🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Guanxi Nghệ Thuật Tạo Dựng Quan Hệ Kinh Doanh - Robert Buderi
Ebooks
Nhóm Zalo
S
LỜI GIỚI THIỆU
ự kiện Bill Gates tới thăm Việt Nam được coi là bước khẳng định tầm quan trọng của Việt Nam với vai trò thị trường cũng như nhà cung cấp (nguyên vật liệu, nhân
sự...) trong chiến lược của Tập đoàn Microsoft. Việt Nam, Trung Quốc hay các nước châu Á nói chung đều có tập quán kinh doanh dựa trên quan hệ, trái ngược với phương thức làm việc trên hợp đồng rành mạch của phương Tây. Vì vậy, việc thâm nhập vào các nước châu Á không phải là một bài toán dễ giải cho bất cứ doanh nghiệp phương Tây nào.
Quan hệ chính là chìa khóa để hé mở cánh cửa thành công tại châu Á – điều mà ban lãnh đạo Microsoft nói chung và Bill Gates nói riêng giờ đây đều hiểu rõ. Để có được thành công tại Trung Quốc hôm nay, không chỉ toàn Tập đoàn mà đích thân Bill Gates đã phải nỗ lực hết mình trong việc tìm hiểu và thích nghi với cách thức kinh doanh dựa trên quan hệ.
Cuốn sách Guanxi: Nghệ thuật tạo dựng quan hệ kinh doanh của Robert Buderi và Gregory T. Huang là một nghiên cứu trường hợp tuyệt vời cho việc một đại công ty như Microsoft đã phải làm như thế nào để đạt được thành công rộng khắp và lâu dài tại thị trường hơn 1 tỷ người. “Guanxi” đối với giới kinh doanh Trung Quốc được hiểu như một mạng lưới quan hệ hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau. Mối tương quan win win ấy đòi hỏi thời gian và sự tự nguyện, điều mà không nhà kinh doanh nào thành công tại Trung Quốc lại không thấu hiểu.
Cuốn sách thể hiện sự quyết tâm của Microsoft, từ việc điều chỉnh phương thức làm việc và giao tiếp “nhập gia tùy tục” cho đến việc đầu tư vào Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á
(Microsoft Research Asia) như một món quà ra mắt chủ nhà Trung Quốc. Việc vận dụng tốt “Guanxi” trong một môi trường văn hóa coi người lạ đồng nghĩa với sự dè chừng cũng chứng tỏ năng lực và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo Microsoft cũng như làm thay đổi cách nhìn của các nhà kinh doanh đối với những gì Trung Quốc có thể đem lại cho họ.
Thông qua cuốn sách, người đọc có thể nắm bắt được những thăng trầm của Microsoft Trung Quốc trước những đối thủ cạnh tranh lớn như Google, hiểu được ý chí cần có khi thâm nhập vào các thị trường châu Á, cũng như học được cách điều chỉnh các mối quan hệ win-win đôi bên cùng có lợi trong một môi trường kinh doanh đang dần xóa đi các biên giới về lãnh thổ và dân tộc.
Guanxi: Nghệ thuật tạo dựng quan hệ kinh doanh là một món quà tri thức của Alpha Books trân trọng gửi tới các độc giả Việt Nam, là một bài học Guanxi giúp mọi doanh nghiệp phát triển bền vững trong một thị trường hơn 80 triệu dân có khả năng thích ứng và áp dụng công nghệ thông tin rất cao cũng như mở rộng phạm vi kinh doanh ra toàn cầu.
Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả!
Trịnh Minh Giang
Giám đốc VIP International School
LỜI MỞ ĐẦU
C
huyến thăm Trung Quốc bí mật của người giàu nhất thế giới và những câu chuyện khác
Chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Bill Gates, theo Science Daily – tờ báo khoa học công nghệ hàng đầu Trung Quốc:
“… Chuyến thăm đầu tiên của Bill thật ngắn ngủi.
Ngày 21 tháng 3 năm 1994, lần đầu tiên Bill tới Trung Quốc để bán phần mềm Windows, khi ấy ông 39 tuổi. Ông có cuộc hội kiến ngắn ngủi với Chủ tịch Giang Trạch Dân. Chủ tịch nói chuyện với Bill Gates về văn hóa Trung Hoa. Theo Chủ tịch, Bill Gates nên tìm hiểu ngôn ngữ cũng như văn hóa của người Trung Quốc để hai bên có thể hợp tác nhiều hơn.”
Chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Bill Gates, theo lời các nhân viên phòng nghiên cứu Microsoft tại Bắc Kinh, Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á:
Jia-Bin Duh − trưởng phòng kinh doanh của Microsoft tại Trung Quốc − tới sân bay đón Bill Gates. Khác với suy nghĩ của Duh (ông nghĩ mình sẽ gặp một người chỉn chu trong bộ comple), Bill lại mặc quần jeans và đi giày thể thao. Ông nghĩ Bill sẽ ở lại một tuần, nhưng Bill chỉ mang theo một chiếc ba lô máy tính, không hề có hành lý. Trông ông thật giống một sinh viên khoa công nghệ. Khi Duh hỏi đó có phải tất cả những gì ông mang theo không, Bill trả lời: “Đúng vậy, chúng ta đi nào!”
Ngày hôm sau, Bill tới hội kiến Chủ tịch Giang Trạch Dân. Ông vẫn mặc quần jeans. Đó là một cuộc gặp ngắn ngủi. Sau đó, phát ngôn viên của Chủ tịch Giang Trạch Dân phát biểu với báo chí
rằng vị nguyên thủ quốc gia của Trung Quốc đã lưu ý Bill nên tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa Trung Hoa. Đó là một cách nói lịch sự rằng ngài Chủ tịch đã bị xúc phạm.
Câu chuyện Bill Gates mặc đồ jeans gặp Chủ tịch Giang Trạch Dân sau này được chứng minh là chuyện bịa đặt, nhưng vì tất cả những người tận mắt chứng kiến việc đó đều không còn làm việc ở công ty nên câu chuyện cứ thế lan rộng. Duh nói, thực tế, người sáng lập Microsoft mặc comple và Chủ tịch Giang Trạch Dân không hề bị xúc phạm. Tuy nhiên, đây là một thông điệp cho thấy Microsoft cần tìm hiểu rất nhiều về cách “cho và nhận” khi kinh doanh ở Trung Quốc như vậy hai bên mới có lợi từ mối quan hệ này. Duh còn nói: “Sau cuộc gặp đầu tiên của Bill Gates với Chủ tịch Giang Trạch Dân, có thể thấy rất rõ rằng chính phủ Trung Quốc muốn Microsoft sẽ hoạt động kinh doanh nhiều hơn tại Trung Quốc, đồng thời phát triển công nghiệp phần mềm tại Trung Quốc hiệu quả hơn.”
Chuyến thăm thứ hai của Bill Gates, theo Science Daily:
“Trong chuyến thăm châu Á, Bill Gates đã chọn đến Trung Quốc và không thông báo cho bất kỳ cơ quan truyền thông nào. Ông đi cùng mười người, trong đó có vợ, cha và Warren Buffett. Lý do có chuyến thăm lần này là vì chuyến thăm trước đó quá ngắn. Thứ hai, ngày 18 tháng 9 năm 1995, Bill tới Bắc Kinh. Lúc 9 giờ sáng ngày 20 tháng 9, Chủ tịch Giang Trạch Dân mời Bill Gates tới một khu nghỉ mát. Ông hỏi Bill về những nơi dự định đi trong chuyến thăm lần này. Bill nói mình sẽ tới miền tây Trung Quốc, trong đó có Tây An – vùng đất của những chiến binh và tuấn mã, đập Tam Hiệp và sông Dương Tử. Ông còn nói rất muốn thử đi bằng tất cả các loại phương tiện khác nhau ở Trung Quốc: máy bay, tàu hỏa, thuyền, xe đạp và cả lạc đà!
“Chủ tịch Giang Trạch Dân nói: ‘Đập Tam Hiệp là một ý kiến hay.’ Sau đó, ông đọc một số bài thơ nổi tiếng về đập Tam Hiệp. Chủ tịch nói chuyện với Bill như thể một người cha đang
khuyên bảo con: ‘Ngài làm rất tốt. Nếu ngài tiếp tục làm việc chăm chỉ, ngài sẽ còn thành công hơn nữa.’”
Sự trở lại của Bill Gates vào tháng 2 năm 2003, theo lời kể của Kai-Fu Lee − thành viên sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á:
“Tôi đi cùng ông trong suốt chuyến thăm. Tôi cùng Bill tới thăm Chủ tịch Giang Trạch Dân. Câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch là: “Trung tâm Nghiên cứu Microsoft là một thành công vang dội, Trung tâm Nghiên cứu Bell Labs từng thành công không kém. Điều gì khiến ngài khác với họ?” Và Bill trả lời: “Bell Labs có các nhà nghiên cứu tuyệt vời nhưng các nhà nghiên cứu của chúng tôi thật sự quan tâm đến khách hàng, công nghệ và sản phẩm. Vì thế, tuy có điểm giống nhau, nhưng chúng tôi có khát khao lớn hơn và trách nhiệm cao hơn.”
Họ đã nói chuyện với nhau trong 45 phút, lâu hơn dự kiến. Họ nói rất nhiều về con cái và gia đình, cởi mở và chân thành như những người bạn. Trong 10 phút, Bill tóm tắt sơ qua những tiến bộ mà Microsoft đạt được trong lĩnh vực phần mềm, các đối tác Trung Quốc và công cuộc nghiên cứu. Thời gian còn lại, hai người nói chuyện thân mật. Có hai phiên dịch viên, tuy nhiên Chủ tịch Giang Trạch Dân cũng thích sử dụng tiếng Anh. Khi nói chuyện, ông pha trộn cả tiếng Anh lẫn tiếng Hoa.
Thú vị nhất là khi Chủ tịch Giang hỏi về thị trường chứng khoán: “Thị trường chứng khoán hoạt động như thế nào?” Bill giải thích về lợi nhuận trên mỗi cổ phần. Chủ tịch hỏi tiếp: “Tôi hiểu, nhưng tại sao Microsoft lại trị giá đến gần một nghìn tỷ đô-la?” Bill lại giải thích về tiền lãi dự án, phải kinh doanh như thế nào trong vòng 30 năm và làm sao thu được giá trị hiện thời. Chủ tịch Giang rất thông minh và ông nhanh chóng nắm được toàn bộ cơ chế hoạt động đó.
Cuộc đàm thoại giữa Bill Gates và Giang Trạch Dân sau đó diễn ra như sau:
“Ồ, hay đấy, nhưng một nghìn tỷ đô-la thì nhiều quá!”
“Đúng là quá nhiều. Đấy là do người ta cứ thổi phồng lên. Bây giờ thì Microsoft có giá trị thực tế hơn, toàn bộ thị trường chứng khoán đang sôi sục.”
“Vậy sao? Đang sôi sục thì tại sao ngài không bán tất cả cổ phần của Microsoft?”
“À, tôi phải có những trách nhiệm nhất định đối với các cổ đông.”
“Tại sao công ty không bán tất cả cổ phần?”
“Thực ra thì công ty không có nhiều cổ phần như vậy, hơn nữa, nếu bán tất cả cổ phần thì người ta sẽ không còn tin tưởng công ty nữa.”
“Tôi nghĩ là tôi hiểu, nhưng tất cả những điều này dường như không hợp lý lắm.”
“Thưa ngài Chủ tịch, ngài quả là một nhà tư bản thực thụ.”
Chuyến thăm của Bill Gates tới Trung Quốc vào tháng 6 và tháng 7 năm 2004:
Ngày 30 tháng 6 năm 2004, Bill Gates đến Bắc Kinh. Trong những ngày đầu tiên tới Trung Quốc, người giàu nhất thế giới này đã được Giám đốc Kinh doanh của Microsoft ở Trung Quốc hộ tống tới các cuộc họp. Ngoài ra, bên cạnh ông còn có người đứng đầu Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á, Hueng– Yeung “Harry” Shum: “Trong các cuộc gặp với quan chức chính phủ Trung Quốc, Bill đều nói rằng Microsoft Research là vụ đầu tư tuyệt vời nhất vào Trung Quốc của chúng tôi.”
Trong hai cuộc gặp với Thủ tướng Ôn Gia Bảo, nhân vật quyền lực lớn thứ ba Trung Quốc, Bill Gates tiếp tục nỗ lực xây dựng mối quan hệ với chính phủ Trung Quốc, đưa ra những thông tin mới nhất về việc hỗ trợ 750 triệu đô-la cho việc thúc đẩy công nghiệp nội địa và đào tạo kỹ sư phần mềm.
Ông còn giới thiệu về những hoạt động của Quỹ Từ thiện Bill & Melinda Gates nhằm cải thiện sức khỏe cho người dân ở nông thôn và đề nghị Thủ tướng tạo điều kiện giúp đỡ. Về phía mình, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nồng nhiệt cảm ơn chủ tịch Tập đoàn Microsoft về những điều tốt đẹp mà ông đã dành cho nhân loại nói chung và đất nước Trung Quốc nói riêng. Ông nói: “Thưa ngài Gates, tên ngài được mọi gia đình Trung Quốc biết đến. Không ai trên đất nước này không biết đến ngài. Tôi đã đọc rất nhiều về ngài và công ty của ngài. Tôi cũng đã đọc những cuốn sách do chính ngài viết.”
Hôm sau, ngày 1 tháng 7 là ngày kỷ niệm 81 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Hoa. Bill Gates dậy từ rất sớm và đến thăm một chương trình thực nghiệm trung học ở trung tâm Bắc Kinh – khai giảng một lớp học máy tính trong chương trình xóa mù tin học, do Microsoft tài trợ. Tiếp sau đó, ông có cuộc hẹn với đại biểu quốc hội Trần Chí Lập, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và là một trong những phụ nữ quyền lực trong chính phủ Trung Quốc.
Cuộc gặp với bà Trần hơi hạn hẹp về thời gian – được sắp đặt lúc 9 giờ sáng, giữa chuyến thăm trường trung học và cuộc họp với các chuyên viên nghiên cứu phần mềm đã được lên lịch vào lúc 10 giờ sáng ở Trung tâm Thể thao Olympic – nơi thường diễn ra những cuộc hội nghị lớn. Cuộc gặp bà Trần được bố trí trong khoảng nửa tiếng, như vậy là Bill chỉ có nửa tiếng để đi từ khu văn phòng chính phủ đến Trung tâm thể thao. Shum đã nghiên cứu kỹ lộ trình và thuê đội cảnh sát hộ tống ngay sau khi cuộc gặp kết thúc. Shum nói đùa: “Thật không may, bà Trần rất quý
Bill.” Bà đã hỏi rất nhiều, câu nào cũng hấp dẫn nhưng lại khiến Bill vô cùng lo lắng vì cuộc hẹn tiếp theo lại sắp tới gần.
Họ đã chậm mất 20 phút so với lịch trình. Vì họ là người chủ trì cuộc họp.
Khi Bill đến nơi, 4 nghìn chuyên viên nghiên cứu kiên nhẫn của đất nước xã hội chủ nghĩa đã chào mừng nhà tư bản nổi tiếng nhất thế giới bằng một tràng pháo tay.
Đây là câu chuyện về những cuộc phiêu lưu (và cả những rủi ro) của Microsoft ở Trung Quốc kể từ chuyến thăm đầu tiên của Bill Gates. Nói cụ thể, đây là câu chuyện dài kỳ về Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh – một phần của tổ chức mà Chủ tịch Giang Trạch Dân đã nhắc tới khi Bill Gates đến thăm Trung Quốc năm 2003 – và về việc tại sao nó lại trở thành một tổ chức đặc biệt đóng vai trò là cầu nối giữa công ty phần mềm lớn nhất thế giới và đất nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất thế giới. Tổ chức này là một ví dụ tiêu biểu về đổi mới trong kỷ nguyên cạnh tranh toàn cầu.
Một lời tiên đoán: Đây là câu chuyện về một trung tâm nghiên cứu chứ không phải là câu chuyện về những hoạt động kinh doanh của tập đoàn Microsoft ở Trung Quốc. Cuốn sách này không viết về quá trình cung ứng sản phẩm hay kiểm tra phần mềm. Chúng tôi không nghiên cứu sâu về việc kinh doanh của công ty, những dự đoán về thị trường hay những nỗ lực chống lại nạn sao chép kỹ thuật số và đi trước hệ điều hành “miễn phí” Linux trong mục tiêu hợp tác với chính phủ Trung Quốc. Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ xoay quanh trung tâm nghiên cứu của Microsoft tại Bắc Kinh và mối quan hệ của trung tâm đối với đất nước Trung Quốc. Ngày nay, hầu như các công ty và tập đoàn lớn đều có hoạt động kinh doanh ở Trung Quốc, nhưng cho tới thời điểm này vẫn chưa có công ty nào xây dựng được một đơn vị giống như Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á.
Đó chính là câu chuyện về một trung tâm nghiên cứu. Trung tâm nghiên cứu toàn diện này là một điển hình thuyết phục cho chiến lược đổi mới lâu dài của Microsoft cũng như những thử nghiệm và khó khăn của tập đoàn này ở Trung Quốc. Vấn đề nổi cộm là phải tìm ra những phương pháp tốt hơn để đổi mới trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Do đó, nhu cầu đặt ra là phải tìm được những quốc gia mới nổi cung cấp nguồn nhân tài có thể tạo nên những đổi mới trong tương lai. Vì những quy tắc kinh doanh và đổi mới trên thế giới rất khác nhau, nên việc thích nghi với những nền văn hóa đa dạng là vô cùng cần thiết. Vì thế, những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc được nâng lên một tầm cao mới và được nhiều tổ chức đặt quan hệ làm ăn. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ cùng khám phá và tìm hiểu những phương thức mà mọi người có thể sử dụng để đi tới chiến thắng.
Guanxi (phát âm: “gwan-shee”), một từ tiếng Trung có nghĩa là những mối quan hệ tương trợ cần thiết cho thành công. Ở Trung Quốc, không có một mối quan hệ nào được gọi đơn giản là quan hệ kinh doanh. Để thành công trong lĩnh vực kinh doanh, bạn cần phải kết hợp hài hòa giữa những quan hệ xã giao với những quan hệ mang tính chất cá nhân. Guanxi có nghĩa là nghệ thuật tinh tế trong việc xây dựng và nuôi dưỡng quan hệ. Trước kia, trong các trường học kinh doanh ở Trung Quốc, từ này thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực là thiên vị. Nhưng thực chất, Guanxi có nghĩa là một mối quan hệ được xây dựng sau một thời gian dài, chúng ta có thể hiểu đó là “quan hệ tốt”. Bốn nguyên tắc cơ bản của một mối quan hệ tốt có thể hiểu ngắn gọn là: sự tin tưởng (tôn trọng và hiểu người khác), sự quý mến (trung thành và nghĩa vụ), sự phụ thuộc (sự hòa hợp lẫn nhau, tôn chỉ hai bên cùng có lợi) và sự thích nghi (kiên trì và mở mang kiến thức).
Có được những mối quan hệ tốt ở Trung Quốc không hề đơn giản đối với Microsoft. Kiểu ăn mặc có vẻ xuề xòa của Bill Gates trong lần đầu tiên hội kiến Chủ tịch Giang Trạch Dân đã thể hiện sự bất cẩn của Microsoft khi bước chân vào thị trường lớn
nhất thế giới này. Năm 1992, Microsoft thành lập chi nhánh đầu tiên ở Bắc Kinh là Microsoft Trung Quốc. Nhưng hàng loạt sai lầm về chiến lược cộng với các vụ scandal nhỏ, từ những đợt giới thiệu sản phẩm không thành công đến việc một cuốn sách bêu rếu Microsoft và các chiến lược của tập đoàn được xuất bản bằng tiếng Trung và Nhật của một cựu giám đốc kinh doanh nổi tiếng đã khiến Microsoft bị thiệt hại nặng nề. Trong suốt thời gian này, Microsoft còn phải chi trả những khoản tiền khổng lồ cho các chương trình quảng cáo không hiệu quả và sơ suất do việc định giá quá thấp các phần mềm, thậm chí thấp hơn rất nhiều so với các phần mềm chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quan hệ thiếu bền vững đó, Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á đã xuất hiện. Năm 1991, lần đầu tiên cựu trưởng phòng công nghệ Nathan Myhrvold đã đưa ra ý tưởng về một trung tâm nghiên cứu như thế. Tháng 11 năm 2005, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh tổ chức kỷ niệm 7 năm ngày thành lập. Trong một thời gian phát triển ngắn, Trung tâm đã thể hiện được vai trò là một phương tiện hiệu quả để khắc phục các lá chắn đã bị hủy hoại và xây dựng Guanxi. Thông qua các chương trình hành động mạnh mẽ hơn, Trung tâm đã thiết lập được mối quan hệ mới với toàn ngành, các trường học, học viện và chính phủ. Điều này đã giúp Microsoft bước đầu thành công trong việc giới thiệu sản phẩm mới vào Trung Quốc – nền kinh tế phát triển nhanh chóng và toàn diện nhất trên thị trường châu Á. Đặt câu chuyện về phòng thí nghiệm vào bối cảnh những gì đang diễn ra ở Redmond – trụ sở của Microsoft ở Washington, chúng ta sẽ hiểu tầm nhìn mới và đầy tham vọng của Microsoft: tạo ra những đổi mới vô cùng to lớn về hình ảnh của công ty và dẫn đầu thế giới trong việc nâng cao tính tương tác, giải trí và đặc biệt là tính hữu dụng của máy tính. Thật vậy, với gần 500 nhà nghiên cứu và kỹ sư (con số này đã tăng lên gấp đôi so với một năm trước đó), 300 thực tập viên cùng nguồn vốn đầu tư lên tới 100 triệu đô-la kể từ khi thành lập, Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á đã trở thành trung tâm R&D (nghiên cứu và phát triển) công nghệ thông tin mang
tầm quốc tế. Giờ đây, nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu giúp Microsoft thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm nghiên cứu tiên phong, từ đó đảm bảo tất cả các mục tiêu tương lai của tập đoàn đối với sản phẩm chính là hệ điều hành cho tới công cụ tìm kiếm trên Internet, video games và hệ thống máy tính không dây. Tính cấp thiết của vấn đề này đối với công ty đã được nhân lên gấp bội. Những công nghệ mới ra đời ồ ạt ở Bắc Kinh như một dòng thác mạnh hướng đến gần như tất cả lĩnh vực kinh doanh của Microsoft: công cụ đọc văn bản (text-to
speech) trong word, giao diện phần mềm cho chức năng quay phim và chụp ảnh của điện thoại di động, hình đồ họa mô phỏng sống động trong các trò chơi Xbox, công cụ tìm kiếm trực tuyến hiệu quả hơn với cổng Internet MSN, và rất nhiều đặc trưng nổi bật cho Vista – hệ điều hành Windows mới, vốn được chờ đợi từ lâu sẽ ra đời trong năm 2006.
Rick Rashid, Phó chủ tịch cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Microsoft. Ngoài vị trí chính thức ở Redmond, còn điều hành các trung tâm nghiên cứu khác ở San Francisco; Mountain View (California), Cambridge (Anh) và Bangladore (Ấn Độ) ông cho biết: “Điều thú vị là, mặc dù được định hướng trực tiếp vào thị trường châu Á nhưng tính ứng dụng của những nghiên cứu này lại không giới hạn ở biên giới của một quốc gia nào. Người ta thường giải quyết vấn đề theo những cách khác so với cách giải quyết vấn đề ở châu Âu và Mỹ, bởi họ đến từ một nền văn hóa khác. Họ thường đưa ra những giải pháp khác biệt và trong một số trường hợp, chính sự khác biệt lại mang lại hiệu quả cao hơn.”
Cuốn sách này viết về bảy năm xây dựng và phát triển của Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á. Hình ảnh trung tâm là Trung tâm nghiên cứu ở Bắc Kinh. Vai trò của Trung tâm nghiên cứu ở Redmond cũng được nhắc đến trong câu chuyện bắt đầu từ tuần lễ bước ngoặt trong tháng 11 năm 2004, khi Bắc Kinh trở thành trung tâm trong nỗ lực cạnh tranh của Microsoft với những đối thủ như Nokia, Sony và đặc biệt là Google. Sau đó,
câu chuyện sẽ dần tiết lộ hoạt động của những nhân vật chính. Hầu hết họ là người Trung Quốc và Đài Loan – những người đã dành gần như cả cuộc đời tại Mỹ rồi sau đó trở về Trung Quốc với một quyết tâm lớn là xây dựng đất nước, phát triển quê hương. Với sự pha trộn lạ lùng giữa con người Trung Quốc truyền thống và con người Mỹ giàu có, họ hội đủ điều kiện và tài năng để dẫn dắt tương lai công nghệ trong thời kỳ đổi mới đang lan rộng trên khắp thế giới.
Chúng tôi đã tiến hành rất nhiều cuộc phỏng vấn với những nhân vật này và được chứng kiến sự ra đời của hàng chục bản demo công nghệ – một con số khổng lồ, vượt xa khối lượng dữ liệu mà chúng tôi từng sử dụng trong các cuốn sách. Chúng tôi có mặt trong các sự kiện của công ty để quan sát nhân viên của họ làm việc ra sao, gặp gỡ viên chức Trung Quốc ngay tại mảnh đất quê hương họ, chơi bóng rổ với sinh viên và nhân viên của Trung tâm tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, hay ngồi tại căng tin của Microsoft uống bia, ăn khoai tây chiên với những thành viên của Trung tâm, cùng họ xem Diêu Minh – ngôi sao bỏng rổ Trung Quốc đấu với Seattle Supersonics. Tất cả những hoạt động này không chỉ giúp chúng tôi hiểu hơn về Trung tâm, mà còn biết thêm vô số câu chuyện và giai thoại tiết lộ mặt phức tạp và phong phú của thời kỳ đổi mới (ví dụ như yếu tố ẩn sau quyết định chọn trụ sở của Trung tâm ở Bắc Kinh, thay vì ở Thượng Hải – trung tâm công nghệ và kinh tế của Trung Quốc) cùng kinh nghiệm thực tế và các mối quan hệ tạo nên sự đổi mới này. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh một điều là dù có quan hệ thân thiết với con người và sự việc ở Microsoft, chúng tôi không thể hứa hẹn gì về những thứ mà chúng tôi có, Microsoft hoàn toàn không cung cấp thông tin nào cho cuốn sách này. Chúng tôi không nắm giữ một cổ phiếu nào của Microsoft. Ngoài những bữa ăn thường được mời và những chiếc vé xem bóng rổ, chúng tôi hoàn toàn đi trên con đường của riêng mình.
Nếu nói có rất nhiều thay đổi kể từ lần đầu tiên Bill Gates đến thăm Trung Quốc vẫn là chưa đủ. Ngay trong cuộc đối thoại với
Chủ tịch Giang Trạch Dân, người sáng lập Tập đoàn Microsoft rất tự nhiên khi gọi ông là nhà tư bản, điều mà hàng chục năm trước đây không ai có thể tưởng tượng ra. Chỉ cách đó vài năm, việc một thủ tướng Trung Quốc đọc cuốn The Road Ahead (Con đường phía trước) cũng là điều khó tưởng tượng. Bill Gates đã đến thăm Trung Quốc tổng cộng bảy – tám lần. Ông đã quan sát rất kỹ đất nước này trong thời kỳ kinh tế phát triển rực rỡ. Năm 2003, Trung Quốc là nước đứng đầu trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), kết thúc hàng chục năm Mỹ chiếm lĩnh vị trí này và tiếp tục đứng đầu trong hai năm, cho đến khi bị Mỹ thay thế. Hiện nay, Trung Quốc đứng đầu về sử dụng điện thoại di động và đứng thứ hai trong tiêu thụ máy tính cá nhân (sau Mỹ). Dịch vụ cung cấp Internet tại nhà phát triển mạnh. Năm 2004, tuần báo tài chính Barron’s đã xếp Công ty Giải trí Tương tác Shanda – một công ty game trực tuyến của Thượng Hải, vào top các công ty công nghệ IPO. Sau đó, ngày 5 tháng 8 năm 2005, trên thị trường chứng khoán của US.com Explosion, Baidu – công cụ tìm kiếm Internet hàng đầu của đất nước này, đã tăng giá trị lên đến gần năm lần, đạt tới gần 120 đô-la mỗi cổ phiếu.
Nhưng còn có một sự biến đổi sâu sắc hơn những câu chuyện tài chính kia, bởi Bill Gates và công ty của ông đã sớm nhận ra điều mà những người khác đã bỏ qua về Trung Quốc: thị trường không quan trọng bằng con người. Năm 1949, Trung Quốc chỉ có 107 sinh viên có bằng sau đại học. Đến năm 2004, con số đó lên tới 160 nghìn người. Giờ đây, bỏ xa các nước khác trên thế giới, Trung Quốc đã trở thành “ngôi nhà của các kỹ sư”. Con số 19 triệu sinh viên sắp tốt nghiệp khiến con số 14 triệu tương ứng ở Mỹ trở nên nhỏ bé. Người ta có thể tìm thấy ở đất nước này những nhà khoa học máy tính giỏi nhất thế giới và rất nhiều tài năng đang dần khẳng định mình. Tìm kiếm những phương pháp mới để thu hút nguồn nhân tài này chính là bí quyết dẫn tới thành công sau này của Microsoft. Sau những đợt tuyển dụng đầu tiên được các trường đại học ở Trung Quốc tiếp nhận hờ hững thì hiện nay, mỗi năm, trong đợt tuyển dụng
thường niên kéo dài sáu tuần, Trung tâm nhận được khoảng 10 nghìn bộ hồ sơ xin việc và số hồ sơ nhận được mỗi năm lên tới con số hàng nghìn. Hội thảo về máy tính trong thế kỷ XXI mà Trung tâm đồng tổ chức với Hội Khoa học Tự nhiên Quốc gia Trung Quốc đã khiến các hội trường và thính phòng trên khắp đất nước này chật kín người tham dự, đám đông sinh viên kiên trì lắng nghe từng lời nói của các đại biểu và viết trên các website ước mơ được làm việc cho Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh.
Trong gần như tất cả các lĩnh vực này – từ đầu tư khổng lồ vào nghiên cứu cho đến việc đưa những nhà nghiên cứu Trung Quốc vào đội ngũ điều hành. Bill Gates và Microsoft hoặc đã đi ngược lại với những tính toán khôn ngoan, hoặc đã tìm ra con đường thành công tại nơi mà những người khác gục ngã. Trong khi nguồn nhân lực của Mỹ đã cạn kiệt thì tại các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ, nhân lực dồi dào và tài năng lạ thường tạo ra được những sản phẩm có sức ảnh hưởng lớn không chỉ trong nước mà còn ra ngoài quốc tế, mang lại cho Microsoft lợi thế cạnh tranh vượt trội.
Vậy thì, câu chuyện này kể về Trung Quốc? Đúng vậy! Tuy nhiên, bao quát hơn và quan trọng hơn, đây là câu chuyện về tương lai toàn cầu của ngành công nghệ thông tin và những gì mà các công ty cần thực hiện để trở thành một công ty đa quốc gia thực thụ trong kỷ nguyên đầy biến đổi này. Những thành quả cứ tăng lên nhanh chóng trước mắt chúng tôi. Chỉ ngay trước khi cuốn sách này được xuất bản, Kai-Fu Lee, người sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh và là một trong những nhân vật chính của chúng ta, được Google trả 10 triệu đô-la tại một cuộc chiến gay gắt vẫn chưa đến hồi kết tại tòa án. Google muốn mời Lee cộng tác xây dựng một trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Trung Quốc – cốt yếu là để giúp Larry Page và Sergey Brin như những gì ông đã giúp Bill Gates. Microsoft chống lại bằng cách thành lập trung tâm nghiên cứu của riêng mình và hợp nhất các trung tâm R&D dưới quyền lãnh đạo của
thần đồng Ya-Qin Zhang (đây cũng là nhân vật chính của câu chuyện này). Động thái này của Microsoft đã báo hiệu Trung Quốc sẽ là một tâm điểm mới của cuộc cạnh tranh tìm kiếm – và có lẽ sẽ trở thành chiến trường chính của các tập đoàn trong thế kỷ mới.
Từ thị trường đến nguồn nhân tài, rời đến những đổi mới trong tương lai, Bill Gates đã không cường điệu khi phát biểu: “Mọi người nên để ý đến Trung Quốc. Đất nước này là một hiện tượng trên mọi phương diện.”
1.
NGƯỜI KHỔNG LỒ TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Ngày 8 đến ngày 11 tháng 11 năm 2004
Đây là một kiểu sản xuất mới ở Trung Quốc. Không chỉ sản xuất giày, tất và xe đẩy cho trẻ em, giờ đây, chúng tôi còn “sản xuất” cả những sinh viên MIT, những nghiên cứu khoa học và phần mềm máy tính.
—HARRY SHUM, GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH MICROSOFT CHÂU Á C
ách xa vẻ đẹp dịu dàng của vùng vịnh Puget Sound nửa vòng trái đất, có một trung tâm nghiên cứu mà ở đó những giấc mơ phần mềm của Bill Gates đã trở thành sự
thật. Tại Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á, con đường tới thành công cũng đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Nếu như tất cả các chi nhánh trên khắp thế giới của gã khồng lồ máy tính đều nằm ở vùng ngoại ô, thì trung tâm nghiên cứu ở châu Á lại nằm ngay trung tâm thủ đô. Khẩu hiệu của Microsoft ở đây là: làm việc chăm chỉ để bước vào phía trong cánh cửa; làm việc chăm chỉ hơn để tồn tại; làm việc chăm chỉ hơn nữa vì công việc thật sự tạo ra tương lai cho tin học hóa toàn cầu hiện chỉ mới bắt đầu.
Nếu bạn không dành nhiều thiện cảm cho Microsoft, có lẽ đó là vì bạn chưa được gặp Harry Shum vị giám đốc điều hành của Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh, một người thân mật, dễ mến và hài hước. Ông từng nói: “Đây là một kiểu sản xuất mới ở Trung Quốc. Không chỉ sản xuất giày, tất và xe đẩy cho trẻ em, giờ đây, chúng tôi còn “sản xuất” cả những sinh viên MIT (Học viện Công nghệ Massachusetts), những nghiên cứu khoa học và
phần mềm”. HongJiang Zhang – đồng nghiệp lâu năm của Harry Shum cũng tán thành với ý kiến này. Ông cho rằng việc bồi dưỡng nhân tài “là một mức độ cao hơn của những sản phẩm được gắn mác ‘Made in China’”. Lớn tuổi hơn Harry Shum, ngay từ đầu, HongJiang Zhang là người đứng đầu Trung tâm Công nghệ cao. Chi nhánh của trung tâm nghiên cứu nằm trong cùng một tòa nhà, với mục đích đẩy nhanh việc đưa các công nghệ được nghiên cứu vào phục vụ sản xuất các sản phẩm của Microsoft – ở Trung Quốc và trên toàn thế giới.
Shum và Zhang cùng nhau lãnh đạo một tổ chức gần giống như một tập đoàn nghiên cứu với 500 thành viên, tuy nhiên, cả hai luôn khao khát kiếm tìm thêm những tài năng mới. Hầu như lúc nào cũng có những bảng kết quả học tập của sinh viên được gửi tới để bổ sung vào lực lượng nhân viên của Trung tâm. Trung tâm được chia thành hai nhóm sẵn sàng hỗ trợ khoảng 300 sinh viên thực tập vào bất cứ lúc nào. Hầu hết sinh viên này đến từ các trường đại học có tiếng của Trung Quốc, họ thực tập trong những dự án được các giáo sư cũng như các chuyên viên nghiên cứu hàng đầu của Microsoft giám sát và hướng dẫn. Mỗi tháng, Trung tâm nhận được 10 nghìn hồ sơ xin việc, còn số thực tập sinh nhiều đến mức họ phải ngủ trên võng hoặc những phòng ngủ nhỏ. Những câu chuyện bằng tiếng phổ thông cùng những hình ảnh lộn xộn của Bắc Kinh và khói thuốc lá, tất cả sẽ khiến bạn tự hỏi nơi đây có còn thuộc về một tập đoàn của Mỹ hay không.
Ở đây, lúc nào cũng bận rộn, đặc biệt là tuần đầu tiên của tháng 11. Đây là tuần lễ có rất nhiều sự kiện liên quan đến các chiến dịch của công ty tại Trung Quốc, các sự kiện này chủ yếu hướng tới nhân viên của công ty trong nỗ lực tiến kịp sự thay đổi chóng mặt của thế giới ngày nay. Trong lễ kỷ niệm 5 năm thành lập Trung tâm, Shum và Zhang đã đón tiếp nhiều khách từ khắp nơi trên thế giới. Khách danh dự gồm các giám đốc cấp cao tại trụ sở nghiên cứu chính của Microsoft ở Redmond, Washington như Phó chủ tịch Dan Ling và cấp trên của ông là Phó chủ tịch
cấp cao Rick Rashid, một trong những giám đốc điều hành của Microsoft hoạt động trực tiếp dưới quyền của Bill Gates. Ngoài ra còn có những nhân vật đáng chú ý khác từ hội đồng tư vấn kỹ thuật của Trung tâm, gồm những tên tuổi lớn nhất ngành khoa học máy tính như Chuck Thacker, người đoạt giải Draper – giải thưởng vinh dự nhất trong ngành khoa học và công nghệ; Jitendra Malik, Chủ nhiệm bộ môn Khoa học công nghệ và kỹ thuật điện của Đại học California, Berkeley; Victor Zue, đồng Chủ tịch Viện Khoa học Công nghệ và Trí tuệ nhân tạo, Học viện Công nghệ Massachusetts. Bên cạnh các cuộc họp của ban cố vấn, trong tuần lễ đặc biệt này còn diễn ra hội nghị Tin học thế kỷ XXI do Microsoft và Viện Khoa học Tự nhiên Quốc gia Trung Quốc đồng tài trợ và hội nghị Faculty Summit với sự hiện diện của 207 giáo sư từ khắp các nước châu Á, trong đó có nhiều người đang cộng tác với Trung tâm.
Trong ngày thứ Tư của tuần lễ này, từ hai phòng họp xuống đến đại sảnh trông ra từ văn phòng của Shum, đâu đâu người ta cũng gặp những cuộc thảo luận sôi nổi và vô số mẫu sản phẩm trưng bày. Các phó chủ tịch, cố vấn kỹ thuật, giáo sư và những vị khách ham hiểu biết đi lại xung quanh để tìm hiểu sản phẩm trưng bày. Những mẫu sản phẩm này đều rất tuyệt vời, hội tụ các yêu cầu: công ty phải có bí quyết công nghệ, khả năng thể hiện ưu thế vượt trội của sản phẩm và hiểu rõ tầm quan trọng của dự án này. Một sản phẩm mẫu tốt có thể biến hàng tháng trời tồi tệ trở nên tươi sáng và thu hút được đông đảo mọi người chú ý. Đó là lý do khiến các nhà nghiên cứu tại Bắc Kinh đã phải sống cùng dự án này trong suốt nhiều tháng liền. Tất cả đều háo hức muốn gây ấn tượng, một số thì lo lắng và gặp nhiều khó khăn vì vốn tiếng Anh ít ỏi, trong khi những người khác lại vượt qua dễ dàng.
Đối với Microsoft, mọi thứ diễn ra trong những căn phòng này đều báo trước tương lai của tin học và những đối thủ cạnh tranh tiềm năng của công ty phần mềm mạnh nhất thế giới này. Mục tiêu đầu tiên, với những thành tựu ngày càng lớn hơn trong
năm tới là Google. Một thử nghiệm của công cụ tìm kiếm toàn diện được thiết kế giúp người sử dụng có thể tìm ngay được những gì mình muốn và cung cấp cho họ những trang quảng cáo có ích đối với câu hỏi tìm kiếm chứ không chỉ là danh sách các đường dẫn. Những nỗ lực này nhằm cạnh tranh với Google, các nhân viên của Google từng châm biếm Bill Gates: “Có những công ty thờ ơ với bạn đến nỗi bạn khó có thể liên hệ được với họ.”
Một đối thủ cạnh tranh không kém phần quan trọng lúc này là Sony. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh giữ vai trò ngày càng quan trọng trong cuộc tấn công mạnh mẽ của Microsoft vào lĩnh vực thiết kế đồ họa và giao diện, giúp tập đoàn này nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường giải trí kỹ thuật số từ tay Sony − gã khổng lồ về hàng điện tử tiêu dùng. Một trong những bản demo gây chú ý nhiều nhất là thiết bị số sử dụng máy quay để ghi lại nét mặt người chơi, đây là một phần quan trong trong trò chơi video tương tác thế hệ mới mà Microsoft đang phác thảo. Khi nhắc đến nền trò chơi video cho một sản phẩm sắp ra mặt, có tên gọi là Xbox 360, chuyên gia nghiên cứu Trương Đông Mai cho biết: “PlayStation 2 cũng có chức năng tương tự, nhưng là theo dõi chuyển động, chứ không phải nét mặt. Chúng tôi cần làm một điều gì đó mới mẻ hơn đối với Xbox.”
Công ty thứ ba nằm trong tầm ngắm của Microsoft là nhà sản xuất điện thoại di động Nokia. Phần mềm dành cho các thiết bị di động vẫn còn là lĩnh vực kinh doanh nhỏ của Microsoft. Tại thời điểm cuộc họp diễn ra, hệ điều hành Windows Mobile ‒ Windows dành cho các thiết bị di động của công ty mới chỉ vượt qua Palm về thị phần PDAs thông thường, vẫn đứng sau Nokia nếu xét trong lĩnh vực điện thoại di động và thiết bị cầm tay. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh đã giới thiệu phần mềm hỗ trợ người sử dụng thực hiện hội nghị từ xa qua các thiết bị không dây và hỗ trợ tính năng chuyển vùng trong suốt , nhờ vậy, người sử dụng điện thoại di động hoặc thiết bị cầm tay có thể truyền
dữ liệu, hình ảnh và âm thanh vào bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu, với bất kỳ mạng nào.
Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh ngày càng trở thành nơi mà mọi hành động đều hướng về những cuộc chiến này – ban cố vấn kỹ thuật dường như rất ấn tượng với buổi trưng bày. Zue, thuộc MIT, thành viên ban cố vấn từ khi Trung tâm mới thành lập, nhận xét: “Họ thật sự đã tiến hành những nghiên cứu hàng đầu.” Sau một giờ đồng hồ xem sản phẩm trưng bày và đặt câu hỏi, ban cố vấn họp kín tại một căn phòng lớn trên tầng sáu. Các chuyên gia nghiên cứu vừa uống trà và cà phê, vừa trao đổi thân tình với nhau. Khi các trợ lý kỹ thuật chuẩn bị xong và cho chạy hệ thống nghe nhìn, hai nhà nghiên cứu hàng đầu của Microsoft, Rashid và Ling, tiến đến hàng ghế đầu tiên, ngay cạnh các nhân viên cấp cao khác và ban cố vấn. Căn phòng có thể chứa được 70 người, nhưng chỉ có một nửa số ghế có người ngồi. Cuộc họp có sự tham gia của khoảng 25 nhà nghiên cứu, phân biệt rõ theo hai dãy ghế ngồi, chuyên gia đến từ Trung tâm Nghiên cứu ở Redmond và Mỹ ngồi bên tay trái, còn chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu ở Bắc Kinh và Trung Quốc với số lượng áp đảo ngồi bên tay phải.
Cùng với các vị lãnh đạo Trung tâm, ban cố vấn thảo luận về các đối thủ cạnh tranh và đưa ra ý kiến phản hồi chi tiết cũng như đánh giá về những dự án nghiên cứu quan trọng của Trung tâm. Harry Shum khai mạc cuộc họp bằng việc giới thiệu tất cả các vị khách mời. Sau đó, ông cũng giới thiệu với mọi người về hai gương mặt trẻ tuổi đến từ Mỹ. Họ là phó giám đốc điều hành của Trung tâm: chuyên gia ngôn ngữ Hsiao-Wuen Hon, nghiên cứu và phát triển sản phẩm ở Redmond; và chuyên gia thiết kế đồ họa Kurt Akeley, người đồng sáng lập Silicon Graphics. Cả hai nhân vật này đều là những chuyên gia được đánh giá cao trên thế giới. Sự có mặt của họ sẽ rất có ý nghĩa đối với Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh và địa vị chính là minh chứng cho tài năng vượt bậc của họ.
Sau đó, Shum đưa ra một số luận điểm để chứng tỏ năng lực ngày càng lớn mạnh của Trung tâm trên sân chơi quốc tế. Trong năm 2004, Trung tâm có 7 công trình nghiên cứu khoa học trong số 58 công trình được báo cáo tại SIGIR – hội nghị lớn nhất và uy tín nhất thế giới về công nghệ tìm kiếm thông tin, 5 công trình trong số 80 công trình nghiên cứu được trình bày tại SIGGRAPH – hội nghị hàng đầu về thiết kế đồ họa. Không một trung tâm hay bộ phận nghiên cứu nào có thể theo kịp thành tích này dù có quy mô lớn gấp nhiều lần. Shum khẳng định đây cũng không phải là một cuộc nghiên cứu chuyên ngành. Đến giờ, gần 100 môn khoa học ứng dụng đã được đưa vào sản xuất ở Microsoft, đứng đầu trong các chi nhánh nghiên cứu của công ty – ngoại trừ Redmond và số lượng thì tăng rất nhanh.
Sau phần trình bày của Shum là một số bài phát biểu mang tính chuyên môn của những nhà nghiên cứu chủ chốt về giao diện người sử dụng, mạng không dây, truyền thông đa phương tiện, đồ họa và phương tiện tìm kiếm − năm lĩnh vực tập trung của Trung tâm. Những bài phát biểu đều mang đầy đủ thông tin và nhắc đến các cuộc cạnh tranh của Microsoft, cụ thể là cuộc chiến với Google, đối thủ lớn nhất của Microsoft. Wei Ying Ma, vị giám đốc của nhóm tìm kiếm và khai thác Web, là người có giọng nói nhẹ nhàng cuốn hút, pha tiếng phổ thông, vẻ mặt thiên sứ, nhưng ẩn chứa bên trong là khát khao mạnh mẽ muốn nâng cao tầm cạnh tranh của Microsoft. Ông đã giải thích cách làm của nhóm mình nhằm giải quyết những vấn đề then chốt trong lĩnh vực kinh doanh phương tiện tìm kiếm. Ngày nay nhiều phương tiện tìm kiếm có thể kiếm được bộn tiền nhờ bán những miền quảng cáo xuất hiện bên cạnh câu hỏi tìm kiếm. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào những nhân viên nghiên cứu. Công việc của họ là phải đánh giá xem những bảng quảng cáo ấy liên quan đến những câu hỏi tìm kiếm hay không (có một miền quản lý (domain) gọi là “thẩm định mức độ liên quan” (relevance verification)). Công việc thủ công này đòi hỏi rất nhiều thời gian và nỗ lực. Nhóm của Wei Ying Ma đã tìm ra một
phương pháp để có thể tự động đưa ra kết quả − có khả năng sẽ tiết kiệm được hàng triệu đô-la.
Wei Ying Ma chỉ ra cho mọi người thấy kỹ thuật tự động này chính là thế mạnh của Microsoft so với Google. Một phương pháp tiếp cận lâu dài có thể giúp Microsoft hoàn toàn vượt qua đối thủ của mình trong cuộc chiến về công cụ tìm kiếm. Ông giải thích việc phát triển một vài trong số những bản demo mà nhóm đã thấy trước đó, tập trung vào “khai thác” sâu hơn sự phát triển dữ liệu trên Internet về những mô hình thông qua những đường link trên trang Web. Hiểu được những mô hình làm việc này có thể giúp bạn tìm kiếm hiệu quả và chính xác hơn – ví dụ, bằng cách cho phép kết quả được nhóm thành các mục dễ nhận biết, người sử dụng sẽ không cần phải cuộn trang nhiều lần mà vẫn có thể tìm thấy những thông tin họ cần. Các thành viên trong nhóm ông được tuyển dụng vì những kiến thức uyên thâm trong nhận biết mô hình và xử lý thông tin đằng sau những thủ thuật tìm kiếm. Họ đang tiến hành điều chỉnh công nghệ để phục vụ cho hàng nghìn người sử dụng cổng thông tin Web MSN của Microsoft, mà nhóm ông, với tư cách là một môi trường thử riêng biệt của công ty, đã giành vị trí quán quân trong cuộc chiến về công cụ tìm kiếm – không chỉ với Google mà cả với Yahoo và các đối thủ khác nữa.
Những bài thuyết trình kéo dài gần như cả ngày đều vẽ ra bức tranh về các cuộc tấn công toàn lực dựa trên các kỹ xảo trong khoa học máy tính. Đến lúc HongJiang Zhang phát biểu, câu chuyện lại chuyển sang vấn đề rằng tất cả những điều này có ý nghĩa gì với công việc kinh doanh của Microsoft. Là giám đốc của Trung tâm Công nghệ cao, bộ phận tăng trưởng nhanh nhất của Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh, HongJiang Zhang chịu trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu, tạo ra sản phẩm và khuyến khích sự đổi mới của công ty trên toàn thế giới. Trong bài thuyết trình của mình, HongJiang Zhang nói về toàn bộ công việc. Ông miêu tả chi tiết về những dự án trong các sản phẩm đối với hầu như tất cả các bộ phận kinh doanh của Microsoft. Thực tế, hoạt
động nghiên cứu đang tách khỏi Trung tâm nhanh đến nỗi HongJiang Zhang phải thông báo rằng Trung tâm với 100 nhân viên, vừa chỉ một năm tuổi, có thể lớn mạnh gấp hai lần vào giữa năm 2005, về mặt quy mô đã vượt qua cả trung tâm nghiên cứu “chị em” vốn ra đời trước.
Sau bài thuyết trình tổng quan, HongJiang Zhang nhường lại phần phát biểu cho hai trong số những nhà lãnh đạo hàng đầu, là Baogang Yao − chuyên viên thiết kế hàng đầu của công nghệ quảng cáo qua Web cho MSN và Wei Ying Ma để quay trở lại vấn đề Google và cuộc chiến giữa các công cụ tìm kiếm. Wei Ying đã giải thích rõ ràng về những con số đằng sau một trong những thị trường tăng trưởng chính của công ty, nơi mà Google đã hoàn toàn tìm được chỗ đứng của mình với các miền quảng cáo được gắn vào các lệnh tìm kiếm. Ông lưu ý rằng chỉ trong quý III năm 2004, quảng cáo trực tuyến đã thiết lập nên một thị trường 800 triệu đô-la Mỹ − gấp hai lần năm ngoái. Ông kết luận: “Đây là một lĩnh vực kinh doanh mới, một thị trường mới cho Microsoft”, đồng thời nhấn mạnh mục tiêu chủ yếu cho công việc của nhóm ông là “làm cho MSN mạnh hơn, chiếm lĩnh trong lĩnh vực quảng cáo trực tuyến”.
Sau các bài thuyết trình là một số câu hỏi chi tiết của các thành viên ban cố vấn. Rick Rashid, Dan Ling và những khách mời còn lại đều tràn đầy nhiệt huyết và lạc quan. Họ đặt thêm một số câu hỏi về nguồn lực và các phương pháp kỹ thuật. Rashid đặc biệt hài lòng về sự tiến triển của Trung tâm Công nghệ cao. Ông ca ngợi: “Có những điều mà ngay cả ở Redmond người ta cũng không thể làm, họ không thể bố trí được nhân viên như ở đây. Quan trọng nhất là làm được những điều mà những người khác không thể làm.”
Tòa nhà Sigma bảy tầng là nơi ngày càng diễn ra nhiều cuộc chiến toàn cầu của Microsoft đứng sừng sững tại đường Trung Quan Thôn ở Hải Điện − một khu vực công nghệ cao ở Bắc Kinh. Nó có một hành lang được ngăn kính phía trước với rất nhiều
mảnh kim loại trang trí. Một tấm biển Microsoft Windows chạy dọc theo sườn của mái nhà, từ trên phố có thể dễ dàng trông thấy. Giữa những năm 1990, khu vực Trung Quan Thôn còn được gọi là “Thung lũng Silicon của Trung Quốc”. Ngày nay, nó đã trở thành ngôi nhà của hơn một nghìn công ty công nghệ thông tin và chỉ cách đó vài cây số là vô số trường đại học và học viện hàng đầu, trong đó có cả hai trường đại học nổi tiếng nhất Trung Quốc là Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa.
Trung Quan Thôn nằm phía tây bắc thành phố. Bắc Kinh sẽ không khiến bạn cảm thấy choáng ngợp ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những vùng đất đỏ bao quanh khiến ngoại ô thành phố trông giống như một vùng quê Ấn Độ chứ không phải thủ đô của một siêu cường kinh tế. Tuy nhiên, Bắc Kinh lại là một thành phố luôn khiến bạn phải chú ý. Từ những bảng thông báo dán khắp nơi cho đến những dự án xây dựng liên tục, cả thành phố toát lên nguồn năng lượng sống mạnh mẽ khi đang hướng đến việc đăng cai tổ chức Olympic mùa hè 2008. Trong các khu dân cư, hết lô này đến lô khác, các tòa nhà màu be buồn tẻ chen nhau mọc lên. Những đám đông học sinh tiểu học đang tập chơi bóng rổ ngoài sân. Ngay gần trung tâm nghiên cứu của Microsoft, các tòa nhà cao tầng thi nhau mọc lên với ống khói chọc trời. Những khu nhà tồi tàn cũng chen vào giữa khu chợ điện tử tiêu dùng tất bật và Nhà máy Sản xuất Vệ tinh Bắc Kinh – nơi mà Trung Quốc có những nghiên cứu khoa học về vệ tinh vũ trụ.
Chúng ta đều biết Trung Quốc là gã khổng lồ vừa tỉnh giấc. Với dân số lên đến 1,3 tỷ người, đây là thị trường tiềm năng lớn nhất thế giới. Quốc gia này đã trở thành người dẫn đầu thế giới trên mọi lĩnh vực, từ sản xuất hàng hóa giá rẻ cho đến lượng người sử dụng điện thoại di động (cuối năm 2005 là 400 triệu thuê bao). Với hơn 100 triệu người sử dụng Web năm 2005 và 19 triệu máy tính cá nhân bán ra trong năm ngoái, Trung Quốc đang vượt qua Nhật Bản để trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới về số lượng người sử dụng Internet và số lượng người mua
máy tính cá nhân (chỉ sau Mỹ). Tốc độ xâm nhập của mạng không dây và ứng dụng điện thoại di động ở Trung Quốc cũng nhanh nhất thế giới. Trò chơi trên máy tính, tin nhắn văn bản và kết nối mạng không dây cho các thiết bị di động đang bùng nổ như một phần của cuộc sống. Vào dịp Tết Âm lịch, thường có hơn một tỷ tin nhắn được gửi trên khắp đất nước Trung Quốc.
Để thành công ở Trung Quốc, tức là khai thác được thị trường rộng lớn và nguồn nhân tài hiếm có từ hệ thống trường đại học lớn nhất thế giới này, các công ty đa quốc gia như Microsoft nhận thấy họ phải tìm được một con đường có lợi cho cả công ty lẫn nước chủ nhà. Trung Quốc là đất nước của những mâu thuẫn nên sự thận trọng và khéo léo khi thâm nhập thị trường nơi đây là yếu tố sống còn.
Với Microsoft, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh đã trở thành tổ chức chủ chốt trong công cuộc thâm nhập vào thị trường đầy cạnh tranh này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc kỳ vọng các công ty nước ngoài đem lại lợi ích cho Trung Quốc thông qua đào tạo kỹ năng quản lý và nghiên cứu tiên tiến cho sinh viên và nhân viên sở tại. Ở Trung Quốc, chính phủ kiểm soát hầu hết mọi lĩnh vực đời sống, và mối liên kết giữa giáo dục và chính quyền mật thiết hơn nhiều so với Mỹ. Đó là lý do tại sao việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ – hay nói cách khác là sử dụng nghệ thuật giao tiếp – với các quan chức giáo dục và các học viện lại quan trọng đến vậy. Đó cũng chính là lý do tại sao việc hợp tác nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học của Trung Quốc lại là ưu tiên số một.
Đây là chủ đề chính của tuần lễ bận rộn trong tháng 11 năm 2004, khởi đầu bằng Hội nghị quốc tế Faculty Summit do Microsoft chủ trì, diễn ra chỉ cách Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh hơn một cây số. Hội nghị được tổ chức vào thứ Hai tại một khách sạn có cái tên rất phù hợp là Khách sạn Hữu Nghị. Tại hội trường lớn trên tầng hai, 207 giáo sư chuyên ngành kỹ thuật và khoa học máy tính khắp khu vực châu Á- Thái Bình Dương được
công ty mời đến nghe những thông tin mới nhất từ Trung tâm Microsoft và một số đơn vị hợp tác. Hai phần ba số giáo sư trên đến từ các trường đại học hàng đầu Trung Quốc, những người còn lại đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Australia.
Chín giờ sáng, Harry Shum bước lên bục diễn thuyết, tuyên bố khai mạc hội nghị. Ông phát biểu: “Chủ đề thảo luận chính của hội nghị lần này là quan hệ hợp tác với giới học viện ở châu Á. Điều quan trọng nhất đối với Trung tâm là chất lượng đào tạo con người.” Ông cho biết, sau sáu năm thành lập, Trung tâm đã vui mừng đón nhận 1.500 sinh viên thực tập từ các khoa khoa học máy tính hàng đầu trên khắp Trung Quốc. Ông nói đùa: “Trong 15 năm nữa, nếu tiền của Bill Gates có cạn kiệt, chúng tôi sẽ vẫn hoạt động nhờ nguồn tài trợ từ những sinh viên thực tập cũ của mình.”
Người phát biểu ngay sau Shum là Yaoxue Zhang, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông Trung Quốc. Trong bài phát biểu, ông nhấn mạnh: “Chúng ta đang sống trong một thế giới vô cùng nhộn nhịp và thay đổi từng ngày, từng giờ nhờ quá trình toàn cầu hóa công nghệ và trí tuệ tuyệt vời của con người. Sinh viên cần được trang bị những kỹ năng để cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.” Tiếp tục chủ đề này, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của các công ty nước ngoài như Microsoft trong việc đưa nền khoa học máy tính Trung Quốc phát triển: “Mức độ phát triển khoa học và công nghệ của Trung Quốc cần được nâng cao… Chúng tôi hy vọng sẽ thu hút được ngày càng nhiều nguồn đầu tư ở khu vực này và cải thiện chất lượng giáo dục thông qua hợp tác quốc tế.”
Sau khi kết thúc các bài phát biểu vào buổi sáng là đến bữa trưa buffet thịnh soạn với mì, bánh bao, các món thịt và hải sản. Gian trưng bày sản phẩm mẫu và áp phích quảng cáo được dựng xung quanh bàn ăn, nhờ đó thực khách vẫn có thể hòa trong không khí của Microsoft và các đối tác. Trong cuộc trò chuyện
sôi nổi, các khách mời tỏ ra vô cùng lạc quan. “Mục tiêu của Trung tâm Nghiên cứu Microsoft tập trung vào các kế hoạch dài hạn, đó là một chiến lược rất khôn ngoan”, Helen Meng, tốt nghiệp Học viện Công nghệ Massacchussettes (MIT), hiện là giáo sư về kỹ thuật hệ thống và quản lý hệ thống tại Đại học Hồng Kông – Trung Quốc, nhận định. “Hầu hết các công ty khác đều yêu cầu chúng tôi đưa ra giải pháp chìa khóa trao tay, nhưng đó không phải là sở trường của chúng tôi.” Buổi chiều, Roland Chin, Phó chủ tịch Hội Nghiên cứu và Phát triển trực thuộc Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông, cũng nhấn mạnh: “Microsoft nâng cao tiêu chuẩn công nghệ, điều đó sẽ rất có lợi cho sinh viên Trung Quốc.” Tất cả điều này cho thấy một cuộc chuyển đổi trọng tâm của quá trình phát triển công nghệ đang sắp sửa diễn ra. Jitendra Malik thuộc Đại học Berkeley phát biểu: “Thế giới trong 20 năm tới sẽ có rất nhiều thay đổi. Thay vì hướng về châu Âu, người Mỹ sẽ hướng tới châu Á, với nhiều hoạt động hơn. Điều đó là chắc chắn.”
Đó là một bữa tiệc trưa hữu ích, tràn đầy ý tưởng và nhiều tấm danh thiếp được trao đổi. Nhưng người có trách nhiệm cao nhất của Microsoft lại không có cả thời gian ăn trưa. Trong khi tất cả khách khứa đang thưởng thức những miếng bánh cuối cùng, Shum tiếp tục chiến dịch thâm nhập vào giới học viện. Ông đi thẳng đến khách sạn Grand Hyatt Bắc Kinh. Chiều hôm đó, Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á sẽ ký một thỏa thuận lịch sử với Bộ Giáo dục Trung Quốc về việc hợp tác xây dựng các phòng nghiên cứu khoa học và công nghệ tại bốn trường đại học hàng đầu Trung Quốc: Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông, Đại học Chiết Giang, Học viện Công nghệ Harbin và Đại học Thanh Hoa. Đối với Microsoft, bước đi này là một cách thể hiện nghiêm túc cam kết của Microsoft với ngành giáo dục và đào tạo Trung Quốc cũng như quá trình đầu tư dài hạn của công ty vào đất nước này.
Ngày thứ Ba, sau Hội nghị Faculty Summit, việc xây dựng quan hệ của Microsoft đã chuyển sang một mức cao hơn. Buổi sáng
hôm đó trời mưa và lạnh, nhưng khuôn viên của Đại học Thanh Hoa lại rất nhộn nhịp. Nhiều nhóm sinh viên đứng chật lối đi chạy dọc theo những dãy nhà cổ kính. Một số nói chuyện sôi nổi, số khác mải miết bước thật nhanh. Nhiều sinh viên và giáo sư vội vã lên lớp trên những chiếc xe đạp cũ kỹ.
Đại học Thanh Hoa được coi là một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu ở Trung Quốc. Được thành lập năm 1911, đây chính là nơi đã đào tạo ba nhà lãnh đạo đứng đầu đất nước vào thời điểm đó, 1/4 số thành viên của Viện Khoa học Trung Quốc và 1/5 số thành viên của Viện Kỹ thuật Trung Quốc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á lại lấy khuôn viên này làm cơ sở tuyển dụng nhân sự và hợp tác với các học viện. Trung tâm thu hút số lượng lớn sinh viên của Đại học Thanh Hoa và có nhiều hoạt động hợp tác hơn so với các trường khác ở Trung Quốc. Đây chính là một phần quan trọng trong thỏa thuận mà Shum ký với Bộ Giáo dục ngày hôm trước. Với vai trò quan trọng như vậy, việc chọn ngôi trường này làm chặng đầu tiên của hội nghị thường niên về tin học thế kỷ XXI là hoàn toàn hợp lý. Từ năm 2000, mỗi năm, hội nghị và “chuyến đi” đều được mở đầu tại Bắc Kinh rồi sau đó được chuyển đến thành phố thứ hai khác – với sự góp mặt của các chuyên gia và trưng bày những tiến bộ mới nhất trong khoa học máy tính khiến hàng nghìn sinh viên Trung Quốc ấn tượng và thán phục.
Ở phía đông khuôn viên trường Đại học Thanh Hoa, sinh viên được chào đón bằng một cảnh tượng kỳ lạ. Những tấm áp phích lớn với hình ảnh của Rick Rashid, Dan Ling, Harry Shum, Chuck Thacker và các diễn giả nổi tiếng khác được xếp thành hàng dẫn đến sân vận động của trường. Bức ảnh Rashid mỉm cười và vẫy tay như thể muốn nói: “Hãy đến đây, chúng tôi sẽ đào tạo các bạn!” Xa hơn, bức ảnh ống khói khổng lồ cuồn cuộn những đám khói trắng mờ được đóng khung trong một tấm áp phích khác. Đó là một hình ảnh sống động về Trung Quốc, khi đất nước này đang có những bước khởi đầu vào nền kinh tế thông tin của
tương lai trong khi vẫn mắc kẹt với nền công nghiệp “có khói” của quá khứ.
Chuyến thăm của Microsoft ngày hôm đó nhận được sự chào đón của 3.400 sinh viên, các khoa ngành và lãnh đạo của trường. Tiếng nhạc trang nghiêm vang lên khi Shum bước lên sân khấu để giới thiệu những sự kiện trong ngày. Ánh đèn quét khắp nhà thi đấu, chiếu rọi logo của Microsoft. Sinh viên và khách mời đeo tai nghe để nghe lời dịch bài phát biểu. Sau bài phát biểu của Shum, Binglin Gu, Hiệu trưởng trường Đại học Thanh Hoa, lên đọc diễn văn chào mừng. Ông bày tỏ: “Đây là cơ hội lớn để học tập công nghệ tin học vượt trội của Microsoft, một vinh dự lớn cho chúng ta. Tôi hy vọng trong tương lai, nhiều sinh viên đang có mặt tại đây sẽ trở thành nhà khoa học tầm cỡ quốc tế.”
Người phát biểu tiếp theo là Rick Rashid ông nhấn mạnh: “Mười năm tới sẽ là thời điểm để các bạn phát triển những ứng dụng mới trong ngành công nghệ thông tin.” Sự xuất hiện của Rashid là một nỗ lực lớn vì chỉ hai ngày trước, ông còn ở một nơi cách Trung Quốc 16 múi giờ. Sinh viên như nuốt từng lời ông nói, nhiều người còn không cần đeo tai nghe có bản dịch tiếng Trung mà nghe trực tiếp lời ông nói. Những slide bằng tiếng Anh của ông được chiếu phía bên trái của sân khấu, còn bên phải là bản tiếng Trung. Rashid đã thúc đẩy “dân chủ hóa thông tin” bằng cách nhập nguyên liệu thô để những người tham dự có thể tự kết nối thông qua hàng loạt thiết bị thông minh.
Đây là một tầm nhìn dài hạn và đầy tham vọng về công nghệ toàn cầu, có thể khiến một số người Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của ngành công nghệ thông tin Trung Quốc và cơn khát tri thức cũng như chương trình đào tạo về công nghệ thông tin là vô tận. Trong phòng VIP phía sau sân khấu, Ya-Qin Zhang, vị phó chủ tịch người gốc Trung Quốc của Microsoft đang thư giãn với một tách cà phê. Là người tiền nhiệm của Shum, ông từng là giám đốc điều hành Trung tâm
Nghiên cứu Bắc Kinh trong gần 4 năm. Là một trong những nhân vật chính trong câu chuyện của Microsoft ở Trung Quốc, ông rất tự hào khi Microsoft vẫn tiếp tục thu hút và nuôi dưỡng những tài năng khoa học máy tính trên quê hương và thổ lộ: “Đây là một sự thật, một hiện tượng có thật.”
Hai ngày trôi qua êm đẹp. Sau một số bài phát biểu chính, Microsoft tổ chức một cuộc họp báo với khoảng 20 phóng viên Trung Quốc. Những nhân vật tham gia trả lời họp báo có Rashid, Ling, Thacker và Dương Chấn Ninh − giáo sư thuộc Đại học Thanh Hoa, đoạt giải Nobel Vật lý năm 1957. Ông Dương nói về lịch sử vật lý và tin học. Cuộc trò chuyện với ông chiếm gần trọn nội dung cuộc họp báo. Hầu như mọi câu hỏi của các phóng viên Trung Quốc đều dành cho ông. Đã có lúc người đại diện của Microsoft, Sheila Shang, nhắc nhở các phóng viên rằng đây là một sự kiện của Microsoft và những câu hỏi cần phải đưa ra cho tất cả các nhân vật có mặt. Nhưng lời nhắc nhở này cũng vô ích vì rất nhiều câu hỏi vẫn được đưa ra cho Dương Chấn Ninh. Sự việc này dẫn tới một thông điệp cho Microsoft: Microsoft vẫn còn có rất nhiều việc phải làm ở Trung Quốc.
Cuộc họp báo diễn ra không suôn sẻ nhưng sau đó, vẫn có nhiều bài báo ca ngợi Microsoft và tầm nhìn về công nghệ tin học của công ty. Đến thứ Tư, giữa các cuộc thảo luận và tiếp xúc với công chúng, một cuộc họp của ban tư vấn kỹ thuật đã diễn ra. Khi ngày làm việc kết thúc, một chiếc xe buýt đã đợi sẵn bên ngoài Trung tâm và những con người bận rộn lại tiếp tục lên đường. Chặng thứ hai của chuyến hội thảo Microsoft bắt đầu. Điểm dừng chân tiếp theo là Thành Đô, trung tâm công nghệ cao mới nổi ở Tứ Xuyên – một tỉnh phía tây nam Trung Quốc, cách Bắc Kinh hơn hai giờ bay.
Trên đường đến sân bay Bắc Kinh, Rashid, Ling, Shum, Ya Qin Zhang, Hsiao-Wuen Hon và rất nhiều người khác đã đưa ra những suy nghĩ về các sự kiện trong tuần. Lúc đó là giờ ăn tối và trời tối đen như mực. Khi xe buýt đến đường cao tốc, đội quân
Microsoft bắt đầu ăn vội bánh kẹp thịt và khoai tây chiên của nhà hàng McDonald’s gần Trung tâm.
Với tâm trạng thoải mái, đội quân Microsoft bắt đầu thư giãn sau một tuần lễ bận rộn. Rashid hóm hỉnh pha trò khi nói đến cuộc cạnh tranh với trụ sở Nokia ở Phần Lan về việc chiếm lĩnh thị trường mạng không dây. Ngài Phó chủ tịch tuyên bố: “Nếu Ya-Qin thắng Nokia, chắc chắn ông ấy sẽ được trao giải Nobel. Người Thụy Điển vốn không ưa người Phần Lan. Nếu Ya-Qin đánh bại được Nokia, hiển nhiên người Thụy Điển sẽ trao giải Nobel cho ông ấy.”
Câu chuyện của Rashid là đùa, nhưng đây cũng là một lời nhắc nhở để các thành viên nhớ rằng Microsoft đến Trung Quốc chỉ với một lý do: để chiến thắng.
Nếu Bắc Kinh là thành phố nhộn nhịp ở ven biển phía đông thì Thành Đô lại là thành phố miền tây hoang dã. Thành phố vùng biên giới với 9 triệu dân hoang sơ và mù sương nhưng cũng rất nổi tiếng với những quán trà thanh đạm, những nhà hàng vui vẻ, những khu vườn đáng yêu và không gian giải trí dễ chịu. Ngày nay, Thành Đô là thành phố lớn, chỉ cách Tây Tạng 400km về phía tây. Chính vì vậy, đây được coi là cửa ngõ để du khách đến thăm quê hương của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tuy nhiên, đấy không phải là lý do cho chuyến thăm ngắn của phái đoàn Microsoft. Đến khuya, khi máy bay hạ cánh ở sân bay Song Lưu. Phái đoàn lúc này được tiếp đón giống như đoàn tùy tùng của những nhân vật nổi tiếng. Một chiếc xe buýt thuê riêng đợi sẵn ở đó để đưa họ đến khách sạn Sheraton Lido gần trung tâm Thành Đô, cách khoảng 30 phút chạy xe.
Trên xe buýt có sẵn một hướng dẫn viên du lịch. Đó là một phụ nữ trẻ. Dường như cô rất thích luyện tiếng Anh nhưng lại để lộ vẻ lo lắng – đã mấy lần cô nói lời xin lỗi rằng đó là do hồi hộp khi được tiếp đón phái đoàn. Cô giới thiệu Tứ Xuyên là quê hương
của nhà cải cách, cố Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình, cũng là tỉnh lớn thứ tư Trung Quốc với dân số 85 triệu người. Nơi đây cũng nổi tiếng về loài gấu trúc khổng lồ, chiếm tới 80% số gấu trúc trên toàn thế giới v.v... Cô còn kể hàng loạt câu chuyện đùa nhạt nhẽo về gấu trúc.
Phái đoàn Microsoft tuy khó tính, nhưng vẫn lịch sự lắng nghe. Cô hướng dẫn viên nói tiếp rằng người Tứ Xuyên rất dễ gần, chăm chỉ và hài hước. Khi nghe nhắc đến những đặc điểm này, cả đoàn ồ lên chế giễu Baining Guo – trưởng nhóm đồ họa của Trung tâm, người phụ trách kiểm tra sản phẩm mẫu trong rất nhiều lần trưng bày: “Chăm chỉ (hardworking) hay là đau tim
(heartbreaking) đây nhỉ?” Guo thản nhiên trước câu đùa giỡn đó, như thể ông từng nghe rất nhiều về điều đó.
Tại trung tâm thành phố là một bản sao dự án xây dựng “Big Dig” của Boston với những đường giao thông ngầm rất lớn ở ngay Thành Đô. Bức tượng kỳ vĩ của Mao Chủ tịch đứng sừng sững giữa quảng trường rộng lớn. Theo lời cô hướng dẫn viên, bức tượng cao 12,26 mét, tượng trưng cho ngày sinh nhật của Mao Chủ tịch (ngày 26 tháng 12), và rộng 7,1 mét (kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Hoa, ngày 1 tháng 7 năm 1921). “Rất có ý nghĩa” – một thành viên người gốc Trung Quốc lẩm nhẩm một mình.
Dọc theo con đường phía đông Di Thanh, mặt trước các cửa hàng, nhiều đám đông gây tắc nghẽn thành phố. Trong ngày hôm đó, trên các chợ phố lộn xộn bày bán đủ mọi hàng hóa: máy tính, điện thoại di động và các loại đồ điện tử khác – hầu Chết đều là đồ cũ hoặc hàng giả. Cảnh tượng này khiến các thành viên để tâm đến phiên bản mới được trông đợi từ rất lâu của Hệ điều hành Windows dành cho PC có tên là Vista. Phần mềm này trước kia có tên là “Longhorn” và dự kiến sẽ được tung ra vào giữa năm 2006. “Có thể họ đã có Longhorn ở đây rồi” – Ya-Qin Zhang nói đầy chua chát khi nhìn vào một trong những con phố đó.
Sáng hôm sau, thứ Năm, đoàn có cuộc gặp gỡ với thị trưởng Thành Đô, ông Honglin Ge và sau đó là buổi lễ khai mạc hội nghị “Thế kỷ XXI” tại Đại học Công nghệ và Khoa học Điện tử. Thành lập năm 1956, ngôi trường này được coi là một trong những cái nôi của ngành công nghiệp điện tử Trung Quốc. Quang cảnh phía bên ngoài khuôn viên trường cũng giống ở Đại học Thanh Hoa hai ngày trước. Đây là lần đầu tiên Microsoft xuất hiện tại đây, hội nghị đã thu hút đông đảo mọi người. Thậm chí còn có tin đồn rằng vé vào hội nghị được bán ở cả chợ đen.
Trong hội trường, một bản nhạc rock cổ điển của nhóm Eagles (bài hát Heartache Tonight) vang lên theo mỗi bước chân của các diễn giả. Hầu hết sinh viên đã ngồi kín chỗ trước khi hội nghị bắt đầu. Mùi khói thuốc nồng nặc, nhưng đó lại không phải là điều tệ nhất.
Hiệu trưởng trường và thị trưởng thành phố Thành Đô lên phát biểu, đầu tiên là ca ngợi hội nghị và vai trò của Microsoft trong việc đưa những nhà nghiên cứu về khoa học công nghệ cấp quốc tế đến ngôi trường này. Sau đó là các bài thuyết trình của Shum, Rashid, Zhang và Thacker. Sau cuộc nói chuyện, các diễn giả tham gia thảo luận cùng sinh viên. Câu hỏi hay nhất đến từ một sinh viên nói với giọng tiếng Anh rất gượng: “Kính chào các nhà khoa học công nghệ thông tin! Microsoft làm gì để đảm bảo bí mật và an ninh, khi mà mạng thông tin cá nhân ngày càng hoạt động mạnh?” Dường như sinh viên Trung Quốc rất ý thức về những khó khăn sắp tới của Microsoft trong việc dân chủ hóa nguồn thông tin vào Trung Quốc.
Khi ra về, các sinh viên sắp thành hàng để nhận quà từ tay tình nguyện viên của hội nghị. Đó là những túi xách với hai màu vàng và xanh in logo của Microsoft và thêu chữ “Microsoft Research Asia”.
Đêm hôm đó, sau một tuần lễ bận rộn, phái đoàn Microsoft đã có bữa ăn thịnh soạn ở nhà hàng tại khu thương mại Thành Đô. Cuối cùng, khi tất cả các sự kiện và các cuộc họp kết thúc, họ đã có thể nghỉ ngơi và thư giãn. Họ đặt một phòng riêng thật lớn với cách trang trí theo kiểu truyền thống của người Tứ Xuyên và quây quần quanh ba chiếc bàn tròn. Tại chiếc bàn chính, Shum, Ya-Qin Zhang và Hsiao-Wuen Hon ngồi bên hai nhân vật cấp cao là Rashid và Ling. Chuck Thacker và vợ ông cùng ngồi đó. Mẹ của Ling cũng có mặt, bà vừa từ Thượng Hải đến. Trong bữa ăn, họ nói chuyện về những sự kiện trong tuần và tầm quan trọng của những sự kiện đó đối với công ty.
Bữa tối còn có cả màn trình diễn chuyên nghiệp những bản nhạc truyền thống Trung Quốc, các nhóm hài và nhạc kịch Tứ Xuyên. Cuối cùng là màn trình diễn của một bian lian, hay còn gọi là người “thay đổi mặt”; người này mang một chiếc mặt nạ, quần áo sặc sỡ và cầu kỳ. Đây là một hình thức giải trí bắt nguồn từ thế kỷ XVIII dưới đời Thanh, một tù nhân đã khiến tên cai ngục sợ hãi khi anh ta thay đổi bề ngoài của mình để có thể chạy trốn. Khi người biểu diễn nhảy múa và khua tay (theo truyền thống, phụ nữ không đóng vai người thay mặt), một chiếc mặt nạ được tháo ra nhanh như chớp. Nhờ kỹ thuật này diễn viên có thể đóng liền một lúc bốn hoặc năm vai − nó được coi là bí truyền.
Sau bữa tối, người thay mặt nhảy múa và đến bàn của các thành viên Microsoft, bắt tay với những người này và thay đổi mặt nạ ngay trước mặt những thực khách vui tính. Điều này khiến Rashid phát hiện ra rằng sự thay đổi của khuôn mặt là kỹ năng hữu dụng trong một vài tình huống. Đến cuối buổi, Shum bắt chước cách đổi mặt nạ khi ông bắt tay với mọi người, cứ quay mặt đi và đột nhiên quay lại với một khuôn mặt nhăn nhó trông rất buồn cười.
Toàn bộ khung cảnh này tượng trưng cho một vấn đề vô cùng quan trọng về tương lai của Microsoft tại Trung Quốc cũng như
trên toàn thế giới. Microsoft (hay bất cứ công ty đa quốc gia nào) cũng cần phải tiếp tục đổi mới, giống như đã đổi mới trong thập kỷ trước. Để làm được điều này, công ty cần mở rộng quy mô, củng cố các mối quan hệ và thay đổi bộ mặt của mình trên toàn cầu. Trong suốt hơn 6 năm qua, sự lớn mạnh của Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh đã chứng tỏ sức mạnh phi thường trong việc tăng cường và củng cố hình ảnh của tập đoàn tại Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế đó vẫn chỉ nhấn mạnh vào vốn đầu tư thì không thể gọi là “hình ảnh” được; công ty cần tuyển dụng những tài năng hàng đầu ở đây và tạo ra những sản phẩm mới thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai.
Đúng như Bill Gates đã nói, đó chính là con đường để đi đến thành công phía trước.
2.
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BELL LABS Ở TRUNG QUỐC
Mùa thu 1997 – Tháng 11 năm 1998
Điều cốt yếu là chúng ta cần một nơi để tuyển dụng nhân tài Trung Quốc.
--NATHAN MYHRVOLD
N
athan Myhrvold là người thích giao du, ông có chòm râu quai nón hơi quăn được cắt tỉa gọn gàng và một nụ cười dễ làm người khác phải cười theo. Chính đây là lợi thế
khiến ông trở nên gần gũi. Năm 1999, Myhrvold nghỉ hưu khi đang giữ chức giám đốc công nghệ của Microsoft với tài sản riêng trị giá khoảng 500 triệu đô-la. Ông đã mua một chiếc phản lực Gulf Stream V và bắt đầu du lịch vòng quanh thế giới. Ông dành thời gian cho thú vui, tìm kiếm hóa thạch khủng long, lái xe đua công thức I và nấu ăn. Mặc dù Myhrvold từ bỏ mọi trò chơi ở độ tuổi 46, nhưng ông lại rất hứng thú với một nhiệm vụ mới hết sức lớn lao: tập hợp những nhà sáng chế tài giỏi trên khắp thế giới vào một bộ máy sáng chế khổng lồ.
Myhrvold là người có công kiến tạo MSR (Microsoft Research). Đây chính là lý do những đồng nghiệp cũ của ông cũng tham gia vào bộ máy ở Trung Quốc. MSR là một trong số ít những tổ chức nghiên cứu hợp tác hàng đầu được thành lập trong vòng 50 năm trở lại đây. Trong giới công nghệ thông tin, nơi duy nhất có thể cạnh tranh với MSR là Trung tâm Nghiên cứu IBM. Trung tâm nghiên cứu của IBM có quy mô lớn gấp nhiều lần MSR, với
khoảng 3 nghìn nhân viên tại tám trung tâm nghiên cứu trên toàn thế giới. Phạm vi nghiên cứu của IBM rất rộng – từ máy tính lớn, bộ nhớ, chất bán dẫn đến công nghệ siêu vi (công nghệ Nano). Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu phần mềm, có thể khẳng định MSR là trung tâm nghiên cứu lớn nhất và mạnh nhất.
Nhưng điều đó có lẽ đã không xảy ra nếu không có Myhrvold. Ở tuổi 19, Myhrvold lấy được bằng thạc sĩ của Đại học California ở hai lĩnh vực toán học và địa lý. Ông tiếp tục làm nghiên cứu tiến sĩ toán học và lý thuyết vật lý ở Princeton. Sau đó, ông đoạt được học bổng sau tiến sĩ và nghiên cứu lý thuyết vật lý lượng tử ở Đại học Cambrigde. Khi công ty phần mềm do ông sáng lập có trụ sở tại Berkeley được Microsoft mua lại năm 1986, Myhrvold tiếp tục làm việc tại đây thêm một thời gian nữa và nhanh chóng được biết đến như một nhà chiến lược có tầm nhìn xa trông rộng. Chỉ sau vài năm, ông trở thành phó chủ tịch cấp cao kiêm giám đốc công nghệ, là một trong số ít người được báo cáo trực tiếp với Gates.
Myhrvold có năng lực tư duy và truyền tải tư duy thành những lý lẽ dễ hiểu. Giữa năm 1991, Myhrvold đề xuất ý kiến sử dụng 10 triệu đô-la mỗi năm để hỗ trợ một trung tâm nghiên cứu có nhiệm vụ củng cố tương lai của Microsoft. Theo Myhrvold, trong ba thập kỷ qua, những vấn đề công nghệ máy tính được đưa ra bàn luận trong các hội nghị chủ yếu là do các trung tâm khoa học máy tính và các công ty lớn về sản xuất phần cứng ‒ những nơi chỉ tập trung phát triển các chương trình ứng dụng cho máy tính lớn rồi sau đó mới tìm cách đưa chúng vào máy tính nhỏ hơn ‒ đề xuất. Họ không tập trung vào những gì mà khách hàng của Microsoft cần, như cách để máy tính trở nên thân thiện với người sử dụng hơn. Myhrvold đã viết: “Cách duy nhất để tiếp cận với các loại công nghệ chiến lược là phải tự mình tạo ra nó.” Ông cho biết thêm Microsoft đã phải mất 15 năm để đạt được giá trị là 200 tỷ
đô-la trên thị trường chứng khoán. Mức tăng trưởng này chứng minh “Sức mạnh của công nghệ. Công nghệ tương lai có thể giúp chúng ta nhân đôi con số đó, nhưng cũng có thể đưa chúng ta quay lại vạch xuất phát. Thật điên rồ nếu chúng ta không tham gia.”
Bill Gates và hội đồng quản trị của Microsoft đã thống nhất thành lập trung tâm nghiên cứu ngay trong năm đó. Kế hoạch ban đầu là trong vòng 5 năm sẽ tăng số chuyên gia nghiên cứu của trung tâm lên 100 người. Đến năm 1997, sau 5 năm thực hiện, MSR vượt kế hoạch đã đặt ra và mở thêm một chi nhánh vệ tinh ở San Francisco. Myhrvold nghĩ ngay tới việc mở rộng tổ chức, ông đề ra mục tiêu mới là đến năm 2000 nhân sự của MSR sẽ tăng lên 600 nhà nghiên cứu. Trong cuốn sổ ghi nhớ năm 1991, Myhrvold có đưa ra ý kiến rằng trong tương lai, Microsoft cần thành lập thêm trung tâm nghiên cứu ở châu Âu và châu Á, cụ thể là ở Trung Quốc. Nhưng phải đến sáu năm sau, ý tưởng về trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc mới trở thành hiện thực. Ông thuật lại: “Tôi thật sự không nhớ mình có viết điều đó trong cuốn sổ ghi nhớ đấy!”
Myhrvold giải thích nhận định trước đây của ông: “Trong công việc nghiên cứu, nguyên liệu thô quan trọng nhất là những con người tài năng, hay chính xác hơn là nhân tài đã qua đào tạo. Nếu anh không có được những con người như thế, mọi thứ đều là con số không. Và thực tế là anh không thể thu hút được tất cả nhân tài về cùng một nơi. Vậy phải làm sao? Nếu không thể tập hợp tất cả về Redmond, anh sẽ phải tìm đến với họ thôi.”
Ngoài nước Mỹ, người ta còn có thể tìm kiếm nhân tài công nghệ thông tin ở hai nơi nữa là châu Âu và châu Á – Đó là lý do vì sao ông đã nhắc đến hai châu lục này trong bản tuyên bố tầm nhìn ban đầu. Năm 1997, Microsoft đã thành công trong công cuộc chinh phục châu Âu khi thành lập Trung tâm Nghiên cứu tại Cambridge nằm trong Đại học Cambridge, nước Anh. Mở thêm một chi nhánh nghiên cứu ở châu Âu dễ dàng hơn nhiều so với
châu Á. Nền văn hóa châu Âu có nhiều nét tương đồng với văn hóa Mỹ, việc đi lại cũng thuận tiện hơn, công dân Mỹ sang châu Âu được miễn thị thực và không vấp phải rào cản về ngôn ngữ. Tuy nhiên, Myhrvold nhận thấy về lâu dài, vị trí của châu Á sẽ quan trọng hơn. Ông nhận định: “Nếu nhìn vào 10 năm tới, anh sẽ thấy không nơi nào trên thế giới tăng trưởng mạnh như ở châu Á, chẳng hạn như về số lượng tiến sĩ khoa học công nghệ thông tin.”
Ở châu Á, một số quốc gia có vẻ rất hứa hẹn như: Singapore, Malaysia và Nhật Bản. Một số tập đoàn của Mỹ như IBM hay Hewlett-Packard đều có trung tâm nghiên cứu ở Nhật Bản. Nhưng theo Myhrvold “Trung Quốc dường như mới là nơi mà ta cần đến”. Thứ nhất, chưa có một tập đoàn nào của Mỹ chính thức thành lập trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc dù nhiều công ty lớn, trong đó có IBM và Nortel đã mở các phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, các phòng thí nghiệm này đi theo hướng phát triển hơn là nghiên cứu. “Họ không thật sự nghiên cứu, họ chỉ làm ra vẻ như đang chuẩn bị đầu tư vào Trung Quốc. Tôi không cho là đã có công ty nào đó có trung tâm nghiên cứu thật sự ở Trung Quốc.”
Quan điểm của Myhrvold về Trung Quốc tương đối mới mẻ. Phần lớn các công ty phương Tây chỉ quan tâm tới đất nước này với tư cách là một thị trường khổng lồ mới nổi, có nguồn nhân công rẻ – bằng chứng là việc cung ứng sản xuất và gần đây nhất là việc sản xuất phần mềm. “Chúng tôi đến Trung Quốc không phải để bán hạ giá sản phẩm tìm kiếm nguồn nhân công rẻ mạt. Chúng tôi đến Trung Quốc là để nghiên cứu công nghệ thông tin.” Myhrvold còn lưu ý rằng nếu tính về số kỹ sư công nghệ thông tin sắp tốt nghiệp, không một quốc gia nào có thể là đối thủ của Trung Quốc. Ông nói:”Chúng tôi hy vọng rằng nếu có thể tiến hành những nghiên cứu lớn ở Trung Quốc và mang đến cho đất nước này những nhà khoa học máy tính trẻ tuổi, bởi nhân lực dường như là điều quan trọng nhất mà họ có và những cơ hội nghiên cứu lớn, chúng ta sẽ xây dựng được một trung
tâm mà sau này sẽ được biết đến như một trong những trung tâm nghiên cứu lớn nhất Trung Quốc – giống như Trung tâm Nghiên cứu Bell Labs của Trung Quốc.”
Ngoài ra, Myhrvold còn cho rằng mở một trung tâm nghiên cứu có thể là cách tiếp cận hiệu quả nhất thị trường Trung Quốc trong tương lai. Rất nhiều chức năng làm nên một phần mềm ứng dụng thành công ở Trung Quốc – như nhập dữ liệu bằng giọng nói và giao diện mới để nhập những ký tự phức tạp vào máy – đã được người Trung Quốc xử lý rất tốt. Còn cách nào để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng Trung Quốc hiệu quả hơn là sản xuất sản phẩm đó ngay tại Trung Quốc?
Hàng trăm vấn đề xuất hiện khi một trung tâm nghiên cứu được thành lập, ví dụ như những khác biệt quá lớn về ngôn ngữ và văn hóa đã dẫn đến khó khăn trong giao tiếp. Nhưng Myhrvold đã tìm ra giải pháp cho những vấn đề đó. Trong ngành sản xuất phần mềm, để kiểm tra kỹ lưỡng và kết hợp các chuỗi mã (mà ứng với mỗi chức năng sẽ có một chuỗi mã khác nhau) thành những sản phẩm hoàn thiện, bạn phải phối hợp rất chặt chẽ với các bộ phận khác, vì vậy việc thành lập các bộ phận chức năng cách quá xa trụ sở chính sẽ là một vấn đề nan giải. Còn trong nghiên cứu, hoạt động truyền thông không cần chặt chẽ đến vậy. “Về cơ bản, bạn sẽ nói với mọi người: ‘Xem này, tôi sẽ không quản lý bạn hoàn toàn, bạn sẽ được theo đuổi giấc mơ của mình.’”
Nói tóm lại, Trung Quốc là mảnh đất tiềm năng. Myhrvold khẳng định: “Nếu bạn đang tìm kiếm một nơi có số lượng tiến sĩ tin học tăng nhanh, thì đó chính là Trung Quốc. Vì vậy, nếu bạn muốn theo kịp xu thế hiện thời, điều quan trọng nhất là phải hiểu được truyền thống lâu đời của Trung Quốc để tuyển dụng nhân tài ở đây. Có được họ trong đội ngũ sản xuất đó sẽ là điều tuyệt vời nhất nếu xét về lâu dài.”
Lúc đó, toàn bộ ý kiến về việc thuê sản xuất và mối lo về việc Trung Quốc có bắt tay với Mỹ trên phương diện công nghệ thông tin hay không vẫn chưa thật sự rõ ràng. Nhưng thậm chí đến lúc này, Myhrvold vẫn không hề hối tiếc về quan điểm của mình. Ông nói: “Mọi quốc gia đều phải quan tâm đến tính cạnh tranh, nhưng điều bạn cần lo lắng về tính cạnh tranh của mình là: Tôi đã đầu tư đủ chưa? Việc lo lắng về một đối thủ nào đó quả thực là một sai lầm.”
Cuối năm 1997, ông trình báo cáo về những vấn đề ở Trung Quốc lên Gates và hội đồng quản trị. Ông nhớ lại: “Bill rất thích thú về điều này. Đây là điều tuyệt vời nhất khi tôi còn làm việc ở Microsoft, Bill luôn khuyến khích và thấu hiểu giá trị của đầu tư dài hạn. Và thế là chúng tôi quyết định làm.”
Ngay cả khi Myhrvold và các giám đốc khác còn đang tranh luận nên đặt trung tâm nghiên cứu ở đâu, thì ưu tiên hàng đầu vẫn là tìm một giám đốc. Thực tế đã cho thấy thành công của các tổ chức nghiên cứu đều phụ thuộc vào việc họ có tìm được một người lãnh đạo có tài hay không. Myhrvold cùng Gorden Bell – cha đẻ của máy tính mini và là thành viên thuộc ban cố vấn của Microsoft – đã chọn giám đốc thứ nhất của trung tâm nghiên cứu là Rick Rashid, một chuyên gia nghiên cứu nổi tiếng về công nghệ thông tin thuộc Đại học Carnegie Mellon (CMU), người đứng đầu dự án hệ điều hành cao cấp Mach (về sau, Mach trở thành nền tảng phát triển hệ điều hành Macintosh OS X của Apple). Sau đó, Rashid và Myhrvold đã cùng nhau tìm kiếm người giỏi nhất để điều hành những công việc then chốt của Trung tâm.
Trong số những nhân viên được tuyển dụng đầu tiên của MSR có Bell và một nhóm từng là nhân viên cũ của Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto nổi tiếng của Xeros, gồm Chuck Thacker – người từng đoạt giải Draper, đồng sáng lập mạng Ethernet− Gary Starkwearther nhân vật tiên phong về máy in laser; Charles Simonyi − người sáng tạo ra chương trình xử lý văn bản
WYSIWYG (“what you see is what you get”); và Butler Lampson người đoạt giải Turing Award – giải thưởng tương đương với giải Nobel trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Cùng gia nhập Trung tâm Nghiên cứu trong những ngày đầu tiên còn có Linda Stone – chuyên gia hàng đầu về phương tiện truyền thông đa phương tiện của Apple; Jim Gray – cố vấn uy tín về cơ sở dữ liệu và Alvy Ray Smith – huyền thoại về đồ họa máy tính, người sáng lập studio cho phim hoạt hình Pixar, studio này cũng nổi tiếng với bộ phim Toy Story (Câu chuyện đồ chơi). Những nhân vật chủ chốt khác đến từ trung tâm nghiên cứu nổi tiếng của IBM là bộ ba chuyên gia về chương trình xử lý ngôn ngữ tự nhiên và Dan Ling − giám đốc nghiên cứu trẻ, chuyên gia hàng đầu của IBM trong rất nhiều lĩnh vực, từ dữ liệu trực quan cho đến kết cấu của các máy trạm và là người đồng phát minh bộ nhớ RAM cho video. Ông từng sống cùng Rashid khi học ở Đại học Standford, nhanh chóng trở thành giám đốc nghiên cứu của Microsoft khi Rashid trở về tổng công ty làm phó chủ tịch phụ trách nghiên cứu của tập đoàn.
Điểm đặc biệt tại tổ chức nghiên cứu này là những chuyên gia hàng đầu trong giới công nghệ thông tin chiếm tới một phần ba quân số của Trung tâm. Một phần ba là nhà nghiên cứu hạng trung, phần còn lại là những tài năng mới nổi từ các trường đại học. Myhrvold, Rashid và Ling muốn mọi điều kiện ở trung tâm nghiên cứu mới tại Trung Quốc không thua kém bất cứ gì so với các trung tâm nghiên cứu khác, mà đầu tiên và cũng quan trọng nhất là tìm được một giám đốc thích hợp. Đối với những người sáng lập, họ hình dung ra một người nói tiếng Trung, có thể hiểu được phong tục tập quán của Trung Quốc và có thể là nhân tố kết nối với chính phủ và giới hàn lâm – nguồn nhân lực mà Microsoft đang cố gắng nắm bắt. Nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Myhrvold cho biết: “Chúng tôi muốn tìm được một người có thể đối đầu với những thách thức khi thành lập một trung tâm nghiên cứu hoàn toàn mới, một người hiểu rõ công tác nghiên cứu, một người có khả năng tạo nên một trung tâm nghiên cứu thành công ngay tại đây và phải sẵn sàng sống và làm việc tại
đây, ngay trên đất nước Trung Quốc này.” Sống và làm việc tại Trung Quốc, đặc biệt là vào lúc đó, là một vấn đề lớn và như Myhrvold nói: “Đó là một thử thách.”
Trong những tháng đầu năm 1998, cái tên của Kai-Fu Lee được nhắc đến. Myhrvold không nhớ chính xác ai đã giới thiệu Lee, nhưng đó không phải là vấn đề. Ngay khi tên của Lee được nêu ra, mọi người đều trở nên sôi nổi. Myhrvold nhớ lại: “Chúng tôi biết Lee đã lâu và ông là mẫu người thích hợp với mọi dự án của công ty.”
Ngay khi biết đến Kai-Fu Lee, Myhrvold và Rashid đã nhận ra rằng Lee là lựa chọn tốt nhất để bắt đầu trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc − một nhân vật rất nổi tiếng ở Thung lũng Silicon. Nhỏ người, có khuôn mặt rất trẻ và lập gia đình từ năm 21 tuổi, Kai-Fu Lee còn nói đùa rằng trong ảnh cưới trông ông như mới 12 tuổi. Lee bắt đầu nổi tiếng khi học tại Đại học Canergie Mellon, ngôi trường mà Rashid từng theo học, với phương pháp nhận biết giọng nói. Sau này, ông làm việc cho Apple, giúp vị Chủ tịch hội đồng quản trị lúc đó là John Sculley chuyển hướng hoạt động của công ty sang lĩnh vực phát triển phần mềm nhận biết giọng nói. Về sau, Lee gia nhập Công ty Đồ họa Silicon, còn được gọi là SGI. Công ty này đã trở thành một trong những công ty công nghệ triển vọng nhất Thung lũng Silicon, nhưng không bao lâu sau khi Lee đến, thời đại hoàng kim của nó cũng sụp đổ. Đầu năm 1998, Lee tìm được người mua công ty, ông quyết định ra đi, không tiếp tục làm dưới quyền của người chủ mới. Mặc dù tiếng tăm của cá nhân ông không hề bị ảnh hưởng, nhưng Lee cũng lo lắng rằng ông có thể thất bại và ở độ tuổi 37, ông quyết định tìm kiếm một cơ hội khác để khẳng định mình. Đó chính là khoảng thời gian Myhrvold và Rashid tìm đến ông.
Trong cuộc nói chuyện với Lee, mọi chuyện nhanh chóng trở nên rõ ràng. Lee sinh năm 1961, tại Đài Loan và được gửi đến Mỹ học khi mới 11 tuổi. Hồi đó, Lee sống với người anh trai làm việc ở Phòng Nghiên cứu Quốc gia Oak Ridge, tại thành phố Oak
Ở
Ridge, Tennessee. Ông nói đùa: “Ở Tennessee không có tiếng địa phương, vì ở đây, hơn một nửa số dân là người nhập cư.” Không một thông tin nào trong những thông tin trên được giới thiệu ngay từ đầu. Khi được hỏi về lý lịch, điều đầu tiên Lee nói đến là cha mẹ và những câu chuyện cảm động về họ.
Cha mẹ Lee đều là người Đại lục. Cha ông tên là Tien-Min Lee, một nhà lập pháp dưới chính quyền của Quốc dân đảng. Khi Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa năm 1949, gia đình Lee chạy sang Đài Loan. Tại đây, Kai-Fu Lee đã được sinh ra.
Dưới chính quyền Đài Loan, cha của Lee lại làm công việc cũ với đồng lương ít ỏi. Ông nắm quyền hành rất thấp trong chính phủ, chủ yếu tập trung nghiên cứu và viết lách về những vấn đề khoa học chính trị. Ở tuổi 53, ông vẫn tiếp tục học tiếng Anh và học gần một năm ở các trường đại học thuộc Stanford và Harvard, Mỹ. Sau khi trở lại Đài Loan, ông dành trọn thời gian còn lại để viết sách báo và giảng dạy (ông là giảng viên môn khoa học chính trị của Đại học Chính trị Quốc gia). Tien-Min Lee luôn hy vọng đất nước sẽ hợp nhất. Anh cả của Lee là Khải Lâm cũng tới Mỹ học và sau đó trở thành nhà sinh hóa học thuộc Viện Nghiên cứu Oak Ridge. Khi Lee 10 tuổi, Khải Lâm trở lại Đài Loan. Lee kể lại: “Anh ấy đã rất ngạc nhiên khi thấy kiểu học khủng khiếp ở đây − học thuộc văn cổ và các công thức toán học. Anh ấy đề nghị đưa tôi sang Mỹ học và sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc tôi cẩn thận. Mẹ tôi đồng ý. Sau khi học xong tiểu học, tôi sang Mỹ sống với anh trai và gia đình anh ấy. Mỗi năm, mẹ tôi lại sang đó sống cùng trong nửa năm.”
Hồi mới sang Mỹ, Lee không hề biết một chút tiếng Anh. Tuy nhiên, dù phải đối mặt với những khó khăn cùng rào cản ngôn ngữ, Lee vẫn đứng thứ chín trong số 500 học sinh ở trường trung học và được nhận vào Đại học Columbia năm 1979. Hồi đó, Lee định học môn khoa học chính trị theo nghề của cha. Tuy nhiên, sau một năm, ông thật sự yêu thích máy tính và thay đổi
ngành học của mình. Ông đã tìm tòi nghiên cứu mọi thứ về lĩnh vực này. Hồi đó vẫn là thời của Fortran, nhưng Pascal – một ngôn ngữ lập trình mới cũng bắt đầu được dạy ở trường. Ông xuất sắc về cả hai thứ ngôn ngữ đó, ông đã được Đại học Carnegle Mellon (CMU) nhận. Lee nhớ lại cảm giác thân thuộc khi ở Pittsburgh: “Tôi đã rất ngạc nhiên về những công nghệ hiện đại và ở đó lại có rất nhiều người giống tôi.” Máy bán nước ngọt tự động được kết nối với mạng máy tính nội bộ, nhờ vậy, sinh viên có thể nhấn vào nút để kiểm tra số nước ngọt còn lại giúp đỡ tốn thời gian chờ đợi ở nhà ăn.
Tại Đại học Carnergie Mellon, người hướng dẫn Lee là Raj Reddy, một chuyên gia có tiếng trong lĩnh vực robot học và nhận biết giọng nói. Một hôm, Reddy yêu cầu Lee sử dụng một phương pháp để xây dựng hệ thống nhận biết giọng nói, đây sẽ là nội dung cơ bản trong luận văn tiến sĩ của ông. Lee nghiên cứu, sau đó trở lại và nói rằng ông muốn dùng một phương pháp khác dựa trên cơ sở dữ liệu và kiến thức về máy móc. Dù không đồng tình, Reddy vẫn hứa sẽ nhiệt tình giúp đỡ Lee và ông đã làm đúng như vậy. Lee rút ra một bài học: Khi quản lý con người, bạn luôn phải đầu tư để khuyến khích tài năng của họ.
Bài luận văn khiến Lee trở nên nổi tiếng. Lee nhớ lại: “Nếu đọc bài luận văn của tôi, bạn sẽ thấy tôi không đưa ra lý thuyết nào hoàn toàn mới. Nó giống như một bài viết, trong đó mọi người đã dùng hết các số liệu mà bạn có thể đưa vào.” Phương pháp của Lee đã giúp các diễn giả độc lập trong bài diễn thuyết dài, có nghĩa là những phương tiện nhận biết không cần thiết phải được hướng dẫn riêng cho từng cá thể và họ có thể nắm bắt được những lời nói đặc biệt ở tốc độ bình thường. Hệ phương pháp này có thể tạo cơ sở cho hầu hết những phương tiện nhận biết giọng nói hàng đầu hiện nay, mặc dù cho đến thời điểm này, chỉ còn rất ít người dùng sản phẩm của Lee.
Reddy khiến Lee ngạc nhiên khi hỏi ông có muốn ở lại trường làm trợ giảng không. Lee đã đồng ý. Nhưng chỉ sau hai năm, ông
cảm thấy chán ngấy với môi trường đại học – quyên tiền, tìm kiếm sinh viên xuất sắc, phục vụ cho ban giám hiệu – và ông chỉ còn lại rất ít thời gian dành cho nghiên cứu. Một ngày cuối năm 1989, có hai nhà thương thuyết từ Apple gọi cho ông. Một là David Nagel, sau này là giám đốc điều hành PalmSource − công ty sản xuất hệ điều hành với nhiều trợ lý về kỹ thuật số cá nhân, trong đó có các cố vấn của Palm. Người kia là Hugh Martin, nhà quản lý được nhiều người ở Thung lũng Sillicon biết đến, gần đây nhất, ông là Chủ tịch hội đồng quản trị của Nanofluidics (công nghệ lỏng siêu vi) − một người khởi đầu sự nghiệp từ công nghệ gen ở Menlo Park, California. Họ đã giảng giải về việc Apple đang muốn kết hợp công nghệ nhận biết lời nói vào máy tính của họ và mong rằng Lee sẽ giúp họ lãnh đạo trong việc này. Lee kể lại: “Hugh đã trải ra cho tôi một viễn cảnh tương lai bằng bài diễn thuyết ngọt như đường, giống như Steve Jobs đã nói với John Sculley.” Đây là một truyền thuyết tại Thung lũng Silicon. Sculley là giám đốc điều hành hãng nước ngọt Pepsi khi Steve Jobs mời ông về làm giám đốc điều hành cho Apple cuối những năm 1980. Nổi tiếng với uy tín và tài thuyết phục, Jobs đã đến New York gặp Sculley và bắt đầu bằng một câu hỏi: “Anh muốn suốt đời bán nước đường, hay anh muốn tới Apple và thay đổi cả thế giới?” Còn Lee lại nhận được một câu giống như vậy nhưng được biến tấu đi đôi chút: “Anh muốn suốt đời bị nhốt trong trường đại học, suốt đời gây quỹ, hay muốn thay đổi tác động của máy vi tính đối với con người bằng cách biến dự án về nhận biết giọng nói thành sự thật?” Và Lee đã đồng ý.
Ở Apple thật vui nhộn. Năm 1992, Lee đã gây chú ý khi xuất hiện trên tờ Good Morning America (Xin chào nước Mỹ), do John Sculley và đội ngũ nhân viên marketing của Apple phát hành, mục đích là giới thiệu phần mềm nhận biết giọng nói đầu tiên của Lee trong hai năm phát triển của ông. Buổi trưng bày gồm có đơn đặt hàng máy tính và có thêm phụ lục cấm các loại máy quay phim, ngoại trừ máy quay truyền hình. Nếu có bất cứ điều gì không rõ ràng, ví dụ bạn muốn hẹn gặp “John”, hay bạn muốn gặp trong bao lâu, thì máy tính sẽ nói chuyện với bạn và hỏi chi
tiết hơn. Sculley, Lee và nhà đồng tổ chức buổi giới thiệu Joan London đều đã thử kiểm tra chiếc máy đó. Lee bảo rằng, London cảm thấy chắc chắn là chiếc máy ấy giống như thật – như thể có ai đó đang ngồi phía sau màn hình và điều khiển mọi thứ. Nhưng đó là thật, sản phẩm ấy có thật! Và tin tức lan truyền rằng Apple tạo ra được sản phẩm nhận biết giọng nói, cổ phiếu của công ty đã tăng 2 đô-la mỗi đơn vị.
Tuy nhiên, trong thời gian đầu sản phẩm nhận biết giọng nói chưa được hoàn chỉnh và Lee cũng hiểu điều đó. Ông nói: “John đã không thổi phồng nó lên, nhưng khi xem sản phẩm trưng bày, người ta có thể tưởng tượng và cho rằng nó có giá trị cao hơn giá trị thực”. Cuối cùng, Apple cũng lắp đặt sản phẩm nhận biết giọng nói, nhưng nó không được sử dụng rộng rãi lắm.
Sau đó, Lee đã tìm ra một sản phẩm khác tốt hơn – QuickTime, một phần mềm đa phương tiện làm cơ sở cho rất nhiều ứng dụng và sản phẩm thành công, trong đó phải kể đến sự xuất hiện iPod của hãng Apple sau đó hơn một thập kỷ. Nhưng Apple lại rất chật vật khi thị phần máy tính của họ đột ngột bị mất. Hàng trăm công nhân mất việc làm. Steve Jobs vì một số lý do cũng buộc phải ra đi và bán tất cả cổ phần của mình. Bản thân Sculley từng là niềm mơ ước của Thung lũng Silicon, cũng phải rời khỏi công ty.
Nhưng Lee thì không phải ra đi. Ông thừa nhận: “Khi John ra đi, tôi thật sự không thể trở thành người kế thừa xứng đáng, chính vì vậy, tôi rời Apple và đến SGI”. Lee đã hoàn thành được hai việc cho Silicon Graphics: thành lập một đơn vị Web server với mục tiêu tận dụng sự tăng nhanh của số người sử dụng Internet; và là người đi tiên phong trong phần mềm đồ họa 3D cho Internet, dưới vai trò của công ty chi nhánh Cosmo thuộc tập đoàn. Lee nhớ lại: “Hồi ấy, chúng tôi đã hoàn thành một việc tuyệt vời – tăng giá trị kinh doanh từ 100 đến 200 triệu đô la. Sau đó, công việc của chúng tôi lại trở nên tồi tệ. Chúng tôi như bị thôi miên vào các lĩnh vực công nghệ giải trí. Và không để ý nhiều đến loại
sản phẩm hữu dụng.” Thêm một bài học mà Lee không bao giờ quên. Nhiều năm sau, trong loạt bài giảng tại MIT, ông đưa ra những lời khuyên cho sinh viên để họ có thể hiểu được giá trị của thế hệ nối tiếp. “Điều đầu tiên tôi nghĩ tới là: Vấn đề không phải là đổi mới, mà là phải đổi mới làm sao cho thật hữu ích.”
Lee được giao nhiệm vụ bán Cosmo không lâu trước khi nó được rao bán. Năm 1998, Lee đã bỏ qua một hợp đồng với hãng phần mềm Platinum và tìm kiếm một công việc mới. Đúng lúc đó thì Microsoft đến mời ông. Lúc đó, Intel cũng mời ông với cùng một lý do là mở một trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc. Lee đã nói chuyện rất nhiều với Giám đốc điều hành Craig Barrett và Phó chủ tịch tập đoàn Albert Yu, một trong những người sáng lập công ty.
“Tôi thật sự rất thích Intel, nhưng lại nghĩ rằng nó không hợp về văn hóa. Apple và SGI còn rất trẻ, rất mới, tôi có thể đến đó và làm bất cứ điều gì. Còn Intel thì đã hoạt động rất lâu, lớn hơn và quản lý cũng thuần thục hơn. Tuy nhiên, tôi cũng sẽ đồng ý làm việc với họ nếu như tôi không có một lựa chọn khác: bạn bè của tôi ở Microsoft.”
Chỉ cần một cuộc gọi từ Hsiao-Wuen Hon, mọi thứ đã đổi theo chiều hướng khác. Hon đến CMU làm luận án tiến sĩ khi Lee vừa nhận được bằng tiến sĩ, ở đó ông đã giúp Lee làm luận văn về sản phẩm nhận biết giọng nói. Ông đã cùng Lee đến Apple nhưng sau đó ông chuyển sang Microsoft không lâu trước khi Lee chuyển đến Silicon Graphics. Ông và Lee luôn là bạn thân, vợ của họ cũng vậy. Hai người ngồi nói chuyện phiếm với nhau và Hon hỏi bạn mình về các kế hoạch trong tương lai.
“Ừ, thì tôi đang có ý định làm việc ở Intel – sang Trung Quốc làm thì hơi có vẻ điên khùng.”
Hsiao-Wuen Hon đã biết về kế hoạch của Microsoft là mở trung tâm nghiên cứu ở Bắc Kinh, nhưng không biết đây chính là lúc
Ồ
đó. Thay vào đó, ông nói: “Ồ không, cậu nên nói điều này với chúng tôi trước. Để tôi kiểm tra xem. Có một số việc rất thú vị.”
Cuộc gọi tiếp theo của Xuedong Huang − người giám sát của Hsiao-Wuen Hon trong nhóm diễn thuyết − giới thiệu về việc kết hợp nhận biết giọng nói vào các sản phẩm của Microsoft. Hồi đến thăm các nhà nghiên cứu tại CMU, ông có vào làm việc cùng Lee, tham gia vào đó sau khi Lee rời Apple.
“Tôi đang nghĩ đến việc sẽ làm cho Intel” − Lee nói với Huang.
Nhưng bạn ông lại phản đối: “Không được, hãy làm việc với chúng tôi, hãy nói chuyện với Dan Ling, Rick Rashid và Nathan, hãy xem chúng tôi đang làm gì. Chúng tôi đang chuẩn bị xây dựng một trung tâm nghiên cứu ở Bắc Kinh.”
Đối với Lee, thế là đủ. Ông quả quyết: “Tôi đồng ý!”
Đó là mùa xuân năm 1998. Lee rất ngạc nhiên. “Tôi thấy điểm tương đồng hoàn hảo giữa lý thuyết ở trường đại học và thực hành trong ngành công nghiệp. Tôi đã không bao giờ nghĩ là điều này tồn tại… Tất cả những con người thông minh này đã cho tôi thấy điều đó.”
Microsoft rất hài lòng khi có được ông. Rashid hứa hẹn với Lee: “Nếu anh có thể cộng tác với chúng tôi, chúng ta sẽ xây dựng được một trung tâm nghiên cứu to lớn hơn và tốt đẹp hơn ở Trung Quốc.”
“Lớn đến mức nào? Tốt ra làm sao?” Lee thẳng thắn. Bản kế hoạch thành lập trung tâm nghiên cứu ban đầu của Rashid chỉ tính đến 10 người. Lee đã nhấn mạnh ông rất thích khuếch trương tầm ảnh hưởng của trung tâm nghiên cứu, do đó, Rashid biết rằng nếu ông nói chỉ có 10 nhân viên ở Trung Quốc, chắc chắn Lee sẽ từ chối điều hành công việc ở đây.
Rashid tránh trả lời trực tiếp: “Cũng như ở Cambridge thôi.” Trung tâm nghiên cứu ở Cambridge (Anh), được thành lập năm trước và Microsoft đã cam kết sẽ đầu tư 80 triệu đô-la Mỹ trong vòng 5 năm tới – và cũng trong 5 năm đó, sẽ tăng số nhân viên trung tâm nghiên cứu lên đến 100 người.
“Công việc chính sẽ là gì?” Lee hỏi.
“Tìm kiếm những nhân viên tài giỏi, tạo ra những sản phẩm tuyệt vời.”
“Trong lĩnh vực nào?”
“Trong bất cứ lĩnh vực nào mà những con người tài giỏi đó muốn làm, chỉ cần nó liên quan đến hoạt động của Microsoft trong vòng 5 đến 7 năm tới.”
“Ông muốn tiết kiệm như thế nào, so với mức lương trả cho các nhân viên ở Redmond?”
“Chúng tôi không chọn Trung Quốc để tiết kiệm tiền. Hãy làm tất cả những gì ông cần để giữ họ lại.”
“Điều đó quá tuyệt vời để trở thành sự thật.” Lee nghĩ. Nhưng điều đó lại đúng là sự thật.
Trong thâm tâm, lúc nào Lee cũng cảm thấy mình là kẻ thất bại ở cả Apple và Silicon Graghics. Tuy nhiên, ông vẫn nghĩ: “Điều chủ yếu dẫn đến thất bại ở Apple và Silicon Graphics là làm việc chăm chỉ mà không mang lại kết quả gì – Và cuối cùng là thất bại khi công ty gặp phải khó khăn.” Ông rất vui khi làm việc cho Bill Gates, người mà ông luôn thần tượng và coi là bậc thiên tài về cả công nghệ thông tin và kinh doanh. Ông cũng ngưỡng mộ Bill bởi sự trầm tĩnh và tính kiên nhẫn cần thiết để tìm ra ý tưởng hay trong những thời khắc khó khăn nhất.
Nhưng đó chỉ là một phần lý do khiến ông chính thức chấp nhận lời mời của Microsoft vào tháng 6 năm 1998. Còn một nhân tố nữa, đó là nỗi ám ảnh về người cha quá cố. Kể về cha, giọng ông tràn đầy cảm xúc: “Trái tim cha tôi luôn hướng về Trung Quốc.” Năm 1995, khi Tien-Min Lee nhắm mắt, ông đã viết cuốn sách về sự thống nhất đất nước: The Hope of China (Niềm hy vọng của Trung Quốc). Lee giải thích: “Cha tôi luôn cảm thấy Trung Quốc chưa thật sự phát triển đúng như tiềm năng của nó. Ông luôn muốn làm một điều gì đó cho đất nước mình. Chính vì tình yêu vô bờ của ông với Trung Quốc mà tôi muốn nhận công việc này, để cảm nhận được rõ ràng hơn tình yêu của ông.”
Đúng vào thời điểm Kai-Fu Lee về làm việc cho Microsoft, một cuộc tranh luận đã nổ ra về phương pháp và địa điểm xây dựng Microsoft. Có hai địa điểm – hai lựa chọn hợp lý nhất – Bắc Kinh hoặc Thượng Hải. Bắc Kinh là trung tâm hành chính của Trung Quốc; còn Thượng Hải phát triển nhanh hơn, trẻ hơn, là trung tâm của sự thay đổi và định hướng mới, đây cũng là thành phố của kinh doanh và thương mại. Ở châu Âu, Microsoft đã quyết định đặt trụ sở trung tâm nghiên cứu gần trường Đại học Cambridge. Vậy trường đại học nào mà Microsoft muốn “gần” nhất ở Trung Quốc? Theo Nathan Myhrvold mô tả: “Ở Trung Quốc cũng như ở Mỹ đều có rất nhiều lựa chọn. Nó giống như việc phải quyết định chọn lựa giữa Thung lũng Silicon hay Route 128 gần Boston, hay việc tôi nên thân thiện với MIT, Stanford hay Harvard?” Có rất nhiều nhà tư vấn cho rằng việc kinh doanh ở Trung Quốc sẽ không mang lại nhiều lợi ích. Myhrvold nói: “Những thứ mà mọi người nói với chúng tôi là vấn đề toàn cảnh. Mà ở đó, toàn bộ lực lượng nòng cốt là các chuyên gia, các nhà tư vấn từ khắp nơi trên thế giới, những người ham mê nghiên cứu Trung Quốc. Nhưng tôi không nghĩ ai đó có thể hiểu được vấn đề.”
Lee đã giải quyết vấn đề của cuộc tranh luận. Nếu bạn đến thăm MSR Châu Á vài năm sau đó và phân vân không biết vì sao trung
tâm nghiên cứu này được đặt ở Bắc Kinh chứ không phải Thượng Hải, thì mọi người đều cười và nói: “Anh hãy hỏi Kai-Fu. Ông ấy sẽ kể một câu chuyện thú vị.” Lee giả vờ ngây thơ, rồi sau đó cũng đồng ý: “Được thôi. Nếu anh cứ nài nỉ, thì đó là một câu chuyện đùa. Mẹ tôi từng sống ở cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Tôi bảo mẹ là tôi đang chuẩn bị chấp nhận một lời mời làm việc, hoặc ở Bắc Kinh, hoặc ở Thượng Hải và bà nói: ‘Ôi, Thượng Hải là thành phố đẹp nhất mẹ từng đến. Mẹ đã lớn lên ở đó, thức ăn ngon tuyệt, thời tiết lại rất đẹp. Bắc Kinh là một nơi kinh khủng, lạnh, bão cát, chỉ toàn đạo lý và luật lệ. Nếu con đến Thượng Hải, mẹ sẽ đến đó và sống với con; nếu con đến Bắc Kinh, mẹ sẽ ở lại Đài Loan.’ Tôi đã hỏi ý kiến vợ tôi và cô ấy nói: ‘Thế thì chắc chắn chúng ta sẽ đến Bắc Kinh!’”
Lee nói tiếp: “Đó chỉ là chuyện đùa thôi, một chuyện hay, nên tôi kể cho anh nghe. Cái chính là tôi đã đến thăm cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Tôi đã đến thăm các trường đại học ở hai thành phố này và có một vài buổi nói chuyện.” Ông cho biết thêm: “Từ những chuyến đi này, đặc biệt là từ những câu hỏi mà sinh viên dành cho tôi, tôi rút ra kết luận, sinh viên ở Bắc Kinh quan tâm nhiều hơn đến công việc nghiên cứu trong tương lai. Ở Thượng Hải, họ lại quan tâm nhiều tới những thứ như bao giờ thì có thể kiếm tiền nhờ công nghệ thông tin và làm sao để kiếm được việc làm.”
Ngoài ra, Bắc Kinh còn là nơi tập trung nhiều trường học hàng đầu Trung Quốc, đáng chú ý hơn cả là Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, hai học viện hàng đầu về khoa học và công nghệ ở Trung Quốc hiện nay. Điều này vô cùng quan trọng đối với tương lai của Viện – về cả mặt tuyển dụng và các hoạt động. Một vài học viện quan trọng của Viện Khoa học Hàn lâm Trung Quốc cũng được đặt tại Bắc Kinh, do đó, đặt trung tâm nghiên cứu tại Bắc Kinh có thể giúp ông có được những mối quan hệ đặc biệt. Lee nói: “Người ta thường nói rằng nếu bạn không muốn chính phủ chú ý tới bạn, thì hãy đi thật xa nơi đây, nhưng nếu muốn có sự chú ý, thì không nơi nào tốt hơn Bắc Kinh. Tôi
chắc chắn những việc chúng tôi làm sẽ khiến họ tự hào và sẽ xây dựng hình ảnh đẹp cho Microsoft. Chính vì thế tôi chọn Bắc Kinh. Tôi nói với Rick điều này và ông ấy đồng tình.”
Trở lại California không lâu sau khi chấp nhận làm việc cho Microsoft, Lee nhận một tin “khá giật gân”. Shen-Ling, vợ ông, thông báo có người đã gọi điện thoại cho ông liên tục trong thời gian ông vắng nhà. Người đó hỏi bao giờ ông về và ông đang làm
việc ở đâu. Bà nói Lee đang làm việc cho Microsoft ở Trung Quốc. Người đó lại hỏi: “Sao ông ấy lại đến Trung Quốc, sao ông ấy lại làm việc cho Microsoft?” và hỏi bà có cùng sang Trung Quốc không hay vẫn ở lại. Bà rất lo lắng về những câu hỏi riêng tư như vậy.
“Thế tên ông ta là gì?” − Kai-Fu hỏi.
“Steve gì đó” − Shen-Ling trả lời.
“Steve nào nhỉ?” − Có hàng vạn người là Steve, có thể là ai đây! “Steve Jobs” − bà nhớ lại.
“Steve Jobs! Không phải là ông ta đã trở lại Apple rồi chứ?” “Em không biết nữa. Em không biết gì về ông ta.”
Nhưng đó chính là người đồng sáng lập Apple, người vừa quay trở lại công ty và đang cố gắng cứu nó thoát khỏi bờ vực phá sản. Hai người chưa bao giờ gặp nhau, nhưng điều đó có nghĩa là Jobs biết rất nhiều về Lee. Và ông đoán đúng.
“Sao anh không trở lại Apple?”
“Nhưng chúng ta chưa bao giờ gặp nhau!”
“Điều đó không quan trọng. Các nhân viên cũ của anh đều nói rằng anh là một quản lý tốt và tôi nên mời Kai-Fu Lee trở lại.”
“Nhưng…”
“Đừng nói ‘Nhưng’. Hãy đến gặp tôi trước khi anh nhận lời làm việc cho Microsoft.”
“Nhưng tôi đã chấp nhận làm việc cho Microsoft rồi.” “Thế thì tại sao anh tới Trung Quốc?”
“Tôi là một người Trung Quốc. Đây lại là một thị trường khổng lồ đầy hứa hẹn. Tôi có thể làm được rất nhiều điều cho Trung Quốc và tôi cũng có thể làm được rất nhiều điều cho Microsoft.”
“Dường như anh đã quyết định rồi.”
“Đúng vậy.”
Jobs đành chấp nhận thất bại và nói lời tạm biệt.
Khi Kai-Fu Lee đến Bắc Kinh vào tháng 7 năm 1998, văn phòng của Microsoft ở Bắc Kinh đã chuyển đến Trung tâm Sigma – cùng một tòa nhà với trung tâm nghiên cứu hiện nay. Có khoảng 4.500 doanh nghiệp điện tử và máy tính tập trung ở những phố lớn thuộc quận Hải Điện, chủ yếu là tập trung ở những khu phố rộng lớn hình chữ T. Tòa nhà trung tâm Sigma nằm phía sau một số con phố lớn từ nhánh chính của chữ T. Mặc dù các tập đoàn lớn và có tiếng đều có mặt ở khu vực này, cũng là nơi trú chân của những hoạt động lừa đảo. Lăng Chí Quân, một phóng viên nổi tiếng Trung Quốc lưu ý rằng Trung Quan Thôn có rất nhiều tên riêng cũng như những hoạt động có tiếng xấu. Ông viết: “Rất nhiều câu nói châm biếm lan truyền trong các xưởng công nghiệp ở Bắc Kinh; những câu nói đó được miêu tả như là ‘Trung Quan Thôn rắc rối’ và rằng ‘ở Trung Quan Thôn chỉ có dân buôn bán… Họ còn nói rằng ‘Đó không chỉ là một con phố đầy hàng điện tử mà còn là con phố của những kẻ bịp bợm’.”
Với những tấm kính màu xanh dương lấp lánh ốp bên ngoài, Trung tâm Sigma tượng trưng cho một ốc đảo của danh tiếng và sự êm đềm trong nhịp sống hiện đại hối hả, khác hẳn với những khu vực xung quanh. Mọi người gọi nó là “Lâu đài máy tính”. Nhiều công ty khác cũng thuê văn phòng ở đây, gồm có Mitsubishi ở tầng một, hãng máy tính Levono ở tầng hai, Hewlett-Packard ở tầng ba và bốn. Kế hoạch của Lee là thiết lập một trung tâm nghiên cứu ở một phần tầng năm, nhưng phải mất vài tháng nữa mới đi vào hoạt động được. Vì thế, ông đã lấy một văn phòng nằm trong khu văn phòng của Microsoft trên tầng sáu. Tổng giám đốc của Microsoft Trung Quốc là Juliet Shihong Wu, một phụ nữ năng động nhưng thích tranh cãi, sau này bà rời khỏi công ty do có những bất đồng nặng nề. Bà và những người khác trong phòng kinh doanh đều đón chào ông, nhưng Lee cảm thấy họ không nhận ra tầm quan trọng của những điều ông đang làm. Ông nói: “Họ chỉ nghĩ là có thêm một nhóm thực hiện sản phẩm sắp đến. Tốt thôi, hân hạnh đón tiếp.”
Đối với Trung tâm Nghiên cứu, điều quan trọng là hình ảnh của Microsoft ở Trung Quốc, vì thật sự nó vẫn chưa có sức hút. Trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 12 năm ngoái, vị chủ tịch Tập đoàn Microsoft đã được đám đông sinh viên của trường Đại học Thanh Hoa chào đón nồng nhiệt. Một số người cho rằng chính điều đó đã thuyết phục ông có ý tưởng thành lập trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc, nhưng thực tế đó chỉ là một yếu tố bổ sung.
Ở Mỹ, một phiên tòa vừa được xử cách đó vài tháng, cáo buộc công ty có những hoạt động độc quyền. Tại Trung Quốc, khách hàng cho rằng sản phẩm của Microsoft có giá quá cao so với mặt bằng kinh tế nước này. Nathan Myhrvold kể lại một vụ scandal nhỏ trong khoảng một năm trước với sản phẩm Word bản tiếng Trung. Ông cho biết, các công ty con của Microsoft ở Trung Quốc đã thuê một công ty Đài Loan tùy chỉnh từ điển trong Word sao cho phù hợp hơn với người Trung Quốc, trong đó có
dịch các thuật ngữ sang tiếng phổ thông và có ai đó đã cho thêm những định nghĩa “nhạy cảm về chính trị” vào một số từ. “Điều này đã bị phát hiện và cảnh sát vây xung quanh tòa nhà có công ty chi nhánh của Microsoft.”
Lúc ấy, Lee không hoàn toàn ý thức được vấn đề nhưng ông cũng biết là nên dừng công việc của mình lại. Chiến lược chính tạo nên thành công cho Trung tâm Nghiên cứu là nghệ thuật xây dựng mối quan hệ lâu dài dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, mà điều này không hẳn là điểm mạnh của Microsoft. Lee nói: “Một phần của việc thành công trong kinh doanh ở Trung Quốc được xem là do tính chân thành, luôn nỗ lực và lạc quan hướng tới những điều có ích. Không gì có thể thay thế được điều đó. Nếu bạn nhìn vào các công ty nước ngoài thành công ở Trung Quốc, bạn có thể thấy Coke thành công hơn nhiều so với Pepsi, Kodak thành công hơn Fuji, Volkswagen vượt qua Toyota. Không hẳn là do họ có sản phẩm tốt hơn, mà họ đã truyền tới chính phủ thông điệp: ‘Chúng tôi làm những việc có ích cho đất nước của các bạn. Khi tôi chứng minh được tôi chân thành, tôi hy vọng là bạn sẽ thiện cảm hơn với chúng tôi’.”
Lee mô tả tính đa nghi của người Trung Quốc đối với dân ngoại quốc do lịch sử từ xưa để lại. Ông không ngớt kể về những cuộc xâm lược của người châu Âu mà đáng chú ý nhất là vào giữa thế kỷ XIX khi nhà Thanh trị vì, các nước châu Âu đã mang thuốc phiện đến Trung Quốc: Lee nói: “Chính quyền lúc đó quá yếu ớt nên không thể chống đỡ lại. Người Anh đã tràn vào thành và giết rất nhiều, chúng còn đưa ra yêu sách bắt Trung Quốc phải tách đất cho các thế lực châu Âu. Đó là một điều sỉ nhục đối với người Trung Quốc và các cuộc nổi loạn đã nổ ra. Tám nước châu Âu xâm lược Trung Quốc và đốt cháy cung điện của Hoàng đế, hành động này đã xúc phạm nghiêm trọng đến lòng tự tôn của chúng tôi. Trung Quốc phải chia thêm đất, trả những khoản nợ khổng lồ. Vì vậy, hầu như tất cả người dân Trung Quốc đều cho rằng họ cần phải dè chừng khi giao du với người nước ngoài.”
Mặc dù đã dịu đi nhưng người dân vẫn mang nỗi ám ảnh này đối với các công ty nước ngoài. Vì vậy, cả chính phủ và các công ty Trung Quốc đều rất thận trọng khi thiết lập quan hệ với các công ty nước ngoài: “Chúng tôi chỉ đáp lại khi thấy được sự chân thành của các anh”. Trung Quốc có quyền làm điều đó vì thị trường khổng lồ của họ.”
Để bày tỏ sự chân thành và xây dựng niềm tin, Lee đã tìm mọi cách thu hút những kỹ sư người Trung Quốc có cùng tư tưởng đó. Triết lý của Microsoft khi xây dựng các trung tâm nghiên cứu ở Redmond cũng như ở Cambridge là thuê những nhà nghiên cứu hàng đầu và sau đó sẽ xây dựng một đội ngũ khác. Lee lại nghĩ theo cách khác: Những người giỏi sẽ thuê người giỏi, những người tầm thường chỉ mướn người tầm thường, ông muốn nhận vào đội ngũ của mình những người xuất sắc nhất.
Mọi thứ khởi đầu rất chậm chạp. Lee đến Bắc Kinh cùng Dan Ling – Giám đốc nghiên cứu của Microsoft, người nắm giữ hầu hết các khoản chi thường ngày của Trung tâm. Ling là người gốc Hoa, ông sinh ra ở Rome, lớn lên ở Mỹ và sử dụng thành thạo cả tiếng Anh, Ý. Ngoài ra, ông còn nói trôi chảy tiếng Thượng Hải, nhưng khi ông ở Bắc Kinh điều này hơi bất tiện, vì ở đây mọi người đều nói tiếng phổ thông.
Ling đã không về thăm Trung Quốc cho đến những năm 1990. Nhưng ông thật sự bị ấn tượng bởi nguồn nhân tài và năng lực tiềm tàng ở các trường đại học trên đất nước này. Ông nhớ lại: “Điều đó khiến tôi thấy rất vui. Trung Quốc là một nơi nhộn nhịp mà chúng tôi cần tham gia.”
Quay lại việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu vào giữa năm 1998, Ling cùng Lee đến thăm trường Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh và các học viện khác ở Bắc Kinh: Trung Quan Thôn là nơi tập trung của 148 trung tâm nghiên cứu, mỗi năm đào tạo ra phần lớn số tiến sĩ công nghệ thông tin của cả nước. Tuy nhiên, bộ đôi này đã không được chào đón nhiệt liệt. Phóng viên
Lăng Chí Quân đã viết: “Đó là một ngày giữa mùa hè. Cả hai đều ăn mặc rất chỉnh tề. Hiệu trưởng của các trường đại học Trung Quốc không phải là những kẻ khờ. Họ nhìn vào hai “người Mỹ da vàng” này và cố gắng đoán xem hai vị khách này đến với mục đích gì, vẻ mặt của họ thay đổi. Trạng thái biểu lộ qua ánh mắt của họ cũng thay đổi. Không hề ngạc nhiên. Nếu như bạn gọi là ’tìm kiếm nhân tài’, thì người Trung Quốc lại gọi đó là ‘cướp giật nhân tài’.”
Lee cũng không thành công lắm trong việc lôi kéo các nhà nghiên cứu người Trung Quốc ở Mỹ về nước cùng làm việc với ông. Rất nhiều chuyên gia người Trung Quốc cho rằng họ sẽ bị cơ cấu hành chính của Trung Quốc nuốt gọn hoặc thờ ơ không tiếp nhận. Những người khác thì chỉ thích cách sống ở Mỹ và không muốn trở về Trung Quốc vì với họ, điều đó giống như một thử thách gian khổ. Họ có nhiều tiền, nhiều bạn tốt và công việc tuyệt vời – vậy tại sao họ phải trở về và bắt đầu lại từ đầu?
Nhưng thật may mắn, Lee đã tìm được một nhóm người Trung Quốc mới nổi ở Mỹ – những người thật sự muốn trở về nước. Ông kể: “Họ yêu công nghệ thông tin, họ yêu cả đất nước Trung Quốc. Họ yêu nước Mỹ vì nước Mỹ cổ vũ cho sự sáng tạo và thay đổi. Họ yêu Trung Quốc vì đó là quê hương của họ. Hầu hết những người này làm việc về kỹ thuật phần mềm và mong chờ một ngày Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Châu Á ra đời. Chúng tôi đã đến đúng lúc, đúng nơi để có thể mời được những con người thật sự thích hợp cho môi trường nghiên cứu, để liên hệ với các trường đại học và tiến hành một chương trình marketing hoàn hảo. Những người này vốn rất chân thành; họ không đến làm việc với chúng tôi nếu như chỉ muốn giàu có mà không hề quan tâm đến đất nước, hay nếu họ muốn quên đi nguồn gốc của mình. Chính ước mơ muốn làm rạng danh đất nước đã khiến họ về đây làm việc với chúng tôi.”
Việc đưa một số chuyên gia của Microsoft về cũng giúp Trung tâm thoát khỏi khó khăn. Đầu tiên là George Chen và Xiaoning
Ling. Cả hai đều làm việc ở Redmond và biết đến Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh thông qua Hội Nhân viên người Hoa ở Microsoft, gọi là CHIME. Chen là giám đốc kiểm tra phần mềm của một nhóm sản xuất, rất thạo việc kinh doanh. Ông có bằng tiến sĩ về toán học nhưng lại nhận mình là một doanh nhân chứ không phải là nhà nghiên cứu. Ông có một công ty kinh doanh bất động sản và sở hữu vài tòa nhà ở Seattle. Ông nói với Lee là ở Bắc Kinh, ông có thể làm những công việc liên quan đến bất động sản, quan hệ với chính quyền, liên hệ với các trường đại học ở Trung Quốc hay bất kỳ điều gì – bởi ông rất nóng lòng muốn trở về Trung Quốc. Và Lee nhận George Chen ngay lập tức.
Xiaoning Ling cũng mong muốn trở về cố hương không kém gì người đồng nghiệp. Ông tới Mỹ để làm luận án tiến sĩ về trí thông minh nhân tạo, sau đó làm việc cho một công ty đa phương tiện nhỏ, GPS Continuum – công ty riêng của Bill Gates. Công việc của Xiaoning Ling gồm thiết kế những thiết bị thông minh cho ngôi nhà của vị chủ tịch tập đoàn Microsoft ở Hồ Washington, trong đó có một hệ thống điều khiển khí hậu và hình ảnh kỹ thuật số được lập trình trước để thay đổi tùy theo sở thích của người sử dụng. Sau khi công ty này sáp nhập vào Microsoft, Ling trở thành giám đốc phát triển phần mềm, đặc biệt là trong việc kết hợp những tiến bộ của nghiên cứu vào sản phẩm, một kỹ năng rất cần thiết cho trung tâm nghiên cứu ở Bắc Kinh.
Cả hai người đều không hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu. Vì vậy, sau khi Chen và Ling gia nhập Trung tâm vào giữa năm 1998, Lee vẫn tiếp tục cố gắng mời thêm một số nhà nghiên cứu của MSR ở Redmond. Đứng đầu danh sách này là Harry Shum, tốt nghiệp CMU, là sinh viên của Raj Reddy và từng làm dưới quyền của Lee ở Apple. Shum là chuyên gia lập trình đồ họa và hình ảnh vi tính, ông có 100 giấy chứng nhận và 20 bằng sáng chế mang tên mình. Shum chưa đồng ý, nhưng ông và vợ đã tới thăm Bắc Kinh. Chuyến thăm đã giúp loại bỏ mọi lo lắng cho họ.
Lee rất lạc quan rằng Shum sẽ nhanh chóng trở thành nhà nghiên cứu chính thức đầu tiên của Trung tâm Bắc Kinh.
Dần dần, gần như tất cả những nhân tài mà Kai-Fu Lee mong muốn thu hút đều có mặt tại Bắc Kinh.
Thứ Năm, ngày 5 tháng 11 năm 1998 – ngày đầu tiên Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Trung Quốc (sau đổi thành Trung tâm Nghiên cứu Châu Á) xuất hiện trước công chúng. Trong nhiều tháng, mọi kế hoạch của Microsoft ở Bắc Kinh đều được bảo mật chặt chẽ: để che giấu hoạt động của mình, Kai-Fu Lee đã nhận một chức danh vô cùng tẻ nhạt: giám đốc hệ thống tương tác. Nhưng đến giờ, mọi thứ đã trở nên rõ ràng.
Nằm tại một khu phố yên tĩnh (so với Bắc Kinh) ở phía tây của khu thương mại, cách Tử Cấm Thành và Quảng trường Thiên An Môn 15 phút đi bộ là thiên đường xa hoa của thành phố bận rộn, bụi bặm và ồn ào này. Cuối buổi chiều, đã có khoảng 300 khách đăng ký – họ đều là những nhân vật có tiếng của ngành công nghệ thông tin và giáo dục Trung Quốc. Đáng chú ý gồm: 4 hiệu trưởng trường đại học, 9 hiệu trưởng trường cao đẳng, 18 viện sĩ hàn lâm, 56 giáo sư, 27 nhà nghiên cứu, 7 giám đốc học viện, 29 quan chức chính phủ, gần 100 phóng viên và chỉ có một người duy nhất đến từ đại sứ quán Mỹ. Khi khách mời đã có mặt đông đủ tại hội trường lớn, họ thấy một bàn diễn thuyết được bao quanh bởi 22 giỏ hoa do Viện Khoa học Trung Quốc, Bộ Công nghệ Thông tin và các tổ chức khác tặng.
Một thế kỷ trước, Trung Quốc đã có một cuộc nổi dậy được gọi là cuộc Cải cách 100 ngày. Trong thời gian tự trị ngắn ngủi, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Đàm Tự Đồng đã đến thăm người bạn ở Thượng Hải và nhìn thấy một chiếc máy tính thật lạ lùng. Nó có sáu dãy phím, mỗi dãy phím đều được đánh số lần lượt từ 0 đến 9. Khi bật máy lên, mỗi bánh răng kế tiếp nhau chạy nhanh hơn cái trước 10 lần, khiến chiếc máy này có khả năng tính đúng đến con số 999.999. Đàm Tự Đồng đã thử dùng chiếc
máy hàng trăm lần và không hề tìm ra lỗi của nó. Người bạn đã nói với ông rằng chiếc máy tính là phát minh của một người Pháp tên là Pascal.
Kể lại câu chuyện trên, Lăng Chí Quân nhận xét: “Lịch sử chỉ ghi lại cuộc khởi nghĩa của Đàm Tự Đồng dưới góc độ chính trị và sự hy sinh cao cả của ông. Trong khi câu chuyện nhỏ mà mọi người ít biết tới này có thể sẽ có ảnh hưởng rất lớn.” Cũng tại thời điểm
Trung tâm Nghiên cứu ra đời năm 1998, Trung Quốc đang ở giữa một cuộc cải cách khác, kéo dài hơn, bắt đầu từ khi nền kinh tế mở cửa cách đây 20 năm. Quá trình cải cách đó đã cho phép vô số nhà tư bản bước vào hoạt động kinh doanh ở một đất nước xã hội chủ nghĩa. Và ở đây, trong căn phòng này, nếu Microsoft được chấp nhận thì đất nước này sẽ bước vào kỷ nguyên mới của công nghệ thông tin. Trong kỷ nguyên này, máy tính sẽ trở nên thân thiện hơn, dễ sử dụng hơn và giá cả sẽ hợp lý hơn đối với hàng triệu người tiêu dùng.
Căn phòng được bố trí theo kiểu giảng đường, các chỗ ngồi được nối thành hàng. Trên hàng đầu tiên, Kai-Fu Lee đang vui vẻ chào khách, nói chuyện với Rick Rashid và Dan Ling. Harry Shum cũng ở đây dù ông chưa chính thức chấp nhận gia nhập Trung tâm. Ngoài ra, còn có sự hiện diện của ba nhà nghiên cứu người Hoa khác đang làm việc tại Redmond là: Hsiao-Wuen Hon – bạn của Lee; X. D. Huang − sếp của Hon và Lưu Tự Thành − đến từ nhóm đồ họa. Số ít những nhân viên đầu tiên của Trung tâm cũng cùng đi với nhóm người đến từ Microsoft, trong đó có George Chen, Xiaoning Ling và thư ký mới của Lee – Eileen Chen.
Xiaoning Ling không đi cùng đoàn Microsoft, ông đến trước buổi lễ vài ngày. Hôm đó, Lee đã ra ngoài cùng với Mary Hoisington – trợ lý của Rick Rashid, để chuẩn bị trước một số hoạt động cho sự kiện. Khi họ trở lại văn phòng, người tiếp tân thông báo Lee có khách. “Ông ấy đã chờ ông được một lúc rồi.”
Lee nhìn Xiaoning, điềm nhiên hỏi: “Anh là ai?”
“Tôi là Xiaoning Ling. Ông đã thuê tôi.”
Đến giờ Lee mới nhớ ra. Ông quá bận rộn với công việc ở Bắc Kinh và quên bẵng Ling.
Lúc này tất cả đều đang ở tại Câu lạc bộ Quốc tế trang trọng, nổi bật lên với tuổi trẻ và nhiệt huyết so với những vị khách Trung Quốc có tuổi. Xiaoning Ling nhìn đám đông và phát hiện ra thầy giáo cũ của ông ở Đại học Bắc Kinh. Xiaoning Ling kể lại: “Thầy vẫn mạnh khỏe, nhưng tóc đã điểm hoa râm. Khi ông thấy sinh viên cũ trở về từ nước ngoài, ông không thể giấu được cảm xúc của mình. Ngày trước, những người trẻ đứng trước ông thật vô tư và bình dị. Giờ đây họ đều là những ‘chuyên gia đẳng cấp quốc tế’ với rất nhiều bằng cấp, luận văn và chứng chỉ trong tay. Họ không nói chuyện gì khác ngoài những tiến bộ mới nhất trong thế giới công nghệ thông tin.”
Khung cảnh này đã nói lên rất nhiều về những thay đổi đang diễn ra Trung Quốc. Hơn 100 phóng viên mà ba phần tư trong số họ đến từ các tòa báo, còn lại là từ đài phát thanh và truyền hình, họ đến đây để tóm tắt và phân tích sự kiện này. Người dẫn chương trình giới thiệu Lee. Bằng tiếng phổ thông, Lee khẳng định những cam kết của công ty đối với Trung Quốc và hứa hẹn với khách hàng người Trung Quốc về một “thế giới máy vi tính tốt hơn”. Như lời ông nói, trong vòng 6 năm tới, Microsoft cam kết sẽ đầu tư vào Trung Quốc 80 triệu đô-la thông qua Trung tâm Nghiên cứu và tuyển dụng hơn 100 nhà nghiên cứu. Sau đó, ông nhường quyền phát biểu cho Rick Rashid, người có vị trí cao nhất của Microsoft đang có mặt tại đây. Rashid đưa vào một cuốn băng video của Bill Gates với phụ đề tiếng Trung:
Kính thưa quý vị đại biểu có mặt trong buổi lễ ngày hôm nay,
Tôi, Bill Gates, Chủ tịch hội đồng quản trị và là Giám đốc điều hành Tập đoàn Microsoft, rất vui được công bố lễ khai trương
ập ợ g g Trung tâm Nghiên cứu Microsoft ở Trung Quốc.
Nghiên cứu luôn là một phần đặc biệt quan trọng đối với Microsoft. Các sản phẩm chính của Microsoft là thành quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận sản xuất và nhóm nghiên cứu, tôi mong rằng điều này sẽ đóng góp vào sự phát triển chung trong những năm tới. Nhóm nghiên cứu Microsoft đang thực hiện một loại công nghệ cho phép các loại máy tính cá nhân có thể nhìn, nghe, nói và học tập nhằm giúp khách hàng có thể tương tác với máy tính tự nhiên giống như đang tương tác với con người thật sự.
Chúng tôi chọn Trung Quốc để thành lập trung tâm nghiên cứu đầu tiên của Microsoft ở châu Á vì nhận thấy nơi đây có rất nhiều nhân tài. Tôi từng có cơ hội được nói chuyện với các chuyên viên thiết kế trong chuyến thăm Trung Quốc gần đây và tôi luôn ấn tượng bởi phẩm chất và năng lực của những con người mà tôi gặp nơi đây.
Đó là một ngày tuyệt vời. Nathan Myhrvold cũng phát biểu ngắn gọn, bày tỏ quan điểm của mình về tầm quan trọng của công tác nghiên cứu cũng như nhu cầu phải tìm kiếm nhân tài cho Trung tâm. Harry Shum thì sững sờ khi nghe Rashid nói: “Tôi rất hân hạnh được công bố rằng nhà khoa học công nghệ Harry Shum cũng đã đồng ý gia nhập Trung tâm.” Shum nhớ lại: “Tôi quay sang Dan Ling và nói: ‘Đợi đã! Tôi đã đồng ý đâu!’” Nhưng Ling chỉ nhún vai và bảo Shum không nên lo lắng về điều này. Thực tế, Shum đã quyết định sẽ gia nhập Trung tâm, nhưng ông vẫn phân vân không biết mình có lựa chọn đúng không. Ông kể lại: “Kai-Fu cứ mỉm cười suốt ngày hôm ấy. Ông rất tự tin là tôi sẽ chấp nhận. Còn tôi lại không được tự tin như thế.”
Lee vô cùng hài lòng với số người tham dự là giới chính trị và giới hàn lâm. Ông nhấn mạnh, ở Trung Quốc, thậm chí là những quan chức chính phủ cấp cao cũng ít khi báo trước lịch của họ cho đến khoảng một tuần trước khi sự kiện xảy ra. Vì vậy, mặc
dù ông đã dành vài tuần cho việc gọi điện và in thiếp mời gửi cho từng người, ông vẫn không chắc chắn cho đến khi mọi người thật sự có mặt trong buổi lễ. Tuy nhiên, cuối cùng ông nói: “Chúng tôi đã mời được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Thông tin, Thứ trưởng Bộ Văn hóa và Phó chủ tịch của Viện Khoa học Trung Quốc. Những bài phát biểu của họ hứa hẹn rất nhiều điều tốt đẹp.”
Nhưng không phải tất cả các quan sát viên đều nghĩ như vậy. Hàng loạt những bài phát biểu và chào mừng của các quan chức chính phủ và viện sĩ hàn lâm đều khen ngợi Trung tâm Nghiên cứu, mặc dù hầu hết đều là những lời rất thận trọng. Yu Wei, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, từng là nghiên cứu sinh ở Đức ủng hộ rất nhiệt tình. Theo Wei, nền giáo dục Trung Quốc cần phải học tập rất nhiều từ các nước phương Tây. Wei cũng cam kết sẽ cộng tác với trung tâm nghiên cứu mới này, ông nói: “Khi người Trung Quốc đề cập đến nền kinh tế tri thức, họ sẽ nói đến cả Microsoft. Microsoft là một tập đoàn có ảnh hưởng lớn và Bill Gates là một thần tượng của giới trẻ Trung Quốc.”
Những người khác lại giữ ý hơn. Lilan Zhu, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, là người có chức vụ cao nhất trong số những quan chức nhà nước có mặt ở đây. Lăng Chí Quân kể lại: “Bà cho biết điều bà quan tâm nhất là nguyên tắc của Trung tâm Nghiên cứu Microsoft Trung Quốc: ‘Thiết lập một môi trường mở’. Bà cũng cho biết chính phủ Trung Quốc đánh giá cao những gì Microsoft đang làm. Bà không thể hiện bất kỳ sự thù địch nào, nhưng bà cũng không dành những lời khen ngợi nồng nhiệt. Ngay từ đầu, bà còn nói bà không chuẩn bị một bài phát biểu đầy đủ trong sự kiện này.”
Sau đó, Lee còn tranh luận với cả phiên dịch viên của mình về những lời phát biểu của Lilan Zhu mà ông cảm thấy như đang được khuyến khích. Ông cũng đồng ý với những tóm tắt của Lăng sau đó: “Ông Bạch Xuân Lễ, Phó chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc đã phát biểu: ‘Tôi hy vọng chúng ta sẽ tăng cường
hợp tác và cùng nhau hành động để phục vụ lợi ích con người.’ Những lời nói này không xúc phạm đến ai nhưng lại quá hời hợt và chỉ là hình thức chiếu lệ.”
Cũng cần phải nhắc đến sự vắng mặt của một vị quan chức quan trọng: Ngô Cơ Truyền, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thông tin (MII). Rashid và Lee đã có một chuyến thăm đặc biệt đến bộ này, trực tiếp đưa thiếp mời cho ông, nhưng kết quả đạt được chỉ là một lời chúc qua thông cáo báo chí và sự có mặt của hai quan chức cấp dưới của Ngô trong buổi lễ khai trương. Không ai trong hai vị khách kia phát biểu. Khi một phóng viên thắc mắc lý do, một trong hai quan chức này đã nói thẳng: “Đây là lần đầu MII có liên hệ với Microsoft nhưng cả hai bên chưa có một thỏa thuận nào. Sau đó, Microsoft đã thỏa thuận với Bộ Công nghệ Thông tin… Bộ Công nghệ Thông tin có những ý tưởng riêng của họ. Họ cho rằng việc hợp tác với Microsoft từ khía cạnh nghiên cứu khoa học, trong khi chúng tôi lại cho rằng đó là sự phát triển về công nghiệp nói chung.”
Câu nói đó được xem là một lời khiển trách. Mặc dù vậy, mọi thứ đều diễn ra tốt đẹp, ngày hôm đó là một thành công. Tuy nhiên, tuần sau đó thì Viện không được thành công như thế. Vài tờ báo thích thú với cơ hội được công kích Bill Gates và Microsoft. Một tít báo đã viết: “Kẻ giả nhân giả nghĩa”. Một tờ báo khác lại đưa tin Kai-Fu Lee đã nói với một nhân viên mới: “Anh may mắn lắm mới được làm việc cho Microsoft.” Còn tờ The Computer Life đã trích dẫn từ tờ Business Week lời một đối thủ của Microsoft: “Microsoft là kẻ dối trá. Họ luôn nói: ‘Chúng tôi không làm cái này, chúng tôi không làm cái kia.’ Nhưng sau đó thì chúng ta lại nhận ra rằng họ làm tất cả những việc đó!”
Trong vòng hai tuần sau, các nhân viên PR của Microsoft đã tính có tới 56 bài báo trong giới báo chí Trung Quốc viết về Trung tâm. Phần lớn là những bài viết rất tích cực. Nhưng cũng có những bài viết có ý xúc phạm. Lee nhăn mặt khi nhớ lại những bài viết đó: “Bởi vì báo chí Trung Quốc còn rất trẻ, nên có
khoảng 5% chỉ là những tờ báo nhỏ. Vì vậy, họ tìm mọi cách để thu hút sự chú ý, đánh bóng tên tuổi của mình. Có thể coi đây là thời gian khó khăn nhất của tôi. Tôi không hiểu sao sau tất cả những điều tốt đẹp mà chúng tôi đã làm, tại sao họ có thể nói những điều như vậy về chúng tôi?”
Trung Quốc quả thật vô cùng phức tạp. Lee luôn nghĩ đến việc phải tạo lập quan hệ với các quan chức chính phủ và các trường đại học. Khi trở lại văn phòng sau ngày lễ khai trương Trung tâm Nghiên cứu, ông bắt đầu ghi chép cá nhân về tất cả các vị quan chức đã tham dự buổi lễ. Với Lilan Zhu, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, ông viết: “Tôi thành thật tin rằng trong vài năm tới, chúng tôi sẽ cho bà thấy sự chân thành của Microsoft qua một đề tài nghiên cứu cụ thể và sẽ không làm bà phải thất vọng.” Tương tự, ông cũng viết những ghi chú đặc biệt cho Phó chủ tịch Bạch Xuân Lễ của Viện Khoa học Trung Quốc và tất nhiên là cả với Yu Wei.
Mặc dù rất buồn khi Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thông tin Ngô Cơ Truyền không đến dự, nhưng Lee không quên viết những dòng ghi nhớ về ông: “Sự thông thái, sự hiểu biết và tinh thông về ngành công nghiệp thông tin của ông đã gây ấn tượng rất lớn với tôi.”
Có thể, chứng minh sự chân thành không có nghĩa là bạn phải luôn thành thật.
3.
TỪ BẮC KINH ĐẾN BILL G.
Tháng 11 năm 1998 – Tháng 10 năm 1999
Đó là thời khắc mọi người nghĩ: “Được rồi, từ bây giờ chúng ta làm việc nghiêm túc!”
--KAI-FU LEE
M
ột trong những động cơ của Kai-Fu Lee khi mời các nhà nghiên cứu biết tiếng Trung từ các trụ sở Microsoft đến buổi lễ khai trương của Trung tâm Nghiên cứu là để
đem họ đến với đất nước Trung Quốc, nơi họ có thể giúp ông trong việc tuyển dụng và thuê nhân viên. Lee ra sức thuyết phục những người gốc Hoa ở Mỹ như Harry Shum, xếp lịch phỏng vấn những ứng viên tiềm năng cho thời gian vài tuần khi ông trở về Redmond và trong khi vắng mặt, ông phải nhờ đồng nghiệp ở Microsoft tổ chức tiệc tùng, khoản đãi. Tuy nhiên, để phát triển mạnh ở Trung Quốc, ông cần kết hợp những người kỳ cựu nổi tiếng với những nhà nghiên cứu từ các trường đại học hàng đầu trong nước. Đó chính là nơi những vị khách đặc biệt thường lui tới. Bắt đầu ngay trước buổi lễ khai trương và tiếp tục trong gần hai tuần sau đó,“người bên Phe xấu” Hsiao-Wuen Hon nhớ lại: “Kai-Fu đặt chúng tôi vào một lịch trình phỏng vấn không tưởng.”
Nhờ có những bài báo tích cực cộng với chuyến thăm các trường đại học ở Trung Quốc mà Lee đã thực hiện, Trung tâm đã nhận được gần 500 bộ hồ sơ ngay trong buổi lễ khai trương. Khi Lee cặm cụi làm việc với đống hồ sơ, Rick Rashid chỉ nhắc một điều: dù đưa người Trung Quốc từ Mỹ về hay thuê tài lực mới ở Trung
Quốc, dù gặp khó khăn thế nào thì Lee cũng không được hạ thấp tiêu chuẩn của mình. Ông nói: “Anh không thể thỏa hiệp.”
Giờ đây, Lee thường hỏi ý kiến những vị khách cao cấp nhằm giữ vững chất lượng của đội ngũ nhân viên. Nghĩ lại thời kỳ then chốt này, Lee cho rằng mình là một người tự tin nhưng luôn dè chừng cạm bẫy xung quanh. Trên nhiều phương diện, Trung Quốc là cơ hội của Lee. Về mặt tích cực, mỗi năm Trung Quốc đào tạo hơn 300 tiến sĩ khoa học máy tính, đó là chưa kể đến hàng chục nghìn sinh viên khoa học máy tính, ngoài ra mỗi năm ước tính có khoảng 10 nghìn nhân tài về nước sau thời gian du học. Tất cả những điều này cho thấy một cơ hội vô cùng lớn.
Một tin tốt nữa là Microsoft dường như đang đứng đầu trong lĩnh vực phát triển phần mềm. Sức cạnh tranh của các công ty trong nước về phần mềm còn rất yếu. Ngành công nghiệp máy tính ở Trung Quốc do các công ty Legend (Sau này là Levono), Beida Founder và Tsinghua Tongfang dẫn đầu. Các công ty này khá thành công trong việc tìm kiếm những cử nhân giỏi nhất, hầu hết là về phần cứng và kỹ thuật. Tuy nhiên, trong lĩnh vực phần mềm, họ không thể so với Microsoft, thậm chí còn không được coi là đối thủ xứng tầm. Ví dụ: năm 1998, khi Microsoft thành lập Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh, trong khi doanh số bán phần cứng ở Trung Quốc tăng 30% thì doanh số bán phần mềm giảm đúng 30%. Tình trạng vi phạm bản quyền, một hoạt động thương mại bất hợp pháp, dường như là đầu tiêu thụ chính của các sản phẩm phần mềm. Liên quan đến doanh số bán phần cứng, ngành công nghiệp phần mềm ở Trung Quốc vô cùng nhỏ bé so với hầu hết các nước khác − nó hầu như không tồn tại.
Một số công ty phương Tây đã tạo ra cạnh tranh. Năm 1994, Nortel thành lập một trung tâm nghiên cứu viễn thông. Đến năm 1995, IBM khai trương Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc ở Bắc Kinh. Chỉ riêng trong ngành công nghệ thông tin, Lucent,
Fujitsu, Intel, NEC, Ericsson và Hewlett-Packard đều triển khai các chi nhánh R&D nhỏ vào cùng một thời điểm với lễ khai trương Trung tâm Nghiên cứu Microsoft − tháng 11 năm 1998. Thậm chí nhiều chi nhánh được đặt ngay tại khu vực Trung Quan Thôn hay gần đó. Tuy nhiên, theo Nathan Myhrvold, hầu hết họ là chỉ dừng lại ở việc phát triển thị trường. Khi nhắc đến việc theo đuổi con đường nghiên cứu, phát hành miễn phí tạp chí chuyên ngành mang tính học thuật hay tham gia hợp tác học thuật quốc tế, thì chỉ có trung tâm IBM và trung tâm nghiên cứu mới thành lập của Intel mới có thể trở thành những đối thủ đáng gờm. Không một công ty nào có kế hoạch xây dựng tổ chức hoạt động lớn và tập trung chuyên sâu vào lĩnh vực phần mềm như Microsoft.
Tuy nhiên, mặc dù Bill Gates vẫn được coi là một doanh nhân tự lực và thành đạt trong thế giới công nghệ, Windows vẫn là hệ điều hành được ưa chuộng nhất ở Trung Quốc, thì vẫn còn nhiều người nghi ngờ gã khổng lồ của Seattle này. Một phần rắc rối về hình ảnh của nó xuất phát từ những hoạt động marketing quá sôi động và xuất hiện ở mọi nơi. Cùng lúc đó, một số tờ báo của Trung Quốc chĩa vào trung tâm nghiên cứu của Microsoft vì “ăn cắp” nhân tài quốc gia. Rick Rashid nhắc lại: “Vì chúng tôi là Microsoft, điều đầu tiên người ta hỏi chúng tôi là ‘Vì sao ông làm như thế?’ Điều mà người Trung Quốc quan tâm là, liệu có phải tập đoàn của Mỹ đến đây để đem nhân tài của họ ra khỏi Trung Quốc?”
Vấn đề ở đây là cả Microsoft và tin học nói chung đều chưa được các trường đào tạo khoa học máy tính quan tâm nhiều, tại đây các giáo sư nổi tiếng vẫn tập trung nghiên cứu máy tính trung tâm và siêu máy tính. Nathan Myhrvold nhớ lại: “Microsoft không có một tổng đại lý cho phòng khoa học máy tính bởi chúng tôi rất ít quan tâm đến máy tính.”
Trong những ngày đầu khai trương, Lee hăm hở lao vào thử thách này với sự hỗ trợ từ việc tăng thêm nhân công. Bắt đầu từ
trước buổi khai trương hai ngày và lại tiếp tục ngay sau ngày hôm đó, nhóm của ông đã phỏng vấn được gần 50 ứng viên xin việc. Nói chung, sinh viên tỏ ra cởi mở hơn so với giới báo chí và quan chức chính phủ. Một số thích thú và muốn thăm trung tâm nghiên cứu mới này dù họ không thật sự hiểu ý của Microsoft trong từ “nghiên cứu”. Một số đã nghe nói về Kai-Fu Lee và biết rằng tại Microsoft − dù hình ảnh công ty còn đang gây tranh cãi − họ sẽ có cơ hội làm công việc có ảnh hưởng đến hàng triệu người. Một sinh viên năm cuối trường Đại học Bắc Kinh nói: “Tất nhiên đó là một điều tốt cho Microsoft khi họ quyết định thành lập trung tâm nghiên cứu ở Trung Quốc. Tôi không quan tâm đó là công ty đế quốc hay không. Ít nhất, họ có phương pháp luận và kỹ năng quản lý tiến bộ.”
Phần lớn các cuộc phỏng vấn được tiến hành ở văn phòng kinh doanh thuộc tầng sáu − nơi đang trong thời gian hoàn thiện. Hsiao-Wuen Hon đã tạo nên một ngoại lệ cho các cuộc phỏng vấn. Ông bị đau lưng nặng do bưng vác quá nhiều thiết bị máy tính. Lee phải thuê thợ xoa bóp và chuyên gia chữa khớp xương tới phòng của Hsiao-Wuen Hon ở khách sạn. Hon nằm trên giường và trao đổi phỏng vấn qua điện thoại.
Lee còn nhờ những vị khách giúp ông trong việc tuyển dụng. Ông và George Chen − đến từ Redmond, giữ chức giám đốc quan hệ với trường đại học và tuyển dụng − đã cùng nhau lập ra danh sách 10 trường đại học hàng đầu Trung Quốc. Một công ty PR trong nước đã giúp họ sắp xếp các chuyến thăm. Không lâu sau buổi lễ khai trương, Lee chia đồng nghiệp thành mỗi nhóm hai người đến thăm những ngôi trường đó và “tuyên truyền” − như lời Harry Shum. Họ không có thời gian gửi sách giới thiệu về Trung tâm nên phải mang theo hàng trăm cuốn lên máy bay.
Chỉ khoảng một năm sau, các nhà nghiên cứu của Trung tâm Bắc Kinh được chính những ngôi trường ấy chào đón. Nhưng những ngày đầu vô cùng khó khăn. Đối với những Hoa kiều của Microsoft, Trung Quốc thật sự là một người khổng lồ đang say
ngủ. Theo Shum nhớ lại, thậm chí cả những trường đại học hàng đầu về công nghệ thông tin của đất nước này cũng “không ai biết Trung tâm Nghiên cứu Microsoft là gì”.
Thông thường, khi một diễn giả đến thăm một trường đại học Trung Quốc, họ sẽ được một giáo sư tiếp đón với tư cách là khách danh dự. Tuy nhiên, những vị khách từ Microsoft lại được tiếp đón vô cùng lạnh nhạt. Ngay trước buổi lễ khai trương của Trung tâm Bắc Kinh, Giám đốc điều hành Rick Rashid và Dan Ling tới thăm Đại học Thanh Hoa cùng với Chen và X. D. Huang. Chen đến trước và rất ngạc nhiên “không có ai tiếp đón cả”. Sinh viên ở đây cũng vô cùng lạnh nhạt, như Chen nói: “Phương tiện thông tin đại chúng đã khiến họ có những ấn tượng không tốt về Microsoft. Chỉ có các vị chủ tịch hoặc Bill Gates mới có thể đem cho họ niềm phấn khích.”
Mọi thứ không thay đổi nhiều khi các phái viên của Kai-Fu Lee đi khắp Trung Quốc ngay sau buổi lễ khai trương. Khi X. D. Huang và George Chen phát biểu xong ở Đại học Quốc phòng Hồ Nam, Trường Sa, họ không được mời dù chỉ là một bữa ăn.” Mang theo tất cả tài liệu thuyết trình và máy tính xách tay, ông và Chen bước đi vô định hơn một nửa giờ trước khi họ gọi taxi trở về khách sạn.
Harry Shum và Zicheng Liu còn có một chuyến thăm ngắn ngủi hơn tại Đại học Nam Kinh, khi mà “người tiếp đón” thậm chí còn không nghĩ đến việc giới thiệu họ với khán giả. Shum kể: “Tôi giới thiệu Zicheng và Zicheng giới thiệu tôi. Thậm chí không có người chỉ cho chúng tôi quán ăn ở chỗ nào.”
Sau đấy, Chen có chuyến đi một mình đến Đại học Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc. Ông muốn gặp Qian Zhang, nữ nghiên cứu sinh, tiến sĩ về trí thông minh nhân tạo, người có trí thông minh thiên phú để trở thành một trong những ngôi sao trẻ của Trung tâm. Zhang là người duy nhất từ Vũ Hán gửi hồ sơ đến
Microsoft. Chen đã bảo cô đến khách sạn ông ở để làm một bài kiểm tra ngắn.
Sau một tuần đi khắp nơi, nỗ lực của họ cũng được đền đáp xứng đáng khi các nhóm tuyển dụng đến thành phố Thượng Hải trù phú và năng động được chào đón trong những khán phòng chật kín người ở trường Đại học Giao thông Thượng Hải và Đại học Phúc Đán. Chen nói: “Mọi người không thể chen vào nữa vì quá đông.” Thành phố Thượng Hải có tri thức về công nghệ thông tin nên dễ cập nhật thông tin về Microsoft nhanh hơn tất cả những nơi khác ở Trung Quốc, kể cả Bắc Kinh. Thật may mắn khi dừng chân ở một nơi như thế.
Đến tháng 1, tốc độ làm việc trở nên chóng mặt vì số hồ sơ đến Trung tâm vượt quá con số 1.000 bộ. Thay đổi quan trọng nhất là sự xuất hiện của hai nhà nghiên cứu đầu tiên. Cả hai đều là siêu sao trong ngành vừa trở về nước từ Mỹ. Một người là Harry Shum, ông chính thức quyết định gia nhập Trung tâm. Người kia là Ya-Qin Zhang từ Phòng thí nghiệm Sarnoff ở Princeton, bang New Jersey. Ông được coi như là “đường phủ trên mặt bánh ngọt” của Kai-Fu Lee vậy.
Ya-Qin Zhang là một thần đồng, ông trở thành sinh viên trường Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc từ lúc mới 12 tuổi. Sau khi đến Mỹ làm luận án tiến sĩ, ông gia nhập Sarnoff (cha đẻ của máy thu hình hiện đại) và trở thành người đứng đầu một nhóm truyền thông đa phương tiện đẳng cấp thế giới, hoạt động trong lĩnh vực xử lý hình ảnh và truyền thông. Năm 1997, 31 tuổi, ông được coi là thành viên trẻ nhất trong lịch sử 100 năm của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers – Học viện Kỹ sư Điện và Điện tử) một tổ chức khoa học máy tính và kỹ thuật hàng đầu nước Mỹ. Một năm sau, ngay trước khi Kai-Fu Lee tuyển dụng ông, Zhang đã đạt danh hiệu Kỹ sư trẻ IEEE của năm. Bức thư chúc mừng của Tổng thống Bill Clinton được ông đóng khung và treo ở văn phòng làm việc.
Về Shum, ông cũng là một con người phi thường. Sinh ra và lớn lên ở Nam Kinh, ông đến học ở Học viện Công nghệ Nam Kinh (bây giờ là Đại học Đông Nam) khi mới 13 tuổi, sau đó tham gia một khóa đào tạo sau đại học về kỹ thuật điện và điện tử ở trường Đại học Hồng Kông. Tiếp đó, ông sang Mỹ làm luận án tiến sĩ ở CMU, dưới sự hướng dẫn của Raj Reddy và Katsushi Ikeuchi một người tiên phong về robot học và máy tính. Sau khi tốt nghiệp năm 1995, ông từ chối công việc giảng dạy ở CMU để gia nhập một công ty mới thành lập là Real Space ở Thung lũng Silicon. Một năm sau, Shum ký hợp đồng làm việc cho Trung tâm Nghiên cứu Microsoft ở Redmond. Với những thành tựu về hình ảnh và đồ họa, ông được biết đến như một ngôi sao mới nổi trong ngành. Lee hy vọng Trung tâm “tìm được thêm mười Harry Shum nữa ở Trung Quốc”.
Zhang và Shum đã gặp nhau vài lần. Thực ra, Shum đã dùng bữa với Zhang ở Redmond sau khi Kai-Fu đến Bắc Kinh.
Hoàn toàn do trùng hợp, Ya-Qin Zhang và Shum cùng đến Bắc Kinh vào một ngày – 15 tháng 1 năm 1999 – trên cùng một chuyến bay từ Tokyo. Họ gặp nhau tình cờ ở sân bay Narita và đã vô cùng ngạc nhiên về chuyến hành trình này. Hai người được sắp xếp ở trong một căn hộ hai phòng ngủ ở ngoại ô Bắc Kinh, gần nhà Kai-Fu Lee. Sáng hôm sau, Lee gõ cửa và nói: “Các cậu cần phải sửa sang lại một chút. Cả hai cậu phải đi cắt tóc ngay, vì các cậu sắp phải gặp phóng viên rồi.”
Loạt bài trong buổi họp báo ngày hôm đó đưa tin Zhang có thể là một cái tên nổi tiếng hơn cả Kai-Fu Lee. Một người xuất sắc hấp dẫn được người xuất sắc khác. George Chen lúc đó đang tới Đại học Giao thông Thượng Hải tìm thêm những ứng viên mới, giới thiệu kế hoạch mở một phòng thí nghiệm cấp quốc tế trong khoa học máy tính và đề cập tới truyền thông đa phương tiện như một lĩnh vực tiềm năng. Khi một sinh viên hoài nghi nói với ông: “Nhà khoa học xuất sắc nhất trong lĩnh vực này là Ya Qin Zhang. Nếu ông có được ông ấy, ông sẽ xây dựng được trung
tâm nghiên cứu tốt nhất.” Chen biết là Ya-Qin Zhang đang đến, nhưng vì chưa được công bố nên ông vẫn giữ yên lặng. Nhưng khi bức màn im lặng được dỡ bỏ, Zhang đã đem đến Trung tâm niềm tin lớn hơn, cả ở Trung Quốc và những người Trung Quốc ở Mỹ. Ông trở thành một thỏi nam châm có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhân tài trên toàn thế giới.
Ngay lập tức, Lee thông báo truyền thông đa phương tiện là lĩnh vực được tập trung nghiên cứu ở trung tâm, mở rộng so với bản đăng ký từ trước hầu như chỉ tập trung vào giao diện lời nói đời tiếp theo và xử lý tiếng Trung. Ya-Qin Zhang không biết điều đó, nhưng ông thúc đẩy Microsoft trong quá trình áp dụng truyền thông đa phương tiện vào điện thoại di động và các thiết bị di động khác – sẽ sớm trở thành một ngành kinh doanh riêng và là lĩnh vực tăng trưởng mạnh của Microsoft. Trong vòng vài năm, ông sẽ trở lại Redmond và điều hành hoạt động đó.
Sau khi Zhang và Shum đến, Lee đã tập trung nhiều người để thành lập một ban phỏng vấn độc lập. Ông phải đợi nhiều người đến giúp phân loại hồ sơ mà trung tâm vừa mới nhận được. George Chen nói: “Có quá nhiều hồ sơ, tôi không thể giải quyết hết được.” Tháng 1, Lee tiến hành thực hiện bài thi viết theo tiêu chuẩn đầu tiên để sàng lọc thí sinh. Bài thi này dễ hiểu hơn so với bài đã đưa cho Qian Zhang ở trường Đại học Vũ Hán, chỉ mất có hai giờ là hoàn thành xong.
Dựa vào kết quả bài kiểm tra, chỉ có khoảng 100 người được chọn vào vòng phỏng vấn. Trong hai tháng, hầu như ngày nào cũng có những gương mặt trẻ hồi hộp đến phỏng vấn tại Tòa nhà Sigma – ít nhất là 4, 5 người, có khi lên đến 20 người. Trong thời gian đầu, các cuộc phỏng vấn vẫn được tiến hành ở tầng sáu. Đến đầu tháng 2, phòng nghiên cứu chuyển xuống tầng năm, chiếm đến nửa tầng năm. Đây là “cơ sở” của trung tâm trong vài năm, cho đến khi quy mô của trung tâm tăng quá nhanh, cuối cùng chiếm cả tầng năm và sang cả những khu vực khác của tòa nhà.
Điều đáng chú ý nữa là trung tâm nghiên cứu này có đầy đủ thiết bị và chuyên nghiệp không kém bất kỳ phòng thí nghiệm về công nghệ thông tin nào ở phương Tây, có phòng hội nghị, thư viện, bếp ăn phục vụ miễn phí soda, nước quả, trà, cà phê và tất cả các loại phần cứng với phần mềm mà một nhà nghiên cứu mong ước. Lee cũng cho xếp rất nhiều bàn trà nhỏ trong khu vực phòng nghỉ của Trung tâm; mỗi mặt bàn là một chiếc bảng trắng có khe giữ thẻ ghi xung quanh mép bàn. Bằng cách đó, các nhà nghiên cứu có thể cùng bàn luận với nhau trong giờ nghỉ và viết nháp ý tưởng hay biểu đồ ngay trên bàn. Không giống như ở Redmond nơi mà mọi nhân viên nghiên cứu của Microsoft, dù mới hay cũ, đều có một phòng làm việc riêng có cửa sổ nhìn ra ngoài; ở Trung Quốc, chủ nghĩa quân bình như vậy dường như là điều không tưởng. Hầu hết đội ngũ nghiên cứu làm việc trong một cabin riêng, chỉ có các trưởng nhóm nghiên cứu và các thành viên quản trị mới có phòng làm việc riêng. Riêng Lee có hẳn một căn hộ sang trọng. Căn phòng này đẹp hơn phòng của Rick Rashid ở Redmond. Nói chung, đó là một nơi rất tuyệt để gây ấn tượng với những nhân viên mới.
Dù vậy, các cuộc phỏng vấn vẫn luôn làm cho tất cả ứng viên lẫn người phỏng vấn kiệt sức. Mỗi ứng viên đều được tám nhân viên của Microsoft phỏng vấn trong suốt một buổi kéo dài nhiều giờ. Những người dự tuyển diễn tả cảm giác bị chìm ngập vì bận rộn khi họ nhìn vào bảng kế hoạch làm việc mỗi ngày: hết cuộc phỏng vấn này đến cuộc phỏng vấn khác, thậm chí trong cả giờ ăn trưa. Đối với các vị giám đốc của Microsoft, họ cảm thấy dường như không có thời gian dành cho việc nghiên cứu, tất cả dồn vào việc gặp và chào mừng những người xin việc.
Các cuộc phỏng vấn đều bằng tiếng Trung phổ thông, nhưng đôi khi các giám đốc cũng kiểm tra tiếng Anh của các ứng viên. Họ chỉ hỏi những câu hỏi thông thường về lý lịch, lĩnh vực chuyên môn và về tham vọng trong tương lai. Nhưng Kai-Fu Lee không chỉ tìm kiếm những sinh viên xuất sắc và nổi bật. Ông muốn một người sáng tạo, tự tin, có khả năng làm việc nhóm và phải
chân thật một đức tính vô cùng quý giá. Để thấy được tất cả những điều trừu tượng này, nhóm làm việc Microsoft phải đưa ra rất nhiều câu hỏi đặc biệt. Những câu thường được hỏi là:
“Tại sao những cái nắp cống lại có hình tròn?”
“Anh (chị) hãy ước tính xem có bao nhiêu trạm xăng ở Bắc Kinh?”
“Điều gì xảy ra nếu bạn có ý kiến trái ngược với giáo viên của bạn?”
“Nếu tôi hỏi bạn một câu hỏi rất khó, bạn sẽ trả lời như thế nào?”
“Hãy đánh giá những giao diện sử dụng trong thang máy của Microsoft.”
“Có hai chiếc dây cáp kỳ lạ. Mỗi cái phải mất một giờ mới cháy hết. Anh (chị) hãy đốt hai sợi dây cáp đó trong vòng 45 phút.”
Và Lee đã tổng kết: “Các câu hỏi không cần thiết phải có câu trả lời đúng, nhưng chúng tôi sử dụng chúng để hiểu thí sinh nghĩ gì và suy nghĩ đó từ đâu mà có.” Chẳng hạn, một thí sinh đã bỏ qua tất cả câu hỏi, trừ câu thứ ba. Ở câu hỏi này, cậu ta kể cho người phỏng vấn nghe một câu chuyện về sự thất bại của người hướng dẫn khi không biết tận dụng đúng tài năng của cậu ta. Thí sinh này đã không hiểu được vấn đề.
Câu hỏi về việc “đốt cháy dây cáp” nhằm kiểm tra khả năng suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ của thí sinh. Câu hỏi này trở nên nổi tiếng đến nỗi các ứng viên đã đăng nó lên trang Web của trường Đại học Thanh Hoa. Các câu hỏi đều có nhiều cách giải quyết, nhưng điều mà các vị giám đốc của Microsoft thấy thích thú nhất là cách tiếp cận của ứng viên đối với câu hỏi, họ không quan tâm đến việc ứng viên đã được báo trước về câu hỏi hay không. Harry Shum thường hỏi: “Tại sao bạn lại chọn đề tài như
vậy cho luận án tiến sĩ?” Nếu ứng viên trả lời theo gợi ý của người hướng dẫn, và nhiều người đã trả lời như vậy, thì người đó sẽ nhận được điểm số rất thấp của Shum.
Khi các ứng viên đã vượt qua được thiên la địa võng những câu hỏi này, Lee mới đưa ra một chương trình chính thức. Ông viết một bản thông báo cho Trung tâm Nghiên cứu: “Sau khi mỗi thành viên kiểm tra xong một ứng viên, người này sẽ phải gửi email cho người phỏng vấn tiếp theo hỏi về ý kiến và quyết định của họ (phải tuyển, nên tuyển, có thể tuyển, tạm tuyển hay không tuyển), thông tin về những lĩnh vực mà họ đã hoàn toàn nắm bắt cũng như đề xuất hướng quyết định mà người phỏng vấn tiếp theo cần phải tìm hiểu.” Cuối cùng, bản tốc ký hoàn thành, trong đó các ứng viên được cho điểm theo mức độ từ 1 đến 5, 5 tương ứng với mức “phải tuyển” và thấp dần đến “không tuyển”.
Trong số 100 người được phỏng vấn từ năm 1999, Trung tâm đã tuyển thêm được 20 người; hầu hết đều đồng ý bắt đầu làm việc sau khi tốt nghiệp vào tháng 6. Thật sự, một số ứng viên xuất sắc nhất đã được chọn ngay từ vòng phỏng vấn đầu tiên.
Qian Zhang, cô gái đến từ trường Đại học Vũ Hán đã ngần ngại không dám bước vào phòng khách sạn của George Chen. Cô đã làm bài kiểm tra viết rất tốt, vì vậy cô được vào vòng phỏng vấn tiếp theo qua điện thoại. Zhang rất hồi hộp, Cô kể: “Đây là lần đầu tiên tôi trải qua một cuộc phỏng vấn kiểu này, tôi đã phải tự nhốt mình trong phòng và luyện tập thật sự nghiêm túc để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn.” Tuy nhiên, cuộc phỏng vấn bình thường hơn nhiều so với những gì cô tưởng. Ngay sau đó, cô sinh viên trường Vũ Hán nhanh chóng được gọi tới Bắc Kinh tham gia cuộc phỏng vấn kéo dài sáu giờ liền với các vị lãnh đạo Trung tâm. Zhang nói: “Tôi chỉ thấy kiệt sức.” Tuy nhiên, cô vẫn vô cùng thích thú với viễn cảnh được làm việc cho Trung tâm. “Tôi có cảm giác họ là những con người tuyệt vời và tôi có thể học được rất nhiều từ họ.”
Câu châm ngôn của Lee – và đó cũng là bài học mà Rick Rashid đã dành cho ông – là không được phép hạ thấp tiêu chuẩn của Trung tâm bằng việc đưa ra một lựa chọn thiếu rõ ràng. Vì vậy, một quyết định cá nhân của ban phỏng vấn bao giờ cũng phải được thông qua những người khác. Nhưng cô nữ sinh đến từ trường Vũ Hán, cô gái đầu tiên được phỏng vấn, đã chứng minh rằng mình là một ngoại lệ. “Hai người cho cô điểm 5, hai người còn lại cho cô điểm 1”, Ya-Qin Zhang nhớ lại: “Tôi và Kai-Fu Lee là hai người cho cô ấy điểm 5.”
Đối với Lee, chỉ cần thế là đủ. Chính ông đã gửi thông báo tuyển dụng cho Qian. Lúc đó, Qian Zhang cũng nhận được lời mời từ Bell Labs và IBM, cả hai đều có phòng nghiên cứu ở Bắc Kinh. Vì Microsoft mang tính chất của một trung tâm nghiên cứu hơn, cô đã tham gia vào nhóm Internet và truyền thông đa phương tiện của Zhang. Sau đó, cô trở thành quản lý của một dự án quan trọng về mạng không dây dành cho điện thoại di động. Ya-Qin Zhang khẳng định: “Cô ấy là một nhân viên tuyệt vời.”
Ngôi sao tiếp theo là Jian Wang mẫu người chăm chỉ và thân thiện. Wang sinh ra và học tập tại thành phố vườn Hàng Châu, cách khoảng 160km về phía tây nam Thượng Hải. Ông làm luận án tiến sĩ về tâm lý kỹ thuật – một lĩnh vực đặc biệt, nhờ đó, ông đã được đề cử làm bộ trưởng Bộ Giáo dục. “Là người đầu tiên và cũng có thể là người cuối cùng có bằng tiến sĩ kỹ thuật trong lĩnh vực tâm lý học” – Wang tự miêu tả về mình. Tuy nhiên, ông đã dựa vào nền tảng đó để trở thành một chuyên gia giao diện máy tính, đặc biệt là về thực tế ảo và đồ họa 3-D. Khi Trung tâm Nghiên cứu Bắc Kinh được thành lập, Wang đang là giảng viên Đại học Hàng Châu, một trong bốn trường đại học hợp nhất thành trường Đại học Chiết Giang trường đại học lớn nhất Trung Quốc năm 1998. Wang là giáo sư trẻ nhất từng làm trưởng khoa tâm lý ở đó.
Wang đã phải cân nhắc về một bước ngoặt quan trọng trong nghề nghiệp. Ông cảm thấy chán những hoạt động chính trị học
đường và muốn có một sự thay đổi trong con đường nghiên cứu. Ông quyết tâm rằng giao diện hình ảnh không gian thực mà ông đã theo đuổi cách đây 10 năm sẽ được thực hiện. Kai-Fu Lee gửi email cho Wang trước lễ khai trương Trung tâm nhưng ông đã từ chối. “Tôi không biết Kai Fu. Thậm chí tôi không biết gì về Microsoft Trung Quốc.” Lee gọi điện tiếp tục mời Wang đến dự buổi lễ khai trương, nhưng ông vẫn do dự. Vì vậy, khi đọc một bài báo tường thuật lại buổi lễ, ông thấy thích thú hơn. Sau đó, Lee lại gửi một email khác cho Wang – lần này trong thư có nói, nếu ông không có ý định tham gia Microsoft thì có thể làm cộng tác viên. Wang nói: “Vì vậy tôi trả lời rằng, tôi rất hân hạnh được gặp ông.”
Wang đến Trung tâm Sigma cuối năm 1998, trước khi Harry Shum và Ya-Qin Zhang đến trung tâm này. Lee và Wang đã có cuộc trò chuyện dài khoảng một giờ. Ngày hôm sau, Wang hứa là ông sẽ làm ở Trung tâm một vài tháng trong thời gian suy nghĩ. Ông nói: “Tôi là nhân viên nghiên cứu đầu tiên của tổ chức này, vì thế tôi rất tự hào về điều đó.” Wang chuyển đến vào tháng 3 và sau một chuyến đi sáu tháng, ông không bao giờ trở lại trường đại học nữa.
Còn có ba người nữa được tuyển dụng – hai trong số họ sống ở Mỹ đã xây dựng nên vị thế của trung tâm nghiên cứu mới. Nhân vật thứ nhất là Changning Huang, giảng viên trường Đại học Thanh Hoa, chuyên gia xử lý ngôn ngữ hàng đầu Trung Quốc. Ông đã 63 tuổi và là một nhân vật đáng kính. Lee nhớ đã hỏi ông: “Thưa Giáo sư Huang, tôi phải gọi giáo sư là gì?”
“À, nếu anh gọi tôi là Giáo sư Huang thì nghe có vẻ trịnh trọng quá, như vậy cũng không giống với Microsoft” ông trả lời. Phương án gọi ông bằng tên Trung Quốc bị loại bỏ vì việc gọi một người cao tuổi bằng tên trực tiếp bị xem là thiếu tôn trọng. Huang nói rằng khi ông theo Đạo Thiên chúa, ông có tên thánh là Tom. “Gọi tôi là Tom đi!” – ông nói.