🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Về Nô Lệ Ebooks Nhóm Zalo TỦ SÁCH TINH HOA TRI THỨC THẾ GIỚI F. A. Hayek ĐƯỜNG VỀ NÔ LỆ PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch ĐINH TUẤN MINH hiệu đính và giới thiệu Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com NHÀ XUẤTBẢN TRI THỨC ĐƯỜNG VỀ NÔ LỆ Friedrich Hayek Tên sách: Đường về nô lệ Tác giả: F.A. Hayek Dịch giả: Phạm Nguyên Trường Tủ sách Tinh Hoa Tri Thức Thế Giới Số trang: 440 trang Khổ sách: 12 x 20 cm Loại sách: bìa cứng Giá bìa: 94.000 VNĐ NXB Tri thức: 2009 Thực hiện ebook: tamchec Soát lỗi lần 2: thanhhaitq Ngày hoàn thành: 29/01/2016 Nguồn: http://tve-4u.org Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Mục lục Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Lời nhà xuất bản Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt Lời giới thiệu (nhân dịp năm mươi năm xuất bản) Ghi chú về lich sử xuất bản Lời tựa cho lần tái bản năm 1976 Lời tựa cho lần xuất bản bìa mềm năm 1956 Lời tựa cho lần xuất bản năm 1944 Dẫn nhập I. Con đường bị chối bỏ II. Giấc mơ địa đàng IlI. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể IV. Kế hoạch hóa là “tất yếu”? V. Kế hoạch hóa và dân chủ VI. Kế hoạch hóa và pháp trị VII. Kiểm soát kinh tế và chế độ toàn trị VIII. Ai là ai? IX. An toàn và Tự do X. Vì sao những kẻ xấu xa nhất lại leo cao nhất? XI. Sự cáo chung của chân lí XII. Cội nguồn tư tưởng của chủ nghĩa phát xít XIII. Những người toàn trị giữa chúng ta XIV. Điều kiện vật chất và mục đích lí tưởng XV. Triển vọng của trật tự thế giới XVI. Kết luận Sách tham khảo Lời bạt: Vấn đề tri thức trong "trật tự tự phát" của Hayek Môt số tài liêu tham khảo Lời nhà xuất bản Sau các cuốn Hayek, Cuộc đời và Sựnghiệp (Alan Ebenstein, NXB Tri thức,2007) và Chủ nghĩa tự do của Hayek (Giiles Dostaler, NXB Tri thức, 2008), là các tác phẩm của các học giả nổi Ɵếng giới thiệu diễn trình tư tưởng kinh tế của Hayek (1899 - 1992), chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một trong các công trình nghiên cứu quan trọng nhất của Hayek, công bố từ năm 1944, mang tựa đề Đường về nô lệ (The Road to Serfdom). Từ lần xuất bản đầu Ɵên cho tới nay, cuốn Đường về nô lệ luôn luôn được coi là tuyên ngôn chính trị của trường phái tân tự do, mà Hayek là chủ soái, làm hồi sinh và phát triển học thuyết kinh tế tự do (laiser-faire) của Adam Smith (1723 - 1790) đối lập với trường phái tân cổ điển do J. M. Keynes (1883 -1946) chủ trương sự can thiệp mạnh của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Cuốn sách này đã được coi là cẩm nang của nhiều nền kinh tế: Anh và Mỹ vào những năm 80 của thế kỷ trước dưới thời của Thatcher và Reagan; Nga và các nước Đông Âu với nền kinh tế chuyển đổi thời kỳ sau 1990, và Trung Quốc từ khi mở cửa 1978… Cuốn sách phản ánh đầy đủ tư duy kinh tế - xã hội phong phú và sâu sắc của tác giả, nhưng nhất quán trong thông điệp ngắn gọn: Bất cứ thể chế toàn trị nào (dù là Liên Xô cũ hay Đức Quốc xã..,) quốc hữu hóa tư liệu sản xuất xã hội và kế hoạch hóa tập trung sớm muộn đều dẫn đến sự nghèo khổ và bất bình đẳng mà Hayek gọi là Nô lệ. Thế nhưng “thời hoàng kim” của chủ nghĩa tân tự do hình như đã đến hồi choạng vạng khi các cuộc khủng hoảng tài chính lần lượt diễn ra trong hai thập kỷ vừa qua; mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra hiện nay, khởi đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính do đầu cơ bất động sản quá đáng ở Hoa Kỳ. Lại một lần nữa vị thế tư tưởng kinh tế của hai trường phái tân tự do và tân cổ điển có thể đảo ngược: giờ đây người ta lại chú ý nhiều hơn đến những lời cảnh báo của Keynes về sự thống trị của các quyền lực tài chính đối với chủ nghĩa tư bản, những quyền lực sùng bái tuyệt đối đồng tiền và khả năng sinh lời tài chính; như thể nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã trở thành “một thứ phẩm của các hoạt động trong sòng bạc”. Tuy vậy, việc nghiên cứu những tác gia kinh điển như Hayek vẫn luôn luôn là cần thiết và thú vị. Chúng tôi xin trân trọng lưu ý bạn đọc rằng đây là sách tham khảo, chủ yếu dành cho những người làm công tác nghiên cứu. Đối với các bạn đọc khác, chúng tôi nghĩ là nên đọc trước Lời giới thiệu tác phẩm của Đinh Tuấn Minh và Lời bạt của Lữ Phương để dễdàng nắm bắt ý tưởng của tác giả hơn với tinh thần phê phán cần thiết. NXB Tri thức Lời giới thiệu cho ấn bản tiếng Việt Việt Nam đã bắt đầu từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp được hơn hai thập kỷ. So sánh những kết quả đạt được giữa hai thời kỳ trước và sau khi đổi mới đã cho thấy rằng quyết định chuyển sang cơ chế thị trường của Việt Nam là quyết định hoàn toàn đúng đắn. Đời sống vật chất và Ɵnh thần của từng người dân không ngừng được cải thiện. Những vật dụng được xem như là xa xỉ thời kế hoạch hóa như xe máy, Ɵ vi, dầu gội đầu v.v… thì nay đã trở thành những vật dụng tối thiểu trong mỗi gia đình; trước kia người dân Việt Nam chỉ có thể biết được Ɵn tức thế giới qua hệ thống loa truyền thanh, thì ngày nay họ có thể Ơm hiểu mọi thứ qua Internet, truyền hình cáp, và thậm chí có thể đi hàng nghìn cây số đến tận nơi để quan sát. Tuy thế, những di chứng mà cơ chế này gây ra cho xã hội vẫn còn đó và đang gây nhức nhối cho xã hội. Đây không phải là nhận định được nói ra bởi những người dân thường hay các học giả; trên thực tế nó thường xuyên được những vị lãnh đạo cao cấp nhất của đất nước nhắc đến[1]. Nhưng cụ thể cơ chế kế hoạch hóa trước kia đã gây ra những căn bệnh xã hội gì cho hiện nay? Làm thế nào để khắc phục được chúng? Đấy quả thực là những câu hỏi hóc búa cho bất kỳ ai có trách nhiệm với xã hội. Cuốn sách Đường về nô lệ của F. A. Hayek, một trong những kinh tế gia và tư tưởng gia xuất sắc nhất của thế kỷ XX, có thể được xem như là cuốn “cẩm nang” hàng đầu để giải quyết những vấn nạn này cho xã hội Việt Nam hôm nay. Những khó khăn mà người Việt Nam chúng ta đã trải nghiệm trong thời kỳ kế hoạch hóa đã được Hayek nhìn thấy trước từ cách đây hơn 60 năm khi ông cảnh báo những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra cho nước Anh nếu đất nước này áp dụng cơ chế hoạch định tập trung[2] sau thế chiến II. Khi phương Ɵện sản xuất bị quốc hữu hóa, cơ chế giá cả bị xóa bỏ, và mọi thứ đều phải tuân theo những kế hoạch cứng nhắc do trung ương áp đặt xuống thì động lực sáng tạo của các cá nhân sẽ bị mai một, trí tuệ cá nhân sẽ không được khai thác, chi phí cho hệ thống quan liêu cồng kềnh ngày một phình to, nguồn lực sẽ bị phân bổ vào những lĩnh vực không hiệu quả, và hậu quả tất yếu là nền kinh tế của quốc gia sẽ bị suy yếu, đời sống của dân chúng bị sút kém, và bất mãn trong xã hội ngày càng gia tăng. Những gì nền kinh tế Việt Nam phải trải qua trong giai đoạn áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước khi đổi mới, chẳng hạn khan hiếm lương thực thực phẩm - điều khó có thể tưởng tượng được ở một đất nước được xem là vựa lúa của thế giới, có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho những Ɵên đoán của Hayek trên khía cạnh này. Nhưng kinh tế không phải là lĩnh vực duy nhất mà cơ chế kế hoạch hóa tập trung gây ra hệ quả xấu. Thực ra trong cuốn Đường về nô lệ, Hayek chỉ điểm qua các tác động thuần túy kinh tế của cơ chế này. Ông chỉ ra rằng trong cuộc sống không thể tách rời “động cơ kinh tế” ra khỏi các mục Ɵêu khác mà con người muốn hướng tới vì một khi chúng ta không có cơ hội đạt được mục Ɵêu kinh tế thì khó mà có thể đạt được các mục Ɵêu khác. Khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự Ơm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích riêng tư tất dẫn đến những tác động Ɵêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người, mặc dù sự thay đổi này diễn ra từ từ và gần như không thể nhận ra được. Kế hoạch hóa tập trung khiến cho người ta chỉ biết phục tùng, mất khả năng tư duy độc lập và phản biện, và có xu hướng thích sử dụng ngôn từ sáo rỗng rập khuôn; khiến cho người ta sợ chịu trách nhiệm cá nhân, kích thích lối sống ỷ lại, dựa dẫm vào người khác; khiến cho người ta mất động lực vươn lên và thay vào đó là tư duy bình quân chủ nghĩa; khiến cho người ta mất đi cảm giác phân biệt thiện - ác trong hành động, thay vào đó là các biện minh nhân danh cộng đồng hay sứ mệnh cao cả; kích thích người ta chạy theo lối sống xin xỏ, chạy chọt để hưởng đặc quyền đặc lợi, và quyền ban ơn huệ cho người khác, v.v… Có lẽ đa phần người Việt Nam đều nhận ra được những thái độ và lối sống như thế của chính họ trong thời gian trước đây và ở một mức độ nào đó, trong hiện tại. Nhiều người lờ mờ cảm thấy rằng đó là do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhưng cụ thể cơ chế đó tác động như thế nào theo những kênh dẫn nào thì ít người có thể hiểu được tường tận. Khi đọc tác phẩm này, chúng ta sẽ hiểu được tại sao chúng ta lại có thái độ và hành vi như vậy. Nó giúp chúng ta giải tỏa được rằng đấy không phải là do “bản ơnh xấu xí của người Việt Nam” như nhiều người đổ tại, mà là do nguyên nhân khách quan từ bên ngoài. Nó cho chúng ta niềm Ɵn rằng chúng ta có thể khắc phục được những thói hư tật xấu đó nếu như chúng ta có thể rời xa hẳn được cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nếu cuốn sách chỉ dừng lại ở việc phê phán những hậu quả tai hại của hệ thống kế hoạch hóa tập trung, những kết cục trái ngược hẳn với những mong muốn tốt đẹp ban đầu của những người thực tâm cổ vũ nó, thì chắc hẳn cuốn sách đã không thể nào có được tầm ảnh hưởng vượt thời gian và không gian đến như vậy; nó cũng khó có thể trở thành cuốn sách gối đầu giường của những nhà cải cách kinh tế khắp nơi trên thế giới, từ Anh, Mỹ, cho tới Đức và Nhật, từcác nước chuyển đổi ở Đông Âu cho tới các nước châu Mỹ LaƟn và các nước châu Á. Giá trị của cuốn sách thực chất lại nằm ở chỗ, thông qua phê phán nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bằng cách so sánh các nguyên lý của nó với các nguyên lý thị trường của nền kinh tế thị trường, Hayek đã gián Ɵếp làm nổi bật được thị trường là gì, đâu là những thứ thị trường có thể mang đến cho con người, và làm thế nào để con người có thể khai thác được thị trường một cách có hiệu quả. Ông đã giúp chúng ta hiểu được rằng thị trường, hay môi trường để mọi người trao đổi hàng hóa, không phải là chân không, là bất biến, mà là một tập các định chế xã hội do con người hình thành và ơch lũy từ bao đời. Nội dung của nó là các quy tắc, luật lệ, tập tục, hay chuẩn mực hình thức giúp con người xác định quyền sở hữu, trao đổi quyền sở hữu, và bảo vệ quyền sở hữu. Trên nền tảng những quy tắc này, con người được tự do sáng tạo, tự do theo đuổi mưu cầu hạnh phúc riêng của mình; nhờ đó con người có cơ hội mở rộng khả năng lựa chọn trong việc định đoạt số phận của mình, cơ hội khai thác được tốt nhất những của cải vật chất cũng như tri thức riêng biệt của mình, và quan trọng hơn cả, khuyến khích người ta dám dấn thân khám phá ra những chân trời tri thức mới. Và một khi chúng ta hiểu được rằng nội dung của thị trường là một tập hợp các quy tắc hình thức ràng buộc hành vi của mỗi con người chúng ta, những người thực tâm muốn đóng góp cho sự phát triển của xã hội, sẽ xác định được mục Ɵêu hành động của chúng ta là khám phá và chia sẻ các quy tắc mà chúng ta Ɵn rằng chúng hiệu quả hơn những quy tắc hiện hành. Bằng việc đối sánh giữa kế hoạch hóa tập trung và thị trường, Hayek đã giúp chúng ta hiểu đúng khái niệm kế hoạch, giúp chúng ta tránh được bối rối khi nói đến hoạch định hay kế hoạch hóa. Kế hoạch hóa đúng ra cần phải được hiểu là cách thức mà các chủ thể dùng để giải quyết các vấn đề mà họ phải đương đầu một cách hợp lý nhất, bằng năng lực viễn kiến mà họ có thể kiểm soát được. Theo nghĩa đó các cá nhân sẽ phải tự lo liệu hay hoạch định cho cuộc sống của chính mình, và chính phủ chỉ nên giới hạn công việc hoạch định của mình vào việc “thiết lập một hệ thống pháp chế duy lý, có ơnh ổn định lâu dài, rồi để cho những người tham gia tự hoạt động theo các kế hoạch của riêng mình” (tr. 106, ch. 3). Kế hoạch hóa như thế là kế hoạch hỗ trợ thị trường, khuyến khích sự cạnh tranh. Nghĩa là, như Hayek tổng kết: “có thể kết hợp giữa kế hoạch hóa và cạnh tranh để lập kế hoạch hỗ trợ cạnh tranh chứ không phải lập kế hoạch để chống cạnh tranh” (tr. 115). Như vậy, khi nhấn mạnh đến thị trường Hayek không có ý cho rằng cứ để kệ thị trường muốn ra sao thì ra. Hayek luôn nhấn mạnh đến khả năng của con người trong việc thay đổi các quy tắc, chuẩn mực chung trong xã hội. Theo ý đó Hayek hoàn toàn không phải là người bảo thủ - điều mà chính ông đã khẳng định trong phần cuối của một kiệt tác khác, cuốn Hiến pháp tự do (ConsƟtuƟon of Liberty). Khi ông viết tựa cho cuốn Đường về nô lệ ông đề tặng cuốn sách cho “tất cả những người xã hội chủ nghĩa” với ý nghĩa hoàn toàn chân thành. Ông chia sẻ về mục Ɵêu của những người xã hội chủ nghĩa. Nhưng cái mà ông không đồng Ơnh với phương pháp họ chọn để đạt tới mục Ɵêu đó, tức việc áp dụng mô hình kế hoạch hóa tập trung. Ông chỉ ra rằng có một con đường khác để những người có tâm với xã hội có thể can thiệp vào đời sống xã hội, làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn, phồn thịnh hơn. Đấy là con đường hình thành những quy tắc hình thức và lối sống mới, kích thích mọi người làm chủ bản thân mình, không xâm phạm vào sở hữu của người khác, và có ý thức hợp tác cao trong công việc. Nhưng những quy tắc này phải được đưa vào cuộc sống thông qua quá trình tự thử nghiệm, đàm phán và thuyết phục lẫn nhau, thay vì giao cho một nhóm nhỏ nào đó áp đặt lên toàn thể xã hội. Quá trình này là một quá trình lâu dài, không thể thấy được kết quả của nó ngày một ngày hai, nhưng lại là con đường duy nhất để “cải tạo xã hội” trong hòa bình. Cuốn sách của Hayek gửi đến cho chúng ta một thông điệp rõ ràng rằng những hậu quả mà kế hoạch hóa tập trung gây ra cho xã hội đều có thể hồi phục lại bằng cách áp dụng các nguyên lý thị trường. Những điều mà chúng ta không bằng lòng về đời sống đạo đức của người Việt Nam ngày hôm nay không phải là do cơ chế thị trường, không phải là bản ơnh của người Việt Nam, mà đa phần là di chứng của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Nhưng chúng ta có thể tác động vào việc hoàn thiện các quy tắc hình thức kiến tạo lên trật tự thị trường để dần khắc phục chúng. Thật may mắn là chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều điều từ những quốc gia đi trước. Những quy tắc thương mại và ứng xử mà chúng ta cam kết khi nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) chẳng phải là một kho tàng vô giá để chúng ta tự hoàn thiện mình hay sao? Có lẽ nhắc lại cũng không thừa, ngay cả khi dân tộc ta có thể rút ngắn được thời gian trong việc hoàn thiện các quy tắc hành xử của chính mình thì chúng ta vẫn phải hiểu rằng đây là một quá trình lâu dài, cần phải nỗ lực liên tục và bền bỉ. Đối với những người cấp Ɵến, nếu vượt qua được rào cản thuật ngữ[3], thì tác phẩm Đường về nô lệ chính là một hành trang không thể thiếu vì nó không những đã nói ra được hầu như tất cả những điều tồi tệ nhất chúng ta phải trải qua, chứng kiến, hay cảm nhận nhưng không hiểu được nguyên nhân từ đâu, mà còn chỉ cho chúng ta biết chúng ta nên làm gì để vượt qua chúng. Nếu được nói một câu cuối cùng, tôi chỉ có thể nói rằng đây là cuốn sách cất lên Ɵếng nói từ con Ɵm của những người mong muốn xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng tự do và phồn thịnh. Đinh Tuấn Minh Chú thích: [1] Chẳng hạn, trong buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ hôm27/06/2008, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh có nhắcđến một di chứng có hại của cơ chế kế hoạch hóa tập trung đối với nền khoa học của nước nhà như sau: “Chủ nghĩa bình quân và tư duy hành chính kéo dài nhiều năm đã là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức sáng tạo và nhiệt huyết của các nhà khoa học,” Trước đó ngày 22/01/2008, trong buổi phát biểu bế mạc hội nghị toàn thể lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, ông cũng đã nói đến việc Việt Nam đã chuyển đổi thành công “thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp trước đấy sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thông qua các biện pháp như thay đổi hình thức sử hữu, hình thành các loại thị trường, xác lập tự do bình đẳng trong kinh doanh, áp dụng luật pháp để vận hành nền kinh tế v.v… [2] Trong nguyên tác, Hayek sử dụng khái niệm “chủ nghĩa xã hội” với nghĩa xác định, để chỉ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp (xem trang 20) được một số người cấp Ɵến lúc bây giờ lựa chọn như là phương tiện để đạt được những mục đích cao đẹp của mình về tự do, bình đẳng, dân chủ và thịnh vượng (xem chương 3 của cuốn sách này). Ông đã nhấn mạnh trong lời tựa cho lần tái bản năm 1976: “Khi tôi viết cuốn sách này thì chủ nghĩa xã hội chỉ có nghĩa là quốc hữu hóa các phương Ɵện sản xuất và kế hoạch hóa tập trung” (tr. 20). Chính vì lẽ đó, để tránh những hiểu lầm không đáng có với quan niệm chủ nghĩa xã hội theo nghĩa mục Ɵêu cao đẹp mong muốn đạt được đang thịnh hành ở Việt Nam hiện nay như “chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, tôi sử dụng thẳng thuật ngữ “cơ chế kế hoạch hóa tập trung” để nói về phương thức tổ chức kinh tế - xã hội mà Hayek muốn phê phán. [3] Về vấn đề khác biệt ngôn ngữ nhưng lại chia sẻ cùng nội dung tri thức khi Ɵếp cận các tác phẩm của Hayek tôi đã đề cập đến trong lời giới thiệu cuốn F.A. Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp, của Ebeinstein, do Nguyễn Anh Hùng dịch, Đinh Tuấn Minh hiệuđính và giới thiệu, NXB Tri thức, 2007. Lời giới thiệu (nhân dịp năm mươi nămxuất bản) Cuốn sách này đã trở thành tác phẩm kinh điển thực sự: đây là tác phẩm dành cho tất cả những ai quan tâm đến chính trị một cách rộng rãi nhất và ít thiên lệch nhất của từ này, thông điệp chính của nó sẽ sống mãi với thời gian và có thể áp dụng cho vô vàn hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Hiện nay, trong chừng mực nào đó nó còn liên quan đến Hoa Kỳ nhiều hơn cả khi được công bố lần đầu vào năm 1944 và đã gây chấn động dư luận vào lúc đó. Gần một phần tư thế kỉ trước (năm 1971) tôi đã viết lời giới thiệu cho lần xuất bản cuốn Đường về nô lệ bằng Ɵếng Đức nhằm minh họa ơnh vĩnh cửu của thông điệp mà Hayek đã gửi tới cho chúng ta. Lời giới thiệu đó cũng có thể được áp dụng cho lần xuất bản kỉ niệm năm mươi năm ra đời của tác phẩm kinh điển này của Hayek. Để khỏi phải đạo văn của chính mình, tôi xin trích dẫn toàn bộ bài viết trước khi đưa thêm vào một vài lời bình luận[1]. “Suốt nhiều năm liền, tôi thường hỏi những người Ɵn vào các nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân xem họ đã rời bỏ chủ nghĩa tập thể chính thống của thời đại chúng ta như thế nào. Trong nhiều năm, câu trả lời thường gặp nhất chính là cuốn sách mà tôi đang có vinh dự viết lời giới thiệu này. Tác phẩm xuất sắc và hùng hồn của giáo sư Hayek là ánh sáng soi đường cho các nam nữ thanh niên từng phục vụ trong các lực lượng vũ trang trong thời gian diễn ra Chiến tranh Thế giới II. Kinh nghiệm vừa trải qua đã giúp họ nâng cao nhận thức về giá trị và ý nghĩa của quyền tự do cá nhân. Ngoài ra, họ đã chứng kiến tổ chức tập thể hoạt động trên thực tế. Đối với họ thì những lời dự báo về hậu quả của chủ nghĩa tập thể đã không đơn thuần là khả năng có ơnh giả thuyết mà là thực tế nhãn Ɵền mà bản thân họ đã trải qua trong thời gian tại ngũ. “Đọc lại trước khi viết lời giới thiệu, tôi lại một lần nữa cảm thấy kinh ngạc trước cuốn sách tuyệt vời này: Ɵnh tế và lập luận chặt chẽ song lại dễ hiểu và sáng sủa, đầy triết lí và trừu tượng song cũng rất cụ thể và thực tế, sâu sắc và đầy lí ơnh song cũng rất sinh động bởi những lí tưởng cao cả và một ý thức mạnh mẽ về sứ mệnh. Không có gì ngạc nhiên khi nó gây được ảnh hưởng lớn như vậy. Cuốn sách còn gây ấn tượng mạnh đối với tôi vì hôm nay thông điệp của nó cũng cần thiết như khi nó xuất hiện lần đầu - chuyện đó nói sau. Nhưng đối với tuổi trẻ thời nay, thông điệp của nó không mang ơnh trực Ɵếp hay thuyết phục bằng các nam nữ thanh niên đọc nó khi nó xuất hiện lần đầu. Những vấn đề của chiến tranh và điều chỉnh thời hậu chiến được Hayek dùng minh họa cho chủ đề trung tâm bất diệt của ông cũng như những thuật ngữ của chủ nghĩa tập thể thời đó được ông dùng làm dẫn chứng cho lời khẳng định của ông về bầu không khí trí tuệ vốn là những điều quen thuộc đối với thế hệ thời hậu chiến và đã tạo được mối quan hệ gần gũi giữa tác giả và độc giả của cuốn sách. Ngày nay, những ảo tưởng của chủ nghĩa tập thể tương tự đang lưu truyền rộng rãi và được củng cố thêm, nhưng hậu quả trực Ɵếp thì có khác, thuật ngữ cũng đã khác nhiều. Hiện nay chúng ta ít nghe nói đến “kế hoạch hóa tập trung”, “sản xuất để đáp ứng nhu cầu sử dụng”, nhu cầu “quản lí một cách có ý thức” các nguồn lực xã hội. Thay vào đó là chuyện về khủng hoảng đô thị - người ta nói chỉ có thể giải quyết bằng các chương trình rộng lớn của chính phủ; là chuyện về khủng hoảng môi trường - người ta bảo là do những nhà doanh nghiệp tham lam, những người phải làm tròn trách nhiệm xã hội chứ không “chỉ” điều hành các doanh nghiệp của mình để kiếm tối đa lợi nhuận và cũng đòi hỏi, như người ta nói, những chương trình rộng lớn của chính phủ; là chuyện về khủng hoảng Ɵêu dùng - những giá trị giả được kích thích bởi các nhà doanh nghiệp tham lam nhằm kiếm lợi nhuận thay vì thực hiện trách nhiệm xã hội và dĩ nhiên cũng cần các chương trình rộng lớn của chính phủ nhằm bảo vệ người Ɵêu dùng, ít nhất là để anh ta không tự làm hại mình; là chuyện về khủng hoảng phúc lợi hoặc nghèo đói - ở đây thuật ngữ vẫn là “nghèo đói giữa cảnh giàu sang”, mặc dù Ơnh trạng nghèo đói hiện nay phải được coi là sung túc khi khẩu hiệu này lần đầu Ɵên được sử dụng một cách rộng rãi. “Bây giờ, cũng như lúc đó, việc khuếch trương chủ nghĩa tập thể bao giờ cũng đi kèm với những lời thề bồi trung thành với các giá trị của chủ nghĩa cá nhân. Nhưng kinh nghiệm với các chính phủ cồng kềnh đã củng cố thêm xu hướng trái ngược này. Đã diễn ra những cuộc phản đối rộng khắp chống lại “giới quyền uy”; sự tuân phục không thể tưởng tượng được trong việc chống lại sự tuân phục; những đòi hỏi vang lên khắp nơi về quyền tự do “làm những việc riêng”, quyền được có lối sống riêng, có nền dân chủ mà mọi người đều có thể tham gia. Nếu chỉ nghe chủ đề này, người ta có thể Ɵn rằng ngọn triều của chủ nghĩa tập thể đang rút lui còn chủ nghĩa cá nhân thì đang dâng lên, Hayek đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng các giá trị này chỉ có thể tồn tại trong xã hội dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân. Chúng chỉ có thể thành tựu trong chế độ tự do, nơi hoạt động của chính phủ được hạn chế trước hết cho việc tạo lập khuôn khổ, trong đó các cá nhân được tự do theo đuổi các mục Ɵêu của mình[2]. Muốn có nền dân chủ mà mọi người đều có thể tham gia thì cách duy nhất là phải tuân theo cơ chế thị trường tự do. “Đáng Ɵếc là quan hệ giữa mục đích và phương Ɵện vẫn thường bị nhiều người hiểu sai. Nhiều người tuyên bố trung thành với các mục Ɵêu cá nhân chủ nghĩa nhưng lại ủng hộ các phương Ɵện của chủ nghĩa tập thể mà không nhận ra sự mâu thuẫn ở đây. Người ta thích Ɵn rằng các tệ nạn xã hội là do những người xấu gây ra còn nếu những người tốt (giống như chúng ta, dĩ nhiên rồi) nắm được quyền lực thì mọi việc sẽ tốt. Quan điểm này chỉ đòi hỏi cảm ơnh và thói tự mãn, những thứ vừa dễ kiếm vừa dễ thỏa mãn. Để hiểu tại sao những người “tốt” khi có quyền lực lại làm những điều ác trong khi những người bình thường, không có quyền lực, nhưng có khả năng hợp tác một cách tự nguyện với những người xung quanh lại làm được nhiều việc thiện, đòi hỏi phải phân ơch và tư duy, đặt cảm ơnh xuống dưới lí trí. Chắc chắn đấy sẽ là lời đáp cho câu hỏi huyền bí: vì sao chủ nghĩa tập thể, đi cùng với nó là nạn độc tài và sự nghèo đói, lại được nhiều người coi là ưu việt hơn so với chủ nghĩa cá nhân, đi cùng nó là tự do và sung túc vốn đã được minh chứng rõ ràng. Luận cứ ủng hộ chủ nghĩa tập thể thật đơn giản nhưng là những luận cứ sai lầm, đấy là luận cứ cảm tính trực tiếp. Còn luận cứ ủng hộ chủ nghĩa cá nhân thì Ɵnh tế và phức tạp; đấy là luận cứ lí ơnh gián Ɵếp. Đa số người ta lại có khả năng tư duy cảm ơnh phát triển hơn khả năng tư duy lí ơnh, ngược đời là điều này lại xảy ra ngay cả với những người tự coi mình là trí thức. “Ở phương Tây, cuộc chiến đấu giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân đã diễn ra như thế nào trong suốt một phần tư thế kỉ [bây giờ phải nói là nửa thế kỉ] qua, sau khi tác phẩm vĩ đại của Hayek được xuất bản? Thế giới thực Ɵễn và thế giới tư tưởng đưa ra những câu trả lời hoàn toàn khác nhau. “Trong thế giới thực Ɵễn, năm 1945 những ai trong chúng ta từng bị phân ơch của Hayek thuyết phục đều chẳng nhìn thấy gì khác hơn là sự phát triển một cách đều đặn vai trò của nhà nước lấn át vai trò của cá nhân, là việc thay thế dần sáng kiến và kế hoạch cá nhân bằng sáng kiến và kế hoạch của nhà nước. Nhưng trên thực tế phong trào này đã chẳng Ɵến được mấy, cả ở Anh, ở Pháp cũng như ở Mĩ. Còn ởĐức đã diễn ra những phản ứng quyết liệt nhằm thoát khỏi việc kiểm soát thời quốc xã và một bước Ɵến vượt bậc về phía chính sách tự do trong lĩnh vực kinh tế. “Điều gì đã tạo ra sự ngăn chặn bất ngờ như thế đối với chủ nghĩa tập thể? Tôi Ɵn rằng có hai lực lượng đóng vai trò chủ yếu. Thứ nhất, và đây là điều đặc biệt quan trọng ở Anh, cuộc xung đột giữa kế hoạch hóa tập trung và tự do cá nhân, đề tài chính của Hayek, đã trở thành hiển nhiên, đặc biệt là khi nhu cầu cấp bách của kế hoạch hóa đã dẫn đến cái gọi là chỉ thị về “kiểm soát tuyển dụng”, theo đó chính phủ có quyền phân cho người dân công ăn việc làm. Nhưng truyền thống tự do và các giá trị của tự do vẫn còn đủ mạnh ở Anh, cho nên khi xảy ra xung đột thì người ta sẵn sàng hi sinh kế hoạch hóa chứ không phải tự do cá nhân. Sự thiếu hiệu quả của chủ nghĩa tập thể chính là lực cản thứ hai. Chính phủ đã tỏ ra không có khả năng quản lí các doanh nghiệp, không có khả năng tổ chức các nguồn lực để có thể đạt được các mục Ɵêu đề ra với giá phải chăng. Nó bị sa lầy trong mớ bòng bong vì các thủ tục quan liêu và phi hiệu quả. Nhiều người tỏ ra thất vọng đối với tính hiệu quả của chính phủ trung ương trong việc quản lí các chương trình kinh tế xã hội. “Đáng Ɵếc là việc ngăn chặn chủ nghĩa tập thể lại không ngăn chặn được sự phình lên của chính phủ; đúng hơn, nó đã hướng sự phình lên này vào một kênh khác. Chính phủ không còn chú tâm vào hoạt động sản xuất nữa mà chú tâm vào việc điều Ɵết một cách gián Ɵếp các doanh nghiệp được cho là của tư nhân và còn chú tâm hơn vào các chương trình tái phân phối thu nhập của chính phủ, bao gồm thu thuế của một số người nhằm bao cấp cho một số người khác - tất cả đều nhân danh công bằng và xóa đói giảm nghèo nhưng trên thực tế lại tạo ra sự hỗn độn đầy mâu thuẫn và thất thường của những khoản bao cấp cho những nhóm lợi ích đặc biệt. Kết quả là phần thu nhập quốc dân bị chính phủ sử dụng ngày càng gia tăng. “Trong thế giới tư tưởng, đối với những người Ɵn vào chủ nghĩa cá nhân, kết quả còn đáng thất vọng hơn. Ở một khía cạnh nào đó, đây là điều đáng ngạc nhiên nhất. Kinh nghiệm trong một phần tư thế kỉ qua đã khẳng định một cách mạnh mẽ sự sáng suốt của Hayek; điều phối hoạt động của con người thông qua quản lí tập trung và thông qua sự hợp tác tự nguyện là hai con đường dẫn tới những hướng hoàn toàn khác nhau: con đường thứ nhất đưa ta trở về thời kì nô lệ, còn con đường thứ hai dẫn tới tự do. Kinh nghiệm đó cũng một lần nữa khẳng định chủ đề thứ hai: quản lí tập trung là con đường dẫn người dân bình thường tới đói nghèo; còn hợp tác tự nguyện là con đường dẫn tới sung túc. “Đông và Tây Đức gần như có thể cung cấp cho ta một thí nghiệm khoa học được kiểm soát. Đây là những người cùng một dòng máu, cùng một nền văn minh, có cùng trình độ kĩ nghệ và tri thức nhưng đã bị tai họa của chiến tranh tách thành hai mảnh; hai mảnh đó đã áp dụng những phương pháp tổ chức xã hội hoàn toàn khác nhau, một bên là quản lí tập trung, bên kia là kinh tế thị trường. Kết quả thật rõ ràng. Đông Đức chứ không phải Tây Đức phải xây bức tường để ngăn chặn người dân bỏ nước ra đi. Một bên bức tường là chuyên chế và nghèo đói, còn bên kia là tự do và phồn vinh. “Ở Trung Đông, Israel và Ai Cập chota thấy một sự tương phản giống như Đông và Tây Đức. Ở Viễn Đông, Malaysia, Singapore, Thái Tan, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản - tất cảđều chủ yếu dựa vào thị trường tự do - là những nước thịnh vượng, dân chúng tràn trề hi vọng; khác hẳn với Ấn Độ, Indonesia và Trung Quốc cộngsản - những nước dựa chủ yếu vào kế hoạch hóa tập trung. Một lần nữa, chính Trung Quốc cộng sản chứ không phải Hồng Kông phải canh gác biên giới để người dân không thể đào thoát được. “Mặc cho sự xác nhận rõ ràng và đầy kịch ơnh luận điểm của Hayek như thế, bầu không khí trí tuệ ở phương Tây, sau một giai đoạn hồi sinh ngắn ngủi của các giá trị tự do trước kia, lại bắt đầu chuyển động theo hướng ngược lại hoàn toàn với tự do kinh doanh, cạnh tranh, quyền sở hữu tư nhân và chính phủ hạn chế. Có một thời gian, điều Hayek mô tả về thái độ trí thức có vẻ như đã trở thành lỗi thời. Hôm nay lời cảnh báo của nó còn chính xác hơn là cách đây chừng một thập niên. Không thể hiểu được vì sao sự phát triển lại đi theo hướng đó. Chúng ta đang cần một cuốn sách mới của Hayek, một cuốn sách sẽ soi sáng sự phát triển của trí tuệ trong một phần tư thế kỉ qua, như cuốn Đường về nô lệ trước đây đã làm được. Tại sao các tầng lớp trí thức khắp mọi nơi đều tự động đứng về phía chủ nghĩa tập thể - ngay cả khi họ đang hô những khẩu hiệu của chủ nghĩa cá nhân - phỉ báng và bôi nhọ chủ nghĩa tư bản? Vì sao các phương Ɵện truyền thông đại chúng khắp mọi nơi đều bị quan điểm này chi phối? “Dù có giải thích như thế nào đi nữa thì việc ủng hộ ngày càng gia tăng của giới trí thức đối với chủ nghĩa tập thể - tôi Ɵn đấy là sự thực - làm cho cuốn sách của Hayek hôm nay cũng hợp thời như lúc nó xuất hiện lần đầu Ɵên vậy. Hi vọng rằng lần xuất bản mới ở Đức - nước dễ lĩnh hội nhất thông điệp của cuốn sách - cũng tạo được ảnh hưởng như đã từng tạo ảnh hưởng trong lần xuất bản đầu Ɵên ở Anh và Mĩ. Cuộc chiến đấu vì tự do phải giành được hết thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những người xã hội chủ nghĩa thuộc mọi đảng phái, những người mà Hayek đề tặng cuốn sách sẽ phải bị thuyết phục hay bị đánh bại một lần nữa, nếu họ và chúng ta còn muốn làm người tự do”. Đoạn áp chót trong bài giới thiệu của tôi cho lần xuất bản bằng Ɵếng Đức là đoạn duy nhất không còn hoàn toàn đúng nữa. Sự sụp đổ của bức tường Berlin, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản sau bức màn sắt và sự thay đổi của nước Trung Quốc đã thu gọn những người bảo vệ chủ nghĩa tập thể theo chủ nghĩa Marx thành một nhóm nhỏ nhưng cố kết trong các trường đại học phương Tây. Hôm nay mọi người đều thừa nhận rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ nghĩa tư bản đã thành công. Song sự chuyển đổi rõ ràng của giới trí thức sang cái có thể gọi là quan điểm của Hayek lại dễ gây ngộ nhận. Trong khi người ta nói về thị trường tự do và quyền tư hữu - hiện nay chuyện này được tôn trọng hơn là việc bảo vệ nền kinh tế ở gần mức laissez-faire[3] cách đây vài thập niên - phần lớn giới trí thức vẫn gần như tự động ủng hộ sự mở rộng quyền lực của chính phủ nếu nó được quảng bá như là biện pháp bảo vệ các cá nhân khỏi bị ảnh hưởng của các công ty lớn xấu xa, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường hay thúc đẩy “bình đẳng”, cuộc thảo luận về chương trình chăm sóc sức khỏe quốc dân là một thí dụ điển hình. Các nhà trí thức có thể học thuộc lời nhưng vẫn không biết hát. Ngay từ đầu tôi đã nói rằng hiện nay “trong chừng mực nào đó” thông điệp của cuốn sách “còn liên quan đến Hoa Kì nhiều hơn cả khi đã gây chấn động dư luận… hơn nửa thế kỉ trước”. Giới trí thức lúc đó có thái độ thù địch với chủ đề của cuốn sách hơn là hiện nay, nhưng thực Ɵễn lúc đó lại phù hợp với nó hơn là hiện nay. Chính phủ sau Chiến tranh Thế giới II nhỏhơn và ít chỉ đạo hơn hiện nay. Chương trình Xã hội Mở rộng của chính quyền Tổng thống Johnson, bao gồm Chăm sóc Y tế và Hỗ trợ Y tế, vàcác đạo luật Không khí trong lành và chương trình Người Mĩ Tàn tật của chính quyền Tổng thống Bush vẫn còn ở phía trước, chưa nói đến biết bao vụ bành trướng khác của chính phủ mà Reagan, trong tám năm cầm quyền, chỉ có thể làm chậm lại chứ không thể đảo ngược được. Chi Ɵêu của chính phủ Mĩ, cả trung ương lẫn địa phương, đã tăng từ 25% tổng sản phẩm quốc dân năm vào 1950 lên thành 45% vào năm 1993. Ở Anh Ơnh hình cũng gần như vậy, theo một nghĩa nào đó thì còn kịch ơnh hơn. Công Đảng, trước đây công khai lập trường xã hội chủ nghĩa, hiện đứng về phía thị trường tự do tư nhân; còn Đảng Bảo thủ, đã từng chấp nhận cai trị theo chính sách xã hội chủ nghĩa của Công Đảng, đã thử làmngược lại và ở mức độ nào đó, dưới thời Margaret Thatcher, đã thành công trong việc giảm thiểu quy mô sở hữu và điều hành chính phủ. Nhưng Thatcher đã không thể kêu gọi một sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng cho các giá trị tự do như sự ủng hộ dần đến việc rút bỏ chỉ thị về “kiểm soát tuyển dụng” ngay sau Chiến tranh Thế giới II. Và trong khi diễn ra quá trình “tư nhân hóa” nhiều doanh nghiệp nhà nước thì phần thu nhập quốc dân bị chính phủ sử dụng đã tăng lên và chính phủ cũng đưa ra nhiều chỉ thị hơn so với hồi năm 1950. Nói rằng ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương chúng ta đang rao giảng chủ nghĩa cá nhân và tư bản cạnh tranh nhưng lại đang thực hành chủ nghĩa xã hội thì cũng chỉ là phóng đại một chút mà thôi. Milton Priedman Chú thích: [1] Der Weg Zur KnechtschaŌ: Den Sozialisten in allen Parteien, © 1971 (cho lần xuất bản mới) Verlag Modeme Industrie AG, 86895Landsberg am Lech. Đây là lần xuất bản đầu Ɵên ở Đức, mặc dù bản dịch Ɵếng Đức Đường về nô lệ đã được xuất bản ở Thụy Sĩ vào năm 1948. [2](Chua thêm năm 1994) Tôi sử dụng thuật ngữ tự do (liberal) giống như Hayek đã dùng trong cuốn sách này cũng như trong Lời giới thiệu cho lần xuất bất bản bìa mềm vào năm 1956 (xem bên dưới), tức là theo nghĩa ban đầu của thế kỉ XIX là chính phủ hạn chế và thị trường tự do, chứ không phải theo nghĩa đã bị làm cho sai lạc đi, gần như ngược lại, ở Hoa Kì. [3] Laissez-faire là lí thuyết hay hệ thống chính quyền ủng hộ ơnh tự chủ trong lĩnh vực kinh tế, Ɵn rằng chính quyền càng ít can thiệp vào quản lí kinh tế thì càng tốt. Khái niệm này được cho là có xuất xứ từ quan điểm vô vi của Lão Tử - ND. Ghi chú về lịch sử xuất bản[*] Hayek bắt đầu viết Đường về nô lệ vào tháng 9 năm 1940 và cuốn sách được xuất bản lần đầu Ɵên tại Anh vào ngày 10 tháng 3 năm 1944. Hayek ủy quyền cho bạn ông là Ɵến sĩ Fritz Machlup, một người tị nạn Áo lúc đó đang có một sự nghiệp xuất sắc trong giới hàn lâm Hoa Kỳ và đã được nhận vào làm việc tại Văn phòng Chăm sóc Tài sản của người nước ngoài ở Washington D. C. từ năm 1944, kí hợp đồng với một nhà xuất bản Mĩ. Trước khi đưa đến Nhà xuất bản của trường Đại học Chicago (University of ChicagoPress), cuốn sách đã bị ba nhà xuất bản ở Mĩ từ chối, vì hoặc là họ Ɵn rằng sẽ không bán được và có ít nhất một trường hợp, coi cuốn sách là “không phù hợp đối với một nhà xuất bản có danh Ɵếng”[1]. Không nản chí, Machlup đưa những trang in thử của bản in ở Anh cho Aaron Director, nguyên là thành viên của Khoa Kinh tế trường Đại học Chicago (University of Chicago Economics Department), ông này mới quay lại trường và giảng kinh tế ở Trường Luật (Law School). Sau đóFrank H. Knight, một nhà kinh tế học xuất sắc của Trường nhận được một tập in thử và trình cho Nhà xuất bản của trường Đại học Chicago với đề xuất của Director rằng Nhà xuất bản nên in cuốn sách. Nhà xuất bản kí hợp đồng với Hayek để được quyền xuất bản ở Mĩ vào tháng 4 năm 1944, sau khi đã thuyết phục ông thực hiện một vài thay đổi “để phù hợp với Hoa Kỳ… chứ không phải là trình bày trực Ɵếp cho số lượng độc giả hạn chế ở Anh”, John Scoon, lúc đó là biên tập viên của nhà xuất bản, hồi tưởng lại. “Đầu tháng 4, tức khoảng thời gian kí hợp đồng xuất bản tại Mĩ, chúng tôi bắt đầu nghe dư luận về cuốn sách ở Anh, cuốn sách được xuất bản ở bên đó vào ngày 10 tháng 3. Đợt đầu chỉ in có 2.000 cuốn nhưng đã bán hết trong vòng một tháng. Nó được trích dẫn tại Quốc hội và trên báo chí, một vài tờ báo ở đây cũng bắt đầu nhắc tới cuốn sách, nhưng chúng tôi vẫn chưa biết chắc ở Mĩ nó sẽ có sức hấp dẫn đến mức nào. Sự thực là, ngay trước ngày xuất bản chúng tôi vẫn chưa khuấy động được nhiệt Ơnh của các nhà sách, ngay cả ở New York”.[2] Lần xuất bản đầu Ɵên ở Chicago là vào ngày 18 tháng 9 năm 1944, in 2.000 cuốn, với lời giới thiệu của John Chamberlain, một kí giả và nhà phê bình sách nổi Ɵếng chuyên viết về chủ đề kinh tế. “Bài điểm sách đầu Ɵên chúng tôi thấy”, Scoon nói Ɵếp, “là bài của Orville PrescoƩ đăng trên tờ NewYork Times ra ngày 20 tháng 9 năm 1944, một bài viết vô thưởng vô phạt và gọi nó là “một cuốn sách mỏng đầy giận dữ và chán ngắt”, nhưng trước khi thấy bài của Henry HazliƩ trên trang bìa tờ Sunday Times Book Review) chúng tôi đã đặt in đợt hai 5.000 cuốn nữa. Trong vài ngày chúng tôi đã nhận được đề nghị cho phép dịch sang Ɵếng Đức, Ɵếng Tây Ban Nha, Ɵếng Hà Lan và các thứ Ɵếng khác, ngày 27 tháng 9 chúng tôi đặt in đợt ba 5.000 cuốn nữa, ngày hôm sau lại đầy lên 10.000 cuốn… “Đầu tháng 10 nhiều kho sách trống rỗng, chúng tôi bận túi bụi với việc in ấn, đóng sách, gửi và phân phối cho khách hàng cả ở Mĩ lẫn Canada… Ngay từ đầu mọi người đã phấn chấn lắm rồi, nhưng việc Ɵêu thụ thì lúc lên lúc xuống… “Cảm giác cay cú về cuốn sách tăng lên cùng với thời gian và mỗi lần cuốn sách gây thêm được ấn tượng thì cảm giác cay cú cũng lại càng cao thêm. (Người ta thường hành động một cách thiếu suy nghĩ, sao họ không đọc nó để xem Hayek thực sự nói gì!” Nhận xét của Scoon đến nay vẫn còn đúng. Tháng 4 năm 1945, tờ the Reader’s Digest đã xuất bản ấn phẩm rút gọn và hơn 600.000 bản rút gọn đã được Câu lạc bộ sách trong tháng phân phối hết. Dự đoán được nhu cầu sau khi Digest xuất bản ấn phẩm rút gọn cũng như đợt lưu giảng của Hayek dự kiến vào mùa xuân năm 1945, Nhà xuất bản đã dàn xếp một số lượng in lớn trong lần in thứ bảy. Nhưng vì thiếu giấy nên lần in này bị giới hạn ở 10.000 ấn phẩm và Nhà xuất bản buộc phải giảm kích thước xuống thành loại sách bỏ túi. Một cuốn trong lần xuất bản này hiện đang nằm trong thư viện của tôi. Trong 50 năm kể từ khi xuất bản, Nhà xuất bản đã bán được hơn 250.000 cuốn, 81.000 cuốn bìa cứng và 175.000 cuốn bìa mềm. Ấn bản bìa mềm được Nhà xuất bản của trường Đại học Chicago ấn hành lần đầu vào năm 1956. Lawrence, con trai của Hayek thông báo rằng gần hai mươi bản dịch ra các ngôn ngữ khác được cấp phép xuất bản. Ngoài ra, các bản dịch ngầm, không có phép cũng được lưu hành ở Nga, Ba Lan, Czech và cóthể cả các ngôn ngữ khác, khi Đông Âu còn nằm sau bức màn sắt. Không nghi ngờ gì rằng các trước tác của Hayek và đặc biệt là tác phẩm này, đã là nguồn trí tuệ quan trọng góp phần phá vỡ niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản ở bên kia bức màn sắt, cũng như ở bên phía chúng ta. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, các nước thuộc Liên Xô và chịu sự chi phối của Liên Xô cũ mới có điều kiện xuất bản công khai cuốn sách. Tôi biết từ nhiều nguồn khác nhau rằng mối quan tâm về các tác phẩm của Hayek nói chung và cuốn Đường về nô lệ nói riêng đã có sự gia tăng đột biến ở các nước này. Từ khi Hayek mất vào năm 1992 càng ngày càng có nhiều người công nhận ảnh hưởng của ông đối với các chế độ cả cộng sản lẫn không cộng sản. Các nhà xuất bản của ông có thể vững Ɵn Ɵếp tục bán tác phẩm xuất chúng này chừng nào mà tự do ngôn luận còn chiếm ưu thế, tuy đã bị xói mòn phần nào kể từ khi Hayek chấp bút cuốn sách này, song chính nhờ cuốn sách mà tự do ngôn luận đã được củng cố thêm. Stanford, Calitornia. Ngày 14 tháng 4 năm 1994. Chú thích: [*] Đoạn này chủ yếu dựa trên nghiên cứu của Alex Philipson, Giámđốc xúc Ɵến sản phẩm của Nhà xuất bản của Đại học Chicago. [1] Xem lời tựa của Hayek cho ấn bản bìa mềm năm 1956, trang 26 dưới đây. [2] Thư gửi C. Harley Gratan, ngày 2tháng 5 năm 1945. Lời tựa cho lần tái bản năm 1976 * Cuốn sách này được chấp bút trong thời gian rảnh rỗi từ năm 1940 đến năm 1943, khi tôi đang còn bận tâm chủ yếu đối với các vấn đề lí thuyết kinh tế thuần tuý, nó đã đột ngột trở thành xuất phát điểm cho công việc trong lĩnh vực mới kéo dài hơn ba mươi năm sau đó của tôi. Sở dĩ có bước thử nghiệm đầu Ɵên trong đường hướng mới là vì tôi cảm thấy bất mãn với cách diễn giải hoàn toàn sai lầm về bản chất của phong trào Quốc xã[1]trong các giới “Ɵến bộ” ở Anh. Tôi đã viết một bản ghi nhớ gửi cho Sir William Beveridge, lúc đó là Giám đốc Trường Kinh tế London và sau đó là bài báo trên tờ Contemporary Review vào năm 1938, rồi theo yêu cầu của giáo sư Harry G. Gideonse của Trường Đại học Chicago tôi lại mở rộng bài báo thành xuất bản phẩm trong loạt Sách mỏng về Chính sách Công của ông và cuối cùng, khi phát hiện ra rằng tất cả các đồng nghiệp người Anh có thẩm quyền hơn trong lĩnh vực này đang bận tâm với các vấn đề khẩn thiết hơn của cuộc chiến, tôi đành miễn cưỡng mở rộng thành Ɵểu luận này. Mặc cho sự thành công bất ngờ của cuốn sách - lần xuất bản không hề được dự liệu trước ở Mĩ còn thành công vang dội hơn cả ở Anh - một thời gian dài tôi vẫn không cảm thấy vui. Mặc dù tôi đã tuyên bố thẳng ngay từ đầu rằng đây là cuốn sách chính trị, đa số các nhà khoa học đồng nghiệp với tôi nói rằng tôi đã sử dụng năng lực của mình trong một lĩnh vực không thích hợp, và tự tôi cũng cảm thấy không thoải mái khi nghĩ rằng kiến thức của tôi không cho phép viết về những vấn đề bên ngoài lĩnh vực kinh tế kĩ thuật. Tôi sẽ không nói về sự phẫn nộ mà cuốn sách đã gây ra trong một số giới, hay sự khác biệt lạ lùng trong sự tiếp nhận ở Anh và Mĩ, chuyện này tôi đã nói trong Lời giới thiệu cho xuất bản phẩm bìa mềm ra lần đầu Ɵên ở Mĩ cách đây hai mươi năm. Với mong muốn thể hiện tính chất của phản ứng lan tràn lúc đó, tôi chỉ nhắc đến một triết gia nổi Ɵếng, xin được giấu tên, ông này đã viết thư cho một triết gia khác để trách cứ là đã ca ngợi cuốn sách đầy tai Ɵếng “mà dĩ nhiên là (ông ta) không đọc” này! Mặc dù tôi đã Ơm mọi cách quay về với kinh tế học đích thực, tôi vẫn không giải thoát khỏi cảm giác rằng những vấn đề tôi đã bắt tay vào một cách hoàn toàn Ơnh cờ lại chứa đựng nhiều thách thức và quan trọng hơn là lí thuyết kinh tế, và nhiều vấn đề tôi đề cập đến trong bản phác thảo đầu Ɵên cần được làm rõ và thảo luận kĩ lưỡng hơn. Khi viết cuốn sách này, tôi vẫn hoàn toàn chưa giải thoát khỏi những định kiến và ơn điều chi phối dư luận chung, thậm chí tôi còn chưa biết cách tránh tất cả những rối rắm của các thuật ngữ và khái niệm thịnh hành lúc đó mà sau này tôi mới ý thức được một cách thật sự rõ ràng. Việc thảo luận những hậu quả của chính sách xã hội chủ nghĩa mà cuốn sách này thử làm dĩ nhiên là sẽ không đầy đủ khi chưa miêu tả một cách thích đáng những điều mà một thị trường vận hành một cách phù hợp đòi hỏi và có thể đạt được. Kết quả đầu Ɵên của những cố gắng nhằm giải thích bản chất của chế độ tự do là cuốn sách quan trọng với nhan đề The ConsƟtuƟon of Liberty - 1960 (Hiến pháp của tự do), trong đó tôi trình bày lại và làm cho học thuyết về chủ nghĩa tự do cổ điển thế kỉ XIX trở thành nhất quán hơn. Sau khi thấy rằng việc nói lại vẫn còn bỏ sót những vấn đề quan trọng chưa được giải đáp tôi lại phải nỗ lực thêm nhằm đưa ra câu trả lời của riêng mình trong tác phẩm gồm ba tập với nhan đề Law, LegislaƟon, and Liberty (Luật, Luật pháp, và Tự do), tập đầu được ấn hành vào năm 1973. Tôi Ɵn rằng trong hai mươi năm qua tôi đã học được nhiều thứ liên