🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Góc Nhìn Sử Việt – Hải Ngoại Kỷ Sự
Ebooks
Nhóm Zalo
GÓC NHÌN SỬ VIỆT - HẢI NGOẠI KỶ SỰ Tác giả: Thích Đại Sán
Thể loại: Nhân vật - Sự kiện
Nhà xuất bản: NXB Khoa Học Xã Hội Ebook: Cuibap
Text: Waka
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Mục lục
LỜI GIỚI THIỆU
TỦ SÁCH GÓC NHÌN SỬ VIỆT
QUY CÁCH BIÊN TẬP
LỜI GIỚI THIỆU TÁC PHẨM HẢI NGOẠI KỶ SỰ
BÀI TỰA CỦA ĐẠI VIỆT QUỐC VƯƠNG NGUYỄN PHÚC CHÂU BỔN SƯ HẢI NGOẠI KỶ SỰ TỰ.
BÀI TỰA CỦA NGÔ GIANG TỪ HOÀN.7
BÀI TỰA CỦA TẤN LĂNG MAO ĐOAN SĨ.
BÀI TỰA CỦA DŨNG GIANG CỪU TRIỆU NGAO22
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN I
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN II
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN III
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN IV
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN V
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN VI
BÀI KHẢO CỨU HẢI NGOẠI KỶ SỰ
I.
NGÀY THÁNG XUẤT BẢN SÁCH HẢI NGOẠI KỶ SỰ VÀ NỘI DUNG CỦA SÁCH
II.
TIỂU SỬ CỦA THÍCH ĐẠI SÁN
III.
CUỘC DU HÀNH QUẢNG NAM CỦA THÍCH ĐẠI SÁN PHỤ KHẢO
TỦ SÁCH ALPHA DI SẢN - GÓC NHÌN SỬ VIỆT
LỜI GIỚI THIỆU
TỦ SÁCH GÓC NHÌN SỬ VIỆT
ạn đọc thân mến!
Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước.
Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù gây tranh cãi - tạo nên lịch sử đó.
Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu
lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.
Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.
Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản.
Cuốn sách này được viết bằng Hán văn vào Thế kỷ XVII bởi một nhà sư Trung Hoa và được Ủy ban phiên dịch Sử liệu Việt Nam dịch và xuất bản năm 1963. Từ góc nhìn, quan sát của nhà sư vào thời đó hẳn sẽ có nhiều thông tin không còn chính xác so với thời điểm hiện tại và những phát hiện mới của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên trân trọng công sức của tác giả và nhóm dịch giả, chúng tôi xin phép tái bản cuốn sách này như một tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu.
Công ty CP Sách Alpha
QUY CÁCH BIÊN TẬP
ủ sách “Góc nhìn sử Việt” ra đời, mục đích giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm hay, có giá trị, đồng thời góp phần bảo lưu gìn giữ những giá trị văn hóa của đất nước.
Để thực hiện bộ sách này, chúng tôi tuân thủ một số quy cách sau:
Bảo toàn văn phong, nội dung nguyên gốc, từ ngữ mang đậm văn hóa vùng miền trong tác phẩm (trừ khẩu âm). Biên tập đối chiếu trên bản gốc sưu tầm được và có ghi rõ tái bản trên bản năm nào.
Chú thích từ ngữ cổ, từ Hán Việt.
Tra cứu bổ sung thông tin: tiểu dẫn, tiểu sử, sự kiện, nhân vật, phụ lục (nếu cần thiết)...
Sửa lỗi chính tả trong bản gốc.
Giản lược gạch nối từ ghép, khôi phục từ Việt hóa tiếng nước ngoài khi có đủ tài liệu tra cứu tin cậy (trừ trường hợp từ ngữ đó đã dịch thành thuần Việt).
Trường hợp thông tin lịch sử trong sách có sai lệch so với chính sử, chúng tôi sẽ chú thích hoặc đăng phụ lục ở cuối sách. Một số hình ảnh trong sách gốc bị mờ, chất lượng kém… chúng tôi sẽ đăng bổ sung - thay thế các hình ảnh có nội dung tương tự, chất lượng tốt (nếu có).
Mong đón nhận những ý kiến đóng góp của độc giả, hỗ trợ chúng tôi hoàn thiện tủ sách này.
Alpha Books
LỜI GIỚI THIỆU TÁC PHẨM HẢI NGOẠI KỶ SỰ
ồng thời với việc nghiên cứu các Châu bản triều Nguyễn và công bố những tập trích yếu về đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị..., Ủy ban Phiên dịch Sử liệu của Viện
Đại học Huế vẫn tiếp tục phiên dịch các sử liệu giá trị. Ủy ban đã cho xuất bản bộ An Nam chí lược của Lê Tắc, và đã được sử giới cùng học giới hoan nghênh. Nay với bộ Hải ngoại kỷ sự của Đại Sán Hán Ông, Ủy ban muốn cống hiến độc giả một đoạn phim hiếm có về đời sống của người Việt Nam ở vùng Thuận Hóa vào cuối thế kỷ XVII do một vị lão tăng Trung Quốc ghi lại. Vị lão tăng này, tức là Đại Sán Hán Ông, đã qua Thuận Hóa, thể theo lời mời của Chúa Nguyễn Phúc Châu, ở tại chùa Thiền Lâm (An Cựu, Thừa Thiên) và đã thuật lại trong một bản văn do chính Chúa đề tựa về cuộc hành trình đầy nguy hiểm của Đại Sán từ Quảng Đông đến Thuận Hóa, với các việc Đại Sán đã tai nghe mắt thấy trong thời lưu lại Nam Hà.
Đại Sán đến đất Thần kinh1 vào ngày 29 tháng Giêng năm Ất Hợi (tức là ngày 13 tháng Ba năm 1695) và đến ngày 28 tháng Sáu năm đó (tức là ngày 7 tháng Tám) mới rời Thiền Lâm để vào Hội An về Quảng Đông. Tại Hội An tàu bị trở gió và Đại Sán bị đau ốm, nên phải hoãn cuộc hành trình. Đại Sán ra Thuận Hóa lần nữa vào ngày 16 tháng Mười (tức là ngày 22 tháng Mười một). Lần này Đại Sán trở ra Thuận Hóa lưu trú tại chùa Thiên Mụ, rồi vào cuối hạ tuần tháng Sáu năm sau mới về Trung Quốc.
Đọc Hải ngoại kỷ sự của Đại Sán, chúng ta sẽ thấy được lòng sùng mộ Phật giáo của người thời bấy giờ, kể từ Chúa thượng đến thần dân. Chẳng những thế, chúng ta còn có một ý kiến rõ về đời sống của dân đen, về thuế má, về bệnh dịch. Một điều quý nữa, đó là Đại Sán vén màn cho chúng ta thấy được
đôi chút về trình độ trí thức của các bậc túc nho thời bấy giờ ở miền Nam. Nói chung, Hải ngoại kỷ sự là một sử liệu quý và đáng tin cậy. Mặc dầu Đại Sán có vẻ tự phụ và, vì đó, tỏ ra quá nghiêm nhặt trong khi phê phán phong tục Nam Hà, nhưng các điều Đại Sán ghi lại về văn hóa, xã hội, tôn giáo, đều là những sự kiện nghe thấy bởi tai mắt một người có tài quan sát.
Bộ Hải ngoại kỷ sự đã được Giáo sư Trần Kinh Hòa giới thiệu trong một bài khảo cứu bằng Hán văn, chép rất công phu. Giáo sư cho chúng tôi biết nhiều điều về bộ sách, cũng như về thân thế và sự nghiệp của Đại Sán, nhờ đó chúng ta càng hiểu rõ lời của Đại Sán hơn. Chỉ một điều nên lưu ý là Giáo sư thường dùng tiếng Quảng Nam để chỉ địa điểm của cuộc hành trình được thuật lại. Thực ra, mục đích của cuộc hành trình đó không phải Quảng Nam, mà Thuận Hóa. Đáng lẽ phải nói Nam Hà thay vì Quảng Nam. Các học giả Trung Quốc thời trước cũng có kẻ lầm Nam Hà với Quảng Nam như thế, vì họ dựa vào lời của các thương gia hay đi lại buôn bán ở Hội An. Ngoài ghi nhận đó, bài khảo cứu của Giáo sư thật là giá trị và bổ ích.
Mong rằng bộ Hải ngoại kỷ sự này cũng giúp đỡ nhiều cho sử gia và học giả như bộ An Nam chí lược.
Linh mục Cao Văn Luận
Viện trưởng Viện Đại học Huế, Việt Nam
Mùa đông năm 1962
BÀI TỰA CỦA ĐẠI VIỆT QUỐC VƯƠNG NGUYỄN PHÚC CHÂU BỔN SƯ HẢI NGOẠI KỶ SỰ TỰ.
ước Đại Việt nhỏ nhoi, tựa núi day2 mặt ra biển, phá rừng bụi, đuổi hùm voi để định chỗ ở, trải nay đã 13 đời. Quả nhơn3 ngu tối, tuổi trẻ nối ngôi, chỉ e giềng mối
nghiêng đổ, để thẹn cho người trước; hằng ngày cùng vài ba thần hạ, bàn luận đạo trị nước an dân; đã bao năm lo sắp đặt nội trị, ngoại an, nhưng chính lệnh vẫn chưa sửa sang, nhân dân vẫn chưa no ấm, ấy là tội lớn của quả nhơn vậy.
Gần đây, xét đọc sách xưa, biết rằng đạo trị nước lấy “được người” làm cốt yếu. Nhà Tần được Bách Lý Hề ở nước Ngu, nhà Tấn được Do Dư ở nước Nhung, được Phi Báo, Công Tôn Chi ở nước Sở, đều lập nên nghiệp bá. Dùng được kẻ hiền thì nước trị, lẽ dĩ nhiên từ xưa, nhưng quả nhơn ngày nay, cảnh ngộ lại rất khó. Quả nhơn không tiếc tước lộc, không hà tiện áo mão cân đai, hầu hết thảo dã4 hiền tài đã vui lòng ra giúp. Ngặt vì nhơn tài xứ này, sinh nơi biên viễn, nghe thấy hẹp hòi, dùng làm chức nọ quan kia, may cũng làm tròn nhiệm vụ; còn như cầu người đạo cao đức trọng, đủ tài kinh luân, lời nói việc làm, khá nêu sư pháp cho muôn thuở, những bậc “đại hữu vi”5 như thế, trừ phi Trung Hoa, quê hương của Thánh hiền Phật Tổ, ắt chẳng nơi nào có vậy. Theo lẽ, vời kẻ hiền chẳng vượt ra ngoài quốc cảnh, mà Trung Hoa - Đại Việt, nơi ở lại cách xa nhau, nếu chẳng phải kẻ có kiến thức siêu phàm, chẳng bị lưới đời ràng buộc, thì làm sao mời được. Than ôi, cầu được kẻ hiền đã khó, cầu được bậc thầy lại càng khó. Trường Thọ6 Bản sư lão hòa thượng, ta từ ngày đương ở sừ vị (đương làm thế tử) đã nhiều năm ngưỡng mộ; Tiên vương (tức Nghĩa vương) đưa thư rước mời hai lần không qua. Mùa thu năm Giáp Tuất, ta muốn thụ Bồ Tát giới pháp, nối chí Tiên vương sai người qua rước, may
được hòa thượng nhận lời. Từ mùa xuân năm Ất Hợi, hòa thượng qua đến nơi, lưu lại đến mùa hạ năm Bính Tý, được gần gũi hôm sớm, cung dưỡng chuyện trò; sau những lúc giảng luận thiền kinh, còn chỉ vẽ luân thường cương kỷ từ việc lớn đến việc nhỏ, rạch đường chỉ nẻo, lời lẽ rõ ràng; khác nào dắt người từ trong chỗ tối tăm, đem ra nơi thanh thiên bạch nhật giúp ích cho quả nhơn trong việc chính trị nhiều biết chừng nào.
Hòa thượng trích lục một hai việc, chép ra thành sách, nhan đề Hải ngoại kỷ sự; lúc trở thuyền về nước đưa cho ta xem và khiến ta viết bài tựa. Tự xét học hành ít ỏi, dám đâu cầm bút viết văn; hoặc giả, vì sách chép việc nước ngoài, lạ lùng tai mắt, sợ độc giả nghi là hoang đường, nên muốn ta chứng thực một đôi lời, hầu được phụ chép sau kiệt tác của đại hiền vậy. Còn về phần Phật pháp văn chương, tài tình đạo đức, thầy ta khai hóa hơn 30 năm, viết sách hơn 20 loại, lưu hành đã lâu, đã có định giá, lời tán dương của ta, nào có tăng ích được gì đâu. Tuy nhiên, đại thiên thế giới, bụi tro hạt cát đều do biến hương thủy kết thành; trong những ngày quả nhơn cùng với lão hòa thượng ngao du trong hương thủy Hoa nghiêm, thì chẳng có gì phân biệt nội ngoại. Nay đã cùng nhau cách xa đại hải, ở Quảng Đông mà chép việc Đại Việt, thì gọi là Hải ngoại kỷ sự cũng đúng lắm rồi.
Giáp Tý (1696), bồ nguyệt (tháng Năm),
Đại Việt quốc vương Nguyễn Phúc Châu,
thụ Bồ Tát giới đệ tử, Pháp danh Hưng Long,
Kính lễ viết tại Tĩnh danh phương trượng
ở Tây cung Giác vương Nội viện.
BÀI TỰA CỦA NGÔ GIANG TỪ HOÀN.7
hoảng mùa xuân năm Giáp Tý, ta được nghỉ việc về phương nam, qua núi La Phù8 hái thuốc, nghỉ chân tại thành Ngũ Dương9; lần đầu được gặp Thạch công hòa
thượng tại một khách tọa, trong lúc nói chuyện, nghe lời nói thanh cao, khí tượng hùng vĩ, dồi dào tỏ ra sắc mặt; nghĩ bụng chắc là một dị nhơn, vì một cớ gì muốn lánh mình trong cửa Phật vậy. Phút chốc mười lăm năm qua, trở lại Châu Giang lần thứ hai, nghe nói có vị thiền sư mới từ nước cổ An Nam hải ngoại trở về, quốc vương nước ấy thụ giới làm đệ tử, bố thí rất nhiều tiền bạc.
Thiền sư đem về xây cất bửu các ở phía tây Việt Tú sơn, hiên lồng bóng nhật, nóc vút tầng mây, tiếp liên điện ngọc cung châu, rực rỡ Tung khâu, Lan nhã (nhà chùa), chẳng khác quỳnh lâu ngọc vũ trong chốn động tiên vậy. Nhơn than rằng: Cấp cô hóa lạc10, hiện lai nhơn gian, nhưng nếu Thiên thân Bồ Tát chẳng ra đời, thì lấy ai diễn giảng “Tam xa”11 để gây mầm tốt Phật giáo cho Chấn Đán12. Bèn chống gậy đến chùa, hỏi thăm cho biết. Người ra đón tiếp, chính là Thạch hòa thượng ngày xưa! Mừng mặt bắt tay, cùng nhau trò chuyện việc mười lăm năm qua, khác nào Thượng Nguyên13 Phu nhơn gặp bà Ma Cô14 nói chuyện Bồng lai nước cạn vậy. Hòa thượng nhơn lấy ra tập Hải ngoại kỷ sự và các tập khác đưa tôi xem. Văn chương lưu loát, như sấm vang chớp nhoáng, như núi chuyển biển reo, có lúc như cánh hồng bay vút tầng mây, có lúc như gió bão reo vang rừng trúc; thơ luật thì thanh tân uẩn súc, hùng hồn ly kỳ, khiến người không còn chỗ nào có thể chỉ trích; có lẽ nhờ đi ra hải ngoại, nghe thấy được thêm mở mang, nên văn khí ngày nay hùng bác khôi kỳ, so với ngày xưa còn hơn xa vậy.
Ta già rồi, từ ngày lui về điền viên đến nay, tiều tụy cô
ngâm; bao nhiêu thắng tình cuồng tứ ngày xưa, tiêu tan hầu hết. Ve sầu khiếp gió, bỗng nghe loan phượng vang reo; giọng tốt vần thanh, chỉ biết cúi đầu khen ngợi. Cho hay trong vũ trụ những bậc thiên sư cao sĩ, khác hẳn bọn tu hành khô khan; văn chương của các ngài, so với bọn lưng lừa lựa chữ15, giọng văn như tiếng rế kêu sầu, khác nhau chẳng biết chừng nào mà nói.
BÀI TỰA CỦA TẤN LĂNG MAO ĐOAN SĨ.
ớn mà hóa gọi là “Thánh”, thần mà sáng gọi là “Kỳ”. Những bậc anh sĩ phi thường trong thiên hạ, tùy theo xử cảnh của mình mà tỏ ra kỳ; hoặc kẻ anh hùng áo vải,
hoặc kẻ đạo sĩ mão vàng, địa vị khác nhau, việc làm khác nhau, nhưng hễ làm đến tột bậc thì đều gọi là “Kỳ” cả.
Đương lúc việc chưa thành, danh chưa lập, mà việc làm lời nói khác lạ hơn đời, kẻ tục tử dung phu, đi theo dòm hành và dị nghị; đến lúc việc đã thành, danh đã lập, cũng còn có kẻ dị nghị, cho là khác tục trái đời; đó chẳng qua vì những kẻ không “Kỳ” lại muốn khoe lòe cái “Kỳ” của mình; muốn khoe lòe cái “Kỳ” mà sự thực không “Kỳ”, lại kinh ngạc cái “Kỳ” của người khác, rồi sinh lòng nghi kỵ; bởi thế làm dung phu tục tử dễ, mà làm kỳ nhơn hơn đời thực khó lắm vậy. Hán Ông hòa thượng mới sinh ra đã “Kỳ” rồi, tuổi trẻ xuất gia, học hết ngũ minh16 chư luận, thông hiểu lý số âm dương, châu du thiên hạ, tiếng tăm đầy rẫy khắp trong ngoài; đến lúc cưỡi gió vượt sóng đáp ứng lời mời của Đại Việt quốc vương; những nơi trải qua, nào là sơn xuyên hình thế, phong thổ tập tục, đều ghi chép rõ ràng; cao đàm hùng luận, tỏ ra có kinh luân đại tài; đề vịnh văn thơ, thảy đều thanh cao hoa lệ; góp hết tinh vi tam giáo, làm nên kiệt tác một nhà, thực là một kỳ quan trong biển học vậy. Kỳ nhơn mới có kỳ văn, đã có kỳ văn, ắt phải có kỳ sự; hòa thượng tha cho Thần Long miễn chầu và sai khiến quỷ thần ủng hộ, ấy là khai đoan của kỳ sự vậy; cho đến việc sai gió khiến mưa, cảm thông trời đất, như Quảng Minh đại sĩ thác mà vẫn sống, kẻ thức giả cho đó là viên thông diệu khế17, phảng phất với tam muội18 chính giác của Bửu Chí, Đàm Siêu, Phong Can, Đỗ Trừng19; kẻ dốt nát thì cho đó là việc quái đản rồi đua nhau chỉ trích dị nghị om sòm. Nhưng biết đâu “đáy bát sinh rồng, trong
miệng phóng ra hào quang”20, đời vẫn có sự kỳ lạ như thế; khi chưa thấy đáy bát sinh rồng, trong miệng phóng ra hào quang, chẳng nói làm gì; đến lúc rồng đã sinh ra ở đáy bát, hào quang đã phun ra từ trong miệng, đó là do pháp lực cao cường, mới biến hóa được như vậy, thế mà còn cho là quái đản, rồi ngạc nhiên kinh dị, có phải vì không biết sự huyền diệu của đạo viên thông mà ra không. Tôn Đăng21 có nói: “Lửa sinh ra tức có sáng, nhưng chẳng dùng sáng”. Nếu quả dùng sáng, thì cái “kỳ” của hòa thượng, tức cái sáng của hòa thượng vậy. Hãy xem lúc hòa thượng đi thuyền vượt biển, sóng lặng gió yên, có chim thần dẫn đường, cá dữ xa lánh, ấy cũng do hòa thượng dùng sáng vậy; nhưng người thường hốt hoảng, hòa thượng lại tự nhiên, thì hòa thượng quả đã dùng sáng chăng? Nay thử đem tập Hải ngoại kỷ sự ra bàn, tập sách ấy không có vẻ khô khan, cũng không có vẻ yêm bác, biểu dương trung hiếu tiết nghĩa, đều những lời nói có bổ ích cho thế đạo nhân tâm, chính đại quang minh, chẳng khác gì cái học nguồn gốc của đạo nho ta vậy. Bởi thế cảm hóa được người dị quốc, khiến quy thuận với thiên triều; lấy kỷ cương Trung Hoa, biến đổi tập tục xứ lạ; đem vàng nước người, về xây dựng cảnh chùa bất hủ; khoan thai đường hoàng, giữ lòng ngay thẳng; đường đường chính chính, chẳng dối người cũng chẳng tùy người; há chẳng phải dùng “kỳ” mà chẳng lỗi với “chánh”, viên thông mà chẳng quái đản hay sao. Ta vì thế phục sự “dụng kỳ” của hòa thượng thực thần minh khôn lường.
BÀI TỰA CỦA DŨNG GIANG CỪU TRIỆU NGAO22
ừ xưa các bậc danh nhơn, trong lúc ngao du sơn thủy, thường hay vịnh cảnh đề thơ; hoặc bằng tuyệt cú, hoặc bằng trường thiên, tuy thể chế khác nhau, đều cốt để
hình dung cái tốt đẹp của cảnh vật. Tử Hậu23qua chơi Liễu Châu, không làm thơ nhưng có làm kỷ sự; Thiều Lăng24 đi vào Ba Thục, không làm kỷ sự nhưng lại có làm thơ; hoặc ký hoặc thơ, đều là những bài tả chân tuyệt diệu. Ta đọc tập Hải ngoại kỷ sự của Thạch hòa thượng mừng thấy sách gồm cả cái hay của hai nhà văn hào nói trên và chứa đựng rất nhiều lời lẽ kinh bang tế thế; sơn xuyên hình thắng, phong thổ tập tục, đều ghi chép tỉ mỉ từng việc, có quy cũ rõ ràng; chẳng phải luống bày đặt phô trương, để khoe những lạ lùng của ngoại quốc vậy. Trong khoảng vài tháng, trải qua hai muôn dặm tuyệt vực, thù ứng phân phiền, vãng lai bận rộn, thế mà Thạch công ung dung đàm tiếu, viết ra mấy ngàn vạn lời. Khí trùm biển cả, bút lay non cao, nếu chẳng phải sẵn có đại tài văn chương, làm sao lanh lẹ thần diệu được như thế. Vả lại, ông đi đến đâu cũng tuyên dương đức hóa của Thánh thiên tử (Thanh triều), khiến những nước chưa từng tiếp xúc vương đình, cũng đều quy tâm hướng hóa. Ông muốn lấy kỷ cương Trung Quốc, biến đổi tập tục viễn phương, ấy tức là lòng “nhất thị đồng nhơn”, xem bốn biển như anh em của thánh hiền vậy. Sách này lưu truyền vũ trụ, có thể bổ khuyết cho những điều mà các sách Sơn kinh, Hải chí, Chức phương ký, Vương hội đồ chưa từng nói đến. Ví khiến tay kinh luân như Thạch công được thử tài một phen, thì công nghiệp của những kẻ “xưng bá Phù Dư25, mở đất Nhật Bản26”, cũng chẳng thấm vào đâu vậy. Than ôi, hòa thượng đã già rồi! Ôm tài thông hiểu thiên nhơn, nuôi chí kinh bang tế thế, phát nguyện Bồ Tát, ẩn giấu thiền lâm, sau những lúc vui
đạo tu hành, mượn văn chương để giãi bày tâm chí, nhơn đó cũng có thể tưởng thấy khí khái trác lạc phi thường của hòa thượng vậy.
Khang Hy Kỷ Mão mạnh xuân (1699),
Dũng Giang Cừu Triệu Ngao đề tại Đoan Châu lữ thứ.
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN I
ùa xuân năm Giáp Tuất, (Khang Hy thứ 33, 1694), ta tính đi lên phương Bắc, vì có lệnh gọi của bề trên; tuyển lựa tôi tớ, sửa soạn hành lý, định đến đầu tháng
Hai, ngày tốt, sẽ khởi hành. Kế phát đau bệnh dạ dày. Nhơn nghĩ, hiện nay xây cất nhà ở, gác kinh, công tác đương bề bộn; biên tập bộ Đăng đãi 100 quyển, hiệu đính chưa xong; hãy tạm lấy cớ đương đau, hoãn việc đi phương bắc. Thương lượng với các người đương sự, nhờ kiếm lời từ chối. Được tạm nghỉ, bèn đóng cửa tạ khách, vui thú quyển kinh câu kệ, hoặc tưới hoa trồng cây; hôm sớm tiêu dao, hầu tránh phong trần phiền não. Bước qua ngày mùng 4 tháng Tám, tri khách gõ cửa bảo có sứ nhơn nước Đại Việt đến. Mời vào ra mắt, sứ nhơn người tỉnh Mân (Phúc Kiến), tay nâng phong thư giấy vàng, rất kính cẩn lạy dâng lễ vật, các thứ vàng nam, sông hoa (hoa đằng, thứ mây song có hoa), lụa vàng, kỳ nam; đoạn quỳ gối thưa rằng: “Đại Việt quốc vương ngưỡng mộ lão hòa thượng đã lâu năm, ngày nay đốt hương xa lạy, dâng phong thư trước tòa Sư tử, cúi cầu Đạo giá lai lâm; nếu được nhận lời, là phước lớn cho hạ quốc vậy”. Hưng Liên tự Quả Hoằng, người nối dòng tu của ta, được quốc vương phong làm quốc sư, cũng có gởi kèm thư riêng. Kể từ Tiền vương (tức Nghĩa vương) có thư mời, đến nay cả thảy ba lần, mời đến ba lần tưởng cũng đã thành tâm lắm vậy. Ta nay chưa đi phương bắc, nhơn còn nhàn rỗi, sao chẳng rong chơi hải ngoại cho được mới mẻ tai mắt; hoặc giả sơn xuyên, phong thổ, nhơn vật, còn nhiều mới lạ ngoài sự nghe thấy tầm thường của ta chăng.
Cuối tháng Chạp, tuyên cáo hành trình với các nhà quan
thân đương cục và bạn bè làng thơ. Kế đến ra Giêng, kẻ tiễn người đưa, kẻ biếu quà, người cho vật dụng, rồi thì, chúc lên đường mạnh giỏi, đưa thơ ca tặng hành, tấp nập từ sớm đến chiều chẳng lúc nào rảnh. Định đi lần thứ nhất, đình lại; qua lần thứ hai, cũng lại đình; lần lữa đến lần thứ ba mới quyết định. Đêm Thượng nguyên (15 tháng Giêng năm Ất Hợi, Khang Hy thứ 34, tức 27-2-1695 dương lịch) lên đò từ bến tây, đã có tàu biển chờ sẵn ở Hoàng Phố.
Đêm ấy nước ròng bến cạn, mấy mươi người dắt đò, mãi không ra đến Châu Giang. Ngồi trên đò “Dưa hấu”, cùng đồ đệ bày trà quả cơm bánh ra ăn bữa tối. Trời mưa lay phay, dội vào hai chậu mẫu đơn đặt trước mũi thuyền, mỗi chậu có vài mươi đóa hoa chớm nở; xảy lúc ấy, trước gió, cách sông, có người tựa lầu thổi ống địch; sực nhớ chuyện cũ Khai Nguyên, trong khi Huyền Tông đối diện Dương Quý Phi, uống rượu bồ đào, đặt khúc hát mới, làm cho tiệc vui được thêm phần tươi đẹp. Nay danh hoa lìa nước, lòng hoa ủ buồn, há không một lời nào để yên ủi hoa sao! Nhơn bắt chước Thanh bình điệu của Lý Bạch làm thành ba bài tuyệt cú như sau:
Bài thứ 1
Trỗi khúc xuân ca hứng chửa tàn,
Hương trời lạnh lẽo luống riêng than.
Nhìn hoa, nhân thế nhường trong mộng,
Ai kẻ đêm trường thức hỏi han?
Bài thứ 2
Mây mưa che khuất bóng trăng rằm,
Tựa gối nhìn hoa, lắng sóng gầm.
Bể thẳm muôn trùng ai dễ vượt,
Một cành bầu bạn bước xa xăm.
Bài thứ 3
Ngày xuân trăm thức thảy đua tươi,
Thượng uyển xưng vương chỉ một ngươi.
Nam quốc ngày nay khoe sắc thắm,
Tiếng thơm lừng lẫy nước non người.
Qua canh hai, nước lên, đò ra Châu Giang thẳng dòng đến bến Địch Lâu phía đông đậu lại. Gà gáy, nước ròng, đò thả nước xuôi đi xuống. Rạng sáng đến Hoàng Phố. Núi thấp dần, biển rộng dần, thăm thẳm xa trông, thấy chiếc tàu biển đương nhấp nhô trong khoảng mênh mông sóng nước. Một lát bạn thuyền dọn cơm sáng. Chiếc đò mui (lâu thuyền) này, trước ta thường ngồi đi lại trên Đoan Giang, kềnh càng đã lấy làm lớn lắm, nhưng nay đậu cặp bên tàu biển (Đồng Mông), ngửa mặt trông lên, phải bắc thang mới lên được, thì hóa ra quá nhỏ nhoi! Ta quay lại bảo các đệ tử rằng: “Phàm vật chớ nên tự tôn tự đại, những người muốn xưng tôn ở nơi không Phật, có xem đây mà tỉnh ngộ lại chăng”.
Trên thuyền bốn năm trăm người, hàng hóa ngổn ngang, tăng chúng đi theo ta hơn 50, hành lý cũng bộn. Các người chủ thuyền nhìn nhau không biết sắp đặt cách nào, định bớt khách hàng trở lui Dương Thành27, ta cũng bớt lại phân nửa tăng chúng hành lý, cho theo hai thuyền đi sau, bàn cãi một chặp lâu mới quyết định. Chuyển dọn hàng hóa lên xuống, người nói lao nhao, diễn thành một quang cảnh rộn rịp. Chia dọn bốn khoang buồng, khoang rộng chứa 5, 6 người khách, hẹp cũng 3, 4 người, còn bao nhiêu đều ngồi ngoài trời.
Quá ngọ, khai thuyền. Gió xuôi nước thuận, có hai thuyền nhỏ dò nước dẫn đường, trên cột buồm cắm hoa treo cờ rực rỡ. Khách tống hành hôm trước còn ở lại, chong mắt nhìn theo, rồi giải tán, đến lúc trên bờ không còn một ai. Đền thờ thần Nam Hải, thấp thoáng trong rừng sâu, bỗng chốc quay nhìn đã không thấy. Nhơn vịnh hai bài thơ như sau:
Bài thứ 1
Xa tít Phiên Ngung quận,28
Đền Thần ngoảnh lại trông.
Trời xanh liền nước biếc,
Ao lục khuất tường hồng.
Cõi Vũ 29 trong mờ mịt,
Bia Hàn30 tạc đức công.
Trương buồm nay vượt biển,
Nhất lộ cầu hanh thông.
Bài thứ 2
Cao thấp gò liền núi,
Đông nam sóng biển reo.
Thẳng dòng giăng lưới cá,
Quanh lối vắng chân tiều.
Mai nở ven bìa xóm,
Sương sa phủ ván kiều.
Tranh Vương Duy31 giống hệt,
Ghi nét vẽ vời theo.
Gần chiều, thuyền neo lại, trời hơi lay phay mưa. Phía nam Hổ Môn, dòng nước trắng xóa, một ngôi tháp cao vút từng mây. Hỏi thăm, biết đấy là huyện lỵ huyện Đông Quản 東筦, đêm ấy ngủ lại trong địa giới huyện ấy. Khoang buồng chật hẹp, day trở không được, phải nằm ngửa mặt suốt đêm. Trời mưa lâm râm, mấy mươi người nằm ngoài trời, lấn ép nhau gần sát bàn thờ thần, suốt đêm la lối giành chỗ. Ta nghĩ, ta vì Phật pháp đi qua Nam quốc, ngẫu nhiên một phen vất vả, còn chịu không nổi thay; bọn thương khách đem hàng hóa bạc muôn, xông pha ba đào, để cầu lợi chút ít; suốt đời nguy hiểm, sinh kế sao quá đỗi gian nan!
Sáng dậy, quá nửa hành lý bị mưa ướt. Bọn tùy tùng bực tức, muốn than phiền nỗi khổ trong đêm, nhưng thấy ta ngồi lặng thinh, lại thôi không dám nói. Bạn thuyền lo dọn vén sắp đặt, tạm thời cũng hơi được gọn gàng.
Gần trưa, khai thuyền, gió xuôi nước thuận, thuyền đi mau như bay. Còn cách Hổ Môn chừng một dặm, thuyền bỗng mắc cạn; lỗi do người coi lái tự ý làm tài, không theo đường lối do thuyền con chỉ dẫn. Bánh lái mắc kẹt ở dưới, thuyền không tiến được; gió đè ở trên, buồm chưa kịp thả lèo. Một tiếng ầm, thuyền nghiêng một bên, ve thuyền chắm nước, ai nấy đều thất sắc, cầm chắc thuyền phải vỡ tan. Vội vã xả buồm, mọi người
đứng về phía trên gió, ba chiếc thuyền con và mấy trăm người lôi kéo, thuyền vẫn chẳng nhúc nhích chút nào.
Ta có làm phòng sẵn bốn cây cờ nhỏ, trên mỗi lá cờ, phía trên đề 10 chữ: Ngô bỉnh Thích Ca Vô thượng Pháp Vương tuệ mạng 吾秉釋迦無上法王慧命, phía dưới, lá thứ nhất viết bốn chữ: Đại vũ tạm chỉ ⼤⾬暫⽌; lá thứ nhì viết: Thuận phong tương tống 順⾵相送; lá thứ ba viết: Chư thần ủng hộ 諸神擁護; lá thứ tư viết:Long Vương miễn triều ⿓王免朝. Thấy thế nguy, ta vội bảo lấy cây cờ Chư thần ủng hộ cắm lên; cờ vừa trương ra, tức thì bánh lái rơi xuống, thuyền trở lại thăng bằng, thực chẳng phải sức người làm được vậy. Xét chỗ có tiếng ầm hồi nãy, thấy miếng ván giáp đà (phụ bánh lái) bị gãy, vĩ lư (chỗ xỏ bánh lái) cũng hơi xé nứt. Tức thì tu bổ lại. Nhờ dịp ngừng thuyền chốc lát, được ngắm xem hình thế nơi đây: Đối diện gò Hổ Đầu, hai bên hai hòn núi trọc, phục xuống nhô lên; hai viên đá Đại hổ, Tiểu hổ chờn vờn giữa dòng nước chảy, như hình cọp ngồi xổm ngẩng đầu lên, sắc đá cháy đen như màu sắt. Bên tả ngạn hòn Tiểu hổ có một pháo đài quay mặt ra biển, tựa trên sườn núi, tục gọi A Nương hài (chiếc giày cô nàng), vì hình giống chiếc hài vậy. Trong lùm cây, thẳng bìa dãy núi nhỏ, thấy có khói lửa, cư dân toàn là phường chài và sở làm muối, không có dân cày. Những nơi cao hiểm đều có đặt đài canh gác. Chỗ eo núi dòm ra biển, tức là cửa Áo Môn vậy. Nhơn làm hai bài thơ thất ngôn, tả cảnh Hổ Môn vọng hải như sau:
Bài thứ 1
Bạch mã cờ thiêng giải bóng tà,
Rắn rồng lớp lớp ruổi phong ba.
Không cần gương nguyệt thâu đêm sáng,
Khá cỡi bè tiên khắp xứ qua.
Trời thấy có sao chia phân dã,
Đất nhìn không chỗ biết Trung Hoa.
Lâu thuyền32 chuyện cũ dường trong mộng,
Than tiếc nghìn xưa sứ Hán gia33.
Bài thứ 2
Rong reng giáp sắt tiếng xa đưa,
Ngọc phá châu chìm cảnh xác xơ.
Gió cuốn lưng trời non đổ sụp,
Sóng xao mặt biển trống vang khua.
Dấu xưa thành khuyết chìm mây khói,
Chợ quỷ lâu đài bóng ảo mờ34.
Kìa biển Linh Đinh35, non Lỗ Mạn36,
Bảy Châu37 ngoài cõi biết đâu thưa.
Đậu thuyền lại. Nửa đêm, bỗng gió bốc thổi mạnh, sóng bổ ầm ầm; dây neo gần đứt, thủy thủ sợ hãi không dám xuống tam bản để gieo chiếc neo thứ hai, nhưng bị chúng rầy mắng, sợ phải đi xuống, may thuyền lại được hơi yên. Nghĩ bọn chúng, công thuê tiền mướn chẳng bao nhiêu, mà liều thân sống chết, coi sinh mạng như phù du; trông đời những kẻ tham phú quý, chịu nguy cơ, thì cũng như bọn thủy công kia mà thôi vậy.
Gần sáng, mưa gió đầy trời, ta bảo đem cây cờ Đại vũ tạm chỉ dựng lên. Bỗng chốc, trời quang mây tạnh, bèn cho thuyền qua Hổ Môn. Có những đống đá lúc nhúc thẳng bãi cát như hình bầy chó. Một lát có một người ngồi thuyền con đi đến, tức Công sai Việt hải quan ra thâu thuế. Đậu thuyền chỉnh đốn lại mọi việc. Chèo thuyền nhỏ vào khe núi lấy nước ngọt, các thùng nước đều đầy mặp38. Cho hai chiếc thuyền dẫn lộ trở lại, thuê một chiếc xuồng con chở nước ra thuyền. Lại trương buồm chạy, trên mặt nước còn giăng mấy lớp núi, ra mãi chưa hết. Cho biết Đông Việt là một nơi hình thắng, cửa biển dân cư đông đúc, giàu có là phải lắm.
Đến chiều tối, neo thuyền trước núi Ô Trư. Trên núi có một thứ trà, mọc tự nhiên chẳng ai trồng, có thể dùng chữa lành bệnh sốt rét, một mối lợi của người đánh cá xứ này. Nước xanh biếc, bạn thuyền dùng dây gai cột chì dò mức sâu cạn. Có một thứ rêu xanh dài hàng thước, quấn vào trên dây, thứ rêu ấy
dùng làm rau, mùi hơi tanh mặn, ăn được. Cá nược đi từng bầy, hình giống heo, sắc trắng, nổi lên lặn xuống, có con đứng trên mặt nước cả buổi rồi lặn mất. Vì ít thấy, nên thấy gì cũng cho làm lạ.
Có người hô: “Giốc đái tỉnh” (⻆帶井 = Giếng vòng đai)! Tục truyền, ngày xưa tướng Phục Ba (Mã Viện) đi đánh giặc Mán, quân sĩ hết nước uống, ông đặt một vòng đai giữa biển, khiến binh sĩ múc nước trong vòng ấy mà uống, nước ngọt, nhờ vậy khỏi nguy khốn; đến nay người ta gọi “Giốc đái tỉnh” những váng nước lóng lánh như gương, lờ đờ trên mặt biển khoảng một hai dặm, ai gặp thấy lấy làm điềm lành. Thực là một truyền thuyết không có căn cứ.
Gần xa có vài mươi chiếc thuyền chài, trương buồm qua lại. Những eo núi bốc khói ngùn ngụt, ấy là các sở làm muối. Thẳng biển, cá và muối là mối lợi giúp cho Bách Việt (Quảng Đông) và Nam Cống (Quảng Tây) được no đủ vậy.
Trên thuyền, đồ vật đều sắp xếp gọn gàng, chùi rửa sạch sẽ. Bây giờ đánh trống khua chuông, dâng heo rót rượu, một bà bóng mặc áo xanh dài tay, đội mão Đa la di trắng, thắt dây lưng đỏ, tay cầm mộc côn sơn son; lạy múa lắc lư, ngửa mặt lên bàn thờ la hét; mỗi lúc múa xong một lớp, lại đánh chiêng trống trợ oai; chúng ta và các hành khách vây quanh đứng xem, bà bóng thẹn thùng khó chịu, múa lia lịa một vòng, xong rồi, muốn bỏ đi, bị người đứng coi cản lại la rầy, bèn vung tay áo múa lại một vòng nữa rồi bãi. Từ đó về sau trên thuyền không nghe tiếng chuông trống.
Đêm ấy khí trời mát mẻ, mây tạnh trời trong, người trên thuyền nằm ngổn ngang dưới bóng trăng thanh sao sáng; bàng hoàng trông ra tứ phía, ngâm năm bài tuyệt cú, gởi bạn tri âm. Bài thứ 1
Bắc nhiều đường phẳng, nam nhiều biển,
Đi ngựa đi thuyền có thói quen.
Riêng tớ bắc nam không định trú,
Khi vung roi ngựa lúc buông thuyền.
Bài thứ 2
Không nước không thuyền gượng gọi tên,
Bao giờ gân cốt chẳng phân minh.
Nhẹ như chiếc lá, thuyền muôn hộc,
Cột lớn chèo dài vượt biển xanh.
Bài thứ 3
Biển cả khe sâu gió thổi ran,
Năm canh sóng bổ sấm rầm vang.
Đèn ngư về bến trong đêm tối,
Nhấp nhới mưa phun điểm điểm vàng.
Bài thứ 4
Xa ngắm cù lao một ngấn xanh,
Trải qua ngoài ấy biển mông mênh.
Bồ đoàn dưới nguyệt ngồi yên định,
Vô định ba đào hóa lặng thinh.
Bài thứ 5
Cổ nhơn tiễn tớ tối hôm rằm,
Liệu tớ hôm nay đến nước Nam.
Ai biết Ô Trư bên hải đảo,
Trên tàu vẫn có lão tăng nằm.
Sáng sớm ngày sau, cơm nước xong, khai thuyền, chạy suốt ngày mới đến một hòn đảo xa tít, đậu lại. Đảo này tên gọi Lỗ Mạn sơn. Tương truyền, chim anh vũ ngoài biển bay qua núi ấy, nếu không chết thì bay đi, người ta cho rằng thần Phục Ba thả đi vậy.
Có một tàu cùng đậu, sai thuyền nhỏ qua hỏi, nghe nói tàu ấy của người Gia-ri-ba39, mọi người đều sợ.
Ba đào hùng dũng, tàu chúc mũi chúc lái, nghiêng qua nghiêng lại, dần dần có người say sóng, chóng mặt không ngồi dậy được. Ta nhờ ăn no, hơi yên, nhưng không được khoan khoái như hôm trước.
Đêm 19 tháng ấy, chừng canh hai, gió mưa nổi lên ầm ầm, nằm nghe tiếng hồ lơ của bọn thủy thủ. Bỗng chốc như nước
thác nghìn tấn đổ xuống sườn núi; như mưa rào gió bão xao lay rừng chuối ao sen, lại như ngựa sắt giáp đồng rong ruổi sa trường chiến lũy; trời long đất lở, giao long bay múa tứ tung. Đến đây, nhất thiết cảnh ngộ phó mặc tự nhiên, sức người quá nhỏ nhoi không sao định được. Sực nhớ Đại tạng ký bảo rằng: “Những tỳ kheo thông hiểu ý kinh Lăng nghiêm, Pháp hoa, đi vào núi rừng có quỷ thần ủng hộ, đi ra hồ hải có Long vương ứng chầu”, bèn khiến lấy cây cờ: Long vương miễn triều cắm lên, tức thì thuyền chạy yên ổn; ngồi dậy dòm ra cửa sổ, thấy trời âm u không mưa; mịt mù trời nước một màu, trơ trọi con thuyền, như một chiếc lá thả trong một bầu hồng hoang hỗn độn; mênh mông tứ phía, không bám bíu nương tựa vào đâu, cảnh giới này không sao tả rõ được. Thường bảo miền núi Giang Bắc, không gò cao dốc trũng, chỉ thấy một vùng cao nguyên đại lục; nay mặt hải dương cũng giống vậy, lượn sóng liên tục, bao la mênh mông, sắc nước xanh như chàm, dính áo cả tháng không khô, người xưa gọi chất dính ấy là “hải đính”. Sách Nhĩ nhã bảo rằng: nhựa chàm nhuộm được gọi là “đính”, vì có thấy ở chỗ này.
Trên thuyền lặng lẽ, thủy thủ và chủ thuyền mỗi người coi một phần việc đều tỏ dáng đăm đăm lo sợ; ngoài ra những người khác mửa ói bừa bãi; đi đứng ăn uống như thường chỉ được hai ba người mà thôi. Ta bị đau dạ dày, có người dìu mới đi được, không thì té ngã xiêu. Ngày thường qua sông Dương Tử, gió bấc thổi hơi mạnh, đã rụt rè không dám đi, nay biển cả thả thuyền, xông pha sóng to gió lớn, nghĩ cũng thích thật. Mới biết thuyền lớn muôn hộc, chẳng gặp gió to sóng cả, làm sao biết sức chạy hay. Bởi thế những bậc kỳ sĩ ngang tàng, trong thời loạn, gặp Minh vương, đều có thể kiến công lập nghiệp; nếu ở thời bình, gặp chúa tầm thường, ắt không khỏi vấp ngã lao đao. Trang sinh bảo rằng: “Đưa cái chén vào vũng nước giọt thì cái chén mắc cạn”, là ý ấy vậy. Kinh hồn mất vía, chẳng dám
ngó lâu; ngậm vài quả thanh mai, đóng cửa khoang buồng, nép gối nằm nghỉ. Làm thành bài Độ dương ca, ghi nhớ Nương Công, Thạch Đại Tư Mã.
Tháng Giêng buổi nửa đêm mười chín,
Bỗng bắc phong thổi đến ào ào.
Đà công thủy thủ xôn xao,
Hớt hơ hớt hải kẻ gào người la.
Thôi chẳng dám nhìn ra kinh khủng,
Tựa be thuyền ngồi lóng hai tai.
Nghe như gió táp mưa bay,
Muôn rừng đổ lá rung cây ầm ầm.
Suối treo ngược muôn tầm đỉnh núi,
Nước đổ tuôn lùm bụi rung rinh.
Lại như muôn đội hùng binh,
Giáp đồng ngựa sắt về dinh kịp ngày.
Muôn ràng ná buông dây một loạt,
Rừng “tên lông” tuôn tuốt bay ra.
Hải thu hai mắt chớp lòa,
Giao long nép bóng, ngoan đà thất kinh.
Thân phó mặc lênh đênh trời biển,
Một phút qua diêu viễn nghìn trùng.
Sáng ngày nhìn lại hư không,
Còn đâu cảnh vật hãi hùng đêm qua.
Trời với nước bao la ảm đạm,
Thấy chim thần chẳng dám trỏ tay.
Chim đâu bay lại chốn này?
Chúc Dung40 hải sứ về đây không chừng.
Đời Thái cổ từng dâng hồng thủy,
Đất bảy châu đáy biển vùi chôn.
Đến nay uổng tử oan hồn,
Xiết bao nước dập sóng dồn lênh đênh.
Đòi phen lại hiện lên mặt biển,
Cùng người trần giao chiến ra oai. Núi sâu đầm lớn xưa nay,
Có đoàn sơn quỷ có loài giao nhơn41. Kìa chẳng thấy liên sơn Thái Họa, Tây bắc phương, cao đã nên cao. Chốn này thấp trũng vì sao?
Có cao có thấp hơi nào lo âu.
Ôi biển cả nao nao dòng nước,
Chẳng rửa trơn ô trọc lòng người. Cho đời sạch sẽ vui tươi,
Khắp trong thiên hạ nơi nơi thanh bình. Sao chẳng rửa giáp binh tàn khốc, Dẹp Suy Vưu, Trác Lộc42 giao chinh, “An Lan” mở hội hòa bình43,
Ba đào lặng lẽ côn kình vắng tanh. Làng mây nước sinh bình quen thói, Qua Sở Ngô rong ruổi Lương Tề, Động Đình Hoài Thủy đi về,
Trường Giang mấy độ thả bè buông câu. Chốn Nam Hải chưa bao giờ biết,
Miền cực nam xa tít chân trời,
Chim bằng bay chẳng đến nơi,
Lái thuyền ta quyết băng vời hôm nay.
Dòng nước chảy khôn lay trụ đá,
Dầu sóng to biển cả không nao.
Nhớ ông44 ngày ở Nam Giao,
Lòng ta thăm thẳm khác nào bể khơi.
Như thế hai ngày đêm, mỗi sáng sớm có con chim Mũi tên 箭⿃ từ trong lượn sóng bay vút lên, bay quanh thuyền một vòng, rồi bay thẳng tới trước. Người trong thuyền bảo rằng: “Ấy là chim thần theo ủng hộ hòa thượng, đem đường đi cho khỏi sai hướng vậy”.
Ngày 22, gió lặng khí trời hơi ấm, ta chỉ khoác một chiếc áo đơn, vì đã đến Quỳnh Châu, giáp giới An Nam, nên khí trời ấm áp, dầu đương mùa xuân. Từ đây trở đi, mỗi ngày chỉ xuôi gió chừng hai ba giờ; ngoài ra, lênh đênh giữa biển, thuyền tuy di động nhưng đi tới rất chậm.
Ngày 24, thuyền chủ viết lên cột buồm mấy chữ lớn như sau: “Ai thấy núi trước, thưởng tiền một quan”. Mỗi người đều hớn hở, tỏ ý vui mừng. Trên thuyền có thủy thủ tên A Ban, người An Nam, chưa đầy 20 tuổi, cường tráng lanh lẹ; mỗi lúc treo buồm, hắn leo tuốt lên ngọn cột, giăng dây thắt đõi, qua lại như đi đất bằng; hắn vừa đứng trước mặt, ngó lên, đã thấy ngồi trên đọt buồm; nhảy nhót xuống lên, chẳng chút ngượng nghịu. Vì vậy mọi người đều bảo chắc hắn ta sẽ thấy núi trước vậy. Lúc ấy có bầy chim én bay quanh cột buồm. Suốt ba ngày
còn tít mù chẳng thấy bóng núi. Qua ngày 27, gần đúng ngọ, có người reo lớn trên đầu cột: “Kia kìa, núi đó rồi!” Người ấy chính A Ban vậy. Cả thuyền đều reo lên cười mừng, nhưng chưa ai thấy gì; mọi người trương mắt chăm chú nhìn, chặp lâu trăm người có một người thấy, lại chặp lâu, mười người có một người thấy. Chừng ấy người coi lái bàn nên vào cửa nào? Thuyền chủ lái buôn muốn vào cửa Hội An để bán hàng cho tiện, tăng chúng muốn vào cửa Thuận Hóa được sớm yết kiến quốc vương; bàn cãi giằng co, đều hướng về ta hỏi ý kiến. Ta bảo rằng: “Các ông muốn gấp đến bến chăng?” Chúng đều trả lời: “Muốn gấp”. Ta khiến lấy cây cờ: Thuận phong tương tống cắm lên, và bảo rằng: “Nay xem gió xuôi hướng nào, xuôi Hội An thì vào Hội An, xuôi Thuận Hóa thì vào Thuận Hóa, không cần phải lựa chọn chi hết”. Chúng đều tán thành. Người coi lái nhắm hướng Hội An, lúc ấy gió thổi thẳng buồm, tính vào Hội An. Một chốc gió dần dần thổi ngang, lại quay hướng Thuận Hóa. Thủy thủ lại xả buồm không đi nữa, xa nhìn rặng núi, còn cách trăm dặm ngoài. Sáng mai, ngắm xem thế núi từ hướng tây chạy quanh co như hình vòng câu nằm trên mặt nước. Nước Đại Việt kiến thiết đô ấp trên hình vòng câu vậy. Ăn cơm sớm xong, ta hỏi: Nay gió vào Hội An thuận, hoặc vào Thuận Hóa thuận chăng? Đều trả lời vào Thuận Hóa thuận. Ta cười bảo nếu vậy cứ vào Thuận Hóa.
Người coi lái biết không thể cãi, nhìn nhau rồi quyết định. Buông gió một chặp vào đến vòng núi, ấy là đảo Tiêm Bích La (Cù lao Chàm). Dần dần thấy gò cao rừng rậm, dần dần thấy nội phẳng đồng bằng, kia so le mấy nóc nhà gianh, nọ phơ phất mấy cây cổ thụ; bãi cát trắng xóa, bởi nước biển dội sạch, xa trông một vòng bạc sáng ngời, giống như bờ đê khước nguyệt. Nổ mấy phát pháo lớn, ra hiệu cho trong bờ biết có tàu đến nơi. Cửa biển vẫn chưa trông thấy, chỉ thấy trên mặt biển có một làn sóng dợn xa xa. Bỗng chốc, một lá buồm hình lưỡi rìu, từ
phía mặt trời lặn chạy lại; lúc đến nơi, trời đã nhá nhem tối. Nhìn thấy một người ở trần mang khố, đầu búi tóc có giắt lông nhím, răng đen, nói líu lo; người ấy vì không phải phụng mạng mà lại, nên không dám lên tàu. Trên tàu có người muốn xuống thuyền xem chơi, người ấy cũng không chịu. Hai phiên tăng, nguyên người nhà vua sai sang Quảng Đông, ra hỏi chuyện, người ấy bèn thi lễ. Lấy dây giong phiên tăng xuống thuyền, để chạy đi thông báo với quốc vương. Kế có một chiếc thuyền lại, có một viên quan cũng búi tóc đi chân không, chong đèn ngồi canh giữ không đi.
Suốt đêm ồn ào, ngủ không yên giấc. Rạng sáng thuyền tứ phía chèo đến đông như kiến cỏ. Người bản xứ chen lấn, giành mua các thứ giày, mão, bít tất, quạt... rất thích mua thứ dù che mưa.
Qua giờ Thìn, có hai chiến hạm của nhà vua sai quốc cậu đem ra đón, hai phiên tăng cũng trở lại, thi lễ xong, lập tức giục xuống thuyền, nói có quốc cậu đương kính chờ bên thuyền. Vài mươi thủy quân võng ta xuống, nổi trống đồng hò hát chèo đi. Thuyền sơn son láng bóng soi mặt được, tả hữu đều 25 chèo, thủy quân rất mạnh mẽ, cửa khoang thuyền chạm long vân, sơn đỏ, trên che đệm có đằng văn, dưới trải chiếu lát mịn màu xanh lục, lò đốt kỳ nam hương, hộp vàng bày cau trầu, có đủ các thứ gối tựa ống rổ.
Đến công đường ở bờ biển, công đường tức nhà thâu thuế, chỉ có một gian lợp bằng cỏ gianh. Quả quốc sư và quốc cậu rước ta lên bộ, bày lễ vật của quốc vương có các thứ kỳ nam, trân châu, vàng bạc... lạy và nói rằng: “Nhà vua bận quốc chánh, chưa có thể đón xa, nên biện chút lễ mọn, khiến chúng tôi kính rước. Nhà vua sẽ ra ngoài đô môn vài dặm để đón mừng đạo giá, xin lão hòa thượng lượng tình nhậm lễ cho”.
Kế đó kiểm điểm hành lý, từ biệt chủ thuyền, một đoàn bốn chiếc thuyền nhỏ chèo đi. Hai bờ lúa ruộng xanh xanh chờ trổ
bông, hỏi thăm, nghe nói ruộng không bỏ phân, một năm làm đến ba mùa cũng khá tốt. Rừng cây trong hút mắt. Nơi làng xóm ở, nhà tranh phên trúc, ngang dọc như bàn cờ. Giống cây trồng có tre, mít, dừa, cau; hoa thì có thạch lựu, đinh hương, mộc lan, hoa lài... vì khí nóng nên mùi hương nức bay thấu ngoài giậu, chỉ không thấy có đào, lý, mai mà thôi. Thổ tục dân phong rỡ ràng mới lạ. Bèn làm sáu bài thơ tả cảnh mới đến nước Đại Việt như sau:
Bài thứ 1
Vượt biển dầm mưa vừa đến bến,
Đầu xuân đã mặc áo mùa hè.
Trên bờ chú Mán ca lăng líu,
Trong phố cô hàng nói ỏe oe.
Muôn dặm cát vàng quân đón rước,
Một phong thư ngọc sứ đi về.
Đất kia ai bảo đông nam khuyết,
Bóng ác chiều tà vạn núi che.
Bài thứ 2
Đài son Cú Lũ45 thoáng trông qua,
Đồng trụ46 mơ màng góc biển xa.
Nhơn vật tưởng đâu thay mới hẳn,
Y quan vẫn giống nếp xưa mà.
Chờ người đuốc ngọc thâu đêm sáng,
Hộ giá đao vàng thẳng cửa ra.
Vào chợ bán mua ròng bạn gái,
Vung tay trước gió mở hàng hoa.
Bài thứ 3
Mù mịt ngất trời chướng khí bay,
Mộc lan gió cuốn suối khe đầy.
Gần làng, người nói trong tre khói,
Bên bậc, gà kêu giữa núi mây.
Chèo quế nước xao tay thị nữ,
Kỳ nam hương nực áo quan sai.
Công nha chốn chốn khuyên mời rượu,
Đuốc dọi đường về chếnh choáng say.
Bài thứ 4
Hán Đường khai thác bấy lâu nay,
Cảnh tượng lần lần đã đổi thay.
Định Viễn dầu mờ trăng trước ải,
Phục Ba tiếng dậy sóng bên trời.
Xuân về cỏ nội xinh xinh mọc,
Đêm đến cờ thiêng phới phới bay.
Man mác rừng cây trông hút mắt,
Ngư tiều chia nửa nước non này.
Bài thứ 5
Khói vàng ngoài nội mờ mờ tỏa,
Mù trắng bên rừng phới phới bay.
Xõa tóc ông chài vung lưới kéo,
Kề sông nhà lá nửa then gài.
Biển khơi nhiều gió chim bay vút,
Ruộng cát không mưa lúa chẳng xay.
Khúc điệu Cao Miên, người Mán Mọi,
Chiều hôm cỡi tượng hát lai rai.
Bài thứ 6
Khước nguyệt quanh đê khói mịt mù,
Đầu gành cát trắng nhóm ngư châu.
Trời thanh Ngãi Lãnh (núi Ải Vân) mây cao thấp,
Hoa phủ Bàn Giang (sông Vĩnh Điện thuộc phủ Điện Bàn) nước chảy thâu.
Trưa nắng, trời xuân như tiết hạ,
Chiều im, khí biển đượm màu thu.
Chẳng nài công khó đường xa lạ,
Chỉ muốn ngâm đề thích viễn du.
Bấy giờ là 28 tháng Giêng, hai bên bờ người đi, gái nhiều hơn trai, áo mặc chuộng màu hồng, màu lục. Sắp đến vương phủ, mênh mông không có thành quách, chung quanh trồng tre gai làm rào; trong tre cất một hàng trại lợp bằng cỏ tranh; mỗi trại đều có đặt súng đồng, nặng từ vài trăm cân đến vài nghìn cân, đúc rất tinh xảo, khảm châu sa phỉ thúy, văn vẻ sáng ngời, nhờ công chùi đánh lâu năm mới được như thế; nếu đem số đồng này đúc lư, đúc bình, làm đồ gia dụng, quý giá chẳng biết bao nhiêu mà kể. Sau trại súng lại có hàng rào tre gai, phía
trong có vòng tường thấp, rộng chừng một, hai dặm, vương phủ ở trong ấy.
Đi chẳng xa, phu đò báo cáo nước cạn, quốc sư đứng dậy bạch rằng: “Từ đây xin lên bộ”.
Lúc ấy quan dân trai gái tụ họp chen lấn nhau đứng xem, võng không đi tới được. Đi quanh hai ba lớp núi, nghe trong rừng tre có tiếng trống chuông; quốc sư rước vào ngồi trong một ngôi đền, ngồi chừng nửa giờ, những người đến lễ liên tiếp, thông ngôn giới thiệu, ông này ông kia làm quan chức này nọ... Phần đông chẳng phân biệt được, ta chỉ ngúc đầu47 mà thôi.
Đương bàn với quốc sư tính nghỉ ngơi vài ngày rồi sẽ ra mắt quốc vương. Kế có quan Nội giám quỳ gối thưa rằng: “Quốc vương trông đợi lão hòa thượng đã mấy ngày nay, nay chỉ trong gang tấc chẳng được hội kiến, chắc suốt đêm trằn trọc không ngủ yên. Huống chi, ngày mai là ngày Mão, sau một ngày nữa là tháng Mão (tháng Hai) quốc vương không muốn cùng lão hòa thượng tương kiến lần đầu nhằm ngày Mão tháng Mão, vì Mão, Người rất kiêng dùng vậy”. Sứ giả đi lại liên tiếp, quốc sư ép ta qua yết kiến một lần cho thỏa lòng quốc vương. Võng lọng từ cửa giữa đi thẳng vào đền. Vua đứng đón ở thềm phía đông; thoạt mới gặp nhau, như quen biết sẵn từ trước; dắt vào trong cung, có bài trí tượng Phật, phướn tàn chuông mõ, chẳng khác cảnh chùa. Ta bảo rằng: “Nhà vua thực khá gọi chẳng quên nghiệp cũ vậy”48. Vương ngó ta mà cười. Ta lễ Phật, nhà vua tự tay đánh khánh đốt hương. Kế khiến bày hương án, lấy bậc thầy đãi ta vào ngồi giữa, quốc sư ngồi phía tả, rồi ngài ngồi phía hữu. Sau mấy lời hàn huyên úy lạo, đứng dậy thưa rằng: “Đệ tử tâm mộ đạo phong lão hòa thượng đã mấy năm nay, nay may mắn hòa thượng chẳng vì cớ xa xôi từ khước; cầu xin rủ lòng, bảo cho đệ tử biết đường chánh để noi theo”. Ta bảo rằng: “Đạo nhà vua ở nơi việc trị nước an dân. Đạo chỉ có một, nhưng
địa vị mỗi người khác nhau. Nếu kẻ cai trị quốc gia, lãng bỏ tất cả pháp lệnh kỷ cương, để cưỡng cầu thanh tịnh, ấy là chẳng biết thanh tịnh vậy. Nếu hay những nhưng không dục vọng, lạnh lẽo không tham cầu, trong lòng hư linh, tùy việc thuận lý, tùy vật ứng phó, thì tuy ngày xử trí muôn việc cũng chẳng phiền nhiễu mảy may. Bởi thế nước trị dân an, hầu thấy rủ áo vòng tay, không làm mà thành đạo; thanh tịnh tột bậc, Đế vương Phật Tổ nào có phân biệt, gì đâu”. Vương có ý hiểu, bảo rằng: “Ngày nay mới được nghe những điều chưa từng nghe”. Chỉ tiếc tiếng nói không thông hiểu nhau, những lý luận sâu xa, phần nhiều chưa hiểu hết ý, đó là điểm mà tôi rất ân hận. Trộm ngắm ông vua ngoại quốc, xuân thu chưa mấy mà phú tính thông minh, độ lượng khoan hòa, dung mạo đoan chính; cho hay hưởng phước làm ông vua một nước, đâu phải việc ngẫu nhiên; vả lại nghiên cứu kinh điển, đau đáu lưu tâm, nếu chẳng phải người kiếp trước tu hành, nhơn túc nguyện trở lại trần gian, thì chẳng làm được như thế vậy.
Dọn cơm chay, nhiều món không biết tên, quá nửa dùng mật mía trộn đồ ăn nguội. Qua nửa đêm, còn lưu luyến chưa cho từ biệt. Quốc sư nói rằng: “Lão hòa thượng đi thuyền quá mệt mỏi. Rồi đây đàm đạo còn nhiều ngày”. Về đến chùa Thiền Lâm, canh ba đã điểm trống.
Kế nhà vua cho đem đến cúng dường, từ tiền gạo, yến sào, cho đến giấm tương dầu muối vừng sáp, các thứ rau quả đầy đủ. Còn có người chờ yết kiến, từ chối xin đến sáng mai. Tắm rửa xong, nằm nghỉ. Chưa sáng, quan dân nam nữ đã đứng chật dưới thềm, bưng đội tiền bạc, trầu cau, trái cây, đến lễ bái, tục gọi đi lễ mừng; từ bữa ấy liên tiếp cả tháng chẳng dứt. Chỉ nhà ở tối tăm chật hẹp, chẳng đủ chỗ chứa 10 người, ban trưa còn thắp đuốc. Ra cửa toàn người lạ. Đầu xuân đã nóng nực. Ta làm 1 bài khải và 4 bài thơ dâng quốc vương như sau:
Bài khải:
Nay nhận thấy:
Quý Vương quốc từ xưa khai sáng, Thuận Hóa, Thanh Hóa, hùng cứ Tam Giang bát trấn, thống trị bốn mươi bảy châu, Quý Đại vương nối nghiệp thủ thành, Kiến Bình, Tân Bình bao la vạn thủy thiên sơn, thuộc hạt trăm sáu mươi quận. Xây thạch trụ chống ngăn dòng nước, ven biển làm nhà, Đắp trường thành che chở vườn Thiền, phá rừng lập nghiệp.
Nay kính:
Đại Việt Đức chúa Ngân An điện hạ,
Đất chia Nam thổ,
Ngôi á Bắc thần.
Dựng nước gần Mân, Việt, Xuyên, Điền, núi dầu mòn mà sông dầu cạn,
Tiếp giới với Xiêm, Giao, Qua, Bột, gánh càng nặng thì lo càng nhiều.
Học dùi mài thành ý tu thân,
Đạo luyện tập ngoại vương nội thánh.
Nghiêu điển Vũ mô Thang cáo mệnh, cầm giữ mối trung, Đường thư Tấn tự Hán văn chương, tùy theo sở thích. Triều đường nghiêm kính, nhưng không hách dịch ra oai, Dân tục đổi thay, vẫn có khoan hồng rộng lượng. Thông minh phú tính, sao chiếu tử vi,
Hiếu đễ làm lòng, hoa khai đường đệ.
Vua Hán đại chẳng qua nhường ấy,
Sở Trang Vương nào đã hơn chi.
Giúp trí mưu chẳng thiếu hiền hào, văn có tướng “bạch y”, vũ có tướng “hắc mâu”49, tả hữu thảy đều lương bật, Thú tiêu khiển vui chơi yên tuyết, khi xướng khúc mai hoa, khi ngâm thơ dương liễu, xướng thù gặp hội tân xuân. Bến Tây Hà trăng tỏ làu làu, cát đá hóa thành vàng ngọc, Miền đông hải sao ngời nhấp nhoáng, sóng mòi tràn ngập
báu châu.
Rồng múa đồng cung,
Phượng bay chu để.
Tiếng hay sắc đẹp, không tham thói quý tình phàm, Ngựa gấm dao vàng, cảm phát lòng từ niềm đạo. Có sinh lại có sát,
Làm vua kiêm làm thầy.
Việc làm một thời,
Tiếng lưu nghìn thủa.
Lão tăng:
Từ thơ ấu thường hay bệnh hoạn, chẳng tham sống ở trong trần,
Lìa gia đình lo việc tu hành, chỉ muốn lánh ra ngoài cõi. Lòng như tro lạnh,
Áo khoác nâu sồng.
Gậy thiền còn xa cắm ruộng hoa,
Thư cá bỗng đưa qua thành Huệ.50
Chắc kiếp trước có cùng nhau ước hẹn, đã kề vai còn lẳng lặng đi qua,
Nên kiếp này bỗng nhớ lại nhơn duyên, vừa gặp mặt đã cười xòa vui vẻ.
Ai bảo nhà nho đạm bạc, từng nhờ Khổng thánh mở mang, Chỉn e51 đạo Phật điêu tàn, sẽ bị Cù Đàm trách móc. Yếu hèn xét phận,
Cứu vãn không tài.
Sáo thổi rừng hoang, để ai thưởng thức,
Cỏ trồng lầu ngọc, khôn nỗi xới vun.
Nay may gặp cố tri,
Để luận bàn việc ấy.
Chẳng quên Linh Thứu52, bảo truyền tôi tớ hộ trì, Gặp hội Diêm phù53 chia mở trống cờ truyền đạo. Há nệ mão treo anh lạc, cứ chuyển cơ thần,
Chẳng chờ áo mặc thủy vân, mới lo việc Phật.54
Phục nguyện:
Tín sâu biển học,
Trí mở cõi danh.
Lương Vũ, Tống Huy55, có thiện căn mới kiêm thông tôn giáo,
Bùi công, Lý tướng56, hiểu đạo lý nhờ vốn có gia truyền. Chẳng những phò trì Phật pháp được lâu dài,
Lại cũng chấn động hoàng phong thêm lộng lẫy. Lại trông mong:
Kinh luân phát triển, mở rộng thêm cơ nghiệp tiền nhơn, Ân huệ dồi dào, cứu vớt khắp sinh linh bốn biển. Cửa vàng truyền chỉ, phụng sắc phong trên chốn miếu đường,
Xe báu dẫn đường, thường thuần thú khắp miền viễn cận. Lão tăng đưa bửu Phật, trải qua đảo lạ sông kỳ,
Đại vương ngự bồ đoàn, thong thả dưới rừng bên nước. Thơ quê mấy vận, hổ tặng lời mây,
Khải vắn một bài, kính dâng chuyện nguyệt.
Bài thứ 1
Giao Châu dựng nước chính nam phương,
Một dải non sông vạn dặm trường.
Ngôi báu trải đời truyền thánh triết,
Âu vàng muôn thủa vững phong cương.
Đài cao chất ngất treo vân hán,
Biển rộng mênh mông lặng khói sương.
Đức hóa từ nay nhuần thấm khắp,
Nghìn thu quốc thái lại dân khang.
Bài thứ 2
Thuyền chiến phăng phăng dường chớp nhoáng, Cờ ngà phới phới tợ mây bay.
Giáp thêu hình thú quân hùng hổ,
Biển dợn tăm rồng lính hải đài.
Cửa Phật, sáu cung dâng lễ bái,
Ngôi Trời muôn nước nể thiên oai.
Gió xuân mấy độ bên trời thổi,
Rải khắp lòng nhơn bốn cõi ngoài.
Bài thứ 3
Dương thành năm ngoái gởi thư qua,
Trọng đạo, khen người ở xứ xa.
Chén nước chưa quên lời nguyện ước,
Bè lau bao quản nổi phong ba.
Gạo thơm hơi bốc mây nhường trắng,
Vàng báu ân ban đất chói lòa.
Cho hay trong nước vua là quý,
Vua quý mà còn lễ Thích Ca.
Bài thứ 4
Đại Giám ngày nào về Dữu Lĩnh,57
Ngày nay ta mở đạo Nam bang.
Dịch hoa chưa có Cưu Ma58 đến,
Ứng hiện cùng theo Bửu Chí59 sang.
Khen đó Việt Thường dâng trĩ trắng.60
Thẹn ta Cát Liệu61 tiếp mai vàng.
Biển khơi dầu cách người không cách?
Mới rõ Linh Sơn đuốc chửa tàn.
Sáng sớm ngày mồng một tháng Hai, nhà vua khiến Nội giám đem thuyền đến mời ta vào ra mắt. Gần đúng ngọ, đến phủ, nhà vua chờ đón ở cửa phía tây, lần này Người mặc đạo bào, không xiêm mão như lần trước, càng có vẻ hòa vui hơn.
Ta bày dâng bài khải, bốn bài thơ và một ít trái cây, nhà vua xem kỹ từng bài, rất tán thưởng, chặp lâu, đem ra các đồ vật ngự dụng, chỉ từng món, hỏi ta: “Có đẹp không? Trung Hoa có món này chăng?” Có ý muốn khoe khoang. Xem ra các món đều bằng vàng bạc châu báu chạm trổ công phu, tuy không văn
nhã, thiếu chất phác, nhưng thảy đều lạ lùng chóa mắt, có phong vị phú quý, một thứ phú quý của vua Mán. Cơm nước xong, quốc vương hỏi rằng: “Trước mặt lão hòa thượng, có thể lấy múa hát cung dưỡng chăng?” Ta bảo rằng: “Trong mười thứ cung dưỡng, âm nhạc là một vậy”. Vương nói rằng: “Phải thưa qua hòa thượng mới dám”. Kế khiến gọi ra bốn, năm mươi cung nữ, người nào cũng thoa son đánh phấn, bận áo hoa màu lục dài phết đất, đội mão vàng giống mão “Thất phật”, hoặc tay cầm nhạc khí, quá nửa giống nhạc khí Trung Hoa, chỉ có yêu cổ (trống eo lưng) dài độ hai thước, giữa eo nhỏ, hai đầu bằng phẳng lớn hơn, dùng tay vỗ có tiếng vang hùng tráng, như tiếng trống đồng; lại có thứ đàn giống đàn tranh hình vuông dài, giữa trống bỗng, giăng bốn dây có tua, ôm trên gối để khảy62, âm vận nghe rất thanh tao. Bọn cung nữ nhịp nhàng sắp thành hàng ngũ, âm nhạc hòa tấu; ca nhi hát khúc Thái liên (hái sen), ngân giọng chậm rãi cho ăn nhịp với trống đàn, vũ nữ hoa tay múa bộ như đương hái hoa sen vậy. Diễn tuồng xong, nhà vua lấy ra năm mươi ngàn đồng tiền giao cho ta, bảo thưởng cho “Tiểu hầu”, “Tiểu hầu” tức tên gọi đoàn “Lê Viên” (Vũ nữ), tên nghe cũng nhã vậy.
Trong lúc nói chuyện, quốc vương thường tỏ ý tưởng nhớ Đông Kinh (Bắc kỳ), nói Đông Kinh là đất nước bản quốc, tiên thế từng làm rể An Nam, được phong làm phiên thần ở xứ này, dần dần trong xứ trở nên cường thạnh; từ ấy cát cứ lập thành một nước, đổi hiệu làm Đại Việt. Nhà vua tưởng nhớ Đông Kinh, cũng như người ở đất Khúc Ốc làm bài thơ Tiêu liêu để tỏ lòng tưởng nhớ nhà Tần vậy.63
Mỗi lúc vấn đáp, thông ngôn phiên dịch thường hay sai lầm, nên ngày ấy không nói chuyện nhiều.
Hỏi: Nhà ở được yên chăng?
Trả lời: Chật hẹp tối tăm, không được khoan khoái.
Hứa đến ngày mồng ba, sẽ khiến người khởi cất phương trượng mới.
Bèn từ biệt lui về, làm năm bài thơ Thiền Lâm tức sự như sau:
Bài thứ 1
Mịt mờ mây khói ám hoa cung,
Ngồi đứng băn khoăn những lạ lùng,
Rừng thấm ngày thường sinh gió mát,
Trời chung đâu chẳng có trăng trong.
Non xanh một dải chiều u ám,
Xương trắng nghìn mồ khói tỏa phong.
Thế sự chắc không biến đổi,
Mây đen bỗng trổ bóng dương hồng.
Bài thứ 2
Mưa gió phương xa bát ngát nhìn,
Khói xanh nghi ngút tỏa từng trên.
Lối tiểu quanh núi khi mờ tỏ,
Lều cỏ ven đồi khoảng hở liền.
Một tiếng khánh vàng buông ngõ trúc,
Đôi dòng nước biếc tưới ven biên.
Thừa nhàn cũng muốn tìm thơ hứng,
Bận nỗi quan dân lại cúng tiền.
Bài thứ 3
Quanh lối xanh um mít với dừa,
Trống chuông văng vẳng tiếng xa đưa.
Kim thằng chỉ nẻo trăng Đông Hải64,
Tích trượng trong chừng gió Việt khư65.
Mắt hút càn khôn vui tự tại,
Cảnh quên hồ hải tức chơn như.
Làng chài quán rượu đâu không bụt,
Một tấm lòng chay chẳng bợn dơ.
Bài thứ 4
Chùa dựng đầu cầu cao chất ngất,
Xuyên ngang gò núi một đường thông.
Voi giày dặm cát le the cỏ,
Chim vượt khe rừng rải rác bông.
Bóng mát cây cao thầy nghỉ bước,
Câu kinh tiếng kệ khách khuây lòng.
Vui chơi kẻo phụ bầu trăng sáng,
Dâu bể bàn chi chuyện viển vông.
Bài thứ 5
Phương trượng ba gian lợp bạch mao,
Đồng xanh nửa mẫu tiếp gò cao,
Ven cồn rau cỏ quanh năm thiếu,
Ngoài ngõ tre gai tứ phía rào.
Hay bệnh việc đời theo quấy nhiễu,
Tránh rầy, miệng thế lại xôn xao.
Ngày về, Hà Lạc thăm tin gió,
Được quẻ trùng ly đệ lục hào.
Thầm bảo, chắc chừng một vài tháng sau, sẽ được an cư. Qua ngày sau, chừng canh ba, nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, thì ra một viên Nội giám, hai viên bộ Công, dẫn đến vừa lính vừa thợ chừng nghìn người để xây dựng nhà cửa. Mờ sáng, kẻ vác tre, người vác gỗ, kẻ đánh tranh, người vót mây, lại có người cuốc đất đắp nền, hoặc leo lên mái nhà gọi nhau, hoặc đào hầm đất đi xuống. Từ sáng đến tối, liền ba ngày đêm, cất xong một tòa phương trượng năm gian ba mươi hai cột, bốn phía có hành lang; vách tường, rầm thượng, rầm hạ đều bằng ván; và một nhà hậu liêu năm gian, hai mươi cột, cũng đồng thời làm xong. Nhơn hỏi chuyện, biết rằng, trong nước trăm thứ thợ đều do quân nhơn làm. Mỗi năm vào khoảng tháng Ba, tháng Tư, quân nhơn đi ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân; vào
quân đội rồi, mỗi người bắt chuyên học một nghề, kẻ phân phái đi theo các chiến thuyền để luyện tập; có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm xâu; tuổi chưa đến 60, chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ; hằng năm, thân thích đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những dân còn lại ở nhà, toàn gầy yếu tàn tật, chẳng có mấy người mạnh mẽ. Cha mẹ sợ con phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn tránh việc quan; do đó bọn khoác áo nhà chùa rất đông, Phật pháp trở nên hỗn loạn, chẳng những “tôn phái” không ai hỏi đến, mà các việc “luật”, “luận” cũng đều xếp xó bỏ qua; đến đỗi những kẻ mão ni áo tràng, mà nết xấu tật hư, còn quá bọn dân quê ngoài làng mạc! Cho đến những hạng trí thức tự xưng làm thầy người, cũng không cứu vãn được tệ phong, luống phụ lòng kính tin của quốc dân và chúa thượng. Tai nghe mắt thấy, há nỡ làm thinh; bèn viết cáo bạch một bài, dán lên các cửa chùa cho mọi người được rõ...
Tam giáo Thánh nhơn, khai hóa thiên hạ, từ việc lớn đến việc nhỏ, đều có pháp độ chương trình. Đạo phải có gốc, học phải có thầy, không phải xuyên tạc đặt bày, để mượn tiếng làm thầy thiên hạ được.
Nho, Đạo hai giáo phái, đều có truyền thống, ở đây ta không bàn đến. Ta chỉ nói riêng về Thích giáo, đức Đại Hùng Văn Phật giáo hóa chúng sinh, lấy lòng từ bi làm lợi cho muôn vật, lấy trí tuệ tiếp độ mọi người; dạy học chia thành ba môn, để cho kẻ hậu tiến tiện đường xu hướng. Dược Sơn Tổ bảo rằng: “Luật có luật sư, luận có luận sư”. Hiện nay, bảo là “Tôn sư”, thì chưa hiểu “thuyền chỉ”, bảo rằng “luật sư” thì chưa hiểu “giới tưởng”, “luận sư” lại chưa hiểu “kinh nghĩa”, hành động nhố nhăng, nói năng lộn xộn, tự ý đặt điều, làm hại kẻ hậu học; khinh trời dối Phật, ăn hại thí cúng của thập phương, thực là loài ma nghiệt số một trong pháp môn vậy. Theo Kinh Duy Ma
nói, thời những hạng người ấy, ai mà cúng dường đã không được phước, còn người nhận của cúng dường đó, lại phải đọa vào tam ác đạo66. Ngày này đã xa cách thời thánh nhơn, chính đương lúc ma mạnh pháp yếu. Những kẻ tự xưng “đại tăng”, phần đông bề ngoài náu nương cửa Phật, bề trong hoạt động yêu ma; dê khoác lốt hùm, thỏ bầy chồn lũ; lộng hành khắp xứ, mười điều sai chín. Than ôi, kẻ mù dẫn đường, dắt người xuống hố, đau lòng biết chừng nào! Vì thế, Lão tăng khai pháp ở Trung Hoa trải ba mươi năm nay, cầm trúc trượng một cây xông pha ngang dọc. Trải khắp nơi nơi diệt trừ sửa trị, quyết cùng bọn dối thế trộm danh, tự xưng là trí thức đại sư ấy, ăn thua đến cùng. Ta vốn chẳng chịu vào hùa với bọn giả dối, lấy bốn chữ “tu hành lão thực” để chuốc tiếng khen với các thiện nam tín nữ. Lão tăng chỉ muốn mở rộng đường đạo, lập lại quy mô, phò chánh trừ tà, để đền ơn Phật Tổ mà thôi.
Nay mong quốc vương triệu thỉnh, lão tăng từ phương xa đến, được quốc vương cung kính thân như cốt nhục. Vả lại thần dân trong nước thảy đều quy y Tam bảo, thực là một quốc gia ưa muốn làm lành rất hiếm có. Ta nỡ nào mặc áo cà sa, làm trái phép Phật, với “Phật” kết oan, với “Pháp” kết thù và với “Tăng” kết oán cho đành. Lão tăng thấy mà chẳng nói, thả ma làm bụt, còn tội nào lớn hơn, và rất phụ mỹ ý tín ngưỡng của vua quan tứ chúng. Bởi thế, lược cử ra ba việc sau đây, nói rõ mối tệ, giúp cho thiện nam tín nữ trong nước, khỏi bị bọn tu hành giả dối lừa bịp.
Phật Tổ đặt ra giới luật, cũng như Khổng thánh dạy người “giới thận khủng cụ, khắc kỷ phục lễ” vậy. Ngài bảo rằng: “Trái lễ chớ xem, trái lễ chớ nghe, trái lễ chớ làm, trái lễ chớ nói”, nghĩa là gốc của thành ý, chính tâm, tu thân đều ở chỗ biết răn sợ. Đức Văn Phật độ thế, sợ người đời khí tập nặng nề, đắm đuối trong vòng tham, sân, si, ái, nên mới đặt ra các giới pháp Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát. Tại gia Bồ Tát có ngũ giới, nhập quan
giới, phát minh điều luật, gồm ba nghìn tế hạnh, tám trăm uy nghi, cốt khiến người đời giữ tâm thân cho đoan chính, trừ bỏ vọng tưởng tu hành cho đến cõi Bồ Đề. Đặt ra ba đàn đại giới, trên bày ba vị Tổ sư, bảy vị tôn chứng, nghiêm kết đàn trường nghi lễ; đối với Bát bộ long thiên, Vân tập Tứ chúng, khiến những kẻ cầu giới, tự đem việc làm trong đời mình, hoặc có lỗi, hoặc không phát nguyện sám hối.
Hơn nữa, phải ba đàn làm phép, bốn dạo hỏi tra, làm trọn thanh tịnh phép màu mới cho thọ giới. Nếu xét có lỗi nặng thì sẽ bị từ khước tức thì. Gần đây có một bọn ma sư truyền giới pháp cho người, dầu người ấy chẳng lên đàn, chẳng hề chịu qua tam sư truyền pháp, thất chứng chứng minh, túc nghiệp chẳng hề sám hối, giới luật chẳng hề giảng bàn, khoác cà sa cầm bình bát, uy nghi chẳng hề diễn tập, không cứ tăng hay tục, chỉ cần có một sổ tiền hương đăng công đức, tức thì có pháp y giới điệp cấp đến tận tay; khiến bọn vô tri cầu giới ngang nhiên tự cho mình đã đắc truyền đại giới tam đàn. Rốt cuộc, kẻ truyền giới chẳng biết thọ giới là người nào, kẻ thọ giới chẳng biết thầy nào đã truyền giới; hại pháp hại người như thế, pháp Phật thành ra trò Chơi, giới luật đi đến chỗ tiêu diệt, ấy là một điều mà Lão tăng không nói không được.
Phật ban đầu hiện thân “lô xá na”, diễn giải Kinh Hoa Nghiêm, giải thích luận bàn, rát cổ hao hơi mà hải chúng thiên long ngồi nghe như điếc. Ngài nhận thấy chúng sinh mê lầm, khó bề tiếp dẫn, bèn nói rằng: “Thôi ta không thuyết pháp nữa”, liền trở vào Niết bàn. Nhưng sau khi suy nghĩ 21 ngày, cuối cùng dùng phương tiện khéo léo vào vườn Lộc Dạ, mở hội A Hàm, theo pháp sinh lão bệnh tử diễn thành các chủng loại, các thứ âm thanh, tùy theo căn cơ riêng từng người mà dẫn đạo, khiến mọi người đều được bổ ích. Bởi vì “Phật” nghĩa là “Giác”, giác chẳng những tự mình giác ngộ mà còn phải giác ngộ cho đời nữa. Sách nho cũng bảo rằng: “Khiến kẻ biết trước
dạy bảo kẻ biết sau, kẻ tỉnh trước đánh thức kẻ tỉnh sau, lấy đạo ấy giác ngộ dân ấy”. Xem đó, đủ biết, dầu xuất thế hay ở thế gian, tấm lòng giúp ích loài người của Phật Tổ và thánh hiền, cũng giống nhau như một. Những bọn vô tri tầm thường, chẳng cần bàn đến.
Còn những người gánh vác việc nhà Phật, giữ trọng trách làm thầy người, cần phải tiếp đãi tứ chúng thập phương, đối với ai cũng tận tâm khai hóa; vô luận việc tinh việc thô, việc lớn việc nhỏ, hễ có người thành tâm đến thỉnh giáo, đều phải dìu dắt chỉ bày; cho đến những kẻ chẳng biết đến hỏi han, nếu mình nghe thấy, cũng kiếm cách ra công dạy dỗ; lựa lời dạy bảo, dầu có rát cổ hao hơi, chẳng vì mệt mà nửa chừng bỏ dở, cốt sao cho người nghe giác ngộ, cải tà quy chánh mới thôi; dạy mỗi ngày mỗi tiến, học lâu thành quen, như thế dần dần sẽ tự nhiên hợp đạo.
Gần đây thấy có một bọn người giả dối, giả danh làm thầy mà giáo điều giới luật mù mịt chẳng biết gì. Ngu dốt mà tự cho mình là lớn, khinh khi kẻ hậu học; khi thì nói: “Bọn chúng không thể dạy được” khi lại nói: “Dầu có dạy chúng nó cũng chẳng biết chi”; ngăn người tự ngăn mình, thành ra dối người chính là tự dối mình vậy. Nhất thiết chẳng biết giống gì là kinh luận giáo điển, tự phụ sáng suốt, chẳng hề nhắc nhở đến Phật Như Lai, cho đến công việc hành động bình thường, cũng làm ngơ chẳng hề lý luận; chỉ ham danh trục lợi, tự tiện an nhàn; dưới mắt không người, ngoài miệng khoe khoang mà trong bụng trống rỗng. Phải biết rằng người sinh ở đời, trừ những bậc thượng căn thượng trí, mới có thể vào chốn trần lao ngũ trọc67, chẳng cần giữ gìn cũng không đến đỗi tiêm nhiễm bợn dơ; còn những căn khí trung đẳng, phải nhờ sư trưởng nung đúc rèn luyện mới có thể thành công. Ngày xưa đức Phật thuyết pháp trên hội Niết bàn, trăm vạn ức chúng, một lúc thảy đều khế ngộ; chẳng phải người nay kém thông minh không bằng
người xưa, chẳng qua do người xưa ngày thường nhờ có điều độ tập rèn, huấn luyện có phương pháp. Nay xem người bản quốc, có lòng tin rất kiên cố, chùa chiền khắp xứ, sãi vãi đầy đoàn, há phải thiếu kẻ tu hành có căn tính linh lợi; cớ sao ba môn học Tôn, Luật, Luận, không có một người chỉ vẽ, khiến đại chúng mịt mờ, đắm đuối trong tà tịch tình si; túng sử tập tục mê lầm, cũng ắt có một lần phát niệm trở về với ánh sáng; khốn nỗi những tiền bối sư trưởng chẳng những chẳng khích lệ hướng dẫn, lại còn khuôn phép chẳng chỉnh đốn, dạy dỗ không ra trò; hỗn loạn hồ đồ, chỉ muốn tìm xét dĩ vãng, liệu trước tương lai, rồi xua đuổi tất cả hiện tại, chẳng muốn cùng người thay cũ đổi mới. Thường thường nhơn tình hướng lên bực trên nghịch mà khó, đi xuống chỗ thấp thuận mà dễ; nếu chẳng có người xem chừng dạy dỗ, tùy bệnh cho thuốc, dìu dắt cho đúng đắn, thì tự nhiên cứ thuận chiều đi xuống với tà tịch thói quen. Người ta bảo rằng đuổi chim vào rừng, đuổi cá xuống vực là vậy đó. Cho nên từ xưa đặt ra lề lối phép tắc để ngăn ngừa, khuyến khích khiến kẻ học giả ngoài nhờ thầy dạy, trong gắng chí dùi mài, dần dần đều thấm nhuần pháp hóa. Đến ngày nay, thiên đạo suy vi, thuần phong tiêu tán; có kẻ giày cỏ chưa mang qua một đôi, cửa chùa chưa bước qua hai bậc, một mai ra làm thầy người, sợ người ta biết rõ chân tướng, làm bộ lim dim nhắm mắt, sửa giọng thanh cao, làm trò giải thoát, tham lam ghen ghét, giả dối bề ngoài, để được tiếng khen là “lão thực tu hành”, lấy thế làm đắc sách. Rút cục, kẻ ngu dốt vẫn chịu ngu dốt, ta e những kẻ tự phụ làm trí thức ấy, cam tâm ở trong hang ma tổ quỷ làm kế sinh nhai, khi thế dối người, phải chịu quả báo vậy. Những hạng người như thế lạm dự vào sa môn, chẳng biết hổ thẹn; mượn danh hiệu Phật Tổ làm việc buôn bán, điều lo lớn cho pháp môn là ở chỗ đó. Hèn chi, ngồi yên ngó con cháu sa đọa, chẳng thể cứu vớt; tự cứu còn chưa xong, hòng cứu được ai. Rồi thì giúp ma hại bụt, đến đâu chỉ làm bậy, đau đớn biết
chừng nào.
Bọn ấy, ở cửa Phật gọi là “đoạn tuyệt tuệ mạng”, ở triều đình gọi là “thiết lộc cẩu dung”, (ăn hại lộc nước lay lắt qua ngày), ở chốn hương thôn gọi là “hương nguyện tặc đạo” (thực thà hại đạo). Từ bi không phải “Phật”, xây dựng không phải “Pháp”, tâm hạnh không phải “Tăng”. Thế mà dám lãnh thụ thập phương lễ bái, tứ chúng quy y, lên mặt nhơn sư, mạo danh pháp chủ, há chẳng sợ nê lê (địa ngục) quả báo hay sao. Ta tuy bất tài lão hủ, chẳng bổ ích gì cho pháp môn; nhưng biết rõ lưu tệ của bọn áo lam, chẳng giữ giới pháp, chẳng hiểu giáo điều, gai mắt đau lòng, một lần nữa không nói không được.
Phật ở Linh Sơn thuyết pháp, đại chúng đều lặng thinh, chỉ có Ca Nhiếp Đầu Đà mỉm cười hớn hở. Phật bảo rằng: “Chính pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, giao phó nhà ngươi phải ủng hộ cho vĩnh viễn lưu thông, chớ khiến gián đoạn”. Từ đó lập nên tông phái, gọi là “giáo ngoại biệt truyền”, khiến người noi theo đó mà tiến thủ; minh tâm kiến tính, nối đời truyền thụ cho nhau. Tây Thiên 28 Tổ sư, Đông Độ 6 Tổ sư, đến Tào Khê Đại Giám Tổ sư thì hết; truyền y bát và truyền tâm pháp, đời đời nối nhau. Sau lại chia thành hai phái là phái Thanh Nguyên và phái Nam Nhạc; 5 chi là Ví Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. 5 chi hoạt động, mở rộng Phật giáo cho đến ngày nay. Xưa nay đạo thành thì pháp lập, pháp nhờ người dựng nên; bởi thế Tổ Tổ Sư Sư, dựng nên cảnh bụt, khua chuông gõ mõ, họp chúng an thiền; khiến trong dứt niềm tà, ngoài ngăn việc quấy; tu trì hàng giây hàng phút, rèn luyện hàng tháng hàng năm, lấy giác ngộ làm cứu cánh, tu cho đến chỗ “Muôn hoa qua bụi rậm, một lá chẳng vương mình”, gặp việc ứng theo việc, gặp lý ứng theo lý, dù công việc nghìn đầu muôn mối, dập dồn bốn mặt tám phương, mà đứng chơn nhơn không tước không ngôi, cũng chẳng chút mảy may lay động. Bởi vì tự tính bản lai thanh tịnh, phải tu đến bậc ấy mới có thể
rũ tay vào chốn trần hoàn, giải thoát cho nhơn loại; nguyện cùng nhất thiết chúng sanh, đều thành chính giác, xem muôn vật cùng ta cũng như một thể, luôn luôn dắt dìu yên ủi thức tỉnh cứu mê, chẳng nỡ quên đời, ra tay tế chúng; nếu chẳng phải sẵn lòng từ bi, giữ vững nguyện lực Phật Tổ, thì không thể làm nổi.
Ôi, Phật là một chúng sinh giác ngộ trước, chúng sinh là một đức Phật chưa giác ngộ. Bởi thế phàm phu có đủ tư cách thánh nhơn, phàm phu chẳng biết; thánh nhơn cũng có đủ tư cách phàm phu, thánh nhơn chẳng hay. Thánh nhơn nếu hiểu Thánh nhơn tức thị phàm phu, phàm phu nếu biết phàm phu tức thị Thánh nhơn, thì sẽ biết Phật với chúng sinh phải tiếp dẫn lẫn nhau, mới có thể tế độ lẫn nhau, người khá độ, ta cũng khá độ, lộng lộng trần gian, những người dắt vợ bế con, không ai chẳng khá độ, mà cũng không ai chẳng khá độ người vậy. Tiếc vì, chẳng hay từ không chúng sinh giới làm Phật giới, từ không chúng sinh danh làm Phật danh, do đó chưa đánh vỡ được cửa sinh tử. Thường nhơn bị ngũ trọc phiêu lưu, thất tinh đắm đuối, bát phong68 dồn dập, tứ duy69 buông lung, cửa sinh tử ở đó. Kẻ học đạo giữ chặt bên này, chẳng thông qua bên kia; thông qua bên kia, chẳng trở lại được bên này, đó là cửa sinh tử. So sánh lại mà bàn, lời nói chẳng khá lầm, việc làm chẳng khá nói; trái đạo theo tục, vọng tưởng đảo điên; chưa dứt một niềm trần, tức thị một vòng tử sinh luân hồi trong tam giới70, nhị thập ngũ hữu71. Ví khiến kẻ tu hành còn bị thói cũ che lấp, thấy biết khí độ vẫn như tục hán, tự mình còn chưa độ được, làm sao mong độ được người. Tóm lại chẳng biết tu hành, chưa khai chánh nhãn, man muội giả trá, lụy mình mà lại lụy người. Bọn ấy ở nơi đất bằng còn chưa yên ổn, làm sao khiến lên tột đỉnh núi cao muôn trùng. Chỉ vì chẳng lên núi cao, sao biết đất bằng, thấy biết chỉ bằng con kiến, đã khoe khoang cao viễn; mới trèo lên mô đất, đã tưởng vượt qua núi Thái Hàng, nếu
thấy Họa Sơn cao vút tầng mây, chắc thế nào cũng ngửa mặt thở dài, bước lui cho mau vậy. Xưa Hàn Xương Lê tự phụ là tâm cao khí mạnh, một lần trèo lên thang mây núi Họa Sơn, ngó xuống, quáng mắt hết hồn, phát cuồng la khóc, viết thư quăng xuống từ biệt người nhà. Quan huyện sở tại phái kiếm đủ mọi cách mới đem xuống được. Than ôi, Xương Lê bài xích Phật Lão, có tài văn chương, làm sư biểu cho văn nhân thời ấy; sinh bình vị trí, tự đặt cao trên đỉnh Họa Sơn; thế mà mới lên Họa Sơn, đã hồn bay mắt nhóa, sinh bình vị trí nay ở đâu? Bởi vì từ trước chỉ lấy ý thức ước lượng, chưa từng đi đến tận chỗ, nên khinh đời nói dóc, vậy thôi.
Đã làm con cháu Phật Tổ, nên kiên tâm tự nguyện mở giác lộ cho người đời; phá ám khai mê, phản tà quy chánh, há việc nhỏ mọn hay sao. Nên nghĩ vườn Phật xuân tàn, sân chùa thu muộn, trong buổi pháp môn liêu lạc, há nên lấy ngoa truyền ngoa; khiến khắp nước tăng nhơn, chẳng biết ra đời học đạo là cái gì, cạc cạc ù ù trong làng túy mộng.
Lão tăng chẳng nỡ làm thinh ngồi ngó, nên chẳng tránh nghiệp miệng, nói thẳng vài lời.
Nay bố cáo.
Nước Đại Việt, phong thổ khí hậu, đại ước khí âm thịnh, khí dương suy. Nghiệm chứng: muôn vật phát sinh về thu đông, làm việc dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con gái. Hằng năm xuân hạ thường khô hạn, mùa hạ mặt trời đứng bóng nóng như lửa đốt; đất đỏ nghìn dặm, cây cỏ cháy khô. Vì ta có kẻ tùy tùng ăn đông, nên quốc sư thường lấy sự thiếu rau làm lo.
Trong nước tả, hữu Thừa tướng, Tứ đại đồn dinh, Quốc nguyên lão Đông Triều hầu, Học sĩ Hào Đức hầu, Vương huynh Lệ Truyền hầu, Thiều Dương hầu, các vị đại lão ấy thường cùng ta tiếp kiến, nghe ta ở Trung Hoa có cử hành việc bàn gió sấm và cầu mưa, muốn tâu với nhà vua thỉnh ta cầu một đàn.
Có người sao tờ cáo bạch của ta dâng vua xem. Nhà vua cũng thương tâm vì thấy Phật pháp trong nước hỗn loạn, không có kẻ chơn chánh tu hành; vả lại, lập quốc quy mô, chánh giáo kỷ cương, nhiều việc cần nên sửa đổi, muốn mỗi việc đem ra phỏng vấn. Sáng sớm ngày 15, bèn rước ta vào trong phủ, chuyện trò đến nửa đêm, luôn luôn sốt sắng chẳng biết mỏi; nhơn bàn đến việc cầu mưa, ta lặng thinh hồi lâu, trả lời rằng: “Chẳng cần phải cầu, lão tăng từ xa đến đây, cảm lòng tin cậy của nhà vua, xin lấy 8 chữ Phong điều vũ thuận, quốc thái dân an báo đáp”. Nhà vua chẳng nghĩ ra. Nhơn đọc một câu liễn, viết trình vua xem.
Phật tâm từ nguyện, tiên bảo Quốc thái dân an, phương hữu pháp luân chuyển xứ.
Vương húy Phước Châu, tọa hưởng Phong điều vũ thuận hợp đương ngô đạo hành thì.
Dịch nghĩa:
Lòng Phật vẫn từ bi, giữ cho quốc thái dân an mới có chỗ chuyển quay xe pháp.
Tên vua là Phước Châu, ngồi hưởng phong điều vũ thuận, chính đương lúc thi hành đạo ta.
Lúc trở về, viết câu liễn dán lên chùa Thiền Lâm: luôn mấy ngày có gió mưa, chẳng biết vì sao mà lời nói của ta được trúng vậy. Vả nhơn vì có kẻ thực thà bày nhà vua nên dẹp bỏ chính vụ, nhất vị niệm Phật tu hành để cầu sinh tây phương, cho nên vế đầu câu liễn, ta nói như vậy.
Nhà vua nói, phần đông tăng chúng không giữ giới luật, ta sẽ phát lệnh bài đi các phủ, bắt tăng đồ đem về trình lão hòa thượng, khiến cầu chịu 3 đàn giới pháp, mới cấp cho giới điệp, miễn tha xâu thuế. lão hòa thượng ra báo đơn thông tri, từ mồng 1 đến mồng 8 tháng Tư làm viên mãn cả ba đàn cũng được. Ta sẽ thống suất quyến thuộc, các quan văn võ, ai có tín tâm, đều xin làm đệ tử, chịu Bồ Tát giới, xin hòa thượng đặt
cho pháp danh đạo hiệu.
Vừa rồi lão hòa thượng truyền dạy, tuy thông sự có dịch thuật nhưng không được khúc chiết rõ ràng, nay xin chép lại từng điều đưa cho ta xem.
Ta bèn cáo về, điều trần Đại Việt sự nghi dâng lên. “Lão tăng đức bạc tài sơ, mong nhà vua đặc cách tri ngộ, xa xôi vài nghìn dặm, khiến sứ thỉnh cầu. Lão tăng cảm thành tâm của nhà vua, vượt biển đến đây, xông pha ba đào, chẳng phải ưa mệt, chỉ vì lòng yêu nhà vua rất sâu vậy. Từ ngày đến quý quốc đến nay, gần hai mươi ngày, ba phen triều kiến; nhà vua trọng lễ đãi đằng, chơn thành hỏi đạo; cho đến hậu cung thích thuộc bá quan văn võ, cũng thảy đều nhất thể quy y; chẳng phải một nước lâu đời vui làm lành, há dễ được như thế.
Lão tăng là người ngoại cuộc, vâng tuệ mạng Đức Phật, mở mang đạo pháp, kế người trước, khai hóa kẻ sau. Đại vương là chúa một nước, thống nhất bờ cõi, dùng hiền tài trấn vỗ quân nhân. Việc tuy khác nhau, nhưng đạo chỉ có một. Nếu đạo kẻ “ra đời” chẳng khá dùng để trị đời, thế thì đạo chia ra làm hai vậy. “Thiên hạ không hai đạo, Phật thánh đồng một lòng”. Ôi đạo chỉ có một mà thôi, lời thầy Mạnh Tử, há dối người sao.
Nay trong nước nhà vua, biên phòng nghiêm mật; tướng võ giỏi, tướng văn hay, quân đội oai hùng, chiến thuyền rực rỡ; chẳng những thời nay chẳng mấy nước được như thế, cho đến từ xưa lập quốc, quy mô rộng lớn, cũng chẳng qua nhường ấy mà thôi. Hoặc giả, giữ ngăn quan ải, muốn có phương pháp hay hơn; triều đình danh vị, muốn được quang minh chính đại hơn; chọn lính nuôi quân, sao cho ân oai tinh tế; cho đến vẻ đẹp của vương triều, sự tinh nhuệ của quân khí, bao nhiêu kế hoạch bảo dân hộ quốc, tựu trung còn có một đôi việc cần trù nghĩ thêm. Thì vua tôi quý quốc, đều là những bậc kiến thức cao minh, nghĩ rộng lo xa, chắc đã có đủ mưu hay chước lạ.
Nhưng thiết nghĩ, người xưa bảo rằng: “Kẻ ngu nghĩ nghìn
điều cũng có một điều được”, tôi đã ứng theo lời mời của nhà vua mà đến đây, nếu biết mà chẳng nói, ấy là phụ lòng nhà vua, mà cũng tự phụ lòng mình vậy. Sau đây trích ra vài điều, bày tỏ đại ý gọi là tỏ chút lòng thành. Chỉ giận, tiếng nói chẳng thông hiểu nhau, dầu có thông ngôn, cũng vị tất hiểu lẽ, mười lời chẳng phiên dịch được hai ba; thành thử lão tăng trong bụng có bao nhiêu điều muốn nói, chẳng làm sao để đạt được rõ ràng lên nhà vua; đối diện như cách nghìn trùng, chịu phụ lòng nhau biết mấy. Bất đắc dĩ phải tỏ ra giấy mực một vài ý kiến sau đây, để tùy ý nhà vua lựa chọn:
1. Nên tiến cống Trung triều, để chính danh hiệu Triều ta Khang Hy hoàng thượng thống trị 9 châu 15 tỉnh, đất dài vài vạn dặm, giáp binh nghìn trăm vạn hùng cường; mà bờ cõi quý bang lại cùng tỉnh Quảng Đông tiếp cận. Nay nếu nhà vua khiến sứ thông hảo với các quan Đốc, Vũ tướng quân, rồi sau dâng biểu tiến cống triều đình, xin phong vương để chính vị hiệu; lấy thanh thế tỉnh Quảng Đông làm ngoại viện, tự nhiên bọn tiểu khấu các nước lân bang nể sợ chẳng dám dòm ngó, thực là danh chánh ngôn thuận, ngồi hưởng thái bình, đó là kế hoạch vạn toàn. Lời thường bảo: “Chẳng đánh mà binh địch khuất phục” là vì lẽ đó. Về lý do thông khoản, nhà vua sẽ liệu mà tường trần.
2. Đặt đồn thú để củng cố biên thùy
Bản quốc cùng với Đông Kinh (Hà Nội) các xứ liên tiếp, chỉ cách một con sông mà thôi; dọc biên giới có nhiều chỗ nên đặt đồn binh phòng thủ, muốn dùng binh ít thì e đến khi xung đột, không đủ sức chống chọi; muốn dùng binh nhiều, thì phân phối không có đủ số người, đều không phải thiện sách cả. Lão tăng trải xem sơn xuyên quan yếu, có nhiều nơi có thể giảm binh số chỉ đặt một đội kỳ binh mà thôi, cũng có thể cố thủ được. Nếu nhà vua chịu dùng kế hoạch ấy, lão tăng sẽ xin điều trần sau.
3. Thương yêu quân sĩ, để cổ vũ lòng trung dũng Thời xưa trong việc võ bị, chẳng phân biệt binh với dân; lúc quốc gia vô sự, người dân được an cư nơi vườn ruộng, lo việc cấy cày, đến lúc có chiến tranh sẽ gọi ra nhập ngũ. Mỗi năm lúc việc nông rảnh rang, đem ra huấn luyện, giảng cho biết nghĩa vụ tôn quân thượng thân, dạy cho biết võ nghệ và phương pháp tác chiến, nhưng vẫn được hưởng lạc thú ở với gia đình.
Như vậy, lúc hữu sự, mọi người đều có lòng yêu chúa, đem ra ngự địch, tự nhiên dũng khí bội tăng, vui tòng quân để giết thù giúp nước. Nay nghe, dân trong nước một lúc đã biên tên sổ lính, trọn năm phải phục dịch cửa quan, chẳng được về làng, thăm viếng vợ con cha mẹ; tuy chúng sợ phép chẳng dám làm trái, nhưng trong lòng sao khỏi oán hờn. Sao chẳng cho quân sĩ luân phiên thao diễn, mỗi năm, hoặc nửa năm, hoặc một quý, cho ở quan phủ phục dịch huấn luyện; rồi cho thay phiên nhau về làng cày cấy, đoàn tụ với gia đình; bắt chước theo phép quân đồn ngày xưa. Đến lúc có việc phải động binh, mới kêu gọi tất tập ra trận. Như vậy nhơn dân sẽ vui lòng tôn đới nhà vua, xung phong đánh giặc, binh càng thêm mạnh mà dân càng thêm giàu, về các chi tiết sẽ điều trần sau.
4. Mở trường học để giáo dục nhơn tài
Khổng thánh là đấng “Vạn thế sư biểu”, Tứ thư, Ngũ kinh chép đủ phương pháp trị thế tu thân; chúng ta phải ráng sức làm theo, xử sự mới có thể hợp lý. Nay nhà vua nên dựng nhà quốc học, tôn thờ Khổng thánh, tàng trữ sách nho; mời các nhà lý học danh nho ra làm thầy để giảng minh đạo thánh. Từ vương thế tử, con em các đại thần, cho đến nhân dân tuấn tú đều cho vào học; rồi bày cách thi hạch, để phân biệt hơn thua; nung đúc lâu ngày, tự nhiên, mọi người hiểu biết cương thường luân lý; trị đạo chính đại, dần dần trở nên một nước văn minh.
Lâu nay, vì lão tăng đến đây chưa được mấy ngày, hình thế
trong nước chưa biết rõ, chính trị lợi tệ cũng chưa được tường, nên gặp việc chẳng nói, nói chẳng hết lời; nay chẳng qua nhơn những điều mắt thấy tai nghe, bày tỏ sơ lược một vài ý kiến; chờ ngày khảo sát tường tất sẽ điều trần thêm, để đáp lòng nhà vua. Vì muốn cho kỷ cương được chỉnh túc, lễ pháp được hoàn bị, trong có thể yên dân giữ nước, ngoài có thể ngăn giặc chống thù, bốn cõi thái bình, nhà an nước trị, ra đời, trị đời, đạo có một mà không hai vậy.
Đến ngày 26, nhà vua rước ta vào phương trượng mới. Quốc mẫu đãi cơm chay, vương huynh, công chúa dâng hương, thỉnh ta thuyết pháp.
Có thuyền khách từ Quảng Đông đến, hỏi thăm tin tức thuyền sau; nói vì khách hàng chưa tề tựu, có lẽ chậm vài ngày sẽ ra biển. Nhưng chờ mãi bặt vô âm tín, quá kỳ rồi vẫn chưa đến nơi, trong bụng rất lấy làm lo.
Những tăng chúng theo hầu, bất phục thủy thổ, quá nửa bị bệnh. Ta nhơn bị tiết tả, dạ dày nóng, miệng lở, ăn uống rất khó khăn, có kẻ vì ganh ghét quốc sư, gieo lời gièm pha, bảo quốc sư có tính hồ đồ, chẳng để ý chăm lo việc Phật; những tiền lúa nhà vua đưa cúng dường lão hòa thượng, phần nhiều bị ông ta xớ bớt72. Phần thì viên tri sự theo hầu, báo cáo hết lương. Nhơn tình chưa quen, tiếng tăm chẳng hiểu, quốc sư chểnh mảng, đại chúng u ơ.
Lúc ấy đương ngồi một mình, ngửa nhìn mây bay biến ảo, lắng nghe chim hót líu lo, ngùi ngùi than rằng: Truyện xưa chép Đức Khổng đi đến nước Thái, nước Trần, bị hết lương thực, việc ấy có chăng? Ta đức chẳng sánh kịp cổ nhơn, mà gặp gỡ lại đồng hoàn cảnh. Nhơn tẩu bút làm thành hai bài thơ.
Bài thứ 1
Lều cỏ ngồi thơ thẩn,
Mưa xuân phơi phới bay.
Gõ mâm không định ý,
Bầu đắng khá thương thay.
Bếp nguội lương chiều hết,
Người xa tin nhạn chầy.
Bơ vơ nhớ quê cũ,
Đỗ vũ kêu tối ngày.
Bài thứ 2
Ngoài biển mây thưa thớt,
Quanh rèm lởn vởn bay.
Vào rừng nguyên có hẹn,
Sao tớ lãng quên ngay.
Giấc mộng dầu êm ái,
Cảnh đời thường đổi thay.
Ngõ ngoài ai gánh giỏ,
Gõ khánh bảo cho hay.
Chùa Thiền Lâm vì thiếu sắp đặt, nên lương thực tiếp tế, ngẫu nhiên bị thiếu hụt.
Riêng phần ta, quốc vương cung dưỡng rất trọng hậu, cho đến trăm quan lớn nhỏ, hậu cung quý thích, thảy đều đưa tiền bạc xin yết kiến.
Theo phong tục, những người dâng lễ, nếu chẳng phải tự mình đem đến, ấy là “bất kính”, nên từ khước ngay. Ta mới đến, chưa hiểu phong tục, phần thì công việc rộn ràng, cho nên bao nhiêu đồ tặng biếu, đều thâu trữ cả vào một nơi, chưa có thì giờ kiểm điểm. Đến nay mới lựa ra từng món, món nào chẳng phải tự tay người tặng đem đến, đều viết thư tạ ơn và khiến người đem trả lại.
Ngày nọ, có quan Đại học sĩ, Ký lục Hào Đức hầu khiến con trai đem tiền bạc đến yết kiến, kèm thêm một bài thơ thất ngôn Đường luật. Thơ tuy chưa có thể nói là phong nhã, nhưng cũng biết thanh luật âm vận, cũng biết giải lý, có thể cho là xuất sắc, như cỏ linh chi, như chim phượng hoàng của xứ này, người con coi cũng có vẻ thanh tú.
Đêm đến, cùng quốc sư nói chuyện phiếm, nhơn hỏi thăm danh sĩ xứ này, có ai có thể mời vào Bạch xã (tức thi xã), để làm thơ xướng họa cho vui không? Quốc sư liền giới thiệu người ấy (tức Hào Đức hầu), nhơn duyệt lại bài thơ bữa trước.
Nghe nói Thiền Lâm mạch rộng khơi,
Thấm nhuần ơn trạch khắp nơi nơi.
Ma ha trăng dọi trên đàn hạnh,
Bát nhã gió lồng trước cửa mai.
Kìa sắc ấy không, không ấy sắc,
Nào ai cầu tớ, tớ cầu ai.
Nhớ nhung đây đó lòng như một,
Suối Hổ73 nhìn nhau hả hả cười.
Thơ để tả tính tình, câu thơ khéo hay vụng, chẳng bàn làm gì, nhưng ba chữ Trăng Ma ha đối Gió Bát nhã, còn có chỗ cần châm chước phê bình. Nay hãy cứ theo nguyên vận họa lại bài thơ và viết kèm một bức thư để thảo luận mấy lời trong bài nguyên tác.
Tôi đến quý quốc mà chẳng đến yết kiến các ông, chẳng phải cố ý kiêu ngạo. Kẻ tu đạo chẳng muốn lấy thường sáo ngoài đời để đãi các ông. Nếu dập đầu trước thềm, để dua mị bậc cao minh, sẽ bị người đời cười chết. Xưa Thao Quang làm thơ đáp Bạch Cư Dị có câu rằng: “Mây trăng khá bay về núi biếc, trăng thanh khôn khiến tách trời xanh”, rõ ràng khách ngoài đời chẳng muốn xu hướng kẻ quyền quý vậy. Bần tăng tuy đạo đức mỏng manh, há chẳng lấy Bạch Cư Dị đãi người quân tử hay sao?
Minh công đã khiến công tử hạ cố, lại còn ban cho quà quý với thơ hay. Đọc qua một lần, thấy lời thơ lưu loát, tuy trong câu không dùng đến những chữ “yên hà khâu hác” của nhà thơ, mà ý tứ “yên hà khâu hác” đều ngụ ở trong ấy. Đỗ Công Bộ bảo rằng: “Chính tự mình ông có cốt tiên, người đời làm sao biết rõ được”, chính là vì thế.
Vần thơ đại nhã ban cho, quý hơn minh châu mười hộc, nỗi mừng xiết kể; còn lễ biếu trọng hậu, bần tăng chẳng dám lãnh thọ.
Một mặt đọc thơ, một mặt viết giấy trả lời, còn lo không có thơ để đáp tạ. Đến khi ngâm nga kỹ câu thơ bổng bay của minh công, trong câu dùng chữ “Trăng Ma ha” để đối với “Gió Bát nhã” ví như ngọc bích có chút tì, tiếc chưa được toàn mỹ. Theo thiển ý xin đổi hai chữ “Ma ha” làm “Bồ đề”, vì “Gió Bát nhã” (Bát nhã phong) là chữ trong bài thơ của Tô Tử Chiêm tặng Phật Ấn, còn “Bồ đề nguyệt” là chữ trong bài thơ của Bạch Cư Dị tặng Điểu Oa lão tăng. Tôi chẳng dám ví với Điểu Oa, Phật Ấn nhưng minh công khá so sánh với họ Bạch, họ Tô; ngu ý như vậy, chẳng biết có thỏa đáng chăng? Sau đây xin họa nguyên vận bài thơ, nhờ minh công chỉ giáo.
Mênh mông bể học sánh tài ba,
Nho Thích cùng thông một lẽ mà.
Trước hãy vịnh để xem thói nước,
Từng nghe thi lễ tiếng con nhà.
Sáng soi ta vẫn cầm gương báu,
Tiến phát người đương giữa tuổi hoa.
Nếu gọi Ma ha là bóng nguyệt,
Sợ e lầm chiếu đấng Duy Ma.
Có thương khách từ Huệ Châu đến, thuật chuyện: Tử Thuyên Vương sứ quân hiện nay được thăng nhiệm Tuần vũ Xuyên Nam. Ta đương khách ngụ nước ngoài, chịu lỗi không được thân hành tống tiễn. Tri kỷ làng thơ, phương trời xa cách, làm ít vần thơ gọi là để tỏ tình:
Nhớ xưa Tuần Châu đến nhiệm chức,
Lều cỏ mai vàng đương trổ bông.
Hiên Cối không kia cởi dải áo,
Diến Tâm đình nọ ngồi thung dung.
Phong lưu Thái thú người kinh kỳ,
Từ bé học gươm và học sử.
Quyết chí làm quan chẳng kiếm tiền, Thơ ca chúng đều phục tài tử.
Tính ưa kết giao phương ngoại sĩ, Xem nhẹ phú quý, ai anh hào? Phong nhã tài hoa đầy bốn biển, Nói cười chẳng ngán một người nào. Phong hồ rảnh việc ngồi câu chơi, Gió thu mưa khói tối đen trời.
Đốt đèn lên bến lại lên gác,
Tựa gác ngâm nga ngắm tuyết rơi. Tử Chiêm kiếp sau lại hơn trước, Khiến dân không kiện chúng khen hiền. Ngày đến La Phù thăm con trẻ, Rủ ta lập hội bàn đạo thiền.
Rửa gót dòng trong mở thạnh hội, Trường giang đêm vắng tiếng âm thầm. Bỗng chốc reo lên chẳng hay biết, Nhìn nhau không nói ý thâm trầm. Khuyên ép lão tăng làm dân say, Cởi áo đổi rượu nghèo chẳng nài. Hễ đến Ngũ Dương tìm viếng bạn, Mười năm tình thực như một ngày. Lưu lạc bỗng làm khách ngoại dương, Quay nhìn mây trắng trời một phương. Nghe đồn phụng chiếu tuần Ba Thục, Đường qua Đại Việt, ra Tiêu Tương. Kìa chẳng thấy
Nga My sơn,
Đèo đỏ lèn xanh chẳng khá trèo. Lại chẳng thấy
Thanh Lương đài,
Mây khói sắn bìm đường chông gai. Thương ôi danh thắng sao tịch mịch, Ngừng xe phi bút đề Kiếm Các; Quanh co uốn éo bậc thang mây, Trượng phu ruổi bước mới kỳ tài. Đỉnh gióc hang công bao hiểm trở, Suối đổ lưu ly tán loạn bay.
Thấp cao gò đống nhiều cỏ thơm, Núi non càng tiến càng xinh tốt. Đường đi quanh co đá chởm chởm, Đi mãi đường dài đến cùng tột. Ông vào đất Thục núi nghìn trùng, Ta cỡi bè tiên muôn dặm thông. An Nam cách trở ngoài Viêm Hải, Đường cũ Phục Ba thẳng ruổi giong. Nhơn sinh tán tụ nghìn muôn dặm, Kẻ ở người đi ai xui khiến,
Ông đi lên núi, núi là núi,
Ta đi qua biển, biển là biển.
Kẻ cỡi thuyền từ vì phép đạo, Kẻ cầm cờ sứ kế Văn Ông74.
Nước biếc non xanh tuy khác thế, Hùng kỳ quyệt quái cũng tương đồng. Nhớ lưỡi búa ngọc hình bán nguyệt, Nhớ bài điều trần bàn trị đạo. Giở tập văn thơ bạn gởi cho,
Xuân tàn góc biển cảnh thê lương. Thơ cũ lần xem lòng bi thương, Ngao ngán xuân sầu ngày thẳm thẳm. Gió đông tán loạn cuốn hoa dương. Hạc vàng vỗ cánh bến Châu Giang, Ngọn triều trắng xóa sông Cừ Đường.
Rừng rậm cây cao tiếng vượn hú, Biết đâu mai gió với chiều sương. Ba đèo bảy đoạn uốn đường đê, Vâng lệnh công truyền phải gắng đi. Góc biển bên trời dầu mộng tưởng, Sao bằng tiễn bạn lúc phân kỳ. Ví phỏng bình bát quay thuyền lại, Buồm lớn cột cao lướt gió bay. Gió biển dầu xuôi dầu mau chóng, Ngày về người đã chia đông tây. Chưa hẹn ngày nào ngày hậu hội, Ly ca một khúc giải lòng này.
HẢI NGOẠI KỶ SỰ
QUYỂN II
ơ tuần tháng Ba, đương làm nhà Chiêu Đề trong cung, nhà vua tạm dời ra ở Thủy Điện, không có chỗ tiếp khách, vì vậy nên ít khi được gặp nhau. Tăng chúng thập phương
đầu đơn xin thọ giới đã có hơn 600 người, nhưng liêu xá chỗ ở và đồ dùng hằng ngày chẳng có một món gì. Tri sự thương lượng với quốc sư, chỉ nghe trả lời bằng hai tiếng “dễ dàng” mà thôi. Giới tử hẹn đến ngày 15 sẽ tiến đàn, đọc luật và diễn lễ.
Thuyền sau vẫn chưa thấy đến, các tăng chúng chức việc và nhất thiết các món trang nghiêm, cờ phướn đều chưa tề tựu. Dầu không có việc gì xảy ra đáng lo, nhưng vì đã gần đến nhật kỳ, nên cũng nóng lòng trông đợi. Bồi hồi dưới gốc dừa cây mít, làm thành Khách trung khiển hứng 27 bài.
Bài thứ 1
Tháng Ba hoa rụng hết,
Người bảy châu chưa qua.
Cầu mống tuôn mưa xuống,
Mặt trời nhảy sóng ra.
Tiết hầu qua hạ chí,
Gió hết thổi xuân hòa.
Tiếng địch ngân rừng vắng,
Sầu khôn giải ý ta.
Bài thứ 2
Nam cực ngoài ven cõi,
Một vùng đất uốn quanh.
Cát ngời bờ Khước Nguyệt,
Mây dấy đảo Chiêm Thành.
Điến xá thuyền đánh cá,
Công đường nhà lợp tranh.
Chẳng cần hỏi cấm lệ,
Phóng khoáng kẻ tu hành.
Bài thứ 3
Tháng Giêng vừa mới nửa, Lúa ruộng đã đơm bông. Lúa gặt năm ba vụ,
Áo the mặc mùa đông. Khách vào, hái mít đãi, Nhà cất, sẵn tre trồng
Những mảng75 vui đùa giỡn Chiều xuân ngả bóng hồng.
Bài thứ 4
Bóng tà len cửa sổ,
Xõa tóc dạo quanh sân. Tứ khách mê chiều xế,
Ý thơ tiếc buổi xuân.
Lá dừa sâu viết chữ,
Hạt cỏ chim gieo vần.
Nhà kín quên xa lạ,
Hồn quê khuây khỏa dần.
Bài thứ 5
Sóng biển tung trời vỗ, Núi non quanh đất rào. Suốt đêm vang gió sấm, Cây cối vụt lên cao.
Tê giác văn ngời sáng, Tiên cầm lông trắng phau. Phiêu lưu bọn chúng tớ, Mây nước biết nơi nào.
Bài thứ 6
Dòng nước cách tây đông, Nửa làng toàn điểu ông. Dấu đường, chân ấn cát, Nước giếng, mạch lưu thông. Cửa mở trong gió trúc, Người đi dưới mưa đồng. Cơm không no ba bữa, Đầy phố người chơi rong. Bài thứ 7
Ngăn địch bày đồng pháo, Phòng gian rào tre gai. Võ biền đội khăn quặp, Văn chức mặc áo dài.
Quan phủ khắp núi biển, Chùa chiền tức cấm đài. Quốc vương vì dân chúng, Cầu Phật mở đàn chay.
Bài thứ 8
Phiên quan quen chuyện vãn, Tiếng nói chẳng hiểu nhau. Cũng muốn thường qua lại, Phần đông chỉ cháo rau. Yêu ta lòng chẳng dối,
Lo đói biết làm sao.
Luồng gió bên rừng chuyển, Tiếng hoa rụng ào ào.
Bài thứ 9
Nhơn thế nào xa lạ,
Lòng người tự ghét thương. Ồn ào không quản ngại, Quê vụng dám chán chường. Trò chuyện phất quạt ngọc, Tóc râu điểm hoa sương. Rèm thưa hơi gió lọt,
Thơm phức Dạ lai hương76.
Bài thứ 10
Xuân về, người vẫn ở, Lê gậy đi một mình.
Lay lắt nương trần tục, Thờ ơ ngắm vật tình.
Cá kêu (?) gió hầu trở, Voi rống, trăng vừa lên. Gặp mặt khôn chào hỏi, Người đều không họ tên.
Bài thứ 11
Bốn biển trời lồng lộng, Đến đâu cũng là nhà.
Trắng thêm vài cội tóc, Đỏ rụng mấy cành hoa. Đuổi lộc vui theo Hán, Cỡi thoi mộng chơi Hà.
Luống nhọc lòng ả Chức, Tặng đá chống cơ xa77.
Bài thứ 12
Bên giường cành cổ thụ, Tiêu sơ giống cảnh thu. Mây rừng bay lởn vởn, Chim núi hát líu lo.
Khóm trúc bên khe mọc, Quanh dòng, bóng âm u. Nhà không chẳng đóng cửa, Bóng nguyệt vừa đứng đầu.
Bài thứ 13
Dân làng toàn lão nhược, Trai tráng ra tòng quân. Nuôi trẻ đành nhờ vợ, Thờ vua phải hiến thân. Nhà hư sợ mưa dột,
Cây héo mặc sương nhuần. Nỗi khổ trong làng mạc, Ai tâu lên chín tầng.
Bài thứ 14
Bè nổi cất nhà ở,
Bao quanh ngọn thủy triều. Cỏ non xuân nhuốm sắc, Núi biếc thu in màu.
Trong ấy như vừa đủ, Ngoài ra chẳng chút cầu. Đứng nhìn bên bãi cát, Khói xanh tỏa Lục Châu.
Bài thứ 15
Kiếm chác nghề nghiên bút, Đầu ruổi lợi chẳng bao. Hay hèn tự khác biệt, Lớn nhỏ cách xa nhau.
Hang kiến hầu xưng chúa, Cung rồng ai khoe giàu. Khai Nguyên78 hiệu tiền quý, Đồng bỏ ở bên Tàu.
Bài thứ 16
Gió nồng khi quá ngọ,
Hơi mát lúc hừng đông. Đêm lặng nghe cơn sóng, Non cao dội tiếng giông. Xưởng voi nuôi mặt hậu, Chợ cá khít bên hông.
Khách khứa thâu đêm đến, Tiếp đãi có người trông.
Bài thứ 17
Y bát rong chơi khắp,
Tha hương tự hiểu mình. Không thơ cầu yết kiến, Có chữ gửi thăm tình.
Gió thổi màn hoa ánh,
Mưa sa tiếng nhái inh. Tuổi già giàu sức khỏe, Mừng gặp lúc thanh bình.
Bài thứ 18
Không dám làm cao cách, Khen người quý xét lâu. Xem qua dường sắc cỏ, Đóng cửa nghiệm rừng sâu. Cá dở, hàng thường ế,
Đàn hay, khúc khó cầu. Thành Liên Tử muốn tạ79, Mây khói biết tìm đâu.
Bài thứ 19
Thương mãi giồi son phấn, Quan dân diện áo xanh. Khi chầu khăn gấm mở, Lúc chuyện bóng trời chênh. Tóc mái khoe tơ mịn,
Chân hoa trổ bước xinh.
Chu Nam chưa hiểu ý80, Giang Hán khó đồng thanh81.
Bài thứ 20
Nước Nam sông vạn phái, Sao Bắc núi ngàn chầu. Nhơ nhởn làm khách trú, Kinh doanh có kẻ giàu.
Chim bay tung quạt gió, Rồng múa tuôn mưa ngâu. Trông ngoài nhìn thiên tượng, Thanh không sáng một bầu.
Bài thứ 21
Lư Tổ về Dữu Lĩnh,
Thiền tông mở phương nam. Huệ lan ta há dám,
Dưa muối ngươi không tham. Biến quái thành số ngũ, Trùng ly động hào tam. Học hành không nhắc nhủ, Chim én kêu làm nhàm.
Bài thứ 22
Mặt trắng răng đen nhánh, Đứng cười tựa cửa tre. Khách sang ngồi chiếu đất, Mâm gỗ cũng đem khoe. Nước mía uống ngon thật, Tinh dừa ăn khỏe ghê.
Đêm nghe chuông phải tránh, Voi cái đi săn về82.
Bài thứ 23
Ai bảo biển không đáy? Giao Châu đất xiên xiên. Bên đê mà tướng phủ,
Dưới cửa buộc quân thuyền. Già tháng tre sinh gạo,
Lạnh trời bông may mền. Dân phong ít thuần hậu, Nhờ có quốc vương hiền.
Bài thứ 24
Lời nói nhiều câu bí,
Việc làm ra dáng quê,
Tánh tình thường thích thảng,
Cây trái cũng sum sê.
Chữ lạ chẳng ai hỏi,
Hương thơm không chỗ chê.
Quả xoài lại rất quý,
Ngày tối ăn no nê.
Bài thứ 25
Thần sóng thường phù hộ,
Thuyền êm lúc lại qua.
Buồm bay xem bể rộng,
Mây dứt biết non xa.
Ếch oáp khi mưa lụt,
Chim kêu lúc rụng hoa.
Hình hài thường tự thích,
Chẳng đợi gió xuân hòa.
Bài thứ 26
Ngày xuân cô gái trẻ,
Xắn áo lội bờ dâu.
Lưới bện dây làm võng,
Thúng đan cỏ đội đầu.
Đương mùa gây cúc giậu,
Trở mái hái sen bàu.
Ấm áp trời Nam Việt,
Trăm hoa hớn hở màu.
Bài thứ 27
Cà sa đi khắp xứ,
Kinh kệ cũng tao đàn.
Tài hèn thương tóc bạc,
Sức khỏe đáng kho vàng.
Hiểm trở tùy lòng thế,
Thâm nghiêm mặc cửa quan.
Hư danh lòng chẳng muốn,
Đâu cũng cảnh hồ san.
Chiều ngày 10 (tháng Ba năm Ất Hợi), Quốc vương sai Nội
giám đến báo tin mừng: “Vừa tiếp báo cáo của quan địa phương, nói thuyền sau của lão hòa thượng đã đến đảo Tiêm Bích La. Quốc vương đã ra lệnh cho thuyền điến xá (thuyền đánh cá)83 đón tiếp đồ đệ và vật hạng của lão hòa thượng, nay mai sẽ ra đến nơi”.
Đêm 13 (tháng Ba năm Ất Hợi) thuyền ra đến Thuận Hóa. Sáng sớm tăng chúng lên yết kiến, người nào cũng chân tay lấm láp, mặt mày cháy đen. Chúng thuật chuyện rằng: “Thuyền ra cửa từ ngày 20 tháng Hai, chỉ được một ngày một đêm thuận gió, còn quá nửa tháng dật dờ trôi nổi trên mặt đại dương. Chúng đã trông thấy biết bao quái lạ, có những chim quạ lớn, lông đuôi dài thòng như đeo mũi tên, gọi là quạ “mũi tên” (tiễn nha), hằng ngày hay liệng trên cột buồm. Lại trên mặt sóng, có những cây cờ lệnh nhỏ, hoặc đỏ hoặc đen, khi chìm khi nổi, cây này trôi qua cây khác kéo đến, liên tục hàng vài mươi cây. Người trong tuyển ngó nhau sợ hãi, không dám lên tiếng. Người ta bảo đó là những thuyền ma, ai gặp thấy thì bất lợi. Ngày nọ ba đào hùng dũng, mây kéo mịt mù, phía tả thuyền có một con rồng đen uốn lượn lù lù hiện ra. Thủy thủ phải đốt lưu huỳnh, lông gà, lấy đồ dơ uế vẩy lên, khiến quái vật không dám sáp lại. Lại một đêm nọ, mây kéo tối mò, trăng sao chẳng có; thình lình một hòn núi lửa nổi lên ở sau thuyền, ánh sáng rọi lên mặt buồm, như ánh lửa cháy đồng phản chiếu; dần dần núi lửa ấy đi lên ngang hàng với thuyền, bọn thủy thủ ùa ra lấy cây củi gõ vào mạn thuyền liên thanh. Chừng hai canh sau, nghe bánh lái chạm vào mình vật ấy. Thuyền hơi quay lại và quái vật liền biến mất. Vật ấy tức là một loài cá hải thu, ánh sáng là luồng điện của mắt cá, nhưng chẳng biết thân cá to bằng chừng nào. Bềnh bồng trôi nổi, ma quái hiện hình; trông ngóng Việt Nam, tít mù tăm dạng. Gió nam thổi mạnh, mọi người đều tái mặt; cầu trời khấn Phật, phù hộ cho gió xuôi. Vì người đà công84 không thuộc đường, lại trễ thêm hai ngày, gạo nước dần
dần hết trơn, hầu giam đói cả bọn giữa “lầu ma chợ bóng” (thần lâu hải thị). Mọi người kể chuyện, tủi tủi mừng mừng. Ta bảo: “Thôi, hãy lui xuống nghỉ ngơi tắm rửa”.
Lúc ấy số tăng chúng đến cầu giới, đã lên đến số nghìn, mà vật hạng cần dùng trong giới đàn, quốc sư chẳng chút lo liệu. Xảy có công chúa đến, ta lấy việc ấy trình bày. Công chúa nói: “Lão hòa thượng hãy vẽ đồ hình và kê đơn các món cần dùng. Tôi đem trình quốc vương, có thể ứng biện xong lập tức”.
Ngày hôm sau, quốc vương khiến mời ta đem các tăng nhơn vừa đến thuyền sau, vào dự tiệc chay. Vương ân cần hỏi han từng người một. Tức thì phê lệnh truyền quan quân các dinh chia nhau dựng cất liêu xá, hạn trong ba ngày lạc thành, bàn ghế khí mãnh hạn 10 ngày phải có đầy đủ. Rồi thì, vân trù (nhà bếp), thiển đường, vân thủy đường dựng lên ở phía tả; thị liêu, trai đường, độc luật đường, Am Chủ liêu dựng lên ở phía hữu; ở giữa làm một giới đàn. Suốt sáng thâu đêm, chỉ trong ba bốn ngày là xong. Ngoài ra, khuân vác khí cụ, hằng ngày trên đường đông như kiến cỏ, hơn 2000 vân thủy giới tử ai lo phần việc nấy. Quốc sư dọn cơm trưa, xin treo chuông mõ làm hiệu lệnh, tu chỉnh quy ước và đề những liễn đối như sau.
Câu đối trước cửa chùa:
An Nam quốc thổ bất nhị môn, mạc thác quá khứ,
Thuận Hóa Thiền Lâm đệ nhất bộ, hướng giá lý lai.
Dịch nghĩa:
Đất nước An Nam chỉ một cửa, chớ lầm bỏ qua.
Rừng thiền Thuận Hóa bước đầu tiên, tiến vào trong ấy.
Câu đối dán ở trai đường (nhà cơm chay):
Sa oa lý hoạt chử Phật thôn, hữu giá ban thủ cước, thủy thọ đắc quốc vương cung dưỡng,
Khôi vu trung sinh cầm Tổ tước, vô na dạng đố bì, tránh năng tiêu Diêm Lão phạn tiền.
Dịch nghĩa:
Xanh chảo nấu đồ cúng Phật, có tay chân thế ấy, mới được nhà Quốc
chúa cúng dường,
Bát mâm bày dọn cơm thầy, không dạ dày nhường kia, sao tiêu hết Diêm Vương bố thí.
Câu đối trước giới đàn:
Thích thị trì luật, nho giả lý trung, tổng yếu tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại,
Quân tử sắc cơ, thiền nhơn tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn.
Dịch nghĩa:
Cửa Phật giới luật, nhà nho trung dung, chỉ cốt thành ý chính tâm, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có kính trực,
Quân tử cơ vi, thầy chùa nhập định, đều để minh tâm kiến tính, bởi vì răn chỗ chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe.
Đến ngày 24 các đệ tử tiến vào giới đường, oai nghi trang nghiêm, cử chỉ thuần thục. Khắp cả nước kéo nhau đến xem, đều hoan hỷ cho là một đại hội chưa từng có bao giờ!
Đại học sĩ viết một bài khải và họa vần bài thơ trước, khiến người đưa đến.
Bản quốc Học sĩ, Ký lục sự Hào Đức hầu “Mỗ” cúi đầu dâng thư,
Thượng quốc Trường Thọ Thạch Ông lão hòa thượng, Đại Viên Giác Tòa hạ:
Gió thiền tông thổi đến vườn Hươu,
Đường giác ngộ mở thông rừng Hạc.
Muôn phương hướng hóa,
Vạn chúng quy y.
Kính nay:
Đại Viên Giác, ngũ nhẫn giữ lòng,
Bát lưu rõ đạo.
Phượng hoàng cửa bụt, phong nghi rực rỡ mảnh trăng tròn. Kỳ lân trên đời, khí chất dịu hòa luồng gió mát.
Xa đưa bè báu,
Sáng chói rừng châu.
Cầm bát vàng thẳng đến đông bang, phương tiện nhường cha, trí độ nhường mẹ.
Thả chén gỗ vượt qua Nam Hải, pháp hỷ là vợ, từ bi là con.
Ngọn tuệ đăng soi sáng làu làu,
Nguồn trí thủy tuôn ra cuồn cuộn.
Mỗ, sinh nơi cô lậu,
Học thẹn sai lầm.
Tập lễ học thi, qua sân Lý85 chưa nghe lời dạy bảo,
Tìm câu trích chữ, lãng chí hồng86 đã mang tiếng cười chê. Hằng lo bước dõi đường ngay,
Chỉ sợ đi lầm nẻo vạy.
Mạnh Tử nghiêm, Khổng Tử thứ, xưa người nào nay lại người nào. Công ông Vũ tài ông Chu, ấy một buổi mà kia một buổi.
Tuy xem biển biết đâu là bờ bến.
Nhưng mười nhà ắt có kẻ ngay tin.
Trước mông hậu ý cho quà, lòng những ước chi lan bè bạn. Nên mới khiến dâng lễ mọn, dám nghĩ điều đào lý lại qua. Ước có ngày mở yến lộc minh,
Đâu tưởng nỗi vô duyên nhạn tệ.
Riêng lòng luống thẹn,
Rộng lượng bao dung.
Đã mông sửa chữ sai lầm,
Lại được cho thơ đáp họa.
Bóng thiều quang rực rỡ sông văn, mở đường tiến thủ.
Mây ngũ sắc vẻ vang biển học, khắc dạ tri ân.
Ngưỡng mộ biết bao,
Vui mừng xiết kể!
Thiết nghĩ:
Người xưa làm thơ để hưng khởi lòng người (khả dĩ hưng), để xem xét phong tục (khả dĩ quan), trong thơ phần nhiều ghi tên những cây cỏ chim muông, chẳng qua để ngâm vịnh tính tình, sao cho “tư tưởng không quấy” (tư vô tà) là được. Đáng quý nhất là ý thơ trung hậu, đáng khinh nhất là lối văn phù hoa; chẳng khá lấy văn hại lời, lấy lời hại ý vậy. Huống “Bồ đề”, “Ma ha”, “Bát nhã”, nguyên lai chẳng có vật gì hết. Ma ha không có vật, ấy là không “trăng” vậy. Bồ đề không cây, há có “trăng” hay sao? Bát nhã không buồm, há có gió hay sao? Chẳng qua người làm thơ lấy chữ gió để tượng trưng “thanh lương” (trong mát), lấy chữ “trăng” để tượng trưng “viên
minh” (trong sáng), cốt để hình dung cái tính sắc sắc không không vậy. Há có trăng thật gió thật, mà chúng ta phải bàn “Bồ đề”, “Ma ha”, “Bát nhã”, chữ này đáng dùng, chữ kia không đáng dùng. Người xưa nói rằng: “Ma ha là bản thể chơn như, lớn không ngoài, nhỏ không trong, trời chẳng hay che, đất chẳng hay chở, sáng sủa soi khắp mọi nơi”, lại nói rằng: “Ma ni hiện thành ngũ sắc, mặt trăng phát ra vành sáng”, đều là trực chỉ toàn để mà nói, chẳng phải thiên lệch nói trống không. Tôi dùng chữ “trăng Ma ha” là vì lẽ ấy.
Nay nhơn lão hòa thượng dạy cải chính, nên phải biện bạch, chưa biết có phải vậy chăng? Xin lượng trên chớ quở trách, thật tôi đã gánh nước bán cho biển vậy. Vốn nghe Đại Viên Giác, cao phong độ thế, thiện đạo giúp người, dám bày thiển cận đôi lời, mong lượng khoan hồng tha thứ. Nay mai xin đến bái yết, ngõ được nghe lời dạy bảo cao minh. Giấy vắn tình dài, tạm xin gác bút.
Thơ rằng: (Điệp vận bài trước)
Nho Thích xưa nay vẫn khác dòng,
Mặc dầu dòng khác vẫn tương thông.
Chiếc thuyền cửa Pháp vành trăng tỏ,
Tay lái nhà nho ngọn gió lồng.
Rộng mở cửa thiền gương sáng chói,
Gạn khơi sông Tứ nước xanh trong.
Đến đây ắt có đem nguồn lợi,
Âu cũng nhơn duyên tự hóa công.
Bài khải trên lời lẽ uyển chuyển, ý tứ sâu xa, nhưng bàn về “Ma ha”, “Chơn như” có hơi cưỡng lý, chưa được thích đáng, cần phải có đôi lời tỏ lại cùng nhau.
Nhơn họa vần bài thơ và viết bài khải trả lời rằng: Mỗ, chắp tay kính đáp thư,
Đại Học sĩ Quân hầu các hạ.
Gió đức dịu hòa, dân chúng đội ơn mưa móc,
Bóng thiều sáng chói, quốc gia vững thế phiên bình.
Quân sĩ hân hoan,
Gần xa chiêm ngưỡng.
Nay kính,
Đại học sĩ Ký lục Tôn công,
Rồng thiêng trên thế,
Ngựa hay nhà trời.
Văn võ toàn tài, trong bụng bao hàm tượng vĩ,
Khuê chương rạng vẻ, cõi ngoài coi việc tuần tuyên.
Chốn đơn đình cầm bút xuân thu,
Nơi tứ phủ vui tình phong nguyệt.
Học nho kiêm hiểu Phật, từ trí tri cách vật, thấu dò tính mệnh gốc nguồn,
Giảng Dịch biết đạo trời, do xem tượng chiêm hào, biết rõ âm dương chí lý.
Trương Vô Tận thuở trước, làm tướng thần mà biệt đãi Đức Sơn,
Lý Tuân Húc ngày xưa, làm Đô úy mà kính tôn Cốc Ẩn. Chỉ muốn dốc lòng vì đạo,
Há cam lãng bỏ niềm tu.
Thầy Chu học rộng, thầy Trình hiểu sâu, chưa được thấy người, đã từng nghe tiếng,
Ông Hồi như ngu, ông Sâm lỗ độn, nhớ nhung thuở trước, than tiếc ngày nay.
Lão tăng,
Thẹn chửa đọc thư,
Dám khoe biết chữ.
Chơi mây năm núi, đội trên đầu một nón kiền khôn,
Thả chén qua sông, treo đầu gậy nửa bầu phong nguyệt.
Muốn lấy pháp linh hàng tượng dữ,
Rắp đem bình bát úp rồng thiêng.
Lưới bủa khắp trời, chim chưa muốn bắt,
Cần gieo vòng nguyệt, cá chẳng vừa câu.
Ra núi vào đời,
Có người có tớ.
Đã xa thời thánh,
Ai kẻ chiêu hiền.
May quốc vương đã gửi thư mời,
Kế hiền sĩ lại đem lễ biếu.
Đại nhơn chưa được tiếp, đã gặp công tử qua chơi.
Tôn giá chửa đến nơi, đã có giai chương gửi tặng.
Tự thẹn gái quê làm tốt, gieo sành dẫn ngọc dở dang.
Chẳng qua thầy bói nói ma, điểm sắt làm vàng quấy quá.
Chỉ muốn học đòi quân tử,
Cho nên thù chính đại phương.
Vừa nghe cao luận mấy lời,
Hầu khiến nhà chùa ngọng miệng.
Thiết nghĩ,
Văn Lục kinh do cố thánh chép truyền, mở nguồn tính đạo. Sách Chư tử của tiền hiền để lại, giải nghĩa tinh vi.
Sáng tác từ xưa,
Lưu truyền hậu thế.
Phục tùng chẳng rảnh,
Nghiên cứu dám lười.
Làm sách dạy đời, cổ thánh còn đương khiêm nhượng,
Theo khuôn ngày trước, hậu hiền cần phải gắng công.
Huống nay văn hiến gặp thời, mỗi việc mỗi điều, cần xét gốc nguồn cho rõ,
Sẵn có điển chương đầy đủ, một câu một chữ, phải tìm xuất xứ tại đâu. Xem Đạo Nguyên chua sách Thủy kinh, mỗi câu văn đều có điển cứ, Đọc Lục Thần giải nghĩa Văn tuyển, mỗi từ ngữ đều có căn nguyên. Bởi thế, sách ghét đặt bày,
Học chê nói bướng, là ý ấy vậy.
Như nói về thơ, sau ba trăm thiên Kinh Thi, phải nói đến thơ Tứ Đường. Đường thơ ắt khen Lý Đỗ. Nay lấy thơ hai ông, trích ra một hai câu có dùng đến chữ phong, chữ nguyệt mà nói. Lý Bạch trong một bài cổ phong, có câu “Thiềm thừ bạc thái không, thực thử Dao Trì nguyệt”; ba chữ Dao Trì nguyệt, gốc do câu thơ “Bạch vân tự để hương, hàm thổ Dao Trì nguyệt” của Thẩm Ước mà ra. Lại câu “Trường An nhất phiến nguyệt”, gốc do câu “Phiến nguyệt khuy hoa đàm” của Từ Lăng. Câu “Ngã lai Kỷ Kiều thượng, hoài cổ Khâm anh phong”, gốc ở câu “Trương anh phong ư hải điện”, trong bài Bắc Sơn di văn mà ra. Đỗ Phủ trong bài thơ Tiền xuất tái có câu “Dĩ khứ Hán
nguyệt viễn” gốc ở câu thơ “Sương lâu minh Hán nguyệt” của Trương Chính; câu “Trung thiên huyền minh nguyệt”, gốc ở câu “Huyền minh nguyệt dĩ tự chiếu” trong bàiTrường môn phú của Tương Như. Câu “Sơn thâm khổ đa phong” gốc ở câu “Khê cốc đa phong” của Ngụy Văn đế mà ra. Từ đời Hán Ngụy trở về sau, học giả dùng chữ đặt câu, bao giờ cũng căn cứ nguồn gốc, chẳng khi nào sáng tác những chữ sống sượng, những loại như thế, chẳng khá xiết kể.
Đến như Bồ đề không phải trăng mà nói trăng, Bát nhã không phải gió mà nói gió; nghĩa là không phải thực gió, thực trăng, tai mắt có thể nhận thấy, nhưng có thể ngầm hiểu mà không thể nói ra vậy. Nhược bằng lấymát mẻ (thanh lương), tròn sáng (viên minh), để ví với gió trăng, không hư khoát lược mà xưng rằng tính, ấy là chưa thấu rõ chữ tính của Phật giáo, ấy chẳng qua một cách kiến giải của học giả, chưa có thể nói là trực chỉ toàn đề; cho thế làm phải, nhưng tựu trung đã khúc lý có khuyết điểm rồi. Vì vậy, nên lão tăng không thể không nói. Hà huống đem một câu “trời chẳng che, đất chẳng chở” giáo đầu, dẫn làm chủ tể, muốn càn quét tất cả, chẳng quản hại đến người khác; ấy là chẳng hiểu ý chỉ “khi nói chính, khi nói thiên, khi nói hối hộ”. Xá Oa thiền lưu, coi mười người như một chục, rất trái với diệu mật toàn đề, xin minh công chớ nên lập luận như thế. Tôn chỉ nhà Phật chúng tôi, có quyền có thực, có chiếu, có dụng. Đoán chặn hai đầu là khoảng giữa chẳng đứng vững; cho nên chỗ hợp có phân, chỗ phân có hợp, phân hợp tùy tự nhiên, chẳng phải cưỡng hợp cưỡng phân lấy làm nguyên tắc cứu cánh. Ví như đổ thủy ngân xuống đất, lớn ấy thành viên lớn, nhỏ thành viên nhỏ; hoặc phân hoặc hợp, hoặc chạy hoặc ngừng; đồng thì đồng nhau nhưng khác, khác thì khác nhau nhưng đồng, mỗi một viên phân biệt, nhưng viên nào viên nấy như nhau. Như thế mới có thể gọi “lớn không ngoài, nhỏ không trong”, ấy cũng nói một cách quyền tạm, nêu lên một cách sơ
lược vậy thôi; nếu chỉ rõ như mặt trăng sáng, lại vẫn chẳng phải vậy. Ma ha; Bát nhã, Bồ đề, cả ba đều có tên riêng, nếu nhất thiết lấy câu “vốn chẳng có một vật” làm định luận, ấy là xét đoán một cách trống rỗng thiên lệch. Nhơn vì Tú công87 bảo quấy rằng: “Mình giống cây Bồ Đề, lòng như đài gương sáng”, cho nên Đức Đại giám Tổ sư của ta mới dùng câu “vốn chẳng có một vật” để chỉ rõ “Bồ đề không có cây, gương sáng chẳng phải đài”, đánh đổ sự cố chấp rằng có. Cố chấp có đã chẳng phải, thì cố chấp không há phải hay sao? Tại sao minh công chẳng xét chỗ đó.
Vả lại Bát nhã phong, Bồ đề nguyệt là những chữ do trong hai bài thơ của Hương Sơn88, My Sơn89 làm tặng Oa công và Ẩn công. Còn chữ Ma ha nguyệt, chẳng thấy chép ở sách vở nào; lão tăng há dám tự dối mình chẳng nói thẳng ra, để đến đỗi phải đắc tội với minh công sao. Theo tiếng Phạn, Ma ha chỉ nghĩa rộng lớn. Tây Vực dùng hai chữ ấy để tán dương ý nghĩa rộng lớn. Còn Chân như tức tính thể phát sinh muôn vật, cho nên người xưa bảo rằng: “Ma ha bát nhã là tán dương sự rộng lớn của trí tuệ”, chẳng phải lấy Ma ha làm bản thể Chân như. Như thế, chẳng là “trên đầu đặt thêm một cái đầu”, tính và thể há có hai cái? Sai một ly đi một dặm, ta trước sau chẳng chịu uốn mình chịu cho chữ Ma ha nguyệt là thỏa đáng. Nếu bảo làm thơ chỉ cốt ý, chẳng cần xét lời, chỉ nghĩ cái lớn, chẳng cần cái nhỏ mọn, sao chẳng xem trong bầu vũ trụ, không không sắc sắc, có một cái gì bố trí chẳng tinh tường? Nhưng đó cũng chỉ cử những điều khá biết mà nói, chưa tiện bàn đến việc sâu sắc. Bài của ngài gửi đến là thơ, thơ thì nói chuyện thơ, cũng khá nhơn thơ mà nói chuyện thiền; lìa thơ mà nói chuyện thiền là chẳng khá nói thơ, càng chẳng khá nói thiền mà nói thơđược sao?
Bài thơ họa vần, chữ chữ quý như châu ngọc, tôi được học thêm rất nhiều. Chỉ câu thứ tư có hai chữ Kinh tiếp (chèo sách
經楫). Lão tăng học ít, không biết xuất tự kinh điển nào. Nếu dùng điển trong bài luận của Tán Nghi có câu rằng: “Kinh chế vị am, như châu vô tiếp” (chưa hiểu phép kinh, như thuyền không lái), câu ấy bàn phép kinh, mướn lái thuyền làm ví dụ; nếu lấy hai chữ kinh tiếp dùng liền nhau, thì làm lụy cho thơmà cũng làm lụy cho bài luận của Tán Nghi nữa.
Hai lẽ ấy đều không thể hiểu rõ. Hoặc giả dùng điển ở câu “Thí bỉ Kinh châu, chưng đồ tiếp chi” (Ví như chiếc thuyền trên sông Kinh, trai bạn chèo chống), thì chữ Kinh 涇 nên viết ba chấm thủy (氵), chứ không viết theo bộ mịch (⽷), không biết có phải vậy không, xin minh công chỉ giáo cho.
Lời nói dông dài chỉ làm rờm tai bậc cao minh, chẳng qua muốn tỏ hết ý kiến quê mùa, hầu đáp ơn quốc sĩ tri ngộ mà thôi. Sau này xin minh công lưu ý tra cứu sách xưa, hầu thứ lỗi lão tăng già miệng. Biết minh công rộng lượng, chẳng để ý chấp trách, muốn được nghe thêm nhiều điều dạy bảo quý hóa hơn.
Giới đàn gần đến ngày, chẳng bao lâu sẽ được gặp mặt. Nay xin họa lại nguyên vận hai bài, mong nhờ phủ chánh90. Bài 1
Ào ào sóng bổ biển mênh mông,
Muôn dặm thuyền bè đạo thánh thông.
Đàn khảy Vũ Vu luồng gió mát91,
Dép lưu sông Lĩnh chiếc hòm không92.
Nội hoang còn có mầm thiêng mọc,
Đường cổ ai đem cỏ dại trồng.
Nhàn rỗi ở đây lòng luống thẹn,
Đứng nhìn mây biển, chỉ trăng trong.
Bài 2
Biển cả gầm reo khí thế hùng,
Nghìn sông nào chỗ chẳng lưu thông.
Thi thành Quốc sĩ trăng dòm cửa,
Kinh tụng Thiên Tôn gió rãi bông.
Hay giỏi người khoe tài tuấn kiệt,
Già nua tớ lại học nhi đồng.
Ngày nay khó nỗi bàn nhơn nghĩa,
Chỉ có cười khan khép cửa lòng.
Ngày 1 tháng Tư, truyền Sa di giới, quốc vương mở đàn chay dâng lễ, tự mình đến thắp hương, mời ta thượng đàn thuyết pháp.
Trước đó một ngày, dọn dẹp đường sá. Từ sáng sớm, có đội quân mão đỏ dẹp đường, bắt người ta phải tránh xa ngoài một hai dặm. Đạo ngự đi có người theo hầu tả hữu, đều cầm kim đao kim thượng dài năm sáu thước. Quốc vương ngồi trên kiệu luy điển (螺蜔), giống hình xe lừa. Quân khiêng kiệu 16 người, toàn người cao lớn, xõa tóc, mình trần, chỉ có một sợi dây thắt ngang lưng, treo một vuông vải che đằng trước, quấn lại cột tréo ra sau lưng. Những tăng nhơn cầu giới người Thổ, phủ phục đón rước ở dưới núi. Quốc sư đứng hai hàng chực đón tại chùa, ta chờ ở phương trượng. Quốc vương đội mão xung thiên cánh chuồn, mặc đạo bào màu huyền, đi giày nhung, không mang bít tất, vào đền thắp hương, lễ Phật. Đoạn, đi quanh đàn chay, xem xét trần thiết, cả mừng than rằng: “May có lão hòa thượng đến đây, mới được thấy pháp môn quảng đại trang nghiêm như vậy”.
Vương tiến vào phương trượng tham bái, quốc cậu mặc áo mãng bào, cầm kim đao đứng hầu. Nhà chùa dâng trà quả cơm chay, đều không dùng, đã có Nội giám đem theo trà để ngự dụng. Trong câu chuyện, phần nhiều nói về việc Phật.
Ngoài vách chùa quân lính đứng vây hai lớp. Lớp ngoài toàn người cao lớn râu ria, ai râu ít thì kẻ thêm râu giả, đội mão bằng gỗ đỏ, thếp vàng, mặc áo đoạn đỏ, cầm kim thương, đứng thẳng hàng khít rịt. Lớp trong toàn thanh niên mạnh mẽ, chít khăn đà la ni đỏ, mặc áo nhung lục, cầm kim đao, cũng đứng như lớp ngoài. Cán đao và cán thương đều sơn màu anh đào. Mỗi khi quốc vương trong điện bước ra, quân lính đều xoay mặt ngó vào. Quốc vương đi vào, thì sắp hàng đứng hai bên đối
diện nhau rất thẳng. Ngoài giậu có vài nghìn quân, thế mà trong ngự tọa lặng thinh, chỉ nghe tiếng chim kêu lá rụng mà thôi.
Lúc ấy quốc vương đốt hương làm lễ xong, đặt ngự tọa, ngồi day mặt qua hướng tây, lắng nghe, cười tủm tỉm, như có ý lãnh hội. Đến khi đứng dậy đi xuống, thấy những người chấp sự đều là tăng nhơn Trung Quốc tùy trượng của ta, bèn bảo các tăng nhơn bản quốc rằng: “Các ngươi ngày thường khoe miệng, tự phụ thông hiểu Phật pháp, làm được những việc to lớn, ngày nay đứng trước đại hội công chúng, trước bàn thờ Trời Phật, sao không có người nào dự đàn làm lễ, cứ đứng trương mắt há miệng như tượng gỗ hết thảy? Từ nay đừng khoe khoang nữa nghe chưa”. Nói xong có ý giận. Ta bạch rằng: “Nhà vua chớ lấy làm lạ, dưới pháp tọa kỷ luật rất nghiêm, có kẻ tu hành già đời, bản phận công phu đã có chút ít kiến thức, thế mà lúc đứng trước Bửu tọa, còn bỡ ngỡ thiếu sót, huống là những giới tử mới phát tâm nguyện, trách bị họ sao được.
Chẳng những bọn sơ học, khó đương nổi công việc, cho đến các đường đầu trưởng lão, vô luận kiến thức học hỏi thế nào, lúc đăng tọa, dung mạo thanh âm cũng không phải dễ dàng. Ắt phải pháp nhãn thông minh, tay chân nhậm lẹ, hành động mới không bỡ ngỡ, lại cần có oai đức đầy đủ, mới có thể có cử chỉ an nhàn, nói năng sáng suốt, tay đe miệng chỉ, kẻ đương sự, tức khắc hiểu ý nghe lời. Cũng có kẻ bình thời trí thức cũng khá, nhưng vì oai đức không đầy đủ, nên vừa bước lên Bửu tọa, đã mất hết tinh thần, nói chẳng ra lời. Việc Trời Phật cúng dưỡng, đại chúng lễ bái, đâu phải việc nhỏ mọn làm chơi”. Quốc vương nghe nói hết giận.
Ngồi nói chuyện đến quá ngọ, muốn ở lại xem truyền giới, quốc cậu giục hai ba lần, mới đứng dậy, day lại bảo rằng: “Đệ tử từ bé nghe hai chữ Phật pháp đã sinh lòng kính ngưỡng, mỗi lúc gặp tu sĩ áo lam, tức thì hoan hỷ.