🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Harry Potter Và Bảo Bối Tử Thần - Tập 7 - J. K. Rowling Ebooks Nhóm Zalo J.K. ROWLING LÝ LAN dịch Harry Potter và Bảo Bối Tử Thần NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 2007 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 01: CHÚA TỂ HẮC ÁM ĐANG LÊN 02: HỒI NIỆM 03: CUỘC RA ĐI CỦA NHÀ DURSLEY 04: BẢY POTTER 05: CHIẾN BINH RƠI RỤNG 06: CON MA XÓ MẶC ĐỒ NGỦ 07: DI CHÚC CỦA CỤ ALBUS DUMBLEDORE 08: ĐÁM CƯỚI 09: MỘT NƠI ĐỂ TRỐN 10: CÂU CHUYỆN CỦA KREACHER 11: QUÀ HỐI LỘ 12: PHÁP THUẬT VÀ QUYỀN LỰC 13: ỦY BAN ĐĂNG KÝ PHÙ THỦY GỐC MUGGLE 14: TÊN TRỘM 15: YÊU TINH RỬA HẬN 16: THUNG LŨNG GODRIC 17: BÍ MẬT BATHILDA 18: CHUYỆN ĐỜI VÀ CHUYỆN XẠO CỦA ALBUS DUMBLEDORE 19: CON HƯƠU BẠC 20: ÔNG LEXOPHILUS LOVEGOOD 21: CHUYỆN KỂ VỀ BA ANH EM 22: NHỮNG BẢO BỐI TỬ THẦN 32: PHỦ MALFOY 24: NGƯỜI CHẾ TẠO ĐŨA PHÉP 25: CHÒI ĐẤT 26: GRINGOTTS 27: CHỖ GIẤU CUỐI CÙNG 28: MẢNH GƯƠNG THẤT LẠC 29: VÒNG NGUYỆT QUẾ ĐÃ MẤT 30: TỐNG CỔ SEVERUS SNAPE 31: CHIẾN TRƯỜNG HOGWARTS Â Ũ É Ộ 32: CÂY ĐŨA PHÉP CƠM NGUỘI 33: CHUYỆN CỦA PRINCE 34: TRỞ LẠI RỪNG CẤM 35: NGÃ TƯ VUA 36: SƠ HỞ TRONG KẾ HOẠCH Kết: MƯỜI CHÍN NĂM SAU MỞ ĐẦU Ôi đau khổ sinh ra trong đua tranh tiếng kêu gào rợn óc của tử thần và cú đấm vỡ huyết mạch, máu tuôn không ai có thể cầm được, nỗi buồn, lời nguyền không ai chịu đựng nổi. Nhưng phương thuốc chữa lành nằm trong chính ngôi nhà không phải ngoài kia, không, không phải từ ai, mà từ chính họ, sự bất hoà đẫm máu. Chúng tôi hát xin người, hỡi các thần linh âm u trong lòng đất. Vì chưng nghe thấu, hỡi những quyền lực hoan lạc ở cõi âm - hãy đáp lời cầu khẩn, hãy cứu giúp. Hãy phù hộ trẻ em, và ban cho chúng khải hoàn. -- Aeschylus, Những người dâng rượu tế. Chết chẳng qua là đi sang một thế giới khác, như bạn bè đi biển; họ vẫn sống trong nhau. Bởi vì họ nhất thiết cần tồn tại, yêu và sống trong tình yêu đó có ở khắp nơi. Trong tấm gương thiêng này họ nhìn tận mặt nhau, chuyện trò tự do và trong sáng. Đây là niềm an ủi của bạn bè , rằng cho dù họ có bị coi là đã chết, nhưng tình bạn và mối thâm giao của họ, theo lẽ thường nhất, vẫn tồn tại, bởi vì bất tử. -- William Penn, Thêm những chiêm nghiệm nữa của cô đơn. 1 CHÚA TỂ HẮC ÁM ĐANG LÊN H ai người đàn ông hiện ra từ cõi không, cách nhau vài thước, trên một con đường nhỏ hẹp dưới ánh trăng. Cả hai cùng đứng im phắc trong một giây, đũa phép người này chĩa vào ngực người kia; nhưng khi nhận ra nhau họ thu đũa cất vào áo choàng, bắt đầu đi về cùng một hướng. “Tin tức sao?” Người cao hơn trong hai người hỏi. “Tuyệt,” Severus Snape trả lời. Con đường nằm giữa một bụi dâu gai còi cọc mọc hoang bên trái và một hàng giậu cao được cắt tỉa chu đáo ở bên phải. Vạt áo choàng dài của hai người đàn ông bay lất phất quanh cổ chân họ khi họ bước đi. “Tưởng đâu tôi trễ rồi chứ,” Yaxley nói, bộ mặt thô đần của hắn lúc ẩn lúc hiện khi những cành cây cao bên trên che khuất ánh trăng. “Hơi rắc rối hơn dự kiến. Nhưng tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng. Anh coi bộ chắc mẻm tin tức anh thu được là xịn.” Snape gật đầu, nhưng không nói gì thêm. Họ quẹo phải, tiến vào một con đường rộng dành cho xe chạy dẫn ra khỏi con đường mòn. Hàng giậu cao uốn cong theo họ, và kéo dài đến tận hai cánh cổng kiểu cổ bằng sắt đồ sộ chắn đường hai người đàn ông. Không người nào dừng bước: cả hai im lặng giơ tay trái lên kiểu như chào và đi xuyên qua cổng, như thể mớ kim loại đen đó là khói. Những hàng giậu thủy tùng hãm bớt tiếng bước chân của hai người đàn ông. Đâu đó bên trái họ có tiếng xào xạc: Yaxley lại rút cây đũa phép ra chĩa lên phía trên đầu người đồng hành, nhưng âm thanh ấy hóa ra xuất phát từ một con công trắng tinh đang oai phong đường bệ bước đi trên hàng giậu. “Lúc nào cũng bày đặt, cái lão Lucius ấy! Lại còn công nữa…” Yaxley nhét cây đũa phép vào trong áo choàng kèm theo một cái khịt mũi. Một dinh thự sang trọng hiện ra trong bóng tối cuối con đường thẳng tắp dành cho xe chạy, ánh sáng lóe ra từ những ô vuông lấp lánh như kim cương của những khuôn cửa sổ tầng trệt. Một cái hồ đang phun nước ở đâu đó trong khu vườn âm u phía bên kia hàng giậu. Sỏi nghiến rào rạo dưới chân họ khi Snape và Yaxley bước về phía cửa chính, cửa mở ra khi họ đi tới gần, mặc dù không thấy ai mở cửa. Hành lang rộng, được chiếu sáng mờ mờ, và được trang trí lộng lẫy, với một tấm thảm diễm lệ trải gần kín mặt sàn đá. Những đôi mắt của đám chân dung mặt tai tái treo trên tường dõi theo Snape và Yaxley khi hai người đi ngang qua. Hai người đàn ông dừng bước bên một cánh cửa gỗ nặng ịch dẫn vào căn phòng kế tiếp, ngần ngừ trong tích tắc, rồi Snape vặn nắm đấm cửa. Phòng khách đầy những người ngồi im bên một cái bàn dài chạm trổ kiểu cọ. Những bàn ghế vốn thường bày biện trong phòng đã bị dồn bừa vào sát tường. Ánh sáng tỏa ra từ một ngọn lửa đang cháy phừng phừng trong một lò sưởi bằng cẩm thạch to đẹp đội một tấm gương viền vàng. Snape và Yaxley chần chừ một chút ở ngưỡng cửa. Khi mắt đã quen với bóng tối, họ đi về phía một hình ảnh kỳ quái nhất trong toàn cảnh: một nhân dạng rõ ràng là bất tỉnh đang chổng ngược lơ lửng bên trên cái bàn, chầm chậm xoay vòng như thể bị treo bằng một sợi dây thừng vô hình, và được phản chiếu trong tấm gương lẫn trên mặt bàn láng bóng bên dưới. Không ai trong số người ngồi phía dưới cái cảnh quái đản ấy nhìn lên trừ một thanh niên trắng nhợt ngồi gần như ngay bên dưới hình nhân treo ngược. Cậu ta dường như không thể cưỡng được cứ một hai phút lại liếc nhìn lên phía trên đầu mình. “Yaxley, Snape,” một giọng nói cao, rõ, phát ra từ đầu bàn. “Chúng bây suýt trễ.” Người vừa nói ngồi ngay phía trước lò sưởi, cho nên thoạt đầu những người mới đến khó mà nhìn thấy gì khác hơn bóng dáng kẻ đó. Tuy nhiên, khi họ đến gần hơn thì gương mặt kẻ đó lộ rõ dần vẻ u ám, trọc lóc, như đầu rắn, với một cái khe tét ra làm lỗ mũi và hai con mắt đỏ chóe có đồng tử vạch thẳng đứng. Kẻ đó xanh xao đến nỗi dường như phát ra một quầng sáng ngà ngà. “Severus, lại đây,” Voldemort nói, chỉ vào một cái ghế ngay sát bên phải hắn. “Yaxley… ngồi cạnh Dolohov.” Hai người đàn ông ngồi vào chỗ được chỉ định. Hầu như mọi con mắt quanh cái bàn đều hướng về Snape, và Voldemort nói với Snape trước nhất. “Sao?” “Thưa Chúa Tể, Hội Phượng Hoàng có ý định chuyển Harry Potter từ chỗ đang ở đến một nơi an toàn vào thứ bảy tới, lúc trời tối.” Sự hào hứng nổi lên thấy rõ quanh cái bàn; một số người căng lên cứng đơ, một số bồn chồn cựa quậy, tất cả đều chăm chú nhìn Snape và Voldemort. “Thứ bảy… lúc trời tối,” Voldemort lặp lại. Hai con mắt đỏ của hắn nhìn chằm chặp vào đôi mắt đen của Snape với sự chiếu tướng mà một vài kẻ quan sát bên ngoài phải ngoảnh mặt đi, dường như sợ chính mình sẽ bị cháy lây bởi cái nhìn rực lửa dữ dội đó. Tuy nhiên Snape vẫn bình tĩnh nhìn thẳng vào mặt Voldemort; một lúc sau, cái miệng không môi của Voldemort cong lên từa tựa như một nụ cười. “Tốt. Tốt lắm. Và thông tin này xuất phát…” “… từ nguồn mà chúng ta đã bàn,” Snape nói. “Thưa Chúa Tể.” Yaxley đã chồm tới trước để nhìn lên Voldemort và Snape ở đầu cái bàn dài. Mọi gương mặt đều hướng về phía hắn. “Thưa Chúa Tể, tôi lại nghe khác.” Yaxley chờ đợi, nhưng Voldemort không nói gì, nên hắn tiếp tục, “Thần Sáng Dawlish để lộ là Potter sẽ không được chuyển đi đâu cho tới ngày ba mươi mốt, vào cái đêm trước khi thằng đó đủ mười bảy tuổi.” Snape mỉm cười. “Nguồn của tôi cho tôi biết là có những kế hoạch nghi binh; đây ắt là thế rồi. Chắc chắn là Dawlish đã bị ếm bùa Lú Lẫn. Đây không phải là lần đầu tiên; ai cũng biết hắn dễ mắc lừa.” “Tôi cam đoan với Ngài, thưa Chúa Tể, Dawlish tỏ ra khá chắc chắn,” Yaxley nói. “Nếu hắn bị ếm bùa Lú Lẫn thì đương nhiên hắn phải chắc mẻm rồi.” Snape nói. “Tôi cam đoan với anh, Yaxley, Sở Thần Sáng sẽ không đóng vai trò gì nữa trong việc bảo vệ Harry Potter. Hội Phượng Hoàng cho rằng chúng ta đã thâm nhập vào Bộ Pháp Thuật rồi.” “Vậy là Hội Phượng Hoàng cũng đúng được một cái, há?” Một gã mập chè bè ngồi gần Yaxley nói; hắn phát ra tiếng cười khụt khịt được vài ba người ngồi dài theo cái bàn hưởng ứng. Voldemort không cười. Cái nhìn chằm chằm của hắn đảo lên, hướng về phía cái thân xác đang xoay chầm chậm phía trên đầu mọi người, dường như hắn đang chìm đắm trong suy nghĩ. “Thưa Chúa Tể,” Yaxley tiếp tục, “Dawlish tin là toàn bộ lực lượng Thần Sáng sẽ được huy động để hộ tống thằng nhỏ…” Voldemort giơ lên một bàn tay trắng nhợt to tướng, và Yaxley nín ngay tức thì, ấm ức nhìn Voldemort rồi quay lại nói với Snape. “Sau đó chúng sẽ giấu thằng đó ở đâu?” “Ở nhà của một trong những Hội viên,” Snape nói. “Theo nguồn tin, nơi đó được Hội Phượng Hoàng và Bộ Pháp Thuật bố trí mọi sự bảo vệ mà họ có thể làm được. Tôi nghĩ một khi nó đã ở đó rồi thì chúng ta rất ít có cơ hội tóm được nó, trừ khi, dĩ nhiên thôi, thưa Chúa Tể, là Bộ Pháp Thuật sập trước thứ bảy tới, điều đó giúp cho chúng ta cơ hội phát hiện và giải trừ một số bùa ếm đủ để phá hủy những bùa phép còn lại.” “Sao, Yaxley?” Voldemort hỏi vọng xuống cuối bàn, ánh lửa lóe lên một cách quái gở trong đôi mắt đỏ của hắn. “Bộ Pháp Thuật sẽ sập trước thứ bảy tới chứ?” Một lần nữa, tất cả những cái đầu đều xoay. Yaxley gồng vai. “Thưa Chúa Tể, về việc đó tôi có tin lành. Tôi đã… vô cùng vất vả, và sau nỗ lực lớn lao… đã thành công trong việc ếm lời nguyền độc đoán lên Pius Thicknesse.” Nhiều người ngồi quanh Yaxley có vẻ sửng sốt; người ngồi cạnh hắn, Dolohov, một gã có gương mặt dài ngoằng méo mó, vỗ tay lên lưng hắn. “Đó là một khởi đầu,” Voldemort nói, “nhưng Thicknesse chỉ là một người. Scrimgeour phải được người phe ta vây bọc trước khi ta hành động. Một nỗ lực tấn công mạng sống Bộ trưởng mà thất bại sẽ đẩy ta lùi lại rất xa.” “Vâng… Thưa Chúa Tể, đúng như vậy… nhưng ngài biết, với chức Giám đốc Sở Thi hành Luật Pháp thuật, Thicknesse có tiếp xúc thường xuyên không chỉ với bản thân ông Bộ trưởng, mà còn với Giám đốc các sở khác trong Bộ. Tôi cho là, việc giờ đây chúng ta có trong tay một viên chức cao cấp như thế sẽ khiến cho chúng ta dễ dàng khuất phục những viên chức khác, và rồi tất cả bọn họ có thể cùng nhau hạ bệ Scrimgeour.” “Với điều kiện ông bạn Thicknesse của chúng ta không bị vạch mặt trước khi hắn cải tạo đám còn lại.” Voldemort nói. “Dù sao thì cũng không có vẻ gì là Bộ Pháp thuật sẽ về tay ta trước thứ bảy tới. Nếu chúng ta không rớ được thằng bé ở nơi nó đến, thì ta ắt phải hành động khi nó đang di chuyển.” “Thưa Chúa Tể, ở điểm đó chúng ta có lợi thế,” Yaxley nói, hắn dường như quyết chí phải được chấp thuận phần nào. “Chúng ta giờ đây đã cài đặt nhiều người trong Sở Giao Thông Pháp thuật. Nếu Potter Độn thổ hay dùng Mạng Floo, chúng ta sẽ biết ngay tức thì.” “Nó sẽ không sử dụng hai cách đó,” Snape nói. “Hội đang loại ra bất cứ hình thức di chuyển nào do Bộ Pháp thuật kiểm soát hay điều hành, họ không tin mọi thứ có dính dáng tới Bộ.” “Càng tốt,” Voldemort nói. “Nó sẽ phải di chuyển nơi trống trải. Càng dễ tóm hơn.” Một lần nữa Voldemort nhìn lên cái thân người treo đang xoay chầm chậm trong lúc nói tiếp, “Ta sẽ đích thân chăm sóc thằng nhỏ. Đã có quá nhiều sai lầm mỗi khi liên quan đến Harry Potter. Một số do chính ta gây ra. Thằng Potter đó sống là nhờ sai sót của ta nhiều hơn là nhờ chiến thắng của nó.” Đám người ngồi quanh bàn lo lắng ngó Voldemort, mỗi người, qua vẻ mặt, lo sợ mình có thể bị trách mắng về việc Harry Potter vẫn tiếp tục sống. Tuy nhiên, Voldemort có vẻ tự nói với chính hắn hơn là với bất cứ ai trong đám người có mặt, và hắn vẫn tiếp tục hướng về cái xác bất tỉnh phía trên mà nói tiếp. “Ta đã bất cẩn, và vì vậy mà bị thời cơ với vận may rủi ngáng trở, chúng làm hỏng mọi thứ trừ những kế hoạch được lập hoàn hảo nhất. Nhưng giờ đây ta đã biết khá hơn. Ta đã hiểu những điều mà trước đây ta không hiểu. Ta phải là kẻ giết Harry Potter, ta sẽ đích thân làm.” Dường như để đáp lại những lời này, một tiếng khóc thét thình lình rống lên, một tiếng sầu khổ và đau đớn khủng khiếp kéo dài. Nhiều người trong đám ngồi quanh bàn ngó xuống sàn, kinh ngạc, bởi vì âm thanh đó dường như phát ra từ phía dưới chân họ. “Đuôi Trùn,” Voldemort nói, không hề thay đổi giọng nói trầm tư lặng lẽ của hắn, và không hề rời ánh mắt khỏi cái thân người đang xoay phía trên, “ta chưa bảo cho mi biết cách khiến cho tên tù của chúng ta im lặng hay sao?” “Dạ, thưa… thưa Chúa Tể,” một người đàn ông nhỏ thó ngồi khoảng giữa bàn nói. Hắn ngồi lọt thỏm trong ghế, thấp đến nỗi thoáng nhìn qua cái ghế có vẻ như không có người ngồi. Giờ đây hắn lập cập rời khỏi chỗ, lật đật chạy ra khỏi phòng, chẳng để lại gì phía sau ngoại trừ một vết sáng bạc kỳ lạ. “Như ta đã nói,” Voldemort tiếp tục, nhìn lại gương mặt căng thẳng của đám tay chân, “Giờ đây ta hiểu biết hơn. Thí dụ, ta sẽ cần phải mượn cây đũa phép của một người trong đám chúng bây trước khi đi giết Potter.” Những gương mặt quanh hắn chỉ bộc lộ nỗi sững sờ; như thể hắn vừa tuyên bố hắn muốn mượn một cánh tay của họ. “Không ai tình nguyện à?” Voldemort nói. “Để xem… Lucius, ta thấy mi không còn lý do gì để giữ một cây đũa phép nữa.” Lucius Malfoy ngước lên. Trong ánh lửa, da hắn trông vàng ệch, bóng như sáp, và mắt hắn sâu hóm quầng thâm. Khi hắn nói giọng hắn khàn khàn. “Thưa Chúa Tể?” “Cây đũa phép của mi, Lucius. Ta cần cây đũa phép của mi.” “Tôi…” Malfoy liếc ngang sang vợ hắn. Bà ta đang trợn mắt nhìn thẳng phía trước, mặt tái nhợt không khác ông chồng, mái tóc vàng óng của bà ta xõa dài xuống lưng, nhưng dưới gầm bàn, những ngón tay thon của bà nắm nhanh lấy cổ tay chồng. Khi bà chạm vào chồng, Malfoy đút tay vào áo chùng, rút ra một cây đũa phép, và chuyền nó cho Voldemort, hắn bèn giơ nó lên trước hai con mắt đỏ ngầu, xem xét kĩ càng. “Làm bằng gì?” “Cây du, thưa Chúa Tể,” Malfoy thì thào. “Và lõi?” “Rồng… sợi tim rồng.” “Tốt,” Voldemort nói. Hắn rút cây đũa phép của hắn ra và so đo chiều dài. Lucius Malfoy làm một cử chỉ vô ý; trong một thoáng không đầy giây, dường như lão trông chờ nhận được cây đũa phép của Voldemort để đổi lại cây đũa phép của lão. Với đôi mắt gian ác mở to, Voldemort không để sót cử chỉ đó. “Cho mi cây đũa phép của ta hả, Lucius? Cây đũa phép của ta à?” Vài kẻ trong đám ngồi quanh cười khẩy. “Ta đã cho mi tự do, Lucius, chẳng lẽ chưa đủ cho mi sao? Nhưng ta nhận thấy mi và gia đình mi có vẻ kém vui hơn sau... Sự hiện diện của ta trong nhà mi có điều chi khiến mi không hài lòng hả, Lucius?” “Không… không có gì cả, thưa Chúa Tể!” “Những lời dối trá như thế Lucius…” Giọng nói nhẹ nhàng dường như rít lên ngay cả sau khi cái miệng đã thôi cử động. Một hay hai kẻ trong đám phù thủy khó kìm được một cơn rùng mình khi tiếng rít trở nên to hơn; rồi tiếng một cái gì đó đang trườn ngang qua sàn phòng bên dưới cái bàn. Con rắn khổng lồ từ từ trườn lên ghế của Voldemort. Nó ngóc lên, có vẻ như ngóc lên hoài, cho đến khi nó nằm vắt ngang qua vai Voldemort: cổ của nó bự bằng bắp vế của một người đàn ông; mắt của nó, với đồng tử là một vạch thẳng đứng, không hề chớp. Voldemort lơ đãng vỗ về con vật đó bằng những ngón tay dài trong khi vẫn ngó Lucius Malfoy. “Tại sao gia đình Malfoy trông không được vui với số phận của họ nhỉ? Chẳng phải sự trở về của ta, sự hồi phục quyền lực của ta là chính cái điều họ đã tỏ ra khao khát trong bao nhiêu năm qua sao?” “Dĩ nhiên chứ, thưa Chúa Tể,” Lucius Malfoy nói. Bàn tay lão run rẩy khi lau mồ hôi rịn ra trên mép. “Chúng tôi hằng khao khát… chúng tôi vẫn khao khát.” Ngồi bên trái Malfoy, vợ lão ngắc ngứ gật đầu sượng trân, đôi mắt của bà ta lảng tránh cả Voldemort lẫn con rắn. Bên phải Malfoy là con trai lão ta, Draco, từ nãy giờ vẫn ngó chằm chằm cái thân xác ù lỳ lơ lửng trên đầu nó, bây giờ mới liếc qua Voldemort thật nhanh, và hãi hùng khi ánh mắt gặp nhau, nó bèn ngó ngay qua chỗ khác. “Thưa Chúa Tể,” một người đàn bà u ám ngồi khoảng giữa cái bàn với giọng nói dồn nén cảm xúc, “chúng em rất vinh dự được đón ngài tại đây, trong gia đình chúng em. Không thể có niềm vui sướng nào lớn hơn được.” Mụ ta ngồi bên cạnh chị mình, với mái tóc đen và đôi mắt tùm hụp, trông chẳng giống bà chị chút nào, kể cả dung nhan lẫn phong thái và cách cư xử; trong khi Narcissa ngồi thẳng và dửng dưng, thì Bellatrix chồm về phía Voldemort, vì chỉ lời nói thì không thể đủ diễn tả lòng khao khát được thân tình. “Không có niềm vui sướng nào lớn hơn,” Voldemort lặp lại, đầu hơi ngoẹo sang bên một chút khi hắn chú ý nhìn Bellatrix. “Điều này do mi thốt ra, Bellatrix à, có nhiều ý nghĩa đấy.” Gương mặt Bellatrix tràn trề niềm hân hoan; mắt mụ sưng mọng lên vì những giọt lệ vui mừng. “Chúa Tể của em biết là em chỉ nói sự thật thôi mà!” “Không có niềm vui sướng nào lớn hơn … ngay cả khi so sánh với cái sự kiện hạnh phúc, ta nghe nói, vừa xảy ra trong gia đình mi tuần này sao?” Bellatrix trố mắt nhìn Voldemort, môi mụ hé ra, rõ ràng là bối rối. “Thưa Chúa Tể, em không biết ngài muốn nói việc gì ạ?” “Ta đang nói về cháu gái của mi, Bellatrix à. Và của cả tụi mi nữa, Lucius và Narcissa. Nó vừa mới cưới gã người sói Remus Lupin. Bọn mi ắt tự hào lắm.” Một trận cười giễu cợt bùng lên khắp chung quanh cái bàn. Nhiều kẻ chồm tới trước để chườn ra bộ mặt hể hả, một số kẻ đánh trống lên mặt bàn bằng những nắm tay. Con rắn khổng lồ, không ưa sự khuấy động, ngoác rộng miệng ra huýt lên giận dữ, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử không nghe thấy tiếng rắn huýt, vì chúng quá hí hửng trước sự ê càng bẽ mặt của Bellatrix và gia đình Malfoy. Gương mặt Bellatrix mới đó còn ửng hồng vì niềm hạnh phúc, giờ đã chuyển màu đỏ bầm giập xấu xí. “Thưa Chúa Tể, nó không còn là con cháu gái của chúng em nữa,” Bellatrix gào lên để dập tắt tiếng cười đùa. “Chúng em - Narcissa và em - chưa bao giờ để mắt tới con chị từ khi con đó cưới chồng Máu bùn. Còn con ranh kia, lẫn con quái vật nào đó nó cưới, chẳng dính dáng gì tới hai chị em chúng em cả.” “Mi nói sao, Draco?” Voldemort hỏi, và mặc dù giọng hắn nhỏ nhẹ, vẫn truyền rành rọt qua những tiếng cười cợt chê bai. “Mi sẽ chăm chút mấy con sói con chứ?” Trò vui nhộn càng được bơm lên cao; Draco Malfoy nhìn cha khiếp đảm, cha nó cúi gằm nhìn xuống đùi mình, rồi nó bắt được ánh mắt của má nó. Bà ta lắc đầu, khẽ khàng đến mức gần như không nhận thấy được, rồi tiếp tục ngây nhìn bức tường đối diện. “Đủ,” Voldemort nói, vỗ về con rắn quạu đeo. “Đủ rồi!” Và tiếng cười nhạo tắt ngay tức thì. “Nhiều gia tộc lâu đời nhất của chúng ta về sau trở nên suy đồi,” Voldemort nói trong khi Bellatrix chăm chú nhìn hắn, nín cả thở và đầy vẻ cầu xin. “Bọn mi cần phải thanh lọc gia tộc của mình để giữ nó được lành mạnh, hay không cần hả? Hãy cắt bỏ những phần đe dọa đến sự lành mạnh của phần gia tộc còn lại.” “Vâng, thưa Chúa Tể,” Bellatrix thì thào, và mắt mụ lại đẫm lệ tri ân. “Ngay khi có cơ hội đầu tiên!” “Mi sẽ có cơ hội đó,” Voldemort nói, “Và trong gia đình mi, cũng như trên toàn thế giới… chúng ta sẽ cắt bỏ những ung nhọt làm nhiễm độc chúng ta cho đến khi chỉ còn những người mang huyết thống thuần túy mà thôi…” Voldemort giơ cây đũa phép của Lucius Malfoy lên, chĩa thẳng vào cái hình nhân đang xoay lờ đờ lơ lửng bên trên cái bàn, khẽ nhấp một cái. Hình nhân tỉnh lại thốt lên một tiếng rên và bắt đầu vùng vẫy cố thoát những dây trói vô hình. “Mi có nhận ra khách mời của chúng ta không, Severus?” Voldemort hỏi. Snape hướng mắt nhìn gương mặt bị quay ngược xuống. Tất cả bọn Tử Thần Thực Tử lúc này đều đang nhìn kẻ bị trói ngược như thể chúng nhận được lệnh cho phép lộ ra sự tò mò. Khi người đàn bà xoay mặt về phía ánh lửa, bà kêu lên bằng giọng ngắc ngứ kinh hoàng, “Severus! Cứu tôi!” “À, có,” Severus nói khi kẻ bị trói lại chầm chậm xoay đi. “Và mi, Draco?” Voldemort hỏi, vừa vuốt ve cái mõm rắn bằng bàn tay không cầm đũa phép. Draco ngắc ngứ lắc đầu. Giờ đây người đàn bà đã tỉnh, Draco dường như không thể nào ngó bà ta nữa. “Nhưng ắt là mi không theo học những lớp của mụ ta.” Voldemort nói. “Ta nói cho những ai trong chúng bây biết, chúng ta họp ở đây đêm nay vì Charity Burbage, kẻ mới đây còn dạy ở trường Đào tạo Phù thủy và Pháp sư Hogwarts.” Có tiếng xì xào nhận ra lan trong đám người ngồi quanh bàn. Một mụ ngang bè bè gù lưng răng nhọn hoắt cất tiếng nói như gà mái cục tác. “Đúng… Giáo sư Burbage đã dạy con em các Pháp sư và Phù thủy đủ thứ về bọn Muggle… rằng chúng chẳng khác chúng ta cho lắm…” Một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử đạp phành phạch lên sàn. Charity Burbage lại xoay vòng đối diện với Snape. “Severus… làm ơn… làm ơn…” “Im,” Voldemort nói, hắn nhấp cây đũa phép của Malfoy một cái nữa, và Charity nín khe như bị bịt miệng. “Chưa vừa ý với việc làm băng hoại và ô nhiễm đầu óc trẻ con phù thủy, giáo sư Burbage tuần rồi đã viết một bài rất xúc động bênh vực bọn Máu bùn trên tờ Nhật Báo Tiên Tri. Mụ nói, các phù thủy cần phải chấp nhận bọn ăn cắp tri thức và pháp thuật của họ. Sự thoái hóa của phù thủy thuần chủng, theo lời giáo sư Burbage, là điều đáng mong nhất… Hẳn mụ sẽ cho tất cả chúng ta lấy Muggle… hoặc, chắc ăn hơn, lấy người sói…” Lần này không ai cười cả. Chẳng thể lầm được cơn thịnh nộ và sự khinh miệt trong giọng nói của Voldemort. Lần thứ ba, Charity Burbage lại xoay vòng đối mặt với Snape. Nước mắt đang trào từ mắt xuống tóc bà. Snape nhìn lại bà, hoàn toàn dửng dưng trong khi bà lại chầm chậm xoay mặt đi. “Avada Kedavra.” Ánh sáng xanh biếc lóe lên chiếu rọi khắp mọi góc phòng. Bà Charity rớt xuống mặt bàn bên dưới, gây nên một tiếng va chạm vang rền, khiến cái bàn rung lên kêu ken két. Nhiều Tử Thần Thực Tử nhảy bật ra khỏi ghế đang ngồi. Draco té từ trên ghế xuống sàn. “Ăn tối, Nagini,” Voldemort nói dịu dàng, và con rắn khổng lồ đu đưa rồi tuột từ vai hắn xuống mặt bàn gỗ bóng loáng. 2 HỒI NIỆM H arry đang chảy máu. Nắm chặt bàn tay phải trong bàn tay trái và lầm bầm rủa thầm, nó dùng vai đẩy cánh cửa phòng ngủ. Có tiếng miểng sứ bể kêu rào rạo. Nó đã giẫm lên một cái tách trà nguội đặt trên sàn ngay bên ngoài cửa phòng ngủ của nó. “Cái đồ…?” Nó nhìn quanh, đầu cầu thang căn nhà số 4, đường Privet Drive, trống trải. Có thể tách trà là sáng kiến của Dudley cho một cái bẫy ngố láu lỉnh. Giữ bàn tay chảy máu giơ cao, Harry dùng tay kia gom những mảnh vụn của cái tách lại và quăng chúng vào một cái sọt rác đã đầy nhóc khuất sau cánh cửa phòng ngủ. Rồi nó nặng nề bước qua buồng tắm, xả nước rửa ngón tay. Thiệt là ngu ngốc, nhảm nhí, dễ khùng quá sức tưởng tượng khi mà chỉ còn bốn ngày nữa là nó có thể làm phép thuật… nhưng nó phải tự thừa nhận là vết cắt sâu nham nhở này không khéo sẽ đánh quỵ nó. Nó chưa bao giờ học cách chữa những vết thương, và bây giờ nó phải nghĩ tới chuyện đó - đặc biệt cho những kế hoạch trước mắt - điều này dường như là một thiếu sót nghiêm trọng của nền giáo dục pháp thuật. Ghi nhẩm trong đầu là sẽ hỏi Hermione cách làm, nó dùng một nùi bự giấy vệ sinh để chùi nước trà được bao nhiêu hay bấy nhiêu trước khi trở lại phòng ngủ và đóng sầm cánh cửa lại sau lưng. Harry đã bỏ cả buổi sáng để lần đầu tiên soạn ra toàn bộ cái rương đi học của nó kể từ khi nó bắt đầu bỏ đồ đạc vô đó sáu năm về trước. Cứ mỗi lần bắt đầu một niên học mới từ đó tới nay, nó chỉ soạn sơ sơ ba phần tư bên trên của những thứ trong rương để thay thế hoặc cập nhật chúng, chừa lại một lớp những đồ lụn vụn nói chung ở dưới đáy rương - nào là viết lông ngỗng cũ, mắt bọ khô, vớ lẻ nó không mang vừa chân nữa. Mấy phút trước đó, Harry đã thọc tay vô mớ bùng nhùng này, lãnh một vết cắt đau điếng ở ngón thứ tư bàn tay phải, và khi rút tay ra thì thấy máu me tùm lum. Bây giờ nó tiếp tục một cách cẩn thận hơn một tý. Lại quỳ xuống bên cạnh cái rương, nó mò quanh đáy, và sau khi lôi ra được một phù hiệu cũ vẫn còn lập lòe yếu ớt giữa Ủng hộ CEDRIC DIGGORY với POTTER THÚI HOẮC, một Ống kính mách lẻo te tua rạn nứt, và một cái mặt dây chuyền vàng bên trong có giấu một mẩu thư ngắn ký tên là R.A.B., nó rốt cuộc khám phá ra cái cạnh bén ngọt đã gây họa cho nó. Nó nhận ra vật đó tức thì. Đó là một mảnh vỡ dài cỡ ba phân của cái gương đã được yểm bùa mà Sirius, người cha đỡ đầu quá cố, đã cho nó. Harry đặt mảnh gương vỡ qua một bên và cẩn thận dò khắp rương để tìm kiếm phần còn lại, nhưng chẳng còn chút mảnh vụn nào của món quà cuối cùng của người cha đỡ đầu, ngoại trừ thủy tinh nát như bột cám dính vào lớp cuối cùng những đồ linh tinh lụn vụn tựa như kim tuyến lấp lánh. Harry ngồi dậy và xem xét cái mảnh gương có cạnh bén ngọt đã làm nó đứt tay. Nó chẳng thấy gì khác ngoài con mắt xanh biếc sáng quắc của chính nó nhìn ngược lại nó. Thế là nó đặt mảnh gương vỡ lên trên tờ Nhật Báo Tiên Tri sáng hôm đó; tờ báo vẫn còn nằm trên giường, chưa được đọc, và bằng cách sục vào mớ rác còn lại trong rương, nó cố gắng dằn xuống cơn trào dâng đột ngột của những kí ức cay đắng, những vết chém của tiếc thương và mong mỏi mà việc tìm ra mảnh gương vỡ đã khơi gợi lên. Mất thêm một giờ nữa nó mới hoàn toàn soạn ra được hết đồ đạc trong rương, quăng đi những đồ vô dụng, và sắp xếp những thứ được giữ lại thành từng đống tùy theo những vật đó từ nay nó còn cần tới hay không cần tới nữa. Đồng phục đi học và đồng phục thi đấu Quidditch, vạc, giấy da, viết lông ngỗng, và hầu hết sách giáo khoa được chất đống ở một góc để được bỏ lại. Nó tự hỏi dì dượng nó sẽ làm gì với đống đó; có lẽ sẽ đem thiêu rụi giữa đêm khuya, như thể đó là tang chứng của một tội ác rùng rợn. Quần áo Muggle của nó, tấm Áo khoác Tàng hình, bộ đồ chế tạo độc dược, một số sách, tập ảnh của bác Hagrid đã có lần đưa cho nó, một xấp thư và một cây đũa phép được rời sang một cái ba lô cũ. Trong túi trước là tấm Bản đồ Đạo tặc và cái mặt dây chuyền bên trong có bức thư ký tên R.A.B. Cái mặt dây chuyền được dành cho vị trí danh dự đó không phải vì giá trị của nó - nó hoàn toàn vô tích sự hiểu theo mọi nghĩa thông thường - mà vì cái giá đã phải trả để có được nó. Việc dọn dẹp để lại một đống báo khá to ngồi ì trên bàn bên cạnh con cú Hedwig trắng như tuyết: mỗi tờ cho một ngày mà Harry đã trải qua ở Privet Drive trong mùa hè này. Nó đứng lên, duỗi tay chân và đi tới cái bàn viết. Hedwig chẳng buồn nhúc nhích khi Harry bắt đầu giở đống báo ra, liệng từng tờ một vô đống rác. Con cú vẫn ngủ hay giả bộ ngủ. Nó giận Harry về việc giới hạn thời gian nó được phép ngao du ở ngoài lồng trong lúc này. Khi giở gần tới đáy đống báo, Harry chậm tay lại, tìm một số đặc biệt mà nó biết là được gởi đến ngay khi nó trở về Privet Drive để nghỉ hè; nó nhớ là trên trang đầu số báo đó có một tin nhỏ về việc từ chức của bà Charity Burbage, giáo viên môn Muggle Học ở trường Hogwarts. Cuối cùng nó tìm được tờ báo đó. Lật ra trang mười, nó ngồi lún xuống cái ghế bên bàn viết và đọc lại bài báo mà nó tìm nãy giờ. NHỚ MÃI ALBUS DUMBLEDORE ELPHIAS DOGE Tôi gặp Albus Dumbledore năm mười một tuổi, vào ngày đầu tiên của chúng tôi ở trường Hogwarts. Chúng tôi thu hút lẫn nhau chắc chắn là vì cả hai cùng cảm thấy mình lạc lõng. Tôi mới mắc bệnh đậu rồng ít lâu trước khi đến trường Hogwarts và tuy bệnh không còn lây nữa, nhưng bộ mặt còn dấu thẹo các nốt đậu cùng sắc mặt xanh xao của tôi làm nhiều người ngại đến gần tôi. Về phần Albus, anh đến trường dưới cái ách của tai tiếng ngoài ý muốn. Mới một năm trước đó, cha anh, Percival, đã bị kết tội vì một cuộc tấn công dã man ba thanh niên Muggle, vụ này khá nổi tiếng. Albus không bao giờ tìm cách chối bỏ việc cha mình (về sau chết trong nhà ngục Azkaban) đã phạm tội ác này; ngược lại, khi tôi thu hết can đảm hỏi anh, anh khẳng định với tôi là anh biết cha mình có tội. Trừ lần ấy ra, còn thì Dumbledore từ chối nói về chuyện buồn đó, mặc dù nhiều kẻ cố gắng kích cho anh nói. Thực vậy, một số kẻ sẵn sàng ca ngợi hành động của cha anh và cho là Albus cũng là kẻ ghét-Muggle. Những kẻ ấy quá sức sai lầm: vì bất cứ ai từng biết Albus sẽ chứng thực rằng anh không hề để lộ chút xíu khuynh hướng chống-Muggle nào. Quả thực, sự cương quyết ủng hộ Muggle quyền của anh đã khiến cho anh có nhiều kẻ thù trong những năm sau đó. Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài tháng, tên tuổi của chính Albus đã bắt đầu che khuất tai tiếng của người cha. Đến cuối năm thứ nhất thì không còn ai nhìn anh như là con trai của một kẻ ghét-Muggle nữa, mà chỉ coi anh gần như là học sinh xuất sắc nhất từ xưa tới nay của trường. Những ai trong chúng tôi được vinh dự là bạn của anh đều thu được nhiều điều bổ ích từ tấm gương của anh, ấy là chưa kể còn được anh giúp đỡ và khuyến khích - những nghĩa cử đó anh luôn sẵn sàng làm. Về sau này, anh thú nhận với tôi là ngay từ hồi đi học anh đã tìm thấy niềm khoái lạc lớn nhất của mình trong việc dạy dỗ. Anh không chỉ đoạt được mọi giải thưởng đáng kể ở trường, mà chẳng mấy chốc anh đã có trao đổi thư từ thường xuyên với những tên tuổi nổi nhất trong giới pháp thuật đương thời, kể cả Nicolas Flamel, nhà giả kim lừng lẫy nhất; Bathilda Bagshot, sử gia lừng danh; và Adalbert Waffling, nhà thiết lập thuyết pháp thuật. Nhiều bài viết của anh đã tìm được cách xuất hiện trên những ấn phẩm uyên bác như Thuật Biến Hình Ngày Nay, Những Thách Thức trong Ếm Bùa và Độc Dược Gia Thực Hành. Sự nghiệp tương lai của Dumbledore tỏ ra rất có triển vọng rực rỡ, và vấn đề duy nhất còn lại là khi nào anh trở thành Bộ trưởng Bộ Pháp Thuật. Mặc dù trong những năm về sau người ta thường dự đoán là anh sắp đảm nhiệm công việc đó, thế nhưng anh không hề nuôi tham vọng nắm quyền Bộ trưởng. Ba năm sau khi chúng tôi nhập học ở Hogwarts, em trai của Albus là Aberforth cũng đến trường. Họ không giống nhau cho lắm: Aberforth chẳng hề đam mê sách vở, và chẳng giống anh Albus, chú em khoái giải quyết những vụ cãi cọ bằng đấu tay đôi hơn là tranh luận cho ra lẽ. Dù vậy, hoàn toàn sai lầm nếu (như một số người) cho rằng, hai anh em này không làm bạn với nhau được. Hai người hòa thuận, cũng thoải mái như bất kỳ hai thằng con trai nào sống cùng nhau. Để công bằng với Aberforth, phải thừa nhận là sống trong cái bóng của Albus thì nói chung không phải là một trải nghiệm dễ chịu cho lắm. Làm bạn với anh mà cứ bị án bóng hoài đã là một hiểm hoạ thường trực, thì làm đứa em bị án bóng lại càng không sung sướng gì. Khi Albus và tôi tốt nghiệp Hogwarts, chúng tôi có ý định cùng nhau làm một chuyến du hành thế giới có tính truyền thống vào thời đó, thăm thú và xem xét các phù thủy nước ngoài, trước khi theo đuổi sự nghiệp riêng của mỗi người. Thế nhưng, bi kịch đã chen vào. Đúng cái đêm trước ngày khởi hành chuyến viễn du của chúng tôi, bà Kendra - mẹ của Albus qua đời, để lại cho Albus gánh nặng gia đình mà anh là trụ cột duy nhất. Tôi hoãn ngày khởi hành một thời gian để đến bày tỏ lòng tôn kính phân ưu tại tang lễ bà Kendra, rồi ra đi thực hiện cuộc lữ hành giờ đây chỉ còn lại một mình. Còn lại một người em trai và một người em gái để chăm sóc, trong khi gia sản chẳng còn sót lại mấy đồng vàng, vì vậy cũng chẳng còn chuyện Albus đi cùng tôi nữa. Đó là giai đoạn trong đời mà chúng tôi ít liên lạc với nhau nhất. Tôi viết tư cho Albus, miêu tả một cách vô ý tứ những điều kỳ thú của chuyến đi, từ chuyện chạy thoát trong gang tấc con sư-dương xà ở Hy Lạp, cho đến những thí nghiệm của các Nhà giả kim Ai Cập. Thư của anh cho tôi biết rất ít về cuộc sống qua ngày của anh, cuộc sống mà tôi đoán là nhạt nhẽo đến phát cuồng đối với một phù thủy xuất sắc như anh. Say sưa với những trải nghiệm của chính mình, tôi thật kinh hoàng khi nghe tin, vào cuối cuộc du hành gần cả năm của tôi, một bi kịch nữa lại giáng xuống gia đình Dumbledore: em gái của anh, Ariana, đã chết. Mặc dù Ariana đã ốm yếu suốt một thời gian dài, tai họa này, xảy ra quá nhanh sau khi người mẹ vừa mới mất, đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả hai người anh của cô. Tất cả những ai thân cận nhất với Albus - và tôi tự cho mình nằm trong số người may mắn đó - đều đồng ý rằng cái chết của Ariana và mặc cảm của Albus về trách nhiệm cá nhân trong cái chết đó (mặc dù, dĩ nhiên, anh vô tội), đã để lại vết chàm trong suốt cuộc đời còn lại của anh. Tôi trở về quê nhà và nhận ra một chàng trai trẻ đã phải trải qua nỗi đau khổ của một người già dặn hơn rất nhiều. Albus trở nên nghiêm nghị hơn xưa, và rất ít khi vui vẻ. Bồi thêm vào nỗi tang thương của anh, cái chết của Ariana còn dẫn tới, không phải sự gần gũi được nối lại giữa Albus và Aberforth mà là sự bất hòa. (Theo thời gian điều này cũng mất đi - những năm về sau, hai anh em đã thiết lập lại, nếu không phải là một quan hệ gần gũi, thì chắc chắn cũng là một tình thân ái). Tuy nhiên, từ dạo ấy về sau, anh hiếm khi nào nói về cha mẹ hay về Ariana, và bạn bè anh cũng biết là không nên nói tới họ. Những cây bút lông ngỗng khác sẽ miêu tả nhiều chiến thắng của những năm sau đó. Những đóng góp không kể xiết của Dumbledore vào kho tàng kiến thức pháp thuật (trong đó có khám phá của anh về mười hai công dụng của máu rồng) đem lại lợi ích cho nhiều thế hệ sau này, cũng như sự khôn ngoan mà anh đã thể hiện trong nhiều phán quyết khi làm Tổng Tướng quân của Liên minh pháp thuật. Dù vậy, người ta nói rằng chưa từng có trận đấu pháp thuật tay đôi nào so được với trận đấu giữa Dumbledore và Grindelwald năm 1945. Những ai từng chứng kiến trận đó đã mô tả nỗi khủng khiếp và kinh hoàng mà họ cảm thấy khi xem hai pháp sư xuất chúng ấy lâm trận. Chiến thắng của Dumbledore và hệ quả của chiến thắng đó đối với thế giới pháp thuật, được coi là bước ngoặt trong lịch sử pháp thuật, quan trọng ngang với sự đề xuất Quy chế Quốc tế về Bí mật hay sự sụp đổ của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Albus Dumbledore không hề tự hào hay huênh hoang; anh có thể tìm ra điều gì đó đáng quý ở bất cứ ai, cho dù kẻ đó tầm thường hay tồi tệ thấy rõ, và tôi tin là những mất mát thời trẻ đã đem lại cho anh khả năng cảm thông cùng lòng nhân đạo lớn lao. Tôi sẽ không thể tả hết nỗi nhớ tình bằng hữu với anh, nhưng mất mát của tôi chẳng đáng kể gì so với mất mát của thế giới pháp thuật. Chắc chắn anh là hiệu trưởng được yêu kính nhất và là tấm gương sáng nhất trong tất cả hiệu trưởng ở trường Hogwarts. Anh đã chết như anh đã sống: luôn cống hiến cho cái thiện cao cả hơn, và cho đến tận giờ phút cuối cùng của mình, anh vẫn sẵn lòng đưa tay giúp một thằng bé con mắc bệnh mụn rồng như thuở tôi mới gặp anh. Harry đã đọc xong nhưng vẫn tiếp tục nhìn đăm đăm bức ảnh đăng kèm bài cáo phó. Cụ Dumbledore vẫn nở nụ cười tươi ân cần quen thuộc, nhưng khi nhướng mắt ra khỏi gọng kiếng hình nửa vầng trăng, cụ vẫn khiến cho Harry có cảm giác, dù chỉ là trên tờ giấy báo, cụ cũng đang nhìn thấu suốt Harry, kẻ mang trong mình nỗi buồn trộn lẫn với cảm giác hổ thẹn. Nó cứ tưởng nó biết cụ Dumbledore rõ lắm, nhưng từ lúc đọc xong bài cáo phó này, nó đã phải bất đắc dĩ thừa nhận rằng hầu như nó chẳng biết gì về cụ cả. Trước giờ Harry chưa từng tưởng tượng ra tuổi thơ hay tuổi trẻ của cụ Dumbledore; cứ như thể cụ vào đời đã là người như nó vẫn biết: già nua, tóc bạc, tôn nghiêm. Cái ý nghĩ về một Dumbledore tuổi mới lớn sao thấy kỳ kỳ, giống như tưởng tượng một Hermione ngốc nghếch hay một con Quái Tôm Đuôi Nổ dễ thương vậy. Nó chưa bao giờ nghĩ tới việc hỏi cụ Dumbledore về quá khứ của cụ. Chắc chắn hỏi như vậy thì kỳ và thậm chí vô lễ, nhưng nói cho cùng thì ai cũng biết cụ Dumbledore từng tham dự trận đấu tay đôi huyền thoại với Grindelwald, và Harry đã không nghĩ đến việc hỏi cụ Dumbledore trận đó như thế nào, cũng không hề hỏi về bất cứ thành tích nào trong những thành tích nổi tiếng khác của cụ. Không, hai thầy trò lúc nào cũng chỉ trò chuyện về Harry, về quá khứ của Harry, tương lai của Harry… và giờ đây, bất chấp cái thực tế là tương lai của nó quá hiểm nghèo và bất định, dường như nó đã bỏ lỡ mất rồi những cơ hội không bao giờ có được nữa để hỏi cụ Dumbledore nhiều hơn về chính cụ, mặc dù câu hỏi thân tình duy nhất nó từng hỏi thầy hiệu trưởng của mình lại chính là câu hỏi mà nó ngờ rằng cụ Dumbledore đã không thành thật trả lời. “Thầy nhìn thấy cái gì khi nhìn vào tấm gương?” “Thầy ư? Thầy thấy chính mình đang cầm một đôi vớ len dày.” Sau nhiều phút suy nghĩ, Harry xé bài cáo phó ra khỏi tờ báo Tiên Tri, gấp lại cẩn thận, và nhét vào bên trong quyển đầu tiên của bộ Pháp Thuật Phòng Thủ Thực Tiễn và Ứng Dụng Chống Lại Nghệ thuật Hắc ám. Rồi nó quăng mớ báo còn lại lên đống rác và quay lại nhìn căn phòng. Đã ngăn nắp và sạch sẽ hơn nhiều. Cái duy nhất còn ở trật chỗ là tờ Nhật Báo Tiên Tri số ra hôm nay, vẫn còn nằm trên giường, và bên trên nó là mảnh gương vỡ. Harry băng ngang căn phòng, đẩy mảnh gương vỡ ra khỏi tờ báo Tiên Tri số hôm nay, và mở tờ báo ra. Hồi sáng sớm này khi nhận cuộn báo từ con cú phát báo, Harry chỉ liếc qua cái tít trang nhứt rồi liệng tờ báo qua một bên sau khi nhận thấy báo chẳng đả động gì đến Voldemort. Harry tin chắc là Bộ Pháp Thuật đang dựa vào tờ Tiên Tri để bưng bít tin tức về Voldemort. Thành ra, chỉ bây giờ nó mới thấy cái mà nó đã bỏ sót. Chạy ngang nửa cuối của trang nhất là một cái tít nhỏ hơn đặt bên trên một bức ảnh của cụ Dumbledore đang sải bước, có vẻ bực bội. DUMBLEDORE - RÚT CUỘC SỰ THẬT Ư? Câu chuyện chấn động về một thiên tài hoàn hảo được nhiều người coi là pháp sư vĩ đại nhất thuộc thế hệ của ông sẽ phát hành vào tuần tới. Bóc trần chân dung nổi tiếng của trí tuệ râu bạc thanh thoát, Rita Skeeter để lộ ra tuổi thơ xáo trộn, tuổi trẻ hoang đàn, những hận thù suốt kiếp, và những bí mật tội lỗi mà Dumbledore đã mang theo xuống mồ, TẠI SAO người được trao cho chức bộ trưởng Bộ Pháp thuật lại bằng lòng giữ chức hiệu trưởng quèn? CÁI GÌ mới là mục đích thực sự của tổ chức bí mật gọi là Hội Phượng Hoàng? Cuộc đời của Dumbledore đã kết thúc NHƯ THẾ NÀO? Câu trả lời cho những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa được nghiên cứu trong một quyển tiểu sử mới hứa hẹn xì-căn-đan, Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore, tác giả Rita Skeeter, bài phỏng vấn dành riêng cho bổn báo của Berry Braithwaite, trang 13, bên trong. Harry xé banh tờ báo và tìm thấy trang 13. Đầu bài báo là bức ảnh của một gương mặt quen thuộc khác: một người đàn bà đeo kính làm điệu, mái tóc vàng uốn cong, chải chuốt, răng nhe ra trong cái thứ rõ ràng được gọi là nụ cười thắng cuộc, đang ngọ nguậy ngón tay chỉ vào nó. Ráng hết sức lờ đi cái chân dung phát ói này, Harry đọc tiếp. Về bản thân, Rita Skeeter nồng nàn và dịu dàng hơn nhiều những gì ta hình dung khi đọc những chân dung hung hăng nổi tiếng chị viết. Đón tôi trong hành lang ngôi nhà ấm cúng của chị, Rita dẫn tôi đi thẳng vào nhà bếp để mời trà, bánh ngọt, và khỏi cần nói, một nồi sôi sùng sục chuyện đồn đại mới nhất. “Ừ, đương nhiên, Dumbledore là giấc mơ của một tiểu sử gia,” Skeeter nói. “Một cuộc đời dài trọn vẹn. Tôi chắc chắn là cuốn sách của tôi sẽ là cuốn đầu tiên của rất, rất nhiều cuốn nữa.” Skeeter hẳn nhiên đã vọt nhanh khỏi vạch xuất phát. Quyển sách chín-trăm-trang được hoàn tất chỉ trong 4 tuần lễ sau cái chết bí ẩn của Dumbledore hồi tháng 6. Tôi hỏi chị xoay trở cách nào để lập được kỳ tích siêu nhanh này. “À, khi nào bạn hành nghề báo chí lâu như tôi, thì viết cho kịp hạn chót nộp bài là bản năng thứ hai. Tôi biết là thế giới pháp thuật đang kêu gào đòi hỏi một câu chuyện đầy đủ và tôi muốn là người đầu tiên đáp ứng nhu cầu này.” Tôi nhắc đến những nhận xét được công bố rộng rãi gần đây của Elphias Doge, Cố vấn đặc biệt của Liên minh pháp thuật và là người bạn lâu đời của Dumbledore, rằng “quyển sách của Skeeter chứa ít sự thật hơn cả một tấm thẻ Nhái sôcôla.” Skeeter ngửa đầu ra sau cười ha hả. “Dodgy đáng yêu thật! Tôi nhớ từng phỏng vấn ổng cách đây vài năm về ngư nhân quyền, trời đất ơi. Hoàn toàn lẩm cẩm, hình như ổng nghĩ chúng tôi đang ngồi dưới đáy hồ Windermere hay sao ấy, cứ bảo tôi phải coi chừng lũ cá hồi.” Thế nhưng lời cáo buộc của Elphias Doge về sự thiếu chính xác đã được nhiều nơi hưởng ứng. Liệu Skeeter có thực sự cảm thấy bốn tuần lễ ngắn ngủi là đủ để có được một bức tranh toàn diện về cuộc đời dài và phi thường của Dumbledore không? “Ôi, cưng ơi,” Skeeter cười toe, âu yếm cốc đầu tôi bằng mấy đốt ngón tay, “cưng cũng biết như tôi đấy, là có thể moi được bao nhiêu thông tin bằng một bao to sụ toàn đồng Galleon, bằng từ chối nhận tiếng ‘không’, và bằng một cây viết Trích-Dẫn-Nhanh! Với lại người ta đang sắp hàng để buôn chuyện về Dumbledore kìa. Cưng biết mà, đâu phải ai cũng nghĩ ổng tuyệt vời đâu - ổng đã làm mếch lòng khối người quan trọng đấy. Nhưng lão già Doge láu cá có thể tụt khỏi con Bằng-Mã cao vút của lão đi thôi, bởi vì tôi vừa tiếp cận được một nguồn tin mà hầu hết ký giả sẵn sàng đổi cây đũa của mình để có được; nguồn tin là một người trước đây chưa từng phát biểu với công chúng, đồng thời là người thân cận với Dumbledore trong suốt thời kỳ hỗn loạn, rối rắm của tuổi trẻ ông ta.” Việc quảng cáo trước cuốn tiểu sử của Skeeter chắc chắn khiến ta nghĩ sắp tới sẽ có những cơn chấn động nơi những người vẫn tin rằng Dumbledore đã sống một cuộc đời không có chỗ chê. Những ngạc nhiên lớn nhất mà Skeeter vạch ra là gì, tôi hỏi. “Ấy, thôi đi nhé, Betty, tôi sẽ chẳng phát không những gì sáng giá nhất trước khi có người mua cuốn sách của tôi đâu nhá” Skeeter cười lớn. “Nhưng tôi có thể hứa là bất cứ ai vẫn còn nghĩ Dumbledore trắng bóc như râu ổng rồi sẽ lâm vào cuộc tỉnh ngộ dã man! Chỉ cần đơn cử, không một ai từng nghe về cơn thịnh nộ của ổng đối với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó lại có thể nằm mơ rằng chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám hồi còn trai trẻ! Và mặc dù là một pháp sư đã dành những năm cuối đời để kêu gọi lòng khoan dung, nhưng hồi còn trẻ trung ổng lại không có đầu óc khoáng đạt như thế! Vâng, Albus Dumbledore đã có một quá khứ đục ngầu, chưa kể đến một gia đình rất mập mờ, mà ổng đã bỏ công khó nhọc ra bưng bít.” Tôi hỏi có phải Skeeter nói đến người em trai của Dumbledore, Aberforth, người đã bị Liên minh Pháp thuật buộc tội lạm dụng pháp thuật và việc đó đã gây ra một xì-căn-đan nho nhỏ cách đây 15 năm. “Ối, Aberforth chỉ là cái chóp của đống cứt ấy mà thôi.” Skeeter cười. “Không, không, tôi đang nói về cái điều còn tồi bại hơn cả một ông em có cái thú làm trò vớ vẩn với mấy con dê, tồi bại hơn cả một người cha chuyên xẻ-thịt-Muggle - Đằng nào thì Dumbledore cũng không thể giữ kín được hai chuyện đó, cả hai người đó đều đã bị Liên minh Pháp thuật kết án. Không, chính người mẹ, và người em gái mới khiến tôi tò mò, và chỉ cần đào bới chút xíu là phát hiện ra cả một ổ kinh tởm hết sức - nhưng, như tôi đã nói, cưng phải chờ đọc từ chương chín đến chương mười hai để biết chi tiết đầy đủ. Tất cả những gì tôi có thể nói lúc này là chẳng có gì để thắc mắc tại sao Dumbledore không bao giờ kể ổng đã gãy mũi như thế nào.” Cho dù có những việc xấu xa của gia đình, nhưng liệu Skeeter có phủ nhận tài ba lỗi lạc đã làm nên nhiều khám phá pháp thuật của Dumbledore? “Ổng có đầu óc.” Skeeter thừa nhận. “Mặc dù giờ đây nhiều người nghi vấn là liệu ông ta có nên hưởng trọn công lao về tất cả những khám phá được coi là của ông ta không. Như tôi tiết lộ trong chương mười sáu, Ivor Dillonsby tuyên bố, khi Dumbledore ‘mượn’ bài luận của ông, ông đã khám phá ra tám công dụng của máu rồng rồi.” Nhưng, tôi mạo muội có ý kiến, rằng không thể phủ nhận tầm quan trọng của một số thành tích của Dumbledore. Một vụ rất nổi tiếng là ông đánh bại Grindelwald thì sao? “A, đây rồi, tôi mừng là cưng nhắc đến Grindelwald,” Skeeter nói với nụ cười thật là trêu ngươi. “Tôi e rằng những người nào vẫn còn mờ mắt về chiến thắng ngoạn mục của Dumbledore sẽ phải gồng mình mà đối phó với một quả bom dư luận - mà có lẽ là một quả bom phân. Một vụ bầy hầy thật sự. Tôi chỉ có thể nói là, đừng có chắc mẻm là đã có thực một trận đấu tay đôi ngoạn mục như trong truyền thuyết. Sau khi đọc cuốn sách, người ta có thể buộc lòng phải kết luận rằng Grindelwald chỉ đơn giản được chiêu hồn bằng một chiếc khăn tay trắng từ đầu cây đũa phép của ổng và hành động một cách lặng lẽ.” Skeeter từ chối đưa ra thêm điều gì về vật chiêu hồn này, vì vậy chúng tôi xoay qua mối quan hệ chắc chắn sẽ hấp dẫn độc giả của chị hơn bất cứ điều gì khác. “À, phải,” Skeeter nói, nhanh nhẩu gật đầu, “Tôi dành trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore. Lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy. Một lần nữa, độc giả báo của cưng sẽ phải mua cuốn sách của tôi để biết toàn bộ câu chuyện, nhưng rõ ràng là Dumbledore có mối quan tâm không bình thường đối với Potter ngay từ ban sơ. Liệu có thật sự vì quyền lợi cao nhất của thằng bé không - Chà, chúng ta sẽ biết. Chuyện Potter trải qua một thời mới lớn lộn xộn bậc nhất chắc chắn là một bí mật mà ai cũng biết.” Tôi hỏi Skeeter có còn liên lạc với Harry Potter, người mà chị đã từng có cuộc phỏng vấn nổi tiếng hồi năm ngoái: một bài báo đột phá trong đó Potter nói riêng về việc cậu tin chắc chắn Kẻ-mà-ai cũng-biết-là-ai-đó đã trở lại. “À, có chứ, chúng tôi ngày càng gắn bó thân thiết hơn,” Skeeter nói. “Potter đáng thương có rất ít bạn bè thực sự, và chúng tôi đã gặp nhau vào một trong những thời điểm thử thách nhất trong đời cậu bé - Cuộc Thi đấu Tam Pháp Thuật. Tôi có lẽ là người đang sống duy nhất có thể nói mình biết Harry Potter chánh hiệu.” Điều này đưa ngay chúng tôi đến những chuyện đồn đại vẫn còn lan truyền về giây phút cuối cùng của Dumbledore. Liệu Skeeter có tin là Potter có mặt ở đó khi Dumbledore chết không? “Chà, tôi không muốn nói quá nhiều - tất cả đều có trong cuốn sách - nhưng những nhân chứng bên trong tòa lâu đài Hogwarts đã nhìn thấy Potter chạy ra khỏi hiện trường chỉ mấy phút sau khi Dumbledore gục ngã, (cũng có thể ông ta nhảy xuống hay bị đẩy xuống). Về sau Potter làm chứng chống lại Severus Snape, một người mà cậu bé nổi tiếng là có ác cảm. Liệu mọi việc có đúng như ai cũng tưởng không? Điều đó để cho cộng đồng pháp thuật quyết định, một khi họ đọc cuốn sách của tôi.” Tôi ra về mang theo sự lưu ý hấp dẫn đó. Không nghi ngờ gì, Rita Skeeter đã viết ra một cuốn sách bán chạy ăn liền. Trong lúc ấy, đám đông ngưỡng mộ Dumbledore có thể sẽ phải run rẩy trước những điều chẳng bao lâu nữa sẽ lộ ra về người anh hùng của họ. Harry đã đọc hết dòng cuối của bài báo, nhưng mắt vẫn ngây ra ngó chằm chằm trang báo không dứt được. Sự ghê tởm và phẫn nộ trào lên trong người nó như muốn ói, nó vo tròn tờ báo và quăng mạnh vô tường bằng tất cả sức lực, cục báo nhập vô đám rác chất đống quanh cái thùng rác đã đầy tràn. Nó bắt đầu sải bước quanh căn phòng một cách mù quáng, mở tung những ngăn kéo trống rỗng và cầm lên những cuốn sách rồi lại đặt trở vào chỗ cũ, hầu như không ý thức mình đang làm gì, khi cứ lộn xộn từng câu chữ trong bài phỏng vấn Rita vang vọng trong đầu nó: “… trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore… lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy… chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám thời trai trẻ… tôi đã tiếp cận được một nguồn mà hầu hết các ký giả sẽ đánh đổi cây đũa phép để có được…” “Láo!” Harry gào lên, và qua khung cửa sổ nó thấy ông hàng xóm nhà kế bên, vừa ngừng lại để khởi động cái máy cắt cỏ của ông ta ngó lên lo lắng. Harry ngồi phịch xuống giường. Mảnh gương vỡ nhảy múa ra xa nó. Nó lượm lên và xoay mảnh gương vỡ trong mấy ngón tay, nghĩ mãi, nghĩ mãi về cụ Dumbledore cùng những điều dối trá mà Rita đang dùng để phỉ báng cụ… Một ánh sáng xanh lơ nhá lên. Harry sững sờ, ngón tay bị đứt của nó lại cứa vào cạnh bén của mảnh gương vỡ một lần nữa. Nó đã tưởng tượng, ắt là nó đã tưởng tượng ra thôi. Nó liếc ra sau nhưng bức tường chỉ toàn một màu đào chín bệnh hoạn dì Petunia ưng chọn. Chẳng có gì ở đó màu xanh lơ để cho mảnh gương phản chiếu. Nó săm soi nhìn vào mảnh gương một lần nữa, và chẳng thấy gì ngoài con mắt sáng xanh biếc của chính nó ngó lại nó. Nó đã tưởng tượng, chứ không có cách giải thích nào khác; đã tưởng tượng ra điều đó, bởi vì nó đang nghĩ đến thầy hiệu trưởng đã mất. Nếu có điều gì đó chắc chắn, thì điều đó là đôi mắt sáng xanh lơ của cụ Albus Dumbledore sẽ không bao giờ nhìn thấu lòng nó nữa. 3 CUỘC RA ĐI CỦA NHÀ DURSLEY T iếng cánh cửa đóng sầm vọng lên lầu và một giọng nói gầm lên, “Ê, mày!” Mười sáu năm trời bị gọi như vậy khiến cho Harry chẳng còn thắc mắc gì khi dượng nó gọi, mà dù gì đi nữa, nó cũng không thèm đáp ngay. Nó vẫn còn để tâm vào mảnh gương hẹp mà thoáng trong một giây nó đã tưởng nhìn thấy mắt cụ Dumbledore trong đó. Chỉ đến khi dượng nó rống “THẰNG RANH!” Harry mới thủng thẳng ra khỏi giường, đi về phía cửa phòng ngủ, ngừng một tí để bỏ cái gương vỡ vào cái ba lô đã đầy nhóc những thứ mà nó sẽ vác theo bên mình. “Mày từ tốn quá hén!” Dượng Vernon gầm lên khi Harry xuất hiện trên đầu cầu thang, “Xuống đây ngay! Tao muốn nói đôi lời!” Harry thong thả bước xuống cầu thang, hai tay thọc sâu trong túi quần. Khi nó vô tới phòng khách thì đã thấy cả ba người trong gia đình Dursley đều đã có mặt. Họ đều ăn mặc thích hợp để đi đường. Dượng Vernon mặc một cái áo khoác cũ cài bằng dây kéo suốt, dì Petunia mặc áo khoác màu cá hồi gọn ghẽ, còn Dudley, thằng anh họ của Harry, vạm vỡ to xác tóc vàng hoe, thì khoác áo da. “Dạ?” Harry hỏi. “Ngồi xuống!” Dượng Vernon bảo. Harry nhướng mày lên. “Mời!” Dượng Vernon bổ sung, mặt hơi cau lại như thể cái từ đó cứa vào cổ họng ông. Harry ngồi xuống. Nó nghĩ là nó biết chuyện gì sắp xảy ra. Dượng nó bắt đầu đi qua đi lại. Dì Petunia và Dudley dõi theo cử động của ông với vẻ mặt căng thẳng. Cuối cùng, bộ mặt to bè, tím đỏ của dượng rúm lại vì tập trung tư tưởng cao độ. Dượng Vernon đứng lại trước mặt Harry và phát biểu. “Tao đã thay đổi ý kiến,” dượng nói. “Thiệt là ngạc nhiên,” Harry đáp. “Mày đừng giở cái giọng…” Dì Petunia lên tiếng, giọng the thé, nhưng dượng Vernon phất tay dẹp dì xuống. “Việc này nhiều mắc mứu lắm,” dượng Vernon nói, quắc đôi mắt heo ti hí nhìn Harry. “Tao đã quyết định là tao không thèm tin một lời nào hết. Chúng tao cứ ở tại chỗ. Chúng tao sẽ không đi đâu hết.” Harry ngước nhìn dượng nó cảm thấy vừa muốn phát khùng vừa muốn bật cười. Dượng Vernon cứ mỗi hai mươi bốn giờ lại đổi ý một lần trong suốt bốn tuần lễ qua, hết chất đồ lên xe rồi lại dỡ đồ xuống theo nhịp thay đổi cảm xúc. Harry khoái nhất là lúc dượng Vernon, vì không dè Dudley đã bỏ vô va-li của nó mấy quả tạ sau lần mở gói đóng gói trước đó, nên đã cố nhấc cái va-li bỏ trở vô cốp để hành lí của chiếc xe hơi, và té chúi nhủi, phát ra những tiếng rống đau đớn kèm theo vô số lời chửi bới. “Theo mày,” Dượng Vernon nói, bây giờ dượng lại tiếp tục đi qua đi lại trong phòng khách, “thì chúng tao - Petunia, Dudley và ta - đang bị đe dọa tính mạng. Bởi… bởi…” “Một số kẻ trong ‘bọn tôi’, đúng.” Harry nói. “Này, tao không tin chuyện đó,” dượng Vernon lặp lại, và lại dừng bước trước mặt Harry. “Tao đã thao thức nửa đêm suy nghĩ lại toàn bộ chuyện này, và tao tin đó là một âm mưu chiếm đoạt ngôi nhà.” “Nhà?” Harry lặp lại. “Nhà nào?” “Nhà này! Giá nhà đang tăng vọt lên trong vùng này! Mày muốn lừa chúng tao ra khỏi nhà rồi mày sẽ trổ vài mánh khóe lừa gạt xong giấy tờ sẽ đứng tên mày và trước khi chúng tao kịp biết thì…” “Dượng mất trí rồi hả?” Harry hỏi. “Âm mưu chiếm căn nhà này? Không lẽ dượng ngu thiệt chứ không phải trông có vẻ ngu?” “Mày dám hỗn…!” Dì Petunia hét lên, nhưng một lần nữa dượng Vernon lại phất tay trấn dì xuống. Xúc phạm nho nhỏ về ngoại diện cá nhân dượng có vẻ chẳng ăn thua gì so với hiểm họa mà dượng vừa phát hiện. “Nếu dượng quên rồi thì con nhắc,” Harry nói, “con đã có nhà rồi, cha đỡ đầu đã để lại cho con một căn. Vậy thì con chiếm căn nhà này để làm gì? Để giữ tất cả những kỷ niệm hạnh phúc à?” Im lặng. Harry nghĩ bằng những lời lẽ này nó đã hơi thuyết phục được dượng nó. “Mày cho rằng,” dượng Vernon nói, lại tiếp tục đi qua đi lại, “cái tay Chúa tể Gì đó…” “… Voldemort,” Harry sốt ruột tiếp lời. “Và chúng ta đã nói đi nói lại về chuyện này hàng trăm lần rồi. Đây không phải là chuyện cho rằng, đó là sự thật. Thầy Dumbledore đã nói với dượng hồi năm ngoái, chú Kingsley và ông Weasley cũng…” Dượng Vernon gồng vai lên giận dữ, và Harry đoán là dượng đang cố gắng gạt đi những hồi tưởng về cuộc viếng thăm không báo trước của hai pháp sư người lớn hẳn hoi chỉ vài ngày sau khi Harry về đây nghỉ hè. Việc Kingsley Shacklebolt và Arthur Weasley xuất hiện ở ngưỡng cửa nhà Dursley đã trở thành một cơn chấn động khó chịu nhất đối với gia đình Dursley. Nhưng Harry phải thừa nhận rằng do ông Weasley từng làm tanh bành hết một nửa phòng khách nhà Dursley, nên không thể trông mong sự tái xuất hiện của ông sẽ khiến dượng Vernon hân hoan chào mừng. “Chú Kingsley và ông Weasley đều đã giải thích tất cả rồi,” Harry tiếp tục nói tấn tới không chút áy náy. “Một khi con tròn mười bảy tuổi, bùa bảo hộ cho con được bình yên sẽ hết hiệu lực, và khi đó cả con lẫn gia đình dì dượng đều bị nguy hiểm. Hội chắc chắn rằng Voldemort sẽ nhắm vào gia đình dì dượng, hoặc là tra tấn dì dượng để truy ra chỗ con ở, hoặc là hắn cho rằng bắt giữ gia đình dì dượng làm con tin sẽ khiến con phải đến mà cứu dì dượng.” Ánh mắt dượng Vernon và ánh mắt Harry gặp nhau. Harry chắc chắn rằng trong tích tắc đó cả hai cùng thắc mắc một việc. Sau đó dượng Vernon tiếp tục bước và Harry tiếp tục nói. “Gia đình dượng phải dọn đến nơi ẩn náu an toàn và Hội muốn giúp đỡ. Người ta đang dành cho gia đình dượng sự bảo vệ tốt nhất, nghiêm ngặt nhất đó.” Dượng Vernon không nói gì nhưng vẫn tiếp tục bước tới bước lui. Bên ngoài mặt trời đã xuống thấp tới mấy hàng giậu thủy lạp. Cái máy cắt cỏ của nhà bên cạnh lại chết máy. “Tao tưởng có một Bộ Pháp thuật chứ?” Dượng Vernon đột ngột hỏi. “Có chứ,” Harry nói, ngạc nhiên. “Vậy thì, tại sao họ không bảo vệ chúng ta? Theo tao thấy thì, những nạn nhân vô tội chúng tao, chẳng có lỗi gì ngoài việc nuôi dưỡng chứa chấp một kẻ bị truy nã thì đáng được chính quyền bảo vệ lắm chứ.” Harry bật cười; nó không thể nhịn được. Trông mong hy vọng vào chính quyền, thậm chí chính quyền trong một thế giới mà dượng miệt thị và không tin tưởng, thì thiệt đúng là tính đặc thù của dượng Vernon. “Dượng đã nghe những gì mà chú Kingsley và ông Weasley nói,” Harry đáp. “Họ cho là Bộ Pháp thuật đã bị địch xâm nhập rồi.” Dượng sải dài bước chân về phía lò sưởi rồi quay trở lại, thở mạnh đến nỗi bộ ria đen vĩ đại đùn bộ mặt vẫn còn tím đỏ vì tập trung tư tưởng nổi lên những nếp u nần. “Thôi được,” dượng nói, lại dừng bước trước mặt Harry một phen nữa. “Được rồi, cứ coi như vì lí lẽ của mày mà tao chấp nhận sự bảo vệ này đi. Nhưng tao vẫn không hiểu tại sao chúng tao lại không được tay Kingsley đó bảo vệ.” Harry cố gắng không đảo tròn con mắt, nhưng thật là khó. Vấn đề này cũng đã được giải thích cả nửa tá lần rồi. “Như con đã nói với dượng rồi,” Harry nói qua kẽ răng nghiến lại, “ông Kingsley đang bảo vệ thủ tướng Mug… Ý con nói ông thủ tướng của dượng ấy.” “Đúng vậy… Tay đó khá nhất!” Dượng Vernon nói, chỉ vào màn hình tivi vừa tắt. Gia đình Dursley đã nhìn ra Kingsley trong chương trình thời sự, đi bên cạnh ông thủ tướng Muggle khi ông này đến thăm một bệnh viện. Sự kiện này, cùng với việc Kingsley sành điệu về ăn mặc như một Muggle, chưa kể đến nét gì đó rất dễ làm vững dạ trong giọng nói trầm trầm từ tốn của ông đã khiến cho gia đình Dursley khoái Kingsley một cách mà họ chưa bao giờ có đối với bất kỳ phù thủy nào khác, mặc dù đúng là họ chưa bao giờ thấy Kingsley khi ông đeo bông tai. “Đành thôi, chú ấy có công tác rồi.” Harry nói. “Nhưng Hestia Jones và Dedalus Diggle làm công việc bảo vệ còn hơn cả giỏi nữa…” “Giá mà ta được coi lý lịch họ…” Dượng Vernon bắt đầu, nhưng Harry đã mất hết kiên nhẫn. Nó đứng lên, đi qua mặt dượng nó, bây giờ chính nó chỉ vào cái máy truyền hình. “Những tai nạn đó không phải là tai nạn - những vụ đụng độ, nổ tung hay trật đường rầy, và những vụ khác nữa xảy ra từ lần chúng ta xem tin tức trước. Người ta mất tích, đang chết và Voldemort - hắn ở đằng sau những vụ đó. Con đã nói đi nói lại với dượng rồi, hắn giết Muggle để giải trí. Ngay cả sương mù... cũng là do bọn Giám ngục gây ra, và nếu dượng không thể nhớ bọn chúng như thế nào, thì hãy hỏi con trai của dượng!” Hai tay Dudley giật nảy lên bụm lấy miệng. Thấy cha mẹ và Harry đang nhìn mình, Dudley từ từ hạ tay xuống và hỏi: “Chúng... còn nhiều nữa hả?” “Còn nhiều nữa?” Harry bật cười. “Ý mày nói nhiều hơn hai tên đã tấn công tụi mình à? Dĩ nhiên là còn nhiều nữa, hàng trăm, có thể bây giờ lên tới hàng ngàn, căn cứ vào nỗi sợ hãi và tuyệt vọng mà chúng mớm cho người ta.” “Được rồi, được rồi,” dượng Vernon quát tháo, “Mày đã nói rõ…” “Con hy vọng vậy,” Harry nói, “Bởi vì một khi con tròn mười bảy tuổi tất cả bọn chúng - bọn Tử Thần Thực Tử, bọn Giám ngục, có thể cả bọn Âm binh - tức là những xác chết bị bọn pháp sư Hắc ám sai khiến - sẽ có thể tìm dượng và chắc chắn sẽ tấn công dượng. Và nếu dượng nhớ lại lần trước dượng đã thử chạy trốn phù thủy như thế nào, con tin là dượng sẽ đồng ý là dượng cần sự giúp đỡ.” Trong một thoáng im lặng, vọng âm xa xa của tiếng bác Hagrid đạp sập cánh cửa gỗ dường như dội về từ nhiều năm trước. Dì Petunia đang nhìn dượng Vernon; Dudley thì chăm chú ngó Harry. Cuối cùng dượng Vernon thốt ra: “Nhưng còn công việc của tao, việc học của Dudley sẽ như thế nào? Tao không tin một lũ phù thủy rỗi hơi lại thèm bận tâm những điều đó…” “Dượng vẫn không hiểu sao?” Harry hét lên. “Chúng sẽ tra tấn và giết dượng như đã giết cha mẹ con!” “Ba.” Dudley la lớn. “Ba… con sẽ đi với mấy người Hội đó.” “Dudley,” Harry nói, “Lần đầu tiên trong đời mày, mày nói nghe được.” Harry biết nó thắng trận tranh cãi này rồi. Nếu Dudley đủ khiếp sợ để chấp nhận sự giúp đỡ của Hội, ba má nó sẽ theo nó thôi. Không đời nào có chuyện họ chịu xa cách Dudley-cưng của họ. Harry liếc nhìn cái đồng hồ quả lắc trên bệ lò sưởi. “Họ sẽ đến đây trong vòng năm phút nữa,” nó nói, và khi không ai trong gia đình Dursley nói gì đáp lại, nó bỏ ra khỏi phòng. Cái cảnh tượng chia tay - có lẽ vĩnh viễn - với dì dượng và thằng anh họ là điều mà nó có thể nhâm nhi một cách khoái tỉ, nhưng sao vẫn có chút bối rối nào đó trong không khí. Nói gì với nhau đây sau mười sáu năm trời ghét nhau chết bỏ? Trở về phòng mình, Harry thơ thẩn vờn cái ba lô rồi búng mấy hạt đậu cú qua chấn song cái chuồng của con Hedwig. Chúng rớt xuống sàn chuồng phát ra tiếng kêu lịch kịch chán ngắt đến nỗi con cú cũng không thèm ngó tới. “Tụi mình sắp đi rồi, lát nữa thôi,” Harry nói với con cú. “Lúc đó mày sẽ lại tha hồ bay.” Chuông cửa reo. Harry chần chừ, rồi ra khỏi phòng nó, xuống cầu thang. Để mặc cho Dedalus và Hestia đối phó với gia đình Dursley thì hơi quá. “Harry Potter!” Một giọng phấn khích ré lên ngay khi Harry mở cửa phòng khách; một phù thủy nhỏ thó đội nón chóp màu hoa cà đang cúi rạp mình chào nó. “Thật vinh hạnh, như xưa nay!” “Cám ơn anh, Dedalus!” Harry nói, nở một nụ cười nửa miệng ngượng ngập chào Hestia tóc đen. “Anh chị làm việc này thì hay quá… họ đều có mặt ở đây, dì, dượng, và anh họ tôi…” “Chào bà con của Harry Potter!” Dedalus vui vẻ nói khi trải dài bước chân đi vào phòng khách. Ông bà Dursley và cậu ấm lại tỏ ra không vui vẻ lắm khi được chào hỏi như vậy; Harry có phần tưởng đâu lại một phen đổi ý nữa. Dudley co lại gần má nó khi nhìn thấy hai vị phù thủy. “Tôi thấy quý vị đã chuẩn bị hành lý và sẵn sàng rồi. Xuất sắc! Như Harry Potter đã nói với quý vị, kế hoạch là một phương án đơn giản.” Dedalus vừa nói, vừa lấy từ trong áo vét ra một cái đồng hồ bỏ túi to tổ bố và nghiên cứu nó. “Chúng ta sẽ lên đường trước khi Harry đi. Do việc xài bùa phép trong nhà quý vị rất nguy hiểm - Harry vẫn chưa đủ tuổi trưởng thành, Bộ Pháp thuật có thể lấy cớ đó mà bắt cậu ấy - nên chúng ta sẽ đi bằng xe hơi, để coi, chừng mười dặm hay cỡ đó trước khi Độn thổ tới địa điểm an toàn mà chúng tôi đã chọn cho quý vị. Tôi chắc ông biết cách lái xe chứ?” Anh ta lịch sự hỏi dượng Vernon. “Biết…? Dĩ nhiên là tôi quá ư biết lái xe!” Dượng Vernon nói như phun phèo phèo. “Ông giỏi quá, thưa ông, quá ư giỏi. Bản thân tôi thì dứt khoát sẽ bị nghệt ra vì mấy cái nút với mấy cái cục đó,” Dedalus nói. Anh ta rõ ràng là đinh ninh mình đang tán dương dượng Vernon, trong khi dượng đang mất dần lòng tin vào kế hoạch theo từng lời Dedalus thốt ra. “Đến lái xe cũng không biết,” dượng lầm bầm trong miệng, bộ ria của dượng gợn sóng phẫn nộ, nhưng may là Dedalus và Hestia đều không có vẻ gì là nghe ra lời dượng. “Cậu, Harry,” Dedalus tiếp tục nói, “sẽ ở đây đợi vệ sĩ của cậu. Có chút đỉnh thay đổi trong sắp xếp…” “Anh nói sao?” Harry hỏi ngay. “Tôi tưởng thầy Mắt-Điên sẽ tới và đưa tôi đi bằng cách Độn thổ kèm theo chứ?” “Không thể làm cách đó.” Hestia nói gọn lỏn. “Mắt-Điên sẽ giải thích.” Cả gia đình Dursley, nãy giờ lắng nghe tất cả những lời đó với vẻ mặt nghệt ra chẳng hiểu gì, bỗng nhảy dựng lên vì một tiếng ré chói tai, “Nhanh lên.” Harry ngó quanh phòng trước khi nhận ra giọng nói đó phát ra từ cái đồng hồ bỏ túi của Dedalus. “Đúng vậy, chúng ta đang hành động theo một thời gian biểu rất khít khao.” Dedalus nói, gật đầu với cái đồng hồ rồi nhét nó trở vô trong áo vét. “Harry à, chúng ta đang cố gắng canh giờ sao cho lúc cậu rời căn nhà, cũng là lúc gia đình cậu Độn thổ; như vậy bùa phép chỉ mất linh khi tất cả đều tới được nơi an toàn.” Anh ta quay qua gia đình Dursley, “Sao, chúng ta đã khăn gói sẵn sàng ra đi chứ?” Không ai trả lời anh tiếng nào. Dượng Vernon vẫn đang kinh hoàng trố mắt ngó cái cục cộm lên ở túi áo vét Dedalus. “Có lẽ chúng ta nên chờ trong hành lang, anh Dedalus à.” Hestia thì thầm. Hiển nhiên cô cảm thấy không được tế nhị cho lắm nếu hai vệ sĩ có mặt trong phòng vào lúc Harry và gia đình Dursley chia tay trong trìu mến, và không chừng cả nước mắt nữa. “Không cần đâu,” Harry lúng búng nói, nhưng dượng Vernon đã khiến cho mọi bày tỏ dài dòng trở nên không cần thiết bằng cách nói to. “Thôi, vậy là chia tay hén, mậy!” Dượng đung đưa cánh tay lên toan định bắt tay Harry, nhưng sau rốt dường như không thể chịu đựng nổi việc đó, dượng chỉ nắm bàn tay lại và bắt đầu đung đưa tới lui cánh tay giống như một cái máy nhịp. “Sẵn sàng chưa, Duddy?” Dì Petunia hỏi, lui cui kiểm tra móc khóa cái túi xách của dì để tránh nhìn Harry. Dudley không trả lời mẹ mà cứ đứng ỳ ra, miệng hé mở, khiến Harry liên tưởng một chút đến người khổng lồ Grawp. “Vậy đi thôi,” dượng Vernon nói. Dượng hầu như đã đi tới cửa phòng khách thì Dudley bỗng bệu bạo nói: “Con chả hiểu.” “Con không hiểu cái gì hở cưng?” Dì Petunia ngước lên nhìn cậu quý tử. Dudley giơ bàn tay tựa như khúc dồi tổ chảng chỉ vào Harry. “Sao nó không đi với mình?” Dượng Vernon và dì Petunia sững sờ đứng ngó chằm chằm Dudley, như thể nó vừa bày tỏ nguyện vọng trở thành diễn viên múa ba lê. “Cái gì?” Dượng Vernon la lớn. “Tại sao nó không đi cùng?” Dudley hỏi. “À thì nó… không muốn,” dượng Vernon nói, quay lại trừng mắt nhìn Harry và nói thêm, “Mày đâu có muốn, phải không mậy?” “Không một chút nào hết.” “Thấy chưa?” Dượng Vernon nói với Dudley, “Bây giờ chúng ta đi thôi!” Dượng dõng dạc đi ra khỏi phòng. Mọi người nghe tiếng cánh cửa trước khi mở ra, nhưng Dudley không nhúc nhích và dì Petunia cũng dừng lại sau mấy bước lừng khừng. “Gì nữa hả?” Dượng Vernon tái xuất hiện ở ngưỡng cửa, quát lên. Dường như Dudley đang đấu tranh dữ dội với những khái niệm quá khó phát biểu thành lời. Sau nhiều đợt đấu tranh nội tâm có vẻ đau đớn, nó nói, “Nhưng nó sẽ đi đâu?” Dì Petunia và dượng Vernon nhìn nhau. Rõ ràng là Dudley đang làm họ hoảng sợ. Hestia Jones bèn phá vỡ sự im lặng. “Nhưng… chắc chắn ông biết cháu trai mình sẽ đi đâu chứ?” Cô hỏi mà có vẻ lúng túng. “Đương nhiên là chúng tôi biết,” dượng Vernon nói. “Nó sẽ đi theo ai đó trong lũ tụi bây đúng không? Đúng đó, Dudley à, chúng ta hãy lên xe, con nghe ông kia nói rồi đó, chúng ta phải nhanh lên.” Một lần nữa, dượng Vernon lại dõng dạc đi gần tới cửa trước nhưng Dudley vẫn không đi theo. “Theo ai đó trong lũ tụi ta á?” Hestia trông như nổi khùng, Harry đã từng gặp thái độ này trước đây. Nhiều phù thủy và pháp sư dường như kinh ngạc khi những họ hàng gần gũi nhất của nó chả tỏ ra quan tâm chút nào tới Harry Potter lừng danh. “Tốt thôi.” Harry trấn an Hestia. “Thiệt tình không hề gì.” “Chẳng lẽ những người này không nhận thức được những gì cậu đã trải qua sao? Hiểm họa mà cậu đang đối đầu? Vị trí có một không hai mà cậu đang nắm giữ ở trung tâm phong trào chống Voldemort?” “Ơ… không, họ không biết.” Harry nói, “Thật ra, họ coi tôi là đồ hao cơm tốn chỗ mà thôi, nhưng tôi quen…” “Tao đâu có coi mày là đồ hao cơm tốn chỗ.” Nếu Harry không tận mắt thấy môi của Dudley cử động thì nó đã không thể nào tin nổi. Vì vậy nó trố mắt nhìn Dudley hồi lâu mới chấp nhận cái điều ắt là thằng anh họ của nó là người vừa phát ngôn; nhờ một chứng cứ, Dudley đỏ cả mặt. Chính Harry cũng lúng túng và ngạc nhiên. “Ờ… vậy… cám ơn nghe, Dudley.” Một lần nữa, Dudley dường như vật lộn với những ý tưởng khó khăn quá sức diễn tả trước khi lúng búng nói: “Mày cứu mạng tao.” “Không hẳn vậy.” Harry nói, “Hồn mày mới là cái mà bọn Giám ngục muốn hớp…” Nó tò mò nhìn thằng anh họ. Hai đứa nó thực tế là đã không hề có tiếp xúc nào trong suốt mùa hè này hay mùa hè trước, vì thời gian Harry trở về ngôi nhà ở đường Privet Drive quá ngắn và nó cứ ở lỳ trong phòng riêng. Nhưng bây giờ Harry hiểu ra có lẽ tách trà mà nó dẫm phải hồi sáng nay, không phải là cái bẫy ngố bẫy nghếch gì cả. Mặc dù hơi bị xúc động, nó vẫn cảm thấy nhẹ người khi Dudley tỏ ra đã cạn kiệt khả năng bày tỏ tình cảm của mình. Sau khi há miệng ra một hay hai lần nữa, Dudley rút vào nỗi câm lặng đỏ tía mặt mày. Dì Petunia bỗng òa lên khóc. Hestia nhìn dì hài lòng nhưng cái nhìn đó chuyển ngay thành ánh mắt giận dữ khi dì Petunia lao tới ôm chầm Dudley chứ không phải Harry. “Dễ… dễ thương quá, Dudders…” Dì khóc thổn thức trên tấm ngực mập ú của con trai. “Một chàng trai dễ thương hết sức… biết nói cám ơn…” “Nhưng nó đã nói cám ơn gì đâu!” Hestia tức giận nói. “Nó chỉ mới nói nó không coi Harry như đồ hao cơm tốn chỗ!” “Đành vậy nhưng với Dudley thì điều đó tương đương với ‘tao thương mày’. Harry nói, bị xâu xé giữa nỗi bực mình và cơn tức cười khi dì Petunia tiếp tục ấp iu Dudley như thể nó vừa mới cứu được Harry ra khỏi một tòa nhà đang cháy. “Chúng ta có đi hay không hả?” Dượng Vernon gầm lên, tái xuất hiện ở cửa phòng khách. “Tôi cứ tưởng thời gian biểu của chúng ta khít khao lắm chớ!” “Đúng… đúng, khít khao lắm.” Dedalus Diggle nói. Nãy giờ anh ta coi cái cảnh chia tay này với vẻ mặt ngơ ngác, và bây giờ anh có vẻ tỉnh táo ra. “Chúng tôi thật tình phải đi ngay, Harry à…” Anh bước nhẹ nhàng về phía Harry, vặn vẹo bàn tay Harry bằng cả hai tay của anh ta. “… Chúc may mắn. Tôi hy vọng chúng ta còn gặp lại nhau. Niềm hy vọng của thế giới pháp thuật đang đặt trên đôi vai của cậu.” “Ôi,” Harry nói, “Được. Cám ơn anh.” “Tạm biệt, Harry.” Hestia nói, cũng siết chặt bàn tay Harry. “Chúng tôi luôn nghĩ đến cậu.” “Tôi hy vọng mọi việc sẽ tốt đẹp.” Harry nói, mắt liếc về phía dì Petunia và Dudley. “Ôi, tôi chắc chắn rằng sẽ thân thiết cả thôi mà,” Diggle nói nhỏ, vẫy vẫy cái nón khi anh ta ra khỏi phòng. Hestia bước theo anh. Dudley nhẹ nhàng tự giải thoát mình ra khỏi vòng tay của mẹ và đi về phía Harry. Harry phải dằn xuống một cơn khoái hù dọa Dudley bằng pháp thuật. Dudley đưa ra bàn tay to tướng hồng hồng của nó. “Khỉ thiệt, Dudley à,” Harry nói át tiếng nức nở vừa tái trỗi dậy của dì Petunia. “Bọn Giám ngục thổi một nhân cách khác vô người mày rồi hả?” “Hổng biết!” Dudley ú ớ. “Hẹn gặp lại, Harry.” “Ừ…” Harry nói, cầm bàn tay của Dudley mà lắc. “Có thể. Bảo trọng nghe, D bự!” Dudley gần như mỉm cười, rồi ì ạch đi ra khỏi phòng. Harry nghe tiếng bước chân nặng nề của Dudley trên đường trải sỏi dành cho xe hơi, và rồi cánh cửa xe đóng lại. Dì Petunia nãy giờ úp mặt trong chiếc khăn tay, nghe tiếng cửa xe đóng bèn ngước nhìn quanh. Dì không có vẻ trông mong còn lại một mình với Harry. Vội vàng nhét chiếc khăn tay ướt đẫm vào trong túi áo, dì nói, “Thôi… tạm biệt,” và bước về phía cánh cửa mà không hề nhìn tới Harry. “Tạm biệt,” Harry nói. Dì dừng bước và ngoái nhìn lại. Trong một thoáng cái cảm giác hết sức kỳ cục là dì muốn nói với nó điều gì đó: ánh mắt của dì rưng rưng, thảng thốt, kỳ cục, và dì dường như chênh vênh bên bờ sắp thốt ra lời; nhưng rồi chỉ khẽ gật đầu, dì vội vã rời khỏi căn phòng đi theo chồng. 4 BẢY POTTER H arry chạy ngược lên cầu thang trở về phòng ngủ, đến bên cửa sổ vừa đúng lúc chiếc xe hơi của gia đình Dursley lượn ra khỏi ngõ tiến ra đường. Thấy nhô lên cái nón chóp của Dedalus giữa hai bên là dì Petunia và Dudley ở băng ghế sau. Chiếc xe hơi quẹo phải ở cuối con đường Privet Drive, cửa sổ xe rực lên màu đỏ tía trong chốc lát vì lúc này mặt trời đang lặn, rồi chạy đi mất hút. Harry nhặt nhạnh cái lồng con cú Hedwig, cây chổi Tia Chớp, và cái ba lô, đưa mắt nhìn lướt qua căn phòng ngăn nắp, sạch sẽ một cách khác thường của mình, rồi lóng ngóng đi xuống cầu thang vô hành lang, ở đó nó để tạm cái lồng cú, cây chổi, và ba lô ở cạnh chân cầu thang. Ánh sáng đang tắt nhanh, hành lang nhập nhòa trong bóng chiều. Nó có cảm giác kì quái nhất khi đứng đây, trong im vắng và biết rằng sắp rời khỏi ngôi nhà này vĩnh viễn. Hồi lâu rồi, mỗi khi gia đình Dursley đi đâu đó vui chơi bỏ nó ở lại nhà một mình, nó coi những giờ phút cô độc ấy là một niềm vui hiếm hoi. Nó sẽ chạy ào lên lầu để vọc cái máy tính của Dudley, hay mở máy truyền hình và bấm qua các kênh tùy thích, chỉ dừng lại để mở cửa tủ lạnh chôm cái gì đó ngon lành. Nhớ lại những lúc đó, nó có một cảm giác trống rỗng kỳ cục; giống như nhớ về một thằng em mà mình đã mất. “Mày có muốn ngó qua chỗ này lần cuối không?” Nó hỏi Hedwig, con cú vẫn hờn dỗi vùi đầu dưới cánh. “Chúng mình sẽ không bao giờ ở đây nữa. Mày không muốn nhớ lại hết những lúc vui vẻ sao? Ý tao là, thử nhìn tấm thảm chùi chân ở ngạch cửa coi. Kỷ niệm gì… Dudley đã mửa ra đó sau khi tao cứu nó khỏi tay bọn Giám ngục… Hóa ra nó cũng biết ơn, mày có tin nổi không?… Và mùa hè năm ngoái, thầy Dumbledore đã bước qua cánh cửa trước…” Dòng suy tư của Harry bị rối tung mất một lúc và Hedwig không làm gì giúp nó tập trung lại được, con cú cứ tiếp tục ngồi lì với cái đầu vùi dưới cánh. Harry quay lưng lại phía cánh cửa trước. “Và, Hedwig à, dưới này…” Harry mở một cánh cửa dưới cầu thang, “là chỗ tao ngủ hồi xưa! Hồi đó mày chưa biết tao - Quỷ ơi, nó nhỏ xíu, tao đã quên béng…” Harry nhìn khắp mớ giầy và dù chất đống, nhớ lại hồi xưa nó thường thức dậy mỗi buổi sáng, ngước nhìn lên từ dưới gầm cầu thang, nơi ít khi nào mà không được trang trí bằng một hay hai con nhện. Đó là những ngày nó còn chưa biết gì về lai lịch thực sự của nó, những ngày trước khi nó biết cha mẹ nó đã chết như thế nào hay tại sao những chuyện lạ lùng lại thường xảy ra quanh nó. Nhưng Harry cũng nhớ cả những giấc mơ đã khiến nó run sợ, thậm chí tới tận bây giờ: những giấc mơ lộn xộn kéo theo những tia chớp nhá xanh lè, và có lần - dượng Vernon suýt tông xe khi Harry kể lại - là một chiếc xe gắn máy biết bay... Một tiếng gầm điếc tai đột ngột vang lên từ đâu đó rất gần, Harry giật nảy người đứng thẳng lên và đỉnh đầu nó đụng phải khung cửa thấp một cái bốp. Chỉ khựng lại để xài đỡ mấy tiếng chửi thề chọn lọc nhất từ dượng Vernon, nó khập khễnh đi vào nhà bếp, tay ôm đầu và mắt nhìn chăm chú qua cửa sổ ra vườn sau nhà. Bóng tối dường như xao động, chính không khí cũng rung rinh. Thế rồi, những bóng người hiện ra, từng người một, sau khi giải bùa Ảo Ảnh. Nổi bật trên toàn cảnh là bác Hagrid, đội nón cối đeo kiếng lồi và đang cỡi trên một chiếc xe gắn máy khổng lồ có gắn một cái thùng xe khách đen thùi. Quanh bác những người khác đang nhảy khỏi chổi, trừ hai người trèo xuống từ hai bộ xương con ngựa có cánh đen hù. Vặn cánh cửa để mở ra, Harry nhào vào giữa đám người đó. Tiếng chào đồng thanh vang lên khi Hermione quăng hai tay ra ôm chầm lấy nó, Ron vỗ lên lưng nó và bác Hagrid nói, “Ổn hén, Harry, Xẵn xàng dông chưa?” “Chắc cú!” Harry nói, tươi cười với mọi người. “Nhưng cháu đâu có dè nhiều người đến như vầy!” “Kế hoạch có thay đổi,” Mắt-Điên làu bàu, thầy đang cầm hai bao gì phình căng bự chảng, và con mắt pháp thuật của thầy đảo từ bầu trời đang tối dần đến ngôi nhà rồi khu vườn với độ nhanh chóng mặt. “Bảo mật trước đã rồi giải thích mọi chuyện cho con sau.” Harry dẫn mọi người trở vào bếp, ở đó họ líu lo trò chuyện và cười đùa, an toàn trên mấy cái ghế, ngồi trên cả mặt bàn nơi dì Petunia bày đồ ăn khi nấu nướng, hoặc dựa vào những dụng cụ nhà bếp không một tì vết của dì; Ron, dài sọc và cao nghệu; Hermione mái tóc dày được thắt lại thành một bím dài; anh Fred và George cười nhe răng giống nhau như đúc; anh Bill tóc dài thẹo đầy mình; ông Weasley, gương mặt hiền lành, đầu hói, cặp mắt kiếng hơi bị vẹo; thầy Mắt-Điên, một giò, te tua vì chiến trận, con mắt pháp thuật màu xanh sáng rực kêu véo véo trong hốc mắt; cô Tonks, tóc ngắn, chơi màu ưa thích nhất là hồng tươi; thầy Lupin, đầu bạc hơn, mặt nhiều nếp nhăn hơn; chị Fleur, thon thả và xinh đẹp, với mái tóc dài vàng óng ánh; chú Kingsley, đầu hói, vai rộng; bác Hagrid, tóc râu bù xù hoang dã, đứng khòm khòm lưng để tránh đụng đầu vô trần nhà; và lão Mundungus Fletcher, nhỏ, dơ, lóm thóm, mắt chó săn ti hí cụp xuống và tóc dơ như nùi giẻ chùi chân. Trái tim Harry dường như nở lớn và chảy tràn cảm xúc trước cảnh này: nó cảm thấy yêu mến cực kỳ tất cả những người này, kể cả Mundungus, kẻ mà lần gặp trước nó đã toan bóp cổ. “Chú Kingsley, cháu tưởng chú đang bảo vệ ông thủ tướng Muggle chứ?” Nó nói vọng qua căn phòng. “Ổng có thể sống mà không cần đến chú trong một đêm,” chú Kingsley nói. “Cháu quan trọng hơn.” “Harry đoán coi gì đây?” Cô Tonks nói từ chỗ ngồi ngất nghểu trên đầu cái máy giặt, và cô phe phẩy bàn tay trái về phía Harry; trên đó có một chiếc nhẫn lấp lánh. “Cô cưới rồi?” Harry hét lên nhìn từ cô Tonks sang thầy Lupin. “Cô thầy xin lỗi vì đã không mời con dự đám cưới, Harry à, tiệc nhỏ thôi.” “Tuyệt vời quá, chúc…” “Được rồi! Được rồi! Chúng ta sẽ có thì giờ cho một bữa tiệc thân mật bù lại sau này,” thầy Moody gầm lên át tiếng nhao nhao, và nhà bếp trở nên im phắc. Thầy thả mấy cái bao xuống chân và quay lại Harry. “Như Dedalus có lẽ đã nói với con, chúng ta phải bỏ kế hoạch A. Pius Thicknesse đã bị ếm, làm chúng ta rắc rối to. Hắn làm sao khiến căn nhà này nếu nối với hệ thống Floo, đặt một Khóa Cảng ở đây, hoặc Độn thổ vô hay ra đều là vi phạm bắt bỏ tù. Tất cả đều được làm dưới danh nghĩa để bảo vệ con, để ngăn Kẻ-mà-ai cũng-biết-là-ai-đấy tấn công con. Hoàn toàn nhảm nhí, bởi vì bùa bảo vệ của mẹ con đã làm được việc đó rồi. Việc mà hắn đã làm là ngăn không cho con ra khỏi nơi đây một cách an toàn.” “Vấn đề thứ hai: con còn chưa tới tuổi trưởng thành, nghĩa là con vẫn mang Dấu Hiện.” “Con đâu có…” “Dấu Hiện! Dấu Hiện ấy!” Mắt-Điên sốt ruột nói, “là bùa dò la hoạt động quanh trẻ em dưới 17 tuổi, đó là cách mà Bộ Pháp thuật phát hiện ra những vụ vi phạm pháp thuật vị thành niên. Nếu con hay bất cứ ai quanh con, làm bùa phép đem con ra khỏi nơi đây, Thicknesse sẽ biết chuyện đó, và bọn Tử Thần Thực Tử cũng sẽ biết.” “Chúng ta không thể chờ đến khi Dấu Hiện hết linh, bởi vì đúng thời điểm con đủ mười bảy tuổi con sẽ mất hết sự bảo vệ mà mẹ con đã phù hộ con. Ngắn gọn lại, Pius Thicknesse nghĩ là hắn đã cho con vô rọ gọn gàng ngon ơ.” Harry không thể không đồng ý với tay Thicknesse nào đó. “Vậy chúng ta sẽ làm gì đây?” “Chúng ta sẽ dùng phương tiện di chuyển duy nhất còn chừa lại cho chúng ta, phương tiện duy nhất mà bùa Dấu Hiện không dò ra được, bởi vì chúng ta không cần ếm bùa lên mấy thứ đó: chổi, vong mã, và xe gắn máy của bác Hagrid.” Harry có thể thấy những sơ hở trong kế hoạch này; tuy nhiên nó kềm lưỡi lại để thầy Mắt-Điên có cơ hội diễn thuyết. “Bây giờ bùa của mẹ con chỉ có thể hết linh với hai điều kiện: khi con đến tuổi trưởng thành, hoặc…” thầy Moody khoát tay chỉ quanh cái bếp sạch bong như mới gỡ nhãn, “… khi con không còn coi nơi đây là nhà của mình nữa. Đêm nay con và dì dượng con sẽ đi những ngả đường khác nhau, hiểu cho rốt ráo thì con và họ sẽ không bao giờ chung sống với nhau nữa, đúng không?” Harry gật đầu. “Vậy là lần này khi con ra đi, sẽ không có trở lại, và bùa bảo vệ con sẽ hết linh ngay khi con ra khỏi vùng bùa ếm. Chúng ta đang chọn cách giải bùa sớm, bởi vì ngược lại có nghĩa là ngồi chờ Kẻ mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đến tóm con ngay thời điểm con tròn mười bảy tuổi. “Có một lợi thế về phía chúng ta là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy không biết chúng ta di chuyển đêm nay. Chúng ta đã để lọt kế hoạch giả cho Bộ Pháp thuật: họ tưởng con đến ngày ba mươi mốt mới ra đi. Nhưng mà, chúng ta đang đương đầu với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là ai-đấy, vì vậy chúng ta không thể ỷ y hắn nhầm ngày; nhất định là hắn có vài ba Tử Thần Thực Tử tuần tra vùng trời của toàn bộ khu vực này, để phòng xa. Do vậy chúng ta đã bố trí bảo vệ hết cỡ cho một tá căn nhà khác nhau. Những nơi đó con đều có thể đến ẩn náu được, tất cả đều có liên hệ với Hội: nhà thầy, chỗ của anh Kingsley, nhà dì Muriel của chị Molly… Con nắm được vấn đề chứ?” “Dạ,” Harry nói không hoàn toàn chân thực, bởi vì nó vẫn thấy có một lỗ hở trong kế hoạch. “Con sẽ đến nhà cha mẹ cô Tonks. Một khi đã ở trong vòng linh nghiệm của bùa phép bảo vệ mà chúng ta ếm lên căn nhà, con sẽ có thể dùng Khóa Cảng để đến Hang Sóc. Có thắc mắc gì không?” “Ơ… có.” Harry nói, “Có thể ban đầu chúng sẽ không biết con đang tới căn nào trong mười hai căn nhà an toàn đó, nhưng có bị quá lộ liễu không khi mà…” nó đếm đầu người thiệt nhanh, “mười bốn người chúng ta cùng bay về phía nhà ba má cô Tonks?” “À!” Thầy Moody nói. “Thầy quên nói tới một điểm quan trọng. Mười bốn người chúng ta sẽ không cùng bay đến nhà cha mẹ cô Tonks. Đêm nay sẽ có bảy Potter di chuyển trên bầu trời, mỗi Potter có một người đi kèm, mỗi cặp hướng tới một ngôi nhà khác nhau.” Lúc này thầy Moody rút từ trong áo choàng ra một cái hũ đựng thứ gì đó giống như sình. Thầy không cần phải nói thêm một lời nào nữa; Harry hiểu ngay tức thì phần còn lại của kế hoạch. “Không!” Nó la lớn, giọng nó vang rền khắp nhà bếp. “Không đời nào!” “Mình đã nói thế nào bồ cũng sẽ phản ứng như vậy mà,” Hermione nói với thoáng đắc ý. “Nếu thầy nghĩ là con sẽ chấp nhận cho sáu người liều mạng vì con...!” “… vì đây là cơ hội đầu tiên cho tất cả tụi này,” Ron nói. “Việc này khác, giả làm mình…” “Thôi, Harry à, đâu có ai trong bọn mình thực sự khoái làm vậy đâu.” Fred nói một cách nghiêm chỉnh. “Thử tưởng tượng nếu có gì đó trục trặc và tụi này kẹt luôn trong bộ vó một thằng cà khêu lốm đốm.” Harry không cười. “Nếu con không hợp tác thì mọi người cũng đâu có làm được. Mọi người cần con cho mấy sợi tóc mà.” “Ờ, đó là chỗ kế hoạch bị bể,” George nói. “Hiển nhiên là tụi này đừng hòng xin tí tóc của em nếu em không chịu.” “Ừ há, mười ba người chọi lại một thằng không được xài bùa phép; bó tay!” Fred nói. “Khôi hài.” Harry nói. “Hài hước thiệt.” “Nếu đến nước phải dùng sức mạnh thì buộc phải dùng thôi,” thầy Moody gầm ghè, con mắt pháp thuật của thầy lúc này đang khẽ run run trong hốc mắt khi thầy ngó Harry chằm chằm. “Mọi người ở đây đều trưởng thành, Potter à, và tất cả đều đã chuẩn bị để đối phó với hiểm nguy.” Lão Mundungus rùng mình nhăn mặt, con mắt pháp thuật chạy tọt sang một bên đầu của thầy Moody để liếc chừng lão ta. “Chúng ta đừng tranh cãi nữa. Thời giờ sắp hết rồi. Thầy cần một chút tóc của con, nghe không, đưa ngay!” “Nhưng chuyện này điên quá, khỏi cần…” “Khỏi cần hả?” Thầy Moody quát. “Khi mà Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là ai-đấy đang hoành hành và một nửa Bộ Pháp thuật thuộc về phe hắn? Potter, nếu chúng ta may mắn thì hắn sẽ táp cái mồi giả và sau đó sẽ phục kích con vào ngày ba mươi mốt, nhưng hắn có điên mới không cho một hai tay Tử Thần Thực Tử canh chừng từ bây giờ, nếu thầy là hắn thì thầy sẽ làm vậy. Chúng có lẽ không thể tấn công con hay căn nhà này khi bùa ếm của mẹ con còn linh nghiệm; nhưng bùa sắp sửa hết linh và họ biết vị trí hớ hênh của chỗ này. Chúng ta chỉ còn có cách là dùng mồi nhử. Ngay là Kẻ-mà-ai-cũng biết-là-ai-đấy cũng không thể tự phân thân thành bảy.” Harry bắt gặp ánh mắt của Hermione nhưng nó ngó đi chỗ khác ngay. “Vậy đó, Potter… một nhúm tóc của con, cho thầy xin.” Harry liếc Ron, Ron nhăn mặt ra cái vẻ thì cứ làm đi. “Đưa ngay!” Thầy Moody quát. Trước tất cả những con mắt đổ dồn vào nó, Harry đưa tay lên đầu, nắm một nhúm tóc, và giật ra. “Tốt,” thầy Moody nói, đi cà nhắc tới trước trong khi giật cái nút của hũ đựng thuốc ra. “Bỏ vô đây, làm ơn.” Harry thả nhúm tóc vô trong chất lỏng giống như sình đó. Ngay khi nhúm tóc vừa chạm vào bề mặt chất lỏng, thuốc bắt đầu sủi bọt và bốc khói, rồi ngay tức thì, nó chuyển sang một màu vàng rực trong veo. “Ái chà, coi bộ bồ nhấm ngon hơn Crabbe và Goyle, Harry à.” Hermione nói, trước khi nhìn thấy đôi chân mày của Ron nhướn lên. Cô nàng hơi đỏ mặt, nói, “Ôi, bồ hiểu ý mình mà - thuốc biến thành Goyle có vị như quỷ ấy.” “Được rồi, các Potter giả làm ơn sắp hàng ở đây.” Ron, Hermione, Fred, George, và Fleur đứng sắp hàng trước cái chậu sáng choang của dì Petunia. “Chúng ta cần thêm một người nữa,” Thầy Lupin nói. “Đây,” bác Hagrid hô lên cộc lốc, và tay bác túm gáy của lão Mundungus nhấc bổng lên rồi thả lão xuống bên cạnh Fleur, cô nàng chun mũi nhọn hoắt và nhích ra để đứng giữa Fred và George. “Tôi là một chiến sĩ, tôi muốn là người bảo vệ hơn.” Mundungus nói. “Câm miệng,” thầy Moody gầm gừ. “Như tôi đã nói với ông rồi, đồ trùn không xương sống ạ, bọn Tử Thần Thực Tử mà chúng ta đụng phải sẽ nhắm bắt Potter, chứ không giết nó. Cụ Dumbledore luôn nói là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy muốn đích thân kết liễu mạng Potter. Chính những người bảo vệ mới đáng lo nhất, bọn Tử Thần Thực Tử sẽ muốn giết họ.” Lão Mundungus có vẻ không yên tâm cho lắm, nhưng thầy Moody đã lấy trong túi ra sáu cái chén to cỡ nửa cái trứng gà, phát ra trước khi rót vô mỗi chén một tí thuốc Đa Quả Dịch. “Nào, tất cả…” Ron, Hermione, Fred, George, Fleur, và Mundungus uống. Tất cả há miệng ra nhăn mặt lại khi thuốc chạy tới cổ họng họ. Ngay lập tức, nét mặt họ bắt đầu phồng lên, méo mó như sáp nóng. Hermione và Mundungus cao vọt lên; Ron, Fred và George thì rút thấp lại, tóc tụi nó sậm đen dần, tóc của Hermione và Fleur thì như đang mọc ngược vô hộp sọ. Thầy Moody, khá lãnh đạm, đang nới lỏng nút thắt của mấy cái túi bự chảng lúc nãy thầy mang đến. Khi đứng thẳng trở lại thầy thấy sáu Harry Potter đang đứng há hốc miệng thở hổn hển. Fred và George quay sang nhìn nhau và cùng nói: “Chu choa - tụi mình giống y chang há!” “Tao không biết, nhưng tao tin tao vẫn đẹp trai hơn,” Fred nói, vừa ngắm nghía diện mạo mình phản chiếu trên cái ấm đun nước. “Ố là la,” Fleur nói, vừa tự ngắm bóng mình trong cửa sổ lò vi ba, “anh Bill đừng nhìn em… em xí lắm.” “Ai thấy quần áo hơi bị chật, tôi có đồ lớn hơn đây,” thầy Moddy nói, chỉ vào cái bao thứ nhất, “và ngược lại, đừng quên đeo kiếng. Có sáu cặp kiếng trong túi bên. Và khi nào mọi người thay đồ xong thì nhận hành lí trong cái bao kia.” Harry thật nghĩ đây là chuyện quái đản nhất mà nó từng thấy, ấy là nó đã từng thấy một số chuyện cực kỳ quái đản rồi. Nó ngó sáu cái bóng vía của mình đang xúm lại lục lọi cái bao, lôi ra những bộ đồ, đeo kiếng lên, nhét giấu đồ đạc riêng của họ đi. Nó cảm thấy muốn yêu cầu họ tôn trọng sự riêng tư kín đáo của nó hơn một chút, khi tất cả sáu Harry giả bắt đầu cởi quần áo ra tỉnh bơ, hiển nhiên nếu là thân thể của chính họ thì họ đâu có thoải mái phô bày ra như đối với thân thể nó. “Mình biết là Ginny xạo về vết xăm đó mà,” Ron nói khi ngó xuống bộ ngực trần của nó. “Harry, mắt bồ cận khủng khiếp quá,” Hermione nói khi cô bé đeo kiếng lên. Khi thay đồ xong, mấy Harry giả lấy trong bao thứ hai những chiếc ba lô và lồng cú, trong mỗi lồng có một con cú nhồi bông trắng như tuyết. “Tốt!” thầy Moody nói khi cuối cùng bảy Harry đã ăn mặc xong, mang kính, đeo ba lô đứng trước mặt thầy. “Từng cặp được chia như sau: Mundungus sẽ đi với tôi, bằng chổi…” “Sao tôi lại đi với ông?” Tên Harry đứng gần cửa làu bàu. “Bởi vì ông là người cần canh chừng,” thầy Moody gầm gừ, và không sai chút nào, con mắt pháp thuật của thầy không hề rời khỏi lão Mundungus khi nói tiếp, “Arthur và Fred…” “Cháu là George,” anh chàng sinh đôi mà thầy Moody chỉ vào nói. “Cả khi tụi cháu biến thành Harry rồi mà chú cũng chẳng phân biệt được sao?” “Xin lỗi, George…” “Cháu chỉ bắt giò chú chơi thôi, thực ra cháu là Fred…” “Tào lao đủ rồi!” thầy Moody quát. “Đứa kia, dù cháu là George hay Fred hay ai đi nữa, cháu đi với chú Remus. Cô Delacour…” “Cháu sẽ đưa Fleur đi bằng vong mã,” anh Bill nói, “cô ấy không thích cưỡi chổi.” Fleur bước ra đứng cạnh anh Bill, lườm anh bằng ánh mắt tình tứ quỵ lụy đến nỗi Harry hy vọng với tất cả tấm lòng là cái nhìn đó sẽ không bao giờ tái xuất hiện trên mặt nó. “Cô Granger sẽ đi với chú Kingsley, cũng bằng vong mã…” Hermione tỏ vẻ yên tâm khi đáp lại nụ cười của chú Kingsley, Harry cũng biết Hermione thiếu tự tin khi cưỡi chổi. “Vậy là còn lại em đi với cô, Ron nhé!” Cô Tonks rạng rỡ nói, hất ngã một cây kiểng con khi đưa tay vẫy nó. Ron không tỏ ra hài lòng được như Hermione. “Còn con đi với bác, Harry à. Được hông?” Bác Hagrid nói, lộ vẻ hơi căng thẳng. “Chúng ta sẽ cưỡi xe gắn máy, chổi với vong mã không chở nổi bác, hiểu hén. Nhưng bác mà ngồi lên yên rồi thì sẽ không còn chỗ cho con nữa, cho nên con sẽ ngồi bên thùng xe bên hông.” “Tuyệt vời!” Harry nói không thành thực cho lắm. “Chúng ta nghĩ bọn Tử Thần Thực Tử sẽ tưởng con cỡi chổi,” thầy Moody nói, dường như cố đoán cảm xúc của Harry. “Snape có khối thì giờ để mà kể cho bọn chúng biết mọi điều về con mà trước đây hắn chưa nói tới, vì vậy nếu chúng ta đụng phải bọn Tử Thần Thực Tử thì ta cầm chắc chúng sẽ đuổi theo Harry Potter nào tỏ ra cỡi chổi thành thạo. Vậy là ổn,” thầy nói tiếp, cột cái bao đựng quần áo của Potter giả và dẫn mọi người đi về phía cửa. “Tôi cho ba phút chuẩn bị trước khi chúng ta lên đường. Không cần phải khóa cửa sau, khi bọn Tử Thần Thực Tử đến tìm, cửa nẻo sẽ không ngăn được chúng. Đi thôi…” Harry vội vã chạy vô hành lang quơ cái ba lô của nó, cây chổi Tia Chớp và cái lồng Hedwig rồi đi theo cả đám ra khu vườn sau nhà tối thui. Ở mọi phía chổi vọt vào tay người; Hermione đã được chú Kingsley giúp trèo lên một con vong mã đen hù cao lớn, anh Bill giúp chị Fleur trèo lên con kia. Bác Hagrid đã đứng bên cạnh chiếc xe gắn máy, kính lồi đã đeo sẵn. “Phải chiếc này không? Chiếc xe của chú Sirius?” “Cùng một chiếc,” bác Hagrid nói, ngó xuống Harry cười toe toét. Và lần con cưỡi nó trước đây, Harry à, con nằm gọn ơ trong một bàn tay hà!” Harry không thể không cảm thấy hơi ngường ngượng khi trèo vô cái thùng xe bên. Vị trí đó khiến cho nó trông thấp hơn tất cả những người khác cả thước: Ron nhe răng cười ngố khi thấy nó ngồi đó như một đứa con nít ngồi trong xe điện đụng. Harry nhét ba lô và chổi xuống dưới chân và kẹp cái lồng con Hedwig giữa hai đầu gối. Nó thấy khó chịu cực kỳ. “Ông Arthur có hàn xì chút đỉnh.” Bác Hagrid nói, hơi vô tâm trước nỗi khốn khổ của Harry. Bác ngồi chàng hảng trên chiếc xe khiến nó rít lên khe khẽ và lún xuống vài phân. “Cần lái giờ có thêm mấy chiêu mới. Cái đó là sáng kiến của bác.” Bác chỉ một ngón tay to thù lù vào một cái nút tím gần đồng hồ tốc độ. “Làm ơn cẩn thận, nhé bác Hagrid,” ông Weasley nói, ông đang đứng bên cạnh hai bác con, cầm cây chổi của ông. “Tôi vẫn chưa chắc cái đó có đáng tin cậy không và chắc chắn là chỉ nên dùng khi nào khẩn cấp.” “Được rồi, nào!” Thầy Moody nói. “Xin mọi người hãy chuẩn bị. Tôi muốn chúng ta xuất phát thật chính xác cùng một lúc nếu không thì toàn bộ chiến thuật nghi binh này sẽ mất toi ý nghĩa.” Mọi người gật đầu. “Bây giờ ôm chặt nghe Ron,” Cô Tonks nói, và Harry thấy Ron ngấm ngầm ném một cái nhìn tội lỗi về phía thầy Lupin trước khi đặt tay lên hai bên eo của cô Tonks. Bác Hagrid nổ máy xe: chiếc xe rú lên như một con rồng và cái thùng xe rung lên. “Chúc mọi người may mắn,” thầy Moody la lớn. “Hẹn gặp lại tất cả trong vòng một giờ nữa ở trang trại Hang Sóc. Xuất phát khi đếm đến tiếng thứ ba. Một… hai… BA.” Một tiếng rống khủng khiếp phát ra từ chiếc xe gắn máy, và Harry cảm thấy cái thùng xe lắc lư muốn ói. Nó được nhấc bổng lên cao rất nhanh, mắt hơi chảy nước, tóc bị thổi giạt ra khỏi mặt. Quanh nó những cây chổi cũng vọt thẳng lên; cái đuôi đen dài thòng của con vong mã ngoắc lướt qua. Hai chân của Harry, bị nêm trong cái thùng xe của bác Hagrid, vốn đã đau rồi, bây giờ bắt đầu tê. Quá khốn khổ nên nó đã gần như quên béng mất ngó lại ngôi nhà số 4 đường Privet Drive lần cuối cùng. Đến khi nhìn được qua thành cái thùng xe thì không sao phân biệt được nhà nào vào với nhà nào nữa rồi. Và bỗng nhiên, hoàn toàn không ngờ được, cả đám bị bao vây. Ít nhất ba chục cái bóng đội mũ trùm đầu lơ lửng giữa không gian, hình thành một vòng lớn mà trung tâm là đám hội viên Hội Phượng Hoàng vừa bay lên, chưa hiểu gì hết… Những ngọn lửa xanh lè nhá lên từ mọi phía: bác Hagrid gào lên một tiếng và chiếc xe gắn máy lộn ngược lại. Harry không còn biết là bác cháu nó đang ở đâu nữa. Trên đầu nó là đèn đường, quanh nó là tiếng gào rú, nó đang bám vào thùng xe bên để mong sống sót. Cái lồng Hedwig, cây chổi Tia Chớp, và cái ba lô của nó tuột xuống khỏi đầu gối… “Không… HEDWIG!” Cây chổi bay mòng mòng xuống đất, nhưng nó chỉ xoay sở túm được cái đai của ba lô và cái nóc lồng khi chiếc xe gắn máy xoay trở về vị trí ban đầu. Mới hú vía được một giây thì một đợt lửa xanh lè khác lại bùng lên. Con cú rít lên và ngã lăn quay xuống đáy lồng. “Không… KHÔNG!” Chiếc xe gắn máy lao tới trước; Harry thoáng thấy bọn Tử Thần Thực Tử trùm kín đầu tản ra khi bác Hagrid phá tung vòng vây của chúng. “Hedwig… Hedwig…” Nhưng con cú nằm bất động, thảm hại như một món đồ chơi vứt ở đáy lồng. Harry không tin nổi, và nỗi lo sợ cho những người khác mới là điều quan trọng nhất. Nó liếc ra sau lưng và thấy một đám đông đang chuyển động. Những luồng sáng lóe lên xanh lè, hai cặp cưỡi chổi phóng vọt đi khá xa, nhưng nó không nhận ra được họ là ai… “Bác Hagrid, chúng ta phải trở lại, chúng ta phải trở lại!” Nó gào lên át tiếng gầm rú như sấm của cái xe máy, rút đũa phép ra, đẩy cái lồng Hedwig xuống sàn, không chịu tin là con cú đã chết. “Bác Hagrid, QUAY VÒNG LẠI!” “Việc của bác là đưa con tới nơi an toàn, Harry à.” Bác Hagrid rống lên, và bác mở hết ga. “Ngừng… NGỪNG LẠI!” Harry hét lên, nhưng khi nó ngoái nhìn lại lần nữa thì hai tia sáng xanh bỗng bay trượt qua vành tai trái của nó: Bốn Tử Thần Thực Tử đã tách khỏi vòng vây và đuổi theo hai bác cháu, nhắm vào tấm lưng to bè của bác Hagrid. Bác Hagrid lạng lách, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử đã đuổi kịp chiếc xe gắn máy, thêm nhiều bùa chú phóng sát sạt vào hai bác cháu, và Harry phải hụp xuống sâu trong thùng xe để tránh. Xoay người ra sau, nó hét: “Điểm huyệt” và một tia chớp đỏ phóng ra từ cây đũa phép của chính nó, chẻ ra một khoảng hở giữa bốn Tử Thần Thực Tử khi chúng giạt ra để tránh đòn. “Bám chặt nghe Harry, để cái này trị tụi nó!” Bác Hagrid gầm lớn, và Harry ngước nhìn lên đúng lúc để thấy bác Hagrid dập một ngón tay to thù lù lên cái nút xanh gần đồng hồ xăng. Một bức tường, một bức tường gạch chắc chắn, phụt ra từ ống bô xe. Nhóng cổ lên, Harry thấy bức tường phình ra định hình giữa không trung. Ba Tử Thần Thực Tử lạng lách được, nhưng tên thứ tư kém may mắn hơn; hắn biến khỏi tầm nhìn và rồi rớt xuống như một tảng đá đằng sau bức tường, cây chổi của hắn gãy vụn. Một tên trong bọn bay chậm lại để cứu hắn, nhưng cả hai tên cùng bức tường trong không trung bị bóng tối nuốt chửng khi bác Hagrid chồm rạp người trên tay lái và tăng tốc vọt đi. Nhiều lời nguyền giết chóc bay ngang qua đầu Harry từ cây đũa phép của hai tên Tử Thần Thực Tử còn lại, chúng nhắm vào bác Hagrid. Harry đáp trả bằng cách tung thêm càng nhiều bùa Choáng: đỏ và xanh đụng nhau giữa trời trong một màn mưa tia sáng đủ màu, và Harry nghĩ lộn xộn đến những chùm pháo bông và dân Muggle dưới mặt đất hẳn chẳng biết được đang xảy ra chuyện gì… “Chơi một cú nữa nè, Harry, bám chặt vào nghe!” Bác Hagrid gào to, và bác dập vào cái nút thứ hai. Lần này một tấm lưới vĩ đại bung ra từ ống bô xe, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử đã cảnh giác. Chẳng những chúng lạng lách tránh được tấm lưới mà cái tên lúc nãy bay chậm lại để cứu đồng bọn cũng đã đuổi kịp. Hắn hiện ra từ bóng tối, và bây giờ cả ba cùng đuổi theo chiếc xe gắn máy, tất cả cùng bắn theo những lời nguyền. “Cái này được đây, Harry, bám chặt vào!” Bác Hagrid gào to, và Harry thấy bác đấm nguyên bàn tay lên cái nút tím bên cạnh đồng hồ tốc độ. Cùng một tiếng rống kinh thiên động địa không thể nhầm lẫn được, lửa rồng phun ra từ ống bô, nóng đến trắng xanh, và chiếc xe gắn máy vọt tới trước như một viên đạn trong tiếng kim loại kêu răng rắc. Harry thấy một tên Tử Thần Thực Tử lạng ra khỏi tầm nhìn để tránh luồng lửa kinh hoàng, và cùng lúc đó nó cảm thấy cái thùng xe lắc lư một cách đáng ái ngại: mối hàn kim loại giữa cái thùng xe đã bị vỡ banh vì sức mạnh của tăng tốc. “Không sao đâu Harry!” Bác Hagrid rống lên, tốc độ vọt nhanh quăng bác bẹp ngửa trên yên, bây giờ chẳng còn ai lèo lái xe nữa, và cái thùng xe bắt đầu vặn xoắn dữ dội ở mối hàn hở. “Để bác lo, Harry, con khỏi lo!” Bác Hagrid hét to và rút từ bên trong áo khoác ra cây dù hoa màu hồng. “Bác Hagrid! Đừng! Để con!” “SỬA!” Một tiếng nổ điếc tai và cái thùng xe sút hoàn toàn ra khỏi cái xe gắn máy. Lực đẩy của chiếc xe gắn máy đang bay khiến cho Harry lao nhanh tới trước, rồi cái thùng xe bắt đầu mất độ cao… Trong cơn tuyệt vọng, Harry chĩa cây đũa phép vào cái thùng xe hét lớn: “Gắn cánh Bay lên!” Cái thùng xe nổi lên như cái nút phao, tuy không còn lèo lái được nhưng ít nhất thì vẫn còn lơ lửng giữa trời. Tuy nhiên, Harry chỉ thở phào được có một giây, vì nhiều lời nguyền đang xẹt qua nó veo véo: ba tên Tử Thần Thực Tử đang sáp lại. “Bác tới đây, Harry!” Tiếng bác Hagrid quát trong bóng tối, nhưng Harry cảm thấy cái thùng xe lại bắt đầu rớt xuống: nó cố gắng ngồi thu lại thật thấp, rồi chĩa vào tên chính giữa trong ba cái bóng đang tiến tới gần và hét: “Chặn lại!” Thần chú trúng ngay ngực tên Tử Thần Thực Tử chính giữa. Gã bỗng bị căng tay chân giữa trời một cách lố lăng như thể tông phải một thanh chắn vô hình: một tên đồng bọn suýt tông phải gã. Thế rồi cái thùng xe bắt đầu rớt xuống một cách nghiêm trọng, và bọn Tử Thần Thực Tử phóng ra một lời nguyền sát Harry đến nỗi nó phải thụp xuống thấp hơn vành thùng xe, đập miệng vào cạnh của cái ghế làm văng ra một cái răng… “Bác tới ngay, Harry, bác tới ngay!” Một bàn tay khổng lồ túm lấy lưng áo Harry, nhấc nó ra khỏi cái thùng xe đang lao thẳng xuống. Harry kéo được cái ba lô theo trong lúc tự mình trèo lên yên xe gắn máy, để rồi nhận ra đang ngồi đấu lưng lại bác Hagrid. Khi hai bác cháu vọt lên trên, bỏ lại hai tên Tử Thần Thực Tử, Harry nhổ máu ra khỏi miệng, chĩa cây đũa phép về phía cái thùng xe đang rơi, và hét: “Phá hủy!” Lúc cái thùng xe nổ tung, Harry thấy đau cho Hedwig đến thắt ruột khủng khiếp; tên Tử Thần Thực Tử gần nhất bị nổ văng khỏi chổi té mất tăm; tên cùng đi với hắn rớt lại và biến mất. “Harry, bác xin lỗi, bác xin lỗi nghe,” bác Hagrid rên rỉ. “Lẽ ra bác không nên tự sửa… con mất chổi rồi…” “Không quan trọng, bác cứ bay tiếp!” Harry hét ngược lại, vì hai Tử Thần Thực Tử nữa hiện ra từ bóng tối, đang kéo tới gần. Những bùa chú lời nguyền lại một lần nữa phóng qua lại trong khoảng không gian giữa hai phe, bác Hagrid lượn lách và bay theo hình chữ Z: Harry biết bác không dám dùng đến nút lửa rồng một phen nữa khi mà Harry ngồi trong thế chông chênh như vậy. Harry phóng ra hết bùa Choáng này đến bùa Choáng khác vào bọn đang đuổi theo, chỉ đủ cầm chân chúng. Nó lại phóng thêm một thần chú Chặn đường nữa: tên Tử Thần Thực Tử đuổi theo sát nhất lạng người tránh được, cái mũ trùm đầu của hắn tuột ra và nhờ ánh sáng đỏ của Bùa Choáng nó tung ra tiếp theo đó mà Harry nhìn thấy gương mặt trơ kỳ quái của Stanley Shunpike… Stan… “Giải giới!” Harry hét. “Nó đó, nó đó, nó là đứa thật đó!” Harry nghe tiếng la của tên Tử Thần Thực Tử còn lớn hơn cả tiếng máy xe nổ như sấm rền: ngay sau đó cả hai tên đuổi theo đều rớt lại sau và biến mất. “Harry, chuyện gì xảy ra vậy?” Bác Hagrid hét. “Chúng bỏ đi đâu rồi?” “Con không biết!” Nhưng Harry sợ: tên Tử Thần Thực Tử đội mũ trùm đã hét “nó là đứa thật đó!” Làm sao hắn biết? Nó nhìn đăm đăm vào bóng tối dường như trống trơn và cảm nhận được mối đe dọa. Chúng ở đâu? Nó lồm cồm xoay quanh chỗ ngồi để quay ra phía trước và níu lấy lưng áo khoác của bác Hagrid. “Bác Hagrid, bác xịt rồng lửa một lần nữa đi, chúng ta hãy đi khỏi đây ngay.” “Vậy thì, bám chặt nghe Harry!” Một lần nữa tiếng gầm rú đinh tai nhức óc vang lên và lửa trắng xanh phụt ra từ ống bô: Harry cảm thấy bản thân mình bị trật ra sau khỏi cái yên chỉ còn có chút xíu chỗ cho nó ngồi. Bác Hagrid bật ngửa ra sau đè lên nó, suýt vuột cả tay lái… “Bác nghĩ mình đã bỏ rơi chúng rồi Harry à, bác nghĩ mình đã thoát rồi.” Nhưng Harry không tin tưởng lắm; nỗi sợ bao trùm khi nó nhìn trái ngó phải canh chừng những kẻ truy đuổi mà nó chắc chắn sẽ lại đến… Tại sao chúng rớt lại? Một tên trong bọn chúng vẫn còn cây đũa phép cơ mà… Nó đó… nó là đứa thật đó… Chúng nói điều đó ngay sau khi nó cố Giải giới Stan… “Chúng ta gần đến nơi rồi, Harry à, chúng ta gần thành công rồi!” Bác Hagrid hét toáng lên. Harry cảm thấy chiếc xe gắn máy hạ thấp xuống một tí mặc dù ánh đèn dưới mặt đất trông vẫn còn xa xăm như những vì sao. Bỗng cái thẹo trên trán nó nóng bỏng như lửa: mỗi bên chiếc xe gắn máy xuất hiện một tên Tử Thần Thực Tử, hai lời nguyền Giết chóc bắn từ phía sau sướt qua nó trong đường tơ kẽ tóc… Và rồi Harry thấy hắn. Voldemort đang bay như khói nương theo gió, không cưỡi chổi cũng không cưỡi vong mã, gương mặt như rắn của hắn sáng lập lòe trong bóng tối, những ngón tay trắng bệch của hắn lại giơ cao cây đũa phép… Bác Hagrid thốt ra một tiếng rú kinh hãi và bẻ lái xe lao xuống theo chiều thẳng đứng. Bám lấy hy vọng sống sót, Harry phóng lung tung những bùa Choáng vào bóng đêm đang quay mòng mòng. Nó thấy một thân thể bay ngang qua và biết là nó đã phóng trúng một tên trong bọn chúng, nhưng rồi nó nghe thấy một tiếng nổ kinh thiên và nhìn thấy những tia lửa nháng lên từ động cơ của chiếc xe. Chiếc xe quay xoắn tít trong không trung, hoàn toàn không điều khiển được nữa… Những tia sáng xanh lè lại phóng trớt qua hai bác cháu. Harry không còn biết đâu là trên đâu là dưới nữa: cái thẹo của nó vẫn đang cháy bỏng, nó chờ chết trong chớp mắt. Một cái bóng đội mũ trùm kín mặt cỡi chổi bay chỉ cách nó vài bước, nó thấy hắn giơ cánh tay lên… “KHÔNG!” Bác Hagrid gào lên và tự mình phóng ra khỏi chiếc xe lao vào tên Tử Thần Thực Tử, Harry kinh hoàng ngó cả bác Hagrid lẫn tên Tử Thần Thực Tử cùng rớt xuống mất tiêu, trọng lượng gộp lại của cả hai quá sức chịu đựng của cây chổi. Ráng dùng hai đầu gối kẹp chặt chiếc xe gắn máy đang lao thẳng xuống, Harry nghe Voldemort gào lên: “Của ta!” Thế là hết. Nó không hề nghe hay thấy Voldemort ở đâu nữa, nó thoáng thấy một tên Tử Thần Thực Tử sà xuống tránh chỗ và nó nghe “Avada…” Cơn nhói đau từ cái thẹo khiến Harry nhắm mắt lại, cây đũa phép của nó tự phản ứng. Nó có cảm giác cây đũa phép kéo bàn tay của nó quay vòng như một thỏi nam châm vĩ đại, qua đôi mắt hé mở nó thấy một ngọn lửa vàng chóe bắn ra, một tiếng rắc rồi một tiếng thét giận dữ. Tên Tử Thần Thực Tử còn lại rống lên, Voldemort gào “Không!” Và không biết bằng cách nào đó, Harry phát hiện ra mũi mình chỉ cách nút bấm lửa rồng có vài phân. Nó dùng bàn tay không cầm đũa phép thụi vô cái nút và chiếc xe gắn máy xịt thêm lửa vào không khí trong khi nhào thẳng xuống mặt đất. “Bác Hagrid!” Harry gọi, bám vào chiếc xe gắn máy để tự cứu mình, “Bác Hagrid! Triệu lại đây bác Hagrid!” Chiếc xe gắn máy lao nhanh hơn, bị hút về phía mặt đất. Mặt Harry nằm ngang tay lái, nên nó chẳng thể thấy gì ngoại trừ những ánh đèn xa xăm đang càng lúc càng gần nó. Đằng sau nó lại vang lên một tiếng gào nữa: “Cây đũa phép của mi, Selwyn, đưa ta cây đũa phép của mi!” Harry cảm nhận được Voldemort trước khi nhìn thấy hắn. Quay ngang, nó ngó chòng chọc vào hai con mắt đỏ và chắc mẻm đó là thứ cuối cùng nó nhìn thấy trên đời: Voldemort đang chuẩn bị ếm nó một lần nữa… Và bỗng nhiên Voldemort biến mất. Harry ngó xuống thấy bác Hagrid nằm dạng tay chân trên mặt đất bên dưới. Nó ghị chặt tay lái để tránh đụng phải bác, mò mẫm tìm cái thắng, nhưng với một cú đâm sầm rung đất điếc tai, nó nhào mạnh xuống một cái ao sình. “B ác Hagrid?” 5 CHIẾN BINH RƠI RỤNG Harry vùng vẫy để tự ngoi lên khỏi đống da rách và kim loại bể bao quanh nó; hai bàn tay nó lún sâu mấy phân trong vũng nước đục ngầu khi cố chống tay đứng dậy. Nó không thể hiểu Voldemort đã biến đi đâu và nó chờ đợi hắn sà xuống từ bầu trời tối đen bất cứ lúc nào. Có cái gì đó nóng và ướt đang từ trên trán nhễu xuống cằm nó. Nó bò ra khỏi vũng nước và loạng choạng đi về phía cái đống đen to thù lù nằm trên mặt đất là bác Hagrid. “Bác Hagrid? Bác Hagrid ơi, nói với con đi…” Nhưng cái đống đen đó không nhúc nhích. “Ai ở ngoài đó? Có phải Potter không? Cháu là Harry Potter hả?” Harry không nhận ra giọng nói của người đàn ông. Bỗng nhiên một người đàn bà hét lên, “Họ bị tai nạn rồi. Anh Ted ơi? Tai nạn trong vườn nè?” Đầu óc Harry mù tịt. “Bác Hagrid ơi,” nó ngốc nghếch lặp lại, và đầu gối nó sụm xuống. Điều tiếp theo mà nó biết được là nó đang nằm ngửa trên cái gì đó mềm như những cái gối nệm, tay phải và chỗ be sườn của nó rát bỏng. Cái răng bị văng mất của nó đã mọc trở lại. Cái thẹo trên trán nó vẫn còn phập phồng. “Bác Hagrid?” Nó mở mắt ra và thấy mình đang nằm trên một cái ghế nệm dài trong một phòng khách xa lạ sáng đèn. Cái ba lô của nó được đặt trên sàn gần đó, ướt sũng và dính đầy sình. Một người đàn ông tóc vàng hoe, bụng bự, đang lo lắng nhìn Harry. “Bác Hagrid không sao đâu con,” người đàn ông nói. “Bà xã ông đang chăm sóc bác ấy. Con thấy sao? Còn gì khác bị gãy không? Ông đã gắn lại xương sườn, tay và răng cho con. Nhân tiện ông giới thiệu luôn, ông là Ted, Ted Tonks - cha của Dora.” Harry vội vàng ngồi dậy. Ánh sáng nổ đom đóm trước mắt nó và nó cảm thấy buồn nôn, choáng váng. “Voldemort…” “Thong thả thôi,” ông Ted Tonks vừa nói vừa đặt một bàn tay lên vai Harry và đẩy nó nằm trở xuống nệm. “Tai nạn con vừa trải qua thiệt là tệ. Mà có chuyện gì vậy? Cái xe gắn máy hư à? Ông Arthur Weasley lại quá lậm khả năng của ổng và mớ máy móc Muggle kỳ cục của ổng chứ gì?” “Không,” Harry nói, trong khi cái thẹo của nó xốn xang như một vết thương hở miệng, “Bọn Tử Thần Thực Tử, đông lắm… tụi con bị rượt đuổi…” “Tử Thần Thực Tử?” Ông Ted nói nhanh. “Con muốn nói gì, Tử Thần Thực Tử à? Ông tưởng chúng không biết con dọn chỗ ở đêm nay chớ, ông tưởng…” “Chúng biết,” Harry nói. Ted Tonks ngó lên trần nhà như thể ông có thể nhìn xuyên qua trần thấy được bầu trời. “Lạ, chúng ta biết bùa bảo vệ vẫn còn linh nghiệm mà, đúng không? Bọn chúng không thể nào xâm nhập phạm vi một trăm thước quanh địa điểm này từ bất cứ hướng nào.” Bây giờ Harry hiểu tại sao Voldemort biến mất. Ắt hẳn lúc đó chiếc xe gắn máy đã vượt qua rào cản làm bằng những lá bùa của Hội. Nó chỉ mong bùa tiếp tục linh: Nó tưởng tượng Voldemort đang ở trên cao, cách chỗ ông cháu nó đang nói chuyện chỉ có một trăm thước và đang tìm cách xâm nhập vào cái mà Harry hình dung ra giống như một cái bong bóng trong veo khổng lồ. Nó quăng cặp giò ra khỏi ghế xô-pha; nó cần phải thấy tận mắt mới tin là bác Hagrid còn sống. Nhưng nó chỉ mới gượng đứng dậy được thì cửa mở ra và bác Hagrid lách qua cửa, mặt mũi be bét sình và máu, chân đi cà nhắc một chút, nhưng vẫn sống nhăn một cách nhiệm mầu. “Harry!” Đá văng hai cái bàn xinh xắn và một cây tỏi kiểng, bác vượt qua khoảng cách giữa hai bác cháu bằng hai bước chân sải dài và ôm chầm Harry vào lòng thắm thiết đến nỗi suýt làm gãy mấy be sườn vừa được ráp lại của nó. “Mèn ơi, Harry, làm sao con thoát được trận đó hả? Bác tưởng cả hai bác cháu mình tiêu rồi chớ.” “Dạ, con cũng tưởng vậy. Con không tin nổi…” Harry nín bặt. Nó vừa nhận ra người đàn bà mới đi vào phòng phía sau bác Hagrid. “Mụ!” Nó hét, và thọc tay vô túi áo, nhưng túi trống trơn. “Cây đũa phép của con đây, con trai ơi,” ông Ted vừa nói vừa gõ cây đũa phép lên cánh tay Harry. “Nó rớt ngay bên cạnh con, ông đã lượm nó lên… và người con đang quát là vợ ông.” “Ôi, con… con xin lỗi!” Khi đã tiến vào phòng rồi, các nét của bà Tonks với mụ em Bellatrix mới đỡ giống nhau hơn: tóc bà hơi ánh nâu và mắt bà to hơn, nhân hậu hơn. Cho dù vậy, bà trông có vẻ hơi kiêu kỳ sau tiếng kêu thảng thốt của Harry. “Chuyện gì đã xảy ra cho con gái tôi?” Bà hỏi. “Ông Hagrid nói các người bị phục kích; Nymphadora giờ ở đâu?” “Con không biết.” Harry nói. “Bác cháu con không biết chuyện gì xảy ra cho mấy người kia.” Ông bà Ted nhìn nhau. Một nỗi sợ hãi của hai ông bà Tonks. Nếu bất cứ ai trong số những người kia chết thì đó chính là lỗi của nó, lỗi của nó hoàn toàn. Nó đã thuận lòng theo kế hoạch, đưa họ túm tóc của nó… “Khóa Cảng.” Bỗng nhiên nó nhớ ra. “Bác cháu mình phải về Hang Sóc để biết… lúc đó cháu sẽ có thể báo tin cho ông bà, hoặc là… hoặc cô Tonks sẽ báo, khi cô ấy đã…” “Dora sẽ không sao cả, Dromeda à,” ông Ted nói. “Nó biết công việc của mình, nó từng làm nhiều công tác khó khăn với các Thần Sáng. Khóa Cảng có đặt ở đây,” ông nói thêm với Harry. “Nó khởi hành trong vòng ba phút nữa, nếu cháu muốn đi.” “Dạ, con đi,” Harry nói. Nó tóm lấy cái ba lô, lẳng lên vai. “Con…” Nó nhìn bà Tonks, muốn xin lỗi về nỗi lo sợ mà nó gây ra cho bà, nó cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm kinh khủng về chuyện này, nhưng nó chẳng tìm được từ nào để nói ra mà không nghe rỗng tuếch và giả dối. “Con sẽ thưa với cô Tonks… à, cô Dora… nhắn tin, khi cô ấy… Cám ơn ông bà đã cứu giúp con và bác Hagrid, cám ơn về mọi thứ, con…” Nó mừng vì được ra khỏi căn phòng và theo ông Ted Tonks đi dọc một hành lang ngắn để vào phòng ngủ. Bác Hagrid đi theo phía sau, cúi thấp xuống để khỏi đụng đầu vào rầm cửa. “Đây, con trai. Khóa Cảng đó.” Ông Tonks chỉ vào một cái lược ván bạc nằm trên bàn trang điểm. “Cám ơn ông,” Harry vừa nói vừa với tới chạm một ngón tay lên cái lược, sẵn sàng ra đi. “Khoan đã,” bác Hagrid vừa nói vừa nhìn quanh quất, “Harry à, con Hedwig đâu?” “Nó… nó bị trúng bùa,” Harry nói. Nó như sụp đổ khi nhận ra điều đó: nó cảm thấy xấu hổ về chính mình trong lúc nước mắt chảy làm mắt cay xè. Con cú đã làm bạn với nó lâu nay, là mối liên hệ chính của nó với thế giới pháp thuật mỗi khi nó bị buộc phải trở về với gia đình Dursley. Bác Hagrid đưa một bàn tay to tướng vỗ lên vai nó khiến nó phát đau. “Không sao,” bác nói cụt ngủn. “Không sao. Nó đã sống một đời rất thọ rồi…” “Ông Hagrid!” Ông Ted Tonks nhắc nhở, vì cái lược đang ửng lên màu xanh sáng rực, và bác Hagrid chỉ kịp chạm ngón tay vào đúng lúc. Thót bụng một cái như thể có một cái móc câu vô hình và một sợi dây lôi tới trước, Harry bị kéo vào cõi thinh không, xoay tít không tự chủ được, ngón tay nó dính cứng vào cái Khóa Cảng khi nó và bác Hagrid bị tống ra khỏi gia đình ông Tonks. Tích tắc sau, chân Harry chạm mạnh vào mặt đất cứng và nó té bò càng xuống sân Hang Sóc. Nó nghe tiếng la hét. Liệng cái lược không còn tỏa sáng một bên, Harry đứng dậy, hơi lảo đảo, và ngó thấy bà Weasley cùng Ginny đang chạy xuống bậc thang dẫn lên cửa sau, trong khi bác Hagrid chật vật chống chỏi đứng lên vì bác cũng bị té lăn cù khi chạm đất. “Harry? Con là Harry thiệt phải không? Chuyện gì đã xảy ra? Những người kia đâu?” Bà Weasley khóc. “Bác nói vậy là sao? Chưa ai về à?” Harry thở hổn hển. Câu trả lời rõ ràng đã khiến cho gương mặt tái mét của bà Weasley càng tái thêm. “Bọn Tử Thần Thực Tử rình sẵn tụi con,” Harry nói với bà. “Tụi con vừa mới khởi hành là đã bị phục kích rồi… chúng biết thời điểm là đêm nay… Con không biết chuyện gì xảy ra cho những người khác, bốn tên trong bọn chúng đuổi theo bác Hagrid và con, tụi con cố hết sức để thoát được chúng, rồi đến Voldemort đuổi kịp tụi con…” Nó nghe thấy sự phân trần trong giọng nói của mình, khẩn khoản xin bà thông cảm vì sao nó không biết chuyện gì xảy ra cho các con trai của bà, nhưng… “May phước con được bình an,” bà nói, kéo nó vào vòng tay ôm ấp thương yêu đến nỗi nó cảm thấy không xứng đáng. “Bà Molly, bà hông có chút rượu mạnh nào he?” Bác Hagrid hỏi, giọng run run. “Để làm thuốc ấy mà.” Bà có thể hô phép đem rượu ra, nhưng rồi lại quày quả đi trở vào ngôi nhà ngoằn ngoèo, Harry biết bà muốn giấu vẻ mặt của bà đi. Nó quay qua Ginny và cô bé ngay lập tức trả lời cho sự cầu khẩn thông tin chưa thốt ra lời của nó. “Lẽ ra anh Ron và cô Tonks về đây sớm nhất, nhưng họ bị lỡ chuyến Khóa Cảng, cái khóa trở về đây mà không có họ,” cô bé nói, chỉ vào một cái hộp đựng dầu rỉ sét nằm trên mặt đất gần đó. “Còn cái kia,” cô bé chỉ vào một chiếc giày cũ, “lẽ ra phải đưa ba và anh Fred về, theo dự định thì họ là cặp thứ hai về đến nhà. Anh và bác Hagrid là cặp thứ ba và,” cô bé coi đồng hồ đeo tay, “nếu anh George và thầy Lupin thoát được thì họ sẽ về đây trong vòng một phút nữa.” Bà Weasley lại đi ra, mang theo một chai rượu mạnh đưa cho bác Hagrid. Bác bật nút chai uống thẳng một hơi. “Má!” Ginny la to, chỉ vào một chỗ cách đó mấy thước. Một vệt sáng xanh lơ hiện ra trong bóng tối: nó lớn dần và sáng dần, và thầy Lupin cùng George hiện ra, quay mòng mòng rồi té xuống. Harry biết ngay tức thì là có điều gì đó không ổn: thầy Lupin đang đỡ George, anh này bất tỉnh, mặt đầy máu. Harry chạy tới trước, nắm chân George. Nó cùng với thầy Lupin khiêng George vào trong nhà, đi xuyên qua nhà bếp để vào phòng khách, đặt anh ấy nằm xuống cái ghế nệm dài. Khi ánh đèn rọi trên đầu George, Ginny há hốc miệng và bao tử Harry thót lại: một vành tai của George đã mất. Một bên đầu và cổ của anh ướt đẫm máu đỏ au thiệt dễ sợ. Bà Weasley vừa cúi xuống con trai mình thì thầy Lupin túm lấy cánh tay của Harry lôi nó đi, chẳng được nhẹ nhàng cho lắm, trở vô nhà bếp, nơi bác Hagrid vẫn còn đang ì ạch nhét khối lượng thân thể của mình qua khung cửa sau. “Ấy,” bác Hagrid tức giận nói. “Bỏ nó ra, bỏ Harry ra!” Thầy Lupin bất kể đến bác. “Sinh vật nào ngồi ở trong góc khi Harry Potter đến văn phòng ta ở trường Hogwarts lần đầu tiên?” Thầy vừa nói vừa lắc nhẹ người Harry. “Trả lời ta!” “Một… một con Grindylow trong bồn nước thì phải?” Thầy Lupin thả Harry ra và ngả lưng dựa vào tủ chén. “Vậy là sao hả?” Bác Hagrid gầm lên. “Thầy xin lỗi, Harry, nhưng thầy phải kiểm tra,” thầy Lupin nói ngắn gọn, “Chúng ta đã bị phản bội. Voldemort biết con được dời đi đêm nay và chỉ kẻ nào tham gia trực tiếp trong kế hoạch này mới có thể báo cho hắn biết. Con có thể là một kẻ đội lốt giả.” “Vậy sao chú hông kiểm tra tôi?” Bác Hagrid thở hổn hển, vẫn còn đang chật vật lách qua khung cửa. “Bác là người lai khổng lồ,” thầy Lupin nói, ngước lên nhìn bác Hagrid. “Thuốc Đa Dịch chỉ dùng cho con người mà thôi.” “Không ai trong Hội Phượng Hoàng lại đi báo cho Voldemort việc chúng ta di chuyển đêm nay cả,” Harry nói. Ý tưởng đó quá khủng khiếp đối với nó, nó không thể nào tin việc đó lại do bất cứ ai trong số họ làm. “Voldemort chỉ đuổi kịp theo con vào phút chót, lúc đầu hắn không biết ai là con. Nếu hắn nắm được kế hoạch thì ngay từ đầu hắn đã phải biết con là người đi với bác Hagrid chớ.” “Voldemort đuổi kịp con à?” Thầy Lupin nói gay gắt. “Chuyện gì đã xảy ra? Làm sao con thoát được?” Harry giải thích bọn Tử Thần Thực Tử đuổi theo hai bác cháu như thế nào và nhận ra nó là Harry ra sao, rồi chúng bỏ dở cuộc truy đuổi, và có lẽ chúng đã thỉnh đến Voldemort, hắn đã xuất hiện chỉ ngay trước khi nó và bác Hagrid đến được nơi ẩn náu trong nhà cha mẹ cô Tonks. “Chúng nhận ra con à? Nhưng bằng cách nào? Con đã làm gì?” “Con…” Harry cố gắng nhớ lại; cả cuộc hành trình có vẻ như một khối mờ mịt của hoảng sợ và hỗn loạn. “Con thấy Stan Shunpike… Thầy biết anh lơ xe trên chiếc Xe Đò Hiệp Sĩ chứ ạ? Và con tính Giải giới ảnh thay vì… ảnh đâu có biết ảnh đang làm gì, đúng không ạ? Chắc ảnh bị ếm bùa Độc đoán!” Thầy Lupin có vẻ kinh hoàng. “Harry, thời của bùa Giải giới đã qua rồi! Những kẻ ấy đang tìm cách bắt và giết con! Nếu chưa sẵn sàng để giết chúng thì ít nhất con cũng phải đánh bùa Choáng chứ?” “Tụi con đang ở trên cao cả trăm thước! Anh Stan đang không tự chủ, và nếu con mà đánh choáng ảnh và ảnh té, thì ảnh cũng sẽ chết y như con dùng Lời nguyền Giết chóc vậy! Hai năm trước thần chú Giải giới đã cứu con khỏi tay Voldemort,” Harry nói thêm một cách bướng bỉnh. Thầy Lupin nhắc nó nhớ đến anh chàng ưa giễu cợt Zacharias Smith của nhà Hufflepuff, anh ta đã chế nhạo Harry về chuyện nó muốn dạy Đoàn quân Dumbledore cách Giải giới. “Đúng vậy, Harry à,” thầy Lupin nói mà phải vất vả kiềm chế, “và rất đông bọn Tử Thần Thực Tử đã chứng kiến việc đó xảy ra! Tha lỗi cho thầy, nhưng hồi ấy, đó là một phản ứng rất lạ thường trước sự đe dọa của thần chết cận kề. Còn lặp lại ứng xử đó tối nay trước bọn Tử Thần Thực Tử đã từng nghe nói hay chứng kiến sự kiện đó lúc xảy ra lần đầu tiên thì gần như là tự sát!” “Vậy là thầy cho rằng con phải giết anh Satan Shunpike à?” Harry tức tối nói. “Dĩ nhiên là không,” thầy Lupin nói, “Nhưng bọn Tử Thần Thực Tử, và thành thật mà nói - hầu hết mọi người! - đều nghĩ là con phải đánh trả! Giải giới là một thần chú rất có ích, Harry à, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử dường như coi đó là độc chiêu đặc trưng của con, và thầy khuyên con đừng để thành như thế.” Thầy Lupin đang khiến cho Harry cảm thấy nó ngu hết sức, vậy mà vẫn còn cộm một hột bướng bên trong nó. “Con sẽ không bao giờ cho nổ tung người khác chỉ vì họ láng cháng trước mặt con,” Harry nói. “Đó là việc của Voldemort.” Nhưng thầy Lupin không kịp bắt bẻ lại nó: rốt cuộc bác Hagrid cũng thành công trong nỗ lực nhét thân mình qua được khung cửa, rồi lê tới một cái ghế và ngồi xuống; cái ghế sụm bà chè. Không để ý đến những tiếng nguyền rủa lẫn lộn với lời xin lỗi của bác, Harry tiếp tục nói với thầy Lupin: “Anh George sẽ không sao chứ ạ?” Tất cả cơn giận của thầy Lupin với Harry dường như được rút cạn vì câu hỏi đó. “Thầy tin vậy, mặc dù sẽ không cách gì gắn lại được tai cho nó, khi đã bị mất tai vì lời nguyền thì không thể…” Bên ngoài có tiếng ạch dụi. Thầy Lupin lướt ngay tới cửa sau, Harry nhảy qua đám giò cẳng của bác Hagrid và phóng ra sân. Hai bóng người vừa xuất hiện trong sân, và khi Harry chạy về phía họ thì nó nhận ra đó là Hermione, bây giờ đã trở lại nguyên dạng, và chú Kingsley, cả hai còn nắm chặt một cái móc treo áo cong queo. Hermione lao mình vào vòng tay của Harry, nhưng chú Kingsley chẳng tỏ ra chút xíu vui mừng được gặp lại ai trong đám cả. Qua vai Hermione, Harry thấy chú Kingsley giơ cây đũa phép của chú chĩa vào ngực thầy Lupin. “Lời cuối cùng cụ Albus Dombledore nói với chúng ta!” “Harry là niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta. Hãy tin nó,” thầy Lupin bình tĩnh đáp. Chú Kingsley quay đũa chĩa vào Harry, nhưng thầy Lupin nói, “Nó mà. Tôi kiểm tra rồi.” “Tốt lắm! Tốt lắm!” Chú Kingsley nói, nhét cây đũa phép vào bên trong áo khoác. “Nhưng ai đó đã phản bội chúng ta! Chúng biết, chúng biết là tối nay!” “Có vẻ như vậy,” thầy Lupin đáp. “Nhưng hình như chúng không biết là sẽ có bảy Potter.” “Chút an ủi cỏn con!” Chú Kingsley gầm gừ. “Còn ai trở về nữa?” “Chỉ mới có Harry, bác Hagrid. George và tôi.” Hermione nén một tiếng rên sau bàn tay. “Còn anh gặp chuyện gì vậy?” Thầy Lupin hỏi chú Kingsley. “Bị năm tên đuổi theo, hai tên bị thương, có thể một tên bị giết,” chú Kingsley quay đi, “và chúng tôi cũng nhìn thấy Kẻ-mà-ai-cũng biết-là-ai-đấy, hắn nhập bọn đuổi theo chúng tôi được nửa chừng thì biến mất rất nhanh. Anh Remus, hắn có thể…” “Bay,” Harry thêm vào. “Cháu cũng thấy hắn, hắn rượt theo bác Hagrid và cháu.” “Vậy ra đó là lý do hắn bỏ đi, để đuổi theo cháu!” Chú Kingsley nói. “Lúc ấy chú không hiểu tại sao hắn biến mất. Nhưng cái gì khiến hắn đổi mục tiêu?” “Harry cư xử hơi quá tử tế với Stan Shunpike,” thầy Lupin nói. “Stan nào?” Hermione lặp lại. “Nhưng cháu tưởng anh ta đang ở trong ngục Azkaban mà?” Chú Kingsley bật ra tiếng cười buồn bã. “Hermione à, rõ ràng là có một vụ vượt ngục tập thể rất đông đã bị Bộ Pháp thuật ém nhẹm. Mũ trùm đầu của Travers rớt ra khi chú nguyền hắn, lẽ ra hắn cũng đang ngồi tù. Nhưng chuyện gì đã xảy ra cho anh thế, anh Remus? George đâu?” “Nó bị mất một vành tai,” thầy Lupin nói. “Mất một…?” Hermione lặp lại giọng thảng thốt. “Chiến công của Snape,” thầy Lupin nói. “Snape à?” Harry hét. “Chú đừng nói là…” “Hắn bị mất mũ trùm trong cuộc săn đuổi. Cắt sâu Mãi mãi luôn luôn là chiêu đặc biệt của Snape. Phải chi tôi có thể đáp lễ hắn, nhưng sau khi George bị thương tôi chỉ còn làm được mỗi một việc là giữ nó trên cây chổi, nó bị mất nhiều máu quá…” Cả bốn người im lặng khi cùng ngước nhìn lên trời. Chẳng có dấu hiệu chuyển động nào; những ngôi sao đăm chiêu nhìn lại họ, không nhấp nháy, dửng dưng, chẳng hay biết gì về những người bạn đang bay. Ron ở đâu? Anh Fred và ông Weasley ở đâu? Anh Bill, chị Fleur, cô Tonks, thầy Mắt-Điên, và lão Mundungus ở đâu? “Harry, giúp một tay với!” Bác Hagrid ồm ồm gọi vọng ra từ cánh cửa mà bác lại một phen nữa bị mắc kẹt. Mừng là có chuyện gì đó để làm, Harry kéo bác thoát ra, rồi nó đi ngang qua nhà bếp trống vắng trở lại phòng khách nơi bà Weasley và Ginny vẫn còn đang chăm sóc anh George. Bà Weasley lúc này đã cầm được máu cho anh, và nhờ ánh đèn Harry nhìn thấy một cái lỗ toác hoác sạch sẽ vốn là vành tai của George. “Anh ấy sao rồi ạ?” Bà Weasley quay lại nhìn và nói, “Bác không thể làm cho nó mọc lại được, không thể được một khi nó bị cắt bằng pháp thuật Hắc ám. Nhưng đáng ra còn tệ hơn vầy nhiều… Nó còn sống.” “Dạ,” Harry nói. “Cám ơn Trời.” “Em nghe có ai đó ở trong sân phải không?” Ginny hỏi. “Hermione và chú Kingsley,” Harry nói. “May phước,” Ginny thì thầm. Hai đứa nhìn nhau, Harry muốn ôm lấy Ginny, giữ cô bé trong vòng tay, nó thậm chí không ngại rằng bà Weasley đang có mặt, nhưng trước khi nó kịp thực hiện được điều thôi thúc, một tiếng đổ ầm vang lên trong nhà bếp. “Tôi sẽ chứng minh tôi là ai, anh Kingsley à, sau khi tôi nhìn thấy con trai tôi, muốn tốt lành thì tránh ra ngay.” Trước đây Harry chưa bao giờ nghe ông Weasley hét lớn như vậy. Ông xông vào phòng khách, mảng đầu hói của ông sáng bóng mồ hôi, cặp kính xéo xẹo, anh Fred ở ngay bên cạnh ông, cả hai đều xanh mét, nhưng không bị thương. “Anh Arthur!” Bà Weasley thổn thức. “Ôi, phước đức biết bao!” “Nó sao rồi?” Ông Weasley quỳ ngay xuống bên cạnh George. Lần đầu tiên kể từ ngày Harry quen biết anh, Fred dường như đớ lưỡi. Đứng đằng sau cái ghế nệm dài anh há hốc miệng nhìn vết thương của thằng em song sinh như không tin nổi cái mà anh đang thấy. Có lẽ bị tiếng ồn khuấy động khi cha và anh đến bên mình, George cục cựa. “Con thấy thế nào, George?” Bà Weasley thì thào. Ngón tay George rờ rẫm một bên đầu. “Thấy như sư,” nó lẩm bẩm. “Nó mắc chứng gì vậy?” Fred rền rĩ, tỏ ra kinh hoàng. “Đầu óc nó có bị ảnh hưởng không đấy?” “Như sư,” George lặp lại, mắt mở to ra nhìn ông anh. “Anh coi… Em như sư rồi. Mất tóc mất tai rồi, Fred ơi, hiểu chưa?” Bà Weasley khóc nức nở hơn bao giờ hết. Gương mặt nhợt nhạt của Fred hồng lên. “Lâm ly,” nó nói với George, “Ôi! Lâm ly! Trước mặt là cả một thế giới rộng lớn toàn chuyện tiếu lâm dính tới lỗ nhĩ mà mày lại mất tai à?” “Ờ, phải rồi,” George nói, nhe răng cười với bà mẹ đang nước mắt đầm đìa. “Bây giờ má có thể phân biệt được hai đứa con rồi hén, má.” Rồi nó nhìn quanh. “Chào, Harry… Em là Harry, đúng không?” “Dạ, em đây,” Harry nói, đi tới gần cái ghế nệm dài. “Chà, ít nhất thì em cũng về được đây an toàn,” George nói. “Sao Ron với anh Bill không xúm xít quanh giường bệnh của mình nhể?” “Họ chưa về tới nơi, George à,” bà Weasley nói. Nụ cười của George héo đi. Harry đưa mắt ra hiệu cho Ginny đi cùng nó trở ra bên ngoài. Khi hai đứa đi ngang nhà bếp, Ginny nói nhỏ: “Giờ này lẽ ra anh Ron và cô Tonks phải về tới rồi. Họ đâu phải đi xa; nhà dì Muriel gần đây mà.” Harry không nói gì. Nó đã cố gắng gạt đi mối lo sợ từ khi đến Hang Sóc, nhưng bây giờ nỗi sợ hãi bao bọc lấy nó, dường như trườn bò khắp da nó, phập phồng trong ngực nó, chẹn họng nó. Khi hai đứa bước xuống bậc tam cấp ra sân sau tối thui, Ginny nắm bàn tay nó. Chú Kingsley đang sải bước đi tới đi lui, liếc nhìn lên trời mỗi khi vòng lại. Cảnh đó nhắc Harry nhớ đến dượng Vernon đi qua đi lại trong phòng khách đâu như một triệu năm về trước. Bác Hagrid, Hermione, và thầy Lupin đứng sát vai nhau, chăm chú nhìn lên trời trong im lặng. Không ai trong ba người đó quay lại nhìn khi Harry và Ginny nhập bọn trong đêm thâu im ắng. Từng phút dài ra như cả năm trường. Làn gió thoảng nhẹ nhất cũng khiến tất cả giật mình hướng về phía lùm bụi hay cây cỏ lao xao, hy vọng một trong những Hội viên có thể từ trong đám lá nhảy ra bình yên vô sự… Và rồi một cây chổi hiện ra ngay phía trên đầu họ và lao thật nhanh xuống đất… “Họ kìa!” Hermione gào lên. Cô Tonks đáp xuống với một đà trượt dài làm bắn bụi đất và sỏi khắp nơi. “Anh Remus!” Cô Tonks òa khóc khi loạng choạng rời cây chổi để ngã vào vòng tay thầy Lupin. Gương mặt thầy se lại và trắng bệch: dường như thầy không thể thốt ra lời nữa. Ron đi vấp váp một cách kỳ quái về phía Harry và Hermione. “Bồ vô sự,” nó lầm bầm được mấy tiếng trước khi Hermione bay tới ôm nó thật chặt. “Mình tưởng… Mình tưởng đâu…” “Đây không sao,” Ron nói, vỗ nhè nhẹ lên lưng cô bé. “Đây ổn mà.” “Ron tuyệt lắm,” cô Tonks nồng nhiệt nói, thả vòng tay ôm thầy Lupin ra. “Tuyệt vời luôn. Đánh Choáng một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử, đánh thẳng vô đầu, mà lại nhắm vào một mục tiêu di động khi đang bay trên cây chổi…” “Bồ đánh?” Hermione nói, trố mắt nhìn Ron, hai tay vẫn còn câu cổ nó. “Lúc nào cũng giọng ngạc nhiên,” Ron nói hơi cộc một tí, thoát ra khỏi vòng tay của Hermione. “Có phải tụi này là những người về cuối cùng không?” “Không,” Ginny nói. “Chúng ta vẫn còn đang đợi anh Bill, chị Fleur, chú Mắt-Điên và bác Mundungus. Em vô nói cho ba má biết là anh vô sự nghe, anh Ron.” Cô bé chạy trở vô trong nhà. “Chuyện gì làm em về trễ vậy? Chuyện gì đã xảy ra cho em?” Giọng thầy Lupin nghe như nổi giận với cô Tonks. “Mụ Bellatrix,” cô Tonks nói. “Mụ muốn tóm em ngang với tóm Harry, anh Remus à, mụ ráng hết sức giết em. Em chỉ ước sao tóm được mụ ta, em còn nợ Bellatrix. Nhưng chắc chắn là tụi em làm cho Rodolphus bị thương… Sau đó tụi em đến nhà dì Muriel và trễ chuyến Khóa Cảng và dì ấy cứ nhặng xị cả lên với tụi này…” Một gân mặt giật giật bên hàm thầy Lupin. Thầy gật đầu, nhưng dường như không thể nói được gì cả. “Vậy chuyện gì đã xảy ra với quý vị?” Cô Tonks hỏi, quay sang Harry, Hermione và chú Kingsley. Họ kể lại những câu chuyện về hành trình của chính mình, nhưng đồng thời sự vắng mặt của anh Bill, chị Fleur, thầy Mắt-Điên và lão Mundungus dường như phủ chụp lên họ một lớp sương giá, sự gặm nhắm băng giá của nó càng lúc càng khó làm lơ. “Tôi sắp phải trở lại đường Downing, lẽ ra tôi đã phải có mặt ở đó một tiếng đồng hồ trước,” cuối cùng chú Kingsley nói, sau khi quét mắt chăm chú nhìn bầu trời một lần chót. “Báo cho tôi biết khi họ trở về.” Thầy Lupin gật đầu. Vẫy tay chào những người kia, chú Kingsley bước vào bóng tối phía cổng. Harry nghe một tiếng bụp yếu ớt khi chú Kingsley Độn thổ ngay bên ngoài ranh giới Hang Sóc. Ông bà Weasley chạy xuống mấy bậc thềm, Ginny theo sau họ. Hai bậc cha mẹ ôm chầm lấy Ron trước khi quay qua thầy Lupin và cô Tonks. “Cám ơn cô và chú,” bà Weasley nói, “đã vì các con trai tôi.” “Đừng có ngớ ngẩn thế, chị Molly,” cô Tonks nói ngay. “George ra sao?” Thầy Lupin hỏi. “Ảnh bị gì?” Ron hỏi rõ to. “Nó mất…” Nhưng đoạn cuối câu nói của bà Weasley bị nhấn chìm trong tiếng thét đồng loạt: một con vong mã vừa lao tới trước mắt mọi người và đáp xuống cách họ vài bước. Anh Bill và Fleur cùng tuột khỏi lưng nó, te tua vì gió nhưng không bị thương. “Bill! Ơn trời, ơn trời…” Bà Weasley chạy tới trước, nhưng cái ôm anh dành cho bà chỉ phớt qua chiếu lệ; nhìn thẳng vào cha mình, anh nói: “Chú Mắt-Điên đã chết.” Không ai nói một lời. Không ai cử động. Harry cảm thấy như có cái gì đó bên trong nó đang rơi xuống, rơi xuyên lòng đất, bỏ lại nó vĩnh viễn. “Tụi con thấy tận mắt,” anh Bill nói, Fleur gật đầu, những vệt nước mắt long lanh trên má chị được soi bằng ánh sáng hắt ra từ cửa sổ nhà bếp. “Chuyện xảy ra ngay sau khi chúng ta phá vỡ vòng vây: chú Mắt-Điên và lão Dung gần sát tụi con, họ cũng nhắm hướng bắc. Voldemort… hắn bay được… đánh thẳng vào họ. Lão Dung hoảng loạn, con nghe lão khóc la, chú Mắt-Điên cố ngăn lão, nhưng lão vẫn Độn thổ. Voldemort phóng lời nguyền trúng ngay mặt chú Mắt-Điên, chú ngã bật ngửa ra khỏi cây chổi và… tụi con chẳng thể làm gì được, tụi con bị nửa tá đứa trong bọn chúng bám đuôi…” Giọng Bill đứt đoạn. “Đương nhiên cháu không thể làm gì được rồi,” thầy Lupin nói. Tất cả đều đứng lặng nhìn nhau. Harry không thể hiểu được hết. Thầy Mắt-Điên đã chết; không thể nào lại là… thầy Mắt-Điên, ngoan cường như vậy, dũng cảm như vậy, người sống sót tài ba… Cuối cùng dường như mọi người nhận ra trời đã rạng, mặc dù không ai nói ra, ai cũng biết chẳng còn lý do gì để mà chờ đợi trong sân nữa, và họ lặng lẽ bước theo ông bà Weasley trở vào trong Hang Sóc, và vào tới phòng khách, nơi Fred và George đang cười ha hả với nhau. “Có chuyện gì không hay?” Fred dò mặt mọi người khi họ bước vào phòng. “Chuyện gì đã xảy ra vậy? Ai…?” “Chú Mắt-Điên,” ông Weasley nói, “đã chết.” Nụ cười hai anh em sinh đôi biến thành cái méo miệng sững sờ. Dường như không ai biết phải làm gì. Cô Tonks âm thầm khóc trong chiếc khăn tay. Cô vốn gần gũi với thầy Mắt-Điên, Harry biết, thầy là người nó quý mến nhất, người che chở cho nó ở Bộ Pháp thuật. Bác Hagrid, ngồi trên sàn trong một góc nhà, nơi bác có được chỗ rộng rãi nhất, đang chậm nước mắt bằng cái khăn tay của bác có kích thước bằng tấm khăn trải bàn. Anh Bill đi tới tủ lấy ra một chai rượu đế lửa và vài cái ly. “Đây,” anh nói, và với một cái vẫy cây đũa phép, anh phát mười hai ly rượu đầy bay vụt ngang phòng đến từng người, anh giơ cao ly rượu thứ mười ba, “Mắt-Điên.” “Mắt-Điên,” tất cả cùng hô, và uống. “Mắt-Điên,” tiếng bác Hagrid vọng lại, chậm hơn một chút, kèm tiếng nấc cụt. Rượu đế lửa đốt cổ họng Harry. Dường như rượu hâm cảm xúc ấm lại trong người nó, làm tan đi nỗi tê dại điếng người và cảm giác phi thực, thiêu đốt nó với điều gì đó giống như lòng can đảm. “Vậy là Mundungus đã biến mất?” Thầy Lupin nói. Thầy đã uống một hơi cạn ly. Không khí thay đổi ngay lập tức. Mọi người tỏ ra căng thẳng, nhìn thầy Lupin, Harry cảm thấy như mọi người vừa mong thầy nói tiếp vừa hơi sợ điều họ có thể phải nghe. “Cháu biết chú đang nghĩ gì,” Bill nói, “và cháu cũng tự hỏi điều đó suốt trên đường về đây, bởi vì dường như chúng chực sẵn để đón đầu chúng ta, phải không ạ? Nhưng lão Mundungus không thể phản bội chúng ta. Chúng đã không biết là có bảy Harry, điều này khiến chúng lúng túng ngay khi chúng ta xuất hiện, mà chúng ta đừng quên rằng chính lão Mundungus là kẻ đưa ra cái mẹo bịp con con ấy. Tại sao lão không nói luôn cho chúng điều mấu chốt đó? Cháu nghĩ lão Dung bị hoảng loạn, đơn giản vậy thôi. Lão đã không muốn đi ngay từ đầu, nhưng chú Mắt-Điên ép lão, và Kẻ-mà-ai cũng-biết-là-ai-đấy tấn công thẳng họ. Nhiêu đó cũng đủ để ai cũng phải hoảng loạn rồi.” “Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đã hành động đúng như anh Mắt Điên dự đoán,” cô Tonks thút thít khóc. “Anh Mắt-Điên có nói hắn sẽ cho rằng Harry thật sẽ đi cùng Thần Sáng giỏi nhất, cứng cựa nhất. Hắn đuổi theo anh Mắt-Điên trước nhất, và khi lão Mundungus để lộ bí mật, hắn liền quay qua anh Kingsley…” “Đúng, lý lẽ đó đều rớt hay,” Fleur ngắt lời cô Tonks, “nhưng vỡn không giãi thích được làm sao họ biết chúng ta đưa Arry đi vào tối nay, đúng hông? Ắt là ai đó đã hông cẫn thận, ai đó đã lỡ lời đễ lộ cho người ngoài biết. Chĩ có cách đó mới giãi thích đượt tại sao hắn biết ngày nhưng hông biết toàn bộ kế hoạch.” Chị tức tối nhìn khắp tất cả mọi người, nước mắt vẫn còn lem nhem trên gương mặt xinh đẹp, ngầm thách thức bất cứ ai dám nói ngược lại. Không ai dám. Âm thanh duy nhất phá vỡ sự im lặng là tiếng nấc cụt của bác Hagrid, người vừa mới liều mạng sống của chính mình để cứu lấy mạng sống nó - bác Hagrid, người mà nó tin tưởng, người đã từng một lần bị lừa trao thông tin cực kỳ quan trọng cho Voldemort để đổi lấy một cái trứng rồng… “Không,” Harry nói lớn, và cả đám đều nhìn nó ngạc nhiên: rượu đế lửa dường như vừa tăng âm giọng nói của nó, “Ý tôi là… nếu có ai đó sơ xuất,” Harry nói tiếp, “và để lọt ra điều gì đó, tôi biết là người đó không có chủ tâm làm vậy. Không phải lỗi của người đó.” Nó lặp lại, một lần nữa giọng hơi to hơn bình thường. “Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau. Tôi tin tưởng tất cả mọi người ở đây, tôi không nghĩ bất cứ ai trong phòng này lại bán tôi cho Voldemort.” Lại sự im lặng nữa tiếp theo lời nói của nó. Tất cả mọi người đều đang nhìn nó: Harry lại cảm thấy nóng, và uống thêm mấy hớp rượu lửa để cho có việc mà làm. Khi nó uống, nó nghĩ đến thầy Mắt-Điên. Thầy Mắt-Điên lúc nào cũng phủ nhận thiện chí tin tưởng con người của cụ Dumbledore. “Nói khéo lắm, Harry,” Fred đột ngột nói. “Ừ nhỉ, nhĩ, nhĩ,” George nói, liếc Fred nửa cái, miệng anh chàng này bị cà giựt. Nét mặt thầy Lupin rất kỳ quặc khi thầy nhìn Harry. Nét mặt ấy gần như thương hại. “Thầy nghĩ con là đồ ngu à?” Harry hỏi. “Không, thầy nghĩ con giống James,” thầy Lupin nói, “anh ấy ắt hẳn đã coi việc không tin tưởng bạn bè là điều ô nhục nhất.” Harry biết điều thầy Lupin muốn ám chỉ: ấy là cha nó đã bị bạn mình là Peter Pettigrew phản bội. Nó cảm thấy tức giận phát điên lên được. Nó muốn cãi lại, nhưng thầy Lupin đã quay lưng lại nó, đặt cái ly của thầy lên một cái bàn nhỏ, và nói với anh Bill, “Còn việc phải làm. Tôi có thể hỏi anh Kingsley liệu…” “Không.” Anh Bill nói ngay, “cháu sẽ làm việc đó. Cháu sẽ đi.” “Anh đi đâu?” Cả cô Tonks và chị Fleur cùng nói. “Thi thể của Mắt-Điên,” thầy Lupin nói, “chúng ta cần tìm lại.” “Chẳng lẽ không thể…?” Bà Weasley mở lời với ánh mắt cầu khẩn nhìn anh Bill. “Đợi à?” Anh Bill nói, “Không, trừ khi má muốn cho bọn Tử Thần Thực Tử chiếm lấy?” Không ai nói gì nữa. Thầy Lupin và anh Bill chào từ giã và ra đi. Những người còn ở lại giờ đây đều ngồi phịch xuống ghế, tất cả ngoại trừ Harry, nó vẫn đứng. Với mọi người, sự bất ngờ và gọn ghẽ của cái chết như thể sờ thấy được. “Con cũng phải đi,” Harry nói. Mười cặp mắt sửng sốt ngó nó. “Con đừng dại, Harry à,” bà Weasley nói. “Con đang nói về chuyện gì vậy?” “Con không thể ở lại đây.” Nó xoa trán, cái thẹo lại nhói đau, hơn một năm nay nó đã không còn bị đau như vầy. “Tất cả mọi người sẽ bị nguy hiểm khi con ở đây. Con không muốn…” “Nhưng đừng có ngu ngốc như vậy!” Bà Weasley nói. “Toàn bộ vấn đề đêm nay là đưa được con về đây an toàn, và nhờ phước đức mà đã làm được. Và Fleur đã đồng ý làm đám cưới ở đây thay vì ở Pháp, chúng ta đã dàn xếp mọi việc để có thể ở cùng một nơi mà chăm sóc cho con…” Bà Weasley không hiểu. Bà đang khiến nó cảm thấy tồi tệ thêm, chứ chẳng nhẹ nhõm gì hơn. “Nếu Voldemort biết con ở đây…” “Nhưng mà làm sao hắn biết được chứ?” Bà Weasley hỏi. “Harry à, hiện giờ có đến một tá chỗ có thể coi là có con đang ở,” ông Weasley nói. “Hắn không có cách gì biết được con ở trong ngôi nhà an toàn nào.” “Không phải con lo cho chính con!” Harry nói. “Chúng ta biết điều đó,” ông Weasley khẽ nói, nhưng nếu con bỏ đi thì tất cả những cố gắng của chúng ta đêm nay trở nên vô nghĩa.” “Con không được đi đâu hết!” Bác Hagrid lầu bầu. “Mèn ơi, Harry à, bỏ đi sau mọi chiện mà bọn ta chải qua để đem con về đây hả?” “Ừ, còn cái tai đổ máu của anh thì sao?” George nói, hơi nhổm mình dậy trên đống nệm. “Con biết rằng…” “Chú Mắt-Điên sẽ không…” “TÔI BIẾT RỒI!” Harry rống lên. Nó cảm thấy bị bao vây và dọa dẫm: họ tưởng nó không biết họ đã làm gì cho nó sao, bộ họ không hiểu rằng chính vì cái lý do đó mà nó muốn ra đi lúc này, trước khi họ phải chịu đựng thêm đau khổ vì nó sao? Sự im lặng khó xử kéo dài, và trong khoảng thời gian đó cái thẹo của nó tiếp tục nhói đau và phập phồng. Cuối cùng bà Weasley phá vỡ sự im lặng. “Hedwig đâu, Harry?” Bà nói ngọt ngào. “Chúng ta có thể nhốt nó chung với con Pidwidgeon và cho nó ăn cái gì đó.” Ruột gan Harry quặn cục lại như một nắm đấm. Nó không thể nói với bà sự thật. Nó uống nốt ly rượu đế lửa để khỏi trả lời. “Harry à, chờ đi rồi thể nào chuyện cũng lộ ra là con lại thành công một phen nữa,” bác Hagrid nói. “Thoát khỏi tay hắn, đánh hắn chạy dài khi hắn ở ngay trên đầu con.” “Không phải con,” Harry nói thẳng thừng. “Mà là cây đũa phép của con. Cây đũa phép của con tự phản ứng theo ý nó.” Một lát sau Hermione nói nhẹ nhàng, “Nhưng không thể vậy được, Harry à. Ý bồ là bồ đã làm pháp thuật không chủ tâm; bồ đã phản ứng theo bản năng chứ gì.” “Không,” Harry nói. “Chiếc xe gắn máy rớt xuống. Lúc đó mình thật sự không biết được là Voldemort đang ở đâu, nhưng cây đũa phép của mình cứ quay tít trong tay mình, tìm ra hắn và phóng một câu thần chú vào hắn. Mình thậm chí còn không nhận ra đó là thần chú gì mà. Trước nay mình có bao giờ tạo được ngọn lửa vàng chóe nào đâu.” “Thường thường,” ông Weasley nói, “khi ở trong tình huống bị o ép, con có thể tạo ra phép thuật nhiệm màu mà con cũng chưa bao giờ mơ tới. Trẻ con thường gặp tình huống đó, trước khi chúng được huấn luyện…” “Không phải thế,” Harry nói qua kẽ răng nghiến chặt. Cái thẹo của nó đang cháy bỏng. Nó cảm thấy tức giận và tuyệt vọng; nó ghét cái ý nghĩ là mọi người đang tưởng tượng nó có sức mạnh tương đương với sức mạnh của Voldemort. Không ai nói gì. Nó biết là họ không tin nó. Bây giờ nó bắt đầu nghĩ lại, trước đây nó chưa hề nghe nói đến một cây đũa phép tự ý làm phép một mình. Cái thẹo của nó nhói đau, nó cố gắng hết sức mới không rên la. Lẩm bẩm gì đó về khí trời trong lành, nó đặt cái ly xuống và bỏ ra khỏi phòng. Khi nó đi ngang qua sân, con vong mã trơ xương ngước nhìn lên - vỗ vỗ đôi cánh giống như cánh dơi khổng lồ của mình, rồi lại tiếp tục gặm cỏ. Harry dừng bước bên cánh cổng của khu vườn, đăm đăm nhìn đám cây cối mọc um tùm, xoa cái trán đang giộng bưng bưng và nghĩ đến cụ Dumbledore. Cụ Dumbledore đã tin tưởng nó, nó biết điều đó. Cụ Dumbledore ắt biết tại sao và cách nào cây đũa phép của nó lại hành động độc lập như thế, bởi vì cụ Dumbledore luôn luôn có câu trả lời. Cụ biết nhiều về những cây đũa phép, cụ đã từng giải thích cho nó mối liên quan kỳ lạ giữa cây đũa phép của nó với cây đũa phép của Voldemort… Nhưng cụ Dumbledore, cũng như thầy Mắt-Điên, cũng như chú Sirius, cũng như ba má nó, cũng như con cú đáng thương, tất cả đều đã ra đi đến cõi mà Harry không bao giờ có thể chuyện trò với họ một lần nữa. Nó cảm thấy một cơn nóng cháy cổ họng không dính dáng gì tới rượu đế lửa… Và rồi bỗng nhiên cơn đau trong cái thẹo của nó bùng phát lên tột đỉnh. Khi nó bưng chặt trán và nhắm nghiền mắt lại, một giọng nói gào lên bên trong đầu nó. “Mi nói với ta rằng vấn đề sẽ được giải quyết bằng cách dùng cây đũa phép của một người khác!” Và bùng lên trong đầu nó hình ảnh một ông già gầy rộc nằm trên thảm trải trên một nền đá đang gào thét, một tiếng thét kinh hoàng kéo dài, một tiếng thét của nỗi đau đớn quá sức chịu đựng. “Đừng! Đừng! Tôi van ngài, tôi xin ngài…” “Mi lừa dối Chúa tể Voldemort, Ollivander!” “Tôi không hề… tôi thề là tôi không hề…” “Mi tìm cách giúp Potter, giúp nó thoát khỏi tay ta!” “Tôi thề là tôi không hề… Tôi đã tưởng là một cây đũa phép khác sẽ có hiệu quả…” “Vậy thì, hãy giải thích điều đã xảy ra. Cây đũa phép của Lucius đã bị hủy diệt!” “Tôi không hiểu nổi… mối liên kết… chỉ tồn tại… giữa hai cây đũa phép của ngài và của nó…” “Láo toét!” “Làm ơn… tôi xin ngài…” Và Harry nhìn thấy bàn tay trắng bệch giơ cao cây đũa phép và cảm thấy được cơn giận hiểm độc của Voldemort trào lên, nó nhìn thấy ông già bạc nhược quằn quại trong đớn đau cùng cực. “Harry?” Mọi chuyện biến đi nhanh cũng ngang như lúc hiện ra: Harry đứng run rẩy trong bóng tối, níu chặt cánh cổng vào khu vườn, tim nó đập dồn dập, cái thẹo của nó vẫn còn nhoi nhói. Một lát sau nó mới nhận ra Hermione và Ron đang ở bên cạnh. “Harry, trở vô nhà đi,” Hermione thì thầm. “Bồ đâu còn nghĩ đến chuyện bỏ đi nữa hả?” “Ừ, bồ phải ở lại đây, bồ tèo à!” Ron nói, đấm thùm thụp lên lưng Harry. “Bồ không sao hả?” Hermione hỏi, cô bé lúc này đã đến sát bên Harry đủ để nhìn vào gương mặt nó. “Trông bồ khủng khiếp quá!” “À,” Harry nói giọng run run, “Mình có lẽ trông còn khá hơn ông Ollivander…” Khi nó kể xong cho hai đứa bạn những gì nó thấy, Ron tỏ ra khiếp đảm, nhưng Hermione thì kinh hoàng thực sự. “Nhưng lẽ ra chuyện đó không thể diễn ra nữa! Cái thẹo của bồ… lẽ ra nó không thể làm vậy được nữa! Bồ không được để cho mối liên kết đó nối lại lần nữa… Thầy Dumbledore muốn bồ đóng đầu óc lại mà!” Trong lúc Harry không trả lời được, Hermione nắm chặt cánh tay nó. “Harry, hắn đang chiếm Bộ Pháp thuật, chiếm báo chí truyền thông và một nửa thế giới pháp thuật! Đừng để hắn cũng lọt luôn vào đầu óc bồ.” 6 CON MA XÓ MẶC ĐỒ NGỦ N ỗi điếng người vì mất thầy Mắt-Điên lơ lửng trong ngôi nhà suốt những ngày sau đó. Harry cứ trông mong được thấy thầy lộc cộc đi qua cánh cửa sau để vào nhà như những Hội viên khác vẫn xẹt vô để tiếp vận tin tức. Nó có cảm giác tội lỗi và đau buồn, và nó phải khởi hành thực hiện nhiệm vụ tìm và diệt những Trường Sinh Linh Giá càng sớm càng tốt. “Ái chà, bồ đâu có thể làm được gì mấy cái…” Ron nhăn mặt đọc rõ từng chữ Trường Sinh Linh Giá, “trước khi tròn mười bảy tuổi đâu. Bồ vẫn còn bị ếm Dấu Hiện mà. Vả lại tụi mình vẫn có thể bàn tính kế hoạch tại đây hay tại đâu cũng được mà, đúng không? Hay là…” nó hạ thấp giọng thì thào, “bồ cho rằng bồ đã biết Cái-mà-ai cũng-biết-là-cái-gì-đó ở đâu rồi?” “Không,” Harry thừa nhận. “Mình nghĩ lâu nay Hermione có nhiệm vụ nghiên cứu chút đỉnh,” Ron nói. “Nó nói để dành đợi bồ đến đây.” Tụi nó đang ngồi ở bàn điểm tâm. Ông Weasley và anh Bill vừa mới đi làm. Bà Weasley đã lên lầu đánh thức Hermione và Ginny trong khi chị Fleur đã phất phơ đi tắm. “Dấu Hiện sẽ hết linh vào ngày băm mốt,” Harry nói. “Nghĩa là mình chỉ cần ở đây bốn ngày, sau đó mình có thể…” “Năm ngày,” Ron chỉnh nó một cách nghiêm nghị. “Tụi mình phải ở đây để dự đám cưới. Tụi mình mà bỏ lỡ cái đám cưới này thì họ sẽ giết tụi mình.” Harry hiểu họ tức là chị Fleur và bà Weasley. “Chỉ thêm có một ngày mà thôi,” Ron nói, khi trông thấy cái mặt Harry muốn nổi loạn. “Chẳng nhẽ họ không nhận thức được tầm quan trọng…” “Dĩ nhiên là không,” Ron nói. “Họ có biết quái gì đâu. Và bây giờ, nhân bồ nhắc tới, mình cũng muốn bàn với bồ về chuyện đó.” Ron liếc về phía cửa mở vào hành lang để chắc là bà Weasley chưa quay trở lại, rồi nó chồm tới gần Harry hơn. “Hổm rày má cứ tìm cách moi móc Hermione và mình. Để biết chuyện mà tụi mình toan tính đó. Bồ sẽ là đứa tiếp theo má tra gạn, liệu mà giữ mình. Cả ba và thầy Lupin cũng đã hỏi rồi, nhưng khi tụi này nói cụ Dumbledore dặn bồ không được nói với ai hết, ngoại trừ tụi này, thì họ không hỏi nữa. Nhưng má vẫn không chịu thôi. Má kiên quyết lắm.” Điều Ron tiên đoán đã trở thành hiện thực chỉ trong vài giờ. Trước giờ ăn trưa một chút, bà Weasley tách Harry ra khỏi những người khác bằng cách nhờ nó xác nhận giúp một chiếc vớ nam lẻ đôi mà bà nghĩ có lẽ đã rớt ra từ cái ba lô của Harry. Khi đã cô lập được nó trong phòng tắm giặt ở ngoài nhà bếp, bà bắt đầu. “Hình như thằng Ron với con Hermione tính là ba đứa con sẽ bỏ học ở trường Hogwarts,” bà bắt đầu bằng giọng tự nhiên nhẹ nhàng. “Ơ,” Harry nói. “À, dạ. Tụi con sẽ nghỉ học.” Cái chậu giặt tự động xoay ở góc phòng, vắt ra một thứ giống như áo vét của ông Weasley. “Cho phép bác hỏi tại sao con bỏ ngang việc học của mình?” Bà Weasley nói. “Dạ, thầy Dumbledore để lại cho con… việc phải làm,” Harry ấp úng. “Ron và Hermione biết việc đó, và tụi nó cũng muốn đi cùng.” “Việc gì?” “Con xin lỗi, con không thể…” “Chà, thành thật mà nói, bác Arthur và bác có quyền được biết và bác chắc chắn là ông bà Granger cũng đồng ý với bác!” Bà Weasley nói. Trước đó Harry đã lo sợ về một cuộc công kích của “phụ huynh có liên quan”. Nay nó buộc mình phải nhìn thẳng vào bà Weasley, và khi làm vậy nó nhận ra ánh mắt bà giống y chang ánh mắt nâu sẫm của Ginny. Nhưng chi tiết này cũng chẳng tích sự gì. “Thầy Dumbledore không muốn cho bất cứ ai khác biết, bác Weasley à. Con rất tiếc. Ron và Hermione không cần phải đi, đó là tự các bạn ấy…” “Bác thấy con cũng không cần phải đi!” Bà ngắt lời nó, giờ thì bà không cần làm bộ nữa. “Các con vẫn chưa đủ tuổi trưởng thành, cả ba đứa con! Thiệt vô lý hết sức, nếu cụ Dumbledore thấy có việc gì cần phải làm thì cụ đã có sẵn cả một Hội mà sai khiến! Harry à, chắc là con đã hiểu lầm cụ. Có lẽ cụ dặn con điều gì đó cụ muốn được làm, và con đã tưởng cụ muốn con làm…” “Con không hiểu lầm,” Harry nói thẳng thừng. “Phải là chính con làm.” Nó đưa trả chiếc vớ lẻ mà nó được giao nhiệm vụ nhận dạng, chiếc vớ có hoa văn hình cỏ chỉ vàng. “Và cái này không phải của con, con đâu có ủng hộ đội Puddlemere United.” “Ủa, đương nhiên là không phải rồi,” bà Weasley nói giọng chưng hửng và hơi dịu xuống trở lại giọng nói tự nhiên của bà. “Đáng lẽ bác phải nhận ra chứ nhỉ. À, Harry, trong thời gian con còn ở đây, con không ngại giúp một tay chuẩn bị cho đám cưới của Bill và Fleur chớ, hả con? Vẫn còn cả đống việc phải làm.” “Vâng… Con… dĩ nhiên con không ngại,” Harry nói, lúng túng vì sự đổi đề tài đột ngột này. “Con ngoan lắm,” bà Weasley nói, và bà mỉm cười khi rời khỏi phòng rửa chén. Từ lúc đó trở đi, bà Weasley khiến Ron, Hermione và Harry tất bật với việc chuẩn bị cho đám cưới đến nỗi không còn thì giờ nghĩ ngợi nữa. Lời giải thích tử tế nhất cho thái độ này là có lẽ bà Weasley muốn phân tán tâm trí chúng khỏi những suy tư về thầy Mắt-Điên và những nỗi kinh hoàng trong chuyến đi vừa rồi của tụi nó. Nhưng sau hai ngày không nghỉ tay giặt ủi, sắp xếp cho hài hòa màu sắc những phù hiệu, ruy-băng, và hoa lá; bắt quỷ lùn trong vườn và giúp bà Weasley nấu những mẻ bánh khổng lồ, Harry bắt đầu nghi ngờ bà có động cơ khác. Tất cả những công việc bà sai