🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hà Hương phong nguyệt - Lê Hoằng Mưu Ebooks Nhóm Zalo LỜI NÓI ĐẦU H à Hương phong nguyệt của nhà văn “khét tiếng” Lê Hoằng Mưu được in trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1912 với tên đầu tiên là Truyện nàng Hà Hương. Tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu từng được nhà nghiên cứu Bằng Giang coi là tiểu thuyết chữ quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ, đáng kể là một tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên do hoàn cảnh tư liệu nên nhiều năm qua rất ít người được tiếp xúc với văn bản đầy đủ của tác phẩm, nên việc tái bản quyển tiểu thuyết này là một điều cần thiết. Về văn bản, Hà Hương phong nguyệt được in feuilleton trên báo Nông cổ mín đàm từ số 19 ngày 20. 7. 1912 đến số 53 ngày 19. 6. 1915 (trở xuống viết tắt là bản in báo). Đến 1914 trở đi bắt đầu được in thành sách, trong đó phần in báo năm 1912 có khác biệt ít nhiều, tức tác giả có gia công sửa chữa, thay đổi. Bản Hà Hương phong nguyệt in sách (trở xuống viết tắt là bản in sách) có tất cả 6 tập: Tome I (Octobre 1914), Tome II (Mars 1915), Tome III (Juin 1915), Imprimèrie Saigonnaire L. Royer, Tome IV (Novembre 1915), Tome V (Avril 1916), Tome VI (Juin 1916), Imprimèrie J. Viết, trong đó Tome I và Tome II đề tên tác giả là Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Kim Đính, còn từ Tome III trở đi chỉ đề tên Lê Hoằng Mưu. Nhưng Tome VI chỉ in có đoạn đầu hồi “Con Bảy Nhỏ với Thoàn than tức, Anh Cô mừng nỗi ức đặng minh”, so với bản in báo chỉ mới tới đoạn trên Nông cổ mín đàm số 49 ngày 1. 6. 1915. Tuy cuối Tome VI có cho biết “Muốn rõ Con Bảy Nhỏ với Thoàn than tức, Anh Cô mừng nỗi ức đặng minh, hãy xem qua cuốn thứ bảy thì rõ” nhưng trong thực tế Tome VII không được in ra, tức bản in sách còn thiếu. Mặt khác bản in báo cũng chưa chấm dứt mà Nông cổ mín đàm hiện lại không được lưu giữ đầy đủ ở Việt Nam, đây là lý do chủ yếu khiến nhiều năm quaHà Hương phong nguyệt chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu một cách rốt ráo. Quan tâm tới tác phẩm này, nhiều năm qua chúng tôi đã lưu ý tìm kiếm nhưng chỉ đọc được Tome III bản in sách ở Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Về bản in báo chúng tôi cũng đã tìm đọc trên báo giấy và microfilm ở Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh nhưng các số báo Nông cổ mín đàm được lưu giữ từ 1912 ở đây cũng không đầy đủ. Đến tháng 10. 2014 chúng tôi mới tìm được sáu tập đầu bản in sách và báo Nông cổ mín đàm năm 1915 ở Thư viện Quốc gia Pháp. Sáu tập này cùng với phần tiếp theo trên Nông cổ mín đàm 1915 cho thấy thông tin về Hà Hương phong nguyệt trong các công trình trước nay đều ít nhiều không chính xác. Cho nên chúng tôi tiến hành chỉnh lý và chú thích bước đầu toàn bộ Hà Hương phong nguyệt, với mong muốn góp phần xác lập cơ sở văn bản – tư liệu cho việc tìm hiểu tác phẩm này. Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết đầu tay của Lê Hoằng Mưu, một tác giả có sách “bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm” như Lãng Tử viết trên báo Mai sau này. Việc sáng tác Hà Hương phong nguyệt là một phản ứng của một nhà văn Việt Nam trước cơn sốt dịch “truyện Tàu” lúc đó “Dòm thấy trong xứ cứ ôm truyện Tàu mà dịch mãi, chưa thấy ai viết bộ tiểu thuyết nào cả. Tưởng rằng dầu hay dầu dở cũng của mình. Tôi khởi đầu viết bộ Hà Hương phong nguyệt”. Tác phẩm được đăng trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1912 với nhan đề Truyện nàng Hà Hương đến năm 1915 (chưa kết thúc). Năm 1914, tác phẩm này được nhà in Saigonnaise L. Royer xuất bản với tên là Hà Hương phong nguyệt truyện (6 tập). Ở bìa hai tập đầu, chỗ ghi tên tác giả, bên cạnh Lê Hoằng Mưu còn có tên của Nguyễn Kim Đính, vốn là người rất thân thiết với Lê Hoằng Mưu. Hai ông từng cộng tác trong vai trò chủ nhiệm, chủ bút của nhiều tờ báo quốc ngữ thời đó. Từ tập ba trở đi, tên tác giả chỉ còn lại Lê Hoằng Mưu. Hiện thực được phản ánh trong Hà Hương phong nguyệt khá rộng lớn, có thể coi như một hình ảnh rút gọn của xã hội Nam Bộ trước Thế chiến thứ nhất. Trong tác phẩm có các gia đình giàu lẫn những gia cảnh nghèo, có cảnh Sài Gòn đô hội phồn hoa bên cạnh cảnh nghèo hèn thôn dã, có cảnh tòa xử án, trạng sư biện hộ... Số lượng và kết cấu nhân vật trong tác phẩm cũng rất đông đảo, da dạng, từ thường dân cho đến quan chức. Có nàng Hà Hương xinh đẹp, buông thả bên cạnh một Nguyệt Ba đẹp người, đẹp nết. Có Nghĩa Hữu đam mê sắc dục, ích kỷ bên cạnh một Ái Nghĩa chung tình. Có cả người nước ngoài như khách trú người Hoa, anh Bảy Chà Và người gốc Ấn, những trạng sư người Pháp,... Tác phẩm của Lê Hoằng Mưu so với những tác phẩm văn xuôi trước đó nổi bật trên hai yếu tố là phạm vi không gian và khuynh hướng phân tích tâm lý. Đây là một thế mạnh của Lê Hoằng Mưu so với các nhà văn Nam Bộ khác cùng thời vốn ít chú ý đến vấn đề này. Việc Hà Hương phong nguyệt bị dư luận lên án mạnh mẽ, đó là bởi diễn ngôn tính dục mới mẻ của tác phẩm này. Việc chuyển tải một quan niệm không truyền thống về tình yêu, luân lý trong thời điểm nhân dân Nam Bộ cần cổ xúy cho đạo đức truyền thống, cho tình yêu nước để có sức mạnh chiến đấu với giặc ngoại xâm hơn là những tình cảm cá nhân ngang trái, buông thả là không hợp thời. Tiểu thuyết này quá mới mẻ trong thời điểm ảnh hưởng của văn minh phương Tây vẫn chưa thật sự lấn át được những quan niệm khắt khe của Nho giáo về tình yêu nam nữ. Tình yêu cá nhân mang tính nhục thể và dục vọng thầm kín của con người vẫn là những điều khá xa lạ đối với những quan niệm truyền thống đương thời mặc dù ngòi bút của nhà văn đã khá uyển chuyển. Đã có một cuộc bút chiến dữ dội xung quanh tác phẩm này. Nhiều nhà văn, nhà báo đã phê phán kịch liệt tác phẩm này với tác giả của nó. Trước áp lực của dư luận, cuối cùng Hà Hương phong nguyệt đã bị chính quyền thuộc địa ra lệnh tịch thu và tiêu hủy. Bên cạnh sự táo bạo khi đề cập đến vấn đề tính dục, Hà Hương phong nguyệt còn hấp dẫn người đọc thời đó bởi thể loại giàu nhạc điệu của tác phẩm. Nguyễn Liên Phong đã từng nhận xét về văn chương Lê Hoằng Mưu trong Điếu cổ hạ kim thi tập “Hơi nôm na sắp đặt lanh lợi có duyên, người ta xem đến không nhàm mỏi”. Hà Hương phong nguyệt ra đời vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, vì thế vẫn còn mang một số hạn chế của thời đại. Ghi là Roman Fantastique, nhưng câu văn của Hà Hương phong nguyệt rất gần với thơ, với văn biền ngẫu. Việc ép vần không hiếm trong tác phẩm, điển cố điển tích cũng được dùng với không ít sai sót. Nhưng với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam, như Bình Nguyên Lộc và Bằng Giang đã khẳng định. Trên nhiều phương diện, tác phẩm này là bằng chứng về những thay đổi của tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng mà cũng là của tiểu thuyết Việt Nam nói chung trên con đường hiện đại hóa, những thay đổi mà học giới còn cần tiếp tục tìm hiểu rộng hơn, sâu hơn. Bản Hà Hương phong nguyệt được tái bản lần này, ngoài Lời nói đầu và Lời bạt, gồm hai phần chính: phần đầu là văn bản Hà Hương phong nguyệt, phần sau là Phụ lục gồm một số tư liệu liên quan. Về nội dung, Hà Hương phong nguyệt gồm hai phần ít có liên hệ với nhau. Phần đầu chủ yếu nói về những cuộc phiêu lưu tình ái của nhân vật Hà Hương trong đó chủ yếu là quan hệ với chồng trước là Nghĩa Hữu. Phần sau chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Ái Nhơn, con trai của Hà Hương với người chồng sau là Ái Nghĩa. Phần sau in trên báo còn dở dang, tuy nhiên chúng tôi vẫn giới thiệu toàn bộ trong quyển sách. Văn bản Hà Hương phong nguyệt trong quyển sách được chia thành ba phần, phần 1 là bản in trên Nông cổ mín đàm năm 1912, phần 3 là bản in trên Nông cổ mín đàm năm 1915. Sở dĩ chúng tôi giới thiệu hai phần này thay bản in sách vì đây là bản được công bố đầu tiên từ 1912, có giá trị khác với bản in sách từ 1914. Bản này có lối hành văn hiện đại hơn so với bản in sách (có lẽ do chiều theo thị hiếu của độc giả lúc đó nên khi tập hợp phần đã in feuilleton trên báo lại để in sách, Lê Hoằng Mưu đã chuốt gọt lại khá nhiều theo lối văn vần mang nhiều nhạc điệu hơn). Ví dụ hai đoạn sau: “Qua năm 1870, trong nhà dư dả, có trâu có ruộng, có tớ gái tớ trai, đặt nợ cho vay cùng làng khắp xóm. Từ buổi nghèo cho đến khi có của, vợ chồng Trần Quế cứ giữ mực chơn chất thật thà, chẳng hề làm cách làm kiêu, nên cả làng người yêu kẻ mến” (bản in báo). “Tới năm 1870 trong nhà đã khá, dư để dư ăn, sắm ruộng mua trâu, cho vay đặt nợ, trong có đầy có tớ, ngoài sẵn mọi sẵn tôi. Cuộc đời khi giàu chật khách tới lui, lúc khó không người thăm viếng” (bản in sách). Phần 2 là bản in sách từ 1913 đến 1914. Đây là điều đáng tiếc, vì dù rất cố gắng trong việc sưu tầm, hiện chúng tôi chỉ tìm được các số báo Nông cổ mín đàm những năm 1912 và 1915, còn thiếu các số báo trong hai năm 1913, 1914, vì vậy mà phần 2 bắt buộc phải theo bản in sách. Hy vọng sau này khi sưu tầm đủ các số báo, chúng tôi sẽ giới thiệu được trọn vẹn bản in trên báo. Do điều kiện lịch sử về ngôn ngữ và chính tả, thông tin và kỹ thuật đương thời, nên bản in trên Nông cổ mín đàm và bản in sách đều có rất nhiều sai sót và bất cập cần điều chỉnh, xử lý. Về vấn đề này, quyển sách theo những nguyên tắc sau: 1. Về chính tả. Những sai sót hay lối viết không còn phù hợp đều được điều chỉnh theo chính tả hiện hành, ví dụ Bến-tre, bỏ lẩy, chắt lưởi, tang tát, thăm viến, sữa san, vuôn tròn... được điều chỉnh thành Bến Tre, bỏ lẫy, chắc lưỡi, tan tác, thăm viếng, sửa sang, vuông tròn. Những từ Việt Hán bị ghi lầm theo tập quán ngữ âm Nam Bộ như luy tiết, tư dung, sằn dã thành ly tiếc, tư giun, sằng giã cũng được điều chỉnh như vậy và không chú thích. Tác phẩm được viết bằng văn vần, nhiều lúc vì ép vần làm từ ngữ bị sai lạc như tường ghi là tàng, sự ghi là sạ, ái ốc cập ô ghi là ái ô cập ốc cần phải chỉnh lý hay chú thích, với những sai lạc này thì chúng tôi chú thích rõ về từng trường hợp. Về việc ghi những từ có phần vần là i/y, chúng tôi theo quan điểm chính tả của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh theo đó các từ thuần Việt đều nhất loạt ghi với i, các từ Việt Hán mới ghi với cả i lẫn y, trong đó các từ thuộc Tam đẳng hợp khẩu như quí giá, ma quỉ thì nhất loạt ghi với i. 2. Về từ ngữ. Tác phẩm viết bằng ngôn ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, có nhiều từ cổ, từ địa phương như kiếng (cánh), mầng (mừng), miêng (minh), nâng (nưng), nhẫn (tới), nhẫng (những)... cần được chú thích, giải thích. Những trường hợp loại này và những từ Việt Hán có trên một âm đọc như cát – kiết, duyên – doan – duơn, đỉnh – đảnh, phương – phang, thuyền – thoàn, vũ – võ, quí – quới phổ biến trong phương ngữ Nam Bộ thì chúng tôi giữ nguyên trạng để người đọc thấy rõ cái “bản lai chân diện mục” về ngôn ngữ của tác phẩm. Tất cả các từ ngữ, thành ngữ, điển tích cần thiết chỉ được chú thích trong lần xuất hiện đầu tiên. Để chú thích từ ngữ trong Hà Hương phong nguyệt, chúng tôi tham khảo các từ điển, tự điển như Dictionnaire Élémentaire Annamite – Français của Le Grand de la Liraye (Imprimerie Impérial, Sài Gòn, 1868), Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1895 – 1896 (bản in Khai Trí, Sài Gòn, 1974), Dictionnaire Annamite – Français của François Joseph Génibrel (Imprimerie de la Mission à Tân Định, Sài Gòn, 1898), Dictionnaire Annamite – Français của Jean Bonet (Imprimerie Nationale, Paris, 1899 – 1900) và một số tài liệu có liên quan. 3. Về bố cục. Đây là một vấn đề khá phức tạp. Phần in feuilleton trên báo cũng như phần in sách đều có những điểm không hợp lý, có khi theo mạch truyện mà xuống dòng, có khi vì khuôn khổ cột báo trang sách nên không hề xuống dòng, câu đối thoại xen lẫn với câu kể chuyện gần như không có ký hiệu để phân biệt rõ ràng. Mặt khác tác phẩm được viết theo lối văn vần, nhưng trong nhiều trường hợp bản in có những dấu phẩy, chấm phẩy hay chấm hỏi, chấm than... làm “lệch vần sai nhịp”. Chúng tôi xử lý theo nguyên tắc đối với câu đối thoại và câu độc thoại thì đưa vào giữa hai dấu ngoặc kép, bỏ hết các dấu chấm phẩy mà qui tất cả thành dấu phẩy hay dấu chấm, xử lý các dấu phẩy, chấm than, chấm hỏi... theo nhịp và vần của câu văn, mặt khác căn cứ vào mạch truyện đồng thời châm chước độ dài ngắn của đoạn văn mà chấm câu, xuống dòng để người đọc tiện theo dõi. Trong nguyên bản Hà Hương phong nguyệt cả bản in báo lẫn bản in sách đều có một số chú thích hay ghi thêm của Lê Hoằng Mưu, có khi xen vào mạch truyện, có khi xếp ở cuối trang. Để người đọc tiện theo dõi, trong bản in lần này chúng tôi nhất loạt đưa lên phần chính văn, đặt vào giữa hai dấu ngoặc đơn và ghi thêm ba chữ LHM để phân biệt. Trong quá trình sưu tầm Hà Hương phong nguyệt, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Thư viện Quốc gia Pháp, Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, thư viện gia đình của GS. Nguyễn Văn Sâm (Hoa Kỳ). Trong việc chỉnh lý và giới thiệu tác phẩm, chúng tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều bạn bè, đồng nghiệp như Đoàn Ánh Loan, Đặng Thái Minh, Cao Tự Thanh. Nhân dịp quyển sách được ra mắt người đọc, chúng tôi xin gởi tới các anh chị lời cảm ơn chân thành. Dù đã rất cố gắng, nhưng việc chỉnh lý văn bản và chú thích từ ngữ của Hà Hương phong nguyệt chắc chắn sẽ không thể hoàn hảo. Rất mong nhận được những góp ý, chỉ giáo của người đọc gần xa. Tháng 2. 2018 Võ Văn Nhơn Phần 1 VĂN BẢN ĐĂNG BÁO NÔNG CỔ MÍN ĐÀM NĂM 1912 (Số 19, ngày 20. 7. 1912) Tráo con những tưởng con hưởng phước Đổi trẻ nào hay trẻ bất lương H ạt Bến Tre, tổng Bảo Thành, có tên Trần Quế, buổi vợ chồng mới kết cấu1 cùng nhau, nghèo khổ cho đến đỗi cơm không no bữa, quần áo chẳng lành, vợ chồng hết sức siêng năng nhưng mà lúc nghèo thật khó cầm tiền cho đậu. Tuy vậy mà vợ chồng chẳng hề thối chí, cứ lầm lụi mần ăn, chưa khỏi bao lâu coi mòi đã khá. Qua năm 1870, trong nhà dư dả, có trâu có ruộng, có tớ gái tớ trai, đặt nợ cho vay cùng làng khắp xóm. Từ buổi nghèo cho đến khi có của, vợ chồng Trần Quế cứ giữ mực chơn chất thật thà, chẳng hề làm cách làm kiêu, nên cả làng người yêu kẻ mến. Cũng trong năm đó, vợ Trần Quế thọ thai, tính lại đà trên tám tháng. 1 Kết cấu: đây có nghĩa là kết duyên, chung sống với nhau. Có bà mụ tên Lưu nhà ở khít vách Trần Quế, có một gái tên Liến gả cho tên Thân, Thị Liến cũng có thai mà lại tháng ngày như một. Lối cuối tháng năm An Nam, nhằm lúc cày cấy, tên Thân thì mắc ở trại cày với người ta, còn một mình bà mụ Lưu với Thị Liến ở nhà. Bước đầu giờ Thìn nhằm ngày mười hai tháng năm, Thị Liến chuyển bụng sanh ra một gái. Qua giờ Ngọ, vợ Trần Quế chuyển bụng, cũng sanh ra một gái. Lúc ấy cả nhà Trần Quế cũng đều ra ruộng, chỉ còn có một con tớ gái ở nhà. Con tớ gái lật đật chạy kêu Trần Quế, còn bà mụ Lưu thì lo lửa củi xông hơ. Mụ Lưu ẵm đứa nhỏ ra làm bộ chùi lau, bước thẳng về nhà đổi cho Thị Liến rồi trở qua lập tức. Chừng Trần Quế về tới nhà việc đã xong xuôi, mới đem ra ba quan tiền mà tạ ơn bà mụ. Còn tên Thân khi hay vợ lâm bồn cũng về thăm, mười phần mầng rỡ. Thoảng mảng2, ngày lụn tháng qua, hai gái đều đặng mười tám tuổi. Con gái Trần Quế tên là Hà Hương, nhan sắc đẹp đẽ, bởi vợ chồng Trần Quế nâng niu như ngọc, nên Hà Hương nghinh ngang không tuân cha mẹ, quen tánh hỗn hào, phận gái mà thêu tỉu vá may3 bạch tuột4, việc bếp núc không xong, được có một điều đánh phấn soi gương, nhỏng nhảnh vàng vòng kiềng chuỗi, sớm thì đánh áo quần dạo xóm, tối thì hát lý đờn ca (khá hay chữ – LHM), chẳng biết tới việc nhà, hết hết còn còn cũng mặc. Còn tên Thân đặt tên con là Nguyệt Ba, lạ dữ a, con khác cha mà giống hịch5. Nó giống con Hà Hương cho tới tướng đi tướng đứng, giống cho tới giọng nói giọng cười, nhan sắc cũng bằng nhau, mà khác bề ăn nết ở. Nguyệt Ba tuy là con nhà nghèo mà không lăn chà lăn hói6, nữ công nữ hạnh vẹn toàn, bởi vậy thiên hạ trong làng đồn rằng cây đắng mà sanh trái ngọt. Thường bữa Hà Hương qua lại, thương Nguyệt Ba như ruột như rà, bởi vậy mới giấu bạc giấu tiền, cho Nguyệt Ba sắm quần sắm áo. 2 Thoảng mảng: tức thảng mảng (thấm thoát). 3 Thêu tỉu vá may: chỉ việc nữ công (tỉu: thêu). 4 Bạch tuột: đây ý nói bỏ mặc không thèm làm. 5 Hịch: hệt. 6 Lăn chà lăn hói: chà là đống nhánh cây, hói là chỗ rạch cùng, ý nói sinh hoạt bừa bãi, lăn lóc bờ bụi. Nhà họ Đậu tên là Nghĩa Sơn có một con trai tên là Nghĩa Hữu. Nhà thì giàu có lớn mà con ít chịu học hành, đêm thì dựa lầu xanh, ngày thì theo cờ bạc. Ngày kia có Đậu Kiến Đước tới nhà, kêu em rầy la sao không kiềm thúc cháu, bèn hỏi “Sao không coi nơi nào cho nó, để nó phóng đãng tối ngày!”. Sơn trả lời rằng không nơi xứng đáng. Đước mới chỉ nhà họ Trần tên Quế, có một gái tên là Hà Hương năm nay đâu cũng mười tám tuổi, mà vợ chồng Trần Quế giàu lại chơn chất thật thà, lẽ khi dạy con cũng khá. Sơn nghe nói mầng lòng, lật đật rủ anh qua đó. Hai đàng giáp mặt, thoạt nói thoạt ừ, giàu với giàu dễ làm sui7 chẳng cần mai mối. 7 Sui: tức sui gia (tuế gia), chỉ thông gia. (Số 21, ngày 3. 8. 1912) Trần Quế chịu gả Hà Hương cho Đậu Nghĩa Hữu. Đậu Nghĩa Sơn liền cho hẹn ngày dưng lễ hỏi, rồi cho làm lễ cưới, chẳng cầm cọng8 lâu ngày. Bên trai bên gái đều giàu, đám cưới phải lớn, chẳng cần thuật lại. 8 Cầm cọng: giữ lại, đây chỉ việc kéo dài thời gian. Hà Hương về nhà chồng, chẳng những làm dâu thưa thớt, lại quen tánh hỗn ẩu với chồng, đặng9 đôi ba tháng rồi lại càng hỗn hơn nữa. Chẳng kể bề trên kẻ dưới, không chừa thân thích bên chồng, vợ chồng họ Đậu mỏi lòng, muốn tính phứt10 cho xong mà ngặt chút con mình đắm sắc. Vợ chồng họ Đậu mới mua một cái nhà lá nhỏ nhỏ, cho Nghĩa Hữu ra riêng, lớp thì cho bạc cho tiền, lớp sắm đồ sắm đạc. Ra riêng rồi, Hà Hương trống chưn trống cẳng, dầu dọc ngang, ngang dọc một mình, tiếng đời ví “chồng là chúa vợ là tôi” như ai kìa, chớ như Hà Hương thị chồng như thảo giái11. Hương lại sanh tâm đổ bác12, chưa bao lâu thua hết bạc tiền, bây giờ mới tới phiên, cầm vàng rồi bán giấy13, thiếu tiền góp14 chúng nó kêu ó dậy, Nghĩa Hữu mê mà thấy vậy cũng rã mê. Hữu mới trở lộn về, to nhỏ cùng cha với mẹ. 9 Đặng: được. 10 Phứt: tức phắt, ngay lập tức. 11 Thị chồng như thảo giái: coi chồng như cỏ rác. Giái tức giới (rác). 12 Đổ bác: cờ bạc. 13 Giấy: đây chỉ chung giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản. 14 Tiền góp: tức tiền trả nợ góp theo kỳ hẹn. Vợ chồng Đậu Nghĩa Sơn nghe nói tức trong lòng cũng như té cây, bây giờ đây biết tính sao đây, gỡ cho đặng mối dây oan nghiệt15. Vợ chồng Nghĩa Sơn mới hối “Thôi! Con về bên nhà với nó, lúc đêm hôm to nhỏ cùng nhau, như mà nó chịu thôi16, con kiếm vợ nó kiếm chồng, mẹ cho nó hai ngàn đồng bạc hiện17”. Hữu nghe lời về nói chuyện, Hà Hương thấm ý chịu liền “Lúc này mình thiệt túng tiền, thây kệ, ráng chịu đỡ rồi ngày sau sẽ tính”. Sáng ngày, Hữu lật đật về thưa lại cùng cha mẹ rằng Hà Hương chịu như lời. Vợ chồng họ Đậu mở tủ lấy hai ngàn (1.500 bạc giấy, 500 bạc đồng) dặn Hữu dẫn Hà Hương tới làng18, chồng hiện ra cho nó. 15 Oan nghiệt: nguyên bản là oan nghiệp, đây đính lại như trên. 16 Thôi: đây chỉ ly dị chồng. 17 Bạc hiện: tức hiện ngân (tiền mặt). 18 Làng: đây chỉ cơ quan tư pháp phụ trách việc hôn nhân giá thú ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc nhưng được đồng hóa vào chính quyền về mặt từ ngữ. Hữu thật không đành bỏ vợ, tưởng trăm năm nào ngỡ rã hai phương, sấp lưng19 đi mà lụy nhỏ đôi hàng, tâm như dao cắt, thở than đà không xiết. Hà Hương thật lòng nàng chí quyết, mảng20 ham hai ngàn nào biết nghĩ chút tình sâu, lãnh bạc rồi nàng mới mau mau, trở lộn lại nhà cha với mẹ. 19 Sấp lưng: quay phắt lại. 20 Mảng: cứ, chỉ lo tới (từ cổ). Nói về vợ chồng Đậu Nghĩa Sơn, bỏ được con dâu rồi thì mầng, mới tính kiếm nơi khác mà cưới cho con là Nghĩa Hữu. Vợ mới nói “Xưa kia, mình tưởng vợ chồng Trần Quế hiền lành, sanh con tử tế, ai dè đâu cây ngọt mà trái lại chua le, mình làm sui chỗ nhà giàu mà chẳng ra gì, chuyến này ba nó để cho tôi kiếm dâu coi thử. Chẳng nệ nhà nghèo khổ, miễn là gái lành, nghề thêu tỉu vá may, công dung ngôn hạnh cho có mới hay, chớ như ba nó vậy, mảng có già lừa mà mắc21. Để tôi làm cho bỉ mặt, mới nghe con Nguyệt Ba là con của Thị Liến thiệt nên, trong xóm làng thảy thảy đều khen. 21 Già lừa mà mắc: lựa chọn lâu, kỹ mà vẫn lầm. Lừa tức lựa chuyển thanh. Cha mẹ dữ mà sanh gái hiền mới quí cho chớ”. (Số 23, ngày 17. 8. 1912) Đậu Nghĩa Sơn chịu cho vợ định hôn. Qua ngày sau vợ Đậu Nghĩa Sơn qua nhà bà mụ Lưu, trà nước xong xuôi, mới gạy22 chuyện Nguyệt Ba ra hỏi. Chuyện vãn hồi lâu, lại đòi làm sui (nhà giàu dễ nói chuyện), bà mụ Lưu nói “Việc ấy còn có cha nó, tuy tôi là bà, con Liến là mẹ mặc dầu, dám đâu tư lịnh23, vậy để cha nó về đây tôi nói lại, chừng đôi ba bữa sẽ trả lời”. Một chặp vợ Đậu Nghĩa Sơn ra về, bà mụ Lưu mới to nhỏ cùng con là Thị Liến “Con Hà Hương nó là máu thịt của mày, còn con Nguyệt Ba là con nuôi mà thôi. Vợ chồng Hà Hương tuy xa nhau, mà có ngày trở lại vì Nghĩa Hữu còn thương nó lắm. Nếu mà gả Nguyệt Ba cho Nghĩa Hữu thì tội nghiệp Hà Hương. Tuy sanh dưỡng đạo đồng nhưng mà chữ sanh thường hơn chữ dưỡng. Xưa kia tao tráo như vậy là có ý sau cho nó hưởng gia tài của Trần Quế và đặng đẹp mặt nở mày, xứng đôi chồng vợ, ai dè đâu nó tệ cha chả. Vậy chừng thằng Thân về đây, mày to nhỏ cùng nó đừng chịu gả”. 22 Gạy: gợi. 23Tư lịnh: đây có nghĩa là riêng mình ra lệnh. Sắp đặt vừa yên, Thân đi tát cá quảy giỏ bước vào. Cơm nước xong xuôi, Liến mới đọc24 đầu đuôi cho chồng biết, lại nói vợ chồng, Nghĩa Sơn tuy giàu mà tánh tình độc hiểm, nếu mình gả Nguyệt Ba vào đó, chẳng khác gì đem con mình chôn sống cửa thứ mười25. Thân cười mà rằng “Vợ chồng họ Đậu tôi biết rõ chơn chất thật thà, tại con Hà Hương nó dữ quá là gấu heo ai mà chịu theo cho được. Nay họ Đậu đến nói Nguyệt Ba cho con, nếu không gả cho rồi còn đợi ông cống, ông nghè gì nữa kia”. Nói rồi kêu Nguyệt Ba lên hỏi “Con ưng Nghĩa Hữu hay không? Như ưng thì cha gả, bằng chẳng thì thôi, không lẽ cha ép con như dầu mỡ26”. Thị Liến với bà mụ Lưu ngó Nguyệt Ba, nháy mắt lắc đầu mà Nguyệt Ba vô ý, không thấy nên trả lời rằng “Phận gái mười hai27, nên chăng tại lòng cha sở định. Tuy thế thường hay nói ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên, con thì mặc lòng, chớ xét lại phận làm con áo mặc khỏi đầu ít có” (có áo thun đó mà! – LHM). Thân nghe nói cười ré. Cơm nước xong xuôi vác cày ra ruộng. May lại gặp Đậu Nghĩa Sơn, hai đàng giao ước. Thân nói “Tôi chẳng phải như người ta mà đòi năm lễ bảy lễ, miễn cho trẻ được vuông tròn, mặc ý anh, ba xôi nhồi một chõ28 cũng được vậy”. Còn mụ Lưu với Thị Liến nhắm việc không xong, mới tính qua Hà Hương mà méc thót29. 24 Đọc: nói lại, thuật lại (từ cổ). 25 Cửa thứ mười: có lẽ là tầng địa ngục thứ mười theo quan niệm dân gian, ở đó linh hồn người chết phải chịu nhiều hình phạt đau đớn khủng khiếp. 26 Ép con như dầu mỡ: lấy ý câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”. 27 Phận gái mười hai: lấy ý câu “Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu”. 28 Ba xôi nhồi một chõ: ý nói dồn lại, gom lại. 29 Méc thót: kể lại với ý xấu. Nói về Hà Hương, ngày lãnh bạc ra đi, trở về nhà cha mẹ là Trần Quế. Trần Quế hổ ngươi không chứa, Hà Hương mới qua nhà bà mụ Lưu. Bà mụ Lưu nhắm thế không yên, mới xúi Hà Hương ra Chợ Giữa mua nhà mà ở. Hà Hương nghe lời, ra Chợ Giữa mua một cái nhà lá ở đó. Hoa xuân thắm mọc càn30 giữa chợ, biết mấy ngàn ong bướm lại qua, nào những thầy Cai thầy Phó, nào là chú Xã ông Hương, cho đến Tài phú, ông Bang, cũng lần đàng tới đó. Nhà rần rần như hội, Hà Hương nhỏng nhảnh vòng vàng, lại có tụ tập quân hoang31 để làm tay chưn sai khiến. Bữa nọ đang ngồi có trẻ32 thông tin rằng có bà mụ Lưu và Thị Liến tới. Hà Hương nghe lật đật rước vào, trà nước khuyên mời trò chuyện. 30 Càn: bừa bãi, không theo trật tự. 31 Quân hoang. trên đã có chú thích từ này.: chỉ chung những người vô nghệ nghiệp, bị lưu manh hóa. 32 Trẻ: người giúp việc tuổi còn thiếu niên. (Số 24, ngày 24. 8. 1912) Trí sâu thuyết kế thâu Nghĩa Hữu Lòng độc âm mưu hại Nguyệt Ba Trà nước xong xuôi, mụ Lưu mới tỏ bày sự tích tráo con đổi trẻ. Lại rằng “Từ ấy nhẫn33 nay, bà không dám hở môi cho ai biết, cứ khư khư bưng kín miệng bình, nay mà bà tỏ thật sự tình, cháu cũng phải phòng ý như thành34 mới đặng. Buổi trước bà làm như vậy đó là cố ý vị tử tôn tác phú quí kế35 giả, ai dè đâu vợ chồng cháu thiên các nhứt phang36, phải mà bà hay, mạng cháu hạp khiết thô phạn37 như vầy, ngày trước bà chẳng tư trùng la miến38. Tuy vậy mà cũng còn may một chuyện, may là may Nghĩa Hữu còn quyến luyến tình xưa, rủi thay cha của con nó không rõ tri cơ, nó tưởng Nguyệt Ba là con ruột của nó, nó mới chịu gả cho họ Đậu rồi. Bà cũng nghĩ ruột bỏ ra da bỏ vào thăm lối39, nên bà hết sức đón ngăn, nhưng mà không nỗi, bà tính đã hết phương, năm bữa nữa đám cưới của nó đa cháu à, nên bà mới kíp sang, coi cháu có phương chi định liệu”. Hà Hương nghe mới hiểu, mồ hôi đượm giọt ướt mình, chuyện này khó nỗi làm thinh, bằng có nói nói ra thêm xấu. “Như Nguyệt Ba với tôi kết chị em từ ấu40, lẽ nào nay ham bóng quên mồi, vậy thì tôi theo bà về hỏi thử coi, hơn thiệt lẽ nào cho biết”. 33 Nhẫn: đến (từ cổ). 34 Phòng ý như thành: lấy từ câu “Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành” (giữ miệng kín như bình, để ý như giữ thành), chỉ việc thận trọng lời ăn tiếng nói. 35 Vị tử tôn tác phú quí kế: vì con cháu mà tính kế giàu sang cho họ. 36 Thiên các nhứt phang: tức “Thiên các nhất phương” (mỗi người một phương trời). 37 Hạp khiết thô phạn: cắn răng chịu khổ, ăn uống đạm bạc. 38Tư trùng la miến: nghĩ cách giăng bẫy. 39 Ruột bỏ ra da bỏ vào thăm lối: đây ý nói tỏ ra thân thiết với người ngoài để thăm dò tin tức. 40 Ấu: nhỏ tuổi. Nói rồi ba người ra đi nối gót, mảng chuyện trò phút đã tới nhà. Nguyệt Ba mới bước ra, chào bạn đằng xa mới tới. Hà Hương nói “Mới nghe bà nói lại, rằng con Hai vui chữ vu qui, tôi mầng lòng lật đật ra đi, qua thăm hỏi dường bao cho biết”. Nguyệt Ba mới tỏ bày sự thiệt “Vốn gần đây chớ lạ xứ nào đâu, bởi hai bên ý hiệp tâm đầu, nên cha tôi chịu gả về làm dâu họ Đậu”. “Ủa! nói vậy thì Nghĩa Hữu là chồng bậu, này con Hai nó nghe tôi phân cho thấu ngọn ngành, con Hai cũng biết việc tôi với Nghĩa Hữu chớ lẽ nào không, dầu cho duyên nợ bất thành, con Hai nó nỡ đành làm vậy. Lẽ nào chịu chồng em chị lấy, lẽ nào đem duyên chị thế em, làm sao cho miệng thế khỏi gièm, làm sao vẹn tình em ngỡi41 chị. Hay là con Hai nó nghe lời dỗ mà không kịp nghĩ, con Hai cũng biết vợ chồng tôi cách sơn cách thủy dễ cách lòng, nay tuy xa có thuở cũng tương phùng, thôi con Hai nó khá nghĩ việc thủy chung mà sửa lại”. 41 Ngỡi: còn đọc là ngãi, tức nghĩa. Nguyệt Ba nói “Lời cô phân thậm phải, nhưng mà, xin cô xét giùm cho tôi là phận gái có cha, lẽ nào lại dám cãi qua, áo mặc khỏi đầu cho được. Cô Hai cũng biết, lương duyên tại thiên thành định trước, phải lòng người mơ ước đặng sao? Phải quả như cột nọ tìm trâu, cô Hai chớ trách phiền cho đáng. Tôi chẳng phải ôm hoa mà rao bán, cũng không lòng thăm ván bán thuyền42. Cô Hai nghĩ lại mà coi, cô những dầu lỗi hẹn lỡ duyên, cũng tại bởi bất nghiêm nhi thất vị43. Phải họ Đậu lòng còn đoái nghĩ, lẽ nào đi gieo lý phụ đào, bởi vì duyên làm sao, nợ tính làm sao, họ mới tới cưới tôi về mà sửa tráp. Cô Hai nó mựa44 đem lòng nệ chấp, căn số trời xui gặp dễ dám vong45, giai ngẫu này dẫu có chẳng xong, trên sở định tại lòng nào biết”. “Ủa, nói vậy thì Nguyệt Ba đà chí quyết, cướp chồng mình chính thiệt to gan, tưởng chị em phân cạn lời vàng, nói gì chuyện muốn ngang dọc, ta dọc ngang cũng được mà”. 42 Thăm ván bán thuyền: nguyên bản là “tham váng bán thuyền”, đây chỉnh lại như trên. Thăm ván bán thuyền ý nói vừa biết tới cái chưa có đã bỏ cái đang có, chỉ việc bạc tình vô nghĩa hoặc hấp tấp hồ đồ. 43 Bất nghiêm nhi thất vị: không nghiêm trang nên mất địa vị. 44 Mựa: chớ. 45 Vong: quên. Nói dứt tiếng Hà Hương đứng dậy ra đi, về tới nhà ăn không ngon nằm không ngủ, ngồi không vững, đứng không yên, son phấn biếng dồi, tóc tơ biếng gỡ. Hình dung dã dượi, nhan sắc kém phai, trót đã mấy ngày, tính chưa ra kế. Ngày kia Hà Hương mới viết một phong thơ, sai thằng Ba Trạnh đem qua cho Nghĩa Hữu. Lại dặn “Bộ mày coi bảnh lảnh46, ráng o làm sao cho nó ra đây. Phải trọn đạo tớ thầy, đừng bán đồ nhi phế47”. 46 Bảnh lảnh: khôn ngoan, nhanh nhẹn. 47 Bán đồ nhi phế: nửa đường bỏ dở. (Số 25, ngày 31. 8. 1912) Nói về họ Đậu, khi cưới hỏi xong xuôi rước dâu về nhà chồng, Nguyệt Ba vào làm dâu tài đức gồm no48, mọi bề khôn khéo, thân thích bên chồng yêu mến, trong nhà trên dưới cũng đều thương. Bởi vậy cho nên họ Đậu mầng lòng, nâng niu dâu hiền dường ngọc. 48 No: đầy đủ trọn vẹn. Ngày kia, trời trong gió mát, bóng chiều đã xế đầu non, Nghĩa Hữu ra ngoài ngõ ngó mông, phút chốc động tình nhớ bạn. Nhớ những lúc vào màn ra trướng, nhớ những khi kề gối phụng dựa màn loan, nhớ cho tới tiếng nói tiếng cười, nhớ cho tới tướng đi tướng đứng. Nghĩa Hữu đứng thở ra chặc lưỡi, dạ ngùi ngùi chi xiết nỗi thương, thấy kẻ qua người lại bên đường, trông cho thấy mặt Hà Hương mà chẳng thấy. Thơ thẩn mỏi chưn không đứng, Hữu mới ngồi trên một khúc cây, tay chống trán mắt đượm nhuần, bỗng nghe có tiếng sau lưng, kêu cậu Hai vẳng vẳng. Hữu mới xoay lưng ngó lại, thấy một người bộ tướng dình dàng, mở túi ra lấy một phong thơ, trao cho cậu rồi khoanh tay đứng đó. Hữu xem thấy sự tình chưa rõ, gượng làm vui vói lấy phong thơ, bảo gã kia đứng đó mà chờ, đợi cho cậu mở thơ coi thử. Thơ rằng: Ngồi buồn tạm bút, Tỏ dạ phu lang, Kính thăm anh đôi chữ bình an, Xin quân tử nghe em phiền trách. Kể từ thuở vợ chồng xa cách, Em lần tay tính đã mấy trăng. Vì cớ chi bặt tích vắng tăm? Lời trái phải cũng không tin tới. Anh dầu có nơi nào bạn mới, Cũng cho em rõ nỗi sự tình. Làm chi em vắng vẻ một mình, Tức tối bấy đau lòng tha thiết. Nhớ bạn ngọc đoạn sầu chi xiết, Thương thầm anh tấc dạ ủ ê. Chắc mẹ cha dạy dỗ thú thê49, Nên anh biệt bấy lâu không tưởng tới. Anh dẫu có nơi nào quyền quới50, Em cũng nguyền giữ tiết cho nguyên. Trai như anh chẳng thiếu chi duyên, Gái như thiếp lại thiếu chi người bạn thắm. Nhâng mà, Niềm chồng vợ còn thương nhau lắm, Anh nỡ nào phụ rẫy cho đành. Chẳng nhớ câu giai ngẫu tự thiên thành, Nỡ quên chữ lương duơn do túc đế51. Ngồi vắng vẻ tai nghe tiếng dế, Dế kêu sầu đứt ruột đòi cơn. Đêm năm canh nằm nghĩ trách duơn, Ngày sáu khắc than thân tủi phận. Ngồi trông bạn trông rồi lại giận, Giận rồi thương, thương rất đỗi thương. Nói ra thì té lẽ phô trương, Bằng không nói nín đi thì dại. Dầu phụ thiếp cũng vài lời trái phải, Anh nỡ quên bến cũ đò xưa. Lời bạc tình bụng thiếp cũng chưa, Sao anh lại dứt đàng ô thước52. Em dầu nhớ nhớ trông tích trước, Thiếp dầu thương thương gió nhớ mây. Biết cùng ai khuya sớm cho khuây, Một mình thiếp vào ra trướng liễu. Hồi khi trước cũng không ai biểu, Anh đừng thương ai nỡ ép duyên,. Căn nợ này dầu có đảo điên, Em cũng nguyện một lòng chực tiết53, Thiếp xa bạn trời cao có biết, p ạ Em lìa anh đất thấp dễ hay. Tiết đông thiên sương lạnh54 gió day, Trời lạnh lẽo tôi nằm vắng vẻ. Buồn ngó lên thấy chim thỏ thẻ, Rầu nhìn xuống cá lội vởn vơ. Tức mình này cam giận ông tơ, Đau dạ bấy hờn thay bà nguyệt. Xe chỉ thắm xe lơi không thiệt, Chắp mối tơ chắp dối nên lìa. Anh xa em như khóa xa chìa, Chàng xa thiếp như kim xa chỉ. Ngồi mỏi mệt nghiêng mình nằm nghỉ, Ứng mộng linh xem thấy rõ ràng. Nhìn bóng anh bước tới vén màn, Ôm cổ thiếp tay choàng qua mái tóc. Thiếp ngồi dậy và mầng và55 khóc, Tỉnh giấc nồng mới biết chiêm bao. Ứng mộng linh dã dượi thêm đau, Trăm đoạn thảm chàng ôi có biết. Trăm năm giữ một lòng chực tiết, g ộ g ự Thà một mình chàng cho trọn chữ thiên kim56. Phải chi em có cánh như chim, Lén tới đó thăm chàng kẻo nhớ. Mười đêm nằm đêm nào cũng mớ57, Đợi tin chàng hè mãn qua thu. Em ngoài này khác thể như vọng phu, Chàng ở trỏng58 như cá kia gặp nước. Em dầu nhớ biết làm sao được, Dẫu mấy năm cũng phải đợi trông. Em xa anh như bướm xa bông, Chàng xa thiếp như ong lạc nhụy. Ngồi nghĩ tới dòng châu hột lụy, Đêm đêm nằm nước mắt rưng rưng. Nay gởi lời kính lạy phu quân, Sao vậy cũng dời chưn cho gặp mặt. Ký tên: Hà Hương bái 49 Thú thê: vui thú vợ con, lấy vợ. 50 Quới: quí. 51 Lương dươn do túc đế: duyên lành bởi số định trước. Túc đế là mối ràng buộc đã có từ kiếp trước. 52 Đàng ô thước: lấy tích Ngưu Lang Chức Nữ. Tương truyền Thượng đế gả con gái là Chức Nữ (nàng Dệt vải) cho Ngưu Lang (chàng Chăn trâu), song nàng vui duyên bỏ bê việc dệt vải nên Thượng đế giận, phạt hai người phải xa cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng 7 ở sông Ngân Hà. Dân gian truyền rằng đêm ấy loài quạ (ô thước) đem thân làm cầu cho Chức Nữ qua sông Ngân Hà gặp Ngưu Lang. 53 Chực tiết: nguyên bản là “trực thiết”, đây chỉnh lại như trên. Chực tiết là giữ tiết để chờ chồng. 54 Lạnh: nguyên bản là “tạnh”, đây chỉnh lại như trên. 55 Và mầng và khóc: vừa mừng vừa khóc. Và đây tức vừa (từ địa phương). 56 Thiên kim: đây có nghĩa như kim thạch (đá vàng). 57 Mớ: ngủ mơ nói thành tiếng (từ địa phương). 58 Trỏng: trong ấy, tương tự bển là bên ấy, ngoải là ngoài ấy hay ổng là ông ấy, ảnh là anh ấy, thẩy là thầy ấy... theo tập quán phát âm địa phương. Hữu đọc rồi nhào lăn ra khóc, đấm ngực kêu trời, tại bởi ai một đứa một nơi, người than kẻ khóc. Trạnh mới kể nỗi niềm tơ tóc, rằng “Cô tôi nhớ cậu trằn trọc canh thâu. Tội nghiệp cô Hai tôi thương cậu hết sức, cô tôi nói, cậu mà không ra chắc cổ cạo đầu, theo ông thầy Đương mà qui y thọ phái. Xin cậu suy đi xét lại, cuộc ở đời ai biết đặng lòng ai, bây giờ đây mới rõ bụng cô Hai, thương cậu biết để đâu cho hết. Cô tôi một hai đòi chết, để cậu lại cho an nơi, sống làm chi chồng góc biển vợ chưn trời, ngày tháng mòn hơi trông đợi”. Hữu mới nói “Thôi mày về nói lại, lối bảy giờ tao tới cô mi. Ủa... Mà thôi, mày đứng đợi tao đi về sửa sang khăn áo. Khuya mày đưa tao về, nghe không Trạnh?”. (Số 26, ngày 21. 9. 1912) Nghĩa Hữu về sửa sang khăn áo ra đi với Trạnh, dọc đàng Hữu mới nói “Từ ngày cách mặt nhau, tao cũng muốn tới lui thăm viếng lắm chút59, ngặt vì nhà cô mi dập dìu giai nhân tài tử, nhộn nhàng quới khách, vương tôn, như tới mà cô mi biết niệm tình xưa nghĩa cũ, chẳng nói làm chi, cô mi mà không nghĩ xô sấp xô ngửa ra, có phải là tàm tu mãn diện60 chăng?”. Trạnh cười mà rằng “Thưa cậu, bộ khi cậu dầu không ưa, nói thừa cho bỏ sao chớ? Mặc dầu chẳng thấy, tai cậu cũng chán nghe. Từ ngày cậu mà đuổi cô tôi về, cô tôi ăn không ngon, nằm không ngủ, năm canh thức đủ, nhan sắc kém hư, mười bữa như một, chiều ra đứng ngõ tư, chống mắt ngó mông trông cậu. Thật là khó đo được lòng người tốt xấu, đờn bà thiếu gì tay, hễ vắng mặt chồng trên bộc trong dâu, như người ta cậu nghi cũng phải, chớ như cô tôi, chim xanh đã ngăn rào, đóng cửa trước, tấn61 cửa sau mà giữ ngọc. Cô tôi nhớ cậu cho đến đỗi, năm canh trằn trọc, lòng tơ không phút đổi dời. Cô thường khi nói với tôi rằng, cùng cậu Hai thề đã nặng lời, dầu tháng đợi năm chờ bao quản. Bởi vậy cho nên, Tạ Côn dầu láng cháng62, cần gì là tôi, cô quăng thoi63 cũng hoảng64 nữa mà, vương tôn nào dám lân la, quới khách có đâu qua lại. Cậu còn nghi nữa không cậu?”. 59 Chút: ngữ khí từ cuối câu, thường dùng để nhấn mạnh. 60 Tàm tu mãn diện: vẻ xấu hổ đầy mặt. 61 Tấn: dùng vật chặn lại. 62 Láng cháng: quanh quẩn bên cạnh. 63 Quăng thoi: lấy tích “Đầu thoa chiết xỉ”. Tấn thư, Tạ Côn truyện chép nhà hàng xóm có cô gái họ Cao xinh đẹp, Côn qua trêu ghẹo, cô gái cầm cái thoi dệt ném vào mặt, Côn bị gãy hai cái răng cửa. Đây ý nói nhân vật Hà Hương cự tuyệt những người tới sàm sỡ để giữ tiết với Nghĩa Hữu. 64 Hoảng: nguyên bản là “oản”, đây đính lại như trên. Mảng luận bàn trái phải, bỗng đâu đã tới nhà, Hà Hương trong trướng bước ra, mầng Nghĩa Hữu mà sa nước mắt “Bấy lâu đành cách mặt, nay phỉ nguyền cầm sắt65 đặng vầy66. Thằng Ba Trạnh đâu, mày lại mà nằm đây, đặng lát nữa có đưa cậu mày về bển, nghe không?”. “Dạ!”. 65 Cầm sắt: hai loại đàn cổ, thường dùng để ví với tình cảm vợ chồng hòa hợp như hai loại đàn cùng tấu. 66 Vầy: sum vầy. Dặn rồi, Hà Hương đem Nghĩa Hữu vào phòng ôm nhau mà khóc òa, kể nỗi sự tình mấy trăng cách bức. Hà Hương rằng “Tự thử chí tư67, thiếp cũng ngỡ ôm tùng mà nhờ bóng, nay mà chàng chẳng nghĩ đạo vợ ngỡi chồng, đầu ấp tay gối, chàng lo bề chắp gánh thú thê, thiếp mới hay rằng, kể từ đây, cát đằng68 toan tắm mưa chải gió”. Hữu nói “Ta cũng biết phu thê là nghĩa trọng, nên dốc lòng giữ vẹn đạo hằng, tưởng trăm năm một vợ một chồng, dè đâu nỗi tiền tài phân nhơn ngãi. Cha mẹ dầu không tưởng đoái, nàng sửa sang cho phải đạo dâu, cái này không, nàng muốn kình, bây giờ đây phúc thủy nan thâu69, dầu muôn thảm ngàn sầu phải chịu, chớ biết sao bây chừ?”. Hà Hương đáp “Cuộc đời hễ trí giả thì tự xử70, chàng nghĩ lại mà coi, ngu si gì mà để đến quan phân, trên không thương nên dưới chẳng dám gần, em ôm bụng chịu ra mà đi, ấy là đương ngộ biến phải tùng quyền71 làm vậy. 67 Tự thử chí tư: từ lúc ấy đến nay. 68 Cát đằng: dây leo, văn chương xưa thường dùng chỉ thân phận phụ nữ phải nương dựa vào chồng. 69 Phúc thủy nan thâu: nước đổ rồi khó thu lại. 70Trí giả thì tự xử: Người khôn thì tự thu xếp cho mình. 71 Ngộ biến tùng quyền: gặp biến cố thì phải tùy theo hoàn cảnh mà xử sự. Quyền tức quyền nghi, chỉ việc không câu nệ khuôn phép, nguyên tắc vốn có. Tục đời hay nói nắng bề nào che theo bề nấy, em tưởng rằng viễn lự vậy vô ưu72, mong chờ ngày hiệp nghĩa thơ cưu73, hay đâu nỗi mộc lưu nan phản74. Từ ngày thiếp mà nghe thiên hạ đồn rằng, chàng cưới con Nguyệt Ba đến nay, ruột thiếp đau từng đoạn, nay may mà gặp mặt chàng như hạn gặp dào75, duyên tính làm sao, phận thiếp tính sao, chàng khá tỏ âm hao76 cho hản. Phải mà thê một77 chàng thú thê cho đáng, cái này thiếp sờ sờ đây sao chàng lại cưới con Nguyệt Ba, hay là chàng mài thiếp phải cùn chăng? Vợ chồng tự thử hướng tư78, tình mặn muối chẳng bằng, chàng nỡ phụ gối chăn từ ấy. Chàng mà bức thiếp, thiếp cũng đành phận vậy, nhưng mà thiếp lo uổng cho danh giá chàng đáng mấy hỡi chàng ôi! 72 Viễn lự vậy vô ưu: lấy ý câu “Nhân bất viễn lự tắc hữu cận ưu” (Người không lo xa ắt có họa gần). 73 Thơ cưu: tức thư cưu, chữ trong Kinh Thi, Tiểu nhã, Quan thư “Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu” (Chim thư cưu ríu rít, Chỗ cù lao trên sông. Người thục nữ yểu điệu, Phải là đôi lứa tốt của bậc quân tử), văn chương xưa dùng chỉ tình yêu mặn nồng, hôn nhân tốt đẹp. 74 Mộc lưu nan phản: cây trôi theo dòng nước khó trở lại. 75 Dào: tức mưa rào. 76 Âm hao: tin tức. 77 Thê một: vợ chết. 78 Tự thử hướng tư: từ lúc ấy đến nay. Thiếp cũng như hoa lạc nhành dẫu có nổi trôi, đem thân ra mà lưu lạc giang hồ rồi, bao quản nỗi sóng dồi gió dập. Phải mà cội liễu nảy chồi đặng gặp, nay mà vợ chồng ghét bỏ nhau, chàng cũng còn cố cập79 chút tình thâm, cuộc ái ân lời đã tận tâm, ráng mà tính giùm kẻo tội nghiệp nào, chàng mà bỏ lẫy80 ắt cát lầm ngọc trắng81”. 79 Cố cập: nhìn ngó tới. 80 Bỏ lẫy: giận mà bỏ liều. 81 Cát lầm ngọc trắng: tức ngọc lầm cát trắng, ví với người trong trắng cao quí bị vùi dập đọa đày. Hữu nghe nói làm thinh lẳng lặng, hình như nín mà nghe ca bài Vọng phu, đờn bản Oán Tần cung. Hà Hương thêm núng má hồng, Nghĩa Hữu càng trông càng khoái. Thương quá nên hóa dại, Hữu không nói được một lời, ôm vợ mà hun dường như bướm lại với hoa, nhan sắc thiệt mặn mà! Hữu uống nước lao canh82 mà còn khát! 82 Lao canh: uống no nước. Nói về cậu Ba Trạnh, Hà Hương biểu nằm trên ván trước đặng khuya có đưa Nghĩa Hữu về, hồi đó trống đã trở canh ba, mà Trạnh cũng là chưa ngủ, song không hiểu Trạnh mơ tưởng chuyện gì mà nằm lăn qua lộn lại hoài. Thình lình Trạnh vụt ngồi dậy, bộ mặt sợ hãi, dường như vào rừng mà ngộ chúa sơn lâm, ý Trạnh muốn đâm sầm chạy vô buồng mà kêu cô cậu. Cũng vì từ đầu hôm cho tới đó, Trạnh lóng nghe cặn kẽ đuôi đầu, bây giờ sao lại im lìm, Trạnh tưởng vợ chồng rủ nhau tự tử! Trạnh mới tính vào phòng coi thử, chẳng dè thòng chưn chưa tới đất, Trạnh sực nhớ lại, vụt nói lớn rằng “Phải rồi, phải rồi. Ấy là tình ong cũ với83 hoa xưa!”. Hà Hương hỏi Trạnh nói giống gì? Trạnh nói tôi chường84 thưa, cậu Hai về kẻo sáng. Hà Hương làm thinh, một chặp được chừng mười phút đồng hồ, mới nghe Nghĩa Hữu xỏ chưn vô giày, rồi nói rằng “Thôi, để tôi về, tối mai mình với thằng Ba Trạnh vô khỏi nhà thầy Cai một đỗi, đứng đó chờ tôi ra đi với”. (Số 27, ngày 28. 9. 1912) 83 Với: nguyên bản là “vội”, đây đính lại như trên. 84 Chường: trình. Hà Hương theo ra đưa Nghĩa Hữu, biểu Trạnh khêu rọi đàng đi trước, vợ chồng dõi bước theo sau, tội nghiệp Nghĩa Hữu nghe Hà Hương thút thít chừng nào, ruột thêm đau như cắt. Hà Hương mới nói “Đêm nay vợ chồng hiệp mặt, khúc độc85 đã tỏ bày, như phận tôi bây chừ, chặt lỏng cũng ở tay, nhờ ơn chàng tế độ. Xin chàng hãy hết lòng chiếu cố, mựa chấp nê giận lẫy khổ thân tôi, thành lỡ tan chàng ra sức đắp bồi, loan phụng mới sánh đôi như trước. 85 Khúc độc: rãnh nước quanh co, đây chỉ điều sâu kín tế nhị trong lòng. Lời tục nói: Nước mà đổ hất khó hốt đầy lại được, như ai kia mà rằng, chớ như chàng mà còn thương, dầu cho chuyện ngược tính cũng xuôi”. Choàng tay ôm Nghĩa Hữu mà khóc vùi, Hữu thấy vậy cũng khôn nguôi tấc dạ. Tiếng đời ví nghĩ ra phải quá: Thật là sắc bất ba đào mà thành ngã quán xiêu. Ngọn đuốc soi hai má ửng điều, Hữu trông thấy càng đắm yêu nhan sắc. Hữu mới nói “Nàng chớ vội tuôn rơi nước mắt, chẳng nay thời mai, chẳng mai thời mốt vợ chồng ta cũng đắc tương phùng, cùng nhau sao chăn gối đã chung, lẽ nào lại phụ nhau sao phải”. Hà Hương nói “Xin chàng hãy suy đi xét lại, biết lòng trên tưởng đoái cùng chăng? Thiếp thương chàng vẹn đủ mười phân, vậy mà thiếp hãy còn lo, lo biển ái với nguồn ân lơ lảng”. Hữu rằng “Trên dẫu chẳng nghĩ tình đành đoạn, anh nguyền không rẽ phụng lìa loan. Thà cùng nhau thác xuống suối vàng, cho trọn nghĩa tào khang86 từ ấy”. Hà Hương nói “Chàng chẳng xét nỡ phân như vậy, đạo sanh thành dám lấy làm khinh, vì chi một nét chữ tình, chàng nghĩ lại đó mà coi, đi thất hiếu hủy mình sao phải. Chàng có than thỉ87 ỉ ôi cho lắm, cha mẹ dầu tưởng đoái, còn cục nợ oan gia là con Nguyệt Ba chàng giao lại cho ai? Đờn bà ai cũng như nấy, dễ nào đành cho chồng một vợ hai, thà một gáo một chĩnh88, dầu có khó đói ăn một ngày một bữa. Thiếp mới hay con Nguyệt Ba đà có chửa, lẽ nào vì một tôi cho hư cửa hại nhà”. 86 Tào khang: tức tao khang (bã rượu và cám). Tống Hoằng thời Hán được công chúa Hồ Dương để ý, Hán Quang Vũ muốn gả công chúa cho Hoằng, Hoằng từ tạ nói “Tao khang chi thê bất khả hạ đường” (Người vợ cùng ăn cám và bả rượu với mình lúc nghèo hèn không thể đặt ở thềm dưới), ý nói không phụ vợ cũ. 87 Than thỉ: than thở. 88 Một gáo một chĩnh: chĩnh là cái lu nhỏ đựng nước. Một gáo một chĩnh đây ý nói chỉ một vợ một chồng. Hữu nghe thấm ngấm thở ra, nhớ đến Nguyệt Ba mà nổi ốc. (Tánh sợ vợ mà hay nói bốc89, chuyện này lậu90ra, con Nguyệt Ba nó mà không kéo đầu thì cũng níu óc phải chơi. – LHM). Ngần ngừ chàng mới bày lời “Làm trai đứng trong đời xử thế. Tay co mà vững, dầu việc chi cũng dễ, một vai gánh hai thùng, nó mà không nghe thì ta phế nó để chi, nàng đừng lo, có đàng dài mới biết sức ngựa91 đi, nói thì nói vậy chớ nay chưa biết lẽ gì cho chắc”. “Thưa cậu tới nhà92”. Hà Hương nói “Thôi mình vô đi, tối mai tôi với thằng Trạnh đợi mình trước nhà thầy Cai, mình nhớ ra đi, đừng quên nghé93”. 89 Nói bốc: huênh hoang. 90 Lậu: lộ. 91 Đàng dài mới biết sức ngựa: lấy ý câu “Trường đồ tri mã lực”. 92 Thưa cậu tới nhà: cả bản in báo và bản in sách đều có bốn chữ này, có lẽ là lời của nhân vật Ba Trạnh. 93 Nghé: giống như “nhé”,“nhe”,“nha”. Qua đêm sau, trời vừa tối, Hà Hương kêu Trạnh đi, tới trước cửa ngõ thầy Cai đứng đợi, tới khuya mà không thấy Nghĩa Hữu ra, chẳng biết làm sao mà thất tín. Bỗng đâu trời nổi giông nổi gió, mưa đổ như xối, Hà Hương với Trạnh mới chạy vô cửa ngõ nhà thầy Cai mà đụt. Cửa thì nhỏ mưa thì lớn, nên Hà Hương quần áo ướt dầm, lạnh run bây bẩy. Nhà thầy Cai chung quanh có rào một vuông tre rậm rạp, trước cửa ngõ lại có một cây liễu che phủ xủ nhành, trước thì lộ quan94, ba bên thì ruộng rẫy. Giọt mưa tuôn rỉ rả, tiếng dế khóc bên thềm, Hà Hương nghĩ đến nỗi niềm, ruột đau từ95 đoạn. Gió thổi đờn tre nghe thảm thiết còn cây liễu thì mưa nhỏ sa giọt vắn giọt dài. Hà Hương mới ngâm một bài, than thân trách phận. 94 Lộ quan: đường cái quan. 95 Từ: từng (từ địa phương). Thơ rằng: Lã chã mưa sa điểm bạc đầu, Mịt mù mây phủ biết là đâu! Trước than tiếng đổ muôn ngàn thảm, Liễu khóc lụy tuôn mấy đoạn sầu. Người lánh trong màn ôm dạ nhớ, Kẻ ra chờ ngõ quặn lòng đau, Ai trêu duyên thiếp chi cho rối, Tan hiệp dường ni hận biết bao. (Số 28, ngày 5. 10. 1912) Hà Hương ngâm thơ rồi ngồi sa nước mắt, nghĩ nỗi cay đắng ngậm ngùi, oán Nguyệt Ba bất tận, đợi Nghĩa Hữu tới đầu canh ba mà chẳng thấy, liền tắm mưa mà trở lại nhà, sầu thảm biết sao kể xiết. Về tới nhà, Hà Hương thay đồ rồi nằm lăn qua lộn lại, giấc nhắp96 chẳng yên, nghĩ chẳng biết làm sao, mà tình nhân thất tín. Sáng ngày Hà Hương ớn lạnh, ngáp chảy nước mắt sống, dã dượi muốn đau, tại bị dầm mưa, phần thì năm canh thức đủ. Chiều lại Hà Hương kêu Trạnh biểu rằng “Mi hãy đi vô trong xóm, dọ coi tin tức làm sao? Nói với cậu mi tao nhuốm bịnh đau, mời ra cho tao nói chuyện”. 96 Nhắp: ngủ (từ cổ). Nói về Nghĩa Hữu, về tới nhà đà gần sáng, kêu Nguyệt Ba mở cửa bước vào, Nguyệt Ba mới hỏi âm hao, theo con nào mà khuya vậy? Hữu nói “Mới ra gặp thầy Cai liền cậy, đi ra làng với thẩy mới về, con nào đâu trong chốn nhà quê, đừng có bắt chước ghen tuông xấu lắm nà, cứ giữ việc gia tề nội trợ, thì hay hơn mà”. Nguyệt Ba nói “Chàng mựa vì bưởi bòng một dạ, như ai kia chớ như thiếp, chàng đừng cho vàng đá lộn nhau, hễ có nói thì chàng nói rằng ghen, thiếp mà gián can là vì thiếp sợ e sắc bất ba đào97, chàng nhắm trước xem sau mà coi, anh hùng lụy biết bao mà kể. Mảng có vậy đó, cho nên chồng bỏ vợ thiếu gì trong thế, đắm sắc rồi chẳng kể thân danh, cửa nhà tan thiên hạ khi98 mình, sự sản nát cũng vì tình với sắc. Lạ chi giống phấn son trêu trước mặt, tưởng đồng tiền chớ tình thật chẳng thương, coi thì bảnh bao mà như thây ma để giữa đường, thơm chi đó yêu thương lắm bấy. Cũng hiếm99 kẻ ham vui quên quấy, rủi lầm mang bịnh (ấy) khốn thay, vui với ai sướng với ai, chừng đau ốm lại hành con đày vợ. Chàng tính lại coi, hoa thiếp đã gần ngày nở, chàng không lo giúp đỡ cho nhau, xin chàng thương xét trước nghĩ sau, nghe thiếp kể âm hao mà từ bỏ”. Hữu chối một hai không có “Bậu can chi phải đón ngõ ngăn rào, bấy lâu nay chăn gối làm sao, nay lại bắt chước chị nào mà ghen quấy”. 97 Sắc bất ba đào: tức “Sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Sắc đẹp không có sóng mà dễ làm người chết đuối). 98 Khi: khinh khi, coi thường. 99 Hiếm: nhiều, lắm (từ cổ). Canh gà đâu vội giục, Nguyệt Ba ra thức giấc tớ nhà, vợ chồng họ Đậu bước ra, mới hỏi Nguyệt Ba cho biết “Vậy chớ thằng Hữu đêm nay nó đi đâu mất biệt, mi khá phân cho thiệt đường nào?”. Nguyệt Ba chưa biết tính làm sao, sự thật lẽ nào gian dối, rằng “Nghĩa Hữu đắm say quên lối, mê nguyệt hoa lặn lội canh khuya, đầu canh tư Hữu mới trở về, lại còn nói văn kia thể nọ”. Họ Đậu giận hét la rầy ó, Hữu làm thinh chẳng có một lời, mẹ cha mắng nhiếc tơi bời, rồi mới tính việc cầu trời khấn Phật. “Hữu, mi mau khá thuê thuyền cho chắc, kêu bạn bè100 chèo chống thật hay, mai ngày rằm hai đứa bay phải ăn chay, sắm hoa quả cho vợ chồng bây vô chùa Bà mà khấn vái”. Vừa dứt tiếng bỗng đâu đã thấy bốn người vào đứng cửa xin ăn, đội nón tròn đầu chẳng có khăn, áo vạt hò101 quấn ngang đầu gối, đi câu mà bị bão tố mới ra thân trôi nổi, gạo muối không lưng túi cũng vắng tanh. Vợ chồng họ Đậu hiền lành, nghe nói vậy chẳng đành bỏ quá, mới hối trẻ dọn cơm cùng cá, cho bốn người đỡ dạ kẻo thương, ăn no rồi bốn cậu mới chường, ơn ông bà sánh tày sông biển. Họ Đậu mới bày ra hỏi chuyện, làm nghề câu khi chèo chống chắc hay, như thạo nghề thì tôi mướn ít ngày, đặng có đi vô Hương Điểm. Bốn cậu vòng tay đứng bẩm, ơn ông bà sánh tợ đất trời, như tưởng tới chúng tôi, thì chúng tôi nguyền ra sức. Việc chi thì bất lực, nghề chèo ghe hay thật hẳn hòi, trôi muôn dòng tôi cũng biết mòi, đi sóng nhỏ mà kể gì, ra giữa biển tôi nằm coi sao mà chạy kia chớ! (Giỏi vậy sao còn bị bão, cậu? – LHM). Họ Đậu nghe qua đẹp ý, mới cầm ở lại mai đi, Đậu bèn sai Nghĩa Hữu tức thì, thuê thuyền sẵn ngày mai chực bến. 100 Bạn bè: người làm thuê (từ địa phương). 101 Vạt hò: vạt áo nhọn đầu về phía tra nút. Qua bữa sau, lối bốn giờ chiều, cơm nước xong xuôi, Nguyệt Ba với một con đòi, biểu bốn bạn bưng hoa quả xuống thuyền ra bến. Họ Đậu mới hỏi “Hữu, sao mày ở lại, không đi cho có bạn với vợ mày?”. Hữu đáp rằng “Chóng mặt chóng mày, nên tính đi không tiện”. Dè đâu ghe lui vừa khỏi bến, Hữu tót qua trò chuyện với Hà Hương, hai đứa thấy nhau rồi, thì tỷ như ruồi mà gặp mật đường. Ôi! Kể sao xiết nỗi thương nỗi nhớ. (Số 29, ngày 12. 10. 1912) Nói về Nguyệt Ba, thuyền ra đi một đỗi, sóng gió nổi ba đào, thuyền thì nhỏ sóng lại to, sợ có rủi ro mà thiệt mạng, Nguyệt Ba mới khiến bạn chèo vô rạch, đậu lại đó núp, chờ cho gió ngã sóng tan, chẳng dè đợi càng khuya giông càng lớn. Trời thì mưa đổ tuôn như xối, nào lái nào bạn y khậu102 ướt dầm, lại thêm gió thổi rất lạnh lùng, Nguyệt Ba trùm chiếu nằm co rút. Nguyệt Ba mới biểu con thị tỳ rót nước, đem lại uống cho ấm lòng, uống rồi cũng trùm lại mà nằm, tay chưn run bẩy bẩy. Con thị tỳ lén uống chơi ba hớp, rồi cũng chun vô kiếm chỗ nằm khoanh, đến chừng khuya mưa tạnh gió êm, bạn mới lui ghe tách dặm. Đàng không xa mà ghe đi không thấy tới, chèo sáng đêm mà bạn hãy còn chèo, còn Nguyệt Ba với con thị tỳ, mặt trời mọc mà hãy còn nằm êm giấc. 102 Y khậu: tức y khố (áo quần) đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu. Trời đà tròn bóng, Nguyệt Ba cũng còn nằm ngáy pho pho, cho tới con thị tỳ, cũng là bắt chước chủ nằm không cục cựa. Bạn mới thả ghe trôi ra sau vầy103 lửa, nấu ba hột cơm xúm lại đỡ lòng. Ủa lạ này! Đi Hương Điểm sao lại tới Cù lao Rồng, còn ghe bầu nào neo đây, mà có cậu Trạnh leo lên mui đứng ngó chuyện chi chưa rõ. Trạnh ngoắt kêu ghe nhỏ, chèo riết tới cặp ghe bầu, đôi đàng to nhỏ hồi lâu, Trạnh mới bước qua tiểu thoàn104, lột của Nguyệt Ba hai đôi vàng và ba lượng chuỗi. Chuỗi thì Trạnh thòng vô túi, còn vàng thì đem đưa cho chú lái ghe bầu. Chuyện vãn một đỗi cũng lâu, Trạnh mới biểu bạn khiêng Nguyệt Ba với thị tỳ bỏ qua ghe bầu lập tức. Đoạn rồi đôi đàng từ giã, ghe nhỏ mới xô ra, Trạnh biểu bạn gầy chèo, chèo tuốt qua Rạch Miễu. Tới nơi bốn tên bạn thay quần đổi áo, rồi nhảy phóc lên bờ theo Trạnh bỏ ghe, đạp bộ về Bến Tre, tới nhà đã gần sáng. Trạnh với bạn bước vào nói nhỏ cho Hà Hương đặng hản105, việc tính xong về báo công than106, Hà Hương mầng thưởng bạc lại cho Trạnh một cái khâu vàng, còn hứa mai ra phố mua lãnh107 xé hàng cho bay may quần may áo. 103 Vầy: nhóm. 104 Thoàn: thuyền. 105 Hản: biết rõ. 106 Công than: đây có nghĩa như công lao. 107 Lãnh: loại vải tốt mặt mịn bóng. Số là bữa diếp108 Hà Hương có sai Trạnh vô kêu Nghĩa Hữu, và dọ coi tin tức làm sao. Trạnh về nói rằng Nguyệt Ba sửa soạn đi chùa, dâng hương cầu khẩn. Hà Hương nghe mầng dạ, mới biểu bốn đứa thì giả dạng xin ăn, đặng lãnh việc chèo thuyền, có tùy cơ ứng biến. Hà Hương trao ra một gói, dặn dò cặn kẽ trước sau, còn Trạnh thì tuốt qua trước bên Mỹ Tho, giao kết với ghe bầu chở ra biển Đông mà nịch thủy109. Bởi vậy lúc núp giông Nguyệt Ba với con thị tỳ uống nước, lầm thuốc mê nên nằm mà ngáy pho pho, còn Trạnh thì lúc thuyền tới Cù lao Rồng, đã có Trạnh đứng trên ghe bầu chực sẵn. 108 Bữa diếp: bữa trước (từ cổ). 109 Nịch thủy: nhấn xuống nước cho chết đuối. Nói về lái ghe bầu lãnh vàng rồi hối bạn kéo neo lên chạy, chiều tối ra khỏi Vũng Tàu, gặp gió thẳng buồm, lái bạn mới xúm nhau ngồi vây vòng nói chuyện. Lái rằng “Hai đôi vàng ta lãnh đây tính làm sao? Chẳng lẽ chịu lãnh của người mà không ra sức? Còn hai con này tôi mới cho nó hít thêm thuốc mê hồi trưa, bây giờ đây nó cũng đã gần tỉnh dậy. Vậy thời vàng này tôi chia cho anh lái phụ với bốn anh bạn ba chiếc, còn một chiếc thì phần lái chánh là tôi. Bây giờ đây cũng đã tối rồi, anh em lãnh lấy của đặng mà ra tay quăng xuống biển cho rồi đi”. Lái phụ liền lãnh lấy, rồi kêu nhau xúm lại mà khiêng, có anh bạn đang nấu nước phía sau, chạy tới biểu khoan khoan mà cản lại. Bọn kia mới hỏi, có chuyện chi thằng Ó nó làm kỳ,“Ó, vậy chớ mày còn ức hiếp nỗi gì, mà mày ra mà tranh cản”. Ó rằng “Khoan đã, khoan đã, mau ngừng tay tôi phân cạn đầu đuôi, từ hồi sớm mai tới bây giờ tôi đánh chữ làm thinh, là vì tưởng lòng anh em cũng như tôi vậy. Anh em nghĩ lại đó mà coi, thân ai như thân nấy, nay mà mình ham tài ra mà hại mạng người, của ấy đáng mấy mươi, mà nỡ sát sanh hai mạng. Lại thêm vàng ấy cũng chẳng phải là vàng đem mướn, nó lột của con này mà trao lại cho ta, nếu mình chẳng biết xét xa, có phải là mang lỗi cùng trời đất. Bởi thù oán nó tá tha nhơn chi thủ110, mình dại chi mà buộc tội lấy mình, hễ ăn của người thì cũng hộ cho người, vàng thì là vàng của con này, có lẽ nào mình không hộ nó. Lời tôi đà cạn tỏ, anh em nghe rõ sự tình, vậy thời anh em hãy cho tôi xin, đừng hại nó làm chi tội nghiệp. Vàng vòng thì anh em chia nhau xài dụng, còn hai đứa này thôi anh em cho tôi lãnh dưỡng nuôi, ở dương gian mà cứu đặng mạng người, trời đất há chẳng thương người phải”. Lái bạn đều nghĩ lại, mới đành cho Ó làm nhơn. Ó mới lật đật đi mài thuốc mà giải mê, đổ nước cháo cho Nguyệt Ba với con thị tỳ tỉnh lại. Mở mắt thấy minh mông đại hải, Nguyệt Ba mới hỏi “Thuyền nào đây, lái bạn nào đây? Thị tỳ!”. Nguyệt Ba kêu thị tỳ mà thị tỳ còn ngầy ngật chưa an, nghe, muốn dậy mà không phang ngồi dậy. 110 Tá tha nhơn chi thủ: nguyên bản là “Tá tha nhơn chi thú”, đây đính lại như trên. Tá tha nhơn chi thủ là mượn tay người khác. Ó thuật lại, chuyện như vầy đành vậy, theo ta về nương náu chờ tin, giữa biển Đông sau trước một mình, nàng phải ráng làm thinh rồi sẽ tính. Nguyệt Ba say mới tỉnh, nghe nói liền phách lạc hồn phi, Nguyệt Ba ngồi lạy Ó tức thì, xin tưởng chữ ái ô cập ốc111. Ó mới nói “Nàng khoan bày khúc độc, để tới nhà rồi sẽ cạn phân, thoàn tới đây thời cũng đã gần, thôi, nàng ăn ba miếng cháo đỡ lòng rồi nghỉ”. 111 Ái ô cập ốc: tức “Ái ốc cập ô” (yêu nhà yêu cả con quạ trên nóc nhà). Sáng ngày thoàn tới Hòn Bà, là chỗ nhà Ó ở. Bạn bè ghé lại, cho Ó lên bờ, Ó đem Nguyệt Ba với thị tỳ lên rồi, bạn dựng buồm chỉ dặm112. Số là thoàn ở ngoài Phan Rí, Ó quá giang113 gởi bán cá khô, may đâu cứu đặng hai cô, dẫn về trình với mẹ. Ó thì chưa có vợ, còn mẹ già ngày tháng phụng thờ. Mẹ Ó nghe mới rõ tri cơ, ngồi ngắm Nguyệt Ba mà khen thầm trong bụng. Rõ ràng mày tằm mắt phụng, má phấn môi son, mẹ Ó mới hỏi “Nhơn việc chi mà lâm nạn vậy hỡi con, cha mẹ dường nào khá nói?”. Nguyệt Ba ngồi nghe hỏi, mắt đượm nhuần quì lạy tỏ phân “Cha mẹ tôi nhà ở chẳng gần, bởi lầm kế mới ra thân cực khổ. Cha mẹ chồng tôi là người giàu có, chuyện như vầy nào rõ đặng đâu, từ ngày tôi vào cửa làm dâu, trên dưới thảy thuận hòa yêu mến. Bởi vì tôi mang mển114, nên mới thuê thuyền đi đến tự115 dưng hương, ai dè đâu chưa đặng nửa đường, trời nổi trận phong ba quá đỗi, phần thì trời đã tối, mới ghé thuyền vào rạch núp giông, bị mưa sa mình lạnh như đồng, tưởng uống nước cho ấm lòng đỡ lạnh, dè đâu, uống một lát mê man bất tỉnh, nằm như say nào có biết chi, bạn bè thì cứ việc chèo đi, thân tôi dường như chết. Chừng tỉnh lại nghe ân nhơn nói hết, mới biết rằng kế của con Hà Hương nó quyết hại tôi. Xưa nó là vợ trước chồng tôi, bởi tại nó lứa đôi rời rã. Chừng họ Đậu đi nói, cha tôi chịu gả, nó lại đến mà khuấy phá cho lỡ duyên, may đâu nhờ giai ngẫu tại thiên, phá không đặng, nó lại tính riêng thế khác. Bởi chồng tôi chẳng nghe tôi mà tự tác, nó đỏng đưa câu hát giọng đờn, chồng tôi mê nên cạn tỏ nguồn cơn, nó mới là rõ tôi đi chùa mà lập kế. Nó cho những là tay chưn vai vế, giả làm là người lỡ bước xin ăn, bây giờ đây tôi hiểu rõ ràng, người qua Mỹ Tho đó là thằng Ba Trạnh. Bởi gia môn hữu hạnh, mới khiến cho ân nhơn chịu lãnh đặng tồn sanh, chuyện đầu đuôi tôi đã phân minh, xin bà thương tưởng tình chiếu cố. Sau dầu đặng khúc oan này tỏ, mẹ cha tôi nghe rõ sự tình, ơn đức bà cứu tử hoàn sinh, muôn kiếp cũng còn ghi dạ”. 112 Chỉ dặm: lên đường. 113 Quá giang: qua sông, trong phương ngữ Nam Bộ thường được dùng với ý nghĩa đi nhờ. 114 Mang mển: tức có mang, trong phương ngữ Nam Bộ chơi chữ thành mang mển. Mang mển là hai loài vật loại hươu nai. 115 Tự: chùa. Mẹ Ó nghe thương quá, mới đành lòng nuôi dưỡng tháng ngày, thấy Nguyệt Ba hoa đã hầu khai, mẹ Ó lo sắm tiêu sắm nghệ. Thương Nguyệt Ba như là con đẻ, bởi vì thấy Nguyệt Ba thủ lễ đủ điều. Tuy vậy mà Nguyệt Ba ruột thắt chín chiều, sầu thảm biết bao nhiêu mà kể. (Số 30, ngày 19. 10. 1912) Thoảng mảng ngày qua tháng lại, Nguyệt Ba đã khai hoa, tội nghiệp thì thôi, trổ nam nhi mà chẳng thấy mặt cha, nhờ mẹ Ó vô ra săn sóc. Nguyệt Ba nghĩ đến niềm tơ tóc, tay bồng con mắt khóc chan hòa, nỗi oán vưu116 cũng tại chồng ta, tham sắc mới ra đến nước. “Con ôi! Mẹ những dầu vô phước, chốn Diêm đài lạc bước khốn thay, con nằm đây khát sữa bú tay, ai bồng ẵm cậy ai nuôi dưỡng. Vái trời đất xét soi rộng lượng, độ mẹ con tôi cho đặng thân an, sau những dầu hội hiệp nhứt tràng, khúc oan ấy lượng quan minh đoán”. Nhìn mặt trẻ lụy tuôn lai láng, mẹ Ó nghe sợ hoảng can rằng “Con mựa đừng tính việc lăng quăng, mà sanh rối bề ăn lẽ ở. Bởi con dại nên con không sợ, việc lâm bồn khó tợ quá giang, vái trời cho con được bình an, khá bỏ hết khúc oan đừng tưởng tới. Con thương trẻ phải tua117 nghĩ lại, nếu mà thán oán hoài họa khởi nan lương118, chốn cùng cư119 biết liệu hà phương, nơi Sằn dã120 biết đường nào lo chạy. Sau con đặng quê xưa trở lại, có phải là vợ gặp chồng con dại gặp cha, mặc tình con khống cáo giữa quan nha, đây mà con có khóc la ai biết. Thôi, con khá nghe già, từ quyết, đừng nhớ chi những việc ngày xưa. Khá giữ gìn cho ngon bữa sớm trưa, như vậy mới vừa lòng mụ”. Nguyệt Ba hứa bỏ qua chuyện cũ, cảm tạ tình dưỡng mẫu đoái thương. Ngày tháng qua thấm thoát lạ dường, Nguyệt Ba đẻ đã đầy tháng chẵn. Lễ chi cúng mụ bà cho đặng, chốn thú quê muối mặn với cơm thô. Vái làm đám xin mụ chứng cho, thân trôi nổi đói no chưa dễ. 116 Oán vưu: nguyên bản là “oan vu”, đây đính lại như trên. Oán vưu lấy từ câu “Bất oán thiên hề bất vưu nhân” (Không oán trời cũng không giận người). 117 Tua: nên. 118 Thán oán hoài họa khởi nan lường: nguyên bản là “thán oán hoài ọa khởi nan lương”, đây chỉnh lại như trên. Câu này có nghĩa là nếu cứ than vãn, oán trách thì có thể có tai họa khó lường xảy ra. 119 Cùng cư: nguyên bản là “cồn cư”, đây đính lại như trên. Cùng cư là ở nơi xa vắng, hẻo lánh. 120 Sằn dã: nguyên bản là “sằn giã”, đây chỉnh lại như trên. Đây lấy tích Y Doãn trước khi giúp vua Thành Thang nhà Thương thì cày ruộng ở đất Sằn, chỉ việc ẩn dật. Tuy nhiên trong văn học viết Nam Bộ thời Pháp thuộc từ này thường được dùng chỉ cảnh quê mùa, nghèo hèn. Mẹ Ó hỏi lấy tên chi mà đặt để, Nguyệt Ba rằng tự mẹ liệu toan, mẹ Ó liền đặt nó tên Thoàn, đặng mà để tích mắc nàn giữa biển. Nói về vợ chồng Đậu Nghĩa Sơn ở nhà trông dâu càng ngày càng bặt, chưa hay đàng sá làm sao, mới sai người vô Hương Điểm hỏi coi, duyên cớ thế nào cho biết. Còn Hữu thì từ bữa Nguyệt Ba lui thuyền đi biệt, tuốt qua Hà Hương mà ràng rịt ngày đêm, chẳng lo tới việc nhà, chẳng tưởng tới Nguyệt Ba đàng sá. Ngày ấy, Hữu với Hà Hương đương hỉ hả, đang đờn ca trà rượu thỏa thuê, bỗng đâu có trẻ vào kêu, cậu về cho ông bà dạy chuyện. Hữu mới hỏi có chuyện chi mà kêu vậy? Trẻ nói rằng “Cô đi tới nay mà chẳng thấy về”. Hữu mới sực nhớ hiền thê. Hà Hương ngồi cười chúm chím. Hữu ngưng chén ra về một nước, bước vô nhà vắng trước quạnh sau. Vợ chồng họ Đậu hối Hữu cho mau, vô thăm hỏi lẽ nào cho biết. Còn vợ họ Đậu thì tuốt qua sui gia mà nói. Cậu Trần với mợ Liến sợ bâng khuâng. Mụ Lưu hoảng chạy tưng bừng, chưa mấy phút xóm làng hay hết. Chiều lại Hữu trở về nói lại “Tìm chẳng đặng Nguyệt Ba, chẳng biết thuyền xiêu lạc chốn nào, không có đi vô Hương Điểm. Tôi hỏi đà cặn kẽ, những người quen lối chợ, không ai thấy nó vô, tôi sợ e bữa nó đi bị một đám giông, nên thuyền trôi qua Mỹ121 chăng?”. 121 Mỹ: tức Mỹ Tho nói tắt. Vợ họ Đậu nói “Thôi để tao ra thầy Cai cáo báo, đặng cho quan tìm kiếm thử coi”. Thầy Cai mới lấy lời khai, làm phúc bẩm giải ra Biện lý. Quan Biện lý mới hỏi qua ngày tháng, đi ngày nào, ra bến giờ nào? Đi dưới chiếc ghe nào? Dài rộng dường bao khá nói? Có ai theo cùng chăng, bạn bè mấy đứa tên gì? Họ Đậu mới bẩm quì, đi có thị tỳ theo dõi, thuyền thuê bến tên Lối, dáng ghe bầu chở đặng thiên hai122, bạn bè không quen biết mặt ai, bốn người lạ mướn vô chèo chống. Biện lý hỏi “Vậy mà có đeo vàng đeo chuỗi, hay là mình không với hoa quả mà thôi?”. Đậu khai rằng vàng được hai đôi, chuỗi cũng chừng vài lượng. Biện lý quở “Cớ sao làm chướng, bạn lạ lùng mà dám mướn vô chèo, lại còn đeo vàng theo giục ý đứa nghèo, tham làm quấy ai theo mà đỡ cho. Thôi khá về nhà hỏi dọ, để cho quan lớn truy tầm”, nói rồi bút nọ liền cầm, viết dây thép123 hỏi thăm các tỉnh. 122 Thiên hai: một ngàn hai (1.200), đây có lẽ là 1.200 giạ lúa. 123 Viết dây thép: viết điện tín gửi đi. Nói về mụ Lưu nghe Nguyệt Ba bặt tích, ngoài mặt thì làm bộ buồn, trong bụng lại vui, bèn tuốt qua méc thót với Hà Hương, công cuộc Nguyệt Ba lâm nạn. Tưởng là Hà Hương không hản, ai dè đâu nó biết chán đầu đuôi, gặp Hà Hương bà mụ mầng vui, đâu124 đầu lại nhỏ to chuyện vãn “Nguyệt Ba đà lâm nạn, kể từ đây cháu đặng ở an, mầng cho khỏi lỡ gối chăn, phải mà còn nó, cháu ắt lỡ làng duyên nợ”. Hà Hương mầng tở mở, mới nói “Dây buộc rồi ai gỡ cho ra, cớ đỗi này cũng tại Nguyệt Ba, giành chồng cháu mới là thọ hại, nó mà biết nghĩ điều trái phải, xưa hồi tâm trả nợ lại cho tôi, có đâu nay ra phận nổi trôi, đáng kiếp đứa bạc vôi dường ấy. Gặp tay tôi còn chi mà trông cậy, lầm kế cháu sống lại đặng đâu, giết nó rồi mới hết lo âu, bằng để nó cháu buồn rầu khôn xiết. Mưu tôi đặt quỉ thần khó biết, trời cao nào mà rõ việc thâm sâu. Bà là bà tôi, tôi mới nói thiệt hết đuôi đầu, ráng mà kín miệng kẻo đâu họa tới”. 124 Đâu: chụm lại (từ địa phương). Mụ Lưu cười mà rằng “Vậy mà bà không hiểu, nên bà mới tỏ phân, trí của con thiệt ít kẻ bằng, kế của cháu quỉ thần khó biết. Thôi cháu phải ráng cột thằng Hữu qua mà o riết, đặng vợ chồng vầy hiệp nhứt gia, họ Đậu mà có không ưa cũng không sao, chừng nào thằng Hữu mà nó ghét con, con mới bước ra, mụ gia mà ghét cứ đi vào mà ngủ. Thôi, bà về cháu”. (Số 31, ngày 31. 10. 1912) Nói về Nghĩa Hữu đêm nằm thao thức, thương tưởng Nguyệt Ba, bèn vội dậy đốt đèn, ngồi khoanh tay mà ngó. Hữu nghĩ rằng “Ngày Nguyệt Ba đi, thai đà tám tháng, chẳng lẽ Nguyệt Ba còn lòng dục thói dâm ô, còn như ghe mà chìm, chẳng lẽ bạn bè không ai thoát nạn. Dầu cho mà thọ hại, và bạn và lái chẳng còn, thì làng xóm cũng gặp thây, có lẽ nào đi luôn và hồn và xác. Chuyện xét ra cũng lạ, e cho Nguyệt Ba lâm kế độc của...”. Nghĩa Hữu muốn nói kế độc của Hà Hương, mà nói tới đó lại ngừng, dường như ai bụm miệng. Cuộc ái ân liền khiến, Hữu động lòng thương nhớ Hà Hương, Hữu mới bước lại giường, nằm thở ra mà chặc lưỡi. Giấc hòe chưa mê muội, chiêm bao thấy tủi lòng, thấy Nguyệt Ba mang mển tới cửa phòng, vén trướng kêu chồng đàm đạo. Hữu dậy ngồi ngơ ngáo, đôi mắt đà không ráo dòng châu, nghĩ tức mình chẳng biết tại đâu, nên nệm chích125 gối nghiêng sầu trăm đoạn. “Ta cũng nguyện uống hờn ăn oán, mày đừng có trách, nghé, mày hại vợ tao lâm nạn hỡi Hà...”. Cơ khổ thì thôi, Hữu nghiến răng nói tới chữ Hà, bỗng nhớ sắc mặn mà nín mất. Nỗi thương đà khó dứt, Hữu lấy khăn lật đật đi ra, kêu trẻ dậy coi nhà, Hữu tuốt qua Hà thị. Qua tới nơi trong nhà đều nghỉ, Hữu mới kêu Hà thị dậy đốt đèn, tay thì chặm mắt chùi ghèn, tay nọ giở then mở cửa. Khá khen cho đôi lứa, gặp mặt nhau như lửa với rơm. 125 Chích: một mình. Hữu mà thấy Hương như đói thấy cơm, nào tưởng việc trả hờn cho vợ. Hữu bước vào hăm hở, Hà Hương mầng tở mở ôm hun, nỗi thương kể chẳng cùng, ngày hôm qua tới nay mình đi đâu, chẳng hay việc kiết hung, bày tỏ thỉ chung nghe thử nào. Mặt Hữu coi lơ láo, bị hun có một cái mà bủn rủn tay chưn quên ráo việc nhà. Hà Hương mới nói qua, chuyện Nguyệt Ba bặt tích. “Xưa cha mẹ chê tôi, để tôi, bỏ tôi mà đi tìm dâu lịch126, ra cớ sự ni, mình nghĩ lại coi có ích chi chăng? Tưởng trăm năm giữ trọn đạo hằng, hay đâu nỗi Nguyệt Ba ôm cầm quá biệt. Như vậy mình có biết, kẻo mình chê tôi lang chạ, vợ mình nay mới thiệt chính chuyên, giả đi cúng chùa mà quyến luyến bạn chèo thuyền, dối rằng cầu phật, kết duyên cùng lái phụ. Ngày ra ghe, chèo xa xa một đỗi rồi đem vào ụ, rút sào banh, cắm sào mũi127, lái bạn ngủ đê mê, phỉ tình rồi còn chẳng chịu về, quyết dứt nghĩa phu thê mà đi tuốt”. 126 Lịch: xinh đẹp, khôn ngoan. 127 Rút sào banh cắm sào mũi: sào banh là chống sào cho ghe rời bờ, cắm sào mũi là cắm sào giữ mũi cho ghe dừng lại. Đây ý nói lần khân kéo dài thời gian để làm điều bất chính. “Ủa, chuyện như vậy sao con Hai mày thuộc, nếu quả như vậy nhơ nhuốc biết bao? Bộ mình ghét mình thêm chanh chớ có lẽ nào, việc dường ấy mà sao ta không biết?”. “Tôi nghe đà hản128 thiệt, không khói ra ai biết lửa cháy đâu, mình không tin, tôi kể đuôi đầu, bày tỏ mấy câu thầy bói. Bà mụ Lưu giấu mình không nói, lão thầy Lát coi thiệt giỏi quá đi mình, rằng Nguyệt Ba là gái đa tình, nên mới bỏ mình chẳng nghĩ. Vợ của mình lẽ khi mình coi kỹ, thầy Lát nói Nguyệt Ba dài cằm nên ý chỉ chẳng xong, đã vậy còn mặt đỏ hồng hồng, gái dường ấy đổi chồng chẳng sái. Chưn bước chưa đi đà chạy, chưa hở môi thì đã nhạy miệng cười, già bạc đầu cũng chẳng nên người, tuổi biết mấy mươi cho thành nết. Dẫu có đem ra mà đập chết, chết ra ma cũng chưa hết thói dâm, hễ già lừa lựa lắm thì lầm, kẻo mình nói tôi sanh tâm biến cải. Nay coi ai bạc ngãi, ai bội phu ai lại phụ tình, đó là cha mẹ thương mình, nên mới cưới cho mình một con tinh làm vợ”. 128 Hản: chắc, rõ. Hữu nghe qua mắc cỡ, canh khuya lỡ ở lỡ về. Tưởng Nguyệt Ba giữ trọn lời thề, hay đâu nỗi nó mê đồ khốn. Trách mẹ cha làm rộn, thay đổi chi cho tốn bạc ngàn, bây giờ làm thói lăng loàn, nghĩ lại hổ hang biết mấy. Hà Hương xưa tuy dại, nhưng mà chưa đem lòng bội ngãi cùng ta, đạo gối chăn nó biết nghĩ gần xa, chẳng phải như Nguyệt Ba bức tức129. Vậy thời ta tính phứt, cùng Hà Hương như nhứt thỉ chung, cha mẹ dầu ghét bỏ chẳng dùng, nó giữ vẹn chữ tùng thì được mà. Hà Hương nói “Thiếp nghĩ đến phận chàng thương quá, thấy vậy mà thương chớ biết làm sao ơn trả nghĩa đền, phải chi mà an đặng lòng trên, thiếp nguyện tề my cử án130. Như chàng bây giờ chỉ tơ đà đứt đoạn, còn thiếp với chàng khác nào thỏ núp lùm chờ bạn cung thiềm131, chẳng lẽ mà chàng ở vậy hoài, sợ khi chàng thay áo đổi xiêm, phận thiếp khác nào chim lẻ bạn. Dầu có vậy thân này cũng đáng, ngặt một nẻo gần xa chưa hản lẽ nào đây, sự nhớ thương liễu ốm mai gầy, sớm tối chạnh niềm tây lụy ứa”. Hữu rằng “Phen này ắt đôi ta vầy một cửa, dầu mẹ cha lần lựa cũng không ưng, có đắng cay cay đắng như gừng, miễn tôi với con Hai nó lòng đừng xao lảng”. Trời đà hửng sáng, Hữu vội vàng giã bạn ra về, Hà Hương bước lại đứng kề, ôm Hữu vuốt ve nựng nịu, mũi thì hun, miệng thì biểu Mình ở lại đây chút xíu nữa sẽ đi. Nghĩ lại thiệt lạ kỳ, giống son phấn muốn gì cũng được. Sợ trễ việc nhà Hữu muốn bước, sóng khuynh thành xô ngược lộn vô. Hồi lâu Hữu thấy vừng ô, mới lật đật lộ đồ dong ruổi. 129 Bức tức: đây ý nói làm cho xốn xang, khó chịu. 130 Tề my cử án: tức “Cử án tề my” (Dâng án ngang mày), lấy tích nàng Mạnh Quang vợ Lương Hồng thời Hán hiền thục, lúc bưng cơm cho chồng đều đưa mâm lên ngang mày, tỏ ý kính trọng. 131 Thỏ núp lùm... cung thiềm: ý nói thỏ chờ dịp trăng sáng để đùa giỡn nhảy nhót, đây ý nói chờ cơ hội làm chuyện trai gái. Nói về quan Biện lý, từ ngày họ Đậu khống cáo, tìm không ra tin tức Nguyệt Ba, bữa nay ngồi tòa, có dây thép Vĩnh Long gởi lại. Rằng làng Long Châu vớt đặng, chiếc ghe bầu trôi nổi giữa dòng sông, coi lại thì ghe không, lái bạn đi đâu mất. Xét không còn một vật, duy còn đầu tóc mượn132 vắt trong mui, đòi họ Đậu ra cạn tỏ đầu đuôi, biểu qua Vĩnh Long nhìn thử. 132 Tóc mượn: phần tóc giả để búi thành búi to tròn theo quan niệm về cái đẹp của phụ nữ Nam Bộ ngày trước. Họ Đậu trở về sửa sang hành lý, đi qua Vĩnh Long nhìn quả thiệt chiếc ghe rồi, còn người cũng không ra mối. Họ Đậu mướn bạn chèo thuyền về trình với quan Biện lý. Quan Biện lý dạy giao cho tên Lối, còn Nguyệt Ba thỉnh thoảng sẽ tầm, dặn họ Đậu an tâm, chắc Nguyệt Ba còn sống. Họ Đậu về nhà thuật chuyện lại cho lối xóm nghe, rồi đưa cái đầu tóc ra, cả nhà đều rơi lụy. Hữu thấy đầu tóc của vợ, lại cầm coi nước mắt chảy ngay, Hữu đem thẳng vô phòng, cất để trên đầu nằm săm soi không ngớt. (Số 32, ngày 7. 11. 1912) Chốn rừng già Rùa Trạnh bỏ thây Giữa đình tụng Nguyệt Ba quì trạng Ngày kia Hà Hương đang ngồi, bỗng trẻ vào thưa rằng có khách đàng xa, tới hỏi thăm nhà họ Đậu. Hà Hương nghe nói như vậy, thì nghi, bèn bảo mời vào, giây phút có người bước đến trước mặt Hà Hương thi lễ, mà rằng “Tôi ở xa mới đến, không rõ đàng sá bơ vơ, lạc bước vào đây, chường cô thi ân chỉ giùm nhà họ Đậu”. Hà Hương liếc mắt nhìn, thấy người ấy cao lớn dình dàng, đầu vấn khăn chàm, đội nón trủm133, mình mặc áo vạt hò nút mã não, lưng cột dây lụa trắng, quần màu dà134 ngang đầu gối, Hà Hương mới hỏi “Bộ chú là người ghe bầu, đi hỏi thăm nhà họ Đậu có việc chi chăng? Họ Đậu là nhà này, còn họ Đậu nào nữa mà hỏi”. Khách thương vội vã đáp rằng “Tôi có mắt không tròng, xin cô thứ tội, như phải vậy thì cô nạt tôi tớ ra sau, tôi tỏ trần việc kín”. 133 Nón trủm: nón bầu bầu giống cái chụp. 134 Màu dà: màu vàng hoe, màu nghệ. Hà Hương liền nạt trẻ lui ra, khách thương bẩm rằng “Chẳng hay nhà ni là nhà họ Đậu, chẳng hay ông bà đâu vắng, còn Đậu Nghĩa Hữu đi đâu?”. Hà Hương đáp rằng “Chú thím tôi đi khỏi bốn năm ngày nữa mới về, còn Nghĩa Hữu là em tôi còn đi tìm vợ nó chưa trở lại. Nhà không ai nên mượn tôi đến mà ở coi nhà, vì tôi với Nghĩa Hữu là chị em chú bác ruột. Nếu chú có việc chi cần kíp, nói với tôi, tôi tính cũng xong cho”. Thương khách hỏi rằng “Vậy thì Nghĩa Hữu còn đi tìm Nguyệt Ba sao? Nguyệt Ba đâu đây mà tìm, ngày nọ tôi cứu Nguyệt Ba đem về nhà tôi mà nuôi dưỡng, nay Nguyệt Ba sai tôi vô báo tin, đây, có phong thơ làm tín”. Hà Hương nghe nói xuất hạn135, mặt xanh như tàu lá, song gượng tỏ bộ mầng vui mà rằng “Nói vậy em tôi bây giờ ở tại nhà chú hay sao? Vậy mà không hay, ngỡ nó đã vong mạng. Ơn chú sánh tày sông biển, biết lấy chi báo đáp cho vừa, vậy xin chú mựa từ, cho tôi đền ơn ba lạy”. Thương khách lật đật đứng dậy, tỏ ý khiêm nhường. Hà Hương bước vào phòng lấy ra năm chục đồng bạc để trước mặt thương khách mà rằng “Nay vì em tôi nên chú chẳng nệ thiên sơn vạn hải, chịu nhọc nhằn tìm đến chốn ni, vậy tôi xin chút lễ mọn mựa từ, dùng làm tiền phí lộ. Nội ngày nay tôi cho trẻ nhà đi với chú về ngoải rước em tôi, con dâu họ Đậu, cơm nước khá sửa sang,... Thằng Ba đâu, lên nhà trên cho tao dạy chuyện”. Trạnh bèn dạ dạ, bước thẳng nhà trên, Hà Hương mới bảo “Mi phải làm như vầy... nội ngày nay cho xong việc. Năm giờ chiều thượng lộ, nếu diên trì136, cậu mày qua thì khó nổi giấu đầu137”. Trạnh vâng chịu thi hành, xách nón ra đi riết. 135 Xuất hạn: tức xuất hãn (toát mồ hôi). 136 Diên trì: chậm chạp, kéo dài thời gian. 137 Giấu đầu: tức “giấu đầu lòi đuôi”, lộ chuyện muốn giấu. Nói về thương khách, thấy Trạnh đi ngang nhìn mặt, nhắm hình thù thì trước đã có quen, lòng nọ vội nghi nan, song cũng dằn mà ngồi đó. Hà Hương bước ra mới hỏi “Chẳng hay ân nhơn tên họ là chi, ở giữa biển làm nghề gì, xin nói cho thiếp rõ”. “Thưa tên tôi là Mười Ó, họ tôi thiệt họ Diên138, ở giữa hòn ngọn sóng bủa xuyên, năm tháng dõi lộc thuyền nuôi miệng. Tuy ở biển mà lòng nhơn có tiếng, bởi xưa tôi hòa nguyện xuất gia. Sớm tối lo nuôi dưỡng mẹ già, trưa chiều giúp người xa lỡ bước. Tôi thiệt là tay làm phước, chẳng phải mặt bất nhơn...”. 138 Họ Diên: nguyên bản là “họ Giêng”, đây đính lại như trên. Có lẽ tác giả chơi chữ, vì trong Hán tự diên là con diều, phù hợp với tên nhân vật Ó. Chưa tỏ phân cho cạn nguồn cơn, tớ gái đã bưng cơm tới đó, Hà Hương mời chú Ó, mắm muối ăn cho có đỡ lòng, sửa sang sắp đặt cho xong, đặng có ruổi dong đường nhạn. Bỗng đâu thấy dạng, Ba Trạnh bước vô, bẩm nhỏ cùng cô, rằng Đạo với Hồ đã chịu. Hà Hương liền biểu,“Lên nhà trên chút xíu có tao. Việc ra đường nhắm trước xem sau, y kế nội rồi mau trở lại”. Trạnh liền khen phải, lãnh bạc ra ngoài. Đạo, Hồ đã tới ngay, cùng Ó dan tay thượng lộ. Đi đêm theo đàng bộ, rựng sáng tới Mỹ Tho. Bốn Ở người cơm nước đã no, rủ nhau tới bước lên xe lửa. Ở lại Sài Gòn một bữa, rồi xuống tàu ra cửa Vũng Tàu, gió lặng sóng xao tàu khởi chạy mau biết mấy. Bà Rịa đà ngó thấy, Chợ Bến đã hầu kề, xe ngựa đậu bộn bề, đợi rước bộ hành vô chợ. Bộ Ó mầng tở mở, kêu nhau kéo lên cầu, biểu xe mau tới tiệm tiên lầu, ăn ba miếng kẻo lâu bụng đói. (Số 33, ngày 14. 11. 1912) Tới tiệm bốn người ngồi lại, kêu tửu bảo đem rượu thịt ê hề, xúm nhau ăn uống. Ó mới hỏi “Chẳng hay cậu Ba với hai cậu đây hiệu gì, người trong thân hay là đồng lân cùng họ Đậu?”. Hồ liền rước mà trả lời rằng “Anh Ba tôi đây là Đạo Y, tôi là Đạo Rùa (Hồ đổi tên là Đạo Rùa, Trạnh là Đạo Y – LHM), còn em tôi đây là Đạo Mậu (Đạo xưng là Đạo Mậu – LHM), cùng là người tâm phúc của họ Đậu, vì anh em tôi nhờ ơn họ Đậu rất trọng, nên nay họ Đậu có việc sai anh em tôi, dầu cho thiên sơn vạn hải chẳng từ, miễn đặng chút công báo đáp”. Ó nghe nói khen rằng “Làm người thọ ơn chẳng vong, thiệt là trượng phu xử thế. Chẳng hay ba cậu còn nhớ hình diện Nguyệt Ba ra thế nào chăng? Nay mai gặp Nguyệt Ba chẳng hay Nguyệt Ba có biết ba cậu là người tâm phúc của họ Đậu chăng?”. Đạo Mậu liền đáp “Sao Nguyệt Ba lại chẳng biết, vì anh em tôi ở trong nhà họ Đậu đã chín năm dư, từ ngày Nguyệt Ba về nhà chồng thì đã có anh em tôi ở trong nhà họ Đậu rồi. Còn Nguyệt Ba dầu lâm nạn đổi hình đổi dạng thế nào anh em tôi cũng nhìn được. Một điều anh chưa rõ mà thôi, vậy tôi nói cho anh biết. Từ khi anh em tôi vào nhà họ Đậu mà ở, thì trong nhà kêu tôi là Đạo, còn anh tôi đây là Hồ, chẳng kêu thiệt tên như tôi mới nói với anh hồi nãy vậy. Cho nên Nguyệt Ba biết anh em tôi, đứa tên Hồ đứa tên Đạo mà thôi. Còn anh Ba tôi đây, khi đó không vào ở một chủ với anh em tôi, ảnh lại qua ở bên Đậu Kiến Đước là bác chồng của Nguyệt Ba, tên ảnh là Đạo Y, lúc họ Đậu cậy con gái của Đậu Kiến Đước tới ở coi giùm nhà, thì con gái Đậu Kiến Đước đem ảnh theo, gặp việc, phải ra đi cho có tụ. Bởi cớ ấy Nguyệt Ba biết anh em tôi mà thôi, không biết anh Ba tôi đặng”. Ó liền hỏi Đạo Y rằng “Tôi nhớ có gặp cậu một chuyến, song không nhớ đã gặp nhau tại đâu, chẳng hay cậu có nhớ mặt tôi cùng chẳng?”. Đạo Y (Trạnh) chẳng cẩn thận, vội vã đáp rằng “Phải tôi nhớ trong lúc tôi đi đàng có gặp anh một chỗ, song tôi cũng chẳng biết là chỗ nào”. Ó nghe liền ngụ ý, thẩm ngẩm gật đầu, rồi bỏ qua, mời nhau ăn uống. Ăn uống xong xuôi, bốn người xuống lầu. Ó nói, xứ lạ lùng, biết đâu tá túc, vậy anh em ta kéo nhau đi đêm, tới Bưng Riềng tôi có nhà quen, vào nghỉ chưn rất tiện. Nội bọn đều chịu quảy gói lên đường, đi tới hai giờ khuya đến Bưng Riềng, Ó dắt thẳng vào nhà quen, nghỉ đậu139. Rùa, Y, Đạo mới mệt, nằm xuống liền ngủ. Ó nằm giấc nhắp chẳng yên, mảng luận việc mình không ngủ. Ó nghĩ rằng “Bọn này ắt là gian trá chẳng phải thật tình, nếu ta chẳng đề phòng ắt Nguyệt Ba lâm hại, vì Đạo Y ló mòi140 rằng biết mặt ta, ta cũng còn nhớ mặt nó, nếu vậy thì Đạo Y này là thằng Ba Trạnh, tâm phúc của Hà Hương, còn chủ nhà, ta vào hỏi thăm nhà họ Đậu đây, chắc là Hà Hương, còn hai thằng khốn này không biết nó ở đâu cho được. Nếu nó cùng ở với Hà Hương, thì Nguyệt Ba làm sao mà biết nó, còn như nó ở với cha chồng Nguyệt Ba, thì làm sao lại chen lộn đám này, khó nghĩ cha chả. Tin khả tin phòng khả phòng, chừng đến việc ta tùy cơ ứng biến”. 139 Nghỉ đậu: nghỉ nhờ nhà người ta. 140 Ló mòi: tức để lộ ý nghĩ, tỏ ý. (Số 34, ngày 23. 11. 1912) Sáng ngày, bốn người sửa sang cơm nước quảy gói lên đường, đi cho tới đứng bóng mới tới một cái nhà cheo leo giữa rừng, bốn người đồng ghé vào nghỉ chưn. Tới cửa, chẳng thấy chủ nhà, vắng trước quạnh sau, không bóng người thấp thoáng. Ngồi đợi giây lâu, thấy một ông già vác rựa bước vào, chào hỏi mỗi người rồi bước vào trong phân ngôi chủ khách. Tiều lão mới hỏi “Chẳng hay bốn cậu danh tánh là chi, quê quán xứ nào, nay lặn lội đến chốn rừng bụi có việc gì xin nói cho già hản?” Đạo Y liền nói tên họ mỗi người mà rằng “Anh em tôi nhơn có việc gấp, chủ sai đi nên phải vâng, thật chốn núi non xưa nay chưa từng biết. Còn anh đây là người ở Hòn Bà, dẫn lộ anh em tôi đến đó. Bởi đàng dài mỏi mệt, nên tìm đến lão gia, một là nghỉ mát đôi giờ, sau nài gạo nấu ăn kẻo đói”. Tiều lão nghe nói đáp rằng “Lão chẳng nệ bề tiếp khách nhưng mà nhà rách vách nát không chỗ vừa lòng, còn gạo thì lão còn một nồi, anh em nấu đi mà đỡ dạ”. Ó nghe nói động lòng mới hỏi “Chẳng hay tiều lão ở chốn này kêu là làng chi xóm chi, chẳng lẽ một mình mà dám ra vào chẳng kiêng thú dữ? Tiều lão năm nay đà mấy kỷ141, làm nghề chi đắp đổi tháng ngày, sưu thuế đóng làm sao? Thê tử lẽ nào, xin cho biết?”. Tiều lão cười mà rằng “Lão năm mươi dư lẻ, sớm tối lo hái củi đổi cơm, vậy cũng đắp đổi tháng ngày, vợ chích mác142, con không nối nghiệp, phận già chi thiết, đôi bữa ưu phiền, ở đây không có xóm giềng, rừng thuộc về làng Thắng Hải, sưu cao thuế nặng ai nấy đều thiết xỉ tha nha143. Làng chẳng nghĩ phận già, bắt lão ra đi phu trạm. Ấy là việc quan chẳng nên ké né, lão nói hết việc nhà. Mấy chú ở đàng xa, không thuộc rừng cho lắm, chốn này thú biết bao kể xiết, trót ngày đêm voi cọp cùng đàng, giết bộ hành cũng đã thường, mấy chú có đi phải giữ gìn cho lắm”. Đạo Y nghe liền sợ, mới hỏi “Nếu vậy ông ở đây cũng chẳng dễ gì?”. Tiều rằng “Mấy chú chưa từng nên sợ, chớ già ở đây nhàm mắt mỏi tai, cọp thấy lão sợ chạy như bay, dễ dám trổ tài làm quấy. Lão đã từng thấy, cọp ở đây rảo mà đi kiếm ăn khác nào chó ở châu thành ai mà sợ, phải thì cọp cọp người người, nghịch thì đập đầu bỏ đó”. 141 Kỷ: mười hai năm theo cách tính âm lịch từ Tý đến Hợi ngày trước. 142 Chích mác: lẻ loi. 143Thiết xỉ tha nha: cắn răng nghiến lợi. “Cọp chẳng binh nhau hay sao? Nghe nói cọp binh cọp, tiều lão nhứt thân e khó nổi tranh đường, cọp một thì chẳng nói làm chi, cọp bầy e không nhịn”. Tiều lão cười mà rằng “Cọp bầy trối kệ, hễ đập một con cho lụy144, bao nhiêu chạy trốn sạch trơn, giống đó hộc145 nhảy tưng bừng, mà nhát quá cha thỏ đế. Ai sợ thì làm dữ, ai chẳng dung thì kiếm thế thoát thân, phải mà cọp có chí anh hùng, rừng vắng ắt không người lai vãng. Tuy vậy mà chữ tử sanh hữu mạng, người hảo tâm trời chẳng phụ lòng. Như lão sáng ngày lo hái củi cho xong, vác ra xóm đổi tiền mua gạo, lòng ngay dạ thảo, chẳng phút đổi dời, chẳng thèm kể đến việc đời, chí không tham danh lợi. Điều ác nghiệt lão không biết tới, độ nhơn gian làm ngỡi thường khi, ai lỡ bước khôn đi, lão cõng về nuôi dưỡng. Lòng lương thiện trời cao còn đoái tưởng, thú rừng xanh làm bướng đặng sao, tuy hoàng thiên chẳng vị người nào, nhưng mà làm phải ngày sau đặng thưởng. Đây lại có dinh quan lớn Thượng, anh linh thị anh linh, những người lòng dạ bất minh, e chẳng khỏi miệng hùm gởi xác. 144 Lụy: chết. 145 Hộc: tiếng kêu trong cổ họng của thú dữ. Mong làm điều ác, mưu kế hại người lành, tưởng giữa chốn rừng xanh, không ai hay ai biết. Người dường ấy lịnh quan ắt giết, không thì cho thú rừng bắt quyết chẳng tha. Bởi vậy tuy đây ít người ta, mà già trẻ đều ngay thật, của rơi không hề mất, nhà cửa chẳng gài then, quan quân thảy ngợi khen, người người đều ưa mến”. Đạo Y nghe mấy tiếng, phút rởn óc lạnh mình, song ngồi đánh chữ làm thinh, nghĩ phận mình thêm sợ. (Số 35, ngày 30. 11. 1912) Ó nghe liền đáp rằng “Chí người quân tử đi đâu cũng dễ, kẻ tiểu nhơn một bước khó dời, làm trai đứng trong đời, phải lấy ngỡi nhơn làm trọng. Há chẳng biết câu thiên võng, thưa mà khó lọt còn ghi146, lòng mong háo lợi sức phi147, người dường ấy thiếu gì trong thế”. Tiều lão nghe cặn kẽ, ngước mặt nhìn tướng Ó hỏi phăng “Chẳng hay cậu ở hà phương, làm nghề chi nói thiệt”. Ó rằng “Tôi ở chốn cùng cư nham huyệt, cùng mẹ già Sằn dã thú quê, chưa có chốn hiền thê, năm tháng dõi nghề đánh cá”. Tiều nói “Người dường ấy ẩn thân cũng lạ, sao không ra mà nong nả148 với đời, chữ công danh mựa lấy làm chơi, chôn lấp uổng người quân tử”. Ó nói “Ấy là việc đời thường sự, ai lại không vui chữ công danh, thấy vậy nên dạ buồn tanh, nghĩ đến mọi đàng mà ngán. Thà vùi chốn bãi bùn cho rạng hơn là tìm bóng sáng thị thành, đứng149 trượng phu nào vọng công danh, miễn rõ biết chữ thanh cùng trược150, thế mà chẳng biết thương người lỡ bước, mạnh mà không dĩ đước cứu nhơn151, giỏi âm mưu làm việc phi ơn, hay thi kế làm điều bất ngãi. Chen vào đó cũng đồng một loại, thà rảnh chưn cho phải nhơn tình, nghĩ vì câu nhựt nguyệt tuy minh, chậu úp khôn soi152, mang tiếng”. Tiều nghe nói ba điều bảy chuyện, biết rằng chẳng phải dân ngu, lời phân nghe phải lắm ru, đáng mặt trượng phu biết mấy, người đời dường ấy, mới phải anh hùng. Bốn người từ biệt gia trung, cảm tạ tiều phu dời gót. Nói về bốn người ra đi trót ngày tới một chỗ tứ bề rừng bụi, không xóm không giềng, xa xa có một ngọn đèn, còn chong leo lét. Ó mới nói đêm thanh rừng vắng, khôn thế bôn hành153, vậy thì anh em tạm vào đây, xin người ngụ đỡ. Bốn người bước vào, thấy trại tư bề không vách, trên lợp sơ sài, có bọn thợ rừng, đang nằm trò chuyện. Ó mới nói “Xin thương người lỡ bước, cho ngụ đỡ một đêm, minh nhựt154 sẽ thượng trình, các ông đừng xua đuổi”. Mấy anh thợ nghe nói đáp rằng “Đây chẳng phải là nhà là cửa, vốn là trại làm tạm mà nghỉ ngơi, các ông lỡ bước vào đây, anh em tôi cũng cầu cho có bạn”. Bốn người liền để gót, lo cơm nước xong xuôi. Đạo Y mới hỏi rằng “Đây là chỗ nào, còn xa gần cho biết”. Ó mới nói “Đây là suối nước, gần làng Phước Lộc chẳng xa, hễ tới Phước Lộc thì thấy Hòn Bà, đi nội nửa ngày tới chốn”. Đạo Y nghe nói gần tới chốn, sực nhớ đến Hà Hương, bởi vậy ngủ nửa đêm Đạo Y giả mạo cảm thương, đặng sáng cáo bịnh ngừng chưn lại đó. 146 Thiên võng thưa mà khó lọt: lấy ý câu “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng thưa mà không lọt). 147 Háo lợi sức phi: tham cái lợi, tô vẽ cho điều sai quấy. 148 Nong nả: hăng hái, gắng sức. 149 Đứng: đấng. 150 Thanh cùng trược: trong và đục. Trược tức trọc biến âm theo ngữ âm địa phương. 151 Dĩ đước cứu nhơn: lấy đức cứu người. 152 Nhật nguyệt tuy minh, chậu úp khôn soi: lấy ý câu “Nhật nguyệt tuy minh nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy sáng nhưng khó mà soi dưới cái chậu úp), ý nói việc đời có nhiều nỗi oan ức hay ẩn tình khó nói ra. 153 Khôn thế bôn hành: khó có thể đi nhanh. 154 Minh nhựt: ngày mai. Sáng ngày Đạo Y kêu Ó mà nói rằng “Đi chưa tới chốn, rủi mang bịnh giữa đàng, vậy thôi để tôi tạm đỡ lại đây, anh với Đạo Mậu, Đạo Rùa dời bước”. Nói rồi lại kêu Mậu, Rùa mà dặn “Đạo làm tớ phải hết lòng với chủ, hai em ráng mà ủng hộ Nguyệt Ba, chừng trở lại chốn này, rước ta theo về với”. Dặn rồi, ba người từ giã thợ lên đường, đi tới trưa, tới làng Phước Lộc. Ba cậu ăn no nóc, mướn thuyền đưa tới Hòn Bà. Bây giờ đây mới nói chuyện Nguyệt Ba, đang ngồi trông tin Ó. Đêm lòng sầu võ võ, ngày mặt héo dàu dàu, chẳng hay đàng sá làm sao, lành dữ lẽ nào chưa biết. Nghĩ lại càng thảm thiết, con chưa biết mặt cha, biết non cao thấu đặng tin nhà, chạnh tủi phận lụy sa ướt áo. Thị tỳ nói “Xin cô hãy bớt cơn sầu não, trời hãy còn điên đảo phong vân, người ở đời họa phước không chừng, nhưng mà mình ở thẳng, trời bao nỡ phụ ta sao phải. Nguyệt Nga155 trước nổi trôi giữa bãi, Chiêu quân156 xưa cũng vậy khác nào, mình ngày nay lận đận lao đao, dường ấy chắc ngày sau hưởng phước”. Dứt tiếng bỗng thấy người phía trước, thị tỳ vội bước ra sân, thấy mặt Ó chào mầng, gặp Đạo, Hồ hỏi chuyện. 155 Nguyệt Nga: tức nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. 156 Chiêu quân: mỹ nữ đời Hán Nguyên đế, vì không đút lót cho thợ vẽ nên bị vẽ xấu đi, về sau bị đưa đi cống cho vua Hung Nô. Nguyệt Ba nghe tiếng, lật đật chạy ra, mẹ Ó ngủ trong nhà, cũng lồm cồm ngồi dậy. (Số 36, ngày 7. 12. 1912) Nguyệt Ba thấy Đạo Rùa, Đạo Mậu, mầng mà nước mắt vội sa “Ủa này Hồ Đạo đây mà, hai tớ đàng xa chẳng nệ”. Hồ Đạo cúi đầu làm lễ, vào rồi, cơm nước xong mới kể sự gia157 “Kể từ cô lạc bước xa, vang những tiếng ruồi xanh trong cửa158. Chủ gia tôi bên này thì rầu lo đòi159 bữa, cậu mợ bển thì thương khóc từ ngày, mướn thuê người rảo khắp đông tây, cậy chòm xóm kiếm tìm nam bắc. Tìm càng ngày càng bặt, kiếm càng bữa càng xa, chủ gia tôi khống cáo quan nha, Biện lý mới vấn tra các tỉnh, may là nhờ quan lịnh, mà tin cô cùng chẳng nghe, bên Vĩnh Long vớt đặng chiếc ghe, chủ gia tôi lãnh về rất khổ. Đầu tóc mượn của cô vắt trong mui còn đó, chủ gia tôi đem về nhà lớn nhỏ đều than. Cậu Hai tôi thì cơm nước không ăn, đêm sáng chẳng an giấc nhắp, nỗi thương dồn dập, cơn nhớ tràn trề, lúc thì tỉnh lúc lại mê, khi như say khi lại tỉnh, lối vào hiu quạnh, đem đầu tóc ra hun, nhắc tới ứa nước mắt, khuya ở trong mùng, lấy của tin ra hửi. Cậu tôi đôn160 này hình dung dã dượi, thân thể ốm o, trời mà xui ngao chẳng gặp cò161, đất thêm đặng nắm tro họ Đậu. Tưởng chắc là không thấu, hay đâu lại có tin, nhưng mà rủi chủ tôi mắc thượng trình, còn cậu Hai tôi thì một mình chạy lo quanh tính quất. Bởi vậy cho nên không ai gìn gia thất, thiếu tay xét trong ngoài, mới là đến cậy tay gái nhà bác là cô Hai Phước. Cô Hai liền qua trước, Đạo Y dõi theo sau, anh ngoài này vô, thơ nọ vừa trao, cô Hai mầng tợ hạn gặp dào một thuở. Hối trẻ dọn cơm tở mở, coi thơ rồi, khiến chúng tôi sắm sửa lên đàng, rủi đang đi Đạo Y cảm thương hàn, nên phải đình trú nơi Suối Nước. Xưa tưởng đà vô phước, hay đâu kiều ô còn gặp thước rất xinh, vậy thì cô mau mau từ giã thượng trình, về cùng cậu cho phỉ tình phu phụ”. Thoàn vắng hơi đòi vú, thị tỳ bồng ra cho bú Nguyệt Ba, Đạo Hồ thấy mặt vụt la,“Húy cha chả, thằng nhỏ giống cha như tạc. Vậy mà họ đồn thiệt ác, rằng cô theo thầy Lác Cà Mau, phải lịch sự lịch sàng gì chẳng nói làm chi, cái này thấy mà nhờm162, đầu làm sao đít lại làm sao, mèng ôi! Thấy dường ấy mới hay dường ấy”. Nguyệt Ba nghe nói vậy, mắt đượm giọt như mưa “Người ở đời họa tới khó ngừa, thân lưu lạc sớm trưa nào biết. Nói ra càng thảm thiết, chi kể xiết gian nan. Nếu không người làm phước cứu nàn, hồn đã chơi đàng âm phủ, trẻ có đâu mà nay đòi bú, thiếp còn đâu trông gặp mặt chồng, ai lỗi thề phú163 có thiên công, ai đen bạc chứng cùng nhựt nguyệt. 157 Sự gia: việc nhà. 158 Tiếng ruồi xanh trong cửa: đây có nghĩa như trong nhà lộn xộn vì gặp chuyện không hay. 159 Đòi: nhiều. 160 Đôn: dạo, lúc. 161 Ngao chẳng gặp cò: xuất phát từ điển “Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi” (Trai cò giằng co với nhau, ông chài được lợi), tuy nhiên trong văn học viết Nam Bộ thời Pháp thuộc điển cố này thường được dùng để chỉ quan hệ trai gái. 162 Nhờm: gớm, tởm. 163 Phú: tức phó cho, giao cho. Ngày tháng ở cùng cư nham huyệt, sớm trưa nương Sằn dã thú quê, nhờ lão bà trong lúc khai huê, nuôi dưỡng mới đặng bề no ấm. Ơn nọ dầu không bồng ẵm, so ra nào kém non sông, chữ sanh dưỡng đạo đồng, hai bên xem chẳng nhẹ. Nay lòng thiếp bao đành phân rẽ, dạ nào vui cơn xẻ nửa chừng, dưỡng mẫu đành theo thiếp dời chưn, vầy một cửa mới đành thửa164 dạ. Cho thiếp ơn đền nghĩa trả, trọn đạo người mới thỏa tâm tình, nếu khiến điều bội nghĩa tái sinh, thiếp nguyện hủy mình cho rạng”. Mẹ Ó nghe liền cản “Con chớ đoạn tóc tơ, hễ thi ân ai lại ước mơ, miễn lòng trẻ biết thờ biết kính. Khuyên con đừng vụng tính, mà đôi lứa lỡ làng, miễn là con vẹn chữ tào khang, bao quản cơ hàn thân mẹ. Thuận lẽ trời thì dễ, nghịch mạng ắt khốn thay, đứng trong đời lớn nhỏ ai ai, hễ rõ đạo chẳng nài công khó. Gặp lỡ bước phải mau cứu độ, thấy lâm nàn mựa chớ bỏ đi, làm người mà kiến nghĩa bất vi, dường ấy thiệt khôn bì săng cỏ165. Hiếm tay tham lợi nhỏ, làm chuyện bạc như vôi, vì quên câu thiên võng khôi khôi, đâu dè nỗi lưới trời chẳng lọt. Không mai thì cũng mốt, thiện ác ắt đáo đầu166, chửng167 mới hay trời đất cao sâu, chết mới biết phép màu rất nhiệm. Thôi, nói dai sanh nhiều chuyện, con mau sắm sửa ruổi dong, mẹ cho Ó hộ tùng, kẻo thú rừng nhiều miệng”. Hồ, Đạo nghe liền lên tiếng “Thôi để anh ở nhà, đường đi diệu viễn168 dễ gì, về một mình, chẳng may phong võ bất kỳ, biết lấy chi điều độ, có hai tôi ủng hộ, anh ở lại nghỉ ngơi, để mặc tớ buông khơi, trương buồm loan chỉ dặm”. Ó chím cười rồi bẩm “Lời mẹ biện rất hay, người đời hai chữ rủi may, khó biết phải tai hay họa”. (Số 37, ngày 14. 12. 1912) 164 Thửa dạ: dạ ấy. Thửa là dịch từ “kỳ” (ấy) trong văn ngôn chữ Hán. 165 Săng cỏ: cây cỏ. 166 Thiện ác đáo đầu: tức “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” (làm lành làm dữ rốt lại đều sẽ có báo ứng). 167 Chửng: chừng ấy. 168 Diệu viễn: tức diêu viễn (xa xôi). “E lúc gió day cây ngã, sợ cơn đàng sá thình lình, thà để tôi theo dõi lộ trình, ơn cứu tử hườn sinh cho trọn. Mựa đừng ngăn đón, khuyên chớ dần dà, sẵn cơm tiền con để lại nhà, mẹ chịu khó chừng mười lăm bữa”. Nói rồi sắm sửa, buồm lái buông khơi, ra đi vừa khuất bóng trời, biển lặng sóng êm biết mấy. Bỗng đà ngó thấy làng Phước Lộc thôn, thuyền ghé lại bên cồn, kéo nhau theo đàng bộ. Canh hai trăng vừa ló, bóng Hằng Nga rọi mặt Nguyệt Ba “Cha chả là xa, bấy lâu nay chưa bước khỏi nhà, trời đất ôi! Nay mà xông lướt đàng xa quá ngán. Lâm bồn chưa mấy tháng, đà đạp tuyết sương e mạng nan tồn169, con trẻ mới lọt lòng, ra hứng vũ phong rất thảm. Xin ngừng dựa cội cây ngồi tạm, nghỉ chưn rồi ta sẽ lướt ngàn”. Bỗng đâu có tiếng tiểu Thoàn khát sữa khóc la đòi vú. Thị tỳ mới ẵm Thoàn lại Nguyệt Ba cho bú “Nín nín đi con ôi! Khóc làm chi, chốn núi non vượn hú chim kêu, sau lưng voi tượng dập dìu, trước mặt cọp beo giỡn chạy. Trời dầu còn tưởng đoái, giúp mẹ con tôi lánh đặng khỏi vòng, con gặp cha, vợ đặng gặp chồng, nỗi oan khúc cáo nài170công phủ. Xưa Tề phụ tam niên bất vũ171, nay Nguyệt Ba trời phụ chẳng thương, ngư thủy dầu đắc hiệp nhứt trường172, cho trọn nghĩa tào khương phụ tử”. 169 Nan tồn: khó còn. 170 Cáo nài: thưa kiện. 171 Tề phụ tam niên bất vũ: lấy tích “Tề phụ hàm oan, tam niên bất vũ”. Hán thư chép huyện Đông Hải có nàng dâu thảo là Đậu Thị, chồng chết không cải giá, nuôi mẹ chồng rất kính cẩn. Mẹ chồng nói Ta già yếu làm khổ đời con quá, thắt cổ tự tử. Người em chồng tố cáo nàng giết mẹ, không minh oan được, bị kết tội xử chém. Sau đó vùng ấy ba năm liền không có mưa. Đây ý nói bị oan ức. 172 Đắc hiệp nhứt trường: một phen đoàn tụ. Than rồi, hai mắt đượm nhuần, kêu thị tỳ lại bồng con, gắng gượng noi theo dấu thỏ. Đi tới nửa đêm, đến Suối Nước, vào trại nghỉ đậu, vào tới thấy tối thui, không ai lên tiếng. Hồ và Đạo mới kêu Đạo Y, lúc ấy Đạo Y đang ngủ, nghe kêu lồm cồm ngồi dậy, anh em mầng rỡ cùng nhau. Hồ mới nói có Nguyệt Ba theo chưn. Đạo Y bước ra làm lễ. Nguyệt Ba mới hỏi ngươi là người chi mà đi theo Hồ Đạo, ơn nặng đáng ngàn vàng. Đạo Y mới thưa rằng ở với cô Hai Phước, gái Đậu Kiến Đước. Nhơn vì chú mượn chủ tôi qua coi giùm nhà, nên cô tôi theo dõi. Lúc có tin cô đến, cô tôi lật đật hối đi, tôi thật cũng hết lòng, mà rủi nửa đường lâm bịnh. Ó hỏi “Vậy chớ thợ đi đâu hết, mà bỏ trại không, sao cậu dám ngủ một mình, tôi khá khen cho đó”. Đạo Y nói thợ kéo về mua gạo, nên tôi phải ở một mình, tôi cũng là sợ thất kinh, nhưng mà bỏ đi đâu, phải ở lại đợi tin huynh trưởng. Nói rồi xúm nhau lo chỗ cho Nguyệt Ba ngủ, còn bao nhiêu nằm chung quanh lại đó nghỉ lưng, Ó nghĩ rằng đêm hôm ở giữa rừng nếu mình ngủ, quân này làm bậy chớ phải chơi, nghĩ như vậy nên không ngủ, nằm thao thức một mình, còn Nguyệt Ba với thị tỳ chưn mỏi giấc mê như vụ173. Đạo Y nằm nghe ngáy ngỡ là ai nấy đều ngủ mê, mới kêu Hồ Đạo dậy luận bàn, ra tay làm điều dữ. Hồ, Đạo mới nói nhỏ rằng “Phải không có anh Ó theo thì dễ, có ảnh theo cũng khó ra tay, nếu ở đây mà không làm, chờ lúc nào cho đặng. Vậy thì ba đứa mình xúm lại, giết anh Ó trước đi, ảnh mà chết rồi, còn một mình Nguyệt Ba với thị tỳ, dễ như lấy đồ trong túi”. Đạo Y nghe nói gật đầu và đáp rằng “Tao có sắm cây để sẵn, vậy thì mỗi đứa ra xách một cái cây, hễ tao hô lên bây cứ việc làm, đừng nhượng tay không được”. Nói rồi kéo nhau ra đi lấy cây. Ó nằm thao thức nghe luận bàn như vậy chúm chím cười mà nói thầm rằng “Ba thằng này tận số, nó mới sanh kế hại anh hùng, vậy thì tiên hạ thủ vi cường, để chi nước đến trôn mà nhảy”. Xét rồi bèn trụt174 xuống ván sạp, núp bóng đợi Đạo Y, Hồ và Đạo lấy cây rồi, quyết vô làm quấy. Chẳng dè mới bước vô, Ó nạt mà rằng “Có Ó đợi đây, chẳng chờ bây kêu dậy”. Nói dứt tiếng đá Đạo Y một cái, té nhào xuống đất chết tươi, Hồ Đạo mới đưa cây, quyết đập Ó một cây cho chết. Ó lẹ chưn tránh khỏi, nhảy lại bắt lão Hồ, thoi một thoi Hồ đã ô hô. Đạo thấy vậy lạy dài xin dung mạng. Ó mới nói “Dầu mày không lạy, tao cũng chẳng giết mày, để mày nói chuyện nghe chơi, giết hết lấy ai mà khai khống175”. 173 Ngủ vụ: ngủ vùi. 174Trụt: tuột xuống. 175 Khai khống: đây có nghĩa như khai báo. Nguyệt Ba nghe lụi đụi, ngỡ ác thú hoành hành, chừng thấy rõ thất thanh “Cha chả! Anh nó làm tệ lắm vầy. Lẽ nào anh không thấy, cực khổ hãy còn dài, anh gây thêm việc họa sự tai, như vậy biết ngày nào mà dứt. Mau mau đi cho khuất, nếu ở đây lửa ắt cháy mày, xin anh xông lướt ngàn mai, bằng mà chậm trễ, mắc phải ba tai176 khó gỡ”. Ó nói “Khuyên muội nương đừng sợ, cơn buồn có thuở vui, nếu mà tôi không nghe đặng rõ đầu đuôi, huynh đệ còn chi mà kể, sanh việc này mới dễ, minh đoán nỗi oan xưa, họa tới sau ai biết mà ngừa, chớ như vầy đây, quả đại phước mà em chưa soi thấu”. 176 Ba tai: ba tai họa tức dịch bệnh, mất mùa, giặc giã, trong nguyên bản có khi ghi là tai ba. Tuy nhiên ba tai ở đây chỉ tai họa nói chung. (Số 38, ngày 21. 12. 1912) Làm nghĩa lâm vào nơi luy tiết177 Nhớ ơn trải mật chốn tụng đình 177 Luy tiết: dây trói, xiềng xích kẻ có tội, chỉ chung cảnh bị giam cầm, tù ngục. Ó bèn hỏi Đạo sao quên nghĩa áo cơm, Đạo lạy dài phân rõ nguồn cơn, tỏ mọi việc oán hờn ngày trước “Lẽ đâu dám đem lòng bạo ngược, vì dại nên nghe tiếng dỗ dành, ngày anh vô đem bức tin lành, Hà Hương mới biến sanh quỉ kế. Xin thứ tội tôi nguyền cạn kể, việc Hà Hương lập thế này ra. Bởi vì chưng anh ở đàng xa, không rõ lạc vào nhà Hà thị, tại anh không dè dặt tỏ bày sự lý, Hà Hương nghe ngụ ý dối xưng, rằng Chủ tôi cậy tới phải vâng, qua ở coi chừng sau trước. Nào có phải là cô Hai Phước, nàng vốn thiệt Hà Hương, nhà chủ tôi còn ở xa đường, chốn ấy là nhà tư của cổ. Sai Ba Trạnh kêu anh em tôi dụ dỗ, ép một hai phải đi, hễ đi về rồi chẳng lỗ tài công, bởi nghèo nên nghe nói mầng lòng, cực khổ chẳng phiền, miễn có hơi đồng vui dạ. Bởi vì chưng nó lạ, e Nguyệt thị nghi nan, nên cậy tôi đến đó rước nàng, miễn rước cho đặng rồi về để mặc nó, về bán lộ lo phang hạ sát. Vì buổi trước hại nàng chưa thác, nay quyết chẳng nhơn tay, nếu mà để cô về tới Bến Tre lửa ắt cháy mày, tâm sự lậu ra khốn nạn. Tôi đâu dám tham tài hại mạng, bởi dại không quyết đoán nghe lời, đến việc rồi mới rõ sự đời, mạnh việc do người sở định. Xin cô đừng bịn rịn, xá tội cho tôi mau tính lên đàng, ở đây xa xóm cách làng, đồ heo, bò thấy nó đổ cho chó ăn, ai biết đặng thổi lông tìm vít”. Nghe tự sự Nguyệt Ba ngồi thút thít “Vì chồng tôi khắng khít với Hà Hương, mê phấn son xẻ nửa cang thường, ham bóng sắc thiếp phải lâm ương178 từ ấy. Thôi thôi, nói vậy thì hay vậy, về đi mới thấy ngay gian, mau mau sắm sửa lên đàng, đừng để dở dang cực khổ”. Ó nghe liền cười rộ “Tánh phụ nhơn hẹp lượng chẳng suy, đứng trong đời há để người khi, giết thì chịu trốn đi cho nhục. Muội nương đừng sùi sụt, để mặc ta ra chịu giữa quan, quan chẳng minh ta có lâm nàn, ngàn tử cũng an thửa dạ”. Vừa dứt tiếng bỗng người đâu lạ, đầu hoa râm tướng tá ốm ròm, thấy tử thi kêu hú om sòm, các tiều lão chòm nhom lại đó. Kẻ thì đi nổi mõ, người bắt Ó trói mèo. Đạo cũng bị trói theo, Nguyệt Ba theo than thỉ. Người khắp trong hương lý, nghe mõ chạy tưng bừng, làm rúng động cả rừng, chồn cheo chun hang trốn. Tưởng lệ quan làm rộn, cùng beo cọp chơi nhăng, kẻ thước bản người roi săn, bốn phía lăng xăng tựu lại. Xem qua hình hài, xúm nhau khiêng hai cái tử thi, dẫn Ó Đạo ra đi, Nguyệt Ba với thị tỳ theo dõi. 178 Lâm ương: gặp nạn. Tới nhà hội179 mõ làng inh ỏi, miệng xóm giềng kêu gọi rền tai, chú Hương chú Xã mới sai Trùm đi mời Chủ Cả. Người tựu coi đông quá, coi chú Xã vấn tra, đau chưn Ó chẳng thèm la, há miệng Đạo khóc cha khóc mẹ. Ó mới tỏ bày mọi lẽ, chú Xã lấy khẩu cung, Đạo kể việc thỉ chung, Phó thôn180 đâu đóng gông nó lại coi. Biện làm khai giải nạp. 179 Nhà hội: nhà hội tề, trụ sở chính quyền cấp cơ sở ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. 180 Phó thôn: nguyên bản là “phó thâu”, đây chỉnh lại theo bản in sách 1914. (Số 39, ngày 28. 12. 1912) Khi Biện làm khai khống xong xuôi, làng mới phái hai tên chức việc là Hương hào và Tri sự bắt bốn tên dân canh giữ Ó, Đạo với Nguyệt Ba, thị tỳ nghiêm nhặt hết sức, còn Xã trưởng thì tuốt ra báo quan. Tại tỉnh Bình Thuận có quan Phủ, quan Án sát và quan Tuần phủ. Quan Tuần phủ vốn người ở Huế, tánh rất thông minh, công bình có một, ngồi tại tỉnh mấy năm trẻ già yêu mến. Quan Án sát vốn người Hà Nam bổn tánh ngay thẳng, chẳng hề lạm thực dân tiền, công thì thưởng tội thì trừng, minh đoán hẳn hòi, chẳng tư chẳng vị. Còn quan Phủ vốn người Quảng Nam, bổn tánh chần chờ, không hay quyết đoán. Bữa nọ quan Phủ đang ngồi khách, Xã trưởng vào bẩm báo sự tình, quan Phủ nghe nói dửng mày181 quở la quá lẽ. Quan Phủ lật đật lên tỉnh báo cho quan Án và quan Tuần hay. Quan Án dạy về phái người vào làng lấy khai khống nội vụ phân minh, đem về nha, quan Phủ tra hỏi rồi giải lên cho ta kết án. Quan Phủ dạ dạ trở về, phái thầy Thông hình, thầy Đề lại, thầy Cai, dẫn lính lệ đôi tên, đi suốt ngày đêm vào làng cật vấn. 181 Dửng mày: tức nhướng mày – trợn mắt. Tới làng, Xã trưởng biểu Phó thầu nổi mõ, chức việc tựu rất đông, lễ vật tiếp mầng, rượu trà thết đãi. Cơm nước xong xuôi, nghỉ một chặp, Đề lại và Thông hình mới bảo làng đem khai khống ra coi, coi rồi bảo dẫn Ó ra tra hỏi. Ó mới bẩm “Tôi vốn sanh đẻ tại Hòn Bà, cha mất sớm còn một mẹ già, nhà nghèo, chuyên nghề đánh cá đổi tiền, tháng ngày nuôi mẹ. Nguyên cách chừng sáu tháng nay tôi quá giang vào Sài Gòn buôn bán. Khi thuyền neo tại Mỹ Tho, tên Trạnh kêu là Đạo Rùa tới nhỏ to cùng lái, trưa lại có chiếc tiểu thuyền chở một người đờn bà chửa, người này tên là Nguyệt Ba, với một con thị tỳ ngồi đó đem tới, cả hai đều nằm mê mẩn chẳng biết cớ gì. Trạnh mới lột vàng chuỗi của Nguyệt Ba đem qua đưa cho lái, dặn dò điều chi không rõ, bồng Nguyệt Ba với thị tỳ bỏ qua ghe bầu rồi đạp tiểu thoàn chèo đi mất. Lái ghe bầu khiến bạn kéo neo chạy, khi ra khỏi cửa Vũng Tàu, mênh mông đại hải, lúc thuận buồm xuôi gió, lái mới kêu bạn lại mà nói rằng Trạnh đưa vàng mướn nịch thủy hai người phụ nữ, vậy thì anh em ăn đồng chia đủ, mỗi người lãnh lấy phần mình, rồi có ra tay quăng xuống biển. Tôi không đành lòng cản lại, lấy lời êm thuận phân trần, vàng vòng kiếng182 lại cho các anh, phần tôi thì cho tôi xin hai người phụ nhơn khỏi nạn. Tôi mới đem về Hòn Bà, mẹ con tôi nuôi dưỡng, cho tới kỳ nở nhụy khai hoa, sanh thằng nhỏ còn bồng trên tay đó. Nguyệt Ba buồn bã việc nhà, mới tả nang thơ183 biểu tôi đi Bến Tre tìm chồng nàng mà nói. 182 Kiếng: kính. 183Tả nang thơ: viết phong thư. Ở chốn cùng cư tới chợ, bước đường ngần ngại lắm thay, tới một cái nhà chẳng biết chủ là ai, đi đại vào hỏi thăm họ Đậu. Vào thấy một nàng ngồi giữa, tuổi chừng lối đôi mươi, nàng làm sao mà mày tằm mắt phụng môi son, dung nhan đành có một. Tôi mới bước tới gần làm lễ, hỏi thăm nhà họ Đậu chốn nào, nàng ngó tôi rồi ngẫm nghĩ giây lâu, đáp rằng “Nhà họ Đậu đây chớ còn họ Đậu nào đâu mà hỏi”. Phần 2 BẢN IN SÁCH Làm nghĩa lâm vào nơi luy tiết Nhớ ơn trải mật chốn tụng đình (tiếp) N ghe qua tôi ngỡ thiệt nên phân cạn tâm tình, trao nang thơ Nguyệt thị làm tin, tiên nữ vội phát thinh kêu tớ”. Thầy Đề hỏi “Mi nói bởi nghe nên lầm lỡ, nay mi có biết gái nớ là ai?”. Ó “Bẩm lại với ngài, sau lại mới hay trúng kế”. “Sau là chừng nào? Mi mau khá kể, đặng ta suy cạn lẽ ngay gian?”. Bẩm “Lúc tiên nữ kêu tớ đi ngang, tôi nhìn biết là thằng Ba Trạnh. Mặt mày coi bao bảnh, quần áo ngó xuê xoang, lúc đi buôn có đến tại thoàn, to nhỏ liệu toan cùng lái. Nay thấy nó tôi nhìn chẳng sái, nhưng vậy mà còn nghi người giống người nên ngại làm thinh, để chờ khi cất gánh thượng trình, mặc thích dọ tình rõ ý. Lúc đi tới Bà Rịa thật tôi hỏi đà rất kỹ, song tôi bị chúng nó sắp đặt với nhau rồi, lấy những lời xược mỵ dối xưng184, rằng “Ba anh em tu ẩn núi rừng, bởi thiếu thốn mới quá chưn xảy bước. Trạnh xưng là Đạo Y vào dựa nhà Kiến Đước, còn hai thằng kia, Đạo Rùa với Đạo Mậu vào trước cửa Nghĩa Sơn. 184 Xược mỵ dối xưng: lời giả dối để lừa gạt. Bởi vì chưng Nguyệt thị lâm ương, nên cha mẹ chồng tầm đường đi kiếm. Gặp cơn gia biến, thiếu tay điều khiển gia đình, cậy cô Hai Phước giữ gìn, nên nó phải theo chưn phục sự. Nghe vậy mà lòng tôi lưỡng lự, song cũng làm thinh, để coi lành dữ dường bao? Lúc rước Nguyệt Ba về tới giữa rừng cao, trời tối phải toan dừng đã. Vào trại tục kêu là Suối Đá, thợ về đâu mà vắng trước quạnh sau, nội bọn đi mới xúm xít với nhau, nằm vây vòng ngơi nghỉ. Tôi mảng ngại nên nằm không yên trí. Nguyệt Ba đi mỏi mệt ngủ vùi, tôi lóng nghe cạn kể đầu đuôi, tam Đạo xui lòng quấy, kéo nhau ra đi lấy, đoản côn cùng hèo gậy sát tha185. Nó tính với nhau, trước giết tôi sau hại Nguyệt Ba, vậy mới là bặt dấu. 185 Sát tha: giết họ. Cơ mưu đà hiểu thấu, tôi bèn nép bóng ẩn thân, Trạnh cầm cây vào mới tới gần, tôi cho một đá té lăn nằm thiếp thiếp. Hồ vừa mới đưa cây lên tiếp, tôi cho một thoi vô hông đi tuốt xuống Diêm đài. Đạo thấy vậy mới lạy dài, xin nhơn tay dung thứ. Bẩm lịnh quan, dầu nó không lạy tôi cũng không sát tử, để phòng khi phân xử vấn tra, nếu giết hết cả ba, còn ai mà đối nại. Xin lượng trên xét lại, cho ngu hạ đặng nhờ, tra cho rõ nỗi tri cơ, mưu kế ai bày biểu. Dẫu thác tôi đành cam chịu, miễn cho nguyệt chiếu phúc bồn, kiếm khuyết186 kia dầu chẳng dung tồn, ngậm cười lúc nương hồn theo gió”. Dứt tiếng nghe la ó, quở phạt dậy nhà làng “Mi mới thiệt quân hoang, giết người rồi nói phải. Chúng nó dầu có dại, mi cũng kiêng phép nước lịnh quan, sao mi dám làm ngang, giết một lần hai mạng. Lại dối việc người mắc nạn, dối sao cho thoát án sát nhơn, chắc là tại nợ dươn, bây ghen hờn làm quấy. Dùi nọc sẵn kia mi có thấy? 186 Kiếm khuyết: đây chỉ hình phạt của chính quyền. Lệ đâu, roi dao kéo mau lấy đem ra, tra cho nứt thịt xể da, kẻo đứa tà khinh phép”. Ó bẩm “Quan dầu có hẹp, khảo ép cũng đành, việc đã khai rõ ngọn ngành, sao lại bắt quanh dươn nợ. Đứng anh hùng há sợ, phải đi kiếm thế chữa mình, như vậy là loại cuồng sinh, nào phải trang quân tử. Tôi chẳng phải là đồ hung dữ, chẳng qua là cứu phụ nữ lâm nàn, bởi thấy ló mưu gian, nên ra tay đánh thác. Trời sanh cho tai mắt, nghe ác phải cứu cùng, chữ lâm nguy bất cứu mạc anh hùng, câu kiến nghĩa bất vi vô dõng187. Người ở thế khác nào như bóng, cuộc tồn vong nghĩ có mấy khi. Nỡ làm theo những bọn ngu si, dục lợi kỷ188 hại người chi lắm bấy. Trời sanh cho mắt thấy, thấy đồng tiền chẳng kể ngãi nhơn, cho tai nghe mà biện lẽ thiệt hơn, nghe tiếng bạc chẳng sờn cơn máu chảy”. 187 Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng, kiến nghĩa bất vi vô dõng giả: thấy người nguy không cứu giúp không phải là anh hùng, thấy việc nghĩa không làm không phải là người mạnh mẽ. 188 Dục lợi kỷ: muốn lợi cho mình. “Không cứu người làm ngãi, mong dạ hại hiền nhơn, lập mưu sâu làm việc phi ân, trao kế độc rẽ phân phu phụ. Ác như vậy lại đặng ăn ngon nằm ngủ, đặng hớn hở vui cười, chẳng tưởng đến phận người, nào biết thương con trẻ. Quan chẳng tìm ra lẽ, ngồi cho cao mà nói việc trời xanh, ghét ghen đấng hùng anh, dua theo loài phi ngãi. Ấy mới thiệt tham quan ô lại, vậy mới rằng sâu mọt cửa công, dưỡng cho sung sức mà thổi lông, tìm ra vít mới vui lòng sướng dạ”. “Ủa! Thằng Ó mi ngang quá, mắng quan ra rả chẳng kiêng, vậy chớ ai ghét ngõ ganh hiền189, ai lại tư riêng điều quấy? Ai âm mưu toan hại, ai phi ngãi bất nhơn? Mi phân rõ nguồn cơn, ta minh oan cho đó”. “Lịnh quan dầu muốn tỏ, đòi Nguyệt Ba phân rõ đầu đuôi, mựa nghi chuyện vườn dâu, nặng đầu tằm lắm bấy!”. “Thằng tê phân rất quấy, xúi những việc bất công, lạ chi cốt với đồng, mà xin ông tra vấn?”. “Lịnh trên dầu chẳng khứng, đòi Đạo hỏi nó khai, vậy mới té lẽ ngay, kẻo ngu phu ức dạ”. “Lệ đâu, bây mau khá mở cửa hầm dẫn Đạo đem ra, đặng ta ra sức vấn tra, kẻo Ó la rằng ức... Đạo, mi hãy phân cho thật, nguyên do sự tích thể nào? Đầu làm sao đuôi lại làm sao? Nếu gian giấu búa đao chẳng vị”. Đạo bẩm “Xin lượng trên đoái nghĩ, tôi dám đâu hồ mỵ190 khi quan, bởi chưng rách rưới cơ hàn, nên phải làm đàng tôi tớ. Nhà họ Đậu tìm vào xin ở, cùng Hồ một cửa náu nương, chẳng phải ở với Hà Hương, mà đắc tường191 tâm sự. Trước gây ra việc dữ, âm mưu nịch tử Nguyệt Ba, tôi còn phò họ Đậu tại gia, xin lịnh quan tha thứ. Ngày Ó tới phân trần tự sự, Hà Hương liền kế dữ biến sanh, sai Trạnh tới dỗ dành, hai đứa tôi hiệp lực. Tôi không đành giúp sức, Trạnh hứa thưởng bạc vàng, sợ e Nguyệt thị nghi nan, lạ mặt thỉnh nàng không được. Cầu cho đặng hai đứa tôi đi rước, biết tớ nhà Nguyệt thị chẳng nghi, bởi dại nên không kịp xét suy, nghe trọng thưởng tức thì chịu lãnh. Tới Suối Đá Trạnh giả đò nóng lạnh, sợ tới nhà lậu mánh lý192 gian. Lúc trở về trời tối lỡ đàng, nội bọn mới toan đỡ dạ. Vào tạm nơi Suối Đá, Trạnh gian trá nào tường, xúi anh em tôi tiên hạ thủ vi cường, giết rồi đi, dầu cho mã hữu giác193 cũng không phương tra vấn. Dè đâu lại gặp tay hảo hớn, Ó võ nghệ tinh thông, thoi một thoi Rùa đã mạng vong, đá một đá Trạnh nằm không cục cựa. Sợ huơ tay làm nữa, tôi mới cúi lạy dài, cậu Ó mới nhơn tay, không hồn tôi bay mất. Muôn việc đều tỏ thật, xin quan niệm tình tha, tôi đâu đem dạ tây tà, bởi dại tham tài vong ngãi”. Quan rằng “Nếu vậy Đạo giãi bày nghe phải, gióng khai trước như sau, thôi, đem về coi quan định lẽ nào, ta chưa dễ biết sao phân xử. Lệ mau coi canh giữ, gông cùm mựa lảng lơ, canh khuya lối ba giờ, ta phản hồi công phủ. Chức việc làng đông đủ, làm dân cho sẵn hộ tùng. Lý trưởng khá theo cùng, đến nha hầu quan Phủ”. Nói rồi liền đi ngủ, bỏ vãi194 đó cho dân tuần. Nguyệt Ba ngồi nước mắt đượm nhuần, than trách lao đao lận đận “Tại huynh trưởng không gìn bổn phận, khiến nên khốn khó dường ni, phận ta sống thác nệ gì, cam chút thung già bãi hạc195. Phơ phơ đầu bạc, nhớ con trông mỏi mắt bặt hình, bữa sớm trưa không kẻ giữ gìn, cơn ươn yếu thiếu tay nâng đỡ. Lỡ tay một thuở, dở hết trăm đàng, phải anh nghĩ câu thối nhứt bộ tự nhiên khoan196, có đâu nỗi gian nan như vậy”. 189 Ghét ngõ ganh hiền: ganh ghét với người tài giỏi. 190 Hồ mỵ: mê hoặc. 191 Đắc tường: hiểu rõ. 192 Mánh lý: tức mánh lái, chỉ tình ý, ý tứ. 193 Mã hữu giác: ngựa có sừng, lấy tích Thái tử Đan nước Yên làm con tin ở nước Tần lâu ngày xin về, vua Tần đáp lúc nào ngựa mọc sừng, đầu quạ trắng sẽ cho về, đây có nghĩa là chuyện không thể có. 194 Bỏ vãi: không thèm ngó ngàng. 195 Thung già bãi hạc: cha mẹ già tuổi cao. 196 Thối nhứt bộ tự nhiên khoan: lui lại một bước thì đất trời rộng rãi. Ó nghe nói đau lòng biết mấy, nhớ mẹ già dạ luống xót xa, nghĩ khi chưa bước chưn ra, hẹn cùng mẹ, đi về nội tháng. Nay rủi gặp cơn vận hạn, mới khiến nên lâm nạn chốn này “Mẹ ôi! Con những dầu đất khách gởi thây, phận vậy số vầy trời định. Thương phận mẹ dường như trái chín, biết cậy ai cơn tỉnh lúc mê, măng khóc tre cam khổ nhiều bề, mẹ đợi trẻ dường nghê trông thoại197. Rầu phận mẹ lòng con ngần ngại, chớ như con, đấng anh hùng làm phải há tiếc thân, xét lại trời sanh trên loài thú là ân, há chẳng biết vi nhân hữu đạo. Nỡ chẳng trải thân mà báo, thì phải thua mộc thảo rất xa, coi lấy đó mà coi, cây lớn nên rường cột đỡ nhà, cây nhỏ lại bỏ ra rào giậu. Đấng linh tánh lẽ nào không rõ đạo, mà làm điều tàn bạo bất nhơn, mắt trượng phu đâu chịu cuộc phi ơn, tai quân tử chẳng sờn lời hồ mỵ. Thấy người đương lụy, ngó ngơ nào phải chí hùng anh, gặp côn đồ hãm hại người lành, ra sức cứu mới phải trang hào kiệt. Nghe tiếng khóc mựa giả đò tai điếc, gặp người rên siết chớ ngơ, thỏ với chồn khác giống chẳng làm lơ, người đồng loại tình sơ e trái lẽ. Thấy lợi nhỏ mựa lấy mình làm nhẹ, đem lòng tham hại kẻ hiền lương”. Chưa dứt lời nghe giục lên đường, võng cáng đã chường ra đó. Nguyệt Ba mới tỏ bày cùng Ó “Chốn tụng đình chưa rõ dữ lành, vậy thì sai thị tỳ trở lại lều tranh, cùng bá mẫu tháng ngày nương náu”. Ó nghe qua thậm hảo, thầm khen lòng hiếu đạo của Nguyệt Ba “Tính vậy thì, thị tỳ mau trở lại Hòn Bà, coi giúp đỡ mẹ ta sớm tối”. Canh gà đâu đã vội, đồng hồ trỗi sang ba, quan quân đều tề tựu bước ra, dẫn Ó, Đạo, Nguyệt Ba thượng lộ. 197 Nghê trông thoại: nghê (con trâu), thoại (điềm lành). Ý chỉ mong sự lành. Tội nghiệp cho Nguyệt Ba tay bồng trẻ chưn lần đường bộ, theo quân noi dấu thỏ bôn ba, bóng trăng khuya cũng đã hầu tà, Nguyệt Ba ngó Hòn Bà mà khóc. Buồn nghĩ đến nỗi niềm tơ tóc, sóng bủa gành như chọc cơn sầu, biển mênh mông nào thấy chi đâu, rừng cội rậm, canh thâu thanh vắng. Đi đến trời hừng sáng, mới tới quán198 Tam Tân, quan quân chẳng dừng chân, noi đàng rừng chỉ dặm. 198 Quán: xứ. Hai bên cây che rậm, đàng chỗ thấp chỗ cao, bước chập chồng Nguyệt thị té nhào, xét bổn phận càng đau gang tấc, nghĩ mấy nỗi Nguyệt Ba khóc ngất, chân xể xài199 mặt lại nám đen, đào non nắng táp dung mềm, mận chẳng sương teo mà héo. Con Tạo làm khôn khéo, hờn ghen bẻ méo tròn, đày đọa phận phấn son, hết kiếp còn cùng chẳng? Vừng ô đà hé nắng, ai nấy đều mỏi cẳng đau chân, quan dài lưng nào rõ nguồn cơn, dân vắn cổ kêu trời chẳng thấu. Lệ mới bẩm “Xin tạm vào dinh Cậu, dân lo cơm cháo đỡ lòng, xong xuôi sẽ ruổi dong, kẻo đói không dời bước”. Các quan liền vào trước, dân chúng kéo theo sau, Nguyệt Ba chưa biết liệu làm sao, bồng trẻ đánh liều vào xóm. Xóm đâu mà tìm xóm, làng cũng chẳng thấy làng, lều tranh đôi cụm dựa đàng, Hời, Mọi khó toan đàm đạo. Lần bước vào nài gạo, nấu bữa cháo đỡ lòng, nghe trả lời Nguyệt thị khóc ròng, rằng chúng nó ăn nần200 mà chịu, nhắm hết phương lo liệu, bồng trẻ trở lại dinh. Thầy Đề thấy vậy tưởng tình, biểu lệ đem cơm cho Nguyệt thị. Miếng khi đói biết bao nhiêu là quí, Nguyệt Ba cầm cũng tỷ vàng cân, đem ra nhai cho trẻ dại ăn, miễn là trẻ no dạ thì an lòng mẹ. Dư lại cất chờ khi vắng vẻ, giấu đem cho Ó đỡ lòng, Ó thấy vầy lụy nhỏ ròng ròng, bảo Nguyệt thị ăn cho xong rồi dời bước “Phận ta đây đói no gì cũng được, sợ cho em, phận đờn bà khó lướt ngàn mai”. Đôi đàng tương nhượng nhau hoài, chưa rõ ai no ai đói. Ó đợi lâu liền nói, “Em ăn hối201 cho xong, có sữa ra cho cháu đỡ lòng, nếu mà em nhịn miệng sữa đâu phòng cho bú”. Bỗng nghe dân kêu hú, tựu cho đủ lên đàng, Nguyệt thị còn ép Ó phải ăn, Ó lại nhượng cho Nguyệt thị. Hai đàng đều tương ỷ, một lòng trọn thỉ chung, gấp lên đàng gói xách theo đường, dành để lại cho con trẻ, dạ đói khó bề bước lẹ, lòng không khôn thế mau chân, gian nan này căm oán uống hờn, cực khổ ấy nằm gai nếm mật. 199 Xể xài: nguyên bản là”xẻ xài”, đây chỉnh lại như trên. Xể xài là trầy xước, sứt mẻ. 200 Nần: khoai rừng, lớn củ có thể ăn đỡ đói, nhưng phải khử độc mới ăn được. 201 Hối: nhanh. Bóng trời đà hầu khuất, truông nhặt202 gẫm khó qua, quan quân ngừng bước ghé nhà, minh nhựt dời chưn chẳng muộn. Quan trên đều bước xuống, dân dưới lo ăn uống cho no, xong bữa rồi lệ mới đem cho, ước đầy đặng một tô cơm trắng, Nguyệt Ba mầng lòng đặng, nhai cho trẻ vừa xong, còn dư đem cho Ó Đạo đỡ lòng. Nàng thì lấy cơm nguội ra ăn ba miếng, đói thì nuốt ăn sao ngon miệng, bởi lòng sầu tợ biển chưa nguôi, phận nổi trôi dạ luống sụt sùi, chưa từng chịu những mùi cay đắng. Nhà chật hẹp biết sao cho đặng, chỗ đâu nằm êm thấm nghỉ chưn. Nguyệt Ba bồng con trẻ ra sân, vì trẻ buồn ngủ khóc rân inh ỏi. Thấy ngọn suối, Nguyệt Ba liền hỏi, người trong nhà phân nói mới tàng203, suối này tên thiệt là Suối Vàng, gò này hiệu thổ san Cà Cú. Quan quân đều biết đủ, ai ai lại chẳng hay, trên núi cao nhỏ giọt xuống đây, dòng nước trắng bay bay tờ quyến trải, vàng rã khối tuôn ra từ dải, cuộn theo dòng nước chảy biết bao, nhưng bởi vàng chưa đặng tuổi cao, nên thấy đó biết sao bòn đặng. Non che phủ tối ngày không hé nắng, nước cuộn dòng lạnh tợ như băng, thú chi vui nhắm cũng chẳng bằng, cảnh nào lịch không hơn cảnh ấy. Nghe dứt tiếng Nguyệt Ba liền đứng dậy, tay bồng con bước tới đứng xem, thấy nước trong lòng khát nên thèm, bước xuống uống một hồi cho đã, bây giờ xem mới quả, vàng non rã chói lòa,“Ngồi nghĩ đến phận ta, sống nhơ thà cổi nạn204. Suối vàng ấy phải mồ bạc mạng, non xanh này đã đáng gởi thây, mẹ con đành xuống chốn Diêm đài, cho hết kiếp lạc loài trôi nổi”. Chưa vưng ý bỗng thấy người đâu lội, tay cầm roi miệng hối bầy trâu, hỏi Nguyệt Ba quê quán ở đâu, duyên cớ làm sao đến đó. Nỗi niềm ấy Nguyệt Ba liền tỏ, tâm sự này phân rõ lẽ ngay, lão bà nghe chép miệng cười dài, bảo Nguyệt thị lóng tai nghe kể “Thuở ta đây còn trẻ, bị gian nhơn phân rẽ phu thê, thấy lịch nên bắt thiếp đem về, bày việc nguyệt huê ép liễu, bởi thủ tiết thiếp không khứng chịu, gian nhơn liền giận biểu chăn trâu, chừng nào cho rắn mọc hai đầu, cá chẳng chịu ăn câu nó mới thả. Bởi dạ thiếp thương chồng thới quá, nên lòng mơ một ngả sum vầy, phải cắn răng dùn thẳng tháng ngày, chờ khi gặp lúc may thoát nạn. Ấy mới thiệt mười phần cay đắng, thiếp cam lòng thán oán cùng ai. Nàng chẳng qua nạn gởi tai bay, vương chút nợ trần ai thối chí”. 202 Truông nhặt: bãi đất trống trong khu vực rừng núi. Truông nhặt là nhiều bãi trống liên tiếp cạnh nhau. 203 Tàng: tường (rõ). 204 Cổi nạn: tức giải nạn, đây có nghĩa thoát khỏi cảnh hoạn nạn. “Nàng tính vậy sao không suy nghĩ, xuống suối vàng chung thỉ lỡ chăng, nợ ái ân là nợ không ngằn205, ơn cứu độ là ơn hà hải. Tay còn hỡi ẵm bồng con dại, nàng nỡ nào chẳng đoái tình thâm, nay tuy là mưa nắng dãi dầm, thiệt thòi phận cát lầm ngọc trắng, có như vậy ngày sau mới đặng đền bồi công ơn nặng đủ đường, hiệp một nhà vui đạo cang thường, vầy một cửa tào khang bền bỉ. Nàng mau khá trở vào ngơi nghỉ, khá ghi lời hữu lý già phân, thôi để già đi kẻo trễ chân, tăm tối không chừng đàng sá”. Vừa dứt tiếng lão bà biến hóa, chưa đáp lời người đã bặt hình, còn Nguyệt Ba đứng đó một mình, ngơ ngẩn thấy kinh hồn vía. Có phải là tiên nữ tới chỉ giùm làm nghĩa, hay là quỉ ma hiện tại khuấy ta, ngại đôi đàng đứng xét chưa ra, bèn bồng trẻ vào nhà ngơi nghỉ. (Người làm truyện bàn rằng: khi Nguyệt Ba đến suối rầu rĩ phận mình muốn thác, song hãy còn nghĩ việc nhà, tính tới tính lui, điều hơn lẽ thiệt, trí khôn lộn xộn, ngần ngại đôi đường, nên người thức mà trí mê, mới thấy hiện hình như vậy. Ấy cũng là một điềm chiêm bao đó – LHM). Thầy Đề lại đòi chủ nhà ra phụ nhĩ206, kẻ có tình người vô ý biết đâu, chủ nhà mới biểu Nguyệt Ba bồng trẻ đem vào trong buồng gối mẹ con yên giấc, kẻo phía trước quan quân đã chật, không lẽ nàng nằm dưới đất cho an. Nguyệt Ba nghe nói chưa tàng, ngỡ thật vén màn vào trướng. 205 Ngằn: tức ngân (dấu vết) biến thanh thành ngần, ngằn, đây chỉ mức độ. 206 Phụ nhĩ: kề sát vào tai mà nói, ý nói nói nhỏ, nói kín. Ai dè nỗi thầy Đề làm chướng, ép uổng nàng chỉ vướng tơ vương, nửa đêm lén bước tới giường, khuấy rối cang thường Nguyệt thị. Thầy Đề thiệt dốc tình quyết ý, dong207 mây mưa cho phỉ khát khao, sấn tay vô mở cửa động đào, cho bướm bạc liệng vào nút nhụy. Tội nghiệp cho Nguyệt Ba! Mấy đêm chẵn mắt không ngưng lụy, thêm đàng dài mệt nghỉ mê man, bởi vậy cho nên, bướm ong bay đáp nghinh ngang, nào khác vườn hoang hoa bạ. Quả là nồi nhỏ khôn vừa vung cả, đại xa tứ* mã khó dời, tiểu thuyền mà thả ra khơi, gió dập sóng dồi ắt rã. Vừa tỉnh giấc thấy người đâu lạ, kề bên mình thân đã lõa lồ, Nguyệt Ba hổ mặt muốn hô, chợt nhìn lại mình cô cũng vậy! (Ráng ngủ mê cho lắm, các cô! – LHM). “Ủa này! Quả thầy Đề ngồi đấy, nửa đêm vào phá khuấy duyên ta, thầy thiệt là tôi loạn nước nhà, nào phải mặt quan nha phụ mẫu. Có yêm ẩn208 cũng đà lỡ xấu, phải tri hô cho thấu tai người, chữ tiết trinh đáng giá mấy mươi, nếu thủ khẩu giấu mùi thêm tội”. Thầy Đề lại còn chưa chịu lỗi, thả giọng kèn kiếm lối đỡ mình “Phải gái thờ chồng hai chữ tiết trinh, trai xử thế công bình chánh trực. Tuy vậy mà, sánh kim cổ khó đồng một bực, nàng hãy còn chưa thức tri cơ: Nguyệt Nga xưa bãi biển dật dờ, Bùi Ông gặp cứu về nuôi dưỡng. Bùi Kiệm muốn mà không làm bướng, chẳng học đòi theo Xướng Tử Ca, cứ ngồi xỉa răng nói chữ với đờn bà, để đến nỗi Nguyệt Nga dời bước. Đó là truyện đời xưa buổi trước, chớ như đờn bà đời nay, ít ai gìn cho được vẹn tuyền, hễ gặp cơn nguy biến phải quyền, ai lại để ôm duyên chờ đợi. Nàng thiệt khôn mà nàng chưa nghĩ tới, để cho ta phân lợi nàng nghe, những kẻ không có trí thì chê, người rõ việc chẳng hề cười nhạo. Thuở nhà Hớn gặp cơn điên đảo, ngó trong triều áo mão thiếu chi, nào thấy ai trợ hiểm phò nguy, nhờ một gái Điêu Thuyền đỡ vạc209. Giả lấy mắt đưa tình Đổng Trác, khéo dụng lời quyến luyến Phụng Tiên, bởi vì chưng nước biến phải quyền, ai dám gọi ôm duyên đi bán. Đời nhà Hớn tặng phong cũng đáng, đem tên nàng vào bảng Tứ tài210, sao nàng không học lấy kế hay, để bắt chước ông Mai bà Hạnh211”. “Thầy đừng ỷ tài lanh nói bảnh, vậy chớ còn lẽ chánh để chi, thầy làm quan sao chẳng xét suy, cũng đứng bực nam nhi xử sự. Câu nam đáo nữ phòng nam tắc tử212, dụ nhơn thê213 tội xử làm sao? Nửa đêm thầy dám tới nhổ rào, vén ngõ chun vào hái ổi?”. Thầy Đề trả lời “Sao lại không biết, nhưng mà, bởi thương quá nên không sợ lỗi”, nghe vậy Nguyệt Ba chúm chím cười. “... Miễn hái rồi thọ tội cũng ưng, bởi rứa cho nên, tôi đánh liều nhắm mắt đưa chơn, may nàng có ra ơn cứu khổ!” (sic), Nguyệt Ba và cười và hứ. “... Ấy vậy mà nàng ưng tôi chẳng lỗ, tôi sẵn lòng cứu độ mới an, đó thiệt là một kế vẹn toàn, vậy mà chắc nàng chưa rõ. Ân nhơn của nàng là chú Ó, đang mang gông ngồi đó thấy không, nàng thì mong mau gặp mặt chồng, nếu mà nàng trì hoãn ắt không khỏi tội. Lại thêm, nhụy hoa nở bướm đà lặn lội, nếu không vầy cũng lỗi vậy vay, thôi thôi, cờ ta đã cầm tay, chớ vặn nài bẻ ách214”. Thiệt là thầy Đề đem hết sách, Nguyệt Ba ngồi làm thinh thầm trách ông tơ, xui làm chi cho chỉ vướng vơ, tội nghiệp phận đào tơ liễu yếu. “Thôi đi cô”, cửu hạn215 nhánh cây khô héo, thầy cả ôi! Cam võ phùng chẳng chịu hay sao? Mặc tình anh liệng thấp cao, én lẽ nào xua đuổi. Nguyệt Ba cứ cúi đầu thầm tủi, lụy tuôn dường như suối tợ khe. Thầy Đề liền bước lại đứng kề, vói níu nhành huê mà bẻ (sic). Miệng nói tợ kiết ma đọc kệ, tay lần như thầy bói lần song, nguyệt hoa hoa nguyệt não nồng, đêm xuân khó cầm lòng cha chả! 207 Dong: tức rong, ruổi, đây ý nói tiến tới. 208 Yêm ẩn: che đậy, giấu diếm. 209 Điêu Thuyền: là một ca nhi, sau làm con nuôi của Vương Doãn thời Đông Hán. Trong triều đình, thái sư Đổng Trác chuyên quyền, lại nuôi Lữ Bố làm con để giúp ông cướp ngôi vua. Vương Doãn lập mỹ nhân kế, trước hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố, rồi sau lại gả cho Đổng Trác, để gây sự bất hòa giữa hai cha con. Kết quả, hai cha con sinh thù hằn và giết hại lẫn nhau. Đỡ vạc: dịch ý từ “phù cửu đỉnh”. Cửu đỉnh tức chín cái vạc, tượng trưng cho cơ nghiệp quốc gia. Đỡ vạc tức nâng đỡ lúc vạc bị nghiêng, chỉ việc cứu nước. 210 Tứ tài: tức bốn tài nữ, cũng gọi là tứ đại mỹ nhân ở Trung Quốc thời cổ là Tây Thi, Vương Chiêu quân, Điêu Thuyền và Dương Quí phi. Tuy nhiên ở đây tác giả đã lầm, vì Dương Quí phi là người thời Đường, không thể được xếp vào danh sách tứ đại mỹ nhân từ thời Hán được. 211 Ông Mai bà Hạnh: tức Mai Lương Ngọc và Hạnh Nguyên, hai nhân vật gặp cảnh ngộ tình duyên trắc trở nhưng sau cùng lại được sum vầy trong truyện Nôm Nhị độ mai. 212 Nam đáo nữ phòng nam tắc tử: đàn ông tới phòng phụ nữ thì phải tội chết. 213 Dụ nhơn thê: dụ dỗ vợ người. 214 Vặn nài bẻ ách: tức lộn nài bẻ ách, đây chỉ việc chống đối, phủ nhận khuôn phép. 215 Cửu hạn: lấy ý câu “Cửu hạn phùng cam vũ” (hạn lâu gặp mưa rào). Đại bằng ngộ lam phong216 mầng quá, khác nào như nước cá vầy đoàn, cuộc mây mưa đánh đổ đá vàng, thiếp thiếp chàng chàng hoan bất tận. Lẽ khi Nguyệt Ba lòng còn giận, nên nằm làm thinh mê mẩn như say, trót canh dài vắng tiếng giãi bày, lại cũng hết khốc ai217 như nãy! 216 Lam phong: có lẽ là nam phong (gió nam). 217 Khốc ai: khóc lóc đau thương. Nực cười dây oan trái, vấn vương cái nợ tình, bấy lâu không bày cuộc én anh, nay sao lại nỡ đành vong ngãi. Chẳng biết vậy mà tại Nguyệt Ba sanh tâm biến cải, hay là lòng dâm xui ác dại chơi trăng? Hoặc là nợ tiền khiên218 còn thiếu mấy ngằn, nay phải trả gối chăn một thuở? Hay là gặp lúc biến nàng toan quyền đỡ, mượn hồng nhan lần gỡ mối tai ba? Mặc tình người nghĩ nghị gần xa, ta thật xét chưa ra một lẽ. 218 Tiền khiên: oan trái kiếp trước. Bỗng đâu nghe con trẻ, cựa mình ré khóc rân, làm cho chim hôm thoát về rừng, thỏ phải lơi bóng nguyệt. Thầy Đề khoái kể sao cho xiết, nằm duỗi co tính việc hân hoan, chờ trẻ thơ giấc nhắp cho an, thầy sẽ lần đàng vô nữa. Nguyệt Ba hãy còn đang lần lựa, tiểu Thoàn ôm vú sữa chưa buông, nghe cọp voi giỡn chạy thêm buồn, nghĩ mấy nỗi ngọn nguồn bận bịu. Gánh cang thường nặng trĩu, tình trăng gió dễ nào, tính sao cho bát nước đừng xao, liệu lấy thế gồm bao cho ấm. Trẻ mới vừa nằm êm thấm, thầy Đề chẳm hẳm219 bước vào, tay choàng ngang như điểu ngộ quả đào, Nguyệt thị vội ngăn rào đón ngõ “Thầy ôi! Đêm thanh vắng thiếp phân nhỏ nhỏ, thầy muốn nghe cho rõ nghiêng tai. Thầy biết rằng cuộc gia thất duyên hài220, lòng ân ái ai ai cũng vậy. Vẫn biết chồng thiếp là tay phường rẫy221, nay mà trời xui gặp đặng thầy, dường ấy rất xinh”. 219 Chẳm hẳm: sốt sắng, hăm hở. 220 Duyên hài: đẹp duyên. 221 Tay phường rẫy: kẻ quê mùa. “Không biết vậy mà thầy có dạ thật tình, hay là thầy nệ chỗ “Cha gà con vịt”. Thầy nghĩ lại thương tôi một ít, thân đờn bà ác dại chơi nhan222. Nếu mà thầy bỏ thiếp ra ngơ ngẩn giữa đàng, phận quần vận khó toan hối cải. Chữ nhứt dạ sàng chung dạ ái223, thà rằng xa, hơn gần rồi lại rẽ phân, nghĩa vợ chồng một bữa cũng ân, kết rồi chẳng đặng gần thậm uổng, đêm ngày dạ luống, tơ tưởng mặt thầy, mình ốm xương gầy, võ vàng vóc liễu, bởi không ai xúi biểu, khi trước phải liệu lo, như thầy vững tay co, đây thiếp nguyền vâng dạ, đừng làm như họ Mã, va224 báo hại Kiều nhi, mang những tiếng thị phi, hay ho gì bắt chước, còn như việc cửa quyền quì trước, xin thầy thương làm phước cứu cùng”. “Nàng khéo lo thì thôi! Thuyền quyên mà biết đến anh hùng, dầu cũi sắt đi nữa, ta tháo lồng cũng đặng. Nàng mựa chớ than dài thở vắn, để rồi đây thỉnh thoản* sẽ hay. Đôi đứa mình hiệp mặt bắt tay, lo chi việc gió ngay mưa vạy225. Nàng chớ khá đem lòng ái ngại, nhành hoa đâu giao lại cho ta, nay tuy là chưa hiệp một nhà, sau cũng đặng vào ra một kiểng. Thôi thôi! Canh gà đà trổ tiếng, bớt bớt chuyện để mai”. Bây giờ đây cửa đóng then gài, thầy Đề mới lần tay vô mở, hoa dầu không ngăn trở, bướm hớn hở lắm ru. Thầy cả ôi! Đêm như vầy hơn chín kiếp tu, hơi nào để công phu cho mệt! 222 Ác dại chơi nhan: chưa rõ ý nghĩa. 223 Nhứt dạ sàng chung dạ ái: tức nhất dạ đồng sàng chung dạ ái (một đêm cùng giường thì trọn đêm yêu thương). 224 Va: đại từ nhân xưng ngôi thứ ba giống đực số ít (từ cổ), nghĩa như y, hắn, nó. 225 Vạy: cong, không ngay thẳng (từ cổ). Sáng ngày ra quan quân thức hết, lo sửa sang cơm nước lên đàng, thầy Đề còn nằm đó mê man, Nguyệt Ba sợ dở dang kêu dậy. “Thầy ôi! Bóng hồng đà lố thấy, mựa dùng dằng miệng thế khôn lường. Tính làm sao cho nhẹm226 như rương, đừng để tiếng phô trương chẳng dễ. Hễ sắc bất mê vô sở uế227, thương gìn lòng mựa để lậu ngôn, sau những dầu sen muống một bồn, ơn ấy sánh càn khôn tái tạo”. Nghe mở mắt nhìn xem lơ láo, thầy Đề liền mặc áo ra phòng, hối quân cơm nước no lòng, đặng có ruổi dong truông cả. 226 Nhẹm: kín. 227 Sắc bất mê vô sở uế: nếu không mê đắm sắc dục thì không bị mang tiếng xấu. Tới chốn lạ Nguyệt Ba buồn bã, nhưng mà lúc biến vầy ôm dạ biết sao? Thấy cảnh rừng cây thấp cây cao, nhìn vẻ núi chập chồng, phiền nát. Vùng cát trắng khác nào đường cát, đám cỏ xanh mịn tợ chàm xanh, dấu thỏ voi tạc để dấu đành rành, da rắn lột da còn nguyên đó. Liếc mắt bắc nam nhìn ngó, nghiêng tròng xem rõ tây đông, nhớ vọng phu ngoảnh mặt trông chồng, xét lại phận má hồng mà thẹn. Bề tiết hạnh nay đà chẳng vẹn, lời thề xưa còn đó sờ sờ, nghĩ từ khi ngộ biến đến giờ, bướm qua lại sớm trưa mà tủi. Trời mai đà quá buổi, bóng hồng đã đứng đầu, trên thì chan nắng lửa mưa dầu, dưới cát nóng biết sao mà kể. Thậm trách bấy trời xanh rất tệ, ghét ghen chi mà để dường ni, xưa bạc cao nay đã hóa chì, chờ hết kiếp còn gì thân phận, những mảng lần theo đàng vắng, bỗng đà tới chốn rồi đây. Thầy Đề liền vào phủ bẩm khai, đem mọi nỗi gian ngay bày tỏ, quan Phủ nghe qua mới rõ, bảo đem Đạo, Ó ra chường, hỏi sơ qua kế độc Hà Hương, rồi giam lại khám đường chờ lịnh. Đuổi tớ nào hay lâm đại họa Tầm thầy chưa gặp, gặp điềm may Kể từ thuở Nguyệt Ba bặt tín, Nghĩa Sơn không biết tính hà phương, thằng Hữu thì sa đắm Hà Hương, chẳng nể mặt thung đường228 còn tại. Một bữa nọ Nghĩa Sơn nhắc lại, sự dâu mình lâm hại mà thương, vợ nói rằng “Nghe ở Gò Đường, hiện có chú thầy Đương thiệt giỏi, rằng thầy ấy tu tiên biết bói, tôi muốn tìm đến hỏi việc dâu, nếu để vầy ức lý biết bao, nó sống thác dường nao không rõ”. Nghĩa Sơn biểu “Mụ đi tới đó, xin thầy coi cho rõ mọi điều, dẫu tốn hao mụ cũng đánh liều, chớ nệ cuộc ít nhiều tiền bạc”. Lúc xế chiều trời mát, vợ xách áo ra đi, mặt dàu dàu chi xiết sầu bi, lòng thiết thiết cũng vì Nguyệt thị, giữa đàng ở triền lộ229 có người ngồi nghỉ, tuổi độ chừng hai kỷ có dư, kẻ ấy kêu mụ mà rằng “Tôi có việc tư, quyết phân cạn điều hư lẽ tệ”. Mụ mới bảo điều chi khá kể, kẻo chậm chưn mụ trễ việc nhà. Rằng “Tôi là tâm phúc họ Hà, mới bị chủ đuổi ra khỏi cửa, nhắc đến nỗi đôi hàng lụy ứa, công ba năm một bữa mà thôi, tức mình vì chẳng xét công tôi, đem công nghiệp thả trôi dòng nước. Vì tôi đã có lời giao ước, cùng tớ nhà mai trước230 sánh đôi, Hà Hương nay đánh đập đuổi tôi, thiệt là bạc như vôi chẳng sái. Nàng Nguyệt Ba xưa mà lâm hại thân nổi trôi cũng tại Hà Hương, nếu bác đem tôi đến công đường, tôi khai hết cho tường áo lý231”. Vợ họ Đậu nghe qua ngụ ý, liền nắm tay năn nỉ biểu đi “Sau những dầu việc ấy ra chi, mụ giàu có tiếc gì tiền bạc, vậy cháu hãy mau chưn theo bác, khó dễ gì mặc bác liệu toan, miễn là con phân rõ cơ quan, đặng minh vấn kẻo oan Nguyệt thị”. 228 Thung đường: cha. 229Triền lộ: lề đường. 230 Trước: trúc. 231 Áo lới: tức áo lý (lý do kín đáo). Tới nhà hội liền kêu Phó lý, cậy đi mời chú Xã ông Hương, xin mau mau tựu đến công đường, đặng minh vấn nỗi oan cho rõ, chưa mấy phút việc làng tới đó, họ Đậu liền bẩm rõ khúc nôi. Chú Xã nghe phân rõ đầu đuôi, bèn mới nói để tôi đi báo. Vấn khăn xốc áo lật đật bôn ba, gặp thầy Cai vừa bước chơn ra, chú Xã mới bẩm qua mọi lẽ “Việc này chẳng dễ, chậm trễ khó toan. Xin mời thầy mau đến nhà làng, lấy khai báo cho toàn áo lới232”. Thầy Cai theo tới, hỏi lợi ngọn ngành. Mới hay rằng sự tích chẳng lành, tại Hà thị biến sanh mưu hại “Xã trưởng mau vâng lịnh dạy, làm# dân hượt tróc233 Hà Hương, dẫn đem về giam tại sảnh đường234, ta tra vấn cho tường hắc bạch”. 232 Áo lới: tức áo lý. 233 Hượt tróc: tức hoạt tróc (bắt sống). 234 Sảnh đường: nguyên bản là thính đường, đây chỉnh lại như trên. Pháp chẳng vị Hà Hương tuôn giọt lụy Tình quặn trông Nghĩa Hữu đượm dòng châu Nói về Hà Hương, kể từ ngày sai Trạnh đi với Ó từ ấy chí nhẫn nay, bặt tin nhạn cá, chẳng biết vậy mà Trạnh ra tay có đặng cùng chăng? E khi họa hổ bất thành, đến đỗi cơ mưu dĩ lậu235. Bởi vậy, Hà Hương ngóng trông mỏi mắt, ngồi đứng không yên, chắc lưỡi giậm chơn, ăn không ngon, nằm không ngủ. Lòng sầu mặt ủ, nhưng mà gượng làm khuây nói nói cười cười, nếu mà buồn bực chau mày, sợ e người rõ thấu. Còn Nghĩa Hữu thì từ