🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Mã Dục Vọng
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI KHEN TẶNG
“Cuốn sách nghiên cứu rất sâu sắc về vấn đề ngoại tình và lột tả được nhiều sự thật này đáng được dịch và phổ biến rộng rãi… Những định hướng đúng đắn về đạo đức được nối lại với nhau một cách liền mạch và được khắc họa thật tinh tế bằng kĩ năng khéo léo của phóng viên Druckerman.”
— The Economist
“Câu chuyện được phác họa đầy màu sắc… Rất thú vị.” — The New York Times
“Chứa đựng nhiều mẩu chuyện đầy kích thích.”
— Reuters
“Rất thú vị và ý nghĩa… Druckerman rất giỏi về các câu văn tinh tế và kích thích… Thật sinh động và đáng đọc.”
— Bookslut.com
“Mở rộng tầm mắt… Nhìn chung, cuốn sách này nhẹ nhàng và bổ ích nhưng cũng rất tinh tế và có cái nhìn rất sâu. Nó tương tự như những câu chuyện truyền miệng hay nhất trong giới công sở.”
— Colorado Springs Independent
“Sau khi phỏng vấn nhiều người ngoại tình, chuyên viên tình dục học, chuyên viên tư vấn hôn nhân và ‘những nhà mai mối’ từ Pháp đến Trung Quốc, Druckerman đã cho ra một cái nhìn thú vị từ nhiều xã hội khác nhau.”
— The San Diego Union-Tribune
“Cuốn sách này thật hài hước, thú vị, chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ cứ như thể nhiều cuốn phim truyền hình dài tập tái hiện lại chuyện tình của con người vậy.”
— The Observer (London)
“Cuốn sách được viết bằng một giọng văn lôi cuốn và những tình tiết cực kì kích thích này xứng đáng được đem ra thảo luận bởi nhiều nhóm chuyên gia hay những người muốn đem lại điều tốt đẹp nhất cho mọi người".
— Booklist
“Cực kì thú vị. Với quyển sách đầu tay hóm hỉnh này, Druckerman sẽ đưa độc giả vào những câu chuyện tưởng như đùa cợt vòng quanh thế giới nhưng đồng thời sẽ làm cho những người mộ đạo ở Mỹ bất ngờ khi khám phá ra những bí mật của các nền văn hóa khác. Tất cả những chuyện ngoại tình sai trái được tái hiện lại một cách chân thực không chút tội lỗi.”
— Elisabeth Eaves,
tác giả cuốn Bare: The Naked Truth About Stripping (Sự thật trần trụi về chuyện thoát y)
TÁC GIẢ
Pamela Druckerman
Pamela Druckerman nguyên là phóng viên của The Wall Street Journal . Cô lấy bằng thạc sĩ về lĩnh vực quan hệ quốc tế tại đại học Columbia và từng công tác tại São Paulo, Buenos Aires, Jerusalem, Paris và New York. Cô hiện sinh sống tại Paris.
“Khó lắm ai ơi phận nữ nhi
Yêu ai duy nhất oán than gì
Người ta bay nhảy không ngưng nghỉ
Khổ đau tình lặng vẫn trao đi"
— Tammy Wynette (Lặng Lẽ Bên Anh)
MỞ ĐẦU
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Trên tay bạn là cuốn sách lột tả nhiều khía cạnh về vấn đề ngoại tình. Nếu bạn là người Mỹ và không muốn lật tiếp trang kế thì cũng dễ hiểu thôi. Vì theo thống kê của tôi, chuyện ngoại tình tại Mỹ dễ gây phản ứng bực bội mạnh mẽ nhất so với các nước khác (trừ Ireland và Philippines). Khi tôi đề cập đến chuyện lăng nhăng của người Mỹ, họ thường nhìn chằm chằm tôi một lúc lâu, dường như đang tìm hiểu xem họ có đang mắc tội gì hay tôi có đang gạ gẫm họ lên giường không vậy. Một vài người sẽ huênh hoang về tầm quan trọng của chế độ một vợ một chồng. Còn một số sẽ tự động ngấp nghé phun ra những bí mật về chuyện ngoại tình của họ.
Tôi bắt đầu nghiêm túc suy nghĩ về đề tài ngoại tình khi được chuyển đến Châu Mỹ Latin làm việc cho Wall Street Journal. Ở đó, lần đầu tiên trong đời tôi bị một người đàn ông đã có gia đình dụ dỗ tôi lên giường với anh ta. Thật không may, đột nhiên tôi lại không trở nên yếu đuối trước anh ta, mặc dù nhiều bạn gái tôi từng bị cưa đổ trong trường hợp như vậy. Dù phải công nhận rằng những kẻ tán gái trông rất lịch lãm nhưng những lời ve vãn của họ thì lại thật đáng ghét. Trách nhiệm với vợ của họ để ở đâu rồi nhỉ? Đối với tôi, sự quyến rũ không phải là điều quan trọng. Và tôi cũng đâu đến nỗi tệ tới mức phải làm kẻ thứ ba? Vào lúc đó, tôi còn độc thân, vừa bước sang tuổi ba mươi, còn đủ điều kiện để có một tấm chồng cho riêng mình.
Trong một lần gặp gỡ, những ý nghĩ mộ đạo chợt lóe lên trong tâm trí tôi, thế là thay vì tống cổ tên Lothario[1]này đi thì tôi lại quyết định thẳng thắn bàn luận vấn đề này cùng anh ta. Anh ta là giám đốc một công ty chế biến thịt bò Argentina, và vừa đề nghị cùng tôi dùng một bữa tối lãng mạn. Khi tôi giải thích rằng bản thân mình cảm thấy không hài lòng với lời mời này vì có vẻ chúng tôi đang ngoại tình, thì anh ta tỏ ra lúng túng. Nhưng anh ta cũng bào chữa rằng chuyện này chỉ có hai chúng tôi biết thì làm sao ảnh hưởng đến vợ mình được. Rốt cuộc anh ta chẳng nói gì xúc phạm tôi cả mà thay vào đó lại kết luận bằng một lời giải thích đầy cám dỗ, “Anh chỉ muốn làm em sung sướng thôi mà.”
Mặc dù từ chối lời mời nhưng sau đó tôi vẫn suy ngẫm về cuộc đối thoại với anh ta suốt. Tôi tự cho mình là một phụ nữ có học thức và hiểu biết nhiều về thế giới này, nhưng những người đàn ông ấy lại đề cập đến những thứ mê muội và lạ lẫm mà tôi chưa từng biết tới. Những thứ quái quỷ đó ở đâu ra vậy nhỉ? Có lẽ được sinh ra và lớn lên ở Mỹ nên tư tưởng của Thanh Giáo đã đè nặng trong tôi, làm tôi mất cơ hội nếm thử những sung sướng ấy chăng?
Vào lúc ấy tôi không có nhiều kinh nghiệm yêu đương, nhưng tôi thật sự ngạc nhiên khi biết được rằng cho dù ở nơi nào thì việc ngoại tình hay không sẽ thể hiện rất nhiều điều về tính cách của con người. Và bản thân tôi cũng không ngoại lệ. Tham nhũng không còn xa lạ gì ở Argentina và sự tồn tại ngang nhiên của nó giữa thế giới thượng lưu ở đây quả thật vô liêm sỉ. Các chính trị gia có thu nhập cao ngất ngưởng nghiễm nhiên sống trong những căn hộ sang trọng ngay trung tâm thị trấn. Tạp chí thì đăng tải hàng loạt hình ảnh cô con gái rượu của cựu tổng thống đang mua sắm vô độ ở Miami. Lúc tôi ở đó, tất cả những mảnh ghép ấy cho thấy sự sụp đổ của giá trị đồng tiền của đất nước này. Trong khi người dân Argentina đang than vãn về nạn tham nhũng thì nhiều người vẫn tỏ ra đồng tình và tự nhủ rằng khi có cơ hội trong tay họ cũng sẽ hành động như vậy thôi. Và việc lừa dối vợ mình có lẽ cũng nằm chung một loại suy nghĩ như vậy: Chung thủy đương nhiên là tốt, nhưng chỉ có những con mèo ngu mới chê mỡ phải không nào!
Càng ngày tôi càng cảm thấy hứng thú và muốn hiểu thêm về những quy luật ngoại tình của các nước trên thế giới. Nhưng đến khi bắt đầu điều tra thì mới biết rằng cho dù ở Mỹ hay bất kì nơi nào khác, việc moi tin chẳng dễ chút nào. Ngoài một số câu bông đùa rằng người Pháp không màng để tâm đến chuyện ngoại tình hoặc những bài nghiên cứu của các nhà nhân loại học về những người bộ lạc (suốt ngày đóng khố như thế thì còn gì mà nói nữa) sống cách xa xã hội văn minh thì không tìm được gì nhiều hơn về vấn đề này cả. Còn nói đến tài liệu về chuyện ngoại tình của những tầng lớp trung lưu trên thế giới thì lại càng hiếm hoi hơn. Cũng không có bằng chứng rạch ròi nào cho thấy rằng người Mỹ ít ngoại tình hơn những nước khác vì họ ghét cay ghét đắng điều này cả.
Tóm lại, muốn biết trên thế giới này người ta ngoại tình như thế nào thì
chỉ có một cách là đi hỏi trực tiếp họ mà thôi. Thế là tôi lên đường và đã đi qua 24 thành phố thuộc 10 quốc giakhác nhau. Trên hành trình, tôi đọc những chuyên mục tư vấn tình cảm, những mục quảng cáo kết bạn, và những bài báo viết về chuyện ngoại tình bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; tôi còn phỏng vấn những nhà sử học, tâm lý học và chuyên gia về tình dục học hàng đầu nữa. Ngoài ra, bất cứ nơi đâu có những bài nghiên cứu hàn lâm về vấn đề này tôi đều kinh qua hết cả.
Dĩ nhiên không thể thiếu việc phỏng vấn hằng hà sa số những kẻ ngoại tình và bạn tình của họ. Nhằm giúp cho độc giả Mỹ dễ nắm bắt và so sánh hơn về những đối tượng khảo sát, tôi chủ yếu trao đổi với người dân trung lưu thành thị. Mặc dù tôi là người lạ, tiếp cận họ với chiếc máy thu âm cùng lời hứa sẽ thay đổi tên tuổi của họ (tôi có thực hiện điều đó, cả những chi tiết nhận dạng nữa) để phỏng vấn thì thật ngạc nhiên khi người ta lại thoải mái kể ra bao bí mật tình dục của mình cho tôi. Khi rời khỏi một nơi nào tôi thường phải tránh né rất nhiều người. Phần lớn những người được phỏng vấn muốn được hưởng lợi từ việc cung cấp thông tin. Những người Anh tưởng rằng tôi đang phỏng vấn cho những bài báo cạnh tranh nhau nên đòi nhận thù lao (dĩ nhiên là tôi từ chối). Một nhà tâm lý học ở Moscow lại kéo dài buổi ăn trưa đến 3 tiếng đồng hồ, tới khi không còn gì để nói nữa thì ông ta vẫn đi lấy thêm nhiều đĩa thức ăn vì lúc đó tôi mời ông ta đi ăn buffet tại nhà hàng Uzbek. Trước khi ra về, ông ta còn lôi ra hai chiếc túi nhàu nát ra và nhồi bánh quy vào cho đầy mới thôi.
Nhưng cũng có nhiều người trao đổi với tôi như bằng hữu. Vài phụ nữ nước ngoài muốn có bạn bè để thổ lộ tâm tình, một người đàn ông Trung Quốc lại hi vọng buổi phỏng vấn trở thành một buổi hẹn hò. Còn một nhân viên ngân hàng đã có vợ ở London thì lại muốn khoe khoang những cuộc chinh phục phụ nữ của mình qua Internet nhưng lại không dám vì sợ ngay cả bạn thân mình cũng không hiểu cho. Nhiều đàn ông Pháp chưa bao giờ dám kể với ai về chuyện ngoại tình của mình thì bảo rằng họ chỉ muốn gặp tôi để thực tập tiếng Anh thôi.
Còn người Mỹ thì lại khác, cho dù thuộc bất cứ ngành nghề hay theo đảng phái nào - từ nhà sản xuất chương trình truyền hình ở New Jersey đến một người bán máy tính ở Plano, Texas - hầu hết đều mong mỏi rằng những
câu chuyện của mình sẽ giúp ích cho người khác. Một bà nội trợ ở Atlanta thì lại không biết phải liệt cuốn sách này vào loại tiểu thuyết hay sách tự vấn; bà ta còn hỏi liệu rằng tôi có dự định thêm vào danh sách các số điện thoại và website hữu ích không nữa. Ngoài nước Mỹ ra thì chẳng ai đề cập đến những điều như vậy cả. Họ không nghĩ rằng việc thổ lộ chuyện ngoại tình của mình có thể giúp ích cho cộng đồng.
Mọi người hỏi ngược lại tôi rất nhiều, nhất là “Nước nào có tỉ lệ ngoại tình cao nhất?” và “Vì sao cô lại chọn đề tài này?”. Để trả lời câu hỏi thứ nhất, mời bạn đọc chương 2, còn câu hỏi sau, thế nào nhỉ, là vấn đề cá nhân thôi. Tôi bị cuốn hút bởi những quy luật của việc ngoại tình mà tôi được thấy qua nhiều quốc gia khác nhau, hơn nữa, tôi thật sự muốn hiểu được những quy tắc phức tạp và đôi khi rất mâu thuẫn về chuyện lăng nhăng ở Mỹ. Một điều nữa là sau 6 năm làm việc cho báo Journal , tôi khát khao muốn viết về một đề tài gì đó không liên quan đến tiền bạc (nhưng viết về chuyện ngoại tình này xem ra lại là một lựa chọn sai lầm).
Từ khi tập trung vào đề tài ngoại tình, dường như mọi cuốn phim hay tiểu thuyết tôi xem đều liên quan đến đề tài này. Và một sự thật làm tôi ngỡ ngàng hơn nữa là nếu loại bỏ yếu tố quan hệ ngoài hôn nhân đi thì nền văn hóa nghệ thuật Tây Phương bao gồm sách, nhạc, phim sẽ là một con số 0 tròn trĩnh. Vấn đề ngoại tình không những có trọng lượng đối với riêng người Mỹ mà bất kì ai đến từ nước nào cũng đều cho tôi nhiều ý kiến đanh thép về nó. Đi đến đâu, họ đều lôi tôi vào một góc để miêu tả về những ông chủ, bạn bè hay các bậc cha mẹ hay lăng nhăng. (Một vài mô-tuýp truyện đã được bắt gặp trong sách vở.) Đột nhiên tôi phát hiện ra rằng, tiềm ẩn dưới lớp vỏ yên bình chung thủy của cuộc sống thường nhật là cả một thế giới hoàn toàn đối lập với bao chuyện vụng trộm nhiễu nhương. Duy chỉ có người bà đã 90 tuổi được nuôi dưỡng từ tầng lớp thượng lưu ở miền Nam Carolina của tôi là không hứng thú với đề tài ngoại tình này. Khi bạn bà hỏi rằng tôi đang viết lách gì thì chỉ nhận được câu trả lời hờ hững “nó đang viết một cuốn sách về tình yêu thôi.”
Ở mỗi nước khác nhau người ta miêu tả về việc ngoại tình theo những kiểu khác nhau. Chẳng hạn như theo tiếng lóng ở Mỹ, khi ngoại tình gọi là “có bồ nhí”, thì cụm từ này được dùng hoàn toàn không giống ở những nước
khác trên thế giới. Ở Thụy Điển và Nga thì gọi là “đi ngược đường/lén qua bên trái”, ở Israel thì nói là “ăn vụng” (họ bảo bị nói vậy là rất nặng), còn Nhật dùng từ “lạc lối”. Ai-len gọi bằng thuật ngữ thể thao “việt vị”, trong khi người Anh thì lại nói là “đi ăn chơi”. Còn đối với người Hà Lan thì ngoại tình là một cuộc phiêu lưu, trong đó thủ phạm “trở nên xa lạ”, hay cụm từ gây tò mò hơn là “véo mèo trong bóng tối”. Cuối cùng cách nói của người Pháp xem ra mông lung nhất: “aller voir ailleurs ”, dịch ra là “đi tìm của lạ.”
Một số biểu hiện làm giảm đi mức độ nghiêm trọng của việc ngoại tình. Một chàng Indonesia bông đùa rằng “thật khó mà cảm thấy buồn về khoảng thời gian tuyệt vời đó được” cứ như chuyện lăng nhăng này không ảnh hưởng gì đến hôn nhân của mình vậy. “Bạn tình” Nhật thì nghe có vẻ như những ca sĩ hoạt hình. Nhưng không phải cụm từ thanh tao nào dành cho chuyện ngoại tình cũng vô hại đâu nhé. Như trong thời kì Cách mạng văn hóa cực đoan của Trung Quốc vào những năm 70, một người bị buộc tội có “phong cách sống bất thường” sẽ có thể bị mất việc và bị nhục mạ giữa công chúng.
Những cách biểu hiện khác thì phản ánh thực tế hơn. Một kẻ hay tán gái ở Nam Mỹ là một “vận động viên điền kinh”, ám chỉ cả về thể lực sung sức cần cho cả việc hẹn hò bất chính lẫn việc thực tế hơn là chạy trốn vợ mình. (Khi bị bắt gặp thì anh ta sẽ bảo rằng người phụ nữ kia “chỉ mới chạy ngang đây thôi”.) Một người đàn ông Trung Hoa khác cố gắng “một chân hai thuyền” để giữ cho cả vợ và tình nhân được hạnh phúc, mặc dù nếu như ở Đài Loan thì ông ta sẽ bị liệt vào loại “củ cải trắng to có ruột màu mè.” Nếu như vợ bạn mà tằng tịu với ai khác ở Tel Aviv thì hàng xóm sẽ chỉ nhún vai và bảo “Con lừa cái đã kết hôn ấy cũng biết ăn vụng.”
Nhưng biểu hiện muôn màu muôn vẻ nhất lại dành riêng cho những người chồng/vợ không may bị lừa dối. Người Ba Lan thì “phùng mang trợn má” với bạn đời, còn người chồng Trung Hoa thì bị “đội nón xanh”. Người Anh và nhiều nước khác gọi người chồng bị lừa dối là “chim cúc cu già” (nguyên văn cuckold - ND) - giống như số phận của chim cu trống khi chim mái của nó đi đẻ trứng vào tổ của con khác. Ít nhất 8 ngôn ngữ khác, bao gồm cả Ả Rập và Ru-ma-ni thì gọi là bị “cắm sừng”. (Ở Pháp người ta chỉ cần làm dấu bằng hai ngón tay trỏ thành cặp sừng trên đầu là hiểu được rồi.)
Cách gọi này xuất phát từ phong tục thiến gà trống, sau đó để làm dấu là nó không còn khả năng sinh sản nữa, người ta ghép chiếc cựa bị cắt ra từ sau cẳng gà rồi ghép lên đầu nó, trông như mọc sừng. Các bạn hãy tìm hiểu thêm nhé. Người Mỹ cũng biết dấu hiệu “cắm sừng” ấy nhưng ngày nay họ thích dùng cụm từ phản ánh đạo đức hơn là “bạn đời lừa dối” để khẳng định sự hiện diện của tội danh và nạn nhân.
Thế giới thì quá bao la và rộng lớn, bởi vậy tôi chỉ đến những quốc gia mà có bạn tôi đang ở đó để thông dịch cho tôi hoặc nơi nào tôi đánh hơi thấy những câu chuyện hay ho. Tôi đã bỏ qua một số quốc gia quan trọng, thật xin lỗi Ấn Độ và Brazil, lần sau tôi sẽ ghé thăm các bạn nhé. Mặc dù tôi có trao đổi với các chuyên gia và so sánh những quan sát của tôi với số liệu thống kê nhưng ví dụ tiêu biểu về ngoại tình của tôi không phải sản phẩm khoa học đâu nhé. Nó lắt léo, mang tính cá nhân và đôi khi là tình cờ ngẫu nhiên nữa cơ. Sau nhiều cuộc phỏng vấn thất bại ở Hongkong, tôi liều mình tiếp cận một người đàn ông đang ngồi uống cà phê Starbucks với một cô gái hấp dẫn và trẻ tuổi hơn ông ta rất nhiều. Thực tế không phải họ đang lăng nhăng gì nhưng lại bị thu hút bởi đề tài tôi đang theo đuổi nên quyết định giới thiệu cho tôi làm quen với bạn của họ, câu chuyện này sẽ xuất hiện ở chương 10.
Quyển sách này không đề cập đến vấn đề rằng chúng ta có máu ngoại tình do bị di truyền hoặc ngoại tình có lợi gì về sau hay không. Bản thân tôi cho rằng bất cứ ai cũng có những ham muốn như nhau mà thôi. Cái tôi muốn biết là con người thuộc các nền văn hóa khác nhau sẽ điều tiết chúng ra sao.
Theo đúng mục đích của tôi, một kẻ được gọi là ngoại tình là khi đã kết hôn nhưng lại có quan hệ tình dục bí mật với người khác. À, ngay cả quan hệ bằng miệng cũng được tính nhé. Hay đầy đủ hơn là tất cả những gì họ sợ bạn đời của mình biết được - từ những nụ hôn âu yếm nhẹ nhàng cho đến những cuộc mây mưa thỏa mãn. Ngày nay, những kẻ ngoại tình không cần phải là người đã kết hôn, vì ở Châu Âu, hôn nhân ngày càng ít phổ biến nhưng những cặp tình nhân vẫn chung sống, sinh con và nguyện trọn đời chung thủy cùng nhau. Còn ở Mỹ, những cặp tình nhân ăn ở cùng nhau có tỉ lệ lăng nhăng cao hơn nhưng họ lại có địa vị xã hội thấp hơn so với những cặp vợ chồng, vì vậy tôi chủ yếu nhắm vào những cặp đã kết hôn. Nếu bạn mong
đợi đây là cuốn sách về những người tân thời thì ngừng đọc được rồi đấy. Cuộc sống tình dục của họ đã quá cởi mở và ngoại tình liên miên, nhưng điều này chẳng còn gì là bí mật hay ho để khám phá nữa.
Khi tôi gọi điện đề cập đến những chữ “lăng nhăng” và “không chung thủy” thì chưa bị gác máy điện thoại bao giờ, nên các bạn cũng đừng gấp cuốn sách này lại nhé. Trong cả một cuốn sách chỉ toàn nói về đề tài ngoại tình này sẽ có rất nhiều cách thức để biểu đạt nó. Sau vài chương, bạn sẽ cảm thấy mừng vì tôi không dùng những cụm từ như “hơn một cặp đôi” hay cách nói của người Phần Lan là “quan hệ song song.”
Một triệu chứng của bệnh tưởng gọi là “bệnh của sinh viên y khoa” biểu trưng cho việc những sinh viên học về một loại bệnh và sau đó tự cho là mình cũng mắc phải nó. Một nhà khoa học giải thích rằng “Kiến thức mơ hồ về bệnh viêm ruột thừa làm nó từ chuyện vô hại nhất thành triệu chứng đe dọa nghiêm trọng thật sự.”
Nghiên cứu về ngoại tình cũng tương tự như vậy. Nếu cứ suốt ngày ngồi đọc sách về chuyện ngoại tình và thấy chồng mình đi đá bóng về muộn một tiếng đồng hồ hoặc không trả lời điện thoại khi đang đi công tác thì đầu óc bạn sẽ bấn loạn lên ngay. Và thật tội cho những đức ông chồng đó khi phải tìm cách thanh minh cho mình. Trong trường hợp này thì việc cắt phăng khúc ruột thừa sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Chồng tôi cũng hay lo lắng về tôi, và cũng có lý do chính đáng đấy. Vì tiếp xúc với những kẻ lăng nhăng cũng giống như cặp kè với những con nghiện thuốc lá vậy; thế nào bạn cũng ngứa ngáy muốn thử một điếu cho mà xem. Thật sự tôi cũng bị cưa cẩm, nhưng bao nhiêu tội lỗi đáng nguyền rủa người Mỹ gây ra mà bạn sắp đọc tới đây luôn làm cho tôi tỉnh táo.
CHƯƠNG I
Chào mừng quý vị đến với nước Mỹ
Xin thưa cùng quý vị chuyện ngoại tình của April. Thật ra chuyện này cũng đã kết thúc từ hai năm về trước và đó cũng là thời điểm duy nhất mà cô ấy không chung thủy trong suốt hai mươi năm sống với chồng mình. Sau biến cố đó, cô ấy cũng chuyển công tác và không còn làm cố vấn cho người tình vụng trộm của mình nữa. Nhưng cô ấy không thừa nhận đó hoàn toàn là một cuộc ngoại tình mà chỉ là những bức email mang tính chất dâm dục (đại loại như “Anh nóng lòng muốn xem cái gì đang nằm dưới váy em”) gửi qua lại và vài cuộc hẹn hò bí mật trong bãi đậu xe hay khách sạn suốt một năm rưỡi đó mà thôi. Xét cho cùng, mối quan hệ này xảy ra trong thời điểm tồi tệ của hôn nhân, khi cô ấy và chồng gần như trắng tay vào cổ phiếu và từ những vụ đầu tư sai lầm. Khi mối quan hệ đó hoàn toàn chấm dứt thì ông chồng Kevin của cô ta mới phát hiện ra.
Nhưng hai năm sau đó, hậu quả của sự không chung thủy vẫn ảnh hưởng nặng nề đến hôn nhân của April. Kevin đã 62 tuổi nên chẳng thể nguôi ngoai được nỗi đau này. Ông cứ đinh ninh rằng cô ấy còn nhiều mối quan hệ vụng trộm khác và April nay tuy đã 48 tuổi nhưng có thể vẫn đang ngoại tình.
Song khi xét lại hoàn cảnh của cô bây giờ thì khó mà có cơ hội để vụng trộm. Cô bị Kevin trừng phạt bằng cách áp đặt vào một chế độ nghiêm cấm ngặt nghèo. Cô chỉ được rời khỏi nhà để đi làm hoặc đi đâu đó với ông ấy. Cô không còn được gặp gỡ bạn bè và rủ rê mấy đứa cháu ngủ lại nhà nữa. Chỉ cần cô về nhà muộn vài phút thì Kevin liền nhắn tới tấp những lời lẽ đầy hận thù vào điện thoại. Ngay cả khi về nhà đúng giờ thì cô cũng bị Kevin buộc phải kê khai tường tận tên những người từng trò chuyện cùng mình trong ngày hôm ấy. Ông còn lục lạo túi xách, kiểm tra hóa đơn điện thoại và thỉnh thoảng bấm nút gọi lại của điện thoại nhà nhằm xem cô vừa dùng nó gọi cho ai. Tệ hơn nữa, nhiều lần cô phát hiện ra ông gắn máy nghe trộm trong xe hơi để xem cô có lén gọi cho ai trên đường hay không.
“Tôi đã trở thành một con người hoàn toàn khác. Tôi không còn dám nói chuyện với ai nữa vì nếu không Kevin sẽ cho rằng tôi lại ăn ngủ lung tung
với người ta,” April tâm sự. Cô tăng gần 30kg và lượng mỡ trong máu lên đến 277 từ khi bị Kevin phát hiện mình vụng trộm, cứ theo đà này khả năng bị bệnh tim sẽ rất cao. Đôi lúc cô định sử dụng chiếc máy tập thể dục trong nhà kho thì Kevin liền làu bàu, “Bà có nhớ lần cuối cùng bà giảm cân thì chuyện gì xảy ra không…”, cứ thế April chỉ còn biết nằm ườn ra trên ghế sofa mà thôi.
Hầu hết thời gian họ đều ở bên nhau, và lúc gần nhau Kevin và April luôn “nhặng xị” về chuyện vụng trộm. Mỗi lúc như vậy, Kevin đều nhắc lại tường tận những gì những gì April đã làm với tình lang của mình. Ông tìm hiểu thêm về chuyện ngoại tình qua những cuốn sách tự học và tham gia lớp phục hồi tinh thần hằng tuần. Ông luôn bảo, “trong tình cảm hai người phải hoàn toàn trung thực với nhau và không che giấu một điều gì cả.” Gần đây, ông đến Nashville để tham gia một buổi hội nghị về chuyện ngoại tình, đến khi về nhà, ông khẳng định rằng lăng nhăng xuất phát từ trong máu, và mặc cho April phản đối ra sao thì ông vẫn nhất mực khăng khăng rằng bố mẹ của April cũng từng vụng trộm như vậy. Phải nói thêm rằng tình lang của April lại là một gã da đen (trong khi Kevin và April là người da trắng) nên mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn trong lòng Kevin.
Tôi hẹn ăn trưa với hai vợ chồng trong một nhà hàng đồ nướng gần khu nhà họ ở ngay cạnh Memphis, vùng này dân cư đa phần đều phải lái xe đi nơi khác để làm việc. Một điều lạ của khu này là tuy hầu hết người dân ở đây là da đen nhưng cả thị trấn lại được tô phết bằng sắc trắng. Xe hơi lăn bánh trên những con đường hai bên cây xanh thẳng tắp, trên cản xe dán những miếng đề can đại loại như ẢNH CẮT DÁN và ĐIỀU KÌ DIỆU THÀNH HIỆN THỰC. Người dân ở đây có mức thu nhập bình quân gấp đôi những người ở Tennessee. Nhìn qua April, cô có những nốt tàn nhang phơn phớt trên mặt và mái tóc dài sắc vàng ửng đỏ. Còn Kevin sở hữu khuôn mặt tròn bầu bĩnh và giọng nói sang sảng như phát thanh viên ra-đi-ô. Vài phút sau khi tôi ngồi xuống bàn, April nhìn chăm chăm vào đĩa thịt heo xé sợi và bắt đầu sụt sùi trong khi Kevin thao thao bất tuyệt những lời phê phán.
Dường như tôi gặp họ vào thời điểm thuận lợi. “Cả hai chúng tôi không còn khóc nhiều như trước nữa, có lẽ nhờ dùng thuốc chống suy nhược thần kinh.,” Kevin bảo. Họ vẫn nói bóng gió về việc ly dị, nhưng tôi nhận thấy có
vẻ sự cố vụng trộm này lại tốt cho hôn nhân vốn đã gặp nhiều trắc trở của họ. Khi họ nói về những sự kiện xảy ra, lại nghe như họ đang hồi tưởng lại. “Có nhớ ngày tôi xé hình của bà ra từng mảnh vụn không?” Kevin hỏi April. “Tôi lên lầu, ngồi phệch xuống giữa nhà và bắt đầu đập phá liên hồi.” April tỏ vẻ bối rối, có phải Kevin đang nhắc đến việc ông xé nát tấm ảnh cưới của hai người không nhỉ? Tất cả hình ảnh đã tiêu tán hết rồi, duy chỉ một tấm còn sót lại ở nhà bố của Kevin mà thôi.
À, không phải, Kevin đang hồi tưởng lúc ông với lấy tấm ảnh của bà chụp cùng máy thu âm (dụng cụ thanh nhạc) trong tầm tay rồi xé nó. “Tôi chỉ ngồi đó gào thét. Những lời như ‘tao hận mày, đồ con đàn bà khốn nạn, đồ chết bầm,’ rồi cứ thế mà gào thét và đập phá liên tục.” Cũng đúng vị trí đó nhưng trên lầu hai, nơi Kevin trưng bày những máy bay mô hình, April từng phải ngồi van xin ông buông cây súng lục xuống khỏi đầu.
Nhìn có vẻ April và Kevin hành xử hơi bị thái quá, nhưng đó âu cũng là phong cách đặc trưng của người Mỹ. Sau biến cố ngoại tình thì sự tổn thương tinh thần kéo dài suốt hai năm như vậy là bình thường thôi. Và một biểu hiện khác đúng chất người Mỹ của April là cô vẫn không thể tin rằng mình là “người phụ nữ thông dâm.” Cô lớn lên trong nhà thờ và chỉ có thể nghĩ mình là “một người đàn bà xấu” mà thôi. Cô phân trần, “tôi không nghĩ người phụ nữ làm ra hành động đó là bản thân tôi. Chắc chắn là một con người khác tồn tại trong tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình là loại người có thể đi vụng trộm như vậy được.”
***
TỪ NHỮNG NĂM 1970 , người Mỹ đã tỏ ra khoan dung về những vấn đề xã hội liên quan đến tình dục. Chúng tôi dễ chấp nhận hơn đối với việc đồng tính, về chuyện sống thử, về chuyện ly dị, và quan hệ tình dục lẫn có con ngoài giá thú. Hầu hết người Mỹ ngày nay quan hệ tình dục từ lúc 17 tuổi nhưng đến 26 tuổi mới bắt đầu kết hôn, có nghĩa là họ có 9 năm thoải mái để quan hệ tình dục trong lúc còn độc thân.
Vì vậy, thật tò mò và ngạc nhiên khi nghe người Mỹ trở nên khắt khe hơn về ngoại tình. Năm 1973, 70 phần trăm người Mỹ cho rằng ngoại tình là “điều hoàn toàn sai trái”. Đến năm 2004 thì khoảng 82 phần trăm có cùng ý
kiến như vậy, số còn lại thì nghĩ rằng “việc này hơi sai trái.” Trong cuộc thăm dò dư luận quần chúng của Viện Gallup (Hòa Kỳ) vào năm 2006, kết quả là tội thông dâm còn tệ hơn chế độ đa thê và việc nhân bản con người nữa.
Thật kỳ lạ vì người Mỹ thường có nhiều ý kiến trái chiều trong những vần đề khác, nhưng khi nói đến việc ngoại tình thì suy nghĩ của họ thật đồng nhất. Kevin và April đều thuộc đảng Cộng Hòa và sống tại miền Nam Hoa Kỳ, nơi đạo Tin lành phát triển mạnh. Nhưng khi nói về việc ngoại tình thì giọng điệu của họ chẳng khác gì những người hiện đại sống ở New York, thệm chí còn gay gắt hơn. Ngay cả những người Mỹ không thuộc đạo giáo nào cũng có những ý nghĩ rất bảo thủ về việc không chung thủy trong hôn nhân.
“Tôi nghĩ rằng bạn không thể ngoại tình mà không cảm thấy tội lỗi. Vì lúc đó bạn đang làm khổ tất cả mọi người và chính cả bản thân mình nữa. Khi hành động như vậy, bạn đã không thật thà. Một khi đã không thật thà thì sẽ quen thói và tiếp tục lừa dối. Cho dù bạn có thông minh đến đâu thì một ngày nào đó nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi giết chết bạn,” một người theo chủ nghĩa tự do phát biểu; cô 32 tuổi, sống trong một căn gác xép dưới phố thị, làm việc cho một hãng thời trang ở New York và giao lưu với những người bạn đồng tư tưởng.
Cũng giống như April, những người đàn ông Mỹ ngoại tình thường bảo tôi rằng họ đều không phải loại người hay lừa dối. Thật khó để có thể chê trách họ vì một lần sa ngã như vậy. Theo cái cách người Mỹ chống đối lại việc ngoại tình, chúng ta có thể thấy được rằng những kẻ lừa dối không được coi là những người phạm lỗi bình thường nữa mà đã trở thành tội đồ bị mọi người ruồng bỏ. Ngay cả việc yêu bạn đồng nghiệp cũng gần như bị liệt vào loại người vô tín ngưỡng.
Nhưng trong những trong hoàn cảnh đặc biệt khác, như các đội thể thao nghiệp dư hay hãng luật sư, thì việc không chung thủy lại được khoan dung hay thậm chí còn được khuyến khích. Những người theo chủ nghĩa tự do hay nói đùa về việc ngoại tình và thường đặt ra câu hỏi liệu rằng chế độ một vợ một chồng có khả thi hay không. Nhưng vết nhơ của việc ngoại tình rất sâu đậm và khó có thể phai nhạt một mai, nhất là khi kẻ vụng trộm lại chính là
một người quan trọng trong cuộc đời bạn.
Tôi gặp một doanh nhân tại quán rượu nhỏ gần nhà ông ở Upper West Side của Manhattan, ông thổ lộ rằng mình đã chung thủy với vợ được hơn hai mươi năm sau khi cưới. Việc quan hệ với một người khác quả rất hấp dẫn nhưng ông rõ ràng tỏ ra rất băn khoăn. Xung quanh những người bạn thành đạt của ông, rất hiếm người ngoại tình và họ cho rằng “ngoại tình là một điều ngoại lệ, một chuyện bất thường và chính là một hiểm họa.” Cơ hội đánh mất hôn nhân với thu nhập gấp đôi của ông có thể xảy ra và một vấn nạn đáng sợ đồng thời dẫn đến là “Con cái sẽ nghĩ về mình như thế nào?”
Một vài người ông biết một khi đã ngoại tình thì lại ngoại tình rất nhiều. Họ thường khoe khoang về sự ham muốn tình dục quá mức của mình, và theo ông đó hẳn là biểu hiện của triệu chứng rối loạn nhân cách. “Bạn phải tìm người như vậy, những người có cuộc sống vô độ ấy. Việc này không phải vì tình dục đâu, chắc là vì tính lập dị hoặc trò vui đấy,” ông ta bảo. Ngoại tình còn được liên tưởng đến tầng lớp thấp hèn của Mỹ, những người thiếu nguồn vui và không có kỷ luật để có thể sắp xếp cuộc sống một cách đứng đắn. Tham gia vào loại quan hệ này sẽ chỉ làm mục nát xã hội mà thôi. Ông kết luận, “Tôi không nghĩ là mình muốn bị xem là người đi ngoại tình, nó chẳng tốt đẹp gì cho uy tín của bạn cả.”
Người Mỹ nâng cao uy tín của mình bằng xu hướng thiên về chế độ một vợ một chồng. Tín hiệu này cho thấy họ là bậc cha mẹ tốt, là những nhân viên trung thực, là những thương gia đáng tin cậy và họ chia sẻ giá trị này với những người bạn đứng đắn của mình. Vợ một bác sĩ ở Miami thổ lộ rằng, nếu nói thật lòng thì cô không ngại chồng mình quan hệ với một người phụ nữ khác và vẫn vui vẻ nếu không được đáp ứng quan hệ vợ chồng hàng tuần. Nhưng cô sẽ không thể chịu nổi miệng lưỡi của thiên hạ phê phán việc chồng mình ngoại tình. Cô và bạn bè xung quanh đều biết đến chồng mình là một người kiên định và hạnh phúc với hôn nhân một vợ một chồng. Nếu ông ta vụng trộm thì chẳng khác nào bấy lâu nay ông đã lừa dối mọi người và không còn là người đàn ông mà họ quen biết nữa.
Những câu chuyện về ngoại tình của người Mỹ luôn tiềm ẩn những bài học đạo đức, chúng thường bắt đầu bằng những chi tiết lôi cuốn rồi rốt cuộc cũng trở về với kết luận an toàn của chế độ một vợ một chồng. Phỏng vấn
Betsy, một nhà báo làm việc cho tạp chí More , tạp chí này hiện đang là lựa chọn hàng đầu của phụ nữ ở độ tuổi trên 40, cô cho biết từng cảm nắng bác sĩ nắn xương của mình và ngay sau đó liền cảm thấy tội lỗi khi tưởng tượng ra cảnh một người đàn ông khác ngoài chồng mình trong tình trạng lõa thể. Sau đó, cô phát hiện ra bạn của mình cũng có những lúc xao lòng như vậy, trong số đó, một nữ nhiếp ảnh gia bạn cô thậm chí còn nô đùa với anh chàng chùi rửa hồ bơi nhà mình nữa cơ. Nhưng sau đó người bạn ấy thổ lộ rằng, “Mình hối hận lắm. Lúc đầu nó chỉ mang máng là những hoang tưởng tuyệt vời thôi nhưng nó lại đi xa ra khỏi tầm kiểm soát lúc nào không biết. Thật ra cũng chẳng có ai phát giác, nhưng mình tự cảm thấy sốc với chính bản thân.”
Đối với Betsy, ngoại tình quá trái ngược với đạo đức nên cô thậm chí chẳng dám mơ tưởng tới nữa kia. Cô kể mỗi lần chợt nghĩ đến viễn cảnh chạy trốn cùng người tình trong mộng, “Đôi lúc tôi còn đặt con cái của cả tôi và anh ấy vào xe để chắc rằng chúng được an toàn.” Lần gặp sau sau đó, cả hai đều thú nhận rằng họ nhận thấy đối phương rất dễ mến nhưng ngay lập tức thống nhất cùng nhau: “Bằng cách nào đi nữa thì ngoại tình không có gì hay ho cả”. Cô bào chữa rằng bằng cách cho những ý nghĩ đó bộc lộ ra qua lời nói âu cũng làm cho tâm trạng mình khá hơn và còn giúp cô thoát ra khỏi áp lực công việc. Sau cùng cô kết luận, “Rốt cuộc bạn sẽ trở về với cuộc sống thực tại một cách an toàn, không chút tội lỗi, đương nhiên cũng có chút cảm giác ăn năn đấy nhưng dù sao mình vẫn còn là một người tốt.”
Có rất nhiều những mục báo chuyên đăng lời khuyên hoặc những diễn đàn trên mạng nơi mọi người tìm câu giải đáp từ những người đồng cảnh ngộ với mình. Trong mục báo nọ, một phụ nữ đã ly dị chồng tâm sự rằng cô đang qua lại với một người đàn ông tuyệt vời, nhưng đêm nọ khi đang đi chơi cùng bạn bè, một anh chàng đã mời cô một ly rượu, “Cuối đêm đó, tôi đã rất say và chắc rằng đã hôn anh ta. Dường như chỉ là một chiếc hôn vội mà thôi, mà tôi cũng không chắc có hay không nữa. Nhưng đến bây giờ thì tôi cảm thấy ghê tởm với việc mình đã làm. Lúc đó rõ ràng tôi không còn là chính mình, và tôi sẽ không bao giờ phạm phải sai lầm đó nữa! Tôi có nên thú nhận với bạn trai mình hay không? Làm sao tôi vượt qua được cảm giác tội lỗi này đây? Bây giờ tôi cảm thấy mình không còn xứng đáng với anh ấy nữa. Cám ơn rất nhiều vì tất cả những lời khuyên của các bạn.”
***
CÓ LẼ ĐỐI VỚI TÔI đây là cách nhìn thông thường nhất về vấn đề ngoại tình, nhưng thật ra tôi biết được những người trung lưu, có ăn học ở những quốc gia khác, lại có cách suy nghĩ không giống như vậy. Rất nhiều người còn cho rằng phương thức của chúng tôi là kỳ dị nữa cơ. Họ dị ứng với sự run sợ của chúng tôi khi đối đầu sự việc, sự sợ hãi khi đối đầu với việc ly hôn, về việc đặt niềm tin lấy lại hơi thở của hôn nhân vào những nhà tư vấn, và ngay cả về việc chúng tôi cho rằng sự trung thực là yếu tố tất yếu của đời sống vợ chồng nữa. Họ đặc biệt thích thú với vở diễn Jekyll & Hyde mà người Mỹ đã lý tưởng hóa bằng cách cho nhân vật ngoại tình được tái sinh thành một chuyên gia tư vấn về ngoại tình và còn viết hồi ký để dạy những kẻ khác vực dậy sau biến cố ấy nữa. Ngoại tình không chỉ có những hậu quả khác nhau. Ngoài nước Mỹ, người ta còn có tiêu chuẩn chọn người để ngoại tình riêng, trách nhiệm của đôi bên, và ngay cả việc thông dâm phải kết thúc ra sao.
Tưởng chừng như ngoại tình là một bí mật, một lãnh địa hỗn mang, nơi con người tự quyết định hành động của mình, nhưng thật ra, nó có luật lệ hẳn hoi mà chúng tôi được biết thông qua những nguồn tin, câu chuyện, và những mẩu chuyện. Những chuyện tường thuật này giúp chúng tôi định nghĩa được ở mỗi nơi khác nhau, cái nào được cho là “bình thường” và kết lại những gì sẽ xảy ra cho vợ chồng trong quá trình dài đằng đẵng của hôn nhân. Dĩ nhiên không ai tuân thủ chính xác theo luật lệ này cả. Có người còn cố ý làm sai luật nữa. Chủ yếu là con người trong xã hội đều biết rõ mọi luật lệ và những hành xử của họ đang tuân theo được bao nhiêu phần của luật lệ đó mà thôi.
Ông Peggy Vaughan, chủ một dịch vụ tư vấn qua điện thoại cho những người phát hiện bạn đời của mình ngoại tình, đã bảo, “Khi người ta kể cho tôi nghe một phần nhỏ câu chuyện của họ, tôi chẳng cần biết phần tiếp theo là gì cả. Tôi không buồn nghe cho kĩ càng vì dù chi tiết câu chuyện ra sao thì cảm xúc của họ cũng trào ra như nhau cả thôi. Chẳng cần nghe cũng biết sau đó họ sẽ nói gì.”
Ở Mỹ, một phần của kịch bản đều là người chồng khi ngoại tình sẽ nói với người tình của mình rằng anh ta đang cảm thấy không hạnh phúc với vợ.
Điều này giúp cho anh ta tránh bị mang tiếng bắt cá hai tay và chỉ là một tâm hồn yếu đuối đang đi tìm lại tình yêu mà mình xứng đáng có được mà thôi. Còn ở Trung Quốc, những người đàn ông thường ca tụng vợ với người tình của mình, nhằm vừa chứng tỏ sự tôn trọng phụ nữ vừa vạch ra ranh giới trong quan hệ vụng trộm của họ.
Con người khắp nơi có thể có chung những cung bậc cảm xúc nhưng văn hóa sẽ dạy cho chúng ta biết nên bộc lộ cảm xúc trong những trường hợp khác nhau như thế nào cho thỏa đáng. Một người phụ nữ Nhật đã có chồng cảm thấy bối rối khi tôi hỏi rằng bà ta có cảm thấy tội lỗi khi có người tình hay không. Tôi thậm chí phải lặp đi lặp lại câu hỏi. Rốt cuộc chỉ là “cảm thấy có tội” không có trong từ điển của bà, vì bà cho rằng đã đáp ứng mọi trách nhiệm với gia đình của mình. Còn một người đàn ông Pháp lại sửng sốt khi tôi hỏi rằng ông có từng phải đi trị liệu tâm lý để giải quyết cuộc sống hai mặt của mình không vì ông đã ngưng ngay việc trị liệu khi gặp người tình của mình và đến nay ông đang rất hạnh phúc.
Đương nhiên có nhiều nơi khác nhau trên thế giới này. Nhưng cho dù ở những đất nước chấp nhận khoan dung cho việc ngoại tình thì hầu hết ai phát hiện ra điều này cũng đều đau đớn cả. Và mỗi nơi đều có một kiểu khác nhau. Tôi lúc nào cũng làm những người ngoài nước Mỹ hào hứng hẳn lên khi kể về “tuyên ngôn” hẹn hò của những người thành thị Mỹ, rằng việc quan hệ tình dục không chỉ xảy ra giữa riêng họ cho đến khi cả hai cùng thống nhất dừng lại. Người nước ngoài luôn ngạc nhiên khi biết rằng người Mỹ khi đang yêu đương vẫn đăng thông tin của mình lên những trang hò hẹn trên mạng cho đến khi đôi bên cùng quyết định đi đến cuộc sống một vợ một chồng. Một nhà báo trên trang hẹn hò match.com khuyên rằng, “đừng nghĩ rằng bạn là duy nhất nếu bạn chưa thảo luận về điều đó.” Khi bạn thể hiện chủ đề này, “hãy bộc lộ khát khao của mình một cách dễ thương để cho thấy rằng bạn sẵn sàng trao đổi về nó.”
Dĩ nhiên vài nền văn hóa khác cũng có phong cách “hẹn hò theo kiểu Mỹ”, đó là trong thời gian chọn lựa bạn vẫn có thể phát triển nhiều mối quan hệ yêu đương cùng một lúc. Nhưng xét cho cùng, Mỹ vẫn là nơi có tình trạng bắt cá nhiều tay kéo dài nhất. Còn ở những nước khác, mặc có mối quan hệ tình cảm nhưng chẳng bao giờ công khai chúng ra một cách rõ ràng
cả. Bernard-Henri Lévy, một triết gia Pháp, tường thuật lại câu chuyện ông nghe được khi đang xếp hàng ở sân bay Washington D.C. giữa một đôi tình nhân trẻ đang tranh luận rằng có phải họ vẫn chỉ đang hẹn hò vớ vẩn hay giới hạn của “quan hệ” của họ bây giờ là gì. Theo ông thì “cách hẹn hò không theo kiểu Pháp này sẽ làm cho buổi hẹn hò ấy và cả mối quan hệ tình cảm về sau sẽ trở thành một sự vật tồn tại riêng biệt trong đời sống của hai con người yêu nhau.”
Sau “tuyên ngôn” ấy, chuyện dối lừa vẫn xảy ra khá nhiều giữa những cặp đôi yêu nhau (tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với khi đã kết hôn). Mỗi bên tự ấn định số lượng người mình hẹn hò trong một hay hai thập kỉ. Đến khi hai người chịu dừng chân lại để tiến đến hôn nhân có thể xem là lúc họ đã cán mức cuối cùng của cuộc đua tình ái. Nhưng nói đến sự chung thủy thì lại có những luật lệ khác. Mặc dù chúng ta cắn răng chấp nhận sự dối lừa trongsuốt thời gian yêu đương, nhưng ai cũng trông chờ sự chung thủy của đối phương khi đã trở thành bạn đời của mình. Phụ nữ thường cho rằng, “’Nếu như anh ấy thật tình yêu tôi thì sẽ không màng hướng ánh mắt thèm thuồng đến một thân thể hay một bộ ngực nào khác cả. Mỗi khi có ông chồng nào dám để mắt đến một người phụ nữ khác trong nhà hàng, vợ anh ta sẽ lập tức nhặng xị lên ngay.” Diane Sollee, người đứng đầu của một công ty tổ chức hôn lễ chuyên nghiệp ở Washington D.C. tâm sự, “Ở Mỹ, chúng tôi sống quá lãng mạn, vì vậy mọi tội lỗi xâm phạm đến hôn nhân là lý do phổ biến nhất dẫn tới ly hôn.”
Tại sao bị lên án là tội lỗi và đề phòng cẩn thận như vậy mà những người Mỹ đã kết hôn vẫn ngoại tình được? Câu trả lời đơn giản là có một nhóm nguyên tắc khác nữa. Nhóm nguyên tắc chính thống luôn khẳng định rằng ngoại tình là hoàn toàn sai trái. Nhưng đó chỉ là những câu cửa miệng khi phản hồi lại cho những người thăm dò ý kiến mà thôi. Đến khi người ta ngoại tình thì họ lại đi theo một nhóm nguyên tắc khác: nhóm nguyên tắc không chính thức. Thực ra mà nói, như nhà xã hội học James Farrer từng chỉ ra rằng mỗi nền văn hóa sẽ đồng tình với một số hoàn cảnh nhất định dẫn đến sự không chung thủy.
Ở Mỹ, một cuộc hôn nhân hoàn chỉnh không chỉ là hữu danh vô thực mà còn có những ràng buộc nhất định. Một giám đốc đầu tư ở New Jersey,
người đang dự định ly dị cô vợ thứ hai ngọt ngào nhưng nhàm chán để chạy theo người tình mới, nhìn tôi bằng ánh mắt ngây thơ vô số tội và vô tư giải thích, “tôi cần hạnh phúc thật sự.” Mưu cầu hạnh phúc hay mưu cầu tình yêu chân thật là một trong những câu chuyện hay được người Mỹ sử dụng để biện minh cho việc ngoại tình và đồng thời cũng để vượt qua sự cắn rứt lương tâm vì đã vụng trộm.
Để làm người không chung thủy, bạn không những phải biết dựng chuyện mà còn phải hoàn toàn nhập vai làm cho câu chuyện được kể thật sống động. Có thật là đàn ông và phụ nữ được phép là bạn bè và có thời gian riêng tư cho mình hay không? Có phải lúc nào vợ chồng cũng phải ở bên nhau trong mọi lúc rảnh rỗi? Có dễ tìm cô trông trẻ hay không? Nhà cửa phải rộng bao nhiêu thì đủ? Khi tôi ở Moscow, một nhà tâm lý học gia đình cho tôi biết rằng rất nhiều người Nga sống trong một căn hộ có hai phòng, một phòng dành cho cha mẹ, phòng còn lại thì cho vợ chồng sống cùng lũ trẻ. “Vậy bạn có thể tưởng tượng họ phải làm tình ra sao rồi... Trong hoàn cảnh này thì thà ra ngoài vụng trộm còn hơn lúc nào cũng phải cãi cọ với cha mẹ,” ông bảo.
Những nhà trị liệu Mỹ lại miêu tả một vấn đề khác - một sự thật là khi việc vụng trộm bị phanh phui cũng là thời điểm hôn nhân đi đến hồi kết. Hệ lụy thường xảy ra nhất mà sự vụng trộm gây ra là sự giày vò làm lu mờ mọi thứ khác trong cuộc sống.
Nhiều người chẳng thể nào rút chân ra khỏi tình cảnh này. Hai mươi lăm năm về trước, Neil nhận được điện thoại báo rằng vợ ông đang nằm viện. Cô bị ông chủ đánh đập, và dường như đó là hậu quả của một cuộc cãi vã xảy ra giữa đôi tình nhân. Lúc ấy Neil đang ngấp nghé bốn mươi và là phó giám đốc của một tổ chức phi lợi nhuận ở Baltimore, sự việc này đã dấy lên trong lòng ông ta đầy hoài nghi về mối quan hệ giữa họ. Từ đó, những cố gắng không ngừng nghỉ hòng tìm ra sự thật cuốn ông ta vào “cơn mê kinh hoàng” đến tận ngày nay.
Khi tôi gặp Neil tại tiền sảnh một nhà thờ ngoại ô ở Memphis, lúc đó ông sáu mươi bốn tuổi. Ông có dáng người cao ráo, lịch thiệp và khuôn mặt hình chữ điền. Ông thích bóng rổ và thường chơi với lũ cháu của mình. Nhưng khi kể lại chi tiết của chuyện ngoại tình này, có vẻ như sự tự tin của ông tàn lụi và những nét thanh lịch quý phái kia cũng vụn vỡ đi đâu mất. Nhìn ông ta
lúc này chẳng khác khi Ward Cleaver[2]buông xuôi cho số mệnh là mấy. “Không có một ngày nào - nghe tôi kể này - không có một ngày nào trôi qua mà tôi không nghĩ ngợi liên tục về chuyện này cả. Điều tôi nói đến ở đây không phải chỉ là suy nghĩ vu vơ rồi lại chăm chú làm việc khác đâu nhé. Không hề. Nó cứ như vết thương không lành làm lòng mình nhức nhối mãi vậy đó. Chẳng thể nào quên được.”
Neil là một người thông minh, ông đã bỏ qua nhiều nỗi đau khác và những chuyện nhỏ không đáng trong cuộc sống. Ông không ngờ rằng vết thương lòng gây ra bởi việc vợ ông ngoại tình lại tồn tại lâu đến vậy. Chính tôi cũng cảm thấy lạ. Dĩ nhiên, phát hiện bạn đời của mình vụng trộm thì ai mà không đau đớn, cảm thấy bị sỉ nhục và còn sợ hãi nữa chứ. Khi tôi tâm sự với nhiều người trên khắp nước Mỹ thì họ đều cố truyền tải một thông điệp không khác gì Neil, rằng họ không chỉ đơn giản là đau buồn và tổn thương như vậy. Họ hoàn toàn mất niềm tin vào cuộc sống xung quanh. Một “nạn nhân bị lừa dối” giải thích “Nó cướp đi quá khứ, tôi không còn là chính tôi nữa. Bây giờ tôi chẳng biết cái nào là thật, cái nào là giả nữa.”
Hiệp hội Trị liệu Tâm lý cho Hôn nhân và Gia đình của Mỹ cảnh báo rằng “Phản ứng của một người chồng/vợ bị lừa dối sẽ giống như triệu chứng tiền căng thẳng, trầm uất mà những nạn nhân vừa trải qua tại nạn thảm khốc gặp phải.” Mọi người đều cố gắng miêu tả sự tuyệt vọng và tâm trạng như rơi vào vực thẳm của mình bằng tất cả những phép ẩn dụ nào mà họ có thể tưởng tượng ra. Một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi sống ở Seattle bảo rằng “cảm giác của nó chẳng khác nào thảm họa 11/9, từng tầng của tòa nhà lần lượt sụp đổ.” Một người khác viết trên trang web tâm sự giữa những người bị lừa dối rằng việc cô ta phát hiện chồng mình vụng trộm chẳng khác nào cơn đại hồng thủy cuốn trôi một phần tư triệu người vào năm 2004 ở châu Á.
Jo Ann Lederman, một nhà trị liệu tâm lý tình cảm hôn nhân ở Miami viết trong chuyên mục trên báo mà cô phụ trách: “Rất nhiều phụ nữ tỏ ra mất tự chủ vì họ tin rằng mình đã hóa điên. Trong thời kì này, sẽ xuất hiện những thay đổi nhất định trong hệ thống thần kinh và khả năng nhận thức.” Lederman còn kể lại lời của một bệnh nhân rằng “Cảm giác này còn đau hơn khi mất con nữa. Mặc dù tôi biết rằng bác sĩ đã làm hết sức mình. Nhưng tôi vẫn không thể nào nghĩ được rằng chồng mình, người bạn đời thân thiết nhất
của mình, lại chính là nguyên nhân gây ra nỗi đau đớn và giày vò này cả.”
***
HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG đã nằm trong máu của người Mỹ. Những người thuộc Thanh Giáo, tồn tại ở thuộc địa của Mỹ vào thế kỉ 17, nổi tiếng về hình phạt đánh đập giữa công chúng hay đôi khi là xử tội chết dành cho những kẻ ngoại tình. Thậm chí họ còn bị bắt thêu lên những bộ quần áo nổi bật nhất của mình chữ hoa A (hoặc AD)[3]để luôn bị nhận biết; nhưng không cần đến mức phân biệt màu của chữ cái đó như yêu cầu hà khắc của các quan tòa ở Hester Prynne trong cuốn tiểu thuyết The Scarlet Letter (tựa tiếng Việt: Chữ A màu đỏ - ND) của nhà văn Nathaniel Hawthorne. Những người thuộc Thanh Giáo lại theo định nghĩa trong Kinh Thánh, và như vậy ngoại tình chỉ cấu thành giữa những người phụ nữ đã đính ước hoặc đã có gia đình và người tình của họ. Còn những người đàn ông lầm lỡ thì chỉ mang tội nhẹ hơn là “thông dâm” (chỉ việc hai người chưa có gia đình quan hệ tình dục với nhau).
Vào thế kỉ 18, khi tình hình giữa nước Anh và thuộc địa Mỹ của nó trở nên căng thẳng, nước Anh bèn biện hộ cho sự đô hộ của mình rằng quan hệ giữa hai dân tộc như bố mẹ và con cái. Nhưng lý thuyết này đã dấy lên một làn sóng phản đối từ những người thực dân, họ muốn có mối quan hệ tự nguyện bình đẳng với Anh như giữa vợ và chồng.
Đến khi Mỹ giành được độc lập, những nhà cầm quyền lại mượn mô hình hôn nhân như một ẩn dụ lên hình thức tự cai trị của nền cộng hòa mới. Nhà sử học Nancy Cott của đại học Harvard đã miêu tả điều này rất rõ nét trong cuốn sách Những lời tuyên thệ công khai: Lịch sử của hôn nhân và đất nước của mình. Bà viết rằng: đối với những nhà khai quốc của Mỹ, hôn nhân là biểu tượng cho tự do chính trị. Trong cả hai lĩnh vực, mỗi bên đều tự nguyện thực hiện trách nhiệm của mình với bên kia và hai bên cùng hưởng lợi từ mối quan hệ đó. Dĩ nhiên, trong suy nghĩ của những nhà khai quốc ấy, không phải kiểu hôn nhân nào cũng chấp nhận được. Duy chỉ có hình thức hôn nhân của đạo Cơ Đốc: một vợ một chồng, sống với nhau đến răng long tóc bạc mới được thừa nhận mà thôi.
Hôn nhân không chỉ đơn thuần là một phép ẩn dụ. Những nhà khai quốc
còn tin rằng chỉ những người đã lập gia đình mới có thể trở thành những công dân tốt. Cách cư xử của những cá nhân không mang tầm ảnh hưởng quan trọng trong suốt thời kì còn là thuộc địa vì vua chúa được toàn quyền hành xử. Nhưng dưới chế độ dân chủ thì dù sao đi nữa, lựa chọn của nhân dân nước Mỹ vẫn là cơ sở định hình đặc tính của đất nước. Từ đó, sức mạnh và sự tồn vong của quốc gia sẽ tùy thuộc vào tình trạng tinh thần của người dân. Theo lý thuyết, nếu như dân chúng là những kẻ thối nát và suy đồi về đạo đức thì họ chắc chắn sẽ bầu một con người có tính cách tương tự để làm lãnh đạo.
Những nhà khai quốc cổ vũ cho hôn nhân với mong muốn thiết lập nước Mỹ thành một xã hội trật tự và hành xử đúng đắn. Họ nghĩ rằng các bà vợ sẽ kiềm hãm được những tính cách bốc đồng ương bướng của chồng mình, và ngược lại, các đức ông chồng sẽ dùng quyền lực tối thượng để giữ cho vợ mình sống đúng theo lề lối đạo đức. Những triết gia chính trị tiếng tăm ngày ấy cho rằng hôn nhân sẽ khích lệ mỗi cá nhân sống hết mình vì lợi ích cộng đồng. Ý kiến này được các tạp chí nổi tiếng đăng tải với vô số bài viết ca ngợi về lợi ích của tình yêu chung thủy lứa đôi. Còn gia đình của tổng thống được lấy ra làm nguyên mẫu cho nhân dân nước Mỹ noi theo.
Những nhà làm luật từ thuở ban sơ cũng không để cho mọi chuyện xảy ra một cách ngẫu nhiên. Nếu như người Mỹ nào không muốn kết hôn thì sẽ không được quan hệ tình dục. Chính phủ ban hành đạo luật hôn nhân và nghiêm cấm mọi hình thức quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, kể cả thông dâm, quan hệ với súc vật/quan hệ qua đường hậu môn và cả ngoại tình. Những tội trạng như “tội thông dâm” (quan hệ với vợ/chồng của người khác), “tội dụ dỗ” (lôi kéo vợ bỏ chồng), và “đánh cắp tình cảm” (cướp mất tình yêu của vợ/chồng người khác) đều bị trừng trị. Những tội trạng này đều gây bất lợi cho người chồng, vì theo luật thì cơ thể người vợ đương nhiên thuộc về chồng mình. Khi tình trạng quan hệ ngoài hôn nhân vẫn xảy ra, vào thế kỷ 19, hầu hết các bang đều nghiêm cấm các hoạt động phá thai và chính quyền liên bang còn không cho phép gửi các tài liệu “vô đạo đức” hay nói rõ hơn là bao gồm thông tin nhằm khống chế việc sinh nở, Cott đã ghi chép lại như vậy.
Vào đầu thế kỷ 20, rất nhiều người Mỹ đã chán ngấy điệu bộ giả vờ đoan
trang kiểu cách từ thời hoàng hậu Victoria. Việc khống chế sinh nở bắt đầu được thực thi ở nhiều nơi, phụ nữ châu Âu đa số đều ủng hộ công khai, và triết học Freud giải thích hiện tượng này xảy ra do nhu cầu tình dục của con người thúc đẩy. Bắt đầu từ đấy, phụ nữ không còn rụt rè lãnh cảm nữa, họ đều cho rằng hạnh phúc hôn nhân phải đi kèm với việc được thỏa mãn về tình dục.
Tòa án, đồng thời là tổ chức bảo vệ lợi ích quốc gia, bắt đầu lo ngại về những quan điểm buông thả này. Vài tiểu bang nâng tầm nghiêm trọng của việc ngoại tình thành tội trạng với hình phạt tối đa lên đến 5 năm tù giam, và hơn thế nữa tội này được chính thức đưa vào khởi tố theo bộ luật Dân sự. Mặc dù vậy họ cũng không thể chống lại xu hướng của xã hội. Phụ nữ được quyền bầu cử vào năm 1920 và hầu hết mọi đạo luật liên quan đến việc người vợ là tài sản của chồng đều bị bãi bỏ.
Theo thời gian, chính quyền Mỹ ngày càng nới lỏng sự can thiệp vào đời sống riêng tư. Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ được phép lưu hành thuốc ngừa thai vào năm 1960. Tòa án tối cao bãi bỏ điều luật cấm phá thai ở các tiểu bang vào năm 1973. Và có lẽ bước quan trọng nhất xảy ra trong thời điểm từ năm 1969 đến giữa những năm 80 là việc các tiểu bang bắt đầu áp dụng một số hình thức thuận tình ly hôn. Điều này có nghĩa là con người có quyền hủy bỏ hôn nhân của mình nếu cảm thấy không hạnh phúc. Càng ngày càng nhiều phụ nữ kiếm được tiền và có đủ khả năng để tống khứ những ông chồng thích mèo mỡ ra khỏi đời mình mà trong quá khứ có lẽ họ đã phải cắn răng chấp nhận. Từ đó, tỉ lệ ly dị trên toàn nước Mỹ tăng mạnh từ 2,6/1000 người (năm 1967) lên đến 5,3/1000 người (năm 1979), nhưng sau đó thì bắt đầu thuyên giảm. Quyết định có con hay không và vào lúc nào; cả chuyện có ly dị hay không đều tùy thuộc vào cá nhân, còn chính quyền gần như không can dự vào nữa.
Khi con người được quyền kiểm soát về việc sinh nở và hôn nhân nhiều hơn thì ngoại tình lại trở thành một biểu tượng giá trị mới. Quan hệ ngoài hôn nhân không còn là yếu tố ảnh hưởng đến số phận của quốc gia như trước nữa mà trực tiếp ảnh hưởng vào đời sống của cá nhân và gia đình. Nhưng không phải vì vậy mà người Mỹ không còn để ý đến nó - ngược lại, họ càng trở nên khắt khe hơn. Càng ngày họ càng cho rằng nó là cánh cửa tội ác, mở
ra cho bao nhiêu hiểm họa khác. Nhưng trong cái nhìn mới, những hiểm họa này không còn tác động đến nền chính trị mà sẽ ập lên gia đình và cuộc sống của kẻ ngoại tình. Kết quả là chuyện ngoại tình dần được đưa vào bóng tối. Hầu hết các luật lệ áp dụng lên tội ngoại tình ở các tiểu bang đều bị bãi bỏ, những gì còn lại chỉ mang tính di tích văn hóa mà thôi.
Ý kiến cho rằng việc lừa dối bạn đời sẽ dẫn đến hố sâu bi kịch cho cuộc đời mình đã trở thành mô-tuýp quen thuộc trong các tác phẩm điện ảnh của Hollywood. Còn trong những vở kịch, khi nhân vật chính ngoại tình, thì theo luật bất thành văn một người nào đó sẽ phải chết (không hẳn phải là kẻ ngoại tình) để lại sự sám hối tột cùng cho kẻ gây ra hành động lừa dối ấy và đồng thời cũng đại diện cho ác quỷ được tạo ra từ việc ngoại tình. Một tác phẩm tiêu biểu là “Không chung thủy” (2002) được làm lại từ phim truyện Pháp về một người phụ nữ ở ngoại ô chìm vào cuộc tình say đắm với người đàn ông cô tình cờ gặp trên đường (sự thật thì cô ấy là nhân vật chính nên thật ra cô ta không muốn bản thân mình ngoại tình chút nào). Trong một cảnh phim, có vẻ được thêm vào để thu hút khán giả Mỹ, bạn bè của cô bàn tán về người đàn ông quyến rũ đang ngồi ở quầy bar bên cạnh mà không hề hay biết là ông ta đã ngủ với cô nàng này rồi. Một trong số họ bông đùa rằng cô sẽ “gật đầu ngay tắp lự” nếu như ông ta thích mình và việc ngủ nghê sẽ trở thành một trò tiêu khiển, chẳng khác chuyện tham gia lớp học làm gốm là mấy.
Nhưng một người bạn khác lại cảnh báo rằng chuyện ngoại tình không hề đơn giản như vậy. “Không đâu, mọi thứ ban đầu lúc nào cũng dễ dàng như vậy cả. Nhưng rồi sẽ có chuyện xảy ra thôi, một ai đó sẽ phát hiện ra sự việc hoặc một trong hai người sẽ nảy sinh tình yêu thật sự, và rồi bao giờ cũng sẽ kết thúc tồi tệ cho mà xem.”
Ngay sau đó, chồng của vai nữ chính, một người cha - một doanh nhân mẫu mực, phát hiện ra chuyện vụng trộm và ra tay sát hại tên tình nhân người Pháp ấy. Sau sự việc, vợ chồng họ giảng hòa với nhau nhưng luôn phải sống trong sự lo âu thấp thỏm bị kết tội sát nhân hoặc bị nỗi ám ảnh giày vò thôi thúc họ đi tự thú. Dù trong trường hợp nào thì chuyện ngoại tình này cũng đã mãi mãi phá nát cuộc sống vốn dĩ yên bình trước đây của họ.
Tại những phòng chat (chat room) trên Internet, tôi thấy họ cũng hay đưa lên những thông điệp tương tự. Có một phụ nữ nọ đăng lên rằng cô ta có cảm
tình với một người đàn ông đã có gia đình và có thể sẽ ngủ với anh ấy; ngay sau đó tâm sự này bị dội hàng loạt phản đối - có vẻ từ những người cũng có kinh nghiệm ngoại tình - họ cảnh báo rằng cuộc vui chóng vánh này sẽ phá nát cuộc đời cô ta.
“Bạn đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc sống song tình này chưa? Bạn đã cân nhắc kĩ chưa? Hãy tưởng tượng cuộc sống của bạn ra sao trong 1, 2, 5, hay 10 năm nữa. Cuộc phiêu lưu tình ái này sẽ ảnh hưởng đến SUỐT ĐỜI bạn đấy. Chưa kể đến chuyện biện minh, bạn phải đối mặt với chính bản thân mình... Ngay cả đối với kẻ thù đáng ghét nhất của mình, tôi cũng không cầu mong hắn lâm vào tình cảnh đó đâu.” Một người khác viết rằng “Tôi thật sự mong bạn cắt đứt mọi liên hệ với anh chàng này để bản thân và gia đình bạn không phải sống nhiều năm sau trong địa ngục.”
Năm 1998, dân Mỹ được chứng kiến một kịch bản về ngoại tình trên diễn đàn có thể nói là công khai nhất từ trước đến nay: nghi án vụng trộm của tổng thống Bill Clinton. Phe đối lập Đảng Cộng Hòa của Clinton cẩn thận phát biểu rằng họ không định quy ông vào tội hẹn hò ngoài hôn thú với cô thư ký thực tập 22 tuổi Monica Lewinsky tại Nhà Trắng. Tội trạng thực sự họ muốn quy kết vào ông là sự suy đồi đạo đức “nói dối” và tội này cũng liên hệ mật thiết với tội quan hệ ngoài giá thú ở Mỹ. Để kết tội, những người điều tra đã lập nên “Báo cáo Starr” dày 445 trang, trong đó miêu tả rõ ràng mười lần vụng trộm tình ái của Clinton và Lewinsky, từ lần đầu ông ta trò chuyện với cô ấy sau giờ làm việc của chính phủ vào năm 1995 đến cuộc gặp gỡ của họ tại “tiền sảnh không cửa sổ ngoài phòng sách” của Phòng Bầu dục.
Những nhân vật và diễn tiến của “Báo cáo Starr” hoàn toàn dựa theo kịch bản ngoại tình thường thấy ở Mỹ. Lewinsky là người đàn bà mang tham vọng thay thế vị trí của người vợ chính thức, còn Clinton là người chồng luôn vun vén thêm cho khát vọng ấy hòng dụ dỗ cô ta lên giường với mình. Trong báo cáo có miêu tả lại rằng “Có lần tổng thống Clinton rào trước đón sau với cô Lewinsky rằng ông ta không biết mình có ly dị sau khi rời khỏi Nhà Trắng hay không nữa. Ông đã nói lấp lửng thế này, “[Ai] mà biết chuyện gì sẽ xảy ra bốn năm sau nữa khi tôi không còn làm việc ở văn phòng này cơ chứ?”
Báo cáo Starr miêu tả lại sự thất vọng quen thuộc của nhân vật nữ. Một người bạn của Lewinsky thuật lại rằng, “Nếu [Lewinsky] muốn nói dối tôi thì hẳn cô ấy sẽ bảo rằng, ‘Ồ, ông ấy lúc nào cũng gọi điện thoại và dành cho tớ bao điều tuyệt diệu. Lúc nào cũng muốn gặp tớ cả’... Lẽ ra cô ấy phải thêm mắm thêm muối vào câu chuyện như vậy chứ không phải than thở rằng, ‘Ông ấy bảo sẽ gọi tớ nhưng tớ ở nhà đợi hết cuối tuần không làm gì nhưng có thấy tăm hơi ổng đâu, mà đã hai tuần không gọi rồi.’”
Vernon Jordan, một luật sư ở Washington và là bạn của Clinton, xác thực rằng khi Lewinsky than phiền Clinton không gọi điện thoại hay dành thời gian cho cô ta quá ít thì, “ông ấy cảm thấy cần phải nhắc nhở Lewinsky nhớ rằng Tổng thống là “lãnh đạo của một thế giới tự do’ và có rất nhiều nghĩa vụ cần làm.” Khi Clinton bắt đầu hết hứng thú với Lewinsky thì cô nàng liền quay ngoắt thành một vai diễn quen thuộc khác: trở thành một mụ đàn bà đòi quyền lợi để rút khỏi quan hệ vụng trộm và không hé lộ ra bí mật nguy hiểm nào. Lúc đó, cô nàng yêu cầu có một công việc tại New York.
Ngay cả những người ủng hộ thuộc đảng Dân Chủ của Clinton cũng cẩn thận khi đưa ra sự thành tín của mình sao cho hợp với nhân tình thế thái. Thượng nghị sĩ Robert Byrd, người cao tuổi nhất trong bộ máy chính quyền của miền Tây Virginia, gọi hành động này của Clinton là “một hình ảnh đáng buồn”. Một luật sư riêng của Clinton biện minh với Ủy ban Pháp luật rằng chuyện vụng trộm của Tổng thống và Lewinsky chỉ ở mức “khiển trách về tư cách đạo đức”. Nhưng có một điều hoàn toàn khác với kịch bản thường thấy là Hillary, vợ của Clinton, vẫn không rời bỏ ông ta, và điều này làm dư luận Mỹ rất bất mãn. Còn Diane Sollee, một chuyện gia về hôn nhân gia đình ở Washington, kể lại rằng trong suốt phiên xử bà bị phóng viên gọi liên tục để chất vất lý do làm sao cuộc hôn nhân của Clinton vẫn không bị đổ vỡ như vậy.
Chắc hẳn những người thuộc đảng Cộng Hòa chống đối Clinton quên rằng chuyện ngoại tình đã trở thành việc cá nhân. Họ mong mỏi quốc gia nhìn nhận vấn đề này theo cách cũ, như một thứ từng là hiểm họa cho sự bền vững của đất nước. Rất nhiều hạ nghị sĩ phải đối mặt trước ống kính để trả lời những bức thư của trẻ em còn đi học cảm thấy bị “tan nát cõi lòng” khi tổng thống lừa gạt chúng. “Nếu tổng thống phá vỡ hiệp ước thành tín với
nhân dân Mỹ thì ông ta không đáng tin cậy nữa. Hơn nữa, ngành hành pháp của chính phủ là một trong những bộ mặt của quốc gia, một khi đã mất sự thành tín thì không còn ai tin vào nước Mỹ nữa,” Henry Hyde, hạ nghị sĩ thuộc đảng Cộng Hòa ở Illinois và từng là người đứng đầu trong tổ chức xét xử vụ bê bối đã phát biểu như vậy.
Nhưng đến khi vụ bê bối của chính bản thân Hyde bị vỡ lở thì ông lại cho rằng ngoại tình là vấn đề của cá nhân. Năm 1998, sau khi bị trang web Salon.com lật tẩy việc Hyde đã từng vướng vào cuộc ngoại tình suốt 5 năm với một bà mẹ trẻ tên Cherie Snodgrass cuối những năm 1960, lúc đó Hyde cũng đang có gia đình cùng 4 con nhỏ. Ông ta biện bạch rằng “Những lầm lạc tuổi trẻ của tôi đã qua lâu rồi. Bây giờ chỉ có thể nói rằng tôi và Cherie Snodgrass từng là bạn tốt rất nhiều năm trước đây.” Nhưng một sự thật rất nực cười là lúc Hyde ngoại tình thì ông đã 41 tuổi rồi.
Đa số dân Mỹ lúc ấy vẫn không thoát khỏi quan niệm cho rằng ngoại tình là vấn đề cá nhân. Ngay sau khi Hạ Nghị Viện cùng thống nhất kết tội Clinton thì tỉ lệ ủng hộ của quốc gia với ông ta tăng thêm 10 điểm, thuộc vào mức cao nhất từ trước đến nay, lên đến 73% dựa theo cuộc thăm dò dư luận quần chúng của Viện Gallup trên CNN. Trong khi đó tỉ lệ ủng hộ của đảng Cộng Hòa lại lao dốc mất 12 điểm, chỉ còn 31%.
Clinton đã khéo léo sử dụng kịch bản tân thời hơn này để chuộc lỗi lầm lăng nhăng sau lưng vợ. Có vẻ là ông ta đã đi theo bước đường mà Hiệp hội Tư vấn Hôn nhân và Gia đình của Mỹ vạch ra. Vì trên website của Hiệp hội có viết, “để lấy lại lòng tin, tội đồ ngoại tình phải sống hoàn toàn chân thực và khai báo rõ ràng mọi chuyện mà người vợ bị tổn thương của mình muốn biết, chẳng hạn như tên của kẻ thứ ba, cả chi tiết những cuộc hẹn hò bí mật và những lần quan hệ đã xảy ra như thế nào.” Sau đó kẻ ngoại tình nên “nhận hết mọi trách nhiệm lăng nhăng về mình, không được đổ lỗi cho kẻ thứ ba, những vấn đề cảm xúc hay cá nhân, hoặc áp lực công việc.”
Clinton đã thực hiện chính xác theo từng lời từng chữ một. Đầu tiên ông không trốn tránh nữa mà thẳng thắn thừa nhận mối quan hệ vụng trộm này. Sau đó, trước thời điểm Báo cáo Starr phát hành, ông tổ chức các buổi xin lỗi người ủng hộ mình. “Tôi không thể trách ai ngoài bản thân mình vì những vết thương mà mình gây ra cả.”, ông đã phát biểu như vậy ở
Orlando, Floria. Những đảng viên đảng Dân Chủ trong quốc hội triệu tập một cuộc họp với Clinton ngay sau lời thú tội này và dường như họ đã tạo được thiện cảm. “Ở đây tôi thấy được một con người đang đau khổ cùng cực, căm hận bản thân mình, bằng chứng này cho chúng ta thấy ông đang sống trong sự hối hận, xấu hổ và tức giận bản thân vô cùng,” một hạ nghị sĩ trả lời với các phóng viên như vậy sau cuộc họp. “Tôi cảm nhận được nỗi buồn thực sự của ông ta vì những gì đã gây ra cho gia đình mình.” Trớ trêu thay, những tình tiết được tiết lộ trong Báo cáo Starr này dường như lại giúp cho dân Mỹ giảng hòa với vị tổng thống của mình.
***
KHÔNG CÓ một minh chứng nào cho thấy rằng những người chung thủy sẽ trở thành bác sĩ, người dân hoặc tổng thống tốt hơn cả. Tương tự như vậy, cũng chẳng có bằng chứng nào cho thấy những người ngoại tình sẽ thụt két nhiều hơn, trở thành kẻ giết người, hay nói dối nhiều hơn, hoặc sống đồi trụy hơn người chung thủy cả. Theo những gì tôi được biết thì giá cổ phiếu của một công ty và chuyện giám đốc điều hành ngủ với ai đó chẳng có gì liên quan đến nhau. Có vẻ chuyện con người thuộc chòm sao nào cũng có liên quan đến tính lăng nhăng và những thói hư tật xấu của họ, nhưng sự thật chẳng có minh chứng cụ thể nào. Và chuyện các tổng thống ngoại tình cũng không hoàn toàn liên quan đến năng lực và phẩm chất của họ, cho dù là tổng thống giỏi hay dở thì cũng có người lăng nhăng, người không.
Nhưng chính vì người Mỹ nghĩ về chuyện ngoại tình quá tiêu cực cho nên nó vô tình làm cho cuộc sống trầm trọng hơn một khi chuyện đó xảy ra. Vài tháng sau khi gặp mặt Kevin và April tôi có gọi điện thoại hỏi thăm họ. Lúc ấy April đang ở nhà một mình. Cô bảo mọi thứ vẫn còn khá tồi tệ và cuộc sống của cô đang chìm ngập giữa đám lộn xộn vẫn thường được đề cập trong phim ảnh. Trong một lần lục lọi ví của April như thường lệ, Kevin phát hiện ra bức email của John, nhân tình cũ của April. Trong thư, John bảo rằng anh ta đang gặp nhiều vấn đề gia đình và mong muốn được gặp April trò chuyện. April thì bảo rằng cô giữ bức email trong ví vì cảm thấy chuyện này chẳng có gì phải che giấu cả.
Tôi chẳng biết April buột miệng nói như vậy hay cố tình khiêu khích
chồng mình nữa. Nhưng cho dù là trường hợp nào đi nữa thì theo April kể lại, lúc đó Kevin liền lôi súng ra định lao đến nhà John. Khi giằng co để ra khỏi nhà, Kevin nắm chặt tay April đến nỗi làm cô ấy bị thương. Nhưng Kevin ra đến ga-ra thì April đã kịp gọi cảnh sát. Sau đó ông ta bị bắt giam và bị ngồi tù trong nhiều giờ đồng hồ.
April và Kevin đã phải mất 15.000 USD phí tại ngoại, còn luật sư của Kevin thì yêu cầu ông cung cấp những bức email hay bất cứ giấy tờ gì về hành động vụng trộm của April nhằm làm bằng chứng ra tòa. Để hoàn thành thủ tục chắc phải mất vài tháng, trong khi đó Kevin ngồi lỳ ở nhà, tự giày vò bản thân và không biết đến khi nào mình mới có thể tìm thấy lại được niềm vui. “2 tuần rồi, tôi bắt đầu nhận thấy rằng chuyện này không hoàn toàn là lỗi của mình,” April bảo.
April rất hối hận vì những gì đã xảy ra và trong thực tế, hậu quả của cuộc vụng trộm vẫn ngày đêm ám ảnh đời sống vợ chồng làm cô quên mất rằng: tình yêu của cô và Kevin cũng bắt đầu từ chuyện ngoại tình. Kevin từng kể với tôi rằng ông và April bắt đầu hẹn hò sau khi ông ly hôn người vợ thứ hai, và có vẻ là Kevin cũng là kẻ dối trá trong tình cảm.
April bảo: “Ông ấy cứ luôn miệng hứa hẹn rằng sẽ làm thủ tục ly dị với vợ, nhưng rồi mọi thứ cứ kéo dài trong mập mờ suốt 3 năm liền. Một lần vợ và mẹ vợ ông ấy từng đến đập cửa nhà tôi và mắng thẳng rằng tôi là con hồ ly tinh khốn kiếp mà.” Theo April cho biết thì Kevin cũng từng lừa dối người vợ đầu tiên của mình.
Nhưng vạch ra những hành động xấu xa tương tự giữa họ không làm cho Kevin cảm thấy nguôi ngoai chút nào về những gì cô gây ra cho ông. “Ông ấy bảo vụng trộm với tôi vì ông ấy yêu tôi. Tôi bảo ‘Nhưng từ đầu chúng ta đã yêu nhau đâu.’” April nói. “Ông ấy bảo giờ đây khi nếm trải được những nỗi đau mà tôi đem đến cho mình thì mới cảm thấy hối hận vì những gì mà ông ấy đã vứt bỏ.”
CHƯƠNG II
Ôi những lời dối trá
Những lời nói dối khốn kiếp
Và chuyện ngoại tình
Từ khi bắt đầu thu thập tài liệu để viết cuốn sách này, tôi thấy rằng mình phải cho thêm vào một bảng xếp hạng tổng thể về tỉ lệ ngoại tình từ thấp đến cao của các quốc gia. Tôi cũng chẳng biết bảng xếp hạng này đã tồn tại hay tôi phải tự vẽ lên đây nhỉ. Nhưng cũng khó mà tưởng tượng ra nó sẽ như thế nào và nước Mỹ sẽ xếp hạng mấy đây nữa? Quốc gia nào sẽ có sự khác biệt để nằm đầu bảng? Tỉ lệ giữa các quốc gia có chênh lệch lớn lắm không? Thứ tự xếp hạng có liên quan đến một yếu tố lạ lùng nào không, như thời tiết chẳng hạn?
Ý niệm mơ hồ đầu tiên đến với tôi khi gặp một người đàn ông Nga tự xưng là bố của một chuyên gia tình dục học, là ở Moscow, nơi người ta không dễ dàng gì thổ lộ những bí mật tình dục của mình cho người khác. Ông tên là Igor Kon, 76 tuổi, và nhìn có vẻ giống như ông nội hay một người ban phước lành cho vị chuyên gia kia thì hợp lý hơn. Ông chỉ cao hơn 1,5m một chút, đầu tóc bạc phơ, nụ cười trìu mến, và có một thói quen rất thú vị là hay kết hợp biệt ngữ khoa học như “thủ dâm” hay “cương cứng” trong câu nói của mình. Ông viết lách nhiều đến nỗi không nhớ mình đã cho ra đời bao nhiêu quyển sách mà chỉ áng chừng vào “khoảng 50 cuốn”. Những đồng nghiệp trong Hiệp hội Sức khỏe Tình dục Thế giới gần đây tôn vinh những thành quả mà ông đạt được bằng chiếc huy chương vàng.
Bốn bề xung quanh căn phòng làm việc ở nhà Kon đều phủ kín sách, giấy viết, và những tập san viết bằng 6 ngôn ngữ. Trong những chồng sách đồ sộ đó tôi tìm thấy kết quả điều tra và con số thống kê về tỉ lệ ngoại tình ở Nga và hình như còn ở một số quốc gia khác. Tôi mường tượng ra viễn cảnh ngài Kon, lúc này trông giống như thầy Yoda, cầm danh sách tổng thể mà tôi hằng mơ tưởng đó ra và phì phò nói, “Bây giờ cô hãy đi tới Slovenia và sau đó là Niger.” Nhưng có lẽ ông ta sẽ khẽ ném cho tôi một ánh nhìn trêu ngươi rồi cất nó đi mất.
Ông ta rất vui vẻ cho đến khi tôi đề cập tới số liệu thống kê về tình dục của Nga thì trở nên cau có và bảo “Chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ có sự khảo sát toàn quốc nào được tiến hành cả.” Kon cho biết chính phủ luôn là nguồn tài trợ tất yếu cho những cuộc khảo sát tốn kém của quốc gia, bao gồm một vài thắc mắc về vấn đề quan hệ ngoài hôn nhân. Nhưng chính phủ Xô-Viết hầu như nghiêm cấm các nhà xuất bản phát hành bất kì thảo luận nào liên quan đến tình dục, huống hồ gì chuyện thực hiện một cuộc khảo sát có thể làm xấu mặt cả nước Nga khi vạch trần rằng chính họ cũng bị dính líu vào bê bối ngoại tình.
Mặc dù chính quyền Xô-Viết tan rã vào năm 1991 nhưng Giáo hội Cơ Đốc vẫn không cho phép chính phủ lâm thời tài trợ cho bất cứ hoạt động nào liên quan đến tình dục. Vì vậy, một kết quả khảo sát về tình dục toàn quốc chẳng khác nào báu vật đối với Kon và đồng nghiệp của ông. Thay vào đó, họ phải mày mò trên những tài liệu hạn hẹp thu thập được, trong đó hữu hiệu nhất có lẽ là khảo sát vào năm 1996 ở St. Petersburg.
Nghiên cứu về tình dục ở Nga chẳng được lợi lộc gì. Kon chỉ kiếm được khoảng 123 USD mỗi tháng từ chức vụ nghiên cứu trưởng tại Viện Khoa học Hàn lâm Nga. Số tiền ấy chỉ vừa đủ để mua thức ăn ở Moscow. Kon và các đồng nghiệp phải làm nhiều công việc khác nhau để sống qua ngày. Ngoài ra, công việc nghiên cứu về tình dục này cũng tiềm tàng nhiều hiểm nguy. Những người chống đối từng phá hoại cửa nhà của Kon. Ông còn cho tôi xem một cuốn sách bìa mềm dày 74 trang được thực hiện bởi một nhóm giảng sư Nga, trong đó họ lên án ông là “hiểm họa của xã hội và liên bang Nga”, đồng thời buộc tội ông ủng hộ cho chuyện quan hệ tình dục với trẻ con (đương nhiên là ông không hề làm thế bao giờ). Vào năm 2001, khi ông đang giảng bài ở Đại học Moscow, một nhóm lưu manh khoảng 20 tên đứng bên ngoài căng băng-rôn “cáo buộc” ông là dân đồng tính và ném cả bánh kem vào mặt ông nữa. Cũng may là Kon chưa bị đe dọa đặt bom trong nhà mình. Nếu như họ thật sự muốn làm thì đã không cần cảnh báo vậy rồi. Kon bảo “Giết người khi ấy không phải là một vấn đề lớn. Họ mà muốn giết tôi thì dễ như trở bàn tay.”
***
VIỆC NGHIÊN CỨU VỀ TÌNH DỤC Ở BẤT KỲ NƠI NÀO hẳn nhiên không dành cho những kẻ nhút nhát. Nhớ lại lúc tôi phỏng vấn Alain Giami, giám đốc nghiên cứu của Học viện Sức khỏe và Nghiên cứu Y khoa Quốc gia Pháp, ông đã cắt ngang lời tôi và trở nên cực kì kích động đến mức làm tôi có cảm giác rằng ông ta sắp sửa chồm khỏi ghế vậy.
Vấn đề đụng chạm ông ta ở đây chỉ vì tôi dùng cụm từ “ngoại tình”. “Ý cô nói ‘ngoại tình’ là sao? Tôi chẳng biết ‘ngoại tình’ là gì cả,” ông ta hét toáng lên. “Tôi không quan tâm đến vấn đề này nên sẽ không dùng cụm từ đó. Nó ảnh hưởng đến giá trị tôn giáo. Dùng từ ‘ngoại tình’ là đã tạo nên một giá trị tiêu cực. Điều đó hàm ý cô không chung thủy và là một kẻ dối trá.”
Tôi đã lâm vào cuộc chiến ngôn từ để xem những nhà khoa học xã hội nên gọi vấn đề vụng trộm này là gì. Khi viết về vấn đề này trong những tập san chuyên đề và các ấn phẩm giáo dục, họ thường cố gắng tỏ thái độ trung lập về phương diện đạo đức. Nhưng Giami thậm chí không thoải mái với những ngôn từ hàm ý việc người được phỏng vấn đã kết hôn chưa, hay có thích quan hệ tình dục với nhiều người không hay mối quan hệ vụng trộm có quan trọng hơn hôn nhân chính thức hay không. Ông ta yêu cầu dùng một cụm từ mà theo tôi nó nghe giống như tính toán hơn là chuyện tình dục: “Chúng tôi gọi đó là nhiều mối quan hệ song song cùng lúc”.
Các học giả có vẻ rất hứng thú trong việc đặt ra các tên gọi hấp dẫn mới mẻ. Nếu tôi có lăng nhăng thì sẽ nói với chồng mình là tôi chỉ tham gia vào “mạng lưới tình dục”, cụm từ này được các nhà nghiên cứu ở Nigeria sử dụng (trong đó các nữ nhân tình gọi tắt là SGFs, “steady girlfriends”, hay “bạn gái lâu dài”). Vào những năm 80, các học giả Mỹ thử tạo ra từ viết tắt EMC cho cụm từ “extramarital coitis” hay “giao cấu ngoài hôn nhân” nhưng không tồn tại lâu lắm vì nghe giống như một chứng bệnh y học. Không có học giả nào dùng từ “thông dâm” vì nghe có vẻ giống như một giọng nói tưởng tượng vang vọng xuống từ trên không trung “Mi đừng bao giờ thừa nhận.”
Nhưng những gì mà tất cả các cách biểu hiện này đề cập đến lại là một vấn đề khác. Một số khảo sát chỉ hỏi về chuyện “quan hệ tình dục” với người khác ngoài bạn đời của người được hỏi và mặc cho người trả lời quyết địnhý
nghĩa của câu hỏi này. Một số khác cố gắng biểu đạt nó ở dạng một câu hỏi lạc quan như “Năm ngoái bạn có chung thủy một vợ một chồng không?” Trong một số trường hợp, tôi ước gì các câu hỏi ấy có thể mơ hồ hơn một chút. Vì khi nghĩ đến cách khảo sát vào năm 1990 ở Mỹ làm tôi cũng thấy đỏ mặt, họ tiến hành “gọi số điện thoại bất kì” và hỏi người nghe máy rằng, “Suốt năm vừa rồi bạn đã quan hệ tình dục trực tiếp và qua đường miệng với bao nhiêu người?”
Một số câu hỏi khác lại tác động đến tâm trạng. Một khảo sát vào năm 1992 ở Mỹ định nghĩa tình dục là “hành động tự nguyện từ hai phía, trong đó có tiếp xúc sinh dục và tạo hứng thú hoặc sự kích thích gợi dục gây nên trạng thái hưng phấn tột độ, cho dù không xảy ra hành động giao cấu hay không đạt được khoái cảm.” Đọc đến đây cũng đã đủ làm ta mường tượng đến việc lăng nhăng rồi.
Một số khảo sát rõ ràng chỉ mang tính chất tiêu khiển và không màng che giấu tính thiên kiến của chúng. Trong một bài báo điều tra dư luận ở Nam Phi, họ chia ra hai loại: đàn ông ngoại tình và đàn ông ngoại tình “trong lúc say xỉn.” Một bài thăm dò ý kiến ở Pháp lại chỉ đề cập đến “Phụ nữ ngoại tình để tiêu khiển,” trong đó họ được chọn 1 trong 3 loại tình nhân (lựa chọn được đánh nhiều nhất là “đàn ông cực kì vui tính, không cần phải đẹp mã hay thông minh”). Hầu hết sau khi cân nhắc, có một ô thứ tư cho phụ nữ nói rằng “tôi không lăng nhăng”.
Cuộc khảo sát về Sức khỏe và Cuộc sống gia đình vào năm 2000 ở Trung Quốc thì có một câu hỏi rằng “Trong xã hội ngày nay, một số người đã kết hôn có quan hệ tình dục với người khác ngoài bạn đời của mình (quan hệ ngoài hôn nhân, quan hệ với kẻ thứ ba). Bạn nghĩ rằng nên xét xử từng trường hợp hay tất cả bọn họ đều phải bị trừng phạt?”
Tại một đất nước như Trung Quốc, nghiên cứu về tình dục chỉ bắt đầu được tiến hành từ những năm 80 vì nghĩ đến việc phải ngồi đối diện với một người lạ và hé lộ ra chi tiết về đời sống tình dục của mình thì ai cũng mất hết cả nhuệ khí rồi. Vào giữa những năm 90, một học giả Trung Quốc tìm ra một sự thật trong thập kỉ trước là những đối tượng khảo sát đều cho rằng những người phỏng vấn nữ là “đàn bà hư hỏng”, còn những người phỏng vấn khác hỏi về chuyện tình dục vì chính bản thân họ đang tưởng tượng về hành động
ấy. Học giả này còn cho biết khi hỏi đến các vấn đề tình dục thì “hầu hết phụ nữ đều cảm thấy buồn nôn.”
Những vấn đề này không giúp ích được nhiều cho biểu đồ ngoại tình của tôi. Làm sao tôi có thể so sánh chuyện ngoại tình ở các quốc gia khác nhau nếu như họ không thống kê cùng một thứ cơ chứ? Một số khảo sát hỏi về chuyện người ta ngoại tình trong hôn nhân hay cả trong quá trình đang ăn ở như vợ chồng với một người khác. Số khác thì chỉ khảo sát chuyện xảy ra trong vòng một năm trước đó vì cho rằng người ta sẽ nhớ những việc ngắn hạn tốt hơn. Một số bài trưng cầu ý kiến chỉ tập trung vào việc người ta có quan hệ tình dục hay không mà lại không đề cập đến hàng ngàn người khác chỉ quan hệ bằng miệng, hay trao nhau những nụ hôn nồng cháy trong bãi gửi xe. Chẳng phải những trường hợp đó cũng được tính là ngoại tình sao?
Những nhà nghiên cứu luôn làm mọi cách để thuyết phục đối tượng của mình khai ra sự thật. Họ sẽ hỏi cùng một câu hỏi bằng nhiều cách hoặc trong những thời điểm khác nhau trong cuộc phỏng vấn để xem những câu trả lời có nhất quán hay không. Một số người viết những câu hỏi nhạy cảm vào máy tính cá nhân và để cho đối tượng phỏng vấn tự điền vào câu trả lời, bằng cách này họ sẽ không phải “trực tiếp thú nhận” với người phỏng vấn. Trong một nghiên cứu vào giữa những năm 90, những người phỏng vấn thường yêu cầu bạn đời của đối tượng phỏng vấn lấy giúp mình cốc nước nhằm đẩy họ ra khỏi tầm nghe ngóng rồi lợi dụng thời cơ đó để hỏi hàng loạt các câu hỏi về tình dục.
Trong một cuộc khảo sát ở Trung Quốc vào năm 2000, các nhà nghiên cứu đã mời đối tượng phỏng vấn ra khỏi nhà, nhưng cách sắp xếp của họ lại gợi lên sự tò mò như đang dụ dỗ vậy: “Theo một quy luật nhất định, chúng tôi mời đối tượng phỏng vấn đến khách sạn được sắp đặt trước, và gặp người phỏng vấn cùng phái trong phòng kín để trao đổi trực tiếp; trong quá trình này, người phỏng vấn sẽ dùng mọi cách để làm đối tượng của mình cung cấp những câu trả lời trung thực nhất.” Vào những năm 90 ở Mỹ, các nhà nghiên cứu từ Đại học Chicago tìm hiểu các đối tượng trước khi phỏng vấn và rút ra kết luận là người Mỹ thuộc mọi lứa tuổi và chủng tộc sẽ cảm thấy thoải mái nhất khi trao đổi về vấn đề tình dục với những phụ nữ da trắng trung niên. Vì vậy họ bèn thuê một trung đội các phụ nữ theo tiêu chuẩn đó và huấn luyện
để họ không nao núng khi các đối tượng phỏng vấn dùng “tiếng lóng” hoặc miêu tả chi tiết về những trải nghiệm tình dục của mình.
Dĩ nhiên, ngay cả những cuộc điều tra dư luận hoàn hảo nhất cũng sẽ trở thành vô nghĩa nếu như người đi thăm dò ý kiến không nhắm đến những đối tượng phỏng vấn phù hợp. Theo Thống kê 101: Mọi người trong nhóm đối tượng nghiên cứu phải được hoặc ít nhất là có cơ hội được chọn lựa. Theo cách này, thường được gọi là phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, chúng ta sẽ phải lập nên một danh sách các đối tượng phù hợp sau đó chọn lựa ngẫu nhiên vô điều kiện hoặc tùy theo độ tuổi, giới tính để phỏng vấn. Nếu như bạn làm vậy với những người bộ hành ngẫu nhiên trên đường phố Paris thì kết quả sẽ không chắc chắn phản ánh điều gì về người dân ở đấy cả. Những người thường đi trên con đường đó sẽ có nhiều khả năng được mời phỏng vấn hơn số dân còn lại trong thành phố, và họ có thể có những cách cảm nhận và thói quen khác với người dân xung quanh mình. Một mẫu được chọn lựa ngẫu nhiên trong trường hợp này là một người dân Paris bất kì, người này sẽ là đại diện cho toàn thể nhân dân Paris vì mọi người dân ở đây đều có khả năng được mời phỏng vấn.
Cũng tương tự như trên nếu những đối tượng nghiên cứu tự nguyện chấp nhận phỏng vấn. Một ví dụ điển hình có thể kể đến là Cuộc Khảo sát Tình dục Toàn cầu vào năm 2005 thực hiện bởi công ty Durex ở Anh chuyên sản xuất bao cao su. Durex dùng khảo sát này để cho ra một danh sách tổng hợp về ngoại tình mà tôi luôn mơ ước. Công ty này đã xếp hạng được tỉ lệ lăng nhăng của 41 quốc gia, cao nhất là Thổ Nhĩ Kỳ (58% người dân thú nhận mình đã vụng trộm) đến thấp nhất là Israel (7%).
Durex cho biết kết quả này dựa trên sự khảo sát của 317.000 người. Nhưng tất cả bọn họ đều tự nguyện vào trang web của Durex rồi điền thông tin vào bảng khảo sát trực tuyến. Một số người dân Thổ Nhĩ Kỳ nhiệt tình có thể tự vào lại hàng trăm lần. Vì vậy, khảo sát này chỉ đem lại một thông tin chính xác nhất là những người tham gia đa phần là thanh thiếu niên; lý do là trong một câu hỏi thì một phần ba trong số họ đã trả lời rằng rất thích lén vào phòng ngủ của bố mẹ để làm tình.
Những nghiên cứu hàn lâm về chuyện ngoại tình cũng gặp trở ngại tương tự vì những người nghiên cứu không được tài trợ để thực hiện những khảo
sát có quy mô lớn. Vào năm 1992, Shirley Glass (mẹ của Ira Glass - Phát thanh viên đảm nhiệm chương trình ra-đi-ô công cộng) - một nhà tâm lý học uy tín - đã phải dùng đến phương thức đưa thư tay các mẫu khảo sát cho những người da trắng tại Sân bay Quốc tế Baltimore ở Washington và trong giờ ăn trưa vội vã ở bãi đậu xe văn phòng của Baltimore để thực hiện cuộc điều tra vì sao người ta lại vụng trộm. Kết quả thu được này có thể phản ánh vài điều về những con người đó, bất kể họ là ai, nhưng chúng không thể dùng để đưa ra lời nhận xét khái quát cho tất cả những người khác được. (Những phụ nữ tiêu biểu được phỏng vấn cố hết sức biện minh cho việc ngoại tình là do họ đã đem lòng yêu tình nhân của mình, trong khi hầu hết các đấng ông chồng đơn giản thanh minh rằng “hứng thú tình dục” là nguyên nhân vụng trộm. Ngoài ra chẳng còn minh chứng nào chỉ ra rạch ròi lý do ngoại tình của họ cả.)
Đến khi được biết đến Dự án Miêu tả Tình dục Toàn cầu, trong đó họ phỏng vấn người dân của 65 quốc gia, tôi thật sự cảm thấy hào hứng. Tạp chí Psychology Today trích dẫn lại những khám phá về xu hướng “cuỗm người tình” trên toàn cầu. Nhưng theo thực tế những người quản lý nghiên cứu này xác nhận lại thì đa số đối tượng phỏng vấn lại được chọn lọc ra từ những sinh viên đại học. Nhiều nơi có quá ít người chịu làm khảo sát đến nỗi các nhà nghiên cứu phải nhóm các nước Châu Phi lại thành một, và sau đó là phải nhóm đến cả các nước Nam Mỹ lại với nhau.
Khi các học giả muốn chứng minh tầm quan trọng của việc nghiên cứu về vấn đề ngoại tình, họ thường trích dẫn từ bài báo tên “Những nguyên nhân gây tan vỡ hôn nhân: Nghiên cứu giao thoa văn hóa,” trong đó nhà nhân loại học Laura Betzig đã chỉ ra rằng ngoại tình là nguyên do chủ yếu dẫn đến việc ly dị ở 186 nền văn hóa khác nhau. Rốt cuộc khi tôi đọc qua bài báo này thì thật sự nó không đủ cơ sở để phản ánh lối sinh hoạt của người dân sống trong các nước công nghiệp ngày nay. Những nền văn hóa mà Betzig miêu tả hầu hết thuộc các nhóm bản địa như Bella Coola, Yurok, và Posmo sống ở Bắc Mỹ; hơn nữa, bà chỉ dựa vào những thống kê hẹn hò ở thế kỷ 19 thôi.
***
ĐIỀU AN ỦI cho tôi trên hành trình tìm các số liệu thống kê là tôi đã biết
được các con số của nước Mỹ: Một nửa đàn ông và một phần tư phụ nữ đã từng lừa dối bạn đời của mình. Khi bắt đầu tìm hiểu, tôi cũng không rõ những con số này ở đâu ra nhưng tôi nghe thiên hạ bàn tán quá nhiều nên có vẻ như nó là sự thật.
Đến khi bắt đầu đào xới các số liệu khoa học về vấn đề quan hệ ngoài hôn nhân, thì các con số này cũng xuất hiện rất nhiều. Nguồn này tôi lấy từ Alfred Kinsey ở Đại học Indiana, ông từng là nhà động vật học chuyển sang thành nhà tình dục học và đã cho xuất bản nghiên cứu nổi tiếng về tình dục ở Mỹ vào năm 1948 và 1953. Những kết quả thực tế của Kinsey lại còn chính xác hơn những gì thường được trích dẫn: 50% đàn ông và 26% phụ nữ đã từng quan hệ tình dục ngoài hôn nhân ở độ tuổi 40.
Cả nước Mỹ thực sự bị sốc khi Kinsey công bố những con số này. Mặc dù thật khó tưởng tượng được có nhiều người lăng nhăng quanh mình đến mức như vậy, nhưng đây là những thống kê đầu tiên về vấn đề này nên cũng chẳng có cái gì khác để đối chiếu. Bởi thế, những số liệu này bám chặt vào trí tưởng tượng chung của dân Mỹ và hình thành một ý niệm bất di bất dịch rằng ngoại tình là thảm họa quốc gia. Nhìn lại phần nghiên cứu của mình tôi thấy nhiều chuyên gia vẫn trích dẫn lại số liệu này.
Vì vậy tôi rất ngạc nhiên khi nhận ra những số liệu của Kinsey rất có vấn đề. Mặc dù phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên là tiêu chuẩn hàng đầu vào những năm 30 nhưng nghiên cứu về tình dục vẫn còn quá mới mẻ nên lúc đó Kinsey cho rằng những đối tượng Mỹ được lựa chọn ngẫu nhiên sẽ không sẵn lòng thảo luận về đời sống tình dục của họ. Thay vào đó, ông cùng đội ngũ của mình đi vòng quanh nước Mỹ và thuyết phục những người họ gặp mặt chấp nhận ngồi xuống để kể lại những trường hợp trong quá khứ họ đã trải qua. Hầu hết dữ liệu Kinsey thu thập được đều lấy từ khoảng 18.000 người, đa số họ đều là người da trắng và trẻ tuổi. Nhằm bù đắp cho “sự thiên vị của tình nguyện viên” của mình, Kinsey đã phỏng vấn tất cả những người thuộc các nhóm phân loại. Nhưng xét cho cùng, các phân loại đó cũng do tự Kinsey đặt ra thôi. Vì thế, chẳng có lý do nào để tin tưởng rằng các đối tượng phỏng vấn của Kinsey có thể đại diện cho toàn thể dân Mỹ mà chỉ có thể cho chính họ thôi. Vào đầu những năm 50, một thành viên trong nhóm phê bình của Hiệp hội Thống kê Hoa Kỳ từng bảo Kinsey rằng: “Tôi sẽ trao
đổi 18.000 bệnh sử đó bằng 400 mẫu xác suất thống kê.”
Vào những thập kỉ sau đó, nhiều khảo sát không rõ ràng vẫn củng cố thêm cho những số liệu của Kinsey hoặc còn “tìm ra” thêm tỉ lệ ngoại tình cao hơn thế nữa. Các cuốn tạp chí khảo sát độc giả của họ và cho ra những con số thái quá (Tạp chí Cosmopolitan xác nhận rằng có 69% phụ nữ có gia đình tuổi ngoài 35 đã vụng trộm). Vào những năm 70, các nhà tình dục học tự xưng như Shere Hite đưa ra cả đống khảo sát cho phụ nữ trong các nhóm chính trị và đăng quảng cáo trên các tạp chí phụ nữ. Những kết quả của họ rất buồn cười và được đăng tải trên nhiều báo, nhưng cũng rất mơ hồ. Hite cho rằng có 72% đàn ông ngoại tình, rồi trong cuộc khảo sát sau đó bà lại tuyên bố có 70% phụ nữ kết hôn sau 5 năm trở lên đã vụng trộm.
Nhưng các khảo sát này là tất cả những gì mọi người biết đến. Khi các nhà khoa học phát hiện ra vi-rút HIV vào năm 1984, họ phải dùng thống kê của Kinsey để ước định các đường lây nhiễm của vi-rút qua con người, trong đó nguy cơ cao nhất là ngoại tình và quan hệ tình dục qua hậu môn; những điều này được Julia Ericksen viết trong cuốn Hôn rồi nói (Kiss and Tell) của bà.
Các nhà nghiên cứu cần thêm những dữ liệu mới, nhưng chính phủ Hoa Kỳ cũng có vẻ lưỡng lự khi bàn luận về tình dục giống như chính phủ Xô viết. Khi nghị viện chính phủ Hoa Kì yêu cầu các đề án thiết kế một khảo sát tình dục vào năm 1987, họ đã đặt cho dự án này một cái tên rất hoa mỹ là Những khía cạnh mang tính xã hội và hành vi của Khả năng sinh sản Liên quan tới các Tư cách đạo đức. Không có từ “tình dục” nào được nhắc đến trong các đề án. Sau đó, một nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học ở Trung Tâm Nghiên cứu Quan điểm Quốc gia tại Chicago đã giành được đề án này. Nhưng mặc dù đã duyệt chi phí cho nghiên cứu, những quan chức bảo thủ thuộc đảng Cộng Hòa trong Quốc hội lại cố gắng ngăn cản. Thượng nghị sĩ Jesse Helms của Bắc Carolina và những người khác miêu tả cuộc khảo sát như một âm mưu hợp thức hóa những mối quan hệ đồng tính, họ bắt các nhà nghiên cứu loại bỏ các câu hỏi về chuyện thủ dâm và không chất vấn những người tự nhận mình chung thủy một vợ một chồng. Nhưng những sự nhượng bộ này cũng không thấm vào đâu. Đến năm 1992 thì nguồn tài trợ cho khảo sát chính thức bị đình chỉ.
***
NGAY VÀO LÚC tôi bắt đầu cảm thấy chán nản trong việc tự lập cho mình bảng xếp hạng tỉ lệ về ngoại tình thì lại được biết về Phần Lan. Phần Lan được xếp hạng đầu trong các nghiên cứu tình dục ở Châu Âu. Người Thụy Điển đi đầu trong việc làm khảo sát tình dục quốc gia bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên vào năm 1967 nhưng người Phần Lan làm theo vào năm 1970 và luôn theo dõi về khả năng xuất tinh, rối loạn cương dương và quan hệ ngoài hôn nhân của dân chúng cho đến ngày nay.
Họ là những nhà cải cách trong lĩnh vực này. Để thực hiện khảo sát vào năm 1970, các nhà nghiên cứu Phần Lan phái những cô y tá mặc đồng phục đến gõ cửa từng nhà để phỏng vấn và 91% trong số đó chấp nhận trả lời. Osmo Kontula, người lãnh đạo công cuộc khảo sát quốc tế của Phần Lan vào năm 1992 và 1999 cho biết, “Một khi thấy y tá đến bấm chuông thì người ta khó có thể đuổi đi.”
Có rất nhiều vấn đề về tình dục có thể nghiên cứu. Một cuộc trưng cầu ý kiến vào năm 1999 cho thấy 41% đàn ông Phần Lan và 1/3 phụ nữ cho biết họ có “mối quan hệ song song” trong đời mình. Vào năm 1992, tỉ lệ này của đàn ông là 52, còn của phụ nữ là 29. Mặc dù tôi không ý thức về bối cảnh toàn cầu lắm, nhưng những con số này làm tôi hơi choáng vì con người ngoại tình quá nhiều.
Kontula cho biết, người Phần Lan không nói nước đôi về tình dục vì học cách nhìn nhận nó như một kinh nghiệm tích cực. Không giống như các nơi còn lại ở vùng Scandinavia, truyền thông của Phần Lan không chú trọng đến những hiểm họa phát sinh từ tình dục như bệnh tật hay mang thai ngoài ý muốn. Hơn nữa, người Phần Lan đi du lịch rất nhiều, điều này cũng góp phần tạo cơ hội cho họ ngoại tình. Tôi thật sự choáng khi đọc được những hồi ký tình dục mà Kontula và các đồng sự thu thập được. Trong đó, không như người Mỹ, người Phần Lan lại không cho rằng khi con người ở với nhau càng lâu thì tình dục chắc hẳn sẽ dần trở nên nhàm chán, ngược lại, hầu hết đều nghĩ rằng nó sẽ càng mặn nồng hơn.
Hiện nay, Kontula đang công tác trong Học viện Nghiên cứu Dân số ở Helsinki, ông cho biết, “Dĩ nhiên con người lúc nào cũng thiên về chiều hướng chung thủy với bạn đời của mình. Nhưng khi có cơ hội và cảm thấy
rằng sẽ không có ai phát hiện ra thì họ khó có thể cưỡng lại được sự cám dỗ này. Những trải nghiệm này luôn được đánh giá theo chiều hướng tích cực và mang giá trị nhất định.”
Trong hồi ký ghi lại một đêm đi giải khuây cùng đồng nghiệp của một viên cảnh sát đã lập gia đình cùng 3 con nhỏ: “Sau khi xông hơi và ngồi tán gẫu, chúng tôi cùng nhau vào chơi ở một quán bar địa phương, hòa mình vào tiếng nhạc và hơi men… Ở đó tôi để ý đến một cô y tá ngồi cạnh mình. Rõ ràng cô lớn tuổi hơn tôi và tôi biết cô ấy vừa ly dị. Tôi mời cô ấy nhảy một bản rồi ghì chặt cô ấy vào mình đầy thèm muốn. Thật ra cô ấy không đẹp lắm, không bằng vợ tôi nữa, nhưng có gì đó ở cô ấy làm dục vọng trong tôi chợt dâng trào. Sau đó tôi cứ lải nhải yêu cầu cô ấy pha cho mình một ấm cà phê…”
Chắc chắn phải có gì đó ẩn chứa trong phần lạnh lẽo này của thế giới. Tôi đã lần mò tìm ra một nghiên cứu vào năm 1996 ở St. Petersburg, phải mất 5 tiếng đồng hồ đi tàu hỏa từ Helsinki để đến được đó. St. Petersburg không thể đại diện hết cho toàn nước Nga, nhưng kết quả nghiên cứu ở đây lại cho thấy rằng những thống kê toàn quốc của Nga có thể rất ghê gớm. Khoảng 55% đàn ông và 26% phụ nữ thừa nhận rằng họ có “quan hệ tình dục ngoài hôn nhân” song song với cuộc sống gia đình của mình.
Rốt cuộc cũng đến lượt nước Mỹ thực hiện một cuộc khảo sát toàn quốc thật sự. Vào năm 1998, các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Quan điểm Quốc gia đã thêm vào câu hỏi về số lượng nhân tình trong năm qua vào Khảo sát Toàn diện Xã hội, đây là một cuộc khảo sát có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn thể các hộ dân ở Mỹ mà họ vẫn tổ chức một hay hai năm một lần từ 1972 đến nay. Đến năm 1991 thì họ bắt đầu đưa vào câu hỏi về chuyện người dân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân hay không.
Những kết quả thu được nhẹ nhàng hơn nhiều so với những gì Kinsey hay những nhà nghiên cứu tiếp bước ông từng tưởng tượng ra. Vào năm 1991, chỉ có 21% đàn ông và 10% phụ nữ Mỹ cho biết có quan hệ tình dục với người không phải bạn đời của mình. Con số có tăng lên trong một vài cuộc trưng cầu ý kiến sau đó nhưng không đến nỗi cao như số liệu của Kinsey. Đến năm 2004, 21% đàn ông và 12% phụ nữ - tổng cộng lại chỉ chiếm 16% số người trưởng thành Mỹ - thừa nhận rằng mình có sa ngã ít nhất một lần.
Trung bình tính ra, trong một cuộc hôn nhân kéo dài 40 năm người ta sẽ lỡ lầm một lần.
Khi hỏi rằng người ta có nhân tình hay không trong một năm trở về đây cũng có thể tính luôn khoảng thời gian trước khi họ kết hôn. Nhưng tôi muốn biết về thống kê tỉ lệ ngoại tình “trong cả cuộc đời” hơn vì trong chuyện chăn gối, kí ức sẽ phai mờ, còn hôn nhân thì đến rồi lại đi. Theo tôi nghĩ, dĩ nhiên nhắc về chuyện lăng nhăng hai mươi năm trước thì ai mà nhớ nổi, còn người bồ mới quen năm ngoái thì chắc chắn phải còn nằm trong tâm trí rồi.
Nếu tính theo chu kì một năm như vậy thì dân Mỹ có vẻ thật tiết hạnh. Vào năm 1991, chỉ có 5,4% đàn ông và 3,4% phụ nữ có gia đình cho biết trong một năm vừa qua họ có nhân tình. Đến năm 2004, tỉ lệ này chỉ còn 4% đàn ông và 3% phụ nữ. Điều này rõ ràng cho thấy người Mỹ không phải là thứ dân ham ngoại tình với những mối quan hệ tình dục bí ẩn. Thực tế, chúng tôi chỉ là loại người chung thủy theo chế độ một vợ chồng.
Tuy vậy cũng chẳng có cách nào chứng minh được những con số này phản ánh thực tế cách sống của dân Mỹ. Nhưng các nhà khảo sát cũng được khích lệ khi thấy số liệu về tỉ lệ ngoại tình trong Khảo sát Toàn diện Xã hội phù hợp với hầu hết với các thống kê trong Khảo sát Sức khỏe và Cuộc sống Xã hội trên toàn quốc, cuộc khảo sát về tình dục trên toàn quốc này được thực hiện vào năm 1994 bởi một nhóm nghiên cứu của Đại học Chicago với nguồn tài trợ tự huy động.
Ngay sau đó, các nhà xã hội học khác bắt tay vào phân tích ngay dữ liệu thô lấy từ những cuộc khảo sát toàn quốc này. Đây là lần đầu tiên họ khảo sát dựa trên số liệu thực tế về những đối tượng và thời điểm ngoại tình. Một nhóm nghiên cứu khẳng định rằng phụ nữ thường có xu hướng lạc lối trong độ tuổi hai mươi, còn đàn ông thì trong độ tuổi 30. Đến tuổi trung niên thì có sự khác biệt rõ ràng. Một phụ nữ vào thời điểm năm ngoái có thể còn có khả năng ngoại tình, nhưng qua năm nay, khi bà ta 50 tuổi thì điều này chắc chắn không còn xảy ra nữa.
Năm trước, tỉ lệ ngoại tình của đàn ông ổn định ở mức hơn 3% trong độ tuổi 40 và 50, nhưng bắt đầu giảm khi bước vào độ tuổi 60. Tuy nhiên, ngay khi bạn nghĩ những lão già ấy chịu neo mình lại thì họ lại bắt đầu trỗi dậy. Khoảng 3% đàn ông có gia đình ở độ tuổi 70 cho biết họ có nhân tình trong
năm rồi. Điều này có vẻ giống như một trường hợp kinh điển: Sau độ tuổi 65, cứ 3 người đàn ông sẽ có 4 người phụ nữ, và khoảng cách giữa hai giới ngày càng xa hơn khi người ta già đi.
Nhưng tất cả những người lớn sung sức của mọi sắc tộc cộng lại cũng không thể bằng với những người Mỹ gốc Phi. Vào khoảng thời gian từ 1988 đến 2004, 7,4% người da đen và 3,1% người da trắng đã kết hôn cho biết họ đã từng quan hệ ngoài giá thú với ít nhất với một người trong năm qua. Còn trong một cuộc khảo sát vào năm 1994, 12% đàn ông da đen bảo họ đã ngoại tình trong một năm qua, trong khi tỉ lệ ở đàn ông da trắng là 3%. Về phụ nữ, tỉ lệ phụ nữ da đen là 7%, còn da trắng chỉ hơn 1%.
Mặc dù vậy, không có dữ liệu xác đáng nào cho thấy việc ngoại tình thường dẫn đến li dị nhưng cũng chẳng lạ lùng gì khi chúng ta nhận thấy được sự liên quan chặt chẽ giữa chúng. Cuộc Khảo sát Toàn diện Xã hội từ năm 1991 đến 2004 cho thấy 10,5% người dân đã từng kết hôn và 11% những người góa chồng/vợ bảo họ từng ngoại tình. Tuy nhiên, lại có 31% những người đã li dị và 22% những người đã tái hôn cho biết họ từng lừa dối bạn đời của mình. Còn những người bảo mình đang “ly thân” chính là thành phần lăng nhăng nhất: 40% trong số họ thừa nhận mình đã quan hệ ngoài giá thú.
Địa điểm cũng là một yếu tố cần quan tâm. Theo Khảo sát Toàn diện Xã hội, người dân ở 12 thành phố lớn nhất của Mỹ có tỉ lệ ngoại tình lớn nhất thế giới trong giai đoạn từ 1988 đến 2004. Khoảng 6% người dân ở thành phố lớn từng vụng trộm trong năm qua, tỉ lệ dân ngoại thành là 3%, còn người dân nông thôn chỉ có 2,6%.
Nhưng giới thượng lưu ở thành thị không phải là đối tượng ngoại tình chủ yếu. Theo những thống kê mới nhất, những người Mỹ thuộc tầng lớp thấp lại chiếm tỉ lệ vụng trộm chênh lệch hơn nhiều. Những hộ dân có thu nhập hằng năm dưới 10.000 USD có tỉ lệ ngoại tình gấp đôi so với những hộ có thu nhập trên 60.000 USD. Tương tự như vậy, những người chưa từng tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm tỉ lệ ngoại tình cao nhất (5,2%), sau đó đến những người đã tốt nghiệp trung cấp (3,4%) và những người tốt nghiệp cao đẳng (3,6%). Những người có bằng cử nhân thì con số này là 2,5%, còn những người tốt nghiệp đại học chiếm 3%, đây là đối tượng chung thủy nhất
trong năm qua. Mặc dù vậy, tỉ lệ ngoại tình trong cả cuộc đời thì đều như nhau, không phân biệt trình độ học vấn.
Những thống kê về phụ nữ trong phạm trù này luôn được quan tâm nhất. Những biên tập viên của tạp chí luôn thích thú chuyện vụng trộm của các bà. Tôi đã từng thấy các phiên bản của “phụ nữ ngày càng ngoại tình nhiều hơn” ở Nhật, Nga, Brazil và Pháp; dĩ nhiên nó cũng sẽ tồn tại ở các quốc gia khác. Một phiên bản ở Mỹ là câu chuyện trên trang bìa của tờ Newsweek vào ngày 12/7/2005 với cái tựa rất kêu “Thâm cung bí sử của các phu nhân.” Câu chuyện đề cập đến việc các bà ngày nay đang xâm chiếm những lĩnh vực mà trước đây thuộc về các đức ông chồng. Tờ Newsweek giải thích việc này rằng: thời nay, các bà có nhiều cơ hội để gặp gỡ những đối tượng có thể trở thành tình nhân của họ ở nơi làm việc, và hơn nữa, họ đủ can đảm lao vào một cuộc phiêu lưu tình ái vì có nguồn thu nhập riêng của bản thân để tự lo cho mình một khi hôn nhân đổ vỡ. Người viết còn đề cập đến những người phụ nữ thích chơi bời tiêu khiển, thường là với huấn luyện viên cá nhân và những người giúp việc khác; điều mà trước đây chỉ có đàn ông thích làm. Họ còn trích dẫn những thống kê từ các khảo sát tình dục mới, qua đó, chúng ta được biết từ năm 1991 đến 2002, tỉ lệ không chung thủy của các bà đã nâng từ 10% lên 15%. Trong cùng khoảng thời gian đó, cấp độ ngoại tình của các ông có mức độ tăng trưởng thấp hơn nhiều, từ 21% lên 22% và chỉ bắt đầu tăng từ năm 1996.
Khi quan sát kĩ lại những con số thông kê của Mỹ, tôi thấy rằng “xu hướng” này ở Mỹ có vẻ không khác biệt đến vậy. Từ bốn cuộc khảo sát toàn quốc được thực hiện từ 1991 đến 1996, dựa vào đàn ông và phụ nữ dưới 40 tuổi có tỉ lệ ngoại tình ngang nhau, dựa vào một nghiên cứu chính thức có tên “Hiểu về ngoại tình: dựa theo sự tương quan với Mẫu thử nghiệm Ngẫu nhiên Toàn quốc.” Vào cuộc khảo sát năm 1992 ở Mỹ, phụ nữ từ 18 đến 29 tuổi có tỉ lệ ngoại tình cao hơn đàn ông cùng độ tuổi.
Ngay sau khi câu chuyện trên Newsweek được đăng tải thì những số liệu thống kê về ngoại tình của năm 2004 cũng được công bố. Kết quả cho thấy tỉ lệ ngoại tình cả đời đã giảm vào năm 2004, chỉ còn 11,7% so với 12,8% vào năm 1993. Còn tỉ lệ ngoại tình một năm về trước của năm 2004 thì tương đương với năm 1988 (3,1% so với 2,8%). Nói cách khác, không có minh
chứng nào cho thấy tỉ lệ ngoại tình của phụ nữ đã nhảy vọt từ những năm 90. Tom W. Smith, giám đốc của cuộc Khảo sát Toàn diện Xã hội phát biểu, “Những khác biệt giữa các con số thống kê không đủ để ta có thể nhận định rằng tỉ lệ này đã tăng lên.”
Cũng chẳng có những bằng chứng rõ ràng nào cho thấy rằng các bà đã ngoại tình nhiều hơn trước. Tôi chờ đợi những thay đổi lớn trong cách ứng xử của các bà khi nói về ngoại tình, chẳng hạn như chuyện họ biện minh cho sai phạm của mình. Nhưng từ năm 1991 đến 2001, khoảng thời gian các bà có xu hướng thoát khỏi sự kìm kẹp của hôn nhân một vợ một chồng, thì người dân Mỹ lại càng phản ứng mạnh mẽ hơn với chuyện ngoại tình.
Cũng khó biết được rằng liệu phụ nữ đi làm sẽ có nhiều điều kiện để ngoại tình hơn như tờ Newsweek khẳng định hay không. Tỉ lệ các bà ngoại tình tăng vọt vào những năm 70 và 80. Nhưng nên nhớ rằng, những thống kê về tình dục đáng tin cậy chỉ xuất hiện từ năm 1988, vì vậy chẳng có cách nào để biết rõ các bà ngày nay có lăng nhăng hơn thời những năm 70 hay không. Trong chương sau, các bạn sẽ thấy rằng một số phụ nữ ở độ tuổi 70 ngày nay diễn tả những năm 60 và 70 là thời hoàng kim của ngoại tình, và họ không thể tin nổi cái kiểu cách đoan trang của con cái mình ngày nay. Những người phụ nữ này có nhiều thời gian để vụng trộm hơn vì họ không phải làm báo cáo cho công ty mỗi ngày. Ngay khi đối chiếu với khảo sát tình dục vào năm 1991 ở Mỹ, ngoại tình thường xảy ra với những người quanh quẩn ở nhà hơn; khi bạn đời của họ đi làm, một mình ở nhà nhàn rỗi thì khả năng ngoại tình lại cao hơn.
***
SĂN TÌM CÁC SỐ LIỆU THỐNG KÊ về ngoại tình chẳng khác nào đuổi hình bắt bóng. Cứ mỗi lần tôi tìm thấy một nghiên cứu có vẻ đầy hứa hẹn thì những con số lại không chính xác; tuy nhiên, danh sách tham khảo của nó lại trích dẫn bốn hay năm bài nghiên cứu khác có hơi hướng triển vọng. Vì vậy tôi lại tiếp tục tìm đọc chúng, tôi đã phải tiêu cả gia tài để trả phí tải chúng về hay phải nài nỉ anh bạn David đang làm việc ở Thư viện Công cộng New York gửi chúng bằng email hay thư từ đến Paris cho tôi. Rốt cuộc, những bài viết mới này cũng không có những con số thống kê,
nhưng tương tự, chúng lại có những danh sách tham khảo có vẻ hữu ích. Thế là tôi lại tiếp tục theo đuổi chúng.
Vòng bám đuổi này cứ luẩn quẩn suốt nhiều tháng trời đến khi tôi nhận được bì thư từ David. Bên trong có bài viết từ năm 1995 với tựa đề “Hành xử về tình dục ở các nước phát triển: Những liên quan đến vấn đề kiểm soát bệnh HIV.” Ở trang 2 có biểu đồ thể hiện số lượng những bạn tình “không thường xuyên” tại 18 thành phố mà các ông các bà đã qua lại 12 tháng trước khi cuộc khảo sát diễn ra. Hầu hết các thành phố này đều thuộc châu Phi, nhưng cũng có cả Hong Kong, Thái Lan, Sri Lanka và Rio de Janeiro. Họ đều dùng phương pháp lựa chọn mẫu ngẫu nhiên và đều dùng những câu hỏi giống nhau ở mọi thành phố, vì vậy việc đối chiếu kết quả trở nên dễ dàng hơn.
Biểu đồ này không thể hiện thứ hạng của việc ngoại tình ở các thành phố trên vì đối tượng phỏng vấn bao gồm cả những người độc thân. Nhưng đây là minh chứng cho thấy còn có nhiều nhà khoa học đang tìm kiếm những số liệu này giống như tôi và bảng xếp hạng ngoại tình toàn cầu của tôi có thể đã bao gồm trên 3 quốc gia. Tôi chợt cảm thấy hưng phấn đến tột độ, chân tay cuống cả lên. Lỡ tôi đánh mất mấy bài viết này và không nhớ nổi tựa đề thì sao? Lỡ như mưa tạt qua cửa sổ làm chúng ướt nhòa hết thì sao?
Tôi vội vàng gửi email cho một trong những tác giả của bài viết, ông ấy là một vị tai to mặt lớn ở Trường Vệ sinh và Y học Nhiệt đới ở London danh tiếng. Hỏi rằng liệu ông ấy có đang sở hữu các số liệu về các cặp vợ chồng hoặc cặp đôi sống chung không? Ông trả lời và bảo tôi có thể liên lạc với Martine, một đồng nghiệp của ông đang chuẩn bị cho một bài viết với nhiều dữ liệu gần đây hơn. Vậy là có những số liệu mới sao? Tôi lại nín thở viết cho Martine, cô ấy hẳn đang rất bận cho bài nghiên cứu mới ấy, nhưng nếu tôi kiên trì liên lạc trong nhiều tuần chắc sẽ có được số liệu này mà thôi.
Ngày ấy, tôi cố gắng viết cho cô với giọng điệu thật bình thường: “Xin chào Martine,
Mong rằng việc viết lách của cô vẫn diễn ra tốt đẹp - tôi rất đồng cảm với lượng thời gian cô đầu tư vào việc này. Có thể tôi đang làm phiền nhưng cô có thể chia sẻ cho tôi số người ĐÃ KẾT HÔN và có thêm nhân tình trong năm qua mà cô đã tính ra được không…"
Cô chuyển thư tôi cho đồng nghiệp Emma, và cô này trả lời cho tôi ngay ngày hôm sau:
“Xin chào Pamela,
Tôi có tính toán số lượng này cùng với 101 thứ khác nữa! Tôi gửi kèm cho cô một bảng biểu ghi lại tỉ lệ % những cặp vợ chồng hay cặp đôi chung sống cho biết họ có nhân tình trong năm qua nhé…"
Tôi thật sự nghe như có tiếng thiên thần khẽ hát trong khi tờ bảng biểu được mở ra. Trong đó bao gồm tỉ lệ ngoại tình của cả nam lẫn nữ ở 36 quốc gia, từ Armenia đến Zimbabwe. Đem bảng kết quả này ghép lại với những số liệu thống kê tôi đã thu thập rải rác ở các nơi khác có vẻ đã cho ra một bảng xếp hạng về ngoại tình toàn cầu. Nhưng bảng này chưa đầy đủ lắm vì không có Nhật, Ấn Độ và nhất là các nước châu Á và Trung Đông; hơn nữa, các dữ liệu cũng không hoàn toàn có thể so sánh được. Emma còn cảnh báo trước rằng tỉ lệ ở một số nơi có thể tăng cao vì chúng bao gồm cả những người theo chế độ đa thê, và trong các cuộc khảo sát về sau, những người phỏng vấn hay hối thúc người trả lời vì họ phải lặp lại cùng một số câu hỏi quá nhiều. Nhưng đối với những trở ngại lớn thường gặp phải trong việc nghiên cứu về tình dục thì bảng thống kê này cũng đã khá lắm rồi.
Số liệu Emma gửi cho tôi nêu ra mức độ ngoại tình đáng kinh ngạc ở các nước nghèo. Ở Nigeria, 15% các cặp vợ chồng và cặp đôi chung sống cho biết họ có nhân tình khác trong năm qua. Ở Haiti, 25% đàn ông thừa nhận điều này. Ở Bờ Biển Ngà và Cameroon là 36% đàn ông. Còn Togo, một quốc gia nằm ở phía Tây châu Phi có diện tích gần bằng miền Tây Virginia, thì xếp đầu bảng với 37%.
Những nhân tình Latin sống đúng theo tiếng tăm của họ. Tỉ lệ có nhân tình trong 12 tháng qua của đàn ông ở Bolivia là 8,6%, 12% cho Brazil và 13,5% cho Peru. Một khảo sát riêng rẽ vào năm 2001 dành cho đàn ông ở thành phố Mexico đẩy tỉ lệ ngoại tình ở đây lên đến 15%. Tôi cứ phải tự nhắc nhở mình rằng đây chỉ là những người đàn ông lạc bước trong năm trước. Tôi đang phải chú trọng vào tỉ lệ ngoài tình trong cả đời họ. Nếu như 29% đàn ông ở Mozambique lăng nhăng vào năm trước thì bao nhiêu trong số họ sẽ lạc bước cả đời? Tất cả bọn họ ư?
Trong phần cuối của biểu đồ bao gồm dân Úc, Mỹ và dân châu Âu. Thật
ngạc nhiên khi thấy dân Mỹ chỉ nằm giữa bảng xếp hạng. Mặc dù đàn ông Ý nổi tiếng là những tay tán gái cự phách nhưng tỉ lệ 3,5% cả năm của họ lại thấp hơn đàn ông Mỹ với 4%. Còn đàn ông Thụy Sĩ chiếm 3% và Úc thì lượn lờ gần cuối bảng với 2,5%.
Nói về các bà thì lại là một cục diện hoàn toàn khác. Dựa theo danh sách này, trong khi các quý ông nghèo đói trên thế giới lang chạ với nhân tình bên ngoài thì bạn đời của họ lại thủ tiết ngoan ngoãn ở nhà. Trên toàn cầu, “nhân tố rủi ro” nhất cho việc ngoại tình đơn giản là các ông. Nhưng ở các nước nghèo thì tỉ lệ ngoại tình giữa các ông và các bà lại rất khác nhau. Trong cùng thời điểm thì 20% đàn ông ở Burkina Faso và Cộng hòa Dominica không chung thủy, trong khi đó chỉ có 1% các bà thừa nhận mình từng vụng trộm. Số quốc gia có trên 2% phụ nữ vụng trộm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn phụ nữ ở Nepal, Philippines và Mali lại chung thủy một cách kì lạ, tỉ lệ ngoại tình là con số 0 tròn trĩnh.
Ngược lại, phụ nữ ở các quốc gia phồn vinh lại có vẻ dễ lăng nhăng hơn ở các nước nghèo, nhưng tỉ lệ này cũng không khác biệt lắm.
***
VẤN ĐỀ NÀY ÁM ẢNH tất cả những nhà nghiên cứu về tình dục học ở khắp nơi. Vì sao số lượng phụ nữ ngoại tình lại ít hơn đàn ông? Chẳng lẽ các quý ông đã lập gia đình chỉ vụng trộm với phụ nữ độc thân hay với những cô nàng từ nơi khác đến? Hay theo vài nhà nghiên cứu vào những năm 1990 phát hiện ra rằng có một nhóm phụ nữ không tưởng, bao gồm gái điếm hoặc có thể là những cô nhân tình thời vụ, đang tồn tại quanh đây để phục vụ cho những người đàn ông đã lập gia đình?
Một khả năng khác có thể đề cập đến là những đối tượng phỏng vấn mắc phải chứng bệnh mà các nhà khoa học gọi là chứng “thiên vị bản thân”, hay nói đơn giản hơn là họ nói dối. Các ông thì phóng đại những cuộc chinh phục, còn các bà thì giấu nhẹm sai trái của mình đi, điều này cũng phù hợp với đặc điểm tính cách của từng giới. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy rằng ngay khi làm các cuộc trưng cầu dân ý khuyết danh thì người trả lời cũng phải đấu tranh để cho ra câu đáp “đúng”, mặc dù những lời đáp đó chẳng thực chút nào.
Hoặc có thể không phải mọi người đều nói dối mà chỉ có một số người nói dối quá mức thôi. Một học giả ở Anhnhận thấy rằng nếu loại những tên huênh hoang rằng mình đã từng quan hệ với hơn 20 cô trong đời ra thì tỉ lệ ngoại tình giữa hai giới tính có vẻ khá cân bằng nhau. Vì vậy, ông đề nghị loại bỏ hoàn toàn những nhân vật quá khác biệt này để tiến tới những con số thực tế hơn.
Một yếu tố thực tế liên quan đến chuyện ngoại tình là thời tiết. Nói chung, người dân ở các nơi ấm áp sẽ lăng nhăng hơn (Scandinavia và St. Peterburg là ngoại lệ.) Nhưng hầu hết, số liệu thống kê trên thế giới phân chia rạch ròi giữa các nước giàu nghèo; giàu thì vụng trộm ít hơn, còn nghèo thì tỉ lệ ngoại tình lại lên đến con số hàng chục. Tiền tài trong chuyện ngoại tình mang tính hai mặt như đường phân định ngày quốc tế. Xét ở mặt này bạn là kẻ lừa dối, lật qua mặt kia thì lại vô tội.
Chuyện gì cũng có ngoại lệ. Ở Kazakhstan, với một nửa dân số theo đạo Hồi và có thu nhập bình quân trên đầu người là 8.200 USD lại là quốc gia chung thủy nhất. Còn Nepal, với thu nhập bình quân là 1.400 USD cũng chung thủy không kém. Ngoài ra, đàn ông ở một số nước nghèo như Rwanda, Philippines, và Bangladesh có vẻ cũng khá chung thủy. Mặt khác, đàn ông Na-uy lại đang dần đạt đến tỉ lệ ngoại tình với con số hàng chục.
Theo quan sát của tôi, ngay cả người giàu sống ở những quốc gia nghèo cũng ngoại tình ngang ngửa hoặc hơn so với tầng lớp thu nhập thấp. Ở Brazil, các nhà nghiên cứu loại bỏ yếu tố thu nhập và rút ra rằng xu hướng ngoại tình của đàn ông phụ thuộc vào họ sống ở miền Nam hay miền Bắc. Qua đó cho thấy các quốc gia, đạo giáo hay ngay cả các vùng lân cận cũng có văn hóa tình dục khác nhau, chúng sẽ ảnh hưởng đến việc người dân có chung thủy một vợ một chồng hay không.
Dân Mỹ thường hay phản đối chuyện ngoại tình hơn các nước khác, nhưng xét theo hành động thực tế thì tỉ lệ vụng trộm tính theo đầu người cũng tương đương với các nước công nghiệp khác. Đồng thời, chúng tôi thường tự nghĩ nước mình toàn là những kẻ lăng nhăng vô độ, nhưng theo thực tế, nếu những số liệu thống kê này đáng tin thì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân ở Mỹ lại hiếm xảy ra. Chỉ khoảng 16% dân Mỹ cho biết họ từng ngoại tình trong đời. Còn xét trong vòng 1 năm trở lại thì chỉ khoảng 3,5%
thừa nhận có ngoại tình và tỉ lệ đó được giữ nguyên từ khi nước Mỹ bắt đầu lưu giữ các kỉ lục này từ năm 1988. Vì vậy chuyện ngoại tình không phải là một bệnh dịch dễ lây lan ở Mỹ mà chỉ là hành động sai trái của một phần dân số và xảy ra trong một thời gian nào đó mà thôi.
Vậy thì tại sao chuyện có nhiều người ngoại tình vẫn cứ luẩn quẩn suốt bấy lâu nay? Xin thưa, vì giống như bấtkì quốc gia nào khác, nước Mỹ không chỉ tồn tại một nền văn hóa tình dục, mà có rất nhiều là khác. Con người đâu chỉ làm theo các chương trình truyền hình hay lời khuyên của tổng thống để quyết định rằng có nên lừa dối bạn đời của mình hay không. Thực tế, họ nhìn vào gia đình, hàng xóm và bạn bè của mình đấy.
CÁI NHÌN SƠ BỘ VỀ VẤN ĐỀ NGOẠI TÌNH
Ngoại trừ có phiên bản nào khác, biểu đồ này cho thấy tỉ lệ % những người đã kết hôn hoặc đang chung sống như vợ chồng với người khác có thêm nhân tình bên ngoài trong một năm trước đây. Độ tuổi dao động nhưng chủ yếu từ 15-49 hoặc có thể có vài trường hợp khác. Biểu đồ này không phải chính xác hoàn toàn. Các con số cũng không hẳn hoàn toàn có thể so sánh với nhau. Một số kết quả bao gồm cả những người theo chế độ đa thê.
Nguồn: Khảo sát Toàn Xã hội, 2005; Khảo sát toàn quốc về thái độ tình dục và lối sống II, 2000-2001; Khảo sát về sức khỏe và đời sống gia đình ở Trung Quốc; Đo lường DHS, 2006; Khảo sát nhân khẩu và sức khỏe, từ 1984 đến nay; Dự án đối mặt học phần mới của EU, 2006; Khảo sát NEM; Rissel C. E., J. Richters, A. E. Grulich, R. O. de Visser và A. M. A. Smith. (2003); “Tình dục ở Úc: những đặc tính chọn lọc của quan hệ tình dục đời thường,” Phóng sự sức khỏe cộng đồng của Úc và New Zealand , 27(2): 124- 130; kết quả phân tích bởi Emma Slaymaker, Trường Vệ sinh và Y học nhiệt đới London; M. Beltzer, M. Lagarde, L. Wu-Zhou, I. Gremy, Les connaissances, attitudes, croyances et comportements face au VIH/sida en France-Evolutions 1992-1994-1998-2001 et 2004,” báo cáo từ l’ORS Ile-de France, tháng 11 năm 2005, trang 204.
QUAN HỆ NGOÀI HÔN NHÂN Ở MỸ
Tỉ lệ % dân Mỹ đã kết hôn từ 18 tuổi trở lên có nhân tình 12 tháng trước đây.
Nguồn: Khảo sát Toàn Xã hội
CHƯƠNG III
Các nền văn hóa tình dục
Trên lý thuyết, một phụ nữ da trắng tốt nghiệp đại học (như tôi đây) dĩ nhiên vẫn có thể cặp kè và kết hôn với một anh chàng lao động Mê-hi-cô nhập cưkhông mảnh bằng cấp lận lưng. Nhưng mặc dù thi thoảng có cơ hội gặp gỡ tầng lớp lao động Mê-hi-cô, họ và tôi rõ ràng ở hai vùng rung động tình cảm khác nhau. Cơ hội yêu đương hay kết hôn của chúng tôi rõ ràng là một con số 0 tròn trĩnh. Giống như nhiều người Mỹ chính thống khác, tôi có người yêu với sắc tộc, bằng cấp, và nền tảng kinh tế ngang nhau. Cho dù họ nếu không phải là người Mỹ thì bạn trai tôi cũng là chuyên viên nghiên cứu chứng khoán hay nhà báo.
Cách thức chúng tôi phân loại bạn tình trở thành đề tài thú vị của các nhà nghiên cứu tại đại học Chicago. Họ muốn biết vì sao một người đàn ông Mê hi-cô sống ở thành phố gần 3 triệu dân như Chicago lại chỉ có thể tìm người yêu là những cô gái cùng quê ở Michoacán. Đồng thời, những cô bạn gái của tôi cũng than thở rằng những người đàn ông xứng đáng để họ lấy làm chồng chỉ có thể là mấy vị luật sư ở New Jersey.
Các thống kê tình dục toàn quốc nói lên rất nhiều điều về đất nước đó. Trong thực tế, các vùng lân cận đều có những “nền văn hóa tình dục” giao thoa, chúng hình thành trong đầu người dân ở đó đối tượng nào nên ve vãn, quan hệ tình dục sẽ phát triển ra sao, khi nào và có nên chung thủy hay không. Nền văn hóa tình dục chính là hỗn hợp được tạo thành từ những luật lệ cá nhân mà tôi đã nhắc qua, bao gồm cả luật lệ chính thức và không chính thức. Những luật lệ này bị ảnh hưởng bởi số tiền người ta sở hữu, cảnh quan và môi trường sinh sống, và cả nơi làm việc - như trường lớp, công ty, tòa án - cũng phần nào có tiếng nói trong cách hành xử trong tình dục của họ. Phạm vi của văn hóa tình dục có thể to bằng cả một quốc gia nhưng cũng có thể nhỏ như một văn phòng luật, một công trường thi công, một câu lạc bộ đồng tính nữ, hay thậm chí là một phòng chat ảo trên mạng. Hầu hết chúng ta đều dao động giữa những khu vực đó. Một gã đồng tính làm việc ở một ngân hàng đầu tư có thể di chuyển qua lại giữa hai nền văn hóa tình dục khác nhau
mỗi ngày. Điều quan trọng là mỗi người khi gia nhập vào một nền văn hóa tình dục nào đó phải hiểu rõ các luật lệ và tuân thủ chúng nghiêm ngặt. Nhưng làm sao chúng ta có thể hội nhập vào một nền văn hóa tình dục và biết được những luật lệ của nó? Có ai bắt chúng ta thi hành hay không? Một nền văn hóa tình dục thay đổi ra sao theo thời gian? Truyền thông có vai trò ảnh hưởng gì đến chúng không?
Từ năm 1995 đến 1997, Edward Laumann, một nhà xã hội học của Đại học Chicago, dẫn đầu một nhóm nghiên cứu sinh tìm ra sự tương quan về thói quen tình dục của bốn vùng lân cận của Chicago. Họ chỉ chú trọng vào các vùng lân cận với khoảng cách có thể lái xe hơi qua lại: khu vực của người Mỹ gốc Phi ở phía Nam Chicago, hầu hết người dân ở đây đều không tốt nghiệp trung học; kế tiếp là những người Mỹ da trắng và các gã đồng tính giàu có sống ven vùng Biển phía Bắc Chicago; chếch về phía Tây là tầng lớp lao động nhập cư Mê-hi-cô cùng gia đình; và cuối cùng là vùng cư dân nói tiếng Tây Ban Nha chủ yếu là người Puerto Rico và Mê-hi-cô chính gốc. Đồng thời, họ còn phỏng vấn một số người dân bất kì trong cả thành phố và những vùng lân cận khác để so sánh với 4 vùng nghiên cứu chính.
Sau cùng, kết quả của họ được đăng tải trên “Tổ chức tình dục của thành phố” và nó cho thấy rằng những người thuộc nền văn hóa tình dục khác nhau khi chạm mặt chẳng ai bị bối rối hay nhầm lẫn luật lệ của nhau, thậm chí chẳng cần biết những người sống vùng lân cận hay người ngồi kế họ trên tàu điện đang làm gì cả. Cặp kè với người lạ quả thật rất khó khăn. Vì vậy người ta thường thích có bạn tình được ai đó quen biết giới thiệu hay học cùng trường hoặc đi chung nhà thờ. Với những đối tượng như vậy, một khi đã quen biết nhau rất dễ đưa nhau lên giường.
Gần một nửa số đàn ông thích quan hệ tình dục với người khác giới ở vùng dân da trắng, các nhà khoa học gán cho họ biệt hiệu “Ven Bờ”, thường quen biết bạn tình của mình ở trường học hay công sở. Điều này cũng không có gì khó hiểu, hầu hết mấy tên Ven Bờ vừa tốt nghiệp đại học và chuyển đến sống tại vùng này vào năm ngoái. Họ cũng dành phần lớn thời gian làm việc (người phỏng vấn đã rất vất vả để gặp được mấy người này ở nhà hay trong những căn hộ cao tầng của họ.)
Không có người đồng tính nào sống cùng khu vực gặp gỡ bạn tình thời
đại học, và chỉ có 9% cho biết đã gặp tình nhân tại công sở. Mặc dù vậy, tỉ lệ kết giao thành công rất lớn tại bar và vũ trường, khoảng 50% xác nhận điều này.
Các bar hay vũ trường đồng tính là địa điểm lý tưởng cho các cuộc hẹn hò chóng vánh; trong khi đó, trường học và công sở thường hướng các quý ông đích thực vào những cuộc tình ái dài lâu hơn. 43% dân đồng tính cho biết họ từng ngủ với hơn 60 bạn tình trong đời mình, trong khi đàn ông đích thực chỉ có 4% đạt được con số này. (Sự khác biệt quá lớn này thật khó giải thích vì những gã đàn ông Ven Bờ đích thực lại trẻ trung hơn.) Sự thật, hầu hết những quý ông đích thực có vẻ hiền lành hơn những gã đồng tính: Hơn 1/3 cho biết chỉ từng quan hệ với ít hơn 5 bạn tình trong đời mình (còn tỉ lệ các gã đồng tính chịu quan hệ ít như vậy chỉ có 2%).
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng đôi khi người ta hay truyền đi những nguyên tắc của văn hóa tình dục bằng “những câu chuyện có tính nhân quả” về những hậu quả mà những hành động sai trái trong quan hệ tình dục mang lại. Ví dụ một số nhóm thuộc đạo Cơ Đốc thường cảnh báo rằng tình một đêm có thể phá hoại mối quan hệ chính thức của mình trong nhiều năm sau. Một yếu tố trần tục khác như giá cả bất động sản cũng có thể hình thành một nền văn hóa tình dục. Hay tỉ lệ giữa đàn ông và phụ nữ hoặc cả chuyện có sống gần các thành viên trong gia đình hay không cũng ảnh hưởng. Hay đơn thuần như việc sở hữu được chiếc xe hơi cũng có thể thay đổi quan niệm của một người về tình dục nữa.
Ở vùng lân cận Mê-hi-cô, các nhà nghiên cứu gọi là “Miền Tây”, rất nhiều dân cư sống cùng với đại gia đình của họ. Những người Miền Tây có xu hướng gặp bạn tình ở nhà người thân hơn dân cư ở vùng khác. Phụ nữ ở Miền Tây này rất khó có cơ hội tiếp xúc với người lạ vì họ thuộc nhóm người không có khả năng sở hữu xe hơi nhất. Phụ nữ Miền Tây chỉ sống trong phạm vi cách bạn tình của mình khoảng 3 dặm, trong khi con số này ở Chicago là 10 dặm. Nói rõ hơn, họ chỉ kết đôi với những ai mà họ có thể thường đi bộ đến để gặp gỡ mà thôi.
Còn vùng người Mỹ gốc Phi được gán tên “Thị trấn phía Nam”, nơi hẹn hò thông dụng là những địa điểm công cộng như công viên, đường cái. Mặc dù những người dân của Thị trấn phía Nam đã sống ở đây ít nhất 10 năm và
đều có ít nhất một nửa gia đình của họ cư ngụ tại Chicago nhưng không có lấy một người da đen nào cho biết họ gặp bạn tình của mình ở nhà người thân cả. Theo thực tế, khoảng 40% đàn ông ở Thị trấn phía Nam cho biết họ phải qua vùng khác để hẹn hò. Còn phụ nữ bị bỏ rơi lại đây thì thường xuyên đi nhà thờ hơn bất cứ nhóm đối tượng nghiên cứu nào. Có lẽ họ đi khẩn cầu tình yêu!
Ở Thị trấn phía Nam, nền kinh tế rất ảnh hưởng tới chuyện chung thủy một vợ một chồng. Tại thời điểm diễn ra cuộc khảo sát, một nửa dân cư ở đây đang thất nghiệp. Mà phụ nữ lại chịu ăn học hơn nên đa phần dân thất nghiệp là đàn ông. Việc này cho thấy đàn ông có sự nghiệp tại đây là mặt hàng khan hiếm và họ hiểu rất rõ điều này. Khoảng 39% đàn ông cho biết họ có hai mối quan hệ tình dục thay phiên nhau trong năm rồi. Còn 27% thì bảo họ có hai mối quan hệ tình dục cùng một lúc trong vòng 6 tháng hay lâu hơn, hành động này được các nhà nghiên cứu gọi là “lăng nhăng dây dưa.”
Các nhà nghiên cứu đoán rằng phụ nữ da đen chấp nhận hoàn cảnh này vì họ cho rằng những người đàn ông có sự nghiệp và ngoại tình vẫn tốt hơn những gã chung thủy nhưng không nghề ngỗng. Chỉ có 8% phụ nữ bảo họ có nhiều tình nhân trong năm qua, cho dù 20% phái đẹp cho biết bạn tình của mình có quan hệ với phụ nữ khác.
Một khi đàn ông da đen ở Chicago kết hôn, họ cũng rất chung thủy như đàn ông da trắng (97% trong số họ quan hệ duy nhất với bạn đời của mình trong năm rồi). Nhưng chỉ một số ít có thể giữ lòng sắt son đến cuối đời, vì theo các nhà nghiên cứu giải thích, đàn ông nào mà không thích lăng nhăng dây dưa, và điều này thì chẳng tốt cho hôn nhân chút nào cả. Số lượng dân da đen kết hôn ở Chicago thấp hơn rất nhiều so với dân da trắng. Các quý ông da đen có học thức cao ở độ tuổi trên 35, có công việc ổn định, rất hấp dẫn trong mắt phụ nữ, thì thường đều đã kết hôn.
Chỉ có các gã đồng tính và các quý ông thực thụ ở vùng da trắng lân cận, hay còn gọi là vùng Ven Bờ, là cân bằng tỉ lệ ngoại tình được với Thị trấn phía Nam. Nhưng họ lại chỉ thích “vui chơi qua đường”, hay nói rõ hơn là nhiều mối quan hệ đan xen nhau và chỉ kéo dài dưới 6 tháng. Đàn ông ở Thị trấn phía Nam thường bắt cá hai tay. Còn người vùng Ven Bờ thì thường hẹn hò với rất nhiều người cùng lúc để tìm hiểu trước khi bắt đầu quan hệ
nghiêm túc với một trong số họ, hoặc sẽ chính thức ở bên một ai đó nhưng vẫn mèo mỡ bên ngoài. Kiểu người này dễ tiến tới hôn nhân hơn. Và một khi đã kết hôn thì đàn ông da trắng cũng giống đàn ông da đen, sẽ lại rất chung thủy.
Nói đến việc tôn vinh sự thủy chung thì phụ nữ nói tiếng Tây Ban Nha là lựa chọn hàng đầu. Chỉ có 2% phụ nữ ở vùng nhiều dân Mê-hi-cô và Puerto Rico cho biết họ có quan hệ ăn chơi qua đường với nhiều người trong năm rồi. Có vẻ phụ nữ ở đây bị giám sát chặt chẽ hơn vì họ sống cùng với người thân. Họ luôn nơm nớp lo sợ về các đấng ông chồng của mình: Cứ 5 phụ nữ thì có 1 người ở vùng Miền Tây tin chắc rằng chồng mình đã lạc lối. Nhưng sự ghen tuông này có vẻ đã bị thổi phồng quá mức, vì chỉ có 14% đàn ông vùng Miền Tây và 9% đàn ông thuộc vùng Mê-hi-cô và Puerto Rican thừa nhận rằng mình bắt cá hai tay. Đối chiếu theo tỉ lệ đó, xem ra đàn ông thuộc khu vực Latin chung thủy nhất và là chỗ dựa an toàn hơn mấy vị luật sư da trắng mà tôi đang đặt vào tầm ngắm.
***
NGHIÊN CỨU CHICAGO lột tả được vấn đề một thành phố mang nhiều nền văn hóa tình dục khác nhau. Nhưng còn một nền văn hóa tình dục cá biệt thay đổi theo thời gian thì sao nhỉ? Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, tôi đến viếng thăm “cộng đồng về hưu” của các bà trong độ tuổi 70 ở Florida. Nói chuyện với nhóm người này tôi cảm giác họ là một kiểu người Mỹ hoàn toàn khác biệt. Mặc dù thời hoàng kim ngoại tình của họ đã từ những năm 50 và 60 và đa số bạn tình của họ đều đã về bên kia thế giới, nhưng các bà vẫn tự hào rằng đó là quãng thời gian đẹp nhất của đời mình.
Những người dân Mỹ hiện đang ngoại tình hoặc vừa hoàn hồn lại từ vết thương này đều yêu cầu tôi thay đổi tên họ. Nhưng các bà ở Florida lại khẩn khoản yêu cầu tôi dùng tên họ thật; họ hoàn toàn không xấu hổ gì vể những cuộc phiêu lưu thời xuân sắc của mình. (Nhưng rốt cuộc tôi vẫn thay đổi thôi.) “Chúng tôi chẳng thấy tội lỗi gì cả,” một trong số họ bảo. “Ai cũng biết rằng khoảng thời gian đó rất thú vị và đầy kịch tính mà!”
Những quý bà này đều có cuộc sống sung túc, hầu hết là ở thị trấn da trắng của New Jersey, nằm bên này đầu cầu George Washington, bên kia là
Manhattan. Trong 10 năm qua, họ cùng với những ông chồng còn sống sót di cư đến miền Nam, quanh khu vực bãi biển Palm.
Nền văn hóa tình dục của họ được hình thành từ thời hậu chiến. Vào thời điểm đó, phụ nữ chưa bị cuốn vào làn sóng lao động; chỉ có một vài người phải đi làm toàn thời gian. Hầu hết đều có người hầu trong nhà và hay đi nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp. Mấy cậu con đều học hành để trở thành bác sĩ. Các vị phu quân thì sản xuất đồ tắm phụ nữ hoặc làm chủ những đế chế giặt ủi quần áo quy mô nhỏ. Vào dịp sinh nhật hay kỉ niệm ngày cưới họ thường được tặng những món trang sức quý giá. Nhưng cái cốt yếu là, họ đều kết hôn vào độ tuổi 22. Loretta, hiện đã 68 tuổi, nói: “Mẹ tôi bảo, ‘Nơi duy nhất đàn bà được đi một mình là nhà vệ sinh thôi.’ Phụ nữ bắt buộc phải kết hôn.”
Không giống như các đấng sinh thành, các bà trong thời kì của Loretta có cuộc sống sôi động hơn nhiều. Nền kinh tế bùng nổ theo Chiến tranh Thế giới thứ 2 làm cho họ trở nên giàu có hơn so với thế hệ trước rất nhiều. Thay vì hưởng thụ đời sống gia đình an nhàn với những người tình từ thời đi học thì họ khát khao danh vọng và tình ái nhiều hơn. Loretta, từng kết hôn 3 lần và hiện đang sống ở Lake Worth, Floria, bảo, “Chúng tôi đều học hỏi từ những siêu sao điện ảnh. Thời đó, ở New York ai cũng đeo găng tay đen dài và đội những chiếc mũ nhỏ xinh, rồi từ đó cô sẽ gặp gỡ hẹn hò với tình nhân của mình. Bên cạnh đó là những bài hát mang đậm ý thơ của Sinatra làm mình luôn phải nhắm mắt lắng nghe.”
Barb, hiện 77 tuổi, cửa hàng quần áo của bà từng là địa điểm thị phi nhất trong trấn, bà kể về một người khách hàng xưa kia rất chân thật, cứ như bà ấy vẫn còn thường đến mua hàng vậy. Giọng bà đặc sệt chất New Jersey như mọi người ở đây:
“Có bà kia thường vào tiệm và nhìn đồng hồ hỏi ‘1 giờ rồi phải không?’, vì bà ta sẽ gặp tình nhân của mình vào lúc 1 giờ mà.”
“Yvonne đã nhăng lăng với ông thợ mộc chồng của Helen đấy.” “Linda là khách hàng nữ duy nhất mua đồ ở Bloomingdale lúc nửa đêm, song đó chỉ là cách dối gạt chồng của bà ta. Nhưng cứ nghĩ đến ông chồng làm nhân viên xuất khẩu đường biển xấu xí ấy thì bà ta lăng nhăng suốt cũng phải.”
“Alice thì có vẻ hạnh phúc trong hôn nhân lắm, nhưng không phải vậy đâu. Sau nhận được một bữa tiệc sinh nhật bất ngờ thì ngay chiều hôm đó bà ta lên giường với một gã nào đó trong khách sạn. Từ đó họ hẹn hò cùng nhau, chẳng lâu sau chồng bà ta nhận được thư chia tay còn bà ấy thì dọn ra ngoài sống cùng hai con nhỏ.”
“Còn Bob thì bồ bịch với thư ký của chồng Judy.”
“Tôi nghĩ hầu hết mọi người đề biết vợ của Les đã vụng trộm suốt nhiều năm rồi phải không.”
“Có chuyện như phim Peyton Place ở đây mà,” Barb phân trần, bà hiện đang sống trong “cộng đồng người lớn tuổi năng động” ở Lake Worth. “Từ miệng của các bà ở đây, tôi thấy ở Long Island mọi thứ cũng diễn ra giống vậy.”
Do không ai thống kê ở những thời điểm xa đến vậy nên chẳng cách nào để biết được phụ nữ có hoàn cảnh giống như Barb vào những năm 60 có quan hệ yêu đương nhiều hơn phụ nữ ngày nay hay không. Trong một cuộc khảo sát toàn quốc vào năm 1994, khoảng 12% phụ nữ sinh ra trong những năm 30 cho biết họ chưa bao giờ có quan hệ ngoài hôn nhân - con số này ít hơn hai thế hệ sau. Tuy nhiên, 37% đàn ông sinh cùng thời lại bảo họ có vụng trộm, con số này lại nhiều hơn đàn ông hậu thế.
Ở đỉnh điểm thì nền văn hóa tình dục của New Jersey cũng gói gọn trong vài vũ trường ngoại ô. Nhưng những câu chuyện họ kể đã phác họa cho ta thấy một nền văn hóa tình dục sẽ thay đổi đến mức nào theo thời gian. Ngày nay, các bà lăng nhăng thường kể cho vài bạn thân nghe và bắt họ thề thốt giấu nhẹm chuyện này đi. Nhưng các bà ở New Jersey lại kể cho hàng tá người nghe về chuyện vụng trộm của mình, và nếu người tình này có khả năng trở thành chồng sau thì họ thậm chí còn giới thiệu với mẹ mình nữa. Trong trường hợp nào thì theo họ, rất dễ để biết “ai sẽ trong tay ai” thôi.
Trên đời này có hằng hà sa số cơ hội để vụng trộm. Ở các vũ trường ngoại ô, những buổi lễ từ thiện, và cả những bữa tiệc tại gia, họ nhảy nhót tán tỉnh nhau trong khi bạn đời của mình đang ở phòng kế bên. Ngoài ra, họ có bảo mẫu cho con cái và không phải đi làm (hay ít nhất rảnh rỗi 60 giờ một tuần) thì thời gian rảnh rỗi rất nhiều.
Những người phụ nữ đó không tin được sự cứng nhắc về vấn đề này của
thế hệ trẻ. Nhiều người con phẫn uất đến nỗi không thèm nói chuyện với mẹ mình. “Mọi thứ bây giờ đã đổi thay. Con cái của bọn tôi khi bước vào tuổi 40 rất phản đối chuyện này,” Loretta bảo. Các bà này hiểu rõ rằng mình chỉ nên tỉ tê hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp ấy với nhau mà thôi.
Bây giờ quay lại với bản thân, tôi hẹn gặp hai người bạn của Barb là Elaine và Nancy tại một tiệm spa ở bãi biển Pompano, Florida, nơi họ đang đi nghỉ mát ngắn ngày. Họ bảo tôi có thể đến bất cứ lúc nào trước khi họ làm mát-xa lúc 4 giờ. Khi tôi đến nhà hàng lúc họ đang ăn trưa, hai bà liền săm soi tôi từ đầu đến chân. Mặc dù tôi trẻ hơn họ đến 40 tuổi nhưng tôi cảm nhận được họ đang so sánh tôi với thời son sắc của mình và chắc mẩm rằng hoàn toàn vượt trội tôi về mọi mặt. Elaine, một góa phụ 73 tuổi, trông rất thanh lịch theo kiểu hoàng gia với cặp mắt kính đen to đùng, chiếc đồng hồ kim cương, chiếc áo khoác màu đỏ dài chấm đất che phủ đi bộ đồ tắm và bộ ngực phì nhiêu. Còn Nancy thì đã 75 tuổi, với cặp mắt xanh, gò má cao, bà đang vận chiếc quần ngắn màu vàng, khoe đôi chân nuột nà không tưởng.
Một cuộc tranh luận nhỏ nổ ra để xem ai giành quyền kể chuyện trước. Đối với cả hai thì những chuyện yêu đương ngoài luồng chẳng khác nào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời nhất trong đời mình. “Để tôi kể cho cô nghe cái ngày mà tôi gặp ông ấy ở New York và đã bị thám tử tư theo dõi ra sao!” Nancy bảo, bà ta nhìn hao hao nữ diễn viên Lauren Bacall. Đầu tiên, bà kể về Larry, một nhà phát triển địa ốc đã có gia đình, ngày ấy bà trông thấy ông ta đi ra từ sân gôn. “Dường như có vầng hào quang tỏa ra sau lưng ông ấy, và đôi mắt biếc xanh nhất mà tôi từng gặp.”
Mặt Nancy rạng ngời khi miêu tả âm mưu cùng Larry đi công tác ở Canada. “Tôi bảo chồng mình rằng muốn đi thăm bạn ở Florida, rồi ông ấy đồng ý ‘được rồi, bà nghỉ vài ngày ở Florida đi.’ Rồi thế là tôi đi Montreal… Tôi phải đi spa để tắm nâu. Rồi phải sắp xếp mọi chuyện, khi chồng tôi gọi điện đến nhà bạn ở Florida thì mẹ cô ấy sẽ trả lời rằng, ‘Ồ, chúng nó đi tắm biển rồi.’”
Càng về những thế hệ sau, phụ nữ càng có việc làm nhiều hơn, do vậy họ có đầy đủ khả năng để ly hôn mà không cần tìm một bến đỗ nào sẵn cả. Còn trong những năm 60, dạng phụ nữ như Elaine hay Nancy phải đổi từ ông chồng này sang người đàn ông khác. Mặc dù vài cuộc tình khi bắt đầu cũng
chỉ là yêu đương bên lề nhưng tất cả phụ nữ dạng này tôi tiếp xúc rốt cuộc lại kết hôn với những bạn tình ấy và sống chung thủy đến trọn đời. Họ tiếp nhận liền kề từ tình thương của các ông bố đến sự chăm sóc của các đấng ông chồng. Trong thời gian chờ đợi giải quyết thủ tục ly hôn, các ông chồng tương lai đã sẵn sàng đem họ và con cái về ở chung rồi.
Có vẻ những người đàn ông này được xem như bạch mã hoàng tử, vì vậy, sự lãng mạn trong cuộc tình này luôn bị thổi phồng như chuyện cổ tích cho trẻ con, trong đó tràn ngập những tiếng sét ái tình và bao phút giây nín thở trông chờ tiếng chuông điện thoại. Vào những năm 50, khi Elaine gặp Irwin, chuyện tình của họ mang chút hương vị của sự lãng mạn nơi siêu thị và “Con cáy trên mái nhà”:[4]
“Hôm đó tôi đến tham dự tiệc ở nhà chú, một nha sĩ trong trấn. Giữa bao người trong phòng, tôi bắt gặp anh ấy đứng đối diện mình. Nghe có vẻ sến, nhưng anh ấy tiếp cận tôi, tôi liền đáp lại bằng một cái nhìn trìu mến, ngay giây phút đó tôi biết rằng người đàn ông này là của mình, anh ấy thì thầm, “Gặp anh ở New York tối nay nhé.’”
Lúc ấy Elaine mới 25 tuổi. “Tôi đáp, ‘Em không biết đường lái xe đến New York… làm sao gặp anh tối nay được.’ Bà và bố mẹ tôi đều đang có mặt ở buổi tiệc, nhưng tôi biết rằng mình sẽ phải gặp anh ấy thôi.”
Vài ngày sau, Elaine vận đồ thật đẹp, giao lũ trẻ cho người giúp việc rồi lái xe đến nhà hàng Chandler trên đườngĐông 46 ở Manhattan. Khi Irwin tới nơi thì cô đang làm dáng bên quầy bar. Elaine nhớ lại lời Irwin lúc ấy, “Em biết không, anh không bao giờ làm vậy ở nơi mình sống . Nhưng không hiểu sức mạnh nào đã bắt anh phải gặp em.”
Ngay lúc này, Elaine chợt dừng lại rồi hỏi, “Cô không cần tôi tả lại chi tiết mây mưa ở đây phải không?”
“Xem nào, chúng tôi ăn tối rồi tôi tự bảo lòng mình ‘Đã muốn làm thì phải làm thôi…’ Sau đó chúng tôi vào xe hơi, lúc đầu chỉ hôn rồi ngồi nhìn nhau. Rồi chính tôi đã chủ động lao vào anh ấy, ngay trong xe hơi đấy nhé! Tôi lao vào, anh ấy bị động hoàn toàn! Tôi tự nhủ, ‘Đã làm rồi thì làm cho trót!”’
Mối quan hệ ấy cứ thế tiếp diễn đều đặn. “Anh ta bảo tôi, ‘Anh sẽ không bao giờ lấy em làm vợ đâu. Quan hệ của chúng ta bây giờ như kem đặc và
quả sơ-ri tô điểm trên ly kem hôn nhân hiện tại. Anh sẽ không bao giờ cưới em nhưng chúng mình sẽ luôn sống hạnh phúc.’”
“Nhưng như vậy đâu làm tôi hài lòng, tôi kết thân với vợ anh ấy để hai gia đình luôn dính vào nhau, và như vậy chúng tôi sẽ luôn có thời gian kề cận. Nhiều lần tôi và Irwin trốn đến New York tự tình rồi ngủ quên và về nhà trễ mặc dù tối ấy có hẹn với vợ/chồng mình, nhưng họ cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Vợ của Irwin chẳng màng hỏi han, chỉ cần anh về đến để dẫn cô ta đi ăn tối là tốt rồi.”
Barb, chủ tiệm quần áo, hồi tưởng lại lúc Elaine đi mua sắm cùng vợ của Irwin. “Ngay tối đó Elaine sẽ gặp Irwin và kể lại những gì vợ anh ấy đã mua.”
Mẹ Elaine rất giận dữ khi biết cô dự định kết hôn với Irwin nhưng bố thì lại giúi tiền cho cô, còn bạn bè thì đều ủng hộ. Họ đã biết và có cảm tình với anh ấy. Barb chính là người giúp Elaine dọn đồ đạc ra khỏi nhà chồng cũ. “Chúng tôi để lại cho ông ấy chiếc giường, TV, máy pha cà phê, và bộ tách,” Barb nhớ lại.
Bao ngờ vực tội lỗi vì bỏ rơi chồng mình để chạy theo nhân tình của Elaine được giải tỏa bởi giáo trưởng của bà, mà theo bản thân bà, ông ấy là “một người đàn ông đầy trí tuệ”. “Tôi hỏi, ‘Thưa Giáo trưởng Stein, con đang dự định rời bỏ chồng mình, nhưng không biết điều này là đúng hay sai. Con lo lắng mình sẽ hủy hoại cuộc đời của bao nhiêu người xung quanh mình mất.’ Nhưng ông ta đáp, ‘Không đâu con, điều đó chỉ xảy ra khi con cố gắng ở lại. Nếu con quyết định ra đi, con sẽ cứu vớt tất cả bọn họ đấy’… Nghe rồi tôi phóng ra ngoài như mọc thêm đôi cánh… Giáo trưởng Stein quả là người đàn ông tuyệt vời, mà thật ra, chính ông ta cũng đã li dị cơ mà.”
Trong suốt quá trình điều tra Bill Clinton, người ta vẫn thường tự hỏi vì sao vào thời này đời sống tình dục của tổng thống lại trở thành tâm điểm của dân chúng. Họ thường nhớ lại vào những năm 60, khi ấy tổng thống John Kennedy cũng có rất nhiều mối quan hệ ngoài hôn nhân nhưng chả ai màng để tâm.
Kennedy đã sống trong cùng một nền văn hóa tình dục với những người phụ nữ tôi gặp ở Florida. Ông và những người bạn ngôi sao thân thiết của mình dường như đã góp sức tạo nên nền văn hóa này. Nhưng chính bản thân
Kennedy cũng chỉ là một sản phẩm của thời đại mà ông ấy sống. Vấn đề không phải chỉ vì phụ nữ thời ấy hầu hết phụ thuộc kinh tế vào chồng mình, mà việc li dị cũng khó khăn hơn (nhất là đối với những người theo Thiên Chúa giáo La Mã). Ngoài ra, những con người có tiếng tăm xung quanh ông ta cũng lăng nhăng không kém. Nếu Kennedy sống thọ thêm vài năm nữa có lẽ ông sẽ gặp Henry Hyde, lãnh đạo của tổ điều tra Clinton sau này, đang cặp kè với nhân tình Cherie Snodgrass tại một hộp đêm ở Chicago rồi. Có hẳn một tấm hình chụp Snodgrass và Hyde công khai tay trong tay, quần là áo lụa và tạo dáng trước ống kính nữa cơ mà. Khi Hyde biện hộ cho mình việc đó là “lầm lạc của tuổi trẻ” thì có lẽ dù không nói ra nhưng đơn giản có nghĩa nó đã thuộc về một thời đại khác rồi.
***
VĂN HÓA TÌNH DỤC không nằm trong phạm vi quản hạch của cảnh sát, chẳng ai đi tuần tra để ghi giấy phạt cả, vậy thì ai áp đặt những luật lệ nhỉ? Một nhà xã hội học Mỹ tên Steven Ortiz đã trả lời câu hỏi này bằng cách nghiên cứu “văn hóa ngoại tình” cơ động lập nên bởi những tay bóng chày hàng đầu khi đồng hành cùng họ. Ortiz thời ấy đang giảng dạy tại Đại học bang Oregon.Ông đã mất 3 năm rong ruổi cùng nhiều đội bóng (ông không tiết lộ là đội nào) và công bố những điều mình nghiệm ra trên bài báo mang tên “Đồng hành cùng Câu lạc bộ Đội bóng.”
Thông thường sẽ có vài bà vợ đi theo đội bóng trong những chuyến du đấu. Một số bà sẽ luôn luôn tháp tùng, còn lại thì chỉ thi thoảng có mặt. Theo cách này, các bà đi theo đoàn sẽ về thông báo lại tình hình những gì xảy ra cho các bà khác ở nhà. Động thái này ít nhiều cũng ảnh hưởng đến những khoảng thời gian vui thú của các ông trên chuyến đi.
Để hạn chế điều này, các cầu thủ phân rõ ranh giới và phạm vi các bà không được xâm phạm. Trên những chiếc máy bay được cấp cho cầu thủ, các bà vợ chỉ được ngồi ở khoang trước và cấm tuyệt đối không bén mảng đến khoang sau. Ở đây các cầu thủ có thể thoải mái tụ tập cùng nhau và tán tỉnh các cô tiếp viên hàng không trước khi trận đấu diễn ra. Không ai chính thức lên tiếng nhưng các bà vợ đều hiểu được rằng mình không được chào đón khi bắt gặp những ánh mắt bực dọc của các cầu thủ mỗi lúc họ đi ngang
qua hay cả đám đang rôm rả trò chuyện thì đột nhiên im bặt khi họ vừa xuất hiện. Hễ có bà vợ mới đi theo đoàn lần đầu lỡ đến cạnh chồng mình trò chuyện thì lập tức được chào đón bởi bầu không khí im lặng ngột ngạt và “những cái nhìn phản đối ra mặt” của các đồng đội khác. Một bà vợ tên Stacy phân trần, “Mỗi lần tôi đi vệ sinh cũng thấy ngại, đến nỗi cũng chẳng dám liếc ngang liếc dọc hay trò chuyện với ai vì biết cả đám cầu thủ đều ngồi đó cùng nhau…” (Ortiz hẳn đã thay đổi tên của bà ấy.)
Nếu những tín hiệu đó chưa đủ làm chùn bước các bà vợ thì các nữ tiếp viên sẽ làm cho họ hiểu rõ hơn bằng cách tiếp đãi lỗ mãng. Bà vợ tên Robyn giải thích, “Mỗi khi bạn yêu cầu phục vụ thì họ sẽ dằn lon Pepsi lên đĩa thức ăn hay thậm chí đẩy khay bữa tối về phía bạn chứ không mảy may đặt xuống một cách bình thường.” Có lửa thì mới có khói mà, vì các bà đều biết tỏng rằng các ông đã lẹo tẹo với mấy ả tiếp viên này hết rồi.
Các cầu thủ khi đến khách sạn còn phân khu vực hoạt động theo giới tính một cách rạch ròi hơn. Rất nhiều lần họ yêu cầu vợ mình không đến quán bar nơi cả đội đang ở. Ngoài ra họ còn liệt kê những quán bar khác, những sàn nhảy và nhà hàng không được ghé qua trong thành phố. Danh sách này thường thay đổi theo mùa chứ không cố định. Họ cẩn thận đánh vần rất rõ ràng từng cái tên thay vì để cho các bà vợ tự hiểu vì họ muốn tạo ra một vùng an toàn cho các cầu thủ không có vợ đi theo có thể hòa mình vào những cuộc chơi với “những cổ động viên nữ” (thường tụ tập ở ngay trong quán bar khách sạn) và các nơi họ có thể dẫn bồ bịch đi chơi mà không bị phát hiện.
Một số vận động viên, nhất là những người nổi tiếng, ít khi chịu lúc nào cũng chỉ tụ tập xung quanh đồng đội. Càng được các cổ động viên nữ hấp dẫn vây quanh thì địa vị của họ càng được nâng lên. Ortiz bảo, để chứng tỏ họ là những người đàn ông và những đồng đội thực thụ thì việc quan hệ với các cổ động viên nữ được xếp trên chuyện làm một người chồng tốt. Họ thường thích gặp gỡ những cô gái này ở quầy bar ở khách sạn hơn những nơi khác, vì ở đây, những đồng đội khác sẽ chứng kiến được thành tích của mình.
Thông thường thì các bà vợ là người phải giả vờ mắt nhắm mắt mở. Một số cho biết nếu họ tình cờ trông thấy một cầu thủ đã có vợ đang cặp kè cùng
người phụ nữ khác thì họ sẽ làm lơ vờ như không biết. Một bà vợ khác kể lại rằng đã phải đứng quay mặt vào tường làm như mình đang “tàng hình” khi vô tình đi chung thang máy khách sạn với một cầu thủ đã kết hôn khác đi cùng một phụ nữ bản địa. “Nếu như bạn thừa nhận đã trông thấy và tỏ vẻ không hài lòng thì sẽ không còn được đi theo đoàn nữa vì họ sẽ nói thẳng vào mặt chồng bạn rằng, ‘Ông bảo vợ ông câm mồm đi nhé,’” một bà vợ tên Sheila bảo. Một số các bà thừa nhận rằng phải miễn cưỡng tin rằng người đàn bà bí ẩn đó chỉ là “họ hàng đến thăm nom, bạn bè của gia đình hoặc là em vợ!” mà thôi.
Nhưng dĩ nhiên, một khi chuyện lăng nhăng của cầu thủ bị truyền thông bắt gặp thì lại khác. Lúc đó, cầu thủ đó sẽ bắt buộc phải thừa nhận tội lỗi như mọi người dân bình thường để mong nhận được tha thứ từ dư luận. Theo tờ Sports Illustrated thì ngôi sao Kobe Bryant của đội Los Angeles Lakers đã phải “nuốt nước mắt vào trong” tại cuộc họp báo năm 2003 khi thừa nhận từng hẹn hò với một cô gái 19 tuổi trong khách sạn. Vào lúc người vợ “nắm lấy tay và nhìn thẳng vào mắt anh ta” thì Bryant đã nghẹn ngào cùng báo giới rằng, “Giờ đây trước mặt mọi người, tôi cảm thấy hận và kinh tởm bản thân mình vì đã làm nên chuyện ngoại tình lầm lạc này.” (Ortiz cũng từng du ngoạn cùng các cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp và cho biết họ cũng có những luật lệ ăn chơi trên đường giống như các cầu thủ bóng chày này vậy.)
Nhưng không phải cầu thủ nào cũng tuân thủ luật lệ giống nhau. Ortiz nhận thấy rằng những cầu thủ có địa vị thấp như mới vào nghề, lương ít, bị thương hay sa sút phong độ thường thực hiện quy luật rất chặt chẽ, có lẽ vì họ cảm thấy tự ti và dễ bị tổn thương. Những cầu thủ hạng nhất thì hay phá luật hơn. Một phụ nữ hồi tưởng lại lúc một ngôi sao của đội bóng phớt lờ sự từ chối của cô để cố gắng mời cô và một người vợ khác vào uống rượu trong quán bar khách sạn. Khi vào trong, mặc dù đang được ngồi chung với người nổi tiếng nhưng cô cho biết “chỉ nhìn thẳng vào quầy rượu và cảm thấy chẳng thoải mái chút nào cả.”
Vậy vì sao các bà vợ lại chấp nhận tuân theo những luật lệ này, khi chúng làm giảm đi phẩm giá của họ và tạo điều kiện cho các ông chồng mặc sức vụng trộm khi họ không có mặt? Sao họ không cùng đoàn kết và chống lại để các ông không thể thỏa sức lăng nhăng nữa?
Lý do thứ nhất chính là tiền bạc. Nếu họ gây rối hoặc làm trái luật thì sẽ có thể làm mất địa vị của chồng mình trong đội bóng. Tuổi nghề của vận động viên rất ngắn và những bà vợ nào mà có thể đi theo chồng mình, thường là không có việc làm. Bất cứ đe dọa nào xảy ra cho địa vị của người chồng cũng có thể ảnh hưởng nặng nề đến kế sinh nhai của cả hai. Ortiz không hề đưa ra dẫn chứng nào về việc cầu thủ bị giáng cấp hay sa thải vì vợ mình làm xằng làm bậy, nhưng những hậu quả có thể xảy ra khi làm chồng mình mất danh dự cũng đủ để các bà vợ không dám hó hé rồi.
Bà vợ nào hay ba hoa lắm mồm cũng rất dễ trở thành đối tượng không được chào đón. Các cầu thủ thường thân thiện với những những bà vợ nào “biết điều” và lảng tránh các bà “hay bép xép”, sau đó dĩ nhiên là sẽ làm áp lực với người chồng cho bà ta ở nhà cho rảnh nợ. Người vợ nào không được tháp tùng chồng mình đi du đấu sẽ mất cơ hội canh chừng anh ta trong khoảng thời gian đó và nhất là sẽ đánh mất sự hào nhoáng và danh vọng khi được cùng song hành với một đội bóng chuyên nghiệp. Danh tiếng của người vợ vẫn được gìn giữ khi chồng của bà ta thi đấu cho đội bóng khác. Olivia, vợ một cầu thủ, phân trần, “Càng nói nhiều thì người ta càng ít tin tưởng mình vì giống như ai cũng làm như vậy cả. Bà nào đi rêu rao những điều mình thấy được sẽ bị đối xử như người bị bệnh truyền nhiễm, chẳng ai muốn lại gần nữa.”
Vì vậy, thay vì hợp sức chống đối thì họ lại giúp nhau tuân thủ những luật lệ nhằm tạo điều kiện cho chồng mình lăng nhăng. Họ khuyên người khác không nên bàn tán những gì mình thấy trên đường đi, và cũng chẳng ngại ngần mấy bà nhiều chuyện khác nhục mạ họ là “đồ giả tạo.” Một số thậm chí còn không muốn biết chồng mình đã từng làm gì. Nếu như có bà nào dại dột tọc mạch, các bà vợ khác sẽ đồn thổi rằng bà ta chỉ nói vậy nhằm che đậy rắc rối trong hôn nhân của mình mà thôi.
Điểm đặc sắc của nền văn hóa tình dục này là các bà chuyển từ việc bắt buộc phải tuân thủ luật lệ thành việc tự nguyện vì bản thân họ muốn như vậy. Mặc dù họ luôn phản đối chuyện ngoại tình nhưng rốt cuộc họ lại tin rằng những luật lệ tạo khe hở cho việc vụng trộm về bản chất cũng có ý nghĩa. Ortiz bảo, “Hầu hết các bà vợ đều nhất mực tin rằng không kể lại những gì mình đã trông thấy cho các bà vợ bị lừa dối biết là điều quan
trọng.”
***
MỘT LOẠI VĂN HÓA TÌNH DỤC khác không cần khoảng không gian thực tế và những người tham gia không hề biết về nhau. Loại này tồn tại trong vương quốc của “giới truyền thông.” Ở Mỹ có rất nhiều tờ báo khổ nhỏ hữu ích, nhưng không nơi nào mà báo chí lại đào bới về chuyện ngoại tình nhiều như ở Anh. Tờ báo bán chạy nhất vào Chủ nhật hàng tuần là News of the World và Mail on Sunday thường dành trọn trang nhất cho những câu chuyện về ngoại tình. Nó tạo cảm giác như chuyện vụng trộm này là tin tức nóng hổi nhất trên toàn quốc gia vậy.
Thật ra trong cuộc sống thường nhật, người Anh vẫn phản ứng về chuyện lăng nhăng giống như hầu hết người Mỹ thôi. Họ cũng cho rằng tội ngoại tình phải bị trừng phạt bằng chuyện ly hôn hay tình trạng sống dở chết dở. Về tỉ lệ ngoại tình của họ cũng gần ngang bằng với các nước hùng mạnh khác.
Nhưng ở Anh, có một nền văn hóa tình dục chỉ tồn tại trong giới truyền thông. Ở đây chuyện ngoại tình được xem như một môn thể thao. Trong cuộc chơi đó, nhiệm vụ của họ là phải bắt gặp được một nhân vật tiếng tăm nào đang ở trong tình huống bẽ mặt nhất. Các phóng viên thậm chí sẵn sàng lục lọi chứng cớ trong thùng rác nếu cần. Những tờ báo lá cải luôn thèm khát những câu chuyện nóng hổi về ngoại tình đến nỗi nếu không bắt gặp được nhân vật thực sự nổi tiếng nào họ sẽ chuyển sang những “ngôi sao hết thời” của các chương trình truyền hình thực tế, những diễn viên hạng C, và cả những người dân Anh bình thường bị vướng vào tam giác tình yêu quái ác.
Một câu chuyện tiêu biểu trên trang nhất của tờ The Sun bán chạy nhất vào thường nhật ở Anh miêu tả về những khó khăn của “Amy Nuttall vụng trộm”, một diễn viên nhạc kịch 22 tuổi, về lời thú nhận đã phá hoại căn hộ của Ben, bạn trai cũ và là diễn viên đóng chung cùng cô. Người viết dùng giọng điệu cảm thông diễn giải rằng “trời đất như sụp đổ trong Amy khi cô biết được Ben đã quan hệ trong xe hơi sau tiếng sét ái tình với nữ nhân viên ngân hàng 19 tuổi Jenny Woodcock, cô nàng đã tự chủ động tiếp cận Ben trong quán bar.” Tờ The Sun còn làm vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi đăng tải
rằng “Amy đã phải chịu đựng khi Jenny lên báo kể rõ chi tiết về cuộc gặp gỡ với Ben, từ đó Amy chửi rủa Ben là một người tình tồi tệ.” Nhưng trong bức ảnh trên bìa báo đó, Amy lại khêu gợi trong bộ bikini mỏng manh màu nâu. Ngoài ra bài báo còn đề cập đến việc cô ấy muốn bắt đầu sự nghiệp ca hát.
Những tựa báo khác thì có đủ các kiểu, từ loại trào phúng như: “Con chuột cống khổng lồ vẫn cản đường” đến mức quái đản như: “Con thiết kế hư hỏng ấy phá hoại đời tôi” nhằm giải thích rằng “với niềm tin vừa lấy lại được sau những vấp ngã - Denize không thể giữ kín được những chuyện riêng tư… à, chỉ một sự riêng tư này”.
Một số câu chuyện cũng được nhà báo đan xen vào vài bài học đạo đức nhưng độc giả thừa hiểu chúng chỉ nhằm làm tăng thêm tính giải trí mà thôi. Những tin tức quan trọng thực thụ sẽ được phát trên truyền hình hay đăng trong vài tờ báo lá cải. Để đảm bảo sự chú ý của độc giả, các tờ báo thường đăng tin về chuyện ngoại tình một cách úp úp mở mở với những chi tiết lập lờ kiểu khẳng định sự việc nhưng không đưa ra bằng chứng cụ thể. Ngoài ra, họ sẽ đính kèm hình ảnh của kẻ bị hại hay kẻ gây ra tội lỗi trong trang phục áo tắm bất cứ khi nào có thể.
Một số “tin tức” từ các báo hoàn toàn bị chế biến lại. Max Clifford là nhà báo đầu tiên người ta nghĩ tới mỗi khi muốn kể một câu chuyện gì đó, hay hơn nữa là muốn làm to chuyện lên. Theo lời Clifford phân trần trên tờ Financial Times rằng “Ngày nay, các cô gái trẻ thường đi hộp đêm với mục đích nhất định chẳng hạn như đánh giá chàng cầu thủ này có giá trị X, chàng cầu thủ kia có giá trị Y. Khi ở văn phòng, tôi thường nhận được những cú điện thoại từ các cô hỏi thẳng rằng ‘Nếu như phải chọn giữa giá trị X và Y thì những cầu thủ nào đình đám nhất?’ Thời buổi bây giờ thực dụng đến vậy đấy.” Với địa vị như vậy, Clifford nghiễm nhiên được hưởng 20% lợi nhuận của doanh số báo bán ra.
Thỉnh thoảng các báo cũng thực hiện những việc có mục đích cao cả hơn hay một thứ gì đó tương tự vậy: Họ theo dõi những công chức nhà nước. Mục đích của những sự công kích này chẳng phải để cải thiện thêm cho chính sách hoạch định gì đâu, mà chỉ nhằm đánh sập những tư tưởng mộ đạo chớm nở. Đến khi John Major lên làm thủ tướng Anh vào năm 1990 thì báo giới bắt đầu ít có cơ hội hoành hành. Trong hội nghị thường niên của đảng
Bảo Thủ do Major tổ chức năm 1993, chính phủ phải cố gắng hết sức để làm giảm sự chú ý của công chúng về sự suy thoái và mở chiến dịch “Trở về nguồn cội”. Ngoài mặt việc này có vẻ nhấn mạnh về giáo dục, nhưng thông điệp và theo thông tin sau cánh gà thì nêu rất rõ: Đảng Bảo Thủ muốn khôi phục lại giá trị của gia đình ở Anh.
Chiến dịch “Trở về nguồn cội” này lại vô tình mở cửa cho giới báo chí soi mói vào đời tư của các chính trị gia đảng Bảo Thủ. Hậu quả tất yếu là các vụ bê bối tình dục nhanh chóng bị phơi bày. Stephen Milligan, ủy viên Quốc hội, được phát hiện đã chết tại gia trong tình trạng đang mang vớ phụ nữ và bao ny-lon trùm đầu, bằng chứng rõ ràng việc bắt chước theo mộthành động thủ dâm. Bá tước Caithness, từng là thứ trưởng, từ chức sau khi người ta điều tra được cái chết của vợ ông có liên quan đến việc ông ngoại tình với thư ký cũ. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Tim Yeo thừa nhận có con ngoài giá thú với người tình của mình, giờ đây ông sống bằng nhuận bút viết bài cho chuyên mục đánh gôn trên báo. Bộ trưởng Bộ Cầu đường Stephen Morris bị phát hiện có đến 5 tình nhân bên ngoài (“Vâng, vâng, vâng, vâng, vâng thưa Bộ trưởng”, Tờ Daily Telegraph châm biếm đến 5 chữ Vâng thay vì 1 chữ Vâng trong chương trình hài hước “Vâng thưa Bộ trưởng” trên truyền hình.) Thư ký Giáo hội David Mellor từ chức sau khi cô nhân tình là diễn viên nghiệp dư Antonia de Sancha lên mặt báo kể rõ ông có sở thích ngậm mút ngón chân cái của cô khi cô ta bận chiếc áo thun của Chelsea - đội bóng yêu thích của ông ấy. Không lâu sau, cả nước châm biếm bằng cách đổi tên chiến dịch “Trở về nguồn cội” của đảng Bảo Thủ thành “Mời về Nhà tôi.”
Ngay cả đến John Major cũng có vết nhơ, mặc dù dân chúng gán cho ông biệt danh là “tên xám xịt” vì ông quá đần độn và từng bị châm biếm trên chương trình truyền hình “Hình ảnh đáng phỉ nhổ” với hình tượng một chú rối màu xám xịt ngồi ăn đậu cùng vợ mình. Bê bối của ông ta bị phát hiện khi nhật ký của Edwina Currie, cựu Bộ trưởng Bộ Sức khỏe, bị phơi bày, trong đó ghi rõ chuyện quan hệ gian díu suốt 4 năm trời với Major trong những năm 80.
Tôi hẹn gặp Currie ở London tại một nhà hàng gần Trạm xe điện Victoria để tìm hiểu về những bài báo lá cải của Anh và văn hóa tình dục nó đề cập
tới. Currie hiện nay đã 59 tuổi, bà không những từng dính líu đến một vụ bê bối tình dục có liên quan đến thủ tướng mà còn từng mất ghế quốc hội vào năm 1997, từ đó bà bắt đầu sự nghiệp viết tiểu thuyết về các vụ xì-căng-đan tình dục của giới chính trị. Currie không phải thuộc tuýp các bông hồng e lệ của nước Anh, bà có thân hình nhỏ nhắn với cặp chân mày nâu đậm và mái tóc dày hung đỏ. Đặc biệt, bà ăn nói rất lưu loát và cực kì kiên định.
“Một trong những giá trị đáng quý của người Anh là sự nhã nhặn, vì vậy một người tốt sẽ không đi tọc mạch khắp nơi. Do đó một khi phát hiện ai đó có chuyện gì, giới báo chí sẽ cực kì phấn khích và theo đuổi người đó trong nhiều tuần để điều tra đến cùng, rốt cuộc họ sẽ hiểu rõ về người ấy còn hơn anh ta.”
Bà bảo người Mỹ thần tượng hóa các vị lãnh đạo quá mức nên sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra đời sống cá nhân bê bối của họ. Trong khi đó, người Anh lại thích nhìn thấy các vị anh hùng của mình trải qua thăng trầm khổ nạn và tin rằng luôn có vài vết nhơ sau những hình ảnh sạch bóng như gương mà các vị ấy bộc lộ ra ngoài. Vì vậy, một khi sự thật không xấu như vậy thì họ lại đâm ra thất vọng.
“Nói về người Mỹ, tôi nghĩ họ gây ấn tượng mạnh với chúng ta như những đứa trẻ vô tư: tràn đầy năng lượng, sức sống và tính ngựa non háu đá nhưng thực chất lại không biết đá vào đâu. Người châu Âu thì giống kiểu chững chạc hơn, tinh tế, điềm đạm và hơi vô cảm. Do đó, khi một chính trị gia Anh nào đứng lên hô hào rằng ‘trở về nguồn cội, về với giá trị thật của gia đình thôi nào,’ thì dân chúng sẽ đáp lại rằng, ‘Được thôi, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến này, nhưng phải xem lại chiều Chủ nhật rồi ông đã làm cái trò gì đã.’”
Khi xếp bên cạnh những câu chuyện mang tính màn bạc của các nữ nghệ sĩ và các ngôi sáo bóng đá thì chuyện vụng trộm của Currie và Major gần gũi với đời thường hơn nhiều. Vào những năm 80 khi cả hai đều nằm trong làn sóng các nghị sĩ trẻ thuộc phe Bảo Thủ đang trỗi dậy tranh giành quyền lực trong Cuộc Cách mạng Thatcher. Cả hai đều thuộc tầng lớp lịch thiệp và cùng chí hướng lật đổ sự thống trị của đám cầm quyền hủ lậu thuộc đảng Bảo Thủ. Currie bảo, “Chúng tôi có nhiều điểm và mục đích chung và kết thân với nhau”, từ đó họ trở thành đồng đảng mưu phản cùng nhau.
Khi họ gặp gỡ trong căn hộ gần Tòa nhà Quốc hội, Major luôn giữ bên mình chiếc phong bì hành chính màu nâu để làm cớ thanh minh nếu bị ai bắt gặp. Lúc Currie than thở về những khó khăn trong con đường chính trị của bà thì chồng bà chỉ biết khuyên bà từ bỏ, nhưng Major thì luôn ủng hộ và cùng bà chiến đấu cùng chiến tuyến. Vì vậy đối với bà “Từ mối quan hệ cực kì khắng khít và bền vững ấy mình sẽ nhận được rất nhiều sự động viên, tình bạn và cả tình yêu nữa.”
Currie cho biết bà kết thúc mối quan hệ này vào năm 1988 khi cả hai đều đạt được vị trí nhất định, Currie trở thành Bộ trưởng Bộ Sức khỏe và Major lên làm Tổng Thư ký Kho bạc quốc gia. Trong nhật ký của mình, bà ca thán rằng chính sự thành công đã làm ông ta thay đổi. “Khoảng thời gian tuyệt vời nhất là lúc ông ta đang chán nản cùng cực, đang trốn tránh bản thân mình và hoàn toàn tuyệt vọng; lúc ấy ông ta kể cho tôi mọi thứ về gia đình, những chuyện trong quá khứ, về chuyện không có việc làm, về chuyện suýt chết trong tai nạn… nói chung là tất cả những điều thầm kín nhất mà bình thường chỉ giữ trong lòng…”
Khi Major được bầu làm Thủ tướng vào năm 1990, Currie mong đợi ông ta sẽ cho bà phục chức Bộ trưởng hoàn toàn vì khả năng của bà chứ không phải vì mối quan hệ tình cảm của họ nhưng ông ta đã không thực hiện điều đó. (“Rất khó để lãng quên một người mình vừa chung chăn gối cách đây mới 18 tháng.”) Sau đó Currie theo dõi cuộc bùng nổ chính trị dẫn tới chiến dịch “Trở về nguồn cội”, lúc đó bà biết rằng “giá trị gia đình” của Major đang bị đe dọa và bà có thể một tay làm sụp đổ cả chính quyền này.
Đó chính là lúc mối quan hệ trên mức tình bạn của Currie và Major chuẩn bị trở thành đề tài nóng bỏng cho giới phóng viên các tờ báo khổ nhỏ trong tương lai, và Currie biết rằng đối với nền văn hóa tình dục của Anh thì một sự biến đổi lớn là khó có thể tránh khỏi. “Tôi biết rằng mình sớm muộn cũng sẽ nói ra mà thôi. Khi dính vào một thứ quan trọng như ngoại tình với một người và người đó trở thành Thủ tướng thì bạn biết rằng nó không phải là thông tin riêng tư của mình nữa. Một lúc nào đó bạn sẽ phơi bày mọi thứ ra ánh sáng.” Currie đợi cho đến khi đảng Bảo Thủ và Major mất quyền lực và bản thân bà cũng chính thức ly dị chồng. Vào năm 2002, tờ Times công bố những trích dẫn trong cuốn nhật ký của bà. Nhờ việc tiết lộ chuyện phòng
the này, Currie trở thành nhân vật nổi tiếng. Khi tôi ngồi phỏng vấn bà thì rất nhiều phụ nữ lại gần và bảo “bà thật sự là một nguồn cảm hứng”. Giống như dân Chicago, người Anh không nhầm lẫn văn hóa tình dục của mình. Văn hóa tình dục được tạo ra bởi các tờ báo lá cải chỉ là phần tố phụ cho cuộc sống thật. Không ai sống dựa vào những quy luật kì quái của nó cả vì họ không phải là những chính trị gia hay những ngôi sao truyền hình thực tế. Giống như Edwina Currie, những người đó cho rằng bất cứ chuyện phòng the nào của họ cũng có thể trở thành đề tài nóng bỏng của xã hội. Mỹ có cả một diễn đàn dành riêng cho mọi người thảo luận và soi xét về chuyện ngoại tình hằng ngày. Nhưng không giống như ở Anh, diễn đàn ở Mỹ lại hành xử khác với thế hệ trước. Tôi gọi nó là “liên hợp kỹ nghệ hôn nhân.”
CHƯƠNG IV
Liên hợp kỹ nghệ hôn nhân
Buổi ra mắt Hội nghị Hôn nhân Sáng suốt ở Dallas được tổ chức như một vũ hội. Trong khán phòng rộng như sân bóng, ban chủ quản hò hét về những phương cách cứu vãn hôn nhân trong bầu không khí rộn vang tiếng nhạc Mê hi-cô. Nếu tôi lỡ để bắt gặp ánh mắt với bất cứ nhân viên bán hàng nào, họ liền vồ vập tới dúi tờ quảng cáo và đĩa CD vào tay tôi rồi vội vã trở về vị trí.
“Chúng tôi có quy trình rất hệ thống, trong đó bao gồm phương thức tự suy xét bản thân, ngoài ra còn có việc đánh giá và sự thấu cảm, vì vậy bạn sẽ cảm thấy được gắn kết hơn với phương thức điều trị,” tiếng của Giám đốc điều hành của Trung tâm Quan hệ Quốc tế Imago oang oang qua loa phóng thanh. Những người khác thì muốn dạy tôi “Làm sao để không lấy nhầm một tên khốn” hoặc “Làm sao để vui vẻ bắt đầu một cuộc hôn nhân mới tốt đẹp hơn.” Vài nhân viên bán hàng là chuyên gia tâm lý hẳn hoi, số còn lại là các nghệ sĩ hài độc thoại hay các nhà tư vấn quản lý đang dấn thân vào lãnh địa của hôn nhân.
Đến khi tận mắt chứng kiến những phương thức trị liệu này tôi mới biết được rằng hôn nhân có quá nhiều vấn nạn như vậy. Tôi chỉ mới kết hôn chưa đến một năm, nhưng nghĩ đến một ngày nào đó phải mời một cựu nhà văn chuyên viết hài kịch tình thế để “khơi dậy” lại “phần tri thức về hôn nhân” của mình hay tệ hơn là phải trị liệu 2 ngày trời về “lớp hôn nhân một vợ một chồng cấp tốc” thì thật là quá ngán ngẩm.
Hàng tá phương thức trị liệu trong lễ hội này là một phần trong khối liên hợp kỹ nghệ hôn nhân của Mỹ, chúng được đúc kết lại từ các chương trình truyền hình, những cuốn sách tự giúp bản thân, và từ hơn chục ngàn các nhà tư vấn hôn nhân có mặt ở đây để giải thích các vấn đề của hôn nhân gia đình. Ngoài ra còn có những nhóm hỗ trợ cho những người bị cắm sừng và những “con nghiện sex”; các website cho những kẻ ngoại tình và bạn tình của họ; những buổi phục hồi tinh thần cho nạn nhân đau khổ vì hậu quả của ngoại tình; và những chương trình giúp tìm lại hướng đi mới như của Trung tâm Phục hồi sau chuyện yêu đương ở Austin, Texas. Những chủ quản này
truyền đạt lại kịch bản ngoại tình của nước Mỹ bằng thông điệp riêng của họ rằng: Cẩn thận. Đừng cố gắng tự mình giải quyết vấn đề này. Trong buổi tọa đàm về những cuộc hôn nhân sáng suốt, các quầy thảo luận về ngoại tình ở dãy đầu tiên trên lối vào sảnh tấp nập toàn dân địa ốc có máu mặt. Anne và Brian Bercht, cả hai đơn thuần làm công việc tổ chức các buổi hội thảo kinh tế và làm thầu xây dựng, cũng đang quảng cáo cho cuốn tự truyện mới của mình mang tựa đề Chuyện lăng nhăng của chồng lại hóa thành Điều tốt đẹp nhất xảy đến cho tôi. Cuốn sách đã giúp cho Brian được làm khách mời trong Chương trình của Oprah Winfrey và đem lại cho họ công việc mới đó là làm người phát ngôn khích lệ tinh thần trong các chủ đề về hôn nhân, quan hệ cuộc sống và chuyện ngoại tình.
Ở đây, thương hiệu đóng vai trò chủ đạo. Michele Weiner-Davis hiện chỉ là nhân viên làm công tác xã hội nhưng ở quầy của cô, nhiều trợ lý đang phải ngược xuôi với biết bao công việc. Cô vẫn còn nhớ như in cái khoảnh khắc khi cô nghĩ ra tên gọi cho phương pháp trị liệu quan hệ hôn nhân của mình. “Lúc đó tôi đang làm việc trong văn phòng, độ nhiên ý nghĩ ấy chợt lóe lên, ‘Đả đảo li dị, à, phải rồi, Đả phá li dị!’” cô mường tượng lại. “Giây phút ấy tôi biết chắc rằng mình đã nắm được chìa khóa thay đổi vận mệnh của bản thân.” Không lâu sau đó, vài phóng viên đã đến tham dự buổi tọa đàm với chủ đề “Đả phá li dị” của cô. Tiếp đến là những lời đề nghị xuất bản sách và tham dự các chương trình trên truyền hình. Giờ đây vào độ tuổi 52, Weiner Davis dẫn đầu một vương quốc nhỏ của nhiều tựa sách, các buổi tư vấn và làm người phát ngôn trong các sự kiện trên toàn quốc. Hình ảnh đầy cương quyết và lạc quan của cô xuất hiện trên website riêng. Câu châm ngôn của cô là mọi cuộc hôn nhân đều có thể cứu vãn, mặc dù trải qua sóng gió của ngoại tình hay mặc dù chỉ có một trong hai người muốn vun vén lại nó. Theo cô, để có lại được người bạn đời lạc lối thì bản thân mình phải hành xử thật tự tin thay vì giày vò đau khổ. Trên bìa cuốn sách Đả phá li dị của cô còn in cả dòng chữ đảm bảo phương pháp này sẽ có kết quả trong vòng 1 tháng. Cô cho biết, “Thực tế hầu hết khách hàng của tôi đều đang có quan hệ lăng nhăng cả.”
Những nhà kinh doanh trên quan hệ hôn nhân của Mỹ dường như luôn tỏ ra quan tâm giúp đỡ đến mọi người xung quanh, nhưng thật ra họ đang kiếm