🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hạnh Phúc Thật Giản Đơn
Ebooks
Nhóm Zalo
HẠNH PHÚC THẬT GIẢN ĐƠN
Những lời khen tặng
Đọc xong cuốn sách Hạnh phúc thật giản đơn, tôi cảm thấy sách giản dị như chính con người của tác giả vậy. Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh cũng mang tâm từ của mình rải khắp nơi. Dù gặp gỡ bất cứ ai, anh cũng quan tâm
và dành cho họ cái nhìn trìu mến. Qua cuốn sách, tôi cũng cảm nhận được trong anh đã có sự chuyển hóa mạnh mẽ.
Hạnh phúc thật giản đơn chứa đựng tâm tư, suy nghĩ cùng những trải nghiệm của chính tác giả về cuộc đời qua góc nhìn chân thực của một doanh nhân, Phật tử. Mỗi câu chuyện trong cuốn sách vừa là lời độc thoại, vừa là những đối thoại của tác giả với mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ trong cuộc sống hôm nay.
LÊ VĂN THÀNH
Tổng Giám đốc Tổng công ty Cổ phần Bảo Minh
Gặp lại TS. Nguyễn Mạnh Hùng mấy năm trở lại đây, tôi vô cùng ngạc nhiên nhận thấy sự chuyển hóa lớn lao trong con người anh. Tôi nhận thấy một dòng năng lượng hỉ lạc sống động, mạnh mẽ luôn hiện hữu bên trong một con người nhìn bên ngoài hết sức giản dị, nhưng giàu lòng trắc ẩn. Qua tìm hiểu về anh và đọc những trang sách anh viết, tôi đã dần hiểu ra rằng, có lẽ may mắn nhất trong cuộc đời của anh là đã có duyên lành được gặp Phật pháp, được thọ trì và thực hành theo giáo pháp thâm sâu và vi diệu của Đức Phật. Để giúp chuyển hóa khổ đau, cân bằng cuộc sống, theo TS./Phật tử Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng, mỗi người chúng ta đều cần học cách điều phục tâm mình vì tâm ta là nguồn cội của mọi vấn đề qua việc thực hành hàng ngày một số phương pháp đơn giản mà hiệu quả như tập thở, tập cười, tập nhìn đời bằng con mắt yêu thương... Cuốn sách Hạnh phúc thật giản đơn là thể hiện tâm nguyện cháy bỏng của anh được chia sẻ với tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ “bí quyết giản đơn” mà anh đã tự mình chứng thực qua nhiều năm thực hành miên mật giáo lí Đạo Phật để có được an lạc và hạnh phúc chân thực ngay trong đời sống hàng ngày đầy căng thẳng, lo âu như hiện nay.
ĐẶNG THỊ HỒNG THÚY
Giám đốc điều hành Công ty Luật Quốc tế D&N
Tôi rất vui mừng khi được đọc cuốn sách Hạnh phúc thật giản đơn của tác giả, TS. Nguyễn Mạnh Hùng. Bằng cách viết thông qua các mẩu chuyện ngắn gọn, đơn giản, súc tích nhưng đầy ý nghĩa, tác giả đã giúp người đọc nhận ra được những giá trị rất sâu sắc sau mỗi câu chuyện.
Trong cuộc sống hiện tại, mỗi người chúng ta ai cũng tìm kiếm, ai cũng mưu cầu có được hạnh phúc, song không phải ai trong cuộc sống này cũng tìm thấy hạnh phúc. Có những con người kiếm tìm cả cuộc đời cũng không bao giờ cảm nhận, không bao giờ tìm thấy hạnh phúc. Có những người đã tưởng tìm thấy hạnh phúc song lại nhận ra rằng đó không phải là hạnh phúc mình đang kiếm tìm.
Chân thành cảm ơn tác giả đã đưa đến cho người đọc một tư duy mới, một giá trị giản dị của Hạnh phúc.
ĐẶNG QUỐC DŨNG
Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Tin học,
Công nghệ, Môi trường – Vinacomin
Cuốn sách Hạnh phúc thật giản đơn của doanh nhân Phật tử Nguyễn Mạnh
Hùng đã đem đến cho chúng ta cảm nhận mới mẻ qua những trải nghiệm của chính bản thân tác giả trong thực tế cuộc sống. Tôi nhận thấy trong cuốn sách của anh những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội qua các câu chuyện giản dị, cô đọng nhưng giàu ý nghĩa. Tác giả rất quan tâm tới CON NGƯỜI, những giá trị tiềm ẩn của con người trong cuộc sống và sự chuyển hóa để giúp con người có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuốn sách là một tác phẩm mang nhiều giá trị nhân văn, chắc chắn sẽ đem đến cho độc giả những suy tư mới, thêm yêu đời, yêu người trong cuộc sống xã hội hôm nay.
ĐÀO THẾ VINH
CEO Golden Gate Restaurant Group
Cuốn sách khiến cho những người còn ít hiểu biết có cái nhìn đúng đắn hơn về sự huyền diệu của Đạo Phật đối với cuộc sống. Không như những cuốn sách giáo lí khô khan dạy về những việc phải làm, những câu chuyện trong Hạnh phúc thật giản đơn, như đúng tên gọi của nó, dễ đọc, dễ hiểu và như những lời gợi ý nhẹ nhàng cho người đọc suy ngẫm sâu hơn về ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Những câu chuyện ở đây không phải nhằm gây ấn tượng thật mạnh mẽ mà giúp người đọc bình tâm nhìn lại chính mình trong cuộc đấu tranh với “kẻ thù lớn nhất” – đó là chính bản thân mình. Một cuốn sách đáng đọc cho những bạn trẻ đang trên bước đường lập nghiệp, nó giúp cho người đọc giữ được trạng thái quân bình trong một xã hội nhiều biến động mà chúng ta đang sống hôm nay.
KIỀU NGỌC ANH
Giám đốc Công ty Kiều Gia
Mỗi câu văn, tựa đề, câu chuyện Thầy viết ra đây đều đề cập đến một khía cạnh khác nhau của cuộc sống hiện tại, đáng để cho ta phải suy ngẫm, nhưng tất cả đều toát lên cái tình tha thiết chia sẻ yêu thương rất thật, rất đời thường và gần gũi. Nhất là trong lĩnh vực tâm linh tôi cảm nhận được sự hạnh phúc an lạc của Thầy, cảm thấy như Thầy đang hòa mình trong cảnh giới cực lạc ở Tây phương, đang thẩm thấu từng tiếng kệ lời kinh của Phật dạy. Thầy truyền sự phấn khích hoan hỉ của Thầy khiến cho ai đọc cũng cảm nhận được nguồn năng lượng từ Thầy lan tỏa… lan tỏa khắp muôn nơi! Để từ đấy mọi người hiểu được sự vi diệu của Phật pháp, hiểu được giá trị của sự tinh tấn tu tập vì khi biết tu tập, biết sửa mình từng ngày, từng giờ thì mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Và từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp.
ĐẶNG THỊ KIM THỦY
Giám đốc Công ty Việt Tân Phát
Trong nhịp sống vội vã hiện đại ngày nay, thật hiếm khi gặp được những người như anh Nguyễn Mạnh Hùng. Với tâm từ của một thiền giả và kinh nghiệm phong phú của một người thầy, anh thường chọn cách hiệu quả nhất là kể chuyện để chia sẻ việc thiền tập và kinh nghiệm ứng dụng của thiền vào cuộc sống. Những câu chuyện anh kể nhắc chúng ta xem xét lại mình, về mục đích thật sự của cuộc sống và hạnh phúc mà ta đang theo đuổi. Và rồi, thật ngạc nhiên và thật đẹp là chúng động viên ta qua suy nghĩ, lời nói và hành động – thực hành ngay những điều rất đơn giản và có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống hàng ngày nhưng chắc chắn sẽ giúp ta cảm thấy cuộc đời và cuộc sống của mình trở nên ngày càng đẹp hơn và ý nghĩa hơn cho bản thân mình và mọi người xung quanh.
Thiền sinh LÂM THÀNH BỬU SƠN
Lời giới thiệu
Tôi rất bận, thậm chí đôi khi còn ngạo muội nghĩ rằng có lẽ chẳng ai có thể bận hơn mình, nhưng được anh (mà mọi người hay gọi bằng cái nick là Hùng Thái Hà Books) đề nghị tôi viết vài lời cho cuốn sách của anh.
Cảm nhận đầu tiên của tôi có lẽ đây là cuốn sách tâm huyết của anh và tôi cắm đầu vào đọc. 48 câu chuyện ngắn, tản mạn từ con kiến, con gián đến nghĩa trang của những sinh linh bé nhỏ, đến địa ngục cho những kẻ lười, đến những ngôi chùa uy linh… đã cuốn hút tôi, bắt tôi theo bám từng chữ, nghiền ngẫm từng ý tứ, thông điệp mà anh muốn qua đó truyền tải cho bạn đọc…
Và cuối cùng tôi đã hiểu ra một điều mà chính tựa đề của cuốn sách đã nói ngay từ đầu: Hạnh phúc thật giản đơn. Cuốn sách giúp người đọc tìm ra được những phương pháp để làm mình được hạnh phúc, đó là: Tư duy tích cực, đơn giản hóa các vấn đề, không làm việc quá sức, nghỉ ngơi thư giãn, cân bằng các mối quan hệ…
Cảm ơn anh Hùng đã đem đến cho độc giả một món ăn tinh thần mới. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Trần Văn Hùng M.Sc.
Tổng Giám đốc Sonnam Xanh
Niết bàn ngay giữa cuộc đời này
Chút hương vị cho đời
Ôi 30 năm lưu dấu một hình ảnh thân thương, một hình ảnh tâm bất động, sau những biến cố thăng trầm của thời cuộc làm cây cũng ngả đổ. Gió bỗng thổi mạnh. Con người ẩn tàng như cánh hồng hạc qua sông!
Mấy ngày trước, chúng tôi được Hòa thượng Thích Thái Hòa cho biết tin là Thầy sẽ có chuyến du hành về miền Tây. Nơi Thầy sẽ đến là chùa Giác Long, tỉnh Đồng Tháp do Hòa thượng Thích Minh Tấn làm trụ trì. Hòa thượng với Thầy cùng thế hệ học tăng của Già Lam cách đây ba mươi năm.
Con số của mỗi bước chân hành giả vụt bay như ánh chớp chiều tà, tiếng sóng vô ngôn. Bất chợt nhìn lại sau các tờ tạp chí Hoằng Pháp, Pháp Luân, Đạo Phật Ngày Nay, Giác Ngộ càng thấy thời gian bay nhanh quá. Chuyến đi ngược về quá khứ chính thức bắt đầu.
Thầy Tịnh Tâm tại thiền viện Quảng Đức là học trò của Hòa thượng Minh Tấn đã hướng dẫn cho đoàn về tới xứ “cò bay thẳng cánh”. Ngôi chùa khang trang, hiền hòa bên những cánh đồng lúa bất tận và vườn hoa mùa tết ngát hương. Thầy trò và cả đoàn có dịp ngỡ ngàng trước cảnh đẹp nơi đây, trước hương hoa miền Tây. Rất khác biệt.
Trên đường tới chùa Giác Long, Hòa thượng Thích Thái Hòa đã nhận lời ghé thăm nhà của cô Ẩn. Khi đoàn về tới nhà cô thì cũng đã xế trưa. Miền Tây đang là mùa nước nổi, trong nhà cô, nước đã tràn vào lấp xấp. Ngoài vườn không phân biệt được đâu là ao nước, đâu là vườn. Tuy nhiên giữa mênh mông là nước, thật diệu kì có một cây sen duy nhất nở một bông hoa duy nhất tuyệt đẹp.
Khi Hòa thượng và đoàn chuẩn bị thọ trai, Thầy đã được kính dâng đóa hoa sen tuyệt đẹp kèm theo lời thưa rằng: “Con vừa chèo thuyền ra hái đóa hoa duy nhất này để kính dâng lên Thầy”. Hòa thượng Thích Thái Hòa đã ban tặng cho ngôi nhà của hai nữ thí chủ một cái tên vô cùng ý nghĩa “Bích Ẩn Liên Hoa”. Để rồi sau thời cơm quán ngọ, tất cả có mặt tại chùa Giác Long.
Cái nắm tay thật chặt, cái hơi thở ngưng đọng lại sau bao nhiêu năm huynh đệ li biệt. Những câu chuyện tuy nhỏ, nhỏ hơn hạt cát giữa sa mạc, nhỏ li ti như sương đọng ven bờ, nhưng than ôi, trong đó nhị vị Hòa thượng đã ẩn chứa bao điều muốn nói với bạn lữ, với những ai đang hăng say tìm tòi giấc
mộng mị. Cũng ở đây, vào giờ phút này, Hòa thượng đã nhấp lại hớp trà Thiết Quan Âm. Ngọt lịm. Có vị chát. Hơi khói của chén trà bốc lên như phong ba chuyển thành tại vị tĩnh mặc giữa tang hồ.
Buổi chiều cả đoàn di chuyển sang thủ phủ Tây Đô theo lời thỉnh ước của hai gia chủ tại Cần Thơ. Hòa thượng và mọi người đến Cần Thơ cũng vào lúc xế chiều. Bóng hoàng hôn cũng pha trộn lẫn ánh điện ảo huyền khi xe lăn bánh qua cầu Cần Thơ. Phía kia là bến Ninh Kiều. Chợt đọc bài thơ Biết nhau có trong Sương đọng ven trời được mọi người tự đặt cho tên của chiếc cầu.
“Người về
từ cõi vô biên,
Trắng thơm đại nguyện
trăm miền bước đi.
Người về
với chiếc hoàng y,
Với bình minh
giữa tà huy diệu vời.
Trăm năm
là chuyện của đời,
Chiêm bao là chuyện
của người ngủ say.
Cõi tình
là cõi bụi bay,
Người về đi giữa
cõi nầy mà chơi.
Giúp đời
một chút thảnh thơi,
Giúp đời chỉ một
nụ cười nguyên sơ.
Giúp đời
một chút tình thơ,
Chút tình từ thuở
đôi bờ biết nhau”.
Sau chặng đường đoàn đi từ Đồng Tháp đến thành phố Cần Thơ, trời bắt đầu tắt nắng. Hơn 18 giờ tối, Hòa thượng và mọi người mới tới ngôi nhà đầu tiên
của Phật tử để dùng bữa cơm thân mật cùng với một số nhân sĩ trí thức tại nhà của Phật tử Hoa Phượng. Chủ đề chia sẻ tối đó của Hòa thượng Thích Thái Hòa là “Cần bảo hộ từ những cái thật nhỏ”. Chỉ một vài giờ thôi thế mà buổi nói chuyện dễ gần, chan chứa ý nghĩa và những lời dạy Thầy dành cho mọi người ở đây như đọng lại mãi.
Rồi các Phật tử cùng Hòa thượng sang biệt phủ Cồn Khương, nơi một gia đình xây dựng khu thiền thất để tu học và tạo thiện duyên thêm cho bạn bè, người thân có cơ hội tiếp xúc với lời Phật dạy qua những buổi giảng pháp của chư tôn đức.
Không gian khá mát mẻ bên bờ sông Hậu lộ lên sự thanh tịnh của một ngôi nhà có nhiều cây cối, hoa cỏ và từng lối đi thật là thiền vị. Thầy và tất cả đoàn bước vào thiền đường để ngồi dùng nước và trái cây. Sau đó Thầy đi dạo quanh khu vườn, cách đây hai năm trước, đoàn thợ Huế từ Dương Xuân Thượng và Vân Quật Thượng vào hành nghề. Công trình xây dựng đầu năm 2009 và hoàn tất vào năm 2010. Thật tuyệt vời!
Buổi tối các học trò mời Thầy tham dự buổi pháp đàm. Ánh trăng non nhấp nhô trên lưu vực sông Hậu và làn gió thanh khiết đã làm cho đêm nói pháp của Hòa thượng Thích Thái Hòa thêm ý vị. Pháp âm của Hòa thượng thật sâu sắc, đem đến cho thính chúng những khái luận thật tế đại đạo. Buổi trò chuyện Phật pháp kéo dài tới quá khuya như không muốn ngừng.
Rạng sáng hôm sau, Hòa thượng có buổi hành lễ, đảnh lễ Pháp thân Chư Phật và chúc tán trên một trăm danh hiệu Phật và liệt vị Tổ sư.
Sau khi khóa tụng niệm vừa xong, Thầy lại ban đạo từ cho quý Phật tử theo sự thỉnh nguyện, dâng lời tác bạch của gia chủ khu thiền thất. Những lời giáo huấn của Thầy vào sáng sớm thật hạnh phúc và đem nguồn ánh sáng chánh niệm có mặt cho tự thân.
Thời pháp kéo dài hơn 45 phút. Ngay sau đó Thầy đã ban tặng cho thiền thất Cồn Khương tên mới “Đạo Nguyên Hương Thất”. Rồi Thầy đã đặt bút ký tặng sách và mời tất cả cùng đi kinh hành với Thầy trong không gian bình minh bên bờ sông Hậu.
Trong buổi dùng điểm tâm sáng cùng với các đạo hữu doanh nhân, thức giả, học trò của mình, Thầy chia sẻ: “Làm thế nào để thời gian là thời gian”. Thầy còn viết thư khuyến tấn hai thí chủ mỗi ngày giữ tâm bình thản, đừng bị thời gian dao động và che mờ đi sự trong sáng của tâm giác ngộ, sự hữu
duyên của mình đối với Tam Bảo và nguyện cùng nhau làm bạn đồng hành trên con đường thực hành chánh pháp.
Trên đường trở về Sài Gòn trong cùng ngày, Hòa thượng Thích Thái Hòa nhận được lời thỉnh cầu của gia đình Phật tử Tâm Lí ghé tư thất thọ trai và xin Thầy ban một thời pháp thoại ngắn. Thầy đã hoan hỉ chấp nhận.
Đoàn về tới nơi tại Bình Chánh khoảng 18 giờ cùng ngày. Sau khi thọ trai nhẹ buổi tối, Thầy đã có một thời pháp thoại quý báu với nội dung “Nhiếp phục cơn giận” dành cho gia chủ và các thân hữu cùng toàn thể học trò. Mặc dù Hòa thượng đã phải di chuyển liên tục bằng xe từ Huế qua Nha Trang vào Ninh Thuận đến Sài Gòn và đi miền Tây rồi quay về Sài Gòn nhưng với tinh thần phụng sự chúng sinh, Thầy đã không quản ngại nói pháp và chia sẻ những khúc mắc trong cuộc sống cho toàn thể đại chúng tới gần 12 giờ khuya. Dù không muốn nhưng buổi pháp đàm buộc phải kết thúc để sáng hôm sau Thầy còn phải ra sân bay sớm về lại Huế, chuẩn bị cho chuyến hoằng pháp tại miền Bắc sắp tới trong niềm tiếc nuối của toàn thể đại chúng.
Chuyến đi kết thúc. Ai cũng tiếc nuối. Mong sao có thêm những chuyến đi cùng Thầy, bên Thầy. Chúng ta đang trên con đường tu tập hướng đến giải thoát. Và rằng đây là con đường dài trong khi chúng ta mới đi được một chặng nhỏ. Trên con đường này, thiếu những người thầy hướng dẫn, thiếu các bậc thiện tri thức và thiếu những bạn đồng tu thì vô cùng khó khăn. May thay, các học trò chúng tôi đã có một người thầy tốt, dễ gần, tận tình chỉ bảo. Mỗi ngày, nghe theo lời Thầy, học theo Đức Phật chúng tôi đang tinh tấn tu tập để mong có thêm chút hương vị cho đời.
Mong sao chút hương vị cho đời mà mỗi Phật tử chúng ta có được trong quá trình tu tập tiếp tục tỏa hương đến với đông đảo các Phật tử trên mọi miền đất nước và khắp thế giới. Mong sao những phút giây bình an này đọng lại dài lâu trong tâm trí mỗi chúng ta. Mong làm sao!
Bố mẹ ơi, con rất muốn nói
Những đứa con không được sinh ra thật đau khổ và oan khiên. Nhưng chúng có tâm rất từ bi – tha thứ tất cả cho các bậc sinh thành.
Tôi đi công tác thành phố Hồ Chí Minh. Được biết ở chùa Phước Huệ, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng tổ chức đại trai đàn cầu siêu giải oan bạt độ cho các vong linh thai nhi chẩn tế âm linh cô hồn nguyện cầu quốc thái dân an, tôi lập tức lên đường. Phần vì tôi tò mò, phần vì muốn trực tiếp tham gia vào chương trình lớn và ý nghĩa kéo dài hai ngày ngay trong mùa Vu Lan báo hiếu này.
Đập vào mắt tôi là những tấm áp phích treo trong khuôn viên chùa với tâm sự của những em bé không được sinh ra. Những đứa bé bị cha mẹ bỏ đi ở các lứa tuổi khác nhau, từ một vài tháng cho đến 5-7 tháng. Những đứa trẻ không may mắn được sinh ra làm người.
Trước đây, tôi chỉ biết đến nghĩa trang đồng nhi ở Nha Trang. Nay đến đây mới biết rằng, có biết bao nghĩa trang như vậy ở rất nhiều tỉnh và thành phố trên cả nước: Đồng Nai, Pleiku, Nam Định, Đắc Nông… Và tôi cũng giật mình khi biết tại nghĩa trang dành cho các bé chưa kịp chào đời ở tỉnh miền núi Pleiku đã lên đến con số 10 ngàn! Còn nghĩa trang đồng nhi Hương Hồ, Hương Trà, Thừa Thiên – Huế từ ngày thành lập đến nay đã chôn cất gần 42 ngàn sinh linh. Một con số làm tôi giật mình và ngẩn ngơ suy nghĩ!
Hiện nay chưa có con số chính thức về số ca phá thai trong cả nước. Tuy nhiên, trước khi viết bài này, tôi được một người bạn làm bác sĩ tại một bệnh viện lớn tại Hà Nội cung cấp một thông tin: Tại bệnh viện anh đang làm, con số nạo hút thai cũng lên đến 10 ngàn ca một năm. Lại thêm một con số 10 ngàn biết nói nữa.
Tôi được đọc và nhìn thấy những con người nhân đạo làm một việc phước đức khó tin – đi lượm những thai nhi bị bỏ về chôn. Đó là những nhóm người hay cá nhân đơn lẻ. Đó là những thanh niên hay người lớn tuổi. Đó là cả những cụ già đã gần đất xa trời.
Tôi như lặng người đi khi dừng trước tấm áp phích và bức ảnh cụ Phạm Thị Cường 73 tuổi, lang thang đi khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi về chôn tại nghĩa trang xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Tôi như nghe thấy tiếng nấc của bà: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén hương thơm mong các con được an nghỉ”.
Nhiều ngày trước khi diễn ra lễ cầu siêu đặc biệt này, các bậc cha mẹ đã từng phá thai hoặc ít nhất một lần bỏ đi giọt máu của mình đã đến chùa để kê khai. Sư thầy Thích Thái Thuận, trụ trì chùa Phước Huệ nói với tôi rằng sư đã gặp biết bao người cha người mẹ như vậy. Sư nói với họ rằng, các con đến đồn công an là phải khai hết tội lỗi, nay trước Tam bảo phải nói thật. Nói thật ra để còn làm lễ cầu siêu”. Nhà chùa cũng đã viết sớ và biển tên cho từng hương linh nhỏ để các bậc sinh thành mang vào làm lễ cầu siêu trong hai ngày 07 và 08/07 âm lịch.
Bạn có thể không tin nhưng có những người cha, người mẹ đã phá thai đến 12 - 14 lần. Kỉ lục về việc bỏ những đứa con chưa kịp ra đời thuộc về một phụ nữ với 18 lần. 18 đứa con không được sinh ra! Chỉ khi bạn được tiếp xúc với những người mẹ này bạn mới hiểu được nỗi lòng của họ. Đau xót lắm! Ân hận lắm!
Nguyên nhân dẫn đến việc những đứa trẻ không được chào đời rất nhiều. Nguyên nhân chính là sự lỡ làng trong quan hệ nam nữ. Những thai nhi bị bỏ một cách vội vàng và nhiều trường hợp được cho vào túi ni lông và vứt đi. Nhiều trường hợp thai nhi nằm trong thùng rác!
Trên tay tôi lúc này là tập giấy nhỏ mang tên “Những lá thư không gửi” do nhà chùa và những ai tâm huyết phát cho các Phật tử. Có lẽ mong muốn của nhà chùa và các Phật tử nơi đây là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về đạo đức và lối sống. Họ mong cho các bạn trẻ hiểu biết về tác hại của việc phá thai, để nam nữ thanh niên giảm bớt những sai lầm đáng tiếc.
Có đọc mới hiểu được nỗi lòng của những em bé không được chào đời. Mà bạn chỉ cần nhìn mục lục thôi có lẽ cũng muốn rơi nước mắt: Xin mẹ để cho con được sinh; Lời cầu xin của con; Qua nghĩa trang đồng nhi; Lời con trong bụng mẹ; Tiếng kêu cứu của một thai nhi; Vì sao phá thai là một tội lỗi không thể tha thứ; Xin cha mẹ an lòng, con không trách; Nhật kí của bé không bao giờ chào đời…
Những đứa bé không được chào đời. Mỗi ngày có bao nhiêu đứa trẻ không may mắn như thế này! Người lớn chúng ta thiếu kiềm chế, không biết quản lí bản thân, sống phóng túng, để rồi bao sinh linh vĩnh viễn không thành người. Tội lỗi lắm bạn ơi!
Thay vì lời kết và thay cho lời tâm sự của các sinh linh này, tôi xin chép ra đây những dòng của tác giả Hàn Lệ Thu:
Con run rẩy van xin trong bụng mẹ,
Đừng bắt con mất tiếng khóc chào đời
Ngày lại ngày… hồi hộp… Mẹ, Ba ơi,
Suy nghĩ kĩ: Cho con quyền được sống…
Và một câu khác ở một bài khác:
… Con lạnh quá! Mong chờ nhang sưởi ấm
Cho hồn con và tất cả bạn bè
Con tha thứ, thương Ba Mẹ nhiều lắm!
Nhạc thiên thần, đồng tấu Mẹ Ba nghe…
Viết đến đây tôi như nghe vang vọng giọng của các bé: “Bố mẹ ơi con rất muốn nói rằng con tha thứ cho bố mẹ. Con yêu quý bố mẹ và mong bố mẹ cùng các cô chú đừng sai lầm thêm nữa.”
Hai ngày cầu siêu cho các vong linh thai nhi thật ý nghĩa. Tôi biết rằng rất nhiều trong số các con đã được siêu sinh. Ngoài chùa Phước Huệ ra, còn nhiều chùa khác cũng đã và đang làm lễ cầu siêu. Mùa Vu Lan đang bên mỗi chúng ta.
Và tôi nguyện rằng, mỗi chúng ta tập biết giữ giới, tập sống trong yêu thương. Rằng nếu chẳng may chúng ta có phạm giới, dù lớn hay nhỏ mà biết sám hối thì sẽ thấy thanh thản và bình an. Hơn thế nữa, mỗi chúng ta cần tuyên truyền và chia sẻ để mọi người quanh ta sống tốt hơn, thiện hơn. Mỗi ngày.
Sống tại chùa - Pagodastay tại sao không?
Là người đã từng sống trong chùa nhiều lần, có những đợt đến mười ngày nên tôi hiểu giá trị tuyệt vời của những ngày cư trú nơi đây. Nhân mùa an cư kiết hạ đã hết, tôi nảy ra ý tưởng lập ra các chương trình sống và trải nghiệm trong chùa. Tiếng Anh có thể gọi là pagodastay (suy từ chữ homestay vẫn hay được dùng). Còn tiếng Việt, tên chương trình có thể gọi đơn giản theo đúng nghĩa – Sống tại chùa!
Khi Sống tại chùa – Pagodastay, chúng ta có cơ hội có trải nghiệm rất thú vị và khó quên. Chùa là nơi linh thiêng, và bất cứ ai sống trong đó luôn có tâm thiện, có những hành động và lời nói được kiểm soát. Thời gian sống trong chùa luôn thanh tịnh nhất cho thân và tâm của mỗi chúng ta.
Khi Sống tại chùa – Pagodastay, bạn sẽ được ăn chay, được dậy sớm, được sinh hoạt như quy định của nhà chùa. Bạn sẽ được lao động và làm Phật sự, được vãn cảnh chùa và tìm hiểu về lịch sử, nghệ thuật, văn hóa của ngôi chùa. Quan trọng nhất là có quãng thời gian để thanh lọc thân tâm, dù là rất ngắn.
Trong các chương trình Sống tại chùa – Pagodastay chúng ta có thể tổ chức những buổi chia sẻ về hạnh phúc và khó khăn, về tình yêu và lí tưởng, về ăn chay và cai nghiện (internet, thuốc lá, games..), về việc làm và định hướng cuộc đời, về hôn nhân và gia đình, về văn hóa và truyền thống… Việc tổ chức trà đàm hay văn hóa uống trà có lẽ cũng rất thú vị.
Một giá trị nữa của chương trình Sống tại chùa – Pagodastay là việc chữa bệnh tinh thần. Những em bị căng thẳng, bị căn bệnh sợ hãi hay các chứng bệnh tâm lí chắc chắn sẽ rất tốt sau những ngày sống tại đây. Còn với những em hoàn toàn khỏe mạnh, đây là cơ hội ngàn vàng để khám phá bản thân mình.
Tôi thiết nghĩ, mỗi chương trình Sống tại chùa – Pagodastay như vậy có thể kéo dài hai đến ba ngày. Ví dụ, có thể vào chùa tối thứ Sáu và rời chùa chiều Chủ nhật. Hoặc ngắn nhất là vào chùa chiều thứ Bảy, trở về nhà tối Chủ nhật. Thời gian dài hơn các chương trình bát quán trai mà các đạo tràng vẫn đang tổ chức. Bởi ít nhất có một tới hai đêm được ngủ trong chùa.
Đối tượng tham gia chương trình Sống tại chùa – Pagodastay mà tôi muốn nhắm đến là các bạn học sinh, sinh viên, chủ nhân tương lai của đất nước. Tôi luôn tin tưởng rằng chỉ với quãng thời gian ngắn như vậy thôi, các em sẽ có sự thay đổi đáng kể.
Những người đi trước như chúng ta làm nhiệm vụ gieo duyên cho các em, tạo điều kiện cho các em có cơ may tiếp xúc với Phật pháp, cho các em bước đến cửa Phật và sau đó em nào đủ duyên sẽ tự tìm hiểu và tự phát triển đời sống tâm linh của mình. Tôi cũng tin rằng các em sẽ là những hạt giống đầu tiên, những mầm cây khởi nguồn để tạo ra rừng cây công đức.
Việt Nam ta có đến 15.000 ngôi chùa, chiếm hơn một phần ba tổng số các di tích của đất nước. Nếu chúng ta chỉ cần tìm ra một số ngôi chùa phù hợp nhất để triển khai thử nghiệm bước đầu thì có thể nhân rộng ra khắp cả nước và như vậy số người tham gia chương trình cũng tăng lên nhanh chóng hàng năm.
Tinh thần của Đạo Phật là Từ - Bi - Hỉ - Xả, cứu khổ cứu nạn, giúp chúng sinh có Giới - Định - Tuệ và đi đến giải thoát. Trong cuộc sống bộn bề này, việc tạo ra bình an cho mỗi người dân, nhất là các bạn trẻ thật sự quan trọng. Các chương trình Sống tại chùa – Pagodastay mà tôi muốn nêu ra ở đây, chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho mỗi gia đình, nhà trường và toàn thể xã hội. Tuy nhiên, việc tổ chức thành công không hề dễ và đòi hỏi khá nhiều thứ, nhất là sự hi sinh của những vị Bồ Tát thực thụ, hết mình cống hiến cho Phật pháp và cho sự tiến bộ của đất nước và nhân loại.
Rất mong ý tưởng này của tôi được các Phật tử, các nhà chùa ủng hộ để những chương trình Sống tại chùa – Pagodastay đầu tiên được chính thức ra mắt.
Chùa Thư Pháp
Danh thơm, nguồn sáng soi đời
Thanh tâm, tịnh ý là lời Chư Tôn.
– Chính Trung
Những ngày nghỉ lễ, mỗi người chọn cho mình một nơi để nghỉ ngơi hay tham quan, nhưng phần lớn là đi du lịch, khám phá rồi nghỉ dưỡng. Tôi thì chọn nơi đến là Sài Gòn. Kể cũng lạ, từ thủ đô Hà Nội vốn đã luôn ồn ào, lại đi chọn chốn náo nhiệt hơn. Nhưng bạn sẽ bất ngờ khi ta có thể gặp những thứ không bao giờ ngờ đến ở những nơi mà ta vẫn cứ nghĩ rằng: Biết rồi, nơi cũ.
Tôi đến một ngôi chùa ngay trung tâm thành phố, nơi mà tôi đến hầu như trong mỗi chuyến công tác thành phố Hồ Chí Minh. Tôi thường đến đây bởi chùa có kiến trúc hiện đại nhưng rất mang sắc thái dân tộc Việt, một dấu ấn rất Sài Gòn. Ngôi chùa cũng là biểu tượng và chứa đựng các dấu ấn của cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.
Lịch sử ngôi chùa cũng thật thú vị, bởi lẽ chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật. Xá lợi của đức Như Lai được đại đức Narada Mathathera, tọa chủ chùa Vajirarama của Sri LanKa tặng năm 1953, để rồi ba năm sau ngôi chùa chính thức được xây dựng. Ngôi chùa quý đó tọa lạc ngay tại góc đường Sư Thiện Chiếu cắt với Bà Huyện Thanh Quan ngày nay.
Khi nói chuyện với thầy Chính Trung trong khuôn viên thư viện nhà chùa tôi được biết, trước đây chùa được gọi là chùa thờ Xá Lợi. Ngay trong quá trình xây dựng và đến sau này người dân quen gọi tắt thành chùa Xá Lợi.
Ngoài tháp bằng vàng hiện đang đựng xá lợi Phật, chùa còn có một pho kinh bối diệp cổ chép bằng tiếng Pali trên lá ô bôi (lá muôn) cách đây trên một ngàn năm rất quý, do chính giáo hội tăng già Sri Lanka tặng cho ngài Thích Quảng Liên sau khi ngài du học năm năm tại xứ này. Còn cây bồ đề mà ta có dịp chiêm bái mỗi lần đến chùa được chiết từ cây bồ đề gốc ở Sri Lanka do thái tử con vua A Dục (Asoka) đem từ Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ sang trồng. Thật linh thiêng làm sao.
Không phải ai cũng biết rằng chùa còn là nơi quàn nhục thân của Bồ Tát Thích Quảng Đức trong vòng một tuần trước khi mang đi hỏa táng. Chính vì vậy, ai đến đây cũng đều cảm nhận và thấy rất rõ tinh
thần bất diệt của ngài Bồ Tát Việt Nam chúng ta chống lại chế độ Nhu Diệm thời xưa.
Một điều làm tôi ngạc nhiên khi nói với anh xe ôm chở đến chùa Xá Lợi thì người đàn ông Sài Gòn gốc lại bảo tôi: “Yên tâm, 20 phút nữa anh sẽ có mặt. Chùa Cá Kèo này tuyệt vời lắm”. Tôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, tại sao nơi linh thiêng và đầy dấu ấn tâm linh này lại có tên kì lạ là “Cá Kèo”. Anh lái xe ôm giải thích rằng ngay trước cổng chùa có một dãy quán bán các món ăn “đặc sản” cá kèo nên dân bản xứ quen gọi vậy cho dễ nhớ. Nói chùa Cá Kèo ai cũng biết – anh dặn tôi như vậy.
Đem chuyện hỏi thầy Chính Trung, thầy xác nhận là đúng và nói rằng tên này làm ý nghĩa của chùa bị sai lệch đi. Và rằng không ít Phật tử đã hiểu lầm, thậm chí phản ứng khi nghe. Đạo Phật là đạo của từ bi, sao có thể mang tên một loài cá hay một món ăn mặn như vậy được!
Một trong những nơi tôi hay lui tới và ở lại lâu chính là thư viện của chùa. Số đầu sách nơi đây lên đến gần sáu ngàn và bằng đủ các ngôn ngữ: Việt, Anh, Pháp, Nhật, Hoa… Hơn nữa, nơi đây thường xuyên trưng bày những
bức thư pháp rất đẹp. Vốn là dân thích du lịch, mê khám phá, tôi cam kết đây là nơi duy nhất ở Việt Nam có dạy viết tâm thư pháp cho bất cứ ai muốn học và thường xuyên trưng bày các bức thư pháp rất đẹp, rất ý nghĩa. Tôi đến chùa một phần quan trọng bởi bị mê hoặc bởi những bức tâm thư pháp đẹp và ý nghĩa đến lạ thường này.
Tôi đến chùa lần này đúng mùa Đại lễ Phật Đản. Tôi mê mẩn ngắm những cuốn sách trong tủ, đọc những cuốn sách trưng bày và nhất là những bức thư pháp hết sức sinh động, quá ý nghĩa. Có lẽ, để miêu tả được ý thâm sâu hay cảm nhận từ những bức tâm thư pháp trong ngôi chùa Xá Lợi này, tôi phải viết cả chục bài. Bởi mỗi bức là một câu chuyện, là những ngầm ý và sự vi diệu, cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt hảo. Bởi cả trăm bức thư pháp nơi đây làm tôi say mê không muốn về.
Tôi chỉ muốn nói đến bức giản đơn là chữ TỪ. Nếu nhìn kĩ, ngắm lâu ta sẽ thấy rõ, trong một chữ này thôi có cả ba: Bi, Trí, Dũng. Phần đuôi của chữ T cho ta thấy rõ con thuyền đưa ta sang bờ giác. Dấu huyền chính là ánh đèn pha soi sáng đường ta đi và phần đầu của chữ T là mái chèo đưa ta đến giải
thoát. Tôi càng ngắm càng thấy mê. Rất tiếc là tôi không có máy ảnh nên dùng điện thoại di động chụp và hình ghi lại không thể toát lên được một phần ý nghĩa, một phần vẻ đẹp khi ngắm thật.
Trước khi về, tôi được tặng chữ. Biết tôi bôn ba khắp nơi, tôi được thầy Chính Trung tặng chữ BELIEVE. Thật là ý nghĩa. Niềm tin là mấu chốt của mọi vấn đề, của thành công và hạnh phúc. Niềm tin là người bạn tuyệt vời, là người tâm giao của ta. Niềm tin cho ta nhiều và rất nhiều. Tôi cứ mải mê ngắm chữ này và những cảm nhận từ “niềm tin” cứ bay mãi trong đầu. Thư pháp không cần hiểu nghĩa. Thư pháp là cảm nhận. Tôi đang cảm nhận khi gõ những dòng chữ này và mong rằng mỗi bạn đọc đều có những cảm xúc khác nhau, hoàn toàn khác biệt. Đó mới đích thực là nghệ thuật. Đó mới là thư pháp thực thụ.
Tự nhiên tôi nghĩ: Ngôi chùa quý này không chỉ có tên là chùa Xá Lợi, càng không thể mang tên chùa Cá Kèo. Chùa cần có tên mới: Chùa Thư Pháp!
Doanh nhân đi chùa
Trong lúc ngồi vào bàn viết bài này, trong đầu tôi cứ vang vọng câu nói, hay đúng hơn là lời khuyên của Hòa thượng Thích Giác Toàn: “Tôi muốn các doanh nhân và các bạn tu chứ không phải đi tu”.
Tôi nghĩ mãi tại sao Hòa thượng lại không thích từ “đi”. Suy ngẫm và tôi nhận ra rằng, hình như “đi” tức là ta chạy trốn. Mà việc tu là việc của cả đời. Tu tập là để thân tâm mình tốt hơn, để mình trở thành người tốt hơn. Vậy thì ta cứ việc tu chứ đâu phải “trốn” vào đâu đó để tu.
Viết đến đây, tôi lại như nhìn thấy các doanh nhân chúng ta ngày càng đi chùa nhiều hơn. Tôi đâm ra băn khoăn và cần được giải quyết thắc mắc: Doanh nhân vào chùa làm gì? Khi nào? Thế rồi tôi quyết định làm một nghiên cứu nhỏ để viết nên bài này. Nhưng trước hết, tôi phải biết ơn tất cả những doanh nhân đã trả lời phỏng vấn của tôi và tôi cảm ơn các anh chị vẫn dành một quỹ thời gian quý báu, hiếm hoi của mình để tìm đến chốn tâm linh.
Cách đây chục năm, tôi thường xuyên theo lãnh đạo của mình vào chùa mỗi mồng một và ngày rằm. Sếp tôi làm việc này rất thành tâm. Chúng tôi thường mua sắm đầy đủ đồ lễ, vàng mã, trái cây, hương hoa. Mà thường là chọn quả ngon, hoa đẹp. Đa phần các lần đi chùa lễ Phật đều có sớ được viết chu đáo, cẩn thận. Chúng tôi đứng xung quanh thủ trưởng cùng khấn, lễ và cầu nguyện. Sau khi đặt mâm, lễ Phật xong, chúng tôi ngồi chơi hay đi dạo vòng quanh, đến khi hương tàn hay ít nhất cháy hết hai phần ba mấy “thầy trò” mới quay lại lễ tạ và xin hạ lễ. Sếp của tôi bao giờ cũng tham gia khâu đốt giấy tiền vì cho rằng đây là phần quan trọng nhất. Chúng tôi cũng quen và thường mỗi người được chia một số tờ vàng mã để cùng đốt, để được cùng “hưởng lộc”.
Không chỉ có mồng một, ngày rằm, mà trước khi diễn ra các dự án, các cuộc đấu thầu, nhiều doanh nhân thường vào chùa để lễ Phật, cầu Phật phù hộ độ trì để dự án thành công, để có thể thắng thầu, để công việc được suôn sẻ. Phải công nhận rằng đa phần các doanh nhân làm như vậy rất thành tâm, cung kính và tin tưởng rằng Đức Phật sẽ phù hộ và kết quả sẽ tốt. Nghĩ lại tôi thấy, đây là bài toán tâm lí, là yếu tố tinh thần quan trọng giúp các doanh nhân có niềm tin và quyết tâm cao vào công việc sắp diễn ra.
Theo quan sát và nghiên cứu của tôi, nhóm doanh nhân vào chùa để “xin”, “cầu”, “mong” từ Đức Phật và các vị Bồ Tát chiếm đa số. Mong muốn của người đến chùa là có sức khỏe, hạnh phúc, tiền bạc, chức vụ, của cải... Mong cho mình rồi cầu cho vợ, con, cha mẹ, gia đình, cơ quan… Điều này đặc biệt đúng với các doanh nhân Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, khi Phật giáo đi sâu vào cuộc sống và trở thành một phần của tín ngưỡng, hay nói cách khác Đạo Phật mang hơi hướng của tín ngưỡng. Nhóm doanh nhân vào chùa để “cầu”, “xin” chiếm 68% những người được tôi phỏng vấn.
Tôi chợt nhớ đến câu chuyện chính mình đã nghe thấy. Một bác khấn rất thành khẩn, rất chân thành mong được phù hộ để có được ngôi nhà gần hồ Hoàn Kiếm. Vẫn không bằng chuyện một bà kia cầu cho ông hàng xóm ác độc chết đi! Tôi giật mình. Có Đức Phật hay ông thần, ông thánh nào lại ủng hộ chứ không nói đến việc biến một suy nghĩ ác độc như vậy thành sự thật. Đi chùa, vào đền là phải cầu nguyện điều hay, lẽ phải, cái tốt, điều lành chứ làm sao lại mong điều ác, dù điều đó dành cho bất cứ ai.
Sau này, khi đã hiểu biết về tâm linh, về Phật Pháp, tôi mới biết rằng thật khó có thể có những phi vụ “mua bán”, “trao đổi” rẻ rúng và bất công đến vậy. Ta mang đến chùa đĩa trái cây, bó hoa và vài đồng bạc lẻ lại mong “đổi lại” nhà lầu, xe hơi, tiền bạc, địa vị.
Nhóm doanh nhân thứ hai đi chùa để tìm sự thanh thản. Họ đến chùa không cầu mong gì cho mình và người thân. Họ biết rằng “tay làm hàm nhai”, tất cả đã theo luật nhân quả và phải lao động chân chính, với trí tuệ và sức lao động nghiêm túc mới mong có tiền bạc, thành công và tất cả những gì mình muốn. Những doanh nhân này vào chùa để được thư giãn và thảnh thơi, để lấy lại sự quân bình của cuộc sống, để có bình an sau những giờ, những ngày làm việc căng thẳng, mệt nhọc. Chùa luôn là nơi yên tĩnh, thanh bình. 25% số doanh nhân được hỏi khẳng định họ đi chùa để tìm cho mình sự thanh thản.
Cuộc sống của doanh nhân luôn chứa đựng bao khó khăn, bất trắc, rủi ro. Doanh nhân phải lo xử lí biết bao vấn đề của doanh nghiệp, xã hội và của chính mình. Theo khảo sát của tôi, doanh nhân là nhóm người cô đơn nhất. Họ cũng là những người bị căng thẳng nặng nhất. Chính vì vậy, doanh nhân chúng tôi rất cần những giây phút bình an, những giờ phút hiếm có không phải lo lắng và suy nghĩ về công việc và sự đời, không phải tính toán về kinh doanh và lãnh đạo, không phải xử lí các vấn đề và sự cố. Phút giây bình an của doanh nhân là vô cùng quý giá. Chùa là nơi doanh nhân có thể tìm thấy bình an. Chính sau khi rời chùa, doanh nhân thấy minh mẫn hơn, tỉnh táo
hơn.
Nhóm cuối cùng là những doanh nhân vào chùa để có trải nghiệm, để khám phá ra chính mình, để vén màn u minh trong tâm mình, để có trí
tuệ và ánh sáng. Nhóm này chiếm 7%. Họ đến chùa để nghe thuyết pháp, giảng kinh, để thiền và quán chiếu thân tâm, để soi tận sâu thẳm con người mình. Họ đến chùa để tu tập theo đúng nghĩa của từ này, để nhắc mình luôn sống tốt hơn, thiện hơn, làm thêm nhiều điều hay lẽ phải hơn.
Nhiều doanh nhân dành cả một ngày trong chùa. Có những doanh nhân tham gia những khóa thiền bảy ngày hay 10 ngày, cá biệt là 20 ngày hay một tháng. Để thu xếp được công việc tham gia những khóa dài ngày quả là không dễ. Tuy nhiên kết quả nhận được sau những ngày sống trong chùa, trải nghiệm các khóa thiền viên mật thì thật đáng trân trọng. Chính vì vậy nhóm doanh nhân thứ ba luôn tìm cách sắp xếp thời gian để tham gia các khóa tu tập dài ngày. Cũng không ít doanh nhân cố gắng giảm bớt hay chuyển giao công việc kinh doanh và điều hành doanh nghiệp để có thể “tuần làm việc bốn giờ” hay “làm ít được nhiều” để dành thời gian tu thân, luyện tâm, khai tuệ.
Nhu cầu doanh nhân tìm đến Phật pháp ngày càng nhiều. Ngay trong tọa đàm “Giao tiếp bằng trái tim”, nhằm giúp cho các doanh nhân và các bậc tri thức hiểu về mình về người, để có thể giao tiếp với cấp dưới và đồng nghiệp cũng như người thân, bạn bè không chỉ qua hành động, lời nói, mà từ sâu thẳm tâm can mình, đã có đến hơn 200 doanh nhân và các bậc tri thức đến dự. Khách mời của chương trình lần này là Hòa thượng Thích Giác Toàn - Phó Tổng biên tập báo Giác Ngộ, Trụ trì tịnh xá Trung Tâm, Phó Chủ tịch & Trưởng ban Kinh tế Tài chính Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ và Nghệ sĩ, doanh nhân Chi Bảo - nam diễn viên nổi tiếng, người quan tâm nhiều đến thiền và đã có những trải nghiệm về thiền rất thú vị.
Những chia sẻ tại đây đã giúp các doanh nhân hiểu rằng con người hiện đại chúng ta đang sống trong những ngôi nhà cách nhau bằng bê tông cốt thép. Rằng bức tường ngăn cách lòng người cũng thế - càng ngày càng cao lên theo lòng tham và sự ích kỉ của mình. Bức tường ngăn cách trong lòng người được xây dựng bằng chất liệu “lấy mình làm trung tâm của vũ trụ” nên từ đó mọi người không còn thẳng thắn nhìn vào lòng nhau được nữa. Cần mở lòng mình ra để đến với nhau, dù bạn là ai. Chỉ có “giao tiếp bằng trái tim” mới giúp mỗi doanh nhân chúng ta chuyển hóa phiền não thành từ bi và trí tuệ,
niềm tin và khiêm tốn, tha thứ và bao dung.
Doanh nhân cần đi chùa để cửa lòng ta tự nhiên rộng mở. Khi đó bức tường ngăn cách trong lòng người sẽ không còn nữa. Một khi doanh nhân biết cách dùng thiện ý ấm áp tình người để quan tâm, đối thoại với người khác, nhất định sẽ xây dựng thành công một mối quan hệ hài hòa và vui vẻ, doanh nghiệp sẽ phát triển và trường tồn.
Doanh nhân tự nguyện “đi tù” 10 ngày
Bạn phải thực hiện được điều mà bạn nghĩ là mình không thể thực hiện được.
– Eleanor Roosevelt
Công việc của mọi doanh nhân đều “nhiều như núi”. Hầu như ai cũng kêu không đủ thời gian. Đã là doanh nhân thì khó có thể ngồi yên một chỗ, nhốt mình trong phòng lấy một ngày, chứ nói gì đến một tuần. Tuy nhiên, những trải nghiệm trong 10 ngày của khóa thiền Vipassana mang đến cho tôi và những doanh nhân khác nhiều ngạc nhiên và bất ngờ. Tôi biết mình đã phá được khá nhiều kỉ lục của chính mình.
Để tham gia khóa thiền 10 ngày này, bạn phải sắp xếp công việc để toàn tâm toàn ý tham thiền. Bạn phải gác hết mọi công việc, để lại tất cả ở phía ngoài để trọn vẹn, tâm mình hoàn toàn an trú trong thân cho thiền. Để tham gia khóa 10 ngày này, bạn phải tìm hiểu kĩ, đăng kí sớm và không được bỏ cuộc giữa chừng.
Kỉ lục đầu tiên mà tôi tự phá khi tham gia khóa thiền là toàn bộ 10 ngày tôi đã cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài: không thư từ, không máy tính, không điện thoại, không nhắn tin, không ti vi hay nghe đài, nghe nhạc… Đây là chuyện hoàn toàn không dễ dàng. Và trên thực tế, trước khi tham gia khóa thiền, tôi chưa bao giờ có quãng thời gian sống biệt lập với xã hội lâu như vậy.
Kỉ lục tiếp theo là đi ngủ sớm và dậy sớm. Bình thường, đa phần doanh nhân có thói quen thức khuya, dậy muộn. Còn trong 10 ngày này, chúng tôi phải dậy từ 4 giờ sáng để muộn nhất 4 giờ 30 phút bắt đầu ngồi thiền. Nhiều khi các thiền sinh còn dậy sớm hơn. Còn buổi tối cứ 9 giờ 30 phút là tắt đèn đi ngủ. Khi tắt đèn rồi, trời tối, nếu không ngủ thì cũng chỉ có thể thiền nằm mà thôi.
Trong toàn bộ chương trình, các thiền sinh không được nói chuyện. Chúng tôi phải giữ im lặng thánh thiện hay còn gọi là im lặng cao quý. Trong thiền thì gọi là tịnh khẩu. Tịnh khẩu để giữ khí. Tịnh khẩu để không nói, mà
không nói tức không phạm một trong năm giới phải giữ trọn trong khóa thiền – nói dối. Đã không nói thì dĩ nhiên không nói dối. Quả thật, là doanh nhân, những người hay phải giao tiếp, thuyết trình, nói chuyện, thì việc giữ im lặng hoàn toàn trong 10 ngày không hề dễ.
Mọi hình thức liên lạc với các thiền sinh khác, bằng cử chỉ, ra dấu, ghi giấy... đều bị cấm. Thiền sinh chỉ có thể nói chuyện với thiền sư vào giờ quy định. Nếu có thắc mắc hay yêu cầu gì rất đặc biệt, chỉ được nói nhỏ và nói riêng với người hộ thiền. Tuy nhiên, vì lợi ích của thiền sinh nên những liên lạc này cũng phải giữ ở mức tối thiểu. Thiền sinh phải có quan niệm là mình đang nhập thất tu tập tự lập.
Dân lãnh đạo và kinh doanh hay có thói quen nhậu, hay ít ra là ăn tối, ăn đêm. Và nói chung, đa phần lười ăn sáng. Vậy mà trong 10 khóa thiền Vipassana tuyệt đối ăn chay. Không được ăn sau 12 giờ trưa. Các thiền sinh được phép dùng trà với sữa và trái cây (các thiền sinh cũ chỉ dùng trà và nước trái cây). Cá nhân tôi chấp hành tốt và không thấy đói. Một phần có thể do đã chuẩn bị sẵn tinh thần, phần vì hình như nhận được nhiều năng lượng từ thiền sư và các thiền sinh cùng tu tập.
Chỗ ngủ của mỗi thiền sinh là một giường cá nhân. Mỗi chúng tôi được cung cấp một chiếu, một màn đơn, một gối và một chăn mỏng. Phòng ngủ có quạt. Nói thật, nếu ai quen với đệm êm, với điều hòa không khí thì chắc không chịu nổi. Cá nhân tôi nằm mấy ngày đầu cũng thấy đau vai, mỏi người nhưng sau quen dần. Việc có cuộc sống giản dị “thiểu dục tri túc” là rất cần thiết trong lúc tu thiền.
Một kỉ lục nữa của tôi là thời gian lưu trú trong chùa lâu nhất. Đã có bao giờ tôi ngủ trong chùa đến 10 ngày đâu. (Trên thực tế, trước khóa thiền, tôi chưa từng ngủ lại đêm trong chùa).
Điểm thú vị là diện tích chúng tôi được đi lại rất nhỏ. Có những sợi dây được căng ra và có biển nhắc khu vực không được vượt qua. Các thiền sinh chỉ được phép đi lại trong khoảng không gian cho phép. Trên thực tế chúng tôi chỉ có mặt tại ba nơi: phòng ngủ, phòng ăn và thiền đường. Lúc giải lao có chút thời gian thì có thể thiền hành tại khu vực sân được căng dây sẵn. Có lẽ chưa bao giờ trong suốt thời gian dài, tôi sống trong một khoảng không nhỏ đến vậy.
Phòng ngủ của chúng tôi có 28 thiền sinh. Đây cũng là kỉ lục khi tôi sống và ngủ chung trong một phòng đông người đến vậy. Cũng nên biết rằng do điều
kiện vật chất chưa đầy đủ nên chỉ có năm nhà vệ sinh. Ngay việc đánh răng, rửa mặt, tắm giặt cũng cần được sắp xếp hợp lí và nhanh gọn. Vì đông người, tôi tự nghĩ, nếu ở đây mà cho phép nói chuyện thoải mái chắc sẽ như cái chợ và không thể ngủ nổi.
Trong suốt 10 ngày của khóa thiền Vipassana, chúng tôi ngồi thiền từ 4 giờ 30 phút sáng đến 9 giờ tối. Mỗi khóa thiền kéo dài từ một đến hai tiếng và có nghỉ giải lao từ 5 - 15 phút. Việc tu thiền và kỉ luật tự giác rất liên quan đến nhau. Ngồi thiền (bao gồm 3,5 ngày thiền định và 6,5 ngày thiền quán) làm cho thân tâm được thanh lọc. Tiến trình tự thanh lọc không hề dễ dàng. Mỗi thiền sinh bằng nỗ lực của chính mình quyết tâm tu tập để trải nghiệm, cảm nhận và đạt được tự chứng, không một ai có thể làm thay cho chúng tôi. Chính vì vậy, thiền chỉ hợp với những người sẵn sàng tu tập nghiêm chỉnh và tuân theo kỉ luật, sẵn sàng cho việc thiền. Trong 10 ngày, mỗi thiền sinh quyết tâm và cố gắng để thâm nhập tầng lớp sâu nhất của tâm vô thức và để cho tuệ dần dần khai mở.
Với những điều kiện của 10 ngày thiền định, tôi và thiền sinh khác nghĩ không khác gì với đi tù. Cuộc sống kham khổ. Giờ giấc chặt chẽ. Sinh hoạt thiếu thốn. Không được giao tiếp. Khu vực được quyền đi lại rất hạn chế… Mà thậm chí tham gia khóa thiền Vipassana còn khổ hơn đi tù. Vì thuốc lá không được hút, bia rượu không được uống, đến nói chuyện cũng không được phép. Tuy nhiên nếu đi tù ngoài xã hội là do chúng ta bị bắt buộc, còn ở đây là tự nguyện. Nếu đi tù ngoài kia có hàng rào dây thép gai bảo vệ thì ở đây chỉ là những sợi dây treo đơn giản. Nếu canh gác trong các nhà tù bình thường là cảnh sát thì ở đây là trái tim và sự tự giác của mỗi thiền sinh.
10 ngày trôi qua và tôi đã thu về những lợi ích đáng kể. Tôi đã hiểu ra một phần của quy luật vũ trụ và rằng chúng ta chỉ có cách tuân theo quy luật vốn có từ trước đến nay. 10 ngày thiền cũng giúp tôi và các thiền sinh thanh lọc tâm để sống bình an với khó khăn của cuộc đời. Thanh thản và quân bình.
Tôi nhớ mãi 10 ngày đi tù tự nguyện này.
Dừng lại và có hạnh phúc tức thì
Cơ thể ta gồm hai phần: thân và tâm. Thân thì làm việc liên tục. Tâm cũng chẳng thể yên. Tâm ta lăng xăng như con khỉ, nhảy hết cành nọ nhảy sang cành kia, như con ngựa hoang, chạy hoài chạy mãi.
Thân làm việc suốt ngày đêm để rồi bị bệnh. Khi đó ta mới cho thân nghỉ, đưa thân đi bệnh viện, uống bao loại thuốc, tiêm bao mũi kim, truyền bao hóa chất vào cơ thể. Chỉ khi đó ta mới nhận ra rằng, cần chăm sóc thân, hay đơn giản cần dừng lại để thân được nghỉ.
Đôi khi ta thấy mệt mỏi bởi suy nghĩ quá nhiều, bởi thấy có quá nhiều thứ phải lo, quá nhiều việc phải làm: công, tư, gia đình, cơ quan, cá nhân, xã hội… Tâm ta cứ mải rong ruổi với bao kế hoạch, dự tính gần xa. Tâm như con khỉ cứ nhảy mãi, chuyền cành mãi.
Việc cần làm rất đơn giản: Dừng lại. Chỉ cần dừng lại là thấy khỏe ngay, thấy vui liền. Khi chúng ta dừng suy nghĩ lung tung, quay về với hơi thở, theo dõi hơi thở vào ra vài phút là thấy hạnh phúc ngay tức thì. Thật là dễ dàng mà có mấy ai biết.
Dù chúng ta có bận đến mấy cũng cần nhắc tâm ta dừng lại. Chúng ta tự nhắc mình sống trong chánh niệm, sống hết mình với thực tại. Chúng ta tự thưởng cho mình ít phút rảnh rang, thảnh thơi, thư giãn. Những giây phút đó hoàn toàn không làm gì cả, đơn giản chỉ thư giãn, chỉ hết mình với hiện tại mà thôi.
Chúng ta khác chư Phật ở chỗ, Đức Phật ăn cơm còn ta thì không, Đức Phật có uống nước còn ta thì không, Đức Phật có ngủ còn ta thì không. Bạn thấy lạ không nào.
Khi ăn Đức Phật biết mình ăn. Đức Phật tập trung và toàn tâm toàn ý với từng miếng cơm, từng miếng thức ăn. Còn chúng ta thì mải suy nghĩ và nhai cơm như cái máy, đôi khi quên cả việc nhai và nuốt. Đức Phật thưởng thức từng hớp nước còn chúng ta nuốt ực trong suy nghĩ mông lung. Đức Phật đặt lưng xuống và buông tất cả để ngủ, tập trung cho giấc ngủ. Còn chúng ta bê lên giường ngủ bao suy nghĩ mông lung, bao lo toan và tính toán, bao kế hoạch và dự định. Và chúng ta kéo luôn cả những thứ đó vào giấc ngủ.
Chúng ta cần học theo Đức Phật để dừng lại. Chúng ta dừng các suy nghĩ miên man của mình để toàn tâm toàn ý với hiện tại.
Chúng ta cần tập sống trong thực tại. Đó là chúng ta tập sống chánh niệm trong mỗi hành động, trong từng giây, từng phút. Ăn cơm ta tập trung vào việc ăn cơm và biết là mình đang ăn cơm. Đọc sách ta tập trung vào việc đọc sách và biết rõ rằng mình đang đọc sách. Chúng ta cứ tập dần. Lúc đầu thấy các tạp niệm xen vào liên tục. Nhưng dần dần tạp niệm bớt dần và hạnh phúc sẽ lớn thêm mỗi ngày.
Bạn biết không, chỉ khi chúng ta sống trong chánh niệm, sống với thực tại thì không còn cái gọi là quá khứ hay tương lai. Và khi đó chúng ta hòa mình trong thế giới của vô sinh vô diệt, bất khứ, bất lai. Đó chính là niết bàn. Đức Phật là bậc toàn giác nên có niết bàn vĩnh viễn, chúng ta là phàm phu nên có niết bàn trong những khoảng thời gian ngắn. Nhưng rõ ràng, đó là những phút giây tuyệt vời mà chỉ người nào trải qua mới cảm nhận rõ được.
Bạn chỉ cần dành ít phút ra thực tập thôi là thấy hạnh phúc ngay mà. Hạnh phúc là thứ có thật và rất dễ có được, chứ không khó như bạn vẫn nghĩ trước đây đâu nhé.
Hãy học những chú thạch sùng Cho đời những hạt phù sa
Cho đồng lúa chín, mượt mà nhân sinh.
Cho đồng từ hát lời kinh
Mênh mông diệu nghĩa, ân tình thế gian.
– Thích Thái Hòa
Câu chuyện mà tôi rất tâm huyết, đã được nghe và kể lại không biết bao nhiêu lần cho bạn bè, người quen và học trò. Một câu chuyện làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Ai được nghe tôi kể xong cũng thổ lộ rằng, họ tự nhìn lại mình sau khi nghe xong. Đây là một câu chuyện rất xúc động.
Chuyện xảy ra tại nước Nhật. Có một người khi sửa nhà đã dỡ tường ra. Tường nhà xây theo kiến trúc Nhật Bản nên thường có tấm gỗ ở giữa, hai bên trát xi măng. Thực chất giữa tường là rỗng.
Khi dỡ tường, chủ nhà phát hiện ra một chú thạch sùng trong đó. Đuôi của chú bị đóng vào tường bởi một chiếc đinh. Chủ nhà cảm thấy thương cảm chú thạch sùng quá đỗi. Anh quan sát kĩ chiếc đinh và phát hiện ra chuyện
không thể tin được đã xảy ra - chiếc đinh được đóng khi anh xây nhà 10 năm về trước.
Anh trăn trở, làm sao chú thạch sùng có thể sống suốt 10 năm qua ở đây khi chú bị đóng đinh vào đuôi, không di chuyển được. Mà không phải chỉ một vài ngày hay vài ba tháng. Chủ nhà quyết định chưa vội sửa công trình mà quan sát, nghiên cứu trường hợp đặc biệt này.
Kì công theo dõi anh phát hiện ra một chú thạch sùng khác, miệng ngoạm thức ăn mang đến mớm cho bạn. Anh vô cùng ngạc nhiên và xúc động. Như vậy có nghĩa là suốt 10 năm qua, bạn thạch sùng tốt bụng này đã bền bỉ, kiên nhẫn kiếm tìm thức ăn mang đến nuôi người bạn đuôi bị đóng đinh vào tường. Suốt 10 năm trời. Và sẽ còn tiếp nữa!
Tôi suy nghĩ rất nhiều khi nghe câu chuyện này. Ngày nay chúng ta có cuộc
sống vật chất đầy đủ hơn, trí tuệ thông minh hơn, quan hệ rộng hơn. Chúng ta có cả máy tính với internet, điện thoại đi động với nhắn tin, email và chat, ti vi với bao nhiêu kênh, báo chí và sách các loại. Chúng ta có các phương tiện giao thông thuận tiện và các tiện nghi đầy đủ. Tuy nhiên sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau hình như không những không tăng theo tốc độ phát triển của công nghệ và xã hội mà có nguy cơ giảm sút. Khoảng cách giữa con người hình như ngày càng xa hơn.
Quan sát nhiều gia đình tôi thấy, đôi khi con cái chỉ biết mang về cho cha mẹ mình ít tiền mà quên đi sự chăm sóc. Nhiều người đã quen với nhắn tin và mất đi những bức thiệp, những lá thư tay hay sự có mặt bên nhau. Đôi khi chúng ta vô tình mải mê làm ăn, lo cho công việc mà quên mất sự hiện diện của bao người thân. Có khi ta phũ phàng quên đi sự thiếu thốn, thậm chí cả niềm đau, nỗi khổ của những người quanh ta. Tiếng Anh có một từ mà tôi rất thích – present. Từ này ít nhất có ba nghĩa: hiện tại, món quà và sự có mặt. Chú thạch sùng đáng kính kia đã có mặt bên bạn mình suốt 10 năm qua. Chú đã sống với chánh niệm trong từng phút giây. Chú không chỉ mang quà đến tặng bạn mình mà tặng bạn cả sự sống.
Tình yêu thương là vô cùng quan trọng. Nếu mất đi tình yêu thương, cuộc sống của chúng ta sẽ thành gì? Nếu như mỗi chúng ta biết dành mỗi ngày vài phút nghĩ đến những người thân, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm và kể cả kẻ thù của mình thì xã hội sẽ tốt đẹp biết bao. Còn nếu chúng ta có thêm nhiều người như những chú thạch sùng trong câu chuyện thì cuộc sống sẽ là thiên đàng.
Chú thạch sùng đáng kính mà tôi vừa kể trong đời nhiều lắm và luôn là một người thầy lớn của tôi. Suốt bao năm qua. Và sẽ còn mãi mãi.
Hãy học ốc sên để dựa vào chính mình
Ngày xưa tôi hay có thói quen đổ lỗi. Thói quen này được hình thành là vì tôi được bố mẹ và ông bà chiều chuộng, bao biện cho nhiều quá. Rồi một ngày kia, tôi nhận ra rằng, nếu cứ đổ lỗi sẽ chẳng bao giờ lớn khôn được.
Ốc sên con ngày nọ hỏi mẹ: “Mẹ ơi, tại sao từ khi sinh ra, chúng ta phải đeo cái bình vừa nặng vừa cứng. Mệt chết đi được.”
“Vì cơ thể chúng ta không có xương để chống đỡ, chỉ có thể bò, mà bò cũng không nhanh”, ốc sên mẹ nói.
“Tại sao chị sâu róm bò chẳng nhanh, cũng không có xương mà không phải đeo cái bình vừa nặng vừa cứng này?”
“Vì chị ấy sẽ biến thành bướm. Bầu trời sẽ bảo vệ chị ấy.”
“Nhưng em giun đất cũng không có xương, cũng bò chẳng nhanh, cũng không biến thành bướm được, sao không phải đeo bình?”
“Vì giun đất sẽ chui xuống đất, lòng đất sẽ bảo vệ em ấy.”
Ốc sên con bật khóc nói: “Bầu trời không bảo vệ chúng ta. Đất cũng không bảo vệ chúng ta.”
“Vì vậy mà chúng ta có cái bình. Chúng ta không dựa vào trời, cũng chẳng dựa vào đất. Chúng ta dựa vào chính mình con ạ”, ốc sên mẹ an ủi con.
Câu chuyện này làm cho ai cũng suy nghĩ. Đức Phật đã dạy rằng, chúng ta cần tự thắp đuốc lên mà đi, hãy nương tựa vào chính mình. Ấy vậy mà vẫn có nhiều người thích dựa dẫm.
Mỗi loài vật tìm cho mình một cách để sinh sống và tự bảo vệ. Bướm và chim thì có cánh. Trâu thì có sừng. Giun thì biết chui xuống đất. Còn chúng ta, liệu có biết học ốc sên mẹ không?
Chúng ta thậm chí không có cái bình vừa nặng vừa cứng để mỗi khi có nguy
hiểm chui vào đó. Nhưng chúng ta có trí óc, trái tim và khí phách. Chúng ta biết dựa vào chính mình. Đúng không bạn?
Chuyện kiến và gián
Tâm phải lớn để dung nạp người tài, phải rộng để tha thứ và bao dung, phải vững chãi để chống chọi với bão tố cuộc đời.
- Lã Khôn
Sáng sớm tôi bước vào nhà tắm, định bụng tắm. Tự nhiên phát hiện ra có chú gián chết và lũ kiến kéo đến rất đông để ăn mồi. Nếu tắm, nước sẽ dâng lên và kiến sẽ chết.
Nghĩ vậy, tôi quyết định theo dõi lũ kiến. (Tôi vốn yêu thích kiến và hay chơi với kiến. Nhất là trong các khóa nhập thất giữa rừng.) Tôi định bụng lát sau sẽ xua kiến đi trước khi tắm.
Chừng bốn phút sau, tôi thấy một chú gián khác đến. Chú lấy sức của mình lôi chú gián bị chết ra một chỗ khác, cách chỗ cũ quãng 2 cm. Sau đó chú đứng lặng im. Tôi nhìn mà xúc động. Tôi hiểu rằng chú gián rất thương tiếc bạn mình (có thể thậm chí là vợ hay chồng, hoặc con). Chú rất buồn khi thịt xương của người thân mình bị ăn thịt. Chú không cầm lòng được và chú ta phải tha đi chỗ khác, ít nhất để không bị lũ kiến ăn thịt thêm nữa.
Chú gián đứng mãi bên xác của chú gián kia. Tôi lấy tay đưa gần vào chú ta mà chú ta vẫn không chạy. (Bình thường, thấy người hay vật lại gần, gián chạy ngay và rất nhanh để trốn). Tôi hiểu chú rất buồn. Tôi ngộ ra rằng gián cũng có tình cảm, cũng biết yêu thương như người. (Mà trời ơi, liệu có phải tất cả loài người chúng ta có tình yêu thương như chú gián này không!)
Lũ kiến tản ra dần. Rất ít chú tiếp tục tiến lại phía xác chú gián chết kia. Tôi giật mình và lấy máy ảnh ra chụp lại cảnh này. Liệu có phải lũ kiến kia cũng nhận ra tình cảm của hai bạn gián và nhịn, không ăn thịt nữa!
Tôi tìm cách đưa lũ kiến ra khỏi khu vực sàn nhà tắm để tắm vì phải đi làm. Xua mãi, dụ mãi chúng mới đi. Chúng không hiểu rằng, nếu không ra khỏi đây, lát nữa thôi sẽ bị chết đuối.
Tôi nghĩ về nhân quả, về vòng sinh tử luân hồi. Kiến ăn thịt gián. Kiến bị chết do nước tắm của người. Tôi quan sát và tự nhiên nghĩ: Chắc ở trên cao, chư Phật và chư Bồ Tát đang nhìn tôi và các bạn, đang chở che, hộ trì và tỏa
ánh sáng trí tuệ để chúng ta sửa thân tâm mỗi ngày, tu tập tinh tấn mỗi phút giây.
Ruồi và hoa sen
Trong Đại Trí Độ Luận, quyển thứ 42, Ngài Long Thọ đã có nhiều ví dụ rất hay về chúng sinh và chư Phật. Ngài ví chúng sinh cũng giống như những con ruồi và ví các bậc giác ngộ như những đóa hoa sen.
Con ruồi thì ưa đậu nơi phân dơ. Tuy hoa sen có đó nhưng nó đâu màng tới. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của con ruồi thấp kém, chỉ chấp nhận bãi phân là đối tượng của mình.
Chúng sinh trong cõi luân hồi cũng đều như vậy thôi. Chỉ ham mê nơi ái dục, tình yêu và ái nhiễm nơi thể xác nên mới chọn Ta Bà chứ không thích Tịnh Độ hoặc các cảnh giới giải thoát khác. Mặc dầu ai thấy bông sen cũng đều cho là đẹp – giống như thế giới của chư Phật và Bồ Tát vậy nhưng đâu phải chúng sinh nào cũng ưa thích giác ngộ. Vì lẽ tâm thức còn hạ liệt, trí tuệ chưa vun bồi, dẫu cho có bắt bỏ vào cảnh giới của hoa sen đi nữa, thì con ruồi kia vẫn chọn đống phân như thường. Điều ấy không mấy khó hiểu, vì lẽ chúng sinh chỉ thuận theo những gì mình ưa thích, mà chính những sự ưa thích ấy dẫn mình vào cõi đọa lạc; nhưng mấy ai hay biết bao giờ.
Đó là cõi người chứ cõi chư Thiên và các cõi trời khác trong 33 tầng trời cũng chỉ chừng ấy việc thôi. Có thế giới cao thượng hơn thì yêu nhau bằng tâm thức chứ không bằng thể xác; nhưng đồng thời cũng có những thế giới lạc hậu, dơ bẩn ở cõi Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh... Chúng vẫn yêu đương nhau và tiếp tục sinh ra những chúng sinh như thế để kế thừa.
Bồ Tát và Phật đã ra khỏi vòng luân hồi sinh tử nên không còn yêu riêng ai. Chỉ lấy chúng sinh làm đối tượng để mình cứu độ mà thôi. Vì vậy trong kinh có câu:
Ái bất nhiễm bất sanh Ta Bà
Niệm bất nhất bất sanh Tịnh Độ.
Nếu người nào ái dục không còn nhiễm ô thì không sanh ở thế giới Ta Bà này nữa. Cũng thế ấy, người niệm Phật không chuyên tinh thì không thể nào vãng sanh về Tịnh Độ được.
Bạn có thấy hoa sen đẹp không?
Thầy bò cạp của tôi
Tôi có những người quen hết mình vì xã hội và cộng đồng. Họ cống hiến rất nhiều mà không bao giờ đòi hỏi. Họ thật sự có tình yêu thương to lớn và không bao giờ toan tính. Họ biết rằng có thể bị “bọ cạp” cắn nhưng vẫn làm. Họ làm bởi tình yêu thương. Mà tình yêu thương đó là bản năng tự nhiên.
Ngày xưa tôi hay nóng tính và bực mình. Bực mình bởi không hài lòng với những việc làm của đồng nghiệp, cấp dưới, hay những người xung quanh. Tôi đặc biệt khó chịu khi thấy ai đó làm tổn thương. Bây giờ tôi đã thấy mình thay đổi, nếu không được 100% thì cũng đã là tự đổi mới rất nhiều. Tất cả chỉ nhờ một câu chuyện tình cờ nghe được cách đây nhiều năm.
Chuyện kể rằng, có một người đàn ông phát hiện ra con bò cạp đang chơi vơi trong nước. Ông ta quyết định đưa tay ra cứu nó, nhưng chính con bò cạp ấy lại đốt ông ta. Vẫn cố gắng vớt con bò cạp ra khỏi nước và người đàn ông lại bị đốt.
Một người khuyên ông không nên cứu con bò cạp nữa vì nó liên tục đốt ông. Nhưng người đàn ông trả lời rằng: “Bản năng tự nhiên của bò cạp là chích. Bản năng tự nhiên của tôi là yêu thương. Vậy tại sao tôi phải từ bỏ bản năng yêu thương chỉ vì bản tính tự nhiên của bò cạp.”
Mỗi sinh vật trên thế gian này đều có bản năng riêng. Bản năng để sinh tồn. Bản năng đó được sinh ra bởi nghiệp. Hình dáng và tính cách, thân và tâm, bên trong và bên ngoài. Tất cả được xác định bởi nghiệp. Là chim tức biết bay. Là sâu tức ăn lá cây. Là muỗi tức sẽ chích da ta và hút máu. Chúng ta không thể thay đổi được bản năng của muỗi để muỗi không hút máu người. Chúng ta không thay đổi được rắn để rắn không có nọc độc.
Còn bản năng tự nhiên của con người là gì? Đức Phật đã dạy rằng, mỗi chúng ta đều là Phật sẽ thành. Bởi chúng ta bị ba lớp mây đen tham, sân, si che lấp nên ánh mặt trời không đến được với chúng ta. Nhưng đã là người tức có tình yêu thương. Đã là thân người là có tình thương yêu nhân loại và chúng sinh. Chỉ có điều: Do điều kiện ngoại cảnh và môi trường sống, do ý thức và sự giác ngộ của mỗi chúng ta khác nhau nên mức độ yêu thương cũng khác nhau và thể hiện ở những thời điểm khác nhau.
Tình yêu thương chân thực là cho đi mà không đòi hỏi. Rằng có tâm từ, bi, hỉ, xả tức là có niềm vui. Rằng yêu thương mọi người, mọi vật xung quanh là tuyệt vời nhất. Nếu chúng ta sợ bò cạp đốt, chúng ta có thể không cứu được chú bò cạp đáng thương đó. Nếu chúng ta sợ kẻ trộm, kẻ cướp, có thể chúng ta không ra tay ngăn chặn các tệ nạn xấu trong xã hội.
Trong cuộc sống chúng ta chứng kiến bao câu chuyện. Nhiều người rơi vào những hoàn cảnh éo le, đáng thương như nghiện ma túy, mại dâm, trộm cắp hay lừa đảo… Nếu không có ai dang tay, không có người lan tỏa tình yêu thương thì liệu họ có tìm ra lối thoát. Có gần với họ mới biết họ đang rất cần sự cảm thông và tình yêu thương. Họ đang rất cần chúng ta.
Tôi cũng đã thay đổi. Và may mắn hơn, tôi đã trực tiếp chứng kiến bao con bò cạp đã thay đổi bản tính, từ việc đốt, cắn sang tình yêu thương. Tôi nhận ra rằng, chính chú bò cạp là người thầy của mình, người thầy tuyệt vời dạy
tôi yêu thương mà không đòi hỏi, yêu thương khi ta cho đi và chấp nhận mất mát, thậm chí cả hi sinh. Hạnh phúc và kì diệu làm sao khi có tình yêu thương. Tình yêu thương là kì quan vĩ đại nhất trên thế gian này.
Mật pháp yêu thương
Hàng ngày, tôi có thói quen nhẩm trong đầu những lời yêu thương. Có khi tôi đọc ra thành tiếng. Có lúc tôi nằm thư giãn và nhớ tới những phút giây tuyệt vời, những cảnh đẹp thiên nhiên. Và những việc làm tưởng nhỏ và giản đơn này nhưng lại mang đến cho tôi cảm giác bình an đến lạ kì.
Trong kinh, Đức Phật dạy chúng ta rằng, muốn đạt tới an lạc thường nên học hạnh thẳng thắn, khiêm cung, biết sử dụng ngôn ngữ từ ái, biết sống đơn giản mà hạnh phúc, nếp sống từ hòa, điềm đạm, ít ham muốn và không đua đòi theo đám đông.
Đức Phật cũng dạy chúng ta không làm bất cứ điều gì mà các bậc thức giả có thể chê cười để có an lạc.
Tôi cũng muốn chia sẻ để các bạn cùng thực hành. Hãy tâm niệm, nhẩm trong đầu hay đọc thành tiếng những lời sau đây:
Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu và loài mạnh, những loài cao và loài thấp, những loài lớn và loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy và loài ta không thể nhìn thấy và loài ở gần và loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.
Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài.
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ một điều gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.
Không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt khỏi tử sinh.
Những lời nguyện đầy tình yêu thương, đầy từ bi và trí tuệ này có tác dụng chuyển hóa thân tâm ta rất mãnh liệt. Mỗi ngày, chúng ta gieo vào tâm ta những câu chữ này và tâm của chúng ta thay đổi nhanh đến lạ kì. Cứ mỗi ngày một chút, chúng ta tưới tẩm tâm mình để những chủng tử thiện, những mầm hạnh phúc nảy nở và lớn dần.
Những lời yêu thương này bạn có thể đọc hay tâm niệm trong đầu vào bất cứ thời gian nào trong ngày, bất cứ lúc nào bạn rảnh rỗi. Nhưng tốt nhất là vào đầu giờ sáng, khi bạn mới ngủ dậy và cuối giờ tối, trước khi bạn đi ngủ. Đây là quãng thời gian tuyệt vời nhất để yêu thương và bình an ngấm sâu vào tâm thức của bạn.
Theo kinh nghiệm của tôi, nếu bạn chỉ cần thực tập trong một tháng, thậm chí bảy ngày thôi là đã có những kết quả rõ rệt.
Hoàn cảnh hay chính ta quyết định số phận?
Hai người trong câu chuyện này là hai anh em ruột, cùng cha mẹ. Cùng một hoàn cảnh nhưng họ đi theo hai cách khác nhau, có cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Cuộc đời mình do mình lựa chọn cách tư duy, cách sống. Do đó, chính chúng ta tạo nên số phận của mình.
Nhiều bạn trẻ hay đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nào là do tôi nghèo nên không học được. Nào là tôi giàu nên bị cám dỗ quá và sinh hư. Nào do tôi thiếu thời gian nên không làm được gì cả. Nào là tôi dư thời gian nên phải tìm cách giết thời gian. Thôi thì đủ một ngàn lẻ một lí do để lí giải cho cái tính và số phận của ta.
Tôi luôn nhắc mình và khuyên bạn bè: “Chừng nào ta còn đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh, chừng đó ta khó mà có thành công và hạnh phúc”. Tiếc thay, phần lớn chúng ta hay đổ lỗi. Nếu chúng ta dám nhìn vào sự thật, dám công nhận sự thật, tự mình thành tâm sám hối, mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng và tốt đẹp.
Câu chuyện dưới đây là có thật và tôi muốn kể lại thêm một lần nữa cho các bạn.
Một phóng viên đến phỏng vấn một tù nhân đang thụ án trong trại giam: “Tại sao anh trở thành trộm cắp? Tại sao anh đi tù thế này?”. Anh ta trả lời: “Bố tôi nghiện rượu, suốt ngày đánh chúng tôi, nhà thì nghèo xơ xác, chưa bao giờ tôi được một bữa no. Mẹ tôi thì hư hỏng, cũng suốt ngày đánh chúng tôi. Trong môi trường như vậy, thử hỏi anh tôi còn con đường nào khác ngoài trộm cắp và tù tội.”
Phóng viên đến phỏng vấn tiếp người đàn ông thứ hai: “Nguyên nhân nào khiến anh trở thành tiến sĩ, tỉ phú, người nổi tiếng và thành công đến vậy?”. Anh ta trả lời: “Bố tôi nghiện rượu, suốt ngày đánh chúng tôi, nhà thì nghèo xơ xác, chưa bao giờ tôi được một bữa no. Mẹ tôi thì hư hỏng, cũng suốt ngày đánh chúng tôi. Trong môi trường như vậy, thử hỏi anh tôi còn con đường nào khác ngoài phải học thật giỏi, làm việc ngày đêm, cống hiến hết mình?”
Hai người trong câu chuyện này là hai anh em ruột. Cùng một cha, một mẹ. Cùng một hoàn cảnh mà hai người đi theo hai lối khác nhau, có cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Cuộc đời mình do mình lựa chọn cách tư duy, cách sống.
Mỗi ngày tôi và bạn tập nghĩ một ý thiện, tập nói một câu yêu thương, tập làm một việc có ích cho đời. Cứ như vậy chúng ta sẽ tạo ra thói quen tốt, tạo ra tính cách hay, tạo nên số phận tuyệt vời. Có ai đó ngồi chờ sung rụng hay ngồi than thân trách phận nhưng điều này chẳng để làm gì. Không những vậy, họ không biết rằng chính họ đang nạp rác vào tâm và thân của mình.
Hoàn cảnh có thể ngăn cản bạn nhưng cũng hoàn cảnh đó là một động cơ phản lực đẩy bạn về phía trước đi xa hơn, bay cao hơn. Chính bạn quyết định đời bạn.
Chính ta quyết định số phận của ta. Đúng như Đức Phật đã dạy: “Phải tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
Hiểu luật nhân quả từ bỏ cà phê ngô
Trên thương trường, nhiều doanh nhân thường bất chấp thủ đoạn để có được doanh thu cao nhất, mà họ không biết rằng, trong cuộc đời này luôn có luật nhân quả.
Trong các khóa tu thường có một phần rất thú vị là pháp đàm hay nói cách khác là thiền chia sẻ. Tại đó mọi người kể về câu chuyện của mình, những suy nghĩ của mình, vấn đề mình gặp phải hay những cảm nhận, kinh nghiệm tu tập.
Người nói thì nói rất thật. Người nghe thì chỉ nghe, cảm thông, không phán xét, không phân tích, không vặn hỏi. Nghe để hiểu, để thương, để rút kinh nghiệm, để có thêm những bài học và kinh nghiệm tu tập.
Trong một buổi thiền sẻ chia diễn ra sau bài giảng về ngũ giới, tôi không quên được câu chuyện của một Phật tử. Chị kể rất thật, rất xúc động, rất ân hận với tâm thành thật sám hối.
Người phụ nữ này chuyên sản xuất và bán cà phê. Chị làm việc này từ lâu, từ hồi cà phê hạt còn khó khăn, từ thời việc vận chuyển cà phê còn bị bắt bớ do ngăn sông cấm chợ của thời bao cấp. Thế là chị và các nhà sản xuất cà phê nghĩ ra cách xay ngô (bắp) rồi trộn hương vị cà phê vào bán cho người tiêu
dùng. Chị tâm sự rất thật rằng loại cà phê rởm này bán rất chạy vì có mùi thơm dễ chịu, ai cũng mê. Cà phê thứ thiệt rang không thể có mùi thơm như cà phê rởm pha hương vị hóa chất. Chị cho biết thêm làm như vậy là siêu lợi nhuận. Và rằng nếu chỉ cần bán 3-4 ngàn một li cũng lãi chứ không nói đến 6-8 ngàn. Người ta thi nhau mua. Các quán cà phê mua ùn ùn. Hàng sản xuất ra bán không đủ phải tăng công suất.
Chị cho biết, một ngày kia chị được xem một đĩa Đạo Phật dạy về luật nhân quả. Những câu chuyện rất xúc động và gây chấn động tâm chị. Chị nằm suốt đêm suy nghĩ và nghĩ trong nhiều ngày. Bởi cà phê rởm làm từ bắp rang cháy đen chắc chắn làm cho người uống bị ung thư. Hơn nữa cái hóa chất mang mùi cà phê kia chắc chắn là độc hại. Siêu lãi thật đấy nhưng hậu quả mà người uống gánh chịu thì quá nặng. Nghiệp này ai trả? Chị quyết định bỏ cà phê dởm đi, sản xuất cà phê thật.
Tuy nhiên khi sản xuất cà phê thật bằng hạt cà phê xịn thì không bán được. Bởi cà phê thật rang lên không thơm bằng cà phê làm bằng bắp (ngô) có mùi hương liệu cà phê. Nếu thiếu loại hương liệu này, khách hàng không mua. Chị đã giải thích rằng đây mới là cà phê thứ thiệt. Tuy nhiên những người mua nói rằng khách hàng uống cà phê đã quen loại kia rồi và nhất quyết đòi mua cà phê rởm. Lại thêm một lần đấu trí. Tiếp tục nói dối, làm dối, lừa đảo hay quyết bỏ. Chị mua sách Đạo Phật về đọc. Đọc và đọc. Cuối cùng chị quyết tâm không sản xuất cà phê rởm nữa, chỉ sản xuất cà phê xịn, thật 100%. Khách hàng mua thì bán, không thì thôi chứ chị quyết không bán ngô rang cháy đen trộn hương cà phê. Cuối cùng, chị không bị phụ lòng: Khách hàng cũng chấp nhận.
Vấn đề khác xuất hiện: Lãi rất ít. Gia đình kêu ca. Lương nhân viên bị ảnh hưởng. Chị suy nghĩ: Hay là làm một phần cà phê thật, một phần bắp rang cháy đen. Hay là vẫn cho chút mùi cà phê hóa chất kia vào. Đêm đêm suy nghĩ, chị lại đọc sách, đọc nữa cho ngấm. Cuối cùng sức mạnh của Đạo Phật
đã chiến thắng. Chị bỏ hoàn toàn cà phê rởm.
Trong lúc thiền sẻ chia chị cho biết rằng luật nhân quả nhãn tiền luôn. Có người làm cà phê rởm bị công an bắt hoặc là phải chạy chọt gần chết, hoặc là hệ lụy nhiều vô cùng. Hơn nữa khi sản xuất cà phê rởm thì luôn phải đề cao cảnh giác, mọi lúc mọi nơi, tâm không lúc nào an. Đặc biệt khi đi vắng xa hay đi công tác thì lo ngay ngáy. Vắng mình thì sao? Nhỡ xảy ra chuyện thì thế nào?
Từ ngày giữ giới chị sống an vui và hạnh phúc, bình an và thảnh thơi. Chị có
thể đi công tác, đi du lịch thoải mái mà không phải lo lắng gì. Chị thật sự biết ơn Phật Pháp và thấy Phật Pháp quá nhiệm màu, rất tuyệt vời. Chị cũng thành tâm khuyên mọi người cố gắng giữ năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng chất kích thích. Chị còn tâm sự rằng nếu có thời gian chị có thể kể ra hàng trăm câu chuyện có thật mà chị đã chứng kiến hay trải nghiệm.
Tôi vẫn nhớ những giọt nước mắt của chị. Tôi vẫn nhớ như in khuôn mặt chị. Tôi nhất định sẽ tìm chị để được uống cà phê thứ thiệt, xịn 100% mà chị cam kết. Tôi không muốn uống bắp rang đen trộn hương liệu thơm và quyến rũ. Tôi muốn gặp lại chị để nghe những câu chuyện của đời chị. Biết đâu sẽ xuất bản được một cuốn sách quý.
Biết ơn câu chuyện rất thật và ý nghĩa này.
Kì quan thế giới thứ tám: Con người
Khi tiếp xúc với sinh viên, tôi thường yêu cầu các em cho biết về những kì quan của thế giới. Có thể nói các em luôn luôn mang lại những câu trả lời thú vị.
Các em thường nhắc đến những công trình vĩ đại của nhân loại như Kim tự tháp Ai Cập, Vạn Lí Trường Thành Trung Quốc, đền Taj Mahal Ấn Độ… bảy kì quan thế giới cổ đại cũng như hiện đại, kể cả những kì quan chưa được công nhận thường được nhắc đến nhiều nhất. Có lẽ do ảnh hưởng của việc xếp loại bảy kì quan thế giới cổ đại, hầu hết các sinh viên đều cố gắng nêu được bảy kì quan là các công trình kiến trúc.
Một điều khiến tôi rất vui là trong những câu trả lời, cũng có nhiều em đã đưa thêm một kì quan thế giới phù hợp với tư duy của tôi – con người. Mỗi khi bạn nào nêu lên đúng kì quan thứ tám này, tôi đều dành cho bạn ấy một phần thưởng – những quyển sách quý.
Trong những buổi nói chuyện ấy, tôi cũng không bao giờ quên đặt vấn đề với các sinh viên của mình là tôi sẵn sàng tặng một triệu đô la cho bất kì người nào nếu tìm thấy một bạn khác có hình dáng và tính cách giống hệt bạn vừa phát biểu. Tôi tuyên bố như thế vì khẳng định chắc chắn rằng mỗi chúng ta là duy nhất, là độc nhất vô nhị. Không ai giống ta. Không ai hay và thú vị như ta. Vì quả thật, con người chính là một kì quan. Mỗi chúng ta đều là một kì quan của thế giới. Vậy mà không phải ai cũng biết.
Mỗi chúng ta đều là một kì quan riêng, rất riêng. Kì quan này được hình thành ngay từ khi chúng ta sinh ra và thay đổi dần trong quá trình tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Kì quan được trưởng thành dần và nếu biết tu tập, sẽ dần đi đến sự hoàn thiện.
Mỗi chúng ta có một thế mạnh riêng. Không ai là không có sở trường của mình. Chỉ có điều ta có nhận ra hay không, có biết hay không. Chỉ cần nhận ra những điểm hay, điểm tốt của chính mình, ta sẽ thấy hạnh phúc, thấy cuộc đời thật đẹp, sẽ thấy được ý nghĩa và sự kì diệu của cuộc sống.
Thỉnh thoảng tôi đến thăm nghệ sỹ ghi ta Văn Vượng và chuyện trò cùng ông. Có lẽ “nhờ” bị mù mà Văn Vượng đã tìm thấy “điểm mạnh” chết người: Năng khiếu chơi ghi ta. Ông chơi hay vô cùng. Tôi bị mê hoặc mỗi khi nghe
ông chơi bài Người Hà Nội. Nghe ông đánh đàn mà tôi như cảm nhận được cả một dàn nhạc đang biểu diễn trước mặt. Kì quan thế giới Văn Vượng đã biết dùng cây đàn sáu dây để thu phục lòng người.
Tôi yêu quý em Hồng Công, cô gái viết truyện khi đang chạy thận nhân tạo. Em đã sống và cống hiến hết mình đến khi ngừng thở. Tôi cũng trộm nghĩ, nếu không bị bệnh hiểm nghèo, có thể em sẽ chẳng viết được hai tác phẩm bất hủ Khát vọng sống để yêu và Ở trọ trần gian.
Tôi hay đến nhà cậu em họ tên là Tùng chơi. Chỉ sau khi em bị mất trắng, bị tai nạn em mới hiểu giá trị cao quý của cuộc đời, sự nhiệm màu của cuộc sống. Chỉ sau sự cố này, Tùng mới tìm hiểu và cảm thông sâu sắc với những hoàn cảnh, những số phận kém may mắn. Tôi mừng vì Tùng đã biết mình là một kì quan thế giới và đang hết mình mang lại những gì tốt đẹp nhất cho những người xung quanh và cả xã hội.
Tôi thích ngồi hàn huyên với một bạn phóng viên còn rất trẻ. Em có một tấm lòng bao dung với cách sống giản dị. Em luôn cho tiền người ăn xin, bất kể lúc đó trong túi có bao nhiêu tiền và bất kể đó là người ăn xin thật hay “rởm”. Cách bố thí thường ngày và không phân biệt làm tôi thấy ngưỡng mộ và học theo.
Mỗi chúng ta đều rất đặc biệt. Việc còn lại là nên hiểu mình. “Không hiểu mình thì u mê trước vạn vật” – thánh nhân dạy như vậy. Mỗi chúng ta cần dành những phút giây để khai phá tiềm năng vô hạn trong chính ta – kì quan thế giới thứ tám, để cống hiến được nhiều hơn và để có hạnh phúc lớn hơn. Ta dành rất nhiều thời gian để tìm hiểu thế giới xung quanh, để khám phá vũ trụ, bầu trời, đại dương nhưng chúng ta đã dành bao nhiêu thời gian, công sức và trí tuệ để khám phá chính mình – kì quan thế giới thứ tám.
Vì là kì quan thế giới nên chúng ta không thể không quý trọng chính mình. Vì là kì quan nên ta cần biết vượt qua chính mình, biết sống thật với mình, biết không ngờ vực mình, biết tận tụy và ước mơ, biết sẻ chia và đồng cảm,
biết rung động và hài lòng, biết cảm nhận bình yên và cống hiến. Mỗi chúng ta đều có cái riêng của mình. Mỗi chúng ta cần học tập và tu dưỡng để hoàn thiện mình hơn, bất kể mình làm công việc gì, sống ở đâu, trong điều kiện, hoàn cảnh nào. Chúng ta nên tự thay đổi để mang lại cho mình cũng như những người xung quanh thật nhiều niềm vui.
Kì quan thế giới – con người khác hẳn các kì quan thế giới khác: Chúng ta biết suy nghĩ, biết nhìn gần nhìn xa, có đầu óc sáng tạo. Mỗi chúng ta luôn
tìm cách suy ngẫm về bản thân và mối quan hệ với những người xung quanh. Mỗi chúng ta – kì quan thế giới luôn biết “sửa” mình để biến chính mình thành một kì quan thế giới vĩ đại hơn.
Con người chúng ta thường có tính nhỏ nhen, hay ghen ghét, đố kị. Chúng ta dễ làm những việc xấu và đi theo hướng không tốt, theo cám dỗ của cuộc đời. Mỗi chúng ta – kì quan thế giới nên tu sửa mình mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút giây để chiến thắng từng tật xấu rất nhỏ của mình. Chúng ta cũng cần tôi luyện để luôn dám đối diện với chính mình.
Thế giới thời cổ đại hay hiện đại đều có bảy kì quan. Những kì quan này rồi cũng sẽ bị hủy diệt theo thời gian, theo quy luật sinh diệt của vũ trụ. Dù có ở thời nào: Xưa, nay hay mãi mãi sau này thì kì quan thứ tám – con người cũng không bị mất đi. Hãy biết trân trọng chính mình, trân trọng sự sống và sự kì diệu của thân tâm ta. Khi gõ đến đây, tự nhiên trong não tôi hiện lên câu nói ưa thích: “Điều vĩ đại chính là sự giản dị. Sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng”. Hình như điều này thể hiện rõ sự kì diệu của mỗi chúng ta – kì quan thế giới thứ tám của thế giới.
Chuyển hóa một con người
“Khi một cánh cửa khép lại, sẽ có một cánh cửa khác mở ra. Nhưng chúng ta lại thường tiếc nuối ngoái nhìn lại cánh cửa đã đóng mà không nhận ra rằng cánh cửa đang mở ra kia là để chào đón mình.”
– Alexander Graham Bell
Từng lời từng câu của anh thật sâu xa. Nó khiến tôi phải suy nghĩ để thấu hiểu. Nhưng để làm người tốt cũng khó lắm. Vì cuộc đời như một vở kịch phải đóng cho trọn vẹn vai diễn. Anh khuyên tôi buông nhưng buông thế nào đây khi trong lòng tôi còn nặng nề quá. Tôi muốn cạo đầu, có vậy tôi mới nghiêm khắc với mình mà không làm càn. Hãy cho tôi sự can đảm. Không biết tôi có bị điên không. Bây giờ tôi đang suy nghĩ không ngủ được. Cứ như bị tới đường cùng.
Anh hãy làm phước cho trót. Hãy cho tôi điên một chút rồi qua cơn tôi sẽ bình tâm lại. Hãy cho tôi làm phiền một chút nếu tôi xứng đáng được làm phiền anh, để tôi thay đổi quan điểm sống của mình. Tôi đã đọc nhiều lần tin nhắn của anh từ đêm qua tới giờ. Hãy yên tâm, tôi sẽ cố vượt qua để không làm anh thất vọng. Cảm ơn anh đã cho tôi những lời khuyên chân thành, sâu sắc nhất ở một chân thiện mỹ mà không ai có thể có được. Thật là một cách nhìn đặc biệt. Trân trọng ngưỡng mộ và biết ơn.
Tôi xúc động và suy nghĩ rất nhiều. Vậy là tôi được may mắn hưởng phước đức từ anh. Tôi thật có lỗi đã làm phiền anh. Anh đã làm tôi thay đổi rất nhiều. Tôi sẽ cố gắng xua tan mọi đau đớn, buồn phiền. Anh giúp tôi vậy là đủ rồi. Tôi không dám nhận nữa đâu anh. Nước mắt tôi đang chảy dài.
Những dòng chữ từ chị làm tôi suy nghĩ nhiều, nhiều lắm. Chị đã chán đời đến mức quyên sinh. Chị quyết định tự tử. Chị lái xe máy đâm vào xe tải. Nhưng xe đã tự đổ ra một bên trước khi kịp lao vào chiếc xe to lớn. Chỉ một tích tắc thôi là tính mạng của hai mẹ con chị không còn.
Tôi đã rất nhiều lần bên chị và khuyên chị. Tôi phân tích về ba chữ khổ, vô thường và vô ngã. Tôi nói về sự may mắn hiếm hoi của chị. Thật không dễ bởi chị theo Thiên chúa giáo.
Tôi mời chị tham gia các chương trình Phật Pháp Ứng Dụng. Có hai lí do.
Một là để chị có việc để làm, quên đi việc tự tử. Hai là, chị được
trực tiếp nghe từ những vị thầy, những bạn đồng tu để ngấm dần. Mưa lâu, mưa dầm, đất dần khắc ngấm.
Đã nhiều đêm tôi nhận tin nhắn của chị. Thường thì sau 23 giờ đêm. Có khi 2-3 giờ sáng. Tôi đã không ít lần nghe chị khóc qua điện thoại. Tôi đã nhiều lần nghe sự than thở đến não lòng và cảm nhận rằng chỉ một chút không cầm lòng được nữa thôi, có thể chị sẽ phải tìm đến cái chết.
Tôi cũng trăn trở: Tâm chị đã bị che mờ, che mờ tịt. Thực ra mỗi chúng sinh đều bị ba nghiệp nặng với tham sân si nhưng chỉ ở các mức độ khác nhau mà thôi. Đám mây trên bầu trời làm ta không thấy được ánh mặt trời. Đám mây trong tâm chị thì lớn quá, tạo nên mưa to, sấm chớp, đẩy chị đến hoảng loạn và không lối thoát.
Tự nhiên trong não tôi hiện ra bốn câu thơ của chư Tổ ngày xưa: Thân là cội bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.
Và tôi hạ quyết tâm bồ đề lắng nghe chị. Đơn giản là lắng nghe. Kể cả đêm khuya lẫn sáng sớm. Tôi nghe một cách tự giác, vui vẻ và cảm thông. Tôi cũng khuyên can nhẹ nhàng và thường là kể các tích Phật giáo, những tấm gương nghị lực phi thường.
Thời gian dần trôi đi. Vài tháng sau tình hình tốt lên nhiều. Chị dần trở thành một Phật tử tích cực. Tâm chị chuyển hóa rất rõ rệt. Chị vui lên và quay lại đời sống thường ngày với những nụ cười đầu tiên, với niềm tin mới.
Đêm qua tôi lại thấy tin nhắn của chị làm tôi giật mình đánh thót. Chị lại muốn tự tử nữa ư? Mở tin nhắn ra: “Em luôn nhớ giờ này, ngày này, nhờ lời khuyên vô ngã của anh mà mẹ con em thoát chết. Trong lòng luôn biết ơn anh, luôn nhớ đến công ơn của anh. Nguyện mong mọi sự tốt đẹp đến với anh”.
Vậy là chị đã chuyển hóa được thật rồi. Tôi cười thật tươi, vào phòng thờ lễ Phật. Con cám ơn Phật đã giúp con chuyển hóa được một chúng sinh.
Chuyển hóa những giận hờn, oán hận thành yêu thương
Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa ân sư, muôn kiếp khó đáp đền.
- Tổ sư Minh Đăng Quang
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa viếng thăm giảng pháp, thực hiện lễ quán đỉnh nguyện cầu quốc thái dân an tại Việt Nam. Thật là tuyệt vời. Bởi người thầy đầu tiên của tôi là cố Thượng tọa Thích Viên Thành, người đã gieo mầm mật giáo trong tôi. Tôi biết chắc chắn rằng chuyến đi kéo dài 17 ngày đến Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Đà Lạt, Bến Tre và thành phố Hồ Chí Minh chắc chắn mang lại nhiều lợi ích cho Phật tử chúng ta.
Tôi biết đến Đức Pháp Vương không bởi mình là Phật tử mà là do biết đến phong trào từ thiện Sống để yêu thương (Live to love) do Ngài sáng lập từ năm 2007. Phong trào này đến nay đã lan đến 16 quốc gia với những dự án thiết thực như giáo dục, y tế, bảo vệ di sản, môi trường…
Và ngay từ lần đầu tiên được gặp Ngài, tôi cảm nhận được tâm nguyện và thiện hạnh lớn của Đức Pháp Vương cho giới xuất gia nói riêng và tất cả Phật tử chúng ta nói chung. Khuôn mặt từ bi, những hành động thân thiện với tâm bồ đề của Ngài làm tôi xúc động ngay từ lần đầu. Sau này tôi hầu như theo sát và tìm mọi cơ hội để được đến với các chương trình do Ngài tổ chức.
Tôi nhớ và có lẽ sẽ mãi không quên khi hàng ngàn người có mặt để dự lễ quán đảnh tại chùa Quang Ân, Hà Nội chật kín tất cả các sân và bất cứ khu đất trống nào. Vậy mà Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa vẫn từ bi để tặng quà và ban phước cho từng người. Tôi ở lại đến cuối cùng và chứng kiến những người cuối cùng được yết kiến Ngài, được nhận tình yêu thương từ Ngài. Tôi quan sát và thấy Ngài không hề mệt mỏi, khuôn mặt luôn mỉm cười và tình yêu thương luôn tràn đầy. Thật đáng khâm phục. Trong khi Ngài liên tục thuyết pháp, làm lễ, ban phước… còn chúng tôi chỉ ngồi nghe, hưởng phước và nhận quà!
Trong mỗi lần có mặt tại các pháp hội, tôi đều thấy và cảm nhận rất rõ các thiện hạnh của Ngài, tấm lòng từ bi từ Ngài. Tôi nhận thấy từ mỗi động tác, ánh mắt và cử chỉ. Ấn tượng nhất là nụ cười thân thiện và gần gũi. Có lẽ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa là một trong những người truyền cảm hứng tốt nhất mà tôi đã từng gặp. Có lẽ ngài là vị lãnh tụ tâm linh gần gũi nhất mà tôi được biết.
Tôi luôn ấn tượng về các bức tranh, bức tượng, các pháp khí… trong các chương trình của Ngài. Âm thanh và hình ảnh từ các Pháp hội Mandala cầu nguyện quốc thái dân an do Đức Pháp Vương tiến hành luôn vô cùng sống động, độc đáo, hấp dẫn và linh thiêng. Không khí của các Pháp hội đó luôn mang đến cho những người có mặt sự an lạc, yên bình, những cảm giác tâm linh, sự đổi thay trong thân và tâm rất đặc biệt và khó tả.
Tôi rất nhớ bài giảng của Ngài rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, mà là cách thức giúp con người sống hạnh phúc hàng ngày. Đức Pháp Vương giảng rằng Phật tử chúng ta luôn cần biết hướng cuộc đời mình, luôn tập sống có ý nghĩa, sống tốt đẹp, sống an vui và hòa hợp với mọi người xung quanh.
Khi viết đến đây, tôi lại chợt nghĩ đến việc chính mình đã từng đau khổ bởi gánh chịu hậu quả do mình gây ra. Khi bị lừa mất tiền – đau khổ. Khi bị bệnh tật – buồn đau. Khi bị đối xử không tốt – chán chường. Nhưng nguồn gốc khổ đau từ đâu ra? Khổ đau là do ta tạo ra! Và như vậy gánh chịu. Nhớ đến lời Ngài, tự nhiên tôi nhận ra và thôi không đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh bên ngoài nữa.
Đức Pháp Vương dạy chúng ta cải thiện lối sống của chính mình. Chúng ta cần tập sống cởi mở và yêu thương, bao dung và tha thứ, chan hòa và mẫu mực. Ngài dạy những ai có may mắn được nghe các bài giảng rằng cần bớt hận thù, giảm sân giận. Chúng ta cần thực hành để tự cải thiện đời sống của mình và những người xung quanh.
Giận hờn và oán hận luôn đến với ta. Hàng ngày và mỗi ngày. Chúng ta phải biết nhận diện ra chúng và chuyển hóa. Chúng ta phải tự chuyển hóa chứ không phải dựa vào Đức Phật. Bởi Đức Phật chỉ là người chỉ đường, là người tìm ra các quy luật của vũ trụ. Còn tất cả là do chúng ta. Ta làm ta phải tự gánh chịu. Ta tạo ra, ta phải biết cách chuyển hóa.
Tôi nhớ rằng Đức Pháp Vương đã dạy rằng chúng ta chỉ có thể nương vào sự dẫn dắt của Đức Phật, đi theo con đường đó, phải thực hành và phát triển
lòng từ bi, phải biết yêu thương và tha thứ, phải biết cởi mở và giúp đỡ, cần biết trân trọng và hiểu sâu những người xung quanh, kể cả kẻ thù thì ta mới có hạnh phúc và bình an. Khi đó xung quanh ta sẽ tràn ngập yêu thương.
Sau ngày gặp Đức Pháp Vương, tôi luôn tập thực hành cách biểu lộ tình cảm, tình thương với mọi người quanh mình. Ngay cả những người mà ta nghĩ rằng họ xấu xa với ta, lừa gạt ta, phá hoại ta. Tôi đã học cách yêu thương họ, thực hành cách trải lòng ra với họ để chính mình có yêu thương, được yêu thương và sống trong yêu thương.
Tôi vô cùng ấn tượng với Đức Pháp Vương khi Ngài chỉ dạy rằng sự an lạc nằm ở mỗi hành động, từng lời nói, mỗi suy nghĩ. Rằng chúng ta không nên đợi sự bình an từ bất cứ ai. Và rằng ngay cả khi rơi vào tình trạng tuyệt vọng, chán nản cũng cần chuyển hóa tất cả để có tình yêu thương.
Giờ đây, khi ngồi một mình, tôi như cảm nhận được tư duy bình đẳng và bác ái của Đức Pháp Vương. Rằng mỗi chúng ta cần phải năng tu tập, quyết chuyển hóa thân tâm mình để những con quỷ dục vọng, tham lam, đố kị, ganh ghét, kiêu căng… biến mất. Nếu chúng ta tỉnh táo, cương quyết, sáng suốt thì nhất định chúng ta sẽ có tình yêu thương.
Thực hành chuyển hóa giận hờn, oán hận và những tính xấu của mình là việc làm tối quan trọng. Chúng ta cần thực hành mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút giây để có yêu thương, có từ bi hỉ xả, có hạnh phúc và bình an. Tôi thiết nghĩ món quà lớn nhất chúng ta có thể dâng lên đức Pháp Vương chính là việc thực hành sự chuyển hóa kì diệu này.
Cô bé ở công viên
Nghệ thuật sống không phải thể hiện ở việc bạn tìm cách chối bỏ khó khăn mà là ở việc bạn học cách trưởng thành từ những khó khăn đó
– Maxwell Winston Stone
“Em không có tiền mua sách” – Đó là lời của một cô bé bán vé số tôi gặp tại Tết Sách 23 tháng 4 vừa qua tại công viên Lê Thị Riêng, thành phố Hồ Chí Minh.
Một cô bé dáng người gầy nhom, khuôn mặt đen nhám của những ngày nắng, quần áo nhem nhuốc đang tiến sát về phía tôi và hỏi với nụ cười mỉm nhẹ nhàng: “Chú ơi mua vé số?” Tôi vừa trả lời vừa lắc đầu: “Chú không
mua đâu.” Rồi tiếp tục nhìn dòng người đang say sưa lựa chọn sách trên giá. Trong Tết Sách, sách được bán giảm giá đến 50% nên thu hút rất nhiều người. Mọi người ai nấy đều hào hứng chọn mua sách cho mình. Có người mua đến mười mấy cuốn sách.
Sau khi bị tôi từ chối, em nhảy lên ngồi trên cái bệ, bên cạnh chỗ tôi đang ngồi. Ngồi một lát em hỏi: “Sách bao nhiêu một cuốn vậy chú?” Nhìn qua dáng người gầy còm và khuôn mặt nhỏ nhắn, đen sầm của em, tôi nghĩ chắc chỉ có sách dành cho tuổi teen mới phù hợp với em. Mà một cuốn sách tuổi teen giá khoảng từ 20 ngàn trở lên nên tôi trả lời em: “Nếu giảm đi 50% thì chỉ khoảng mười mấy ngàn thôi em”. Nghe xong em gật gù rồi nhìn về phía mọi người đang chọn sách.
Là người thích nói chuyện với trẻ con nên tôi bèn bắt chuyện tiếp. Tôi hỏi em học lớp mấy, em nhanh nhẹn trả lời là em học lớp 7. Tôi lại hỏi tiếp: “Thế em học trường nào?” Em trả lời cũng nhanh nhẹn không kém câu trước nhưng khuôn mặt có chút buồn trong khi trên môi vẫn là nụ cười tươi: “Em nghỉ học rồi ạ”. Tôi hơi ngỡ ngàng trước câu trả lời của em. Những đứa trẻ phải nghỉ học để đi bán vé số tôi đã gặp trước đây cũng không phải là hiếm, nhưng với em tôi hơi bất ngờ vì trước đó tôi chưa nghĩ tới điều này.
Hơi buồn cho số phận của em nên tôi hỏi thăm thêm vài điều về chỗ ở và gia đình em. Nhà em ở miền Trung nhưng vào đây làm thuê kiếm sống. Em ở tại một đại lí vé số trong thành phố, mỗi tháng em kiếm được khoảng 500 - 700
ngàn đồng. Cứ mỗi tờ vé số bán được, em lãi một ngàn đồng. Vậy là mỗi ngày em bán được hơn 20 tờ. Nhưng cái đó còn chưa tính đến tiền ăn ở mà em phải trả cho đại lí. Phần lớn tiền em gửi về nhà, còn giữ lại cho mình một ít. Thật tội nghiệp cho em khi ở tuổi đó, nhiều bạn nhỏ ở thành phố được đi học, đi chơi, ở bên gia đình được bố mẹ chăm lo từng chút, thế mà em đã phải rời xa gia đình đến thành phố xa lạ để kiếm tiền gửi về cho cha mẹ. Một chút thoáng buồn trong tôi khi nhìn em. Những dòng suy nghĩ về cuộc đời và những số phận chạy qua tâm trí tôi.
Một lát sau tôi trở lại chủ đề mà chúng tôi đã nói với nhau ngay câu đầu tiên: “Em đã xem mấy cuốn sách ở đây chưa? Em có thích cuốn nào không?” Tôi hỏi. Em trả lời: “Em không có tiền mua sách”. Câu trả lời rất nhanh nhẹn cộng thêm nụ cười mỉm trên môi. Không suy nghĩ nhiều, hai giây sau câu trả lời đó tôi nói với em: “Thế em thích cuốn nào chú mua tặng”. Tưởng em sung sướng với lời đề nghị của tôi, nhưng em nói: “Thôi tốn tiền chú ạ”. Hơi bất ngờ trước câu từ chối của em, nhưng tôi biết em thích lắm. Chắc em ngại nhận món quà từ người lạ. Và tôi thầm quý mến cô bé nghèo nhưng tế nhị và
ấn tượng.
Không để một bé gái vì không có tiền mua sách mà không được đọc sách nên tôi tiếp tục đề nghị: “Không sao đâu, em thích cuốn nào cứ nói. Chú mua tặng, đừng ngại”.
Thấy em vẫn còn hơi rụt rè, tôi nhẹ đẩy vai em bảo: “Em cứ lựa đi, đừng ngại mà”. Không còn ngại nữa, em vui mừng hớn hở chạy đến kệ sách. Chốc lát tôi đã không còn thấy em đâu nữa trong đám đông người đang vây quanh những kệ sách.
Nhưng rất nhanh sau đó, em chạy đến chỗ tôi, cầm trên tay một cuốn sách và đưa tôi xem cứ như em đã chọn trước đó. Đó là cuốn sách Lời dạy của Đức Phật. Em lại làm tôi bất ngờ một lần nữa. Tôi nghĩ em chọn đại một cuốn. Bởi nhiều người lớn còn chưa đọc đến những cuốn sách này, huống hồ cô bé tí tuổi đầu, mà lại là dân “bán vé số”. Tò mò tôi hỏi: “Sao em không chọn những cuốn sách dành cho tuổi teen mà chọn cuốn sách này? Em đọc sách này à?” Em trả lời vẻ tự hào rằng, ông bà em luôn dặn phải học tập và làm theo lời Phật dạy. Tôi nghe mà quá bất ngờ. Tôi nghe mà không dám tin. Tôi nghe mà thấy ấm lòng. Thật đáng quý làm sao!
Không còn chần chừ gì nữa, tôi lấy túi ni lông bỏ sách vào tặng bé. Khi đưa sách tặng em, tôi còn dặn thêm: “Nhớ đọc sách và làm theo lời dạy của Phật nghe”. Em gật đầu, và nói lí nhí “dạ” một tiếng và cười vui sướng.
Khi gõ những dòng chữ này, tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh của cô bé đặc biệt và đáng yêu đó. Tôi như nhìn thấy hình ảnh em và niềm vui lớn lao của một đứa bé bán vé số khi được tặng một cuốn sách. Tôi vẫn thấy rõ trong não mình hình ảnh em chào tôi rồi cầm chặt trong tay cuốn sách với đôi môi cười tươi, đôi chân nhảy tung tăng tiếp tục đi bán dạo.
Tết Sách này tôi đã làm được một việc nhỏ nhưng rất lớn. Tết Sách này cô bé bán vé số đã tặng cho tôi niềm vui giản dị mà bất ngờ. Nhìn em đi về phía xa, lòng tôi thầm mong em sẽ học được nhiều điều từ cuốn sách ấy và áp dụng cho cuộc sống của mình, để em có một tương lai tốt đẹp hơn.
Tôi mơ rằng có thêm nhiều người đọc những cuốn sách Đạo Phật. Tôi mong hơn khi các bạn trẻ đọc loại sách quý giá và quan trọng này. Tôi ước ao sẽ có thêm nhiều bé nghèo có tâm như người bạn lạ của tôi ngày Tết Sách.
Con nam mô ti vi, con quy y internet
Tôi thầm mong ước có thêm nhiều người biết đến Phật Pháp. Như vậy xã hội sẽ tốt đẹp lên rất nhiều. Liệu đất nước Việt Nam yêu quý của chúng ta bao giờ mới có đủ duyên lành để quay lại thời kì hưng thịnh của Phật giáo như thời Lí Trần. Bao giờ mới bớt đi những người nam mô ti vi, quy y internet.
Bao giờ!
Bài học đầu tiên của tôi khi thành Phật tử thật khó quên. Đó là hiểu ý nghĩa của hai chữ linh thiêng: QUY Y. Tôi đã hiểu ngay rằng quy y Phật tức là quay về và nương tựa vào Đức Phật, Người đưa đường chỉ lối cho tôi trong cuộc đời này.
Bởi đã bao năm trước, vì si mê và thiếu hiểu biết, tôi đã đi lạc đường, tôi đã có những suy nghĩ, lời nói và việc làm không đúng. Nay tôi có duyên lành được nương theo Phật, học theo hạnh của Phật để sống tốt, để có ích cho đời và chính mình.
Cũng như rất nhiều người khác, tôi niệm hai chữ NAM MÔ từ nhỏ, nhưng phải lớn lên mới hiểu ra ý nghĩa của hai chữ này. Hai từ thiêng liêng này tôi thật sự biết ý nghĩa khi trở thành Phật tử. Nam Mô cũng có nghĩa là quay về và nương tựa. Khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tức tôi nhắc mình quay về và nương tựa vào Đức Phật A Di Đà. Khi niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, tức tôi nhắc mình quay về và nương tựa vào đức Đại từ Đại bi Tầm thanh Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi tôi niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tức tôi tự nhủ mình quay về nương tựa vào Đức Như Lai. Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thật là vi diệu!
Từ ngày hiểu được ý nghĩa của hai từ QUY Y và NAM MÔ, tôi thấy đời thật là đẹp và ý nghĩa. Mỗi lần có vấn đề hay sự cố, tôi luôn quay về với hơi thở. Tôi theo dõi hơi thở và tưởng nhớ đến Đức Phật, đến những lời Phật dạy, đến công ơn của Ngài. Và sự màu nhiệm thường đến nhanh một cách khó tin. Đúng là Phật Pháp là nơi nương tựa đáng tin cậy nhất của cá nhân tôi.
Tuy nhiên, khi quan sát nhiều gia đình, tôi thấy có những người suốt ngày ngồi xem ti vi. Họ bật ti vi lên hình nhưng không để xem mà cho vui nhà.
Tôi đã nhiều lần làm thí nghiệm: Hỏi nội dung bộ phim vừa chiếu hay câu chuyện vừa diễn ra trên màn hình. Tỉ lệ nói lại được luôn dưới 30%. Tôi đã từng chứng kiến khá nhiều gia đình khi cãi nhau và mâu thuẫn, người vợ (hay chồng, hoặc con) đã vào phòng riêng, đóng cửa lại và bật ti vi. Rõ ràng họ lấy ti vi ra để nương tựa!
Tôi quan sát nhiều bạn trẻ và thấy mắt luôn dán vào màn hình máy tính hoặc điện thoại di động. Ngay tối hôm kia thôi, chúng tôi đến một nhà hàng chay (tôi nhấn mạnh nhà hàng chay, bởi vào đây phần nhiều là Phật tử, tức ít nhiều đã biết đến Phật Pháp) và chứng kiến có hai người bạn ngồi đối diện nhau trên bàn ăn. Họ gọi nhiều đồ ngon, nhưng mỗi người lại chúi mắt vào chiếc điện thoại di động của mình. Tôi thấy thương cho những món ăn ngon trên bàn. Tôi tiếc cho cả đôi bạn kia. Tôi đoán, lâu ngày không được gặp nhau, nay đôi bạn đến để gặp nhau, để được ngồi bên nhau. Ấy vậy mà ai nấy đều chăm chú vào thiết bị di động. Rõ ràng họ lấy internet ra để nương tựa.
Ngày hai người yêu nhau, tình cảm thật mặn nồng. Ngày mới lấy nhau cũng vậy. Anh là duy nhất của đời em. Em là người tình lí tưởng mãi không đổi thay của anh. Cặp uyên ương nghĩ rằng sẽ mãi bên nhau, cả đêm lẫn ngày. Họ thật sự yêu nhau và nương tựa vào nhau. Thậm chí có những cặp đòi cưới nhau ngay, không kịp tìm hiểu kĩ. Để rồi vài năm sau lại đi nương vào ti vi, internet hay một thứ gì đó hoàn toàn khác.
Tôi lại vẩn vơ nghĩ, liệu có phải người bác tôi đã về hưu (và có thể nhiều người khác nữa) không biết đến Phật Pháp nên không biết nương tựa vào ai và phải tìm đến chiếc ti vi. Khi họ có vấn đề thì họ nghĩ rằng xem ti vi sẽ quên đi được vấn đề. Khi có sự cố hay mâu thuẫn, họ nghĩ rằng nếu nương tựa vào ti vi thì mọi chuyện sẽ trôi qua. Tôi nghĩ trong lòng, nếu mà họ biết đến Phật Pháp thì đã niệm Phật rồi. Niệm Phật chỉ bốn chữ, cùng lắm là sáu chữ thôi, nhưng màu nhiệm lắm. Tiếc thay họ lại niệm ti vi.
Tôi nghĩ đến những bạn trẻ của thế kỉ XXI luôn cập nhật thông tin, luôn có thiết bị công nghệ xịn. Hầu như các bạn trẻ ngày nay khó sống thiếu internet. Họ có thể mất cả một buổi chiều, thậm chí nhiều ngày chỉ để lang thang trên mạng. Internet dẫn dắt họ đi hết hang cùng này đến ngõ hẻm kia, từ nước này sang thế giới khác mà tôi lo ngại rằng thông tin vui thì ít mà tin tức xấu thì nhiều. Các bạn trẻ hình như đang thiếu chỗ dựa, vì không biết đến Phật Pháp nên họ nương tựa vào internet, quy y internet. Tiếc thay.
Tôi nhớ đến các ngôi chùa ở miền Bắc. Ở đó hầu như chỉ có các cụ bà mà
không có thanh niên và giới trẻ, (thậm chí thiếu vắng cả các cụ ông). Do không biết đến chùa, đến Phật nên tiếc thay, những người kém may mắn này chỉ còn cách nam mô ti vi và quy y internet mà thôi.
Tôi nhớ lại những khóa tu cho các em sinh viên tại chùa Hưng Khánh, Hà Nội mà tôi có phước duyên được đóng góp một chút nhỏ nhoi trong khâu tổ chức. Mỗi khóa có ít nhất 300 em. Có khóa lên đến gần một ngàn em tu học hai ngày thứ Bảy và Chủ nhật. Những bạn trẻ này thật là quá may mắn. Tôi nhớ rằng mình đã có những buổi nói chuyện ngắn nhưng làm các em xúc động, rồi nhận ra nhiều điều để tự các em thay đổi. Tôi vui lắm.
Khi tôi gõ những dòng chữ này thì em Nghiêm Mạnh Tuấn, học trò của tôi, một cậu sinh viên giàu quyết tâm đã bắt xe khách từ Hà Nội vào Sài Gòn để tham gia khóa tu Phật thất tại chùa Hoằng Pháp. Em biết rằng đăng kí qua mạng đã hết chỗ nhưng vẫn vào bởi: “Quý thầy không nỡ để em từ miền Bắc vào đây mà không được tham gia khóa tu đâu ạ”.
Du lịch tâm linh - Được cả hai
Du lịch ngày càng phát triển và mang lại nhiều lợi ích cho mỗi chúng ta. Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong thời đại hiện nay, khi kinh tế đã phát triển, khi nhận thức của mọi người đã được nâng cao. Một loại hình
du lịch đã có từ nhiều năm nhưng mấy năm gần đây mới thực sự được quan tâm đúng mức và rất đáng được luận bàn, đó là du lịch tâm linh.
Các tour du lịch tâm linh có đặc thù riêng, giúp ta khai phá cả tâm mình lẫn cảnh vật nơi đến. Đây là hai phần không thể thiếu trong bất cứ chương trình nào. Đến với các chương trình du lịch tâm linh, những người tham gia thường cảm thấy rất gần gũi, dễ thông cảm, sẵn sàng sẻ chia, cởi mở với nhau. Họ có thể coi nhau là các thành viên cùng gia đình ngay khi chuyến đi bắt đầu. Tham gia những chương trình này, khách hành hương không chỉ được quay về với cội nguồn tâm linh của mình, được khám phá những thánh tích hay không gian tâm linh quý giá, mà trong suốt hành trình của chuyến đi được bên nhau, hòa quyện trong một môi trường tinh khiết, bình an, yêu thương và kết nối. Là người đã tham gia hàng chục chuyến du lịch tâm linh tôi nhận thấy, có lẽ ít ở nơi nào câu nói “không có con đường đi đến hạnh phúc, hạnh phúc chính là con đường” được hiểu và triển khai triệt để như trong các chuyến đi này.
Bản chất của du lịch tâm linh là hướng thiện. Tham gia du lịch tâm linh là để có cơ hội thực hành và sống trong môi trường của cầu nguyện và chiêm bái, thực tập việc tu tập và thư giãn, chăm sóc thân và tâm, tạo niềm tin và tìm nơi nương tựa, hành trì các lễ nghi và nạp năng lượng cho chính mình cho chuyến hành trình dài trong cả cuộc đời này. Những chuyến đi nhiều khi mang lại các kết quả kì diệu cho khách hành hương mà không ai tin được.
Anh Doãn Tần của công ty du lịch Ngọc Việt Travel, người đã trực tiếp đưa hàng trăm đoàn đi hành hương suốt cả chục năm nay kể rằng: có một Phật tử bị bệnh nặng nên mặc dù đã mua tour tham gia chương trình hành hương về
đất Phật mà phải hủy. Sau khi nghe phân tích về sự nhiệm màu của năng lượng tâm linh, chị lại quyết định đi. Những người trong đoàn ái ngại khi thấy tình trạng sức khỏe của chị lúc đoàn xuất phát. Tuy nhiên khi chuyến đi kết thúc, bệnh của chị cũng tan biến luôn!
Trong chuyến hành hương gần đây nhất của tôi cũng vậy, có một thành viên bị bệnh nhưng chị vẫn quyết theo tour. Chị tham gia các chương trình lễ
Phật, tụng kinh, nhiễu tượng Phật, niệm Phật rất thành kính và nghiêm túc. Kết quả của chuyến đi làm tất cả mọi thành viên trong gia đình chị đều bất ngờ. Bây giờ chị rất khỏe, rất vui và thường xuyên hướng dẫn các bạn trẻ sống tốt, sống thiện. Chị tham gia rất tích cực trong các chương trình giúp đỡ người nghèo, cô đơn, bệnh tật. Chị rất hạnh phúc với những việc có ích mà chị đang làm.
Các chương trình du lịch tâm linh đi nước ngoài thường là tứ động tâm (bốn thánh tích tại Ấn Độ và Nepal), hành trình về “vũ trụ tâm linh” Tây Tạng, Tứ đại danh sơn (đạo tràng của bốn đại Bồ Tát là Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế
Âm, Địa Tạng), Trung Đài Thiền tự (Đài Loan). Rồi các tour đi Miến Điện, Lào, Thái Lan, Bhutan, có kết hợp với hành thiền.
Trên thực tế những chuyến du lịch tâm linh làm cho các thành viên trong đoàn gắn bó với nhau hơn cùng nhau tu tập, giúp đỡ nhau trên phương diện vật chất lẫn tinh thần trong những năm tiếp theo của cuộc đời. Đây là những chuyến đi dài ngày. Đi Ấn Độ thì khá vất vả, điều kiện cơ sở vật chất không thật sự tốt. Đây cũng chính là một lí do để các thành viên trong đoàn gắn bó với nhau hơn, thật sự trở thành những người con của Phật. Sau mỗi chuyến đi, các thành viên thường sống tốt hơn, thâm tâm được thanh lọc hơn, sự an lạc thường hiện rõ nơi mỗi người.
Các chương trình trong nước thường được tổ chức về những nơi nổi tiếng. Phía Bắc thì chúng ta hành hương về Yên Tử, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Bái Đính, thiền viện trúc lâm Tây Thiên… Du khách đến miền Trung nhất định đến thăm các ngôi chùa của cố đô Huế, đến với chùa và hang động tại Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)… Khách hành hương cũng không thể không đến với thiền viện trúc lâm Đà Lạt, về với các ngôi chùa và thiền viện ở Bảo Lộc. Từ Sài Gòn, người hành hương có thể đến với các thiền viện và chùa tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, hay Bình Dương, Hà Tiên, Tây Ninh… Những chuyến đi với bao khám phá và trải nghiệm thú vị. Những chuyến đi ngắn ngày và thường được tổ chức trong hai ngày nghỉ cuối tuần giúp chúng ta có thêm năng lượng cho một tuần làm việc mới.
Ngày nay, ngoài việc tham gia các tour được tổ chức, nhiều khách du lịch tự mua vé, tự lo tour và tự trải nghiệm trong cả chuyến đi. Rất nhiều nhóm bạn cũng tự tổ chức những chuyến hành hương cho chính mình. Ví dụ như Câu lạc bộ yêu sách Thái Hà tại thành phố Hồ Chí Minh tháng trước tự tổ chức cho 30 bạn chuyến đi hai ngày về thiền viện Bảo Sơn, chùa Tổ núi Thị Vải kết hợp tắm biển Vũng Tàu và thăm thiền viện Đại Tùng Lâm. Tiếp đó là
hành trình về nguồn tham dự lễ Vu Lan thiền thất Trúc Lâm Bảo Sơn có cả lễ Bông hồng cài áo.
Nhóm Trăng rằm thì tổ chức cho người thân đi chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Nhóm Quả Đấm Thép thì tham gia chương trình Hương Sen Đại Bi tại chùa Hưng Khánh, huyện Mỹ Đức, Hà Nội…
Các chương trình du lịch cũng giúp chúng ta về với thiên nhiên, được sống trong không khí bình yên, trong màu xanh của cây cối và đất trời. Du lịch tâm linh cũng là để cho khách hiểu về lịch sử, văn hóa của các ngôi chùa và thiền viện cũng như các địa phương, được chiêm ngưỡng những công trình nghệ thuật, kiến trúc quý giá. Thông qua các bài pháp thoại, những buổi giao lưu, các thành viên cũng có cơ hội học tập rất tốt. Cái mà tôi thấy rõ nhất là nhiều người đã tạo ra cho chính mình những thói quen mới, cách nhìn mới, mang lại lợi ích thiết thực cho chính mình và xã hội.
Thượng tọa Thích Thái Hòa – chùa Phước Duyên, thành phố Huế nói với tôi rằng du lịch tâm linh cho ta cả hai: du lịch lẫn tâm linh. Tác giả của cuốn sách nổi tiếng Tay buông ráng hồng khuyên mỗi người nên đầu tư thời gian vào loại hình du lịch này.
Khi gõ những dòng chữ này, tôi cũng đang chuẩn bị cho chuyến du lịch tâm linh của mình, một chuyến đi gần nhưng không kém phần thú vị. Tôi sẽ đến một ngôi chùa và thả hồn mình vào đó. Thư giãn và thảnh thơi. Ngày cuối tuần thật ý nghĩa khi ta có thời gian dành cho thân và tâm của mình.
Lòng từ bi của các bạn trẻ
Đời là đầy vơi,
đố ai thoát được lưới trời khóc than;
Đời là âm vang,
đố ai nghe được lời vàng của trăng.
– Thích Thái Hòa
Là Giám đốc doanh nghiệp, lại được coi là “người nổi tiếng” nên hàng ngày tôi nhận được vô vàn thư, rất nhiều trong số đó là quảng cáo và mời tài trợ. Trong số thư nhận được, tôi rất hay chú ý đến những lá thư của những tấm lòng từ bi, nhất là của các bạn trẻ. Lúc rảnh, ngồi đọc lại hoặc uống trà và nghĩ về các em mới thấy, đây là những tấm gương rất tốt để mọi người phải học theo, trong đó có tôi.
Nhóm Tình nguyện vì hòa bình Việt Nam là một ví dụ. Theo tôi được biết, đây là nhóm các bạn trẻ đã làm rất nhiều việc thiện giúp đời, cứu người. Nhóm được thành lập từ tháng 10 năm 2006 nhưng đến nay đã thu hút được 1,500 lượt bạn trẻ tham gia. Các em làm rất nhiều các chương trình vì người nghèo, vì học sinh ở các vùng sâu, vùng xa. Dịp đông năm nay, các em đang triển khai chương trình “Giáng sinh bên giường bệnh” cho trẻ nhỏ khoa ung bướu bệnh viện Nhi Trung ương. Các bạn trẻ muốn mang đến cho gần 60 bệnh nhân nội trú và gần 30 bệnh nhân ngoại trú tí hon nơi đây niềm vui và hi vọng, tình yêu và hơi ấm mùa đông. Tôi đọc tin và tưởng tượng ra những chiếc giường bệnh tuyệt diệu với sự có mặt của nhóm. Tôi như thấy những nụ cười thân thương của các bé. Những món quà và sự động viên. Thật ấm áp giữa mùa đông!
Câu lạc bộ Yêu sách Thái Hà với các thành viên tại Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên tổ chức các chương trình thiện nguyện mang niềm vui đến muôn nơi. Các bạn tham gia cùng tổ chức chương trình Hương sen đại bi và các khóa tu hai ngày cuối tuần, mang tình cảm và tâm Phật đến cho hàng ngàn em nhỏ ở huyện Mỹ Đức và các bạn sinh viên đang học tập tại Hà Nội. Các em tham gia quyên góp quần áo từ mọi miền đất nước để gửi về miền Trung tặng cho đồng bào các vùng bị mưa
lụt, bão lũ. Hiện nay, các bạn trẻ đang tham gia chương trình Kính mừng khánh đản Đức Phật A Di Đà và quảng bá về việc ăn chay. Thật tuyệt diệu làm sao!
Nguồn sáng là một tổ chức từ thiện, tập hợp các bạn trẻ yêu thích công việc thiện nguyện, mong muốn giúp đỡ những học sinh nghèo đang phải vật lộn với khó khăn nhưng có ý thức vươn lên trong cuộc sống, đạt thành tích cao trong học tập và tu dưỡng đạo đức. Nhóm Nguồn sáng có mong muốn kết
nối những tấm lòng vàng với những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là các em học sinh nghèo vượt khó.
Tôi biết rằng sự hỗ trợ đúng lúc về vật chất, tinh thần cho trẻ nhỏ của Nguồn sáng không những mở ra cơ hội thay đổi một số phận theo hướng tốt hơn, mà còn giúp lan tỏa tình thương yêu, đạo đức trong cộng đồng. Mỗi việc làm của các em là niềm vui cho bao con người, bao gia đình.
Trong rất nhiều chương trình của nhóm, tôi được biết đến Suất cơm sẻ chia cùng sĩ tử vô cùng ý nghĩa được thực hiện với sự giúp đỡ của chùa Phổ Linh, chùa Vân Hồ và nhiều cơ quan khác. Nhóm đã phát hơn 5.000 suất cơm chay phục vụ các thí sinh nghèo và phụ huynh từ nơi xa tới 11 trường đại học ở Hà Nội. Hiện nay các em đang đi quyên góp sách, vở xây dựng Tủ sách Nguồn sáng tại trường Trung học cơ sở xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình nhằm giúp các em tiếp cận với những cuốn sách hay và bổ ích. Các em đến từng nơi, xin từng cuốn sách, cả cũ và mới. Tôi hiểu rằng đây là những tủ sách đầu tiên cho chuỗi tủ sách tại các trường học vùng quê của nhóm.
Những hoàn cảnh khó khăn còn rất nhiều. Trong khi nhiều người đang lao vào kiếm tiền, làm giàu và trở nên giàu hơn thì có bao bạn trẻ, nhất là các em sinh viên đang hết mình lao động và cống hiến. Các em vừa làm việc, vừa tạo ra những chiếc cầu nối để những tấm lòng hảo tâm đến với các hoàn cảnh khó khăn, cần hỗ trợ một cách hiệu quả nhất.
Tôi như nhìn thấy những em học sinh nghèo, thiếu thốn được tiếp tục đi học, những ngôi trường nghèo chưa có thư viện, khó tiếp cận với sách, truyện có được những cuốn sách quý, những người gặp hoạn nạn, bão lũ được nhận những món quà giá trị, đúng lúc. Bạn biết không, người nhận được sự giúp đỡ và sẻ chia đã rất vui mà gia đình, những người thân, bạn bè của cả người cho đi và người nhận còn vui gấp bội. Các bạn trẻ với lòng từ bi của mình đang gieo những hạt giống yêu thương, đang tu phước rất tuyệt vời.
Viết đến đây tôi chợt nhớ đến nhóm “máu” – các bạn trẻ thường xuyên tham gia hiến máu nhân đạo. Tôi đã có ít nhất hai lần đến nói chuyện với các em, và lần nào hội trường 500 chỗ của viện Huyết học Truyền máu Trung ương tại Hà Nội cũng chật kín các bạn trẻ. Nhìn khuôn mặt tươi vui của các em, tôi hiểu rằng các em và những người bạn đã cứu được biết bao sinh mạng. Rằng những giọt máu của các em quý giá biết bao. Rằng các em đang lan tỏa tình yêu thương, lòng từ bi đến biết bao người.
Làm từ thiện là việc làm rất quý và luôn đáng được biểu dương. Các em còn trẻ, mới là sinh viên mà đã biết làm công việc tuyệt vời như thế này, chắc chắn sau này các em sẽ có những gia đình tốt. Nhất định đất nước Việt Nam ta đang và sẽ có biết bao công dân tốt. Hơn nữa, sức lan tỏa từ các em sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến 90 triệu dân Việt ta, từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi.
Lòng từ bi của các bạn trẻ thật tuyệt diệu biết bao. Tôi sẽ rất vui khi những tấm gương của các em tiếp tục được nhiều người biết đến. Tôi tin rằng, ngày càng có thêm các bạn trẻ tham gia. Bạn cũng vậy, khi đọc đến đây, tôi biết, bạn sẽ xắn tay áo, khoác ba lô lên và tiến bước. Nào cùng tham gia để mở rộng lòng từ bi, để cùng nghe được “lời vàng của trăng”.
Những lời thầy dạy
Tôi có may mắn được học, được nghe từ nhiều vị thầy đáng kính, nhiều bậc chân tu. Có những câu tôi phải nghĩ mãi mới hiểu hết ý. Có những lời dạy của thầy mãi mấy tháng sau, thậm chí mấy năm sau mới hiểu được phần nào.
Thời mạt pháp này, được gặp các bậc thiện tri thức thật là may mắn. Tôi xin ghi ra đây một số lời dạy, bởi tôi tin rằng bạn sẽ học được nhiều và biết đâu có những sự thay đổi lớn lao trong tâm của bạn.
- Hãy chinh phục bóng tối bằng ánh sáng, cái nóng bằng sự lạnh, điều sai trái bằng lẽ phải, sự bất công bằng công lí và sự thật ngụy tạo bằng sự thật tuyệt đối.
- Hãy cố gắng hiểu biết những thói quen sai lầm mà thông thường chúng ta rất khó nhận ra là sai lầm. Và bạn cũng cần nỗ lực mãnh liệt để nhận ra sự thật tuyệt đối chính là sự thật.
- Hãy thực hành thiền đúng cách cho đến khi chúng ta chẳng còn lại điều gì, bao gồm: phải nói, phải làm, phải lo lắng, phải thực hành. Nếu bạn vẫn còn cần, vẫn còn muốn, như vậy là thực hành chưa đúng cách.
- Hãy trở nên thông thái một cách tự nhiên, không cần đến nỗ lực hơn là nỗ lực một cách có chủ ý để trở nên thông thái.
- Bất cứ khi nào bạn nhận thấy điều tốt, bạn cũng cần nhận ra điều xấu. Bất cứ khi nào bạn nhận thấy điều xấu, bạn cũng cần nhận ra điều tốt, hãy luôn xem xét trong sự hoán chuyển như vậy.
- Bạn cần nỗ lực mạnh mẽ để nhận ra sự thật tuyệt đối như là sự thật. - Cần phải giảm hay làm nhẹ bớt bất cứ điều gì mà bạn kiểm soát. - Cần phải buông bỏ càng nhiều hành vi không cần thiết càng tốt. - Cần phải từ bỏ bất cứ điều gì mà chúng ta nắm giữ.
- Chừng nào còn ngã mạn và giả tạo (không tự nhiên), chừng đó bạn sẽ
không thể giác ngộ được.
- Bạn chỉ có thể trở nên thông thái khi có khả năng buông bỏ bản ngã và tự hào về cái tôi.
- Bạn chỉ có thể đạt được giác ngộ khi bạn tự do khỏi sự hướng đến lấy bản ngã làm trung tâm, sự ngã mạn và sự kiêu căng.
- Mục đích của pháp hành này là để loại bỏ niềm tin vào thứ gì đó hay ai đó là thực.
- Trong thực tại tuyệt đối, không có gì cả mà chỉ có dòng chảy năng lượng (vô ngã) tinh thần và vật chất vô thường luôn luôn đổi mới với tốc độ rất cao, vượt ngoài khả năng nhận thức của sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).
- Tất cả những gì bạn làm, bạn nhận biết thì đừng cho nó là thực (chỉ có Danh - Sắc - Niết bàn là sự thật tuyệt đối, sự thật gốc, nhưng năng lực hiện tại của bạn chưa thể nhận thức được).
- Tất cả chỉ là sự thật ngụy tạo (sự thật tạo tác) mà thôi. Sự thật ngụy tạo thì không cần thiết phải quá chú ý hay chú trọng.
- Quan trọng là việc đối xử với các sự thật ngụy tạo một cách hợp lí. Đó là chỉ làm, chỉ sử dụng, chỉ kinh nghiệm, chỉ nhận biết...
- Tất cả làm với mục đích xả li: không chối bỏ cũng không chấp thủ.
Các thiền sư Miến Ðiện vẫn thường nói: “Khi khái niệm được nhận thấy rõ ràng, chân đế bị che khuất”. Lần đầu nghe, tôi không hiểu. Sau này ngẫm thấy hay. Càng ngẫm càng thấy thú vị.
Đó là lí do vì sao thiền sư Ottamasara khuyên chúng ta: “Tất cả những sự thật ngụy tạo đều không đáng để ta quá chú trọng. Chính vì quá tập trung vào đó mà ta không đến được chân lý. Vì thế, thay vì nhớ và lệ thuộc vào biết bao câu chuyện và phiền não do tục đế gây ra như bao đời nay, chúng ta
hãy không quên (chánh niệm) về chân đế để từ bỏ (xả li) dần dần tục đế.
Những người thầy tuyệt vời như thiền sư Ottamasara thật là quý. Nếu bạn được gặp thiền sư thì thật may mắn, bằng không hãy gặp thầy online, nghe thầy giảng cũng đã quý lắm rồi. Mong muốn của tôi là bạn nhận ra vài điều
gì đó sau khi đọc những lời dạy này của thầy. Những lời dạy này là số ít, rất ít trong rất nhiều những lời dạy bảo quý giá.
Vài dòng đâu có thể nói hết, ghi ra hết được.
Phải xét kĩ hậu quả trước khi làm
Tôi luôn mong muốn được đảnh lễ, được làm học trò của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Mong ước – được nên. Tôi xin kể lại một kỉ niệm trong một lần gặp Thầy.
Ngày ấy, tôi đến Đà Lạt vừa vì công chuyện vừa để tham quan và nghỉ mát tại thành phố mộng mơ này. Tôi liên lạc với thầy Thế Trung, một nhà sư tại thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt để đến thăm thầy, thăm thiền viện, trung tâm thiền lớn của Việt Nam.
Thầy Thế Trung đang ở Thành phố Hồ Chí Minh và hẹn tôi sau 9 giờ sáng hôm sau sẽ đón tôi vào thăm.
Vì mải cà phê và tâm sự với vợ chồng một anh bạn chuyên trồng hoa tại Đà Lạt, một con người rất đam mê thiên nhiên giống tôi nên tôi đến thiền viện muộn. Hơn 10 giờ tôi mới đến nơi. Và chúng tôi gặp nhau để sau đó là những phút giây ấn tượng không thể phai nhạt.
Thầy Thế Trung đón tôi, nói chuyện sơ và dẫn thẳng tôi vào thăm nội viện. Tôi bước theo thầy mà không biết mình đi đâu, dường như lạc vào một cõi khác. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt bình yên, tinh khiết, nhẹ nhàng. Nội viện còn hơn cả thế nữa. Tôi theo thầy bước từng bước nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tâm tôi tĩnh lặng và trống rỗng. Tôi không biết mình đi đâu, thăm những gì.
Tự nhiên thầy Trung dừng lại. Tôi dừng theo. Thầy hướng về bên tay phải. Tôi hướng theo. Trước mặt tôi là hòa thượng Thích Thanh Từ. Khuôn mặt quen thuộc tôi hay nhìn thấy trên sách, báo hay các băng đĩa. Thầy đang đứng trong thất của mình và nhìn về phía chúng tôi. Cái nhìn thân mật, ân cần, đầy từ bi. Hòa thượng đang đợi tôi.
Tôi theo chân thầy Thế Trung bước vào. Tôi bị cuốn hút vào khuôn mặt từ bi, hiền hậu, tràn đầy năng lượng mà suýt quên không lễ Hòa thượng. Hòa thượng hiền từ nhìn tôi và hỏi tôi có phải từ Hà Nội vào. Tôi chắp tay, gật
đầu và nói về duyên lành được đảnh lễ thầy hôm nay. Tôi nói trong xúc động. Tôi nói ra từ trái tim mình rằng đã đọc khá nhiều về thầy và sách của thầy nhưng hôm may mới được gặp thầy.
Thượng tọa nhìn tôi ân cần. Người thầy như tỏa ra nguồn ánh sáng vô tận.
Tâm từ từ thầy như lan tỏa khắp căn phòng, như tràn ngập khắp người tôi. Tôi thấy toát lên từ thầy một tấm lòng bao dung rộng lớn, một trái tim rộng mở, một trí tuệ hiếm thấy. Tôi cảm nhận được những dòng năng lượng đặc biệt đang lan tỏa từ Hòa thượng.
Thượng tọa Thích Thanh Từ hỏi tôi có muốn hỏi gì không và lắng nghe tôi. Tôi trình bày mong muốn được chỉ bảo cách tu tập và thiền định.
Hòa thượng nói về Giới, Định, Tuệ. Hòa thượng quả quyết rằng Tuệ là quan trọng nhất. Thầy khuyên tôi và bạn bè xem giữ giới, tập thiền để có Định. Có Định mới có Tuệ. Mỗi lời nói nhẹ nhàng của Hòa thượng về Định, Tuệ, về thiền nói chung và thiền Việt Nam nói riêng đi sâu vào tâm tôi.
Tôi tập trung lắng nghe Hòa thượng nói về thiền và việc tu để chuyển nghiệp. Thầy khuyên tôi nên hành thiền và tu tập để có tinh tấn. Thầy muốn tôi và chúng ta tu chứ không đi tu. Tu để tâm trong lành, thanh tịnh. Tu là để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn, cống hiến cho đời nhiều hơn.
Tôi trình bày nguyện vọng với Hòa thượng để Hòa thượng có thể mở thêm các khóa tu và lớp thiền tại Hà Nội nói riêng và phía Bắc nói chung. Thầy nói rằng đạo Phật tại Việt Nam đang phát triển và tương lai, Phật pháp sẽ được ứng dụng thiết thực nhiều hơn nữa vào cuộc sống, rằng đạo Phật cần phải đi vào công việc và cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta.
Tôi rời thất của Hòa thượng mà lòng chan hòa an lạc và hạnh phúc. Thầy như tiếp năng lượng cho tôi để tôi sống hữu ích hơn, để cống hiến nhiều hơn cho xã hội, để sẻ chia thêm nữa cho mọi người xung quanh. Những bước chân chậm rãi, thảnh thơi của tôi như tràn đầy năng lượng và bình an. Nhẹ nhàng. Thanh thoát.
Rồi chúng tôi đến thiền đường trong nội viện. Thầy Thế Trung hướng dẫn tôi lễ Phật trước khi vào chiêm bái xá lợi Phật.
Lần đầu tiên tôi được tận mắt chiêm bái xá lợi của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi nhớ rằng tôi được ngắm nhìn ba bảo tháp nhỏ. Đặc biệt có một bảo tháp có những viên xá lợi ngũ sắc, đủ các màu. Tôi vô cùng xúc động và không tin vào mắt mình. Tôi cũng được thầy Thế Trung chỉ cho xá lợi của bốn vị thánh tăng là Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, A Nan và La Hầu La (con trai Đức Phật). Tôi lặng người đi khi chiêm bái xá lợi của Đức Bổn Sư và các vị thánh tăng. Tôi như bị cuốn hút bởi những viên xá lợi ngũ sắc của Đức Phật.
Tôi nhẹ nhàng nhắm mắt lại trong vài giây rồi mở mắt ra tiếp tục chiêm bái. Những giây phút hiếm có trong đời. Những giây phút đó tôi biết mình phải học theo tấm gương sáng của Đức Phật: từ, bi, hỉ, xả. Rằng tôi và mỗi doanh nhân chúng ta cần biết sống tốt, biết làm việc hết mình, biết cống hiến cho đời, biết hi sinh vì tập thể, vì cộng đồng, vì xã hội và loài người. Tôi cũng tự nhắc mình cần học đức tính hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên, cần tu tập để có trí nhớ của ngài A Nan, cần có trí huệ của ngài Xá Lợi Phất, cần học mật hạnh đệ nhất La Lầu La. Tôi càng quyết tâm trong việc trau dồi tri thức, đức hạnh để mang lại nhiều lợi ích cho chính mình và đất nước Việt Nam của chúng ta.
Bữa trưa cùng các quý thầy tại thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt rất ấn tượng. Trước mặt tôi là bài thơ Mộng của chính Hòa thượng Thích Thanh Từ. Tuy nhiên phía dưới của bài Mộng có ghi là “Hòa thượng Thiền sư Thượng Thanh Hạ Từ”. Tôi tranh thủ đọc lại bài thơ và ngẫm nghĩ mãi bốn chữ này – Thượng Thanh Hạ Từ. Vì tôi vốn chỉ nghe có ba chữ - Thích Thanh Từ hay thầy Thanh Từ mà thôi. Bốn chữ giản đơn, nhưng sâu sắc và có bao điều cần học.
Bên trái tôi là bức chạm trổ khá đẹp với một câu nói: “Phàm làm việc gì, trước phải xét kĩ hậu quả của nó”. Câu viết làm tôi nghĩ về mình, về con người mình, về tâm của mình. Chỉ có 11 chữ nhưng câu nói như lời nhắc nhở quý giá đối với tôi về những gì mình đang làm.
Con người chúng ta đôi khi không nghĩ kĩ, không nghĩ thấu đáo và có thể làm bậy. Có khi chúng ta không kịp nghĩ. Đôi khi ta không tính đến hậu quả của việc do mình làm. Tôi và bạn đều như vậy. Nếu mỗi chúng ta biết tính trước, xét sau trước khi hành động thì thế giới này tốt đẹp biết bao.
Tôi nhớ đến câu “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Những vị bồ tát, những bậc thầy lớn của chúng ta luôn nghĩ kĩ và cẩn thận trước mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ của mình. Còn chúng ta chỉ biết sợ hậu quả mà không có những việc làm chín chắn. Bậc thánh nhân luôn có những suy nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng. Còn chúng ta, liệu có biết học để nghĩ kĩ không!
Tôi nhớ đến câu nói của hòa thượng Thích Thanh Từ khi nói chuyện với tôi ít phút trước rằng mỗi chúng ta cần phải tu. Nên tu cả thân, khẩu, ý để tinh tấn. Tôi lại nghĩ tiếp rằng nếu mỗi chúng ta biết tu tập, biết nhìn sâu sắc vào chính mình, biết cái xấu cái tốt, cái thiện cái ác, cái tích cực và tiêu cực thì không có các hậu quả xấu. Như vậy xã hội sẽ rất tốt đẹp, đất nước Việt Nam
của chúng ta sẽ phát triển và chan chứa tình yêu thương và trái đất này tràn ngập tình người và hạnh phúc.
Mỗi bước đi của tôi nơi thiền viện là một bước đi thư giãn, tràn đầy an lạc. Mỗi phút giây ngắn ngủi trong thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt vào ngày Chủ nhật đặc biệt này là những phút giây tuyệt vời. Tôi rời thiền viện với câu nói thiêng “Phàm làm việc gì, trước phải xét kĩ hậu của nó” với nụ cười hiền từ tràn đầy thông tuệ của Hòa thượng Thanh Từ, với cảm xúc khó tả khi chiêm bái xá lợi Phật trong không gian tĩnh mịch và thiêng liêng. Tôi rời thiền viện ra sân bay với tâm hồn thảnh thơi.
Tôi ngồi gõ những dòng chữ này trên máy bay và mong muốn rằng mỗi chúng ta, dù là ai, doanh nhân hay bậc thiện tri thức, sinh viên hay bác sĩ, kĩ sư hay giáo viên, người quen hay không quen dành đôi phút để nghĩ về mình, về mỗi hành động của mình, để học theo những bậc thầy lớn của mình, để thành công và hạnh phúc.
Đám tang an lạc
Từ bé đến nay tôi tham gia cả hàng trăm lễ tang. Từ những vị có chức rất cao đến một bác nông dân, công nhân. Từ một hòa thượng nổi tiếng đến một vị tì kheo trẻ tuổi. Thật tình, chưa có một đám tang nào đặc biệt và giản dị đến vậy. Giản dị đến khó tin. Nếu được phép, tôi sẽ đặt tên là đám tang an lạc.
Đầu giờ sáng, tôi nhận tin Hòa thượng Thích Thông Lạc đã từ bỏ xác thân. Thế là tôi vớ bộ quần áo lam khoác lên người và vội vã lên đường. Lòng bồi hồi vì không được gặp Thầy trước lúc Thầy ra đi. Phước duyên mỏng quá!
Chúng tôi đến nơi và rất bất ngờ bởi không khí bình an đến kì lạ. Trong ngôi nhà đơn sơ chỉ có quan tài Thầy và phía sau là ba vòng hoa. Không loa đài. Không kèn trống. Không có ban tổ chức. Không có các đoàn nườm nượp vào viếng như thường lệ. Lạ hơn nữa là không có tiếng khóc, không hương khói, không nhang đèn. Tất cả lặng im và thanh tịnh.
Quan sát trước và sau ngôi nhà có quàn Trưởng lão Thích Thông Lạc, tôi thấy phần lớn là các Phật tử, chỉ có số ít là quý thầy, quý cô. Tất cả lặng lẽ vào lễ trước quan tài Thầy và ngắm dung nhan Thầy lần cuối. Thầy nằm đơn giản trong hòm gỗ, phía dưới là trà khô. Nhìn khuôn mặt Thầy rất thanh thản và an lạc như đang ngủ.
Được biết Thầy mất hồi 12 giờ đêm ngày mồng một đầu năm và ngay sau đó không lâu, các học trò đã nhập quàn cho Thầy. Chị Phước, một Phật tử thân thiết của Thầy cho biết, trước khi mất, Trưởng lão Thích Thông Lạc mong muốn được đơn giản cuốn thân xác vào chiếu và chôn cất bình thường. Thầy cũng dặn là sáng mất thì chiều chôn. Thầy không muốn tổ chức lễ viếng đông đúc, không thông báo rộng rãi, không làm linh đình.
Tôi thanh thản đi bộ ra phía trước ngôi nhà quàn Thầy thấy một hố mới xây, vữa còn ướt và hiểu rằng đây là nơi Thầy sẽ an nghỉ. Vô cùng giản dị. Tôi lang thang quanh khu vực và thấy khá nhiều thất, nơi những thiền sinh chuyên tu đang nhập thiền. Cả hai khu Chơn Như 1 và Chơn Như 2 đều vô cùng thanh tịnh.
Điểm rất đặc biệt là tất cả các trò của Trưởng lão Hòa thượng Thích Thông Lạc - những thiền sinh chuyên tu - chưa hề biết Thầy đã thở hơi cuối cùng.
Tận đến 14 giờ chiều quý vị mới biết và sau đó là ra viếng thầy.
15 giờ 30 có một vị đọc tiểu sử của Trưởng lão Thích Thông Lạc. Lễ tang giản dị đến mức không có ban tổ chức, không có phát biểu của bất cứ ai, không có điếu văn mà chỉ có một cảm nhận rất ngắn của một thiền sinh. Cuối cùng, tất cả cùng nhau khiêng quan tài Thầy đưa ra nơi an nghỉ cuối cùng. Chị Phước cũng cho tôi biết, địa điểm chôn cất là nơi mà Thầy muốn.
Chúng tôi lặng lẽ thả cát vào huyệt. Cát dần được lấp đầy. Lớp vữa bê tông được đổ lên trên cùng. Ngôi mộ vô cùng giản dị của Trưởng lão Thích Thông Lạc hoàn thiện quãng 17 giờ 30 phút chiều, trước khi trời tắt nắng.
Trên đường về, chúng tôi ghé thăm chùa Am. Chúng tôi dừng chân nơi cốc đơn sơ với chiếc giường bằng đá bên trong, nơi Thầy bao năm tu hành viên mật. Chúng tôi gặp một số xe chạy ngược chiều. Quý thầy cô và Phật tử biết tin Thầy từ bỏ xác thân đang đến viếng. Họ muốn được tham gia lễ tang nhưng không kịp nữa rồi.
Về đến nhà, tôi lôi sách của Thầy ra và ngắm. Đường về xứ Phật 10 tập, Những lời gốc Phật dạy 4 tập, Đạo đức làm người 2 tập, Giáo án rèn nhân cách 3 tập,… Nhiều lắm. Tôi lặng người đi nhớ về một vị thầy vĩ đại và giản dị đến khó tin.
Cách đây mấy tháng tôi đến tiễn đưa Hòa thượng Thích Minh Châu về nơi an nghỉ cuối cùng. Và hôm nay, tôi lại buộc phải vĩnh biệt Trưởng lão Thích Thông Lạc. Các thầy lần lượt ra đi, để lại chúng con. Thời mạt pháp tối như đêm dày như đất. Vắng Thầy chúng con dựa vào ai. Hay tự mò mẫm mà đi. Nguyện mong quý thầy chỉ đường chỉ lối để chúng con biết đường mà lội, biết lối mà đi. Để được tu theo thánh pháp.
Ta sẽ có Niết Bàn ngay giữa cuộc đời này
Bạn đã thực tập thiền ăn, thiền ngủ, thiền đi rồi chứ? Bạn có bao giờ thực tập thiền hát chưa? Nếu chưa, tôi nghĩ là hơi uổng.
Có một bài hát rất hay. Lời ca như sau:
Buổi sáng nghĩ điều lành,
Buổi trưa làm điều lành,
Buổi tối mộng điều lành,
Ta có một ngày vui!
Ta sẽ có Niết Bàn
Ngay giữa cuộc đời này
Ta sẽ có an lành
Ngay trong trái tim ta.
Lời bài hát rất đơn giản nhưng hay vô cùng. Càng ngẫm tôi càng thấy hay. Càng hát lại càng hay nữa. Nếu bạn nghe giai điệu thì mới là tuyệt vời. Khi bạn thả hồn mình vào ca từ, vào từng âm thì rất rất tuyệt diệu. Khi bạn hát bằng cả trái tim mình, toàn tâm toàn ý – đó chính là thiền hát.
Cách đây gần 10 năm, lần đầu tiên tôi được thiền hát. Và từ đó tôi mê. Tôi mê thiền hát và hay hát. Cùng với cười, hát mang lại cho chúng ta rất nhiều niềm vui và năng lượng. Bạn nên hát tập thể nhé. Hát tập thể tốt hơn nhiều so với hát một mình. Giống như khi tọa thiền, có đại chúng, chúng ta nhập định nhanh hơn.
Đôi khi ta coi thường những suy nghĩ của mình. Có những khi ta không để ý đến năm giác quan và để cho chúng tiếp xúc với thế giới bên ngoài và rồi chúng ta bị đưa vào nơi xấu ác, tự đánh mất mình lúc nào không hay. Chỉ có
một cách để chúng ta có hạnh phúc thực sự – đó là làm chủ chính mình, làm chủ thân tâm.
Cách làm chủ đúng nhất là làm chủ suy nghĩ. Tôi luôn tự nhắc mình trong mỗi suy nghĩ “Sinh thiện, tăng trưởng thiện. Ngăn ác, diệt ác pháp ”. Luôn nhắc mình như vậy. Luôn huấn luyện tâm như vậy. Nhất là buổi sáng. Đặc
biệt khi mới ngủ dậy. Tôi tự mỉm cười thật tươi và “tác lí như ý” vào suy nghĩ của mình.
Nếu như buổi sáng chúng ta nghĩ điều lành và cả buổi sáng nghĩ điều lành thì đến trưa chúng ta sẽ làm điều lành. Từ ý sẽ chuyển hóa ra khẩu, ra hành. Đó là nhân quả. Từ làm lành, giấc mộng chúng ta cũng lành luôn. Muốn ngủ ngon, ngủ sâu, muốn có nhiều năng lượng, chúng ta cần làm đúng như vậy mà thôi “nghĩ điều lành, làm điều lành”.
Nhiều người tu để đạt Niết Bàn. Tôi thì không vậy. Tôi thấy Niết Bàn ngay bây giờ, ngay ở đây, ngay tại cõi ta bà này. Tâm chúng ta có đủ 10 cõi: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, Người, Atula, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Chỉ cần chúng ta hướng thân khẩu ý của chúng ta về đâu, lập tức chúng ta đến cõi đó ngay. Rất đơn giản và thực tế. Sách báo, phim ảnh, internet… hiện nay chứa cõi nào, đưa ta về cõi nào, chắc bạn biết rõ hơn tôi.
Lời bài ca này rất giản đơn và ai cũng có thể sáng tác thêm được. Vừa rồi tôi được nghe các bạn đồng tu hát thêm lời hai như sau: “Nhặt rau, miệng mỉm cười! Dọn cơm, miệng mỉm cười. Rửa bát, miệng mỉm cười. Ta có một ngày vui ”. Hay quá!
Nghĩ sau, tôi ngẫu hứng: “Cầm sách, thở và cười. Đọc sách, thở và cười. Cùng sách, thở và cười. Ta có một đời vui”. Nghe tôi hát, cháu Tâm Nguyên Tuệ bé xíu đã sáng tác ngay: “Mở sách, miệng mỉm cười! Xem sách, miệng mỉm cười! Đóng sách, miệng mỉm cười. Con thấy đời thật vui”.
Đời vui thật, đúng không bạn. Câu nói cửa miệng của tôi “Đời ơi, em đẹp quá ” đang được các bạn trẻ, nhất là học sinh, sinh viên rất thích. Mà đời làm sao có thể không đẹp được khi chúng ta được sống trong sự nhiệm màu của Phật pháp, của vũ trụ.
Bạn đang có may mắn đọc những dòng chữ này (tôi nói may mắn, bởi đa phần các bạn khác đang lao vào internet với các tin tức bạo lực, kích động, thiếu giáo dục, bất an, với games, với các trò chơi vô bổ, rẻ tiền…). Nên tôi nhờ bạn một việc thôi: Cảm nhận hạnh phúc. Ngay bây giờ và ngay ở đây!
Bởi, tôi nói thật nhé, đây là giây phút hạnh phúc. Hãy cùng nhau trao yêu thương, nhận năng lượng. Hãy cùng nhau bên nhau nhé bạn. Bởi chúng ta là một thì sẽ rất mạnh. Bởi, cùng nhau, chúng ta là một. Together we are one. Chúng ta là một bởi chúng ta đều là Phật tử, là con của Đức Từ Phụ, Đức Như Lai, Đức Phật kính yêu.
Cả ngày an lành bạn nhé. Đừng quên!
Ta bà Cực Lạc
Tây phương Cực Lạc của đức Phật A-di-đà cách chúng ta 10 vạn ức cõi Phật. Những ai tu để được vãng sinh Tịnh Độ thì khi chết đi sẽ được về đó: Theo các Đại luận sư, ta có thể thiết lập Tịnh Độ, tự tạo ra cho mình cõi an
lạc, giống như Tịnh Độ Tây phương, ngay trong cõi ta bà này. Phật dạy: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (Ba cõi chỉ là tâm, muôn pháp chỉ là thức). Vậy cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà cũng chỉ là cảnh giới của tâm thức. Và đã thế thì với cái tâm thức trong sáng, thiện lành, được tu sửa hàng ngày, ta có thể tạo thế giới Cực Lạc cho mình trong cõi ta bà này.
Kinh A-di-đà là một trong những bản kinh đầu tiên mà tôi được tụng đọc khi chập chững học Phật. Mà có lẽ không chỉ riêng tôi mà hầu hết mọi Phật tử ở miền Bắc. Tôi đã nhiều lần miên man tưởng tượng về miền đất hứa Tây phương Cực Lạc. Bà tôi bảo cứ chịu khó niệm Phật và nhất định sẽ được vãng sinh về đó. Tôi hỏi và bà giải thích rằng, khi chết đi sẽ được Đức Phật A-di-đà tiếp đón về cõi Cực Lạc tuyệt vời này ở Tây phương.
Lớn lên, có dịp chu du đây đó, tìm hiểu các pháp môn khác nhau cũng như các tôn giáo khác tôi càng thú vị khi đọc lại kinh A-di-đà. Nhưng cách đọc đã hoàn toàn khác với trước đây, khi còn nhỏ. Tôi đọc để ứng dụng ngay chứ không học để chờ đợi. Tôi đọc để có ngay chứ không muốn hi vọng trong tương lai xa vời.
Và sáng nay tôi quyết định viết ra đây những cảm nhận thật của mình, thật 100%, về cõi ta bà của chính mình ngay bây giờ, ngay ở đây.
Tôi đã tự mình cùng bạn bè, người thân và các học trò quyết định lập ra Vườn Yêu Thương từ năm 2007, đúng lúc thành lập ra Thái Hà Books. Một nguyên tắc sống của tất cả chúng tôi là yêu thương, giúp đỡ và cảm thông lẫn nhau. Chúng tôi quyết định rằng cùng nhắc nhau không làm gì để gây tổn thương cho nhau, từ lời nói, hành động cho đến suy nghĩ. Rằng ngay khi chúng ta suy nghĩ không tốt về người khác cũng là đã làm xấu đi Vườn Yêu Thương chung. Nghe như vậy, có ai đó chưa được thuyết phục và vẫn nghĩ rằng mình bị bắt làm. Nhưng không, bạn biết đấy, khi mình nghĩ xấu về người khác, bạn bị ảnh hưởng đầu tiên: tâm bất an, người khó chịu, có khi còn bực tức nữa là khác. Mình bị thiệt hại đầu tiên.
Chúng tôi cũng nhắc nhau tìm những điểm mạnh của nhau. Thay vì lôi ra,
moi ra những cái xấu, điểm yếu mà ai chẳng có thì nhắc nhau tìm ra những thế mạnh, những tính hay của mỗi người để nhớ về họ và để nhắc mình học theo.
Chúng tôi cũng luôn nhắc nhau giúp đỡ những người khó khăn, gặp hoạn nạn. Nếu không giúp được về vật chất thì động viên qua gặp gỡ, nhắn tin, email… Chúng tôi cũng bảo nhau tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, trì chú, phóng sinh, làm việc phước để hồi hướng công đức này đến các thành viên cụ thể đó. Kết quả luôn rất tuyệt vời và nếu riêng viết ra đã là cả hàng chục câu chuyện.
Chúng tôi nhắc nhau yêu thương và lan tỏa yêu thương. Ngay trên facebook cá nhân của mỗi người cũng thường để những lời yêu thương, những câu nói tích cực, những lời động viên khen ngợi. Điều này chắc chắn có lợi cho bất cứ ai may mắn được đọc và nhất là cho chính người viết ra. Họ được hưởng lợi ít nhất ba lần: lúc nghĩ trong đầu, lúc viết ra và lúc đọc lại.
Chúng tôi cứ dần dần và mỗi ngày thực tập. Từng chút, từng chút một. Khó lắm nhé, nhưng không nản. Và bây giờ tôi đang cảm thấy vô cùng bình an và thư giãn. Quanh tôi toàn người thiện người lành. Đi đến đâu cũng gặp người tốt, người có tâm an lạc.
Tôi xem lại kinh A-di-đà thì thấy tả rằng “Tại vì ở nước Phật kia không có ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Ở nước ấy danh từ ác đạo mà còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo”. Nơi tôi đang sống đây cùng bạn bè và người thân cùng các học trò quả là đang có đôi nét tốt đẹp của cõi Tây phương Cực Lạc thật rồi.
Sáng nay, cũng như mọi sáng, tôi tỉnh dậy không bởi đồng hồ báo thức mà bởi tiếng chim hót. Bạn có thể tưởng tượng rằng sáng nào quãng 5 giờ sáng chim cũng hót líu lo quanh tôi. Đủ các loại chim. Ngó ra ban công đã thấy chim đậu, nhảy nhót và hót rất hay. Tôi sống trong một căn hộ chung cư ở Thủ đô Hà Nội, đất chật người đông vậy mà chim nhiều lắm. Tôi tin rằng chim ở Hà Nội rất nhiều, vấn đề là bạn có yêu thương chúng hay không, hàng ngày và mỗi tối bạn có rải tâm từ và lan tỏa yêu thương đến mọi chúng sinh quanh bạn hay không. Và có lẽ bạn có để tâm hay không, có quan sát và chánh niêm trong mỗi phút giây cuộc sống để thấy được hay không.
Tôi mở kinh A-di-đà xem lại và thấy được miêu tả rằng “Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kì diệu như Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già và Cộng mạng... Những con chim ấy,
sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: Trong giọng hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe được những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.” Trời Phật ơi, quanh tôi không có những loại chim như trong kinh nhưng cũng đủ cả chim sẻ, chim chích chòe, chim sâu… và tiếng hót còn hay hơn cả dàn diễn xướng ấy chứ. Tôi nghĩ, đây cũng có bóng dáng của cõi Tịnh Độ.
Tôi ở phòng thờ Phật ngồi thiền buổi sớm mai vẫn nghe thấy tiếng chim hót. Thời tụng kinh buổi sáng của tôi cũng hòa trong tiếng chim. Hiện tôi đang ngồi gõ những dòng chữ này thì tiếng gõ bàn phím vẫn xen lẫn tiếng chim hót. Có lẽ tôi phải mang gì đó ra ban công chiêu đãi các bạn chim yêu quý của chúng ta ngay thôi.
Tôi có thói quen đi thiền hành ngay trong căn hộ của mình từ phòng này sang phòng khác. Có khi tôi chỉ nhẹ bước ngay trong phòng khách mà thôi. Dù diện tích chỉ hơn chục mét vuông với chiều dài vài mét cũng đủ cho tôi nhẹ bước thảnh thơi. Tôi luôn cảm nhận rất rõ sự xúc chạm của bàn chân xuống nền nhà. Nhẹ nhàng và êm dịu lắm. Tôi luôn được đất mẹ che chở và yêu thương. Sàn nhà hoặc bằng gỗ hoặc bằng gạch lát thì vẫn là từ đất mẹ mà.
Buổi chiều tối tôi hay đi thiền hành quanh khu chung cư. Quanh khu tôi ở có khá nhiều cây. Có hôm rảnh và có hứng, tôi đi thiền một vài vòng quanh hồ Nghĩa Đô thì còn cảm nhận đất nhiều hơn, cây xanh hơn, hồ nước đẹp hơn, được ngắm cá, thấy chim nhiều hơn, thả lòng vào hoa nở, bướm lượn nhiều hơn.
Tôi lại mở kinh A-di-đà ra và thấy rõ được miêu tả rằng “Ở nước Cực Lạc, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy được gọi là Cực Lạc. Ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng, bạc, lưu li và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu li, pha lê, xà cừ, xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.”