫn. “Tôi có một công việc dễ chịu mà tôi thích hơn cái việc ở Azkaban. Lúc đó họ đang lùng bắt các Tử thần thực tử, như bà biết. Sự bảo vệ của Dumbledore đã giúp tôi khỏi bị tống vô ngục; đó là một lợi thế hết sức tốt, và tôi đã tận dụng. Tôi nhắc lại: Chúa tể Hắc ám không phàn nàn việc tôi ở lại Hogwarts, thì mắc gì bà lại càm ràm. Tôi nghĩ điều tiếp theo mà bà muốn biết,” Thầy Snape hối hả nói tiếp, hơi lớn giọng, bởi vì Bellatrix đã tỏ dấu hiệu muốn ngắt lời ông, “là tại sao tôi đứng chắn giữa Chúa tể Hắc ám và Hòn đá phù thủy. Điều này dễ giải thích thôi. Lúc đó ngài chưa biết là ngài có tin được tôi hay không. Ngài nghĩ, giống như bà, rằng tôi đã biến từ một Tử thần thực tử trung thành ra một con rối của Dumbledore. Ngài đang ở trong hoàn cảnh đáng thương, rất yếu ớt, và phải nương náu trong hình hài của một tay phù thủy tầm thường. Ngài đã không dám để lộ thân phận mình cho một đồng minh trước đây nếu đồng minh đó có thể giao nộp ngài cho Dumbledore hay cho Bộ. Tôi thực sự lấy làm tiếc là ngài đã không tin tưởng tôi lúc đó. Chứ nếu ngài có lòng tin thì ngài đã phục hồi quyền lực sớm hơn ba năm. Trong tình thế lúc đó, tôi thấy chỉ có mỗi tay Quirell tham lam đê tiện đang timd cách đánh cắp hòn đá, và tôi thừa nhận, tôi đã làm hết sức mình để cản trở hắn.” Mồm Bellatrix méo xệch như thể mụ ta đã nuốt phải một liều thuốc đắng. “Nhưng ông đã không trở về khi ngài trở lại, ông đã không bay về với ngài ngay lập tức khi ông cảm thấy Dấu hiệu Hắc ám cháy bỏng…” “Đúng. Tôi đã trở về sau đó hai tiếng đồng hồ. Tôi đã trở về theo lệnh của Dumbledore.” “Theo lệnh của Dumbledore…?” Bellatrix bắt đầu la lên, giọng điên tiết. “Hãy suy nghĩ!” Thầy Snape nói, lại mất kiên nhẫn. “Hãy nghĩ cho kỹ đã! Bằng cách chờ hai tiếng đồng hồ sau, chỉ hai tiếng đồng hồ thôi, tôi đã đảm bảo được việc tôi có thể lưu lại trường Hogwarts để do thám! Bằng việc để cho Dumbledore tưởng rằng việc tôi trở về với Chúa tể Hắc ám chỉ là làm theo lệnh của ông ta, tôi đã có thể chuyển giao thông tin về Dumbledore và Hội Phượng hoàng từ ấy đến giờ! Hãy cân nhắc, bà Bellatrix à: Dấu hiệu Hắc ám đã trở nên càng lúc càng mạnh trong nhiều tháng trời. Lúc ấy tôi đã biết ngài ắt hẳn sắp trở lại, tất cả mọi Tử thần thực tử đều biết. Tôi đã có rất nhiều thì giờ để suy nghĩ về điều mà tôi muốn làm, để chuẩn bị cho hành động kế tiếp, để đào thoát như Karkaroff, đúng không?” “Chúa tể Hắc ám lúc đầu cũng không vui vẻ về việc trì hoãn của tôi, nhưng tôi cam đoan với bà, sự không hài lòng đó biến mất hoàn toàn khi tôi giải thích rằng tôi vẫn trung thành mặc dù Dumbledore tưởng rằng tôi đã là người của ông ta. Phải, Chúa tể Hắc ám đã tưởng đâu tôi rời bỏ ngài vĩnh viễn, nhưng ngài đã lầm.” “Nhưng ông được tích sự gì từ ấy đến giờ hả?” Bellatrix cười chế nhạo. “Chúng tôi nhạn được thông tin hữu ích gì từ ông hả?” “Tin tình báo của tôi được chuyển giao trực tiếp cho Chúa tể Hắc ám,” Thầy Snape nói. “Nếu ngài chọn phương án không nói cho bà biết…” “Ngài chia sẻ với tôi mọi thứ,” Bellatrix bùng lên cơn giận đùng đùng. “Ngài nói tôi là người trung thành nhất, thủy chung nhất…” “Vậy sao?” Thầy Snape nói, giọng của thầy biến âm một cách tinh vi để bày tỏ sự nghi ngờ. “Liệu ngài có nói vậy nữa không sau trận thảm bại ở Bộ?” “Đó đâu phải là lỗi của tôi!” Bellatrix đỏ ửng mặt lên. “Trong quá khứ Chúa tể Hắc ám đã giao phó cho tôi điều quí báu nhất… nếu như lão Lucius đừng…” “Chị đừng… chị liệu hồn đừng có đổ lỗi cho chồng tôi!” Narcissa nói, ngước lên nhìn bà chị, giọng nói nhỏ mà lạnh lùng sắc lẹm. “Đổ lỗi qua lại chẳng đi tới đâu cả,” Thầy Snape nói, giọng êm ái. “Chuyện gì xong thì đã xong rồi.” “Nhưng ông thì chưa xong!” Bellatrix tức điên lên. “Chưa đâu, ông lại vắng mặt một lần nữa trong khi tất cả chúng tôi xông pha vào nguy hiểm, có không Thầy Snape?” “Tôi được lệnh ở lại tuyến sau,” Thầy Snape nói. “Có lẽ bà bất đồng ý kiến với Chúa tể Hắc ám, có lẽ bà nghĩ rằng Dumbledore sẽ không chú ý nếu tôi tham dự vào lực lượng các Tử thần thực tử để đánh nhau với Hội Phượng hoàng chăng? Và – sin lỗi – bà nói chuyện xông pha vào nguy hiểm… bà đã đương đầu với sáu đứa tuổi choai choai, phải không nào?” “Chỉ lát sau là chúng được hỗ trợ, như ông thừa biết, bởi một nửa Hội Phượng hoàng,” Bellatrix gầm gừ. “Và trong khi chúng ta nhắm vô cái Hội đó, ông vẫn cứ khăng khăng tuyên bố ông không thể tiết lộ tổng hành dinh của chúng ở đâu, có không?” “Tôi đâu phải Quản gia. Tôi không thể nói tên của nơi đó. Tôi nghĩ bà thừa biết bùa ngải hiệu lực ra sao. Chúa tể Hắc ám đã hài lòng với tin tình báo về Hội mà tôi đã chuyển giao cho ngài. Có lẽ bà cũng đoán được, tin tức đó đã đưa đến việc bắt cóc và ám sát Emmeline Vance, và chắc chắn là giúp ích cho việc khử trừ Sirius Black, mặc dù tôi xin nhường cho bà tất cả công trạng kết liễu đời hắn.” Thầy Snape nhẹ nghiêng đầu và nâng cốc chúc mừng Bellatrix. Vẻ mặt của mụ ta vẫn không dịu đi chút nào. “Ông đang né tránh câu hỏi cuối cùng của tôi, Thầy Snape à. Harry Potter. Lẽ ra ông đã có thể giết nó bất kỳ lúc nào trong suốt năm năm qua. Ông đã không làm chuyện đó. Tại sao?” “Thế bà đã thảo luận vấn đề này với Chúa tể Hắc ám lần nào chưa?” Thầy Snape hỏi lại. “Ngài… gần đây, chúng tôi… tôi đang hỏi ông mà Thầy Snape!” “Nếu tôi đã ám sát Harry Potter, thì Chúa tể Hắc ám đã không thể sử dụng máu của nó để tái sinh năng lượng, giúp cho ngài bất khả chiến bại…” “Ông cho là mình tiên đoán được việc ngài sẽ sử dụng thằng bé ấy à?” Bellatrix nhạo báng. “Tôi không cho là gì cả. Tôi chẳng biết gì hết về âm mưu của ngài ; Tôi vừa thú nhận là tôi đã tưởng Chúa tể Hắc ám đã chết. Tôi chỉ cố gắng giải thích tại sao Chúa tể Hắc ám không thấy tiếc cái việc mà Harry Potter vẫn sống sót, ít nhất thì cũng cho đến cách đây một năm...” “Nhưng tại sao ông cứ để cho nó sống?” “Bà vẫn chưa hiểu tôi ư? Chính vì sự bảo vệ của ông Dumbledore mà tôi không bị tống vô ngục Azkaban! Bà có đồng ý rằng việc ám sát đứa học trò cưng của ông ta rất có thể khiến ông ta coi tôi là thù địch không? Nhưng có nhiều lý do hơn thế nữa. Tôi thấy nên nhắc bà nhớ rằng khi Potter mới đến trường Hogwarts đã có nhiều câu chuyện đồn đãi về nó, người ta đồn rằng chính nó là một pháp sư Hắc ám vĩ đại, suy ra từ cái cách mà nó đã sống sót qua cuộc tấn công của Chúa tể Hắc ám. Thực ra, nhiều đồ đệ cũ của Chúa tể Hắc ám đã tưởng Harry Potter là một ngọn cờ mà tất cả chúng ta có thể tập hợp xung quanh môt lần nữa. Tôi nhìn nhận là tôi có tò mò và chẳng có chút ý đồ ám sát nó vòa cái thời điểm mà nó đặt chân vô tòa lâu đài.” “Dĩ nhiên, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy rất rõ ràng rằng nó chẳng có chút thiên tài xuất chúng nào cả. Nó đã xoay sở thoát được khỏi một số tình huống ngặt nghèo chỉ nhờ sự kết hợp giữa may mắn thuần túy và đám bạn bè tài giỏi hơn. Nó là một thằng nhóc tầm thường hạng bét, mặc dù nó cũng độc địa và tự mãn y chang thằng cha nó trước đây. Tôi đã làm hết sức mình để khiến nó bị đuổi khỏi trường Hogwarts, tôi cho là nó chẳng thuộc về chốn ấy chút nào, nhưng giết nó, hay để nó bị giết trước mặt tôi ấy à? Tôi đâu có ngu đến nỗi chơi liều như vậy ngày trong tầm tay của Dumbledore.” “Và qua tất cả những việc này, ông cho rằng chúng tôi vẫn tin rằng lão Dumbledore chẳng bao giờ nghi ngờ ông tới một tẹo sao?” Bellatrix hỏi. “Chẳng lẽ lão không hề biết lòng trung thành thực sự của ông à? Lão vẫn còn tin tưởng ông tuyệt đối sao?” “Tôi đã đóng vai của mình rất tốt,” Thầy Snape nói. “Và bà đã bỏ qua nhược điểm lớn nhất của Dumbledore: ông ta phải tin tưởng vào phần tốt nhất trong con người ta. Tôi đã từng xạo một câu chuyện về sự ăn năn hối cải sâu sắc của tôi khi mới gia nhập giáo ban của ông ta, từ thời tôi mới là Tử thần thực tử, và ông ta đã giang rộng cánh tay ôm lấy tôi… mặc dù, như tôi đã kể, ông ta vẫn không đời nào chịu cho tôi tới gần bộ môn Nghệ thuật hắc ám. Dumbledore là pháp sư vĩ đại nhất từ trước tới nay - Ừ, đúng vậy, chính ông ấy (bởi vì Bellatrix khịt một tiếng đầy khinh miệt). Chính Chúa tể Hắc ám cũng phải nhìn nhận điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng vui mừng mà nói rằng Dumbledore đang già đi. Trận đấu tay đôi hồi tháng trước với Chúa tể Hắc ám đã chấn động ông ta sâu sắc. Từ trận đó ông đã phải chống chỏi với một vết thương trầm trọng bởi vì phản ứng của ông giờ đây chậm chạp hơn trước kia. Nhưng trải qua suốt những năm tháng này, ông ta chưa bao giờ thôi tin tưởng Severus Snape này, và do vậy tôi trở nên rất có giá đối với Chúa tể Hắc ám.” Bellatrix vẫn không được vui vẻ, mặc dù mụ ta tỏ ra không biết chắc cách nào tốt nhất để tấn công tiếp Thầy Snape. Tận dụng lúc bà chị đang im lặng, Thầy Snape quay sang bà em : “Sao… Bà đến nhờ tôi giúp đỡ à, bà Narcissa?” Narcissa ngước nhìn Thầy Snape, gương mặt của bà hiện rõ nỗi tuyệt vọng. “Vâng, thưa ông Severus. Tôi… tôi nghĩ ông là người duy nhất có thể giúp tôi, tôi không còn biết bám víu vào đâu nữa. Anh Lucius đang ở tù và...” Bà nhắm mắt lại và hai giọt nước mắt to tướng ứa ra từ bên dưới mí mắt của bà. “Chúa tể Hắc ám đã cấm tôi nói về chuyện đó,” Narcissa vẫn nhắm mắt và tiếp tục nói. “Ngài không muốn cho ai biết về kế hoạch. Nó rất… rất bí mật. Nhưng…” “Nếu ngài đã cấm, thì bà không nên nói ra,” Thầy Snape nói ngay. “Lời của Chúa tể Hắc ám là luật.” Narcissa há hốc sững sờ, như thể Thầy Snape vừa dội nước lạnh xuống đầu bà ta. Lần đầu tiên, Bellatrix trông có vẻ hài lòng, kể từ khi mụ bước vô căn nhà này. “Thấy chưa!” Mụ nói với bà em bằng giọng đắc thắng. “Ngay cả Thầy Snape cũng nói thế: em đã được lệnh không nói thì cứ ngậm miệng lại!” Nhưng Thầy Snape đã đứng lên và sải dài bước chân đi tới khung cửa sổ nhỏ, chăm chú nhìn qua khe tấm màn quan sát con đường hoang vắng, rồi giật thót mình khép tấm màn lại. Ông ta quay lại đối diện với Narcissa, vẻ mặt đăm chiêu. “Chẳng qua ngẫu nhiên mà tôi có biết đến kế hoạch đó,” ông ta nói bằng giọng thì thào. “Tôi cũng là một trong vìa người mà Chúa tể Hắc ám nói cho biết. Tuy nhiên nếu tôi mà không nằm trong kế hoạch bí mật, thì bà ắt hẳn đã phạm tội lớn phản bội Chúa tể Hắc ám.” “Tôi nghĩ ông cần phải biết về kế hoạch đó!” Narcissa nói, hít thở thong thả hơn. “Ngài tin tưởng ông biết bao, ông Severus…” “Thế ông biết về kế hoạch à?” Bellatrix hỏi, vẻ hài lòng vừa thoáng hiện trên mặt mụ đã bị thay thế bằng cơn thịnh nộ. “Ông biết à?” “Đương nhiên,” Thầy Snape nói. “Nhưng bà Narcissa à, bà cần giúp đỡ chuyện gì hở? Nếu bà tưởng tôi có thể thuyết phục Chúa tể Hắc ám thay đổi quyết định thì tôi e rằng chẳng có hy vọng đâu, không ai làm được chuyện đó cả.” “Ông Severus,” Narcissa thì thầm, nước mắt lăn dài xuống đôi gò má nhợt nhạt. “Con trai tôi… Đứa con trai duy nhất của tôi…” “Thằng Draco nên tự hào,” Bellatrix dửng dưng nói. “Chúa tể Hắc ám đang ban cho nó một danh dự lớn. Và tôi sẽ nói điều này thay cho Draco: cháu nó không hề lùi bước trước nhiệm vụ, cháu còn có vẻ vui mừng có được một cơ hội để tự khẳng định chính mình, rất háo hức trước viễn cảnh…” Trong khi Bellatrix thao thao thì Narcissa đã bắt đầu khóc lóc van xin, tha thiết nài nỉ Thầy Snape. “Là bởi vì con tôi mới mười sáu tuổi và chẳng biết cài gì nằm trong rọ! Tại sao vậy, ông Severus? Tại sao lại là con trai tôi? Chuyện đó nguy hiểm quá! Đây là sự trả thù cho sai lầm của anh Lucius, tôi biết mà!” Thầy Snape không nói gì cả. Ông ta trnahs nhìn cái cảnh nước mắt bà rơi như thể những giọt nước mắt rơi không đúng với khuôn phép lịch thiệp, nhưng ông không thể nào giả vờ không nghe thấy tiếng khóc của bà ta. “Đó chính là lý do chọn Draco, đúng không? Để trừng phạt anh Lucius phải không?” Narcissa đay nghiến. “Nếu Draco thành công,” Thầy Snape nói, vẫn tránh nhìn Narcissa, “thì trò ấy sẽ được vinh danh trên tất cả nhưng học sinh khác.” “Nhưng nó sẽ không thành công,” Narcissa nức nở. “Làm sao nó thành công nổi trong khi chính Chúa tể Hắc ám còn…” Bellatrix há hốc mồm sững sờ; Narcissa dường như mất trí rồi. “Tôi chỉ muốn nói… Chưa có ai thành công cả… Ông Severus … làm ơn làm phước… Ông là… ông luôn là người thầy Draco yêu quí nhất… Ông lại là bạn cũ của anh Lucius… Tôi van lạy ông… Ông là cố vấn được tin cậy nhất của Chúa tể Hắc ám… Xin ông hãy nói với ngài, thuyết phục ngài…” “Chúa tể Hắc ám sẽ không dễ bị thuyết phục, và tôi thì không ngu đến mức thử làm chuyện đó,” Thầy Snape nói thẳng thừng. “Tôi không thể nào giả bộ nói là Chúa tể Hắc ám không giận ông Lucius. Ông Lucius được coi là lãnh chịu cái trách nhiệm đó. Ông để cho bản thân bị bắt cùng nhiều người khác, trả cái giá đắt như vậy mà vẫn không phục hồi được lời tiên tri cho đáng. Ừ, quả thật Chúa tể Hắc ám đang giận, bà Narcissa à, rất giận.” “Vậy ra tôi đúng, ngài đã chọn Draco để trả thù!” Narcissa nấc lên uất nghẹn. “Ngài đâu có cần nó thành công, ngài chỉ muốn nó bị giết khi đang cố gắng!” Khi Thầy Snape không nói gì thì Narcissa dường như đánh mất một chút xíu sự tự kiềm chế mà bà ta có được. Bà ta đứng lên, lảo đảo bước đến bên Thầy Snape và nắm lấy vạt trược tấm áo chùng của ông. Mặt bà ta sát mặt Thầy Snape, nước mắt bà ta rơi thấm ngực áo ông, miệng bà ta há hốc không thở được. “Ông có thể làm được chuyện đó thay cho Draco, ông Severus à. Ông sẽ thành công, dĩ nhiên ông sẽ thành công, và ngài sẽ ban thưởng cho ông nhiều hơn cho tất cả chúng tôi…” Thầy Snape nắm lấy hai cổn tay của Narcissa và gỡ hai bàn tay bíu chặt của bà ta ra. Cúi xuống nhìn gương mặt lem luốc nước mắt của bà ta, ông chậm rãi nói. “Tôi nghĩ, ngài có ý định để tôi làm việc đó vòa phút cuối. Nhưng ngài quyết định là Draco nên thử trước. Bà hiểu chứ, trong tình huống ít xảy ra là Draco thành công, tôi vẫn có thể tiếp tục ở lại trường Hogwarts lâu thêm một chút, hoàn tất vai trò do thám của tôi.” “Nói cách khác là nếu Draco bị giết thì cũng chẳng thành vấn đề gì!” “Chúa tể Hắc ám đang rất tức giận,” Thầy Snape lặng lẽ nhắc lại. “Ngài đã không nghe được lời tiên tri. Bà cũng biết rõ như tôi, bà Narcissa à, rằng ngài không dễ dàng tha thứ.” Narcissa ngã gục, té xuống chân Thầy Snape, thổn thức rên rỉ trên sàn nhà. “Con trai duy nhất của tôi… con trai duy nhất của tôi…” “Cô nên tự hào!” Bellatrix nói một cách tàn nhẫn. “Nếu tôi mà có con trai, tôi sẽ vui mừng cống hiến chúng để phục vụ Chúa tể Hắc ám!” Narcissa khẽ gào lên tuyệt vọng và giật giật mái tóc dài vàng óng của mình. Thầy Snape cúi khom người xuống, nắm lấy hai cánh tay của Narcissa, nâng bà ta lên và dìu bà ta ngồi trở lại trên ghế sofa. Rồi ông rót thêm rượu cho Narcissa và ấn cái ly vô tay bà ta. “Bà Narcissa à, đủ rồi. Uống cái này đi. Nghe tôi nói.” Narcissa nín lặng một chút ; bà run run hớp một ngụm, làm đổ rượu xuống chính người mình. “Cũng có thể có khả năng… tôi giúp được Draco.” Narcissa đứng dậy, mặt bà ta trắng như tờ giấy, hai mắt mở to ra. “Ông Severus… Ôi, ông Severus… Ông sẽ giúp cháu nó? Ông sẽ canh chừng nó, sẽ lo cho nó không bị nguy hiểm?” “Tôi có thể cố gắng.” Narcissa quăng cái ly trong tay bà ta đi. Cái ly lăn ngang qua cái bàn khi bà ta tuột khỏi ghế sofa để quì gối dưới chân Thầy Snape, nắm lấy bàn tay ông trong cả hai tay mình, rồi ép môi lên đó. “Nếu ông ở đó để bảo vệ cháu nó… Ông Severus, ông có chịu thề không? Ông có chịu phép Thề Không Bội không?” “Thề Không Bội?” Vẻ mặt của Thầy Snape ngây ra, khó hiểu. Tuy nhiên Bellatrix phát ra một tràng cười khùng khùng đắc thắng. “Cô không nghe sao, Narcissa? Ôi, ông ấy sẽ cố gắng, tôi biết chắc mà… Những lời nói sáo rỗng thông thường, hành động phỉnh phờ cho qua chuyện… Ôi, đương nhiên là theo lệnh của Chúa tể Hắc ám!” Thầy Snape không nhìn Bellatrix. Đôi mắt đen của ông ta nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh đầy nước mắt của Narcissa trong khi bà ta tiếp tục níu chặt lấy tay ông. “Nhất định, bà Narcissa à, tôi sẽ chịu phép Thề Không Bội,” Thầy Snape nói khẽ. “Có lẽ bà chị của bà sẽ vui lòng làm Người Chứng giám cho chúng ta.” Bellatrix há hốc mồm. Thầy Snape hạ thấp người xuống để có được tư thế quì gối đối diện Narcissa. Dưới cái nhìn trợn trừng đầy kinh ngạc của Bellatrix, hai người nắm lấy tay mặt của nhau. “Bà phải cần đến cây đũa phép của bà đấy, bà Bellatrix,” Thầy Snape lạnh lùng nhắc. Bellatrix rút cây đũa phép ra, vẫn còn vẻ kinh ngạc. “Và bà cần phải tiến đến gần hơn chút xíu nữa,” Thầy Snape nói. Bellatrix bước tới trước để đứng ở vị trí cao hơn hai người kia, và đặt đầu cây đũa phép lên hai bàn tay nối nhau của họ. Narcissa nói. “Ông Severus, ông thề sẽ trông chừng con trai tôi, Draco, khi nó cố gắng hoàn thành ước nguyện của Chúa tể Hắc ám?” “Tôi thề,” Thầy Snape nói. Một tia lửa mảnh sáng rực phóng ra từ đầu cây đũa phép uốn vòng quanh bàn tay của hai người giống như một sợi dây kim loại nóng đỏ. “Và ông thề sẽ làm hết kahr năng của mình để bảo vệ con trai tôi khỏi hiểm nguy?” “Tôi thề.” Một tia lửa thứ hai bắn ra từ cây đũa phép quấn bện vào tia thứ nhất, tạo thành một sợi xích rực rỡ xinh đẹp. “Và, nếu như cần thiết… nếu có vẻ như Draco sẽ thất bại…” Narcissa thì thào (bàn tay của Thầy Snape bị kẹp chặt trong bàn tay của Narcissa, nhưng ông không rút tay ra) “ông thề sẽ thực hiện hành động mà Chúa tể Hắc ám ra lệnh cho Draco thực hiện?” Có một thoáng im lặng. Bellatrix quan sát, cây đũa phép của mụ đặt trên hai bàn tay siết chặt của hai người, hai mắt mở banh. Thầy Snape nói. “Tôi thề.” Bộ mặt sững sờ của Bellatrix đỏ ửng lên trong ánh sáng lóe lên từ tia lửa thứ ba bắn ra từ cây đũa phép, xoắn bện với hai tia kia, rồi tự kết dày đặc quanh hai bàn tay siết chặt, giống như một sợi dây thừng, giống như một con rắn lửa. CHƯƠNG BA SẼ VÀ KHÔNG H arry Potter đang ngáy như sấm. Nó đã ngồi lì suốt bốn tiếng đồng hồ trong một cái ghế đặt cạnh cửa sổ phòng ngủ, đăm đăm ngó ra đường phố đang tối dần, và rốt cuộc lăn đùng ra ngủ, vẫn áp một bên mặt lên lớp kính cửa sổ lạnh, cặp mắt kính của nó bị lệch đi, và miệng thì há rộng. Hơi thở của nó để lại một vết mờ mờ ẩm ẩm trên tấm kính cửa sổ sáng lóe màu vàng cam của ngọn đèn đường bên ngoài, và ánh sáng nhân tạo này đã làm tiêu hết màu sắc trên gương mặt nó, khiến cho gương mặt bên dưới mái tóc đen bù xù ấy trông có vẻ ma quái. Căn phòng vương vãi những của nả riêng đủ loại, lẫn lộn với không ít thứ cầm như là rác rưởi. Lông chim cú, lõi trái táo và giấy gói kẹo vứt bừa bãi trên sàn, một số sách thần chú nằm lung tung lộn xộn trong đống áo chùng nhàu nát lọan xà ngầu trên giường, và một đống hổ lốn báo chí nằm ườn trong vùng chiếu sáng của ngọn đèn để trên bàn học của nó. Một số báo đó có cái tít lớn khá nổ: HARRY POTTER: KẺ ĐƯỢC CHỌN? Tin đồn tiếp tục lan nhanh về vụ gây náo động mới đây ở Bộ Pháp thuật, và trong vụ này Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã xuất hiện một lần nữa. “Chúng tôi không được phép nói về chuyện này, đừng hỏi tôi bất cứ điều gì.” Một chuyên viên Lú không muốn nêu tên đã nói như vậy khi rời khỏi Bộ Pháp thuật tối hôm qua. Tuy nhiên, những nguồn tin rất đáng tin cậy từ bên trong Bộ Pháp thuật đã xác nhận rằng vụ gây náo động tập trung ở một địa điểm truyền thuyết là Sảnh đường Tiên tri. Mặc dù pháp sư phát ngôn của Bộ Pháp thuật cho đến giờ vẫn từ chối xác nhận thậm chí cả sự tồn tại của một nơi như thế, một số ngày càng đông trong cộng đồng Pháp thuật vẫn tin là những Tử thần thực tử hiện đang bị giam cầm trong nhà ngục Azkaban về tội xâm phạm và mưu toan trộm cắp đã ra sức đánh cắp một lời tiên tri. Không ai biết được bản châts của lời Tiên tri, mặc dù sự suy đoán lan tràn khắp nơi cho là nó có liên quan đến Harry Potter, người duy nhất từ trước đến nay được biết đến như kẻ sống sót qua Lời nguyền Giết chóc, và là người cũng đã có mặt ở Bộ Pháp thuật trong cái đêm xảy ra vụ náo động. Một số người còn đoán già thêm, gọi Harry Potter là “Kẻ Được Chọn”, họ tin là lời tiên tri chỉ định cậu bé là người duy nhất sẽ có khả năng trừ khử cho chúng ta Kẻ-chớ gọi-tên-ra. Lời tiên tri hiện giờ ở đâu, nếu quả là nó tồn tại, vẫn không ai biết, mặc dù (xem tiếp trang 2, cột 5) Một tờ báo thứ hai nằm cạnh bên tờ thứ nhất. Tờ này mang cái tít: SCRIMGEOUR KẾ NHIỆM FUDGE Chiếm gần hết trang đầu là một bức ảnh trắng đen to tướng của một người đàn ông có bờm tóc dày giống như bờm sư tử và một gương mặt khá dạn dày phong sương. Bức ảnh đó đang cử động – người đàn ông trong ảnh đang vẫy tay với cái trần nhà. Rufus Scrimgeour, giám đốc Sở Thần Sáng trước đây, vừa nhận chức Bộ trưởng Pháp thuật thay cho ông Cornelius Fudge. Việc bổ nhiệm này đã được cộng đồng Pháp thuật đón nhận nồng nhiệt, mặc dù chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi ông Scrimgeour nhậm chức đã nổi lên những lời đồn đại về sự bất đồng chính kiến giữa ông Bộ trưởng mới và Albus Dumbledore, vị Tổng Tư lệnh mới được phục chức của Quân đoàn Pháp thuật. Đại diện của ông Scrimgeour nhìn nhận rằng ông Bộ trưởng có gặp ông Dumbledore ngay sau khi nhận lãnh công việc tối cao, nhưng từ chối bình luận về những đề tài đã được hai bên bàn thảo. Ông Dumbledore được coi là (xem tiếp trang 3, cột 2) Bên trái tờ báo này là một tờ báo khác, được lật ra và gấp lại ở chỗ có thể thấy được một bài báo mang tựa đề BỘ PHÁP THUẬT BẢO ĐẢM AN NINH CỦA HỌC SINH. Vị Bộ trưởng Pháp thuật mới được bổ nhiệm, ông Rufus Scrimgeour, hôm nay đã nói về những biện pháp mới nghiêm ngặt được Bộ của ông thực hiện để đảm bảo an toàn cho học sinh trở lại trường đào tạo pháp sư và phù thủy Hogwarts vào mùa thu này. “Vì những lý do hiển nhiên, Bộ sẽ không đi sâu vào chi tiết của những kế hoạch an ninh mới rất chặt chẽ của Bộ,” ông Bộ trưởng nói vậy, mặc dù một người trong Bộ xác nhận rằng những biện pháp đó bao gồm các bùa chú phòng vệ, một sự bố trí phức tạp các bùa phản nguyền, và một đội công tác nhỏ thuộc lực lượng Thần Sáng chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ trường Hogwarts. Lập trường dứt khoát của ông Bộ trưởng về vấn đề an ninh của học sinh đã đảm bảo cho hầu hết các biện pháp đó. Bà Augusta Longbottom nói “Cháu nội của tôi, Neville - một người bạn tốt của Harry Potter, đã ngẫu nhiên cùng chiến đấu chống lại bọn Tử thần thực tử bên cạnh Potter ở Bộ Pháp thuật hồi tháng 6 và... Phần còn lại của câu chuyện không thể đọc được vì bị một cái lồng chim bự chảng ngồi chình ình ngay trên mặt bài báo. Bên trong lồng là một con cú trằng như tuyết đẹp lộng lẫy. Đôi mắt màu hổ phách của con cú quan sát toàn bộ căn phòng một cách ta đây là chủ, đầu nó thỉnh thoảng xoay lại ngó chằm chằm cậu chủ của mình đang nagys pho pho. Một hay hai lần nó mổ lách cách một cách sốt ruột, nhưng Harry ngủ say đến nỗi chẳng hề nghe thấy. Nằm ngày giữa phòng là một cái rương to đùng. Nắp rương để mở, trông như thể chuẩn bị hành trang, thế nhưng cái rương hầu như vẫn còn trống rỗng, ngoại trừ mấy thứ còn sót lại tận dưới đáy rương như đồ lót, kẹo, lọ mức rỗng, viết lông ngỗng đã gãy. Gần đó, nằm tênh hênh trên sàn, một tờ bướm màu tím nổi bật những dòng chữ: Được ban hành nhân danh Bộ Pháp thuật BẢO VỆ NHÀ CỬA VÀ GIA ĐÌNH MÌNH CHỐNG LẠI LỰC LƯỢNG HẮC ÁM Cộng đồng Pháp thuật hiện nay đang bị đe dọa bởi một tổ chức gọi là Tử thần thực tử. Tuân theo những hướng dẫn an ninh đươn giản sau đây sẽ giúp quí vị, gia đình quí vị, và nhà cửa quí vị khỏi bị tấn công. 1. Quí vị không nên rời khỏi nhà một mình. 2. Đặc biệt cẩn thận vào những thời khắc tối trời. Nơi nào khả dĩ thì nên tính toán sao cho những cuộc hành trình được hoàn tất trước khi trời tối. 3. Xem xét lại sự bố trí an ninh xung quanh ngôi nhà của quí vị, bảo đảm sao cho tất cả thành viên trong gia đình biết đến những biện pháp cao cấp như Bùa Khiên và Bùa Giải hoang tưởng, và đối với những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình, cần biết tới Bùa Độn thổ ké. 4. Thống nhất với gia đình và bạn bè thân thiết những câu hỏi an ninh để phát hiện Tử thần thực tử giả dạng trà trộn bằng cách sử dụng Đa Quả dược (xem trang 2) 5. Nếu quí vị cảm thấy một thành viên của gia đình, hay đồng nghiệp, bạn bè, hay hàng xóm, có hành vi lạ lùng, hãy tiếp xúc ngay tức thì với Đội Đặc nhiệm thi hành Luật Pháp thuật. Họ có thể đã bị khống chế bởi Lời nguyền Độc đoán (xem trang 4) 6. Nếu Dấu hiệu hắc ám xuất hiện bên trên nơi quí cị cư trú hay tòa nhà khác, THÌ ĐỪNG VÀO, mà hãy liên lạc ngay tức thì với Sở Thần Sáng. 7. Một số quan sát chưa được xác định cho rằng Tử thần thực tử hiện giờ có thể sử dụng Âm binh (xem trang 10). Bất cứ sự nhìn thấy Âm binh nào, hay gặp phải việc tương tự, phải được báo cáo cho Bộ Pháp thuật NGAY LẬP TỨC. Harry làu bàu mớ ngủ và cái mặt của nó trượt khỏi mặt kính cửa sổ chừng ba phân hay cỡ đó, khiến cho cặp kính cận của nó càng nằm lệch thêm, nhưng nó vẫn không thức giấc. Một cái đồng hồ báo thức, được Harry sửa lại cách đây nhiều năm, kêu tích tắc om xòm trên ngưỡng cửa sổ, báo mười một giờ kém năm phút. Bên cạnh cái đồng hồ là một đống giấy da đầy những chữ viết xiên xiên gầy gầy bị bàn tay thả lỏng của Harry đè lên tại chỗ. Từ khi lá thư được gửi đến cách đây ba ngày, Harry đã đọc đi đọc lại thường xuyên đến nỗi lá thư bây giờ nằm phẳng lì mặc dù nó vốn được cuộn tròn rất chặt. Harry mến, Nếu thuận tiện cho con, thầy sẽ đến thăm con ở ngôi nhà số bốn đường Privet Drive vào thứ sáu tuần này lúc mười một giờ đêm để đưa con đến trang trại Hang Sóc, nơi con được mời ở lại chơi đến hết kỳ nghỉ hè. Nếu con đồng ý, thầy cũng sẽ vui mừng được con giúp đỡ về một vấn đề mà thầy hy vọng giải quyết trên đường đến Hang Sóc. Thầy sẽ giải thích đầy đủ hơn về điều này khi gặp con. Vui lòng gửi hồi âm theo bưu cú này. Hy vọng gặp con vào thứ sáu. Thầy đây, thân yêu nhất của con, Albus Dumbledore Mặc dù đã thuộc nằm lòng lá thư, Harry vẫn cứ vài phút lại liếc chừng lá thư từ lúc mới bảy giờ chiều hôm đó, khi nó bắt đầu đóng đô ở cửa sổ phòng ngủ, chỗ mà từ đó có thể nhìn ra hai đầu đường Privet Drive. Nó biết dù có đọc đi đọc lại những lời của cụ Dumbledore thì cũng chẳng được tích sự gì; nó đã gởi ngay câu trả lời “vâng” cho con cú đưa thư theo như yêu cầu, và tất cả những gì mà nó có thể làm bây giờ là chờ đợi: cụ Dumbledore sắp đến, hoặc là cụ sẽ không đến. Nhưng Harry vẫn chưa chuẩn bị xong hành lý. Cái chuyện nó sắp được cứu vớt ra khỏi gia đình Dursley chỉ sau hai tuần lễ chung sống với họ sao mà có vẻ hay ho tới mức khó tin. Nó không thể nào rũ bỏ được cái cảm giác là có chuyện gì đó bất ổn sắp diễn ra... Biết đâu hồi âm của nó cho lá thư của cụ Dumbledore có thể thất lạc; cụ Dumbledore có thể bị trở ngại trong việc đi đón nó; lá thư biết đâu lại chẳng hóa ra là đồ bịp, một trò đùa, hay một cái bẫy, chứ không phải do cụ Dumbledore gởi đi. Harry đã không thể nào để tâm trí vô chuyện sắp xếp hành lý, rồi nó bỗng chán nản thất vọng và lại giở hành lý ra. Hành động duy nhất mà nó đã thực hiện để cho cuộc hành trình có thể xảy ra là nhốt con cú trằng như tuyết của nó, con Hedwig, vô trong lồng một cách an toàn. Cây kim phút của cái đồng hồ báo thức quay đến số mười hai, và đúng ngay boong lúc đó, ngọn đèn đường bên ngoài cửa sổ tắt phụt. Harry thức giấc như thể cái bóng tối thình lình ấy là còi báo thức. Vội vàng chỉnh sửa lại cặp mắt kính và gỡ cái mặt mình ra khỏi mặt kính cửa sổ, nó lại in mũi lên cửa sổ, liếc mắt xuống mặt đường. Một hình thù cao cao trong bộ áo khóac dài phất phới đang đi lên lối mòn trong vườn. Harry nhảy cẫng lên như thể nó vừa bị điện giật, hất cái ghế ngã chổng kềnh, và bắt đầu quơ quào bất cứ thứ gì và tất cả mọi thứ trong tầm tay trên sàn phòng rồi quăng hết vô cái rương. Đương khi nó đang với chụp một bộ áo chùng, hai cuốn sách Thần chú, và một gói bánh phồng ở đầu kia căn phòng, tì chuông cửa reo. Dưới nhà, trong phòng khách, dượng Vernon quát: “Ai cả gan kêu cửa vào đêm hôm như vầy hả?” Harry đứng lặng trang với cái kính thiên văn bằng đồng đang cầm trong tay và một đôi giày thể thao trong tay kia. Nó đã hoàn toàn quên bén chuyện nên báo trước cho gia đình Dursley về cuộc thăm viếng có thể xảy ra của cụ Dumbledore. Vừa cảm thấy hỏang hốt vừa tức cười, nó trèo qua cái rương và vặn khóa mở cánh cửa phòng ngủ vừa vặn lúc nghe một giọng nói thầm trầm: “Chào ông. Ắt hẳn ông là ông Dursley. Tôi đồ rằng Harry đã nói với ông rằng tôi sẽ đến đón trò ấy?” Harry nhảy ào xuống cầu thang từng hai bặc một, nhưng còn cách chân cầu thang nhiều bậc thì nó chợt đứng khựng lại, bởi vì kinh nghiệm lâu dài đã dạy nó là cứ nên ở ngoài tầm tay của của dượng nó khi nào có thể. Kìa đứng ở ngưỡng cửa chính là một người đàn ông gầy gò cao cao với mái tóc và bộ râu bạc phơ dài tới tận eo. Cặp mắt kính nửa vầng trăng trễ trên sóng mũi khoằm, và cụ mặc một cái áo khoác đi đường dài màu đen, đội một cái mũ chóp nhọn. Ông Vernon Dursley có một bộ ria cũng rậm rạp gần giống với bộ râu của thầy Dumbledore, chỉ có điều màu đen, và ông đang mặc một cái áo ngủ màu cánh dán. Ông trợn mắt ngó chòng chọc vị khách như thể không tin được đôi mắt ti hí của mình. “Đoán theo vẻ hoài nghi sửng sốt của ông, thì Harry đã không báo cho ông biết trước là tôi sẽ đến,” cụ Dumbledore dịu dàng nói. “Tuy nhiên, chúng ta cứ coi như ông đã thân tình mời tôi vô ngôi nhà của ông. Giữa thời buổi lộn xộn này, cù cưa quá lâu ở bậc thềm thì không khôn ngoan lắm.” Cụ nhanh nhẹn bước qua bậu cửa và đóng lại cánh cửa sau lưng. “Kể cũng khá lâu tính từ lần cuối cùng tôi đến thăm ông,” cụ Dumbledore nói, chăm chú ngó xuống dượng Vernon qua cánh mũi khoằm. “Tôi phải nói, tướng tá nghi phong của ông sung mãn thịnh vượng.” Ông Vernon Dursley không nói năng gì cả. Harry không nghi ngờ chút nào rằng cái lưỡi của ông sẽ hoạt động lại, và sớm thôi – vì nhịp đập của mạch máu nổi cộm trên thái dương của dượng đang gia tăng đến mức nguy hiểm – nhưng có một cái gì đó ở cụ Dumbledore nhất thời làm cho dượng ngạt thở. Có thể là do ngoại hình mang vẻ pháp sư rành rành, nhưng cũng có thể do dượng Vernon cảm nhận được đây là một con người đừng có hòng ăn hiếp. “À, chào Harry,” cụ Dumbledore nói, ngước lên nhìn Harry qua cặp mắt kính nửa vầng trăng với một vẻ hài lòng. “Xuất sắc, xuất sắc.” Những lời này dường như làm sôi máu dượng Vernon. ĐIều quá hiển nhiên đối với dượng là, bất cứ người nào có thể nhìn Harry mà nói “xuất sắc” thì dượng không bao giờ nhìn vào mắt người đó được. “Tôi không có ý thô lỗ...” Dượng bắt đầu nói, bằng một giọng hăm he sự thô bạo trong mỗi âm tiết. “Nhưng, buồn thay, sự thô bạo cứ ngẫu nhiên xảy ra với mật độ thường xuyên tới mức báo động,” cụ Dumbledore nghiêm trang hoàn tất câu nói. “Tốt nhất là đừng nói gì hết, thưa ông thân mến. À, đây ắt hẳn là bà Petunia.” Cửa nhà bếp vừa mở ra, và dì của Harry đứng đó, mang một đôi găng tay bằng cao su và một tấm khoác trong nhà choàng bên ngoài bộ đồ ngủ, hẳn nhiên là dì đang làm dở dang công việc dọn dẹp nhà bếp trước khi đi ngủ. Gương mặt dài ngoằng như mặt ngựa của dì không biểu hiện cái gì khác ngoài vẻ sửng sốt. “Tôi là Albus Dumbledore,” cụ Dumbledore nói, khi dượng Dursley không chủ động giới thiệu khách. “Dĩ nhiên, chúng ta có thư từ với nhau trước đây.” Harry nghĩ đây là một cách nhắc lại không hay lắm cho dì Petunia nhớ rằng đã có lần cụ đã gởi cho dì một thư sấm, nhưng dì Petunia không thừa nhận thuật ngữ đó. “Và đây ắt hẳn là con trai của bà, cậu Dursley?” Lúc đó Dudley đã thò đầu qua cửa phòng khách dáo dác nhìn ngó: cái đầu bự đội mái tóc vàng óng của nó nhô bên trên cái cổ áo có sọc của bộ đồ ngủ trông lặc lìa quái gở, mồm nó ngoác ra vì kinh ngạc và khiếp sợ. Cụ Dumbledore chờ cho một hay hai giây, rõ ràng là để xem có ai trong gia đình Dursley muốn nói gì không, nhưng khi thấy ai cũng lặng như tờ, cụ mỉm cười. “Tôi có nên cho rằng quí vị sẽ mời tôi vô phòng khách không nhỉ?” Dudley lật đật tránh đường cho cụ Dumbledore bước qua. Harry, tay vẫn cầm cái kính thiên văn và đôi giày thể thao, nhảy xuống mấy bậc thang cuối cùng để đi theo cụ Dumbledore. Cụ đã tự mình an tọa trong cái ghế bành gần lò sưởi nhất và đang thưởng thức cảnh trí chung quanh với một vẻ mặt thích thú nhân hậu. Trông cụ nổi bật trong quang cảnh ấy. “Thưa thầy... chúng ta sắp đi chưa ạ?” Harry lo lắng hỏi. “Ừ, thực ra chúng ta sắp đi rồi, nhưng có vài vấn đề cần bàn bạc trước,” cụ Dumbledore nói. “Và thầy muốn làm chuyện đó trong nhà hơn là ở nơi công cộng. CHúng ta nên tận dụng lòng hiếu khách của dì và dượng trò thêm một chút nữa.” “Ông sẽ làm thế thật à?” Dượng Vernon Dursley cũng đã trở vô phòng khách, dì Petunia bám sát sau vai chồng, và thập thò đằng sau cả hai là Dudley. “Vâng, tôi sẽ làm thế.” Cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. Cụ rút cây đũa phép ra lẹ đến nỗi Harry hầu như không nhìn thấy; chỉ bằng một cái phẩy nhẹ bình thường, cái ghế sofa vọt tới trước và tông vô đầu gối từ phía dưới chân ba người nhà Dursley khiến cho họ té nhào lên đó thành một đống. Một cái phẩy nhẹ kahcs của cây đũa phép khiến cái ghế sofa bay trở lại vị trí ban đầu. “Chúng ta thế là đều được thoải mái,” cụ Dumbledore nói một cách vui vẻ. Khi cụ cất cây đũa phép vô túi áo, Harry nhận thấy bàn tay của cụ bị nám đen và teo quắt lại; trông như thể cơ bắp của bàn tay đã bị thui cháy. “Thưa thầy... chuyện gì đã xảy ra với...” “Để sau đã, Harry,” cụ Dumbledore nói. “Con hãy ngồi xuống.” Harry ngồi xuống cái ghế bành còn lại, chọn thế làm sao cho khỏi phải nhìn thấy gia đình Dursley, họ có vẻ choáng váng trong im lặng. “Tôi cứ tưởng ông sẽ thết đãi tôi chút trà bánh,” cụ Dumbledore nói với dượng Vernon. “Dè đâu bằng chứng nãy giờ cho thấy cứ lạc quan quá đáng như vậy thì thành ra ngu.” Một cái phẩy thứ ba của cây đũa phép, và một cái chai bụi bặm cùng năm cái ly xuất hiện giữa cõi thinh không. Cái chai bật nút và rót vô mỗi ly một lượng hào phóng chất lỏng màu mật, rồi mỗi cái ly tự trôi đến tay mỗi người trong căn phòng. “Đây là món rượu mật ong rừng sồi ngon nhất của bà Rosemerta,” cụ Dumbledore nói, nâng ly với Harry. Nó đón lấy ly của mình và hớp một ngụm. Nó chưa từng nếm qua cái gì tương tự như vậy trước đây, nhưng cũng khoái vô cùng. Gia đình Dursley, sau cái nhìn thật nhanh đày khiếp đảm, đã cố tình phớt lờ hoàn toàn mấy cái ly phần họ, quả là một thành tích khó khăn, bởi vì mấy cái ly cứ huých huých nhè nhẹ bên đầu họ. Harry không thể nào nén được nỗi nghi ngờ rằng cụ Dumbledore đang tự giải trí cho mình. “Này, Harry,” cụ Dumbledore quay sang phía Harry và nói, “có một chuyện khó khăn phát sinh mà thầy hy vọng con có thể giải quyết cho chúng ta. Khi nói chúng ta, thầy muốn nói Hội Phượng hoàng. Nhưng trước tiên thầy phải nói với con rằng di chúc của Sirius đã được tìm thấy cách đây một tuần và chú ấy để lại cho con tất cả những gì thuộc về chú ấy.” Cái đầu của dượng Vernon xoay phía trên cái ghế sofa, nhưng Harry chẳng buồn nhìn ông ấy, cũng không thể nghĩ ra điều gì để nói ngoại trừ mấy tiếng “Ô, được thôi.” “Điều này về cơ bản, khá minh bạch,” cụ Dumbledore tiếp tục. “Con tăng thêm một số lượng vàng đáng kể vào tài khoản của con trong ngân hàng Gringotts, và con thừa hưởng tất cả sở hữu cá nhân của chú Sirius. Phần hơi có vấn đề của di sản...” “Cha đỡ đầu của nó chết rồi hả?” Từ cái ghế sofa, dượng Vernon nói to. Cả cụ Dumbledore lẫn Harry đều quay đầu lại nhìn ông ta. Cái ly rượu mật ong lúc này cứ thế mà khỏ vô chẩm đầu của dượng Vernon; ông ta thì cố gắng đánh đuổi nó đi. “Ổng chết rồi hả? Cha đỡ đầu của nó ấy?” “Ừ,” cụ Dumbledore nói. Cụ không hỏi tại sao Harry đã không tâm sự gì về đời nó với gia đình Dursley. “Vấn đề của chúng ta là,” cụ tiếp tục nói với Harry, như thể đã không hề óc sự gián đoạn nào. “Chú Sirius cũng để lại cho con cả căn nhà số mười hai Quảng trường Grimmauld.” “Ổng để lại một căn nhà hả?” Dượng Vernon nói với vẻ tham lam, hai con mắt nhỏ xíu của ông ta nheo lại ti hí, nhưng chẳng ai buồn trả lời ông ta cả. “Thầy có thể tiếp tục sử dụng nó làm tổng hành dinh,” Harry nói. “Con không bận tâm. Thầy cứ lấy đi. Con thực sự không muốn lấy nó.” Harry không bao giờ muốn đặt chân vào số mười hai Quảng trường Grimmauld một lần nữa nếu nó có thể tránh được. Nó nghĩ nó có thể bị ám ảnh mãi mãi bởi ký ức về chú Sirius vơ vẩn trong những căn nhà mốc meo tăm tối một mình, bị cầm tù trong cái nơi mà chú đã khao khát rời bỏ. “Thế là hòa phóng,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, tạm thời chúng ta bỏ trống tòa nhà.” “Tại sao?” “Chà...” cụ Dumbledore nói, phớt lờ tiếng nói của dượng Vernon. Lúc này ông ta đang bị ly rượu mật kiên trì khỏ ngay đỉnh đầu để cưỡng ép một cách quyết liệt. “Truyền thống gia đình Black qui định rằng ngôi nhà phải được truyền lại theo trực hệ cho người nam tiếp theo trong dòng họ mang họ “Black’. Chú Sirius là người nam cuối cùng trong dòng họ chính thống này, bởi vì em trai chú ấy, Regulus, đã chết trước chú ấy, và cả hai đều không có con. Trong khi di chúc của chú Siriusnói một cách hoàn toàn rõ ràng rằng chú ấy muốn con thừa hưởng căn nhà, nhưng dù vậy có thể có một số thần chú hoặc bùa ểm đã được ếm lên tòa nhà ấy để bảo đảm là nó không thể bị sở hữu bởi bất cứ ai không thuần huyết thống.” Một hình ảnh sống động về bức chân dung treo trên tường của bà mẹ chú Sirius gào thét và nhổ nước miếng nháng lên trong đầu Harry. Nó nói. “Con cá có bùa là cái chắc.” “Khá nhiều,” cụ Dumbledore nói. “Và nếu có một thứ bùa ểm như thế thì quyền sở hữu rất có thể được truyền lại cho người bà con vai vế cao nhất còn đang sông của chú Sirius, có nghĩa là cho người chị họ của chú ấy, bà Bellatrix Lestrange.” Harry đứng bật dậy mà không nhận thức được điều mình đang làm; cái kính thiên văn và đôi giày thể thao văng từ trên đùi nó qua tuốt bên kia sàn. Mụ Bellatrix Lestrange, kẻ đã giết chú Sirius, mà thừa kế căn nhà ư? “Không,” nó kêu lên. “Ừ, hiển nhiên là chúng ta cũng không muốn bà ấy thừa kế căn nhà. Tình huống đầy nguy hiểm và phức tạp. Chúng ta không biết liệu các thứ bùa ểm mà chính chúng ta đã ếm lên căn nhà, thí dụ bùa Bất Khả định vị, có còn hiệu lực nữa không một khi quyền sở hữu căn nhà không còn thuộc về chú Sirius nữa. Rất có thể Bellatrix sẽ về đến ngay ngưỡng cửa bất kỳ lúc nào. Đương nhiên chúng ta phải dời đi cho đến thời điểm mà chúng ta làm rõ được sở hữu của địa điểm đó.” “Nhưng làm sao mà thầy biết được là liệu con có được phép sở hữu nó hay không?” “May mắn thay,” cụ Dumbledore nói, “có một phép kiểm tra đơn giản.” Cụ đặt cái ly rỗng của mình lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ghế, nhưng trước khi cụ có thể làm bất cứ điều gì, dượng Vernon đã gào lên: “Ông có dẹp dùm mấy cái thứ đồ chết tiệt này cho chúng tôi nhờ không?” Harry quay lại nhìn: tất cả ba người nhà Dursley đang dùng tay che đỡ bên trên đầu của mình, bởi vì mấy cái ly cứ khỏ tưng tưng xuống mấy cái sọ dừa của họ, khiến cái thứ đựng bên trong ly văng tung tóe khắp nơi. “Ôi, tôi xin lỗi,” cụ Dumbledore nhã nhặn nói, rồi giơ cây đũa phép lên một lần nữa. Cả ba cái ly đều biến mất. “Nhưng quí vị cũng biết là có cách tốt hơn mà, ấy là cứ uống đi cho rồi.” Có vẻ như dượng Vernon sắp nổ tung ra với vô số phản đối khó chịu, nhưng ông ta chỉ thụp trở xuống đám gối nệm cùng với dì Petunia và Dudley mà không nói gì cả, hai con mắt heo ti hí cứ ngó chừng cây đũa phép của cụ Dumbledore. “Con thấy đó,” cụ Dumbledore nói, quay lại với Harry, và một lần nữa chuyện trò như thể dượng Vernon đã không hề chen ngang vô tiếng nào. “Nếu con thực sự thừa kế căn nhà thì con cũng được thừa kế...” Cụ Dumbledore phẩy cây đũa phép lần thứ năm. Một tiếng “cách” lớn vang lên, và một gia tinh xuất hiện với một cái vòi thế chỗ cho cái mũi, hai cái tai dơi khổng lồ, và đôi mắt ngầu đỏ to thô lố, đang phủ phục trên tấm thảm dày của nhà Dursley, mình mẩy phủ toàn giẻ rách bẩn thỉu. Dì Petunia thốt ra một tiếng thét dựng tóc gáy, chưa bao giờ trong lịch sử từng có một vật bẩn thỉu như thế bước chân vô nhà dì. Dudley co đôi chân trần hồng hào béo tốt của nó lên khỏi sàn và cứ ngồi với hai chân giơ lên gần quá đầu, như thể nó tưởng cái sinh vật đó có thể chạy lên theo ống quần ngủ của nó. “Cái đồ quỉ gì vậy?” Dượng Vernon rống lên. “Kreacher,” cụ Dumbledore nói dứt câu. “Kreacher không, Kreacher không, Kreacher không.” Con gia tinh la ông ổng, tiếng gần to bằng tiếng của dượng Vernon, dẫm thình thình hai chân cáu bẩn và kéo giật hai vành tai tổ chảng của nó. “Kreacher thuộc về cô Bellatrix, ừ, đúng, Kreacher thuộc về dòng họ Black, Kreacher muốn cô chủ mới, Kreacher không muốn theo thằng ranh con hỗn xược Potter, Kreacher không, không, không.” “Như con có thể thấy đó, Harry,” cụ Dumbledore nói to, át mấy tiếng không, không, không. “Kreacher đang cho thấy có một sự miễn cưỡng nhất định trong việc chuyển giao quyền sở hữu sang con.” “Con không quan tâm,” Harry nói một lần nữa, ghê tởm nhìn con gia tinh đang lăn lộn gào thét. “Con không muốn nó.” “Không, không, không, không…” “Chẳng lẽ con lại muốn chuyển quyền sở hữu nó sang cho Bellatrix hơn à? Hãy nhớ rằng nó đã sống ở Tổng hành dinh của Hội Phượng hoàng trong suốt năm qua.” “Không, không, không, không…” Harry nhìn chằm chằm cụ Dumbledore. Nó hiểu Kreacher không thể nào được phép ra đi và đến sống với Bellatrix Lestrange, nhưng cái ý nghĩ phải làm chủ Kreacher, phải chịu trách nhiệm về một sinh vật đã từng phản bội chú Sirius khiến nó thấy tởm lợm. “Hãy ra lệnh cho nó,” cụ Dumbledore nói. “Nếu nó đã được chuyển giao cho con làm chủ, thì nó sẽ phải vâng lời. Nếu không, lúc đó chúng ta sẽ phải nghĩ đến những biện pháp khác để cách ly nó với bà chủ hợp pháp của nó.” “Không, không, không, KHÔNG!” Giọng của Kreacher cất cao lên thành một tiếng rú. Harry không thể nghĩ ra cái gì để nói, ngoại trừ: “Kreacher, im mồm!” Trong một thoáng, có vẻ như Kreacher sắp tắt thở. Nó chụp lấy cổ họng, mồm nó vẫn còn láp váp một cách điên cuồng, hai con mắt nó lồi hẳn ra. Sau vài giây hớp hơi một cách điên cuồng, nó tự quăng mình nằm sấp lên tấm thảm (dì Petunia khóc thút thít) và đấm đá cái sàn bằng cả hai tay và hai chân, tự chuyển mình qua một cơn cuồng nộ dữ dội, nhưng hoàn toàn yên lặng. “Tốt, điều đó đơn giản hóa nhiều vấn đề,” cụ Dumbledore phấn khởi nói. “Dường như chú Sirius hiểu điều mà chú ấy làm. Con là người thừa kế hợp pháp của số mười hai Quảng trường Grimmauld và của Kreacher.” “Con có phải... có phải giữ nó bên mình không?” Harry thất kinh hồn vía hỏi lại trong khi Kreacher quẫy đập quanh chân nó. “Không, nếu con không muốn,” cụ Dumbledore nói. “Nếu được, thầy đề nghị con nên gởi nó tới trường Hogwarts để làm việc trong nhà bếp của trường. Bằng cách đó, những gia tinh khác có thể trông chừng nó.” “Phải đó!” Harry reo lên nhẹ nhõm. “Phải đó, con sẽ làm như vậy. Ơ... Kreacher… ta muốn mi tới trường Hogwarts và làm việc trong nhà bếp của trường với những gia tinh khác.” Kreacher lúc này đã xoay ra nằm ngửa trên sàn, giơ cả hai chân hai tay lên không trung, ngó Harry ngược từ dưới lên trên bằng cái nhìn kinh tởm sâu sắc nhất, rồi cùng với một tiếng “cạch” lớn, nó biến mất. “Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Cũng còn một vấn đề về con bằng mã Buckbeak bây giờ đã thuộc về con, cho nên nếu muốn thu xếp cách khác…” “Không,” Harry nói ngay. “Nó có thể ở lại với bác Hagrid. Con nghĩ Buckbeak thích như vậy hơn.” “Hagrid sẽ vui mừng lắm,” cụ Dumbledore nói. “Bác ấy rất xúc động khi gặp lại con Buckbeak. Nhân tiện, chúng ta đã quyết định, vì sự an toàn của Buckbeak, tạm thời sửa lại tên của nó là Witherwings, mặc dù thầy không tin rằng Bộ có thể đoán ra nó chính là con bằng mã mà họ đã từng kêu án tử hình. Thôi, Harry, hòm xiểng của con xong chưa?” “Dạ…” “Con nghi ngờ là thầy không đến sao?” cụ Dumbledore nói một cách sắc xảo. “Con sẽ đi… và ơ… làm xong ngay,“ Harry hấp tấp nói, vội vàng nhặt nhạnh lại cái kính thiên văn và đôi giày thể thao. Nó mất chừng hơn mười phút một tí để tìm ra những thứ mà nó cần; cuối cùng nó cũng loay hoay rút ra được cái Áo khoác tàng hình từ dưới gầm giường, vặn lại cái nút hũ mực đổi màu, và ấn được cái nắp rương đóng đè xuống cái vạc cố nhét bên trong. Xong, một tay cố kéo cái rương, tay kia xách cái chuồng con Hedwig, nó đi trở xuống cầu thang. Nó thất vọng thấy cụ Dumbledore không chờ nó ở trong hành lang, có nghĩa là nó phải trở lại phòng khách. Chẳng ai nói năng gì cả. Cụ Dumbledore đang ngâm nga khe khẽ, hiển nhiên là thoải mái dễ chịu, nhưng không khí còn đặc hơn cả cái bánh trứng nguội lạnh, và Harry không dám nhìn gia đình Dursley khi nó nói: “Thưa giáo sư, con đã sẵn sàng rồi ạ.” “Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Vậy thì chỉ còn một chuyện nữa thôi.” Và cụ quay qua nói chuyện với gia đình Dursley một lần nữa. “Chắc chắn là ông bà biết, Harry sẽ tới tuổi trưởng thành trong vòng một năm nữa.” “Không,” dì Petunia nói, lần đầu tiên kể từ khi cụ Dumbledore bước vô nhà. “Cho phép tôi hỏi lại?” cụ Dumbledore nói một cách lịch sự. “Không, nó chưa đủ tuổi trưởng thành. Nó nhỏ hơn Dudley một tháng, và tới năm sau của năm sau nữa Dudley mới đủ mười tám tuổi.” “A,” cụ Dumbledore vui vẻ nói. “Nhưng trong thế giới Pháp thuật, chúng tôi trưởng thành khi đủ mười bảy tuổi.” Dượng Vernon lẩm bẩm, “Lố bịch,” nhưng cụ Dumbledore phớt lờ ông ta. “Giờ đây, như ông bà biết, vị pháp sư tên là Voldermort đã trở lại đất nước này. Cộng đồng Pháp thuật hiện đang lâm vào tình trạng chiến tranh công khai. Harry, người mà chúa tể Voldermort đã cố gắng giết đi trong nhiều dịp, giờ đây ở trong tình cảm còn nguy hiểm hơn cả cái ngày mà tôi bỏ nó trên ngạc cửa nhà ông bà cách đây mười lăm năm, kèm một lá thư giải thích về việc cha mẹ nó bị ám sát và bày tỏ niềm hy vọng rằng ông bà sẽ chăm sóc nó như thể con cái mình.” Cụ Dumbledore ngừng lại, mặc dù giọng nói của cụ vẫn nhẹ nhàng bình tĩnh, và cụ chẳng tỏ dấu hiệu nào của sự giận dữ, Harry vẫn cảm thấy một cơn lạnh thấu gì đó phát ra từ cụ và nó nhận thấy gia đình kia co cụm lại sát với nhau. “Ông bà đã không làm đúng như tôi yêu cầu. Ông bà chưa bao giờ đối xử với Harry như con cái. Nó chẳng nhận được gì từ tay ông bà, ngoại trừ sự bỏ bê và ác nghiệt. Điều tốt nhất còn kể ra được là ít ra thì nó cũng đã thoát được sự hư hỏng đáng sợ mà ông bà đã gây ra cho thằng bé bất hạnh đang ngồi giữa ông bà kia.” Cả dì Petunia và dượng Vernon đều ngoái đầu nhìn ra sau theo bản năng, như thể trông mong nhìn thấy một ai đó khác Dudley đang ngồi nép vô giữa hai người. “Chúng tôi... chúng tôi mà đối xử tệ bạc với Dudders à? Ông muốn nói...” Dượng Vernon bắt đầu nói một cách giận dữ, nhưng cụ Dumbledore giơ ngón tay lên để giữ yên lặng, một sự yên lặng như thể cụ đã táng cho dượng Vernon một cái khờ luôn. “Pháp thuật mà tôi khơi lên cách đây mười lăm năm có ý nghĩa là Harry có được sự bảo vệ mạnh mẽ khi nó còn có thể gọi căn nhà này là ‘nhà’. Cho dù ở đây nó đã khốn khổ thế nào đi nữa, cho dù nó bị ghẻ lạnh thế nào đi nữa, cho dù nó bị đối xử tàn tệ thế nào đi nữa, ông bà đã cho nó một mái nhà, dù một cách bất đắc dĩ. Pháp thuật này sẽ hết hiệu lực khi Harry đủ mười bảy tuổi; hay nói cách khác, khi nó trở thành một người dàn ông. Tôi chỉ yêu cầu điều này: rằng ông bà hãy cho phép Harry trở về căn nhà này một lần nữa, trước sinh nhật thứ mười bảy của nó, điều này sẽ bảo đảm rằng nó còn tiếp tục có được sự bảo vệ cho tới lúc đó. Chẳng người nào trong gia đình Dursley nói lời nào. Dudley hơi cau mày, mặc dù nó vẫn còn đang cố gắng suy ra xem nó từng bị đối xử tệ bạc hồi nào. Dượng Vernon thì trông như thể bị cái gì đó vướng mắc trong cổ họng; tuy nhiên, dì Petunia thì lại xúc động một cách kỳ cục. “Thôi, Harry... đã tới lúc chúng ta lên đường.” Cuối cùng cụ Dumbledore cũng lên tiếng. Cụ đứng lên và kéo cho ngay lại tấm áo khoác dài màu đen. “Hẹn đến lúc chúng ta gặp lại,” cụ nói với gia đình Dursley, mấy người này tỏ vẻ như thể thời khắc đó có thể mãi mãi không bao giờ tới. Và sau khi đội mũ, cụ lướt đi ra khỏi phòng. “Chào,” Harry vội vã nói với gia đình Dursley, rồi bước theo cụ Dumbledore. Cụ đnưgs cạnh cái rương của Harry, bên trên rương đặt cái chuồng của con Hedwig. “Lúc này chúng ta không muốn bị vướng víu những thứ này,” cụ nói, lại rút cây đũa phép ra một lần nữa. “Thầy sẽ gởi chúng tới Hang Sóc đợi chúng ta ở đó. Tuy nhiên, thầy muốn con mang theo bên mình Áo khoác tàng hình... phòng khi cần đến.” Harry rút tấm áo khoác của nó ra khỏi cái rương một cách khó khăn, cố gắng không bày cho cụ Dumbledore thấy cái đống hầm bà lằng hổ lốn bên trong cái rương. Khi nó đã nhét tấm áo vô một cái túi bên trong cái áo gió, cụ Dumbledore vẫy cây đũa phép, và cái rương, cái chuồng, cùng con Hedwig đều biến mất. Cụ Dumbledore lại vẫy cây đũa phép một lần nữa, và cánh cửa trước mở ra một bóng tối mù sương mát lạnh. “Và bây giờ, Harry à, chúng ta hãy ra đi, bước vào đêm và đuổi theo cô ả phù phiếm – cuộc phiêu lưu.” CHƯƠNG BỐN HORGACE SLUGHORN B ất chấp cái việc Harry đã giành hết từng giây phút không ngủ trong mấy ngày qua hy vọng một cách tha thiết rằng cụ Dumbledore sẽ đến đón mình đi thực sự, nó vẫn cảm thấy lúng túng lộ liễu khi hai thầy trò ra tới đường Privet Drive. Trước giờ nó chưa từng trải qua một cuộc chuyện trò thực sự nào với thầy hiệu trưởng ở bên ngoài khuôn viên trường Hogwarts; giữa hai người luôn có một cái bàn làm việc. Ký ức về cuộc gặp gỡ mặt-đối-mặt vừa qua giữa hai người lại cứ hay trỗi dậy, và chuyện đó càng làm Harry bối rối thêm; nó đã la thét hơi nhiều trong dịp đó, ấy là không kể nó đã thi thố hết tài năng để làm tan tành nhiều món đồ đạc được cụ Dumbledore tưng tiu nhất. Tuy nhiên, cụ Dumbledore có vẻ hoàn toàn thư thái. Cụ rạng rỡ nói: “Thủ sẵn cây đũa phép của trò nhé, Harry” “Nhưng thưa thầy, con tưởng con không được phép sử dụng pháp thuật bên ngoài trường học chớ?” “Nếu có một cuộc tấn công,” cụ Dumbledore nói, “thầy cho phép con sử dụng bất cứ phép kháng-bùa hay lời nguyền nào mà con biết xài. Tuy nhiên, thầy không nghĩ rằng con cần phải lo lắng về chuyện bị tấn công vào tối nay.” “Thưa thầy, tại sao không ạ?” “Con đang ở bên thầy,” cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. “Điều này đủ đảm bảo an toàn, Harry à.” Cụ đột ngột dừng chân giữa đường Privet Drive. “Dĩ nhiên là con chưa trải qua kỳ Sát hạch Độn thổ, đúng không?” cụ hỏi “Dạ chưa,” Harry đáp. “Con tưởng phải đủ mười bảy tuổi mới được thi.” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là con phải bám vô cánh tay thầy thật chặt. Tay trái, nếu không phiền… như con đã nhận thấy đó, tay cầm cây đũa phép của thầy lúc này hơi yếu.” Harry bám chặt cánh tay cụ Dumbledore đưa ra. Cụ bảo: “Tốt lắm. Nào, chúng ta đi.” Harry cảm thấy cánh tay cụ Dumbledore xoắn tuột khỏi bàn tay nó. Nó bèn bám chặt hơn nữa. Việc tiếp theo mà nó nhận ra là mọi thứ bỗng đen hù; nó bị ép rất mạnh từ mọi hướng; nó không thể thở nổi, có những đai sắt chằng quanh ngực nó; tròng mắt nó bị đẩy ngược vô tuốt bên trong đầu, màng tai nó bị đẩy sâu hơn vô trong hộp sọ và rồi… Nó há họng đớp đầy phổi làn khí lạnh ban đêm và mở to đôi mắt đang trào nước. Nó cảm thấy như thể mới vừa bị nhét qua một cái ống cao su rất chặt. Nó mất vài giây định thần mới nhận ra con đường Privet Drive đã biến mất. Nó và cụ Dumbledore lúc này đang đứng ở một nơi có vẻ như một sân làng hoang phế, ở giữa sân có một tượng đài kỷ niệm chiến tranh và vài băng ghế dài. Khi đầu óc đã băts kịp cảm xúc, Harry hiểu ra nó vừa mới được độn thổ lần đầu tiên trong đời. “Con có sao không?” Cụ Dumbledore ngó xuống nó lo lắng hỏi. “Cảm giác đó rồi sẽ quen đi.” “Con không sao.” Harry nói, chà xát hai lỗ tai, có vẻ như hai lỗ tai nó hơi bất đắc dĩ phải rời bỏ con đường Privet Drive. “Nhưng con thấy khoái chổi bay hơn...” Cụ Dumbledore mỉm cười, kéo tấm áo khoác lữ hành lên sát quanh cổ hơn một chút, và nói: “Đi lối này.” Cụ bước đi rất nhanh, băng qua một cái quán tọ trống không và vài căn nhà. Theo như cái đồng hồ trên tháp một nhà thờ kế đó thì đã gần nửa đêm. Cụ Dumbledore nói: “Nào Harry, nói cho thầy nghe, cái thẹo của con… dạo này còn đau không?” Harry đưa bàn tay lên trán một cách vô thức và xoa xoa cái dấu hình tia chớp. Nó nói: “Dạ không. Và con đang thắc mắc về việc đó. Con tưởng nó sẽ phải rát hơn bao giờ hết chớ, vì bây giờ Voldermort đã lại có quyền lực rồi.” Nó ngước nhìn lên cụ Dumbledore và thấy vẻ hài lòng trên mặt cụ. Cụ Dumbledore nói: “Nhưng thầy thì nghĩ ngược lại. Chúa tể Voldermort cuối cùng đã nhận ra rằng lâu nay con hơi khoái việc tiếp cận nguy hiểm vào suy nghĩ và tình cảm của hắn. Có vẻ như bây giờ hắn đang xài bùa Bế quan chống lại con.” “Thế cũng được. Con cũng chẳng phiền,” Harry nói. Nó chẳng tiếc nhớ gì cả những giấc chiêm bao đầy xáo trộn đến những phát nháng đến sững sờ rọi vô bên trong đầu óc Voldermort. Hai người quẹo qua một góc đường, đi ngang qua một trạm điện thoại công cộng và một trạm chờ xe buýt. Harry lại nhìn ngang cụ Dumbledore một lần nữa. “Thưa thầy…” “Gì hở Harry?” “Ơ… Chúng ta đang ở đâu đây?” “Harry à, đây là làng Budleigh Babberton xinh đẹp.” “Chúng ta sẽ làm gì ở đây ạ?” “À phải, đương nhiên rồi, thầy chưa nói với con,” cụ Dumbledore đáp. “Chà, thầy đã đếm hết nổi số lần thầy đã nói điều này trong những năm gần đây, nhưng một lần nữa thầy lại phải nói rằng chúng ta thiếu một thành viên trong giáo ban. Chúng ta tới đây để thuyết phục một đồng nghiệp cũ của thầy đừng nghỉ hưu nữa để trở về dạy ở trường Hogwarts.” “Thưa thầy, con giúp gì được trong chuyện này ạ?” “À, thầy nghĩ sẽ kiếm được chỗ để xài tới con,” cụ Dumbledore nói một cách mơ hồ. “Quẹo trái, Harry.” Hai người đi lên một con đường hẹp rất dốc, hai bên nhà cửa san sát. Tất cả cửa sổ đều tối thui. Trận lạnh giá kỳ quái đã tan từ hai tuần trước ở đường Privet Drive, nhưng vẫn còn dai dẳng ở đây. Nghĩ đến bọn giám ngục, Harry ngoái lại sau liếc mắt nhìn, nắm chặt lấy cây đũa phép trong túi áo. “Thưa thầy, tại sao chúng ta không độn thổ thẳng vô nhà đồng nghiệp của thầy cho gọn?” “Bởi vì như vậy thì bất lịch sự không kém gì đá tông vô cửa nhà người ta,” cụ Dumbledore nói. “Phép lịch sự đòi hỏi chúng ta phải chừa lại cho các pháp sư cơ hội từ chối đón tiếp chúng ta. Vả lại, hầu hết nhà cửa của dân pháp thuật đều được bảo vệ bằng bùa chống lại những cuộc đột nhập bằng độn thổ. Chẳng hạn ở trường Hogwarts…” “Không ai có thể độn thổ ở bất cứ đâu bên trong lâu đài hay ngoài sân vườn. Hermione Granger có nói với con như vậy,” Harry nhanh nhẩu nói. “Và trò ấy hoàn toàn đúng. Chúng ta quẹo trái một lần nữa.” Đằng sau hai thầy trò, chuông đồng hồ nhà thờ điểm nửa đêm. Harry thắc mắc tại sao cụ Dumbledore không coi việc đến thăm đồng nghiệp cũ vào đêm hôm khuya khoắt như vầy cũng là bất lịch sự, nhưng giờ đây hai thầy trò đã trò chuyện thoải mái rồi, Harry có nhiều câu hỏi cấp bách hơn để mà hỏi. “Thưa thầy, con coi trên Nhật báo Tiên Tri ông Fudge đã bị mất chức…” “Đúng,” cụ Dumbledore đáp. Lúc này cụ đang đi ngược lên phía dốc đứng của con đường. “Thầy chắc là con cũng có đọc thấy rằng ông ấy đã bị ông Rufus Scrimgeour thay thế. Ông này vốn là Giám đốc Sở Thần sáng.” “Ông ấy… Thầy có nghĩ là ông ấy tốt không?” Harry hỏi. “Một câu hỏi thú vị,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn là ông ấy có khả năng. Một tính cách mạnh mẽ cả quyết hơn ông Cornelius.” “Dạ, nhưng ý con…” “Thầy hiểu ý con. Rufus là một người hành động, và vì đã từng chiến đấu chống các phù thủy Hắc ám gần như suốt cả đời công tác, nên không đánh giá thấp Chúa tể Voldermort.” Harry chờ đợi, nhưng cụ Dumbledore chẳng nói gì tới chuyện cụ bất đồng với ông Scrimgeour mà tờ Nhật báo Tiên Tri đã tường thuật, và nó cũng chẳng dám theo đuổi chủ đề đó, cho nên nó đổi đề tài: “Và… thưa thầy… Con có đọc tin về bà Bones.” “Ừ,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Một mất mát kinh khủng. Bà ấy là một phù thủy vĩ đại. Thầy nghĩ, ngay ở đây thôi… Ối.” Cụ đã chỉ hướng bằng bàn tay bị thương. “Thưa thầy, chuyện gì đã xảy ra với bàn tay của…” “Bây giờ thầy không có đủ thì giờ để giải thích cho con,” cuh Dumbledore nói. “Đó là cả một câu chuyện gay cấn mà thầy muốn dành cho nó lượng thời gian xứng đáng hơn.” Cụ mỉm cười với Harry. Nó hiểu rằng cụ không muốn làm cho nó cụt hứng, và rằng nó được phép tiếp tục hỏi. “Thưa thầy… Con nhận được bằng bưu cú một tờ bướm của Bộ Pháp thuật, về những biện pháp an ninh mà tất cả chúng ta cần thực hiện để chống lại bọn Tử thần thực tử…” “Ừ, chính thầy cũng nhận được một bản,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười. “Con có thấy tờ đó có ích gì không?” “Không ích gì mấy ạ.” “Thầy cũng nghĩ là không. Nãy giờ con đã không hỏi thầy, thí dụ, mùi mứt nào thầy thích nhất, để kiểm tra coi thầy có đúng thật là giáo sư Dumbledore chứ không phải một kẻ giả danh đội lốt không.” “Con không…” Harry chỉ mới mở miệng, không hoàn toàn chắc là liệu có phải thầy đang rầy nó hay không. “Để dùng trong tương lai, Harry à, con nên biết đó là mùi mứt dâu đỏ… Mặc dù, dĩ nhiên, nếu thầy là một Tử thần thực tử thì thầy ắt sẽ phải nghiên cứu sở thích mùi mứt của chính thầy trước khi hóa thân thành chính thầy.” “Ơ… Đúng vậy,” Harry nói. “À, trong tờ bướm có nói cái gì đó về Âm binh. Chính xác là gì vậy thầy? Tờ bướm nói không rõ lắm.” “Chúng là những xác chết,” cụ Dumbledore bình tĩnh nói. “Những xác chết đó đã bị phù phép để làm theo lệnh của một phù thủy Hắc ám. Tuy nhiên, lâu lắm rồi chẳng ai nhìn thấy Âm binh đâu cả, kể từ khi Voldermort đầy quyền lực lần cuối… Hắn đã giết đủ người để thành lập cả một đội quân xác chết, tất nhiên. Chỗ này đây, Harry, ngay đây…” Hai thầy trò đang ở gần một ngôi nhà nhỏ xây bằng đá xinh xắn giữa một khu vườn riêng. Harry còn đang bận tiêu hóa cái khái niệm khủng khiếp về bọn Âm binh nên chẳng còn tâm trí đâu để ý đến cái gì khác, nhưng khi hai người đi tới gần cổng trước, cụ Dumbledore chợt đứng khựng lại khiến Harry đâm sầm vào cụ. “Ối, ôi thôi, ôi ôi…” Harry nhướng mắt theo cái nhìn chăm chú của Dumbledore vào lối đi nhỏ được chăm chút kỹ lưỡng phía trước nhà và cảm thấy trái tim nó chùng xuống. Cửa chính ngôi nhà đã bị bung khỏi bản lề. Cụ Dumbledore liếc nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Con đường hoàn toàn vắng ngắt. Cụ khẽ nói: “Rút đũa phép ra và đi theo thầy, Harry.” Cụ mở cánh cổng và bước vừa nhanh vừa lặng lẽ trên lối đi nhỏ băng qua khu vườn, Harry bám sát gót thầy. Rồi cụ Dumbledore chầm chậm đẩy cánh cửa chính, cây đũa phép của cụ giơ cao và sẵn sàng. “Tỏa sáng.” Đầu cây đũa phép của cụ Dumbledore bùng lên ngọn lửa, soi ánh sáng của nó lên một hành lang hẹp. Một cánh cửa khác ở ngay bên trái để mở. Giơ cao cây đũa phép có đốm lửa, cụ Dumbledore đi vô phòng khách với Harry bám sát sau lưng. Mắt họ thấy một cảnh tan hoang hoàn toàn. Một cái đồng hồ cổ bể tanh banh nằm ngay dưới chân hai thầy trò, mặt đồng hồ rạn nứt, còn quả lắc bị văng ra nơi xa giống như một thanh kiếm rớt. Bên cạnh đó là một cây đàn dương cầm, phím của nó cũng bị văng ra sàn nhà. Mảnh vở của cây đèn chùm bị rớt nằm lấp lánh gần đó. Mấy cái gối nằm bẹp dí, lông nhồi gối phòi ra từ vết rạch; mảnh vụn của đồ sứ và thủy tinh bị nát như bột phủ lên mọi thứ. Cụ Dumbledore giơ cây đũa phép cao hơn nữa, để ánh sáng của nó rọi lên những bức tường, nơi có cái gì đó màu đỏ sậm và nhơn nhớt được trét lên giấy dán tường. Harry hít vô một hơi ngắn khiến cụ Dumbledore quay nhìn lại. Cụ nói một cách nặng nhọc: “Không đẹp lắm, hả?” Cụ di chuyển cẩn thận vô giữa phòng, chăm chú xem xét những mảnh vụn dưới chân. Harry đi theo, dáo dác nhìn quanh, có phần sợ sệt nhỡ đâu bắt gặp cái gì đó ẩn náu đằng sau đống tan nát của cây đàn dương cầm hay cái ghế sofa bị lật úp, nhưng chẳng có dấu vết của ai cả. “Thưa thầy, có lẽ đã có một trận quyết đấu và… và chúng đã lôi xác ông ấy đi.” Harry đưa ra giả thuyết, cố gắng không tưởng tượng rằng người đó ắt là bị thương nặng lắm mới để lại những vết máu văng tung tóe lên lưng chừng những bức tường. “Thầy không nghĩ vậy,” cụ Dumbledore nói khẽ, chăm chú nhìn phía sau của một cái ghế bành nhồi quá căng nằm lăn một bên. “Thầy muốn nói là ông ấy…” “Vẫn còn ở đâu đây. Đúng vậy.” Và không hề báo trước, cụ Dumbledore thụp xuống, thọc cây đũa phép vào chỗ ngồi của cái ghế bành nhồi quá căng ấy. Cái ghế bèn kêu ré lên: “Ối!” “Chào anh, Horace,” cụ Dumbledore nói. Cụ đứng thẳng trở lại. Harry há hốc miệng. Ở chỗ trước đó nửa giây vốn là cái ghế bành thì giờ đây lại ngồi thu lu một ông già đầu hói cực kỳ mập mạp. Ông ta đang xoa xoa bụng và liếc xéo lên cụ Dumbledore bằng đôi mắt buồn phiền ươn ướt. “Đâu có cần phải thọc cây đũa phép mạnh dữ vậy. Đau chết đi.” Ánh sáng của cây đũa phép soi lấp lánh cái sọ bóng lưỡng và đôi mắt lồi, bộ ria hải mã vĩ đại, và bộ nút được đánh bóng ngời ngời của tấm áo khoác nhung mà ông ta mặc bên ngoài bộ đồ ngủ màu tím hồng. Đỉnh đầu ông chưa nhóng tới cằm cụ Dumbledore. “Cái gì làm lộ vậy ta?” Ông càu nhàu khi lảo đảo đứng lên, vẫn xoa xoa cái bụng phệ. Bị phát hiện ra đang giả dạng một cái ghế bành như vậy mà ông vẫn chẳng hề nao núng thì quả là đáng nể. “Anh Horace thân mến của tôi ơi,” cụ Dumbledore nói, có vẻ vui thích. “Nếu bọn Tử thần thực tử thực sự đến tìm anh, thì phía trên mái nhà phải xuất hiện Dấu hiệu Hắc ám chớ.” Vị phù thủy vỗ một bàn tay múp míp lên cái trán rộng. “Dấu hiệu Hắc ám,” ông lẩm bẩm. “Đã biết là có cái gì đó... ờ, đúng vậy. Đằng nào thì cũng không có thì giờ, tôi chỉ mới bày biện xong đám đồ đạc khi anh bước vô phòng.” Ông ta thở khì ra một cái thiệt to khiến cho bộ ria run nhè nhẹ. “Anh có cần tôi dọn dẹp giúp giúp một tay không?” cụ Dumbledore lịch thiệp đề nghị. “Vâng, làm ơn,” ông ta đáp. Hai người đứng đâu lưng lại với nhau, một pháp sư gầy cao lêu nghêu và một pháp sư tròn quay lùn xủn, và cả hai cũng vẫy cây đũa phép của mình trong cùng một động tác quét y hệt nhau. Bàn ghế bay vèo vèo trở lại vị trí ban đầu của chúng. Chùm đèn trang trí lại treo lơ lửng trên không, lông nhồi gối chui hết trở vô gối, sách rách te tua tự lành lại khi bay lên kệ, đền dầu bay vút lên mặt bàn nhỏ và thắp sáng trở lại. Một đám khổng lồ những cái khung tranh bằng bạc bay vi vút ngang qua căn phòng và đáp xuống trên cái bàn làm việc, nguyên vẹn và không chút tì vết. Khắp nơi, những vết xước, vết nứt, những lỗ hổng đều tự bít lại, và những bức tường tự lau chùi sạch sẽ. “Nhân tiện xin hỏi, đó là loại máu gì vậy?” cụ Dumbledore hỏi to để át tiếng gõ boong boong của cái đồng hồ cổ vừa mới hết bể. “Trên tường hả? Rồng,” vị phù thủy tên là Horace hét lên, trong tiếng nghiến ken két và kêu leng keng của chùm đèn treo đang tự rút mình treo lên trần phòng. Một tiếng tưng cuối cùng vang ra từ cây đàn dương cầm, rồi im ắng. “ Ừ, rồng,” vị phù thủy lặp lại trong cơn hứng chuyện trò. “Chai cuối cùng của tôi, và giá cả lúc này thì cao tận trời. Dù vậy, có thể dùng lại được.” Ông chồm tới vớ một chai thủy tinh nhỏ để trên đầu tủ ly chén và giơ nó ra phía ánh sáng xem xét cái chất lỏng đậm đặc bên trong chai. “Hừm, hơi dơ.” Ông đặt cái chai trở lại đầu tủ và thở dài. Chính lúc đó cái nhìn chăm chú của ông rớt xuống Harry. “Ố ồ,” ông nói, con mắt tròn to của ông lượn lờ trên vầng trán của Harry và cái thẹo hình tia chớp của nó. “À há.” “Đây,” cụ Dumbledore nói, di chuyển tới trước để giới thiệu. “Đây là Harry Potter. Harry, đây là một người bạn và đồng nghiệp cũ của thầy, thầy Horace Slughorn.” Slughorn quay sang cụ Dumbledore, mặt ông nhăn lại. “Thế ra đây là cách anh tưởng sẽ thuyết phục được tôi à? Chà, câu trả lời là không, anh Albus à.” Ông đẩy Harry qua một bên, ngoảnh mặt đi một cách cương quyết với cái vẻ của một người dang cố gắng kháng cự lại một ham muốn. “Thì ít nhất chúng ta cũng có thể làm một ly. Để ôn kỷ niệm xa xưa,” cụ Dumbledore nói. Ông Slughorn ngập ngừng. “Thôi được, một ly vậy,” ông nói một cách miễn cưỡng. Cụ Dumbledore mỉm cười với Harry và dẫn nó đến một cái ghế, không giống cái mà ông Slughorn đã giả dạng, đặt ngay bên cạnh cái lò sưởi vừa được đốt lên và ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng rực rỡ. Harry ngồi xuống ghế với một cảm tưởng rõ rệt rằng cụ Dumbledore, vì lý do nào đó, muốn cho người ta phải luôn thấy nó rõ. Rõ ràng là ông Slughorn, lúc ấy đang bận bịu với bình cổ cong và ly pha lê, khi quay mặt lại căn phòng một lần nữa, thì ngay lập tức ánh mắt rớt trúng phải Harry. “Hừm,” ông nói, nhìn thiệt lẹ sang hướng khác như thể sợ làm đau mắt mình. “Đây...” ông đưa ly rượu cho cụ Dumbledore, cụ đã ngồi xuống mà không cần mời mọc, đoạn ông đẩy cái khay về phía Harry, rồi ngồi lọt thỏm vô đống gối trên cái ghế sofa đã được sửa sang, và rồi một sự im lặng khó chịu lan ra. Chân của ông ngắn quá nên không chạm tới sàn. “Sao, dạo này sức khỏe ra sao, anh Horace?” “Không khá lắm,” ông Horace đáp ngay. “Phổi yếu. Khò khè. Thấp khớp nữa. Không thể đi đứng như trước đây. Ôi, tất phải vậy thôi. Già rồi. Mệt mỏi.” “Thế nhưng mà anh ắt là di chuyển khá lẹ mới chuẩn bị được một cuộc đón tiếp chúng tôi ngoạn mục như vầy, với thời gian báo trước quá ngắn đó chớ,” cụ Dumbledore nói. “Anh đâu có được báo trước nhiều hơn ba phút đâu nhỉ?” Ông Slughorn nói, nửa quạo quọ nửa tự hào: “Hai. Không nghe cái bùa Đột nhập của tôi báo động, tại đang tắm. Dù vậy,” ông nghiêm trang nói thêm, dường như đang cố gắng lấy lại thế tự chủ, “cái sự thật vẫn sờ sờ ra đó, tôi là một ông già, anh Albus à. Một ông già về hưu xứng đáng có được một đời sống yên tĩnh và chút ít rượu ngon.” Ông chắc chắn là đang có những thứ đó, Harry vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh căn phòng. Căn phòng ngột ngạt và lộn xộn, nhưng đừng ai nói là nó không tiện nghi thoải mái; có ghế nệm êm và ghế gác chân, có rượu và sách, mấy hộp sôcôla và mấy cái gối phồng xốp. Nếu Harry không biết ai sống ở đây, nó sẽ tưởng chủ nhân là một bà già giàu có và kiểu cọ. “Anh đâu đã già bằng tôi, anh Horace?” cụ Dumbledore nói. “Ừ, có lẽ chính anh cũng nên nghĩ đến chuyện về hưu đi,” ông Slughorn huỵch tẹt. Hai con mắt xanh nhạt màu trái chùm ruột của ông đã nhìn thấy bàn tay bị thương của cụ Dumbledore. “Phản xạ không còn như xưa nữa, tôi hiểu.” “Anh hoàn toàn đúng,” cụ Dumbledore nói một cách bình thản, hất ống tay áo ngược lên để lộ đầu những ngón tay bị phỏng và thâm đen; cảnh tượng này làm Harry nổi gai ốc một cách khổ sở. “Tôi chắc chắn chậm hơn xưa. Nhưng mặc khác...” Cụ nhún vai và xòe bàn tay rộng ra, như thể muốn nói rằng tuổi tác cũng có sự đền bù, và Harry nhận thấy một chiếc nhẫn đeo trên bàn tay không bị thương của cụ mà nó chưa từng thấy cụ đeo trước đây: chiếc nhẫn đó to, hơi thô, làm bằng một thứ có lẽ là vàng, và được nạm bằng một viên đá đen đã bị nứt xuống ở chính giữa. Đôi mắt của ông Slughorn cũng ve vãn chiếc nhẫn một lát, và Harry nhìn thấy một tí cau mày thoáng qua làm nhăn vầng trán rộng của ông. “Vậy, tất cả những sự đề phòng chống đột nhập này, anh Horace à... chúng nhằm chống lại bọn Tử thần thực tử, hay là tôi?” cụ Dumbledore hỏi. “Bọn Tử thần thực tử thì cần gì ở một cái gối đệm cũ te tua tội nghiệp như tôi?” ông Slughorn hỏi vặn lại. “Tôi cho rằng chúng muốn anh biến những tài năng đáng kể của mình thành áp bức, tra tấn, và ám sát.” Cụ Dumbledore nói. “Chẳng lẽ anh đang nói với tôi rằng chúng chưa tìm đến anh để chiêu dụ sao?” Ông Slughorn nhìn cụ Dumbledore một cách độc địa trong một lát, rồi làu bàu: “Tôi chưa tạo cho chúng cơ hội nào. Tôi đã di chuyển liên tục trong suốt một năm qua. Không bao giờ ở một nơi nào lâu hơn một tuần lễ. Cứ dọn hết từ nhà dân Muggle này sang nhà dân Muggle khác... Chủ nhân ngôi nhà này đang đi nghỉ ở quần đảo Canary – thiệt là thoải mái dễ chịu, thiệt là tiếc khi phải ra đi. Một khi mình biết cách rồi thì cũng dễ thôi, chỉ cần một lá bùa Đông cứng dán lên mấy cái còi báo động chống trộm ngớ ngẩn mà họ dùng thay vì mấy cái Kính Mách lẻo và liệu sao cho bà con lối xóm không dò ra chuyện mình khuân vô một cây đàn dương cầm.” “Tài tình thật,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng tồn tại kiểu đó nghe cũng hơi mệt đối với một cái gối đệm cũ te tua muốn tìm một cuộc sống yên tĩnh. Này nhé, nếu anh chịu trở về trường Hogwarts...” “Nếu anh định nói với tôi là cuộc sống của tôi sẽ bình yên hơn ở cái trường thổ tả đó, thì anh nên để dành hơi, anh Albus à! Rất có thể là tôi sống ẩn dật lâu nay, nhưng mấy chuyện đồn đại khôi hài vẫn lọt vào tai tôi kể từ khi bà Dolores Umbridge ra đi! Nếu đó là cách anh đối xử với giáo viên vào những ngày này...” “Giáo sư Umbridge đã húc vô một đàn nhân mã,” cụ Dumbledore nói. “Tôi nghĩ anh, anh Horace à, anh chắc phải biết điều hơn khi rảo bước vô rừng và gọi một đám nhân mã đang cơn giận là nhân mã đồ lai căng bẩn thỉu’.” “Bà ta đã nói vậy hả?” Ông Slughorn nói. “Mụ này ngu thiệt. Chưa bao giờ ưa được.” Harry chắt lưỡi và cả cụ Dumbledore lẫn ông Slughorn đều quay lại nhìn nó. Harry vội vã phân bua: “Con xin lỗi. Chẳng qua… Con cũng chẳng ưa gì bà ấy.” Cụ Dumbledore đột ngột đứng dậy. “Anh đi hả?” ông Slughorn hỏi ngay tức thì, vẻ hớn hở đầy hy vọng. “Không, tôi đang thắc mắc là tôi có thể dùng nhà vệ sinh của anh không?” cụ Dumbledore nói. “Ồ,” ông Slughorn nói, rõ ràng là thất vọng. “Đi xuống hành lang, cửa thứ hai, bên trái.” Cụ Dumbledore rảo bước ra khỏi phòng. Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng, chỉ còn lại sự im lặng. Một lát sau, ông Slughorn đứng dậy nhưng dường như không biết chắc là mình định làm gì. Ông lén ngó Harry một cái, rồi đi tới bên lò sưởi và quay lưng lại để sưởi ấm tấm lưng rộng thênh thang của mình. Bỗng nhiên ông nói: “Đừng tưởng là tôi không biết tại sao lão dắt theo cậu tới đây.” Harry chỉ ngước nhìn ông Slughorn. Đôi mắt ươn ướt của ông lướt qua cái thẹo trên trán của Harry, lần này nhìn luôn cả gương mặt nó. “Cậu trông rất giống cha cậu.” “Dạ, con có nghe nói vậy,” Harry đáp. “Ngoại trừ đôi mắt, cậu thừa hưởng đôi mắt của…” “Mẹ con. Dạ, đúng vậy.” Harry đã nghe nhận xét đó thường xuyên đến nỗi nó phát mệt. “Hừm. Ừ, phải. Với tư cách thầy giáo, mình không nên có học trò cưng, dĩ nhiên rồi, nhưng con bé ấy là một trong những học trò cưng của tôi. Mẹ cáu ấy mà.” Ông Slughorn nói thêm, để đáp lại cái nhìn thắc mắc của Harry. “Lily Evans. Một trong những học sinh thông tuệ nhất mà tôi từng dạy. Lanh lợi, cậu biết đấy. Một nữ sinh duyên dáng. Tôi thường nói với trò ấy là đáng ra trò ấy phải thuộc về Nhà của tôi. Tôi cũng thường nhận được những câu trả lời rất táo tợn.” “Thầy thuộc nhà nào ạ?” “Tôi là giáo viên chủ nhiệm Nhà Slytherin,” ông Slughorn đáp. “Ôi thôi,” ông nói tiếp rất nhanh, do thấy cảm xúc hiện lên mặt Harry; ông ngoe nguẩy một ngón tay múp míp trước mặt nó. “Đừng cớ trách tôi về chuyện đó! Tôi đoán là cậu cũng thuộc nhà Gryffindor như mẹ cậu chứ gì? Ừ, thường là theo gia đình. Mặc dù không phải lúc nào cũng thế. Có nghe nói đến Sirius Black không? Ắt hẳn là cậu có nghe – đăng báo đầy ra đấy trong suốt hai năm qua – Chết cách đây vài tuần lễ.” Như thể có một bàn tay vô hình đang vặn ngoéo ruột gan Harry và bóp chặt lại. “Thôi, dù sao đi nữa hắn cũng là một người bạn lớn của cha cậu. Toàn bộ dòng họ Black đều vô Nhà của tôi, nhưng Sirius lại lọt vô Nhà Gryffindor, thật là xấu hổ. Hắn là một học sinh tài giỏi. Tôi thì được người em của hắn, Regulus, khi cậu ấy xuất hiện, nhưng tôi vẫn khoái có cả bộ.” Ông nói như thể một nhà sưu tập máu me vừa mua hụt món cổ ngoạn ở một cuộc bán đấu giá. Rõ ràng là bị chìm đắm trong ký ức, ông đăm đăm nhìn bức tường đối diện, lười nhác xoay qua xoay lại tại chỗ cho đến khi bảo đảm hơi nóng phả đều lên cả tấm lưng. “Mẹ của cậu là một phù thủy gốc Muggle, dĩ nhiên. Không thể tin nổi lúc phát hiện điều đó. Tưởng trò ấy phải thuộc dòng thuần huyết, trò ấy giỏi quá mà.” “Một trong những người bạn thân nhất của con cũng có gốc Muggle,” Harry nói. “Và bạn ấy là học sinh giỏi nhất trong lứa tụi con.” “Thỉnh thoảng xảy ra chuyện như vậy, thiệt là khôi hài hả?” ông Slughorn nói. “Không hẳn,” Harry lạnh lùng đáp. Ông Slughorn ngó xuống nó ngạc nhiên. “Cậu chớ có nghĩ rằng tôi thành kiến. Không, không, không! Chẳng phải tôi vừa nói mẹ của cậu là một trong những học trò cưng muôn thuở của tôi đó sao? Rồi nào là Dirk Cresswell trong lứa sau mẹ cậu một năm – bây giờ là Giám đốc đầu ngành Sở Liên lạc Yêu tinh, tất nhiên – một trò nữa cũng gốc Muggle, một học sinh xuất sắc, và vẫn còn cho tôi những thông tin nội bộ tuyệt vời về hiện tình ở Gringotts!” Ông Slughorn hơi nhún lên nhún xuống một tí, mỉm cười kiểu tự mãn nguyện, và chỉ vào vô số khung hình lấp lánh trên đầu tủ ngăn kéo, trong mỗi khung có hình một người tí hon đang nhúc nhích. “Tất cả cựu học sinh, đều có chữ ký. Cậu sẽ nhận thấy có Barnabas Cuffe, chủ bút tờ Nhật báo Tiên Tri, trò ấy luôn khoái nghe tôi bình luận tin tức trong ngày. Và Ambrosius Flume, tiệm Công tước Mật – cả thùng mỗi lần sinh nhật, và tất cả chỉ vì tôi đã giới thiệu hắn với Ciceron Harrykiss, người đã cho hắn công việc đầu tiên. Và ở hàng sau – cậu có thể thấy nếu cậu chịu khó nhóng cổ lên – đó là Gwenog Jones, đương nhiên là người cầm đầu tập đoàn Holyhead Harrypies... Người ta cứ luôn ngạc nhiên khi nghe tôi nằm trong danh sách khách hàng thân thiết của Harrypies, và vé miễn phí bất cứ khi nào tôi muốn!” Ý tưởng này dường như khiến ông Slughorn phấn khởi hẳn lên. “Và tất cả những người này đều biết thầy ở đâu mà tìm, mà gởi đồ cho thầy à?” Harry hỏi, nó vẫn không thể không thắc mắc tại sao bọn Tử thần thực tử vẫn còn chưa dò ra tông tích của ông Slughorn khi mà những thùng kẹo, vé coi Quidditch, và những người đến xin lời khuyên hay ý kiến đều có thể kiếm ra thầy. Nụ cười tuột khỏi gương mặt ông Slughorn nhanh y như vết máu biến mất khỏi bức tường. “Dĩ nhiên là không,” ông đáp, ngó ngó xuống Harry. “Tôi đâu có tiếp xúc với bất kỳ ai trong suốt một năm qua.” Harry có một ấn tượng là những lời nói đó khiến chính ông Slughorn cũng giật mình. Ông có vẻ bồn chồn một lúc. Rồi ông nhún vai. “Tuy nhiên... pháp sư khôn ngoan đều nhẫn nhục trong những lúc như thế. Dumbledore nói cái gì thì cũng tốt cả, nhưng nhận một vị trí ở trường Hogwarts lúc này thì cũng cầm như tuyên bố tôi đồng minh công khai với Hội Phượng hoàng! Tôi thì vẫn tin chắc họ là những người dũng cảm và đáng ngưỡng mộ và đủ thứ tốt vân vân, nhưng tôi, với tư cách cá nhân, tôi không tưởng tượng nổi tỉ lệ tử vong...” “Thầy đâu cần phải gia nhập Hội mới được dạy ở trường Hogwarts,” Harry nói. Nó không thể hoàn toàn giữ cho giọng nói của nó đừng lộ ra sự chế giễu. Thật khó mà thông cảm với cách sống bo bo giữ miếng của ông Slughorn khi nó nhớ đến chú Sirius lúc đó thu mình trong một cái hang và sống bằng những con chuột. “Phần lớn các giáo sư đâu có ở trong Hội, và chẳng có ai bị giết cả - À, trừ khi thầy tính đến Quirrel, nhưng đáng đời ông ta vì ông ta làm tay sai cho Voldermort.” Harry đã biết chắc ông Slughorn là một trong những phù thủy không thể chịu đựng nổi khi nghe tên của Voldermort được nói to lên, và nó đã không thất vọng: ông Slughorn rùng mình và kêu oai oái phản đối, nhưng Harry cứ giả nai. Nó tiếp tục nói: “Con cho rằng khi cụ Dumbledore là hiệu trưởng thì giáo ban được an toàn hơn so với hầu hết những người khác. Cụ được coi là người duy nhất mà Voldermort sợ, đúng không ạ?” Ông Slughorn nhìn đăm đăm vào khỏang không một lúc: dường như ông đang ngẫm nghĩ về những lời Harry vừa nói. “Ừ, phải, đúng là Kẻ-chớ-gọi-tên-ra chưa bao giờ tìm cách đánh nhau với Dumbledore,” ông làu bàu với vẻ miễn cưỡng. “Và tôi cho rằng người ta có thể lập luận rằng bởi vì tôi không gia nhập bọn Tử thần thực tử, thì Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đời nào coi tôi như một người bạn... Trong trường hợp đó nếu tôi gần gũi anh Albus hơn thì có thể an toàn hơn... Tôi không thể giả bộ như cái chết của Amelia Bones không làm tôi rúng động... Nếu cô ấy, có tất cả những quan hệ và sự bỏa vệ ở Bộ Pháp thuật thế, mà còn...” Cụ Dumbledore quay trở lại căn phòng và ông Slughorn nhảy dựng lên như thể ông quên mất có cụ trong nhà. Ông nói: “A, đây rồi, anh Albus. Anh ở trong ấy lâu dữ à, bị đau bụng hả?” “Không, tôi chỉ đọc mấy tờ tạp chí Muggle,” cụ Dumbledore nói. “Tôi quả thực khoái những mẫu đan. Thôi, Harry, chúng ta lợi dụng lòng hiếu khách của anh Horace đủ lâu rồi; thầy nghĩ đã đến lúc chúng ta phải ra đi thôi.” Harry đứng phắt dậy, chẳng cần miễn cưỡng vâng lời chút nào. Ông Slughorn dường như bị dội. “Anh đi à?” “Ừ, đi thật. Tôi nghĩ có gặp thì mới hiểu thế nào là một sự nghiệp tiêu tùng.” “Tiêu tùng...?” Ông Slughorn dường như bị kích động. Ông xoay xoay hai ngón tay cái mập mạp và bồn chồn bứt rứt khi nhìn cụ Dumbledore thắt chặt tấm áo choàng đi đường, và Harry kéo dây khóa cái áo gió của nó. “Thôi vậy, tôi rất tiếc là anh đã không nhận công việc, anh Horace à,” cụ Dumbledore nói. Cụ giơ bàn tay không bị thương ra để chào giã biệt. “Trường Hogwarts sẽ rất vui mừng đón anh trở lại. Mặc dù an ninh của chúng tôi phải tăng cường ghê gớm, chúng tôi vẫn sẽ luôn rộng cửa đón tiếp anh, nếu anh muốn đến thăm trường.” “Vâng... ừ... rất tử tế... như tôi nói...” “Vậy thì, tạm biệt nhé.” “Chào thầy,” Harry nói. Hai thầy trò vừa đi tới cửa chính thì nghe một tiếng hét đằng sau lưng họ. “Được rồi! Được rồi! Tôi sẽ nhận!” Cụ Dumbledore quay lại thấy ông Slughorn đứng nín thở trong hành lang từ phòng khách ra cửa chính. “Anh sẽ không nghỉ hưu nữa?” “Ừ, ừ,” ông Slughorn nôn nóng. “Chắc là tôi điên rồi, nhưng mà, ừ.” “Tuyệt vời!” Cụ Dumbledore tươi cười, nói. “Vậy thì anh Horace à, chúng tôi sẽ đón anh vào ngày một tháng chín.” “Ừ, tôi dám nói là các anh sẽ gặp tôi vào tháng chín,” ông Slughorn lẩm bẩm. Khi hai thầy trò đi xuống con đường nhỏ băng qua vườn, giọng nói của ông Slughorn vẫn còn đuổi theo họ. “Anh Dumbledore, tôi muốn được lên lương!” Cụ Dumbledore cười hì hì. Cổng khu vườn đóng lại sau lưng hai thầy trò, và họ bắt đầu đi ngược xuống đồi xuyên qua bóng tối và làn sương mù xoắn đặc. “Giỏi lắm, Harry,” cụ Dumbledore nói. “Con đâu có làm gì đâu?” Harry ngạc nhiên nói. “Ồ, có chứ. Con đã chỉ ra cho thầy Horace chính xác bao nhiêu lợi lộc thầy ấy đạt được khi trở lại trường Hogwarts. Con có thích thầy Horace không?” “Ơ...” Harry không biết chắc là liệu nó có thích thầy Slughorn hay không. Nó cho rằng thầy dễ chịu theo cách của thầy, nhưng thầy cũng có vẻ hời hợt, và cho dù thầy có nói ngược lại đi chăng nữa, thì có vẻ cái việc một người gốc Muggle trở nên một phù thủy xịn đối với thầy vẫn là quá bất ngờ. Để giải tỏa cho Harry cái trách nhiệm nói ra bất cứ điều nào trong suy nghĩ của nó, cụ Dumbledore nói: “Thầy Horace thích sự an nhàn của thầy ấy. Thầy ấy cũng thích bầu bạn với những người nổi tiếng, người thành công và có quyền lực. Thầy ấy khoái cái cảm giác rằng mình có ảnh hưởng với những người ấy. Thầy ấy chẳng bao giờ muốn tự mình lên ngôi; thầy ấy thích ngồi ghế sau hơn – rộng chỗ duỗi chân tay, con hiểu chứ. Trước đây thầy ấy thường tuyển chọn học trò cưng ở trường Hogwarts, đôi khi dựa theo tham vọng hay trí tuệ của chúng, đôi khi dựa theo sự duyên dáng hay tài năng của chúng, và thầy ấy có cái sở trường kỳ lạ chọn được những người về sau tiếp tục trở nên xuất chúng trong nhiều lĩnh vự khác nhau. Thầy Horace lập ra một loại câu lạc bộ của những học trò cưng với cái trung tâm là chính thầy ấy, để giới thiệu, tạo ra những giao lưu hữu ích giữa các thành viên, và để đổi lại thầy ấy luôn luôn thu hái được lợi lộc gì đó, hoặc là một hộp mứt khóm khoái khẩu miễn phí, hoặc là một cơ hội để tiến cử nhân viên trẻ cho Sở Liên lạc Yêu tinh.” Harry chợt thấy rõ ràng trong đầu hình ảnh một con nhện mập căng khổng lồ, dệt cái mạng chung quanh nó, giăng đây một sợi tơ, kia một sợi tơ, để dụ mấy con ruồi to và mập đến gần hơn. “Thầy nói với con tất cả những điều này không phải để con chống lại thầy Horace – hay giáo sư Slughorn,” cụ Dumbledore tiếp tục nói. “Bây giờ chúng ta phải gọi ông ấy như vậy –nhưng là để cho con tự cảnh giác. Chắc chắn thầy ấy sẽ cố gắng tuyển chọn con, Harry à. Con sẽ là châu báu trong bộ sưu tập của thầy ấy; ’Đứa trẻ sống sót’... hay như danh hiệu mà họ gán cho con lúc này, ’Kẻ được chọn’.” Cùng lúc với những lời này, một cơn lạnh thấu không ăn nhập gì với làn sương mù chung quanh lẻn luồn vô người Harry. Những lời đó gợi nó nhớ tới những lời mà nó đã nghe cách đây vài tuần lễ - những lời mang ý nghĩa đặc biệt và khủng khiếp đối với nó. Không thể nào trong cả hai có thể sống khi mà kẻ kia tiếp tục tồn tại... Cụ Dumbledore đã dường bước ngang chỗ ngôi nhà thờ mà họ đã đi quan trước đây. “Sẽ ổn thôi, Harry. Nếu con bám chặt cánh tay thầy.”sức phen này, Harry đã sẵn sàng cho cuộc độn thổ, nhưng vẫn còn thấy khó chịu. Khi áp lực biến mất và thấy mình đã thở lại được rồi, thì nó nhận ra mình đang đứng bên cạnh cụ Dumbledore trên một con đường quê và nhóng nhìn tới trước về phía cái bóng ngoằn ngoèo của tòa nhà yêu dấu thứ hai của nó trên thế giới này: trang trại Hang Sóc. Bất chấp cái cảm giác kinh hoàng vừa quét qua người nó, tinh thần của nó không thể nào không phấn chấn lên khi nhìn thấy ngôi nhà. Ron ở trong đó... Bà Weasley cũng ở trong đó, bà là người nấu ăn ngon hơn bất cứ người nào mà nó biết... “Nếu con không phiền, Harry à...” cụ Dumbledore nói khi hai thầy trò đi ngang qua cánh cổng, “thì thầy muốn nói vài lời với con trước khi chia tay. Bí mật. Có lẽ nên nói ở đây?” Cụ Dumbledore chỉ về phía một ngôi nhà phụ xây bằng đá đã xiêu vẹo là nơi mà gia đình Weasley để cán chổi. Hơi bối rối, Harry đi theo cụ Dumbledore qua cánh cửa kêu cọt kẹt để vào một chỗ còn nhỏ hơn cái tủ chén cỡ trung bình một tí. Cụ Dumbledore thắp cây đũa phép của cụ để nó sáng lên như cây đuốc, và mỉm cười với Harry. “Thầy hy vọng con sẽ tha lỗi cho thầy về việc lại nhắc tới chuyện đó, Harry, nhưng thầy hài lòng và hơi tự hào là con dường như đương đầu khá tốt sau mọi chuyện xảy ra ở Bộ. Cho phép thầy nói rằng thầy nghĩ chú Sirius sẽ tự hào về con.” Harry nuốt nước miếng, tiếng nói dường như đã bỏ rơi nó. Nó không nghĩ là nó có thể chịu đựng nổi chuyện trò về chú Sirius; nghe