🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hacker Lược Sử Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mục lục 1. An toàn thông tin trong kỷ nguyên số 2. Lời giới thiệu cho bản tiếng Việt 3. Lời nói đầu 4. Ai là ai: Các phù thủy và những cỗ máy 5. PHẦN I: NHỮNG HACKER THỰC THỤ: CAMBRIDGE: GIAI ĐOẠN 1950-1960 6. Chương 1: Câu lạc bộ Mô hình Đường tàu 7. Chương 2: Đạo đức hacker 8. Chương 3: Chiến tranh không gian 9. Chương 4: Greenblatt và Gosper 10. Chương 5: Hội lắp máy lúc nửa đêm 11. Chương 6: Người thắng và kẻ thua 12. Chương 7: Cuộc sống 13. PHẦN II: HACKER PHẦN CỨNG: BẮC CALIFORNIA: THẬP NIÊN 1970 14. Chương 8: Cuộc nổi dậy năm 2100 15. Chương 9: Mỗi người là một vị thần 16. Chương 10: Câu lạc bộ máy tính Homebrew 17. Chương 11: BASIC rút gọn 18. Chương 12: Woz 19. Chương 13: Những điều bí mật 20. PHẦN III: HACKER TRÒ CHƠI: SIERRA: THẬP NIÊN 1980 21. Chương 14: Phù thủy và công chúa https://thuviensach.vn 22. Chương 15: Tình anh em 23. Chương 16: Thế hệ thứ ba 24. Chương 17: Trại hè 25. Chương 18: Frogger 26. Chương 19: Applefest 27. Chương 20: Thiên tài đối đầu với thiên tài 28. PHẦN IV: NGÀY TÀN CỦA NHỮNG HACKER ĐÍCH THỰC: CAMBRIDGE: 1983 29. Phụ lục A: Ngày tàn của những hacker đích thực 30. Phụ lục B: Lời bạt: 10 năm sau 31. Phụ lục C: Lời bạt: 2010 32. Phụ lục D: Ghi chú 33. Phụ lục E: Lời cảm ơn 34. Phụ lục F: Về tác giả https://thuviensach.vn AN TOÀN THÔNG TIN TRONG KỶ NGUYÊN SỐ Trong kỷ nguyên số, vấn đề bảo mật và an toàn trên không gian mạng đang ngày càng trở nên quan trọng, không chỉ đối với các doanh nghiệp, tổ chức, Chính phủ mà còn đối với từng cá nhân. Việt Nam có 58 triệu tài khoản Facebook (tính đến hết quý 1 năm 2018); 127 triệu thẻ ngân hàng với 66,6 triệu tài khoản thanh toán cá nhân; cùng hàng tỷ các giao dịch mua bán, trao đổi trên mạng diễn ra mỗi ngày. Chính vì vậy, an ninh mạng trong kỷ nguyên số đang trở thành một chủ đề ngày càng nóng. Chỉ rất gần đây, nhiều tài khoản Facebook cũng như e-mail cá nhân đã bị hacker tấn công và chiếm đoạt. Thủ đoạn của hacker khá đơn giản khi tận dụng các sơ hở của người dùng cũng như các lỗi bảo mật của hệ thống, nhưng chúng đã gây ra những thiệt hại rất lớn cả về vật chất và tinh thần cho người dùng – rất nhiều thông tin cá nhân bị lộ và bị mất, và điều đó cũng đang xảy ra với rất nhiều tổ chức, công ty, cả tư nhân lẫn nhà nước. Ngay đầu tháng Mười một năm 2018, một số nguồn tin lan truyền trên mạng cho rằng hệ thống công nghệ của Thế giới Di động bị hacker tấn công và thông tin của khách hàng bị tiết lộ. Các tài khoản thẻ ngân hàng cũng như e-mail và số điện thoại cá nhân bị kẻ xấu công khai trên mạng dù cho nghi vấn lộ dữ liệu khách hàng vẫn đang tiếp tục được điều tra, xác minh. Ngược về quá khứ, tháng Tư năm 2018, website của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) bị tấn công. Sự cố xảy ra với trang con của website Vietcombank khi người dùng đăng ký e-mail liên kết với tài khoản ngân hàng. Khi được chia sẻ qua Facebook, ảnh bìa của trang con https://thuviensach.vn này hiển thị dòng chữ: “Đại học Quốc gia Hà Nội”. Hacker còn để lại hai câu thơ: “Trăm năm Kiều vẫn là Kiều/ Sinh viên thi lại là điều tất nhiên”. Năm 2016, hệ thống các sân bay lớn tại Việt Nam như Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, Sân bay Quốc tế Nội Bài, Sân bay Quốc tế Đà Nẵng, Sân bay Phú Quốc đều bị hacker tấn công và để lại nhiều nội dung xúc phạm, xuyên tạc. Cuối năm 2014, hệ thống các website của VCCorp cũng bị tấn công, làm tê liệt hoạt động truy cập vào toàn bộ hệ thống website báo chí đối tác của VCCorp và gây thiệt hại trực tiếp tới hoạt động của các trang này, đồng thời ảnh hưởng tới hàng triệu độc giả và người tiêu dùng sử dụng các dịch vụ trực tuyến của họ. Theo VCCorp, ước tính sơ bộ sau hai ngày bị tấn công, số tiền VCCorp bị thiệt hại vào khoảng 5 tỷ đồng, bao gồm tất cả các loại doanh thu như quảng cáo, thương mại điện tử… Trên thực tế, không ít những vụ tấn công mạng đã xảy ra liên tiếp tại Việt Nam trong thời gian gần đây và để lại những hậu quả không hề nhỏ. Những vụ việc như thế này đang gióng lên một hồi chuông cảnh báo đối với các cá nhân cũng như doanh nghiệp trong thời đại số. Với xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, sự bùng nổ của các thiết bị IoT sẽ mang lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn về các cuộc tấn công trên không gian mạng hoặc bị kẻ xấu lợi dụng để tấn công vào các hạ tầng. Chuyên gia an toàn thông tin, vấn đề bảo mật không có tính tuyệt đối. Ngay cả các cường quốc trong ngành công nghệ thông tin-bảo mật như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Trung Quốc... cũng đều bị hacker tấn công. Vậy các doanh nghiệp và người dùng Việt Nam phải làm gì để vừa có thể tận dụng được những lợi thế của nền công nghiệp IoT mà vẫn đảm bảo an toàn thông tin trên mạng? https://thuviensach.vn Nhằm mang tới cho độc giả và các doanh nghiệp, tổ chức những kiến thức cơ bản về bảo mật dữ liệu, cảnh báo người đọc về vấn đề quyền riêng tư và nâng cao ý thức bảo mật thông tin, Apha Books trân trọng giới thiệu bộ sách “An toàn thông tin trong kỷ nguyên số” gồm 4 cuốn: The Cuckoo’s Egg (Gián điệp mạng), Ghost in the Wires (Bóng ma trên mạng), The Art of Invisibility (Nghệ thuật ẩn mình) và Hackers lược sử. Thông qua các câu chuyện ly kỳ hấp dẫn về những cuộc truy bắt hacker, những chiến công của các hacker mũ trắng – những kẻ mê máy tính thông minh và lập dị, dám mạo hiểm, bẻ cong các quy tắc và đẩy thế giới vào một hướng đi hoàn toàn mới, độc giả sẽ có được cái nhìn toàn diện về hacker, về đạo đức nghề nghiệp cũng như tương lai của ngành công nghệ để có được cái nhìn rõ ràng hơn về an ninh mạng, chủ đề chưa bao giờ hết nóng của các tín đồ mạng. Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn mạnh: “An toàn, an ninh mạng được coi là điều kiện để thúc đẩy chính phủ điện tử, chính phủ số và nền công nghiệp nội dung số. Vì vậy, Việt Nam phải trở thành cường quốc về an ninh mạng”. Đồng hành với những vấn đề thời sự nhức nhối hiện nay, với bộ sách này, Apha Books và các đối tác – những nhà cung cấp các giải pháp bảo mật & an ninh mạng như CMC, Netnam, Securitybox, CyRadar... mong muốn đóng góp một phần tri thức cho xã hội, giúp nền kinh tế số Việt Nam phát triển lành mạnh, bền vững hơn. Trân trọng giới thiệu! Tháng 11/2018 Công ty Cổ phần Sách Alpha https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU CHO BẢN TIẾNG VIỆT Tháng 5 năm 2017, mã độc WannaCry đã lây lan cùng với tốc độ chóng mặt trên toàn cầu. Chỉ trong chưa đầy một tuần, 200.000 máy tính tại 150 quốc gia, trong đó có cả Việt Nam bị lây nhiễm WannaCry. Sự kiện này, sau đó, đã biến WannaCry trở thành mã độc tống tiền nổi tiếng nhất thế giới. Trong phút chốc, nhiều ngân hàng, bệnh viện, công sở bị tê liệt. Tệ hơn nữa, toàn bộ dữ liệu của những tổ chức này đã bị WannaCry mã hóa hoàn toàn và không có cách nào lấy lại được trừ khi phải trả tiền chuộc. Điều gì đã khiến WannaCry trở nên nguy hiểm đến vậy? Các bạn có thể tạm hiểu, mã độc tống tiền này gồm hai thành phần: Lây lan và Mã hóa. Cả hai đều chứa đựng những câu chuyện phức tạp của giới hacker. Ở thành phần thứ nhất – Lây lan, nhóm hacker ẩn danh đứng sau cuộc tấn công này đã sử dụng EternalBlue, một mã khai thác, nhắm vào lỗ hổng của hệ điều hành Microsoft Windows, được một nhóm hacker khác tên là ShadowBroker công bố trước đó. Thực chất, ShadowBroker cũng không phải là tác giả của lỗ hổng này. Họ đã lấy được công cụ khai thác từ NSA (Cơ quan An ninh Quốc Gia Mỹ). Hoá ra, trước đó NSA từng âm thầm sử dụng EternalBlue để tấn công các máy tính trên thế giới mà không cảnh báo về lỗ hổng cho Microsoft. Chưa hết, câu chuyện về thành phần thứ hai của WannaCry – Mã hóa, cũng li kì không kém. Trong khi thế giới đang hoang mang trước sự tấn công của WannaCry thì mã độc đột ngột bị chặn đứng bởi một thanh niên 23 tuổi người Anh, Marcus Hutchins. Trong khi phân tích mã độc, Marcus phát hiện tác giả của WannaCry đã sử dụng một cơ chế ra lệnh cho nó dừng mã hóa dữ liệu khi cần, và ngay lập tức, anh ta sử dụng cơ chế này và thành công. Khi ấy, Marcus được tung hô như một người hùng trẻ tuổi âm thầm cứu cả thế giới. Thế nhưng chẳng ai ngờ, chỉ sau một thời gian ngắn, khi sang Mỹ tham dự một hội nghị về hacker, https://thuviensach.vn Marcus đã bị cơ quan điều tra của nước này bắt giữ và cáo buộc liên quan tới việc phát triển và phát tán các mã độc tấn công vào ngân hàng. Bạn đọc thân mến, chỉ qua câu chuyện nhỏ này, bạn cũng có thể thấy được lằn ranh mong manh giữa trắng và đen trong giới hacker. Dù xuất phát điểm là một danh từ chỉ những chuyên gia hàng đầu, nhưng ngày nay, hacker chủ yếu được dùng để chỉ những kẻ xấu. Nếu để ý kĩ, bạn sẽ thấy hacker là từ mang nhiều nghĩa đối nghịch nhất. Hôm nay, anh có thể được tung hô như một anh hùng nhưng ngay ngày mai, anh cũng có thể bị coi là kẻ phá hoại. Dù lúc này đây anh là chuyên gia công nghệ nhưng người ta cũng có thể biến anh thành tội phạm mạng bất cứ lúc nào. Trong thế giới hỗn loạn ấy, cuốn sách Hacker lược sử của Steven Levy mà bạn đang cầm trên tay sẽ đưa chúng ta trở về với những gì tốt đẹp nhất trong thế giới hacker, những tài năng máy tính thực thụ của thế giới. Bằng khả năng của mình, họ lặng lẽ phiêu lưu trong thế giới công nghệ để chỉ ra tất cả những lỗ hổng tồn tại trong hệ thống, từ đó đưa ra những phương án sửa chữa chúng. Với kỹ năng lập trình ưu việt, họ đã sáng tạo ra những công trình để đời, góp phần không nhỏ cho sự phát triển của ngành công nghệ thông tin nói chung. Cuốn sách chính là một thước phim lịch sử về cuộc cách mạng máy tính qua góc nhìn của các hacker. Cuốn sách sẽ cung cấp cho độc giả những thông tin chi tiết về lịch sử hình thành và những chặng đường phát triển của Văn hóa và Đạo đức hacker. Từ những nhà nghiên cứu khác người tại phòng thí nghiệm của MIT những năm 1950 đến những bộ óc vĩ đại như Bill Gates, Steve Wozniak hay những tài năng mới nổi như Mark Zukerberg của thế kỷ XXI. Xuyên suốt cuốn sách, chúng ta sẽ thấy nổi bật hai vấn đề mà tác giả muốn nhấn mạnh, đó chính là Văn hoá hacker và Đạo đức hacker. Khi tôi và một người bạn tìm ra lỗ hổng của Microsoft vào năm 2008, chúng tôi đứng trước cơ hội làm giàu là bán nó cho chợ đen và thu về một khoản tiền lớn. Nhưng chúng tôi cũng hiểu lỗ hổng đó nguy hiểm thế nào https://thuviensach.vn nếu bị lợi dụng để phát tán mã độc. Cuối cùng, chúng tôi quyết định thông báo với hãng dù kết quả nhận về chỉ là một tin cảm ơn trên trang web của Microsoft. Từ đó đến nay, khi cùng nhau thành lập CyRadar, chúng tôi vẫn luôn cố gắng giữ cho mình một tinh thần hacker chân chính, tin vào khả năng hơn là bằng cấp, tin vào hành động hơn lời nói, nguyện góp công sức nhỏ bé của mình cho ngành An toàn thông tin của Việt Nam. Dù cuốn sách không có ý định dạy dỗ bạn điều gì cả, tuy nhiên qua câu chuyện về các tấm gương hacker, tôi tin rằng mỗi chúng ta đều ít nhiều tự rút ra được bài học cho chính mình. Nguyễn Minh Đức CEO CyRadar https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU Điều đầu tiên cuốn hút tôi vào việc viết về các hacker – những lập trình viên và nhà thiết kế máy tính coi lĩnh vực điện toán là điều quan trọng nhất thế giới – là bởi họ là những con người vô cùng thú vị. Dù có vài người trong lĩnh vực này dùng thuật ngữ “hacker” với nghĩa chế nhạo, ám chỉ rằng hacker hoặc là dạng mọt sách bị xã hội ruồng bỏ, không thì cũng chỉ là những lập trình viên “không chuyên” viết những mã máy tính bẩn thỉu và “phi chuẩn”, tôi lại thấy họ khá khác biệt. Ẩn dưới vẻ bề ngoài không mấy ấn tượng, họ là những kẻ đam mê phiêu lưu, giàu trí tưởng tượng, dám chấp nhận rủi ro, mang tính nghệ sĩ,… và là những người nhận ra rõ nhất lý do tại sao máy tính thực sự là một công cụ có tính cách mạng. Họ biết có thể đi được bao xa nhờ việc tập trung cao độ vào tư duy hack: Ta có thể đi xa vô hạn. Tôi đã hiểu được tại sao những hacker chân chính coi khái niệm này là biểu tượng của sự tôn kính chứ không phải là một thứ gì đó mang tính dè bỉu. Khi nói chuyện với những nhà thám hiểm kỹ thuật số này, từ những người chế ngự các cỗ máy trị giá nhiều triệu đô-la hồi những năm 1950 tới những phù thủy trẻ tuổi đương đại làm chủ những chiếc máy tính trong phòng ngủ ở vùng ngoại ô, tôi phát hiện ra một đặc điểm chung, một triết lý chung dường như đã gắn chặt với dòng chảy logic đẹp đẽ của bản thân những cỗ máy. Đó là một triết lý về sự sẻ chia, cởi mở, phi tập trung hóa, khám phá những cỗ máy và bằng bất cứ giá nào cải tiến chúng, khiến thế giới tiến bộ hơn. Thứ Đạo đức hacker này là món quà mà họ dành cho chúng ta: Nó có giá trị ngay cả với những người chẳng có chút hứng thú nào với máy tính. Đó là một thứ đạo đức hiếm khi được lập thành điều lệ, mà thay vào đó, nó được thể hiện qua hành vi của chính những hacker này. Tôi xin giới thiệu với bạn những người không chỉ nhìn thấy mà còn sống với những điều kỳ diệu của máy tính và làm việc để giải phóng sự kỳ diệu đó nhằm đem lại lợi https://thuviensach.vn ích cho tất cả chúng ta. Họ gồm những hacker đích thực của phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo MIT hồi những năm 1950 và 1960; những người theo chủ nghĩa dân túy, những hacker phần cứng ít ẩn dật hơn ở California hồi thập niên 1970; và những hacker trò chơi trẻ tuổi đã để lại dấu ấn trong thời đại máy tính cá nhân của những năm 1980. Nhiều người mà bạn sẽ thấy trong cuốn sách này không phải là những cái tên nổi tiếng nhất (và hẳn không phải là giàu có nhất) trong lĩnh vực điện toán. Thay vào đó, họ là những thiên tài phía sau hậu trường, thấu hiểu máy móc theo những cấp độ thâm sâu nhất và chính họ sẽ giới thiệu cho chúng ta thấy một loại phong cách sống mới và một kiểu người hùng mới. Những hacker như Richard Greenblatt, Bill Gosper, Lee Felsenstein và John Harris chính là tinh thần và linh hồn của lĩnh vực điện toán. Tôi tin câu chuyện của họ – tầm nhìn, sự mật thiết của họ với chiếc máy tính, kinh nghiệm của họ trong thế giới khác thường này và những “giao diện” đôi lúc ấn tượng, có khi lại lố bịch của họ với thế giới bên ngoài – là một câu chuyện có thực của cuộc cách mạng máy tính. https://thuviensach.vn Ai là ai CÁC PHÙ THỦY VÀ NHỮNG CỖ MÁY Bob Albrecht. Nhà sáng lập hãng People’s Computer Company, người lấy việc đưa máy tính đến với những người trẻ làm niềm vui. Altair 8800. Chiếc máy tính tiên phong khiến các hacker phần cứng vô cùng phấn khích. Việc lắp ráp bộ linh kiện của chiếc máy giúp bạn có thể học hỏi về hack và cố gắng khám phá xem mình có thể làm gì với nó. Apple II. Chiếc máy tính nhỏ gọn, đẹp mã và thân thiện của Steve Wozniak đã gặt hái được nhiều thành công rực rỡ và trở thành linh hồn của một nền công nghiệp phát đạt. Atari 800. Chiếc máy tính gia đình này cung cấp khả năng đồ họa tuyệt vời cho các hacker trò chơi như John Harris, dù công ty sản xuất đã miễn cưỡng tiết lộ cho chúng ta biết cách thức hoạt động của nó. Bob và Carolyn Box. Những người nắm kỷ lục thế giới về khai thác vàng đã chuyển nghề thành siêu sao phần mềm, làm việc cho Sierra On-Line. Doug Carlston. Một luật sư doanh nghiệp, người đã bỏ lại tất cả để thành lập Công ty Phần mềm Brøderbund. Bob Davis. Anh đã từ bỏ công việc ở quán rượu để trở thành tác giả ăn khách nhất của trò chơi trên máy tính Ulysses and the Golden Fleece (tạm dịch: Ulysses và mớ tóc vàng) do công ty Sierra On-Line phát hành. Để thành công, anh đã phải trải qua vô vàn thất bại. https://thuviensach.vn Peter Deutsch. Tuy chơi thể thao khá tệ nhưng Peter lại vô cùng giỏi toán, anh vẫn còn là một thằng nhọc vắt mũi chưa sạch khi tiếp xúc với cỗ máy TX-0 tại MIT— và đã cùng hack máy với các bậc thầy khác. Steve Dompier. Thành viên của Câu lạc bộ Máy tính Homebrew, người đầu tiên có thể khiến chiếc Altair chơi nhạc, sau đó anh đã viết trò chơi Target (tạm dịch: Mục tiêu) trên máy Sol, thứ đã mê hoặc Tom Snyder. John Draper. “Đội trưởng Răng rắc” nổi tiếng, người luôn kiên trì khám phá các hệ thống điện thoại, vào tù ra tội rồi lại hack máy tính. Anh rất ghét thuốc lá. Mark Duchaineau. Bậc thầy của trò chơi Dungeon trẻ tuổi, chuyên gia chống sao chép đĩa của On-Line. Chris Espinosa. Cậu học trò 14 tuổi của Steve Wozniak và là một trong những nhân viên đầu tiên của Apple. Lee Felsenstein. Cựu “biên tập viên quân đội” của tờ Berkeley Barb1 và là nhân vật chính trong một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Anh là người thiết kế những chiếc máy tính theo kiểu đồng nát và là nhân vật quan trọng trong hoạt động hack phần cứng tại Vùng Vịnh2 hồi thập niên 1970. 1 Một tuần san ngầm được xuất bản ở Berkeley, California trong những năm 1965 đến 1980. (ND) 2 Ý chỉ vùng vịnh San Francisco, khu vực nằm quanh vịnh San Francisco, tiểu bang California, Mỹ. Đây là khu vực ven biển, tập trung các thành phố lớn và quan trọng của tiểu bang này như: San Francisco, San Jose, Oakland. (ND) Ed Fredkin. Nhà sáng lập lịch thiệp của tổ chức Information International. Ông luôn tự nhận mình là lập trình viên vĩ đại nhất thế giới cho đến khi ông gặp Stewart Nelson. Ông chính là cánh chim đầu đàn của các hacker. https://thuviensach.vn Gordon French. Hacker phần cứng có mái tóc bạc. Trong ga-ra của anh không chỉ có ô tô mà còn có cả chiếc máy Chicken Hawk tự chế. Anh là người đứng ra tổ chức buổi gặp gỡ đầu tiên của Câu lạc bộ Máy tính Homebrew. Richard Garriott. Con trai của một phi hành gia, người mang nhiều nét tương đồng với Lord British3. Anh là người đã sáng tạo ra thế giới Ultima trên những chiếc đĩa máy tính. 3 Tên của vị vua cai trị Britanica, vương quốc trong thế giới viễn tưởng Sosaria xuất hiện trong trò chơi Ultima. Đây cũng là biệt danh của Richard Garriott. (BTV) Bill Gates. Tay phù thủy tự phụ, một sinh viên Harvard bỏ học, người đã viết chương trình Altair BASIC và lên tiếng phàn nàn khi chương trình này bị các hacker sao chép. Bill Gosper. Horowitz4 của bàn phím máy tính, bậc thầy toán học và là người hack trò LIFE tại phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo của MIT, bậc thầy về Đạo đức hacker kiêm nghiên cứu sinh về thực đơn nhà hàng Trung Quốc. 4 Vladimir Horowitz, nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng người Ý, ám chỉ Bill Gosper giống như nghệ sĩ bậc thầy của bàn phím máy tính vậy. (ND) Richard Greenblatt. Hacker gạo cội của trường MIT, một kẻ lôi thôi lếch thếch, có tư duy độc lập và thú vị, người thường xuyên sống về đêm tới mức lỡ dở cả sự nghiệp học hành. Anh chính là hacker của mọi hacker. John Harris. Hacker trò chơi trẻ tuổi trên máy Atari 800, lập trình viên ngôi sao tại Sierra On-Line, anh luôn khao khát có được một mảnh tình vắt vai IBM PC. Bước tiến của IBM trong thị trường máy tính cá nhân, chiếc máy này cũng bao gồm một chút Đạo đức Hacker, và chiếm được thị phần. https://thuviensach.vn IBM 704. IBM là tên Ma Vương và đây cỗ máy do hắn tạo ra, gã Khổng lồ Xanh được đặt tại Tòa 26 của MIT. Sau này, nó được chỉnh sửa thành IBM 709, rồi IBM 7090. Đây là cỗ máy có thể xử lý theo lô (batch-process) và khó sử dụng. Jerry Jewell. Cựu binh tại Việt Nam, ông đã chuyển sang làm lập trình viên và sau này thành lập công ty Sirius Sofware. Steve Jobs. Chàng trai ôm đầy tham vọng và mộng tưởng, không phải là hacker, người đã thương mại hóa chiếc Apple II của Wozniak và thành lập một công ty trị giá hàng tỷ đô-la. Tom Knight. Một hacker 16 tuổi của MIT, người đã tạo ra Hệ thống Chia sẻ thời gian Không tương thích (Incompatible Time-sharing System), đối thủ của Greenblatt khi rời bỏ máy LISP. Alan Kotok. Sinh viên trường MIT có ngoại hình mũm mĩm đến từ Jersey, thành viên của TMRC, thích tìm hiểu về hệ thống điện thoại tại Western Electric, và là huyền thoại về TX-0 kiêm hacker PDP-1. Efrem Lipkin. Nhà hoạt động xã hội kiêm hacker đến từ New York, yêu thích các cỗ máy nhưng lại ghét công dụng của chúng. Anh là nhà đồng sáng lập nhóm Community Memory; và là bạn của Felsenstein. Máy LISP. Sản phẩm của các hacker siêu cấp, được tạo ra chủ yếu nhờ công của Greenblatt và là chủ đề châm ngòi cho mâu thuẫn gay gắt ở MIT. “Bác” John McCarthy. Vị Giáo sư thông tuệ nhưng đãng trí tại MIT (sau này là Stanford), ông là người đi tiên phong trong lĩnh vực chơi cờ trên máy tính, trí tuệ nhân tạo, LISP. Bob Marsh. Người Berkeley và có sở thích tự chế, anh đã chia sẻ ga-ra với Felsenstein và thành lập Processor Technology, công ty sản xuất máy tính Sol. https://thuviensach.vn Roger Melen. Thành viên Câu lạc bộ Máy tính Homebrew, đồng sáng lập công ty Cromemco chuyên sản xuất bảng mạch cho Altair. Bảng mạch “Dazzler” của anh đã chạy chương trình LIFE ngay trên bàn bếp. Louis Merton. Hacker môn cờ vua trên AI, người có xu hướng mang cộng đồng hacker xích lại gần nhau hơn. Jude Milhon. Anh đã gặp Lee Felsenstein thông qua một quảng cáo trên tờ Berkeley Barb và cả hai đã trở thành những người bạn thân thiết – thành viên của nhóm Community Memory. Marvin Minsky. Vị giáo sư MIT khôi hài và thông thái, người đứng đầu Phòng Thí nghiệm AI và là người cho phép các hacker chạy máy miễn phí. Fred Moore. Người theo chủ nghĩa hòa bình, ưa nay đây mai đó, ghét tiền bạc, yêu công nghệ và là nhà đồng sáng lập Câu lạc bộ Homebrew. Stewart Nelson. Hacker răng vẩu thuộc Phòng Thí nghiệm AI, có vóc dáng bé hạt tiêu nhưng luôn năng nổ. Anh là người đã kết nối máy tính PDP-1 để hack hệ thống điện thoại. Sau này, anh trở thành nhà đồng sáng lập của Công ty Systems Concepts. Ted Nelson. Anh tự nhận mình là “nhà cải cách” và kẻ keo kiệt có tiếng. Anh đã tự xuất bản cuốn sách có tầm ảnh hưởng lớn mang tên Computer Lib (tạm dịch: Giải phóng máy tính). Russell Noftsker. Quản trị viên phiền nhiễu của Phòng Thí nghiệm AI tại MIT cuối những năm 1960; sau này là Chủ tịch của Công ty Symbolics. Adam Osborne. Nhà sản xuất máy tính sinh ra ở Bangkok này trước đây từng là người làm việc trong lĩnh vực xuất bản, anh luôn tự coi mình là một triết gia. Anh đã thành lập công ty Osborne Computer để sản xuất những cỗ máy “phù hợp”. https://thuviensach.vn PDP-1. Chiếc máy tính cỡ nhỏ đầu tiên của Digital Equipment, vào năm 1961, nó là món quà trời ban mang tính tương tác với các hacker của MIT và là một sự sỉ nhục đối với “chủ nghĩa phát-xít” IBM. PDP-6. Được thiết kế từng phần bởi Kotok, chiếc máy tính cỡ lớn này chính là linh hồn của Phòng Thí nghiệm AI, với tập lệnh phức tạp cùng 16 thanh ghi đáng ao ước. Tom Pittman. Thành viên sùng đạo của Câu lạc bộ Homebrew, người dù đã đổ vỡ trong hôn nhân, nhưng vẫn giữ vững niềm tin với chương trình Tiny BASIC của mình. Ed Roberts. Nhà sáng lập bí ẩn của công ty MITS, người đã làm rung chuyển thế giới với chiếc Altair của mình. Anh muốn giúp mọi người xây dựng các kim tự tháp tinh thần. Steve (Slug) Russell. Trợ lý của McCarthy, người đã hack chương trình Spacewar (Chiến tranh không gian), trò chơi video đầu tiên, trên máy PDP 1. Anh chưa từng kiếm một xu nào từ việc đó. Peter Samson. Một trong những hacker đầu tiên tại MIT, yêu các hệ thống, tàu hỏa, TX-0, âm nhạc, thủ tục pháp lý, những trò chơi khăm và hack. Bob Saunders. Hacker của TMRC vui vẻ, hói đầu, kết hôn sớm, vừa hack tới đêm vừa ăn “kẹo chanh”, và là người nghĩ ra “chiến thuật CBS” trong trò Chiến tranh không gian. Warren Schwader. Hacker tóc vàng, có vẻ ngoài đô con đến từ vùng quê Wisconsin, người đi từ dây chuyền lắp ráp tới ngôi sao trong giới phần mềm, nhưng điều đó cũng không thể thay đổi được lòng sùng đạo của anh dành cho Nhân chứng Giê-hô-va5. 5 Tôn giáo có niềm tin dựa trên Kinh thánh Ki-tô giáo. (BTV) https://thuviensach.vn David Silver. Anh đã bỏ học từ năm 14 tuổi để trở thành nhân vật quan trọng của Phòng Thí nghiệm AI, người đã làm ra những chiếc chìa khóa trái phép và phát minh ra một con robot nhỏ xíu có thể thực hiện những điều không tưởng. Dan Sokol. Anh chàng tinh nghịch có mái tóc dài, thường miệt mài khám phá các bí mật công nghệ tại Câu lạc bộ Homebrew. Anh là người có công trong việc “giải phóng” chương trình Altair BASIC trên băng giấy. Máy tính Sol. Thiết bị đầu cuối kiêm máy tính của Lee Felsenstein, được hoàn thiện trong suốt 2 tháng nỗ lực không ngừng nghỉ, chiếc máy tính này gần như đã làm xoay chuyển mọi thứ. Nhưng như vậy vẫn là chưa đủ. Les Solomon. Biên tập viên của tờ Popular Electronics, người có tiếng nói đáng kể đã đưa cuộc cách mạng máy tính vào guồng. Marty Spergel. Người Rác, một thành viên của Câu lạc bộ Homebrew, người chuyên cung cấp mạch và dây cáp, bạn có thể kiếm được bất kỳ thứ gì từ chỗ anh. Richard Stallman. Vị hacker cuối cùng, anh đã thề sẽ bảo vệ các nguyên tắc của chủ nghĩa hacker tới cùng. Anh đã ở lại MIT cho tới khi không còn ai cùng ăn đồ Tàu với mình. Jeff Stephenson. Cựu võ sĩ kiêm hacker 30 tuổi, người đã sửng sốt khi biết rằng gia nhập Sierra On-Line đồng nghĩa với việc tham gia Trại Hè. Jay Sullivan. Lập trình viên đẳng cấp bình tĩnh đến kinh hồn ở Informatics, người đã gây ấn tượng với Ken Williams nhờ việc biết ý nghĩa của từ “bất kỳ” (any). Dick Sunderland. Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh mặt hoa da phấn, người luôn tin rằng sự quan liêu trong quản lý là mục tiêu đáng đeo đuổi, nhưng khi trở https://thuviensach.vn thành Chủ tịch của Sierra On-Line, ông nhận ra rằng các hacker không nghĩ theo hướng đó. Gerry Sussman. Hacker trẻ tuổi tại MIT, người bị gắn mác “kẻ thua cuộc” chỉ vì hút tẩu và “thay đổi” chương trình của mình; sau này, anh trở thành “người chiến thắng” nhờ vào sự kỳ diệu của thuật toán. Margot Tommervik. Cùng với chồng mình là Al, học giả Margot có mái tóc dài đã tập hợp các đánh giá trò chơi thành một cuốn tạp chí nhằm tôn vinh công ty Apple Computer. Thiết bị đầu cuối Tom Swift. Thiết bị đầu cuối máy tính huyền thoại chưa từng được lắp ráp của Lee Felsenstein, thiết bị cho phép người dùng tiếp cận với thế giới. TX-0. Có diện tích ngang với một căn phòng nhỏ, nhưng vào cuối những năm 1950, cỗ máy trị giá 3 triệu đô-la này là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới – và cộng đồng hacker tại MIT đã được hình thành nhờ nó. Jim Warren. Tay đưa tin trong giới công nghệ, có thân hình đẫy đà, và là thành viên của Câu lạc bộ Homebrew. Anh còn là biên tập viên đầu tiên của tạp chí mang phong cách hippie có tên Dr. Dobbs Journal (tạm dịch: Nhật ký Tiến sĩ Dobbs), sau này anh đã thành lập Công ty Computer Faire. Randy Wigginton. Cậu bé 15 tuổi – một trong những học trò nhỏ tuổi của Steve Wozniak, người đã giúp Woz giới thiệu chiếc Apple II tới Homebrew. Anh là nhân viên phần mềm đầu tiên của Apple từ khi còn học phổ thông. Ken Williams. Lập trình viên trẻ tuổi, thông minh và kiêu ngạo, người đã lập trình chữ viết trên CRT và thành lập Sierra On-Line nhằm kiếm thật nhiều tiền và cải thiện xã hội bằng cách bán các trò chơi dành cho máy tính của Apple. https://thuviensach.vn Roberta Williams. Người vợ rụt rè của Ken Williams, người đã tìm thấ được khả năng sáng tạo nhờ viết Mystery House (tạm dịch: Ngôi nhà bí ẩn), trò chơi đầu tiên trong số các trò chơi máy tính bán chạy của cô. Stephen “Woz” Wozniak. Hacker phần cứng liều lĩnh có trái tim cởi mở, đến từ ngoại ô San Jose. Woz đã thành lập công ty Apple Computer vì niềm vui của bản thân và những người bạn. https://thuviensach.vn Phần I NHỮNG HACKER THỰC THỤ: CAMBRIDGE: GIAI ĐOẠN 1950- 1960 https://thuviensach.vn Chương 1 CÂU LẠC BỘ MÔ HÌNH ĐƯỜNG TÀU6 6 Tech Model Railroad Club hay TMRC. (BTV) Chính Peter Samson cũng cảm thấy khó lý giải nổi lý do anh lang thang trong Tòa 26 lúc nửa đêm. Có đôi điều thật khó nói. Nếu giống như những người mà Peter Samson sắp biết và kết bạn trong năm nhất tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) vào mùa đông năm 1958-1959, thì bạn sẽ chẳng cần lời giải thích nào cả. Thơ thẩn trong mê hồn trận của các phòng thí nghiệm và nhà kho, tìm kiếm những bí ẩn về chuyển mạch điện thoại, lần theo các dây dẫn và rơ-le trong các ống hơi nước ngầm – với một số người, đó là hành vi bình thường, và khi đối mặt với một cánh cửa đóng kín, với những âm thanh kích thích phát ra sau cửa, thì hành động mở cửa vì tò mò cũng chẳng lấy gì làm lạ. Và rồi một cách tự nhiên, nếu không có ai ngăn bạn tiếp cận thứ đang tạo ra những âm thanh kích thích ấy, rất có thể bạn sẽ chạm tay vào chiếc máy, bắt đầu bật tắt các công tắc và theo dõi các phản hồi, cuối cùng là nới một chiếc đinh ốc, gỡ một tấm khuôn ra, xóc nhẹ vài đi-ốt và điều chỉnh vài kết nối. Peter Samson và bạn bè anh đã trưởng thành cùng mối quan hệ đặc biệt với thế giới mà trong đó vạn vật chỉ có ý nghĩa nếu bạn tìm ra cách thức hoạt động của chúng. Làm sao bạn có thể đạt được điều đó nếu không mày mò khám phá chúng cơ chứ? Chính trong tầng hầm của Tòa 26, Samson và các bạn của mình đã phát hiện ra phòng EAM (Electronic Accounting Machinery – Máy Kế toán Điện). Tòa 26 có kết cấu bằng kính và thép dài, là một trong những tòa nhà mới xây của MIT, tương phản với các cấu trúc cột đỡ đáng kính ở phía https://thuviensach.vn trước Viện trên Đại lộ Massachusetts. Phòng EAM được đặt trong tầng hầm của tòa nhà không có gì nổi trội này. Đó là một căn phòng chứa các cỗ máy chạy như những chiếc máy tính. Vào năm 1959, chẳng có mấy người được nhìn thấy một chiếc máy tính, chứ đừng nói tới việc chạm vào nó. Samson, một anh chàng có mái tóc xoăn, khô cứng, hoe đỏ, luôn kéo dài các nguyên âm trong câu nói sao cho nghe có vẻ như anh đang lướt nhanh qua hàng loạt ý nghĩa khả dĩ của các câu nói ở giữa các từ. Anh đã quan sát máy tính trong những lần tới tham quan MIT từ hồi còn ở quê nhà Lowell, Massachusetts, chỉ cách trường chưa đến 50km. Điều này khiến anh trở thành một “thằng nhóc Cambridge”, một trong hàng tá học sinh trung học cuồng-khoa-học trong vùng bị thu hút tới khuôn viên trường Cambridge như nam châm hút sắt. Anh thậm chí còn thử lắp ráp chiếc máy tính của riêng mình từ các linh kiện bỏ đi của chiếc máy chơi pinball7 cũ: Chúng là nguồn cung tốt nhất các phần tử logic mà anh có thể tìm được. 7 Pinball là một loại trò chơi trong đó người chơi sẽ ghi điểm bằng cách thao tác một hoặc nhiều quả bóng thép trên sân chơi được đặt trong một chiếc tủ bằng kính gọi là bàn pinball. (BTV) Các phần tử logic: Khái niệm này dường như gói gọn điều đã thu hút Peter Samson, con trai của một thợ sửa máy, đến với điện tử. Chủ đề này thật hợp lý. Khi lớn lên cùng sự hiếu kỳ vô hạn với cách thức hoạt động của vạn vật, thì niềm vui sướng mà bạn có được khi khám phá ra một thứ tao nhã như mạch logic, nơi mọi kết nối phải hoàn thành các vòng lặp của chúng, là điều hết sức ly kỳ. Peter Samson, người đã sớm trân trọng sự đơn giản toán học của những thứ này, nhớ rằng đã từng xem một chương trình truyền hình trên kênh truyền hình công cộng của Boston, WGBH, giới thiệu sơ lược về việc lập trình một chiếc máy tính bằng ngôn ngữ của riêng nó. Điều này đã góp phần thổi bùng lên trí tưởng tượng trong anh; với Peter Samson, máy tính hẳn phải giống như cây đèn thần của Aladdin – cứ chà lên thân https://thuviensach.vn đèn, rồi nó sẽ thực hiện mệnh lệnh của bạn. Vì vậy, anh đã cố gắng học thêm về lĩnh vực này, chế tạo ra các cỗ máy của riêng mình, tham gia các cuộc thi, dự án khoa học, và đến nơi mà những người như anh muốn tới: MIT. Xứ sở dành cho những kẻ sáng láng nhất trong những cô cậu học sinh phổ thông kỳ lạ với cặp kính “cú vọ” và bộ ngực lép, dù luôn khiến các giáo viên dạy toán phải kinh ngạc nhưng lại chẳng thể qua nổi môn giáo dục thể chất, những người chẳng màng đến việc ghi điểm trong buổi dạ hội nhưng lại luôn mơ đến việc được tham dự vòng chung kết Hội chợ Khoa học Điện Tổng quát. Ở MIT, anh có thể thơ thẩn ngoài hành lang lúc hai giờ sáng, tìm kiếm những điều thú vị, thực sự khám phá ra thứ gì đó có thể khiến anh nảy ra ý tưởng về một kiểu sáng tạo và lối sống mới. Đó sẽ là nơi đặt anh trước ngưỡng cửa của một xã hội vốn chỉ được hình dung bởi vài tác giả khoa học viễn tưởng với một chút tai tiếng. Anh sẽ chế tạo ra một chiếc máy tính mà anh có thể chơi đùa với nó. Phòng EAM mà Samson tình cờ phát hiện ra là nơi đặt các cỗ máy đục lỗ lớn với kích thước tương đương những chiếc tủ ngang đựng tài liệu. Không có ai bảo vệ chúng: Chỉ có người ở đây vào ban ngày, khi một nhóm người được lựa chọn và nhận được sự cho phép chính thức, có đủ đặc quyền để đệ trình những thẻ giấy dài lên những người vận hành, sau đó chính những người này sẽ sử dụng những chiếc máy để đục lỗ trên giấy tương ứng với dữ liệu mà những người có đặc quyền muốn đưa vào thẻ. Mỗi lỗ trên thẻ sẽ tượng trưng cho một chỉ dẫn nào đó cho máy tính, yêu cầu nó đặt một mẩu dữ liệu ở đâu đó, hoặc thực hiện một hàm trên mẩu dữ liệu, hay chuyển mẩu dữ liệu từ nơi này sang nơi khác. Chồng thẻ này sẽ tạo thành một chương trình máy tính, một chuỗi các chỉ dẫn cho ra kết quả mong đợi nào đó, giống như hướng dẫn trong công thức nấu ăn, khi làm theo chính xác, ta sẽ có một chiếc bánh. Những thẻ này sẽ được chuyển đến một người vận hành khác ở tầng trên để người này đưa chúng vào một “đầu đọc” nhằm xác định vị trí lỗ, rồi gửi các thông tin này tới chiếc máy tính IBM 704 ở tầng 1 của Tòa 26: Cỗ máy Khổng lồ. https://thuviensach.vn Chiếc IBM 704 trị giá vài triệu đô-la, chiếm trọn một căn phòng, đòi hỏi sự chú ý thường xuyên của một nhóm người vận hành máy chuyên nghiệp. Nó cần có hệ thống điều hòa không khí đặc biệt sao cho các ống chân không đỏ rực bên trong không bị nóng tới mức làm hỏng dữ liệu. Khi hệ thống điều hòa không khí hỏng hóc – việc này vẫn thường xuyên xảy ra – một tiếng cồng lớn sẽ được gióng lên, và ba kỹ sư sẽ bật dậy từ một văn phòng gần đó để lao vào tháo thật nhanh vỏ máy sao cho các bộ phận bên trong không bị nóng chảy. Tất cả những người chịu trách nhiệm đục lỗ, đưa lỗ vào đầu đọc, ấn nút và bật công tắc trên chiếc máy thường được gọi là Tu sĩ, còn những người có đủ đặc quyền để đệ trình dữ liệu tới các tu sĩ linh thiêng nhất này là các thầy dòng chính thức. Đó là một cuộc trao đổi gần giống như một nghi lễ. Thầy dòng: Ồ, cỗ máy kia, ngươi có chấp nhận đề nghị dữ liệu của ta, chạy chương trình của ta và cho ta một phép toán không? Tu sĩ (thay mặt cỗ máy): Chúng tôi sẽ thử nhưng chúng tôi không hứa trước điều gì cả. Như một quy tắc chung, ngay cả nhưng thầy dòng có đặc quyền tối thượng nhất này cũng không được phép trực tiếp tiếp cận cỗ máy, họ cũng không thể đợi cỗ máy xử lý hết “lô” thẻ trong nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày liền. Samson biết điều này, và tất nhiên nó khiến anh nản lòng đến phát điên khi muốn tiếp cận cỗ máy chết tiệt này. Thế nhưng, cuộc sống là phải thế. Điều Samson không biết, và vui mừng khi khám phá ra, là phòng EAM cũng có một chiếc máy đục lỗ đặc biệt gọi là 407. Nó không chỉ có thể đục lỗ mà còn có thể đọc các tấm thẻ, sắp xếp và in chúng theo danh sách. Dường như không có ai canh gác cỗ máy vốn là một dạng máy tính điện toán này. Tất nhiên, việc sử dụng chúng sẽ không hề khó khăn: Ta cần phải thực sự kết nối một bảng điện, tấm nhựa vuông có kích thước khoảng 5x5cm với rất nhiều lỗ trên đó. Nếu cắm hàng trăm sợi dây xuyên qua các https://thuviensach.vn lỗ theo một trật tự nhất định, bạn sẽ có được thứ trông như ổ chuột nhưng lại vừa vặn với cỗ máy cơ điện này và làm thay đổi đặc tính của nó. Nó có thể làm điều bạn muốn. Vậy là, dù không được phép, nhưng đó là những gì Peter Samson bắt đầu thực hiện, cùng một vài người bạn cũng học MIT có mối quan tâm đặc biệt tới mô hình đường ray. Đó là một bước đi tùy tiện, thiếu suy nghĩ, tiến tới tương lai khoa học viễn tưởng, nhưng lại là nét đặc trưng của một tiểu văn hóa kỳ quặc đang tự cố gắng vươn lên và phát triển thành thế lực ngầm – trở thành thứ văn hóa sau này được coi là linh hồn vô phép, không được thừa nhận của giới tin học. Peter Samson là một trong những hacker máy tính đầu tiên tách khỏi Câu lạc bộ Mô hình Đường tàu. * * * Peter Samson đã trở thành thành viên của Câu lạc bộ Mô hình Đường tàu ngay từ tuần đầu tiên anh tới MIT vào mùa thu năm 1958. Sự kiện đầu tiên mà các sinh viên MIT năm nhất tham gia là một bài diễn văn chào đón truyền thống, bài diễn văn đã được truyền từ năm này qua năm khác mà bất kỳ ai từng học ởMIT còn nhớ. Hãy nhìn người ngồi bên trái em… rồi nhìn người ngồi bên phải… một trong ba em sẽ không thể tốt nghiệp học viện này. Hiệu ứng mong đợi của bài diễn văn là tạo ra cảm giác kinh khiếp trong cổ họng của các tân sinh viên, báo hiệu một sự kinh hãi chưa từng thấy. Trong suốt cuộc đời của mình, các tân sinh viên này gần như miễn nhiễm với áp lực học hành nhờ tài năng sáng chói của họ. Giờ đây, mỗi người bọn họ có một người bên trái và một người bên phải cũng thông minh như mình, thậm chí có khi còn thông minh hơn. Nhưng với một số sinh viên nhất định thì điều này hoàn toàn không được coi là thử thách. Với họ, bạn cùng lớp được nhận thức là những người có thể sẽ trợ giúp mình trong hành trình khám phá đầy ám ảnh để tìm ra cách thức hoạt động của mọi thứ rồi làm chủ chúng. Việc học đã có đủ trở ngại rồi – hà cớ gì phải lo lắng tới những việc chán ngắt như bợ đỡ thầy cô hay https://thuviensach.vn phấn đấu vì điểm số? Đối với những sinh viên như Peter Samson, hành trình khám phá còn có ý nghĩa hơn nhiều so với bằng cấp. Thỉnh thoảng, sau bài phát biểu là sự kiện Chiêu mộ Sinh viên năm Nhất (Freshman Midway). Tất cả các hội trong trường – các nhóm có sở thích đặc biệt, hội học sinh, v.v… – sẽ dựng lều trong khu thể chất rộng lớn để chiêu mộ các thành viên mới. Nhóm gây được sự chú ý với Peter là TMRC. Các thành viên của Câu lạc bộ, những sinh viên lớp trên với đôi mắt sáng, tóc đầu đinh, nói chuyện kiểu giật cục giống như những người muốn từ ngữ được phát ra nhanh chóng, đã khoe khoang về một màn trình diễn mô hình đường tàu HO đẹp mắt mà họ tạo ra trong căn phòng của Câu lạc bộ ở Tòa 20. Từ lâu, Peter Samson rất say mê những đoàn tàu, đặc biệt là tàu điện ngầm. Vì thế, anh đi bộ tới tòa nhà có kết cấu bằng đá tạm bợ được xây dựng trong Thế Chiến II. Các hành lang có nhiều ngóc ngách, và dù Câu lạc bộ nằm ở tầng hai nhưng nó vẫn mang cảm giác lạnh lẽo và tối tăm như một tầng hầm. Mô hình tàu khổng lồ gần như choán hết căn phòng, và nếu đứng trong khu vực điều khiển nhỏ xíu gọi là “hẻm núi”, bạn có thể thấy một thị trấn nhỏ, một khu công nghiệp, một dãy xe điện tí hon đang hoạt động, một dãy núi làm từ papier-mâché8, và tất nhiên là rất nhiều đoàn tàu và đường ray. Các đoàn tàu được chế tạo công phu và tỉ mỉ sao cho giống với nguyên mẫu, và chạy xình xịch qua các khúc cua của đường ray với độ hoàn hảo như sách ảnh. 8 Một vật liệu composite bao gồm các mảnh giấy hoặc bột giấy, đôi khi được gia cố bằng vải dệt, gắn với một chất kết dính, chẳng hạn như keo, tinh bột hoặc giấy dán tường. (ND) Và rồi Peter Samson nhìn xuống bên dưới các tấm bảng cao ngang ngực đang giữ mô hình. Nó khiến tim anh ngừng đập. Bên dưới mô hình là một ma trận dây điện, rơ-le và công tắc ngang phức tạp hơn tất cả những gì mà Peter Samson có thể tưởng tượng. Có hàng dãy công tắc ngăn nắp, những https://thuviensach.vn hàng rơ-le đồng thông thường, cùng một mớ dây điện đỏ, xanh, vàng loằng ngoằng – vặn xoắn vào nhau như một sự bùng nổ bảy sắc cầu vồng trênmớ tóc của Einstein. Đó là một hệ thống phức tạp đến kinh ngạc và Peter Samson đã thề phải tìm ra cách thức hoạt động của chúng. TMRC sẽ tặng cho các thành viên một chìa khóa ra vào Câu lạc bộ sau khi họ đạt mức 40 giờ làm việc với mô hình. Sự kiện Chiêu mộ Sinh viên năm Nhất diễn ra vào thứ Sáu, và tới thứ Hai tuần sau, Peter Samson đã có chiếc chìa khóa của mình. * * * Trong TMRC có hai phe. Một vài thành viên thích dành thời gian xây dựng và sơn vẽ các bản sao của những đoàn tàu nhất định có giá trị lịch sử và cảm xúc, hoặc tạo ra các khung cảnh như thật cho mô hình. Đây là nhóm dao kéo và cọ vẽ, họ đặt các tạp chí tàu hỏa và đặt vé cho Câu lạc bộ tham gia các tuyến tàu lâu năm. Phe kia tập trung thành Hội đồng Tín hiệu và Năng lượng (S&P) của Câu lạc bộ, và quan tâm nhiều hơn đến những điều diễn ra bên dưới mô hình. Đây là Hệ thống, thứ hoạt động như một sự kết hợp giữa Rube Goldberg9 và Wernher von Braun10, thường xuyên được cải tiến, sửa chữa, hoàn chỉnh và đôi khi bị phá hỏng. Nhóm này bị ám ảnh về cách Hệ thống hoạt động, sự phức tạp ngày càng tăng của nó, cách một thay đổi bất kỳ sẽ ảnh hưởng tới các phần khác và cách bạn có thể đặt các mối quan hệ này giữa các phần sao cho tối ưu. 9 Rube Goldberg là hệ thống dây chuyền phản ứng phức tạp được thiết kế từ những vật đơn giản nhất. (BTV) 10 Wernher von Braun được coi là cha đẻ của ngành tên lửa. (BTV) Nhiều phần của Hệ thống đã được Chương trình Quà tặng cho các trường Đại học của Western Electric tài trợ trực tiếp từ công ty điện thoại. Cố vấn của Câu lạc bộ cũng chịu trách nhiệm cho hệ thống điện thoại của trường, https://thuviensach.vn và nhận thấy rằng họ có sẵn các thiết bị điện thoại tinh vi dành cho các nhà sáng tạo mô hình đường tàu. Sử dụng thiết bị đó như một điểm khởi đầu, các nhà sáng tạo mô hình đường tàu đã sáng chế ra một sơ đồ cho phép nhiều người điều khiển cùng lúc, ngay cả khi các đoàn tàu nằm trên những khu vực khác nhau của cùng một đường ray. Sử dụng bộ quay số lấy từ điện thoại, những “kỹ sư” của TMRC có thể chỉ ra phần nào của đường ray mà họ muốn điều khiển để chạy đoàn tàu từ đó nhờ sử dụng một số loại rơ le của công ty điện thoại, bao gồm các thiết bị điều khiển ngang và các công tắc bước cho phép bạn thực sự nghe thấy năng lượng được chuyển từ khối này sang khối kia nhờ âm thanh chunka-chunka-chunka như đến từ thế giới khác. Chính nhóm S&P đã sáng chế ra sơ đồ tài tình này, và cũng chính họ đã nuôi dưỡng sự tò mò không biết mệt mỏi, đã khiến họ chôn chân ở khắp các tòa nhà trong trường và tìm cách được đặt tay lên những chiếc máy tính. Họ là những môn đồ suốt đời của Nhu cầu được Thực hành. Trưởng nhóm S&P là Bob Saunders, một sinh viên lớp trên với vẻ mặt hồng hào, vóc dáng đô con, điệu cười sảng khoái và có tài về bánh răng điều khiển. Khi còn là một đứa trẻ ở Chicago, anh đã xây dựng một máy biến thế tần số cao trong một dự án trung học; đó là một phiên bản cao khoảng 1,8m của một cuộn Tesla, thứ được các kỹ sư phát minh trong những năm 1800 để gửi các sóng điện mạnh. Saunders cho biết cuộn dây của anh có thể thổi bay sóng truyền hình trong phạm vi vài tòa nhà. Một người khác cũng rất có hứng thú với S&P là Alan Kotok, người New Jersey có thân hình mũm mĩm, lẹm cằm, đeo cặp kính dày cộp trong lớp của Samson. Gia đình Kotok vẫn nhớ hồi ba tuổi, anh đã táy máy tháo công tắc ra khỏi tường bằng một chiếc tuốc-nơ-vít, khiến tia lửa điện tóe ra. Năm sáu tuổi, anh đã chế tạo và nối dây cho các bóng đèn. Thời trung học, anh từng tham gia một chuyến tham quan Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Mobil ở gần Haddonfield và lần đầu tiên được nhìn thấy máy tính – sự hồ hởi đến từ trải nghiệm này đã giúp anh quyết định gia nhập MIT. Ngay từ năm nhất, anh https://thuviensach.vn đã có tiếng là một trong những người có năng lực nhất nhóm S&P của TMRC. Các thành viên S&P dành các ngày thứ Bảy để đến khu phế thải của Eli Heffron ở Somerville tìm kiếm các linh kiện, dành hàng giờ nằm dài trên những chiếc ghế xoay mà họ gọi là “bunkies” (bạn cùng phòng) để tìm kiếm các chỗ thắt lại trong hệ thống chuyển mạch, hay làm việc thâu đêm để thực hiện các kết nối hoàn toàn không được phép giữa điện thoại của TMRC và Khu phía Đông. Công nghệ là sân chơi của họ. Các thành viên chủ chốt tụ tập ở Câu lạc bộ hàng giờ liền, thường xuyên cải tiến Hệ thống, tranh luận về công việc tiếp theo và phát triển biệt ngữ của riêng họ mà người ngoài không sao hiểu nổi nếu có tình cờ bắt gặp những kẻ cuồng tín tuổi teen này với chiếc áo ngắn tay kẻ ô, bút chì trong túi, quần chino và một chai Coca-Cola lúc nào cũng kè kè bên cạnh. (TMRC đã tự mua máy bán Coke với giá khá cao 165 đô-la; với giá 5 xu một chai, số tiền bỏ ra đã được thu về chỉ sau ba tháng; để kích thích bán hàng, Saunders đã chế tạo máy đổi tiền cho người mua Coke và nó vẫn còn được sử dụng cả một thập kỷ sau đó.) Khi một bộ phận không hoạt động, tức là nó đã “thất bại”; khi một bộ phận bị hỏng, nó sẽ bị nghiền nát cho tới khi không được tích sự gì nữa (“munged” (mashed until no good)); hai chiếc bàn ở góc phòng không được gọi là văn phòng (office), mà được gọi là cái lỗ (orifice); người muốn nghiên cứu các khóa học là một “công cụ” (tool); rác được gọi là “đồ bỏ đi” (cruft); và một dự án được thực hiện hay một sản phẩm được chế tạo không chỉ để phục vụ một mục đích mang tính xây dựng nào đó, mà còn được thực hiện bằng sự ham thích mãnh liệt nhờ sự tham gia đơn thuần, được gọi là “hack”. Thuật ngữ sau có lẽ được tham khảo từ tiếng lóng của MIT thời xưa – từ “hack” từ lâu đã được sử dụng để mô tả những trò đùa công phu trong trường mà các sinh viên MIT thường xuyên tạo ra, chẳng hạn như che phủ đỉnh vòm bao quanh toàn khuôn viên trường bằng các lá phản quang. https://thuviensach.vn Nhưng khi thành viên TMRC dùng từ này, tức là họ đang ám chỉ một sự tôn trọng nghiêm túc. Khi ai đó gọi một kết nối thông minh giữa các rơ-le là một “hack chính cống”, nghĩa là chiến công này phải thấm đẫm sự sáng tạo, phong cách và trình độ kỹ thuật. Những người làm việc năng suất nhất ở S&P tự gọi mình là những “hacker” một cách đầy tự hào. Trong khuôn khổ của Câu lạc bộ ở Tòa 20, và của “Phòng Công cụ” (nơi một nghiên cứu nào đó cùng nhiều phiên làm việc đậm chất công nghệ diễn ra), họ tự cho rằng mình cũng có các đặc tính anh hùng như trong huyền thoại Iceland. Đây là cách mà Peter Samson nhìn nhận bản thân và những người bạn của anh qua bài thơ kiểu Sandburgesque trong bản tin của Câu lạc bộ: Người ném Thiết bị chuyển mạch cho Thế giới, Người kiểm thử ngòi, Người thiết lập Định tuyến, Người chơi với Đường tàu và Người kiểm soát Cấp cao của Hệ thống; Bẩn thỉu, lông lá, uể oải, Cỗ máy của Chức năng-Điểm: Họ nói rằng anh là kẻ nguy hiểm và tôi tin họ; khi tôi thấy các bóng đèn sơn của anh dưới ánh sáng đang quyến rũ những tên cu-li của hệ thống… Dưới ngọn tháp, xung quanh toàn bùn đất, hack với những lò xo rẽ đôi Thậm chí là hack với tư cách sinh viên năm đầu, những người chưa bao giờ mất chỗ và đã từ bỏ, còn ngu ngốc hơn Hack các Bảng M, bên dưới các khóa là những thiết bị chuyển mạch, và dưới hệ thống điều khiển là sự cấp tiến xung quanh mô hình. Hacking! https://thuviensach.vn Hãy hack sự bẩn thỉu, lông lá, uể oải của tuổi trẻ; không cần dây, hay các đi-ốt hấp dẫn, hãy tự hào là những người giám sát chuyển mạch, kiểm thử ngòi, thiết lập định tuyến, chơi đùa với đường tàu và gặp được Người kiểm soát Cấp cao của Hệ thống. Bất kỳ khi nào có thể, Samson và những người khác sẽ lẻn đến phòng EAM cùng các bảng phích cắm, cố gắng sử dụng cỗ máy để theo dõi các thiết bị chuyển mạch bên dưới mô hình. Điều quan trọng là họ đã thấy điều mà hệ thống cơ điện có thể làm, và đẩy nó đi tới giới hạn. Mùa xuân năm 1959, MIT triển khai một khóa học mới. Đó là khóa học lập trình máy tính đầu tiên mà các sinh viên năm nhất có thể đăng ký. Giảng viên là một người đàn ông lạnh lùng với mái tóc điện giật và bộ râu xoăn tít không kém – John McCarthy. McCathy là bậc thầy về toán học, một vị giáo sư đãng trí thường thấy; với đầy rẫy những câu chuyện về thói quen đột nhiên trả lời một câu hỏi sau nhiều giờ, đôi khi là nhiều ngày. Ông sẽ tiến tới chỗ bạn ở hành lang mà không cần chào hỏi, rồi bắt đầu nói như một cái máy với ngôn từ chuẩn xác, như thể khoảng dừng trong cuộc hội thoại chỉ tồn tại trong một phần nhỏ của một giây chứ không phải cả tuần. Trong hầu hết các trường hợp thì câu trả lời muộn màng của ông rất tuyệt vời. McCarthy là một trong số rất ít người làm việc dưới hình thức truy vấn khoa học hoàn toàn mới có liên quan đến máy tính. Bản chất hoạt bát và thích tranh luận trong lĩnh vực nghiên cứu của ông rõ ràng đến từ sự kiêu ngạocủa cái tên mà McCarthy dành cho nó: Trí tuệ Nhân tạo (Artificial Intelligence – AI). Người đàn ông này thực sự cho rằng máy tính có thể trở nên thông minh. Ngay cả ở một nơi đậm chất khoa học như MIT, hầu hết mọi người đều coi ý nghĩ đó là kỳ cục: Họ cho rằng máy tính rất hữu dụng, có phần đắt đỏ đến mức lố bịch, là công cụ cho các tính toán số học khổng lồ và để tạo ra các hệ thống phòng thủ tên lửa (như cỗ máy lớn nhất của MIT, Whirlwind – Cuồng phong, đã xây dựng cho hệ thống cảnh báo sớm SAGE), nhưng lại bị chế giễu khi cho rằng những máy tính đó có thể thực https://thuviensach.vn sự trở thành một lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Khoa học Máy tính không tồn tại chính thức ở MIT hồi cuối những năm 1950 và McCarthy cùng những chuyên gia máy tính đã làm việc ở Khoa Kỹ thuật Điện, nơi diễn ra khóa học số 641 mà Kotok, Samson và một vài thành viên khác của TMRC đã đăng ký vào mùa xuân năm đó. McCarthy đã khởi động một chương trình khổng lồ trên chiếc IBM 704 – Cỗ máy Khổng lồ – với khả năng đặc biệt trong việc chơi cờ. Với các nhà phê bình của lĩnh vực AI mới chớm phát triển, đây chỉ là một ví dụ về chủ nghĩa lạc quan cứng đầu của những người như John McCarthy. Nhưng McCarthy lại có một tầm nhìn kiên định rằng khả năng của máy tính và chơi cờ chỉ mới là điểm bắt đầu. Thú vị là, tầm nhìn này không phải là thứ đã thúc đẩy Kotok, Samson và những người khác. Họ chỉ muốn biết cách thức vận hành các cỗ máy chết tiệt này, và dù ngôn ngữ lập trình mới được gọi là LISP mà McCarthy đang giảng tại khóa 641 rất thú vị, nó vẫn không thể sánh được với sự thú vị của hoạt động lập trình, hay khoảnh khắc kỳ diệu khi bạn nhận được kết quả trả về từ vị Tu sĩ, sau đó, bạn có thể dành hàng giờ nghiền ngẫm các kết quả của chương trình, xem nó có vấn đề gì không và làm thế nào để cải tiến nó. Các hacker của TMRC đã nghĩ ra các cách tiếp cận gần hơn với chiếc IBM 704, thứ chẳng bao lâu sau sẽ được nâng cấp thành mẫu mới hơn với tên gọi 709. Bằng cách lượn lờ ở Trung tâm Điện toán vào lúc nửa đêm về sáng, mối quen biết với tu sĩ, và cách trân trọng cũng như chắt chiu số lần cần thiết, cuối cùng những người như Kotok cũng được phép ấn một vài nút trên chiếc máy và quan sát những chiếc đèn khi nó hoạt động. Vài người có thâm niên ở MIT có quyền truy cập vào chiếc 704 cùng những người bạn trong đội tu sĩ của họ đã cần mẫn khai thác được những bí mật liên quan đến các cỗ máy IBM này. Đáng ngạc nhiên là một vài lập trình viên trong số đó, những học viên cao học đang làm việc cùng McCarthy, thậm chí còn viết một chương trình sử dụng một trong các dãy https://thuviensach.vn đèn bé tí: Những chiếc bóng đèn có thể phát sáng theo một thứ tự sao cho chúng trông giống như một quả bóng nhỏ đang được chuyền từ phải sang trái. Nếu người vận hành bật công tắc vào đúng thời điểm thì chuyển động của ánh sáng có thể bị đảo ngược – ta sẽ có chiếc máy tính theo kiểu “đánh bóng bàn”! Đây rõ ràng là thứ mà bạn sẽ phô ra để gây ấn tượng với bạn bè, những người sẽ nhìn vào chương trình thực thụ mà bạn viết để nghiên cứu cách thức vận hành của nó. Để chiến thắng chương trình này, người ta có thể cố gắng làm điều đó với ít câu lệnh hơn – một nỗ lực đáng thử khi dung lượng “bộ nhớ” máy tính trong những ngày này nhỏ tới mức không thể đặt nhiều chỉ lệnh trong đó. John McCarthy từng để ý thấy những học viên cao học của ông, những người tha thẩn quanh chiếc 704, sẽ làm việc với các chương trình máy tính của họ sao cho chúng có thể ra được nhiều kết quả nhất với số câu lệnh ít nhất, và nén chương trình lại để cung cấp cho cỗ máy ít thẻ hơn. Việc cắt bỏ một hai dòng lệnh gần như là một sự ám ảnh đối với họ. McCarthy so sánh các sinh viên này với niềm đam mê trượt tuyết. Cảm giác hồi hộp khi “tối ưu hóa mã nguồn” cũng tương tự như khi các vận động viên trượt tuyết cuồng tín xé gió trượt xuống đồi tuyết. Do đó, việc triển khai một chương trình và cố gắng cắt bớt các câu lệnh mà không làm ảnh hưởng tới kết quả được xem là “cắt gọt chương trình”, và bạn sẽ thường nghe họ lẩm bẩm những câu như; “Có lẽ mình có thể cắt bớt vài câu lệnh để giúp bộ tải thẻ chỉnh sửa bát phân giảm xuống còn ba thay vì bốn thẻ.” Vào năm 1959, McCarthy đã chuyển mối quan tâm từ cờ vua sang một cách nói chuyện với máy tính kiểu mới, một “ngôn ngữ” hoàn toàn mới gọi là LISP. Alan Kotok và bạn bè anh vô cùng háo hức nhận lại dự án cờ vua. Làm việc trên chiếc IBM xử lý theo lô, họ dấn thân vào dự án khổng lồ cải tiến cách chơi cờ vua trên chiếc 704 rồi đến chiếc 709, thậm chí là cỗ máy tân tiến 7090 sau này. Cuối cùng, nhóm của Kotok trở thành những người sử dụng quỹ thời gian máy tính nhiều nhất Trung tâm Máy tính MIT. https://thuviensach.vn Dù vậy, làm việc với máy IBM vẫn rất khó chịu. Không có gì chán ngán hơn việc ngồi chờ đằng đẵng từ lúc nhập thẻ tới lúc máy cho ra các kết quả. Nếu bạn đặt nhầm dù chỉ một chữ cái trong câu lệnh thì chương trình sẽ ngừng chạy luôn, và bạn sẽ phải khởi động lại toàn bộ quá trình. Việc đó đi đôi với sự gia tăng ngột ngạt của các quy tắc chết tiệt khiến những người đam mê máy tính cuồng nhiệt trẻ tuổi như Samson, Kotok và Saunders phải tránh xa cỗ máy. Quy tắc cứng nhắc nhất là không ai được phép thực sự chạm vào hay làm xáo trộn chiếc máy. Đây tất nhiên là điều mà những thành viên S&P này muốn làm nhất, và những giới hạn này khiến họ phát điên. Một tu sĩ cấp thấp – vào một ca làm đêm muộn – đã đặc biệt khó chịu khi thực hiện quy tắc này, nên Samson đã nghĩ ra một cách trả thù thích đáng. Khi lượn quanh cửa hàng đồ điện tử cũ của Eli vào một ngày nọ, anh tình cờ tìm được một bảng điện hoàn toàn giống với loại đang chứa các ống chân không trong chiếc IBM. Vào đêm nọ, khoảng trước 4 giờ sáng, vị tu sĩ này ra ngoài một phút; và khi ông ta quay trở lại, Samson nói rằng cỗ máy không hoạt động nhưng họ đã tìm ra nguyên nhân – và giơ lên mô-đun hoàn toàn bẹp dúm của chiếc 704 cũ lấy từ cửa hàng của Eli. Vị tu sĩ không thốt nổi nên lời. “Cậu… cậu… cậu lấy nó ở đâu?” Samson với đôi mắt xanh to tròn vô tội từ từ chỉ vào một khe hở trên tủ máy nơi tất nhiên chưa bao giờ có bảng mạch và nhìn khá trống trải. Vị tu sĩ thở gấp, mặt mũi tái mét, lầm rầm rên rỉ với đấng tối cao. Không còn nghi ngờ gì nữa, viễn cảnh về khoản hao hụt lên tới một triệu đô trong tài khoản đang hiển hiện trước mắt ông ta. Chỉ sau khi người giám sát của ông ta, một tu sĩ cấp cao đã biết tỏng tài trí của những chàng trai trẻ thông minh đến từ TMRC, đến và giải thích tình hình, ông ta mới bình tĩnh lại được. https://thuviensach.vn Ông ta không phải là quản trị viên cuối cùng phải đón nhận sự phẫn nộ của một hacker bị cản trở quyền truy cập cỗ máy. * * * Một ngày nọ, một cựu thành viên của TMRC hiện đang là cán bộ giảng dạy ở MIT đã đến thăm Câu lạc bộ. Tên anh là Jack Dennis. Khi còn là sinh viên đại học hồi đầu thập niên 1950, anh đã làm việc miệt mài với mô hình. Lúc đó, Dennis đang vận hành một chiếc máy tính mà MIT nhận được từ Phòng thí nghiệm Lincoln, một phòng thí nghiệm phát triển quân sự liên kết với Học viện. Chiếc máy tính đó là TX-0, và là một trong những máy tính chạy đèn bán dẫn đầu tiên trên thế giới. Phòng thí nghiệm Lincoln chuyên sử dụng nó để kiểm thử chiếc máy tính khổng lồ TX-2 với bộ nhớ quá phức tạp tới mức chỉ người anh em bé nhỏ với thiết kế đặc biệt này mới có thể xem xét một phần khả năng của nó. Giờ đây, khi nhiệm vụ ban đầu đã hoàn thành, cỗ máy trị giá 3 triệu đô-la TX-0 đã được chuyển tới Học viện theo diện “cho mượn dài hạn”, và rõ ràng là không ai ở Phòng thí nghiệm Lincoln mong đợi ngày trở về của nó. Dennis đã hỏi nhóm S&P ở TMRC rằng liệu họ có muốn xem nó hay không. Này mấy xơ ơi! Các xơ có muốn gặp Giáo hoàng không? Chiếc TX-0 nằm ở Tòa 26, trong Phòng thí nghiệm Nghiên cứu về Điện (Research Laboratory of Electronics – RLE) trên tầng hai, ngay bên trên Trung tâm Máy tính tầng một, nơi chứa chiếc IBM 704 khổng lồ. Phòng thí nghiệm RLE giống với phòng điều khiển của một con tàu vũ trụ thời cổ. Chiếc TX-0, hay đôi khi được gọi là Tixo, là chiếc máy rất nhỏ thời đó, do nó là một trong những máy tính đầu tiên sử dụng các bóng bán dẫn có kích thước bằng ngón tay thay vì các ống chân không to cỡ bàn tay. Dù vậy, nó vẫn chiếm nhiều không gian trong phòng, cùng với thiết bị điều hòa không khí nặng 15 tấn đi kèm. Nơi đặt chiếc TX-0 được gắn một số khung gầm cao và mảnh, giống các giá sách bằng kim loại xù xì, với dây điện rối rắm và các hàng hộp đựng nhỏ xíu để cài đặt bóng bán dẫn. Một chiếc giá khác https://thuviensach.vn có mặt trước làm bằng kim loại đặc, điểm xuyết bằng các máy đo nhìn dữ tợn. Đối diện với các tủ thiết bị là một bàn điều khiển hình chữ L, hệ thống điều khiển của tàu không gian H.G. Wells, với một chiếc kệ nhỏ màu xanh và giấy tờ. Trên thanh ngang của chiếc kệ hình chữ L là một chiếc máy Flexowriter11, trông như chiếc máy đánh chữ được cải biến dành cho xe tăng chiến, đế của nó được đặt trong một bệ đỡ màu xám quân sự. Trên đỉnh là các bảng điều khiển, những phần hình hộp nhô ra được sơn vàng. Trên bề mặt của chúng, phần đối diện với người sử dụng là một số đồng hồ đo, vài hàng bóng đèn nhấp nháy cỡ 60mm, một ma trận các thiết bị chuyển mạch bằng kim loại có kích thước bằng hạt gạo lớn, và trên hết là màn hình ống phát tia âm cực thực sự có hình tròn, màu xám khói. 11 Một loại máy đánh chữ điện hạng nặng cho phép điều khiển bằng thao tác gõ của con người, hay bằng nhiều phương pháp, bao gồm cả việc gắn trực tiếp vào máy tính và sử dụng băng giấy. (ND) Các thành viên của TMRC đã thất kinh. Cỗ máy này không sử dụng thẻ. Đầu tiên, người sử dụng phải đưa chương trình vào một băng giấy dài và mảnh bằng chiếc Flexowriter (có thêm một vài chiếc Flexowriter trong căn phòng kế bên), rồi ngồi vào bàn điều khiển, chạy băng giấy qua bộ đọc, và cứ ngồi đó trong khi chương trình đang chạy. Nếu có lỗi xảy ra với chương trình, bạn sẽ biết ngay lập tức và có thể xem xét vấn đề bằng cách sử dụng một số thiết bị chuyển mạch hoặc kiểm tra xem bóng đèn nào đang nhấp nháy hay sáng. Cỗ máy thậm chí còn có một bộ phận phát âm thanh: Trong lúc chương trình chạy, một chiếc loa bên dưới bàn điều khiển sẽ tạo ra một đoạn nhạc, nghe như một chiếc đàn organ điện tử bị chỉnh âm sai với các nốt rung lên đinh tai nhức óc. Các hợp âm trên chiếc “organ” này sẽ thay đổi theo mỗi mili giây tùy theo dữ liệu mà máy đang đọc; sau khi đã quen với tông của nó, bạn có thể thực sự nghe được phần nào của chương trình đang được máy tính xử lý. Bạn sẽ phải phân biệt điều này, dù tiếng lách cách của chiếc Flexowriter có thể khiến bạn nghĩ rằng mình đang ở trong một cuộc đấu súng máy. https://thuviensach.vn Thậm chí điều thú vị hơn là, nhờ các khả năng “tương tác” này, và cũng nhờ người sử dụng được cung cấp một số khung thời gian để tùy ý sử dụng chiếc TX-0, bạn thậm chí có thể chỉnh sửa một chương trình ngay khi ngồi tại máy. Đúng là một phép màu! Không đời nào có chuyện Kotok, Saunders, Samson và những người khác tránh xa chiếc máy đó. May mắn thay, dường như không có sự quan liêu nào bủa vây lấy chiếc TX-0 như chiếc IBM 704. Không còn lực lượng tu sĩ nhiễu sự. Kỹ thuật viên chịu trách nhiệm là một người Ê-cốt khôn ngoan với mái tóc trắng có tên John McKenzie. Dù nhiệm vụ của ông là đảm bảo rằng các học viên cao học và những người đang làm việc tại các dự án được cấp vốn – những Người dùng được Phê chuẩn Chính thức – được tiếp cận cỗ máy, McKenzie lại rất khoan dung với những kẻ điên cuồng tại TMRC đang bắt đầu lượn lờ tại phòng thí nghiệm RLE, nơi chứa cỗ máy TX-0. Samson, Kotok, Saunders và một sinh viên năm nhất tên là Bob Wagner đã sớm phát hiện ra thời gian tốt nhất để dạo quanh Tòa 26 là vào ban đêm, khi không ai đăng ký phiên làm việc một giờ trên mảnh giấy được dán vào thứ Sáu hằng tuần bên cạnh máy điều hòa không khí của phòng thí nghiệm RLE. Có một quy tắc là chiếc TX-0 phải được cho chạy 24 giờ mỗi ngày – máy tính thời đó quá đắt đỏ để có thể bị lãng phí bằng cách để không vào ban đêm. Ngoài ra, có một thủ tục khá khó chịu là phải để mọi thứ được bật lên và chạy nếu nó bị tắt. Do vậy, những hacker TMRC, những người sớm gọi mình là các hacker TX-0, đã thay đổi lối sống để phù hợp với chiếc máy. Họ đăng ký những khung thời gian có thể và sẽ thường xuyên viếng thăm phòng thí nghiệm vào ban đêm để tranh thủ cơ hội khi ai đó đặt lịch 3 giờ sáng nhưng không đến. “Ôi!” Samson sẽ vui mừng thốt lên, khoảng một phút sau khi ai đó không thể có mặt vào thời điểm đăng ký trong sổ nhật ký. “Hãy chắc rằng chúng ta không phí phạm thời gian!” https://thuviensach.vn Điều này dường như không bao giờ xảy ra, bởi các hacker hầu như luôn ở đó. Nếu họ không ở phòng thí nghiệm RLE chờ giờ mở cửa, thì sẽ ở phòng học bên cạnh Câu lạc bộ TMRC, Phòng Công cụ, chơi trò đố chữ kiểu Treo cổ mà Samson đã nghĩ ra gọi là Ô cửa Tiếp theo, chờ đợi một cuộc gọi từ ai đó đang ở bên cạnh chiếc TX-0, theo dõi xem liệu có ai không có mặt trong phiên làm việc hay không. Các hacker đã xây dựng mạng lưới chỉ điểm để được thông báo sớm thời gian sử dụng máy – nếu một dự án nghiên cứu chưa chuẩn bị sẵn sàng chương trình hay một giáo sư bị ốm, tin tức sẽ được chuyển đến TMRC và các hacker sẽ xuất hiện ngay, nín thở và sẵn sàng để chen vào không gian đằng sau bảng điều khiển chiếc TX-0. Dù về mặt lý thuyết, Jack Dennis sẽ chịu trách nhiệm vận hành, nhưng khi đó ông còn đang vướng bận lịch giảng và thích dành thời gian còn lại viết mã cho máy. Dennis đóng vai người cha đỡ đầu nhân từ với các hacker: Ông cung cấp cho họ phần hướng dẫn sử dụng ngắn gọn, chỉ họ theo các hướng nhất định, và thích thú với các cuộc phiêu lưu lập trình cuồng nhiệt của họ. Ông không hứng thú lắm với việc quản trị, và rất vui lòng để John McKenzie vận hành mọi thứ. McKenzie sớm nhận ra rằng bản chất tương tác của TX-0 đã truyền cảm hứng cho một dạng thức lập trình máy tính mới, và các hacker chính là những người tiên phong. Vì thế, anh đã không đưa ra quá nhiều sắc lệnh. Hồi năm 1959, không khí đủ lỏng lẻo cho họ – những người cuồng khoa học với trí tò mò luôn bị thiêu đốt như một kẻ chết đói, những người như Peter Samson sẽ khám phá mê cung chưa được thám hiểm của các phòng thí nghiệm ở MIT. Tiếng ồn của máy điều hòa không khí, bộ phận phát âm thanh, và chiếc máy Flexowriter kêu như búa khoan luôn quyến rũ những kẻ lang thang này, để rồi họ sẽ lao đầu vào phòng thí nghiệm như những chú mèo con vờn quanh các giỏ len. Trong số những kẻ lang thang, có một người ngoại đạo tên là Peter Deutsch. Trước cả khi khám phá ra chiếc TX-0, Peter đã nung nấu tình yêu https://thuviensach.vn mãnh liệt với máy tính. Tình yêu ấy bùng lên vào ngày cậu nhặt được một cuốn sổ hướng dẫn sử dụng mà ai đó bỏ đi – cuốn sổ tay về một dạng ngôn ngữ máy tính khó hiểu dùng để tính toán. Có thứ gì đó trong sự ngăn nắp của các câu lệnh máy tính đã hấp dẫn cậu: Sau này, cậu mô tả cảm giác đó giống như một sự nhận biết siêu việt kỳ lạ mà một nghệ sĩ trải qua khi khám phá ra một công cụ hoàn toàn thích hợp với mình. Đây là nơi tôi thuộc về. Peter đã cố gắng viết một chương trình nhỏ, đăng ký thời gian dưới tên của một trong các tu sĩ, và chạy nó trên máy tính. Trong nhiều tuần, cậu đã thành thạo việc lập trình đến mức đáng kinh ngạc. Khi đó, cậu mới chỉ 12 tuổi. Peter là một đứa trẻ hay xấu hổ, giỏi toán nhưng không chắc chắn về hầu hết những thứ còn lại. Cậu bị thừa cân đến mức khó chịu, không có khả năng chơi thể thao, nhưng lại là một người vô cùng trí tuệ. Cha cậu là giáo sư tại MIT, và Peter đã lấy đó làm cái cớ để khám phá các phòng thí nghiệm. Việc cậu bị chiếc TX-0 thu hút là không thể tránh khỏi. Đầu tiên, Peter lang thang tới một “Phòng Kluge” nhỏ (“kluge” là nơi được xây dựng theo cách thiếu trang nhã, có vẻ thách thức logic bằng cách hoạt động hiệu quả), nơi có ba chiếc Flexowriter ngoại tuyến để đục lỗ chương trình trên các băng giấy sau này được đưa vào chiếc TX-0. Ai đó đang bận rộn đục lỗ băng giấy. Peter quan sát một lúc rồi bắt đầu dội bom linh hồn khốn khổ ấy bằng những câu hỏi về chiếc máy tính nhỏ bé khó coi ở phòng bên cạnh. Rồi cậu đi tới chiếc TX-0 và quan sát gần hơn, nhận thấy sự khác biệt của nó với các máy tính khác: Nó nhỏ hơn và có một màn hình CRT cùng những đồ chơi gọn gàng khác. Ngay lúc đó, cậu quyết định hành động như thể mình cũng hoàn toàn có quyền ở đó. Peter giữ cuốn sổ hướng dẫn và nhanh chóng khiến mọi người kinh ngạc khi trò chuyện về máy tính theo cách đầy ý nghĩa. Cuối cùng, cậu cũng được phép đăng ký các phiên buổi tối và cuối tuần, cũng như viết các chương trình của riêng mình. https://thuviensach.vn McKenzie đã lo rằng ai đó có thể tố cáo anh đang vận hành một dạng trại hè, với những tên chíp hôi vừa đủ cao để cắm đầu vào bàn điều khiển TX 0, dán mắt vào mã nguồn mà một Người dùng được Cấp phép Chính thức, có thể là một học viên cao học ra vẻ ta đây nào đó, sẽ mổ cò vào chiếc Flexowriter, và nói bằng cái giọng ồm ồm, chưa trưởng thành những câu như: “Vấn đề của anh là cái này bị sai ở đây… anh cần câu lệnh này ở chỗ đó,” và chàng học viên cao học ra vẻ ta đây này sẽ phát điên – thằng oắt con này là ai thế? – rồi bắt đầu quát vào mặt thằng nhóc, bắt nó ra ngoài hoặc đi chỗ khác chơi. Dù vậy, hóa ra nhận xét của Peter Deutsch lúc nào cũng đúng. Cậu ta còn mặt dày tuyên bố rằng mình sẽ viết các chương trình tốt hơn những thứ hiện có và sẽ làm được điều đó. Samson, Kotok và các hacker khác đã chấp nhận Peter Deutsch: Với hiểu biết về máy tính như vậy, cậu xứng đáng được đối xử công bằng. Peter không hề thích những Người dùng được Cấp phép Chính thức, đặc biệt là khi ngồi sau họ và sẵn sàng thể hiện khi họ phạm lỗi trên chiếc Flexowriter. Những Người dùng được Cấp phép Chính thức này xuất hiện ở chiếc TX-0 một cách đều đặn. Các chương trình họ chạy là những phân tích xác suất, tương quan chéo, các mô phỏng của một phần bên trong nhân tế bào. Đó là các ứng dụng. Điều này hoàn toàn bình thường với họ nhưng có phần phí phạm theo cách nghĩ của các hacker. Các hacker nghĩ tới những thứ đằng sau bảng điều khiển của chiếc TX-0, gần giống như việc ra đằng sau họng máy bay. Hay như cách mà Peter Samson, một người đam mê nhạc cổ điển, nói thì tính toán với TX-0 giống như chơi một loại nhạc cụ: Loại nhạc cụ đắt đỏ đến mức ngớ ngẩn mà trên đó bạn có thể ứng biến, sáng tác và như những gã lập dị ở Quảng trường Harvard cách đó một dặm, than vãn như một vị thần hoàn toàn từ bỏ sự sáng tạo. Thứ cho phép họ làm việc này là hệ thống lập trình do Jack Dennis và một giáo sư khác, Tom Stockman, viết nên. Khi chiếc TX-0 đến MIT, nó đã bị tháo rời so với khi còn ở Phòng thí nghiệm Lincoln: Bộ nhớ bị giảm đáng https://thuviensach.vn kể, còn 4096 “từ”, mỗi từ 18 bit. (“bit” là một số nhị phân, gồm 1 hoặc 0. Các số nhị phân này là những thứ duy nhất máy tính có thể hiểu được. Một chuỗi các số nhị phân được gọi là một “từ”.) Và chiếc TX-0 hầu như không có phần mềm. Do đó, trước khi giới thiệu chiếc TX-0 với nhóm TMRC, Jack Dennis đã viết các “chương trình hệ thống” – phần mềm giúp người dùng sử dụng cỗ máy. Thứ đầu tiên mà Dennis tập trung hoàn thiện là một trình hợp ngữ, chuyên dịch ngôn ngữ hợp ngữ – vốn sử dụng các biểu tượng tắt gồm ba chữ cái tượng trưng các câu lệnh đối với máy tính – thành ngôn ngữ máy chỉ chứa các số nhị phân 0 và 1. Chiếc TX-0 có một ngôn ngữ hợp ngữ khá giới hạn: Do thiết kế của nó chỉ cho phép 2 bit của mỗi từ 18 bit được sử dụng cho các câu lệnh đối với máy tính, nên chỉ có 4 câu lệnh có thể được sử dụng (mỗi biến thể 2 bit khả dĩ – 00, 01, 10, 11 – tượng trưng cho một câu lệnh). Mọi thứ mà máy tính thực hiện đều có thể được tách thành việc thực thi của một trong bốn chỉ dẫn này: mất một chỉ dẫn để cộng hai số, nhưng cần một chuỗi 20 chỉ dẫn để nhân hai con số. Nhìn vào danh sách dài dằng dặc các câu lệnh máy tính được viết dưới dạng số nhị phân – ví dụ 10011001100001 – có thể khiến bạn líu lưỡi trong vài phút. Nhưng cùng câu lệnh đó trong hợp ngữ có thể trông như sau: ADD Y. Sau khi tải vào máy tính trình hợp ngữ mà Dennis viết, bạn có thể viết các chương trình dưới dạng biểu tượng đơn giản hơn này, và chờ đợi máy tính dịch nó thành mã nhị phân cho bạn. Sau đó, bạn có thể đưa mã “đối tượng” nhị phân đó trở lại máy tính. Giá trị của việc này là không thể tính toán được: Nó sẽ cho phép các lập trình viên viết ra những thứ trônggiống mật mã, thay vì một chuỗi vô tận, hoa mắt gồm các số 1 và 0. Chương trình khác mà Dennis đã làm việc cùng Stockman là thứ thậm chí còn mới hơn – trình sửa lỗi. Chiếc TX-0 đi kèm một trình sửa lỗi gọi là UT 3 cho phép bạn nói chuyện với máy tính trong khi nó đang chạy bằng cách gõ các câu lệnh vào chiếc Flexowriter. Nhưng chương trình này cũng gặp phải những vấn đề khủng khiếp – chẳng hạn như nó chỉ chấp nhận các mã https://thuviensach.vn nhập vào sử dụng hệ thống số bát phân. Hệ “bát phân” là một hệ cơ số 8 (khác với hệ nhị phân là cơ số 2 và hệ Ả-rập là cơ số 10), và nó là một hệ thống khó sử dụng. Do đó, Dennis và Stockman quyết định viết ra một thứ tốt hơn UT-3, cho phép người sử dụng dùng ngôn ngữ hợp ngữ dễ làm việc. Nó được gọi là FLIT, cho phép người sử dụng thực sự tìm được lỗi chương trình trong một phiên, sửa nó và giữ chương trình tiếp tục chạy. (Dennis giải thích rằng “FLIT” là từ viết tắt của Flexowriter Interrogation Tape – Băng Dò Flexowriter, nhưng rõ ràng nguồn gốc thực sự của cái tên này là một loại thuốc xịt côn trùng.) FLIT là một bước đột phá, do nó đã giải phóng cho các lập trình viên để họ có thể thực sự làm công việc sáng tạo trên máy tính – giống như những nhà soạn nhạc sáng tác trên nhạc cụ của họ. Với việc sử dụng trình sửa lỗi, chỉ chiếm một phần ba trong số 4096 từ của bộ nhớ TX-0, các hacker đã được tự do tạo ra một cách lập trình mới táo bạo hơn. Vậy các chương trình hacker này làm gì? Đôi khi việc họ làm gì không quan trọng. Peter Samson đã hack thâu đêm được một chương trình có thể chuyển đổi ngay lập tức các số Ả-rập thành các số La Mã, và Jack Dennis, sau khi ngưỡng mộ kỹ năng mà Samson đạt được, đã nói: “Lạy Chúa tôi, ai lại muốn làm việc đó chứ?” Nhưng Dennis biết lý do. Cảm giác về sức mạnh và thành tựu mà Samson đạt được khi anh đưa băng giấy, quan sát các bóng đèn và thiết bị chuyển mạch, rồi thấy thứ vừa mới chỉ là các con số Ả-rập giờ đã trở thành các số La Mã mà anh hack được thật khó tả. Quả thực, chính Jack Dennis là người gợi ý cho Samson rằng khả năng của chiếc TX-0 trong việc gửi nhiễu tới các loa phát thanh có nhiều công dụng đáng kể. Dù không có bảng điều khiển dựng sẵn cho cao độ, cường độ và đặc điểm tông, nhưng vẫn có một cách để điều khiển loa – âm thanh được phát ra phụ thuộc vào trạng thái của bit thứ 14 trong các từ 18 bit mà TX-0 có trong thanh ghi tích lũy của nó trong một micro giây. Âm thanh được bật tắt tùy vào việc bit 14 là 1 hay 0. Do đó, Samson chuẩn bị viết các chương https://thuviensach.vn trình để thay đổi các số nhị phân trong vị trí đó theo các cách khác nhau nhằm tạo ra các cao độ khác nhau. Vào thời điểm đó, chỉ một vài người ở nước Mỹ được trải nghiệm việc sử dụng máy tính để tạo ra bất kỳ loại âm nhạc nào, và các phương pháp mà họ sử dụng cần lượng tính toán khổng lồ trước khi cỗ máy có thể phát ra nổi một nốt nhạc. Samson, người tỏ ra thiếu kiên nhẫn với những người đã cảnh báo rằng anh đang làm một điều không thể, muốn có một chiếc máy tính chơi nhạc ngay lập tức. Vì thế, anh đã học cách điều khiển một bit trong thanh ghi tích lũy thành thạo tới mức có thể ra lệnh cho nó với sự ủy quyền của Charlie Parker trên chiếc saxophone. Trong một phiên bản mới hơn của trình biên dịch âm nhạc này, Samson đã thiết lập chương trình sao cho khi bạn mắc lỗi trong cú pháp lập trình, chiếc Flexowriter sẽ chuyển sang một đoạn ruy băng đỏ và in ra câu: “To err is human to forgive divine” (Nhân vô thập toàn). Khi những người ngoại đạo nghe thấy các giai điệu của Johann Sebastian Bach12trong một sóng vuông13 đơn âm, đơn giọng, không hòa âm, họ đều không hề bối rối. Ghê quá nhỉ! 3 triệu đô-la cho cỗ máy khổng lồ này mà nó không thể làm nổi như một chiếc piano đồ chơi sao? Chẳng có tác dụng gì khi giải thích cho những kẻ ngoại đạo này rằng Peter Samson gần như đã bỏ qua quá trình mà âm nhạc được tạo ra trong nhiều thiên niên kỷ. Âm nhạc luôn được sáng tạo trực tiếp bằng cách tạo ra các dao động âm thanh. Còn điều xảy ra trong chương trình của Samson là một chuỗi các con số, các bit thông tin được tải vào một chiếc máy tính, chứa mã mà âm thanh nằm trong đó. Bạn có thể dành hàng giờ nhìn chằm chằm vào mã nguồn mà không thể đoán được âm nhạc nằm ở đâu. Nó chỉ trở thành âm nhạc khi hàng triệu trao đổi dữ liệu ngắn diễn ra trong thanh ghi tích lũy nằm trên một trong những chiếc giá làm từ silicon dây dẫn và kim loại tạo thành chiếc TX-0. Samson đã yêu cầu máy tính, thứ rõ ràng không có kiến thức về cách sử dụng âm thanh, tự phát ra một bản nhạc và TX-0 đã biên dịch được. https://thuviensach.vn 12 Nhà soạn nhạc, nghệ sĩ organ, vĩ cầm, đại hồ cầm và đàn harpsichord người Đức thuộc thời kỳ Baroque (1600 – 1750). (ND) 13 Sóng có hai trị số cố định tuần tự trong khoảng thời gian bằng nhau. (BTV) Vì vậy, đó là một chương trình máy tính không chỉ soạn nhạc theo cách nói ẩn dụ – mà nó còn thực sự soạn nhạctheo nghĩa đen! Nó trông như – và thực sự – là cùng loại với chương trình đã thực hiện các tính toán số học cũng như các phân tích xác suất phức tạp. Các con số mà Samson đưa vào máy tính là thứ ngôn ngữ vạn năng có thể sản xuất ra bất kỳ thứ gì – một bản fuga14 của Bach hay một hệ thống phòng không. 14 Một thể nhạc có cấu trúc chặt chẽ, gồm nhiều bè viết theo phong cách và thủ pháp đối vị dựa trên nguyên tắc mô phỏng. (BTV) Samson đã không giải thích bất kỳ điều gì với những kẻ ngoại đạo không mấy ấn tượng với chiến công của mình. Chính các hacker cũng không thảo luận về việc này – thậm chí còn không rõ là họ có phân tích hiện tượng này bằng các thuật ngữ bao quát không. Peter Samson đã làm việc đó, và các đồng nghiệp trân trọng anh, bởi đó rõ ràng là một hack tuyệt vời. Biện minh như vậy là đủ. * * * Với các hacker như Bob Saunders – người có dấu hiệu hói đầu, dáng người mập mạp và là môn đệ vui vẻ của TX-0, hội trưởng của nhóm S&P ở TMRC, người nghiên cứu các hệ thống – thì đó là một sự tồn tại hoàn hảo. Saunders lớn lên ở vùng ngoại ô Chicago, và vẫn nhớ cách thức hoạt động của mạch điện thoại và mạch điện đã hấp dẫn anh ra sao. Trước khi theo học tại MIT, Saunders đã có một công việc mùa hè đáng mơ ước, làm việc cho một công ty điện thoại chuyên lắp đặt các thiết bị văn phòng trung tâm. Anh sẽ dành tám tiếng hạnh phúc với kìm và mỏ hàn trong tay, xử lý các hệ https://thuviensach.vn thống khác nhau, khung cảnh điền viên thơ mộng bị ngắt quãng bởi những giờ nghỉ trưa được dùng để nghiền ngẫm các cuốn sách hướng dẫn thao tác của công ty điện thoại. Chính thiết bị của công ty điện thoại bên dưới mô hình của TMRC đã thuyết phục Saunders trở thành thành viên tích cực. Saunders, với tư cách tiền bối, đã tiếp cận với TX-0 trên con đường học tập muộn hơn so với Kotok và Samson: Anh dùng thời gian nghỉ xả hơi để thực sự đặt nền móng cho một cuộc sống xã hội, bao gồm việc tìm hiểu và cuối cùng cưới Marge French, người đã thực hiện một số công trình máy tính phi hack cho một dự án nghiên cứu. Dẫu vậy, TX-0 vẫn là mối quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp học tập của anh và anh cũng có chung trải nghiệm bị điểm kém và trượt môn như các hacker khác. Điều đó không khiến Saunders quá phiền lòng bởi anh biết việc học hành thực sự chỉ diễn ra ở Phòng 240 của Tòa 26, phía sau bảng điều khiển Tixo. Nhiều năm sau, anh đã tự mô tả mình và những người khác là “một nhóm tinh hoa. Những người khác đã trốn học, dành thời gian trên các tòa nhà bốn tầng bốc hơi nước khó chịu hoặc trốn trong các phòng thí nghiệm vật lý ném đủ loại hạt vào mọi thứ hoặc bất kỳ thứ gì mà họ làm ra. Và chúng tôi chỉ đơn giản là không chú ý tới những gì mà người khác đang làm vì chúng tôi không quan tâm. Họ đang nghiên cứu thứ mà họ học còn chúng tôi nghiên cứu thứ mà chúng tôi học. Việc phần lớn những điều đó không nằm trong chương trình học được phê duyệt chính thức hoàn toàn không quan trọng.” Các hacker thường “hành tẩu” vào ban đêm. Đó là cách duy nhất để tận dụng tối đa “giờ nghỉ” của chiếc TX-0. Vào ban ngày, Saunders thường cố gắng có mặt trong một hoặc hai lớp học. Đôi khi anh cũng dành thời gian thực hiện một số việc “bảo trì cơ bản” như ăn uống và đi vệ sinh. Anh có thể gặp Marge một lúc. Nhưng sau đó, anh sẽ lại quay về Tòa 26. Anh chạy qua vài chương trình của đêm hôm trước, in nó ra tờ giấy 23x1,3 cm mà chiếc Flexowriter sử dụng. Anh sẽ chú thích và chỉnh sửa chương trình để cập nhật mã thành bất kỳ thứ gì mà anh coi là giai đoạn tiếp theo của công tác vận hành. Sau đó, Saunders sẽ tới TMRC và trao đổi chương trình của https://thuviensach.vn mình với ai đó, kiểm tra đồng thời các ý tưởng tốt và lỗi tiềm tàng. Rồi quay trở lại Tòa 26, tới Phòng Kluge bên cạnh chiếc TX-0 để tìm một chiếc Flexowriter ngoại tuyến nhằm cập nhật mã nguồn. Trong suốt thời gian đó, anh sẽ kiểm tra xem liệu có ai đó đã hủy phiên làm việc kéo dài một tiếng trên chiếc máy không; phiên làm việc của anh thường được xếp vào lúc hai hay ba giờ sáng gì đó. Anh sẽ chờ trong Phòng Kluge hoặc chơi bài ở TMRC trong khi chờ tới lượt. Ngồi tại bảng điều khiển, đối diện với các tủ kim loại đựng các bóng bán dẫn của máy tính, mỗi bóng bán dẫn đại diện cho một vị trí có giữ hoặc không giữ bộ nhớ, Saunders sẽ cài đặt chiếc Flexowriter và nó sẽ chào anh bằng từ “WALRUS”. Đây là thứ mà Samson đã hack để tôn vinh bài thơ của Lewis Carroll với câu “Giờ đã điểm, Walrus nói…”. Saunders có thể cười thầm khi đi tới ngăn kéo lấy băng giấy có chứa chương trình hợp ngữ và đưa nó vào đầu đọc. Giờ đây, chiếc máy tính đã sẵn sàng nhận chương trình của anh, nên anh sẽ lấy băng Flexowriter đang làm để gửi nó đến máy tính. Anh quan sát các bóng đèn khi máy tính chuyển mã từ “nguồn” (ngôn ngữ hợp ngữ biểu tượng) thành mã “đối tượng” (nhị phân) trong quá trình đục lỗ trên băng giấy. Do băng giấy đó là mã đối tượng mà TX-0 hiểu, nên anh sẽ nhập nó vào và hy vọng chương trình đó sẽ chạy một cách tuyệt vời. Nhiều khả năng sẽ có một vài hacker khác chầu rìa phía sau anh, cười cợt, làm trò, uống Coke và ăn thứ đồ ăn nhanh nào đó mà họ lấy được từ chiếc máy dưới tầng. Saunders thích cái nêm thạch chanh mà mọi người gọi là “lemon gunkies”. Nhưng vào lúc bốn giờ sáng thì cái gì cũng ngon. Tất cả bọn họ đều quan sát khi chương trình bắt đầu chạy, đèn bật sáng, âm thanh từ loa phát ra trên thanh ghi cao hay thấp tùy thuộc vào bit 14 trong thanh ghi tích lũy và thứ đầu tiên anh bắt gặp trên màn hình CRT sau khi chương trình được biên dịch và chạy là chương trình bị treo luôn. Vì thế, anh chạy lại ngăn kéo để lấy băng giấy với trình sửa lỗi FLIT và cho nó vào máy tính. Máy tính sau đó sẽ trở thành một máy sửa lỗi và anh sẽ lại gửi chương trình vào. Giờ đây, anh có thể lùng tìm ra vị trí lỗi và nếu may mắn, anh sẽ https://thuviensach.vn sửa được bằng cách thêm vào vài dòng lệnh, thay đổi vài thiết bị chuyển mạch trên bảng điều khiển theo một thứ tự chính xác, hoặc gõ vài mã trên chiếc Flexowriter. Khi mọi thứ vận hành suôn sẻ – và chúng ta luôn vô cùng thỏa mãn khi thứ gì đó hoạt động, khi anh khiến cho căn phòng đầy bóng bán dẫn, dây dẫn, kim loại và điện hòa trộn vào nhau để tạo ra một kết quả chính xác – anh sẽ cố bổ sung cải tiến tiếp theo cho nó. Khi hết thời gian – và ai đó đang nóng lòng chờ sử dụng máy sau anh – Saunders sẽ sẵn sàng dành vài giờ tiếp theo tìm hiểu xem cái quái gì đã khiến cho chương trình bị sập. Bản thân giờ cao điểm đã vô cùng căng thẳng, nhưng trong hàng giờ trước đó, và thậm chí là hàng giờ sau đó, một hacker luôn ở trạng thái tập trung hoàn toàn. Khi lập trình một chiếc máy tính, bạn phải biết nơi mà hàng nghìn bit thông tin đi từ câu lệnh này tới câu lệnh tiếp theo và có thể dự đoán – cũng như khai thác – hiệu ứng của tất cả các chuyển động đó. Khi đã nắm rõ những thông tin này, bạn sẽ có cảm giác như thể tâm trí mình đã hòa trộn vào môi trường hoặc máy tính. Đôi khi, bạn mất hàng giờ để đạt tới điểm mà tư duy của mình có thể hình dung toàn bộ bức tranh và sẽ thật xấu hổ nếu lãng phí nó. Vì thế, bạn cố gắng duy trì nó bằng việc nỗ lực liên tục, luân phiên làm việc trên máy tính hoặc nghiền ngẫm mã nguồn mà bạn viết trên một trong những máy Flexowriter ngoại tuyến trong Phòng Kluge. Bạn sẽ duy trì sự tập trung đó bằng cách “lấn” sang cả ngày hôm sau. Rõ ràng, khung tâm trí đó sẽ khó tránh khỏi việc xuất hiện những kiến thức ngẫu nhiên tồn tại bên ngoài lĩnh vực điện toán. Nhóm dao-và-cọ-vẽ ở TMRC hoàn toàn không hài lòng với sự gia nhập của những người nghiện Tixo: Họ coi đó là một dạng ngựa Trojan15trongviệc chuyển trọng tâm của Câu lạc bộ, từ mô hình tàu sang điện toán. Và nếu tham dự một trong những buổi họp Câu lạc bộ diễn ra lúc 5 giờ 15 phút chiều thứ Ba hằng tuần, bạn có thể thấy được sự quan ngại: Các hacker sẽ lợi dụng mọi luồng thủ tục pháp lý để tạo ra một buổi họp rối rắm như các chương trình mà họ đang hack trên chiếc TX-0. Động thái được tạo ra để tạo ra động thái, từ đó https://thuviensach.vn tạo ra động thái tiếp, và sự phản đối bị loại bỏ như thể chúng là các lỗi máy tính. Một ghi chú trong biên bản họp ngày 24 tháng 11 năm 1959 đã chỉ rằng: “Chúng tôi thấy khó chịu với một số thành viên nhất định đang làm rất nhiều việc tốt bằng cách làm thêm S&P và ít đọc Robert’s Rules of Order (tạm dịch: Quy tắc về Trật tự của Robert).” Samson là một trong những người phạm lỗi nghiêm trọng nhất, và đã có lúc một thành viên TMRC cáu tiết quát lên: “Hãy mua một cái nút bần để chẹn miệng Samson lại”. 15 Chương trình gián điệp được cài vào để ăn cắp thông tin người dùng. (BTV) Hack thủ tục pháp lý là một chuyện nhưng khung tư duy logic đòi hỏi việc lập trình phải liên quan tới các hoạt động tầm thường hơn. Bạn có thể đặt câu hỏi cho một hacker và cảm nhận thanh ghi tích lũy trí tuệ của anh ta xử lý các bit cho tới khi có được câu trả lời chính xác cho câu hỏi của bạn. Marge Saunders sẽ lái chiếc Volkswagen đến Safeway vào mỗi sáng thứ Bảy và khi trở lại, cô sẽ hỏi chồng: “Anh có muốn mang đồ vào giúp em không?” Bob Saunders sẽ trả lời: “Không”. Quá choáng váng, Marge đã tự kéo đồ vào. Sau vài lần như thế, cô nổi cáu, xả một tràng nguyền rủa anh và đòi biết lý do tại sao anh từ chối giúp cô. “Đó là một câu hỏi ngớ ngẩn,” anh nói. “Tất nhiên anh không muốn giúp em mang đồ vào. Nếu em bảo anh làm thì anh sẽ giúp em nhưng đó là một vấn đề khác.” Việc đó cứ như thể Marge đã đệ trình một chương trình vào chiếc TX-0 và chương trình đó, giống như các chương trình vẫn làm khi cú pháp không phù hợp, đã bị treo. Phải đến khi cô sửa lỗi câu hỏi của mình thì Bob Saunders mới cho phép nó chạy thành công trên “máy tính” trí tuệ trong đầu anh. https://thuviensach.vn Chương 2 ĐẠO ĐỨC HACKER Có thứ gì đó mới mẻ đang hợp lại quanh chiếc TX-0: Đó là lối sống mới với một triết lý, một đạo đức và một giấc mơ. Các hacker TX-0 chợt hiểu ra rằng bằng cách dồn mọi khả năng kỹ thuật điện toán của bản thân với sự sùng bái hiếm thấy bên ngoài các tu viện, họ sẽ là những người tiên phong về sự cộng sinh táo bạo giữa người và máy. Với tinh thần hăng hái giống như những thanh niên lái xe độ gắn bó với các động cơ độ, họ coi môi trường độc nhất xung quanh là điều tất nhiên. Ngay cả khi các phần tử của một văn hóa mới đang dần hình thành, các huyền thoại bắt đầu được sinh ra, và khả năng họ làm chủ việc lập trình đã bắt đầu vượt qua bất kỳ cấp độ kỹ năng nào được biết đến trước đó, khoảng một tá hacker vẫn miễn cưỡng công nhận rằng xã hội tí hon của họ, trong phạm vi quen thuộc là chiếc TX-0, đang dần tập hợp lại với nhau quanh một khung ý tưởng, niềm tin và tập tục. Các giới luật của Đạo đức Hacker mang tính cách mạng này không được tranh luận và thảo luận nhiều mà chủ yếu được chấp thuận một cách âm thầm. Không có tuyên ngôn nào được đưa ra. Không có nhà truyền giáo nào cố gắng tập hợp những người muốn cải đạo. Máy tính đã thực hiện việc cải đạo, và dường như những người tuân theo Đạo đức Hacker một cách chính xác nhất là những người như Samson, Saunders và Kotok. Đó là những người có cuộc sống trước khi đến MIT có vẻ đơn thuần là khúc dạo đầu cho khoảnh khắc họ được thỏa mãn bản thân khi đứng sau bảng điều khiển của chiếc TX-0. Sau đó, sẽ có những hacker ngầm chấp nhận Đạo đức này một cách nghiêm túc hơn những gì mà các hacker TX-0 đã làm, như huyền thoại Greenblatt hay Gosper, dù vẫn còn vài năm nữa mới tới https://thuviensach.vn thời điểm các nguyên tắc của chủ nghĩa hacker được vạch ra một cách tường minh. Dù vậy, ngay cả trong thời của TX-0 thì các cương lĩnh của tuyên ngôn hacker cũng đã hình thành. Đó là Đạo đức Hacker: Việc truy cập máy tính – và bất kỳ thứ gì có thể dạy bạn đôi điều về cách thức vận hành của thế giới – cần phải vô hạn và toàn diện. Trên hết, nó luôn đi liền với Nhu cầu Thực hành! Cộng đồng hacker tin tưởng rằng họ có thể học được các bài học thiết yếu về hệ thống – về thế giới – bằng cách tháo tung mọi thứ, xem cách chúng hoạt động, và sử dụng kiến thức này để tạo ra những thứ thậm chí còn mới mẻ và thú vị hơn. Họ bực tức với bất kỳ ai, bất kỳ rào cản vật chất hay luật lệ nào ngăn cản họ làm vậy. Điều này đặc biệt đúng khi một hacker muốn sửa chữa thứ gì đó (mà theo quan điểm của anh ta là) đang hỏng hóc hoặc cần cải tiến. Các hệ thống kém hoàn chỉnh khiến các hacker phát điên khi bản năng của họ là mong muốn sửa chữa chúng. Đây là lý do tại sao các hacker thường ghét lái xe – hệ thống đèn đỏ được lập trình ngẫu nhiên và được lắp đặt một cách kỳ lạ trên các con phố một chiều dẫn tới sự cản trở không cần thiết tới mức thôi thúc họ sắp xếp lại hệ thống biển chỉ dẫn, mở tung các hộp điều khiển đèn giao thông… và thiết kế lại toàn bộ. Trong thế giới hacker hoàn hảo, bất kỳ ai đủ kiên nhẫn mở chiếc hộp điều khiển gần cột đèn giao thông, tháo nó ra để chỉnh sửa và làm cho nó hoạt động tốt hơn thì đều nên được ủng hộ để họ có thể thực hiện nỗ lực đó. Các luật lệ ngăn cản bạn xử lý những vấn đề như thế thật lố bịch. Thực tế này đã giúp TMRC ra mắt, dựa trên cơ sở vô cùng thoải mái, cái gọi là Ban Trưng dụng lúc Nửa đêm. Khi TMRC cần một bộ đi-ốt hoặc vài rơ-le để chế tạo một đặc tính nào đó cho Hệ thống thì một vài thành viên S&P sẽ chờ tới khi trời tối và tìm cách tới nơi cất trữ những thứ này. Không có https://thuviensach.vn hacker nào, những người cực kỳ trung thực trong các vấn đề khác, có vẻ đánh đồng hành động này với việc “ăn trộm”. Đó quả là một sự mù quáng có chủ đích. Mọi thông tin đều nên miễn phí. Nếu bạn không có quyền truy cập vào những thông tin cần thiết để cải tiến mọi thứ, thì làm sao bạn có thể sửa chữa chúng? Một sự trao đổi thông tin miễn phí, nhất là khi thông tin đó nằm dưới dạng một chương trình máy tính, sẽ tạo ra tổng thể sáng tạo lớn hơn. Khi làm việc với một cỗ máy như TX-0, thứ vốn gần như không đi kèm với phần mềm nào cả, mọi người sẽ đổ xô đi viết các chương trình hệ thống nhằm giúp công việc lập trình trở nên dễ dàng hơn – Công cụ để Tạo ra Công cụ, được giữ trong ngăn kéo bên cạnh bàn điều khiển để mọi người đều có thể truy cập. Việc này đã giúp ngăn chặn những hành động tốn công vô ích, lãng phí thời gian và đáng sợ: Thay vì để mọi người tự viết riêng từng phiên bản của cùng một chương trình thì chúng ta hãy cùng tạo ra một phiên bản tốt nhất dành cho tất cả mọi người, và ai cũng được thoải mái xem xét mã nguồn và cải tiến nó. Một thế giới đầy rẫy những chương trình đầy đủ tính năng, tối giản nhất và được gỡ lỗi tới mức hoàn hảo. Niềm tin, đôi khi được tiếp nhận một cách vô điều kiện, cho rằng thông tin nên được miễn phí là một chỉ báo cho thấy một cỗ máy vi tính hay một chương trình hoàn hảo, hoạt động tốt với các bit nhị phân di chuyển theo đường dẫn logic và trực tiếp nhất để thực hiện công việc phức tạp của nó. Máy tính là gì nếu không phải là thứ được hưởng lợi từ một dòng chảy tự do của thông tin? Giả sử, thanh ghi tích lũy phát hiện ra rằng bản thân nó không thể lấy được thông tin từ các thiết bị đầu ra/đầu vào (I/O) như bộ đọc băng giấy hay các thiết bị chuyển mạch thì toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ. Theo quan điểm của hacker, mọi hệ thống đều có thể hưởng lợi từ dòng chảy dễ dàng đó của thông tin. Quyền hồ nghi – Thúc đẩy sự phi tập trung hóa. https://thuviensach.vn Cách tốt nhất để thúc đẩy tự do trao đổi thông tin là phải có một hệ thống mở, nơi không có giới hạn giữa hacker và thông tin hoặc trang thiết bị mà anh ta cần để tìm kiếm tri thức, sự tiến bộ và thời gian trực tuyến. Thứ cuối cùng mà bạn cần là sự quan liêu. Các hệ thống quan liêu, bất kể là ở tập đoàn, chính phủ hay trường đại học, đều là các hệ thống lỗi, nguy hiểm nằm ở chỗ chúng không tạo điều kiện cho tinh thần khám phá của các hacker đích thực. Những kẻ quan liêu ẩn nấp sau các luật lệ độc đoán (tương phản với những thuật toán logic mà các cỗ máy và chương trình máy tính vận hành): Họ viện dẫn các luật lệ này để củng cố quyền lực, và coi tinh thần xây dựng của các hacker là một mối nguy hại. Hình ảnh thu nhỏ của thế giới quan liêu ấy đã được phát hiện tại một công ty rất lớn có tên là IBM. Những chiếc máy tính của họ được coi như là những cỗ máy tính khổng lồ xử lý theo lô một phần là do công nghệ ống chân không. Lý do thực sự là IBM là một gã khổng lồ, vụng về và không hiểu tinh thần hacker. Nếu IBM thành công (các hacker TMRC cũng nghĩ vậy), thì cả thế giới sẽ xử lý theo lô, phụ thuộc vào các tấm thẻ đục lỗ phiền phức, và chỉ những tu sĩ có đặc quyền cao nhất mới được phép tương tác thực sự với máy tính. Tất cả những gì bạn cần làm là quan sát ai đó trong thế giới IBM, chú ý tới chiếc áo sơ mi cài cúc, cà vạt đen chỉnh tề, tóc tai gọn gàng và khay thẻ đục lỗ trên tay. Bạn có thể đi lại trong Trung tâm Máy tính, nơi đặt chiếc 704, 709 và sau này là 7090 – cỗ máy tốt nhất mà IBM từng cung cấp – để thấy sự ngăn nắp đến ngột ngạt, rồi tới các khu vực được niêm phong mà những người không có thẩm quyền sẽ không được phép bước vào. Để rồi bạn có thể so sánh điều đó với không khí rất thoải mái xung quanh chiếc TX-0, nơi dành cho những bộ quần áo xuề xòa và là chốn ra vào của bất kỳ ai. Giờ đây, IBM đã và sẽ tiếp tục làm nhiều việc để thúc đẩy ngành điện toán. Do quy mô và tầm ảnh hưởng to lớn, nó đã khiến máy tính trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống ở Mỹ. Với nhiều người, “IBM” và https://thuviensach.vn “máy tính” là các từ đồng nghĩa. Máy tính của IBM như những chú ngựa thồ đáng tin cậy, đáng để các doanh nhân và nhà khoa học đầu tư vào. Việc này một phần là do cách tiếp cận bảo thủ của công ty: Nó không làm ra các cỗ máy tiên tiến nhất về mặt công nghệ, nhưng sẽ dựa vào các khái niệm đã được chứng minh cùng cách marketing cẩn thận và tích cực. Khi sự thống trị của IBM trong lĩnh vực máy tính được thiết lập, công ty sẽ một tay gây dựng cơ đồ, đầy bí mật và tự mãn. Điều thực sự khiến các hacker phát điên là thái độ của các tu sĩ cấp cao và tu sĩ cấp thấp của IBM, những người cho rằng chỉ IBM mới có máy tính “thực thụ”, còn tất cả những thứ khác chỉ là rác rưởi. Bạn không thể nói chuyện với những người này – bạn không thể thuyết phục họ. Họ là những người xử lý theo lô, và điều này không chỉ thể hiện trong sở thích của họ về máy móc, mà còn trong những ý tưởng về cách thức vận hành của một trung tâm máy tính hay thế giới. Những người này không bao giờ có thể hiểu được sự ưu việt rõ ràng của một hệ thống phi tập trung không có thứ bậc – một hệ thống nơi mọi người có thể theo đuổi các mối quan tâm của họ, và nếu trong quá trình đó, họ phát hiện ra lỗi trong hệ thống, họ có thể lao vào xem xét đầy tham vọng. Không cần phải làm phiếu yêu cầu. Chỉ cần hoàn thành công việc là đủ. Khuynh hướng phi quan liêu này hoàn toàn trùng khớp với tính cách của nhiều hacker, những người từ thuở thơ ấu đã lớn lên cùng việc xây dựng các dự án khoa học, trong khi phần lớn các bạn cùng lớp đang học hỏi các kỹ năng xã hội trên sân thể thao. Những thanh niên từng bị xã hội ruồng bỏ này đã phát hiện ra máy tính là một sự cân bằng tuyệt vời, họ đã được trải nghiệm cảm giác mà theo Peter Samson, “giống như bạn mở cánh cửa ra và bước vào một vũ trụ hoàn toàn mới…” Một khi đã vượt qua cánh cửa đó và ngồi vào sau bàn điều khiển của một cỗ máy trị giá hàng triệu đô-la, các hacker này thực sự có quyền lực. Do đó, việc ngờ vực bất kỳ động lực nào cố gắng hạn chế sự phát triển của quyền lực đó là lẽ tất yếu. https://thuviensach.vn Hacker nên được đánh giá qua khả năng hack của họ thay vì các tiêu chí viển vông như bằng cấp, tuổi tác, chủng tộc hay vị trí. Việc sẵn sàng chấp nhận Peter Deutsch mới 12 tuổi vào cộng đồng TX-0 là một ví dụ điển hình. Tương tự, những kẻ thích phô trương văn bằng có vẻ ấn tượng sẽ không được nghiêm túc chấp nhận cho tới khi tự chứng minh được bản thân trên bàn điều khiển của một chiếc máy tính. Điểm tài năng này chưa chắc đã bén rễ từ những đức tính tốt cố hữu của các hacker – chủ yếu là do họ ít quan tâm tới các đặc điểm bên ngoài hơn tiềm năng trong việc cải tiến tình trạng chung của hoạt động hack, tạo ra các chương trình mới đáng ngưỡng mộ hay nói chuyện về tính năng mới trong hệ thống. Bạn có thể tạo ra cái đẹp và nghệ thuật trên một chiếc máy tính Chương trình âm nhạc của Samson là một ví dụ. Nhưng với các hacker, tính nghệ thuật của chương trình không nằm ở những âm thanh dễ chịu phát ra từ một chiếc loa trực tuyến. Mã chương trình tiềm ẩn vẻ đẹp của riêng nó. (Dù vậy, Samson đã thực sự giấu giếm việc từ chối thêm chú thích cho mã nguồn của mình để giải thích những gì anh làm tại một thời điểm nhất định. Một chương trình được phân phối rộng rãi mà Samson viết có hàng trăm dòng lệnh hợp ngữ mà chỉ có một chú thích bên cạnh một câu lệnh chứa con số 1750. Chú thích đó là RIP JSB và mọi người đã nghĩ nát óc về ý nghĩa của nó cho tới khi có người phát hiện ra rằng 1750 là năm mất của Bach và Samson đã viết tắt câu Rest In Peace Johann Sebastian Bach – Chúc yên nghỉ Johann Sebastian Bach.) Mỹ học trong phong cách lập trình đã xuất hiện. Do dung lượng bộ nhớ giới hạn của chiếc TX-0 (một bất lợi của tất cả các máy tính thời kỳ này), nên các hacker rất trân trọng kỹ thuật sáng tạo cho phép các chương trình thực hiện những tác vụ phức tạp với rất ít dòng lệnh. Chương trình càng ngắn thì càng có chỗ cho các chương trình khác, và nó càng chạy nhanh hơn. Đôi lúc, khi không cần nhiều tốc độ hay không gian, không nghĩ về nghệ thuật và cái đẹp, bạn sẽ cùng hack một chương trình xấu xí, tấn công https://thuviensach.vn vấn đề bằng các phương pháp “vét cạn”. “Ừ thì chúng ta có thể làm việc này bằng cách cộng 20 con số lại với nhau,” Samson có thể tự nhủ, “và sẽ nhanh hơn nếu viết các câu lệnh để làm việc đó thay vì nghĩ ra một vòng lặp ngay từ đầu và hoàn thành công việc đó trong bảy hay tám dòng lệnh.” Nhưng chương trình thứ hai sẽ được các hacker khác ngưỡng mộ hơn và có một vài chương trình bị cắt tới dòng cuối cùng một cách nghệ thuật tới mức bạn bè của tác giả chương trình ấy sẽ quan sát nó và thầm kính nể. Đôi khi việc cắt xén chương trình trở nên cạnh tranh và trở thành một cuộc thi để ai đó chứng tỏ quyền chỉ huy hệ thống của mình khi có thể nhận ra vài cách làm tắt sáng tạo nhằm cắt bỏ một hai dòng lệnh hay tốt hơn là tư duy lại toàn bộ vấn đề và tạo ra một thuật toán mới giúp tiết kiệm cả khối lệnh. (Thuật toán là một thủ tục cụ thể mà một người có thể áp dụng để giải một bài toán phức tạp trên máy tính; giống như một chiếc chìa khóa vạn năng dưới dạng thuật toán.) Điều này có thể được thực hiện bằng cách tiếp cận vấn đề từ một góc độ khác mà chưa ai từng nghĩ tới, nhưng khi hồi tưởng lại thì tất cả đều rất hợp lý. Chắc hẳn đã có một xung lực đậm chất nghệ thuật nằm trong những người có thể tận dụng kỹ thuật thiên-tài-đến từ-sao-Hỏa này – một thứ ma lực đen, có tầm nhìn cho phép họ bỏ qua lối mòn cũ rích của những bộ óc vĩ đại nhất Trái đất và đưa ra một thuật toán mới đầy bất ngờ. Điều này đã xảy ra với chương trình in số thập phân thông thường. Đây là chương trình con – một chương trình nằm trong một chương trình khác mà đôi khi bạn có thể tích hợp vào nhiều chương trình khác nhau – để dịch các số nhị phân mà máy tính cung cấp thành các số thập phân thông thường. Theo cách nói của Saunders, vấn đề này trở thành “con tốt của lập trình – nếu có thể viết một chương trình in số thập phân hiệu quả, tức là bạn đã có đủ kiến thức máy tính để tự xưng là lập trình viên.” Nếu bạn viết một chương trình con in số thập phân rất tốt, bạn có thể tự xưng là hacker. Hơn cả một cuộc thi, việc cắt giảm đến cùng của chương trình con in số thập phân đã trở thành một dạng Chén Thánh đối với các hacker. https://thuviensach.vn Nhiều phiên bản khác nhau của các chương trình con in số thập phân đã xuất hiện trong vài tháng. Nếu bạn giả vờ ngây ngô hay giả làm một gã khờ chính chống – một “kẻ thất bại” toàn tập – bạn sẽ cần tới 100 dòng lệnh để máy tính có thể chuyển đổi ngôn ngữ máy sang số thập phân. Nhưng bất kỳ hacker thực thụ nào cũng có thể cần ít câu lệnh hơn, và cuối cùng, bằng cách tận dụng những thứ tốt nhất của chương trình, cắt giảm câu lệnh ở những chỗ khác nhau, chương trình con này đã được rút gọn chỉ còn khoảng 50 câu lệnh. Sau đó, mọi chuyện trở nên nghiêm túc. Mọi người sẽ làm việc trong hàng giờ liền, tìm cách thực thi công việc đó với ít câu lệnh hơn. Nó đã trở thành một cuộc đua – một cuộc săn lùng. Với tất cả nỗ lực đã bỏ ra, dường như không ai có thể vượt qua rào cản 50 dòng. Câu hỏi đặt ra là liệu việc cắt giảm có khả dĩ không. Liệu có một điểm mà ở đó, một chương trình không thể bị cắt giảm thêm nữa? Trong số những người đang vật lộn với tình thế tiến thoái lưỡng nan này có một người tên là Jensen, một hacker với dáng người cao ráo và ít nói đến từ Maine, người sẽ ngồi yên lặng trong Phòng Kluge và viết nguệch ngoạc các dữ liệu in ra với thái độ bình tĩnh của một người từng sống ở rừng đang đốn củi. Jensen luôn tìm cách nén chương trình của mình về mặt thời gian và không gian – mã nguồn của anh là một chuỗi rất kỳ lạ các hàm số học và Boolean16trộn lẫn với nhau, thường dẫn tới một vài tính toán khác xảy ra trong những khu vực khác nhau của cùng một “từ” 18 bit. Đây quả là những điều đáng kinh ngạc và là những nỗ lực tuyệt vời. 16 Một kiểu dữ liệu chỉ có hai giá trị duy nhất: đúng và sai. (ND) Trước Jensen, người ta vẫn cho rằng thuật toán logic duy nhất cho một chương trình con in số thập phân sẽ khiến máy tính lặp lại các phép tính trừ, sử dụng một bảng gồm các bội số của 10 để giữ các con số trong các cột số thích hợp. Bằng cách nào đó, Jensen đã phát hiện ra rằng bảng bội số-của-10 không cần thiết; anh đã tạo ra một thuật toán có thể chuyển đổi https://thuviensach.vn các con số theo thứ tự đảo ngược, nhưng bằng một mánh khóe nào đó, lại có thể in chúng ra theo thứ tự chính xác. Có một sự điều chỉnh toán học phức tạp chỉ rõ ràng với các hacker khác khi họ thấy chương trình của Jensen được đăng trên một bản tin, để nói với họ rằng chương trình in số thập phân của ông đã đạt được giới hạn của nó. 46 câu lệnh. Mọi người sẽ há hốc mồm khi dán mắt vào mã nguồn ấy. Marge Saunders nhớ lại rằng các hacker đã im lặng đến bất thường vài ngày sau đó. “Chúng tôi biết rằng mọi việc đã kết thúc,” Bob Saunders sau này nói lại. “Đó chính là Niết Bàn.” Máy tính có thể khiến cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn Niềm tin này là một điều hiển nhiên tế nhị. Hacker hiếm khi cố gắng áp đặt quan điểm của mình về lợi ích vô tận của máy tính vào một người ngoại đạo. Dù vậy, tiền đề này vẫn chi phối các hành vi hằng ngày của những hacker TX-0 cũng như các thế hệ hacker sau. Hẳn là máy tính đã làm thay đổi cuộc sống của họ, khiến nó trở nên phong phú hơn, đem lại sự tập trung và mang tới nhiều cuộc phiêu lưu hơn. Nó đã biến họ trở thành những bậc thầy của một đoạn đường đời. Sau này, Peter Samson nói rằng: “25-30% những gì chúng tôi làm đều có chủ đích bởi đó là những gì chúng tôi có thể làm và làm tốt, và 60% là để có được “những đứa con” theo lối nói ẩn dụ, sẽ tự làm mọi việc khi chúng tôi đã hoàn thành. Đó là điều tuyệt vời của lập trình, sự hấp dẫn kỳ diệu mà nó mang lại… Một khi bạn đã sửa đổi vấn đề hành vi [một chương trình hay một chiếc máy tính] thì nó sẽ được sửa đổi mãi mãi, và nó chính xác là hình ảnh bạn muốn hình dung.” Giống như cây đèn thần của Aladdin, bạn có thể khiến nó thực hiện mệnh lệnh của mình. https://thuviensach.vn Chắc hẳn mọi người đều có thể hưởng lợi từ trải nghiệm quyền lực này. Chắc hẳn mọi người đều có thể hưởng lợi từ một thế giới dựa trên Đạo đức Hacker. Đây là đức tin ngầm định của các hacker và họ đã mở rộng quan điểm thường quy về việc máy tính có thể làm gì và nên làm gì – dẫn dắt thế giới đến với một cách thức mới về việc nhìn nhận và tương tác với máy tính. Thực hiện việc này chẳng dễ dàng gì. Ngay tại học viện tiên tiến như MIT, một vài giáo sư cũng coi sự hấp dẫn bất thường với máy tính là phù phiếm và thậm chí là mất trí. Hacker của TMRC, Bob Wagner, đã phải giải thích với một giáo sư công nghệ rằng máy tính là gì. Wagner thậm chí đã trải qua cuộc đụng độ giữa phe máy tính và phản máy tính một cách sống động hơn khi tham gia một lớp Phân tích Số học mà ở đó, giáo sư yêu cầu mỗi sinh viên làm bài tập về nhà bằng những chiếc máy tính cơ điện lạch cà lạch cạch. Kotok cũng ở lớp đó và cả hai đã vô cùng kinh hoàng trước viễn cảnh làm việc với những cỗ máy công nghệ lạc hậu này. Họ tự hỏi: “Tại sao chúng ta phải làm vậy trong khi đã có chiếc máy tính điện toán này chứ?” Do đó, Wagner bắt đầu tập trung vào chương trình điện toán mô phỏng hành vi của máy tính. Ý tưởng này khá kỳ quặc. Với một số người thì đây là hành động biển thủ thời gian quý báu của cỗ máy. Theo tư duy tiêu chuẩn về máy tính, thời gian của chúng quý báu tới mức chúng ta chỉ nên cố gắng tận dụng tối đa lợi thế của nó, những việc mà nếu không có máy tính sẽ khiến các nhà toán học tiêu tốn nhiều ngày để thực hiện các tính toán vô nghĩa. Hacker thì nghĩ khác: Bất kỳ thứ gì có vẻ thú vị hoặc vui vẻ đều là cảm hứng cho điện toán máy tính – và bằng cách sử dụng những máy tính điện toán tương tác, không có ai đứng nhìn sau lưng và đòi hỏi giấy phép cho dự án cụ thể của bạn, thì bạn có thể hành động dựa trên niềm tin đó. Sau hai hoặc ba tháng vật lộn với sự rắc rối của các tính toán dấu phẩy động (rất cần để cho phép chương trình biết cách đặt dấu thập phân ở chỗ nào) trên một cỗ máy không hề có phương pháp đơn giản nào để thực hiện phép nhân sơ đẳng, Wagner đã viết 3.000 dòng lệnh để thực hiện công https://thuviensach.vn việc đó. Anh đã khiến cỗ máy tính đắt đỏ đến lố bịch thực hiện chức năng của một chiếc máy tính giản đơn có giá chỉ bằng một phần nghìn. Để vinh danh sự trớ trêu này, anh gọi chương trình đó là “Chiếc máy tính Để bàn Đắt đỏ” và tự hào làm bài tập về nhà trên đó. Anh nhận được điểm 0. “Vì cậu đã sử dụng máy tính điện toán!” vị giáo sư cho biết. “Điều này không thể chấp nhận được.” Wagner chẳng buồn giải thích. Làm sao anh có thể nói với thầy rằng máy tính điện toán đã tạo ra những thực tại từ những thứ từng là các khả năng lạ thường? Hay rằng một hacker khác thậm chí đã viết một chương trình gọi là “Chiếc máy chữ Đắt đỏ” để biến chiếc TX-0 thành thứ mà bạn có thể gõ và xử lý văn bản của bạn thành chuỗi các ký tự và in ra trên máy Flexowriter – bạn có thể tưởng tượng nổi một giáo sư sẽ chấp nhận bài làm được viết bằng một chiếc máy tính điện toán không? Làm sao vị giáo sư này – hay ai đó chưa từng đắm mình vào vũ trụ người-máy chưa được thám hiểm này – có thể hiểu được Wagner và các hacker đồng nghiệp của anh luôn sử dụng máy tính điện toán để tái tạo thứ mà theo Wagner là “các tình huống kỳ lạ mà ta chắc chắn không thể mường tượng khác được” bằng cách nào? Vị giáo sư đó, cũng như tất cả mọi người, cuối cùng sẽ hiểu ra rằng thế giới sắp được máy tính điện toán mở ra là một thế giới vô hạn. Nếu có người cần bằng chứng xác thực hơn, bạn có thể nhắc tới dự án mà Kotok đã nghiên cứu trong Trung tâm Máy tính hoặc chương trình đánh cờ mà vị giáo sư AI râu xoăn, “bác” John McCarthy, đã khởi tạo trên chiếc IBM 704 khi anh bắt đầu có tiếng tăm trong giới sinh viên hacker. Dù Kotok và một vài hacker đồng hành cùng anh trong quá trình xây dựng chương trình rất coi thường năng lực xử lý theo lô của IBM, nhưng họ vẫn xoay xở để xin vài giờ sử dụng nó vào tối muộn. Kotok và các bạn đã cùng với các lập trình viên hệ thống trên chiếc 704 “đua” xem nhóm nào sử dụng máy trong thời gian nhiều hơn. Vị trí dẫn đầu được luân phiên thay đổi, và nhóm sơ-mi-trắng-cà-vạt-đen đã gây được ấn tượng đủ để thực sự cho phép https://thuviensach.vn Kotok và nhóm chạm vào các nút bấm, khởi động chiếc 704: Đây là sự tiếp xúc hiếm hoi với con quái vật được ca tụng của IBM. Vai trò của Kotok trong việc đưa chương trình đánh cờ vào cuộc sống là minh chứng cho thấy vai trò của hacker trong AI: một Tư tưởng Lớn như McCarthy hoặc đồng nghiệp của anh, Marvin Minsky, sẽ bắt đầu một dự án hay lớn tiếng khẳng định liệu điều gì đó có khả dĩ hay không, và các hacker quan tâm sẽ bắt tay thực hiện nó. Chương trình chơi cờ đã bắt đầu sử dụng FORTRAN, một trong những ngôn ngữ lập trình thời kỳ đầu. Các ngôn ngữ máy tính trông giống tiếng Anh hơn hợp ngữ, dễ viết hơn, và làm được nhiều việc hơn với ít câu lệnh hơn; tuy nhiên, mỗi khi một câu lệnh được đưa ra dưới dạng ngôn ngữ máy tính như FORTRAN, đầu tiên nó sẽ phải dịch câu lệnh đó thành ngôn ngữ nhị phân của riêng nó. Một chương trình có tên “trình biên dịch” sẽ làm việc này và đòi hỏi phải mất thời gian xử lý, cũng như tiêu tốn bộ nhớ quý giá trong máy tính. Hệ quả là, việc sử dụng ngôn ngữ máy tính sẽ khiến bạn rời xa khỏi việc tương tác trực tiếp với nó, và các hacker nhìn chung đều thích hợp ngữ, hay như cách họ gọi là ngôn ngữ “máy” hơn so với các ngôn ngữ “bậc cao” như FORTRAN. Dù vậy, Kotok đã nhận ra rằng do máy tính phải xử lý một lượng lớn các con số trong chương trình cờ vua, nên một phần của chương trình sẽ phải được thực hiện bằng FORTRAN và một phần bằng hợp ngữ. Họ đã hack từng phần chương trình bằng “các hàm tạo nước đi”, các cấu trúc dữ liệu cơ bản, và tất cả các thuật toán sáng tạo dùng trong chiến thuật. Sau khi cung cấp cho máy tính các quy tắc di chuyển cho mỗi loại quân cờ, họ cho nó một vài tham số để ước tính tình thế của nó, cân nhắc một vài nước đi, và thực hiện nước đi mang lại cho nó nhiều lợi thế nhất. Kotok đã gắn bó với công việc này nhiều năm trời, và chương trình tiếp tục phát triển khi MIT nâng cấp các máy tính IBM của mình. Vào một đêm đáng nhớ, vài hacker đã tụ tập để xem chương trình thực hiện vài nước đi đầu tiên trong một ván https://thuviensach.vn đấu thực sự. Phần khai cuộc của máy tính khá tốt, nhưng sau khoảng tám nước đi, đã có một vấn đề thực sự nảy sinh khi máy tính sắp bị chiếu hết. Mọi người đều tự hỏi máy tính sẽ phản ứng như thế nào. Một lúc sau, (mọi người đều biết rằng trong suốt khoảng dừng đó, máy tính đang thực sự “tư duy”, nếu cách nghĩ của bạn về tư duy bao gồm việc cân nhắc vài nước đi một cách máy móc, ước lượng chúng, bỏ qua hầu hết lựa chọn và sử dụng một tập các tham số định trước để đưa ra lựa chọn cuối cùng), máy tính di chuyển một con tốt tiến lên hai ô, phạm luật khi nhảy qua một quân cờ khác. Đây là một lỗi chương trình! Nhưng là một lỗi thông minh khi nó giúp máy tính không bị chiếu. Có lẽ, chương trình này đã tìm ra một thuật toán mới nào đó để chinh phục bộ môn cờ vua. Ở những trường đại học khác, các giáo sư đang đưa ra tuyên bố công khai rằng máy tính không bao giờ có thể chiến thắng con người trong môn cờ vua. Nhưng các hacker là người hiểu rõ điều này hơn ai hết. Họ sẽ là những người hướng dẫn máy tính đi tới các đỉnh cao vĩ đại mà con người có thể trông đợi. Và hacker, qua các liên kết đầy ý nghĩa và tốt đẹp với máy tính, sẽ trở thành những người thụ hưởng đầu tiên. Nhưng họ không phải là những người thụ hưởng duy nhất. Tất cả mọi người đều có thể thu được thứ gì đó bằng cách sử dụng các máy tính tư duy trong một thế giới tự động hóa về mặt trí tuệ. Và chẳng phải thậm chí mọi người còn được hưởng lợi nhiều hơn khi tiếp cận thế giới với mức độ tò mò và chủ nghĩa hoài nghi tương tự như đối với tính quan liêu, cởi mở với sáng tạo, không ích kỷ khi chia sẻ thành tựu, sự háo hức muốn thực hiện cải tiến và khát khao xây dựng như những người ủng hộ Đạo đức Hacker hay sao? Bằng cách chấp nhận những người khác trên cùng cơ sở khách quan mà ở đó, máy tính chấp nhận bất kỳ ai đưa mã nguồn vào một chiếc Flexowriter ư? Chẳng phải chúng ta sẽ được hưởng lợi nếu học hỏi từ máy tính cách thức tạo ra một hệ thống hoàn hảo, và cạnh tranh vì sự hoàn hảo đó trong một hệ thống nhân văn? Nếu tất cả mọi người đều có thể tương tác với máy tính bằng sự trong sáng, năng suất và thôi thúc sáng tạo như các hacker thì https://thuviensach.vn Đạo đức Hacker có thể được lan tỏa trong cả xã hội như gợn sóng của lòng nhân từ, và khi đó máy tính quả thực sẽ thay đổi thế giới theo hướng tốt hơn. Trong các ranh giới tu viện của MIT, mọi người được tự do sống với giấc mơ này – giấc mơ hacker. Không ai dám mơ tưởng tới việc giấc mơ này có thể lan tỏa. Thay vào đó, mọi người bắt đầu xây dựng ngay một “cõi Niết bàn” dành cho hacker ngay tại MIT, để nó có thể trở thành nơi có một không hai. https://thuviensach.vn Chương 3 CHIẾN TRANH KHÔNG GIAN Vào mùa hè năm 1961, Alan Kotok và các hacker TMRC khác biết được rằng một công ty mới sắp sửa cung cấp hoàn toàn miễn phí cho MIT “cỗ máy của tương lai” trong lĩnh vực điện toán, thứ sẽ đưa các nguyên tắc tương tác của TX-0 ngày càng hiệu quả hơn. Cỗ máy này thậm chí còn được cho là hiệu quả hơn cho các hacker so với chiếc TX-0. Đó là chiếc PDP-1, cỗ máy sẽ làm thay đổi lĩnh vực điện toán mãi mãi. Nó sẽ khiến giấc mơ của các hacker vốn vẫn đang mơ hồ bỗng trở nên gần với thực tế hơn một chút. Alan Kotok tự nhận mình là thiên tài TX-0 đích thực, tới mức anh cùng Saunders, Samson Wagner và một số người khác đã được Jack Dennis thuê để thành lập Nhóm Lập trình Hệ thống của TX-0. Mức thù lao cho họ cũng khá hào phóng: 1,6 đô-la/giờ. Với vài hacker, công việc này cho họ thêm lý do để trốn học – một số hacker như Samson sẽ không bao giờ tốt nghiệp, và họ cũng quá bận rộn với việc hack tới mức chẳng còn thời gian để hối tiếc về thanh xuân đã qua. Dù vậy, Kotok không chỉ có khả năng xoay xở hết các môn học mà anh còn tự khẳng định bản thân như một hacker “hợp chuẩn”. Nhờ TX-0 và TMRC, anh đã đạt đến đẳng cấp huyền thoại trong làng hacker. Một hacker mới tới MIT năm đó nhớ lại lúc Kotok giới thiệu cách thức hoạt động của chiếc TX-0 trước các thành viên mới: “Tôi cứ nghĩ anh ta bị cường giáp hay sao đó,” Bill Gosper, người sau này cũng trở thành một hacker hợp chuẩn, nhớ lại, “vì anh ta nói rất chậm, thân hình mũm mĩm và đôi mắt lim dim. Đó là ấn tượng hoàn toàn sai lầm. [Nhờ TX 0] Kotok có một thứ quyền lực đạo đức17 vô hạn. Anh đã viết chương trình chơi cờ vua. Anh am hiểu phần cứng.” (Ý cuối cùng này không phải là một https://thuviensach.vn lời khen ngợi đơn thuần – “am hiểu phần cứng” đồng nghĩa với việc nắm được Đạo của thế giới vật chất.) 17 Quyền lực đạo đức là sức mạnh trong lời nói và hành động dựa trên quy tắc và niềm tin đạo đức hay những sự thật hiển nhiên. (BTV) Vào mùa hè khi tin đồn về PDP-1 lan ra, Kotok đang làm việc cho Western Electric, một công việc đáng mơ ước, vì trong tất cả các hệ thống có khả năng vận hành, hệ thống điện thoại luôn được ngưỡng mộ nhất. TMRC thường xuyên tham gia các chuyến tham quan trao đổi với công ty điện thoại, giống như cách mà những người quan tâm đến hội họa ghé thăm bảo tàng vậy. Kotok thấy việc công ty điện thoại vốn đã phát triển lớn mạnh trong hàng thập kỷ chỉ có vài kỹ sư có hiểu biết rộng về các mối quan hệ qua lại trong hệ thống đó quả là một điều thú vị. Dù vậy, các kỹ sư luôn sẵn sàng cung cấp chi tiết các chức năng cụ thể của hệ thống, như công tắc ngang và rơ-le bước; còn Kotok cùng những người khác sẽ ràođón các chuyên gia này để tìm kiếm thông tin. Các vị kỹ sư được tâng bốc này có lẽ không hề biết rằng những cậu sinh viên vô cùng lịch sự kia sẽ thực sự sử dụng thông tin hỏi được nên họ cũng sẵn sàng giải đáp thắc mắc. Khi tham gia các chuyến tham quan này, Kotok đề ra mục tiêu đọc mọi tài liệu kỹ thuật mà anh có thể tìm thấy, và xem liệu anh có thể thu được gì khi quay các con số khác nhau trên một hệ thống điện thoại phức tạp và ít được biết đến ở MIT. Đó là một khám phá cơ bản, giống như khám phá những ngóc ngách phía sau chiếc TX-0. Trong suốt mùa đông năm 1960-1961, các hacker TMRC đã tham gia một cuộc “lần dấu mạng điện thoại” đầy phức tạp, vẽ đồ thị tất cả những nơi có thể tới được trong hệ thống đường dây của MIT. Dù không được kết nối tới các đường điện thoại chung, nhưng hệ thống này có thể dẫn bạn tới Phòng thí nghiệm Lincoln, từ đó dẫn tới các nhà thầu quân sự trên toàn quốc. Vấn đề nằm ở việc lập bản đồ và kiểm thử. Bạn sẽ bắt đầu với một mã truy cập, thêm các con số khác nhau vào đó, xem ai sẽ trả lời, hỏi người đó xem họ ở đâu, rồi quay trở lại con số ban https://thuviensach.vn đầu và thêm các số vào đó để chuyển sang vị trí tiếp theo. Đôi khi, bạn thậm chí có thể tới được các đường dây ở vùng ngoại ô nhờ một công ty điện thoại đáng tin cậy. Và, như Kotok sau này thú nhận: “Nếu có lỗi thiết kế trong hệ thống điện thoại khiến ai đó nhận được các cuộc gọi không chủ đích thì khả năng là tôi có liên quan, nhưng đó là vấn đề của họ, không phải của tôi.” Dù vậy, động cơ của việc này là khám phá chứ không phải gian lận, nó cũng được coi như một cách xấu xa để lợi dụng bất hợp pháp các kết nối kỳ lạ này. Đôi khi, người ngoại đạo không thể hiểu nổi điều này. Chẳng hạn, những người bạn không phải là hacker ở cùng phòng với Samson trong khu ký túc Burton Hall nghĩ rằng việc khai thác các lỗi hệ thống mà không viện lý do khám phá cũng chẳng có vấn đề gì. Sau khi bị gây sức ép nhiều ngày, cuối cùng Samson đã đầu hàng và trao cho họ một số có 20 chữ số mà anh nói rằng có thể truy cập tới một địa chỉ ở nước ngoài. “Các cậu có thể quay số này từ điện thoại hành lang,” anh nói với họ, “nhưng tôi không muốn dính líu tới việc này.” Khi họ bắt đầu quay số một cách đầy lo lắng, Samson đi tới một chiếc điện thoại ở tầng dưới và nó bắt đầu đổ chuông khi anh vừa tới. “Đây là Lầu Năm góc,” anh nói bằng giọng trịnh trọng nhất có thể. “Xin hãy cung cấp mã bảo mật của bạn?” Từ chiếc điện thoại trên tầng, Samson nghe thấy những tiếng thở đầy sợ hãi và tiếng dập máy. Lần dấu mạng rõ ràng là cuộc truy tìm dành riêng cho các hacker, những người khao khát thấu hiểu hệ thống đã chiến thắng nỗi sợ phải gánh chịu hình phạt nặng nề. Nhưng rồi triển vọng về chiếc PDP-1 (Programmed Data Processor – Bộ xử lý Dữ liệu Lập trình được, một khái niệm được coi là ít đe dọa hơn so với “máy tính điện toán”, vốn bao hàm tất cả các loại máy khổng lồ) cũng “hớp hồn” Kotok hệt như cái cách mà công ty điện thoại hấp dẫn anh. Có lẽ anh cũng cảm nhận được rằng rồi đây, chẳng thứ gì, kể cả việc hack điện thoại, sẽ còn như cũ. Các nhà thiết kế và quảng bá chiếc máy mới này https://thuviensach.vn không phải là những gã quần áo chỉnh tề làm việc ở các công ty máy tính thông thường mà họ thuộc một hãng công nghệ hoàn toàn mới: Tập đoàn Thiết bị Số – Digital Equipment Corporation (DEC), và một số người dùng TX-0 biết rằng những sản phẩm đầu tiên của DEC là các giao diện đặc biệt được đặt riêng cho TX-0. Thật thú vị khi một số sáng lập viên của DEC có cách nhìn về điện toán khác với tư duy xử lý theo lô của IBM; và thật ngoạn mục khi người của DEC có vẻ đã nghiên cứu phong cách tự do, tương tác, ứng biến và coi thực hành là trên hết của cộng đồng TX-0, để rồi thiết kế một chiếc máy tính có thể củng cố kiểu hành vi đó. Chiếc PDP-1 sẽ trở thành chiếc máy tính cá nhân đầu tiên, được thiết kế không chỉ để các tác vụ “nghiền nát” các con số khổng lồ, mà còn cho các nghiên cứu khoa học, công thức toán học và hack. Nó có kết cấu gọn nhẹ, chỉ to chưa bằng ba chiếc tủ lạnh, không cần nhiều máy điều hòa không khí đi kèm, và thậm chí, bạn có thể bật nó lên mà không cần cả nhóm tu sĩ khởi động vài bộ cấp điện theo đúng thứ tự hay khởi động bộ phát thời gian cùng nhiều tác vụ khác. Giá bán lẻ của nó cũng rất thấp – chỉ 120.000 đô-la – đủ rẻ để người ta thôi phàn nàn về sự quý giá của từng giây phút sử dụng nó. Nhưng cỗ máy này, chiếc PDP-1 thứ hai được sản xuất (chiếc thứ nhất được bán cho một hãng khoa học gần đó của Bolt Beranek and Newman, hay BBN), lại chẳng khiến MIT phải mất xu nào: nó được DEC tặng cho phòng thí nghiệm RLE. Rõ ràng là các hacker sẽ có nhiều thời gian với nó hơn với chiếc TX-0. Chiếc PDP-1 sẽ được chuyển tới cùng một bộ phần mềm hệ thống đơn giản mà các hacker coi là không đầy đủ hoàn toàn. Các hacker TX-0 đã được trang bị phần mềm tương tác tiên tiến nhất ở mọi nơi, một bộ chương trình hệ thống đáng kinh ngạc, được viết bởi chính các hacker và được ngầm điều chỉnh để đáp ứng các nhu cầu thường xuyên của họ trong việc điều khiển cỗ máy. Peter Deutsch, cậu bé đã phát hiện ra chiếc TX-0 hồi mới 12 tuổi, đã giữ đúng lời hứa viết một trình hợp ngữ đẹp mắt, và Bob Saunders đã nghiên cứu một phiên bản nhỏ hơn nhưng nhanh hơn của trình gỡ lỗi https://thuviensach.vn FLIT gọi là Micro-FLIT. Các chương trình này được hưởng lợi từ một bộ câu lệnh mở rộng. Một ngày nọ, sau khi được Saunders và Jack Dennis lập kế hoạch và thiết kế, chiếc TX-0 được tắt đi, và một nhóm kỹ sư đã mở các bộ phận bên trong, rồi bắt đầu cài cứng các câu lệnh mới vào cỗ máy. Tác vụ khó khăn này đã mở rộng ngôn ngữ hợp ngữ bằng vài câu lệnh. Khi các kỹ sư xong việc, chiếc máy được cẩn thận bật lên, mọi người lao vào cải tiến chương trình và cắt giảm các chương trình cũ bằng các câu lệnh mới này. Kotok thấy rằng tập lệnh PDP-1 không quá khác biệt với tập lệnh TX-0 mở rộng nên theo cách tự nhiên, anh đã dành hầu hết thời gian rảnh trong mùa hè năm đó để bắt đầu viết các phần mềm hệ thống cho PDP-1. Nhận ra rằng mọi người sẽ lao vào bắt đầu viết chương trình ngay khi có cỗ máy, anh đã nghiên cứu một trình biên dịch của trình gỡ lỗi Micro-FLIT sao cho việc viết phần mềm cho máy “Một” trở nên dễ dàng hơn. Samson ngay lập tức đặt tên cho trình gỡ lỗi của Kotok là “DDT” và cái tên này vẫn được giữ nguyên, dù bản thân chương trình sau nàyđã được các hacker chỉnh sửa vô số lần khi muốn bổ sung tính năng hoặc cắt gọt câu lệnh cho nó. Kotok không phải là người duy nhất chuẩn bị cho sự ra mắt của PDP-1. Giống một nhóm đa dạng các cặp vợ chồng sắp sửa làm cha mẹ, các hacker khác cũng bận rộn chuẩn bị các phần mềm như cha mẹ chuẩn bị chăn gối, quần áo cho đứa con sắp chào đời, do đó người thừa kế được báo trước cho chiếc ngai vàng điện toán chắc chắn sẽ được chào đón ngay khi xuất hiện vào cuối tháng Chín. Các hacker đã chung tay chuyển PDP-1 tới ngôi nhà mới, Phòng Kluge, bên cạnh phòng đặt chiếc TX-0. Nó quả là một tuyệt phẩm: Ngồi sau bàn điều khiển ngắn chỉ bằng một nửa so với bàn của Tixo, bạn sẽ nhìn thấy một tấm ghép gồm các công tắc bật tắt và đèn báo; bên cạnh đó là màn hình hiển thị được đặt trong chiếc hộp lục giác màu xanh nhạt; đằng sau nó là các tủ cao có kích thước như một chiếc tủ lạnh nhưng sâu gấp ba lần với https://thuviensach.vn dây dẫn, bảng điện, thiết bị chuyển mạch và bóng bán dẫn – tất nhiên, không ai được phép bước vào đó. Có một chiếc Flexowriter được kết nối để nhập liệu trực tuyến (mọi người phàn nàn về tiếng ồn nhiều tới mức chiếc Flexowriter cuối cùng đã được thay thế bằng một chiếc máy đánh chữ mà IBM hiệu chỉnh nhưng không tốt bằng), và một bộ đọc băng giấy tốc độ cao cũng dùng để nhập liệu. Tóm lại, đây đích thực là một tuyệt tác đồ chơi. Jack Dennis thích một số phần mềm mà BBN viết cho nguyên mẫu PDP-1, đặc biệt là trình hợp ngữ. Dù vậy, Kotok vẫn cảm thấy phát ớn khi chứng kiến trình hợp ngữ này chạy – chế độ vận hành của nó có vẻ không khớp với phong cách làm tắt18 mà anh thích – nên anh cùng một vài người khác nói với Dennis rằng họ muốn tự viết một trình hợp ngữ riêng. “Đó là một ý tưởng tồi,” Dennis nói, ai lại muốn một trình hợp ngữ khởi động và chạy ngay lập tức, rồi phát hiện ra rằng việc đó sẽ tiêu tốn hàng tuần làm việc của các hacker. 18 Từ gốc “on-the-fly”: ý chỉ cách làm gộp nhiều bước để thao tác cho nhanh gọn. (ND) Kotok và những người khác rất cương quyết. Đây là chương trình mà họ sẽ đồng hành cùng nó. Nó cần phải hoàn hảo. (Tất nhiên, chẳng có chương trình nào là hoàn hảo cả, nhưng điều đó không bao giờ ngăn cản được một hacker.) “Để em nói thầy nghe,” Kotok, chàng trai thiên tài 20 tuổi có vóc dáng bệ vệ này đã nói với Jack Dennis luôn hoài nghi nhưng đồng cảm, “Nếu chúng em viết xong chương trình này vào cuối tuần và nó chạy tốt thì ai sẽ trả tiền cho thời gian mà chúng em đã phải bỏ ra?” Thời đó, mức giá bình dân cho một công việc như vậy không vượt quá 500 đô-la. “Nghe có vẻ hợp lý đấy,” Dennis nói. https://thuviensach.vn Kotok, Samson, Saunders, Wagner và vài người khác bắt đầu công việc vào một đêm muộn thứ Sáu của tháng Chín. Họ quyết định sẽ bắt đầu từ trình hợp ngữ TX-0 mà Dennis đã viết lúc đầu và sau này được Peter Deutsch 12 tuổi cải tiến. Họ sẽ không thay đổi các đầu vào hay đầu ra, và không thiết kế lại các thuật toán; mỗi hacker sẽ chọn một phần của chương trình TX-0 và chuyển đổi nó thành mã PDP-1. Họ đã làm việc thâu đêm suốt sáng. Sáu hacker với khoảng 250 giờ làm việc vào cuối tuần đó, đã viết code, gỡ lỗi và gọi hàng đống đồ ăn Trung Quốc cùng vô vàn các chai Coca-Cola từ Câu lạc bộ TMRC. Sáng thứ Hai, khi Jack Dennis tới, ông đã kinh ngạc thấy trình hợp ngữ được tải vào chiếc PDP-1 và đang trình diễn việc tổng hợp mã nguồn của riêng nó thành mã nhị phân. Chỉ mất vỏn vẹn mấy ngày cuối tuần, các hacker PDP-1 đã hoàn thiện một chương trình vốn phải khiến ngành công nghiệp máy tính mất nhiều tuần, thậm chí là nhiều tháng thực hiện. Đó là một dự án mà ngành công nghiệp máy tính có lẽ sẽ không thể thực hiện nếu không trải qua quy trình chán ngắt gồm việc gửi yêu cầu, nghiên cứu, hội họp, do dự và có thể không bao giờ được thực hiện, mà nếu được thực hiện đi chăng nữa thì chắc hẳn sẽ không thể thiếu những thỏa hiệp. Dự án này là chiến thắng của Đạo đức Hacker. Các hacker thậm chí còn được truy cập cỗ máy mới này nhiều hơn so với TX-0 trước kia, và hầu hết mọi người đều chuyển sang hoạt động ở Phòng Kluge. Một vài người vẫn ngoan cố bám trụ với Tixo; và đối với các hacker PDP-1 thì đây là nơi họ làm vài trò tếu táo cho vui. Ví dụ, lúc đó, các hacker PDP-1 đã phát triển một phần minh họa nhỏ dựa vào thuật nhớ của tập lệnh trên chiếc máy mới mạnh mẽ này, bao gồm cả những câu lệnh kỳ lạ như DAC (Deposit Accumulator – Thanh ghi tích lũy Đặt cọc), LIO (Load Input-Output – Tải Đầu vào-Đầu ra), DPY (Deplay), và JMP. Nhóm PDP-1 sẽ xếp hàng và đồng thanh hô to: LAC, https://thuviensach.vn DAC, DIPPYDAP, LIO, DIO NHẢY! Khi đồng thanh hô to từ cuối cùng – “Nhảy!” – họ sẽ cùng nhảy sang phải. Thứ còn thiếu trong vũ đạo này đã được bù đắp bởi sự nhiệt tình: Họ đã được vẻ đẹp của cỗ máy và vẻ đẹp của những chiếc máy tính tiếp thêm năng lượng. Sự nhiệt tình ấy còn được thể hiện rõ trong các phiên lập trình tự phát hơn trên chiếc PDP-1, từ các chương trình hệ thống quan trọng tới các chương trình điều khiển cánh tay rô-bốt nguyên thủy tới các hack kỳ dị. Một trong số hack kỳ quái này đã tận dụng lợi thế của kết nối đã bị hack giữa chiếc PDP-1 và TX-0 – một dây dẫn mà qua đó thông tin có thể được truyền đi từng bit một giữa hai chiếc máy. Theo Samson, các hacker đã gọi nhà tiên phong đáng kính trong lĩnh vực AI, John McCarthy, đến ngồi cạnh chiếc PDP-1. “Giáo sư McCarthy, hãy xem chương trình đánh cờ mới của chúng em đi!” Và họ gọi một giáo sư khác đến ngồi cạnh chiếc TX-0. “Đây là một chương trình cờ vua, mời thầy đi một nước!” Sau khi McCarthy đi nước đầu tiên, động thái này sẽ xuất hiện trên máy Flexowriter của chiếc TX-0, các hacker đã nói với vị giáo sư còn lại rằng ông vừa chứng kiến nước khai cuộc của chiếc TX-0. “Bây giờ, hãy đi nước của thầy!” Sau một vài nước đi, McCarthy nhận thấy máy tính đã cho ra các nước đi theo từng chữ cái một, đôi khi kèm theo chút ngập ngừng khả nghi. Vì thế McCarthy đã lần theo sợi dây để tìm đến đối thủ bằng xương bằng thịt của mình. Các hacker ôm bụng cười. Nhưng không lâu sau đó, họ đã nghiêm túc cho ra các chương trình đánh cờ dành cho máy tính. https://thuviensach.vn Chiếc PDP-1 cho phép các hacker được thỏa sức lập trình. Một cách ngẫu nhiên, Samson đã hack những thứ như lịch của người Maya (vốn được vận hành theo hệ cơ số 20) và làm ngoài giờ trên một phiên bản của chương trình chơi nhạc TX-0 có sử dụng khả năng âm thanh mở rộng của PDP-1 để tạo ra âm nhạc theo ba giọng – các bản fuga ba phần của Bach, tương tác các giai điệu với nhau… âm nhạc máy tính đã tuôn ra từ Phòng Kluge cũ rích! Những người ở DEC đã nghe về chương trình của Samson và đề nghị anh hoàn thiện nó trên chiếc PDP-1, nên cuối cùng, Samson đã phát triển nó sao cho khi ai đó có thể nhập một bản nhạc phổ vào máy bằng cách dịch các nốt nhạc thành các chữ cái và con số, thì máy tính sẽ phát ra một bản xô-nát ba âm sắc cho đàn organ. Một nhóm khác đã lập trình các bản ô-pê ret của Gilbert và Sullivan. Samson tự hào giới thiệu trình soạn nhạc với DEC để phân phối tới bất kỳ ai muốn có nó. Anh tự hào khi những người khác sử dụng chương trình của mình. Nhóm phát triển trình hợp ngữ mới cũng cảm thấy như vậy. Chẳng hạn, họ rất hài lòng khi để băng giấy chứa chương trình trong ngăn kéo để bất kỳ ai sử dụng máy tính đều có thể tiếp cận, cải tiến, cắt giảm một vài dòng lệnh hay thêm một tính năng cho nó. Họ cảm thấy vinh dự khi DEC đề nghị cung cấp chương trình cho những người sở hữu khác của chiếc PDP-1. Họ chưa bao giờ nhắc đến vấn đề tiền bản quyền. Đối với Samson và những người khác, sử dụng máy tính là một niềm vui mà họ sẽ phải trả tiền để có được, nên việc được trả 1,6 đô-la thù lao hào phóng cho mỗi giờ làm việc trên máy tính đã là một phần thưởng đối với họ. Về tiền bản quyền, chẳng phải phần mềm giống như một món quà tặng cho thế giới sao? Ý tưởng ở đây là khiến máy tính trở nên hữu dụng hơn, thú vị hơn đối với người dùng, hay khiến nó hấp dẫn tới mức mọi người sẽ bị cuốn vào chơi đùa với nó, khám phá nó và cuối cùng là hack nó. Viết một chương trình tốt đồng nghĩa với việc bạn đang xây dựng một cộng đồng, chứ không phải là khuấy tung một sản phẩm. https://thuviensach.vn Dù sao thì mọi người không nên phải trả tiền để sử dụng phần mềm – thông tin nên được cung cấp miễn phí! • • • • • • • • Các hacker ở TMRC không phải là những người duy nhất nghĩ ra các kế hoạch cho chiếc PDP-1 mới. Vào mùa hè năm 1961, một kế hoạch hack phức tạp chưa từng thấy – màn trình diễn ảo cho thứ có thể được coi là kết quả của việc ứng dụng nghiêm ngặt Đạo đức Hacker – đã được thảo ra. Các cuộc thảo luận diễn ra tại một chung cư trên Phố Higham thuộc Cambridge, và các thành viên tham gia là ba lập trình viên lưu động khoảng 25 tuổi đã làm việc tại các trung tâm điện toán khác nhau trong suốt nhiều năm. Hai trong số ba người sống trong một căn hộ tập thể, vì vậy để vinh danh những tuyên bố long trọng xuất phát từ Đại học Harvard gần đó, bộ ba này đã gọi đùa tòa nhà này là Học viện Higham. Một trong những thành viên của tổ chức tự phát này là Steve Russell, người có biệt danh Slug (Ốc sên) không biết từ đâu mà ra. Anh có kiểu nói chuyện không kịp thở, liến thoắng như sóc rất phổ biến trong giới hacker, với cặp kính dày, chiều cao khiêm tốn, cuồng máy tính và những bộ phim khoa học giả tưởng giật gân. Ba sở thích này cũng là mối quan tâm chung của những người tham dự các phiên thảo luận sôi sục trên phố Higham. Russell từ lâu đã là một “cu-li” (theo cách nói của TMRC) của “bác” John McCarthy. McCarthy đã cố gắng thiết kế và triển khai một ngôn ngữ bậc cao hơn cần thiết cho nghiên cứu AI. Ông tưởng đã tìm thấy điều đó ở LISP. Ngôn ngữ này được đặt tên theo phương pháp của nó là Xử lý Danh sách (List Processing); bằng các câu lệnh đơn giản nhưng mạnh mẽ, LISP có thể làm được nhiều điều với một vài dòng mã; nó cũng có thể thực hiện các đệ quy mạnh mẽ – phương pháp tự tham chiếu tới chính nó – cho phép các chương trình viết theo ngôn ngữ này có thể thực sự “học” từ những gì đã xảy ra khi chương trình chạy. Vấn đề với LISP vào thời điểm đó là nó chiếm quá nhiều dung lượng trên máy tính, chạy rất chậm và sinh ra một https://thuviensach.vn lượng mã bổ sung khi chương trình chạy lớn tới mức cần một chương trình “thu gom rác” dành riêng cho nó để định kỳ dọn dẹp bộ nhớ máy tính. Russell đã giúp “bác” John McCarthy viết một trình phiên dịch LISP cho Gã Khổng lồ Xanh IBM 704. Theo anh, đây là “công việc mang tính kỹ thuật khủng khiếp”, hầu hết là do quá trình xử lý theo lô tẻ nhạt của chiếc 704. So với cỗ máy đó, chiếc PDP-1 có vẻ là Miền đất Hứa đối với Slug Russell, khi nó vừa dễ tiếp cận hơn chiếc TX-0 vừa không xử lý theo lô. Dù có vẻ không đủ lớn để chạy LISP, nhưng nó vẫn có những khả năng kỳ diệu khác, một vài trong số đó còn là đề tài thảo luận tại Học viện Higham. Thứ đặc biệt hấp dẫn Russell cùng những người bạn là triển vọng tạo ra một dạng “hack hiển thị” phức tạp nào đó trên chiếc PDP-1 sử dụng màn hình CRT. Sau bài diễn thuyết to tát lúc nửa đêm, Học viện Higham gồm ba người đã tự đặt ra kỷ lục khi nhấn mạnh rằng thứ minh họa hiệu quả nhất cho sự kỳ diệu của máy tính chính là một trò chơi hấp dẫn về mặt hình ảnh. Các hacker đã thực hiện vài nỗ lực trên chiếc TX-0. Một trong số đó là hack trò chơi Mouse in the Maze (Chuột trong Mê cung) – đầu tiên, người sử dụng sẽ xây dựng một mê cung bằng bút sáng và một đốm sáng trên màn hình tượng trưng cho một chú chuột sẽ tìm đường có chủ đích qua mê cung để đến với một nhóm đốm sáng khác có hình miếng pho-mát. Trò chơi này cũng có cả “phiên bản VIP mà ở đó, chú chuột sẽ tìm kiếm các ly martini. Chú chuột không ngừng tìm kiếm các ly rượu cho tới khi cạn kiệt năng lượng và say mèm đến mức không uống được nữa. Dù vậy, khi bạn nhấn công tắc để chú chuột chạy qua mê cung lần thứ hai, nó sẽ “nhớ” đường tới cái ly giống như một người hay la cà quán rượu không do dự lao vào các cuộc nhậu. Đó là những màn hack hiển thị chạy được trên TX-0 tới thời điểm đó. Nhưng lúc này trên chiếc PDP-1, với màn hình dễ lập trình hơn của TX-0, đã có một vài hack hiển thị đáng kể. Nỗ lực đáng ngưỡng mộ nhất thuộc về https://thuviensach.vn một trong hai bậc thầy của AI tại MIT, Marvin Minsky (người kia tất nhiên là McCarthy). Minsky là người hướng ngoại hơn người bạn thiên tài AI của mình, và sẵn sàng hack hơn. Ông sở hữu những ý tưởng lớn lao về tương lai của điện toán với niềm tin rằng một ngày nào đó máy móc có thể tư duy, và thường xuyên gây ra những náo động lớn khi công khai gọi não người là “cỗ máy bằng thịt”, ám chỉ rằng những cỗ máy vô tri khác cũng sẽ làm tốt như vậy trong tương lai không xa. Là kiểu người tinh nghịch với đôi mắt lấp lánh sau cặp kính dày, cái đầu hói bóng loáng và chiếc áo len cổ rùa thường gặp, Minsky sẽ nói điều này với phong cách ráo hoảnh thường thấy, sao cho vừa tối đa hóa sự khiêu khích vừa chỉ để lại một chút ít manh mối rằng đó chẳng qua chỉ là một sự ngu ngốc có tổ chức nào đó – tất nhiên là máy tính không thể tư duy rồi, he he. Minsky là một thiên tài thực sự; các hacker PDP-1 thường tham gia khóa học Giới thiệu về AI 6544 của ông, không chỉ vì Minsky là một nhà lý thuyết tài ba mà còn vì ông rất am hiểu lĩnh vực của mình. Đầu những năm 1960, Minsky đã bắt đầu tổ chức thứ sau này sẽ trở thành Phòng Thí nghiệm AI đầu tiên trên thế giới; và ông biết để làm được điều mình muốn, ông cần những thiên tài lập trình phục vụ dưới trướng – vì thế, ông luôn khuyến khích chủ nghĩa hacker theo bất kỳ cách nào có thể. Một trong những đóng góp của Minsky đối với tiêu chuẩn hack thú vị chính là một chương trình hiển thị trên PDP-1 có tên là Thuật toán Vòng. Thực ra, ông đã tình cờ phát hiện ra thuật toán này. Trong khi cố gắng cắt bớt một câu lệnh trong một chương trình ngắn để biến các đường thẳng thành đường cong hoặc xoắn ốc, Minsky đã tình cờ lấy một chữ “Y” thay vì “Y phẩy”, và thay vì hiển thị đường lượn sóng thành các đường xoắn ốc lộn xộn như kỳ vọng, nó lại vẽ một đường tròn: Khám phá lạ thường đó sau này được coi là có hàm ý toán học sâu sắc. Hacking thêm nữa, Minsky sử dụng Thuật toán Vòng làm điểm ngoặt cho một hiển thị phức tạp hơn mà ở đó ba phần tử ảnh hưởng lẫn nhau sẽ tạo thành các mẫu hình uốn lượn hấp dẫn trên màn hình, tự tạo thành những bông hồng với số lượng lá khác nhau. “Sức ảnh hưởng mà các phần tử tác động lẫn nhau vô cùng kỳ lạ,” https://thuviensach.vn Bob Wagner nhớ lại. “Bạn đang mô phỏng một điều trái với quy luật tự nhiên!” Minsky gọi việc hack này là chương trình Tri-Pos: Hiển thị Ba Điểm,” nhưng các hacker đã đổi tên nó một cách trìu mến thành Minskytron. Điều này đã truyền cảm hứng cho Slug Russell. Trong các phiên làm việc tại Học viện Higham vài tháng trước, anh cùng các bạn đã thảo luận về tiêu chí hack hiển thị cơ bản. Là những người hâm mộ thứ khoa học viễn tưởng rác rưởi, đặc biệt là các tiểu thuyết không gian của E.E. “Tiến sĩ” Smith, bằng cách nào đó, họ cho rằng PDP-1 sẽ là cỗ máy hoàn hảo để tạo ra một tổ hợp phim cấp độ B và một món đồ chơi trị giá 120.000 đô-la. Một trò chơi mà hai người có thể đối đầu nhau trong trận đấu cuối cùng ở ngoài không gian. Nhóm Nghiên cứu về Chiến tranh Không gian của Học viện Higham đã được chuẩn bị đầy đủ, và kết luận của nó ám chỉ một cách mạnh mẽ rằng Slug Russell nên là tác giả của công trình hack lịch sử này. Nhưng nhiều tháng trôi qua, Russell vẫn án binh bất động. Anh xem Minskytron tạo ra các hình mẫu, thay đổi các thiết bị chuyển mạch để thấy các mẫu mới được tạo ra và mỗi lần như vậy, họ lại bật thêm các thiết bị chuyển mạch khi chương trình không hoạt động. Anh đã bị mê hoặc, nhưng lại cho rằng việc hack này quá trừu tượng và mang tính toán học. “Màn thử nghiệm này vớ vẩn quá,” anh khẳng định – chỉ khoảng 32 câu lệnh gì đó, và nó chẳng làm được gì cả. Slug Russell biết rằng trò chơi chiến tranh không gian sẽ làm được điều gì đó. Theo các thuật ngữ hào nhoáng của ngành khoa học viễn tưởng, nó sẽ trở nên hấp dẫn theo cách mà chưa có màn hack nào trước đó làm được. Thứ đã đưa Slug đến với máy tính lúc đầu là cảm giác về quyền lực mà việc chạy được những thứ chết tiệt mang lại. Bạn có thể yêu cầu máy tính phải làm gì và nó sẽ từ chối, nhưng cuối cùng, nó vẫn buộc phải tuân theo ý bạn. Tất nhiên, nó sẽ phản ánh sự ngu ngốc của chính bạn, và thường thì thứ bạn yêu cầu nó thực hiện sẽ dẫn tới kết quả không như ý. Nhưng cuối https://thuviensach.vn cùng, sau những màn tra tấn và đau khổ, nó sẽ làm đúng những gì bạn muốn. Cảm giác của bạn lúc này không giống với bất kỳ cảm giác nào khác trên thế giới. Nó có thể biến bạn thành kẻ nghiện ngập máy tính. Nó đã biến Slug Russell thành một người như thế và anh có thể thấy rằng nó cũng làm như vậy với các hacker xuất quỷ nhập thần ở lì Phòng Kluge cho tới rạng sáng. Chính cảm giác này đã tạo ra điều đó và Russell đoán rằng cảm giác đó chính là sức mạnh. Slug từng gặp cảm giác tương tự, dù kém mãnh liệt hơn, trong các tiểu thuyết của Tiến sĩ Smith. Anh tưởng tượng ra cảm giác hồi hộp do những tiếng ồn ào vang vọng khắp không gian của con tàu vũ trụ màu trắng mang lại… và tự hỏi liệu sự phấn khích đó có xuất hiện khi anh ngồi sau bàn điều khiển của chiếc PDP-1 hay không. Đó sẽ là Cuộc chiến không gian mà anh hằng mơ ước. Một lần nữa, anh lại phải thề làm được điều đó. Sau này, Slug không còn nhiệt huyết như một số hacker khác. Đôi lúc, anh phải cần tới một động lực. Sau lần phạm phải sai lầm khi to mồm về chương trình mà anh định viết, các hacker PDP-1, những người luôn háo hức thấy một vụ hack khác được bổ sung vào chồng băng giấy ngày càng cao trong ngăn kéo, đã hối thúc anh làm điều đó. Sau khi lầm bầm biện minh một lúc, anh nói sẽ làm, nhưng trước tiên anh phải tìm cách viết các chương trình con sin-cos phức tạp cần có để thảo ra chuyển động của các con tàu. Kotok biết khó khăn này có thể dễ dàng được giải quyết. Thời điểm đó, Kotok đã trở nên khá thoải mái với mọi người tại DEC, nơi cách Maynard vài cây số. DEC khá thân mật, các nhà sản xuất máy tính thường thế, và không coi các hacker tại MIT là những gã nghiện máy tính bẩn thỉu, phù phiếm như cách mà IBM nhìn nhận họ. Ví dụ như, một hôm có một linh kiện bị hỏng, Kotok đã gọi đến Maynard và cho DEC biết việc đó; họ nói, “Hãy đến đây và lấy đồ thay thế nhé.” Lúc 5 giờ chiều, Kotok tới nơi nhưng chỗ này đã đóng cửa. Người trực ca đêm vẫn để anh vào, tới bàn của https://thuviensach.vn kỹ sư mà anh vừa nói chuyện và tìm quanh bàn cho tới khi thấy linh kiện đó. Các hacker luôn ưa thích sự thân mật. Vì thế, Kotok có thể thoải mái đến Maynard vào ngày nào đó, nơi anh biết chắc rằng ai đó sẽ có một chương trình con sin và cos có thể chạy được trên PDP-1. Hẳn rồi, phải có ai đó đã có nó, và vì thông tin được miễn phí nên Kotok đã mang nó về Tòa 26. “Anh đây rồi, Russell,” Kotok nói khi đang cầm các băng giấy. “Giờ thì lý do biện minh của anh là gì?” Vào lúc đó, Russell không có lý do gì. Vì thế, anh đã dành giờ nghỉ để viết một trò chơi kỳ ảo (fantasy game) trên máy PDP-1, một trò chơi chưa từng xuất hiện. Không lâu sau, anh dành thời gian “chính” để phát triển trò chơi. Anh đã bắt đầu hack từ đầu tháng Mười hai, đến tận Giáng sinh và kéo dài sang năm mới. Lúc đó, Russell đã tạo ra một chấm trên màn hình mà bạn có thể thao tác: Bằng cách điều chỉnh một vài công tắc nhỏ xíu trên bàn điều khiển, bạn có thể khiến cho các chấm tăng tốc và chuyển hướng. Sau đó, anh bắt đầu tạo hình hai chiếc tàu vũ trụ: Cả hai đều là những con tàu theo phong cách hoạt hình cổ điển, hướng lên trên và có cánh ở đuôi. Để phân biệt chúng với nhau, anh dựng một chiếc có hình điếu xì gà tròn trịa với đoạn giữa phình ra trong khi chiếc thứ hai hình ống mảnh. Russell đã sử dụng các chương trình con sin-cos để tìm cách di chuyển các hình này theo những hướng khác nhau. Sau đó, anh viết một chương trình con để bắn một “quả ngư lôi” (một chấm) từ mũi tàu bằng một công tắc trên máy tính. Máy tính sẽ quét vị trí của quả ngư lôi và tàu địch; nếu cả hai đều ở cùng chỗ thì chương trình sẽ gọi một chương trình con để thay thế chiếc tàu đen đủi bằng một loạt điểm ngẫu nhiên biểu thị một vụ nổ. (Quá trình đó gọi là “phát hiện va chạm”.) Tất cả những điều này là một bước tiến khái niệm đáng kể tiến tới phương pháp lập trình “theo thời gian thực” phức tạp hơn, nơi mà những gì xảy ra trên máy tính đều khớp với khung tham chiếu mà con người đang làm việc. https://thuviensach.vn Nói cách khác, Russell đang mô phỏng phong cách gỡ lỗi tương tác trực tuyến mà các hacker luôn làm giỏi nhất – họ có thể dễ dàng biết chương trình chết ở câu lệnh nào, và sử dụng các thiết bị chuyển mạch hoặc máy Flexowriter để quay về một câu lệnh khác, tất cả đều diễn ra khi chương trình đang chạy trình gỡ lỗi DDT. Trò chơi Chiến tranh không gian, bản thân nó là một chương trình máy tính, giúp chỉ ra cách mà tất cả các trò chơi – và có lẽ là mọi thứ khác – hoạt động như các chương trình máy tính. Khi đi nhầm hướng một chút, bạn sẽ thay đổi các tham số và sửa nó. Bạn cũng thêm vào các câu lệnh mới. Nguyên lý này cũng được áp dụng với trò bắn súng, các chiến thuật trong cờ vua và bài tập ở MIT. Lập trình máy tính không chỉ đơn thuần là công việc kỹ thuật, mà nó còn là một cách tiếp cận vấn đề trong cuộc sống. Trong các giai đoạn sau của lập trình, Saunders đã giúp Slug Russell, và họ đã hack một số phiên bản cao cấp kéo dài từ sáu tới tám giờ. Trong tháng Hai, Russell đã công khai trò chơi cơ bản. Có hai con tàu, mỗi chiếc chứa 31 quả ngư lôi. Có một vài chấm ngẫu nhiên trên màn hình tượng trưng cho các ngôi sao trong chiến trường không gian này. Bạn có thể điều khiển các con tàu bằng cách bật tắt bốn công tắc trên bàn điều khiển của chiếc PDP-1 tương ứng với thao tác xoay theo chiều kim đồng hồ, xoay ngược chiều kim đồng hồ, tăng tốc và bắn đạn. Slug Russell biết rằng bằng cách đưa ra phiên bản thô của trò chơi, và thả một băng giấy với chương trình vào chiếc hộp đựng các chương trình hệ thống của PDP-1, anh đang chào đón các cải tiến một cách tự nguyện. Chiến tranh không gian không phải là một mô phỏng máy tính thông thường – bạn có thể thực sự trở thành một phi công tàu vũ trụ. Đó là Tiến sĩ Smith bằng xương bằng thịt. Nhưng thứ sức mạnh đã thôi thúc Russell tạo ra chương trình của riêng mình – thứ sức mạnh mà PDP-1 đã trao cho một lập trình viên để người này tạo ra vũ trụ của riêng mình – cũng có sẵn ở các hacker khác, những người cảm nhận được sự thoải mái khi cải tiến vũ trụ của Slug Russell. Họ đã làm việc đó ngay lập tức. https://thuviensach.vn Bản chất của những cải tiến này có thể được tổng hợp từ phản ứng chung của hacker đối với chương trình con gốc mà Slug Russell sử dụng cho các quả ngư lôi. Biết rằng vũ khí quân sự trong đời thực không phải lúc nào cũng hoàn hảo, Russell nhận ra anh có thể khiến những quả ngư lôi này trở nên thực tế hơn. Thay vì để chúng đi theo một đường thẳng cho tới lúc hết năng lượng và nổ tung, anh đặt thêm một vài biến đổi ngẫu nhiên về hướng và tốc độ. Thay vì trân trọng việc làm cho giống thật này, các hacker đã phản đối nó. Họ thích các hệ thống chạy mượt mà và các công cụ đáng tin cậy nên việc những thứ khác bị tắc lại bởi một thứ không hoạt động đúng khiến họ phát điên. Sau này, Russell phát hiện ra rằng “vũ khí hay công cụ không đáng tin cậy sẽ không được coi trọng – mọi người thực sự muốn một thứ có thể giúp họ tin tưởng vào các công cụ và vũ khí của mình. Điều đó rất rõ ràng trong tình huống này.” Nhưng tất nhiên, điều này có thể dễ dàng thay đổi. Ưu điểm của thế giới do chương trình máy tính tạo ra so với thế giới thực là bạn có thể sửa chữa một vấn đề khủng khiếp như ngư lôi hỏng chỉ bằng cách thay đổi một vài câu lệnh. Đó là lý do tại sao rất nhiều người dễ đánh mất chính mình trong chủ nghĩa hacker ngay từ đầu! Vì thế, các quả ngư lôi đã được sửa chữa và mọi người dành hàng giờ chiến đấu ở không gian bên ngoài. Thậm chí, họ còn dành nhiều thời gian hơn để biến Chiến tranh không gian trở thành một thế giới tốt đẹp hơn. Chẳng hạn, Peter Samson thích ý tưởng về Chiến tranh không gian nhưng không thể chịu được các điểm được sinh ra ngẫu nhiên tự nhận là bầu trời. Các ngôi sao phải nằm ở vị trí cụ thể trên bầu trời trong không gian thực. “Chúng ta sẽ có những thứ như thật,” Samson thề thốt. Anh mượn được một cuốn át-lát dày cộp về vũ trụ và bắt đầu nhập liệu vào một chương trình con mà anh viết để tạo ra các chòm sao thực thụ mà một người đứng ở xích đạo có thể nhìn rõ vào một đêm quang đãng. Tất cả các ngôi sao có độ sáng thứ năm đều được hiển thị; Samson đã nhân đôi độ sáng tương đối của chúng bằng cách điều khiển cường độ mà máy tính chiếu sáng các điểm https://thuviensach.vn