🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gái Công Xưởng Ebooks Nhóm Zalo Gái Công Xưởng Tác giả: Leslie T. Chang Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Kích thước: 16 x 24 cm Dịch giả: Lục Hương Số trang: 504 Ngày xuất bản: 04/2011 Soát lỗi, làm lại ebook: bun_oc & tamchec Ngày hoàn thành: 08/09/2015 Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach Giải thưởng văn chương của Hội Văn bút (PEN) Hoa Kỳ năm 2009 về thể loại sách phi hư cấu nghiên cứu. Nằm trong danh sách 100 cuốn sách đáng nêu nhất trong năm 2008 của tạp chí New York Times. “Ngày nay Trung Quốc có khoảng 130 triệu lao động di trú. Trong các nhà máy, nhà hàng, công trường xây dựng, thang máy, dịch vụ chuyển phát, dọn dẹp nhà cửa, chăm trẻ, nhặt rác, tiệm cắt tóc, và cả nhà thổ nữa, hầu hết mọi lao động đều là dân nông thôn gốc. Ở các thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải, người di trú chiếm khoảng một phần tư dân số, ở các thành phố công nghiệp miền Nam Trung Quốc, họ vận hành các dây chuyền lắp ráp của nền kinh tế xuất khẩu. Tổng cộng lại, họ tạo nên dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử, gấp ba lần số người đã di cư từ châu Âu sang Mỹ trong suốt một thế kỷ.” Leslie T. Chang, cựu phóng viên Wall Street Journal, viết những dòng trên vào tháng Ba năm 2006, khởi đầu cho cuốn sách về những lao động nữ người Trung Quốc ở miền Nam nước này. Các cô gái rời quê nhà, hòa mình vào thế giới công xưởng khắc nghiệt, nơi bạn thậm chí sẽ mất bạn trai chỉ vì đánh mất cái điện thoại, hoặc một chút kỹ năng sử dụng máy tính đủ đưa bạn lên một tầng lớp mới trong xã hội. Trong cuộc vật lộn mưu sinh, họ đã nếm trải đủ mọi thành công cũng như thất bại cay đắng. Và vượt lên trên hầu hết các cuốn sách thời thượng về Trung Quốc khác, Gái công xưởng còn là bức tranh đầy thương cảm thiết tha, lưu lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về một lớp người đang tạo ra hàng hóa công nghiệp và tiêu dùng cho cả thế giới. Ấn tượng đó đồng thời mang lại một cái nhìn hai chiều về nước Trung Quốc hiện nay: Sự thịnh vượng kinh tế cùng những cái giá phải trả. “Mọi người thường hay hỏi tôi: “Phụ nữ Trung Quốc ngày nay như thế nào?” Thay cho câu trả lời, tôi sẽ giới thiệu với họ Gái công xưởng của Leslie T. Chang, một cuốn sách tuyệt vời. Những câu chuyện của các cô gái công xưởng không chỉ đầy mê hoặc, bi kịch và hứng khởi – những ví dụ thực thụ về sự bền bỉ, tính chịu đựng, và nỗi cô đơn.” - Lisa See, tác giả Tuyết hoa và cây quạt bí mật Sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard chuyên ngành lịch sử và văn học Mĩ (1991), Leslie T. Chang đến Prague (CH Séc) làm phóng viên với mong muốn cưỡng lại sức hút của dòng máu Trung Hoa và nề nếp truyền thống của Trung Quốc mà chị mang trong mình. Nhưng với lợi thế biết tiếng Hoa, năm 1993, Chang được cử làm phóng viên cho tờ Wall Street Journal trong mười năm tại Hồng Kông, Đài Loan và Bắc Kinh. Kết quả của quá trình ấy là tác phẩm đầu tay: Gái công xưởng. Leslie T. Chang cũng cộng tác với tạp chí National Geographic. Hiện chị sống tại bang Colorado (Hoa Kỳ) với chồng là Peter Hessler, một cây bút cũng chuyên về Trung Quốc. Mục lục Phần 1: Thành phố 1. Ra đi 2. Thành phố 3. Chết nghèo là có tội 4. Chợ việc làm 5. Những cô gái công xiềng 6. Tấm bia vô danh 7. Vuông và tròn 8. Hẹn hò tám phút 9. Tiếng Anh kiểu dây chuyền lắp ráp Phần Hai: Làng quê 10. Làng quê 11. Nhà sử học trong gia tộc tôi 12. Thương xá Hoa Nam 13. Tình yêu và tiền bạc 14. Lăng mộ của hoàng đế 15. Sức khỏe hoàn hảo CÁC NGUỒN TƯ LIỆU LỜI CẢM ƠN Tặng cha mẹ tôi Phần 1: Thành phố 1. Ra đi Khi gặp một cô gái đến từ một nhà máy khác, bạn sẽ đánh giá nhanh cô ấy một lượt. Năm mấy thế? Các bạn hỏi nhau, như thể không phải nói về con người, mà là đang nói về việc sản xuất ô tô vậy. Bao nhiêu một tháng? Có bao ăn ở không? Thêm giờ thì bao nhiêu? Rồi sau đó bạn sẽ hỏi cô ấy quê ở tỉnh nào. Bạn không bao giờ hỏi tên cô ấy cả. Có một người bạn thực sự trong nhà máy không phải chuyện dễ dàng. Mười hai cô gái ngủ chung một căn phòng, và trong khoảng không gian chật hẹp của nhà tập thể ấy, tốt hơn hết là giữ bí mật cho riêng mình. Một số cô gái vào làm trong nhà máy bằng chứng minh thư đi mượn và không bao giờ nói tên thật của mình cho bất cứ ai. Một số cô chỉ nói chuyện với những người cùng quê, nhưng làm vậy cũng vẫn mạo hiểm: Tin đồn lan từ nhà máy về đến làng rất nhanh, và khi bạn trở về, tất cả các bà các cô trong làng đều biết bạn kiếm được bao nhiêu một tháng, bạn tiết kiệm được bao nhiêu hay bạn có đi chơi với anh chàng nào hay không. Khi có một người bạn, bạn có thể làm mọi thứ cho cô ấy. Nếu một người bạn bỏ việc, và không có nơi nào để đi, bạn sẽ chia sẻ với cô ấy cái giường chật hẹp của mình bất chấp rủi ro phải chịu mười đồng Nhân dân tệ (khoảng 1,25 đô la) tiền phạt nếu bị bắt gặp. Nếu cô bạn của bạn làm việc ở xa, bạn sẽ dậy sớm trong một ngày nghỉ hiếm hoi và ngồi hàng giờ trên xe buýt, đồng thời, cô ấy cũng sẽ nghỉ làm – lần này, là một trăm đồng tiền phạt – để dành cả ngày với bạn. Bạn có thể làm việc ở một nhà máy bạn không thích, hoặc nghỉ việc ở một nhà máy bạn thích, vì một người bạn yêu cầu như thế. Bạn bè viết thư cho nhau hàng tuần, mặc dù các cô gái đã đi làm lâu hơn coi đó là trò trẻ con. Thay vào đó, họ gửi tin nhắn qua điện thoại di động. Bạn bè cãi nhau rồi bỏ nhau cũng là chuyện thường, bởi cuộc sống thay đổi quá nhanh chóng. Điều dễ xảy ra nhất trên đời này, chính là đánh mất mối liên hệ với một ai đó. Ngày tuyệt vời nhất trong tháng là ngày phát lương. Nhưng theo một góc độ nào đó, nó cũng là ngày tệ hại nhất. Sau khi bạn đã làm việc chăm chỉ suốt một thời gian dài, chứng kiến số tiền bị cắt đi chỉ vì những chuyện hết sức vớ vẩn là một điều đáng phẫn nộ: đến muộn vài phút vào một buổi sáng, hoặc nghỉ nửa ngày vì mệt, hoặc phải trả thêm tiền để đổi đồng phục mùa đông sang mùa hè. Trong ngày phát lương, mọi người đều xúm đông xúm đỏ ở bưu điện để gửi tiền về cho gia đình. Các cô gái mới đến đều rất phấn khích gửi tiền về, còn các cô đã ở lâu hơn thì cười chế giễu họ. Một vài cô lập sổ tiết kiệm cho riêng mình, đặc biệt là khi các cô đó đã có bạn trai. Mọi người đều biết cô nào tiết kiệm được nhiều nhất và đã tiết kiệm được mấy nghìn Nhân dân tệ. Tất cả cũng biết ai là người tiết kiệm được ít nhất, với nào là son môi, những chiếc điện thoại di động lấp lánh ánh bạc, mặt dây chuyền hình trái tim, và cả nhiều đôi giày cao gót nữa. Cả ngày các cô gái đều nói chuyện bỏ việc. Công nhân bắt buộc phải làm việc ở đây ít nhất sáu tháng, thậm chí là sau đó, đơn xin thôi việc cũng chưa chắc đã được chấp nhận. Nhà máy giữ lại hai tháng lương đầu của tất cả các công nhân; ra đi mà không được chấp nhận đồng nghĩa với việc mất số tiền đó và bắt đầu lại từ đầu ở một chỗ khác. Có một sự thật về đời công nhân nhà máy mà bạn không thể nào biết được từ bên ngoài: Vào làm trong một nhà máy thì dễ. Ra khỏi đó mới khó. Con đường duy nhất để tìm một công việc tốt hơn chính là bỏ công việc hiện tại. Việc phỏng vấn đòi hỏi phải xin nghỉ làm, và người chủ mới mong đợi bạn bắt đầu công việc ngay lập tức. Từ bỏ một công việc cũng là sự đảm bảo tốt nhất để có một công việc mới. Áp lực của chuyện tìm một chỗ để ăn và ngủ sẽ thúc đẩy bạn tìm việc mới nhanh hơn. Các cô gái thường bỏ việc trong nhà máy theo từng nhóm, tìm kiếm sự động viên từ số đông và hứa sẽ vào làm chung trong nhà máy mới, mặc dù điều ấy hóa ra thường là không thể thực hiện được. Điều dễ xảy ra nhất trên đời này, chính là đánh mất mối liên hệ với một ai đó. *** Lỗ Thanh Mẫn sống một mình trong một thời gian dài. Chị gái cô làm việc trong một nhà máy ở Thâm Quyến, thành phố công nghiệp đang phát triển nhanh chóng cách đó một giờ đi xe buýt. Bạn bè đồng hương của cô rải rác ở các nhà máy khắp một dải dọc bờ biển Trung Quốc, nhưng Mẫn, như bạn bè cô vẫn gọi, không liên lạc với bất cứ ai. Đây là vấn đề liên quan đến lòng tự trọng: bởi vì cô không thích nơi mình đang làm việc, cô không nói với ai mình đang ở đâu. Đơn giản là cô biến mất khỏi tầm nhìn của mọi người. Nhà máy nơi cô làm việc có tên Carrin Electronics. Một nhà máy của Hồng Kông, chuyên sản xuất đồng hồ báo thức, máy tính điện tử, và lịch điện tử, loại hiển thị ngày giờ ở các thành phố trên khắp thế giới. Nhà máy trông cũng khá đàng hoàng khi cô đến phỏng vấn vào tháng Ba năm 2003: các khu nhà lợp mái tôn, một cái sân xi măng, một cổng xếp kéo bằng kim loại đóng kín. Cô không được phép vào trong cho tới khi cô được nhận vào làm việc. Các công nhân ngủ chung mười hai người một phòng, trên những chiếc giường chật hẹp cạnh nhà vệ sinh; những căn phòng đều dơ dáy bẩn thỉu và bốc mùi. Đồ ăn trong căng tin cũng tệ: mỗi bữa gồm có cơm, một món thịt hoặc rau, và canh, mà canh thì lõng bõng toàn nước là nước. Một ngày ở dây chuyền lắp ráp kéo dài từ tám giờ sáng đến nửa đêm – mười ba tiếng làm việc và hai lần nghỉ ăn cơm – và các công nhân làm việc hàng ngày trong liên tục nhiều tuần liền. Thỉnh thoảng họ không phải làm thêm giờ vào chiều ngày thứ Bảy, đó là thời gian nghỉ ngơi duy nhất. Các công nhân kiếm được chừng bốn trăm Nhân dân tệ một tháng – tương đương năm mươi đô la – và gần gấp đôi chỗ ấy khi làm thêm, nhưng thường xuyên bị trễ tiền lương. Nhà máy sử dụng cả ngàn lao động, hầu hết trong số đó là phụ nữ, cả những cô gái trẻ mới bước chân ra khỏi nhà đến những người đàn bà hơn ba mươi đã có gia đình. Bạn có thể đánh giá chất lượng của chỗ làm việc thông qua số lượng những người thiếu vắng: các cô gái trẻ tuổi đôi mươi, lực lượng tinh nhuệ của các nhà máy công xưởng. Khi Mẫn tưởng tượng ra cảnh mình sẽ ngồi bên dây chuyền lắp ráp hàng ngày trong mười năm tới, cô đã vô cùng kinh hãi. Cô mới có mười sáu tuổi. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên bước vào nhà máy, Mẫn đã muốn từ bỏ công việc này, nhưng cô đã cam kết sẽ làm việc ít nhất sáu tháng. Đó cũng là một dịp tốt để cô rèn luyện, và trước mắt các lựa chọn của cô cũng khá là hạn chế. Tuổi đi làm theo luật định là mười tám, song những người mười sáu hoặc mười bảy cũng có thể nhận công việc đó với thời gian làm việc ngắn hơn. Thông thường chỉ có một loại chủ lao động thoải mái phá rào Luật Lao động – “những nhà máy bẩn thỉu nhơ nhuốc nhất,” Mẫn gọi như thế –mới thuê những người ít tuổi như cô. Trong tuần làm việc đầu tiên, Mẫn bước sang tuổi mười bảy. Cô nghỉ một nửa ngày và một mình lang thang trên phố, mua vài món bánh kẹo và ăn một mình. Cô không hề có khái niệm con người ta làm gì để giải trí. Trước khi lên thành phô, cô chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về cái gọi là nhà máy, hết sức mờ nhạt, cô tưởng tượng nó là cả một cộng đồng sống động quần tụ với nhau. “Tôi nghĩ rằng làm việc trong dây chuyền lắp ráp sẽ rất vui,” cô nói sau này. “Tôi nghĩ sẽ có rất nhiều người cùng làm việc với nhau, bận bịu, chuyện trò và nô đùa vui vẻ. Tôi nghĩ công việc sẽ rất thoải mái. Nhưng hoàn toàn không phải vậy.” Nói chuyện trong giờ làm bị cấm và sẽ bị phạt năm Nhân dân tệ. Thời gian nghỉ đi vệ sinh chỉ có mười phút và phải đăng ký vào danh sách. Mẫn làm ở bộ phận kiểm định chất lượng, kiểm tra các thiết bị điện tử khi chúng chạy qua trên dây chuyền lắp ráp để chắc chắn rằng các nút ấn hoạt động, những mảnh nhựa đã ghép vào nhau, và pin đã được lắp đúng chiều. Cô không phải một công nhân kiểu mẫu. Cô cứ nhí nhách liên tục và hát với những người phụ nữ khác cùng dây chuyền. Ngồi yên một chỗ làm cô cảm thấy tù túng như chim trong lồng, vì vậy cô thường xuyên ra nhà vệ sinh chỉ để nhìn thấy ngọn núi xanh gợi nhớ về quê nhà qua khung cửa sổ hẹp. Đông Quản[1]là một thành phố công nghiệp nằm ở vùng á nhiệt đới phì nhiêu màu mỡ, và có vẻ như Mẫn là người duy nhất để ý đến điều đó. Vì cô mà nhà máy đã đặt ra luật lệ giới hạn công nhân chỉ được đi vệ sinh một lần trong bốn tiếng; mức phạt nếu vi phạm là năm Nhân dân tệ. Sau sáu tháng, Mẫn đến gặp sếp của mình, một người đàn ông tầm từ hai mươi tuổi đến ba mươi tuổi và nói cô muốn nghỉ việc. Anh ta đã từ chối. “Năng suất của cô ở dây chuyền lắp ráp rất không tốt,” ông chủ của Mẫn nói. “Cô có mù không vậy?” “Kể cả nếu tôi bị mù,” Mẫn phản kích lại, “tôi cũng không làm việc dưới quyền một kẻ bạc bẽo như anh đâu.” Cô bỏ ra khỏi dây chuyền trong ngày hôm sau để phản kháng, hành vi này khiến cô bị phạt một trăm Nhân dân tệ. Ngày tiếp theo đó, cô đến gặp ông chủ và một lần nữa yêu cầu cho nghỉ việc. Câu trả lời của anh ta khiến cô ngạc nhiên: ở lại cho đến qua tết Âm lịch, tức là thêm sáu tháng nữa, và cô sẽ được nghỉ việc và nhận lại hai tháng tiền lương mà nhà máy giữ của cô. Ông chủ của Mẫn đánh cược rằng cô sẽ ở lại. Sau năm mới, các công nhân tràn về những thành phố công nghiệp giống như Đông Quản, và cuộc cạnh tranh để giành một công việc sẽ hết sức kịch liệt. Sau cuộc cãi vã, ông chủ trở nên tử tế hơn với cô. Đã mấy lần anh ta thuyết phục cô nghĩ đến chuyện ở lại; thậm chí còn nói đến chuyện đề bạt cô lên làm thư ký công xưởng, mặc dù sự đề bạt ấy cũng không làm cô tăng thêm đồng lương nào. Mẫn từ chối. “ Nhà máy của anh không đáng để tôi phí hoài cả tuổi thanh xuân ở đây,” cô nói với cấp trên của mình. Cô đã đăng ký một lớp học vi tính ở trường thương mại gần đó. Khi không phải làm ca thêm giờ, cô bỏ bữa tối và tốn mấy tiếng đồng hồ để học cách đánh máy và điền các bảng biểu trên máy tính. Hầu hết các cô gái làm trong nhà máy đều tin rằng họ thiếu giáo dục đến mức đăng ký một lớp học cũng chẳng ích lợi gì, nhưng Mẫn thì khác. “Có học có hơn,” cô lý luận. Cô gọi điện về nhà và nói cô đang nghĩ đến chuyện bỏ việc. Cha mẹ cô, có một khoảnh ruộng nhỏ để canh tác và ba đứa con nhỏ hơn còn đang đi học, khuyên cô không nên làm vậy. “Con lúc nào cũng muốn nhảy hết chỗ này rồi lại đến chỗ khác,” cha cô nói. Con gái không nên lông bông như vậy. Ở nguyên một chỗ và tiết kiệm ít tiền đi, ông bảo cô. Mẫn ngờ rằng đây không phải lời khuyên tốt nhất. “Đừng lo cho con,” cô bảo cha mình. “Con có thể tự lo được.” Cô có hai người bạn tốt ở nhà máy, Lương Dung và Hoàng Kiều Nga, cả hai đều lớn hơn Mẫn một tuổi. Họ giúp Mẫn giặt quần áo vào những buổi tối cô phải tới lớp. Giặt đồ là một việc cố định trong ngày bởi các công nhân chỉ có vài bộ quần áo để thay. Trong đêm tối ẩm ướt sau một ngày làm việc, hàng dài các cô gái xách xô nước ra nhà tắm khu tập thể rồi lại trở về. Khi có bạn bè, cuộc sống trong nhà máy có thể thêm phần vui vẻ. Trong những buổi tối được nghỉ hiếm hoi, ba cô gái sẽ bỏ bữa tối và đi trượt patin, rồi trở về xem một bộ phim chiếu muộn ở nhà máy. Khi thu chuyển sang đông, cái lạnh trong khu nhà tập thể không được sưởi ấm khiến các cô gái thao thức suốt đêm. Mẫn kéo hai người bạn ra sân chơi cầu lông cho tới khi cơ thể họ đủ ấm để thiếp đi được. Tết Âm lịch năm 2004 rơi vào cuối tháng Một. Các công nhân chỉ có bốn ngày nghỉ, không đủ thời gian để về quê rồi lại trở ra. Mẫn ở lại căn hộ tập thể và gọi điện về nhà bốn lần trong hai ngày. Sau kỳ nghỉ, cô lại đến gặp cấp trên, lần này thì anh ta để cô ra đi. Lương Dung và Hoàng Kiều Nga khóc òa lên khi Mẫn báo tin cho hai người. Trong thành phố đầy những con người xa lạ này, họ là những người duy nhất biết về sự ra đi của cô. Họ khẩn nài cô ở lại; họ tin rằng điều kiện ở các nhà máy khác cũng chẳng khá khẩm gì hơn, và ở lại hay ra đi thì rốt cuộc cũng thế mà thôi. Mẫn không nghĩ thế. Cô hứa sẽ trở lại thăm sau khi được trả lương ở chỗ làm mới. Mẫn đi luôn ngày hôm đó chỉ với vài bộ quần áo trong ba lô và hai tháng lương nhà máy đã giữ lại của cô. Cô không mang theo khăn bông và chăn, những thứ ấy cũng tốn tiền, nhưng cô không thể chịu đựng việc nhìn chúng thêm một chút nào nữa. Trong mười tháng làm việc ở dây chuyền lắp ráp, Mẫn đã gửi về nhà ba ngàn Nhân dân tệ – khoảng 360 đô la – và có hai người bạn thật sự. Đáng lẽ lúc đó cô nên thấy sợ hãi. Nhưng tất cả những gì cô biết chỉ là cô đã tự do. *** Ở ngôi làng nơi Lỗ Thanh Mẫn sinh ra, hầu hết mọi người đều mang chung một họ với cô. Chín mươi hộ gia đình sống quây quần ở đó, trồng lúa, cải dầu và bông trên những khoảnh ruộng nhỏ. Gia đình Mẫn canh tác trên nửa mẫu ruộng và hầu như ăn hết những gì họ trồng được. Có vẻ như tương lai của Mẫn đã được định sẵn khi cô còn là một đứa trẻ, và nó xoay quanh một tập tục ở nông thôn: mỗi gia đình buộc phải có một đứa con trai. Mẹ Mẫn đã có bốn con gái trước khi sinh được đứa bé trai; trong những năm đầu tiên thực hiện chính sách mỗi gia đình chỉ có một con của chính phủ, luật lệ được thi hành rất lỏng lẻo ở nhiều miền quê. Nhưng năm đứa trẻ thì mang đến một gánh nặng tài chính khá lớn khi nền kinh tế mở cửa vào năm 1980 và chi phí cho cuộc sống leo thang. Là con thứ hai trong gia đình, Mẫn phải gánh vác khá nhiều trong số những gánh nặng ấy. Cô không thích đi học và học rất kém. Theo những gì Mẫn nhớ được, cô luôn gây rắc rối. Cô hay trèo lên cây nhà hàng xóm để vặt trộm mận; và nếu bị bắt, cô sẽ bị một trận đòn nên thân. Một lần khi mẹ bảo cô làm việc nhà, Mẫn đã cãi lại. “Ở nhà có bao nhiêu là người. Tại sao con phải làm chứ?” Mẹ đã chạy đuổi cô suốt nửa cây số, và lấy roi vụt cho cô một trận. Mẫn khá giỏi bày ra các trò vè. Cô đã học bơi và học lái xe tải; cô yêu thích trượt patin và thường giấu mẹ những vết thương. “Tôi ngã theo mọi kiểu có thể ngã,” Mẫn nói. “Nhưng bạn không thể cứ nghĩ về chuyện đó được.” Mẫn là cô con gái được bố cưng nhất. Một mùa hè, ông thuê một chiếc xe tải và đưa cô đi khắp vùng quê, bán dưa hấu họ trồng. Họ lái xe cả ngày và ngủ trong xe khi đêm về; đó là một trong những hồi ức đẹp nhất của Mẫn. Hầu hết mọi lao động di trú đều liên tưởng quê hương mình với nghèo đói và lạc hậu, thậm chí một số người còn ngần ngại không muốn nói ra tên ngôi làng của họ. Nhưng cả một thời gian khá lâu sau khi Mẫn đến thành phố, cô vẫn nói về quê nhà mình như một nơi rất đẹp. Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, cả bố và mẹ Mẫn đều đi khỏi làng kiếm việc để lấy tiền nuôi bầy con đi học. Bố Mẫn làm việc trong một nhà máy giày ở vùng ven biển, nhưng sức khỏe yếu đã buộc ông phải trở về. Sau đó, mẹ cô đi khỏi làng chừng một năm. Mẫn học nội trú ở một trường trung học cơ sở trong thị trấn gần nhà, nhưng về nhà vào mỗi cuối tuần để nấu ăn và giặt giũ quần áo cho bố và lũ em. Hầu hết những người trẻ trong làng Mẫn đều đi khỏi làng. Khi Mẫn còn đang học trung học cơ sở, chị gái cô, Quế Mẫn đã đến làm việc trong một nhà máy ở Đông Quản. Không lâu sau đó, Mẫn trượt kỳ thi quốc gia vào trường trung học phổ thông, và bố mẹ cô đã nghĩ đến chuyện cô cũng thoát ly khỏi làng như chị gái. Quế Mẫn gọi điện về nhà và thuyết phục họ cho Mẫn đi học tiếp; lương của Quế Mẫn ở nhà máy, cô nói, sẽ giúp em gái trả tiền học phí. Cha mẹ họ đồng ý, và Mẫn đăng ký một khóa hai năm ở trường trung học dạy nghề. Điều này đã khiến cô trở thành một trong những người được giáo dục tốt nhất trong làng – hơn cả Quế Mẫn, người chị cả đã hi sinh việc học hành của mình để giúp gia đình. Quế Mẫn về nhà trong kỳ nghỉ Tết Âm lịch năm 2003 và đưa Mẫn theo cùng khi cô đi. Mẫn còn một học kỳ nữa ở trường, nhưng cô muốn tiết kiệm tiền học và bắt đầu tìm việc trước luôn. Cô rất phấn khích vì được rời nhà đi; cô chưa đi tàu hỏa và nhìn thấy nhà máy lần nào. “Tôi muốn ra đi sớm, học hỏi nhiều điều và nhìn ngắm thế giới,” cô kể. Ở Đông Quản, Quế Mẫn thuê cho Mẫn một căn phòng trong nhà nghỉ rẻ tiền và kiếm việc cho cô ở một nhà máy sản xuất màn hình tinh thể lỏng của Nhật. Mẫn làm việc ở đó được một tháng rồi nghỉ việc. Cô chưa bao giờ ở một nơi mà cô không quen biết ai, và cô không chịu đựng nổi nỗi cô đơn đó. Cô trở về nhà nghỉ và tìm được việc ở một nhà máy khác nhưng không đi làm. Chị gái cô bảo tiếp tục trả tiền thuê nhà nghỉ, nhưng Mẫn cảm thấy mình đang trở thành một gánh nặng. Ở trạm xe buýt, cô để ý thấy một tờ rơi tuyển người vào vị trí kiểm định chất lượng trong dây chuyền lắp ráp của một nhà máy sản xuất đồ điện tử. Cô gọi đến số điện thoại trên tờ quảng cáo – rất nhiều tờ quảng cáo kiểu như vậy chỉ là trò bịp gạt tiền của những người từ vùng khác đến – và người trả lời điện thoại đã chỉ đường cho Mẫn đến nhà máy. Mất ba tiếng ngồi xe buýt để đến nhà máy Carrin Electronics ở điểm đầu chót đông nam của Đông Quản, nơi Mẫn một mình trải qua một năm đầy khó khăn. Ngay khi bước vào sân nhà máy, Mẫn nhận ra nơi này còn tệ hơn cái nhà máy Nhật mà cô vừa mới nghỉ việc. Nhưng giờ đã quá muộn để trở lại, và cô không muốn nhờ chị gái mình giúp lần nữa. Cô phải quen dần với cuộc sống tự lập – như vậy thì tốt hơn. *** Các lao động di trú dùng một từ ngữ đơn giản chỉ việc di chuyển để định nghĩa cuộc đời họ: chuqu (xuất khứ), nghĩa là rời bỏ quê hương ra đi. Ở nhà chẳng có gì để làm cả, vì vậy tôi ra đi. Đó là cách bắt đầu một câu chuyện của lao động di trú. Cuộc sống ở thành phố không dễ dàng gì với họ. Thù lao cho lao động chân tay rất thấp – thường thấp hơn mức lương tối thiểu theo quy định chính thức, tầm khoảng từ năm mươi đến tám mươi đô la một tháng. Giờ làm việc thường xuyên kéo dài vượt quá giới hạn luật pháp quy định là bốn mươi chín tiếng một tuần. Bị ốm, bị thương, hoặc có thai, thì bạn sẽ phải tự lo cho mình. Chính quyền địa phương không có nhiều chính sách để bảo vệ người lao động; việc của họ là khiến các chủ nhà máy vui, điều đó sẽ mang lại nhiều đầu tư và thu nhập từ thuế hơn. Nhưng âm thầm chịu đựng không phải là điều mà những lao động di trú nghĩ về bản thân mình. Rời bỏ quê hương và làm việc trong nhà máy là việc khó khăn nhất họ từng làm. Đó cũng là một cuộc phiêu lưu. Thứ giữ họ ở lại thành phố không phải nỗi sợ mà là lòng kiêu hãnh: Trở về sớm tức là đã thừa nhận mình thất bại. Rời quê hương và ở lại – xuất khứ – là để thay đổi số phận của bạn. Những người thoát ly là bộ phận ưu tú ở nông thôn. Họ trẻ hơn, được giáo dục tốt hơn, và mạnh dạn hơn những người họ bỏ lại quê nhà. Người thành phố gọi họ là liudong renkou (lưu động nhân khẩu), dân số lưu động – ám chỉ một đám đông không mục đích, nhưng tất cả những người di trú đều rời quê nhà với một mục tiêu tìm việc trong tâm trí, theo chân những người họ hàng hoặc đồng hương đã biết các đường đi nước bước. Và hầu hết những người ly hương trẻ ngày nay không ra đi từ đồng ruộng: Họ đến từ trường học. Đồng áng giờ là việc mà họ quan sát cha mẹ mình làm. Dòng người di trú là hệ quả ngẫu nhiên của quá trình cải cách nền kinh tế. Vào năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống đăng ký hộ khẩu mà trong đó ấn định mỗi người là cư dân thành thị hay nông thôn. Cư dân thành phố được phân phối việc làm, nhà ở và tem phiếu để đổi thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác; còn cư dân nông thôn, vì không có bất cứ quyền lợi nào nêu trên, nên buộc phải bám lấy đồng ruộng. Cuối những năm 1970, cải cách mở cửa cho phép các hộ nông dân bán một phần thu hoạch của mình ra thị trường chứ không phải nộp hết cho nhà nước như trước. Sản lượng nông nghiệp tăng lên vùn vụt. Đột ngột, thực phẩm được bán ở các khu chợ trên khắp đất nước, lần đầu tiên, các cư dân nông thôn có thể tồn tại độc lập trong thành phố. Một chỉ thị của chính phủ năm 1984 đã cho phép các nông dân định cư trong các thị tứ nhỏ; di chuyển chỗ ở không còn là phạm tội nữa. Làn sóng di cư bắt đầu tăng tốc, và đến năm 1990, Trung Quốc đã có sáu mươi triệu người di trú, rất nhiều người trong số họ kéo về các nhà máy và thành phố đang phát triển với tốc độ chóng mặt ở vùng duyên hải. Ngày nay Trung Quốc có khoảng 130 triệu lao động di trú. Trong các nhà máy, nhà hàng, công trường xây dựng, thang máy, dịch vụ chuyển phát, dọn dẹp nhà cửa, chăm trẻ, nhặt rác, tiệm cắt tóc, và cả nhà thổ nữa, hầu hết mọi lao động đều là dân nông thôn gốc. Ở các thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải, những người di trú chiếm khoảng một phần tư dân số; ở các thành phố công nghiệp miền Nam Trung Quốc, họ vận hành các dây chuyền lắp ráp của nền kinh tế xuất khẩu. Tổng cộng lại, họ tạo nên dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử, gấp ba lần số người đã di cư từ châu Âu sang Mỹ trong suốt một thế kỷ. Nhưng chính phủ vẫn còn chậm chạp trong nhận thức thực trạng di trú này. Trong nhiều năm, những người di trú ở thành phố phải lẩn trốn công an; những người bị bắt gặp không có giấy phép tạm lưu sẽ bị phạt hoặc đưa trở về nhà. Cuối cùng, mãi đến năm 2003, Quốc Vụ Viện, chính phủ của Trung Quốc, mới ban hành một văn bản toàn diện gọi di trú là chìa khóa để phát triển nông thôn. Văn bản này cấm việc phân biệt đối xử với lao động di trú đồng thời đề xướng điều kiện làm việc tốt hơn cho họ, và nhận con cái công nhân vào học ở nơi tạm trú. Các khẩu hiệu ủng hộ việc di cư di trú xuất hiện trên tường gạch những ngôi làng ở nông thôn: RA ĐI LÀM VIỆC, TRỞ VỀ PHÁT TRIỂN, SỨC LAO ĐỘNG CHẢY ĐI, TIỀN BẠC CHẢY VỀ. Làn sóng di trú đã hút sạch người trẻ trong các ngôi làng. Khắp miền nông thôn Trung Quốc, những người lớn tuổi hơn cày cấy và thu hoạch trên đồng ruộng, gắn chặt với việc đồng áng và lo cho những đứa trẻ đang đi học. Tiền được những người thoát ly gửi về đã trở thành nguồn tích lũy của cải lớn nhất ở nông thôn Trung Quốc. Tuy vậy, kiếm tiền không phải là lý do duy nhất để người ta bỏ quê hương lên thành phố. Trong các phiếu điều tra, những người di trú đã xếp “biết đó biết đây”, “phát triển bản thân” và “học kỹ năng mới” cũng quan trọng như là tăng thu nhập vậy. Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân khiến người ta bỏ quê nhà ra đi không phải là sự nghèo đói làm méo mó nông thôn, mà là tình trạng nhàn rỗi. Những khoảnh ruộng thì nhỏ và cha mẹ họ có thể dễ dàng phụ trách việc canh tác; các thành phố gần đó cung cấp vài cơ hội việc làm. Ở nhà chẳng có gì để làm cả, vì vậy tôi ra đi. *** Rất lâu sau đó, Mẫn nhớ lại lần đầu tiên mình đến hội chợ việc làm, cố gắng nắm bắt từng chi tiết như nắm bắt một giấc mơ cô không thể giải thích. Một ngày Chủ nhật tháng Hai năm 2004, sau khi nghỉ việc ở nhà máy Carrin, cô đến hội chợ và ở đó chừng bốn tiếng. Cô bồn chồn. Cô không mang thứ gì theo mình cả. Toàn bộ chiến lược tìm kiếm việc làm của cô có thể tóm gọi lại trong ba chữ: mục tiêu thấp. Cô tham gia phỏng vấn ở khoảng nửa tá công ty đang tuyển thư ký. Một thư ký biết đánh máy, trả lời điện thoại, điền các bảng biểu, sắp xếp tài liệu, đón khách và rót trà; thư ký là người có vị trí thấp nhất trong hệ thống cấp bậc ở văn phòng. “Bạn không nên tìm một công ty có tiêu chuẩn đặt ra quá cao,” sau này cô kể lại, “rồi bạn sẽ bị từ chối và nhanh chóng mất đi lòng tin.” Ở kiôt của một công ty tên là Điện tử Di Đông (Yidong Electronics), người tuyển dụng hỏi xem hồ sơ của Mẫn đâu. Cô không nghĩ đến việc chuẩn bị một bộ trước đó. Người phụ nữ bảo cô viết lại quá trình làm việc vào một biểu mẫu đơn. Mẫn thậm chí còn không có một cái bút, và người phụ nữ đã cho cô mượn. Rồi cô mỉm cười với Mẫn. “Tôi không biết. Cô ấy mỉm cười với tôi. Có lẽ là vậy.” Mẫn vẫn nhắc đi nhắc lại điều đó đến tận bây giờ, cố gắng làm sáng tỏ điều huyền bí về khoảnh khắc khi vận may của cô thay đổi. Người phụ nữ bảo Mẫn đến nhà máy để phỏng vấn lượt sau, nhưng cô không đi. Chỗ đó quá xa. Nhưng ở trụ sở chính của Điện tử Di Đông, một vị giám đốc tên là Lý Bằng Kết đang lướt qua đống mẫu đơn xin việc, và rồi anh dừng lại ở tờ đơn của Mẫn. Anh nhận ra chữ viết tay của cô rất đẹp. Ở Trung Quốc xưa, chữ đẹp biểu hiện cho một người có học. Chữ đẹp thể hiện sự tinh tế, và tài năng văn chương; chữ đẹp còn che giấu những điểm yếu nhỏ nhặt trong tích cách mỗi người. Suy nghĩ của Lý Bằng Kết thiết thực hơn nhiều. Anh ta cần một thư ký để lưu trữ các hồ sơ về máy móc trong nhà máy, và các hồ sơ phải viết tay hết. Trong một nhà máy sản xuất dây nối và màn hình điện thoại di động, chính kỹ năng lỗi thời này mới là có ý nghĩa nhất. Lý Bằng Kết gọi vào số điện thoại di động của anh họ Mẫn – cô chưa có một cái cho riêng mình – và yêu cầu Mẫn đến tham dự một cuộc phỏng vấn tuyển dụng kéo dài trong ba tiếng. Đầu tiên, cô đã không đạt yêu cầu trong bài kiểm tra máy tính. “Các cô khác đều biết sử dụng máy tính tốt hơn cô,” Lý Bằng Kết bảo Mẫn. Sau đó anh ta hỏi về kinh nghiệm làm việc của cô. “Tôi chưa bao giờ làm công việc này,” cô đáp. “Tôi không có kinh nghiệm gì.” Rồi Lý Bằng Kết cho cô làm bài kiểm tra viết, và cô đã viết khá tốt. Lý Bằng Kết nói với Mẫn rằng cô đã được nhận, và anh ta sẽ là ông chủ mới của cô. Anh ta bảo cô đi lấy đồ đạc để chuyển vào trong nhà máy ngay trong ngày. Đề nghị quá bất ngờ đến nỗi Mẫn không biết nên nói gì. Nhưng khi cô đứng dậy rời khỏi văn phòng, lời tự dưng buột ra khỏi miệng. “Rất nhiều người muốn có công việc này,” cô nói với ông chủ mới của mình. “Tại sao ông lại chọn tôi? Tôi chẳng biết gì cả.” “Cô rất thẳng thắn,” anh ta đáp. “Và cô thành thật hơn những người khác.’ Ngày hôm sau, Mẫn bắt đầu làm việc ở vị trí thư ký phòng bộ phận vật tư. Phòng của cô phụ trách theo dõi các máy đột lỗ, máy mài và các dây chuyền cán mạ, công cụ sản xuất các linh kiện của một chiếc điện thoại di động. Một quyển sổ đóng bìa chắc chắn ghi chép lại tình trạng và quá trình sử dụng từng chiếc máy, giống như bệnh án của một bệnh nhân khổng lồ câm lặng vậy. Công việc của Mẫn là sắp xếp những hồ sơ này. Các công nhân ngủ tám người một phòng; bữa ăn gồm có cơm, ba món thịt và rau, cùng với canh. Một ngày ở văn phòng kéo dài mười tiếng, thỉnh thoảng được nghỉ thứ Bảy và Chủ nhật. Mỗi tháng Mẫn kiếm được tám trăm Nhân dân tệ – khoảng một trăm đô la, gấp đôi khoản lương cơ bản ở nhà máy cô làm việc trước đó. TÔI GẶP MẪN lần đầu tiên là sau đó ba tuần. Cô nhỏ người nhưng khá săn chắc, mái tóc xoăn và đôi mắt đen tuyền nhìn không sót thứ gì. Giống như nhiều người trẻ đến từ các vùng nông thôn Trung Quốc, cô có vẻ ngoài trẻ hơn tuổi thật của mình. Trông cô như mới mười lăm, hoặc mười bốn, hoặc thậm chí là mười hai – một cô bé quậy phá như con trai mặc quần hộp và đi giày chạy, đang nôn nao chờ mình lớn lên. Gương mặt cô non búng ra sữa. Gương mặt ấy tròn và mở rộng với thế giới, với vẻ trông chờ nhẫn nại mà thỉnh thoảng cũng xuất hiện trên gương mặt trẻ thơ. Chúng tôi gặp nhau trong căn hộ của một người phụ nữ tên là Lâm Tuyết, một người viết bài cho tạp chí địa phương nhắm vào đối tượng độc giả là dân từ nơi khác di trú tới. Trước đó tôi đã gọi cho Lâm Tuyết rằng tôi muốn viết bài về những phụ nữ di trú trẻ cho tờ Wall Street Journal (Nhật báo phố Wall), em gái Lâm Tuyết làm việc trong một nhà máy và mời Mẫn, một trong những đồng nghiệp của cô đến. Tôi đã gặp rất nhiều người di trú, vậy nên, câu chuyện của Mẫn đã khá quen thuộc với tôi rồi. “Quê tôi là một làng nông nghiệp ở tỉnh Hồ Bắc, con thứ hai trong gia đình,” cô nói. “Bố mẹ tôi làm việc đồng áng. Hoàn cảnh gia đình chúng tôi không được tốt.” “Tôi rời làng ra đi với chị gái, chị ấy làm việc ở Thâm Quyến. Chúng tôi muốn làm việc ở chung một chỗ, nhưng chúng tôi không thể làm thế.” Cô đột ngột dừng lại. “Tại sao!” Tôi hỏi. “Bởi vì chúng tôi cãi nhau suốt.” Rồi cô cười phá lên. Mẫn sẵn sàng nói về bất cứ thứ gì; khác với hầu hết tất cả những người Trung Quốc tôi biết; cô rõ ràng là rất thích kể câu chuyện của mình. Và cô cũng tò mò về tôi như tôi tò mò về cô vậy: Hôm đó, cô đến căn hộ của Lâm Tuyết là vì “Tôi muốn nhìn xem người Mỹ trông như thế nào,” cô kể với tôi sau đó. Lo lắng duy nhất của tôi là có lẽ cô đã ổn định cuộc sống – với một công việc văn phòng ổn định trong tay, có lẽ những sự kiện lớn nhất trong đời cô đã qua đi. Nhưng tôi không cần phải lo lắng về việc đó. Vào hôm chúng tôi gặp nhau, Mẫn kể cho tôi nghe về kế hoạch của đời mình. Cô sẽ làm việc trong thành phố khoảng bảy năm, gửi tiền về nhà trong suốt thời gian đó để trả ơn bố và mẹ đã nuôi lớn cô; điều đó phản ánh quan điểm truyền thống của người Trung Quốc rằng con cái nên biết ơn cha mẹ vì sự hiện diện của họ trên cõi đời này. Khi cô hai mươi ba tuổi, món nợ được trả, Mẫn sẽ về quê và kiếm ai đó để lấy làm chồng. Hôm ấy tâm trạng cô rất tốt. Cô đã “bước ra khỏi nhà máy,” như những người di trú vẫn nói, vượt qua khoảng cách giữa những người lao động chân tay và những người lao động trí óc. “Ông Trời vẫn có mắt,” cô nói. “Trời để tôi thật mệt mỏi trong suốt một năm, nhưng giờ Ông đã cho tôi một khởi đầu mới.” Cô vừa bước sang tuổi mười tám, và cô đã là một chuyên gia của những khởi đầu mới. 2. Thành phố Cuộc hành trình dài kết thúc ở ga xe lửa Quảng Châu, hành khách tràn ra khỏi các toa xe sau chuyến đi dài hai mươi, ba mươi hay năm mươi tiếng đồng hồ. Hầu hết đều còn trẻ và đi một mình, kéo theo va li hoặc ba lô hay bao vải thô, loại trước đây dùng để đựng gạo. Quảng trường rộng mênh mông trước nhà ga chật cứng hành khách, và điều đầu tiên bạn nghe được là tiếng loa thông báo om sòm tìm những người vừa mới đến đã bị lạc. Ai quê ở Hà Nam, em cô đang tìm cô. Chị dâu, ra cửa đi. CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI THÀNH PHỐ HOA[2] XINH ĐẸP: một công ty xe buýt đang chào mời các tour du lịch thành phố. Nhưng thành phố này không đẹp, mà cũng chẳng có hoa ở đây. Đi lên một đoạn dốc, qua cây cầu bắc qua đường là trạm xe buýt đường dài, nơi có xe tốc hành đến Đông Quản cách đó ba mươi dặm, mười phút một chuyến. Xe buýt chật như nêm, nồng nặc mùi mồ hôi cùng với mùi thứ quần áo ngày nào cũng mặc kể cả lúc đi ngủ - mùi của dân di trú. Xe buýt xuống khỏi đường trục, và các nhà máy hiện ra bên dưới, nhà máy sản xuất sơn và nhựa, nhà máy điện thoại di động và đinh vít, nhà máy sản xuất ghế sofa. Các tòa nhà lợp mái trắng, trông giống như những nhà tắm công cộng khổng lồ, khu tập thể của công nhân mọc lên phía sau chúng, ban công chăng đầy quần áo đủ màu. Các nhà máy ở Trung Quốc được đặt những cái tên liên tưởng đến sự hưng vượng, và hành trình đến Đông Quản là một chuyến đi tốc hành đầy các đức tính tốt và may mắn. ĐlỀU HÒA KHÔNG KHÍ CAO THƯỢNG. MAY MẶC VĨNH THÀNH. CÔNG TY KHÓA KÉO TÂN THỜI ĐẠI. Hai thập kỷ sau khi những nhà máy đầu tiên được xây dựng, sự phát triển vẫn còn rất mới. Phần bên trong một quả núi trào ra, đất đỏ và thô, trong khi bề mặt của nó đã bị thổi bay; các đường dốc xuống khỏi đường cao tốc biến mất trong những cánh đồng đầy cỏ dại lầy lội. Tổng hành dinh của một công ty liên doanh mới nhìn ra ruộng lúa, ao cá, và trại vịt; thật phi thường là người ta vẫn còn canh tác và chăn nuôi ở đây được. Hồi thế kỷ mười bảy, những người khai hoang đến đây định cư đã biến vùng đất ngập của châu thổ sông Châu Giang thành một trong những khu vực màu mỡ nhất Trung Quốc, cung cấp cá, rau xanh và gạo cho cả nước đồng thời xuất khẩu tơ lụa sang châu Âu. Ngày nay, ở vùng đất công nghiệp đang phát triển như tên lửa này, chính những cảnh thiên nhiên đâu đó ấy mới là bất ổn. Hầu hết nông dân đều là dân di trú, ở bậc thấp nhất, bởi họ đã rời bỏ quê hương đi hàng ngàn dặm đường đến đây nhưng cũng không thể bỏ lại hoàn toàn đồng ruộng. Xe buýt chậm lại ở lối vào thành phố Đông Quản, các nhà máy đã hiện lên ở rất gần. Băng rôn đỏ chăng ngang phía trước các tòa nhà võng xuống tạo thành hình một nụ cười chào đón: CẦN TUYỂN NỮ CÔNG NHÂN CÓ KINH NGHIỆM. Trước cổng một nhà máy, những người di trú đã tụ tập lại để nhìn chằm chằm, lặng yên như thể bị thôi miên, vào một bảng thông báo tuyển người: GẶP MẶT LÚC 1H30 CÁC BUỔI CHIỀU Ở CỔNG BÊN. Một công ty tên là Jobhop Limited có vẻ đang tuyển công nhân. Xe buýt đi qua một công trường xây dựng lớn khác - không, đây là trạm xe buýt - và cho hành khách xuống. Cách tốt nhất để hiểu thành phố Đông Quản là đi bộ vào. Trụ sở ngân hàng, tòa tháp kính tráng gương, cao vút lên so với những cửa tiệm ven đường bán phụ tùng xe máy, ống nhựa và có cả dịch vụ chăm sóc răng nữa. Đường rộng mười làn xe chạy, đường cao tốc thay cho phố xá. Những người dân di trú bước đi dọc theo vỉa hè, mang theo va li hay chăn gối, xe buýt và xe tải chen lấn lao tới từ phía sau. Khắp nơi đâu cũng thấy công trường xây dựng, máy móc, búa chèn, xe mô tô, máy khoan và bụi mù, ngoài phố thì tiếng ồn điếc tai. Đường rộng và lát rất đẹp nhưng không có đèn tín hiệu giao thông hay lối qua đường cho người đi bộ. Thành phố này được xây dựng cho máy móc, không phải cho con người. Các cơ quan hành chính của bộ máy nhà nước xuất hiện ở khắp các ngóc ngách trong những thành phố Trung Quốc khác lại chẳng hề thấy bóng dáng ở nơi này. Những gã đi mô tô xán lại chỗ mấy người đi bộ, gạ gẫm đi một vòng taxi, tất cả các xe đều hoạt động chui. Bằng đại học giả bày bán đầy các góc phố. Ở Đông Quản, có một chuỗi cửa hàng IKEA[3] giả mạo và chuỗi nhà hàng bán đồ ăn nhanh mà tên được dịch ra thành “McKFC[4]”, còn có một tòa nhà mười tầng gọi là Khách sạn Haiyatt[5], với gian sảnh lát cẩm thạch và thái độ rõ ràng là hết sức không nghiêm chỉnh đối với việc vi phạm bản quyền (“Chúng tôi có thêm một chữ “i” ở tên gọi, họ có đâu,” cô gái trẻ ở bàn lễ tân giải thích). Thành phố được chia thành ba mươi hai trấn (và quận), mỗi khu vực chuyên về một ngành sản xuất. Trường An sản xuất thiết bị điện, Đại Lãng nổi tiếng với áo len, còn Hậu Nhai sản xuất giày. Nhà xưởng của Samsung và Pioneer ở Liêu Bộ, Nam Thành là nơi đặt nhà máy sán xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới của Nokia. Tất cả cà phê hòa tan của hãng Nescafé mà người Trung Quốc vẫn uống đều được gia công chế biến trong một nhà máy ở khu trung tâm Đông Quản. Các nhà máy đồng thời là các trạm xe buýt, là đài kỷ niệm, là cột mốc đánh dấu, tất cả mọi thứ ở đây tồn tại để phục vụ chúng. Mạng lưới đường cao tốc ở Đông Quản, thuộc loại dày đặc nhất Trung Quốc, nhưng vẫn liên tục được mở rộng với mong muốn đưa hàng hóa ra thế giới nhanh hơn. Khách sạn cao cấp và sân golf mọc lên để dụ hoặc khách hàng của các nhà máy. Khách mua hàng trên toàn thế giới về đây nghỉ tại khách sạn Sheraton Đông Quản, ở đây họ nhận được một danh sách tất cả các địa điểm họ có thể cần đến: TRUNG TÂM TRIỂN LÃM QUỐC TẾ QUẢNG ĐÔNG TRUNG TÂM TRIỂN LÃM QUỐC TẾ ĐÔNG QUẢN BẢO TÀNG CHIẾN TRANH NHA PHIẾN ĐÊ CHẮN SÓNG THÁI BÌNH WAL-MART CARREFOUR PARK 'N' SHOP CÂU LẠC BỘ GOLF HARBOUR PLAZA CÂU LẠC BỘ GOLF HILLVIEW CÂU LẠC BỘ GOLF LONG ISLAND Không ai biết chính xác có bao nhiêu người sống ở đây. Theo chính quyền thành phố, Đông Quản có 1,7 triệu người địa phương và khoảng gần bảy triệu người di trú, nhưng hiếm có ai tin vào những con số chính thức này, và có rất nhiều dự đoán về dân số thực của thành phố. Đông Quản có tám triệu dân di trú. Một năm Đông Quản nhận thêm một triệu người di trú. Đông Quản có mười triệu dân di trú, nhưng họ chỉ báo cáo là bảy triệu để không phải đóng nhiều tiền thuế hơn. Thị trưởng thành phố có lẽ còn biết nhiều hơn, nhưng ông không chịu nói. “Dân số Đông Quản nhiều hơn nhiều con số được công bố” ông nói với các phóng viên trong một diễn đàn năm 2005. Cá nhân ông ước tính, “ít nhất”, theo lời ông - là khoảng trên mười triệu. Đông Quản là thành phố đang được xây dựng, mọi thứ đều đang trong quá trình chuyển đổi thành một thứ gì đó khác. Một đoạn vỉa hè dài được lát đá, bên trên là một tấm biển hứa hẹn NHỮNG TÒA NHÀ VĂN PHÒNG CAO CẤP KlỂU CHÂU ÂU. Quận thương mại trung tâm toác ra với những hố sâu ở khắp nơi. Ở phía đông khu vực này, một trung tâm thành phố mới đang được mọc lên, nơi này sẽ có văn phòng của chính quyền địa phương, một thư viện, một bảo tàng khoa học và một nhà hát. Hiện giờ, các đại lộ rộng mênh mông của khu vực này vẫn còn vắng xe và các trung tâm thương mại vẫn hoàn toàn trống không, hàng rào được cắm ngay ngắn gọn gàng. Phương châm của Đông Quản là “Mỗi năm một bước tiến lớn, một thành phố mới trong năm năm.” Tạo ra một cuộc sống mới thậm chí còn nhanh hơn nữa. Vài bài học máy tính có thể phóng vọt ai đó lên một giai cấp khác, và một buổi sáng ở hội chợ việc làm đủ để tạo dựng một sự nghiệp mới. Hai mươi nhân dân tệ một gói dịch vụ chụp ảnh nhanh ở tiệm ảnh, chụp trên phông nền vẽ hàng rào hoặc một khu vườn đúng kiểu, các tấm ảnh in ra được gửi về nhà hoặc đưa cho bạn bè, hoặc dính lên tường nhà tập thể, một thứ để nhắc nhở rằng người trong ảnh đã là ai đó hoàn toàn mới. Trên các bức tường khắp thành phố, cạnh những tờ quảng cáo tuyển lao động và phòng khám chữa bệnh giang mai, là thông báo tìm người mất tích. ANH ẤY RỜI NHÀ NĂM NĂM TRƯỚC, DA ĐEN MẶT RỖ NÓI KHÁ NHANH, THÍCH CHƠI TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ. Những thông báo này được thành viên trong gia đình dán lên để tìm kiếm những người thân yêu đã mất tích trong cái miệng khổng lồ của thành phố này. Đến cuối tuần, thanh thiếu niên tràn ngập khắp Đông Quản, tạo cho các công viên và quảng trường ở đây cảm giác của một trường trung học ngoài trời. Các cô bé đi thành từng nhóm, mặc những chiếc áo kiểu cách và quần jean bó, cô này bá vai cô kia. Các cậu bé đi chơi theo nhóm nhỏ hơn, ống tay áo sơ mi xắn lên dưới nách. Những đôi yêu nhau đi riêng hẳn ra, các cô gái thì tự hào vì quyền sở hữu, các cậu trai thì uể oải thờ ơ. Vào các buổi sáng thứ Hai, công viên và quảng trường ở Đông Quản gần như vắng tanh không một bóng người. Con đường dài toàn các nhà máy chỉ phô bộ mặt trơ khấc ra với thế giới, những chàng trai và cô gái bị nuốt bên trong. Việc sản xuất không cần đến người qua kẻ lại và các hoạt động ồn ào, nhưng ở phía đối diện - những con phố trải dài, cũng vẫn chỉ có sự im lìm vô tận. Buổi tối, các nhà máy dọc theo đường trục đều sáng đèn. Nhìn ở khoảng cách gần, thỉnh thoảng bạn sẽ thấy những cái bóng di chuyển trên một cửa sổ, lập lòe như đom đóm - khi nào còn có ánh đèn, mọi người vẫn còn đang làm việc. Mỗi mảng cửa sổ sáng đèn màu xanh trong đêm tối là dấu hiệu của một nhà máy, mảng này tách rời ra khỏi mảng khác, tựa hồ như những chiếc tàu khách vượt đại dương oai vệ trên biển. Nhìn từ xa, chúng trông cũng đẹp. *** Các cô gái đã rời khỏi quê hương được hai mươi ngày, quá lạ lẫm với thành phố đến nỗi họ còn không biết ai là chủ nhà máy nơi mình làm việc. Họ không mang gì theo người: không đồ uống, không túi nylon đựng hoa quả hay đồ ăn vặt. Họ chỉ ngồi đó, dưới ánh nắng chói chang, giữa quảng trường công cộng ở một quận được biết đến với những nhà máy nhỏ sản xuất giày thuộc thành phố Đông Quản. Họ là Điền Vĩnh Hạ và Trương Đạt Lệ. Cả hai đều mười sáu tuổi và đây là lần đầu tiên họ xa nhà. Họ đã bỏ quê hương, một làng nông nghiệp ở tỉnh Hà Nam, vào ngày mùng Chín Tết âm lịch, thời điểm được cho là may mắn, hanh thông để khởi hành. Một cô gái cùng làng làm việc trong một nhà máy ở đây kiếm được tám trăm nhân dân tệ một tháng, và họ cũng muốn thế. Mỗi người đã trả bốn trăm nhân dân tệ (khoảng năm mươi đô la) cho một cặp vợ chồng, những người đã hứa hẹn công việc trong nhà máy và đưa họ lên thành phố trên một chuyến xe buýt ba ngày. Nhưng lúc đến nơi, chẳng có công việc nào cả, và cặp vợ chồng kia biến mất. Hai cô gái đã ngủ bốn đêm ở bến xe buýt và cuối cùng cũng liên lạc được với vài người đồng hương, những người này đã tìm cho hai cô công việc trong một nhà máy sản xuất đồ điện tử với mức lương ba trăm nhân dân tệ một tháng. Đó là một mức lương thấp, nhưng hoàn cánh lúc này không cho phép hai cô thương lượng gì. “Lúc ấy, tôi chỉ muốn vào làm trong nhà máy chỉ để có thể ngủ yên được một đêm” Vĩnh Hạ, cô gái có gương mặt rộng, mắt nhỏ và cười rất nhiều, nói. Hầu hết câu chuyện đều do cô kể. Đạt Lệ có vóc người thon hơn và xinh hơn, nét mặt thanh nhã cùng hàm răng khểnh. Vĩnh Hạ và Đạt Lệ nhanh chóng tìm hiểu được hệ thống cấp bậc trong cuộc sống ở nhà máy, và biết được rằng họ đang ở dưới đáy của hệ thống ấy. Các công nhân vào làm từ năm ngoái khinh thường những người mới đến và không nói chuyện với họ. Nhà máy nơi họ làm việc là một chi nhánh nhỏ, mức lương thấp hơn, nhưng để làm việc tại cơ sở sản xuất chính của một công ty, bạn cần đến kỹ năng và một tấm chứng minh thư hợp cách, trong khi cả hai cô gái đều vào làm nhà máy này bằng chứng minh thư đi mượn vì họ còn chưa làm chứng minh thư cho mình. Dây chuyền lắp ráp làm việc tám tiếng một ngày và nghỉ cuối tuần, được nghỉ cũng chẳng hay ho gì bởi làm thêm giờ đồng nghĩa với việc bạn có thể kiếm thêm tiền. Làm trong nhà máy giày được trả nhiều hơn, nhưng ở đó nổi tiếng với ngày làm việc cực dài, nên hai cô cứ tranh luận mãi về chuyện số tiền được thêm ấy có xứng đáng với công sức đổ ra hay không. Chẳng bao lâu sau khi Vĩnh Hạ và Đạt Lệ vào làm trong nhà máy, họ đã bắt đầu bàn cách rời bỏ nó. Trước khi rời khỏi quê hương, hai cô gái đã có một thỏa thuận: nếu công việc ở nhà máy đầu tiên không ổn, họ sẽ trở về nhà luôn. Nhưng khi công việc ở nhà máy đầu tiên không ổn, họ đã ở lại. Họ đã lên thành phố, và đã thay đổi. TÔI GẶP VĨNH HẠ VÀ ĐẠT LỆ vào hôm thứ hai sau khi đến thành phố. Đó là một buổi sáng thứ Hai nắng nóng, nền trời trắng nhờ nhờ đục đục, bầu không khí rên xiết trước cái nóng và chất thải từ ống xả xe máy; ở đồng bằng sông Châu Giang, mùa hè sẽ bắt đầu sau một tháng nữa. Tôi dẫn hai cô gái đến một tiệm mì và gọi Coca Cola. Hai cô gái uống từng ngụm một bằng ống hút một cách cẩn thận trong khi kể cho tôi nghe câu chuyện họ đã rời bỏ quê hương như thế nào. Tôi giải thích rằng mình là phóng viên của tờ Wall Street Journal. Vĩnh Hạ lật đi lật lại tấm danh thiếp của tôi, lẩm nhẩm địa chỉ xa lạ ở Bắc Kinh. “Chúng em gửi thư cho chị được không?” Cô bất ngờ nói. “Bọn em nhớ mẹ. Bọn em cô đơn quá.” Qua cửa sổ nhà hàng, một trong hai cô gái nhìn thấy gì đó bên ngoài. Cả hai đứng bật dậy và cuống quýt như hai chú chim bị động, “Xin lỗi, bọn em phải đi ngay.” Khi tôi bắt kịp, họ đã đi được quá nửa con phố, đang đứng trên vỉa hè với một cô gái khác - niềm tự hào, người đã đi khỏi làng từ năm ngoái và kiếm được tám trăm nhân dân tệ một tháng. Cô ta đang đi đâu đấy, nhưng lần này hai cô gái trẻ không để cho cô kia thoát khỏi mình nữa. Tôi hỏi Vĩnh Hạ số điện thoại nhà tập thể nơi cô ở, nhưng cô còn quá mới mẻ với công việc và không biết số điện thoại ở đó. Cô gái hứa sẽ viết thư cho tôi. Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp lại nhau trong hai tuần nữa, cũng ở quảng trường nơi chúng tôi gặp mặt sáng hôm đó. Sau đó họ biến mất. Họ mới mười sáu tuổi, và đang ở giữa một trong những thành phố trên đà tăng trưởng hỗn loạn nhất Trung Quốc, mà không có sự kiểm soát của người lớn. Họ là con mồi cho tất cả các thể loại lừa đảo, họ đưa ra những quyết định của cuộc đời dựa trên những thông tin cực kỳ ít ỏi. Họ nhớ mẹ. Nhưng đồng thời họ cũng đang hưởng thụ những khoảnh khắc đẹp của đời mình. HAI TUẦN SAU, tôi đáp máy bay từ Bắc Kinh đến Đông Quản chờ họ trên quảng trường. Chúng tôi đã hẹn gặp nhau lúc mười giờ, nhưng có rất nhiều lý do có thể giải thích việc hai cô gái không xuất hiện. Có lẽ họ đã tìm được công việc tốt hơn có tăng ca và không thể ra ngoài. Hoặc cũng có khả năng họ đã quyết định rằng họ không nên tin tôi. Hoặc đơn giản là hai cô gái đã quên, hoặc có việc khác thú vị hơn để làm, biết đâu họ đã gia nhập hàng ngũ những người mất tích. Tại sao họ lại phải đến gặp tôi? Hy vọng duy nhất của tôi là những gì Vĩnh Hạ đã nói: Bọn em cô đơn quá. Tôi đợi đến gần trưa. Sau đó tôi biết là họ sẽ không đến, nhưng đồng thời tôi cũng biết là một khi rời khỏi quảng trường này, tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Hai cô gái mười sáu tuổi quê ở tỉnh Hà Nam, đó là tất cả những gì tôi biết về họ, và cả tên họ. Mặc lên người áo xếp nếp có diềm và quần jean, buộc tóc đuôi ngựa, họ giống với hàng triệu người phụ nữ trẻ khác đến Đông Quản từ nhiều nơi khác. Tôi không còn lòng dạ nào khiến mình gặp bất kỳ ai khác trong ngày hôm đó. Tôi lang thang dưới mặt trời đổ lửa trong nhiều giờ đồng hồ, nhìn mọi người và tự nhủ mình không tiếp cận họ vì những lý do vặt vãnh nhất. Nếu họ đi một nhóm, có thể sẽ khó nói chuyện; nếu họ đang ăn hoặc đang uống, họ có vẻ sung túc. Nhiều tháng sau đó, bất cứ lúc nào đến Đông Quản, tôi cũng nhìn chăm chú gương mặt của những cô gái trẻ trên phố, hy vọng có thể tìm thấy Vĩnh Hạ và Đạt Lệ lần nữa. Rất nhiều cô gái nhìn lại tôi, cảnh giác, tò mò hay thách thức. Có hàng triệu cô gái trẻ, mỗi người đều có một câu chuyện đáng để kể ra. Tôi phải nhìn vào gương mặt họ để bắt đầu. LẦN ĐẦU TIÊN TÔI ĐẾN ĐÔNG QUẢN là vào tháng Hai năm 2004. Sự di trú ở Trung Quốc đã có hai mươi năm lịch sử, nên hầu hết báo chí nước ngoài, bao gồm cả Wall Street Journal, đã đăng bài về điều kiện làm việc khắc nghiệt bên trong các nhà máy. Tôi muốn viết về một thứ gì đó khác - bản thân những công nhân nghĩ như thế nào về sự di trú. Tôi dành sự chú ý đặc biệt cho phụ nữ, những người có vẻ như thu được nhiều nhất khi rời bỏ làng quê nhưng đồng thời có lẽ cũng là những người đánh mất nhiều nhất. Các dây chuyền lắp ráp ở Đông Quản, một trong những thành phố công nghiệp lớn nhất Trung Quốc, thu hút nhiều lao động trẻ không có kỹ năng, khoảng bảy mươi phần trăm trong số đó là phụ nữ. Đây có vẻ như một nơi tốt để bắt đầu. Trong hơn hai năm sau đó, mỗi tháng tôi ở Đông Quản khoảng một đến hai tuần. Tôi đã quen thân với vài người, và gặp rất nhiều người khác, những người chỉ kể cho tôi nghe chuyện của họ rồi biến mất, giống như hai cô gái ở quảng trường mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Khả năng chấp nhận rủi ro của những cô gái này thật đáng kinh ngạc. Nếu họ không thích một nhà máy hay ông chủ hoặc đồng nghiệp nào đấy, họ sẽ nhảy việc ngay sang nơi khác và không bao giờ nhìn lại, khi họ kể lại câu chuyện của mình với tôi, có những khoảng trống thời gian không thể giải thích được, những khoảng thời gian ở các nhà máy mà họ không còn nhớ nữa. Bố mẹ họ ở quê nhà chỉ lờ mờ ý thức được rằng con gái mình đang làm gì. Sinh tồn, đối với các nữ công nhân, là một thứ hiện tại trường cửu, có vẻ như giải phóng cho họ rất nhiều, nhưng cũng mang lại khá nhiều phiền não lo âu. Lên thành phố, đồng nghĩa với việc cắt đứt toàn bộ những mối liên hệ mà họ biết trước đây. Những cô gái trẻ thân thiết với tôi nhất đều có một vài điểm chung: họ hiểu những chi tiết gây xúc động trong câu chuyện của mình và tại sao tôi muốn biết về những điều đó. Tôi nghĩ họ cũng hiểu tôi, nhiều hơn tôi mong đợi. Tôi đến từ nước Mỹ và tôi đã học đại học; về học vấn và tầng lớp, tôi cách xa họ cả triệu dặm đường. Nhưng tôi biết thế nào là ở một mình, là một người đàn bà đơn độc trong thành phố. Tôi cũng bị đám đàn ông Trung Quốc quấy rối, bị công an quát tháo, bị đám tài xế xe buýt lừa gạt; tôi cũng có những vấn đề nan giải về bạn trai và bố mẹ lo lắng rằng tôi vẫn còn độc thân. Khi tôi lấy chồng vào mùa xuân năm 2006, một trong những phụ nữ di trú biết rõ về tôi nhất đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. “Mẹ chị hẳn là phải hạnh phúc lắm” là điều đầu tiên cô nói. “Tôi có cảm giác bà ấy là một người Trung Quốc kiểu truyền thống.” Có lẽ liên kết chắc chắn nhất giữa tôi và các cô gái là một điều mà họ không bao giờ biết: tôi cũng đã ra đi khỏi mái nhà mình. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Mỹ, tôi chuyển đến Prague, Tiệp Khắc cũ. Tổng cộng tôi đã sống ở nước ngoài mười lăm năm, một hai năm lại về thăm gia đình một lần, giống như những người di trú ở đây. Trong một thời gian dài, tôi đã cưỡng lại sức hút của Trung Quốc. Ở trường đại học, tôi lảng tránh các tổ chức của người Mỹ gốc Hoa và chỉ tham gia một khóa học tiếng Trung; tôi học chuyên ngành lịch sử và văn học Mỹ, viết luận văn tốt nghiệp đại học về tiểu thuyết chủ đề Miền Tây nước Mỹ của Larry McMutry. Ở Prague, tôi viết về chính trị và xã hội Tiệp cho một tờ báo của những người xa xứ. Một ngày mùa đông năm 1992, một cặp vợ chồng người Trung Quốc kéo lê những chiếc va li của họ trên vỉa hè lấm bùn hỏi đường tôi bằng tiếng Trung phổ thông. Tôi lặng mất một lúc lâu mới trả lời, một cách bực dọc, bằng thứ tiếng của họ - như thể họ buộc tôi phải trở lại với cái thế giới mà tôi đã bỏ lại phía sau. Mới đầu, sự hấp dẫn của Trung Quốc đối với tôi khá thực dụng - đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nền kinh tế phát triển bùng nổ của đất nước này bắt đầu thu hút sự chú ý của toàn cầu, tiếng Trung lưu loát của tôi bỗng nhiên trở thành một tài sản quý giá. Tôi đến Hồng Kông năm 1993 làm phóng viên cho tờ Wall Street Journal và bắt đầu đọc sách về lịch sử Trung Quốc lần đầu tiên, loại bỏ hết mọi thứ khác; đối với tôi, Trung Quốc luôn luôn mang lại cảm giác như một bài kiểm tra mà tôi lơ là không học. Khi tôi chuyển đến Đài Loan hai năm sau đó, người ở đây thường xuyên hỏi tôi rằng tôi xuất khứ, tôi ra đi sang Mỹ năm nào - họ ngầm mặc định rằng mọi người trên đời này đều là người Hoa hết. Sau đó, khi thuyên chuyển đến Trung Quốc, tôi vẫn thường xuyên nghe những câu hỏi tương tự. Đó là một trong những phương diện mà Trung Quốc và Đài Loan, về mặt hình thức thì vẫn còn đang chiến tranh với nhau cho đến tận gần đây, giống nhau hơn là họ nghĩ. Một trong những điều đầu tiên hầu hết người Mỹ gốc Hoa nào cũng làm khi họ tới Trung Quốc là đến thăm quê hương của tổ tiên, nhưng tôi đã sống ở Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc mười hai năm mà không thực hiện chuyến đi đó. Tôi lo rằng mình chưa sẵn sàng để hiểu những gì mình tìm thấy ở ngôi làng quê hương, trong sâu thẳm, tôi sợ rằng điều đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết. Bằng cách này hay cách khác, tôi hiểu được các nữ công nhân khi họ nói lên cảm xúc phức tạp của mình đối với quê nhà. NHỮNG PHỤ NỮ TRẺ đến từ các miền quê dạy cho tôi về thành phố. Nhờ họ, tôi biết được nhà máy nào đang hoạt động tốt; không cần phải rời khỏi Đông Quản một lần nào, những công nhân này cũng hiểu được thứ bậc của các quốc gia trên thế giới. Các ông chủ Mỹ và châu Âu đối xử với công nhân tốt nhất, tiếp đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông và sau nữa là những ông chủ nhà máy đến từ Đài Loan. Các nhà máy của người Trung Quốc bản địa là tệ nhất, vì “tất cả bọn họ đều phá sản hết” một người di trú giải thích với tôi. Họ cũng biết khi nào các chính sách lớn sắp có sự thay đổi - đầu năm 2005, một số công nhân nói với tôi mức lương tối thiểu sẽ tăng lên, trước khi điều đó được công bố chính thức. Rất nhiều điều tôi đọc về người di trú ở Trung Quốc trước đó không đúng sự thật. Họ không còn sống trong nỗi sợ bị công an bắt mà thay vào đó, nhà chức trách đơn giản là lờ họ đi. Chuyện họ bị người địa phương kỳ thị cũng không thực sự là một vấn đề, vì người di trú hầu như không bao giờ chạm trán với người địa phương cả. Và tôi cũng lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng mức độ thay đổi việc làm ở đây rất cao. Hầu hết những người ở nấc cao hơn trong các nhà máy mà tôi gặp mặt đều bắt đầu từ dây chuyền lắp ráp. Các cô gái tôi quen biết không có vẻ như là đã được định sẵn sẽ trở về với ruộng đồng, vì họ chưa bao giờ làm ruộng cả. Họ thường không biết gia đình mình có bao nhiêu đất hay khi nào thì mùa vụ bắt đầu. Suy nghĩ ngầm định này của tôi bắt nguồn từ những nghiên cứu về người di trú ở Trung Quốc được hoàn thành vào khoảng giữa thập kỷ 90; gần một thập kỷ sau đó, thế giới này đã hoàn toàn thay đổi, nhưng nhiều thứ diễn ra quá nhanh để có thể kịp ghi chép lại. Tôi bắt đầu thấy thích Đông Quản, thành phố có vẻ như là một biểu hiện tai quái nhất của Trung Quốc: Chủ nghĩa vật chất, môi trường bị hủy hoại, tham nhũng, giao thông, ô nhiễm, tiếng ồn, nạn mại dâm, lái xe ẩu, suy nghĩ thiển cận, stress, vật lộn, và hỗn loạn. Nếu sống được ở đây, bạn có thể sống được ở bất cứ nơi đâu. Tôi đã cố gắng hòa nhập hết mức có thể. Tôi ăn những bát mì hai mươi lăm xu[6] cho bữa trưa và đi khắp nơi bằng xe buýt. Tôi mặc đồ vải jean và đi dép xăng đan, giản dị hơn rất nhiều cô gái di trú đến đây, họ mặc áo sơ mi thêu diềm trang trí và đi giày cao gót khi ra ngoài. Tôi trở nên vô hình ở Đông Quản và tôi cũng thích điều đó. Ở những nơi khác: trên đất nước Trung Quốc này, một người nhìn chằm chằm vào người lạ và ghi ghi chép chép các thứ trong một cuốn sổ sẽ thu hút sự chú ý; ở đây, mọi người đều quá tập trung vào các mối quan hệ của bản thân nên không để ý đến tôi. Chỉ một lần duy nhất có người đến làm phiền: tôi đang đứng trong hội chợ việc làm, chép lại hướng dẫn trong một quảng cáo trên tường. Một người bảo vệ bước lại hỏi xem tôi đang làm gì. Tôi nói mình đang luyện tiếng Anh, vậy là anh ta liền để tôi yên. Đông Quản là một thành phố vô hình với thế giới bên ngoài. Hầu hết các bạn của tôi ở Bắc Kinh đã đi qua thành phố này nhưng tất cả những gì họ nhớ được - với một cái nhún vai - là các nhà máy kéo dài vô tận và những cô gái mại dâm. Tôi đã tình cờ tìm thấy thế giới bí mật này, thế giới mà tôi chia sẻ với bảy triệu, hoặc tám triệu, hoặc thậm chí là mười triệu con người khác. Sống ở Đông Quản giống như là đến đây lần đầu tiên, lao vút đi bảy mươi dặm một giờ trên đường vậy, cảnh vật thay đổi quá nhanh để có thể ghi nhớ chút gì. Đông Quản là vùng đất không có ký ức. *** Đông Quản đồng thời là một thành phố của những đối nghịch, bởi lịch sử Trung Hoa hiện đại đã bắt đầu ở đây. Vào thế kỷ mười chín, thuốc phiện nhập lậu của người Anh hủy hoại đất nước và rút cạn quốc khố. Mùa hè năm 1839, đại thần Lâm Tắc Từ của triều đình Mãn Thanh đã ra lệnh công khai thiêu hủy hai mươi nghìn thùng thuốc phiện tại bến cảng Hổ Môn, một thị trấn ở Đông Quản. Hành động ấy khiến hai quốc gia bước vào cuộc Chiến tranh Nha phiên lần thứ nhất, xảy ra ở Quảng Đông và nhanh chóng kết thúc khi tàu chiến Anh đè bẹp lực lượng quân đội Trung Hoa. Hiệp ước Nam Kinh đã cắt Hồng Kông cho nước Anh, buộc triều đình phải mở cửa các cảng Trung Quốc cho thương mại quốc tế, cho các quốc gia khác đặc quyền thương mại và pháp lý xưa nay chưa từng có trên lãnh thổ Trung Quốc. Trong các bài lịch sử được dạy ở trường học Trung Quốc, ngọn lửa đốt thuốc phiện ở Hổ Môn đã nhóm lên thời kỳ hiện đại: khuất phục trước sức mạnh của nước ngoài, theo đó là sự sụp đổ của triều đình Mãn Thanh, cách mạng, chiến tranh và chiến thắng của Đảng Cộng sản năm 1949. Nhưng nơi này còn có một lịch sử khác. Mùa thu năm 1978, hãng túi xách Thái Bình của Hồng Kông đã mở nhà máy tại nước ngoài đầu tiên ở Đông Quản. Thu nhập trong năm hoạt động đầu tiên là một triệu đô la Hồng Kông. Nhà máy này xử lý các nguyên vật liệu nhập từ Hồng Kông, biến chúng thành thành phẩm, sau đó sẽ được vận chuyển trở về Hồng Kông để bán đi khắp thế giới. Nó đã tạo ra hình mẫu cho hàng ngàn nhà máy khác học theo. Hơn hai năm sau đó, Trung Quốc thành lập bốn “đặc khu kinh tế” làm nơi thử nghiệm cho các chính sách tự do kinh tế như đầu tư nước ngoài và ưu đãi thuế. Đặc khu lớn nhất là Thâm Quyến, cách Đông Quản năm mươi dặm về phía Nam, nó nhanh chóng trở thành biểu tượng của một guồng quay Trung Quốc sẵn sàng rộng mở cho việc kinh doanh. Thâm Quyến là một thành phố kiểu mẫu được hoạch định, được các lãnh đạo ở Bắc Kinh quyết định cho ra đời và được các bộ ngành cùng những công ty bên dưới hỗ trợ. Đông Quản thì khác. Thành phố này mọc lên chẳng theo một sắc lệnh của bất cứ ai, đơn giản là cứ mọc lên mà thôi. Khi Thâm Quyến đặt mục tiêu vào công nghệ tiên tiến và đổi mới, thì Đông Quản nhận lấy những gì có thể, nghĩa là thu nhận các nhà máy kỹ thuật lạc hậu từ Hồng Kông và Đài Loan sản xuất quần áo, đồ chơi và giày dép. Tất cả những gì họ cần chỉ là giá đất và lao động rẻ mạt, cũng như chính quyền địa phương để cho họ yên. Thứ họ xây dựng ở đây vào thuở ban đầu không thể gọi là công nghiệp hiện đại được. Rất nhiều nhà máy vào thời kỳ ấy chỉ là những ngôi nhà hai hay ba tầng, nơi các công nhân ngồi ở bàn, năm chục người một phòng, cắm cúi thực hiện các tác vụ đơn giản như khâu vỏ cho thú nhồi bông hay gắn tóc giả cho búp bê. Một số nhà máy chỉ là những gian nhà tạm bợ bằng kim loại tấm, vì chủ nhân của chúng không muốn phải tốn tiền cho những tòa nhà tử tế. Trong những ngày đầu, tuyến xe lửa từ Hồng Kông còn chưa mở. Các doanh nhân đi tới biên giới giữa thuộc địa Anh và Thâm Quyến, đi bộ qua, và bắt taxi đến nhà máy của họ tại Đông Quản ở phía bên kia, trên đường đi qua các cánh đồng. “Ở đây không có đường, không có ô tô, không có ti vi, thậm chí cả cái rèm cũng không có nốt,” Allen Lee, cán bộ quản lý ngành công nghiệp sản xuất giày Đài Loan, đã chuyển đến thành phố năm 1989 nhớ lại. “Người ta không thể mua những thứ đó ở đây được.” Tháng Sáu năm 1989, ông ta đã phải đạp xe bốn mươi phút để xem tin tức trên ti vi về vụ bắn giết những người chống đối ở Quảng trường Thiên An Môn. Nguồn cung cấp lao động địa phương nhanh chóng cạn kiệt nên người di trú bắt đầu đến từ các tỉnh lân cận. Lâm Tuyết, người phụ nữ viết bài cho một tạp chí dành cho người di trú mà tôi quen biết, đã đến Đông Quản từ miền quê Tứ Xuyên vào năm 1990. “Chúng tôi đến đây mà chẳng biết gì cả,” cô nói với tôi. “Tôi đến gặp ai đó bán vé và hỏi: “Tôi nên mua vé đi đâu bây giờ?” và chúng tôi làm theo những gì họ nói.” Lâm Tuyết tìm được một công việc trong nhà máy với mức lương bảy mươi nhân dân tệ một tháng, còn em gái cô làm công việc ép gỗ dán trong một xưởng gỗ. Những năm 1990, sản xuất chính của thành phố chuyển sang đồ điện tử và linh kiện máy tính. Ngày nay Đông Quản sản xuất ra 40 phần trăm đầu từ dùng trong máy tính cá nhân và 30 phần trăm ổ cứng trên toàn thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong hơn hai thập kỷ qua khoảng trên 15 phần trăm một năm. Nhưng có một số điều vẫn không thay đổi. Người di trú vẫn tiếp tục đến. Các nhà máy đòi hỏi nhiều nhân công vẫn thống trị. Mặc dù các sản phẩm đã trở nên tinh vi phức tạp hơn nhiều, bản thân công việc vẫn không hề khác, vẫn còn rất nhiều tòa nhà kiểu căn hộ, nơi công nhân ngồi ở bàn cắm cúi vào những tác vụ thủ công đơn giản. Vậy, Đông Quản là một vùng đất có các phiên bản hoàn toàn trái ngược nhau trong quá khứ - một phiên bản cương quyết phản đối sự hiện diện của người nước ngoài ở Trung Quốc, một phiên bản kia lại lẳng lặng nhiệt tình đón tiếp. Mọi học sinh Trung Quốc đều học về sự kiện đốt thuốc phiện. Nhưng từ Nhà máy túi xách Thái Bình, thứ chẳng xuất hiện trong bất cứ cuốn sách giáo khoa nào, tôi có thể vạch một đường thẳng đến bất cứ người nào tôi từng gặp ở Đông Quản, từ những lao động di trú học cách sử dụng Microsoft Word đến những chuyên gia tự học hoặc đến đại diện bán hàng của hãng Mercedes, người đã kể cho tôi rằng hai loại xe đắt nhất, S-Class và E-Class, bán chạy nhất ở thành phố này, bởi vì “đây là sản phẩm tốt dành cho những ông chủ muốn nâng tầm hình ảnh của mình.” Đối với tất cả họ, lịch sử hiện đại bắt đầu từ nhà máy sản xuất túi xách. * * * Tôi đã ở đây vài tháng mà không gặp một người Đông Quản gốc nào. Trong thế giới công xưởng, từ quản lý cấp cao nhất của dây chuyền lắp ráp, là lĩnh vực chỉ toàn dân di trú, cho tới sếp cao nhất đôi khi cũng đến từ Hồng Kông hoặc Đài Loan. Dân địa phương nói tiếng Quảng Đông, nhưng các nhà máy hoạt động chủ yếu bằng tiếng Trung phổ thông, bởi đó là cách duy nhất để người từ những tỉnh khác nhau có thể nói chuyện với nhau. Dân di trú không đánh giá cao dân bản địa cho lắm: dân bản địa là những nông dân thất học, sống bằng cách cho các nhà máy thuê đất nông nghiệp, họ không thể sống sót được một ngày trong môi trường làm việc khắt khe của nhà máy. “Hai bên khinh thường lẫn nhau,” Lâm Tuyết bạn tôi miêu tả mối quan hệ giữa người bản địa và dân di trú. Sáu tháng sau khi đến Đông Quản lần đầu tiên, tôi đã phỏng vấn phó thị trưởng. Ông ta tên Trương Thuận Quang và là người gốc Đông Quản: người bản địa đầu tiên mà tôi gặp. Chúng tôi ngồi ở phòng tiếp khách lớn trông một tòa nhà công sở, uống trà bằng những cốc giấy bé xíu. Vài tay trợ lý của ông ta tụ tập ở đó, tán chuyện với nhau bằng tiếng Quảng Đông. Tôi chưa bao giờ gặp một người Đông Quản, thì ra tất cả bọn họ đều tập trung ở đây, bên trong chính quyền. “Chị có nói tiếng Quảng Đông không?” Một tay trợ lý hỏi tôi. “Xin lỗi, không,” tôi đáp. Chưa ai trong thành phố hỏi tôi một câu tương tự như vậy cả. “Đây có phải lần đầu tiên chị đến Đông Quản không?” “Không, tôi đến đây nhiều lần rồi.” “Ồ, có phải tất cả đều là những chuyến đi bí mật không?” “Nếu anh không biết về nó thì nó là bí mật à?” Chúng tôi đã cảm thấy không ưa nhau. Giữa cuộc phỏng vấn, tôi săm soi nhìn tay trợ lý và anh ta cũng nhìn chòng chọc lại tôi. Người phụ nữ trẻ ngồi cạnh anh ta đã lăn ra ngủ. Cụm từ khinh thường lẫn nhau nảy ra trong đầu tôi. Cuộc phỏng vấn cũng khá hữu dụng: không tận mắt chứng kiến, tôi sẽ không bao giờ tin được rằng chính quyền lờ người di trú đi một cách triệt để tới mức nào. Ngài phó thị trưởng không có nổi con số chính xác về số lượng dân di trú - đó là việc của ủy ban điều tra dân số, không phải việc của cơ quan ông ta. Ông ta thú nhận rằng chính quyền địa phương thiếu nguồn lực để kiểm tra điều kiện trong các công xưởng. “Nếu tôi thanh tra mỗi nhà máy một ngày,” ông ta nói, “tôi sẽ mất năm mươi năm để thanh tra tất cả các nhà máy ở đây. Vì vậy chúng tôi phải trông vào việc tự kiểm soát của các nhà máy.” Sau đó, ông ta nói về một kế hoạch để “nâng cao chất lượng người dân Đông Quản,” nhưng nỗ lực này không có lợi ích gì cho những người không phải gốc Đông Quản. Giống như tất cả dân thành phố này, ông ta luôn mang một sự coi thường trong suy nghĩ đối với waidiren (ngoại địa nhân), người nơi khác, thuật ngữ thông dụng dành cho dân di trú. “Chất lượng của lao động nhập cư không cao” ông ta nói, “nhưng đấy là trách nhiệm của các công ty. Họ nên tổ chức các lớp học cho công nhân.” Tôi hỏi ngài phó thị trưởng xem tại sao không có người Đông Quản nào trong các nhà máy, ngay cả ở tầng lớp cao nhất, và ông ta mâu thuẫn với chính những gì mình vừa nói mà không hề thấy ngượng mồm. “Những người từ nơi khác đến,” ông ta nói, “có chất lượng cao hơn và nhận lương thấp hơn.” Sau cuộc phỏng vấn, ngài phó thị trưởng bắt tay tôi và khen ngợi hiểu biết của tôi về thành phố. Tôi không nói với ông ta những người cung cấp thông tin của mình đều là các cô gái di trú còn rất trẻ có chất lượng thấp và đồng lương thậm chí còn thấp hơn. MỘT NĂM SAU KHI ĐẾN THÀNH PHỐ này, tôi thuê một căn hộ đơn ở trung tâm thành phố với giá 160 đô la một tháng. Tòa nhà cao tầng này có tên Đông Quản City Holiday, đối tượng nó nhắm đến là phụ nữ độc thân, các bảng quảng cáo tấm lớn rực rỡ chăng khắp nơi: NHÀ CHO MỘT NGƯỜI, SỰ TRÁNG LỆ CHO MỘT NGƯỜI. Tôi nghĩ mình sẽ gặp các phụ nữ trẻ và nghe họ kể chuyện, nhưng không ai nói một lời nào với tôi trong hành lang và thang máy, và tôi không bao giờ thấy một người nào trong phòng công cộng. Mọi người quá bận rộn với cuộc sống của riêng mình nên chẳng buồn lo chuyện của người khác. Tôi nhận được hầu hết các tin tức từ bảng thông báo trong khu căn hộ, khắc họa một cộng đồng toàn tội phạm vặt vãnh và việc xây dựng diễn ra suốt ngày đêm. VÌ SỰ YÊN TĨNH CỦA CÁC HỘ DÂN, VIỆC SỬA CHỮA SẼ TẠM DỪNG VÀO NGÀY 1 THÁNG MỘT VÀ SẼ TIẾP TỤC VÀO NGÀY 2 THÁNG MỘT. KHI CÓ NGƯỜI GÕ CỬA NHÀ, KHÔNG NÊN MỞ CỬA NGAY TRƯỚC KHI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI ĐÓ. AI CÓ THÔNG TIN VỀ BẢNG TRỘM Ở KHU NAM THÀNH HÃY BÁO NGAY VỚI CẢNH SÁT. Chủ nhà của tôi chuyển đến thành phố từ vùng nông thôn Quảng Đông từ nhiều năm trước. Chị ta thường xuất hiện trước căn hộ của tôi trong bộ pyjama hồng và dép lê đi trong nhà để thu tiền, có lần tôi đã nghe thấy chị ta hét “mả mẹ nhà anh” vào điện thoại với chồng mình vì anh ta vừa bảo sẽ trở về muộn sau chuyến công tác. Chị ta làm nhân viên bán hàng ca đêm ở một khách sạn. Tôi băn khoăn không hiểu chị ta bán loại hàng gì mà phải làm từ nửa đêm đến sáu giờ sáng như thế, nhưng tôi không bao giờ đủ dũng khí để hỏi. Bà chủ nhà luôn có cách để chuyển hướng các câu hỏi. “Làm sao chị có được hai đứa con thế?” Một lần tôi hỏi chị ta. Hầu hết các gia đình ở thành thị đều bị giới hạn chỉ có một con. “Làm sao cô lại nghĩ tôi có hai đứa con?” Chị ta đáp. Môi trường buôn bán bên ngoài căn hộ của tôi luôn luôn thay đổi. Vào hôm chuyển đến, tôi đã rất hưng phấn khi thấy một tấm biển PIZZA LÒ GẠCH bên cạnh lối vào tòa nhà, một hương vị dễ chịu của quê nhà. Lần tiếp theo, tấm biển đó đã chuyển thành SIÊU THỊ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG ĐẠI CHÍ. Đúng là những gì Trung Quốc cần: một cửa hàng bán điện thoại di động khác. Trong hai tuần tiếp sau đó, không gian bên dưới căn hộ của tôi biến đổi từ căn phòng trống với dây điện nhỏ lòng thòng trên trần thành một cửa hàng điện thoại di động hoạt động hết công suất, với những người bán hàng trông như người máy và tiếng nhạc phát ra từ những chiếc loa khổng lồ hướng về phía bãi đỗ xe vắng tanh. Vào hôm tiếp theo, công tác tiếp thị đã bắt đầu, một cô gái trẻ đứng ở cửa vào và đọc tên các đời máy và giá bán vào microphone, hết loại này đến loại khác. Một tấm biển khác hiện lên phía trước tòa nhà tôi ở: CÓ CỬA HÀNG KFC Ở CẠNH NHÀ BẠN! LỢI NHUẬN 8% HÀNG NĂM MÀ KHÔNG PHẢI LÀM BẤT CỨ ĐlỀU GÌ. Tôi không thích thú lắm với việc có một cửa hàng KFC ở cạnh nhà mình. Thứ bất biến duy nhất trong khu này là nhà máy Nescafé ở bên kia đường. Vào những ngày hè, mùi cà phê bọc kín lấy tôi ngay khi bước ra ngoài, một trận tắm ấm áp cả ngọt lẫn đắng. Khi sống ở Bắc Kinh, bạn bị che đậy khỏi rất nhiều thứ, nhưng ở các thành phố xa trung tâm bạn có thể thấy cận cảnh khuynh hướng của sự phát triển ở Trung Quốc. Xe buýt công cộng thường xuyên rẽ khỏi lộ tuyến cố định để đổ thêm nhiên liệu, thiếu xăng dầu là chuyện rất thường tình, vì vậy trạm xăng nào cũng đáng dừng lại ngay cả khi trên xe có đầy khách. Mất điện cả ngày là chuyện thường xuyên xảy ra, và các nhà máy phải sắp xếp lại lịch sản xuất vì chính quyền phân phối điện theo định mức. Trong các thông báo trên tấm bảng ở khu nhà tôi ở, có một cái không bao giờ thay đổi: ĐƯỜNG DÂY TRỤC CUNG ỨNG ĐIỆN CÁP HIỆN TẠI KHÔNG THỂ THEO KỊP NHU CẦU PHÁT TRIỂN VÀ PHẢI THAY THẾ. Suốt mùa hè năm 2005, mỗi chuyến đi đến Đông Quản của tôi đều gặp phải ít nhất một ngày không có điện. Nếu được thông báo trước, tôi sẽ sắp xếp lại kế hoạch, nhưng nhiều khi điện bị cắt mà không có một lời cảnh báo, buộc tôi phải ở trong nhà cả ngày trong cái nóng 32 độ C và di chuyển càng ít càng tốt. Tôi bèn gọi điện cho phòng quản lý tòa nhà, trút cơn giận dữ, nhưng đó không phải lỗi của họ. Không phải lỗi của bất cứ ai. Nền kinh tế Trung Quốc phát triển mười phần trăm mỗi năm, ở miền Nam còn nhanh hơn thế, nên chỉ có phép màu mới khiến mọi thứ có thể gắn kết như chúng đã từng. * * * Tôi đi khắp nơi bằng xe buýt. Làm vậy một phần là để quan sát thế giới của những người di trú hết mức có thể, song nó cũng rất thực tế. Lái xe taxi là những tên lừa gạt giỏi nhất ở đây - không chỉ một lần tôi nhận ra mình đang lao vút trên con đường tối om khi tay tài xế dọa sẽ bỏ tôi lại giữa đường nếu tôi không chịu trả thêm tiền. Một chiến thuật đàm phán hiệu quả nhanh khác nữa là đề nghị chở một hành khách đi một phần quãng đường tới nơi đến với giá thấp hơn, tài xế là những người suy nghĩ ngắn đến nỗi họ chấp nhận lấy ít hơn để được trả tiền sớm hơn. Thậm chí cả những bác tài thành thật nhất cũng mắc phải những lỗi lầm rất “nông dân”: một khi rời khỏi khu vực họ thông thạo, họ cũng lạc đường hệt như tôi vậy. Nhân viên trong hệ thống xe buýt làm việc theo từng cặp: lái xe thường là người địa phương, còn người bán vé là một phụ nữ di trú. Đôi khi họ hét với qua đầu hành khách suốt dọc chiều dài chiếc xe để trò chuyện, và đôi khi có một màn hình ti vi nhỏ gắn trên bảng điều khiển để tài xế có thể vừa xem ti vi vừa lái xe. Mỗi khi gần đến điểm dừng, người bán vé thò người qua cửa trong khi xe vẫn di chuyển và khản giọng hét to điểm tới tiếp theo. Những người đang đợi thường dễ bị ảnh hưởng bởi áp lực, nếu bị hét gọi đủ lâu, vài người sẽ leo lên. Những chàng trai trên xe buýt bốc mùi mồ hôi nồng nặc, mùi của những người đã đi bộ những quãng dài bên ngoài và chưa bao giờ được hưởng cái thú xa xỉ gọi là điều hòa nhiệt độ. Các cô gái lại thường sạch sẽ: họ không bao giờ bốc mùi, mái tóc luôn suôn mượt. Trên xe buýt nào cũng có vài người di trú khư khư cầm túi nylon giơ lên mồm lặng lẽ nôn ọe. Chứng say xe là nỗi sợ của những người đến từ nông thôn, những người không quen đi lại bằng ô tô. Túi nhựa màu nâu treo lơ lửng trên trần xe thành từng chuỗi một, trông như những quả chuối chín nẫu sắp hỏng. Hành khách trên xe buýt mang theo nhiều loại đồ đạc một cách đáng kinh ngạc; ở nông thôn, người ta chẳng vứt đi thứ gì cả. Trong những chuyến đi khác nhau, tôi thấy có người mang theo một cái ti vi cổ lỗ sĩ, cả một giỏ dây điện, một xô đóng đầy vữa bùn đựng các đồ lề thợ xây, và một cái cờ lê dài đến nửa mét trông phát khiếp. Có lần, tôi còn thấy một chàng trai trẻ vác theo một cái cán chổi dài gần hai mét. Các trạm dừng xe buýt không được đánh dấu, và chẳng có tấm bảng nào hiển thị tuyến đường. Bạn phải hỏi; thông tin truyền đạt bằng miệng, như thể chúng ta sống vào thời cổ đại trước khi chữ viết được phát minh ra. Tôi đã hai lần mua bản đồ thành phố có bảng giờ xe buýt nhưng cả hai lần các tuyến đường đều lỗi thời, mọi thứ xảy đến quá nhanh để có thể ghi chép lại. Những hành khách khác cũng bối rối chẳng kém gì tôi, họ thường lớn tiếng gọi tên những trạm vừa mới đi qua và hoảng hốt xuống xe. Tôi đi đến đâu cũng bị hỏi đường. Một buổi chiều, tôi đã rối beng vì các tuyến đường với một người đàn bà di trú, bà này sau đó đã hỏi tôi: “Cô là dân Hồ Bắc hả?” Đó là một lời châm chọc hay lời khen đây? Tôi chỉ muốn về nhà thôi. Buổi tối xe buýt ngừng chạy rất sớm, một sự bất công đối với những ai không đủ điều kiện sử dụng các phương tiện giao thông khác. Sau tám giờ tối, người ta chắc chắn phải qua đêm ở chỗ của bạn bè, mặc dù hầu hết các nhà máy cấm khách ở lại qua đêm và bị phát hiện đồng nghĩa với một khoản phạt lớn. Tôi không bao giờ thấy người già trên xe buýt. MỘT BUỔI TỐI, tôi bắt xe buýt từ Thâm Quyến trở về Đông Quản. Được khoảng nửa đường, chiếc xe dừng lại và tài xế quát đuổi các hành khách chuyển sang một xe khác. Chuyện này khá phổ biến, dù bất hợp pháp: vào buổi tối khuya, những chiếc xe trống một nửa ghế ưa chuyện dồn khách gộp khách hơn là tiếp tục chuyến đi để chịu lỗ. Tài xế xe này sẽ trả cho người kia một giá ấn định cho mỗi hành khách chuyển khỏi xe mình. Sau khi chiếc xe buýt thứ hai đã lên đường cao tốc, người bán vé mới tuyên bố rằng chúng tôi sẽ không đến Đông Quản. Chuyện này cũng phổ biến: sau khi xe thứ hai được trả tiền để nhận khách, mục tiêu duy nhất của nó chính là thoát khỏi họ càng sớm càng tốt. Chiếc xe dừng lại. “Người nào đi Hậu Nhai xuống ở đây.” Người bán vé là một gã người Quảng Đông gầy trơ xương lúc nào cũng thét lên bằng giọng mũi. Y đi dọc theo hai dãy ghế, chỉ vào từng người một và ra lệnh cho họ đi xuống. Gã ta chỉ vào tôi. Một hành khách ngồi trước tôi đã xuống xe, biến mất vào màn đêm tối tăm. Tôi đi ra phía trước xe ngó ra ngoài từ bậc lên xuống dưới cùng. Chúng tôi đang ở trên đường cao tốc tối đen như mực bên cạnh một công trường xây dựng bỏ hoang. “Ở đây không có taxi,” tôi nói với gã bán vé. “Tôi không xuống đâu.” “Có taxi đây,” gã hét lên bằng giọng Quảng Đông cáu kỉnh. “Tôi không xuống đây.” Gã bước tới sau lưng và đặt bàn tay lên vai tôi. “Đừng có chạm vào tôi!” Tôi bước lên bậc thang trở lại xe ngồi xuống một chỗ ở hàng đầu tiên. Những hành khách khác không ai nhúc nhích. Và chiếc xe lại tiếp tục lên đường. Nó đã thất bại trong việc tống khứ đống hàng hóa mình đang chở, vì vậy nó lại chạy tiếp. Hành khách lại tiếp tục xuống ở trạm của họ như chưa từng có chuyện gì xảy ra. “Bọn xe buýt này bẩn lắm,” một phụ nữ trẻ có gương mặt ngăm đen gầy gò ngồi cạnh tôi nói. “Cô chỉ nên bắt xe buýt nào có tài xế mặc đồng phục thôi.” Nói vậy nhưng cô vẫn ở trên chiếc xe này, giống như tôi. “Cái bọn làm trên cái xe này toàn lũ xấu xa cả,” cô cao giọng nói, “lại toàn nói tục chửi bậy nữa.” Chỉ ngồi bên cạnh cô tôi cũng đã thấy an toàn, nhưng rồi cô cũng xuống xe. Chiếc xe ngoặt vào ven đường và dừng lại lần nữa. “Được rồi, tất cả xuống xe,” gã bán vé quát lên. Lần này gã đi đi lại lại dọc lối giữa hai hàng ghế, đưa cho mỗi người hai nhân dân tệ. Tôi bước xuống chỗ gã đang đứng. “Tôi trả hai mươi lăm đồng để đến Đông Quản, giờ tôi muốn lấy lại tiền ấy.” Gã bán vé quay lại đối mặt với tôi. Tất nhiên, gã cao hơn tôi và là đàn ông. Trong khoảnh khắc ấy, tôi nhận ra thực tế mình bất lực đến nhường nào. “Nếu cô trả một trăm đồng thì tôi cũng phải trả cô một trăm đồng hả?” Gã hét lên. “Nếu tôi tụt quần ra, cô có trả tôi một trăm đồng không?” Câu đó chẳng có nghĩa gì và cũng chẳng buồn cười nữa, nhưng gã thích cái kiểu ấy và nói lại một lần nữa. “Nếu tôi cởi quần ra, cô có trả tôi một trăm đồng không?” “Con mẹ mày,” tôi nói bằng tiếng Anh. “Thằng khốn. Đồ đầu...” Điều này đã vi phạm quy tắc chủ đạo của tôi khi sống ở Trung Quốc - không bao giờ chơi bài Mỹ - nhưng thỉnh thoảng chỉ có chửi thề bằng tiếng Anh mới có hiệu quả. Gã đàn ông nhìn tôi với sự tôn trọng mới. Tôi gạt gã sang một bên đi tới phía trước xe tìm thứ gì đó để ném. Tôi muốn giật cái túi tiền đeo ở thắt lưng của gã quăng qua cửa sổ, nhưng tất nhiên là gã giữ nó rất chặt. Có một cái khăn bông bẩn thỉu trên bảng đồng hồ, tôi bèn hất nó vào mặt gã tài xế. Sau đó tôi nhảy xuống xe và chạy. Tim tôi đập thình thịch; tôi nghĩ có thể hắn sẽ đuổi theo. Rồi tôi dừng lại, nhận ra chắc hẳn là trông mình ngu ngốc lắm. Trên một con phố ngang, tôi thấy một chiếc taxi và hỏi tài xế đến Đông Quản thì bao nhiêu tiền. Tám mươi nhân dân tệ - mười đô la. Tôi lên xe. Tôi bực đến nỗi run bần bật. Tôi nghĩ đến tất cả những phụ nữ trẻ sống ở đây mà tôi quen biết, và mỗi người đã bị một kẻ nào đó giống như gã người Quảng Đông gầy trơ xương kia, những kẻ sáng sớm thức dậy đã thấy nổi giận với cả thế giới này, lừa gạt, nhục mạ và quát tháo như thế nào. Không thể trông đợi gì ngoài nước mắt và nổi giận với sự bất lực của chính bản thân mình. Trong một cuộc cãi vã, mọi chuyện sẽ lập tức chuyển thành bạo lực, người phụ nữ sẽ luôn thua cuộc. Tôi có tiền, và với tiền, tôi có thể trả tiền để đi lại thoải mái và an toàn. Họ thì không. Nhưng cũng có những người tử tế, giống người phụ nữ trẻ trên xe buýt đã chửi đổng gã tài xế thay cho tôi. Bạn phải tập trung vào những điều đó, nếu không bạn sẽ không bao giờ sống nổi. * * * Đông Quản có thể giống một nơi không có quá khứ, nhưng quan chức thành phố không nghĩ như vậy. Ở khu trung tâm mới, họ đã dựng lên một nhà bảo tàng lịch sử - một khu nhà rộng mênh mông bằng đá xám, thấp lè tè và kiên cố như lăng mộ của một nhà độc tài đã chết. Các tài xế taxi không biết chỗ ấy - họ luôn đưa tôi tới một trung tâm triển lãm thương mại dưới phố - nhà bảo tàng ấy vắng tanh vắng ngắt trong cả ba lần tôi đến thăm vào mùa hè năm 2005. Bảo tàng lịch sử Trung Quốc là nơi vô cùng lộn xộn. Nền văn minh cổ xưa rất vĩ đại, hoặc lối thuyết minh chính thức nói như thế, nhưng nó phong kiến và lạc hậu. Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại bị người nước ngoài cướp bóc tàn phá, nhưng nhân dân Trung Hoa là những anh hùng bị làm nhục và bại trận. Trung Quốc vùng đứng lên năm 1949 khi những người Cộng sản lên nắm quyền lực, nhưng có một số năm sau đó - 1957, 1966 và đặc biệt là 1989 - đã hoàn toàn không được nhắc đến. Tất cả những điều rối tung, không gắn kết với nhau và tốt hơn là không nên nói ra ấy phải được dàn xếp sao cho thành một khuôn mẫu hợp lý, bởi vì mục đích của lịch sử từ thời của Khổng Tử là phải truyền đạt những bài học đạo đức cho đời sau. Ở Đông Quản, tiền sảnh mở rộng của nhà bảo tàng là một biểu trưng cho sự phí phạm đất đai và cho hệ thống điều hòa công suất lớn. Các tấm biển chỉ đến khu Lịch sử, thẳng phía trước, và Kinh tế, tầng hai. Trong lần tham quan đầu tiên, tôi vào khu Lịch sử. Căn phòng đầu tiên trưng bày từ các hóa thạch sinh vật biển thời tiền sử đến các hiện vật đời nhà Thanh, với các tủ kính trưng bày thứ gì đó trông như mấy cục đá. Nhìn kỹ hơn, chúng là mấy cục đá với dòng chú thích bằng thứ tiếng Anh không thể nào hiểu nổi: Whetstone appearing from Haogang shell mound remains. (Đá mài xuất hiện từ di chỉ gò vỏ sò (?) Hào Cương). Một cảnh nổi khổ lớn bằng cả căn phòng với hình các thợ dệt nữ minh họa nghề thủ công truyền thống ở Đông Quản thuở trước. Một cuộn băng tiếng dập khung cửi phát đi phát lại ám ảnh tôi suốt các gian phòng. Nhiều đống đá hơn nữa được bày tiếp theo, sau đó lịch sử đột nhiên lao vọt về phía trước với sự chính xác đến đáng ngạc nhiên. Dân số tăng lên và đạt 150.378 người vào năm Thiên Thuận thứ sáu triều Minh (1462). Chợ búa được xây dựng, ngành sản xuất muối phát triển rực rỡ, nông nghiệp thịnh vượng. Trong một căn phòng lớn, một cái cây giả rủ bóng xuống một cái hồ giả, một con thuyền giả, một cái cầu cạn vòm cuốn giả, ba con ngỗng giả và hai con vịt cũng giả nốt. Tiếng quạc quạc vang lên không dứt. Còn một khó khăn khác nữa trong việc kể về quá khứ. Mọi nơi đều phải phản ánh tính liên tục của năm ngàn năm lịch sử Trung Quốc, nhưng ở hầu hết mọi nơi, có rất ít thứ được ghi chép lại và chẳng có gì cụ thể còn lại cả. Các mẫu vật có giá trị đã được yêu cầu chuyển về Bắc Kinh hoặc mất mát trong chiến tranh cũng như những cuộc vận động chính trị, vì vậy các nhà bảo tàng buộc phải tự sáng tác ra phần còn lại. Họ đúc súng thần công, chuông và các bộ giáp giả, rồi in những văn bản cũ lên các tấm formica và treo lên tường. Cảnh nổi ba chiều ở khắp nơi trong phòng - một kiểu trưng bày được ưa thích, có lẽ bởi vì chúng chiếm rất nhiều không gian. Những mẫu vật gần như là duy nhất ở bảo tàng Đông Quản chính là các đống đá. Đến khi lịch sử cận hiện đại bắt đầu bằng cuộc Chiến tranh Nha phiến thế kỷ mười chín, mọi chuyện thật sự trở nên khó hiểu. Một mẫu trưng bày có tiêu đề “Phẫn nộ chống lại quân Anh” gồm có ma nơ canh các sĩ quan hải quân Anh và một viên quan triều đình Trung Quốc có vẻ mặt giận dữ. Thất bại trong cuộc Chiến tranh Nha phiến luôn luôn là một nỗi nhục, là nỗi đau sâu sắc với Trung Quốc. Nhưng có lẽ không thể dồn được đủ nỗi phẫn uất cần thiết để chống lại người Anh trong một thành phố thương mại phồn vinh, cho nên mẫu trưng bày tiếp theo đã chuyển sang cung bậc tình cảm khác. Năm 1878, thống đốc Hồng Kông cho thành lập Bảo lương cục[7] để bảo vệ phụ nữ và trẻ em Trung Quốc. Vật trưng bày lướt nhanh qua Chiến tranh thế giới thứ hai và thẳng tiến đến thắng lợi của Cộng sản, một tấm ảnh mờ mờ đầy những gương mặt hạnh phúc. Hàng triệu con người hân hoan vì được giải phóng. Trong căn phòng tiếp theo, một dòng tiêu đề kéo dài hết cả bức tường: “Tầm nhìn thành hiện thực: từ huyện nông nghiệp đến thành phố công nghệ thông tin”. Một tấm bảng có đèn trưng bày những tấm ảnh đại hội Đảng Cộng sản mà tại đó Đặng Tiểu Bình đã đề ra chương trình cải cách kinh tế và mở cửa đối với phương Tây. Đó là năm 1978. Từ phòng nọ đến phòng kia, triển lãm đã nhảy cóc ba mươi năm, bỏ qua sự thành lập nước Trung Quốc Cộng sản, cải cách ruộng đất và các hoạt động thanh trừng những kẻ phản cách mạng, công kích “kẻ thù giai cấp” và sự thành lập các công xã, công cuộc Đại Nhảy Vọt và nạn đói đã giết chết ít nhất là hai mươi triệu người, và cả một thập kỷ Cách mạng Văn hóa. Tôi ra khỏi khu Lịch sử, đi vào khu Kinh tế, triển lãm trở nên sống động. Một cảnh ba chiều lớn thể hiện nhà máy túi xách Thái Bình với bốn người phụ nữ khom người xuống bàn khâu giày. Một hình mẫu của cơ quan công quyền nơi người ta đến xin giấy phép kinh doanh đặc tả hình ảnh quen thuộc của Người Đông Quản: một doanh nhân bụng phệ xách cặp táp giả da. Lịch sử tăng tốc - Nhiều thập kỷ trôi qua trong nháy mắt - và những tấm ảnh khổng lồ chụp cầu vượt bắc qua đường cao tốc, các nhà máy xử lý nước thải và những hội thảo đầu tư. CÁC VÒNG TỐT LÀNH[8] GỒM ĐẦU VÀO - ĐẦU RA - ĐẦU VÀO THỊ XÃ ĐẦU TIÊN CÓ MỘT TRIỆU THUÊ BAO DI ĐỘNG XÂY DỰNG ĐƯỜNG SÁ, CẦU CỐNG VÀ NHÀ MÁY ĐIỆN ĐỂ TẠO RA NGUỒN VỐN CHO NHIỀU ĐƯỜNG SÁ, CẦU CỐNG VÀ NHÀ MÁY ĐIỆN HƠN NỮA Một gian trưng bày tương tác thể hiện GDP, kim ngạch xuất khẩu, cân bằng thu chi và khoản thu từ thuế của thành phố. Mẫu trưng bày cuối cùng là một tấm ảnh buổi lễ ký kết công nhận Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001. MỘT THỜI ĐẠI MỚI ĐANG ĐẾN! KHI TÔI RỜI KHỎI BẢO TÀNG, các em học sinh lớp ba và lớp bốn trong giờ ngoại khóa đang chen chúc xếp hàng ở sảnh lớn. Các em mặc quần thể thao đồng phục và đeo khăn quàng đỏ của đội viên Thiếu niên Tiền phong trên cổ. Hướng dẫn viên của bảo tàng, một phụ nữ trẻ có gương mặt nghiêm nghị và cặp giò khẳng khiu, xách theo một cái loa cầm tay. Tôi chờ đợi được nghe về Chiến tranh Nha phiến và 150 năm ê chề nhục nhã. “Ở tầng ba, các em sẽ thấy một hình mẫu của thành phố,” cô ta bắt đầu. “Cô muốn tất cả các em tìm ra ngôi nhà của mình trong mô hình này. Các em đều biết hồ Tùng Sơn chứ?” “Vâng ạ.” Các học sinh đồng thanh đáp. “Hồ Tùng Sơn là khu công nghiệp công nghệ cao của chúng ta. Khẩu hiệu của Đông Quản là: “Mỗi năm một bước lớn, năm năm một thành phố mới.” Chúng ta đang ở năm thứ ba của kế hoạch ấy rồi đấy.” Cô ta ngưng lại một chút. “Các em có biết “Xây thành phố, làm đường sá, đổi mới núi đồi, lợi dụng sông ngòi” không?” Im lặng. Không ai biết câu này. “Đây là chính sách của thành phố, Đông Quản cũng có một bến cảng mở rộng đón tàu nước ngoài...” Thế kỷ thứ bảy, hoàng đế Đại Đường lệnh cho các sử quan hoàng gia soạn một bộ biên niên về các triều đại trước. Từ đó, mọi triều đại phong kiến đều viết sử cho triều đại trước mình, sửa đổi hoặc xóa bỏ một số sự thực để hỗ trợ cho chế độ cầm quyền. Từ năm 1949, Đảng Cộng sản cũng làm điều tương tự, giới thiệu về lịch sử cận hiện đại như một cuộc đấu tranh anh hùng chống lại ý chí của thế lực ngoại quốc. Nhưng ở Đông Quản này, quá khứ chứa đựng một bài học khác một cách đáng ngạc nhiên: lịch sử là mở cửa, thị trường và đầu tư nước ngoài. Lịch sử bắt đầu với một nhà máy sản xuất túi xách, và trẻ em phải được thấm nhuần tư tưởng biết trân trọng cơ sở hạ tầng tốt. Hướng dẫn viên nhắc nhở lũ trẻ hãy trở thành “khách tham quan văn minh,” và các em lớp ba, lớp bốn lại lục tục xếp thành các hàng không được ngay ngắn lắm đi vào khu Lịch sử. Chẳng mấy chốc đại sảnh rộng mênh mông lại vắng tanh vắng ngắt và tôi bị bỏ lại một mình để suy nghĩ về một bảo tàng lịch sử Trung Quốc khác biệt, không hề nhắc một lời nào đến Mao Trạch Đông. 3. Chết nghèo là có tội 25 tháng Năm, 1994 Sau khi bị đuổi việc ở nhà máy Vĩnh Thông (Yongtong Factory), thật may là mình còn được trả lương đầy đủ. Mình có hơn một trăm đồng và mình không sợ sệt gì hết. Mình có hơi lo lắng một chút, vì mình thậm chí còn chẳng có cả chứng minh thư nữa. Nhưng chẳng còn cách nào hơn, mình đành lấy tạm cái chứng minh thư ghi rằng mình sinh năm 1969 và thử vận may vậy. Ai ngờ mình lại may đến thế chứ? Mình đã được vào làm trong bộ phận ép nhựa dẻo của cái nhà máy này rồi. Từ lúc mình đến Quảng Đông, mình đã nhảy việc ở các nhà máy bốn hay năm lần rồi, cái sau luôn tốt hơn cái trước. Quan trọng hơn cả là trong mỗi lần như thế, mình đều dựa vào chính bản thân. Mình không bao giờ cầu xin sự giúp đỡ của bất cứ ai. Mặc dù mình có vài người bạn tốt, nhưng không ai giúp được mình trong lúc mình cần nhất cả. Mình nhớ khi mình trốn về từ Thâm Quyến. Vào thời gian ấy, mình thực sự chẳng có gì cả. Ngoài chính bản thân mình ra, mình chẳng có gì hết. Mình lang thang ngoài đường suốt một tháng, hoàn toàn không xu dính túi, thậm chí có lần còn phải nhịn đói hai ngày liền mà chẳng ai hay biết... Mặc dù hai vợ chồng anh họ mình sống ở ngay Long Nhãn, mình không muốn đến tìm họ, vì họ thực sự không thể giúp mình được. Mình thường xuyên muốn dựa vào người khác, nhưng họ không phải là những người có thể dựa dẫm. Chỉ có thể dựa vào chính mình mà thôi. Phải, mình chỉ có thể dựa vào chính bản thân. Ngô Xuân Minh không hề nói với cha mẹ khi cô rời bỏ quê hương lần đầu tiên. Đó là mùa hè năm 1992, ly hương là điều gì đó liều lĩnh và nguy hiểm. Ở một làng nhỏ thuộc tỉnh Hồ Nam quê cô, người ta nói rằng cô gái nào lên thành phố sẽ bị lừa vào nhà chứa và từ đó bặt vô âm tín. Mùa hè năm đó Xuân Minh mười bảy tuổi. Cô đã tốt nghiệp trung học cơ sở và đang bán rong rau quả ở thành phố gần nhà; cô ra đi cùng với một người em họ vẫn còn đang đi học. Hai cô gái vay tiền mua vé tàu đến Đông Quản và tìm được việc trong một nhà máy sản xuất sơn cho đồ chơi. Mùi hóa chất làm họ đau đầu, và họ đã trở về sau hai tháng, nghèo khó như xưa. Mùa xuân năm sau, Xuân Minh lại ra đi lần nữa. Cha mẹ cô phản đối, mắng mỏ và khóc lóc. Nhưng khi cô quyết định bất chấp tất cả để ra đi cùng vài người bạn ở mấy ngôi làng bên cạnh, mẹ cô đã đi vay tiền cho cô mua vé tàu. Quảng Đông năm 1993 thậm chí còn hỗn loạn hơn ngày nay. Những người di trú từ nông thôn tràn ngập các con phố, tìm kiếm việc làm, ngủ trong trạm xe buýt và dưới gầm cầu. Cách duy nhất để tìm việc là gõ cửa các nhà máy, Xuân Minh và những người bạn của mình bị xua đuổi khỏi rất nhiều cánh cửa trước khi được nhận vào làm trong nhà máy đồ chơi Quốc Thông. Công nhân bình thường ở đó kiếm được khoảng một trăm nhân dân tệ một tháng, tức là khoảng mười hai đô la. Để chống lại con đói, họ mua những túi mì ăn liền khổng lồ, đổ muối và nước sôi vào ăn. “Chúng tôi nghĩ nếu có khi nào kiếm được hai trăm đồng; một tháng,” sau này Xuân Minh nói, “chúng tôi đã cực kỳ hạnh phúc rồi.” Sau bốn tháng, Xuân Minh nhảy sang một nhà máy khác, nhưng rồi lại nhanh chóng bỏ đi sau khi một công nhân làm cùng nói họ hàng cô ta nghe đồn công việc ở Thâm Quyến tốt hơn. Xuân Minh và vài người bạn đã tới đó, qua đêm dưới cầu vượt bắc qua đường cao tốc, rồi gặp người họ hàng của cô gái kia vào sáng hôm sau. Anh ta đưa họ đến một tiệm cắt tóc rồi dẫn lên gác, trên đó có một người đàn bà trẻ trang điểm lòe loẹt mặt bự phấn đang ngồi trên ghế mát xa đợi khách. Xuân Minh hết sức kinh hoảng trước cảnh tượng đó. “Em được nuôi dạy theo cách rất truyền thống,” cô nói. “Em nghĩ mọi người ở nơi đó đều xấu xa và muốn em trở thành một con điếm. Em nghĩ rằng khi bước vào đấy, mình cũng trở nên xấu xa theo họ.” Họ bảo các cô gái nên nghỉ ngơi và tắm qua trong một buồng tắm công cộng, nhưng Xuân Minh khước từ. Cô bước lùi xuống cầu thang, cẩn thận quan sát cửa trước, và chạy, bỏ lại các bạn và cả chiếc va li đựng tiền, một chứng minh thư được chính quyền cấp và tấm ảnh mẹ cô. Có tiếng bước chân phía sau. Cô rẽ vào một ngõ hẻm rồi lại một ngõ khác, rồi tiếng bước chân dừng lại. Xuân Minh chạy vào một cái sân và thấy một cái chuồng gà bỏ không ở đằng sau. Xuân Minh trèo vào chuồng trốn trong đấy, cả ngày và cả đêm. Sáng hôm sau, hai cánh tay cô hằn lên đầy vết muỗi đốt, Xuân Minh đi ra phố và quỳ trên vỉa hè để xin tiền, nhưng không ai cho cồ đồng nào. Một người qua đường đưa cô tới đồn công an; nhưng không có tên hay địa chỉ tiệm cắt tóc, công an cũng không thể giúp gì cho cô được. Họ cho cô hai mươi nhân dân tệ để mua vé xe buýt trở về nhà máy. Tài xế xe buýt bỏ cô giữa đường trở về Đông Quản. Xuân Minh phải đi bộ, và một gã đàn ông trên phố đã đi theo cô. Cô để ý thấy một phụ nữ trẻ mặc đồng phục nhà máy và hỏi xem cô gái đó có thể lén giúp cô vào nhà máy một đêm được không. Cô gái kia mượn chứng minh thư của một công nhân đưa Xuân Minh vào, sau đó cô trốn cả đêm trong nhà tắm. Sáng hôm sau, Xuân Minh trộm một bộ quần và áo phông sạch sẽ đang hong khô trong nhà tắm và trèo qua cổng nhà máy để ra ngoài. Cho đến lúc ấy, đã hai ngày liền cô chưa ăn gì. Một tài xế xe buýt mua cho Xuân Minh một cái bánh mì và cho cô đi nhờ về Đông Quản, nơi vợ chồng anh họ cô làm việc. Xuân Minh không kể cho họ chuyện gì đã xảy ra với mình. Thay vì thế, cô đi lang thang trên các con phố. Cô quen với một đầu bếp ở công trường xây dựng, cô này cho Xuân Minh ăn chung với những công nhân khác, đến tối cô lẻn vào nhà tập thể trong nhà máy của bạn bè ngủ nhờ. Không có chứng minh thư, cô không thể tìm được việc mới. Sau một tháng trời lang thang, Xuân Minh thấy một quảng cáo tuyển người làm trong dây chuyền lắp ráp ở nhà máy sản xuất đồ chơi Ngân Huy. Cô tìm thấy một cái chứng minh thư ai đó đánh rơi hoặc bỏ đi và dùng nó để xin việc, về mặt hành chính tên cô là Đường Tùng Vân, sinh năm 1969. Điều đó làm cô già hơn tuổi thực của mình năm năm, nhưng chẳng ai để ý đến những chuyện như thế cả. Xuân Minh làm việc ở Nhà máy Ngân Huy trong một năm, việc của cô là trộn lẫn các bình nhựa lỏng lớn với nhau, sau đó thứ này sẽ được đổ vào khuôn để làm ô tô, máy bay và tàu hỏa đồ chơi. Xuân Minh rất bạo dạn và thích nói chuyện, nên cô kết bạn khá dễ dàng. Những người bạn mới gọi cô là Đường Tùng Vân. Cô đã trở thành, gần như là theo nghĩa đen, một người khác. Nhiều năm sau khi rời nhà máy, cô vẫn nhận được thư gửi cho Đường Tùng Vân. Xuân Minh không bao giờ tìm được cô “Đường Tùng Vân” ấy là ai. TÔI ĐÃ QUEN XUÂN MINH hai năm trước khi cô kể cho tôi câu chuyện này. Đó là một buổi chiều Chủ nhật cuối năm 2006, cô đang ngồi trong một quán nước ở Đông Quản sau một ngày đi mua sắm quà sinh nhật. “Em chưa bao giờ kể với ai về những chuyện xảy ra với em khi ấy cả,” cô nói trong khi nhấm nháp cốc nước ép hoa quả của mình. “Khi kể ra, em có cảm giác như nó vừa xảy ra hôm qua thôi vậy.” “Cô có tìm hiểu chuyện gì xảy ra với những người bạn cô bỏ lại ở tiệm cắt tóc không?” Tôi hỏi. “Không,” cô nói. “Em không biết đấy có phải một nơi xấu xa thực sự hay chỉ là nơi người ta có thể làm nhân viên mát xa nếu muốn. Nhưng em sợ họ sẽ không để chúng tôi đi.” Bạn thân nhất của Xuân Minh là một trong những người mà cô bỏ lại ở tiệm cắt tóc. Họ gặp nhau ở thành phố, bên dây chuyền lắp ráp, nên Xuân Minh không biết tên làng của bạn cũng như không biết cách nào để tìm lại cô. Nhiều năm sau đó, Xuân Minh gặp một cô gái quen người bạn kia, cô gái kể rằng bạn của Xuân Minh đã về quê rồi sau đó lại rời quê hương đến Đông Quản lần nữa. Xuân Minh phải kết luận từ những lời kể vắn tắt đó rằng bạn cô cuối cùng cũng bình yên. Nhưng không có cách nào để biết chắc cả, có lẽ người bạn của cô, đã bị lừa vào trong nhà chứa và không bao giờ có tin gì của cô ấy nữa, như những người trong làng vẫn nói. Người bạn tốt của Xuân Minh đã bị tách khỏi cô, giống vô vàn những người khác cô gặp trên đường đời. Một năm ở Đông Quản rất dài, mà Xuân Minh đã sống trong thành phố này được mười ba năm rồi. * * * 24 tháng Năm, 1994 Bọn mình bắt đầu làm việc vào bảy giờ sáng và nghỉ lúc chín giờ tối. Sau đó bọn mình tắm và giặt quần áo. Khoảng mười giờ, những ai có tiền thì ra ngoài ăn bữa khuya, ai không có thì đi ngủ. Bọn mình ngủ đến sáu rưỡi sáng. Không ai muốn dậy cả, nhưng phải làm việc lúc bảy giờ. Hai mươi phút để làm những việc sau: bò ra khỏi giường, dụi cặp mắt đang phù lên, đánh răng và rửa mặt. Còn lại mười phút: ai muốn ăn sáng thì tận dụng để ăn sáng, nhưng mình thấy nhiều người không ăn. Mình không biết có phải vì họ không muốn ăn, hay để tiết kiệm, hay để giữ eo... Chắc chắn là mình không hy sinh sức khỏe để giữ eo hay tiết kiệm rồi. Rốt cuộc, di trú đên đây làm việc là để làm gì? Có phải chỉ là để kiếm một chút tiền còm này thôi hay không! Không bao lâu sau khi lên thành phố, Xuân Minh bắt đầu viết nhật ký. Trong những cuốn sổ bìa màu hồng nhạt, cô miêu tả cuộc đời trong nhà máy, sự khắc nghiệt của người chấm công, cả những khoảnh khắc thư nhàn ngắn ngủi được dùng để tán chuyện, ăn vặt và tơ tưởng các chàng trai. Phải viết lại mọi thứ bạn nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy và nghĩ hằng ngày, cô viết. Như thế, không chỉ có thể nâng cao trình độ viết mà còn thấy được quá trình trưởng thành của mình nữa. Trong những trang tiếp theo, cô vạch ra kế hoạch trốn thoát khỏi thế giới nghèo đói của mình bằng một chương trình tự rèn luyện bản thân hà khắc: đọc tiểu thuyết, luyện viết chữ, và học nói - để xóa giọng Hồ Nam của mình và tinh thông tiếng Quảng Đông, thứ ngôn ngữ của các chủ nhà máy. Nỗi sợ lớn nhất của cô là bị kẹt cứng lại nơi mình đang ở. Thời gian là kẻ thù của Xuân Minh, bởi nó nhắc cô rằng lại một ngày nữa đã trôi qua và cô vẫn chưa đạt được mục tiêu của mình. Nhưng thời gian cũng là bạn cô, bởi cô vẫn còn rất trẻ. Các mục ghi trong nhật ký thường không ghi ngày tháng và lộn xộn. Xuân Minh ghi tốc ký, miêu tả những ngày của mình, viết nháp những bức thư gửi cho cha mẹ, chép những câu khẩu hiệu truyền cảm hứng và lời bài hát, và thúc giục bản thân làm việc chăm chỉ hơn. Đôi khi những câu của cô được viết theo đường chéo vắt qua hai trang giấy, to dần lên cho đến khi mỗi chữ phải cao đến hơn hai xăng ti mét. Như thể cô đang gào lên trong đầu mình vậy. MÌNH KHÔNG CÓ THỜI GIAN ĐỂ BUỒN VÌ CÓ QUÁ NHIỀU ĐIỀU MÌNH MUỐN LÀM. “THỜI GIAN LÀ CUỘC SỐNG.” “CHÚNG TA CÓ THỂ BÌNH THƯỜNG NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC TẦM THƯỜNG.” - NGÔ XUÂN MINH “NGAY BÂY GIỜ MÌNH CHẲNG CÓ GÌ CẢ. ĐỒNG VỐN DUY NHẤT CỦA MÌNH LÀ MÌNH VẪN CÒN TRẺ.” Đã gần một giờ rồi! Mình không thể đặt số báo Công nhân di trú này xuống được nhưng tối nay lại phải làm lúc bảy giờ rồi. Mình cũng nên đi ngủ nữa. Ái chà! Mình thật sự khó chịu khi có quá ít thời gian. Hằng ngày mình phải làm việc mười hai tiếng; trong mười hai tiếng còn lại mình phải ăn, tắm, giặt quần áo và ngủ. Còn bao nhiêu thời gian để đọc chứ? Làm ca đêm, thời gian còn bị xé nhỏ ra nữa: sau khi hết giờ làm và ăn, mình phải đợi một tiếng đồng hồ để tắm. Buổi chiều mình ngủ đến sáu giờ, sau đó phải dậy. Bữa tối lại tốn thêm một tiếng nữa... Mình đọc vào buổi tối cho đến nửa đêm; chỉ còn chưa đầy sáu tiếng để ngủ. Vậy là chỉ có một tiếng nữa để làm những thứ khác. MÌNH ĐÃ THẤT BẠI, THẤT BẠI PHẢI CHĂNG TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỜI NÀY SỐ PHẬN CỦA MÌNH ĐÃ ĐỊNH SẴN ĐỂ THẤT BẠI? MÌNH KHÔNG TIN MÌNH TUYỆT ĐỐI KHÔNG TIN Ngô Xuân Minh, mày không thể tiếp tục sống ngày nào cũng như ngày nào thế này được! Nghĩ đi: mày đã ở trong nhà máy này được tròn nửa năm rồi, nhưng mày thực sự kiếm được gì rồi? Mày biết rằng làm công nhân trong cái xưởng ép nhựa này cả đời sẽ chẳng có triển vọng gì hết, nên mày muốn thay đổi và tìm một công việc hài lòng hơn. Trước tiên mày phải học nói tiếng Quảng Đông đã. Tại sao mày vô dụng thế? Có thực là mày ngu thế không? Tại sao mày không thể học những thứ người khác học được? Mày cũng là một con người, Ngô Xuân Minh. Mày có vô dụng đến nỗi thế hay không? Đã hai tháng rồi mà tiếng Quảng của mày chẳng tiến bộ thêm chút nào cả. Mày có nhớ rằng mục tiêu của mày khi vào nhà máy này là học tiếng Quảng hay không? Nếu mày không thể học tiếng Quảng trong năm nay, mày là một con lợn ngu, một con bò ngu và mày không cần phải đến tận Quảng Đông làm việc nữa đâu. Với hai hay ba trăm đồng một tháng thế này, thà mày ở nhà còn hơn. Ngày 23 tháng Ba, Ái chà, thực sự có quá nhiều thứ mình muốn làm, và có quá ít thời gian. Vài người nói họ phiền muốn chết đi được, ái chà! Những người khác khó chịu, nhưng mình chẳng có thời gian mà khó chịu. Một, mình phải tập thể dục. Béo là không chấp nhận được. Hai, mình phải đọc thật nhiều và rèn luyện khả năng viết, để sau này có thể sống hạnh phúc và sung túc. Ba, mình phải học nói tiếng Quảng. Chuyện này không thể gấp mà phải học từ từ. Còn thời gian ngủ, nhiều nhất sáu tiếng là đủ rồi. 29 tháng Ba, Hôm nay bọn mình được trả lương. Mình được 365 đồng. Trả nợ năm mươi đồng, mình vẫn còn ba trăm. Mình muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, quần áo và vài món vật dụng cá nhân. Sau đó mình còn bao nhiêu nữa?... Mùa hè rồi và mình chẳng có quần áo gì hết... Mình phải mua một cái đồng hồ. Không có đồng hồ, mình không thể sử dụng thời gian tốt hơn được. Còn chuyện gửi tiền về nhà lại càng ít khả năng hơn. Khi nhận lương tháng sau, mình sẽ đăng ký học ở trường Đại học Hàm thụ kỹ năng Thư ký và Tốc ký. Mình phải có bằng đại học. Mình dứt khoát không đến Quảng Đông chỉ để kiếm hai hay ba trăm đồng một tháng thế này... đây đơn thuần chỉ là điểm dừng tạm thời mà thôi. Đây chắc chắn không phải nơi mà mình sẽ dừng chân mãi mãi. Sẽ chẳng ai hiểu cho mình cả, mình không cần người nào hiểu mình hết. Mình chỉ có thể đi con đường của riêng mình và mặc người ta nói gì thì nói! 22 tháng Năm, Nhiều người bảo mình đã thay đổi. Mình không biết là mình có thay đổi hay không nữa... giờ mình ít nói hơn rất nhiều và mình không thích cười như trước nữa. Thỉnh thoảng mình cười nếu bắt buộc phải thế. Thỉnh thoảng mình có cảm giác mình đã tê liệt cảm giác. “Tê liệt cảm giác.” Tê liệt cảm giác. Không! Không! Nhưng mình thực sự không biết nên dùng từ ngữ nào để diễn tả cái đứa mình bây giờ nữa. Dù sao chăng nữa, mình rất mệt, rất mệt. Thực sự, thực sự đấy, mình thấy mệt lắm. Thân thể và tinh thần mình đều rất mệt. Quá mệt, quá mệt. Mình không muốn sống như thế này nữa. Mình không muốn sống như thế này nữa. Không bao giờ sống như thế này nữa. Mình nên sống thế nào bây giờ? * * * Đồng thời với việc đặt kế hoạch phát triển trong thế giới của các nhà máy, trong những lá thư gửi về nhà, Xuân Minh vẫn cố gắng tỏ ra là một cô con gái ngoan ngoãn theo kiểu truyền thống. Mẹ, con đã đan cho mẹ một cái áo len... Nếu không đan áo len, con đã có thể dùng cả ngày đó đọc bao nhiêu là sách. Nhưng mẹ ạ, thỉnh thoảng con nghĩ: con nên làm con gái ngoan của mẹ, một đứa con hiếu thảo hơn, thậm chí là phải gạt bỏ đống sách con rất thích đọc sang một bên. Mẹ, con đã đan tình yêu của con dành cho mẹ vào chiếc áo len này... Mẹ, còn nhớ hồi con vẫn ở nhà, mẹ lúc nào cũng nói con gái người ta biết đan áo len còn con thì quá thiếu kiên nhẫn. Nhưng hôm nay, mẹ thấy con gái mẹ cũng biết đan chưa? Mẹ nhớ nhé, con gái mẹ sẽ không bao giờ ngu ngốc hơn người khác đâu. Kỳ vọng của gia đình đè nặng lên cô. Các cô gái trẻ đến từ nông thôn luôn cảm thấy áp lực rất lớn từ phía gia đình. Nếu họ không nhanh chóng tiến lên phía trước, cha mẹ họ sẽ thúc giục trở về quê để lấy chồng. Cuối cùng mình cũng nhận được thư nhà... Ngoài bố ra, còn ai viết thư được cho mình nữa đây? Mẹ thậm chí còn không nhắn vào được một dòng nói rằng bà nhớ mình... Trong lá thư trước, mẹ nhắn một dòng bảo mình đừng tìm người yêu bên ngoài. Mặc dù chỉ có một dòng ấy thôi, nhưng nó khiến mình rất vui, như thể mẹ đang ở bên cạnh dạy dỗ mình vậy. Mình muốn tuôn trào tất cả những từ ngữ chôn giấu trong lòng cho mẹ biết nhường nào, nhưng mình không thể. Mẹ! Mẹ của con, tại sao mẹ lại thất học? Thất học cũng được thôi. Vậy tại sao mẹ không viết được cả một bức thư nữa? Mẹ không thể viết thư cũng được thôi. Mẹ viết được vài chữ cũng tốt rồi. Cho dù mẹ chỉ viết vài chữ để nói lên những gì mẹ muốn nói với con, con cũng hiểu được suy nghĩ thực sự của mẹ rồi. Mẹ, con biết mẹ có nhiều điều muốn nói với con, chỉ là bố không viết vào thôi... Bố, mẹ, có vẻ như chúng ta không thể hiểu nhau. Bố mẹ sẽ không bao giờ biết và hiểu được trong lòng con gái bố mẹ đang nghĩ gì. Có lẽ bố mẹ nghĩ rằng con đã tìm thấy nhà máy lý tưởng, lương ba trăm đồng một tháng. Có lẽ bố mẹ nghĩ con sẽ không bao giờ nhảy việc nữa. Có lẽ bố mẹ mong rằng con không bao giờ nhảy việc nữa, mong rằng con làm việc ở nhà máy này trong hai năm rồi trở về lấy chồng, có một gia đình giống như tất cả những cô gái nông thôn khác. Nhưng con không nghĩ đến những điều ấy... Con muốn tạo cho bản thân một thế giới riêng ở Quảng Đông này... Kế hoạch của con là: 1. Học đại học hàm thụ 2. Học tiếng Quảng Đông 3. Chưa có gì và chưa đạt được thành tựu gì, tuyệt đối không kết hôn Ba năm đầu tiên ở thành phố, Xuân Minh không về thăm nhà một lần nào. Cô bảo với bạn bè rằng kỳ nghỉ của nhà máy quá ngắn, nhưng trong nhật ký cô lại viết: Có ai biết tại sao mình không về thăm nhà vào dịp Tết chứ? Lý do chính là: mình không muốn phí thời gian. Bởi vì mình phải học! Cô cũng bỏ qua lời khuyên của mẹ và viết thư tình cho một anh chàng đẹp trai làm việc ở công xưởng. Các chàng trai trẻ là của hiếm ở chỗ làm, những anh đẹp trai hơn thường được rất nhiều cô gái chú ý. Anh chàng này không quan tâm đến Xuân Minh, đưa thư của cô cho những người khác đọc. Sau sáu tháng làm việc ở dây chuyền lắp ráp, Xuân Minh tìm hiểu được rằng nhà máy cô tuyển văn thư bên trong nhà máy, vậy là cô viết một bức thư cho trưởng bộ phận của mình để bày tỏ sự quan tâm đến việc ấy. Người quản lý đã nghe đến thành tích theo đuổi con trai của cô và ra lệnh cho cô phải chuyển sang một bộ phận khác. Nhưng mệnh lệnh của anh ta không hiểu sao lại bị hiểu lầm, thế là Xuân Minh được chuyển lên làm văn thư. Cô thực hiện công việc rất tốt và ông chủ đã thay đổi ý kiến của mình với cô. Công việc mới được trả ba trăm nhân dân tệ một tháng - gấp ba lần lương của cô một năm trước. NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA CÁC CÔ GÁI DI TRÚ có nhiều điểm chung. Những người đến thành phố thường mơ hồ, bối rối và đều bị lừa đảo ít nhiều. Các cô gái trẻ vẫn nói họ ra đi một mình, mặc dù sự thật là họ đi chung với những người khác nữa; họ chỉ cảm thấy mình cô đơn. Họ nhanh chóng quên tên các nhà máy, nhưng những ngày tháng đặc biệt thì in sâu vào tâm trí họ, chẳng hạn ngày họ rời bỏ quê hương hoặc bỏ việc ở một nhà máy tồi tệ. Một nhà máy sản xuất thứ gì chẳng bao giờ là điều quan trọng; vấn đề là làm việc ở đó khổ sở thế nào hoặc có cơ hội ra sao. Điểm ngoặt trong vận mệnh của một người di trú luôn xuất hiện khi cô ta thách thức ông chủ của mình. Trong khoảnh khắc cô ta mạo hiểm với tất cả mọi thứ của mình, cô gái đó bước ra khỏi đám đông và buộc cả thế giới phải nhìn vào cô như một cá nhân riêng biệt. Bạn rất dễ đánh mất mình trong các nhà máy, nơi có hàng trăm cô gái với hoàn cảnh giống hệt như nhau: sinh ra ở làng quê, thất học, và nghèo khó. Bạn phải tin rằng bạn quan trọng cho dù sự thực bạn chỉ là một người giữa hàng triệu người khác. 1 tháng Tư, 1994 Phải, mình là một đứa bình thường đến nỗi không thể bình thường hơn, đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, một cô gái giống vô vàn các cô gái khác. Mình thích ăn vặt, thích vui đùa, và thích làm đẹp. Đừng mộng tưởng rằng mình là siêu nhân. Mày chỉ là một con bé bình thường, chân chất, bị hấp dẫn bởi mọi thứ đẹp, ngon miệng hay vui vẻ. Vì vậy, mình sẽ bắt đầu từ bình thường và đơn giản. * * * Trong một nhà máy ở Đông Quản, giới tính được phân biệt rất rõ ràng. Phụ nữ làm văn thư và trong bộ phận nhân sự, bán hàng, cũng như thực hiện hầu hết công việc ở dây chuyền lắp ráp; các ông chủ cảm thấy phụ nữ trẻ thì siêng năng hơn đồng thời cũng dễ quản lý hơn. Đàn ông độc quyền trong các công việc kỹ thuật như thiết kế khuôn và sửa máy móc. Họ thường giữ những vị trí cao nhất trong nhà máy và cả những vị trí ở tận dưới đáy: bảo vệ, đầu bếp và lái xe. Bên ngoài nhà máy, phụ nữ làm tiếp viên phục vụ, giữ trẻ, cắt tóc và gái điếm. Đàn ông làm việc ở công trường xây dựng. Sự phân biệt giới tính này được phản ánh trong những mẩu quảng cáo tìm người: NHÀ MÁY TÚI XÁCH CAO BỘ TUYỂN NHÂN VIÊN BÁN HÀNG: NỮ, TIẾNG ANH MỨC BỐN TIẾP TÂN: NỮ, BIẾT NÓI TIẾNG QUẢNG ĐÔNG BẢO VỆ: NAM, DƯỚI 30, CAO 1,7 MÉT TRỞ LÊN, CỰU QUÂN NHÂN, BIẾT CỨU HỎA, BIẾT CHƠI BÓNG RỔ LÀ MỘT LỢI THẾ Sự chia tách giới tính đó ngầm định một số điều. Các cô gái trẻ được hưởng những công việc linh động hơn, họ có thể vào làm việc trong dây chuyền ở một nhà máy và chuyển lên làm văn thư hoặc bán hàng. Các chàng trai khó vào nhà máy hơn, một khi đã vào họ thường bị kẹt cứng trong đó. Phụ nữ, bên trong hoặc bên ngoài nhà máy, tiếp xúc rộng hơn và nhanh chóng tiếp nhận quần áo, kiểu tóc và khẩu âm thành phố; đàn ông có khuynh hướng khóa chặt mình với thế giới bên ngoài của họ. Phụ nữ hòa nhập vào đời sống thị thành dễ hơn đàn ông, và họ có nhiều động lực khuyến khích ở lại thành phố hơn. Phụ nữ chiếm hơn một phần ba dân số di trú Trung Quốc. Họ có khuynh hướng trẻ hơn dân di trú nam giới cùng lứa và có lẽ là độc thân nhiều hơn, họ đi xa hơn và ở lại lâu hơn. Họ có nhiều động lực để thay đổi bản thân theo hướng tích cực hơn và đánh giá sự di trú vì khả năng thay đổi cuộc đời của nó. Trong một cuộc thăm dò, đàn ông cho rằng mục đích chính của việc ly hương là để có thu nhập cao hơn, trong khi đó phụ nữ lại khát khao “có thêm nhiều kinh nghiệm sống”. Không giống đàn ông, phụ nữ không có nhà để trở lại. Theo truyền thống của Trung Quốc, một người con trai luôn được trông đợi trở về ngôi nhà của cha mẹ cùng với vợ mình sau khi anh ta kết hôn; một người con trai luôn có một ngôi nhà ở làng quê nơi anh ta sinh ra. Con gái, khi đã trưởng thành, sẽ không bao giờ trở về nhà sống - trước khi lấy chồng, họ chẳng thuộc về bất cứ nơi nào cả. Ở một mức độ nào đó, sự thành kiến giới tính thâm căn cố đế này lại tốt cho phụ nữ. Nhiều bậc cha mẹ ở nông thôn muốn người con trai trưởng thành ở gần nhà, chẳng hạn như đưa hàng hoặc bán rau củ ở thị trấn gần làng. Những người đàn ông trẻ với viễn cảnh không mấy hấp dẫn ấy có thể chỉ đơn giản là hun (hỗn) – sống bừa bãi - làm những việc lặt vặt, hút sách nhậu nhẹt và đánh bạc hết số tiền ít ỏi kiếm được. Các cô gái trẻ - ít được coi trọng, ít được cưng chiều hơn - có thể đi xa nhà và có kế hoạch cho riêng mình. Nói một cách chính xác, chính vì họ không quan trọng, nên họ được tự do làm việc họ muốn hơn. Nhưng đó là một lợi thế bấp bênh. Nếu sự di trú giải thoát các cô gái trẻ khỏi làng quê, nó đồng thời cũng thả họ vào một vị trí chơi vơi. Hầu hết các cô gái nông thôn kết hôn khi mới ngoài đôi mươi, còn người phụ nữ di trú nào trì hoãn việc kết hôn sẽ phải đánh liều với khả năng từ bỏ chuyện đó mãi mãi. Giới tính mất cân bằng nghiêm trọng ở Đông Quản, theo thống kê có tới 70% lực lượng lao động là phụ nữ, đầy cạnh tranh trong việc kiếm một tấm chồng tử tế. Và cả sự lưu động về mặt xã hội cũng khiến chuyện tìm một người chồng trở nên phức tạp. Những người phụ nữ đi lên từ dây chuyền lắp ráp coi thường đàn ông ở quê, nhưng đàn ông thành phố lại coi thường họ. Những người di trú gọi tình trạng này là gaobucheng, dibuiju (cao bất thành, đê bất tựu - cao không tới, thấp không xong) - không phù hợp với một vị trí cao hơn nhưng lại không muốn chọn cái thấp hơn. Những phụ nữ di trú mà tôi biết không bao giờ phàn nàn về sự bất công đối với phụ nữ. Cha mẹ có thể yêu quý con trai hơn con gái, các ông chủ thích những cô thư ký xinh đẹp, và bảng thông báo tuyển người thì phân biệt một cách rõ ràng, nhưng họ chấp nhận tất cả những điều đó một cách thoái mái - hơn ba năm ở Đông Quản, tôi không bao giờ nghe một người nào biểu thị thứ gì đó kiểu như một ý kiến đòi hỏi nam nữ bình quyền cả. Có lẽ họ đã coi cuộc sống khó khăn với tất cả mọi người là chuyện đương nhiên. Sự phân biệt giữa nông thôn và thành thị là điều duy nhất đáng lưu ý: một khi vượt qua lằn ranh ấy, bạn sẽ thay đổi cuộc đời mình. * * * Việc tiến lên có vẻ dễ dàng với Xuân Minh. Năm 1995, cô nhảy việc sang một nhà máy sản xuất súng nước và súng hơi ở ngoại ô Đông Quản. Cuối cùng cô cũng học được cách nói tiếng Quảng Đông. Trong một năm, lương tháng của cô tăng từ ba trăm lên sáu trăm năm mươi nhân dân tệ, rồi sau đó là tám trăm, rồi một ngàn. Cô phát hiện ra các trưởng bộ phận kiếm được nhiều hơn dù cô cũng làm hệt những việc như họ. Nếu ông không tăng lương cho tôi lên 1.500 đồng một tháng, cô gửi thư cho ông chủ, tôi sẽ không làm ở đây nữa. Cô có được thứ mình muốn, không một ai trong nhà máy nhận được khoản tăng lương lên đến năm trăm nhân dân tệ trước đó. Nhưng sự thăng tiến này không làm Xuân Minh thỏa mãn. Nó ném cô vào một thế giới mới, nơi vẫn còn có quá nhiều thứ để học hỏi. Quan hệ của cô với những người khác ngay tức khắc trở nên phức tạp hơn bội phần. Ở làng quê, quan hệ giữa người với người quyết định bởi mối quan hệ ruột thịt và quá khứ chung. Ở trường và ở dây chuyền lắp ráp, mọi người đều cùng một vị thế thấp như nhau. Nhưng khi một người bắt đầu vươn lên trong thế giới nhà máy, cán cân quyền lực nghiêng lệch, và điều đó sẽ làm mọi thứ bất ổn. Một người bạn có thể trở thành cấp trên, một cô gái trẻ có thể được đề bạt trước bạn trai cô ta. 26 tháng Ba, 1996 Lần thăng tiến này đã cho mình thấy hàng trăm trải nghiệm khác nhau của đời người. Có người chia vui với mình, có người đố kỵ với mình, có người chúc mừng mình, có người chúc mình may mắn, có người ghen tị với mình, và một số người không thể chấp nhận nó... Đối với những người đố kỵ ganh ghét... mình sẽ chỉ coi họ như những chướng ngại trên đường tiến lên, đá chúng sang một bên và tiếp tục bước tới. Trong tương lai sẽ còn có nhiều đố kỵ hơn nữa cơ! Tạo ấn tượng tốt với người lạ trở thành một vấn đề quan trọng. Xuân Minh nghiên cứu những cấp trên trong nhà máy mình làm việc, chăm chú như thể một nhà sinh vật học đang săm soi mẫu vật. Cô quan sát thấy rằng khi trưởng phòng nhân sự phát biểu, ông ta cũng căng thẳng đến nỗi tay run lẩy bẩy. Gần Tết, một giám đốc nhà máy lờ cô đi cho đến khi cô chúc ông ta năm mới tốt lành, ông ta nồng nhiệt đáp lại và cho cô mười nhân dân tệ trong phong bao đỏ, lì xì, một món quà truyền thống. Từ sự việc này, tôi hiểu rằng: có những người trông lúc nào cũng có vẻ như không thể đến gần lại không thực sự như vậy. Bạn chỉ cần làm cho mình hơi thân thiện hơn một chút là được. Kế hoạch làm mới bản thân của cô bắt đầu tăng tốc. Trong nhật ký của mình, Xuân Minh không ghi chép lại những chi tiết gặp phải trong ngày nữa mà chép vào những quy tắc để trở thành một người nào đó khác, một nhiệm vụ mà vì nó cô đọc rất nhiều nhưng không phải lúc nào cũng thật mạch lạc. Tự tin, siêng năng và thanh lịch là hình ảnh một người phụ nữ chuyên nghiệp nên có. Mười ba đức tính tốt cần tuân theo mà Benjamin Franklin đề ra: 1. Chừng mực: Ăn không quá no, uống không quá nhiều. 2. Yên lặng: Tránh những cuộc nói chuyện cà kê mất thì giờ. 3. Trật tự: Hãy để mọi thứ vào vị trí ấn định và hãy ấn định thời gian để làm các việc. 4. Quyết tâm: Quyết làm điều bạn muốn làm, thực hiện bằng được điều bạn quyết tâm. 5. Tiết kiệm: Không lãng phí tiền bạc. Chỉ tiêu tiền vào những thứ có lợi cho bạn và người khác. Khi bị phê bình 1. Khi người khác phê bình bạn, bạn phải bình tĩnh và thản nhiên, đồng thời tỏ ra là mình đang lắng nghe chăm chú. 2. Nhìn thẳng vào người đang nói chuyện với bạn. 3. Không phê bình lại người nào vừa mới phê bình mình. 4. Không được buồn nản. 5. Không đùa... Những lý tưởng trong nhật ký của Xuân Minh có mối liên hệ ngược với thế giới cô đang sống. Một trong những danh sách cô ghi trong nhật ký, có tiêu đề “Mười lăm đặc điểm của nhà lãnh đạo không đủ tiêu chuẩn”, có thể dễ dàng gọi thành “Làm thế nào để trở thành sếp ở Đông Quản”, ví như đặc điểm thứ ba: Bận bịu với những chuyện nhỏ nhặt và tham gia vào mọi thứ. và đặc điểm thứ mười lăm: Khi cả tập thể được khen ngợi hoặc tặng thưởng, ông ta xuất hiện đầu tiên trong danh sách; giữa các quản lý, ông ta ngồi ở hàng đầu. Xuân Minh đăng ký tham gia một khóa học hàm thụ để học các kỹ năng của thư ký, nhưng rồi bỏ cuộc vì trông cuốn sách giáo khoa quá phức tạp. Nỗ lực để học về quan hệ công chúng (PR) cũng đã thất bại. Cô định học quan hệ công chúng như thế nào? Trả lời: Để học quan hệ công chúng được tốt, trước tiên bạn phải học cách cư xử cho ra một con người đã. Có lúc, Xuân Minh quyết định sẽ tự học tiếng Anh. Cô làm một danh sách các từ vựng... ABLE ABILITY ADD AGO ALWAYS AGREE AUGUST BABY BLACK BREATH - nhưng cô đã bỏ cuộc trước khi đến vần C. Có quá nhiều thứ đáng để học, những quy tắc để tiến lên pha trộn khắp nơi trong nhật ký của cô. Sáu mươi phần trăm người ta không có mục tiêu. Muốn một cái nhìn "lộng lẫy rực rỡ”, hãy trộn phấn mắt màu đen, xám, vàng kim, xanh mắi mèo và đỏ sáng với nhau. (A) Có thể giặt khô; “A” có nghĩa là có thể dùng mọi loại chất tẩy. Chào hỏi nhau là chất xúc tác và chất bôi trơn cho các cuộc trao đổi. Khi bạn uống canh, đừng để thìa gõ vào đĩa. Ai không đọc sách sẽ thấy mình nói năng thật ngu ngốc và vẻ ngoài của mình thật đáng ghét. * * * Ở xa mẹ, các công nhân di trú kiếm tìm lời khuyên cho mình ở một nơi khác. Các tạp chí cho độc giả di trú xuất hiện vào khoảng giữa những năm 1990, đặc biệt là ở những thành phố công nghiệp miền Nam Trung Quốc. Chúng được xuất bản trên giấy in báo rẻ tiền, bán với giá khoảng bốn nhân dân tệ, hay 50 xu, một số. Các tạp chí khảo sát điều kiện làm việc của công nhân di trú và cho họ những lời khuyên về mặt pháp lý, tìm việc và quan hệ cá nhân. Trong các câu chuyện ngôi thứ nhất kể về cuộc đời của một người di trú nào đó, theo một hoặc hai quỹ đạo nhất định: một cô gái trẻ lên thành phố, chịu đựng khó khăn và thành công rực rỡ, thường là bắt đầu tự kinh doanh buôn bán và mua một căn hộ. Hoặc một cô gái trẻ lên thành phố, và suy sụp, bởi một gã đàn ông cuối cùng hóa ra lại là một kẻ lười biếng, lật lọng, hoặc đã có vợ con. Đó hẳn có thể là nhân vật nữ chính của Theodore Dreiser[9], Edith Wharton[10] và Henry James[11] bởi những câu chuyện như vậy đã là nền tảng cho bút pháp tiểu thuyết phương Tây hiện đại ra đời. Nhưng trong những trang tạp chí dành cho người di trú, bài học luôn luôn giống hệt nhau: bạn chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình. Mọi câu chuyện thành công đều kết thúc với thành tựu cá nhân có thể ghi vào trong sổ cái của một kế toán viên: doanh số hằng tháng của việc kinh doanh, số mét vuông của căn hộ. Trong “Tham vọng khiến tôi là tôi”, một cô giữ trẻ tuổi thiếu niên đã tự học đọc học viết, rồi chi trả tiền học đại học của mình và em trai bằng những công việc như bán kem, đưa hàng, cắt tóc và bán bảo hiểm. Ở cuối câu chuyện, cô đã đứng đầu bộ phận bán hàng của một công ty bảo hiểm và sở hữu một căn hộ rộng hơn 120 mét vuông. Trong “Làm chủ chính mình”, một cô cắt tóc trẻ tuổi đã làm việc không công hai năm để học nghề và tự mở cửa hàng của riêng mình. Doanh thu khoảng hơn ba nghìn nhân dân tệ một tháng, mất sáu trăm tiền thuê nhà và một trăm tiền thuế, còn lại là của cô ấy. Trong “Cô gái muốn làm phim truyền hình”, một phụ nữ trẻ làm việc cần cù ở vị trí trợ lý văn phòng - cô ấy thường đánh máy mười tiếng đồng hồ không ngừng nghỉ - và đã vươn lên trở thành phó chủ tịch một công ty giải trí, đồng thời sở hữu một căn hộ rộng gần 75 mét vuông. Con đường đến với thành công vừa dài vừa khó khăn, nên rất nhiều người đã đi lạc khỏi nó. Một phụ nữ trẻ có thể mơ mộng tìm thấy một người đàn ông yêu và ủng hộ mình. Nhưng điều đó luôn luôn là một con đường sai. Khi về đến nhà, tôi thổn thức khóc òa lên, không dám tin rằng tình yêu thực sự của mình lại là một tên lừa đảo. Thứ hắn thấy ở tôi chỉ là tôi dễ bị lừa như thế nào. Nếu tôi rời bỏ hắn như bây giờ, liệu có ai còn muốn lấy tôi nữa không? Các bài báo còn miêu tả những nỗi xấu hổ nhọc nhằn trong đời sống hằng ngày của dân di trú. Một cô gái trẻ lẻn vào phòng tắm ở tiệm ăn McDonald’s vì thiết bị trong tòa nhà nơi cô sống quá nghèo nàn: Môi trường trong nhà tắm của tiệm McDonald's thật quá tốt. Trong ấy chẳng những rất sạch, mà lại có cả giấy vệ sinh và máy sấy tay nữa. Một công nhân di trú lấy làm hổ thẹn không dám nói với ông chủ rằng anh ta không thể chi trả cho một cái điện thoại di động. Những người may mắn kiếm được việc trong văn phòng thì cũng thấy hoàn cảnh khắc nghiệt hệt như những gì Darwin đã viết: Vì vài người khách của tôi trả tiền chậm, công ty nói rằng tôi có trách nhiệm thu số nợ đó và sẽ giữ lại 30 phần trăm lương hằng tháng của tôi cho đến khi đòi được hết tiền. Thế có chấp nhận được không chứ? Quy định của công ty chúng tôi là hằng tháng người nào có doanh số bán hàng thấp nhất sẽ bị đuổi việc. Thế có đúng luật không? Nhiều khi thông điệp nhắn nhủ về tự lực cánh sinh đi quá xa. Bài báo về một cô giúp việc bị bạo hành không chỉ ra rằng người giúp việc gia đình dễ tổn thương như thế nào mà chỉ ca ngợi cô đã dám trốn khỏi căn hộ của người chủ thuê. Người duy nhất có thể giải cứu Vương Lệ là chính cô ấy. Bài báo về vụ cháy chết người ở cửa hàng bách hóa bỏ qua vấn đề lớn hơn - cơ sở vật chất và phương tiện phòng chống cháy nổ nghèo nàn - để tập trung vào lời khuyên để sống sót khi lửa cháy: Khi lửa thiêu đốt cơ thể bạn, hãy cởi ngay quần áo, lăn lộn dưới đất để dập ngọn lửa. Trái ngược với ngành truyền thông ù lì và thích thuyết giáo của Trung Quốc, những tạp chí của người di trú mở ra một hướng đi mới. Họ không khăng khăng vào những kết thúc có hậu, rất nhiều câu chuyện kết thúc trong đau đớn hoặc lúng túng. Họ mô tả một thế giới trong đó người ta lừa gạt lẫn nhau và chẳng làm gì để giúp những người thân cô thế cô và những người lạc lối. Họ không rao giảng về những đạo luật cần phải sửa đổi hay những hành vi cần phải thay đổi, và họ không bao giờ nhắc đến Đảng Cộng sản. Họ viết về cách sống trong một thế giới như nó vốn thế. * * * Mùa hè năm 1996, Xuân Minh viết trong nhật ký của mình: Bạn ạ, chúng ta sinh ra trên đời này nghèo khó, đó không phải lỗi của chúng ta. Nhưng chết nghèo khó là một tội lỗi. Trong cuộc đời của mình, liệu chúng ta đã làm việc chăm chỉ và kiên trì đấu tranh chưa? Muốn thành công trong mạng lưới bán hàng, chúng ta phải thực sự đạt được bốn điểm sau: 1. Có quyết tâm. 2. Có mục tiêu rõ ràng. 3. Nghiên cứu kỹ càng và hiểu thấu đáo sản phẩm cũng như kế hoạch của công ty. 4. Học tập các kỹ năng bán hàng theo mạng lưới. Mùa hè năm đó, một người bạn trong nhà máy đưa Xuân Minh đến một buổi diễn thuyết, chính buổi diễn thuyết ấy đã thay đổi cuộc đời cô. Diễn giả làm việc cho một công ty có tên Sản phẩm thường nhật Hoàn Mỹ, nhưng thứ nó đưa ra lại là một giấc mơ giàu sang và thành tựu của cá nhân bọc trong một từ ngữ thần diệu chuanxiao (truyền tiêu). Từ tiếng Trung này dịch ra là “bán hàng theo mạng lưới”, không phân biệt giữa loại hình bán hàng trực tiếp hợp pháp và mô hình kim tự tháp lừa đảo. Sự mục rữa, nhiều khi có cả trong không khí chúng ta thở, cũng đã thấm cả vào thứ ngôn ngữ họ dùng. Xuân Minh bắt đầu bán các sản phẩm sức khỏe của Hoàn Mỹ để tăng thêm thu nhập, chủ yếu là cho các công nhân làm cùng nhà máy. Cô mua băng cát xét của Hoàn Mỹ và tham gia các buổi diễn thuyết, rồi nhật ký của cô chuyển thành một hướng dẫn bán hàng của Hoàn Mỹ trộn lẫn với vài triệu chứng sức khỏe dị thường. THÀNH CÔNG CỦA VIỆC BÁN HÀNG NẰM TRONG BA GIÂY GẶP GỠ ĐẦU TIÊN. KHI NÓI, HÃY NHÌN VÀO MẮT NGƯỜI KHÁC. HÃY LÀM QUEN VỚI BA NGƯỜI MỖI NGÀY. TINH THỂ KHOÁNG LÔ HỘI CÓ THỂ ĐIỀU TIẾT NGŨ TẠNG TRONG CƠ THỂ NGƯỜI. NGƯỜI TA RỤNG TÓC VÌ THIẾU ĐỒNG. Cuối năm 1996, Xuân Minh đã ở một vị trí khá thế lực trong nhà máy: cô làm trưởng phòng hành chính, nhưng cô nghỉ việc để bán các sản phẩm của Hoàn Mỹ toàn thời gian. Cô tiêu mười nghìn nhân dân tệ tiết kiệm được để thuê phòng họp và các thiết bị cho các buổi đào tạo. Cô chiêu mộ những đồng nghiệp cũ trong nhà máy gia nhập vào mạng lưới của mình, hứa rằng tất cả bọn họ sẽ trở nên giàu có. Trong những trang sau của cuốn nhật ký, Xuân Minh lên danh sách những người bán hàng cô đã chiêu mộ được. Rất nhiều người trong số họ vẫn còn đang ở tuổi thiếu niên, người nhiều tuổi nhất trong mạng lưới của cô mới hai mươi lăm. Tại sao chúng ta lại tập trung ở đây ngày hôm nay? Đơn giản chỉ là để mọi người cùng bàn luận xem: “Một người nên sống cả đời mình như thế nào?” Hãy nghĩ về nó: tại sao chúng ta vẫn quá đỗi bình thường? Tại sao có bao người đã làm việc chăm chỉ suốt đời mà vẫn không có được cuộc sống họ mong ước? Chúng ta ai cũng từng mơ mộng. Tất cả chúng ta đều đấu tranh và làm việc chăm chỉ. Nhưng tại sao những gì chúng ta kiếm được và những gì chúng ta bỏ ra lại quá thiên lệch như thế? Đã có bao nhiêu người thương tiếc chúng ta! Chúng ta đã dần hiểu ra một sự thật: ai muốn phát triển thì phải nắm bắt lấy cơ hội. Chỉ có mỗi giấc mơ và quyết tâm thôi thì không đủ... Nếu lựa chọn phương tiện di chuyển không tốt, các bạn sẽ phải bận bịu với chuyện đi lại suốt cả đời. Giống như cha mẹ chúng ta đã chọn việc đồng áng vậy: họ bận bịu suốt cả đời, nhưng khi tóc đã chuyển sang màu bạc trắng, họ vẫn phải gom góp từng đồng để mua dầu mua muối. Các bạn của tôi, chúng ta có muốn đi theo con đường của cha mẹ chúng ta không? Không! Hãy tự vỗ tay cổ vũ chính mình nào! Các công ty bán hàng trực tiếp đã phát triển mạnh ở Mỹ suốt thời kỳ bùng nổ kinh tế sau Thế chiến II. Không giống những nhà bán lẻ truyền thống, các công ty như Amway hay Avon bán hàng hóa thông qua những phân phối viên độc lập chứ không phải trong các cửa hàng. Những phân phối viên này kiếm tiền theo hai cách: tự mình bán hàng hoặc thông qua việc chiêu mộ một mạng lưới người bán hàng và nhận hoa hồng dựa trên doanh số của họ. Giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, làn sóng bán hàng theo mạng lưới tràn qua Trung Quốc, vài công ty truyền tiêu học theo mô hình bán hàng của Mỹ. Còn những công ty khác đơn giản chỉ là thu của những thành viên mới gia nhập một khoản phí lớn, kèm theo lời hứa về sự giàu có khi họ chiêu mộ thêm nhiều thành viên khác. Đó là mô hình kim tự tháp: tiền không phải từ việc bán sản phẩm thực mà chỉ từ khoản phí gia nhập cao ngất ngưởng mà họ thu. Mô hình này kiếm tiền cho những người gia nhập sớm nhất nhưng sẽ sụp đổ khi hết thành viên mới, lừa gạt rất nhiều người mất trắng số tiền tiết kiệm của họ. Mô hình bán hàng theo mạng lưới này đúng là hết sức phù hợp với xã hội Trung Quốc, một xã hội mà quy luật tàn khốc nhất - không tin bất cứ ai, kiếm tiền thật nhanh - đang được áp dụng. Những công ty này hoạt động dựa vào mạng lưới truyền thống gồm các thành viên trong gia đình và bè bạn, điều đầu tiên một người bán hàng truyền tiêu thường làm là ép uổng tất cả bạn bè và họ hàng mua thứ gì đó. Họ hứa hẹn sự giàu có và thành công. Và họ đưa ra một con đường bằng phẳng thẳng tiến tới thành công: Làm quen với ba người mỗi ngày. Việc kinh doanh này lan tràn trong khắp các thị trấn nhỏ và cộng đồng người di trú ở đồng bằng châu thổ sông Châu Giang. Đây là nơi thế giới của người nông thôn và thành thị giao nhau, người ta ganh tị với thành công của người khác và khao khát có được thành công của riêng mình. Nếu có người quen nào hứa hẹn một sự giàu sang nhanh chóng hay một phương thuốc diệu kỳ, họ liền dễ dàng dao động ngay. Sự nổi lên của các công ty bán hàng theo mạng lưới này làm chính phủ trung ương lo lắng. Một số công ty kinh doanh hàng giả, hàng lậu thuế, hoặc hàng kém chất lượng; những buổi gặp gỡ đào tạo của họ, nơi những nhóm trưởng đầy uy tín đưa đẩy các thành viên vào một cơn sốt bán hàng cuồng tín, bắt đầu trở nên phiền phức như thể các nghi lễ tôn giáo. Hoạt động trở nên quá đà đến mức thậm chí còn đe dọa đến trật tự xã hội; năm 1994, người ta đã phải gọi công an đến để giải tán hàng trăm người phân phối đang sôi giận sau sự sụp đổ của một hệ thống bán kim cương của Đài Loan. Chính phủ Bắc Kinh đã thông qua rất nhiều quy định để đưa ngành kinh doanh theo mạng lưới này vào tầm kiểm soát, nhưng chính quyền địa phương rất hiếm khi kiên quyết chấp hành những quy định này. Một phần lý do của chuyện này là vì các công ty mang đến một khoản thuế khá lớn và công ăn việc làm cho địa phương, một phần nữa vì phân phối viên bán hàng theo mạng lưới chính là một trong những nghề phụ làm thêm ngoài giờ phổ biến trong giới công chức chính quyền. * * * Đối với Xuân Minh, những cuộc gặp mặt bán hàng là sân tập để cô học cách nói chuyện. Ở đất nước Trung Quốc truyền thống, nghệ thuật hùng biện không phải là một kỹ năng quan trọng - viết những bài luận văn nhã bằng chữ viết bay bướm mới là thứ được coi trọng - và những bài phát biểu ở Trung Quốc lúc nào cũng chán ngắt. Diễn giả hay đọc thẳng từ một kịch bản có sẵn, thường thì dài dòng tẻ nhạt. Một người như Xuân Minh - trẻ, đến từ nông thôn và là phụ nữ - sẽ có rất nhiều lý do để im lặng trước những người giỏi hơn mình. Nhưng ở đất nước Trung Quốc đang được điều khiển bởi thương mại và cạnh tranh này, diễn thuyết đã trở thành một kỹ năng thiết yếu. Các công ty bán hàng theo mạng lưới đã du nhập phong khí của nước Mỹ thẳng đến tầng lớp thấp của Trung Quốc. Kiểu diễn thuyết của họ kết hợp giữa kiểu đối đáp của những người truyền giáo thời trước với kiểu thao thao bất tuyệt không biết mệt mỏi của những diễn giả nhiệt tình tràn đầy hứng khởi. Họ truyền bá rằng mỗi cá nhân đều quan trọng và mọi người đều là người chiến thắng. Và họ mang đến một niềm tin rất Mỹ rằng sự giàu có và đạo đức có thể song hành tay trong tay với nhau được. Trong nhật ký của mình, Xuân Minh tập hợp các bản nháp cho những bài phát biểu của mình: Tên tôi là Ngô Xuân Minh, một cái tên hết sức giản dị và bình thường. Nhưng tôi tin chắc rằng một ngày nào đó trong tương lai tôi sẽ khiến cái tên mình trở nên không còn tầm thường nữa... Các bạn, trong tương lai các bạn muốn trở thành người như thế nào? Đây là một câu hỏi đáng để suy nghĩ đấy. Bây giờ bạn là người như thế nào: Điều đó có quan trọng không? Không quan trọng! Điều quan trọng là: Trong tương lai bạn muốn trở thành người như thế nào? Chúng ta đi hàng ngàn dặm và bỏ lại quê hương nhà cửa để ra đi làm việc? Để kiếm tiền! Chính xác, để kiếm tiền. Nhưng cho đến bây giờ, chúng ta đã kiếm được số tiền mình muốn kiếm chưa? Chưa! Cuộc sống hiện tại của chúng ta có phải là cuộc sống mà chúng ta muốn hay cuộc sống chúng ta có thể sống? Chính xác, cái cuộc sống mà chúng ta có thể sống... Các bạn, các bạn muốn trở thành người như thế nào? Tất cả đều phụ thuộc vào các bạn. Nếu bạn không bao giờ dám muốn được thành công, vậy thì bạn sẽ chẳng bao giờ thành công cả... Quan trọng nhất là bạn phải dám nghĩ, dám ham muốn... Sự thực là, mỗi chúng ta đều độc nhất vô nhị trên đời này. Khi chúng ta sinh ra, số phận chúng ta không định sẵn để thất bại. Bởi vì chúng ta sinh ra đều là người chiến thắng. Các bạn, hãy tin tôi! Nhưng quan trọng hơn, các bạn hãy tin vào chính mình! Bởi vì các bạn có thể! Ở Hoàn Mỹ, Xuân Minh nhanh chóng vươn từ vị trí người tập sự lên làm quản lý. Năm 1997, cô bỏ việc để gia nhập một công ty Đài Loan tên là Công ty phát triển Vườn tháp Linh hồn Đường Kinh. Lĩnh vực kinh doanh của nó là xây dựng các công trình cao tầng để chứa tro người chết. Những tòa nhà ấy được biết đến với tên gọi “tháp linh hồn”, chiêu bài bán hàng của công ty này nhằm vào nhu cầu tâm linh, nhu cầu thực tế và niềm đam mê của người Trung Quốc đối với bất động sản. Với những người chết, Công ty Vườn tháp Linh hồn Đường Kinh hứa hẹn một nơi yên nghỉ vĩnh hằng có phong thủy cực tốt. Cho người đang sống, nội dung rao bán hướng đến những vị trí chính của khu vườn, số lượng không gian giới hạn và dân số đang bùng nổ của vùng châu thổ sông Châu Giang. Một nhà đầu tư có thể mua trọn tháp linh hồn sau đó chia ra thành những khoảng riêng biệt bán lấy lãi. Công việc của Xuân Minh là tổ chức các buổi học cho nhân viên bán hàng của công ty. Cô đã học cách giao tiếp, giờ đây cô dạy lại những người khác - cũng giống như các nhà máy, sản phẩm gì bán ra là mặt ít quan trọng nhất của doanh nghiệp. Lý lẽ để mời gọi khách mua hàng của Xuân Minh hòa trộn giữa đạo Phật, lợi ích của việc hỏa táng đối với môi trường và một khẳng định gần như chắc chắn, nói rằng một tháp linh hồn sẽ đáng giá 300 phần trăm. Cái chết, nói một cách khác, là khoản đầu tư dài hạn tốt nhất từng có. Hãy để cha ông chúng ta thực hiện chuyến du hành cuối cùng của đời mình theo cách văn minh nhất, trang nghiêm nhất và trịnh trọng nhất. Chỉ riêng Quảng Đông đã có hơn một triệu người chết mỗi năm. Về địa điểm trong tháp linh hồn của công ty chúng tôi, giá tháng Bảy năm 1995 là 3.500 đồng giờ đã tăng lên 5.600 đồng rồi. Chúng tôi cung cấp dịch vụ trọn gói (từ hỏa táng đến đưa vào tháp, bao gồm cả nghi thức xưng tội cho người chết và các thứ khác). Thời gian hoạt động của chúng tôi từ 11 tháng Bảy năm 1994 đến 10 tháng Bảy năm 2044. Kế hoạch công tác của Xuân Minh đã rút ngắn đi rất nhiều. Cuối năm 1997, cô lại nhảy việc lần nữa, lần này là đến một công ty bán hàng theo mạng lưới truyền tiêu, công ty này thu của mỗi thành viên mới một nghìn nhân dân tệ đổi lấy một hộp thảo dược truyền thống vùng Tây Tạng. Đó là một công ty dạng kim tự tháp, đơn giản và rõ ràng. Xuân Minh đã gia nhập đủ sớm để kiếm được ít tiền thực sự. Cô chiêu mộ khoảng mười người, tất cả đều là những người đã kinh qua thử thách kiếm tiền, chỉ trong vài tháng cô đã đứng đầu một mạng lưới mười nghìn thành viên. Cho đến thời điểm đó, Xuân Minh kiếm được bốn mươi nghìn nhân dân tệ một tháng - khoảng năm nghìn đô la, một khoản thu nhập khổng lồ ở vùng châu thổ sông Châu Giang vào năm 1998. Công ty bắt đầu ép các phiếu lương của cô bằng nhựa trong để trưng chúng ra với những người được tuyển mộ như một công cụ kích thích. Trong một chuyến về thăm nhà, Xuân Minh đưa cho bố mẹ ba mươi nghìn nhân dân tệ để sửa sang lại ngôi nhà của gia đình, lát nền gạch hoa, mua các trang thiết bị, thêm cả một chiếc ti vi 29 inches nữa. Thành công của cô trên thành phố khiến cô nổi tiếng khắp cả làng và xa hơn thế. “Mọi người sống trong vùng đều nghe nói đến tôi” cô kể. Nhưng công việc này bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Ở một thị trấn tên là Đạm Thủy, cách Đông Quản chừng 64 kilômét, hệ thống bán máy mát xa chân của Đài Loan đã trở nên rất nổi tiếng. Để gia nhập vào công ty, mỗi người phải mua một cái máy mát xa chân với giá 3.900 nhân dân tệ, tức là gần 500 đô la gấp khoảng tám lần giá thị trường. Những người tham gia được bảo rằng họ sẽ nhận 40% phí gia nhập của bất kỳ ai họ chiêu mộ vào mạng lưới. Dân di trú đổ dồn về Đạm Thủy, có người đã bán nhà, bán đồ đạc và trâu bò để trả phí gia nhập. Nhưng hóa ra bán một cái máy mát xa chân giá 3.900 nhân dân tệ ở một thị trấn nghèo thật chẳng dễ chút nào, đặc biệt là khi có hàng ngàn người khác cũng đang làm cùng một việc đó. Khi hệ thống sụp đổ, một số thành viên bị lừa tiền đã tấn công những người chiêu mộ họ, trong khi những người khác thì biểu tình trước cửa các cơ quan nhà nước để đòi lại tiền. Công an được gọi đến để dẹp đám đông, lập lại trật tự và đưa những người di trú về nhà. Sau đó, những tên đầu sỏ tổ chức đã đi sâu vào nội địa tới một thị trấn ở tỉnh Hồ Nam. Chúng đã gây dựng một hệ thống giống hệt và chiêu mộ khoảng ba mươi ngàn người tham gia, cho đến khi hệ thống ấy, cũng sụp đổ. Tháng Tư năm 1998, nội các của Thủ tướng Chu Dung Cơ đã ra sắc lệnh buộc mọi công ty truyền tiêu phải dừng hoạt động. Hơn hai nghìn công ty đóng cửa, và cả một ngành kinh doanh đã chống lại các luật định của chính phủ trong nhiều năm tức khắc sụp đổ trong nháy mắt. Xuân Minh nhận ra mình đã thất nghiệp; cuộc sống người giàu của cô kéo dài đúng tròn hai tháng. Cô khá choáng váng, và biết ai là người phải chịu trách nhiệm về chuyện này. “Sau khi Chu Dung Cơ xuất hiện,” cô nói, “ông ta không cho phép bán hàng theo mạng lưới nữa, vì vậy tôi dừng lại thôi.” Thật đáng ngạc nhiên, ở vùng châu thổ sông Châu Giang tự do thoải mái này, nơi Xuân Minh đã học kỹ năng giao tiếp, nơi thương mại là chúa tể, nơi mọi người đều là người thắng cuộc và chết nghèo khó là một tội lỗi, cánh tay dài của chính phủ đã chạm tới cuộc đời cô, lần đầu tiên, một cách đáng ngạc nhiên. 4. Chợ việc làm Buổi tối sau khi Mẫn tan ca, tôi đi xe buýt đến gặp cô ở trước cổng nhà máy. Đông Quản vươn mình sống dậy khi vầng dương lặn xuống; khi cái nắng nóng khó chịu của ban ngày biến mất, những con phố đang tối dần sẽ tràn ngập những người trẻ tuổi vừa tan ca làm việc - những người biến hình, lắc mình biến đổi trước mặt tôi, từ những công nhân tận tụy với công việc trở lại thành những thanh thiếu niên hăm hở nồng nhiệt. Mẫn và tôi sẽ dạo bộ quanh vài khu nhà gần nhà máy cô làm việc và chọn một nhà hàng rẻ tiền để ăn tối. Lần nào cô cũng gọi một món thịt, rau xào, và nguyên một con cá mà lần nào cũng hóa ra là toàn xương là xương cho hai chúng tôi; nếu chúng tôi gặp nhau vào thời điểm gần ngày trả lương, cô sẽ khăng khăng đòi mời tôi cho bằng được. Mẫn ăn như thể thèm thuồng được ăn ngon lắm vậy. Sau khi tôi đã ăn xong một lúc lâu, cô vẫn tiếp tục đảo qua các đĩa? Vét sạch mùi vị từ những mẩu vụn nhỏ nhất, hệt như một tay sành ăn có cỡ vậy. Một lần khi anh họ cô vào thành phố, anh ta đưa chúng tôi đến cửa hàng McDonald's. Mẫn nhìn chiếc Big Mac[12] của mình một lúc lâu, hạ thấp gương mặt xuống bàn cho đến khi chiếc bánh ở ngang tầm mắt, rồi cô ăn nó từng lớp từng lớp một - bánh mì, cà chua, rau diếp, thịt bò. Trước đó, cô chưa bao giờ vào một cửa hàng McDonald’s cả. Khi tôi tặng cô hai khung tranh nhỏ nhân một dịp sinh nhật, tôi phải chỉ cho cô cách mở phần sau lưng ra để nhét một tấm ảnh vào trong như thế nào. Có lần cô lại hỏi tôi chứng khoán là gì. Cô hoàn toàn không quan tâm gì đến các sự vụ quốc gia cả. Có một buổi chiều, trong bữa ăn với hai công nhân lớn tuổi hơn cùng làm trong nhà máy, câu chuyện chuyển sang đề tài lớn lên trong thời kỳ những năm 70 của thế kỷ trước dưới thời Mao Trạch Đông. “Chúng tôi lúc nào cũng đói meo cả bụng,” một trong hai người đàn ông nhớ lại. “Phải đến tận những năm 1980, chúng tôi mới hết bị đói ăn.” “Ai là Mao chủ tịch bây giờ thế?” Mẫn bỗng nhiên cất tiếng hỏi. “Tôi chẳng biết gì cả.” “Hồ Cẩm Đào,” một trong hai người đàn ông trả lời. “Hơi hơi nhận ra rồi. Thế không phải là Giang Trạch Dân nữa à?” Cô nói. Tôi bảo không, Giang Trạch Dân đã về hưu, Hồ Cẩm Đào lên thay vị trí của ông ấy. “Ồ, em tưởng Giang Trạch Dân chết rồi.” Sau đó cô nói. “Những người đó có vẻ ở rất xa chỗ em.” Những chi tiết trong cuộc sống của bản thân cô đã lấy số lượng áp đảo mọi thứ khác: hầu như lần nào gặp Mẫn, cô cũng có thứ gì đó mới mẻ để kể với tôi. Thỉnh thoảng tôi tưởng chừng các định luật của thế giới vật chất không hề ảnh hưởng đến cô, rằng cô chỉ phải nghĩ đến một việc gì đó - đổi chỗ làm, chia tay với bạn trai - là đã hoàn thành việc đó luôn rồi. Nếu bẵng đi không gặp cô một thời gian, Mẫn có thể sẽ quên, không kể với tôi rằng cô đã nghỉ việc ở một nhà máy hay mới được tăng lương, bởi vì trong tâm trí cô, cô đã lại tiếp tục tiến lên phía trước rồi. Hiếm khi nào Mẫn dừng lại để điểm lại những gì cô đã làm từ khi rời bỏ quê hương ra đi, một nét tính cách thường thấy ở Đông Quản. Có lẽ người ta e ngại rằng mình sẽ mất đà nếu dừng lại đủ lâu để nhìn về chặng đường mình đã đi qua. Khi bài báo đầu tiên về Mẫn của tôi được đăng trên tờ Wall Street Journal, tôi mang cho cô một bản dịch khi chúng tôi gặp nhau vào buổi tối trong một tiệm bánh gần nhà máy cô làm việc. Chiếc bánh trứng và món đậu xanh đá của cô không hề được đụng đến trong lúc cô đọc. Đến trang ba, cô cười khúc khích - “Chị nhớ kỹ thật đấy,” cô nói - và một lần nữa ở trang bốn. Cô đọc một mạch từ đầu đến cuối, rồi lật trang cuối cùng lên, tìm xem còn nữa không. “Thế thôi à?” “Thế thôi,” tôi đáp. “Phần kết cho thấy chị còn muốn nhiều hơn nữa,” cô nói. “Sẽ còn nữa.” “Thật chứ?” Cô hỏi. “Chị đang viết nó à?” “Cô đang sống trong đó,” tôi nói. “Nó đang diễn ra ngay lúc này đây.” Mẫn nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ lạ, như thể nghi ngờ rằng có phải tôi đang đùa với cô hay không. Cô đọc bài báo thêm vài lần nữa, và sau đó cô gửi email cho tôi. Nhìn lại xem mình từng như thế nào, cô viết, tôi nhận ra mình đã thực sự thay đổi. Có một chuyện Mẫn không bao giờ quên, cô không thể nào quên nổi quãng thời gian một năm làm ở dây chuyền lắp ráp khó khăn tới nhường nào. Trong cái thế giới công xưởng này, người ta thường hay nói với giọng gần như hoài niệm về những ngày tháng họ làm việc ở dây chuyền lắp ráp, cái thời còn ít lo âu và trách nhiệm. Mẫn không thế. “Chẳng có gì khó khăn bằng làm một công nhân bình thường cả,” tôi thường nghe cô nói vậy. Cô không bao giờ quên mình đến từ nơi đâu. Đó là một trong những điểm mà tôi thích nhất ở cô. *** Tháng Tư năm 2004, Mẫn nhận được hai tuần lương đầu tiên ở chỗ làm mới, nhưng cô đã không gửi tiền về nhà. Thay vì thế, cô đến cửa hàng bách hóa mua một chiếc sơ mi đen vừa vặn và một chiếc quần lửng trắng. Cô đang thực hiện một lời hứa, đến thăm những người bạn cũ, mà đi thăm bạn cũ thì cần có quần áo mới. Tám giờ sáng hôm sau, Mẫn và tôi bắt xe buýt đến một quận ngoại thành Đông Quản, nơi cô đã làm việc năm đầu tiên khi rời bỏ quê nhà. Chiếc xe buýt chật cứng người di trú đi chơi cuối tuần. Các cô gái trẻ đi thành đôi, diện những bộ đẹp nhất cho ngày Chủ nhật - sơ mi trắng, quần bò sạch sẽ, tóc đuôi ngựa suôn mượt - và những hành khách đứng tràn ra cả lối đi giữa hai hàng ghế đung đưa một cách vui nhộn, giống như cả đám người đang nhảy điệu conga[13]theo từng nhịp rung lắc của chiếc xe buýt. Vài phụ nữ trẻ bị say xe bám chặt lấy thanh rào chắn, đầu họ cúi gục xuống, hai mắt nhắm tịt lại, như thể muốn ngăn cảm giác khó chịu ở bên ngoài cơ thể vậy. Mẫn nói suốt cả hai tiếng ngồi xe. Cô hy vọng thuyết phục được các bạn mình nhảy sang nhà máy khác, giống như cô đã làm. Cô liên tục bình luận về những nơi chúng tôi vừa đi qua. Chương Mục Đầu: “Người ta gọi chỗ này là Tiểu Hồng Kông. Ở đây sang trọng lắm. Tôi đã đến tìm việc ở đây nhiều lần nhưng chẳng tìm được việc gì cả.” Thanh Khê: “Ở đây có nhiều nhà máy sản xuất máy tính lắm, nhưng phải có nghề thì mới vào đấy làm được.” Phong Cương: “Chỗ này không phát triển bằng chỗ tôi bây giờ, đúng không?” Đối với tôi, chỗ nào cũng như chỗ nào. Các công trường xây dựng và nhà hàng rẻ tiền. Nhà máy, nhà máy và nhà máy, những ô mạng kim loại trên cánh cổng của chúng chi chít như lưới. Mẫn nhìn thành phố qua một cặp mắt khác: mọi nơi đều có triển vọng của một công việc đáng ao ước hơn công việc hiện tại. Bản đồ Đông Quản trong tâm trí cô là tất cả những chuyến đi bằng xe buýt cô đã đi để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. CÁC BẠN CỦA MẪN đợi chúng tôi dưới gầm một cầu vượt, nôn nóng ngó nghiêng sai hướng. Lương Dung cao, có gương mặt khá xinh xắn, Hoàng Kiều Nga thấp và hơi đậm người, cô có đôi mắt sáng và hai gò má núng nính như trẻ con. Hai cô đều lớn hơn Mẫn một tuổi. Ba cô gái nắm tay nhau rú lên và nhảy tưng tưng như những người tham gia trò chơi truyền hình vừa mới thắng giải lớn vậy. “Ồ! Chị giảm cân rồi đấy!” “Em cao hơn đấy!” “Chị cắt tóc rồi à!” “Em vừa mua bộ này này,” Mẫn nhấn giọng nói, “Có đẹp không?” Hai người bạn đều đồng ý rằng bộ đồ mới rất đẹp. Cạnh đường cao tốc là một công viên nhỏ có một quảng trường lát bê tông. Những chiếc ghế đá bị phơi nắng cho trắng ởn ra, hệt như những lăng mộ cổ, vài gốc cây non gầy guộc trông như đang trút những hơi thở cuối cùng rủ bóng lên ghế đá. Các cô gái tìm một ghế trống, ngồi xuống và nghịch ngợm mái tóc của nhau. Họ lấy làm ngưỡng mộ bộ đồ mới của Mẫn, và cô kể cho hai người bạn nghe mỗi món giá bao nhiêu. “Vậy, có phải em đã thay đổi rồi không?” Mẫn hỏi. Chính xác là cô đã đi khỏi đây được hai tháng. “Phải, em đã thay đổi,” Hoàng Kiều Nga đáp. “Em thay đổi thế nào?” “Trông em trưởng thành hơn.” Lương Dung và Hoàng Kiều Nga kể cho Mẫn nghe tin tức ở nhà máy: ai đã tìm việc mới, ai vừa cắt tóc. Đây là ngày nghỉ đầu tiên trong tháng vì nhà máy bị cắt điện. Tiền lương vẫn thế và thường xuyên bị chậm, tùy theo tâm trạng của ông chủ. Mẫn không thể kìm được mà khoe khoang một chút về nơi cô đang làm việc. “Mọi người ở cái nhà máy này thật sự là rất kém,” cô nói. “Nhà máy em đang làm tốt hơn nhiều. Ông chủ giàu lắm ấy.” “Đến chỗ em đi,” Mẫn đột nhiên nói. “Em sẽ mời hai chị đi ăn tối. Bao giờ thì hai chị đến được?” “Nhưng nếu bọn chị đến,” Lương Dung nói, “nhỡ em không được nghỉ thì sao.” “Các chị đến thăm em và em sẽ giới thiệu bạn trai cho các chị,” Mẫn nói chắc như đinh đóng cột: “Ở nhà máy em làm có nhiều con trai lắm.” Hai cô gái tròn mắt. Họ đồng thanh thốt lên “ối chà!” rồi cả ba cùng phá lên cười. Một người ăn xin chống gậy đi tới, các cô gái ngừng cười. Lương Dung thoáng do dự rồi nhẹ nhàng đặt một quả táo vào cái bát của ông già, cảnh hệt như trong một câu chuyện cổ tích. Đông Quản là một nơi không dễ sống, có lẽ chính vì vậy mà người ta có thể tử tế với người khác một cách đáng ngạc nhiên. Tôi thấy người ta bố thí cho ăn xin ở Đông Quản nhiều hơn bất cứ thành phố nào ở Trung Quốc. Các công nhân nhà máy động lòng trắc ẩn với người già hoặc những người tàn tật, nhưng họ tỏ ra không hề thương tiếc những người đồng trang lứa với mình. Nếu anh còn trẻ và mạnh khỏe, không có lý do gì để không làm việc cả. NHÀ MÁY CŨ CỦA MẪN cách khu phố chính nửa giờ đi bộ, ở đó, nước Trung Quốc công nghiệp mở rộng ra ruộng đồng bao la. Một dòng nước chảy lờ đờ và đen bóng, trông như dòng sông dầu. Con đường lát gạch chuyển sang thành đường đất nện, một dải bụi bặm hai bên là các tiệm mì lưu động và bàn bi-a ngoài trời. Hàng tốp các chàng trai trẻ mặc áo bảo hộ lao động đi dép lê đang đánh bi-a. Mẫn bước đi, hai bên là hai cô bạn, đầu cô ngẩng cao như một vị bách phu trưởng trở về sau trận chiến. Thanh thiếu niên nam nữ hai bên đường gọi toáng tên cô: “Về lúc nào thế?” “Cậu đang ở đâu rồi?” Tất cả bọn họ đều lấy làm ấn tượng khi biết cô đang làm việc ở khu vực trung tâm Đông Quản. “Tôi có thay đổi gì không?” Mẫn hỏi tất cả mọi người xuất hiện trước mắt mình. “Cậu gầy và đen hơn,” một cô gái trẻ nói. Mẫn hơi thất vọng. “Tôi muốn cậu nói là tôi trưởng thành hơn trước cơ.” Lương Dung và Hoàng Kiều Nga vào trong nhà máy để lĩnh lương, có lẽ ông chủ đang trong tâm trạng tốt nên đã đồng ý trả lương cho công nhân của mình ngày hôm đó. Mẫn đợi ngoài cổng, nhìn chằm chằm vào khu nhà lợp ngói và cả núi bùn đất giữa sân. Nhà máy đang mở rộng. “Chị thấy nó thế nào?” Mẫn hỏi tôi. “Cũng được,” tôi nói. “Nhìn bên ngoài thì nó hoàn toàn ổn,” cô nói, “nhưng chị không bao giờ nhìn được bên trong cho đến khi chị chấp thuận làm việc ở đấy. Và sau đó là chị chẳng còn chỗ nào khác để đi nữa.” BUỔI CHlỀU, các cô gái nhập bọn với hai người bạn khác trong nhà máy và tới một công viên gần đó. Một đặc điểm của công nhân di trú chính là không có ý tưởng gì để sử dụng thời gian nhàn rỗi. Ở công viên Đường Hạ, họ thấy một bé gái khoảng sáu bảy tuổi đang ném những hòn sỏi vào đầu một con rùa chồm hỗm trong cái hồ nông choèn. Nhưng hầu hết các trò giải trí ở công viên đều tốn tiền cả. Du khách có thể dùng súng hơi để bắn cá trong hồ, Mẫn đưa mắt nhìn con cá gầy guộc đang chờ hành quyết và nghiêm nghị nói, “Đây là điều sẽ xảy ra khi ta không có tự do.” Có một xe cáp đưa khách lên đỉnh đồi gần đó, nhưng tốn mười lăm nhân dân tệ. Các cô gái ngồi xuống một điểm cắm trại bên dưới, nhìn chiếc xe đi qua đỉnh đầu mình. Hoàng Kiều Nga đã tham gia một lớp học vi tính. Cô muốn rời khỏi nhà máy, đến chợ việc làm để tìm một công việc tốt hơn, giống như Mẫn đã từng làm. “Chị đã lên kế hoạch rồi,” cô ngượng ngùng nói. “Chị biết lên mạng thế nào chưa?” Mẫn hỏi. “Chị đã bao giờ lên mạng đâu.” “Em sẽ dạy chị.” Mẫn nhìn đồng hồ: bốn giờ rồi. “Có lẽ không phải hôm nay, thôi thì... để lần sau nhé.” “Cứ cố học những gì chị có thể ấy,” Mẫn khuyên. “Nếu chị học được gì đó, chị luôn có thể mang nó theo đến với công việc mới. Ít nhất đấy là kinh nghiệm của em,” cô kết luận một cách khiêm tốn. Ở đâu đó trong cả ngày hôm ấy, cô đã nhận ra rằng những gì mình có thể làm để giúp bạn bè rất ít ỏi. Tìm kiếm dũng khí để rời bỏ một nhà máy là việc người ta phải làm một mình. Giống như những người di trú vẫn luôn nói: Bạn chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình. Năm giờ chiều, các cô gái chia tay nhau với những lời chào tự nhiên nhất. “Em vẫn chưa mệt,” Mẫn nói khi chúng tôi tìm được chỗ ngồi trên xe buýt. “Em sẽ mệt sau. Ngay lúc này, em phấn khởi quá.” Nhưng khi xe buýt đi qua những khu cô đã đến tìm việc, giờ đã chìm vào màn đêm tối, tâm trạng Mẫn trở nên u ám. Cô vừa đến thăm cuộc đời cũ của mình và biết nó đã qua. Nhưng cả cuộc đời mới của cô, vì lý do nào đó, cũng chẳng thấy đâu. Ngoài phố, những bóng đèn trong nhà máy bắt đầu sáng lên, và những cái bóng di chuyển lặng lẽ sau các ô cửa sổ; thậm chí cả vào tối Chủ nhật, người ta cũng vẫn làm việc. “Nếu em chỉ đi học, rời bỏ quê nhà và đến đây làm việc vài năm, sau đó trở về, lấy chồng và sinh con,” Mẫn nói, “có lẽ em cũng không sống trọn vẹn được thế này.” TRONG ÁNH ĐÈN XANH LAM CỦA BUỔI TỐI, tôi và Mẫn đứng bên ngoài cánh cổng nhà máy nơi cô làm việc. Người bạn làm thợ điện của cô sẽ ăn tối cùng chúng tôi, còn chúng tôi đang đợi anh ta thay quần áo. Anh chàng bảo vệ đẹp trai mặc quần rằn ri - 1,7 MÉT HOẶC HƠN, BIẾT CHƠI BÓNG RỔ LÀ MỘT LỢI THẾ - đi qua với một nụ cười lướt qua trên mặt và ném cho Mẫn một chùm chìa khóa, cô đã gửi chúng ở chỗ anh ta nhờ giữ hộ. Mọi người rải rác trở về nhà máy sau buổi đi chơi ngày Chủ nhật của mình. Mẫn gọi to một cô gái trẻ, cô này cứ nhìn chằm chằm vào những cái bóng và quát lên quang quác, “Đói chết rồi đây này!” Nói xong cô ta đi thẳng vào nhà máy mà không thèm chào lấy một câu. Mẫn có vẻ ngạc nhiên và khó chịu trước sự khiếm nhã của cô ta. Cô gái đó vừa mới cố thử dùng thảo dược phá thai, nhưng không hiệu quả, Mẫn kể với tôi. Cô đã đi cùng với cô ta đến bệnh viện để mổ. “Cô ấy là một trong những người tôi định tạo quan hệ tốt, nhưng thực sự chúng tôi không phải là bạn,” Mẫn giải thích. Một người đàn ông đứng tuổi bụng phệ đeo kính đi qua chỗ chúng tôi vào nhà máy. “Có phải cô là người để ngỏ cửa văn phòng không?” Ông ta hỏi. “Tôi ở ngoài cả ngày cơ mà,” Mẫn vặc lại. Đó là sếp của Mẫn, cô ghét ông ta. “Lão ấy kiêu căng lắm,” cô nói. “Chẳng ai trong nhà máy này thích lão cả.” Vài phút sau đó, sếp cô lại đi qua, lần này là ra ngoài, ông ta lừ mắt nhìn cô. Mẫn đứng thẳng và lườm lại. Cả hai đều không nói năng gì. “Ngày mai thể nào lão ta cũng hỏi em chị là ai cho mà xem,” Mẫn nói. “Em biết là lão sẽ làm thế mà. Em sẽ bảo chị là một người bạn, thế thôi.” Ở sau lưng, cô thường gọi ông ta là Liu Laotou - Lưu lão đầu, lão Lưu già. Mười phút đứng cạnh cổng nhà máy, tôi có cảm giác như thể mình đã thấy thế giới của Mẫn: tình bạn dễ dàng với người bảo vệ, sự lạnh lùng của cô gái trẻ và cách phá thai vụng về của cô ta, sự ngược ngạo vô cớ của những ông chủ. Sự thực rằng Mẫn vẫn đứng thẳng ở vị trí của mình. NGƯỜI BẠN LÀM THỢ ĐIỆN CỦA MẪN XUẤT HIỆN - anh chàng có hai cánh tay khá cơ bắp, gương mặt rộng và nụ cười bẽn lẽn - chúng tôi vào một quán ven đường ăn thịt bò nướng, cá hầm và uống bia. Sau cả một ngày dài, bao nhiêu bực tức khó chịu trong Mẫn ùa ra cùng một lúc. “Ở nhà máy cũ, có lần em đã khóc suốt nửa tiếng đồng hồ, các bạn em đã cố an ủi nhưng không được,” cô kể. “Từ khi vào làm trong cái nhà máy này, em đã khóc hai lần, nhưng chẳng có ai biết cả." Anh chàng thợ điện nhìn vào bát cơm của mình mà không nói một lời. Cơn giận của Mẫn chuyển sang hai người bạn đã ra công viên chơi với chúng tôi lúc chiều. “Chúng em không thân. Chúng em chỉ giả vờ là bạn thôi,” cô nói. “Cái cô béo hơn ấy à? Tất cả những điều cô ta quan tâm là cố mà kiếm được một anh người yêu. Khi cô ta nhận lương, cô ta chẳng gửi đồng nào về nhà hết. Cô ta toàn tiêu phí chúng vào những thứ như trả hóa đơn điện thoại di động cho người yêu hay mời lũ con trai ra ngoài ăn tối. Mà cô ta thậm chí còn chẳng xinh xắn gì nữa chứ! Cô kia có bạn trai nhưng đã chia tay anh ta khi phát hiện ra thằng cha ấy lừa mình. Gã người yêu kia cho cô ta một cái đồng hồ và đến giờ cô ta vẫn còn đeo nó.” “Chị có thấy bọn họ đều không vui vẻ gì khi nhận tiền lương của mình không? Tất cả đều nghĩ: mình làm việc chăm chỉ như thế và đây là tất cả những gì mình nhận được hay sao? Làm việc hằng ngày trong nhà máy là một việc vô cùng khó khăn.” Rồi sau đó cô chuyển hướng sang tôi. “Chị không thể biết cảm giác ấy nó như thế nào đâu,” cô nói. “Chỉ có ai từng trải qua nó mới biết thôi.” *** Mẫn mệt mỏi với những thứ mà cô vừa mới đây còn khao khát. Niềm hứng khởi được tham gia vào công việc văn phòng nhanh chóng bị thay thế bởi nhận thức rằng cô là người có vị trí thấp nhất ở đó. Mọi người đổ dồn việc lên đồng nghiệp trẻ nhất và mới nhất của họ, trong khi ấy, đồng minh duy nhất của Mẫn ở chỗ làm đã biến mất. Hai tuần sau khi cô đến đây, người đàn ông tử tế nhận cô vào làm bất ngờ bỏ đi vì một công việc tốt hơn ở Bắc Kinh. Bị bỏ lại một mình, Mẫn tìm hiểu về quan hệ lằng nhằng phức tạp trong thế giới cổ cồn trắng này. Sếp mới của cô, người đàn ông bụng phệ lúc nãy, đã bị đuổi việc khỏi nhà máy năm kia vì tội bao gái - bởi chẳng ai thèm tôn trọng ông ta, nên mọi thứ trở nên khó khăn hơn đối với Mẫn. Những đồng nghiệp của cô có vẻ hăm hở chờ cô phạm lỗi: mỗi khi cô bước vào phòng, các cuộc đối thoại liền ngưng lại, và không ai giúp gì cô trong công việc mới này cả. Cô khám phá ra rằng một người có thể nói thế này nhưng lại mang hàm nghĩa thế khác, và rằng cả cô cũng phải học lấy kỹ năng đó nữa. “Trong văn phòng, họ có thể hết sức thân thiện với chị, nhưng họ nói đủ thứ ở sau lưng chị,” Mẫn bảo tôi. “Chị không thể có lấy một người bạn trong cái nhà máy ấy được đâu.” Vượt qua lằn ranh tầng lớp làm Mẫn thêm cô đơn. Công nhân làm việc ở dây chuyền lắp ráp là những người gần cô nhất về tuổi tác và hoàn cảnh, nhưng cô không còn thuộc về thế giới đó nữa. Các đồng nghiệp ở văn phòng lớn tuổi hơn cô, nhiều người trong số họ đã có gia đình, và chẳng có điểm gì chung với cô cả. Phòng ở tập thể trống không vào các ngày cuối tuần khi những người khác ra ngoài thăm người yêu hoặc chồng mình. Mẫn giả vờ không quan tâm, và cô không bao giờ để ai nhìn thấy mình rơi nước mắt. Tháng Tư, sếp cũ của cô gọi từ Bắc Kinh đề nghị cô một công việc mới. Công ty anh ta đang lắp ráp các linh kiện máy tính để bán cho các tỉnh và anh ta cần một người trông cửa hàng. Anh tầm ba mươi tuổi, đã học trường Đại học Thanh Hoa danh tiếng, là người trưởng thành duy nhất ở Đông Quản này đã đối xử có chút tử tế với cô: đó là tất cả những gì cô biết. Mẫn quyết định lên đường. Cô gọi cho chị gái mình ở Thâm Quyến. “Em sẽ làm gì ở đó?” Chị cô hỏi. “Trông cửa hàng.” Mẫn đáp. “Lương lậu thế nào?” “Em không biết. Nhưng chắc là phải khá hơn ở đây.” “Em tin anh ta à?” “Vâng.” “Cẩn thận đấy.” Mẫn gửi cho tôi một bức thư về kế hoạch của cô: Cuối cùng tôi cũng quyết định đi Bắc Kinh, để cho bản thân mình một cơ hội. Tôi sẽ xử lý tốt cái cảm giác giữa “anh trai lớn” và “em gái nhỏ”. Nhưng vừa mới quen được việc ở đây, tôi thật không nỡ bỏ đi chút nào. Một người không thể trưởng thành qua hạnh phúc. Hạnh phúc khiến người ta nông cạn. Chỉ có trong gian khổ chúng ta mới trưởng thành, thay đổi và hiểu thêm về cuộc đời! Nhưng ở một nơi vốn chẳng có gì chắc chắn, Mẫn rất dễ thay đổi ý kiến của mình theo tâm trạng. Cô quyết định rằng đến chỗ sếp cũ của mình ở Bắc Kinh là không thích đáng lắm. Anh ta là một người đàn ông, anh ta không phải gia đình cô, rốt cuộc thì cô cũng đâu có tin anh ta. Cô nên ở lại nơi cô đang ở thì hơn. Sản lượng của nhà máy tăng cao, phòng ở tập thể của cô từ sáu người nay đã tăng lên chín người. Có quá nhiều người làm việc trong nhiều ca khác nhau, nên buổi đêm khó mà ngủ cho yên được một giấc, Mẫn lại nghĩ đến chuyện rời bỏ nhà máy. Ngay cạnh văn phòng nơi cô làm việc là bộ phận nhân sự, thỉnh thoảng Mẫn lại thấy người ta xếp hàng để chờ phỏng vấn. Cứ mười người phỏng vấn thì mới có một người được nhận, rất nhiều người trong số họ có hẳn bằng đại học. Vậy là, Mẫn lại cảm thấy may mắn vì công việc hiện nay của mình. Các công nhân dây chuyền lắp ráp trong nhà máy của Mẫn kiếm được 320 nhân nhân tệ một tháng. Đó là mức lương thấp ở Đông Quản, điều ấy làm Mẫn lấy làm khó chịu. Cô luôn chào các công nhân, nhưng không bao giờ có thể kết thân hơn với họ. “Vài người trong văn phòng thậm chí còn chẳng thèm nói chuyện với công nhân, vì họ khinh thường những người ấy,” Mẫn nói. “Nhưng tôi cũng từng là một công nhân mà.” *** Cuối tháng Năm, Mẫn gửi cho tôi một tin nhắn qua điện thoại di động. Em có một điều ngạc nhiên thích thú cho chị. Bây giờ thì chưa nói đâu. He he. Tôi đang trên đường đến gặp cô, trong đầu lướt nhanh qua những khả năng có thể xảy ra. Cô đã nghỉ việc. Cô đã có người yêu. Rốt cuộc, cô vẫn sẽ đi Bắc Kinh. Tôi trả lời: Tôi tò mò lắm rồi đây. Có lẽ chị sẽ thấy điều đó không tốt, cô nhắn lại. He he. Em hy vọng chị không quá thất vọng. Mẫn đang đợi tôi ở cổng nhà máy, tôi nhận ra cô đã ép thẳng mái tóc mình. Nó được cắt một đường gọn ghẽ bất đối xứng, những lọn tóc xoăn dài đầy nữ tính của cô đã biến mất. Cả quá trình xử lý hóa chất ở hiệu tốn ba tiếng đồng hồ và một trăm nhân dân tệ, Mẫn kể. Cô vừa nhận được tháng lương đầu tiên. Cô kể với tôi những tin đồn vặt ở chỗ làm. Cấp trên trực tiếp của Mẫn, một anh chàng chỉ hơn cô vài tuổi, đã cãi lộn với bạn gái của anh ta. Cô gái kia rất giỏi và kiếm được nhiều tiền gấp đôi anh ta, một sự thật mà mọi người trong văn phòng đều biết và lấy làm thích thú. Cô gái đã tiết kiệm được tám mươi nghìn nhân dân tệ, mọi người cũng đều biết chuyện đó. Nếu họ chia tay, cô bạn gái sẽ đòi mười nghìn nhân dân tệ để bồi thường cho bảy năm cô ở với anh ta. Đó là một vụ chia tay kiểu Đông Quản: tổn thương tình cảm được thay bằng tính toán tài chính, mọi người trong nhà máy đều biết từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của vụ việc. Giờ anh chàng cấp trên trẻ tuổi đang làm thủ tục nghỉ việc ở nhà máy, vài người khác cũng đi theo anh ta. Chẳng còn lý do gì để ở lại nữa, vì vậy hôm qua cô cũng đã xin nghỉ luôn. “Cô đã quyết định đi rồi hả?” Tôi hỏi. Sự mau lẹ trong những quyết định của cô làm tôi nghẹt thở. “Em đã nộp đơn xin thôi việc hôm qua rồi,” Mẫn nói. Sếp của Mẫn, người mà cô không thích, đã hỏi tại sao cô muốn đi. “Tôi muốn về nhà,” Mẫn nói dối. “Cô đã tìm được việc nào khác à?” Ông ta hỏi. “Không,” cô đáp. “Đơn giản là tôi có việc ở nhà thôi.” Thêm một lời nói dối nữa. “Cô đang làm tốt ở đây,” sếp của cô nói. “Tại sao cô muốn đi?” Chỉ một lần duy nhất ông ta không tỏ ra thô lỗ với cô. Nhưng ông ta cũng không đồng ý cho cô ra đi ngay, ông ta bảo sẽ quyết định trong vòng một tháng. Điều này làm Mẫn hơi ngạc nhiên: cô đã ép thẳng tóc. Cô đã quyết định nghỉ việc và nhảy trở về cõi bất tri, nhưng có vẻ như cô không nghĩ đến chuyện kia. CHlỀU HÔM ĐÓ, tôi và Mẫn ra công viên nhỏ gần nhà máy cô làm việc. Nó bị các tòa chung cư vây kín xung quanh, giữa có một hồ nước màu vàng xanh, màu của Mountain Dew. Lũ trẻ con lội đến đầu gối, múc đầy các bát nông và bình thủy tinh. “Mấy cái ao chúng em hay bơi ở quê sâu lắm và nước thì sạch nữa,” Mẫn nói. “Những mùa hè hồi em còn bé,” cô mơ màng tiếp tục, “chúng em trồng dưa hấu. Cách nhà khoảng mười phút đi bộ, người lớn dựng một cái chòi canh có thân cây làm cột trụ và một tấm ván gỗ phủ cỏ lên trên. Chúng em sẽ ngồi dưới cái lán ấy cả ngày để canh dưa hấu, còn bố em thì ngủ qua đêm ở đó.” “Chị gái em, anh họ em, hai đứa em gái và em nữa, cả bọn ở đấy cả ngày. Chúng em chơi bài, câu cá và bơi lội. Chúng em có bài tập hè, và mẹ thường nhắc chúng em phải làm cho hết nhưng chúng em vẫn không làm.” “Bọn em thả mấy trái dưa hấu xuống dòng sông chảy xiết. Bọn em đã buộc chúng vào bờ sông bằng dây thừng, nên chúng chẳng thể trôi đi được. Khi bọn em ăn dưa, đúng là mát lạnh.” Tôi chưa bao giờ nghe một người di trú kể về miền nông thôn giống như Mẫn. “Nếu em là chị, nếu em có khả năng và nhiều tiền như chị,” cô nói, “em sẽ làm việc thật chăm chỉ khi còn trẻ. Nhưng khi nhiều tuổi em sẽ về nông thôn, kiếm một người chồng và sống trong một ngôi nhà nhỏ ở đó. Sống trong một túp lều và nuôi mấy con gà cũng được.” Cô thoáng im lặng, gạt ra khỏi tâm trí một ảo ảnh mà cả hai chúng tôi đều biết rằng sẽ không bao giờ thành hiện thực. *** Đầu tháng Sáu, một công nhân mới vào làm ở nhà máy của Mẫn mất bốn ngón của bàn tay trái trong máy đột dập. Một tuần sau, cũng cái máy đó xơi mất ba ngón tay của một người mới khác. Cả hai công nhân đó đều không được đào tạo bài bản. Trong các công xưởng của thành phố này, thương tật gắn liền với nhu cầu sản xuất. Trong những tháng mùa đông, sản xuất chững lại, các nhà máy có đủ điều kiện để đào tạo công nhân mới; khi các đơn hàng dồn dập đến vào mùa xuân, những khóa đào tạo như vậy thường bị cắt ngắn thậm chí ngay cả khi những người mới không có kinh nghiệm tràn vào. Vì dây chuyền sản xuất trả tiền theo sản phẩm, làm việc nhanh hơn trong thời gian bận bịu đồng nghĩa với một khoản lương nhiều hơn - tốn thời gian dạy cho người khác chẳng mang lại cái gì cả. Đó là quy luật sống còn của nhà máy ở Đông Quản, giúp người khác chính là làm tổn thương chính mình. Cuối tháng đó, Mẫn bất ngờ được đề bạt vào bộ phận nhân sự của nhà máy. Nhiệm vụ của cô là đứng bên đường dưới cái nóng như đổ lửa thuyết phục người qua đường gia nhập nhà máy, cô đã chiêu mộ được mười công nhân trong ngày đầu tiên. Cô cũng thực hiện các buổi học định hướng cho công nhân mới, những người mà hầu hết đều hơn tuổi cô. Giờ Mẫn không được nghỉ cuối tuần nữa, vì vậy chúng tôi gặp nhau vào một tối thứ Sáu cuối tháng, khi ca làm thêm giờ của cô kết thúc lúc chín giờ, trong một tiệm giải khát bên ngoài cổng nhà máy. Người bạn ở nhà máy cũ của Mẫn, Hoàng Kiều Nga đến ngay sau tôi, chỉ mang theo một chiếc va li nhỏ. Cô đến để làm việc ở dây chuyền lắp ráp. Mẫn kể cho chúng tôi nghe về công việc mới của mình. “Em đứng bên đường thuyết phục mọi người đến nhà máy chúng em làm việc.” “Cô nói gì với họ?” Tôi hỏi. “Em bảo họ: “Có thể anh chị nghĩ rằng các nhà máy khác trông có vẻ tốt hơn. Nhưng nhà máy nào cũng có những khó khăn riêng mà các anh chị không thể thấy được đâu. Ở lại đây và ổn định có phải tốt hơn không? Tiết kiệm chút tiền, kiếm thêm kinh nghiệm, sau đó hãy quyết định xem các anh chị muốn làm gì”.” Những lời đó khá quen thuộc, đó chính là những điều bố mẹ Mẫn luôn nhắc nhở cô. “Nhưng nó trái ngược với những gì cô đã làm,” tôi nói. “Đúng thế.” Cô gật đầu và mỉm cười. “Nó trái hẳn với những gì em tin tưởng.” “Chị chưa bao giờ nghe thấy em nói kiểu cường điệu như vậy cả!” Hoàng Kiều Nga nói. “Đây là trách nhiệm của em,” Mẫn phòng thủ. “Chị cũng làm thế nếu chị ở địa vị của em thôi.” Mặc dù cuộc đối thoại có vẻ cợt nhả thoải mái, nhưng vẫn có giới hạn của nó. Hai cô gái từng là bạn và bình đẳng với nhau, nhưng giờ Mẫn làm việc trong văn phòng, cao hơn hẳn những công nhân làm ở dây chuyền lắp ráp như Hoàng Kiều Nga. Mẫn đi ra cái sạp bên cạnh mua mấy bát mì cho bữa tối. “Nếu không phải vì Mẫn, em còn lâu mới đến chỗ này,” Hoàng Kiều Nga thổ lộ sau khi Mẫn đi khỏi. Hai ngày trước, cô đã đến thăm nhà máy và thấy không thích điều kiện ở đây rồi. Từ đầu đáng lẽ ra cô đã chuyển tới ngày hôm qua, nhưng cô do dự; cuối cùng hôm nay cô rời khỏi nhà máy cũ, không xin phép ai mà cũng không lấy lại hai tháng tiền lương. Có nhiều cách để nghỉ việc ở một nhà máy. Một công nhân có thể nghỉ việc với sự đồng ý của ông chủ và nhận lại toàn bộ số tiền giữ chân. Cô ta có thể tạm nghỉ một thời gian, cách này đảm bảo cho cô một vị trí khi quay lại. Vài công nhân xin nghỉ việc đã đàm phán với những người chủ thuê mình để nhận lấy một phần số tiền vốn là của họ. Nhưng không gì tệ hơn kuangli (cuồng ly) - dịch theo nghĩa đen: “muốn nghỉ việc đến phát cuồng lên” - chính xác đó là việc Hoàng Kiều Nga vừa mới làm xong. Tôi hỏi Kiều Nga xem cô định ở lại đây bao lâu. “Để xem đã,” cô nói. “Em đang thử họ và họ cũng đang thử lại em.” Mẫn trở lại bàn. “Nếu chị làm tốt, chị sẽ được thăng tiến.” Cô nói thêm, nhưng vẫn đầy vẻ đề phòng, “Lương của bọn em cũng không cao lắm đâu: tám trăm đồng. Nếu chị làm thêm giờ, có khi còn được hơn em ấy chứ.” “Nhưng chị sẽ mệt đến chết mất!” Hoàng Kiều Nga nói. “Có nhiều kiểu mệt lắm,” Mẫn nói. “Làm công việc này, cả thân xác lẫn tinh thần em đều mệt mỏi cả.” Cô đang dần nâng cao vị thế của mình. Trách nhiệm mới của cô bao gồm cả rót trà cho khách đến thăm, và cô đã đăng ký vào một lớp học tiếng Anh hằng tuần dành cho các quản lý của nhà máy. “Chị có biết “pardon” nghĩa là gì không?” Mẫn hỏi Hoàng Kiều Nga một từ tiếng Anh. Cô có vẻ hơi thất vọng khi bạn mình nói “có”. HOÀNG KIỀU NGA PHẢI thúc giục mãi Mẫn mới chịu nói ra tin tức còn lại. Một anh chàng ở quê mới lên Đông Quản làm công nhân dây chuyền lắp ráp. Anh chàng này và Mẫn từng hẹn hò với nhau một thời gian ngắn hồi học cấp II, nhưng đã ba năm rồi cô chưa gặp anh ta lần nào. Mới tuần trước, anh ta đến đây thăm cô. “Giữa hai chúng em vẫn còn tình cảm,” cô tuyên bố. Rồi ngay sau đó - “nhưng anh ta lùn lắm: có mỗi 1 mét 65.” Cô tiếp tục đi vào chi tiết: “Anh ta hút thuốc, uống rượu và đánh nhau. Hoàn cảnh gia đình cũng không được tốt lắm. Anh ta có một bà mẹ kế.” “Gia đình anh ta làm gì?” Tôi hỏi. “Em không biết,” cô đáp. “Em không muốn biết. Đến cuối cùng, chúng ta vẫn phải dựa vào chính bản thân mình thôi.” Hai người bọn họ đã ở với nhau cả ngày. Lúc ăn cơm trưa, Mẫn rót trà cho anh chàng bạn trai cũ trong khi anh ta cứ nhìn chằm chằm vào cái ti vi gắn đâu đó phía trên đầu cô. Trong các nhà hàng rẻ tiền ở Trung Quốc, lúc nào cũng có một cái ti vi bật to hết cỡ, ánh mắt của khách và cả đám nhân viên thường xuyên gắn chặt vào cái màn hình. “Tại sao chúng ta không nói chuyện?” Mẫn căn vặn anh chàng kia. “Tại sao anh cứ nhìn vào cái ti vi thế?” Sau khi anh bạn trai cũ về, Mẫn nhắn tin vào điện thoại di động của anh ta. Anh cảm thấy một ngày ở bên nhau của chúng ta thế nào?” Anh thấy rất áp lực, anh ta nhắn lại. Cảm giác của anh rất phức tạp. Đêm qua họ vừa mới nói chuyện điện thoại với nhau. Mẫn đi thẳng vào vấn đề: “Anh nghĩ chúng ta có tương lai không?” Anh chàng bạn trai nói cần ba ngày để suy nghĩ về điều đó. “Vậy là em sẽ có câu trả lời trong hai ngày nữa,” cô nói. “Anh ấy trả lời thế nào em cũng chấp nhận được.” Nói vậy nhưng cô đã xoay tròn giấc mơ của mình xung quanh chàng trai đã được đào tạo làm đầu bếp kia rồi. “Chúng em có thể về quê mở một nhà hàng nhỏ,” cô nói. “Tha phương cầu thực thế này chẳng có tương lai gì hết.” “Cô có muốn kết hôn không?” Tôi hỏi. Cả cuộc nói chuyện này đã khiến tôi lấy làm ngạc nhiên. “Đó không phải là vấn đề,” cô nói một cách thiếu kiên nhẫn. “Em đã mười tám tuổi. Em không muốn phí hoài thời gian của mình. Nếu anh ta không nghiêm túc với em, em muốn anh ta nói với mình ngay bây giờ.” CUỐI CÙNG, mọi việc đều đã quyết định đối với Mẫn. Ba ngày sau cuộc nói chuyện với bạn trai cũ, cô nhận được một tin nhắn qua điện thoại di động lúc bảy giờ sáng: anh ở truớc cổng nhà máy. Cô không tin và đã chạy xuống cầu thang để xem. Anh chàng kia vừa hết ca đêm là bắt xe buýt thẳng tới nhà máy của cô. Mẫn phải làm việc, vì vậy anh chàng kia đợi bên ngoài từ tám giờ sáng đến trưa. Hai người cùng ăn bữa trưa, sau đó anh ta trở về và Mẫn quay vào làm việc. “Anh ấy có nói hai người có tương lai gì không?” Tôi hỏi. “Không,” Mẫn nói. “Nhưng vì anh ấy đã đến, nên em biết.” Cô vừa mới bắt xe buýt - ngồi hai tiếng đồng hồ - để ở bên anh chàng kia cả buổi chiều. “Anh ấy không cao, anh ấy không đẹp trai, anh ấy không có tiền, công việc của anh ấy cũng không tốt,” Mẫn nói. Tôi đợi một lời gì đó tiếp theo một tràng những khuyết điểm ấy. “Nhưng cô thích anh ta,” tôi chốt lại. Mẫn không nói gì, nhưng cô mỉm cười. Giờ anh chàng đang rời khỏi Đông Quản vì bố anh ta muốn con trai mình làm việc gần nhà hơn. Mẫn vừa mới nhìn thấy một viễn cảnh ổn định thì anh ta cũng biến mất, nhưng cô không hề bối rối. “Chúng em vẫn liên lạc bằng di động,” cô nói. Cả cô cũng không ở nguyên một chỗ. Cuối tháng đó, sếp đồng ý cho cô đi khỏi nhà máy và trả lại hai tháng tiền lương. Mẫn lại ra chợ việc làm lần nữa. Cô đã làm trong bộ phận nhân sự của nhà máy được chính xác hai mươi tư ngày, và dựa trên đó, cô có thể tạo dựng một sự nghiệp mới. *** Trong một thành phố không có sự khoan thứ, chợ việc làm Đông Quản là nơi tàn khốc nhất. Với mười nhân dân tệ, tức là khoảng 1,25 đô la, bất cứ ai cũng có thể vào và phỏng vấn cho hàng trăm công việc được đề nghị tại quầy của các công ty ở bên trong. Nhưng để vào trong, người ta cần đến dũng khí - để nói chuyện với người lạ, để bán chính bản thân mình, để đối mặt với sự từ chối khi mọi người xung quanh đều nghe thấy. Mẫn ghét chợ việc làm vì nó khiến cô có cảm giác “có thể thay thế được”. Danh sách công việc kéo lùi con người xuống chỉ còn những đặc điểm cần thiết cho công việc ấy, và hiếm khi những thành tố cần thiết này cần đến hơn hai mươi từ: TIẾP TÂN, GIỌNG DỄ NGHE, NGOẠI HÌNH ĐẸP VÀ NGĂN NẮP. BIẾT DÙNG PHẦN MỀM VĂN PHÒNG VÀ TIẾNG QUẢNG. CÔNG NHÂN TIỆN. 18 ĐẾN 20 TUỔI, NAM, CÓ KINH NGHIỆM LÀM Ở NHÀ MÁY NƯỚC NGOÀI. KHÔNG CẬN THỊ. DA KHÔNG MẪN CẢM. CHUYÊN VIÊN BÁN HÀNG. CÓ THỂ CHỊU KHÓ CHỊU KHỔ. TUYỂN CẢ NAM NỮ HỘ KHẨU NÔNG THÔN. CHỈ KHÔNG TRẺ EM. Trong một ngày thứ Bảy đông đúc, chợ việc làm lớn nhất Đông Quản có thể hiện diện tới bảy mươi nghìn khách. Giữa buổi sáng, tất cả những người này sẽ kẹt cứng trong một đống hỗn độn phùng phình, khiến cho việc di chuyển trong ấy trở nên bất khả; chốc chốc, lại có một nhóm người tách ra và tràn vào một quầy nào đó, mặc dù chẳng thể xác định được rằng điều gì đã khiến một công việc đột nhiên có giá hơn mọi cái khác. Những quầy được chuộng nhất có poster được sơn xịt, thường là những công trình dài không cửa sổ nền láng xi măng; một quầy đơn giản thì chỉ có một người, đàn ông hoặc phụ nữ cầm một tập bìa kẹp hồ sơ. Chợ việc làm chiếm trọn cả một khối phố[14], kín cả một tòa nhà bốn tầng đã một thời dùng làm quán karaoke và sân bowling. Sau khi chuyển sang kinh doanh tương lai con người, người ta mới thấy hóa ra nó còn sinh lời nhiều hơn kinh doanh giải trí. THƯ KÝ. 18 ĐẾN 25 TUỔI, CAO 1 MÉT 55 TRỞ LÊN. NGOẠI HÌNH CÂN ĐỐI. BẢO VỆ. 20 ĐẾN 26 TUỔl, CAO 1 MÉT 72 TRỞ LÊN. Luật ở đây là phân biệt đối xử. Các ông chủ thích thư ký của mình là nữ, xinh xắn và còn độc thân, họ chỉ để ý đến đàn ông trong các công việc kỹ thuật nhất định. Một nhà máy có thể cấm cửa những người quê ở Hồ Nam, nhà máy khác có thể từ chối tiếp nhận bất cứ người nào đến từ An Huy. Đôi khi cả gia cảnh một ứng viên nào đó cũng trở thành một yếu tố cần khảo sát, vì người ta tin rằng những người có anh chị em có vẻ sẽ chiku nailao (ngật khổ nại lao) - chịu khó chịu khổ, giỏi hơn con một. Thấp hơn 1 mét 60 thì đảm bảo là bạn sẽ có một ngày bực bội ở chợ việc làm. Chiều cao là một nỗi ám ảnh chung của người Trung Quốc. Ở một đất nước đã trải qua thời kỳ thiếu thốn và thậm chí là cả đói khát trong ký ức những người đang sống, chiều cao là biểu hiện của may mắn, và có chức năng như một đại diện của tầng lớp: ở bất cứ công trình xây dựng nào, cả đội quân công nhân - nông dân đều thấp hơn những người thành phố chủ nhân của ngôi nhà họ đang xây dựng. Đội quân lao động chân tay ở miền Tây có thể đông hơn dân cổ cồn trắng, nhưng ở Trung Quốc, phía kia mới có giá trị - những người có giáo dục có thể nhìn xuống các tầng lớp thấp hơn theo đúng nghĩa đen. Đối với phụ nữ, yêu cầu về chiều cao gắn liền với những ngành kinh doanh hấp dẫn quyến rũ hơn. “Em chỉ cần cao hơn mười xăngtimét nữa thôi,” một cô gái trẻ làm việc trong tiệm cắt tóc có lần từng nói với tôi, “thì em đã đi bán ô tô được rồi.” Tuổi tác cũng là một trở ngại khác - ở chợ việc làm, điều đó có nghĩa với bất cứ ai quá ba mươi lăm tuổi sẽ bị giới hạn ở rất nhiều vị trí công việc. “Những người trên ba lăm tuổi kém suy nghĩ và cả nỗ lực nữa,” một quản lý nhà máy giải thích trên tờ báo quảng cáo được công ty điều hành hoạt động khu chợ này xuất bản. Tờ báo ấy cũng đưa ra lời khuyên cho vấn đề thuộc về nhân khẩu học này: “Đừng bao giờ nói về kinh nghiệm trong quá khứ của bạn. Phải luôn có tâm lý bắt đầu từ con số không.” Nhìn theo hướng ngược lại, giới hạn tuổi tác là bằng chứng của khả năng tiến lên trên nấc thang sự nghiệp. Trong quầy tuyển dụng của một công ty sản xuất tấm ván đầu giường, danh sách công việc và tuổi tác tương ứng có vẻ như là một thời gian biểu thăng cấp vậy: KẾ TOÁN THANH TOÁN: 25 TRƯỞNG PHÒNG MARKETING: 30 PHÓ GIÁM ĐỐC SẢN XUẤT: 35 Những công việc tuyển nhiều nhất là thư ký, tiếp tân, nhân viên bán hàng, bảo vệ và đầu bếp, ngoài ra nhu cầu tuyển nhân viên thiết kế khuôn và sửa máy móc cũng rất cao. Một công ty đang tìm người “có kỹ năng vận hành các máy móc của hãng Mitsubishi và Fujitsu”. Các chức danh công việc khá đặc trưng và đôi khi gây bối rối: THU THẬP MẪU. CÔNG NHÂN ĐÍNH. THỢ HÀN BÌNH ÁP SUẤT. Ở đây sức mạnh công nghiệp của nước Trung Quốc hiện đại bị đập tan thành từng mảnh nhỏ, các mảnh ấy chính là con người. Những cuộc phỏng vấn ở chợ việc là ra thường ngắn và thẳng thắn đến độ khốc liệt. Người tuyển dụng không làm bộ làm tịch rằng công việc giống như thứ gì đó để mà viết thư về nhà kể, ứng viên thoải mái thú nhận sự ngù ngờ của minh. Hiếm có cuộc phỏng vấn nào kéo dài hơn năm phút. Việc tuyển dụng thường xong xuôi ngay tại chỗ, cũng chẳng ai buồn đi kiểm tra lý lịch làm gì cả. Ở quầy của nhà máy sản xuất khuôn Hồng Phong, một cô gái trẻ ngồi xuống. “Lương chỗ chúng tôi không được cao lắm,” người tuyển mộ nói ngay tức khắc. Sau đó là: “Cô đã làm việc với máy tính bao giờ chưa?” “Rồi, tôi học sử dụng máy tính ở trường.” “Ừm, chúng tôi chỉ trả được sáu trăm.” Ở một quầy khác, một phụ nữ khác: “Cô có thể làm gì?” “Tôi liên lạc với khách hàng, hầu hết là qua email, nếu họ đến văn phòng, tôi có thể tiếp đãi họ. Nếu công việc đòi hỏi chuyên môn nhiều hơn, thì tôi chẳng biết gì hơn cả.” Cô có thể làm gì? Ở hầu hết các thành phố trên đất Trung Quốc, những nơi mà yêu cầu để tìm một công việc là bằng đại học, tiền và các mối quan hệ, đó là một câu hỏi hiếm khi được đặt ra. Ở chợ việc làm Đông Quản, bạn sẽ không bao giờ nghe thấy: Anh,cô học ở trường nào? Anh,cô biết ai? Hay ít nhất là, Quê anh,cô có ở gần đây không? Lúc nào cũng chỉ là: Anh,cô có thể làm gì? Có biết sử dụng máy tính không? Có biết tiếng Anh không? Danh sách công việc, thường được viết tay trên những tấm thẻ in sẵn, thường là điền lung tung bừa bãi vào các ô có sẵn. Ở chỗ đáng lẽ phải điền địa chỉ, người sử dụng lao động thường xác định giới tính của nhân viên mà mình muốn tuyển, thay vì điền nghề nghiệp chuyên môn, một công ty có thể đưa yêu cầu chiều cao vào chỗ đó. Không phải ai đến chợ việc làm cũng dám đi vào bên trong. Một đám đông tập trung trên vỉa hè trước một tấm bảng điện tử khổng lồ thông báo tìm việc, như thể người ta đã được định sẵn chỉ có thể mơ ước về một miền đất hứa mà họ không bao giờ đặt chân vào. Danh sách công việc chuyển động liên tục từ dưới lên trên, giống kiểu bảng giá chứng khoán, và đám đông nhìn chằm chằm như bị thôi miên. *** Đến chợ việc làm lần thứ hai, Mẫn biết chính xác cần làm gì. Cô đặt mục tiêu cao, chỉ tiếp cận những công ty có công việc ở bộ phận nhân sự. “Thư ký là một vị trí rất thấp trong công ty, vì vậy tôi không tìm việc đó nữa.” Trong các cuộc phỏng vấn, cô hỏi về tốc độ thay thế công nhân và quy mô công ty, cô đang tìm một nhà máy nhỏ hơn, có nghĩa là ít cấp trên phải làm vừa lòng hơn. Cô né tránh những câu hỏi lý do tại sao cô lại bỏ công việc cũ. Đó là chuyện cá nhân, Mẫn đáp, rằng tốt hơn là không nói chuyện đó. Và lần này, cô không còn thành thực hơn những người khác nữa. Ở quầy tuyển dụng của nhà máy cao su Thẩm Tinh, cô nói với người tuyển dụng rằng mình đã làm trong bộ phận nhân sự được một năm. “Nếu chị nói ít hơn,” cô giải thích với tôi sau đó, “họ sẽ nghĩ chị không đủ kinh nghiệm.” Cô được nhận với mức lương cao hơn lương người mà cô thay thế sáu đô la một tháng. Mẫn bắt đầu làm việc ở bộ phận nhân sự của công ty ấy hai ngày sau đó, công ty này sản xuất các thành phần bằng cao su cho điện thoại di động và bàn phím máy tính.. Ngày làm việc của cô kéo dài tám giờ, nghỉ ngày Chủ nhật. Các nhân viên ở cấp độ cô ngủ bốn người một phòng tập thể, trong phòng có buồng tắm riêng và điện thoại. Cô kiếm được tám trăm nhân dân tệ một tháng, bao ăn bao ở - giống như công việc trước, kèm cơ hội thăng tiến nếu cô làm tốt. Công việc mới của Mẫn là theo dõi các ghi chép về người lao động, biểu hiện, sai phạm và lương lậu của bốn trăm công nhân nhà máy. Cô đã từng giám sát máy móc, giờ thì cô chịu trách nhiệm ấy với con người, và có vẻ như đó là một công việc phù hợp hơn. Mỗi khi các công nhân đi tới cửa nhà máy, cô lại chặn họ lại để tuyển dụng. Anh,chị có chứng minh thư không? Anh,chị có kế hoạch ở lại bao lâu? Cám ơn, cô đáp lại những người không trả lời đúng ý mình. Chúng tôi chưa tuyển người ngay lúc này. Ngày mùng mười hằng tháng, bà vợ người Đài Loan của ông chủ nhà máy lại đến để trả lương cho công nhân và cầu Phật phù hộ. Mẫn sẽ theo bà chủ đi vòng quanh nhà máy - đến nhà ăn, cổng trước, và cùng chiếc máy nguy hiểm - hai người họ sẽ cầu Phật bảo vệ cho các công nhân và khiến công việc làm ăn thêm hưng vượng. Mẫn sẽ lặng lẽ cầu khấn cho gia đình và bạn bè cũng như ông bà đã sang thế giới bên kia của mình, nhưng cô không nói điều ấy với bà chủ. Cô dần tiến bộ trong công tác chính trị văn phòng. Không lâu sau khi vào làm, ông chủ lớn gọi Mẫn đến văn phòng của ông ta. Người ở vị trí cô trước đây, ông ta bảo, nói rất nhiều và đã gây lỗi. “Cô không thích nói quá nhiều,” ông ta khen ngợi. “Không ạ,” cô đồng ý. Ông chủ mỉm cười. “Khi nào cô cần phải nói,” ông ta lên tiếng, “cô nên nói. Nếu cô không được phép nói, thì đừng nói.” Đó là quy tắc bí mật để tồn tại trong các công sở Trung Quốc, nhưng chưa từng một ai chia sẻ nó với Mẫn cả. Lần này cô đã đối phó với cha mẹ mình một cách thành thục hơn. Cô không kể với họ rằng mình đã nghỉ việc. Thay vào đó, cô tìm một việc khác, gửi về nhà 120 đô la, sau đó gọi điện báo tin cho họ; cú chuyển tiền mặt là một đòn phủ đầu khiến họ sững sờ trong im lặng. “Họ không biết mọi việc bên ngoài diễn ra thế nào hết,” Mẫn kể với tôi. “Vì vậy tôi làm chuyện gì đó trước, rồi kể cho họ biết sau.” Mọi người cô biết đều thay đổi, nhiều người trong số họ cũng đang vươn lên cao. Chị gái Mẫn ở Thâm Quyến đã được đề bạt lên làm thư ký điều hành, anh họ cô giờ là một quản lý ở Quảng Châu. Hai người bạn ở nhà máy cũ của Mẫn đã chia tách. Lương Dung về quê kết hôn với ai đó mà cha mẹ cô đã chọn lựa. Hoàng Kiều Nga, người đã chuyển tới làm việc ở nhà máy của Mẫn, đã nghỉ việc cùng ngày với cô và chuyển sang làm thư ký phụ trách sản phẩm ở đâu đó trong thành phố. Và sếp cũ của Mẫn cũng trở về Đông Quản. Anh ta rời Bắc Kinh về đây để làm cho một nhà máy sản xuất bít tất của Đài Loan, nhưng Mẫn không chịu gặp anh. Các công nhân ở nhà máy cũ của cô nói anh ta có ý đồ lãng mạn với cô. Cô đọc lại tin nhắn cũ của anh ta - Anh trai đang nhớ em gái đây - và cho rằng tin đồn đó là sự thật. Xét cho cùng thì người trưởng thành duy nhất đã tử tế với cô cũng không đáng tin cậy nốt. Các nhà máy nhỏ cũng có vấn đề của riêng chúng, Mẫn đã nhanh chóng nhận ra những vấn đề ấy là gì. Nơi làm việc rất lộn xộn vô tổ chức, trách nhiệm của cô không bao giờ được làm rõ; cô phải hết sức vất vả để theo kịp tất cả nhũng nhiệm vụ ném lên đầu mình. Giống như người cũ, ông chủ mới của cô lúc nào cũng bấp bênh và có ý thức rất rõ rệt về địa vị. Mẫn tìm hiểu được rằng có rất nhiều người đàn ông Trung Quốc mắc khiếm khuyết này. Ông ta không thích cái kiểu Mẫn không xin phép ông ta trước khi làm bất cứ việc gì. Ông ta không thích việc Mẫn cư xử thân thiện với đám bảo vệ. Ông ta phản ứng lại bằng cách bắt đầu phỏng vấn các ứng viên vào vị trí của Mẫn - một đồng nghiệp, một đối thủ cạnh tranh hay một kẻ sẽ thay thế Mẫn. Tháng Tám năm 2004, hai tháng sau khi đến làm việc tại công ty này, Mẫn nhận tiền lương và ra đi mà không nói với bất cứ người nào. Một đồng nghiệp cũ đã vào làm ở một nhà máy tại Thâm Quyến mời cô đến đó làm với anh ta, thế là cô quyết định đi. Cô ngủ qua đêm trong một khách sạn gần nhà máy; khi đang ngủ, kẻ trộm đã phá khóa và lấy đi chín trăm nhân dân tệ cùng chiếc điện thoại di động của Mẫn, nơi duy nhất cô lưu giữ số điện thoại của mọi người cô quen biết trong thành phố này; người đồng nghiệp cũ, mối liên hệ duy nhất với công việc mới, những bạn bè cô đã có từ khi rời khỏi quê hương lên thành phố, và cả người bạn trai ở quê nữa. *** Chiếc điện thoại di động là khoản chi mua sắm lớn đầu tiên của hầu hết dân di trú. Không có điện thoại, gần như là không thể giữ liên lạc với bạn bè hay tìm một công việc mới. Thư từ giữa các nhà máy thường xuyên bị thất lạc, và gọi điện cho một công nhân qua số của nhà tập thể, nơi mà có thể có tới một trăm con người dùng chung một cái điện thoại cố định ngoài hành lang, là rất khó khăn. Điện thoại ở văn phòng trong nhà máy thường được lập trình sẵn để không cho thực hiện cuộc gọi ra bên ngoài hoặc tự động ngắt sau vài phút. Mà dù sao chăng nữa, người ta nhảy việc quá thường xuyên nên số điện thoại nhà tập thể và văn phòng đều nhanh chóng trở nên lỗi thời. Trong thế giới của những chuyển động vĩnh hằng này, chiếc điện thoại di động chính là kim chỉ nam, thứ ghim giữ một con người ở một nơi nào đó. Tôi đã hiểu được tất cả những điều này một cách khá đau đớn. Trong những ngày đầu tiên ở Đông Quản, tôi làm bạn với rất nhiều người mới đến, những người chưa có điện thoại di động, rồi tôi đánh mất liên lạc với họ, hết người này lại đến người khác. Khi gặp Mẫn, tôi quyết định mua cho cô một cái máy nhắn tin, nhưng dịch vụ đó đã bất ngờ tan biến từ mấy năm trước, nên người bán hàng ở tiệm đồ điện tử chỉ cười giễu tôi khi tôi nói mình muốn mua một cái. Vậy nên tôi cho Mẫn một chiếc điện thoại di động để khỏi mất luôn cả cô nữa. Trong thế giới của người di trú, chiếc điện thoại đi động là một ẩn dụ của nhịp sống đô thị không ngừng nghỉ. Một quản lý nhà máy giày đã tổng kết lại sự thiếu kết nối với thế giới xung quanh của người di trú như thế này: “Ở nhà họ chẳng có điện thoại gì hết, và rồi đột nhiên họ ở đây và nó là Nokia 6805.” Để mô tả lại cuộc sống ở nông thôn, một phụ nữ trẻ bán bảo hiểm nói với tôi rằng, “Ở nhà họ chuyền tay nhau một chiếc di động.” Người ta nói về mình bằng những thuật ngữ dùng cho điện thoại di động: Mình cần sạc. Mình đang tự nâng cấp. Các ông bố bà mẹ của những cô gái di trú xa quê hương không tin tưởng vào điện thoại di động một cách bản năng, một số người còn cấm con gái mình mua một chiếc. Điện thoại di động, thiết bị cho phép và thậm chí còn cổ súy liên lạc bí mật với người lạ, là tất cả mọi thứ, trừ cuộc sống ở cộng đồng làng quê. Một cô gái có thể đánh tín hiệu tình cảm của mình với một chàng trai trẻ bằng cách đề nghị trả hóa đơn điện thoại di động của anh ta. Các cặp đôi tuyên bố tình cảm chung thủy của mình bằng cách dùng chung một điện thoại, mặc dù thi thoảng những mối quan hệ này đã tan vỡ khi một người lén đọc tin nhắn gửi riêng cho người kia. Những người di trú mà tôi biết tốn rất nhiều thời gian để chăm sóc cho những chiếc điện thoại của mình - họ đổi số liên tục để được hưởng dụng những gói cước rẻ hơn, và đổi thẻ điện thoại khi đến một thành phố khác để tiết kiệm phí chuyển đổi cuộc gọi. Đó là tâm lý ngắn hạn ở Đông Quản này: tiết kiệm vài xu lẻ vẫn tốt hơn, thậm chí việc đó có làm mất liên lạc với một số người. Công nhân di trú là lý do chính để thị trường điện thoại di động Trung Quốc trở thành thị trường lớn nhất thế giới, nhưng cảm giác của những người làm trong ngành này đối với họ lại rất phức tạp, một người bạn làm trong ngành công nghiệp viễn thông của tôi cho biết: có vẻ như họ [các công ty viễn thông] hạ giá cước là vì họ [người dùng] chỉ muốn trả tiền cho dịch vụ nào rẻ nhất. Văn hóa đại chúng cũng bị ảnh hưởng tiêu cực: tôi cũng được nghe người ta nhận xét rằng, chất lượng nhạc pop Trung Quốc tệ hơn trong vài năm trở lại đây, bởi dân di trú thường chọn những bài hát ít phức tạp nhất làm nhạc chuông cho những chiếc điện thoại của họ. Có hàng trăm nhà máy ở Đông Quản sản xuất linh kiện điện thoại di động, dường như mọi đại lý cấp ba trong thành phố này đều là cửa hàng bán điện thoại di động. Thành phố này cũng là một vùng thịnh vượng của ngành kinh doanh điện thoại ăn cắp. Một số quận nổi tiếng vì tỷ lệ trộm cướp điện thoại di động quá cao, một trong những chiêu được sử dụng là phóng xe máy lao nhanh trên vỉa hè và giật điện thoại khỏi tai người đi bộ, khi họ đang dở câu chuyện. Những chiếc điện thoại bị đánh cắp được thay vỏ khác và bán như đồ mới. Gia công, bán, ăn cắp, đóng gói lại và bán lại, chiếc điện thoại di động tựa hồ như một nguồn tài nguyên có thể làm mới vô tận giữa lòng nền kinh tế Đông Quản. Điện thoại di động đồng thời cũng là sợi dây liên kết Mẫn với thành phố này. Cùng với chiếc điện thoại bị mất cắp, quan hệ bạn bè một năm rưỡi của cô cũng biến mất như thể chúng chưa bao giờ từng tồn tại. Cô lại đơn độc một lần nữa. 5. Những cô gái công xiềng Cần đến hai trăm đôi bàn tay để tạo ra một chiếc giày chạy. Mọi thứ bắt đầu với một người gọi là thợ cắt, người này sẽ dập một mảnh vải lưới thành những hình cong khác nhau, giống như bức tranh ghép của trẻ con. Tiếp đó là thợ may. Họ khâu những mảnh đó thành phần trên của chiếc giày, gắn vào những thứ khác - một logo nhựa, lỗ xỏ dây giày - lần lượt. Sau đó, công nhân đế sẽ dùng lò hồng ngoại làm nóng các phần của đế giày rồi gắn lại bằng keo. Thợ ghép, thường là nam giới, vì công việc này đòi hỏi sức mạnh nhiều hơn - sẽ căng phần trên của chiếc giày vào một cái khuôn nhựa, gọi là cốt giày, một thứ trông như bàn chân người. Họ buộc chặt phần trên, quét keo lên đế giày, rồi ép phần trên và đế giày với nhau. Một chiếc máy sẽ đè lên một lực khoảng bốn lăm ki lô gam lên mỗi chiếc giày. Người thợ sửa sang cuối cùng gỡ cốt giày ra, kiểm tra từng chiếc giày một xem có lỗi gì không, sau đó đặt từng đôi vào hộp carton. Các hộp này được đặt vào thùng gỗ, mười hộp một thùng, và chuyển đi khắp thế giới trong vòng ba ngày. Trên lưỡi mỗi chiếc giày đều có một cái nhãn đề: MADE IN CHINA (Sản xuất tại Trung Quốc). Nếu bạn đi giày thể thao, rất có thể bạn đã từng đi một đôi giày được sản xuất ở nhà máy Dụ Nguyên (Yue Yuen) ở Đông Quản. Nhà máy của gia tộc người Đài Loan này là nhà gia công lớn nhất cho các hãng Nike, Adidas và Reebok, cả các hãng nhỏ hơn như Puma và Asics. Tất cả các hãng này đã ngừng sản xuất giày từ nhiều năm về trước và quẳng việc sản xuất này cho các nhà máy bên ngoài có thể làm với giá rẻ hơn nhiều. Bí mật của nhà máy Dụ Nguyên là sự tích hợp theo chiều dọc: nhà máy kiểm soát mọi bước của quá trình gia công sản xuất - từ thiết kế ban đầu cho tới sản xuất keo, đế giày, khuôn, cốt giày cho đến cắt, may, và ghép các sản phẩm đã hoàn thành lại với nhau. Một phần ba số lượng giày - trên thế giới được sản xuất ở tỉnh Quảng Đông; cơ sở sản xuất của Dụ Nguyên là lớn nhất ở đây. Bảy mươi nghìn con người làm việc tại nhà máy ở Đông Quản của Dụ Nguyên. Hãy thử hình dung rằng toàn bộ dân số của Santa Fe, bang New Mexico ở Mỹ, đều ở độ tuổi dưới ba mươi và đều liên quan đến việc sản xuất giày thể thao mà xem. Bên trong bức tường gạch của tổ hợp nhà máy, các công nhân ngủ trong khu tập thể, ăn ở nhà ăn tập thể và mua sắm ở cửa hàng bên trong nhà máy. Dụ Nguyên có một vườn trẻ cho con cái công nhân viên và một bệnh viện có đội ngũ y bác sĩ nhân viên y tế lên tới 150 người; nó còn có một rạp chiếu phim và một đoàn nghệ thuật biểu diễn, các hoạt động tình nguyện và cả lớp dạy tiếng Anh. Nhà máy tự điều hành nhà máy điện và bộ phận cứu hỏa của riêng mình. Đôi khi chính quyền thành phố Đông Quản còn mượn xe thang cứu hỏa của Dụ Nguyên, chiếc cao nhất trong vùng, để đi dập lửa. Dụ Nguyên có nước đóng chai do chính nhà máy sản xuất. Những người dân địa phương sẽ kể với bạn rằng nhà máy này còn tự trồng trọt thực phẩm, nhưng điều đó không đúng mà chỉ là nhà máy có ký hợp đồng với nông dân trong vùng để đảm bảo nguồn thực phẩm cho mình. Không gì ngoại trừ ngày tận thế có thể cản trở nguồn cung cấp cho thế giới cái mà những người làm trong ngành công nghiệp này gọi là “giày thể thao hàng hiệu”. Đối với những người di trú trẻ, Dụ Nguyên tạo ra sự ổn định. Lương công nhân làm việc ở dây chuyền lắp ráp chỉ ở mức trung bình - khoảng bảy mươi hai đô la một tháng sau khi đã khấu trừ các khoản, bằng với mức lương thấp nhất của thành phố - nhưng nó được trả đều đặn hằng tháng và đúng kỳ hạn. Công việc giới hạn trong mười một tiếng một ngày và sáu mươi tiếng một tuần, nghỉ ngày Chủ nhật, một trường hợp hiếm hoi trong ngành công nghiệp chẳng thiếu gì chuyện công nhân phải làm việc qua đêm này. Công nhân nhà máy Dụ Nguyên ngủ mười người một phòng trên giường sắt, thế là quá tốt so với mức trung bình. Các cô gái trẻ thường phải trả một trăm nhân dân tệ cho người trung gian để kiếm được một việc làm ở đây, đàn ông thì phải gấp vài lần như thế. Tám mươi phần trăm công nhân ở Dụ Nguyên là phụ nữ, hầu hết ở độ tuổi từ mười tám đến hai mươi lăm. Một người di trú làm việc ở Dụ Nguyên có thể sẽ không bao giờ làm việc ở nơi nào khác nữa. Sau một số năm, cô ta có thể nghỉ việc và trở về quê - để thăm một người họ hàng bị ốm hoặc làm lễ đính hôn, để nghỉ ngơi hoặc sinh con - rồi sau đó lại quay lại Dụ Nguyên. Công nhân có thể giới thiệu anh chị em hoặc họ hàng hay người cùng làng vào làm việc trong nhà máy, nhà máy khuyến khích điều này; lấy một ví dụ, mười thành viên của một đại gia đình đều làm việc trong nhà máy này. Tốc độ thay thế công nhân khá cao - năm phần trăm một tháng, có nghĩa rằng hơn một nửa lực lượng lao động thay đổi trong một năm - nhưng con số đó chưa tính đến rất nhiều công nhân nghỉ việc chỉ để rồi quay trở lại làm việc tiếp. Chu Ân Phương vào làm ở Dụ Nguyên năm 1991, khi cô mười bảy tuổi. Cô gặp chồng mình trong nhà máy, tạm nghỉ để sinh hai đứa con, đàm phán để được thăng tiến và giờ cô đã là giám đốc một nhà máy con quản lý 1.500 công nhân. “Tôi muốn làm việc ở đây cho tới khi về hưu,” cô nói với tôi như vậy. Chu Ân Phương mới ba mươi tuổi, nhưng trong giọng cô đã mang âm sắc khàn khàn của một người đàn bà đứng tuổi. Theo công nhân, tất cả các sếp ở Dụ Nguyên, đều có giọng khàn khàn khó nghe sau nhiều năm hét lên ra lệnh trong tiếng ầm ầm của máy móc. Thăng tiến là chuyện hoàn toàn có thể; nhu cầu sản xuất quá lớn, quá bức thiết đến nỗi Dụ Nguyên buộc phải thăng cấp ngay từ bên trong bộ máy của mình. Hầu hết các quản lý trong công ty, từ người giám sát một dây chuyền đơn lẻ cho đến lãnh đạo cả một xưởng sản xuất, đều là những người di trú đến từ các vùng nông thôn, những người bắt đầu tất cả từ dây chuyền sản xuất. Có cả một hệ thống cấp bậc cực kỳ phức tạp. Các quản lý được chia làm mười ba cấp bậc, từ tập sự cho đến giám đốc điều hành, họ có đặc điểm là gọi nhau bằng chức vị chứ không phải bằng tên. Có một quán ăn chỉ phục vụ riêng cho các trưởng dây chuyền sản xuất, trong khi một quán khác phục vụ các giám sát sản xuất, cao