🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giã Biệt Tình Xa
Ebooks
Nhóm Zalo
GIÃ BIỆT TÌNH XA
RACHEL GIBSON
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
Giới thiệu nội dung:
Liệu có thể trao trọn tình yêu với người vẫn còn giữ nhiều bí mật lại cho riêng mình? Liệu có thể chấp nhận quá khứ của người mình trót thương dẫu sự thật làm bạn hơi nhói lòng? Hãy mạnh dạn giã biệt tình xa để bắt đầu một cuộc tình mới tươi tắn, đầy sức sống và niềm tin yêu.
Nữ phóng viên báo lá cải của L.A - Hope Spencer đã đến Gospel với hy vọng tìm cảm hứng mới. Tại đây cô dính sét ái tình với Dylan Taber - cảnh sát trưởng đẹp trai, quyến rũ, đang sống cô đơn với cậu con trai nhỏ 7 tuổi với quá khứ đầy bí ẩn. Hope phải đối diện với sự thật ghê gớm rằng - đã quá lâu cô không có một người đàn ông. Nhưng khi cô loáng thoáng biết được có một nữ diễn viên Hollywood có dính dáng đến cuộc đời của Dylan, Hope nhận ra rằng nếu họ muốn có một tương lai bên nhau, anh phải có vài lời thú nhận chân thành…
Mục Lục
Chương 1
Gương Mặt Của Chúa Chụp Trong Những Đám Mây Chương 2
Lũ Dơi Hút Máu Tấn Công Phụ Nữ Không Đề Phòng Chương 3
Còi Báo Động Ôtô Tài Tình Thôi Miên Cộng Đồng Chương 4
Thằn Lằn Có Vị Giống Hệt Gà!
Chương 5
Phụ Nữ Tiệc Tùng Khi Còn Thức
Chương 6
Satăng Chụp Ảnh Trong Thị Trấn Hoang Dã Chương 7
Cậu Bé Trồng Khoai Tây Trong Tai
Chương 8
Đàn Ông Thôi Miên Gà Để Đẻ Thêm Trứng Chương 9
Đàn Ông Tự Nhiên Bốc Cháy
Chương 10
Sóc Được Chứng Minh Là Thuốc Kích Thích Tình Dục Chương 11
Sét Bắn Ra Từ Ngón Tay Đàn Ông
Chương 12
Khúc Ngoặt Trên Đường Cao Tốc Đến Địa Ngục Chương 13
Thiên Thần Đến Thăm Giấc Mơ Của Bạn Chương 14
Tai Nghe Dò Ra Tiếng Trái Tim Tan Vỡ
Chương 15
Chứng Cứ: Đầu Bị Đánh Gây Ra Tổn Thương Não
Chương 16
Phụ Nữ Bị Lạc Tìm Thấy Trong Vùng Hoang Dã
Chương 1
Gương Mặt Của Chúa Chụp Trong Những Đám Mây
Có hai chân lý phổ biến ở Gospel, Idaho. Một là, Chúa đã thực hiện công việc tốt nhất của mình khi Ngài sáng tạo nên Vùng Hoang dã Sawtooth. Và ngoại trừ vụ rắc rối không may mắn vào năm ’95, Gospel đã luôn là thiên đường trên trái đất.
Hai là có một chân lý cũng đáng tin chắc chắn như chân lý đầu tiên mọi tội lỗi được biết đến từ thiên đường đến trái đất đều là lỗi của California. California bị đổ lỗi cho mọi chuyện, từ lỗ thủng trên tầng ô-zôn cho đến cây cần sa phát hiện đang được trồng trong vườn cà chua của bà góa phụ Fairfield. Sau cùng thì, đứa cháu trai tuổi thiếu niên của bà đã đến thăm họ hàng ở L.A mới chỉ mùa thu vừa rồi.
Còn một chân lý thứ ba xảy đến vào mỗi mùa hè mặc dù nó thường được nhìn nhận như là một thực tế thuần túy hơn những tên ngốc từ vùng đồng bằng nhất định sẽ bị lạc giữa những đỉnh núi granit của dãy Sawtooth.
Mùa hè này, số lượng ngườì đi bộ đường dài lạc đường được cứu đã lên đến ba. Nếu ngừng đếm ở ba, cộng thêm một người bị gãy xương và hai trường hợp khác bị bệnh sợ độ cao thì Stanley Caldwell có thể thắng cược trò Đánh cược số người đồng bằng mất tích. Nhưng mọi người đều biết Stanley là một tên ngốc theo chủ nghĩa lạc quan. Không ai nghĩ rằng Stanley thắng khoản tiền góp lại ấy, ngay cả vợ ông ta người đã đặt cá tám người mất tích, bảy người gãy xương, và thêm vài trường hợp ngộ độc sồi cho sôi nổi.
Hầu hết mọi người trong thị trấn đều tham gia cá cược người này cố gắng vượt qua người kia và kiếm lấy số tiền đáng kể đấy. Vụ cá cược mang đến cho dân tình Gospel điều gì đấy để suy nghĩ bên cạnh gia súc, cừu và đốn gỗ. Nó mang lại cho họ điều gì đấy để nói bên cạnh những nhà bảo vệ môi trường đam-mê-cây-cối, và thứ gì đấy để dự đoán ngoài người có khả năng là bố đứa con trai mới sinh của Rita McCan. Rốt cuộc thì dù Rita và Roy đã ly dị được ba năm cho đến bây giờ, điều đấy cũng không thể gạt anh ta ra khỏi vòng nghi vấn.
Nhưng chủ yếu, vụ đánh cược là một cách vô hại để những người dân địa phương trải qua những tháng mùa hè nóng nực trong khi thu tiền của khách du lịch và đợi chờ sự yên bình của mùa đông.
Quanh thùng bia ở siêu thị M&S, cuộc trò chuyện tập trung quanh cách câu cá bằng mồi nhân tạo với câu bằng mồi sống, đi săn bằng cung tên với đi săn ‘thật’, và tất nhiên, con hươu đực có gạc mười hai nhánh mà người chủ siêu thị, Stanley, đã bắn được trong năm ’79. Cái gạc đánh véc ni khổng lồ treo đằng sau quầy thu ngân méo mó, nơi chúng đã được trưng bày trong hơn hai mươi năm.
Phía bên kia đường trong khách sạn nhỏ ven đường Sandman trên phố Lakeview, Ada Dover vẫn còn nói về thời gian Clint Eastwood đã nghỉ tại khách sạn của bà ta. Anh ta đã rất thân thiện và thực sự đã nói chuyện với bà ta.
“Cô có một nơi xinh xắn,” anh ta nói, với âm điệu giống như Harry Bẩn thỉu[1]; sau đó anh ta hỏi nơi để tủ đựng đá và yêu cầu thêm vài chiếc khăn bông.
Bà ta gần như chết sững ngay sau quầy đăng ký phòng. Có vài nghi vấn rằng liệu có phải con gái anh ta với Frances Fisher đã được thụ thai trong phòng số chín.
Công dân của Gospel sống và hít thở với mẩu tin đồn thổi mới nhất. Ở cửa hàng Uốn và Nhuộm, chủ đề yêu thích của cuộc nói chuyện luôn luôn là cảnh sát trưởng của Hạt Pearl - Dylan Taber, vì cô chủ của nó - Dixie Howe thường thả tên anh ta vào những cuộc tán phét trong khi gội đầu hoặc uốn tóc. Cô ta ném mồi về phía anh ta và có ý định cuộn dây câu anh ta như câu một con cá hồi đáng giá.
Tất nhiên, Paris Fernwood cũng thả mồi câu của cô ta về phía Dylan, nhưng Dixie không phải lo lắng. Paris làm việc cho cha cô ta ở quán Cà phê góc vui vẻ, và Dixie không hề xem một cô nàng phục vụ cà phê và trứng là một đối thủ nghiêm tức đối với một phụ nữ có nghề nghiệp như mình.
Cũng có những phụ nữ khác ganh đua sự chú ý của Dylan. Một bà mẹ đã ly dị của ba đứa con ở hạt bên cạnh, và có thể những người khác nữa mà Dixie không biết. Nhưng cô ta cũng không lo lắng về họ. Dylan đã sống ở L.A một thời gian, và nghiễm nhiên anh ta đánh giá cao người có vẻ ngoài sành điệu và từng trải. Ở Gospel, không ai sành điệu hơn Dixie Howe.
Với điếu thuốc lá Virginia Slims kẹp giữa hai ngón tay, ánh sáng phản chiếu trên những móng tay màu đỏ máu, Dixie ngả lưng trong một chiếc ghế nhựa đen của cửa hàng và đợi khách hàng hẹn đến cắt và nhuộm tóc lúc hai giờ.
Một làn khói mỏng bay ra từ đôi môi cô ta khi cô ta nghĩ về đối tượng yêu thích của mình. Không phải vì Dylan là anh chàng xứng đáng duy nhất trong độ tuổi trên hai mươi lăm và dưới năm mươi trong vòng bảy mươi dặm. Không, đấy là vì anh ta có một kiểu nhìn phụ nữ. Cái kiểu nghiêng đầu ra sau một chút và chăm chú nhìn bằng đôi mắt xanh lục sâu thẳm đấy của anh ta khiến cô ngứa ran ở những nơi rất đúng chỗ. Và khi đôi môi anh ta mở ra thành một nụ cười thoải mái, chậm rãi, tất cả những nơi râm ran ấy cứ ướt át và tan chảy.
Dylan chưa bao giờ đặt chân vào bên trong tiệm Uốn và Nhuộm, mà chọn cách lái xe hết cả quãng đường đến Sun Valley để cắt tóc. Dixie không xem đấy là vì lý do cá nhân. Chỉ là vài người đàn ông cảm thấy kỳ quặc khi bước vào một cửa hàng xuất sắc như cửa hàng cô cho một kiểu đầu thông thường. Nhưng cô vẫn thích được luồn những ngón tay qua mái tóc dài của anh ta. Một khi cô đã lôi được cảnh sát trưởng lên giường, cô chắc chắn anh ta sẽ không muốn bỏ đi. Người ta nói với cô rằng cô là cô nàng giỏi nhất về khoản này ở phía bên này của Đường chia cắt Lục địa. Cô tin vào điều ấy, và đã đến lúc làm anh ta tin. Đã đến lúc Dylan sử dụng cơ thể rắn chắc và to lớn của mình vào những việc khác hơn là chấm dứt những cuộc ẩu đả ở quán bar Buckhom.
Chỉ có một đám mây bão nhỏ tiềm năng duy nhất trong kế hoạch tương lai của Dixie, và đấy là đứa con trai bảy tuổi của Dylan. Cậu nhóc không thích Dixie. Lũ nhóc thường không thích cô. Có lẽ bởi vì cô thường nghĩ chúng rất phiền phức. Nhưng cô đã thực sự cố gắng với Adam Taber. Cô từng mua cho nó một gói kẹo gôm. Nó cám ơn cô, nhét mười miếng vào miệng, rồi phớt lờ cô.
Điều ấy sẽ là tuyệt vời nếu nó không thả tõm cái mông gầy nhom của mình trên chiếc đi văng giữa cô và bố nó.
Dixie cũng không còn lo lắng về Adam nữa. Cô đã có một kế hoạch mới.
Sáng nay cô nghe từ Hazel thư ký của Dylan, rằng anh ta đã mua một con chó con cho con trai mình. Dixie tính rằng sau khi cô đóng cửa hàng để nghỉ, cô sẽ về nhà và siết chặt tài sản lớn nhất của mình vào một cái áo lót chật. Cô sẽ ghé qua với một khúc xương to ngon cho con chó mới. Điều này rốt cuộc phải bắt được sự chú ý của đứa nhóc. Cũng như cặp ngực bự cỡ D của cô cuối cùng phải bắt được sự chú ý của bố nó. Nếu Dylan không chú ý và tận hưởng những gì cô mời chào, thì anh ta chỉ đơn giản là một gã đồng tính.
Tất nhiên, cô biết anh ta không phải thế. Quay lại thời trung học, Dylan Taber đã là một anh chàng hoang dã, lao ầm ầm trên những đường phố của Gospel trong chiếc Dodge Ram đen, một tay trên vô lăng, tay khác trên đùi của một cô nàng may mắn nào đấy. Hầu hết thời gian ấy, nhưng không phải tất cả, cô gái may mắn đấy là chị gái của Dixie, Kim. Dylan và Kim đã có một mối quan hệ mà Dixie gọi là một mối quan hệ giữa lửa-và-băng thực sự. Nó vừa nóng vừa lạnh. Tuyệt nhiên không ở giữa. Và khi nóng, nó nung nóng phòng ngủ của Kim như một địa ngục. Trở lại khi ấy, mẹ Dixie dùng phần lớn thời gian ở những quán bar địa phương, và Kim đã tận dụng triệt để sự vắng mặt của bà cũng chẳng phải là mẹ cô sẽ chú ý nếu bà ở nhà. Trước khi bà trở thành người theo đạo Cơ đốc phúc âm, Lilly Howe đã dành phần lớn thời gian để uống, say xỉn hoặc bài bạc.
Khi ấy, Dixie có thể mới mười một tuổi, nhưng cô biết những âm thanh xuất phát từ phía bên kia bức tường phòng ngủ có nghĩa là gì. Những hơi thở ngắt quãng, những tiếng rên rỉ khàn khàn, và những hơi thở dài thỏa mãn. Mười một tuổi, cô biết đủ về tình dục để biết chị gái đang làm gì. Nhưng phải đến nhiều năm sau cô mới có thể biết đánh giá cao việc họ có thể tạo ra những tiếng âm thanh vui vẻ ấy lâu như thế nào.
Dylan đã ba mươi bảy tuổi, là cảnh sát trưởng của Hạt Pearl, và anh ta đang nuôi một đứa con trai. Anh ta là một người đứng đắn, nhưng Dixie đánh cược đến chai nhuộm tóc vàng cuối cùng của mình rằng bên dưới bộ đồng phục, anh ta vẫn hoang dã như ngày nào. Hiện giờ Dylan là một người đàn ông có vị thế lớn trong cộng đồng, và tin đồn rằng anh ta cũng to ở những nơi cần thiết. Đã đến lúc cô tự mình tìm ra.
Trong khi Dixie đang lên kế hoạch, đối tượng trong trí tưởng tượng của cô đang kéo chiếc mũ Stetson[2] thấp xuống trán và bước ra khỏi hiên trước xập xệ của văn phòng cảnh sát trưởng. Hơi nóng hốc lên thành luồng từ con đường trải nhựa đen xì và những mui xe đỗ la liệt trên phố Main. Mùi của nó lấp đầy mũi anh.
“Những người đi bộ được nhìn thấy lần cuối cùng ở khoảng nửa đường lên núi Regan.”
Dylan thông báo với cấp phó của mình, phó cảnh sát trưởng Lewis Plummer khi họ di chuyển đến chiếc xe Blazer sơn nâu và trắng của cảnh sát trưởng.
“Bác sĩ Leslle đã trên đường đến đấy, và tôi đã đánh điện cho Parker mang ngựa đến và gặp chúng ta ở bãi cắm trại.”
“Một chuyến hành trình đến miền hoang dã không phải là cách tôi muốn phung phí thời gian của mình.” Lewis phàn nàn. “Thời tiết nóng chết đi được.”
Thông thường, Dylan không ngại phải giúp đỡ tìm kiếm những khách du lịch mất tích. Việc này giúp anh ra khỏi văn phòng và cách xa công việc giấy tờ mà anh chán ghét. Nhưng anh đã gần như thức trắng suốt đêm vì con chó nhỏ của Adam, và anh không mong chờ một cuộc leo trèo với chín nghìn bước chân nữa.
Anh đi đến bên tay lái của chiếc Blazer và đút tay vào bên trong túi quần màu nâu. Anh lôi ra một viên đá ‘dễ thương’ mà Adam đã đưa cho anh và nhét nó vào túi áo ngực. Bây giờ thậm chí vẫn chưa phải buổi trưa, và bộ đồng phục vải bông của anh đã dính chặt vào lưng. Khỉ thật.
“Chuyện quái gì thế?”
Dylan liếc Lewis qua nóc xe Chevy, sau đó quay sự chú ý trở 1ại với chiếc xe du lịch màu bạc đang chạy về phía anh.
“Anh ta chắc hẳn đã rẽ sai đường trước khi đến Sun Valley.” Lewis đoán. “Chắc hẳn bị lạc.”
Ở Gospel, nơi màu sắc cổ của một người đàn ông thiên về đỏ và những chiếc xe bán tải và xe tải hạng nặng thống trị đường phố, thì một chiếc Porsche gần như khó thấy như một đoàn diễu hành vì quyền lợi của người đồng tính tiến gần đến cổng thiên đường.
“Nếu anh ta bị lạc, ai đấy sẽ nói với anh ta.” Dylan nói khi anh đút tay vào túi quần lần nữa và tìm thấy chìa khóa. “Sớm hơn hay muộn hơn.” Anh nói.
Trong khu nghỉ dưỡng của Sun Valley, một chiếc Porsche không phải là hiếm nhìn thấy nhưng trong vùng hoang dã này, nó quá không bình thường. Rất nhiều con đường của Gospel còn không có vỉa hè. Và dù có vài con đường không có những ổ gà với kích cỡ bằng quả bóng rổ. Nếu chiếc xe nhỏ kia rẽ nhầm đường, nó nhất định sẽ bị hỏng chảo dầu hoặc trục xe.
Chiếc xe chầm chậm lăn bánh qua, cửa sổ kính màu che giấu người ngồi bên trong. Dylan hạ ánh mắt đến biển đăng ký xe phù phiếm óng ánh với bảy chữ cái màu xanh lơ phát âm thành
MZBHAVN. Nếu điều đấy còn chưa đủ tệ nhấp nháy trên đầu bảng đăng ký như một bảng đèn hiệu đá-tôi-đi là từ “California” được sơn màu đỏ. Dylan hy vọng đến chết đi được là chiếc xe khua một hình chữ U trái luật và lao thẳng ra khỏi thị xã.
Thay vào đấy, chiếc Porsche lướt đến khoảng trống trước chiếc Blazer và tắt máy. Cửa xe bên phía người lái bật mở. Một chiếc giày Tony Lama màu ngọc lam mũi bạc đặt lên vỉa hè và một cánh tay trần mảnh khảnh với ra để nắm lấy cạnh trên của cánh cửa. Ánh sáng lấp lánh phản chiếu trên chiếc đồng hồ vàng ôm quanh một cổ tay thon thả. Sau đó MZBHAVN đứng lên, nhìn thế giới xung quanh giống như cô ta vừa bước ra từ một tạp chí sắc đẹp của phụ nữ chuyên đưa ra những cách làm đẹp.
“Thánh thần thiên địa ơi.” Lewis buột miệng.
Giống như chiếc đồng hồ, ánh nắng mặt trời lung linh như dát vàng trên mái tóc vàng ép thẳng của cô ta. Nhìn từ một bên, mái tóc mượt mà rơi xuống bờ vai cô ta mà không có đến một lọn tóc rối hay xoăn. Đuôi tóc nham nhở như thể chúng đã được cắt bởi một cái cưa của thợ mộc. Một cặp kính râm mắt mèo đen che khuất mắt, nhưng không thể che giấu đường cong lông mày vàng hay làn da mềm mượt của cô ta.
Cánh cửa xe đóng lại và Dylan quan sát MZBHAVN bước về phía anh.
Tuyệt nhiên không thể bỏ qua đôi môi đầy đặn kia. Cái miệng đỏ ướt át của cô ta thu hút sự chú ý của anh như một con ong bị thu hút đến bông hoa rực rỡ nhất trong vườn, và anh tự hỏi cô ta có bơm môi hay không.
Lần cuối cùng Dylan nhìn thấy mẹ của con trai mình, Julie làm như thế, và đôi môi cô ta đã giống như một thứ gì đấy nằm im trên mặt khi cô ấy nói. Thực sự đáng sợ.
Ngay cả nếu anh không nhìn thấy biển số xe California của người phụ nữ này, và giả sử như cô ta đang mặc một cái vỏ bao khoai tây, anh vẫn biết cô ta đến từ một thành phố lớn. Điều ấy thể hiện tất cả trong cách cô ta chuyển động: tiến thẳng, đầy quyết đoán, và vội vã. Những cô nàng ở thành phố lớn luôn ở trong tình trạng vội vã như thế. Cô ta giống như kiểu đang tiến về Rodeo Drive[3] thay vì đến vùng hoang dã của Idaho. Một chiếc áo hai dây bó chặt màu trắng phủ lên những đường cong đầy đặn của bộ ngực và một chiếc quần jeans chặt bó lấy cô ta như thể cô ta là một gói thức ăn được hút chân không.
“Xin lỗi.” Cô ta nói khi đi đến đứng cạnh mui chiếc Blazer. “Tôi đang hy vọng anh có thể giúp
tôi.” Giọng cô ta cũng trơn mượt như tất cả phần còn lại trên người cô ta, nhưng cũng nôn nóng như quỷ.
“Cô bị lạc à, ma’am?.” Lewis hỏi.
Cô ta thở ra một hơi qua đôi môi đỏ đậm mà với sự giám định gần hơn có vẻ hoàn toàn tự nhiên. “Tôi đang tìm đường Timberline.”
Dylan chạm đầu ngón tay trỏ vào vành mũ và đẩy chiếc Stetson lên đường chân tóc. “Cô là bạn của Shelly Aberdeen à?”
“Không.”
“Ồ, bây giờ, không có gì ở Timberline ngoài nhà của Paul và Shelly Aberdeen.” Anh lấy cặp kính râm tráng gương ra và đẩy nó lên sống mũi. Sau đấy anh khoanh tay trước ngực, dồn trọng lượng vào một chân, và hạ ánh mắt xuống chiếc cổ mảnh mai rồi đến bộ ngực đầy đặn, tròn trịa của cô ta và mỉm cười. Rất đẹp.
“Anh chắc không?” Cô ta hỏi.
Anh chắc không? Paul và Shelly đã sống trong chính ngôi nhà ấy kể từ khi họ vừa mới kết hôn, khoảng mười tám năm trước. Anh cười và đưa ánh mắt lên mặt cô ta lần nữa. “Khá chắc. Tôi vừa mới ra khỏi đấy sáng nay, ma’am.”
“Tôi được bảo là số Hai Timberline nằm trên đường Timberline.”
“Cô chắc về điều ấy chứ?” Lewis hỏi khi anh liếc nhìn Dylan qua dàn đèn của chiếc xe.
“Chắc.” Người phụ nữ trả lời. “Tôi lấy chìa khóa từ nhân viên quản lý nhà đất ở Sun Valley, và đấy là địa chỉ anh ta đưa cho tôi.”
Chỉ nhắc đến ngôi nhà ấy thôi cũng đã gợi lên những ký ức hoảng loạn trong đầu mọi người. Dylan đã nghe được rằng cuối cùng ngôi nhà đã được bán cho một tay kinh doanh bất động sản, và rõ ràng công ty đấy đã tìm thấy một kẻ dễ bịp.
“Cô có chắc chắn muốn tìm số Hai Timberline không?” Lewis làm rõ, chuyển sự chú ý đến
người phụ nữ trước mặt anh. “Đấy là nơi ở cũ của Donnelly.”
“Đúng rồi. Tôi thuê nó trong sáu tháng tới.”
Dylan kéo mũ sụp xuống trán. “Không ai sống ở đấy một thời gian rồi.”
“Thật ư? Tay nhân viên quản lý nhà đất chưa bao giờ nói với tôi như thế. Nó đã bị bỏ trống bao lâu rồi?”
Lewis Plummer là một quý ông thực sự, và một trong số ít người trong thị trấn không triệt để nói dối những người đồng bằng. Lewis cũng được sinh ra và lớn lên ở Gospel, nơi những lời nói quanh co được xem là một hình thức nghệ thuật. Anh nhún vai. “Một hoặc hai năm.”
“Ồ, một hoặc hai năm không phải quá tệ nếu ngôi nhà đấy được chăm sóc.”
Chăm sóc, chết tiệt. Lần cuối cùng Dylan ở trong nhà của Donnelly, một lớp bụi dày bao phủ mọi thứ thậm chí cả vết máu trên sàn nhà phòng khách.
MZBHAVN sắp lao vào một cơn sốc dữ dội.
“Có phải tôi chỉ cần đi theo con đường này không?” Cô ta quay lại và chỉ xuống phố Main nơi con phố uốn cong dọc đường rìa tự nhiên của hồ Gospel.
Móng tay cô ta sơn hai màu kiểu Pháp, kiểu mà Dylan luôn nghĩ là gợi tình.
“Đúng thế.” Anh trả lời. Từ đằng sau cặp kính tráng gương, anh lướt ánh mắt từ những đường cong tự nhiên của cặp hông và chiếc đùi thon thả, xuống đôi chân dài và bàn chân của cô ta. Khóe miệng anh nhếch lên, và anh cố gắng để không cười phá lên trước hình con công sơn trên đôi giày ống mũi bọc bạc của cô ta. Anh chưa bao giờ thấy cái gì giống như chúng ở cuộc thi nữ hoàng đua ngựa ở khu vực này. “Tiếp tục lái khoảng bốn dặm cho đến khi cô đến một ngôi nhà trắng to với những bậu cửa sổ trồng hoa dã yên thảo và một xích đu trong vườn.”
“Tôi thích hoa dã yên thảo.”
“Ừ hử. Rẽ vào bên trái ngôi nhà trồng hoa dã yên thảo. Nhà Donnelly ở ngay phía bên kia đường. Cô không thể không nhìn thấy nó đâu.”
“Tôi được kể là ngôi nhà màu xám và nâu. Có đúng không?”
“Ừ, đấy là cách tôi mô tả nó. Anh nghĩ sao, Lewis?”
“Ừm. Nó màu nâu và xám, cũng đúng thôi.”
“Tuyệt. Cám ơn sự giúp đỡ của anh.” Cô ta quay người để đi nhưng câu hỏi tiếp theo của Dylan ngăn cô ta lại.
“Không có gì, cô ...?”
Cô ta nhìn chằm chằm vào anh một lúc lâu trước khi trả lời. “Spencer.”
“Chào mừng đến Gospel, cô Spencer. Tôi là cảnh sát trưởng Taber và đây là phó cảnh sát trưởng Plammer.” Cô ta không nói gì và anh hỏi. “Cô định làm gì ở ngoài đấy, trên đường Timberline?” Dylan biết rằng mọi người đều có quyền riêng tư, nhưng anh cũng biết rằng anh có quyền hỏi.
“Không làm gì.”
“Cô thuê một ngôi nhà trong sáu tháng và cô không định làm gì?”
“Đúng thế. Gospel dường như là một nơi xinh đẹp để nghỉ ngơi.”
Dylan một, hai nghi ngờ về lời nói của cô ta. Phụ nữ lái xe thể thao thời thượng và mặc quần jeans thiết kế nghỉ ngơi ở những nơi “xinh đẹp” với dịch vụ phòng và bể bơi như Club Med, không phải ở vùng hoang dã của Idaho. Khỉ ạ, thứ gần nhất với spa mà Gospel có là bồn tắm nước nóng của Peterman.
“Tay nhân viên quản lý nhà đất có nói đến cựu cảnh sát trưởng Donnelly không?” Lewis hỏi.
“Ai cơ?” Đôi lông mày của cô ta nhíu lại với nhau và chùn xuống dưới gọng kính. Cô ta nóng nảy đập tay ba lần trên đùi trước khi nói. “À, cảm ơn, các quý ông, vì đã giúp.” Sau đấy cô ta quay đi trên đôi bốt thú vị và quay trở lại với chiếc xe thể thao.
“Anh có tin cô ta không?” Lewis muốn biết.
“Rằng cô ta đến đây để nghỉ ngơi?” Dylan nhún vai. Anh không quan tâm cô ta làm gì miễn là cô ta tránh cho xa rắc rối ra.
“Cô ta không giống một khách du lịch.”
Ánh mắt Dylan gắn vào mông cô ta trong chiếc quần jeans bó chặt.
“Không.” Điểm mấu chốt về rắc rối là, nó luôn có cách để thể hiện mình sớm hơn hay muộn hơn. Không có lý do để tìm kiếm nó khi anh có những việc tốt hơn để làm.
“Khiến anh nghi ngờ lý do để một người phụ nữ như cô ta lại thuê ngôi nhà cũ ấy,” Lewis nói khi cô Spencer mở cửa xe và trèo vào trong. “Tôi đã không nhìn thấy ai đấy giống cô ấy lâu rồi. Có lẽ là chưa bao giờ.”
“Anh không ra khỏi Hạt Pearl nhiều.” Dylan trượt vào phía sau vô lăng của chiếc Blazer và đóng cửa. Anh đút chìa khóa vào ổ và quan sát chiếc Porsche lao đi.
“Anh có nhìn thấy đôi giày ống Tony Lama đấy không?” Lewis hỏi khi anh ngồi vào ghế hành khách.
“Không thể bỏ qua đôi giày ống đó.” Khi Lewis đóng cửa, Dylan cho xe chạy và lao khỏi vỉa hè. “Cô ta sẽ không tồn tại đến sáu phút, đừng nói sáu tháng.”
“Anh có muốn cá không?”
“Anh không phải kẻ mê cờ bạc đến thế chứ, Lewis.” Dylan bẻ tay 1ái và tiến ra khỏi thị trấn. “Cô ta sẽ nhìn vào nơi ở cũ của Donnelly một cái và tiếp tục lái đi.”
“Có thể, nhưng tôi có một tờ mười đô la trong ví nói rằng cô ta sẽ kéo dài được một tuần.”
Dylan nghĩ đến cảnh MZBHAVN sải bước về phía anh, với tất cả vẻ bóng mượt và xa xỉ. “Anh được nhận cá rồi đấy anh bạn.”
Chương 2
Lũ Dơi Hút Máu Tấn Công Phụ Nữ Không Đề Phòng
Hope Spencer đóng cửa xe, khoanh tay dưới ngực, và dựa lưng vào chiếc Porsche bạc. Mặt trời chói chang đổ xuống từ bầu trời xanh trong vắt, nung nóng bờ vai trần và mái tóc của cô ngay tức khắc. Không có đến chút dấu hiệu nào của một làn gió chạm vào mặt hay lùa qua chiếc áo hai dây vải thun pha bông đang dính vào da cô. Tiếng vo vo đều đặn của côn trùng hòa điệu cùng tiếng nỉ non của một bài hát đồng quê người-đàn-ông-có-lỗi-với-tôi vọng ra từ ngôi nhà duy nhất bên kia con đường trải sỏi.
Ánh mắt Hope nheo lại và cặp kính Ray Bans của cô trượt xuống sống mũi.
Số Hai Timberline có màu nâu và xám, được thôi, màu nâu ở những nơi lớp sơn xám đã tróc ra.
Ngôi nhà giống như thứ gì đấy chạy ra từ phim Psycho[4] và tuyệt đối không có vẻ gì giống với ‘ngôi nhà mùa hè’ mà cô đã bị gạ gẫm để mong đợi. Đúng là, ‘sân vườn’ gần đây đã được cắt cỏ. Trong chu vi khoảng sáu mét quanh ngôi nhà và một lối đi dẫn xuống bãi biển đã được chặt và phát quang hết cỏ và hoa dại cao đến eo. Từ nơi cô đứng, mặt hồ mang vẻ pha trộn giữa ánh sáng và màu xanh lục sẫm. Ánh mặt trời xung đột với bóng râm và nhảy múa trên những ngọn sóng như những mảnh thiếc trôi nổi trên mặt nước. Một chiếc thuyền câu cá bằng nhôm buộc vào một cái cột màu hung, đang chòng chành với từng nhịp nhấp nhô của những con sóng dịu dàng.
Hope đẩy cặp kính râm lên và chuyển sự chú ý đến dãy núi Sawtooth gồ ghề sừng sững ở sân sau nhà. Khung cảnh giống y như những tấm bưu ảnh về vùng này mà sếp của cô đã đưa cho cô xem. Vẻ đẹp Mỹ. Những cây thông to, cao vút và những đỉnh núi granit vươn thẳng tắp và chạm đến bầu trời vô tận. Cô cho rằng làn gió thơm và tất cả vẻ hùng vĩ của dãy núi gây ra sự kính sợ
trong hầu hết con người. Giống như Chúa đang ban phát lòng nhân từ. Như một trải nghiệm tôn giáo.
Hope tin tưởng những trải nghiệm tôn giáo cũng nhiều như cô tin vào chuyện nhìn thấy Người khổng lồ. Trong phạm vi công việc, cô biết quá nhiều để tin vào những truyền thuyết về những con người hoang dã lông lá, những bức tượng biết khóc hay những người quá khích hay dùng strychnine[5].
Cô không hề tin có người nhìn thấy Sasquatch[6] chạy lăng quăng trong rừng hay những
người tuyên bố rằng họ nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Jesus trong một chiếc bánh ngô.
Khỉ thật, một trong những bài báo thành công nhất của cô, ‘Hộp thiêng pháp điển[7] thất lạc được tìm thấy ở Tam giác quỷ Bermuda’ đã có được một số lượng người đọc khổng lồ và sinh ra thêm hai câu chuyện thành công tương đương nữa là:
‘Vườn Eden[8] được tìm thấy ở Tam giác quỷ Bermuda’ và ‘Elvis[9] được tìm thấy đang sống trong vườn Eden của Tam giác quỷ Bermuda.’
Elvis và tam giác quỷ luôn là một tiếng vang lớn đối với độc giả của cô.
Nhưng khi Hope nhìn vào dãy núi đồ sộ và không gian rộng mở trước cô, cô chỉ cảm thấy nhỏ bé. Tầm thường. Cô đơn. Nỗi cô đơn mà cô nghĩ mình đã vượt qua. Nỗi cô đơn đe dọa sẽ vươn ra khỏi bầu không khí của vùng núi khô ráo và làm cô nghẹn thở nếu cô cho phép nó. Thứ duy nhất giữ cô khỏi cảm giác như người cuối cùng trên hành tinh này là tiếng bập bùng phát cáu của tiếng đàn ghita Hawai phát ra từ chiếc đài của người hàng xóm.
Hope túm lấy chiếc túi Bally từ trong xe và tiến vào lối đi bẩn thỉu gỗ ghề dẫn đến cửa ra vào chính. Sự thận trọng kìm chế từng bước đi của đôi giày ống hiệu Tony Lama. Cô hoàn thành việc xem xét. Rắn sống ở vùng này của đất nước. Rắn chuông.
Tay nhân viên quản lý nhà đất đã đảm bảo với cô rằng rắn chuông sống ở trong núi, và những gì cô nhìn thấy đặt số Hai Timberline đúng ngay vào Vùng Trung Tâm Của Rắn Chuông. Cô tự hỏi có phải Walter đã chủ tâm làm điều này để trả thù cô vì những phiền phức cô gây ra cho anh ta và tờ báo gần đây.
Một lớp bụi mịn bao phủ hiên nhà, và những bậc thềm cũ nát khẽ cọt kẹt bên dưới bàn chân cô, nhưng với sự nhẹ nhõm ghê gớm của cô, tấm gỗ có cảm giác chắc chắn. Nếu cô ngã lao qua hiên nhà, sẽ không ai nhớ đến cô trong vòng ba ngày. Thậm chí không ai nghĩ đến việc tìm cô cho đến khi hạn chót nộp bài của cô đã qua, và có lẽ ngay cả khi đến lúc đấy cũng không.
Không ai trong số CEO, chủ báo hay biên tập viên của cô, Walter Boucher vui vẻ gì lắm với cô tại thời điểm này. Kỳ nghỉ làm việc này là ý tưởng của họ.
Cô đã không viết được cái gì hay ho trong nhiều tháng nay và họ hăm hở thúc giục cô thu nhận thêm một số phong cảnh mới. Nơi nào đấy có thể gây cảm hứng cho những câu chuyện về Người khổng lồ và những bài báo về người ngoài hành tinh. Và tất nhiên, việc này còn là vì
sự thất bại của cả loạt bài Micky - Yêu tinh phù thủy. Họ vẫn còn cằn nhằn về chuyện ấy.
Hope cắm chìa khóa vào nắm đấm cửa, rồi đẩy cửa mở. Cô không biết cái gì đang đợi mình, nhưng không có gì xảy ra. Không có một kẻ thần kinh cầm dao ăn mặc giống như mẹ hắn ta, không có ma quỷ, không có động vật hoang dã làm cô sợ phát khiếp. Không có gì. Chỉ có mùi vị của không khí hôi hám và bụi bặm, mặt trời phía sau lưng cô trải dài trên lối vào và thắp sáng căn phòng phía bên phải cô. Hope tìm thấy một cầu dao điện ngay bên trong cửa trước và bật nó lên. Chiếc đèn trần trên đầu kêu lên một tiếng rồi tỏa ánh sáng mờ mờ xuống những khoảng tối còn lại.
Cô bỏ cặp kính râm vào túi xách, để cửa mở để đề phòng, rồi tiến xa hơn vào trong ngôi nhà. Bên trái cô, một chiếc tủ búp phê nặng nề và một chiếc tủ bát chạm trổ choán cả phòng bếp. Cả hai đều có thể cần đến sự trợ giúp của một lượng dầu chanh và nước tẩy rửa Windex. Một chiếc bàn dài chiếm gần hết không gian, một tờ báo Hunter’s Digest và một bó củi đã bị xô vào một bức tường. Một lớp bụi mịn bao phủ mọi thứ.
Trong khi phòng ăn mang đến ấn tượng một vẻ tao nhã hờ hững, phòng khách ở bên phải cô giống như một cái lều săn bắn: đồ nội thất bằng gỗ và da rườm rà, một chiếc ti vi với ăng ten tai thỏ, một mảnh da gấu treo trên lò sưởi đá. Đứng trên mặt lò sưởi là một con linh miêu nhồi, răng và móng vuốt nhe ra.
Bàn uống nước và những chiếc bàn nhỏ để giữa ghế bành được tạo nên từ gạc nai và mặt kính. Và trên tường, những bộ gạc nai, và hàng tá đầu động vật ấn tượng khác treo trên những giá to được đóng đinh bên trên ván lát chân tường.
Hemingway sẽ thích nó, nhưng Hope nghĩ nó giống như một mối đe dọa đang chờ đợi nạn nhân. Cô có thể tưởng tượng ra việc đi qua căn phòng này vào buổi tối và đâm mình vào đấy.
Tiếng gót giày của cô vang vọng trong ngôi nhà vắng vẻ khi cô tiến vào nhà bếp. Trừ ba năm qua, Hope luôn sống với người nào đấy. Bố mẹ cô, bạn cùng phòng đại học, và sau đấy là chồng cũ của cô. Bây giờ cô đang sống cô đơn, và trong khi cô vẫn thích sống như thế hơn nhiều, lần đầu tiên trong một thời gian dài, cô ước gì cô có một anh chàng to cao vạm vỡ đi trước cô, che chở cho cô trước những thứ chưa biết. Một người đàn ông để cô có thể nép mình và trốn sau lưng. Một người đàn ông có kích thước của vị cảnh sát trưởng cô gặp trước đấy. Hope cao một mét bảy, và vị cảnh sát trưởng ấy dễ phải cao hơn cô mười lăm phân nữa - vai rộng, cơ bắp rắn
chắc và không béo ở một chỗ nào.
Cô bước vào bếp và bật đèn. Thảm trải sàn, mặt quầy bếp và trang thiết bị mọi thứ đều là màu vàng ngoại trừ cái giá để chảo và nồi bằng sắt rèn treo trên bếp. Cô kéo cửa lò vi sóng mở ra và phát hiện một con chuột chết nằm sõng xoài trên chiếc đĩa. Cô từ bỏ, đóng sầm cửa lại, và cô lại nghĩ đến vị cảnh sát trưởng và tác dụng đôi khi cần thiết biết bao của một đàn ông.
Trước khi anh ta đeo kính râm vào, đôi mắt xanh lục sẫm của cảnh sát trưởng Taber đã quan sát cô từ một khuôn mặt thích hợp với màn ảnh bạc hơn là vùng hoang dã của Idaho.
Anh ta không phải một anh chàng xinh trai. Những anh chàng xinh trai đánh mất vẻ ngoài của mình ở tuổi trung niên, và không ai có thể nhầm cảnh sát trưởng với một cậu trai. Anh ta đúng là một người đàn ông, một hình dáng mạnh mẽ với một nụ cười có thể dễ dàng chuyển
một từ không thành có, khiến một cô nàng yếu đuối đứng thẳng hơn một chút, ưỡn ngực ra trước một chút, và muốn giật tóc mình. Hope không xem mình là một cô nàng yếu đuối nhưng ngay cả cô cũng phải thừa nhận rằng cô đã điều chỉnh dáng đứng rất nhiều lần trong suốt cuộc hội thoại ngắn ngủi của họ.
Cô không biết mình mong đợi lực lượng luật pháp trông như thế nào ở phần này của thế giới. Có lẽ giống phó cảnh sát trưởng gầy như cây bút chì kia, hoặc có lẽ giống như Andy Frifhth[10] . Một gã nhà quê vụng về ‘nhút nhát’. Nhưng phía sau đôi mắt xanh lục và nụ cười thoải mái đó là một sự hiểu biết rành rành không bao giờ có thể nhầm lẫn với một gã quê mùa.
Hope đi qua phòng khách dẫn đến cầu thang lên tầng hai. Cô bật công tắc điện ở chân cầu thang, nhưng không có gì xảy ra. Đèn không sáng mà bóng đèn cũng không nổ. Cô đứng nhìn chăm chăm vào bóng tối bí hiểm của tầng hai một lúc, sau đấy cô buộc mình leo lên cầu thang tối tăm, trái tim cô đập thình thịnh trong tai.
Ánh sáng tràn vào hành lang từ bốn trong năm cánh cửa mở, và một mùi thoang thoảng đôi chút quen thuộc từ thời thơ ấu xâm nhập vào bầu không khí nóng, giống như một ký ức đã lãng quên từ lâu. Hope bước đến căn phòng thứ nhất và ngó vào bên trong. Những tấm rèm dày sụ đã khép lại để ngăn ánh sáng từ bên ngoài, nhưng cô có thể nhận thấy hình dáng chiếc giường và bàn trang điểm được phủ vải. Cô có thể thấy đường nét của một cái tủ quần áo cũ, cửa đang để mở. Thứ mùi đó nặng lên, mang theo nó nhận thức về amoniac và hồi ức mang máng về mùa hè năm ‘75 mùa hè đầu tiên và duy nhất cô đã tham gia trại hè Thám hiểm của các cô gái.
Hope với đến công tắc đèn cạnh cửa. Có những vết bẩn trên sàn nhà và vải che phủ giống bùn khô và cô nhận ra chúng là gì một tích tắc trước khi cô nghe thấy tiếng quang quác, tiếng móng vuốt sắc nhọn xoàn xoạt, và tiếng vỗ cánh từ bên trong tủ quần áo.
Hai cái bóng lướt về phía cô, và giống như cô trở lại mười tuổi, đứng ở cửa cabin của Trại hè Piney Mountain, cô há miệng và thét lên. Nhưng không giống cái lần hai mươi lăm năm trước, cô quay quắt người và chạy trối chết. Lần này cô không chờ đến khi bị cánh dơi tát vào má hay những cái móng vuốt cào vào tóc cô.
Cô lao vù vù xuống cầu thang, qua bức tường đầy gạc nai, và ra khỏi cửa trước. Cô vẫn còn la hét khi cô nhảy xuống khỏi hiên nhà, bàn chân tiếp tục chuyển động ngay cả trước khi tiếp đất. Trái tim cô đập nhanh hơn cả đôi giày ống và cô không dừng lại cho đến khi an toàn trốn ở phía bên kia của ô tô. Ngực cô nhức nhối khi cô quỳ đầu gối trên đất bẩn, hít luồng không khí nóng bức vào phổi.
“Ôi Chúa tôi - Ôi Chúa tôi - Ôi Chúa tôi” cô thở hồng hộc và đặt bàn tay lên cổ mình. Cô nhìn thấy những đốm sáng trước mắt cô, và bên dưới những ngón tay cô cảm thấy mạch máu của mình đập với tốc độ báo động.
Hope hít một hơi thở sâu và gục đầu vào giữa đầu gối. Cô sẽ giết cái gã nhân viên quản lý nhà đất kia. Ngay khi cô lấy lại hơi thở, cô sẽ nhảy vào trong xe, lái đến Sun Valley và tàn sát hắn. Cô nghĩ đến khuôn mặt của gã, và cô nghe thấy tiếng cười - tiếng cười thực sự - lần đầu tiên.
Hope ngước mắt lên và liếc sang bên trái để thấy hai cậu bé đang gập đôi người ở đấy. Cả hai đều không mặc áo. Cả hai đều mặc quần soóc ni lông xanh da trời và đi ủng cao bồi nâu. Một đứa đang chỉ vào cô trong khi đứa còn lại đang cứng người như thể nó đang cố gắng không làm ướt quần mình. Chúng đã có một thời gian vui vẻ thực sự trước sự đau khổ của cô. Cô không quan tâm.
Cô thực sự có thể cảm thấy một cái gì đấy đang phình ra trong đầu cô và vượt trên cả cảm giác bẽ mặt.
“Cô cô cô.” Thằng bé chỉ vào cô lắp bắp trước khi ngã sụp xuống đường, cười ngặt nghẽo đến mức đôi vai xương xẩu của nó run bần bật.
Hope nhổm người lên vừa đủ để nhìn về phía ngôi nhà qua đuôi xe. “Các cháu có thấy dơi bay theo sau cô không?” Cô hỏi át tiếng cười chói lọi của chúng. Thằng bé cứng mình lắc đầu.
“Cháu chắc chứ?” Cô đứng lên, rồi phủi bụi đầu gối chiếc quần jeans.
“Chắc.” Thằng bé cười khanh khách và cuối cùng bỏ hai tay xuống hai bên sườn. “Chỉ thấy cô bay ra.”
Cô tìm đôi kính râm trong cái túi không còn ở trên vai. Cô đặt một bàn tay lên lông mày để che mắt và nhìn khắp khoảng sân bẩn thỉu. Không có cái túi Bally. Không kính râm. Không chìa khóa xe. Rõ ràng cô đã để rơi chiếc túi ở bên trong. Có lẽ ở tầng trên. Gần căn phòng có dơi.
“Các cậu bé có muốn kiếm vài đồng không?”
Trước lời đề nghị về tiền bạc, thằng bé nằm trên đất đứng phắt dậy, mặc dù nó không thể kiềm chế nổi tiếng cười của mình. “Bao nhiêu?” Nó cố gắng hỏi.
“Năm đô la.”
“Năm đô la!” Cậu bé đang kìm mình há hốc miệng. “Chia nhau hay mỗi người?” “Mỗi người.”
“Wally, chúng ta có thể mua thêm một bó tên cho những khẩu súng.”
Lần đầu tiên Hope nhìn thấy những khẩu súng màu vàng cam và những mũi tên cao su đồng màu nhét trong thắt lưng quần soóc của hai cậu nhóc.
“Ừ và kẹo nữa.” Wally nói thêm.
“Chúng cháu sẽ làm gì?”
“Vào trong ngôi nhà kia và lấy cái túi của cô.”
Nụ cười của chúng héo đi. “Trong ngôi nhà Donnelly á?”
“Nó bị ma ám đấy.”
Hope quan sát những khuôn mặt đứng trước mình. Cậu bé tên Wally có mái tóc màu đỏ đồng và mặt đầy tàn nhang. Cậu bé kia nhìn cô từ đôi mắt xanh lục to và một khuôn mặt với những lọn tóc xoăn đen ngắn bao quanh. Nó bị mất một cái răng cửa, và một cái mới đang mọc hơi trồi lên. “Ma sống ở trong đấy.” Nó nói.
“Cô không nhìn thấy con ma nào!” Hope trấn an chúng và chuyển ánh mắt của cô đến cánh cửa trước vẫn đang mở rộng. “Chỉ có dơi. Các cháu có sợ dơi không? Cô sẽ hiểu nếu các cháu sợ.”
“Cháu không sợ. Cậu sợ không, Adam?”
“Không hề. Năm ngoái kho thóc của bà mình đã có dơi. Chúng không cắn người.” Có một khoảng lặng trước khi Adam hỏi bạn mình:
“Cậu có sợ ma không?”
“Cậu sợ không?”
“Mình không sợ nếu cậu không sợ.”
“Ừ, mình không sợ nếu cậu không sợ. Và hơn nữa, chúng ta có những cậu bé này.”
Hope chuyển sự chú ý của mình lại với những cậu bé và quan sát chúng nhét những mũi tên cao su vào khẩu súng nhựa. Cá nhân Hope thích một đoàn ma hơn là một con dơi.
Cô liếc từ cậu bé này sang cậu bé khác. “Các cháu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Bảy ạ.”
“Tám ạ.”
“Cậu chưa lên tám tuổi.”
“Gần rồi. Sẽ tám tuổi trong đôi tháng nữa.”
“Các cháu sẽ làm gì với những khẩu súng đồ chơi đó?” Cô hỏi.
“Để tự vệ.” Adam trả lời khi cậu bé liếm đuôi mũi tên.
“Đợi đã cô không nghĩ đấy là một ý hay.” Cô nói, nhưng chẳng có cậu nhóc nào nghe khi chúng đi qua sân. Cô theo chúng đến chân hiên nhà. Cô chưa bao giờ thực sự quanh quẩn với trẻ con, và cô nhận ra rằng có lẽ cô phải xin phép bố mẹ chúng trước khi cô sai chúng đi vào một ngôi nhà đầy dơi. “Có lẽ cô nên nói trước với mẹ cháu trước khi các cháu đi vào trong.”
“Mẹ cháu sẽ không quan tâm đâu.” Wally nói với lại khi hai đứa trèo lên bậc thềm. “Hơn nữa, mẹ đang nói chuyện với dì Genevieve. Chắc phải vài tiếng đồng hồ nữa mẹ cháu mới nói chuyện xong.”
“Không thể gọi điện cho bố cháu. Hôm nay bố cháu đang làm việc ở trên núi.” Adam nói thêm.
“Có thể lũ dơi đã bay đi từ lâu và chiếc túi của cô chỉ ở ngay bên trong cửa.” Hope biện hộ. Các cậu bé có thể không bị tấn công và chết vì bệnh dại. “Nếu các cháu sợ, cứ chạy ra. Đừng để tâm đến cái túi.”
Chúng dừng lại trên ngưỡng cửa mở và quay lại nhìn cô. Wally thì thầm điều gì đó về ma, điều làm chúng hơi giật lùi lại. Sau đấy nó hỏi:
“Chiếc túi của cô trông như thế nào?”
“Da màu ngà với những điểm nhấn bằng da cá sấu màu boóc đô.”
“Gì ạ?”
“Trắng và nâu đỏ.”
Cô khoanh tay và quan sát các cậu bé - súng giương lên - từ từ tiến vào trong nhà. Cô lại đưa một tay lên để che mắt trước ánh mặt trời gay gắt và nhìn thấy chúng di chuyển sang bên trái trước và sau đấy men theo lối đi vào phòng khách. Chúng đi có lẽ được nửa phút trước khi chạy ra, chiếc túi của Hope trong bàn tay rỗi của Adam.
“Nó ở đâu thế?” Cô hỏi.
“Trong căn phòng lớn đầy gạc nai.” Cậu bé đưa cho cô chiếc túi và cô thò tay vào trong để lấy chiếc kính râm. Cô đeo nó vào, sau đó rút ra hai tờ năm đô la từ ví.
“Cám ơn rất nhiều.” Trong phạm vi công việc, Hope đã rút tiền ra đưa cho người giữ cổng, bác sĩ và những chú lùn. Nhưng đây là lần đầu tiên. Cô chưa bao giờ trả tiền công cho sự giúp đỡ của những đứa trẻ. “Các cháu là những cậu bé dũng cảm nhất mà cô biết.” Cô nói khi đưa tiền cho chúng. Đôi mắt chúng sáng lên và nụ cười biến thành đầy vẻ vụ lợi.
“Nếu cô cần bọn cháu làm bất kỳ việc gì khác, chúng cháu sẽ làm.” Wally đảm bảo với cô khi nó nhét súng vào thắt lưng quần soóc.
Sự vội vã của bữa tối chỉ vừa mới chậm lại lúc cảnh sát trưởng Dylan Taber bước vào quán Cà phê góc ấm áp. Lớp giấy màu trên cửa sổ cho phép một người có thể nhìn ra ngoài, nhưng ngoài đường nhìn vào, chúng trông giống như giấy gói bạc. Nếu mặt trời chiếu thẳng vào chúng ngay lúc đấy, chúng có thể đốt một cái lỗ qua giác mạc của bạn.
Trong cái máy hát tự động cạnh cửa ra vào, Loretta Lynn đang hát về nguồn cội Kentucky của mình trong khi Jerome Fernwood gọi lấy một đơn đặt hàng mang đi từ đằng sau lò nướng.
Mùi vị của nước sốt gà rán và cà phê tấn công giác quan của Dylan và làm bụng anh réo sôi sục. Anh cố gắng duy trì những bữa tối bằng đồ ăn nhanh tại nhà ở mức tối thiểu, nhưng hôm nay anh đã mệt mỏi và người đầy bụi bặm.
Điều cuối cùng anh muốn làm là nấu bữa tối, ngay cả với món xúc xích và mỳ ống trộn pho mát, món ăn yêu thích của Adam.
Xong nhiệm vụ, anh muốn ăn, tắm thật kỹ và ngã vào giường. Chuyện tắm táp sẽ dễ dàng hoàn thành, nhưng ngủ nghê phải đợi thêm nhiều giờ nữa. Adam đã chơi một trận bóng chày trong bốn mươi lăm phút, việc này luôn khiến thằng bé căng hết sức như một cuộn dây. Với sự phấn khích của trò chơi, con chó mới và một cái ‘hộp xinh xắn’ Adam đã mua vào buổi chiều
cho bộ sưu tập những hòn đá đặc biệt của nó, Dylan nghi ngờ việc con trai mình có thể buồn ngủ trước mười một giờ.
Khi anh gặp Adam mới vừa rồi, con trai anh đã kể với anh một câu chuyện lạ lùng về dơi, ma và một phụ nữ đi ‘bốt thêu chim’ đã trả cho nó năm đô la để tìm túi cho cô ta. Nếu không phải Dylan đã gặp người đàn bà được nói đến rồi, có thể anh đã không tin câu chuyện của Adam. Adam có xu hướng dựng lên rất nhiều câu chuyện, nhưng ngay cả Adam cũng không thể bịa ra đôi bốt kia.
“Chào, Dylan,” Paris Fernwood nói với ra khi cô hấp tấp lao ra từ phía sau quầy, trên tay đầy những đĩa thức ăn.
“Chào, Paris,” Anh đáp lại và đưa tay lên chiếc mũ Stetson đen. Anh bỏ nó ra và lùa những ngón tay vào tóc. Khi anh đi đến một chiếc ghế trống, anh nói ‘chào’ với rất nhiều người.
“Anh muốn ăn gì, cảnh sát trưởng?” Iona Osborn hỏi từ phía sau quầy.
“Như bình thường.” Anh ngồi xuống một chiếc ghế nhựa đỏ và đặt chiếc mũ lên đầu gối.
Iona vớ lấy một chiếc bút chì giấu trong búi tóc to cỡ mười gallon[11] lưa thưa sợi bạc trên đầu và viết món anh gọi. Sau đó bà kẹp nó vào một giá tròn gắn đơn đặt hàng bằng thép không rỉ. “Hai thịt rán và bơ gơ trộn phơ mát mang đi” bà hét lên, cho dù đầu bếp đứng ngay phía bên kia bức tường ngăn một nửa. “Một đầy đủ, một chỉ có sốt mayo”, bà thêm vào.
Không hề bỏ lỡ một nhịp đảo hay nhìn lên để xem ai đặt món, Jerome nói: “Tôi sẽ làm xong ngay cho anh đây, cảnh sát trưởng.”
“Tôi cám ơn.”
Iona với lấy một cái chậu xám to và bắt đầu dọn sạch những chiếc đĩa và ly bẩn khỏi mặt quầy. “Thế anh có tìm thấy người đồng bằng ấy không?”
Dylan không buồn hỏi làm thế nào mà người bồi bàn biết được công việc của cảnh sát. Ở Gospel, mọi người chỉ là biết mọi chuyện. Iona không chỉ có nét đặc sắc là có mái tóc dày nhất trong thị trấn, bà còn là người buôn chuyện giỏi nhất. Ở Gospel, đấy là một thành tựu kha khá.
“Chúng tôi tìm thấy anh ta ở mặt đông thấp hơn của núi Regan. Anh ta nhìn thấy tuyết và quyết định chơi trò trượt tuyết.” Anh nói và móc một gót giày vào vòng tròn kim loại của chiếc ghế. “Trong chiếc quần soóc và giày tennis.”
Iona bỏ chiếc cốc cuối cùng vào chiếc chậu xám và lấy một chiếc khăn lau bàn. “Người đồng bằng,” bà ấy cau có và lau mặt quầy. “Hầu hết bọn họ dạo chơi trong vùng hoang dã mà không có đến một bộ đồ sơ cứu.” Bà làm việc với một vết bẩn sốt cà chua và đi vào câu hỏi quan trọng. “À anh ta có bị gãy vỡ cái gì không? Melba cược là có một đống thứ gãy vỡ năm nay.”
Tất nhiên, anh biết trò Đánh cược về những người đồng bằng. Anh không tham gia, nhưng anh cho rằng nó gần như là vô hại. “Vỡ mắt cá chân phải và rách vài sợi dây chằng ở đầu gối” anh trả lời. “Cũng là một tình huống tai nạn.”
“Anh nói là mắt cá phải, phải không? Tôi cá là mắt cá phải bị bong gân. Nhưng không nghĩ rằng tôi có thể tuyên bố vỡ mắt cá chân là bong gân.”
“Không, tôi không nghĩ bà có thể” anh nói và quăng mũ lên mặt quầy đã lau sạch.
Cửa trước dẫn đến phòng ăn tối mở làm quả chuông buộc ở nắm đấm cửa reo lên. Loretta ngân lên nốt cuối cùng, một chiếc đĩa bị vỡ ở đâu đấy phía sau, Iona nghiêng người qua quầy và nói trong một tiếng thì thầm to. “Cô ta đã trở lại!”
Dylan nhìn qua vai, và kia là MZBHAVN, đứng gần chiếc máy hát tự động, trông tươi mới như một quả đào. Cô ta đã thay chiếc quần jeans bó chặt sang một chiếc váy ngắn mùa hè với những sợi dây nhỏ, mái tóc buộc lên ở sau đầu và đôi giày ống đã được thay bằng một đôi xăng-đan bệt có dây vắt chéo qua bàn chân.
“Cô ta đã ở đây cả buổi trưa,” Iona thầm thì nói. “Đặt món sa lát bếp trưởng, nước sốt để riêng, và hỏi đủ kiểu câu hỏi.”
“Kiểu câu hỏi gì?” Anh quay lại và nhìn cô Spencer bước qua anh, mắt nhìn thẳng, như thể cô ta không để tâm đến sự chú ý mà mình thu hút được. Qua mùi dầu mỡ nồng nặc và những đĩa thức ăn tối, anh có thể thề rằng anh có thể ngửi thấy mùi hương đào trên da cô ta. Mép váy dập dờn phía sau đùi khi cô ta đi đến một khoang ngồi ở phía sau. Cô ta đi qua chiếc ghế nhựa đỏ mòn vẹt để ngồi vào trong góc và với lấy một tờ thực đơn. Một lọn tóc vàng rơi xuống má, cô ta
giơ một bàn tay lên và nhét nó vào sau tai.
“Cô ta muốn biết mọi thứ trong món sa lát của mình có tươi hay không và hỏi về những người đàn ông sẵn sàng.”
“Những người đàn ông sẵn sàng.” Cơn đói xoắn lại sâu trong bụng Dylan, và lần này anh không chắc nó có liên quan gì đến thức ăn hay không.
“Ừ, những anh chàng trẻ khỏe sẵn sàng dọn sạch ngôi nhà Donnelly. Ít nhất đấy là điều cô ta nói.”
Anh quay lại với Iona. “Và bà không tin cô ta?”
Đôi môi người hầu bàn mím lại với vẻ không tán thành. “Tôi đã gọi cho Ada ở nhà nghỉ, và chắc chắn, cô nàng này đã làm thủ tục thuê phòng ở đấy. Tôi đoán là cô ta đã thực hiện một cuộc gọi đường dài ở hành lang. Ada nói cô ta làm toáng lên, la hét, chửi thề và nói mãi về cỏ dại và bẩn thỉu. Và tôi đoán rằng ngôi nhà ấy có đầy dơi - anh biết thế mà, nhưng cô ta không nói ‘anh biết thế mà.’ Ada nói cô ta có một cái miệng thô tục và tính khí nóng nảy. Ada cũng nói người phụ nữ kia ngay lập tức hỏi về những người đàn ông sẵn sàng, thậm chí trước cả khi mực khô đi trên giấy tờ làm việc của Ada. Cô ta không đeo nhẫn cưới. Vì thế có thể cô ta đã ly dị, và cô ta bảo chúng tôi rằng nếu biết người nào muốn làm việc giúp cô ta, thì cô ta đang ở nhà nghỉ Sandman trong vài ngày. Nghe như cô ta đang tìm cách đào bới mọi chuyện lên lần nữa.”
Điều Dylan cho là một trong những thứ vớ vẩn nhất mà anh từng nghe thấy gần đây, nhưng chuyện này không làm anh ngạc nhiên. Ngay cả sau năm năm, người dân trong thị trấn vẫn còn thích nói về cảnh sát trưởng Donnelly và những việc ông ta đã làm trong ngôi nhà cũ đấy. Những chi tiết ghê tởm về đời sống riêng tư của vị cảnh sát trưởng đã là cú sốc lớn nhất đánh vào thị trấn kể từ vụ động đất năm ‘83. “Nghe như cô ta chỉ cần giúp dọn sạch phân dơi thôi. Không có gì sai với việc ấy cả.”
Iona xô chiếc chậu vào bên dưới quầy, rồi khoanh tay trên bộ ngực đẫy đà.
“Cô ta đến từ California,” bà bồi bàn nói, như thể không cần phải giải thích gì hơn. Dù sao thì bà ta cũng giải thích thêm. “Ada nói rằng khi cô nàng kia ở trong nhà nghỉ, chiếc quần jeans đấy thực sự bó rất chặt. Không thể nhìn thấy đường lằn quần lót nào, vì thế chúng tôi cho rằng
hiển nhiên cô ta đang mặc quần lót lọt khe, và lý do duy nhất để một phụ nữ phải mặc cái thứ không thoải mái đấy là để trình diễn cho đàn ông xem. Mọi người đều biết là không thể tin được gì ở những cô nàng California mà.”
Dylan nhìn qua vai mình và quan sát Paris nhận đặt món của cô nàng tóc vàng, cô Spencer chỉ vào rất nhiều món trên thực đơn và bằng biểu hiện khó chịu của Paris, cô ta rõ ràng là thuộc phe những cô nàng phiền phức. Cô Spencer trông có vẻ nhiều rắc rối, đúng thế, nhưng không phải theo kiểu Iona nghĩ. Dylan nhấc gót giày và đứng lên. “Tôi cho rằng tốt hơn tôi đi hỏi cô ta về cái quần lót,” anh nói. “Không thể có một phụ nữ đi loanh quanh trong một chiếc quần lót lọt khe mà tôi không biết được.”
“Cảnh sát trưởng, anh thật hư đốn.” Iona cười khúc khích như một thiếu nữ khi anh bước đi trên tấm thảm lót sàn đến khoang ngồi ở phía sau.
Khi cô Spencer không nhìn lên anh nói, “Này, xin chào nghe nói cô đã có một ngày vất vả.”
Khi ấy cô ta mới ngước lên nhìn anh bằng đôi mắt xanh lơ trong nhất mà anh từng nhìn thấy. Màu xanh của hồ Sawtooth. Trong đến mức anh có thể nhìn thấy đáy.
“Anh đã nghe về phiền phức của tôi?”
“Tôi đã nghe về mấy con dơi của cô.”
“Tôi đoán là tin lành đồn xa.”
Cô ta không hỏi anh có muốn ngồi xuống hay không, và anh cũng không đợi một lời mời. Anh ngồi vào chiếc ghế đối diện.
“Con trai tôi là một trong những cậu bé cô trả tiền để lấy túi.”
Ánh mắt cô lướt qua mặt anh và nói “Vậy Adam chắc hẳn là con của anh.” “Phải, ma’am.” Anh ngả lưng vào chiếc ghế dài và khoanh tay trước ngực.
Biểu hiện của cô ta không cho thấy điều gì. Kín bưng hoàn toàn, người phụ nữ này đang rất bình tĩnh.
“Tôi hy vọng anh không thấy phiền vì tôi thuê con trai anh.”
“Tôi không phiền gì, nhưng tôi nghĩ cô đã trả cho các cậu bé quá nhiều chỉ để lấy túi cho cô.” Anh làm cô ta hồi hộp nhưng điều ấy cũng không thực sự nói với anh điều gì. Phù hiệu của anh hầu như làm người khác hồi hộp. Có thể điều ấy có nghĩa là cô ta đã không thanh toán phí đỗ xe và không gì nữa. Nó cũng có thể là cô ta đang che giấu điều gì đấy, nhưng miễn là cô ta tránh xa khỏi rắc rối, cô ta có thể giữ được bí mật của mình. Chết tiệt, anh hiểu về những bí mật. Anh cũng có một bí mật lớn của riêng mình. “Tôi cũng nghe nói rằng cô đang tìm thuê mấy anh chàng trẻ tuổi để dọn dẹp ngôi nhà đấy.”
“Tôi không xác định tuổi. Thành thật mà nói, tôi hoan nghênh cụ của anh nếu ông ấy có thể giết lũ dơi chết tiệt đấy cho tôi.”
Dylan duỗi chân và chân anh chạm vào chân cô ta. Anh vượt qua giới hạn khoảng không riêng của cô ta, và như anh dự đoán, cô ta ngay lập rút chân lại và ngồi hơi thẳng hơn. Anh thậm chí không buồn giấu nụ cười của mình. “Dơi sẽ không cắn cô, cô Spencer.”
“Tôi sẽ ghi nhận lời nói của anh về việc đấy, cảnh sát trưởng” cô nói, sau đấy liếc nhìn lên khi Paris đặt một ly trà chanh và một đĩa chanh cắt lát nhỏ trên bàn.
“Chúng không thể tươi hơn như thế này.” Đôi lông mày đậm của Paris kéo xuống che đôi mắt nâu. “Tôi vừa mới cắt chúng.”
Khóe miệng của cô Spencer nhếch lên thành một nụ cười rất không thành thật. “Cám ơn.”
Dylan đã lớn lên cùng với Paris. Đã cùng chơi Red Rover[12] và kickball[13] với cô ở trường phổ thông, học cùng với cô gần hết các lớp trong trường trung học, và nghe bài phát biểu chia tay của cô trong đêm tốt nghiệp. Anh có thể nói rằng anh hiểu cô rất rõ. Cô thường tỏ ra vui vẻ dễ chịu, nhưng bằng cách nào đó, MZBHAVN đã làm Paris phát cáu.
“Cô Spencer đây là thành viên mới nhất của chúng ta,” anh nói. “Có vẻ như cô ấy sẽ ở lại trong ngôi nhà Donnelly.”
“Tôi cũng nghe thế.”
Lớn lên, anh luôn có cảm giác đôi chút thương hại Paris, và anh luôn cố gắng đối xử với cô
thật tử tế. Cô có một mái tóc dài, đẹp mà thường được búi thành một búi. Nhút nhát, cô thường không nói nhiều, và trong khi một người đàn ông thỉnh thoảng có thể đánh giá cao tính cách đấy ở một người phụ nữ, cô lại không may mắn vì có dáng người giống như bố mình - Jerome: cao, to xương với bàn tay như đàn ông. Một gã đàn ông có thể bỏ qua rất nhiều điểm thiếu sót về vẻ ngoài ở một người phụ nữ. Một cái mũi to và một đôi vai rộng của một hậu vệ là một chuyện, nhưng bàn tay to và những ngón tay gân guốc lại là thứ mà một người đàn ông không thể lờ đi. Họ xếp những thứ đó cùng với một người có ria mép. Chỉ là một gã không thể bắt mình phấn khích khi hôn một cô nàng có râu ria, và hoàn toàn không có cách nào để hắn muốn nhìn xuống và thấy những bàn-tay-đàn-ông với đến cái quần Johnson của mình.
“Anh có muốn dùng gì trong khi đang đợi được không, Dylan?” cô hỏi.
“Không, cám ơn cưng. Anh chắc rằng đồ ăn của anh cũng sắp xong rồi.” Và việc mẹ Paris chỉ hơi nữ tính hơn bố cô một chút có thể cũng không có tác dụng gì.
Paris mỉm cười và đan tay trước bụng. “Anh có thích bánh mứt mâm xôi em mang qua hôm trước không?”
Dylan ghét bất kỳ loại quả nào có những hạt nhỏ giắt vào răng anh. Adam vừa nhìn thấy chiếc bánh đã tuyên bố là nó đỏ như máu, và họ đã vứt nó đi.
“Adam và anh ăn nó với kem,” anh nói dối để khiến cô vui.
“Ngày mai em nghỉ làm và em sẽ làm vài cái bánh Amish. Em sẽ mang đến một cái.” “Thế thì thật tuyệt, Paris.”
Mắt cô sáng lên. “Em đang chuẩn bị sẵn sàng cho hội chợ tháng tới.”
“Em định thắng vài cái nơ xanh năm nay à?”
“Tất nhiên.”
“Paris đây,” anh nói, tập trung nhìn vào cô Spencer, “đoạt được số nơ xanh nhiều hơn bất kỳ phụ nữ nào trong hạt này.”
Cô Spencer nâng ly trà lên môi. “Ồ, thật đáng nể,” cô lẩm bẩm trước khi uống một ngụm. Lông mày Paris hạ xuống lần nữa. “Tôi phải nhận gọi món tiếp rồi,” cô nói và quay đi.
Dylan nghiêng đầu sang một bên và cười khoái trá. “Cô ở trong thị trấn chưa được hai mươi tư giờ, và tôi thấy cô đã kết bạn được rồi.”
“Thị trấn này không hẳn là đã cử một Chiếc xe ngựa chào mừng.” Cô đặt ly xuống bàn và liếm khóe miệng. “Tất nhiên, có lẽ nó đã đến nhưng tôi không ở nhà. Tôi đang đứng ở hành lang của nhà nghỉ Sandman và bị hành hạ bởi một phụ nữ trong những cái lô cuốn tóc.”
“Ada Dover à? Bà ấy làm gì?”
Cô Spencer ngả người ra sau và thả lỏng một chút. “Bà ta thực sự cần đến toàn bộ lịch sử của gia đình tôi chỉ để cho tôi thuê một căn phòng. Bà ta muốn biết tôi có phạm phải tội ác gì không. Và khi tôi hỏi bà ta có cần mẫu nước tiểu hay không, bà ta nói với tôi rằng tôi có thể không quá xấu tính như thế nếu chiếc quần jeans của tôi không quá chặt.”
Dylan nhớ chiếc quần jeans đó. Nó bó chặt, thì đúng thế nhưng rất nhiều phụ nữ trong thị trấn mặc quần jeans cao bồi Wrangler chỉ nhìn thôi đã thấy cực kỳ đau đớn. “Chuyện ấy có thể không phải vì cá nhân đâu. Ada thỉnh thoảng rất nghiêm túc trong công việc của mình. Cứ như là bà ấy đang cho thuê phòng ở Nhà Trắng ý.”
“Hy vọng chiều mai tôi sẽ ra khỏi đấy.”
Ánh mắt anh hạ xuống đôi môi đầy đặn của cô ta, và trong một phút ngắn ngủi anh cho phép mình tự hỏi liệu cô ta có vị ngon lành như cô ta trông như thế hay không. Anh tự hỏi ăn lớp son bóng láng đó từ miệng và vùi mũi anh vào tóc cô ta sẽ có cảm giác như thế nào. “Cô vẫn định ở lại trọn sáu tháng à?”
“Tất nhiên.”
Anh vẫn nghi ngờ việc cô ta có thể kéo dài nhiều hơn vài ngày, nhưng nếu cô ta định ở lại, anh cho rằng anh nên cho cô ta biết cô ta đang mắc vào cái gì.
“Vậy để tôi cho cô vài lời khuyên mà tôi chắc chắn rằng cô không muốn, và tôi cũng chắc
chắn rằng cô sẽ không nghe theo.” Anh ngước mắt lên và đặt dấu chấm hết cho sự lang thang của đầu óc trước khi anh tự làm mình bẽ mặt. “Đây không phải là California. Mọi người ở đây không quan tâm cô đến từ Westwood hay South Central. Họ không quan tâm cô sở hữu một chiếc xe Merscedes hay một cái Buick cũ rích, và họ không quan tâm về việc cô đi mua sắm ở đâu. Nếu cô muốn xem một bộ phim, cô phải lái xe đến Sun Vaney, và trừ phi cô có chảo vệ tinh, cô chỉ có bốn kênh truyền hình.
“Chúng tôi có hai cửa hàng tạp phẩm, ba nhà ga và hai nhà hàng. Cô đang ngồi trong một cái. Cái kia ở cuối phố, nhưng tôi khuyên cô không ăn ở Spuds & Suds. Năm ngoái họ đã bị đóng cửa hai lần vì vi phạm quy định về bảo vệ sức khỏe. Chúng tôi có hai nhà thờ khác nhau và một câu lạc bộ Bốn - H lớn. Gospel cũng có năm quán bar và năm cửa hàng bán súng-và-dụng-cụ. Giờ thì, những gì tôi nói cho cô thấy vài điều chứ.”
Cô lấy ly trà và đưa nó lên môi. “Điều gì, rằng tôi đã chuyển đến một thị trấn của những người Bốn - H nghiện rượu, vận chuyển súng và nhút nhát à?”
“Ối, trời,” anh nói trong lúc lắc đầu. “Đấy là điều tôi sợ. Cô sẽ gây phiền phức thôi, đúng không?”
“Tôi sao?” Cô đặt cái ly xuống và hồn nhiên đặt một bàn tay lên ngực. “Tôi thề với Chúa, anh thậm chí sẽ không biết tôi ở trong thị trấn.”
“Không hiểu vì sao tôi lại nghi ngờ điều ấy.” Anh đứng lên và nhìn xuống cô. “Nếu cô cần giúp đỡ với ngôi nhà Donnelly đó, hãy hỏi các cậu bé nhà Aberdeen. Chúng sắp tròn mười tám tuổi và không làm việc gì trong mùa hè này. Chúng sống ngay đối diện với cô, bên kia đường Timbelline, nhưng hãy hỏi chúng trước buổi trưa nếu không chúng sẽ ra hồ chơi.”
Hope ngước lên nhìn người đàn ông đang đứng cao hơn mình, nhìn vào đôi mắt xanh lục sâu thẳm và lọn tóc nâu rơi xuống trán anh ta thành một đường cong. Ánh sáng từ những cửa sổ làm ánh lên những sợi tóc vàng mà Hope sẽ cá bằng chiếc Porsche là màu vàng ấy là do ánh mặt trời chiếu lên chứ không phải do nhuộm. Quá tệ là anh ta không có khiếu hài hước, nhưng cô cho rằng với một người đàn ông giống như cảnh sát trưởng đây, khiếu hài hước là không cần thiết. “Cám ơn.”
Anh ta mỉm cười và lần đầu tiên cô chú ý rằng trong khi anh ta chắc chắn có thể được phân
vai trong một bộ phim Miền tây có kinh phí lớn, hàm răng anh ta không thẳng như những ngôi sao điện ảnh. Chúng đủ trắng, ừ, nhưng hơi chen lẫn nhau ở hàm dưới. “Và chúc may mắn, cô Spencer,” anh ta rề rà nói.
Cô đoán rằng ý của anh ta là cô cần may mắn để tìm được người đảm đương vấn đề về dơi và cô hy vọng mình không cần viện đến may mắn. Anh ta tiến ra phòng ăn ở phía trước và ánh mắt cô đi theo.
Chiếc áo sơ mi nâu vừa vặn ôm vào lưng và nhét bên trong chiếc quần nâu vàng với một sọc nâu chạy xuống hai bên chân. Chiếc quần đấy lẽ ra phải trông như một cơn ác mộng của thời trang, nhưng khi ở trên người anh ta nó dường như nhấn mạnh chế độ ăn uống chặt chẽ và đôi chân dài của anh ta. Anh ta có một khẩu súng lục treo ở hông, một đôi còng tay, và vô số những túi và hộp đạn da móc vào chiếc thắt lưng công vụ.
Ngay cả với tất cả những thứ đồ da và vũ khí đó, anh ta vẫn có thể di chuyển với phong thái thoải mái của một người đàn ông không vội vã đi đâu khác ngoại trừ nơi anh ta ngẫu nhiên đang ở. Anh ta toát lên vẻ tự tin và quyền lực của một người đàn ông có thể tự chăm sóc mình và người đàn bà nhỏ bé trong cuộc đời anh ta. Một món cocktail đầy nam tính mà vài phụ nữ có thể cảm thấy không thể cưỡng nổi. Không phải Hope.
Cô quan sát anh ta với lấy chiếc mũ cao bồi trên quầy với động tác uyển chuyển như khi anh ta cào tay vào tóc. Anh ta hất cái mũ lên đầu và nói chuyện với bà bồi bàn lớn tuổi hơn ở cạnh quầy thu tiền. Người đàn bà với mái tóc to bự chảng cười khúc khích như một cô gái, và Hope liếc mắt đi chỗ khác. Đã từng có thời gian trong cuộc đời mình, khi cô có lẽ cũng tan chảy một chút chỉ với nụ cười hơi không hoàn hảo của anh ta. Không còn nữa.
Cô nhìn cảnh sát trưởng một lần nữa và quan sát cô bồi bàn thô lỗ với bím tóc dài đưa cho anh ta một túi giấy. Phần nhà báo trong bộ óc của cô khuấy động với những câu hỏi. Cô chú ý đến sự vắng mặt của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay của người đàn ông, không phải điều ấy có ý nghĩa quái quỷ gì, nhưng qua cuộc trò chuyện của anh ta với cô bồi bàn, Hope đoán là anh ta chưa kết hôn. Cô cũng có thể đánh bạo một dự đoán khá chắc chắn rằng cô bồi bàn này có ý với vị cảnh sát trưởng tốt bụng. Hope tự hỏi có phải họ có quan hệ hay không, nhưng cô nghi ngờ điều đó. Với chỉ vài phút mà cô quan sát họ, bất kỳ một cảm giác nào trên mức tình bạn dường như hoàn toàn là xuất phát từ một phía và khá lâm ly. Nếu cô hầu bàn tử tế hơn với Hope, cô có thể đã cảm thấy thương cho cô ta. Nhưng cô hầu bàn thì không hề tốt bụng, và Hope vốn đã có
vấnđềcủariêngmình.
Chương 3
Còi Báo Động Ôtô Tài Tình Thôi Miên Cộng Đồng
Chiếc ghế cứng trong phòng nghỉ khiến mông Hope muốn ngủ. Cô đứng lên, duỗi cánh tay trên đầu và ngáp. Mắt cô mờ đi vì dính chặt vào màn hình máy tính xách tay trống không và cô dụi nó bằng góc bàn tay. Không có gì.
Trong ba giờ cô đã ngồi trong chiếc ghế kia, căng đôi mắt gai gai của mình và sục sạo bộ não mệt mỏi cho thứ gì đấy để lấp đầy màn hình. Bất kể thứ gì.
Nhưng màn hình vẫn trống không. Cô không có được một ý tưởng nào. Cô không viết được đến cả một câu, ngay cả một câu dở ẹc để cô có thể phát triển thành một thứ gì đấy tốt hơn.
Hope thả tay xuống và quay đi khỏi chiếc máy tính. Cô thả người xuống giường và nhìn chằm chằm vào trần nhà. Nếu cô ở nhà, cô chắc chắn đang lau dọn cái phòng tắm sạch bong của mình, là áo phông hoặc giũ sạch đệm. Nếu cô có bộ sửa móng tay, cô sẽ tự sửa móng cho mình. Cô làm việc ấy rất giỏi, thỉnh thoảng cô tự hỏi có nên từ bỏ việc viết lách và làm nghề sửa móng để kiếm sống hay không.
Sửa móng cho mình chỉ là một trong rất nhiều sáng kiến cô thực hiện để tiêu-tốn-thời-gian nhằm tránh hiện thực của một cái màn hình trống.
Một trong rất nhiều mánh khóe giết-thời-gian cô thường dùng để tránh thực tế cuộc sống của mình. Thực tế đau đớn rằng cô không có ai. Không có ai để trò chuyện khi đêm trở nên cô đơn. Không có ai nắm tay cô và nói với cô rằng cô ổn cả.
Mẹ cô đã chết trong mùa thu, và cha cô đã tái hôn trong mùa xuân. Ông ấy chuyển đến Sun City của Arizona với người vợ mới để ở gần gia đình bà ấy. Ông ấy gọi điện. Hope gọi điện. Nhưng không giống như xưa. Người anh duy nhất của cô - Evan đã đóng quân ở Đức. Cô viết thư. Anh ấy viết thư. Nhưng chuyện đấy cũng không còn như xưa. Cô từng có một người chồng. Trong bảy năm cô sống một cuộc sống tươi đẹp trong một ngôi nhà xinh xắn ở Brentwood, tham dự những bữa tiệc sang trọng và chơi tennis. Blaine - chồng cô là một bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ tài năng, đẹp trai, hài hước, và cô yêu anh ta tha thiết. Cô sống an lành, vui vẻ.
Đêm cuối cùng họ ở cùng nhau, anh ta làm tình với cô như thể cô là người vợ trong trái tim anh ta. Ngày hôm sau, anh ta đưa cho cô đơn ly dị. Anh ta nói với cô rằng anh ta cực kỳ hối lỗi, nhưng anh ta đã yêu người bạn thân nhất của cô, Jill Ellis. Hai người họ không muốn làm tổn thương Hope, nhưng họ có thể làm gì chứ? Họ yêu nhau, và tất nhiên, Jill đã có thai năm tháng, cho anh ta thứ mà Hope không thể.
Hope không còn chồng, không bạn bè, không con cái. Nhưng cô có sự nghiệp, và trong khi đấy không hẳn là cách cô hình dung về cuộc đời mình, sự nghiệp của cô cũng không quá tệ. Ít nhất cho đến khi cô đụng phải một bức tường ngăn cản.
Trong ba năm, cô đã quay lưng lại với quá khứ, từ chối nhìn nhận chiều sâu nỗi đau ngay cả với chính mình. Cô phớt lờ những đổ vỡ trong cuộc đời mình và bận rộn với công việc. Lúc đầu, cô làm nhà báo tự do cho những tạp chí như Woman’s World và Cosmopotitan, và cô cũng viết vài bài phóng sự tự do cho tờ Star và The National Enquirer. Cô làm việc như thế trong một năm, nhưng cô không thực sự thích thú với việc lén lút săm soi cuộc sống của những người nổi tiếng, và hơn nữa, cô cũng đã làm việc đấy vì những lý do sai lầm.
Cô bỏ hoàn toàn nghề săn tin và trở thành nhà báo chính thức cho tờ Tin tức Vũ trụ Hàng tuần, một trong những tờ báo lá cải đen-trắng tuyên bố rằng Elvis vẫn còn sống và đang ở trên Sao hỏa. Không còn tin đồn hay những vụ bê bối. Bây giờ cô viết những câu chuyện hư cấu. Dưới bút danh là Madilyn Wright, cô là nhà báo nổi tiếng nhất của tờ báo, và cô thích việc này. Cho đến hai tháng trước, lúc này hình như cô đã đụng phải một bức tường vô hình. Cô không thể phớt lờ nó, không thể vượt qua nó và không thể tìm ra cách chung sống với nó. Cô đang bế tắc. Cô dường như không thể lẩn trốn nó hay đi lạc vào trong những câu chuyện kỳ lạ cô sáng tạo ra trong đầu. Cô đã không thể viết được một câu tử tế trong thời gian này. Hope biết rằng một bác sỹ tâm thần có thể nói với cô đã có chuyện gì sai xảy ra với cô, nhưng cô cũng biết rằng cô đã hiểu. Tay biên tập của cô đã trở nên cực kỳ lo lắng và đã gợi ý Hope nghỉ ngơi. Không phải vì hắn là một gã tử tế, mà bởi vì cô khiến hắn trông có vẻ tử tế. Cô cũng đã làm ra rất nhiều tiền cho tờ báo, và họ muốn tay phóng viên nổi tiếng nhất của họ trở lại, dấy sóng với những chuyện kỳ lạ và bất thường.
Walter thậm chí đã đi xa đến mức chọn điểm đến cho kỳ nghỉ của cô, và tờ báo đã trả sáu tháng tiền thuê nhà. Walter nói với cô rằng hắn chọn Gospel của Idaho là vì không khí trong lành. Đấy là điều hắn nói, nhưng hắn không thể lừa phỉnh được ai. Hắn ta chọn Gospel vì nó giống như nơi mà Người khổng lồ thường lang thang. Nơi dân tình thường xuyên bị người
ngoài hành tinh bắt cóc, và nơi những giáo phái kỳ lạ nhảy múa trần truồng dưới mặt trăng tròn.
Hope ngồi xuống mép giường và thở dài. Cô đồng ý với kế hoạch của Walter vì cô nhận ra rằng cuộc đời cô đã trở nên tù túng, một lối mòn mà cô không còn hứng thú sống trong đấy nữa. Cô cần một trình tự mới. Cô cần thoát khỏi L.A một thời gian. Nghỉ ngơi một chút, tất nhiên, và đặt toàn bộ sự thất bại của loạt bài Micky - yêu tinh phù thủy lại sau lưng. Cô cần dọn sạch thất bại ấy ra khỏi đầu. Cô uể oải đứng lên, thay một chiếc quần soóc vải flannen và một chiếc áo phông hình Hành tinh Hollywood, sau đó trở lại chỗ ngồi trước máy tính. Cô nhìn chằm chằm vào con trỏ nhấp nháy, những ngón tay đặt trên bàn phím. Im lặng bao trùm cô, nặng nề và trọn vẹn, và trước khi cô nhận ra, ánh mắt cô hạ xuống tấm thảm sần sùi xấu xí dưới chân. Không nghi ngờ gì nó là tấm thảm gớm guốc nhất mà cô từng thấy, và cô dành mười lăm phút cố gắng quyết định xem màu sắc trước đây của nó là màu gì để có thể chuyển thành màu như thế, hay là do người khách trước đã làm rơi vài miếng pizza. Đúng khi cô kết luận rằng tấm thảm trông giống như bị bôi bẩn bởi màu đỏ đậm, cô phát hiện ra sự lãng đãng của mình và buộc sự chú ý quay lại với màn hình.
Cô nhìn chằm chằm như một con rắn mang bành bị thôi miên, đếm số lần nhấp nháy của con trỏ. Hope đếm được đến hai trăm bốn bảy lần thì một tiếng rú xé toạc màn đêm tĩnh lặng và dựng cô dậy. “Vì tình yêu với Chúa,” cô há hốc miệng, trái tim cô mắc trong cổ họng. Sau đấy cô nhận ra đấy là tiếng còi báo động Viper và lục tìm trong đáy túi chiếc điều khiển từ xa gắn với chùm chìa khóa. Cô xỏ đôi xăng-đan vào rồi chạy ra ngoài, len lỏi qua bãi đỗ xe nhỏ đầy những chiếc xe bán tải, xe tải nhỏ và những chiếc xe tải hạng nhẹ bụi bặm trên nóc buộc xuồng kayak.
Người quản lý của Sandman đứng gần mui xe Porsche của Hope. Những lô cuốn tóc của bà ta vẫn nằm trên tóc. Và đôi mắt của bà ta nhíu lại thành một cái cau mày sâu khi bà ta quan sát Hope đi đến. Vài người khách nhìn ra từ cửa sổ hoặc đứng trong ngưỡng cửa phòng. Hoàng hôn đã trùm xuống Gospel, phủ những bóng tối trên khắp mặt đất gồ ghề. Thị trấn này mang vẻ thư thái và dễ chịu, ngoài trừ sáu loại âm thanh của cái chuông báo động hiệu Viper xuyên vào bầu không gian yên bình. Hope hướng chiếc điều khiển từ xa vào chiếc xe và tắt chuông báo động.
“Bà có thấy ai cố gắng đột nhập vào xe của tôi không?” cô hỏi khi đi đến trước mặt Ada Dover.
“Tôi không nhìn thấy gì hết.” Ada chống hai tay lên hông và ngả đầu ra sau để nhìn vào Hope. “Nhưng tôi suýt nữa hóc một cái xương gà khi cái thứ kia rú lên.”
“Có thể có người chạm vào cán cửa hoặc cửa sổ.”
“Tôi tưởng nó là chuông báo động ở siêu thị M&S, vì thế tôi gọi cho Stanley và nói với ông ta có người đang cố gắng đột nhập vào cửa hàng và bảo ông ta đến đây huckuty buck[14].”
“Ồ tuyệt,” Hope rên rỉ.
“Nhưng ông ta nói rằng ông ta không có chuông báo động nào cả. Chỉ là những đồ làm cảnh và để mọi người nghĩ là ông ta có.”
Hope không biết Stanley, nhưng cô nghi ngờ việc ông ta muốn lan truyền khắp thị trấn những chuyện như là cửa hàng của ông ta thiếu biện pháp an ninh.
“Tôi vừa định gọi cho cảnh sát trưởng đến giải quyết,” Ada nói tiếp, “Nhưng quyết định tìm ra nơi phát ra những tiếng ầm ĩ này trước.”
Điều cuối cùng Hope cần là cảnh sát trưởng bị kéo đến Sandman này, nhất là sau khi cô đã đảm bảo với anh ta rằng anh ta thậm chí sẽ không biết cô đang ở trong thị trấn. “Nhưng cô không gọi, đúng không?” Ở L.A, không ai gọi cảnh sát vì một cái chuông báo động ô tô. Vào một ngày nhất định, có được một cơ hội tốt nghĩa là thoát được khỏi một bãi đỗ xe ở đâu đấy. Một cơ hội tốt khác nữa là cảnh sát lái xe qua mà không buồn dừng lại. Những con người này không biết gì về những thứ như thế hay sao.
“Chưa, và tôi mừng là mình chưa làm. Tôi sẽ cảm thấy ngu ngốc thực sự. Và rồi, tôi suýt nữa thì chết vì cái xương gà đó.”
Hope nhìn chằm chằm vào người phụ nữ thấp hơn trước mặt cô. Màn đêm nhanh chóng rơi xuống và cô không thể nhìn thấy nhiều hơn ngoài đường viền của những cái lô trên đầu bà ta. Làn không khí lạnh làm lông trên cánh tay Hope dựng lên, và cô biết cô nên cảm thấy ái ngại một chút vì cái chuông Viper của cô đã làm Ada Dover bị hóc, nhưng nói một cách thành thật, kẻ ngốc nào lại nhai một cái xương gà cơ chứ? “Tôi xin lỗi vì bà suýt chết,” cô nói, mặc dù cô chân thành nghi ngờ việc người phụ nữ này đã đến gần với cái chết. Cô liếc qua vai và nhẹ nhõm khi thấy những người khách của nhà nghỉ đã quay lại phòng và kéo rèm lại. “Thứ đó sẽ
không rú lên lần nữa, đúng không?”
“Không,” Hope trả lời và quay sự chú ý 1ại với người chủ nhà nghỉ.
“Tốt, bởi vì tôi không thể để cái thứ đó gào thét và đánh thức những người khách khác suốt đêm. Những người này trả nhiều tiền để có một đêm nghỉ ngơi yên tĩnh, và chúng ta nhất quyết không thể để cái thứ đó rú ầm lên được.”
“Tôi hứa là nó không kêu nữa,” Hope nói, ngón tay cái của cô ngứa ngáy muốn khởi động còi báo động. Cô quay người để đi, với lời càu nhàu tạm biệt của Ada Dover với theo. “Nếu nó kêu, cô sẽ phải rời khỏi đây, huckuty buck.”
Người phụ nữ này đã đẩy Hope vào tình cảnh khó khăn và bà ta biết điều ấy. Cô rất mong được nói với bà ta rằng đi mà hôn cái huckuty buck của bà ta, cho dù cái thứ quái quỷ đấy có nghĩa là gì, nhưng dù có một khách sạn khác trong thị trấn và Hope chắc rằng nó cũng đã kín
người như nhà nghỉ Sandman. Vì thế cô ngậm miệng lại khi đi về phòng và đóng cửa lại. Cô vứt chìa khóa vào túi và quay lại chỗ ngồi trước máy tính.
Đan những ngón tay vào nhau trên đỉnh đầu, cô cúi người xuống trong chiếc ghế đang ngồi. Đêm hôm trước, cô ở Doubletree của thành phố Salt Lake. Cô nhớ rõ ràng đã bước đi trong một khách sạn bình thường và xinh đẹp buổi sáng hôm ấy, nhưng ở thời điểm nào đấy, cô chắc hẳn đã lao vào vùng mông muội nơi có những phụ nữ ăn xương gà.
Một nụ cười chậm rãi cong lên trên miệng cô, bàn tay cô rơi xuống bàn phím, và cô viết:
Người Phụ Nữ Mất Trí
Chết Nghẹn Vì Xương Gà
Trong một buổi tiệc long trọng, người mê gà đến kỳ lạ Dodia Adams ...
Sáng hôm sau, Hope thức dậy sớm, cô tắm nhanh và mặc một chiếc quần jeans và một chiếc áo hai dây màu đen.
Trong khi chờ tóc khô, cô đi bốt, sau đấy cắm đường dây điện thoại vào cạnh máy tính xách tay và gửi câu chuyện về chiếc xương gà đi. Nó không phải là chuyện về Người khổng lồ, nhưng nó cũng hay đủ để được in trong số tuần tới. Quan trọng nhất là, cô lại đang viết. Cô không quên được việc phải cảm ơn Ada Dover về chuyện này, và sự châm biếm đó khiến cô mỉm cười. Sau khi buộc tóc theo kiểu đuôi gà, cô lái xe qua ba khu nhà đến siêu thị M&S. Cô mới ngủ được tổng cộng bốn tiếng đồng hồ, nhưng cảm thấy khỏe khoắn hơn hẳn trong một thời gian dài. Cô lại đang làm việc, và cảm thấy thật tốt. Cô thậm chí không muốn nghĩ đến khả năng rằng có lẽ đấy là một điều may mắn, và tối nay có thể cô lại đối mặt với một cái màn hình máy tính trống không trong nhiều giờ.
Điều đầu tiên cô chú ý khi bước vào M&S là bộ gạc nai đằng sau quầy thu ngân trước mặt. Nó to đùng và được đóng trên một tấm bảng bóng loáng. Điều thứ hai là mùi lẫn lộn của thịt sống và bìa các tông. Từ đâu đó ở phía sau, cô nghe thấy tiếng đài đang phát một kênh quốc gia và âm thanh nặng nề nghe như tiếng dao pha chặt vào một cái thớt của cửa hàng thịt. Ngoài cô và người không nhìn thấy được ở đằng sau, cửa hàng có vẻ trống không.
Hope tìm thấy một cái giỏ nhựa màu xanh lơ cạnh quầy thu ngân và khoác nó vào cánh tay. Cô xem lướt qua giá báo và tạp chí. Tờ The National Enquirer, the Globe, và đối thủ lớn nhất của Hope - Tin tức Thế giới Hằng tuần, tất cả đều xếp cạnh tờ Tin tức Vũ trụ Hàng tuần. Bài viết của cô không thể xuất hiện trong số này, nhưng câu chuyện về chiếc xương gà có thể có mặt trong
số tuần tới. Trước khi rời khách sạn, cô đã nhận được email từ tay biên tập, và anh ta đang vội vã đưa nó đi in.
Sàn nhà gỗ cứng kẽo kẹt dưới chân khi cô đi qua giá hàng để bánh quy giòn và ngũ cốc để tiến đến khu vực bày đồ đông lạnh.
Cô mở cửa tủ kính và đặt một bình sữa ít béo vào trong giỏ. Tiếp theo, cô đọc hàm lượng đường trên lưng một chai nước cam. Nó chứa nhiều chất ngọt hơn nước hoa quả thật và cô bỏ nó lại. Cô lấy một chai nước nho-kiwi, đến phút cuối cô quyết định rằng mình không có tâm trạng, và lấy một chai nước táo thay vào đó.
“Tôi đã dùng nước nho-kiwi rồi,” một giọng nói giờ đã quen thuộc rề rà vang lên từ sau lưng cô.
Giật mình, Hope quay người và cánh cửa kính đóng sầm lại. Chiếc giỏ lúc lắc và đập vào hông cô.
“Tất nhiên, nho-kiwi có lẽ hơi cuồng nhiệt trong thời gian này của buổi sáng,” cảnh sát trưởng nói. Hôm nay anh ta không đội chiếc mũ Stetson đen, thay vào đấy là một chiếc mũ cao bồi rơm méo mó với đường viền bằng da rắn. Một khoảng tối từ vành mũ hắt xuống mặt anh ta. “Cô thức dậy khá sớm.”
“Hôm nay tôi có rất nhiều việc phải làm, cảnh sát trưởng Taber.”
Anh ta mở cánh cửa kính và buộc cô lùi lại vài bước. “Dylan,” anh ta nói trong khi với lấy hai hộp giấy sữa sô cô la và kẹp chúng vào bên dưới một cánh tay. Anh ta trông không giống lắm với một nhà luật pháp của ngày hôm trước. Chiếc áo phông xanh lơ đã cũ và hơi nhăn, nhét vào một quần Levi’s bạc màu đến mức chỉ có những đường may còn giữ phần nào màu sắc nguyên bản.
Cánh cửa kính mờ đi ngoại trừ nơi nó áp vào phía sau đôi vai rộng và lưng anh ta. Túi quần sau của anh ta đã rách và mép ví ló ra. Anh ta cúi xuống và cầm lên thứ gì đó giống như hai hộp kem Styrofoam nhỏ. “Cô đã tìm thấy người giúp ngày hôm nay chưa.” anh ta hỏi khi đứng thẳng lên.
“Chưa. Tôi nghĩ tôi sẽ nhờ hàng xóm của mình như anh gợi ý, nhưng tôi muốn chờ một lúc đề phòng họ vẫn còn ở trên giường.”
“Chúng dậy rồi.” Anh ta dịch sang một bên và cánh cửa kính đóng lại “Đây.” Anh ta giơ ra một chai nước chanh leo với bàn tay còn rỗi. “Đây là món yêu thích của tôi.”
Cô đưa tay lấy, nhưng anh ta không thả ra. Thay vào đó anh ta bước đến gần hơn cho đến khi chỉ đứng cách cô vài cm. “Cô có thích chanh leo không, cô Spencer?”
Ngón tay cô quệt vào ngón tay cái của anh ta, và cô nhìn từ bàn tay họ lên đôi mắt xanh sâu thẳm đang nhìn chằm chằm vào cô bên dưới vành mũ rơm méo mó. Cô không phải là một cô gái nông thôn ngốc nghếch, sướng rơn lên và lưỡi bị-trói-lại với một anh chàng cao bồi gợi-
cảm-như-quỷ trong một chiếc quần Jeans đã bào mỏng ở những nơi gây chú ý. “Có lẽ còn hơi sớm cho nước chanh leo[15] , cảnh sát trưởng ạ.”
“Dylan” anh ta chỉnh cô khi một nụ cười thoải mái, chầm chậm cong trên môi “Và, cưng à, không bao giờ là quá sớm cho nước chanh leo.”
Chính là từ ‘cưng’ đã chạm đến cô. Nó chỉ là trượt vào và làm ấm đáy lòng cô trước khi cô có thể làm gì với nó. Cô cũng đã nghe anh ta sử dụng cái từ âu yếm đó với cô bồi bàn, và cô đã nghĩ rằng cô được miễn trừ. Nhưng không phải thế. Cô cố gắng nghĩ ra một lời đối đáp dí dỏm nhưng không thể. Anh ta xâm phạm không gian riêng của cô, nhưng cô không biết phải làm gì với nó. Cô được giải cứu nhờ sự xuất hiện của con trai anh ta.
“Bố, bố đã lấy giun đất chưa.” Adam hỏi.
Dylan thả tay khỏi chai nước hoa quả và lùi lại một bước. Ánh mắt của anh nấn ná ở Hope một lúc nữa, sau đó anh hướng sự chú ý đến con trai. “Rồi đây, anh bạn,” anh nói và giơ hai hộp Styrofoam lên.
“Đấy là giun?” Hope liếc từ thứ mà cô đã cho là những hộp kem nhỏ đến mặt anh ta. “Đúng thế, ma’am.”
“Nhưng chúng” - cô chỉ vào những tủ kính - “nằm cạnh sữa.”
“Không phải ngay sát,” anh ta đảm bảo với cô. Anh ta lấy chai sữa sô cô la từ bên dưới cánh tay và ra hiệu về phía Hope, “Adam, chào cô Spencer đi.”
“Chào cô. Cô cần cháu đuổi dơi nữa không?”
Cô lắc đầu và nhìn từ người này sang người khác.
“Con thích ăn sáng bằng bánh rán loại nào.” Dylan hỏi con trai. “Đường bột nhé?” “Không, sô cô la.”
“Ừm, bố đoán là bố có thể nuốt chửng một ít sô cô la.”
“Chúng cháu sẽ đi câu Dolly Varden[16] ,” Adam khoe với cô.
Rõ ràng họ nghĩ rằng giun nằm trong tủ để sữa và nước hoa quả là hoàn toàn bình thường. “Dolly ai.”
Tiếng cười trầm trầm rung lên trong ngực Dylan như thể anh ta thấy cực kỳ buồn cười. “Cá hồi” anh ta trả lời. “Đi nào, con trai. Đi bắt vài con Dolly - ai nào.”
Adam cười phá lên, một phiên bản ngây thơ, trẻ hơn của bố cậu bé.
“Những cô nàng thành phố,” Dylan giễu cợt khi anh bước đi.
“Vâng,” Adam thêm vào, tiếng rin rít của đôi giày đế cao su hòa nhịp chính xác với âm thanh đôi bốt mòn của cha cậu.
Thật là, họ là ai mà lại cười cô chứ? Hope tự hỏi khi cô quan sát họ đi về phía quầy thu ngân. Cô không phải là người điên rồ nghĩ rằng giun xếp được cạnh sữa. Cô bình thường. Cô đặt chai nước hoa quả vào trong rổ và đi đến kệ để đồ gia dụng. Đối diện với dãy đồ Comet[17] và những hộp thức ăn cho chó, cô quan sát một người đàn ông to lớn với một cái bụng bự, một hàm râu quai nón, và một chiếc tạp dề lấm máu tiến ra từ phía sau. Khi ông ta nhập vào máy để tính tiền những thứ Dylan mua, Hope di chuyển qua lại giữa những kệ hàng và vứt hai đôi găng tay cao su hồng, một nửa gallon nước tẩy rửa, và một chai diệt côn trùng Raid vào giỏ. Trong một khu vực nhỏ bày đồ nông sản, cô ngửi những quả đào để tìm quả tươi.
“Gặp lại cô nhé, cô Spencer.”
Cô nhìn lên từ những quả đào đến nơi Dylan đang đứng giữ cửa mở cho Adam. Anh ta nhìn thoáng qua cô, một khóe miệng cong lên, rồi sau đấy anh ta bỏ đi.
“Cô đã sẵn sàng thanh toán chưa.” người đàn ông to lớn phía sau quầy hỏi. “Vì nếu cô chọn thêm một lúc nữa, tôi sẽ đi gói một ít thịt ở phía sau.”
“Tôi xong rồi.” Cô xếp đào vào một cái túi đựng đồ và bước đến quầy thu ngân. “Cô là người có cái còi báo động ô tô đấy à?”
Hope đặt cái giỏ lên quầy, gần nơi bày thuốc lá và bật lửa. “Phải,” cô thận trọng trả lời. “Ada gọi cho tôi tối qua khi thứ đấy rú lên,” ông ta nói, những ngón tay lớn của ông ta gõ trên
bàn phím của máy tính tiền.
“Tôi xin lỗi vì bà ta đã làm phiền ông.”
“Bà ấy suýt chết vì hóc một cái xương gà, cô biết đấy.”
Rõ ràng Hope là người duy nhất thấy điều ấy kỳ lạ.
Ông ta kiểm tra miếng dán ghi giá trên chai Raid, sau đó nhập vào máy. “Cô ở lại thị trấn lâu không?”
“Sáu tháng.”
“Ồ, phải.” Ông ta nhìn lên. “Cô là một nhà môi trường học à?”
“Không.”
“Tôi cũng không nghĩ thế.” Ông ta với ra sau quầy và lấy ra một túi giấy to. “Cô không có vẻ giống một nhà môi trường học.”
Hope không biết ông ta đang khen cô hay ngược lại, vì thế cô giữ im lặng. “Tôi nghe nói cô đang ở nhà Donnelly.”
“Phải, đúng thế.”
“Cô làm gì ở đấy.”
Đây là lần thứ hai trong hai ngày cô bị hỏi câu hỏi này. “Tận hưởng một mùa hè thư thái.”
“Melba, vợ tôi đang ở cửa hàng của Dixie để làm tóc khi Ada gọi từ Sandman nói rằng cô cần vài người đàn ông rảnh rỗi.”
“Để đuổi sạch dơi khỏi ngôi nhà tôi thuê,” cô làm rõ. Ông ta tính tổng tiền số đồ cô mua và cô rút ra một tờ hai mươi đô từ trong ví.
Ông ta nhìn cô thật gần và chắc hẳn đã xác định rằng cô vô hại, bởi vì ông ta lắc đầu và mỉm cười. “Ừ, đấy là điều Ada nói.” Ông ta nhận tiền của cô, sau đó đếm tiền lẻ trả lại “Quá tệ. Tôi có một cháu trai đang làm việc trong mỏ gần Challis, và chắc chắn nó có thể có ích cho một phụ nữ rảnh rỗi. Tất nhiên, cô không giống như kiểu đàn bà sẽ để ý đến Alvin.”
Ông ta khơi gợi trí tò mò của cô và cô hỏi, “Kiểu đàn bà thế nào.”
“Một cô nàng không tỉnh táo.” Hai đầu ria mép của ông ta cong lên trên má bên dưới đôi mắt. “Cám ơn.”
“Không có gì. Tên tôi là Stanley Caldwell. Tôi và vợ, Melba sở hữu cửa hàng này, nếu cô cần đặt mua một thứ gì đặc biệt, hãy cứ cho tôi biết.”
“Tôi sẽ nói.” Cô cầm lấy chiếc túi giấy. “Ông có biết tôi có thể mua một ly cappuccino ở đâu không?”
“Có. Sun Valley.”
Cô chưa bao giờ muốn một ly cappuccino nhiều đến mức lái xe một tiếng đồng hồ để có được nó. Dù sao cô cũng cám ơn ông ta và rời siêu thị. Chiếc Porsche của cô đỗ gần cửa trước và cô thả túi đỏ vào ghế hành khách. Khi cô ra khỏi bãi đỗ xe, cô đẩy một đĩa CD vào đầu đĩa, vặn lớn âm lượng, và hát cùng với Sheryl Crow. “Chạy đi, bé con, chạy đi, bé con, chạy đi,” cô hát khi lái xuống con đường chính của Gospel và tiếp tục vòng quanh hồ đến đường Timberline. Cô đến lối đi dẫn vào ngôi nhà cô thuê lúc vừa mới qua tám giờ.
Ngôi nhà vẫn mang vẻ tệ hại như ngày hôm qua. Cô không định đặt chân vào bên trong cho đến khi hết sạch dơi. Thay vào đấy, cô bước sang bên kia đường và gõ cửa nhà hàng xóm. Một phụ nữ với mái tóc quăn đỏ và mặt tàn nhang, mặc một chiếc váy sặc sỡ màu xanh lơ trả lời. Hope giới thiệu mình qua màn hình.
“Dylan nói có thể cô sẽ ghé qua.” Cô ta giữ cửa mở và Hope bước vào một phòng khách được trang trí với vô số bức tranh vẽ trên mặt thiếc và gỗ. Nó ở khắp nơi, trên một mẩu gỗ trôi giạt, những lưỡi cưa cũ và những bình sữa bằng kim loại. “Tôi là Shelly Aberdeen.” Cô ta đi một đôi dép hình con thỏ lớn và không thể cao hơn một mét rưỡi.
“Cảnh sát trưởng Taber có nói đến vấn đề về dơi của tôi không?”
“Ừ, cậu ấy có nói. Tôi vừa định đánh thức các anh chàng đây. Sao cô không ngồi xuống và tôi sẽ nói với chúng rằng cô cần gì.”
Cô ta biến mất vào một hành lang và Hope ngồi xuống một chiếc ghế xoay gần lò sưởi đá. Từ phía sau của ngôi nhà cô nghe thấy một tiếng cửa mở.
“Cô là người lái chiếc Porsche à?” Shelly nói với ra.
“Vâng.”
Im lặng và sau đó, “Cô có quen Pamela Anderson hay Carmen Electra[18]” không?” “À, không.”
Lại im lặng và sau đấy Shelly lại xuất hiện. “À, điều đấy thực sự làm các anh chàng này thất vọng, nhưng dù sao chúng cũng sẽ giúp cô.”
Hope đứng lên. “Chúng thường kiếm được bao nhiêu tiền một giờ? Tôi thậm chí không biết mức lương tối thiểu là bao nhiêu.”
“Cứ trả cho chúng theo như cô nghĩ là công bằng, sau đấy trở lại đây khoảng buổi trưa và tôi sẽ nấu bữa trưa cho cô.”
Hope không biết nghĩ gì về lời mời này, ngoài việc nó làm cô không thoải mái. “Tôi sẽ làm món bánh nhồi cua và chúng ta sẽ làm quen với nhau.”
Đấy chính là phần làm Hope không thoải mái. Hiển nhiên Shelly sẽ hỏi Hope làm gì để kiếm sống, và Hope không nói về chuyện đó với người mà cô không quen. Cô cũng không muốn nói về cuộc đời riêng của mình. Nhưng sâu trong phần bị chôn vùi của tâm hồn cô, cô muốn làm thế nhiều đến mức cô cảm thấy nó giống như một quả bong bóng đang loay hoay để thoát ra. Và điều ấy làm cô sợ hãi. “Tôi không muốn gây phiền hà gì cho chị nữa,” cô nói.
“Không phiền gì đâu. Trừ phi cô nói không và làm tổn thương cảm xúc của tôi.”
Hope nhìn vào đôi mắt to nâu của Shelly, và cô có thể nói gì ngoài, “Được rồi, tôi sẽ có mặt ở đây.”
Cặp song sinh nhà Aberdeen - Andrew và Thomas cao, tóc vàng và giống hệt nhau ngoại trừ màu mắt và vầng trán hơi khác nhau. Một mẩu thuốc lá chồi ra trên môi dưới của chúng ở cùng một vị trí, và cả hai đều đứng với vai trái cao hơn vai phải. Chúng im lặng, cư xử tốt và nhìn vào nhau trước khi trả lời một câu hỏi.
Hope bảo chúng săn lùng dơi trong nhà trong khi cô ngồi trên hiên nhà trước. Cô nghe tiếng đập và la hét từ trên tầng hai, và khoảng bốn mươi phút sau, Thomas đi ra với tin tức rằng chúng đã chiến đấu với tổng cộng năm con dơi. Hai con trong một phòng ngủ và ba con trong gác mái. Cậu ta thổi ra một luồng khói thuốc vào một lon Coca cầm trong tay và đảm bảo với cô rằng lũ dơi không còn là vấn đề nữa. Cô không hỏi bằng cách nào. Cô cũng không cả muốn biết.
Khi vấn đề về dơi đã được giải quyết, cô bảo hai cậu thiếu niên lau dọn tầng trên trong khi cô bắt đầu ở trong bếp. Cô lau sạch bếp, vứt một con chuột chết đi, sau đó làm sạch lò vi sóng và tủ lạnh. Tủ để bát đĩa trống rỗng ngoài một lớp bụi, và cô rửa sạch đĩa, nồi và chảo bằng xà phòng tìm thấy bên dưới bồn rửa bát. Cửa sổ có thể đợi một ngày khác.
Đến mười một giờ ba mươi, tầng một của ngôi nhà đã dọn dẹp gần xong. Có một vết bẩn màu nâu sẫm trên sàn nhà gỗ cứng trước lò sưởi, và vô số lần cọ rửa cũng không thể xóa được nó. Đến buổi trưa, cô giao nhiệm vụ cho cặp sinh đôi lấy gạc nai xuống và cất chúng vào một cái nhà kho ở bên ngoài phía sau nhà. Sau đó cô đi qua đường.
Shelly Aberdeen nhìn thấy cô đến và mở cửa trước khi cô có cơ hội gõ cửa. “Hãy ăn trước khi cặp sinh đôi quyết định về nhà ăn trưa nhé. Chúng ăn như mọi bữa là bữa ăn cuối cùng.”
Shelly đã mặc quần áo ban ngày, một chiếc áo phông Garth Brooks, một chiếc quần jeans Wrangler bó với một móc khóa thắt lưng kích thước bằng cái đĩa để chén, và một đôi bốt da rắn. Hope ở trong thị trấn mới chỉ một ngày, nhưng cô đã nhận thấy rằng da rắn là một thời trang phải-có ở Gospel.
“Các chàng trai làm ăn thế nào.” Shelly ngoái lại hỏi khi Hope theo cô vào một phòng ăn nhỏ
tách biệt với bếp.
“Chúng làm việc giỏi lắm, rất lịch sự và thậm chí không hề phàn nàn khi tôi nhờ chúng dọn phân dơi.”
“Ối, sao chúng lại phàn nàn về điều đấy chứ? Hai thằng đấy đã ném phân bò vào nhau kể từ khi chúng biết đi. Mùa hè năm ngoái chúng làm việc mổ bò ở Wilson Packing.” Cô ta rót cho Hope một ly trà đá. “Tôi mừng khi nghe thấy rằng chúng biết suy nghĩ. Chúng sẽ tròn mười tám tuổi trong khoảng một tuần nữa và tôi nghĩ rằng chúng biết điều đấy.” Cô đưa ly cho Hope. “Bên trong ngôi nhà trông như thế nào.”
Hope uống một ngụm và để nước trà lạnh rửa sạch bụi trong cổ họng. “Tốt hơn vẻ bên ngoài. Có rất nhiều mạng nhện và cả một con chuột chết ở trong lò vi sóng. Tin tốt là điện và đường nước vẫn hoạt động.”
“Đúng là phải thế,” Shelly nói khi cô ta đặt hai đĩa đầy sandwich lên chiếc bàn phủ khăn kẻ ca rô trắng và xanh lơ. “Tay kinh doanh bất động sản mua nơi ấy đã lắp đặt lại toàn bộ hệ thống nước và điện vào mùa thu vừa rồi. Nhưng không thể xóa sạch vết máu.”
“Vết máu.”
“Hiram Donnelly tự sát với khẩu súng săn của mình ngay trước lò sưởi. Máu văng khắp nơi. Có lẽ cô đã chú ý những vết bẩn trên sàn nhà.”
Phải, cô đã chú ý vết bẩn đấy, nhưng cô đã đoán rằng có người đã lột da con động vật vô phúc nào đó trong phòng khách. Sự thật nó là vết máu người gây cảm giác kinh hãi.
“Ông ta tự sát à?”
Shelly nhún vai khi ngồi xuống đối diện với Hope. “Ông ta bị phát giác biển thủ công quỹ của hạt để trả cho những trò tình dục quái dị.”
“Ông ta có bị ra tòa không?”
“Không, ông ta là cảnh sát trưởng của chúng tôi.”
Hope đặt khăn ăn lên lòng, rồi với lấy đĩa bánh. Trí tò mò của cô bị khơi gợi nhiều hơn cô muốn để người hàng xóm biết, cô hỏi như thể đang hỏi về thời tiết. “Quái dị như thế nào.”
“Hầu hết là những trò hành hạ và thống trị, nhưng ông ta cũng dính vào rất nhiều thứ kỳ lạ nữa. Một năm sau khi vợ mất, ông ta bắt đầu dính líu với đàn bà qua mạng. Tôi nghĩ lúc bắt đầu chuyện ấy cũng khá trong sáng. Chỉ là một gã cô đơn tìm kiếm sự bầu bạn của phụ nữ. Nhưng đến cuối cùng, ông ta trở nên thực sự lập dị và không thèm quan tâm người đàn bà kia là độc thân hay đã kết hôn, tuổi tác của họ, hay tốn kém như thế nào. Ông ta để vuột sự kiểm soát và trở nên bất cẩn.”
Hope cắn một miếng bánh và cố gắng nhớ xem cô đã đọc bất cứ điều gì về một cảnh sát trưởng biển thủ tiền công quỹ để thanh toán cho cơn nghiện tình dục của ông ta hay chưa. Cô nghĩ là chưa, bởi vì nếu cô đã biết, cô đã nhớ. “Tất cả những chuyện này xảy ra khi nào.”
“Ông ta tự sát khoảng năm năm trước, nhưng như tôi nói, nó bắt đầu khoảng một năm trước đấy. Không ai trong thị trấn biết, cho đến khi FBI[19] chuẩn bị bắt ông ta và ông ta tự bắn mình.”
“Ông ta không thể kiểm soát được đến mức nào.”
Shelly quay mắt đi, rõ ràng không thoải mái khi nói về chi tiết. “Sử dụng trí tưởng tượng của cô,” cô ấy nói, sau đấy thay đổi chủ đề. “Cái gì mang cô đến Gospel?”
Hope biết khi nào nên tiến và khi nào nên lùi. Cô cất trữ những thông tin đã có và từ bỏ vấn đề vào lúc này. “Dường như đây là một vùng xinh đẹp,” cô trả lời, sau đó, gọn gàng đúng như Shelly, chuyển chủ đề ra khỏi cô. “Chị đã sống ở đây bao lâu rồi.”
“Gia đình tôi chuyển đến đây khi tôi sáu tuổi. Paul, chồng tôi được sinh ra trong chính ngôi nhà này. Tôi tốt nghiệp trường Trung học Gospel với hầu hết mọi người quanh đây,” Shelly điểm tên họ như thể nghiễm nhiên là Hope biết những người cô đang nói đến. “Paul và tôi, Lon Wilson và Angie Bright, Bart và Annie Turner, Paris Fernwood, Jenny Richards, Kim Howe và Dylan. Nhưng đấy là khi Dylan vẫn còn sống ở Double T với gia đình. Mẹ, chị gái và anh rể cậu ấy vẫn điều hành ở đấy. Và, tất nhiên, Kim đã bỏ đi với một gã lái xe tải ngay sau khi tốt nghiệp và sống đâu đấy ở Midwest. Tôi không thể nhớ được điều gì đã xảy ra với Jenny.” Shelly cắn một miếng sandwich, sau đấy hỏi, “Cô đã kết hôn chưa.”
“Chưa.” Hàng xóm của Hope nhìn cô như thể cô ta nghĩ Hope có thể sẽ nói thêm. Hope không nói gì. Nếu cô đề cập đến từ ‘ly dị’, những câu hỏi khác sẽ kéo theo, và Hope không thể nào chia sẻ cái phần đời cũ kỹ và tồi tệ đấy của cô với người khác. Đặc biệt không phải với một người lạ. Cô lấy cốc trà và trong lúc uống một hơi dài, cô cố gắng nhớ lần cuối cùng cô ăn trưa cùng
người khác mà không phải vì công việc. Cô không chắc chắn, nhưng nghĩ rằng có thể là ngay sau vụ ly dị của cô. Như một lẽ thường với rất nhiều cặp kết hôn, bạn bè của cô đã là bạn bè của họ, và cho dù họ ngừng gọi điện cho cô hay cô ngừng gọi điện cho họ cũng không thành vấn đề. Kết quả cuối cùng vẫn giống nhau. Cuộc sống của họ đã thay đổi và họ tách nhau ra. “Cô sống ở đâu trước khi chuyển đến Gospel?” cô hỏi.
“Ngoại ô của Rock Springs, Wyoming. Vì thế việc chuyển đến đây cũng không hẳn là một cú sốc. Không giống như tôi tưởng tượng về cô.”
Câu nói ấy quá thật đến mức làm Hope cười khúc khích. “À, tôi không nghĩ tôi rất nổi tiếng ở Sandman.”
“Đừng lo lắng về Ada Dover. Bà ấy nghĩ mình đang điều hành khách sạn Ritz.” Gần như không ngừng lại, cô ta hỏi tiếp, “Cô làm gì để sinh sống?”
“Tôi là một nhà báo tự do.” Điều này phần nào là thật. Trong quá khứ, cô chắc chắn đã làm nhà báo tự do dưới rất nhiều bút danh, và nếu cô muốn, cô có thể làm thế lần nữa. Bây giờ, cô thích viết những bài báo viễn tưởng kỳ lạ. Mặc dù cô phải thừa nhận rằng trí tò mò của cô bị kích thích với quá khứ kỳ lạ về số Hai Timberline và vị cảnh sát trưởng sống ở đấy.
“Cô viết về cái gì?”
Hope đã được hỏi câu hỏi đấy rất nhiều, và cô thường né tránh. Không phải cô xấu hổ về việc mình làm, nhưng với kinh nghiệm của cô, mọi người thường có một trong ba phản ứng.
Một là, họ ra vẻ kẻ cả, điều mà Hope không cảm kích nhưng có thể đối phó. Hai là, họ muốn kể với cô về thời gian họ bị bắt cóc và bị một người ngoài hành tinh nhét que vào lỗ đít. Hoặc ba là, nếu họ không phải là người điên cuồng, họ biết người nào như thế. Và họ luôn muốn cô viết một bài báo về bà dì này, bà dì nọ, người bị chiếm hữu bởi linh hồn con chó đã chết của bà
ta.
Hope không bao giờ biết khi nào cô đâm đầu vào những con người điên cuồng như thế, không bao giờ có thể nói trước từ vẻ bề ngoài. Họ giống như đậu phộng M&M; có một vỏ ngoài bình thường nhưng lại đang giấu một hạt lạc bên trong. Hope viết về chuyện viễn tưởng và không thích thú với những hạt lạc đời thực.
“Tôi viết bất cứ cái gì tôi bị hấp dẫn.” Sau đấy cô làm điều cô giỏi nhất. Cô thêm một lời nói dối vào sự trộn lẫn giữa sự thật và một nửa sự thật. “Ngay bây giờ, tôi có cảm hứng về hệ thực vật và động vật của miền Tây bắc, và tôi đang viết một bài báo cho một tạp chí Tây bắc.”
“Chà, một nhà văn! Chắc hẳn đấy là một công việc thực sự thú vị.”
Thú vị? Hope ăn một miếng bánh sandwich khác và nghĩ về nhận xét của Shelly trong một lúc. “Thỉnh thoảng việc này cũng thú vị,” cô nói sau khi nuốt xuống. “Thỉnh thoảng nó trở nên nhạt nhẽo đến mức tôi không thể tin là mình đang làm việc này.”
“Một hai tháng trước, chúng tôi thấy một gã đến đây viết về cái gì đấy như là hướng dẫn về du lịch ba lô. Trước đấy có một quý cô viết về những đường mòn hình thành do xe đạp ở miền Tây bắc. Mùa hè năm ngoái, có vài người khác trong vùng viết về chủ đề gì đấy. Nhưng tôi không thể nhớ được là cái gì.”
Shelly uống một ngụm trà. “Tôi có thể đã đọc bài nào cô đã viết không?” “Để xem nào... khoảng hai năm trước, tôi viết một bài về thủ thuật cắt bỏ dạ con cho Cosmo.” “Tôi không đọc Cosmo.”
“Redbook?”
“Không. Cô đã viết bài nào cho People chưa.”
“Tôi gửi đề cương một lần.” Hope đặt sandwich xuống và lau mồm bằng khăn ăn. “Nhưng tôi bị từ chối.”
“Tờ Enquirer thì sao.”
Không phải gần đây, nhưng trong một thời gian, cô không những viết cho họ, cô còn là
‘nguồn tin nội bộ’ của họ về những ai nâng mặt và bơm ngực. “Không, tôi không thích viết bài về những người thật,” cô nói. Ít nhất không còn nữa. Cô thích viết ra những câu chuyện về một con châu chấu nặng năm mươi pound[20] hơn nhiều.
“Hừm ... Paul đặt mua dài hạn tờ Súng và đạn dược. Tôi không nghĩ rằng cô từng viết một bài báo về săn nai sừng tấm?”
Hope nhìn người hàng xóm qua bàn, nhìn vào nét cười hằn trên khoé mắt của Shelly, và cô thả lỏng một chút.
“Không, tôi thực sự không đi vào những chủ đề bạo lực, nhưng khi tôi vừa khởi nghiệp, tôi đã viết rất nhiều bài báo cho tạp chí Tội ác xác thực. Tôi cần tạo dựng danh tiếng trong ngành, vì thế tôi viết vài câu chuyện về một gái điếm giết người hàng loạt bị bắt do vết máu của nạn nhân được tìm thấy trên con dao găm nhỏ của cô ta.”
“Ồ, thật à? Mẹ chồng tôi đọc những chuyện ấy như Kinh thánh và thề rằng chúng là thật.” Shelly nghiêng qua bàn và thì thầm. “Bà ấy bị điên. Sinh nhật tôi năm ngoái, bà ấy trả một phần tiền mua một bộ khử nước thức ăn Ronco, sau đó bảo tôi thanh toán phần còn lại.”
“Chị đùa à?”
“Không hề. Tôi phải trả hơn một trăm đô cho cái thứ ấy và tôi chưa bao giờ sử dụng nó.” Cô ta thực hiện một cái nhún vai một bên. “Nhưng tôi nghĩ rằng chuyện đấy không tệ hại bằng cái hộp bánh quy hình con lợn bà ấy mua cho chị chồng tôi. Cô mở nắp và nó ré lên như Ned Beatty trong Giải thoát[21].”
Hope ngả người trên lưng ghế và cười khúc khích.
“Cô có người đàn ông nào không?”
Ồ, Shelly giỏi giang. Thực sự giỏi giang. Cố gắng làm Hope thoải mái, xoa dịu cô trước khi do thám vài câu hỏi cá nhân. Nhưng Hope còn giỏi hơn.
“Ngay lúc này thì không,” cô trả lời. “Có vài người đàn ông tự do trong thị trấn. Vài người trong số họ vẫn còn răng và hầu hết họ đều có một công việc. Tránh xa bất cứ tên nào với họ là Gropp. Họ có vẻ bình thường, nhưng không ai trong số họ có cái đầu tỉnh táo cả.”
“Ổncảmà,”Hopetrấnancô. “Tôikhôngtìmkiếmmộtngườiđànông.”
Chương 4
Thằn Lằn Có Vị Giống Hệt Gà!
Hope rửa đĩa, rồi rửa tay với Lemon Joy. Khi cô tắt vòi nước, tiếng gót bốt của Shelly và âm thanh rền rền của một chiếc thuyền máy trên hồ lấp đầy không gian im lặng.
“Nghe như Paul và mấy đứa trẻ đang về,” Shelly nói khi cô ấy bước qua nhà bếp.
Hope với lấy một chiếc khăn và lau khô tay. Cô nhìn ra khoảng sân tối qua khung cửa có lưới mặt sau nhà nhưng không thể nhìn thấy gì. “Tốt hơn tôi nên trở lại bên kia phố.”
“Ở lại một chút và gặp chồng tôi đi.” Shelly rúc đầu vào tủ lạnh để tìm kiếm thứ gì đấy. Cô ta thọc mạch, nhưng Hope có thể đánh giá cao kiểu của cô ta. Cô ta mời Hope ăn trưa để moi thông tin từ cô, nhét những câu hỏi riêng tư vào giữa những câu chuyện hài hước, vài mẩu chuyện phiếm, và vài lời càu nhàu một cách tỉnh khô. “Cô sẽ ở 1ại nhà Donnelly tối nay à?”
Theo thói quen, Hope vắt khăn qua vai. “Đấy là kế hoạch. Đúng ra thì đồ đạc của tôi sẽ được chuyển đến vào cuối ngày hôm nay.” Cô dựa lưng vào quầy bếp và khoanh tay bên dưới ngực. “Nhưng với tiến triển may mắn của tôi như thế này, đồ của tôi có thể bị lạc trên đường vận chuyển. Có thể là rơi khỏi xe tải ở Vegas.”
Cánh cửa có lưới mở, sau đấy đóng lại. “Buồn tè đến mức cái răng hàm của cháu đang nổi bồng bềnh,” Adam Taber nói khi cậu bé chạy qua bếp.
“Wally đâu?” Shelly hỏi với theo cậu bé.
“Ở trên thuyền,” cậu bé trả lời, rồi biến mất.
“Ơ này, Adam.” Một giọng nói trầm hơn vang lên từ ngay bên ngoài cửa. “Con biết nhiều hơn là đi vào nhà người khác mà không gõ cửa chứ.”
Vừa mới buổi sáng, Hope đã nghe chính giọng nói đấy hỏi cô có thích nước chanh leo hay không. Cô đứng thẳng người và thả tay xuống hai bên sườn.
“Tại sao nó phải gõ cửa khi mà bố nó không bao giờ gõ nhỉ?” Shelly hỏi.
Dylan giơ một bàn tay qua đầu và gõ khớp ngón tay vào khung cửa gỗ. “Cốc, cốc,” anh ta ề à nói. “Tôi có thể vào không?”
“Không,” Shelly trả lời và đóng cửa tủ lạnh lại. “Cậu bốc mùi như lòng cá ý.”
Anh ta vẫn đi vào và tiến đến chỗ Shelly. Từ phía bên kia bếp, tấm lưng và bờ vai rộng của anh ta lấp đầy tầm nhìn của Hope. Anh ta không đội chiếc mũ méo mó lúc sáng, và mái tóc ngắn dính vào sau cổ. Anh ta tiến đến trước Shelly, bàn tay giơ ra như thể định chạm vào cô ấy.
“Tránh xa ra, Dylan Taber, và mình nói thật đấy!”
Anh ta cười khoái trá, ba tiếng cười trầm trầm, sau đó hỏi, “Cậu sẽ làm gì nào?” “Mình sẽ đánh cậu bê bết như hồi lớp năm.”
“Thôi nào, cậu không đánh mình bê bết. Cậu đá mình trong cái bao đậu, Shelly. Đá một anh chàng trong cái bao đậu là không đúng đắn chút nào.”
“Cậu mà chạm vào mình,” cô cảnh cáo, “thì mình sẽ nói với Dixie rằng cậu thích nhìn cô ấy trong cái áo quây lấp lánh cô ấy mặc đến trò chơi T-ball[22] tối qua.”
Anh ta thả tay xuống. “Cậu lại thế rồi. Đánh vào bên dưới thắt lưng.”
“Paul, vào đây!” Shelly gọi to. “Chúng ta có khách.”
“Dylan không phải là khách.”
“Em không nói về Dylan. Hope Spencer ở bên kia đường đang ở đây.”
Dylan bắn một cái liếc mắt qua vai và chầm chậm quay lại nhìn cô. Lông mày anh ta nhướng lên trán, và bóng điện bếp trên đầu làm nổi bật ánh vàng trên mái tóc nâu.
“Thế à,” Paul Aberdeen bắt đầu khi anh ta và Wally bước vào nhà, “Cô là hàng xóm mới của chúng tôi. Chào mừng đến Gospel. Tôi muốn bắt tay cô, nhưng tôi vừa mới moi ruột cá.”
Hope tặng anh ta một nụ cười. “Cám ơn.”
Paul to lớn, tóc vàng và làn da sáng đã cháy đỏ ngoại trừ một đường trắng ở đường chân tóc. Anh ta trao cho Hope một cái nhìn từ đầu đến chân nhanh chóng trước khi quay sang Dylan và lắc đầu. “Tôi nhận của cậu năm và lấy của cậu mười.” Anh ta mở tủ lạnh và rúc đầu vào bên trong. “Cô muốn một lon bia không, Hope?”
“Không, cám ơn.” Mặc dù cô không thể nghĩ ra lý do, nhưng cô có cảm giác họ đang cá cược về cô.
“Dylan?”
“Ừ.” Lời nói chỉ vừa thoát ra khỏi miệng anh ta trước khi một lon Budweiser quăng vào anh ta. Anh ta bắt lấy lon bia ở trong không khí và giật nắp lon mở.
“Nhớ cháu không?” Wally hỏi khi cậu bé đi đến trước cô. Giống như bố, cậu bé bị cháy nắng, nhưng sự giống nhau dừng lại ở đấy. Cậu bé rõ ràng là con của mẹ cậu.
“Tất nhiên,” cô nói. “Cháu đã giải cứu túi xách của cô.”
“Vâng.” Cậu bé gật đầu và nhìn vào mẹ. “Adam đâu ạ?”
Shelly chỉ về hướng phòng tắm và Wally đi ra khỏi bếp. “Hope đang viết một bài báo cho tạp chí Tây bắc,” cô ta thông báo cho những người đàn ông.
“Chủ đề gì thế?” Paul đóng cửa tủ lạnh lại và quàng một cánh tay quanh cổ vợ. “Hope đang viết về hệ thực vật và động vật.”
Dylan đưa lon Bud lên miệng và quan sát cô qua miệng lon.
“Tôi đang thực hiện một bài báo về thiên nhiên. Tôi muốn chụp vài tấm ảnh về cuộc sống tự nhiên và cây cối của địa phương.”
Dylan hạ lon bia xuống khi một bên lông mày hơi nhướng lên. “Từ cái nhìn đầu tiên, tôi chưa bao giờ nghĩ cô là một người yêu thiên nhiên.”
“Anh không biết tôi.”
“Đúng thế.” Anh ta đi đến bồn rửa bát và đặt lon bia lên mặt quầy, cạnh khuỷu tay cô.
“Nếu cô muốn ngắm nhìn thiên nhiên,” Paul nói, “Có lẽ cô muốn cắm trại ngoài trời ở thác nước. Bây giờ ở đấy rất đẹp.”
Dylan đứng gần đến mức cánh tay anh ta huých vào cô khi anh ta vặn vòi nước. Mạch đập của cô tăng lên một hai nhịp, nhưng cô đứng im tại chỗ, không chịu để anh ta biết rằng anh ta làm cô hồi hộp. “Có lẽ tôi sẽ làm thế,” cô nói.
Anh ta liếc cô từ đuôi mắt. “Cô đã từng cắm trại ngoài trời ở nơi nào khác một phòng trong khách sạn ven đường chưa?”
À, đã từng trong một mùa hè ở Trại hè Girl Scout. “Tất nhiên rồi, tôi đi cắm trại suốt. Tôi thích được giao tiếp với thiên nhiên.”
Anh ta cười khoái trá và với lấy bánh xà phòng hương chanh. Chiếc áo phông của anh ta chạm vào bờ vai trần của cô “Cẩn thận,” anh ta thì thầm cạnh tai cô, “Mũi cô đang phồng lên.”
Sức nóng tỏa ra từ cơ thể to lớn của anh ta, cô dịch vài bước xuôi theo quầy bếp và bước vòng qua anh ta. Được rồi, anh ta cố làm cô hồi hộp một chút. Chỉ là anh ta quá to lớn, quá nam tính, quá đẹp trai, và có thể anh ta cũng biết như thế. Và cô ngờ là anh ta đang cố gắng làm cô hồi hộp.
“Nhớ tay nhà văn mùa hè năm ngoái không?” Shelly hỏi. “Anh ta viết về cái gì nhỉ? Không thể nhớ nổi.”
“Hắn nói hắn là một người theo chủ nghĩa sinh tồn,” Dylan trả lời.
Paul cau có. “Phải, nhưng ba lô của hắn chứa đầy những thực phẩm ăn liền.”
“Cô nên viết vài thứ như thế, Hope ạ,” Shelly gợi ý. “Những chủ đề chỉ có đàn ông viết, đa số là những ngón nghề của đấng mày râu như Grizzly Adams[23].
Cô có thể tiếp tục với một trong những hành trình chọn lọc tự nhiên đấy. Đọc những chủ đề như thế từ quan điểm của một phụ nữ như cô có thể sẽ thú vị.”
Những ngón nghề của đấng mày râu? Hành trình chọn lọc tự nhiên? “Như tôi?” Shelly làm một cử chỉ ngửa lòng bàn tay lên như thể không có gì cần phải nói nữa.
Dù sao Paul vẫn nói. “Một phụ nữ trong nhà. Nếu cô viết một trong những bài về hành trình chọn lọc tự nhiên, cô có thể viết về việc ăn hành dại và rắn.”
Vẻ ghê tởm chắc hẳn đã lộ rõ trên mặt cô, bởi vì Paul nhanh chóng thêm vào, “Khỉ thật, nó có vị như gà thôi mà.”
“Đúng thế,” Shelly xen vào. “Cô có thể tự bắt cho mình một con thằn lằn béo,” diễn viên kịch vui ở bồn rửa bát nói thêm.
Tất cả bọn họ đều điên rồi. Tất cả bọn họ, và đầu lưỡi cô đã trực chờ thú nhận, Đấy là một lời nói dối, mọi người ạ. Nói thật nhé. Tôi biết những câu chuyện về Người khổng lồ vui vẻ và trẻ con ngoài hành tinh. Tôi không ăn bò sát!
Vòi nước ngừng chảy và Dylan di chuyển đằng sau cô. Cô cảm thấy anh ta kéo chiếc khăn bông dày từ đôi vai trần của cô. “Tôi nghĩ tôi chỉ trung thành viết về những gì tôi nhìn thấy quanh đây.” Cô quay người và nhìn vào anh ta. “Dù sao tôi cũng không nghĩ tôi có thể ăn những thực vật dại và những động vật yếu ớt, tội nghiệp.”
Anh ta lau khô tay và dây da của chiếc đồng hồ đeo tay. “Giờ thì, đấy là một điều đáng tiếc.” Anh ta nhìn lên từ chiếc đồng hồ và thêm vào, “Không có gì thú vị bằng việc bắn những động vật yếu ớt và nấu chín với vài loại thực vật dại.”
Shelly và Paul nghĩ anh ta là một kẻ tếu táo thực sự, nhưng Hope thật chẳng thấy có gì đáng cười như thế. Cô có cảm giác mù mờ lần nữa. Giống như cô bị thả lên một hành tinh xa lạ. Giống như cô đang sống trong những câu chuyện của mình.
Ánh mặt trời đổ xuống chiếc mũ cao bồi rơm của Dylan khi anh kéo sợi dây trên chiếc máy cắt cỏ cũ kỹ. Tiếng động cơ phập phù, sau đấy chết hẳn. Mồ hôi ướt đẫm nách và xương sống anh. Anh với lấy chiếc mũ và quăng nó lên bậc thềm trước cửa.
Chủ nhật tháng Sáu là dành để câu cá hoặc chợp mắt trên một cái võng với một cái mũ kéo sụp qua mắt. Không phải để kéo một cái máy cắt cỏ đi vòng quanh. Thật không may, cỏ sân nhà anh đã cao đến mắt cá chân và bụi cây gần cửa trước đã trở nên mất kiểm soát đến mức người
ta phải chiến đấu mới tìm thấy chuông cửa. Điều này không làm phiền anh mấy, vì dù sao mọi người luôn đi bằng cửa sau. Nhưng mẹ và chị anh đã đến đây tuần trước và cằn nhằn về nó nhiều đến nỗi anh bắt đầu có cảm giác như mình là người vô dụng. Giống như Marty Wiggins bên kia đường đỗ chiếc xe tải cũ ở sân trước và để con mình chạy tứ tung với lớp dầu mỡ dính trên mặt.
Dylan kéo chiếc áo phông qua đầu và lau một vệt mồ hôi trên vùng ngực và bụng để trần. Anh nghĩ đến chuyện đá cho cái máy cắt một phát mạnh, nhưng anh đoán rằng tất cả những gì anh có được là một bàn chân bị gãy. Anh liếc từ chiếc máy cắt đến con trai anh đang đứng trên hiên nhà gần bụi cây lớn nhất, trong tay nó là một cặp kéo cắt cỏ nhỏ. Con chó con của Adam - Mandy, nằm gần chân thằng bé.
“Đừng cắt nhiều hơn mức bố đã chỉ cho con.” Dylan lùa những ngón tay vào mái tóc ướt nhẹp và gạt nó ra khỏi trán.
“Không đâu.”
Dylan không bao giờ để Adam ra khỏi nhà mà không chắc chắn rằng thằng bé đã sạch sẽ, tóc và răng đã chải, và quần áo hợp với nhau. Một vài bụi cây không làm một gã đàn ông biến thành vô dụng, Chúa ạ. “Và đừng cắt ngón tay của con. Bố không giỏi khâu cái thứ đấy lại đâu.”
“Không đâu.”
Anh quăng chiếc áo phông gần mũ và kéo sợi dây một lần nữa. Lần này động cơ thổi phù phù và hoạt động. Âm thanh cắt vào bầu không gian im lặng và khiến Mandy nhảy khỏi hiên nhà, rồi chạy vòng đến bên hông nhà.
Cỏ dày đặc thành từng mảng đến mức anh phải hạ tay cầm xuống và nâng bánh xe trước lên khỏi mặt đất để tránh động cơ bị vướng. Cỏ bị cắt văng sang một bên và khi anh đi đến gần lối đi bẩn thỉu, những đám bụi bao phủ không khí và những hòn đá nhỏ nhảy lách tách trên mặt
đất như những viên đạn.
Trong lần đi lại thứ năm, anh chạy qua một thứ gì đấy có cảm giác giống kỳ lạ với một cái que to. Anh nhìn sang bên trái khi những mẩu nhựa nâu bay vèo qua đám cỏ xanh rì.
Dylan tắt động cơ và nhìn chằm chằm vào phần cơ thể đứt đoạn của một nhân vật hành động X- men. Quan sát nó càng gần, nó càng nhắc anh về thời gian khi anh vừa mới làm thám tử điều tra những vụ giết người cho Văn phòng cảnh sát Los Angeles, khoảng mười năm trước. Anh tuân theo một lệnh triệu tập lúc một giờ sáng ở Skid Row mà anh cho rằng để xem xét một hiện trường giết người. Thay vào đấy một đám cảnh sát tuần tra đứng thành vòng gãi gãi đầu và nhìn chằm chằm vào một thân thể ngồi trên một ghế dài ở bến xe buýt, không có đầu hay chân tay, chỉ có thân người mặc một chiếc áo sơ mi xanh lơ, một chiếc cà vạt, và một chiếc áo khoác hiệu Brooks Brothers. Nhưng nhìn thấy một thân người trong chiếc áo khoác xa xỉ ở Skid Row thậm chí chưa phải là phần kỳ lạ nhất của vụ giết ngườí. Kẻ đã giết người đàn ông này cũng đã cắt bộ phận kín của nạn nhân. Dylan có thể hiểu những hành động nhằm tiêu hủy những phần có thể nhận dạng được, nhưng còn của quý của một gã đàn ông thì? Như thế rõ ràng là máu lạnh. Trong ba năm anh ở lại L.A, vụ án đấy chưa bao giờ phá được, nhưng anh luôn nghĩ rằng thủ phạm phải là một phụ nữ.
“Cái gì thế?” Adam hỏi khi chỉ vào hình dáng bị cắt nằm trên cỏ.
“Bố nghĩ nó là con Wolverine của con.”
“Đầu nó đã bị chặt.”
“Phải. Bố đã nói với con không được để đồ chơi lung tung bao nhiêu lần rồi?” “Con không làm thế. Là Wally.”
Khả năng Adam nói thật là năm mươi - năm mươi. “Không quan trọng. Con chịu trách nhiệm với đồ đạc của con. Giờ nhặt mấy mẩu đó lên và ném đi.”
“Ôi trời!” Adam than thở khi cậu bé nhặt những mẩu nhựa lên. “Nó là đồ yêu thích của con.”
Dylan quan sát con trai mình dậm chân trước khi anh khởi động lại máy cắt cỏ. Có rất nhiều hình ảnh anh mang trong đầu mà anh thà rằng quên đi còn hơn. Những hình ảnh vẫn còn ám
ảnh anh từ trước đến nay, nhưng ít nhất anh không còn sống với chúng. Tội ác lớn nhất làm chấn động Gospel từ khi anh làm cảnh sát trưởng là Jeanne Bond bị anh chồng Hank giết chết. Và cho dù đấy là một sự kiện không may mắn, thì nó cũng là một vụ án đã xảy ra năm năm rồi, chứ không phải xảy ra trong năm tiếng đồng hồ vừa qua.
Dylan đẩy máy cắt cỏ đến sân sau và cắt cỏ quanh xích đu của Adam. Quyết định trở lại Gospel của anh cũng dễ dàng gần như bằng với việc bỏ đi. Anh đã ra đi vào lúc mười chín tuổi và học một năm rưỡi ở UCLA[24], trước khi bỏ học để tham gia học viện cảnh sát. Anh đã là một đứa bé hai mươi mốt tuổi với lý tưởng săn bắt những gã xấu, làm thế giới trở nên an toàn hơn. Anh trở về thị trấn của mình mười năm sau, mệt mỏi với việc đánh bại những gã xấu. Anh rời Gospel khi là một chàng trai nhà quê ngây thơ với cả phân bò trong bốt. Anh trở lại khi đã trưởng thành hơn nhiều và hoàn toàn khôn ngoan hơn. Anh trở lại với lòng trân trọng những thị trấn nhỏ và những con người ở thị trấn nhỏ nhiều hơn rất nhiều. Chắc chắn, mọi người ở Gospel đều có một khẩu súng, nhưng họ không bắn lẫn nhau vì màu sắc của một chiếc khăn tay.
Điều kỳ lạ là, Dylan thậm chí đã không nhận ra anh đã mệt mỏi trong việc đương đầu với tất cả những kẻ điên khùng giết người cho đến ngày Trevor Pearson bị bắt cóc từ sân trước nhà và sau đấy được tìm thấy khi đã chết trong một cái thùng rác Dumpster. Dylan luôn có thể giữ khoảng cách giữa mình với những vụ án bạo hành, nhưng trường hợp Trevor thì khác. Tìm thấy đứa bé ấy đã thay đổi anh.
Anh trở về ngôi nhà của mình ở Chatsworth tối hôm ấy vừa nhìn thấy Adam ngồi trong chiếc ghế cao với cái cốc nhỏ Tommy trong một tay và một bịch ngũ cốc Cheerios trong tay kia, anh liền quyết định ngay khi đấy và tại lúc đấy là anh đã có đủ rỗi. Anh sẽ mang con trai anh và đi đến nơi nào khác Adam có thể chơi đùa. Nơi thằng bé có thể ra ngoài và là một đứa trẻ. Nơi nhà của nó không cần có một hệ thống báo động.
Tất nhiên, mẹ của Adam đã không quá vui vẻ về quyết định của anh. Julie đã nói rõ rằng cô ấy sẽ không chuyển đi. Anh không đổ lỗi cho cô ấy, nhưng anh cũng nói rõ y như thế rằng anh sẽ không ở lại. Họ tranh cãi về Adam, ngay cả khi chuyện thằng bé đi với Dylan chưa bao giờ thực sự là câu hỏi. Julie không phải là một người mẹ tuyệt vời, nhưng anh cũng không đổ lỗi cho cô ấy vì thế. Cô ấy chưa bao giờ biết đến mẹ đẻ của mình và dường như không có bản năng mà mọi người cho rằng phụ nữ sở hữu. Cô ấy yêu Adam, nhưng đơn giản là không biết làm gì với thằng bé.
Và Adam chính xác đã không phải là một đứa bé dễ dàng. Thằng bé bị sinh sớm và đau bụng,
làm cho vài tháng đầu tiên trong cuộc đời nó như là địa ngục đối với tất cả mọi người. Nếu nó không khóc, thì nó nôn mửa liên tục, và thay vì có mùi ngọt ngào, thơm tho của một đứa trẻ, nó hầu như luôn bốc mùi như một con cá hồi Pháp để lâu.
Dylan là người bế Adam đi lên xuống các tầng nhà vào lúc ba giờ sáng, xoa lưng và hát cho thằng bé nghe những bài ca rẻ tiền cũ kỹ. Kết quả là, khi Adam đủ lớn để giơ tay ra, thằng bé giơ tay về phía bố mình.
Sau cùng, rời bỏ Julie cũng trở nên thực sự dễ dàng. Có lẽ quá dễ dàng, khẳng định nghi ngờ ngấm ngầm của anh bấy lâu nay. Anh ở lại với cô ấy vì Adam. Quyết định của anh không dễ dàng như thế đối với Julie, nhưng cô ấy làm điều tốt nhất cho tất cả bọn họ. Cô ấy ký tên chuyển quyền chăm sóc con cho Dylan, chỉ có một yêu cầu duy nhất: Adam dành hai tuần đầu tiên của tháng Bảy để ở với cô.
Dylan đã trở về nhà với đứa con trai một tuổi của mình, và anh chưa bao giờ hối hận vì quyết định này. Theo như anh biết, Julie cũng không nuối tiếc gì. Bây giờ, cô ấy có cuộc sống mà cô ấy đã vất vả phấn đấu và luôn mơ ước. Khi anh nói chuyện với cô ấy tuần trước để xác nhận kế hoạch với Adam, cô ấy nghe có vẻ hạnh phúc hơn bao giờ hết. Cô ấy đã có thứ cô ấy muốn, và anh cũng thế. Anh có đứa con trai mà anh yêu thương hơn tất cả mọi thứ trên bề mặt trái đất này. Một cậu bé làm anh cười ngay cả khi anh vừa làm rách đầu mình. Adam là một đứa trẻ bình thường và hạnh phúc. Nó thích con chó của mình, và có một nỗi ám ảnh với những viên đá. Thằng bé thu thập chúng ở khắp nơi nó đến, như thể chúng là vàng. Nó có những hộp giày đựng đầy đá ở dưới giường. Thằng bé chỉ mang chúng ra khoe với những người lớn mà nó thích, hoặc với các cô bé ở trường mà nó muốn gây ấn tượng.
Với mặt trời đổ xuống lưng và đôi vai trần, Dylan cắt đám cỏ bên dưới xích đu và đi qua nhà kho để đến bãi cỏ chăn thả gia súc có hàng rào. Ngựa của Dylan và Adam, Atomic và Tinkerbell, đứng bên dưới bóng râm của những cây thông, gà gật, thờ ơ với âm thanh của động cơ. Khi anh
làm xong, anh đẩy chiếc máy cắt cỏ vào chuồng ngựa cũ kỹ bên trái bãi chăn thả và để nó bên cạnh chiếc John Deere.
Anh đổ đầy nước sạch vào máng nước và sau đấy hướng thẳng vòi vào mình. Cong người xuống, anh dội nước lạnh qua đầu, sau cổ và xuống hai bên mặt cho đến khi cảm thấy bộ não của mình lạnh đi. Anh đứng thẳng và lắc mình như một con chó, nước bắn tung tóe khắp nơi. Những giọt nước trượt xuống xương sống và ngực anh, ngấm vào cạp quần của chiếc quần
Levi’s mềm mại trễ xuống đến hông anh. Anh rửa sạch cỏ bám vào giày, sau đấy với đến đầu vòi nước và tắt đi. Anh nghĩ đến lúc đứng trong bếp của Paul và Shelly trưa ngày hôm đấy, rửa tay và lắng nghe cô Hope Spencer.
“Hệ thực vật và động vật,” anh càu nhàu. Ai trong cái địa ngục này lại từng sử dụng nhũng từ như ‘hệ thực vật và động vật’ chứ? Và anh cá tuyến sinh dục trái của mình rằng ý tưởng giao tiếp với thiên nhiên là mở cái mui của chiếc xe mui trần ra khi cô ta ung dung lướt đến đại lộ Santa Monica.
Anh tự hỏi có bao giờ cô mỉm cười, thực sự mỉm cười với đôi mắt xanh lơ tỏa sáng, đôi môi đầy đặn cong lên. Anh tự hỏi điều gì sẽ đặt nụ cười như thế lên trên mặt cô. Một lúc khác và một nơi khác, anh sẽ muốn thử xem sao.
Cô quá hoàn hảo. Quần áo, trang điểm, và mọi thứ của cô. Cô là kiểu phụ nữ khiến bàn tay anh ngứa ngáy muốn làm rối bù lên, nhưng vì rất nhiều lý do, cái kiểu ngứa ngáy đấy có thể đẩy anh vào rắc rối. Đặc biệt với một phụ nữ như cô. Một nhà báo chính là vấn đề lớn viết bằng những chữ cái uốn bằng đèn neon với anh và Adam.
Nhà báo dành thời gian ở những vùng hoang vu không phải là không bình thường, viết về những chỉ dẫn du lịch hay những bài báo về du lịch ba lô. Chỉ là MZBHAVN không giống như cô đã dành nhiều thời gian ở bên ngoài. Anh không biết lý do thực sự khiến cô chuyển đến Gospel nhưng anh có vài nghi ngờ về câu chuyện của cô. Tốt nhất là anh nên tránh xa khỏi cô. Tốt nhất là anh không nghĩ đến cô, bởi vì khi anh nghĩ, nó nhắc anh nhớ rằng mình đã không làm tình với ai đấy ngoài chính mình chính xác bao lâu rồi.
Anh đi hết hông nhà đến hiên nhà trước và với lấy áo. Adam đang tạo ra một đống lộn xộn với những bụi cây lần nữa, nhưng Dylan không thể sốc đủ năng lượng để quan tâm. Anh kéo chiếc áo phông qua mái tóc ướt và xỏ tay qua tay áo. Những bụi cây có thể đợi một ngày khác.
“Con làm sắp xong chưa?” anh hỏi khi nhét đuôi áo vải bông vào chiếc quần jeans. “Bố nghĩ chúng ta đi nấu những con cá hồi bắt được hôm nay đi là vừa.”
Adam đặt cái kéo lớn xuống và đút tay vào túi. “Con tìm được một viên đá đẹp. Bố có muốn xem không?”
“Chắc chắn rồi.”
Adam nhảy khỏi hiên nhà khi chiếc xe tải Dodge chuyển hướng vào lối đi bẩn thỉu của họ.
“Đừng có mất lịch sự,” Dylan cảnh báo khi anh nhìn Paris Fernwood cho xe tải dừng lại. Cô xuống xe và đi về phía họ với một cái bánh trong hai tay.
“Con không thích cô ấy,” Adam thì thầm và đút hòn đá trở lại trong túi.
“Dù sao hãy tỏ ra dễ chịu.” Anh nhìn lên và mỉm cười với Paris. “Điều gì khiến em đến đây thế?”
“Em đã nói với anh là sẽ mang cho anh một chiếc bánh Amish mà.”
“Ồ, này, điều ấy không tuyệt sao?” Anh thúc con trai mình. “Con không nghĩ chuyện này thật tuyệt à?”
Ý tưởng tỏ ra ‘dễ chịu’ của Adam là mím môi lại và không nói một từ. Nó không thích phụ nữ để ý đến bố mình. Không một chút nào. Dylan không biết chính xác tại sao, nhưng anh đoán rằng chuyện này dường như có dính líu với việc Adam vẫn đang níu giữ một ý nghĩ hoang đường rằng ngày nào đấy mẹ nó sẽ đến và sống với họ.
Dylan nhặt chiếc mũ cao bồi lên và gạt tóc ra sau bằng những ngón tay. “Anh sẽ mời em vào, nhưng anh e rằng em đã đến với không đúng lúc,” anh nói và đẩy chiếc mũ thấp xuống trán. “Adam và anh đang bận cắt những bụi cây này.” Anh với lấy một cặp kéo tỉa hàng rào và cắt rụng vài tán lá. “Adam, sao con không nhận chiếc bánh từ cô Paris và mang nó vào trong nhà đi.” Dylan phải thúc thằng bé vài lần nữa trước khi nó làm điều anh bảo.
“Dù sao em cũng thực sự không thể ở lại,” cô nói và ngoái đầu nhìn Adam bước đi. Bím tóc của cô rơi xuống vai. Cô đã tết những bông cúc dại vào mái tóc nâu mượt mà.
“Paris, em tết hoa vào tóc. Anh thích một cô gái với những bông hoa trên tóc.” Cô vỗ vỗ vào bím tóc và đỏ mặt. “Chỉ vài bông thôi mà.”
“Ừ, trông em thực sự rất đẹp,” anh nói, điều cô coi như một lời mời để tán ngẫu trong đúng
nửa tiếng đồng hồ. Đến lúc cô về, Dylan đã cắt phăng một bụi cây và đã bắt đầu cắt một bụi khác.
Tối hôm ấy, khi anh và Adam ăn tối, Adam nhìn lên từ đĩa và nói, “Nếu bố không quá tử tế với tất cả những cô kia, họ sẽ không lẩn quẩn quanh đây.”
“Tất cả những cô kia? Con đang nói về ai thế?”
“Paris và cô Chevas và ...,” nó giơ tay ra như thể đang ôm những quả dưa hấu, “ ... bố biết ai rồi đấy.”
“À bố biết ai rồi.” Dylan cắn vào miếng bánh mỳ của mình và quan sát Adam nhặt xương từ miếng cá. “Cô Chevas? Ý con là cô giáo con ở mẫu giáo đấy hả?”
“Vâng. Cô ấy thích bố.”
“Vượt ra khỏi thị trấn.”
“Đúng thế mà bố.”
“Ồ, bố không nghĩ thế đâu.” Dylan đẩy đĩa của mình sang một bên và nhìn vào đôi mắt xanh lục to của con trai. Ngay cả nếu điều Adam nói là đúng, Dylan cũng không tìm kiếm một người vợ. Và sau cùng thì, đấy là điều tất cả phụ nữ độc thân trong vòng một trăm dặm này muốn. “Con sẽ phải bỏ cái kiểu xấu tính với các quý cô đi. Con phải tỏ ra tử tế hơn.”
“Tại sao ạ?”
“Vì như thế là bất lịch sự, đấy là lý do.”
“Ngay cả với những cô xấu xí?”
“Đặc biệt với những cô xấu. Còn nhớ bố đã nói với con rằng con không thể đánh một cô gái không, không ngay cả khi cô ấy đá vào cẳng chân con? Ừ, việc này cũng như thế. Đàn ông phải tỏ ra lịch sự với các cô gái ngay cả nếu họ không thích các cô ấy. Đấy là một trong những luật bất thành văn mà bố đã nói với con.”
Adam đảo tròn mắt. “Mấy giờ rồi ạ?”
Dylan liếc nhìn đồng hồ. “Gần tám giờ. Đặt đĩa của con vào trong chậu. Sau đấy con có thể đi bật TV.” Dylan thu dọn những chiếc đĩa khác ở trên bàn và rửa chúng trong chậu. Anh lau chiếc bàn gỗ sồi nặng, xếp bốn chiếc ghế cùng kiểu lại, rồi đặt chiếc bánh của Paris vào giữa.
Sống chung một thị trấn với Paris giống như thuộc về một câu lạc bộ tráng-miệng-của-tuần. Anh thực sự mong cô thôi mang thức ăn cho anh, nhưng anh không biết nói với cô như thế nào. Anh biết ý định kết hôn của cô, tất nhiên. Quái quỷ, anh là triển vọng sáng sủa nhất trong Hạt Pearl, nhưng so sánh với những đối thủ khác, đấy không hẳn là một lời khen ngợi. Rồi còn cả Dixie Howe. Anh không biết cô ta quan tâm đến hôn nhân hay chỉ tình dục. Cả hai đều không thể được. Chỉ nghĩ thôi cũng đã làm anh run rẩy.
Ngay cả khi có người phụ nữ anh muốn đưa về nhà vào ban đêm, anh cũng không thể. Anh có một cậu con trai nhỏ, và anh không nghĩ đến việc phơi bày cho trẻ con những chuyện kiểu như thế. Anh không thể đỗ xe bên ngoài nhà của một phụ nữ quá lâu mà không bị toàn bộ thị trấn biết, nói về nó sau lưng anh, và dự đoán ngày đám cưới. Anh muốn tránh trở thành mục tiêu đồn thổi không chỉ vì Adam, mà còn vì anh là một cảnh sát trưởng, một công chức được chọn, và không có khả năng chịu đựng những kiểu tin đồn như thế. Nhất là sau khi cảnh sát trưởng Donnelly đã bị bắt gặp với cái quần đang kéo xuống.
Dylan quăng miếng giẻ lau bàn vào bồn rửa bát và đi đến lối đi dẫn đến phòng khách. Anh dựa một vai vào tường khi nhạc hiệu chương trình truyền hình yêu thích của Adam tràn ngập căn phòng, Thiên đường trên Trái đất. Những đám mây mịn như lông tơ, bầu trời xanh và khuôn mặt xinh đẹp của mẹ Adam chiếm hết màn hình. Những lọn tóc vàng đu đưa quanh mặt cô ấy như thể cô ấy thực sự là thiên thần mà cô ấy đang đóng. Người yêu của nước Mỹ, Juliette Bancroft đảo tròn mắt hướng lên thiên đường và một ánh sáng xuất hiện trên đầu cô.
Julie mà anh biết không có gì giống với một thiên thần cô vào vai. Khi cô ấy sống với anh cô ấy không nói năng nhẹ nhàng, và theo như anh có thể nhớ, cô ấy chưa bao giờ dành được một giờ trong nhà thờ. Quỷ tha ma bắt, tóc cô đúng ra là màu nâu, màu tóc của con trai họ.
“Ngồi gần con đi, bố.”
Dylan đẩy người ra khỏi ngưỡng cửa và ngồi cạnh Adam. Giống như mọi khi, Adam trèo vào
lòng và ngả đầu trên vai Dylan. Và Dylan luôn băn khoăn Adam có thực sự hiểu rằng những gì xảy ra trên ti vi là không thật. Rằng mẹ của nó không thực sự là một thiên thần đi gieo rắc lòng tốt và cứu vớt những linh hồn. Họ nói về chuyện này nhiều lần rồi, và Adam luôn nhún vai và nói rằng nó biết. Dylan không chắc như thế. “Nhớ điều chúng ta nói tuần trước không?” anh hỏi.
“Có ạ mẹ không phải là thiên thần thật. Mẹ chỉ đóng vai một thiên thần.” “Mẹ con là một diễn viên.”
“Con biết,” Adam trả lời, rồi bị sao nhãng bởi màn mở đầu ôm Adam lại gần và hôn lên đỉnh đầu nó. “Bố yêu con, anh bạn ạ.”
“Con cũng yêu bố, bố ạ.”
Hope nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ của số Hai Timberline, ngắm mặt trăng lưỡi liềm treo trên đỉnh dãy núi Sawtooth như một đồ trang trí đặt trên ngọn cây thông Giáng sinh. Ánh sáng bàng bạc của nó trải dọc hồ Gospel.
Những ngôi sao chen chúc trên bầu trời đêm đen như mực, gần như ngôi này chồng trên ngôi kia, và Hope chắc chắn cô chưa bao giờ nhìn thấy nhiều sao như thế trong cuộc đời. Giống như đêm trước, cô lại bị sự tĩnh lặng tuyệt đối xung quanh tấn công. Không ô tô, không còi, không máy bay trực thăng bùm bùm trên đầu. Thậm chí, không có tiếng sủa của con chó hàng xóm làm cô phát điên.
Sự tập trung của cô chuyển sang hình ảnh phản chiếu của mình trong gương và ánh sáng dọi xuống hiên nhà và khoảng sân bẩn thỉu. Gospel của Idaho phải là nơi cô đơn nhất trên hành tinh.
Cô buông tấm rèm xanh lục dày. Cô đã hoàn thành được rất nhiều việc kể từ ngày đầu tiên. Tầng một của số Hai Timberline đã sạch, cô đã lấy tấm da gấu xuống khỏi tường và trải nó xuống sàn để che vết máu. Cô đã dỡ một số hộp giấy đã đến cùng với đồ đạc của cô và dọn dẹp
phòng ngủ đối diện với căn phòng có dơi. Cô bày thêm một số vật dụng cá nhân và treo quần áo vào trong tủ. Có rất nhiều thứ để làm, nhưng đã quá thời gian cô phải làm việc.
Cô đi đến phòng ăn và bật máy tính xách tay và một chiếc máy tính để bàn khác vừa đến chiều hôm nay. Cô đặt một chiếc gối êm lên trên chiếc ghế cứng, sau đấy ngồi vào chiếc bàn dài. Sau câu chuyện về chiếc xương gà đêm hôm trước, cô cho rằng cảm hứng của cô đã trở lại. Với những ngón tay đặt nhẹ trên bàn phím, cô nhắm mắt lại và giũ sạch đầu óc giải thoát khỏi những vướng ngại.
Nửa tiếng đồng hồ sau, cô đứng phắt dậy. “Chết tiệt,” cô chửi thề khi chộp lấy một chai Windex và một miếng vải mềm. Khi một giờ đồng hồ khác trôi qua và lau dọn ngôi nhà không mở ra cảm hứng cho cô, cô lôi bộ đồ sửa móng tay ra. Cô chọn một màu sơn phù hợp với tâm trạng của mình và sơn những móng tay bằng một màu đỏ máu sẫm.
Đỏ máu. Cô ngoái nhìn lò sưởi trong căn phòng khác qua vai. Cô không viết những câu chuyện về tội ác thực. Cô không viết về người thật, hoặc những bí mật và ma quỷ xô đẩy họ.
Hope đứng lên và thổi móng tay khi cô bước vào phòng khách. Cô đẩy tấm da gấu ra chỗ khác bằng ngón chân và nhìn xuống vết nâu đen trên sàn nhà gỗ cứng. Cô tự hỏi điều gì đã trở nên quá kinh khủng để vị cảnh sát trưởng cũ cảm thấy rằng cách duy nhất để thoát khỏi là một viên đạn xuyên qua đầu.
Shelly đã nói đến điều gì đấy về sex quái dị. Con người không tự sát bởi vì họ thích được tát vào mông, và Hope tự hỏi những thứ kỳ quái gì đã có trong ngôi nhà này là gì và những người trong thị trấn biết được bao nhiêu về câu chuyện này.
Chương 5
Phụ Nữ Tiệc Tùng Khi Còn Thức
Quán bar Buckhorn là cơ sở kinh doanh sống sót lâu đời nhất ở Gospel. Xây dựng lại từ đám cháy năm ‘32 và được dựng lên nhiều năm trước Nhà thờ Chúa Jesus cứu thế của chúng ta, nó cũng còn giữ được phong cách mộ đạo trên những bức tường bằng gỗ đốn thô. Những tối thứ Tư là đêm ‘mua một tặng một’ cho đến mười giờ, và không có mấy người đến Buckhorn có thể
từ chối hai ly bia với giá hai đô.
Có lẽ quán Buckhorn quá nổi tiếng với những người dân địa phương bởi vì, giống như họ, nó chưa bao giờ giả vờ là một thứ gì khác mà nó không phải.
Buckhorn đơn giản là một nơi để nốc bia hoặc tham gia vài trò cá cược ở căn phòng phía sau, hay nhảy múa theo nhịp hai bốn với nhạc của Vince Gill[25]. Trong suốt những tháng mùa hè, những khách hàng thường xuyên chịu đựng khách du lịch theo cách tốt nhất họ có thể, nhưng không ai bị đổ lỗi nếu một người đồng bằng buộc phải dời khỏi một chiếc ghế yêu thích.
Âm nhạc được chọn phát ra từ chiếc máy phát nhạc là nhạc đồng quê, tuyệt đối là nhạc đồng quê, và phải đủ to để dìm âm thanh rầm rầm của cái máy điều hòa rệu rã. Năm ngoái, một gã khốn-thông-minh nào đó đã lén vào quán bar và bật George Jones với Barry Manilow trong hàng giờ liền. Barry chưa hát được nửa bài ‘Tôi viết những bài hát’ trước khi Hayden Dean nhấc một chiếc ghế quầy bar và giải thoát chiếc máy phát nhạc cũ khỏi nỗi đau khổ của nó. Bây giờ, những chiếc ghế được gắn chặt vào sàn nhà.
Ông chủ của Buckhorn, Burley Morton chưa bao giờ có con mắt thực sự sắc sảo về cách bày trí. Nhưng ông ta thực sự giỏi giang trong cách bố trí để chiếc máy nghe nhạc mới nhấp nháy theo tiếng đàn ghi-ta thép[26] và phối hợp với chiếc đèn Coors lớn phía sau quầy bar. Ngoại trừ phòng đánh cá ở phía sau, bước vào bar Buckhorn giống như bước vào một hang động sáng mờ mờ. Những cư dân gọi nó là ngôi nhà thứ hai của họ thích nó theo cách đấy.
Hope đứng ở lối vào, dành cho mắt cô một phút để điều chỉnh. Mặc dù cô có thể nhìn thấy rất ít qua bóng tối và biển chỉ dẫn bằng đèn neon sáng, nơi này nhắc cô nhớ đến một quán bar ở Las Vegas nơi lần đầu tiên cô gặp cảm hứng cho Micky - Yêu tinh Ma thuật, Myron Lambardo. Nó nồng nặc mùi bia, khói thuốc lá của nhiều thập kỷ và mùi gỗ đốn thô. Lẽ ra điều này có thể cảnh báo cô nên quay người và bỏ chạy nhưng cô hơi tuyệt vọng trong những ngày này. Cô nhét tai nghe vào chiếc túi sau hông và dịch sang bên phải vài bước để một anh chàng cao bồi
to lớn có thể chen qua. Vai cô chạm vào một bảng thông báo lớn, và cô ngước mắt lên để nhìn vào tờ bướm ghim bằng một cái nút. Đấy là một mẫu đăng ký, mời mọi người tham gia:
Ngày Bốn Tháng Bảy Hàng Năm Cuộc Thi Ăn Hàu Rocky Mountain
Và Ném Toilet.
Dĩ nhiên cô đã nghe về việc ăn hàu. Khi cô lớn lên, gia đình cô thường tổ chức những bữa tiệc nướng hải sản. Một cuộc thi ném toilet lại là một nét mới, nhưng xét đến những gì cô đã biết về thị trấn này, điều đấy không đáng ngạc nhiên chút nào. Trong năm ngày ở Gospel, cô khám phá ra vài thứ kỳ lạ hay hay. Như là số lượng súng trưng bày công khai. Dường như có luật lệ nào
đấy rằng nếu bạn sở hữu một chiếc xe tải, bạn phải có ít nhất hai đường rãnh xoắn ở cửa sổ phía sau. Nếu bạn đeo một chiếc thắt lưng, nó phải có cái khóa có kích thước bằng đầu của bạn, và nếu bạn có một cặp gạc nai, nó phải được gắn trên nhà, chuồng ngựa hoặc xe tải của bạn. Ngụ ý phổ biến được dán trên những chiếc xe có thể tổng kết trong một câu: Nếu bạn không phải một cao bồi, ăn cứt và chết đi.
Hope liếc nhìn đồng hồ thể thao của mình và cho rằng cô sẽ có một tiếng đồng hồ trước khi trời tối. Cô không định đến Buckhorn tí nào, nhưng cô đang lững thững đi bộ ngang qua và nghĩ cô nên ngó qua một chút. Cô đã không thể viết một bài báo ra hồn kể từ câu chuyện về cái xương gà. Walter đã email cho cô sáng nay và muốn có câu chuyện nào đấy ấn tượng. Ưu tiên chuyện liên quan đến Người khổng lồ, hay người ngoài hành tinh, hoặc là Elvis. Anh ta đang mất kiên nhẫn với cô, và cô hy vọng rằng cô sẽ tìm thấy người đóng vai Người khổng lồ Elvis trốn bên trong Buckhorn này.
Khi mắt Hope đã điều chỉnh được với ánh sáng, cô tiến đến một khoang vắng ở phía xa của tòa nhà. Cô nhận thức rất rõ những ánh mắt đuổi theo cô, như thể người ta chưa từng nhìn thấy một chiếc quần soóc đen bó chặt và một chiếc áo yếm thể thao dài đến trên bụng. Cô đã chải tóc ra sau thành một đuôi gà và trang điểm rất nhẹ.
Cô gọi bia Corona, được mang đến một lon Bud Lite, và lắng nghe trò đánh cá ở phía sau. Qua tiếng rên rỉ của đàn ghi-ta thép từ máy phát nhạc, cô có thể nghe thấy cặp đôi trong khoang
ngồi đằng sau cô thảo luận về người đồng bằng. Nghe lén càng lâu, cô càng hiểu ra rằng có vài cuộc đánh cá đang diễn ra. Dường như với vụ tai nạn mới nhất, Otis Winkler giờ đang dẫn đầu với ba vụ ngộ độc sồi, hai vụ đứt dây chằng mắt cá chân, một vụ gãy ngón cái, và một vụ gãy xương sườn.
Hope lắng nghe cẩn thận, sau đó hỏi mượn một cây bút chì từ cô bồi bàn. Khi cô rót bia vào một cái cốc nhựa đỏ, cô túm lấy một tờ giấy ăn và bắt đầu viết:
Người Ngoài Hành Tinh Ngầm Phá Hoại Trong Vùng Núi Cao Của Idaho
Trong một thị trấn buồn tẻ phần nào nhắc nhớ đến chương trình truyền hình cũ - Mayberry, những người ngoài hành tinh lừa khách du lịch không đề phòng ...
Dylan chạm đến cánh cửa quán bar Buckhorn bằng cùi bàn tay và đẩy nó va sầm vào tường. Anh hoàn toàn không có tâm trạng cho những chuyện vớ vẩn này. Hai tay phó của anh đang giải quyết một vụ tai nạn hai ô tô khủng khiếp ở phía nam của Banner Summit, một người khác đang nghỉ, và Lewis vẫn còn ở cách đây nửa giờ đồng hồ. Điều đó dẫn đến việc Dylan phải đeo cái thắt lưng công vụ lên chiếc quần Levi’s, gắn ngôi sao vào túi chiếc áo sơ mi đơn giản, và đến để giải quyết với những gã ngốc ở Buckhorn.
Những âm thanh hỗn tạp của nắm đấm đập trúng da thịt, những tiếng la hét đặt cá cược, và bài hát ‘Chào em yêu’ của Conway Twitty tràn ngập Buckhorn.
Dylan chen lấn giành đường qua những người quan sát và vừa vặn tránh được một cú đấm mạnh nhắm đến Emmett Barnes.
Ai đó kéo phích cắm của Conway và bật đèn vừa đúng lúc đối thủ khác - Hayden Dean ra một cú đấm nhắm đúng đến cằm Emmett và khiến hắn ta loạng choạng trong đám đông. Dylan không ngạc nhiên khi thấy Emmett có liên quan. Trong một ngày đẹp trời, Emmett là một gã khốn tầm thường với sự rắc rối của một gã đàn ông bé nhỏ, và hôm nay không có vẻ gì giống
với một ngày đẹp trời. Hắn hùng hổ và tạo thế như một con pitt bull[27]. Emmett chỉ là một tay nốc đầy bia muốn được thư giãn cơ bắp và thêm nồng độ cồn vào đống lộn xộn.
Dylan ra hiệu cho ông chủ quán bar ôm lấy Hayden như một con gấu lớn. Burley Morton đã không vớ được biệt hiệu của mình, vì ông sinh ra đã nhỏ con.
Dylan bước ra trước mặt Emmett và đặt một bàn tay lên ngực gã đàn ông để ngăn cản. “Việc đánh đấm được chấm dứt,” anh nói.
“Tránh đường cho tôi, cảnh sát trưởng!” Emmett hét lên, mắt hắn bừng bừng giận dữ. “Tôi vẫn còn chưa đá xong cái mông xương xẩu của Hayden.”
“Sao anh không bình tĩnh lại đi?”
Thay vì thế, Emmett quăng nắm đấm ngay bên dưới mắt trái của Dylan. Lực của cú đấm hất đầu Dylan ra sau, đánh bật mũ của anh, và một cơn đau nhói xuyên qua đầu anh. Anh khóa cú đấm tiếp theo bằng cẳng tay và đấm vào eo Emmett. Không khí hất tung ra khỏi phổi của gã đàn ông kia, hắn ta gập người xuống, và Dylan tận dụng triệt để tư thế của hắn và quăng một cú móc từ dưới lên vào mặt Emmett khiến hắn đổ xuống đất. Không cho Emmett cơ hội hồi phục, anh lăn hắn nằm sấp xuống và còng tay lại sau lưng. “Giờ thì, anh chỉ cần nằm đấy và luyện tập quyền được im lặng của mình,” anh nói khi vỗ vào túi của Emmett và thấy chúng trống không.
Anh đứng lên, đặt bàn chân đi bốt lên giữa lưng Emmett, và ném một cặp còng tay khác cho Burley, ông ta khóa tay Hayden gầy gò lại mà không gặp vấn đề gì.
“Được rồi,” Dylan hỏi đám đông đột nhiên im lặng, “Chuyện gì xảy ra ở đây?” Anh đưa một tay lên xương gò má và nhăn nhó.
Rất nhiều người nói cùng một lúc.
“Emmett mua cho cô ấy một chầu.”
“Cô ta nói gì đấy với hắn và hắn bắt đầu cãi cọ với cô ta.”
“Đấy là lúc Hayden bước vào.”
Emmett nhúc nhích và Dylan ấn gót giày lên xương sống hắn cho đến khi hắn thôi vặn vẹo. “Ai?” Anh nhìn vào những ngón tay mình, anh không chảy máu, nhưng anh sẽ có một đồng tiền bóng loáng vào buổi sáng.
Mọi người chỉ vào một khoang ngồi cách đấy nhiều bước chân. “Cô ta.” Và ở kia, đứng trên mặt bàn, đông cứng dính vào tường như một con nai mắc kẹt giữa đèn pha ô tô là cô Hope Spencer. Đôi mắt mở lớn, áo thiếu vải, và bia tung tóe khắp nơi. Cô nắm chặt một nắm giấy ăn vào ngực.
“Đứng lên, và tôi sẽ trói chân tay anh lại,” anh nói với Emmett trong lúc bước qua hắn ta. Từ kinh nghiệm trong quá khứ với Emmett, anh biết rằng khi hắn đã ngã xuống, đe dọa trói chân tay của hắn lại với nhau thường có tác dụng khuất phục hắn ta.
Dylan bước về phía Hope và giơ tay ra. “Sao cô không nhảy xuống từ trên đấy, máam?” Cô e dè bước ba bước đến mép bàn và nhét đám giấy ăn vào cái túi ở hông. Cô đặt lòng bàn tay lên vai anh, bàn tay anh với lên và vòng quanh vòng eo trần của cô. Khi anh nhìn vào đôi mắt xanh lơ đờ đẫn vì sợ hãi, ngón tay cái của anh tự nhiên quệt vào làn da mềm mại và ấn vào vùng bụng phẳng của cô. Anh nhấc cô lên khỏi bàn và chầm chậm đặt cô đứng trước anh.
“Cô ổn chứ?” anh hỏi. Ánh mắt anh hạ từ mặt đến bàn tay anh đặt trên eo cô. Hơi nóng làn da trần của cô làm ấm lòng bàn tay anh và anh giữ chúng ở đấy, áp sát vào làn da mềm, mịn. Cô có mùi của bia, và Buckhorn, và của hoa nữa. Ham muốn cuộn xuống bụng anh và làm những ngón tay anh cong lại, sau cùng anh thả tay xuống hai bên sườn.
“Tôi nghĩ hắn sẽ đánh tôi,” cô nói, siết chặt nắm tay trên vai anh. “Năm ngoái tôi tham gia học lớp tự vệ, và tôi nghĩ tôi có thể tự lo cho mình. Nhưng tôi bị đông cứng lại. Tôi không phải là Kẻ hủy diệt.” Hơi thở của cô đứt đoạn, và với từng hơi thở ngắn gấp gáp, ngực cô nâng lên trong chiếc áo thiếu vải.
Anh nhìn thẳng vào mặt cô, không có mỹ phẩm và màu sắc, vẻ ngoài lạnh lùng thường trực của cô đã biến mất.
“Cô trông không giống Kẻ hủy diệt.”
Cô lắc đầu và không có vẻ như cô sẽ vượt qua nỗi sợ hãi của mình trong thời gian sớm. “Đấy
là biệt hiệu của tôi ở lớp. Tôi rất nóng nảy.”
“Cô sẽ ngất xỉu à?”
“Không.”
“Cô chắc chứ?”
“Chắc.”
“Vậy tại sao cô không tiếp tục và hít một hơi thở sâu nữa đi?”
Cô làm như anh bảo và anh quan sát cô hít vào những hơi thở đều đặn. Cô có thể không nhận thấy rằng cô đang níu lấy anh, nhưng anh nhận thức rất rõ sức nặng cái níu của cô. Anh cảm nhận nó ở mọi nơi, sưởi ấm anh như thể họ còn hơn cả những người xa lạ. Như thể điều tự nhiên nhất trên thế giới này là để anh hạ miệng xuống miệng cô và hôn cô cho đến khi anh làm mắt cô đờ đẫn hơn một chút, hơi thở của cô ngắt quãng hơn một chút. Dylan với lấy tay cô và đưa nó ra khỏi vai anh.
“Cô cảm thấy tốt hơn chưa?” anh hỏi, đoán rằng đã quá lâu anh không ở với một người đàn bà nên một cái đụng chạm trên vai cũng khiến anh nóng lên.
Cô gật đầu.
“Tại sao cô không nói cho tôi biết chuyện gì xảy ra?”
“Tôi đang ngồi ở kia, làm việc của tôi, rồi cái gã thấp hơn đi đến và đặt một ly bia trên bàn tôi. Tôi nói với hắn không, cám ơn, nhưng hắn vẫn ngồi xuống.”
Lông mày cô cau lại, nhưng cô không giải thích gì thêm.
“Và?” Dylan mớm lời.
Và tôi cố tỏ ra dễ chịu, nhưng hắn không chịu hiểu ẩn ý đấy. Vì thế tôi cho rằng tôi cần làm rất rõ ràng rằng tôi không có tâm trạng bầu bạn. Anh biết đấy, để không có hiểu lầm nữa.”