🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Ebooks
Nhóm Zalo
Đây là quyển sách mà mọi gia đình cần đọc, để tránh hao tổn tiền bạc trị bệnh, để bớt lo sợ về việc không có hoặc mất bảo hiểm sức khoẻ, để đỡ mất thì giờ tìm kiếm bác sĩ, để tráng kiện và vui sống những ngày tháng qua nhanh trên thế gian này, để hạnh phúc và sáng tạo.
Lê Công Thình (Diệu Tín Liên Châu )
www.SachVui.Com
Mục Lục
ĐƢỜNG LÀ KHỔ ÁCH .................................................................................... 3 CHƢƠNG 1: PHƦI TỈNH GIÁC.......................................................................... 5 Chƣơng II : MÍA VÀ LỊCH SỬ ........................................................................ 14 Chƣơng III : TỪ XƢA – ĐẾN NAY ................................................................... 24 Chƣơng IV : HÃY TIN ĐƢỜNG ....................................................................... 33 Chƣơng V : ĐỔ TỘI CHO LOÀI ONG............................................................... 43 Chƣơng VI : TUỔI THƠ VÀ TIỂU ĐƢỜNG ........................................................ 58 Chƣơng VII : CHUYỆN CƦI BẮP VÀ VUA........................................................... 66 Chƣơng VIII : BIẾN DỄ THÀNH KHÓ.............................................................. 73 Chƣơng IX : NGƢỜI CHẾT CHÓ CHẾT ............................................................ 87 Chƣơng X : NHỮNG VỊ THƪN CHẾT DỄ THƢƠNG ........................................... 103 Vị Thƫn Chết dễ thƣơng thứ nhƩt : C À P H Ê......................103
Thƫn chết dễ thƣơng thứ nhì: Sữa bò .................................112
Thƫn chết dễ thƣơng thứ ba: Coca cola ..............................122
Thƫn chết dễ thƣơng thứ tƣ: Rƣợu bia và whiskey..............133
Thƫn chết dễ thƣơng thứ năm : Thuốc lá...........................137
ĐƢỜNG - VỊ THƪN CHẾT DỄ THƢƠNG ................................141
1. Đƣờng và răng........................................................141
2. Giữ làn da đẹp trong nắng: ....................................143
3. Kinh nguyệt không đau..........................................143
4. Muỗi cũng khoái đƣờng.........................................144
CHƢƠNG XI : DỨT ĂN ĐƢỜNG.................................................................... 148 CHƢƠNG XII : Y SĄ CHUYÊN KHOA NÓI GÌ?.................................................. 152
PHẦN PHỤ LỤC
ĐƢỜNG LÀ KHỔ NƤN TRƪN GIAN, ............................................................... 161 ĂN ĐƢỜNG NGUY HƤI NHƢ THẾ NÀO?......................................................... 162 ĐƢỜNG : KẺ THÙ CỦA NHÂN LOƤI.............................................................. 164 ĐƢỜNG LÀ THƦM HỌA NHÂN LOÀI,............................................................. 165 3 LÝ DO QUAN TRỌNG NÊN TỪ BỎ ĐƢỜNG.................................................. 166 CÓ NÊN UỐNG SỮA BÒ?............................................................................ 170 CÓ NÊN DÙNG CÀ PHÊ?............................................................................ 171
www.SachVui.Com
ĐƢỜNG LÀ KHỔ ÁCH
Sugar Blues
Tác Giả : William Dufty
Lê Công Thình (Lược và Tuyển dịch)
Quyển sách bán chạy nhất trên toàn thế giới vì lợi ích nhất cho sức khỏe loài người.
Trên một triệu quyển bán hết tại Hoa Kỳ trong thời gian kỷ lục ở đầu thập niên 1980
Tờ Chicago Tribune viết: Đây là bản đúc kết, tường trình với lời lẽ chỉ trích cứng rắn, với nhận xét các nhân vật lịch sử thật nghiêm minh. Có lẽ quí bạn chưa từng đọc một tài liệu về Đường như thế này!!
Tờ San Francisco Review of Books viết: Nếu bạn thật sự nghĩ đến sức khoẻ của mình, hãy đọc Sugar Blues.
John Shelley viết trong tạp chí Let‟s Live (Chúng ta hãy sống): Tất cả những gì loài người muốn biết về „đường‟ đều được trình bày rõ ràng trong Sugar Blues. William Dufty vạch mặt các tay lái buôn đường đã làm giàu trên bao xác chết của thân nhân ta; và thông báo cho mọi người biết sai lầm của nhiều sách dạy nấu ăn trước kia. Quyển Sugar Blues dám nói rõ về chính sách nô lệ từ khi dân da đen thoát khỏi nô dịch da trắng (White plague)
Shirley Elder nhận định về quyển Sugar Blues trong tờ Detroit Free Press: Tuyệt vời và Táo bạo.
Lời Tác Giả William Dufty:
Có phải Đường đang giết bạn một cách dịu dàng?- Cũng như Á phiện, bạch phiến và Heroin, Đường là chất gây nghiện ngập, là Độc Dược. Thế mà người Mỹ đều dùng hằng ngày; trong bánh mì, trong thuốc lá cũng có đường. Nếu bạn bị béo phì, nhức đầu, máu thiếu glucose, bị mụn, thì khổ ách đường đã tròng vào người của bạn rồi đấy. Thật vậy, nhìn vào bảng thống kê bệnh chứng của toàn
www.SachVui.Com
quốc, ta có thể nói rằng tất cả dân Hoa Kỳ đều bị tiểu đường, hay đang mằn mò đến „vực thẳm tiểu đường‟.
Lời Người Dịch
Đây là quyển sách mà mọi gia đình cần đọc, để tránh hao tốn tiền bạc trị bệnh, để bớt lo sợ về việc không có hoặc mất bảo hiểm sức khỏe, để đỡ mất thì giờ tìm kiếm lương y, để được tráng kiện và vui sống những ngày tháng qua nhanh trên thế gian này; và nếu khéo dưỡng sinh thì giờ phút lâm chung sẽ êm xuôi và ít tốn kém.
Đây là quyển sách quí với những thông tin khả tín, thuyết phục độc giả phải lánh xa đường dưới mọi hình thức. Xã hội loài người vì hảo ngọt nên phải lùi vào hố sâu tội lỗi. Đường đưa bao nhiêu người vào cõi mê lầm. Hitler cũng háu ngọt nên bại trận. Sadddam Hussein bị bắt dưới hầm với ba thỏi sôcôla của Mỹ, đã có chiếu trên TV lúc ông ta đang há miệng, có lẽ ông ta đang nhức răng. Quân đội Việt Nam khi sang đánh giặc Pol Pot ở Campuchia vào năm 1979 đã mất nhuệ khí của thời ở đường mòn Hồ Chí Minh, vì Mì Ăn Liền, Bột Ngọt và nhất là Đường được bồi dưỡng quá dồi dào nên số bệnh binh lên rất cao. Napoleon và quân sĩ phải tháo chạy khỏi Leningrad vì lầm lẫn đường là bổ dưỡng cho cơ thể thêm calori, nên chịu lạnh mùa đông không nổi.
Ngày nay thuốc trị bệnh thường hay bọc đường hay pha nước đường để dễ bán, nhưng đường làm giảm dược tính nên thuốc bị giảm hiệu năng rất nhiều. - Tại sao có Bác sĩ tây y ở Âu Châu phải tìm trị bệnh với Y Sĩ cổ truyền, và cả Tổng Thống nước Pháp nữa? Còn Tổng Thống Roosevelt, Kennedy. … thì sao? Và trẻ thơ bị tiểu đường? Tại sao xưa kia bia dưỡng thai, bây giờ bia lại phá thai!? Bỏ ăn đường thì kinh nguyệt không đau? Thuốc hút nào không sinh ung thư?… Tại sao nhiều vị tu thiền mà không tiến?
Kính mời quí vị đọc Khổ Ách Vì Đường để thấu suốt nỗi khổ của toàn thể loài người.
4
www.SachVui.Com
CHƢƠNG 1: PHẢI TỈNH GIÁC
(It’s necessary to be personal)
Xưa kia tôi là gã nghiện đường. Tôi không thể quên được hoàn cảnh khó xử giữa nàng Gloria Swanson và một viên đường.
Buổi họp được nhóm vào buổi cơm trưa tại văn phòng Biện lý, đường số 5 ở New York. Mọi sự đều bình thường khi tôi khẽ nhón chân bước vào. Cô Swanson linh hoạt và sâu sắc hơn mọi người, dời khỏi chiếc ghế kế bên để dành chỗ cho tôi. Vì chưa từng gặp Cô ngoài màn ảnh, và vì bất ngờ nên tôi bị bỡ ngỡ khi đón tiếp Cô.
Người phân phối thức ăn xuất hiện với các món thường dùng cho buổi cắm trại; có cả bình cà phê và khay đường viên. Các đồng nghiệp của tôi, là Phóng viên của các tờ nhật báo ở New York, tiếp tục tranh cãi sôi nổi khi thức ăn chuyền đi quanh phòng. Tôi bốc giấy bao chiếc săn uýt, bật nấp bình cafe, và lấy một viên đường. Vừa thấy tôi lột giấy bao đường, Nàng khẽ nói với một giọng ra lệnh: “Món ấy là thuốc độc”, và rú lên : “Bạn ơi, bỏ ngay xuống đi, em chả có thứ đó trong nhà!”. Tôi như lùi khỏi vực thẳm, rồi tôi nhìn Nàng. Ôi đôi mắt xanh rộng mở, hàm răng rắn chắc kia rạng rỡ trong nụ cười. Tôi như đứa trẻ bị bắt gặp bỏ sót chiếc găng tay trong lọ bánh ngọt, nên đành bỏ viên đường xuống. Trước mặt nàng, tôi không thấy món nào vừa được phân phối. Nàng tự đem đến một chiếc bánh, trên mặt không có rải một thứ gì cả. Nàng tặng tôi một mẩu nhỏ. Ăn xong, tôi bộc bạch với cô: “Cô ơi, tôi chưa từng ăn món nào ngon như thế này!”
Chúng tôi đã từng nghe nhiều giai thoại về lối dưỡng sinh ngoại lai của Cô Swanson. Nhiều vần thơ đã ca ngợi nhan sắc của nàng không bị thời gian tàn phá. Ngồi kề bên, mắt nhìn mắt, thật khó mà ngờ vực đức hạnh đứng đắn của nàng. Nàng khẽ nói: “Em thường bất bình khi nhìn người ta ăn thuốc độc. -Nhưng mọi người phải tỉnh giác nhận ra đó là thuốc độc. Thật là khó anh nhỉ. Thiên hạ có thể nhai thủy tinh xay nhuyễn trước mặt em mà em không rùn mình đâu nhé! Cứ làm thử xem… Hãy thách thức em pha đường vào cafe đi? - Ăn đường trắng hả, ta tự sát thôi!!” Em có quan tâm đến cuộc sống kẻ khác anh nhỉ.
Rồi nàng cắn nhanh miếng bánh trong nụ cười. Tôi bị ám ảnh suốt bao ngày. Mỗi lần định sờ đến đường, tôi bèn giật người thối lui, rồi tơ
5
www.SachVui.Com
vương đến lời răn của nàng. Ta chỉ biết ta mê nghiện điều gì khi ta nhất quyết không làm điều ấy nữa.
Tôi nhận ra là tôi quen ăn đường, rất say mê đường. Tôi muốn từ bỏ mà không biết làm cách nào. Tôi mê nhiễm đường từ bao lâu rồi. ?? Có lẽ tôi nghiện nó từ lúc còn trẻ; vì kỷ niệm về giờ cơm tại nhà với gia đình là nỗi khổ tâm phải nuốt nhanh miếng thịt với khoai tây, để bước vội lên thiên đàng: món tráng miệng ngọt lịm!!
Bà tôi luôn trữ một bao đường củ cải Michigan cỡ một trăm cân Anh ở phòng chứa thực phẩm phía ngoài nhà bếp; có chiếc muỗng to bằng thiếc nằm bên trên. Khi tôi hái bồ công anh cho bà làm rượu lậu, trong thời kỳ có luật cấm nấu và bán rượu phi pháp (1920-1933), thì Bà đem rửa, cho vào bình thật to, rồi rải đường và chanh cho mau dậy men. Tôi còn nhớ khi trời vào thu, Bà cũng rải đường lên bánh mứt đào và táo, lên các loại bánh, vào các thùng lớn có trái đào, mận đang sôi sục, để đóng hộp. Đường thường thâm nhập vào các món khoái khẩu làm với cà chua, và các loại rau củ ngâm dấm.
Khi tôi đi học về thì cô Moulton, Cô láng giềng và là tay đầu bếp của gia đình, hay trao cho bánh mì mới ra lò, có trét bơ, và có rải đường nâu trên mặt.
Có điều dễ nhớ mà khó tin về cuộc sống ở một thị trấn thuộc miền Tây trung bộ cách đây năm mươi năm, mà giờ đây đã thoáng qua mất. Gia đình kiểm soát hết thảy các món ăn nào trẻ con cho vào bụng. Cha mẹ chăm sóc bảo vệ con cái. Ai cũng biết cha mẹ cho phép và cấm ăn món gì. Lén ăn bánh mì thịt bằm hay uống một chai Coca còn khó hơn cướp ngân hàng hay bỏ đi lễ nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Thị trấn có một nhà hàng, trước kia là quán rượu các tay giang hồ thường lui tới. Nếu tôi vào cửa hàng với đồng 5 xu để mua thức ăn, thì người chủ tiệm hay báo cha tôi ở văn phòng bằng điện thoại. Rồi khi về nhà Ông cứ rầy mắng tôi mãi. Những cửa hàng tạp hóa đều có quầy kẹo và tiệm thuốc tây ở góc đường có bình nước ngọt màu mè. Kem lạnh làm ở nhà, chỉ được ăn vào ngày Chúa nhật. Kem có thể đặt mua ở quầy thuốc Tây vài dịp lễ và phải nhanh chân kẻo hết. Nước đá và tủ lạnh là chuyện mộng mơ thuộc về năm 2001.
Phải ăn sáng trưa chiều tại nhà, có Cô Moulton canh chừng, nếu không ăn thì nhịn đói thôi. Không cách nào mở thùng nước đá mà thiếu vắng cô. Lúc ấy tủ lạnh trong nhà tôi là cái thứ nhất trong thị xã. Viên nước đá làm tại nhà là một sự sáng chế kỳ lạ, bí hiểm hơn máy thu thanh. Hầm rượu bỏ trống, việc dự trữ thức ăn trong chai, hộp đành nhường lại cho thức ăn mua ở cửa hàng.
6
www.SachVui.Com
Nước ngọt, Coca… không có trong nhà- rượu Canada Dry có bán tại địa phương nhưng riêng bố uống thôi. Mãi về sau khi tôi lên tám, một du khách mới gieo rắc cho ý tưởng hưởng thụ về kem lạnh nổi lều bều trong cốc nước ngọt. Chúng tôi có thể biết những món ấy từ lâu, nếu được xem cuốn phim đồi bại - nhưng loại phim này bị cấm xem; rạp thì ở bên kia đường tàu hỏa. Kẹo bông gòn, các loại mứt đều bị cấm chỉ cũng như phim. Chúng tôi được răn dạy: -Nó làm con bệnh. Thế mà khi chúng tôi lưu ý gia đình rằng có mấy đứa trẻ ăn kẹo mà không hề hấn gì, thì những ánh sáng khoa học này không lay chuyển được cha mẹ.
Tôi phạm tội đầu tiên tại Hồ Thủy Tinh (Crystal lake). So với thị xã tôi đang ở thì Hồ Thủy Tinh giống như Babylon hay Las Vegas. Có sòng bạc trên mặt nước, nơi đó khách thập phương đến khiêu vũ trong bóng mờ với ban nhạc tự xưng là của Hollywood. Có sân đánh golf, quần vợt, có thuyền chạy nhanh, có người Da Đỏ bán rổ đan tay cho du khách cuối tuần. Có gái hút thuốc, trai ngực trần đến bơi về đêm. Các cây xăng ở lề đường với chiếc lều cất gần bên, trong có các chai nước ngọt đủ màu luôn nằm trên nước đá: Cam, anh đào, dâu tây, chanh và nước gì đó gọi là Green River. Màu nước nho tím đậm làm tôi ngây ngất. Ở nhà có được nếm món đó bao giờ đâu. Tôi bắt đầu thầm mơ đến đô thị mê ly này.
Tôi còn nhớ lần đầu tôi lén lục lọi ví tiền của mẹ đang ngủ trưa, tôi chỉ lấy 5 xu, mỗi lần 5 xu thôi. Tôi không dám lấy đồng 10 xu nếu không có đồng 5 xu. Hai chai có thể là quá liều lượng khiến nướu răng tím ngắt và răng có thể bị tiêu mòn.
Chúng tôi trải qua mấy mùa hè tại Hồ Thủy Tinh, cho đến khi tôi được 12 hay 13 tuổi. Vào thời cao điểm mùa đông, tôi làm được 75 đô la mỗi tuần, cả một gia tài kếch xù thời ấy. Tôi là tay dương cầm hào phóng nhạc Jazz trên đài phát thanh. Nhưng tôi lại không đủ tài khoản để viết ngân phiếu trả cho cái quán bên đường! Nếu tôi không kiềm chế được thói quen khát nước nho, tôi bèn nói láo, gian lận và trộm cắp để đủ tiền trả.
Cái ngày mà giọng hát tôi biến đổi thì cũng là lúc nghề nghiệp trên sóng phát thanh bắt đầu kết thúc. Khi tiếng hát của tôi mất giọng trẻ thơ thì chả ai còn đoái hoài đến lối đánh dương cầm của tôi. Tuổi dậy thì đem lại nhiều điều đáng sợ. Mặt, cổ và lưng nổi lên mụn mủ xấu xí. Thoạt đầu tôi cho là phong cùi nên có cầu nguyện đôi lần. Trước kia tôi chả bao giờ nhìn những đứa trai lớn tuổi hơn bị cái chứng này. Có lẽ tôi không để ý cái xấu của họ mà chỉ thấy cái xấu của tôi. Tôi hổ thẹn khi mặc quần đùi, dù đó là thời trang. Cô y tá gia đình khuyên nên dùng kem Noxzema. Cô giặc đồ thì rùng mình vì vết mủ máu trên quần áo!
7
www.SachVui.Com
Giờ đây tôi khổ đau vì tội lỗi. Nếu có ai đó hiểu tôi để chỉ cho tội lỗi phạm vào thời ấy thì tôi đã được cứu rỗi qua bao năm u mê rồi!! Nhưng ai có thể hiểu được thói mê đường thầm kín của tôi? Bác sĩ gia đình đâu rồi?
Đấy nhé, thị xã chúng tôi có một ông, nhưng không phải Bác sĩ Marcus Welby. Nhà ông đối diện nhà chúng tôi bên kia đường và một nỗi hãi hùng mà thị xã phải cam chịu là ý tưởng về việc cấp cứu có thể xảy ra, mà chỉ có mỗi Bác sĩ Hudson có thể tiếp trợ! Bác sĩ Hudson lại nghiện ma túy. Tôi không dám nói xấu ông!? Ông Bác sĩ “lè phè này” đôi khi đi vòng quanh phố như kẻ sống dở chết dở. Ông có văn phòng bằng gỗ phía sau nhà. Lúc trời xẩm tối, trẻ nít hay núp ở cửa sổ và lén nhìn ông nằm trên ghế nệm da đang mơ màng trong khói thuốc. Khi có tai nạn ở thị xã, các lính cứu hỏa tình nguyện thường phá cửa văn phòng, xịt nước vào người ông, rồi chờ ông làm việc như buộc nẹp garô cầm máu trên cánh tay một nông dân bị kẹt vào máy đập lúa; rồi họ lập tức đưa nạn nhân qua thị xã gần bên. Nếu quí vị có điều kiện như chúng tôi, quí vị có thể mời Bác sĩ bên ấy bằng điện thoại.
Do đó chả bao giờ gặp được ông, trừ phi chúng ta tốt bụng và có bệnh. Ôi thật là kinh khủng!! Tôi đến nha sĩ mỗi năm hai lần. Cái mốt thời đại đấy! Nha sĩ cho biết sâu răng là do ăn quá nhiều đường. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe vị Bác sĩ nào mở miệng nói về điều ấy cả!
Quí lão bà khả kính xưa kia hay nói về ăn uống vô độ: “Mê ăn làm con bệnh, con đau bụng, bị ói mửa v. v... ” Làm sao tôi tìm được tương quan giữa ghẻ chốc và các thói hư thầm kính của tôi; các đứa trai khác cũng có bệnh về da như tôi vậy. Rồi tôi lại nghe đồn rằng cái bệnh của tôi là do thủ dâm quá độ.
Người bạn tôi có người anh đang học trường Dòng Thiên Chúa ở Chicago để thọ chức Linh Mục. Anh là người lão luyện về môn giới luật tình dục. Anh loan tin rằng trong địa phận Dòng Thánh ở Chicago, thủ dâm là tội nhẹ. Ai phạm lỗi này ở Michigan thì phải chết, còn ở Illinois bạn có thể phạm tội này ban đêm, giặt quần sáng hôm sau rồi nhập cuộc cùng Hội Thánh.
Tôi bắt đầu nhận chìm nỗi buồn của tôi trong cốc sữa pha mạch nha vào thời còn trung học. Nhà đã dọn về thành phố, và tôi phải đi nhiều dặm đường mới đến trường. Tôi được cấp 10 xu mỗi ngày để đi xe điện khứ hồi. Ăn trưa với các thức ăn trong lớp ư? Nào tôi có chịu đem theo săn uýt và trái cây. Tầm thường quá. Cơn khủng hoảng kinh tế đang hoành hành, sinh hoạt gặp khó khăn. Đại hạ giá một ly sôcôla có mạch nha là mười xu một ly cỡ thật bự. Suốt hai năm tôi bách bộ đêm ngày dù mưa hay nắng để có đủ 10 xu mỗi ngày và 5 ly hằng tuần, quá tuyệt.
8
www.SachVui.Com
Mụn mủ trở nên tệ hại hơn. Nước búp sen ở sân vận động của trường hành xác tôi đau đớn quá. Rồi tôi lại nghe ai đồn rằng mụn mủ là do ức chế tình dục; buông xả đi sẽ không có bệnh đó. Tôi muốn lao vào phương thức trị liệu này để hết ngay các u nhọt.
Ở sân trường trung học, không ai được phép hút thuốc. Thuốc lá quá đắt đỏ, và hút thuốc được xem như là thiếu nam tính. Nhiều nam sinh cố bỏ thuốc lá để mong được gia đình thưởng cho chiếc Ô tô Ford mui trần khi tốt nghiệp lớp 12.
Tôi thích hút chớ không chịu mua thuốc. Tôi luôn móc túi để trả tiền các món ngọt.
Một môn học chán phè là lớp tập thể dục, Học sinh phải bơi lội, chạy đều bước, chơi bóng chuyền, hay cử tạ cho đủ số giờ ấn định trong tuần. Phiếu vào lớp được đục lỗ, dứt khoát phải thế. Hằng năm có khám sức khỏe qua loa. Nếu bạn hỏi vị bác sĩ trẻ về bệnh chứng nào đó đã phiền hà bạn thì ông ấy tỏ vẻ cẩn thận, tránh dẫm lên địa phận của sở y tế địa phương. Ông thường bảo: “Hãy về gặp bác sĩ gia đình để trị bệnh đó”. Nhiệm vụ của ông ta là tìm ruột thòng, và bệnh lở bàn chân do nấm.
Vào dịp nghỉ hè tôi quá giang đi hằng ngàn dậm và sống nhờ Pepsi Cola. Mãi đến lúc viếng miền Nam, ngay lần đầu một cô nàng đưa tôi vào gặp cái món gọi là Cocain, có bán tại tiệm nước ngọt, được pha với rất nhiều nước đá đập nhỏ, vani, sirô và sô đa. Ở miền Bắc nó được gọi là côca côla. Miền dưới kia nó thường được dùng để trị nhức đầu theo cách của người Da Đỏ.
Sau hai năm đau khổ ở Đại Học Cộng Đồng, tôi đành bỏ học. Đối diện cuộc đời không mảnh bằng cấp trong tay là cả sự liều lĩnh. Nhưng tôi ngửi thấy thêm một cuộc chiến tranh sắp đến lúc đàm phán. Tôi phải chọn lựa giữa nhà tù Leavenworth và trận mạc.
Mùa hè năm 1965, tôi gặp một người thông tuệ gốc phương Đông. Ông cho biết: “Nếu quí ông muốn chiến thắng quân Bắc Việt thì phải thả cho các Cửa Hàng Quân Đội (PX) của chúng như là : đường, kẹo, và Coca cola. Mấy thứ đó tiêu diệt họ nhanh hơn bom.”. (If you really expect to conquer the North Vietnamese, you must drop Army Pxs on them: sugar, candy, and Coca cola. That will destroy them faster than bombs)
(LND: Sadham Hussein bị bắt dưới hầm với 3 thỏi sôcôla, có chiếu trên đài TV)
Tôi hiểu ngụ ý của ông. Khi tôi nhập ngũ năm 1942, điều này xảy đến cho tôi. Thức ăn trong quân đội phải ngon tuyệt; chúng tôi được đảm bảo là ăn no, ăn đủ, và ngon nhất trong nhân loại. Nhưng tôi không
9
www.SachVui.Com
hạp cơm lính. Do đó suốt ngày tôi hay lui tới cửa hàng PX của quân đội. Suốt hai năm tôi ăn uống sữa mạch nha, cafe pha đường, bánh kẹo, sôcôla và côca côla. Sau nhiều tuần như thế tôi bị đau trĩ máu ra phát sợ. Tôi luôn liên tưởng chứng bệnh kinh khủng này với tuổi cao niên, và hiện tôi ở lứa tuổi đôi mươi!? Thân tôi được đưa xuống tàu qua xứ Anh trên chiếc SS Mauretania. Tàu cập bến Liverpool. Tôi bị chứng bệnh “viêm phổi mà còn đi đứng được”. Y tá cấp cứu nhìn nhiệt kế rồi tống tôi đi rửa bát đĩa nhà ăn suốt sáu ngày. Đến ngày thứ bảy nhiệt kế lên đến số „may mắn‟. Chuông reo, các y tá với gương mặt thương cảm vội đưa tôi lên băng ca rồi xe cấp cứu đưa tôi đi nhà thương gần đấy. Săn sóc đặc biệt, bình dưỡng khí, liều lượng thuốc Sulfanilamide, loại thuốc mới thần hiệu thuở ấy. Vì thuốc mới nên phải lấy máu thử mỗi giờ để tránh cho tôi bị nó hại. Tôi bị hôn mê suốt mấy ngày liền. Các cô y tá “thơm phức” thay giường đều đều cho tôi, chích lấy máu, dịu dàng tắm rửa toàn thân tôi. Cha Tuyên úy lấp ló ở hành lang bên ngoài. Không ra trận được rồi. Ngày đổ quân bờ biển Normandie gần kề.
Rồi một sáng kia, tôi tỉnh giấc mình đẫm mồ hôi, tâm thần thơ thới. Quân đội khôn hơn tôi, tôi lại sống lâu hơn cho chính phủ được nhờ. Tôi chập chửng đi xuống hành lang để cân. Các cô y tá giật nẩy người khi thấy số cân của tôi. Luật quân đội buộc bạn phải đủ cân như lúc nhập viện, thì mới được xuất viện. Làm sao lên được 12 cân Anh trong sáu ngày? Đúng ngày Đồng Minh đổ quân tôi có đủ trọng lượng ra viện!!
Tôi được đưa đến Glasgow bằng tàu hỏa, đến Algiers bằng tàu thủy, rồi đến Oran ở bờ Địa Trung Hải bằng xe vận tải. Ba tuần trong sa mạc tôi thấy khỏe ra. Không thấy PX đâu cả. Giải trí của tôi là biển cả và rượu bia Algerie. Đổ bộ lên bờ biển Nam nước Pháp, tôi gia nhập vào Đệ Nhất Quân Đoàn Liên Quân Pháp: có người Ả rập, người Senegal, người Guoms, người Silke, người Việt Nam, với sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Các bạn đồng đội mang theo nồi, chảo, vịt, ngỗng, dê, trừu và bạn gái. Bao nhiêu tháng qua không lương bổng, không PX. Hầu hết các bạn ở địa phương ăn chung với tôi không nếm miếng đường nào cả. Đường bán ở chợ đen. Chúng tôi ăn thịt ngựa, thỏ, sóc và bánh mì đen của nông dân. Mùa đông ở dãy núi Vosges thật khắc nghiệt và dài bất tận, thế mà tôi không bị cảm sổ mũi. Ở Pháp rồi qua Đức suốt mười tám tháng mà chả bị bệnh nào cả.
Tôi đủ sáng suốt để hiểu giá trị dinh dưỡng. Nhưng tôi ngu lắm. Trở về Mỹ quốc tôi lại “chạp “các thứ bánh, cả lố sữa pha mạch nha, sôcôla, Pepsi, đường, đường và đường! Sau vài tuần tôi nằm liệt giường, vướng hết bệnh lạ kỳ này đến mắc chứng oái oăm kia, trĩ tái phát, sốt liên miên. Qua các xét nghiệm, tôi mắc nhiều bệnh lắm: sốt vàng da chưa có trong
10
www.SachVui.Com
y khoa, viêm gan, hơi điên, bệnh da ngoại quốc, tai thúi, mắt đau đa chứng,… Sạch túi, tôi đi bệnh viện Cựu chiến binh, rồi trở nên hội viên Hội Y khoa tư nhân Blue Cross & Blue Shield. Suốt 15 năm tôi gặp biết bao bác sĩ, đi bao nhiêu bệnh viện, chẩn đoán, trị bệnh, xét nghiệm rồi xét nghiệm, thuốc men và thuốc men, mà chả có ông bác sĩ nào hỏi tôi ăn gì, uống gì?!
Điều không tránh khỏi nữa là cái ngày mà thuốc men mất hiệu quả. Với chứng nhức nửa đầu, suốt mười ngày tôi không ngủ, không ăn, không cựa quậy. Tôi khẩn cấp nhập viện cựu chiến binh ở Mahattan. Sau khi nghe các máy xét nghiệm báo cáo, ông bác sĩ trẻ bảo tôi : Không ung thư, không bứu não, không gì cả!!
Hồ nghi, tôi lắp bắp: Còn chứng đau đầu thì sao? “ Nếu trong một hay hai tuần chưa khỏi thì trở lại đây. “Ông bảo. - „Trời! Một hay hai tuần à?!” Tôi bèn gọi người bạn có cha làm Bác sĩ nổi tiếng trong nhóm y sĩ ở đại lộ Park. Họ xịt vào mũi tôi chất gì mát rượi. Sau giấc ngủ ngắn, tôi thấy khỏe được vài hôm. Tôi đủ kiến thức để nhận ra đó là cocain. Và bao kẻ nghiện ma túy bắt đầu từ đây!!
Rồi người bạn ấy tập cho tôi ăn kiêng; thức ăn có mùi vị lạ, nhưng tôi nhất quyết làm anh ấy vui. Tôi không biết nơi đâu có cocain. Anh cấm chỉ thuốc lá, cafe, đề nghị điểm tâm bằng cháo yến mạch, ăn trưa và chiều thì them cơm và gà. Anh chẩn đoán: chứng xuống máu chậm lưu thông. Anh cho tắm nước nóng buổi sáng và tối, tập thể dục thư giãn buổi trưa. Tôi cố bỏ cafe và thuốc lá nhưng tôi làm việc không được. Cuộc sống của tôi phải bắt đầu bằng cafe, đường và sữa, uống bốn năm cốc trước giờ ngọ, nên ăn bữa trưa không ngon miệng; tôi bèn uống Pepsi. Vào bữa cơm tối, tôi ngẩn ngơ vì ngộ độc đường nên phải chọn vịt Trung Quốc hay tôm hùm để ngon miệng. Tôi cố theo lối ăn của anh bạn và được tạm thời khỏe khoắn. Rồi tôi lại ăn uống rộng rãi cho tới khi bệnh nhức đầu tái phát, và lại ăn kiêng…
Đêm nọ tôi ngồi đọc được quyển sách nhỏ và hiểu đơn giản rằng: Nếu bạn bị bệnh là do bạn thôi. Cơn đau là điều cảnh báo sau cùng. Bạn biết bạn hơn ai hết rằng chính bạn hành hạ thân thể bạn, vậy ngưng ngay đi: Đường là thuốc độc, sách nói, nó nguy hại hơn á phiện, hơn phóng xạ nguyên tử. Và bóng dáng nàng Gloria Swanson với viên đường hiện ra trong tâm thức tôi. Nàng đã khuyên rằng, mỗi người phải tìm lối sống cho bản thân. Tôi không mất gì mà chỉ mất các cơn đau. Tôi bèn tống tất cả đường và món gì có đường ra khỏi nhà bếp: trái cây hộp, súp và bánh mì… tủ lạnh trống trơn, tôi chỉ ăn gạo lứt với rau củ.
11
www.SachVui.Com
Tôi bị thống khổ suốt bốn mươi tám giờ, buồn nôn, đau nửa đầu như búa bổ. Cơn đau này giống như thông điệp bằng mật mã, phaỉ mất nhiều giờ mới giải được. “Tôi phải dứt bỏ ma túy ngay”. Heroin chỉ là hóa chất. Họ lấy nước ép trái cây Anh Túc (poppy) tinh chế thành á phiện và sau cùng thành Heroin, là thuốc giảm đau. Đường là hóa chất. Họ tinh chế nước cốt của mía ép, hay củ cải đường thành mật đường, rồi thành đường vàng, sau rốt thành đường trắng toát như pha lê. Vì thế không có gỉ lạ khi các tay buôn lậu ma túy pha loãng Heroin nguyên chất với đường của sữa (lactose) để hấp dẫn thị hiếu con người. Tôi dứt bỏ hết thảy: đường, Aspirine, cocain, caphêin, clo, flo, natri, bột ngọt, các món có tên dài thượt trên nhãn hiệu, tôi vứt tuốt ra thùng rác.
Hai mươi bốn giờ đầu tôi rất vất vả, mệt lả, ướt đẫm mồ hôi, run rẩy, nhưng hôm sau thức dậy tôi cảm thấy như được tái sinh. Hương vị hạt và rau củ giống như món quà của thiên thần.
Những ngày kế tiếp là những ngày huyền diệu nối tiếp. Hậu môn và nướu răng hết chảy máu. Màu da tôi sáng lên, mịn màng sau khi rửa mặt. Xương bàn tay và bàn chân lộ ra. Tôi thức dậy thật sớm, lúc trước chưa từng được như thế. Đầu óc sáng suốt hơn, chả có vấn đề gì rắc rối cho tôi. Áo sơ mi trở nên quá rộng, giầy cũng vậy. Một buổi sáng khi cạo râu tôi sờ thấy xương hàm.
Tóm lại từ hai trăm cân Anh tôi tụt xuống còn một trăm ba lăm trong 5 tháng- thân hình mới cuộc sống mới. Bữa nọ tôi đốt thẻ hội viên Blue Cross. Cùng lúc ấy tôi thấy ảnh Gloria Swanson trên tờ New York times, tôi liền viết cho Cô một bức thư: “Cô đã nói đúng, rất đúng, trước kia tôi không hiểu, bây giờ tôi đã thấu suốt thông điệp của Cô”.
Đó là thập niên 1960. Từ dạo ấy tôi vĩnh biệt đường, bác sĩ, bệnh viện và thuốc men. Bây giờ mỗi khi thấy ai bốc giấy bao viên đường, tôi bèn giật cả người, y như nàng Gloria Swanson hoảng hốt trong buổi cơm trưa họp báo trước kia. Tôi mong sao túm được cổ áo người ấy đưa đến chỗ thanh vắng để bảo cho cách trị lành dễ dàng chứng “Khổ ách vì đường” (Sugar Blues).
Ôi Sugar Blues, nỗi khổ vì đường,
Tâm cuồng loạn, lạc hướng
Mọi người đồng thanh hợp xướng
Tôi hảo ngọt, bị Sugar Blues
Tôi bất hạnh, tôi đớn đau. Thêm đường đi mà!!!
Tôi gục ngã, ôi tang thương!
Tôi mắc chứng Sugar Blues .Ai nói sao cũng được…
Ngọt ngào rồi khổ đau!
12
www.SachVui.Com
Every body‟s singing the Sugar Blues
But I‟m all confused
I‟m so unhappy, I feel so bad I‟ve got the sweet, sweet Sugar Blues I could lay me down and die More sugar!
You can say what you choose I‟ve got the sweet, sweet Sugar Blues!
Bản nhạc Sugar Blues xuất bản năm 1923, thời điểm mà Mỹ Quốc rung chuyển vì vụ tai tiếng Tea Pot Dome, và hằng trăm triệu nạn nhân tiểu đường hân hoan chờ phép lạ: thần dược INSULIN.
1923 cũng đánh dấu thời hoàng kim của luật cấm rượu. Khi say rượu là phạm pháp thì lượng đường tiêu thụ tăng vọt. Nhưng những người bài xích rượu lại thường hay nghiện đường. Họ thề không để rượu dính môi, rồi khi đường vào bụng lại biến thành rượu.
Giống như bao sự báo ứng khác, các thứ rượu Gin (LND: gin còn có nghĩa là cạm bẫy), cần sa, bạch phiến, heroin, và đường tinh chế đều có cùng màu trắng. Lời bản nhạc Sugar Blues khéo mang ý nghĩa rằng đời người luôn phân thành hai cực đối nghịch: ngọt rồi nguy, biết hại mà lại khoái. Bản Sugar Blues làm nổi bật thân phận con người. Năm mươi năm sau nó xứng đáng được mang tên một hành tinh chứa toàn loài người bị tai họa nghiện ngập. Những thi sĩ, đặc biệt là những người viết quốc ca, thường đi trước các y sĩ và chính khách để tìm đúng cái tên đặt cho một chứng bệnh gây thảm sầu cho nhân loại.
Tôi không tìm khám phá hay tiết lộ trên các trang sách. Sau đây tất cả những gì tôi muốn biết về đường, và có lo sợ khi tìm được. Tuy nhiên tôi đã biết khá đủ để kết luận rằng cái gì đã đưa vào lịch sử y khoa phải được xét lại và đại tu. Chiếu theo trật tự vũ trụ, đường tinh chế nhân tạo, cũng giống như nhiều sự việc khác, đang đóng một vai trò. Có thể các con buôn đường là những kẻ sát nhân, dẩn chúng ta vào cám dỗ, bán cho ta thuốc giết người ngọt ngào, đưa những ai ưa tìm hoan lạc vào tai họa hủy diệt, làm sạch cỏ địa đàng, để thiên nhiên chọn người đức độ cho sống sót, số còn lại phải vào trận lụt kinh hoàng như trong thánh kinh đã nói. Lần này không phải nước lã mà là nước Coca, Pepsi và Dr Pepper để thanh lọc loài người và lập lại đời mới.
Kinh Cựu Ước ghi Hồng Thủy trận,
Diệt loài người tàn ác gian manh.
Nay tái phạm loạn luân, kiêu mạn,
Coca, nước ngọt thay Thủy Hồng.
Lê Công Thình (Diệu Tín Liên Châu)
13
www.SachVui.Com
Chƣơng II : MÍA VÀ LỊCH SỬ
(The Mark Of Cane )
Vì háu ngọt nên loài người lầm than trong chiến chinh đẫm máu. Vì háu ngọt nên loài người để mía viết nên chiến sử tàn khốc. Vì mê ngọt nên nhiều tu sĩ các tôn giáo bị lầm lạc, sa đọa…
Khách phong trần cũng có lúc gợi nhớ quê xưa.
Trong lúc hoạn nạn đắng cay, con người cũng có khi mơ về cuộc sống du mục hồn nhiên của thời ông Ađam. Cuộc sống êm đềm ấy có thể là huyền thoại, nhưng hình như đã in sâu vào tâm hồn con người. Ôi! thời mà Thiên Đàng nơi kinh Cựu Ước, thời hoàng kim của Lão giáo và Phật giáo. Có lẽ Vườn Địa Đàng mỹ lệ hơn các vương quốc ở Trung Đông và hình như vườn này rộng lắm thì phải? Có thể vùng này đã trải dài từ các đảo ở Đông Nam Á Châu đến tận vùng đất ở Tây Tạng?
Thánh kinh bật mí cho ta thấy vài sự kiện:
1. - Con người sống an nhiên tự tại trong ân sủng của thiêng liêng. 2. - Không đô thị: Văn minh rốt cuộc chỉ là nghệ thuật sống trong các đô thị bẩn chật; thuở xưa đâu có cái văn minh ấy.
3. - Không bệnh tật: Vào thời thánh thư, tuổi thọ loài người vượt xa tuổi thọ trung bình thời nay.
Các biểu đồ của ngành Triết y Đông phương thời cổ có ghi chép những kinh mạch dùng trong khoa châm cứu và trình bày ý nghĩa của các nốt ruồi. Nốt ruồi ở vị trí bốn giờ dưới mí mắt phải của phái Nam và tám giờ dưới mí mắt trái của phái Nữ giúp ta tiên đoán một tai họa có thể xảy ra: chết vì bạo bệnh.
Vào thời đó người ta chết tự nhiên như ngủ luôn không bao giờ thức dậy. Sau rốt đường tinh chế lúc ấy không can dự gì đến thức ăn, người ta chỉ dùng đường thiên nhiên. Củ sâm được dùng với đường thiên nhiên (Tổ tiên người Mỹ đã biết phẩm chất huyền diệu của củ sâm, nhờ người da đỏ chỉ bảo. Họ pha trộn óc của loài sóc với sâm để trị vết thương súng đạn… ). Bộ Luật của Thánh Mose, Giáo Luật Manu, Kinh Dịch, Hoàng Đế Nội Kinh, Tân Ước, Kinh Koran,… không nói đến đường.
Lời sấm truyền cho ta biết chút ít về giống mía thời ấy: “Nó thật hiếm có, và xa xỉ” . Có thể nước Ấn Độ trồng được cây này. Các huyền
14
www.SachVui.Com
thoại của những giống dân sống ở Thái Bình Dương, từ Hạ Uy Di xuống tới Tân Tây Lan, có đề cập nhiều đến mía. Có đủ bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã ép buộc Ấn Độ đem mía triều cống cho họ. Các xứ ngoài vòng đai nhiệt đới không thành công bao nhiêu về việc trồng mía. Một đoạn trong kinh Atharva Veda là một khải hoàn ca đề cao chất ngọt: “Ta ban thưởng nhà ngươi cây mía để ngươi trìu mến ta”. Ấn Độ xưa kia kính trọng bò như vật linh thiêng nên bò được ăn mía như người. Đường được dùng chung với bánh mì chapatti hay nêm canh. Về sau dân quê uống nước mía ép như người Da Đỏ ở Bắc Mỹ châu khoái uống sirô lấy từ cây phong (maple).
Thuở ấy, tiếng Hy Lạp chưa có chữ đường . Các thủy thủ dưới thời Alexander Đại Đế (năm 325 trước Thiên Chúa), khi xuôi dòng sông Indus, xem mía như cây chứa mật ong; có khi họ gọi đường cục là „muối Ấn Độ‟ vì nó cũng giòn. Người La Mã gọi nó bằng chữ Latinh: „Saccharum Dioscoride‟, và diễn tả Đường như mật ong ở thể cứng.
Phân khoa y dược ở Đại học Djondisapour (Đế Quốc Ba Tư rất hãnh diện về phân khoa này) là nơi đã tìm ra cách thanh lọc và làm đặc nước mía. Không khí và thời gian không làm dậy men sản phẩm này, nhờ vậy việc chuyên chở và mậu dịch được dễ dàng (khoảng chừng năm 600 trước Thiên Chúa). Trung Hoa dưới đời vua Tần đã cho nhập cảng những „hòn mật ong‟ (stone honey) từ Bokhara (thuộc Liên Sô cũ) là nơi mật mía được hớt bọt cẩn thận, rồi trộn với sữa để làm thành món ngon, và sang trọng cho vua chúa. Thuở ấy đường được dùng làm món thuốc kỳ diệu, quí giá, hiếm hoi, hết sức cần thiết trong lúc có tai ương hay bệnh dịch.
Trong khi tiếng Latinh thời Trung cổ dùng từ ngữ Đường (mà các xứ phương Tây dùng sau này) để diễn tả một miếng gì quí giá, một món gì có dược tính thần hiệu, thì tiếng Phạn dùng từ ngữ Khanda để diễn đạt ý tưởng muối Ấn Độ (Indian Salt). Anh ngữ biến Khanda thành Candy.
Hết vinh rồi đến nhục, đế quốc Ba Tư, cũng như bao đế quốc khác, phải chịu qui luật nghìn đời này. Khi quân Hồi chiếm vương quốc ấy thì chiến lợi phẩm quí giá nhất là khám phá được bí quyết chế biến mía thành dược phẩm. Về sau, người Árập khai triển công nghiệp chế biến Đường này.
Mohamed mất vì cảm sốt. Người kế vị nuôi mộng bá chủ hoàn cầu với đoàn quân chỉ có vài ngàn người. Ông là người cầm quân xuất sắc nhất Đông Tây. Trong vòng 125 năm, vương quốc Hồi mở rộng ra từ Sông Indus đến Đại Tây Dương, kể cả xứ Tây Ban Nha, từ Kashmir (Ấn Độ) đến phần đất phía trên của Ai Cập. Vị quân vương đắc thắng cưỡi
15
www.SachVui.Com
ngựa vào thành Jerusalem với một túi lúa mạch, một túi chà là và một túi nước lã bằng da thú.
Sử chép rằng vua Omay Yad Caliph Walid II đã chế nhạo kinh Koran, mặc quần áo kỳ dị, ăn thịt heo, uống rượu vang, bỏ bê hành trì kinh kệ và cho phổ biến các thức uống có pha đường. Quân Árập chiếm đóng mang theo gạo của xứ Ba Tư và những khúc mía lấy của Ấn Độ. Họ chủ trương trồng mía thực tế hơn nhập cảng đường từ nơi xa xăm.
Dân của vương quốc Hồi Giáo chẳng bao lâu mắc nhiều bệnh mới lạ, khó trị nên buộc lòng họ phải tách rời khoa học ra khỏi tôn giáo. Từ đó y khoa và phẫu thuật tạo được nhiều kỳ công. Họ bắt đầu sử dụng thuốc gây mê, khởi xướng khoa học hóa chất, nhận thức được trị số của số không (0), tái khám phá ra Đại số học, xúc tiến khoa Thiên văn, phát minh ra cồn, khai triển ngành kim khí và dệt, đẩy mạnh kỹ nghệ thủy tinh, sành sứ và da thuộc và cho sản xuất theo phương thức của Trung Hoa. Chính Trung Quốc góp sức xây dựng nền văn minh Tây phương với giấy và đường.
Và chính Đường đã gây sự suy tàn của Đế quốc Ả rập. Kinh Koran của Thánh Elijah Mohamed, nhà tiên tri, không nói đến đường. Tuy nhiên những quân vương kế thừa, hiếu chiến nhất lịch sử, ra lệnh làm những thỏi đuờng và nhiều thứ nước uống ngọt ngào để dâng lên triều đình và cung cấp cho binh đội. Một nhà bình luận Âu Châu tin rằng đạo quân Árập đã mất nhuệ khí vì ăn quá nhiều đường.
Leonhard Rauwolf, nhà thực vật học người Đức, năm 1573 có viết trong nhật ký: “Quân Thổ Nhĩ Kỳ và quân Moor ăn hết miếng đường này đến miếng đường khác ở khắp các nẻo đường, không tỏ vẻ gì hổ thẹn. Cứ theo lề thói này thì họ sẽ mê ăn và chả còn gì là dũng sĩ thời trước nữa”. Ông nhận xét hậu quả của tật nghiện đường của Quân đội đế quốc Thổ giống như các quan sát viên cận đại tiên đoán sự bại trận của lính Mỹ nghiện heroin và marijuana ở Á châu vậy. Đây là lời cảnh cáo đầu tiên của cộng đồng khoa học về việc lạm dụng đường.
Vào thời kỳ hưng thịnh của đế quốc Hồi, đường là đề tài hệ trọng nơi chính trường; người ta bán rẻ linh hồn cho nó. Đường đã đánh gục quân Ả rập, giờ đây quân Thập Tự chinh cũng bị thảm bại vì mê mệt “thứ nước sốt ngọt lịm”. Các Hoàng Đế Âu Châu nhận thấy các Đại sứ của họ ở triều đình Ai Cập đã hảo ngọt và bị mua chuộc bằng đường, nên bãi chức và triệu hồi về nước.
Cuộc viễn chinh trọng đại của quân Thập Tự kết thúc vào 1204. Vài năm sau, tại thánh đường Lateran ở La Mã, Hội thánh lại dự trù tổ chức Thập Tự chinh để trừng phạt bọn ngoại đạo và bọn Do Thái. Năm 1306
16
www.SachVui.Com
Đức Giáo Hoàng Clement V, đang bị đày ở Avignon, nhận được thỉnh nguyện thư yêu cầu ngài phục hồi uy danh cho Thập Tự Quân, như thời hoàng kim của đoàn quân này trước kia. Thỉnh nguyện thư được sao nhiều bản và gửi trình các vua xứ Pháp, Anh và Sicile, nhằm khơi động „Chiến lược đường‟ để thanh trừng bọn Árập xảo trá.
“Mía được trồng khắp nơi trên đất Hồi giáo, cho nên triều đình rất giàu có. Nếu chiếm mấy vùng ấy, ta cũng gây tổn thất nặng nề cho triều đình của họ và đồng thời thánh địa chúng ta đang ở sẽ được đảo Cyprus (Địa trung Hải, phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ) tiếp tế đầy đủ. Mía đã trồng ở Morea, Malta và Sicile, nay mía phải được trồng ở các vùng Cơ Đốc giáo khác. Không có chi là e ngại vì chúng ta là người Cơ Đốc giáo. ”-
Nghe cái lối thuyết phục quỷ quái này, chắc có lẽ người Cơ Đốc giáo nào cũng muốn vội vã chạy đến trái cấm để cắn một miếng thật to! Và hậu quả tất yếu là suốt 7 thế kỷ, 7 tội trọng đã quấy nhiễu 7 biển, dựng nên chế độ nô lệ, gây bao cảnh diệt chủng và bao tội ác có tổ chức khắp nơi.
Noel Deerr, sử gia người Anh, nói toạc ra: “Mua bán nô lệ là cách làm giàu trên xác chết. Trong 20 ngàn phu da đen, hết 2/3 bị buộc tội chống đối kế hoạch sản xuất đường”.
Trên mặt trận cạnh tranh đường, Bồ Đào Nha đứng ngay tuyến đầu. Khi quân Thổ Nhĩ Kỳ chiếm bán đảo Iberia (thuộc Tây Ban Nha), họ đem mía vào trồng.
Đồn điền mía lớn nhất nằm ở tỉnh Granada và Valencia. Nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Ông Henry, đi thám hiểm bờ phía Tây của Phi Châu để tìm đất trồng mía. Ông không thấy nơi nào vừa ý, mà chỉ thấy những thân người đen bóng, đủ sức làm việc dưới nắng gay gắt miền nhiệt đới. Năm 1444, Henry đem 235 người da đen từ Legos (thủ đô của Nigeria – Phi Châu) đến Seville (thành phố miền Nam Tây Ban Nha) để bán nô lệ. Từ đó trang lịch sử mua bán nô lệ bắt đầu mở ra.
Mười năm sau, Giáo Hoàng bị xúi dục nhúng tay vào việc buôn nô lệ. Bọn Hồi giáo, bọn tà giáo, bọn Do Thái, và bọn phản nghịch Chúa Kitô đều bị bắt nhốt để biến thành nô lệ, vì lý do thật đơn sơ: „để cứu rỗi linh hồn họ. ‟Mồ hôi của đám phu da đen đã nới rộng diện tích các đồng mía ở Madeira (đảo ở biển gần Maroc, Phi châu) và các đảo Canary (gần Madeira) để tô điểm cho đế quốc Bồ Đào Nha „theo ý trời‟. Một thi sĩ da đen trích trong tập thơ CANE (cây mía hay cây gậy đánh người) của Ông, mấy câu sau đây để viết lên tường:
Ôi! nhóm người da trắng tội lỗi
Bóp méo Thánh Kinh, lừa dối dân lành.
17
www.SachVui.Com
Năm 1546, Bồ Đào Nha nắm quyền kiểm soát mua bán đường ở châu Âu. Tây Ban Nha là nước láng giềng cũng bám sát đàn anh. Khi quân Moor rút lui khỏi xứ này, họ để lại cả rừng mía ở Granada và Andalusia (2 tỉnh miền Nam Tây Ban Nha).
Năm 1493, khi trở lại Tân thế giới, Christopher Columbus đem theo vài khúc mía theo chỉ thị của Nữ Hoàng Isabella. Trong quyển sách viết về chuyến đi này, Peter Martyr xác nhận là đoàn thám hiểm tìm thấy mía mọc trên các đảo Hispaniola (biển Caribê). Columbus đề nghị đem thổ dân ở các đảo này về làm việc tại các đồn điền mía. Nữ Hoàng không đồng ý nên hai chiếc tàu đã chở đầy dân nô lệ phải quay về biển Caribê. Nữ Hoàng băng hà. Vua Ferdinand cho tuyển mộ một thành phần nô lệ Phi Châu để phát triển kỹ nghệ đường Tây Ban Nha, năm 1510. - Vào thời điểm này, Bồ Đào Nha trồng mía ở Brazil bằng công sức của nô lệ. Họ dùng mưu lược rất thâm. Trong lúc dân Do thái, các Thầy Chữa Miệt Vườn, và nhiều người tà đạo bị thiêu sống, thì Bồ Đào Nha mở toan các cửa ngục, đưa hết tội phạm sang Tân Thế Giới. Tù nhân khổ sai được khuyến khích giao hợp với các phụ nữ nô lệ để gây ra giống tạp chủng đủ sức sống trong môi trường oi bức của các đồng mía.
Các con buôn giang hồ Hòa Lan nhập cuộc vào năm 1550. Họ hạ giá chuyên chở bằng tàu thủy, và bán chịu nô lệ, tiền mua sau này trả cũng được. Chẳng mấy chốc họ thiết lập được nhà máy đường ở Antwerp. Họ mua mía khắp nơi và bán đường cho các xứ vùng biển Baltic, Đức và Anh.
Năm 1560 vua Charles V của Tây Ban Nha cho xây nhiều đền đài lộng lẫy ở thủ đô Madrid và ở Toledo nhờ thuế đường. Không có sản phẩm kỹ nghệ nào ảnh hưởng đậm đà vào chính trường Tây phương cho bằng Đường.
Uy quyền và giàu sang của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lên tột đỉnh. Cũng như các vương quốc Árập trước kia, họ phải theo luật tuần hoàn vũ trụ để chịu suy vong. Thích trèo cao thì phải chịu ngã nặng, lên nhanh thì xuống cũng nhanh. Và chỉ nhìn thấy vua chúa háu ngọt, ta cũng có thể đoán biết được ngày tàn của họ sắp đến.
Đế Quốc Anh đứng im chờ cơ hội. Lúc đầu Nữ Hoàng Elizabeth I do dự việc chấp thuận cho thi hành chế độ nô lệ ở các thuộc địa vì „sợ oán hận thiêng liêng đối với Vương quốc của Bà‟. Đến 1588, Bà phê chuẩn phần phụ chương hiến pháp nhằm công nhận cho Công Ty Hoàng Gia được độc quyền mua bán nô lệ ở miền Tây Phi Châu.
Quân Tây Ban Nha đã tiêu diệt thổ dân ở các đảo West Indies (Vịnh Caribê) để đem dân Phi Châu vào trồng mía. Bất cứ ai muốn vay 500$
18
www.SachVui.Com
tiền vàng để xây nhà máy làm mật mía đều được chánh phủ chấp thuận. Lúc ấy hạm đội Anh đến đánh đuổi quân Tây Ban Nha và đặt ách đô hộ lên bản xứ qua hình thức ký hiệp ước. Dân nô lệ rút lên núi để đánh du kích. Người Anh cho làm rượu Rum bằng nước mía dậy men. Họ đem rượu rum lên Bắc Mỹ Châu để đổi lấy da thú của người Da Đỏ chất phác, rồi đem da thú ấy sang Âu Châu, bán giá gắp trăm lần giá mua.
Công ty của Nữ Hoàng thường cho các tay mạo hiểm tìm dân nô lệ dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu để bán cho mấy ông chủ đồn điền mía ở vùng biển Caribê để mua thêm đường, mật mía và rượu rum với giá rẻ. Rum cho dân Da Đỏ ở Hoa Kỳ, đường và da thú cho Âu Châu, mật mía cho các thuộc địa. Kế hoạch thương mại tam giác này cứ tiếp diễn cho đến lúc các đảo Barbados (Caribê) và các thuộc địa khác trở nên cằn cỗi, không còn loại hoa mầu nào ngốc đầu lên nổi.
Đường là nguồn lợi rất khổng lồ nên khoảng 1660, Anh Quốc chuẩn bị chiến tranh để chiếm ưu thế.
Bộ luật hàng hải ban hành năm 1660 cấm chuyên chở đường, thuốc lá và các món hàng khác từ thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ Châu (tức Hoa Kỳ) đến bất cứ hải cảng nào không thuộc xứ Anh, đến Ái Nhĩ Lan, hay các thuộc địa khác của Anh. Lúc ấy thuộc địa Bắc Mỹ muốn tự do mậu dịch với các cường quốc Âu Châu; nhưng mẫu quốc (Anh) lại muốn bảo vệ quyền lợi riêng tư và giữ độc quyền chuyên chở đường thủy. Thuộc địa Bắc Mỹ không có võ lực nên Vương Quốc Anh làm chủ đại dương và kiểm soát doanh nghiệp đường. Chữ Đường được truyền miệng vào Anh ngữ thành chữ Sugar.
Sugar lại đồng nghĩa với Tiền.
Có vài người viết sử Hoa kỳ lý luận rằng chính thuế đánh vào trà mới gây nên chiến tranh dành độc lập của Mỹ quốc, nhưng các sử gia khác lại bảo nguyên do là tại Đạo Luật Mật Mía. Năm 1733 cho phép đánh thuế nặng nề vào đường và mật mía của các nơi nào không là thuộc địa của Anh. Mấy ông chủ tàu buôn ở New England (Hoa Kỳ) cho chở rượu rum đến Phi châu để đổi lấy người da đen rồi đem họ về bán cho mấy ông chủ người Anh ở Caribê. Từ chỗ này mật mía được đem về Hoa kỳ làm rượu rum để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng. Lúc ấy mỗi người dân Hoa Kỳ (kể cả đàn bà và trẻ nít) trung bình hằng năm dùng bốn galông rượu rum.
Đạo Luật Mật Mía (1733) chẳng những làm suy thoái ngành thương mại Hoa kỳ mà còn làm khổ bao nhiêu người làm rượu rum. “Trước khi đến Âu châu thùng đường nào cũng đẫm máu và nước mắt của dân nô lệ. Nếu biết được điều này mấy ai không khổ tâm khi
19
www.SachVui.Com
định vui hưởng các món ngọt ngào. “Triết gia người Pháp, Claude Adren Helvetus viết câu này vào giữa thế kỷ 18 khi Pháp nhập cuộc tranh giành đường. Đại Học Sorbone lên án ông. Nhiều tu sĩ đệ trình ý tưởng độc hiểm này của ông lên triều đình. Ông phải xin từ bỏ ý tưởng ấy để vớt vác lại địa vị. Tuy nhiên ý tưởng ấy đã làm Âu châu tỉnh ngộ. Ông dám nói cho thiên hạ nghe điều mà họ chỉ dám nghĩ thầm.
Ba thế kỷ sau (1792) Âu Châu đã thúc tỉnh đến độ lập ra „Hội Chống Đường‟ (Anti Saccharite Society) đầu tiên. Phong trào tẩy chay đường lan rộng toàn Âu Châu. Các công ty Anh Quốc ở Đông Nam Á (Mã Lai, Singapore, Đông Dương, Miến Điện, Ấn Độ) làm ăn phát đạt nhờ Á phiện. Họ bèn loan truyền khẩu hiệu: “Đường ở vùng East Indies của chúng tôi không cần mồ hôi lao động của nô lệ” để đề cao lòng nhân từ của họ. Nhà sản xuất đồ sứ gốm, B. Henderson Rye Lane Peckham đã kính cẩn thông báo cho các thân hữu ở Phi châu rằng bà đang cho bán các sản phẩm dùng đựng đường có khắc khẩu hiệu vừa nêu trên. Họ còn hô hào: Gia đình nào mỗi tuần ăn năm cân Anh đường của East Indies (Caribê) suốt 21 tháng thì được xem như không ủng hộ hành vi bắt hay giết một nô lệ. Tám gia đình dùng một lượng đường như thế trong 19 năm rưỡi sẽ giúp cho 100 người nô lệ khỏi bị bắt hay bị giết.
Đế quốc Anh thuở ấy là trung tâm kỹ nghệ đường của thế giới ; ở các đế quốc khác đường là dược liệu quí báu. Món gì ta ưa thích đều trở thành món cần thiết. Thói mê ngọt trói ta vào nhu cần ăn ngọt. Đường và nô lệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Bênh vực nô lệ cũng là đề cao thói khoái đường của mình.
Khi đám nô lệ nổi loạn ở các đảo vùng vịnh Caribê thuộc Anh thì dân da trắng bèn xin Hoàng Gia cứu giúp. Quốc Hội bàn tàn xôn xao: “Ta không thể để mấy thuộc địa làm cản trở nguồn lợi phong phú của đất nước ta như thế này”. Một chính khách có máu mặt cũng dõng dạc nói : “Việc mua bán dân da đen đem lại cho nước ta sự giàu có và một hải lực hùng hậu. ”
Xưa kia khi đường bắt đầu nhập vào nước Anh thì giá đắt đỏ. Mỗi cân Anh giá 25 bảng Anh, bằng lương một năm của công nhân. Vào khoảng năm 1300, vài lần ăn đường cho thỏa thích thì tiền phải trả độ chừng 1/3 chi phí buổi lễ an táng trọng thể. Đến triều đại Elizabeth I thì giá còn phân nửa. Năm 1602, giá một cân đường bằng một chục đủ đầu trứng gà. Trong vòng một thế kỷ, từ 1700 đến 1800, lượng đường tiêu thụ ở Anh tăng 8 lần, (từ 20 triệu cân lên đến 160 triệu cân). Sau đó bánh mì và đường được tiêu thụ cùng cân lượng. Mỗi người ăn 72 cân một năm.
20
www.SachVui.Com
Hoàng Đế Napoleon Bonaparte tô đậm nét lịch sử của đường. Tức giận vì con buôn ở Venise bóc lột, Ông bèn chú tâm vào việc khai triển kỹ nghệ đường. Từ năm 1700, đường là món hàng xuất cảng quan trọng nhất và đem lại phồn thịnh cho nước Pháp. Anh quốc bèn phong tỏa nguồn nguyên liệu nhập vào Pháp bằng Hải quân, nên kỹ nghệ đường phải ngưng trệ, giá đường lên tận trời xanh, chỉ vua chúa mới ngậm được kẹo. Đoàn quân Napoleon, như thời quân Hồi Giáo xưa kia, rất thèm ngọt, lúc họ tung hoành khắp Âu Châu. Napoleon kêu gọi các nhân tài hợp tác giải quyết vấn đề.
Năm 1747 khoa học gia Đức Franz Carl Achard thí nghiệm cây phòng phong đem từ Italy về, nguồn gốc của nó có thể là ở Babylonia. Vua nước Phổ, Frederic William III bảo trợ công tác của Achard. Tuy các khoa học gia Pháp, dưới áp lực của cuộc phong tỏa của Hải quân Anh, và để đặc biệt tuân hành chỉ thị đặc biệt của Hoàng Đế, đã dày công nghiên cứu. Benjamin Delassert đã thành công biến củ cải ngọt Babylonia thành các thỏi đường tại Plassay, năm 1812. Napoleon tặng huy chương danh dự cho Ông, rồi ra lệnh trồng củ cải đường trên toàn nước Pháp. Hoàng Đế cũng cho xây dựng nhà máy đường, cấp học bổng cho chuyên khoa củ cải ở các Đại Học. Năm trăm lò đường được cấp giấy phép hoạt động. Ngay năm sau, Pháp đạt thành quả rực rỡ với 8 triệu cân đường làm với củ cải trồng trên đất nhà. Quân viễn chinh Pháp được tiếp tế đầy đủ đường để chuẩn bị tiến vào Moscow.
Nhưng, cũng như quân Moor trước kia, họ phải chịu thảm bại trên đường Bắc tiến. Đoàn quân thiện chiến Pháp không quen với khí hậu băng giá khắc nghiệt, lại bị đường phá sức, phải tháo lui khi đối đầu với quân kháng chiến chưa bị „oải gân‟ vì đường pha với nước trà. Ôi! ngọt mật chết ruồi.
Napoleon đã phá vỡ kế hoạch phong tỏa nguyên liệu mía của Anh. Tín đồ Quakers ở Anh bèn nhảy qua việc trồng củ cải đường, cũng để tỏ thái độ chống chế độ nô lệ. Các cơ sở trồng mía ở mấy thuộc địa phản đối kịch liệt, củ cải phải vứt cho bò ăn.
Đến thế chiến thứ nhất việc chuyên chở bằng tàu bị kẹt, nên củ cải mới ngóc đầu nổi.
Pháp là nước đầu tiên bãi bỏ mậu dịch nô lệ qua sắc luật năm 1807, gần 1/4 thế kỷ sau Anh mới đặt ngoài vòng pháp luật chế độ nô dịch tại các thuộc địa chỉ trừ Bắc Mỹ châu. Các đồn điền mía ở Barbados và Jamaica (Caribê) bị phá sản. chính phủ Anh bồi thường cho mấy ông chủ từ 75 đến 399 bảng Anh mỗi đầu người da đen. Đến 1846 đám da đen thức tỉnh nổi loạn. Lao công ở các đảo vùng biển Đông Nam Á (East Indies) được chiêu mộ để thay thế.
21
www.SachVui.Com
Nhưng khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ đang chờ thời. James Watt đã hoàn tất động cơ dùng hơi nước. Figuier thành tựu phương pháp làm than bằng xương thú vật, và Howard sang chế nồi phi áp suất (chân không). Tuy nhiên còn cần đường thì còn cần nô lệ. Củ cải đường phải trồng, thái mỏng và ngọn cây phải hớt bằng tay người, mía phải săn sóc và đốn bằng tay người, và chỉ có người da đen mới chịu nổi nắng miền xích đạo, quê hương của mía.
Khi Hiệp Chủng Quốc (Hoa Kỳ) bắt đầu làm ăn lớn lao với thuộc địa riêng của mình là Cuba thì cũng là lúc họ thoát khỏi ách cai trị của Anh. Cuba là nước nhược tiểu điển hình sống bám theo kinh tế của một cường quốc. Nhờ đất đai phì nhiêu, Cuba cung cấp khá nhiều nguyên liệu cho nền kỹ nghệ đồ sộ của Hoa Kỳ. Xưa kia đường màu nâu có vị tươi mát tự nhiên. Ngày nay những nhà máy lọc đường khổng lồ dùng xương thú vật để chế ra đường trắng như thủy tinh.
Tiểu bang Louisiana có trồng mía, nhưng không phải đó là nguồn lợi quan trọng. Quan trọng cho ngân sách liên bang là thuế. Thuế đánh vào hàng tiêu dùng (đây là nguyên do cuộc dấy loạn vì rượu whiskey) và vào hàng nhập cảng mới được nhiều tiền; 90% đường tiêu dùng ở Hoa Kỳ đều nhập từ Cuba. Thuế đoan cho đường nhập là 2 xu một cân Anh; thuế này đóng góp vào 20% của ngân quỹ Liên Bang. Chẳng mấy chốc Hoa kỳ đã vượt anh Quốc rất xa về lượng đường, hơn cả lượng đường của toàn thế giới năm 1865. Vào khoảng 1920, năm mà chính phủ cấm sản xuất rượu vì hạnh phúc toàn dân, thì lượng đường tăng gấp đôi, và cứ tăng mãi và cơ thể người dân cứ chịu thêm khổ ách chưa từng có trong lịch sử loài người.
Kỳ lạ thay á phiện và đường luôn kề vai nhau. Cả hai đều gây nghiên ngập cho con người, đều cho cảm giác mê ly và đều được dùng trị bệnh. Buôn lậu á phiện song song với mậu dịch đường hình như bắt đầu ở Ba Tư. Chính người Árập loan truyền các chất này đi khắp nơi theo vó ngựa viễn chinh của họ. Vài thế kỷ sau, từ món thuốc trị bệnh, các chất ấy trở thành mê ly. Người Trung Hoa bắt đầu hút á phiện vào thế kỷ 17. Tàu buôn Bồ Đào Nha đem đường và á phiện vào Trung Hoa đầu tiên. Sau đó Anh quốc thay thế.
Xưa kia triều đình Trung Hoa chỉ khuyên dân chúng nên hạn chế uống rượu, nhưng đến 1760 thì cấm ngặt không cho mua bán á phiện. Anh bèn gây chiến với Trung Hoa (Anh giữ độc quyền trồng á phiện ở các đảo East Indies. Đó là kho bạc của Anh) Hiệp ước Nam Kinh (1842) chấm dứt chiến tranh nha phiến. Nhưng đến 1858, Trung Hoa lại nhập á phiện theo yêu cầu của Anh.
22
www.SachVui.Com
Lúc ấy ngành hoá học đưa ra thị trường: đường cát trắng và bạch phiến. Đồng thời cuộc cách mạng kỹ nghệ làm ra được nồi sấy khô sữa, trái cây, và cũng sáng chế kịp thời kim tiêm thuốc và ống chích để trị các bệnh “văn minh”. Thời ấy chích morphine là cách trị vạn năng, kể cả bệnh dành cho các giống dân ăn ngọt suốt ngày: Tiểu Đường. Sau chiến tranh Nam Bắc ở Hoa Kỳ, tật nghiện Morphin được gọi là bệnh của quân đội. Hằng ngàn binh sĩ đã giải ngũ mà không giải nổi tật nghiện ma túy. Lại còn thêm tật thèm sữa đặc có đường nữa.
Khoa học tiến thêm một bước đáng kể: tinh chế bạch phiến thành thuốc giảm đau. Y khoa đón tiếp niềm nở phát minh này. Món thuốc đầu tiên mang tên đa vận, rồi rút gọn thành Heroin. Heroin có trị lành tiểu đường? Bác sĩ nha khoa Robert Boesler ở New Jersey có nói vào năm 1912: Việc sản xuất đường bằng kỹ nghệ tân tiến đích thực đưa đến nhiều bệnh mới. Đường trắng chỉ là axít đậm đặc được kết tinh. Trước kia đường mắc mỏ nên chỉ người giàu mới mua được, nay giá đường đã hạ nên đã gây suy thoái sức khoẻ quần chúng. Đã đến lúc cần tỉnh giác quần chúng. Sự mất sinh lực do dùng đường ở thế kỷ qua (19) và đầu thế kỷ này (20) không bao giờ bù đắp được vì di chứng đã lưu lại trên chủng tộc rồi.
Rượu được sử dụng hằng ngàn năm nay mà không gây biến tính cho nòi giống. Rượu không chứa axít độc hại. Cái gì bị đường tàn phá thì vô phương cứu gỡ.
Nhà văn hài hước nổi tiếng của Hoa kỳ, Mark Twain có viết nhật ký vào khoảng 1840: Làng tôi có hai cửa hàng bách hóa. Chú tôi làm chủ một cái. Trẻ nít đến mua món nào đáng giá từ 5 xu đến 10 xu đều được phép nhúm một ít đường bỏ vào miệng. Người nào đến mua một cái bánh Trifle (làm với hạnh nhân, kem sũa, chút ít rượu và có mứt sệt trên mặt) thì họ tự do hớp một ngụm rượu Whiskey, ít hay nhiều tùy khả năng. Tôi là đứa trẻ hay đau ốm (vì có sẵn thùng đường ở nhà) dễ mệt mỏi, tánh chợt vui chợt buồn. Thuốc men thì đủ các thứ. Nhưng bệnh này chưa khỏi thì chứng khác lại ngoi lên.
-----------oOo----------
Rượu hại chỉ say nhóm mày râu,
Quốc gia dân tộc đã điên đầu,
Phụ lão nam nhi nay hảo ngọt
Xã hội đang lùi xuống hố sâu.
D. T. Liên Châu.
23
www.SachVui.Com
Chƣơng III : TỪ XƢA – ĐẾN NAY
How we get here from there
Ngày nay hầu hết chúng ta đã nặng tình với đường nên khó tưởng tượng ra phản ứng của kẻ không ăn đường chống thói xấu của quần chúng say mê đường.
Trong quyển "Bên kia bờ sông Chind Wind" (Miện Diện), tác giả B. Fergusson có nói đến một người quá kiệt sức. Khi được ăn miếng kẹo thì kết quả tức khắc làm kinh ngạc mọi người, như thấy thiên thần giáng thế vậy. Lưỡi trở nên mềm mại, nhanh nhẹn, nói năng uyên bác. Đây là chất men làm say hơn cả các loại rượu và các loại thuốc độc từ xưa đến nay. Vì thế không có gì là lạ khi các ông lang Á Rập và Do Thái sử dụng đường tinh chế hết sức thận trọng. Nó làm cho hiệu năng bộ não bị suy giảm và nhận định sai lệch. Đường làm cho cơ thể uể oải và óc chai lười, gây ảo giác.
Thời nay các nhà nội tuyến học có thể giảng giải rõ ràng trình tự các thực trạng ấy.
Đứng trên quan điểm hóa học để nhận thức thì sai biệt giữa sinh và tử rất mong manh như khác biệt giữa nước rửa mặt và nước cất vậy. Bộ não là cơ quan nhạy cảm nhất. Hầu hết những gì ta đưa vào miệng đều cho ta cảm giác hưng phấn hay uể oải, an định hay nổi xung. Cho ta sự minh mẫn hay u mê điên đảo, cảm hứng hay thối chí, buông xuôi. Sức khỏe lý tưởng của cơ thể (mà bộ não là thành phần) tùy thuộc vào sự quân bình giữa lượng đường và oxy trong máu.
Bác sĩ E. M. Abrahamson và bác sĩ A. W. Pezet có viết trong quyển cơ thể tinh thần và đường, lượng đường trong máu tương đối thấp không đủ sức nuôi dưỡng các tế bào của cơ thể, đặc biệt là tế bào ở bộ não. Thực phẩm sẽ chấn chỉnh tình trạng này. Nếu các tế bào của cơ thể, đặc biệt là của óc, bị suy dinh dưỡng, thì những tế bào nào yếu đuối nhất phải chịu hậu quả khốc hại trước nhất. Trong điều kiện bình thường thì nang thượng thận tạo quân bình vi diệu giữa đường và oxy.
Khi ta dùng đường kỹ nghệ tinh chế (sucrose), vì nó có tinh chất rất giống với glucose nên khỏi cần phối hợp với hóa chất trong cơ thể, mà đi trực tiếp vào ruột (vì nó là glucose tiền chế) rồi vào máu để phá quân bình hiện hữu giữa glucose và oxy. Mức liền tăng dữ dội, cơ thể gặp khủng hoảng. Bộ não liền ghi nhận điều này trước tiên, nang thượng thận liền tiết ra kích thích tố và tuần tự phối hợp với mọi nguồn hóa chất
www.SachVui.Com
để tiếp ứng đường. Chất Insulin tiết ra từ lá lách làm hạ mức đường trong máu nhờ phụ lực của hormone từ nang thượng thận, kích thích tố của nang thượng thận can hệ đến việc tăng mức đường lên, thuận theo định luật "mọi vật đều vừa tương khắc lại vừa tương trợ". Tiến trình này xảy ra khẩn cấp. Quá nhanh sinh quá lố, mức đường hạ quá nhanh nên gây hậu quả khốc liệt, thêm một cuộc khủng hoảng tiếp nối. Lá lách và năng lượng thận phải ngưng tiết ra dịch vị, rồi thận tái hoạt động để đưa lượng đường lên mức quân bình.
Chúng ta cảm giác rõ ràng các biến động này. Khi đường vào máu ta thấy phấn chấn, tiếp theo là cảm giác mệt mỏi khi mức đường hạ thấp, nên ta phải gắng sức cử động hay suy nghĩ… mãi cho đến khi mức đường được quân bình, trong giai đoạn này óc ta sống trong hoài nghi, ảo tưởng nên dễ bị nổi xung vì chuyện không đáng chi. Khủng hoảng chồng chất khủng hoảng, khủng hoảng sau trầm trọng hơn khủng hoảng trước, đường càng dư thừa khủng hoảng càng trầm trọng. Tiếp tục thêm đường gây thêm cặp khủng hoảng mới. Khi cặp cũ chưa dứt hẳn, thế thì vào cuối ngày các cuộc khủng hoảng này gây tồn động quá ư nặng nề.
Thận phải hỏng sau bao tháng hảo ngọt vì bao nhiêu biến ứng cấp tốc.
Hormone tiết ra không đủ, toàn thể hệ thống nội tiết bị suy kiệt. Óc bị rối loạn, lấy giả làm thật, ta lừng khừng bất định, gặp phiền não, tay chân bủn rủn rã rời, vì còn đâu hệ thống nội tiết hùng hậu để giúp ta đương đầu. Ngày lại ngày, sinh hoạt của ta mất dần hiệu suất, lúc nào cũng mệt mỏi chả hoàn tất được việc gì. Ta bị khổ ách vì đường rồi đấy!
Các chuyên viên y tế, qua nhận định trên cho biết: các tế bào óc, vì tùy thuộc vào lượng đường quân bình trong máu để được nuôi dưỡng, bị hậu quả nhanh nhất. Số bệnh nhân thần kinh rất cao và cứ tăng mãi xác minh điều này.
Có ai sinh ra được sức khỏe vẹn toàn.
Một số người có cặp thận khỏe mạnh. Nhiều người khác như cố Tổng Thống Kennedy lại không được điều kiện này. Khả năng hấp thu đường và các mức độ gây tai hại của đường biến đổi tùy từng cá thể. Có điều khẳng định là cơ thể không lừa dối ta. Nếu bạn dùng đường, bạn nhận ra ngay hậu quả! – Nhà nội tiết học cận đại, John W. Tintera hỗ trợ ý tưởng vừa nêu: "Ta có đủ khả năng cải tiến sức khỏe, năng lực và nhân phẩm bằng cách tránh ăn đường bất cứ hình thức nào".
Điều này các bà Thầy Chữa Miệt Vườn thời trung cổ đã thấu suốt nhờ trực giác hay thực nghiệm gia truyền. Qua bao nhiêu thế kỷ, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thiên hạ đều nghĩ nhớ đến các Y Thuật Thiên
25
www.SachVui.Com
Nhiên. Hoàng Đế, Giáo Hoàng, các vị quý tộc giàu sụ đều có nhờ các bác sĩ ở Hải Cảng Salermo (Ý) hay các y sĩ thuộc sắc tộc Moor và thuộc giống dân Do Thái; nhưng thứ dân thì chỉ nhờ các nhà Y Thuật Thiên Nhiên, các vị Thánh Mẫu Diệu Hạnh (Saga) các từ Mẫu (Good Woman) các giai nhân (Bella Doman) mà các từ ngữ này hiện nay vẫn còn dùng để đặt tên các loại thuốc.
Phẫu thuật, thuật trường sinh, dược khoa, đã từng được các vị này sử dụng xa xưa. Y Thuật Thiên Nhiên tin rằng có định luật chi phối Vũ Trụ, và không một cánh hoa, không một loại có cây nào thoát khỏi sự áp đặt ấy. Họ là tu sĩ và giáo sĩ, bạn hữu và người láng giềng tốt bụng. Vào thời các y sĩ còn sống rải rác đó đây, nghi lễ còn hung tợn như chích lấy máu, chặt tay chân, thì các nhà Y Thuật Thiên Nhiên có đủ khả năng trị lành bệnh bằng cách phối hợp dược thảo với việc dùng bàn tay đặt vào thân bệnh nhân rồi dùng linh giác để chỉ cho cách ăn uống, nhịn ăn và nguyện cầu.
Các bà Thầy Chữa Miệt Vườn hay Nhà Huyền Thuật có đủ diệu dụng trợ sinh thúc tử. Nếu đứa trẻ èo uột, oằn oại trong tật nguyền khó nuôi, bà từ bi giúp nó ra đi bằng chiếc gối "ru giấc ngàn thu". Đối với người già nua trằn trọc trong cơn hấp hối lê thê, chiếc gối này cũng được dùng đúng lúc.
Philippus Aureolus Paracelsus, nhà y học Đức đầu thế kỷ 16, bậc thầy tổ của Goethe và Darwin, đã đốt pho sách y dược năm 1527, và tuyên bố kiến thức của ông là quà tặng của các vị Thầy Chữa Miệt Vườn.
Nhiều nhà Y Thuật Thiên Nhiên phân biệt được thức ăn lành mạnh bổ dưỡng và thức ăn chứa độc tố, nhờ sử dụng cành cây chia hai hay chia ba, hay dùng quả lắc; các loại đũa thần đấy! Những dụng cụ này cũng dùng để đo mạch nước ngầm để đào giếng. Thời nay các chuyên gia kỹ nghệ và các khoa học gia lại tái sử dụng nghệ thuật này để đo lường giá trị thức ăn: Nước ép củ cải đường cho 8500 đơn vị năng lượng bức xạ dinh dưỡng trong khi viên đường tinh chế không được đơn vị nào cả, dù số calori tàng trữ của hai nhóm này vẫn còn nguyên vẹn.
Dưới mắt các vị "Thầy Chữa Miệt Vườn", đường tinh chế là món vô dụng. Đó là món không toàn vẹn (not whole food) các danh từ Holy (thánh đức), Whole (toàn vẹn), Health (khỏe mạnh) và Hate (cường tráng) đều mang cùng ngữ căn, cùng ý nghĩa thiên thần ban để bảo toàn sức khỏe cho ta. Đường nhất định không phải thức ăn trọn vẹn như rau trái tươi hay hạt lứt quí báu. Mía trồng ở các vùng nhiệt đới nên nông dân chất phác, nhất là ở Châu Âu, không chế biến đường mía như họ đã chế biến bánh mì, phó mát, rượu và bia.
26
www.SachVui.Com
Đường là thức ăn xa xôi từ nước ngoài, là món làm ra từ loại cây do những bàn tay nào đó, nên các vị Thầy Chữa Miệt Vườn, hay các nhà Y Thuật Thiên Nhiên, không bận tâm dò tìm giá trị phẩm chất bằng "cây gậy thần". Chính các tên nô dịch các dòng tu hay các chính quyền, theo nhận định của các Y Sĩ Thiên Nhiên, đưa đường về bổn xứ để gieo rắc chết chóc, thuế khóa, phiền toái, rối rắm, chiến tranh và truyền nhiễm. Mà hồ sơ cá nhân các tên đó không bị lem luốc. Ở thời đại này, thái độ của kẻ khôn ngoan là nên noi gương các người điên trong chuyện giả sử bên Anh Quốc. Khi vua ban sắc chỉ cho xây một ngôi đền chi đó trong làng Gotham để tạo nét vẻ vang cho đền làng, thì các bậc trưởng thượng vui vẻ vâng lệnh. Tuy nhiên đồ án này mang ý nghĩa gây chia rẽ và phá vỡ cuộc sống của họ như tịch thu gà, trứng. Nên dân địa phương tìm hội ý với vị Thầy Chữa Miệt Vườn để tránh tai họa, thế rồi cả làng tạm thời giả điên cho đến khi nhà vua phải hủy bỏ kế hoạch. Giả điên là cách bất đồng ý kiến siêu đẳng.
Quần chúng khắp nơi tỏ lòng trung thành với các nhà y thuật tự nhiên, và đó là mối đe dọa cho hội thánh và chính quyền nên họ cấu kết với nhau để diệt trừ các lương y thiên nhiên. Lòng trung thành này được biểu lộ khi các "chiến sĩ thập tự" dõng dạc trở về nhà. Họ bịa chuyện nói uyên thuyên về các sự tích nghe thấy ở vùng đất ngoại ô như cối xay bằng gió, hạt có thể xay thành bữa ăn ngay trên đỉnh đồi giống như cối xây bằng nước thời xưa vậy.
Chuyện xỏ xiên khác nói về việc dùng đường như chất men làm bia hay rượu nho. Việc làm lén lút nhằm pha loãng, nghĩa là làm hư chất vị của sản phẩm bằng cách thêm chất lạ hay chất kém phẩm vị hơn mạch nha và hoa bia (hops).
Danh từ "pha loãng" đã được thế bằng từ "giả mạo" để cho ta biết rõ phẩm chất đã kém đi hẳn. Thực phẩm ngày nay bị biến chất quá nhiều đến nỗi các nhà sản xuất lừa dối ta bằng các từ ngữ bổ sung (fortified), làm phong phú thêm (enriched). Sao lại tinh chế bột mì lứt làm chi, rồi bồi thêm chất này chất kia. Lối chế biến này làm mất đi bao nhiêu chất dinh dưỡng quý báu. Ôi chao là tiến bộ!
Vào thời xa xưa khi bia còn đủ phẩm vị thì các tay bợm nhậu đề ra nhiều biện pháp nghiêm khắc để thưởng thức các loại bia hảo hạng, thuần khiết. Làm bằng hạt, mạch nha và hoa bia. Mấy chuyên viên nếm rượu thường để chút bia trên ghế gỗ, chờ một chốc cho bốc hơi hết đi, rồi ngồi lên miếng da để dưới mong: nếu da dính ghế làm khó đứng lên thì bia có pha đường. Bia làm với mạch nha không như thế. Kẻ làm bia pha đường phải bị tròng đầu vào gông hay bị ngựa lôi đi ngoài phố.
27
www.SachVui.Com
Bên Đức vào năm 1482, có người pha loãng rượu bị trừng phạt phải uống gần sáu lít rượu vang của chính đương sự làm gian trá, nên phải chết trên đống sản phẩm.
Bên Anh, vào năm 1816, người làm rượu mà nhà có chứa đường hay mật, sẽ bị đặt ngoài vòng pháp luật, vì bị nghi là có ý gian manh. Bia thuở ấy là thực phẩm thiết yếu nên được gọi là bánh mì nước (Liquid Bread). Người mẹ trong thời gian còn cho con bú thường uống bia trong bữa điểm tâm.
Kẻ làm bia pha đường bị xem như đe dọa sự tồn vong của nòi giống. Khi phạm nhân bị xe chở đi vòng thành phố thì thiên hạ được chú giải bằng thông điệp : "Thân thể và bộ não không chịu nổi đường". Chính các Nhà Huyền Thuật chỉ bảo hay bản thân người dùng đường cũng nhận rõ hậu quả tệ hại của đường. Nhưng đường cám dỗ mãnh liệt quá, như bà Eva ở vườn Địa Đàng thuở xưa. Thủy thủ trên tàu bị đắm, nếu chỉ ăn đường và uống rượu thường phải chết trước khi được cứu. Những nền văn minh cổ, như của Đông phương đã dạy: Thân thể và tinh thần không thể là hai. Những bà Thầy Chữa Miệt Vườn thông tuệ, các nhà Y Thuật Thiên Nhiên cũng nói như thế. Nhưng vào thời mà đường được đưa ồ ạt vào Âu Châu, thì họ bị truy lùng, thường là về đêm, vì chính quyền và hội thánh lên án họ. Bệnh nhân thật sự lâm nguy mới tìm đến họ. Vì giao tiếp với họ thì bị mất mạng, nếu không thì cũng bị chặt tay chân và chính bệnh nhân cũng phải thọ hình tương tự.
Vào thế kỷ 14, Hội thánh Thiên Chúa và Tin Lành cấm đoán trị liệu bằng linh giác, mà phải theo trường lớp mới được hành nghề y khoa. Nhưng đừng lo, họ học suốt đời bằng thực tế: học trật tự, vũ trụ, học hạt và ngôi sao, cầm thú, chim, ong… Tại nơi chôn nhau cắt rún của họ. Thiên nhiên và kiến thức cổ truyền là thầy của họ chớ không phải "thánh thư" của các tu sĩ truyền dạy đâu nhé! Nếu bạn gặp bà Thầy Chữa Miệt Vườn và than phiền về chứng bao tử khó chịu, bà sẽ hỏi bạn đã ăn uống gì, rồi ân cần khuyên lơn bạn. Sau đó cho uống một chén dược thảo để điều trị. Ôi thời buổi êm đềm ấy đã qua! Y Thuật Thiên Nhiên bị xem là tà thuật!
Có lần lời lẽ bài bác đường của các bà "Thầy Chữa Miệt Vườn" đã lan truyền làm hại một xí nghiệp đường quốc doanh mà giáo xứ đã thần thánh hóa. Giáo sĩ thường va chạm với các Nhà Huyền Thuật trên việc trừ ma ếm quỷ, nên họ công khai mạ lị các Nhà Huyền Thuật là các tên xảo quyệt, tà mê, phải đưa chúng lên giàn hỏa! Các viên chức Tôn Giáo Pháp Đình (Inquisition) tường trình một cách cay đắng "nhiều bệnh nhân bị bùa mê" được các mụ Thầy Chữa Miệt Vườn chữa lành theo phương pháp thiên nhiên. Những cách trị liệu hữu hiệu được quỷ thần hỗ trợ, nên
28
www.SachVui.Com
việc thẩm tra không còn hợp pháp. Do đó việc "cấp cứu" tà thuật cũng không hợp pháp mà phải nhẫn chịu thôi. Vào thời buổi lang băm tà mị bị săn đuổi, thì những triệu chứng của bệnh tật được chia làm hai loại: loại thuộc thể xác do người gây nên và loại tinh thần do ma quỷ ám hại.
Đau bao tử, đau phổi cấp tính, bệnh do dùng sữa hay thịt thú, những triệu chứng dễ chẩn đoán được xếp vào loại thân xác, còn các chứng rầu buồn, nhức đầu cho đến chứng khùng điên là do ma quỷ quấy nhiễu linh hồn bệnh nhân.
Vua chúa xưa kia ủng hộ Giáo Hội về sự kiểm soát chặt chẽ ngành giáo dục y khoa. Quyển sách ít ai để ý, dành cho những tay săn bắt Nhà Huyền Thuật, năm 1186, Malleus Malefic arum (chiếc búa của mấy tên Thầy Chữa Miệt Vườn) có định nghĩa từ ngữ Thầy Chữa Miệt Vườn như sau: Những kẻ cố tình xúi giục làm chuyện kỳ hoặc xấu xa.
Tà thuật được định nghĩa vội vã: Sự bội phản của các người đã được rửa tội. Các cô đỡ (hay cô mụ) bị xem như là "chỉ hơn mọi người ở chỗ tạo ra sự hiểm nguy". Các quan tòa Tôn Giáo Pháp Đình tuyên bố: tà thuật bắt nguồn từ sự đắm đuối dục vọng của những phụ nữ đa dâm. Khi mấy y sĩ đàn ông bị cấm thi hành thai sinh thì một y sĩ người Đức lại đi sanh lén cho một phụ nữ. Sự việc bị phanh phui, anh ta phải lên giàn hỏa để thọ hình. Bất cứ bệnh nào vừa phát ra dữ dội hay chưa phân loại được đều được xếp vào bệnh tà.
Nhưng hãy còn một cách tìm bệnh của Rorschach ở thời trung cổ: chì nấu chảy, để sát vào thân bệnh nhân, rồi đổ vào nước. Hình tượng của chì ở đáy nước được lý giải để đưa ra tức khắc bản trừng phạt cân xứng. Dù chì tạo ra hình tượng gì đi chăng nữa thì Pháp Đình có đủ lý lẽ để tái xác nhận bệnh chứng đã được đệ trình. Các y sĩ và các tu sĩ dùng chữ Symtome của Latin và Hy Lạp để truyền đạt các dấu hiệu. Những bà Thầy Chữa Miệt Vườn đã dùng dấu hiệu này để nói lên sự cảnh giác của thiên nhiên. Các y sĩ khám bệnh lắng nghe bạn than vãn rồi dùng từ ngữ Latin, Hy Lạp để đặt tên cho triệu chứng mà bạn vừa than vãn. Thế là họ khỏi bị lúng túng, nếu bác sĩ nói: "A ha, có thể đây là chứng bệnh bao tử" thì đó là điều mà bạn đã nói cho ông ta nghe.
Đã hằng bao thế kỷ rồi, quý vị y sĩ vụng về cứ bỏ qua các chứng bệnh do tai ách của đường gây ra, do đó không tìm cách trị liệu mà chỉ đổ lỗi cho tà thuật. Suốt ba thế kỷ y học tinh ranh đã bịa đặt ra bao danh từ hỗn tạp để gọi tên các chứng bệnh, nào là Schizophrenia (đãng trí) Catatonia (thẩn thờ). Dementia Praecox (lẩm cẩm khi chưa già) Paranoia (lú lẫn) Cephalagia (loạn óc) Hermicrania (nhức sọ) Urticarial (nổi mề đay) Paroxysmal tachycardia (tim đập quá nhanh)… toàn những từ ngữ nghe phát sợ như bị quỷ bắt hồn.
29
www.SachVui.Com
Những vị thiện trí thức đã hiểu rõ bản chất thâm độc của đường: họ đã nằm yên trong lòng đất. Kinh điển của các vị ấy có nói rõ về những dấu hiệu của bệnh chứng, và có cảnh giác cho ta rằng thân thể và bộ não không chịu nổi đường. Phải cần nhiều thế kỷ nữa loài người mới chịu nghiên cứu lại những dấu hiệu của chứng bệnh do đường gây nên và những lời cảnh giác vàng ngọc ấy. Có thể các nhà truyền giáo đạo Kito sẽ mang thánh giá, cờ hiệu, và viên đường, máy bán coca cola, đi vòng quanh thế giới. Ở hải ngoại Hồi Giáo đưa đám nô lệ vào dịch vụ đường, vì sự cứu rỗi linh hồn tối tăm của đám ngoại đạo. Ở quốc nội, bác sĩ và giáo sĩ kết án các nhà Y Thuật Thiên Nhiên là lang băm, rồi dùng mọi cách trừng trị không thương tiếc.
Nay đã thắng cuộc chiến rồi, các kẻ đồng lõa gian manh lại chia của: Tu sĩ lo phần hồn, để phần xác lại cho y sĩ và phẫu thuật gia lo liệu thân thể và bộ não bị chia rẽ đôi đường Bắc Nam như Triều Tiên và Việt Nam (độ nào). Rồi tu sĩ được bãi nhiệm, bác sĩ tâm thần thay thế. Dù vậy họ vẫn còn vướng trong nhị nguyên luận: Anh em Mayo chăm lo thân xác còn trí não thì giao cho gia đình Menningers. Sở y tế quốc gia bị tách khỏi viện nghiên cứu tâm thần.
Mùa hè 1973, tôi cùng một lương y gia truyền băng qua cánh rừng già ở vùng hẻo lánh tận miền Tây Nam nước Pháp. Tôi tưởng chừng như đang sống ngược thời gian; có lẽ vườn địa đàng xưa kia cũng như thế này. Chúng tôi bước khẽ sợ chao động cảnh im lìm muôn thuở. Ông ta quỳ xuống để hớp sương mai. Đi qua hằng chục loại cây ông mới dừng lại, ung dung nhổ một gốc cây lên như mẹ hiền nâng con thơ, áp vào mũi hít ngửi với một thái độ sùng mộ đoạn kinh nhiệm mầu. Chúng tôi trở về mái chòi gỗ cổ kính, dược thảo được phơi trên các giàn. Mỗi thứ được hái đúng thời điểm, tùy tuần trăng sao, đúng mùa. Có loại thuốc nước uống trước bữa ăn, có loại dùng bó rịt hay ngâm tay chân.
Có lần một bác sĩ ở làng kế cận đến nhờ trị giữa đêm khuya mờ tịt nên được đón tiếp hết sức cẩn mật, cửa đóng then cài màn kéo phủ. "Bố Già" phải tự pha thuốc với nước nóng cho bệnh nhân uống trong trường hợp đặc biệt này. Và không khi nào trước mặt kẻ khác mà Bố hỏi bệnh nhân đã ăn uống những gì để tránh làm bối rối họ. Kiến thức khoa học của vị bác sĩ bị bệnh này không chữa cho ông ta được, nên ông ta đành theo gót cha ông thuở xưa đến nhờ những lương y cổ truyền, bị gọi là thấp kém và bị bọn quyền thế sỉ nhục, và tổ tiên của "vị lang băm" này cũng đã hành "tà đạo", và cũng có thể đã bị thiêu sống!
Một bác sĩ tâm thần thời nay, Thomas S. Szasz có nói gọn về cái giá phải trả cho thứ đạo đức giả ấy. Dĩ nhiên có làm tổn thương phẩm giá của một y sĩ thất đức, trong quyển Manufacture Of Madness (cơ sở sản
30
www.SachVui.Com
xuất bệnh điên): "Những y sĩ tân tiến đặc biệt là các vị chuyên trị tâm thần, tỏ ra hết sức nông nỗi vì đã khước từ khả năng y khoa của các bậc tiền bối xa xưa, những vị đã bị lên án là Thầy Chữa Miệt Vườn đê tiện, những Nhà Huyền Thuật hành nghề tà muội. Họ ưng nhận cội nguồn từ các môn đồ của Hippocrate thuộc thời cổ Hy Lạp nhưng lại âm thầm lờ đi giai đoạn y khoa gặp bối rối thời trung cổ ấy! Cho đến nay ngành y khoa phải trả giá thật đắt, vì đôi co với giả dối phải gặp nhiều phiền toái vậy. Do phủ nhận nguồn gốc chân thực của mình, rõ ràng họ nép mình vào hàng ngũ chống đối tổ phụ của họ, nên những y sĩ tân thời không giữ được phẩm chất của một lương y đạm bạc nhưng tự chủ. Đúng ra họ nên xét lại mối giao hảo cứng đờ như giáo điều, giữa chính quyền và họ, để khỏi cam phận làm nô bộc".
Trong lịch sử chính thức của y học cận đại. việc khước từ tài năng chữa bệnh của các Nhà Huyền Thuật, đưa đến mấu chốt quan trọng: đó là sự thay đổi đầy hiểm nguy, vai trò của các bác sĩ thành những tay làm thuê trong hệ thống hành chánh.
Tôi có đến thăm một lương y gia truyền, trẻ tuổi tên Maurice Messagué ở vùng hẻo lánh Gascony. Tòa án giáo xứ đã bỏ quên anh ta; nhưng tai họa thế chiến thứ hai đã giáng xuống quê hương anh, nước Pháp đã bị Phát xít chiếm, nên anh phải rời khu vực ấy. Những vì mà anh ta học được từ tổ phụ của mình, anh đều đem áp dụng và chữa lành bệnh cho các danh nhân đương thời như Đô Đốc Darlan, Ông Mistinguette, ông Jean Cocteau, kể cả đương kim Tổng Thống Cộng Hòa Pháp, Eduard Herriot, cách chữa trị hết sức đơn giản mà ngoạn mục của anh tạo ra mối đe dọa cho giới y học chính thống. Anh ta phải hầu 40 phiên tòa trên khắp nước Pháp vì tội hành nghề không có bằng cấp. Chính nhóm y sĩ chính thống làm cho Maurice Messagué nổi danh. Đúng theo luật hiện hành thì anh có phạm tội; phiên tòa nào cũng đều phạt anh ta 1 hay 2 francs. Rồi anh ta phải nhận việc đi trị liệu các bà các cô ở buồng kín. Sau rốt anh ta viết được bốn quyển sách về các cuộc mạo hiểm và những lần sử dụng hữu hiệu Y Thuật Thiên Nhiên. Quyển nào cũng nói đến cách trị liệu đơn sơ, thừa hưởng được của tổ phụ: đó là những thức ăn nguyên vẹn được thiên nhiên nuôi dưỡng. Những gì mà các bậc thiện trí thức của y học hiện đại vừa phát giác và phát biểu thì tổ phụ của anh đã giảng trên 4 thế kỷ nay rồi: Tránh xa các loại đường tinh chế dù dưới hình thức nào.
Lương y trẻ tuổi này đã trở về Gascony một cách vẻ vang, nơi đây chàng xứng đáng đắc cử vào chức Thị Trưởng thành phố Flagrance. Anh sống trong lâu đài quý tộc mà trước kia mẹ ông làm tôi tớ, anh làm chủ
31
www.SachVui.Com
một vùng rừng rậm mênh mông, một kho tàng vô tận, đầy ắp tiên dược, để giúp ích cho thế giới bên ngoài bị ô nhiễm, bị hóa chất làm khổ. Vào năm 1964, tôi chuẩn bị dịch một trong 50 quyển sách của Sakurazawa (GS. Ohsawa), một nhà Y Thuật Thiên Nhiên, người Nhật Bản nhờ quyển "You Are All Sanpaku" (*) (bạn hoàn toàn bị chứng tam bạch đản) mà tôi thấu suốt từng chi tiết học thuyết đơn giản của Ông để tự chữa lành bệnh. Có một chương trong sách nói rõ về đường: "Y học và khoa học Tây phương mới chỉ vừa báo nguy sự gia tăng kinh khủng số lượng đường tiêu thụ cho mỗi đầu người, nhất là ở Mỹ. Tôi e rằng sự khám phá và báo động này chậm mất hàng chục năm. Tôi vững tin rằng y học phương Tây ngày kia sẽ đón nhận điều mà Đông phương đã cảnh giác từ lâu: Đường đích thực là tên sát nhân độc đáo trong lịch sử loài người, hơn cả á phiện và phóng xạ. Đường gây nguy hại đặc biệt nhất cho các người dùng gạo làm thực phẩm chính. Nền văn minh kỹ nghệ tân tiến đã đem nỗi khổ đau đến Phi Châu và Viễn Đông. Những ai còn mê muội, đem cho hay bán kẹo cho các trẻ nít, sẽ phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề cho thái độ này, họ sẽ phải đối đầu với nỗi kinh hoàng".
Ngày nay các nhà Y Thuật Thiên Nhiên có thể không đồng ý với nhau trên nhiều quan điểm, nhưng tất cả đều cùng quả quyết: Thân thể con người không chịu nổi đường tinh thể.
Hảo ngọt mê đường sanh ác tâm,
Hạch nhân, hóa chất, rèn dao găm
Manh mún chen chân tìm lạnh, ngọt
Kẹo bánh đầy mồm hạnh phúc… câm.
Thận suy huyết hoại cũng do đường,
Lá lách rối ren việc bất thường,
Trí óc mê mờ trong bất định,
Mỏi gân, oải cốt suốt đêm trường!
Lê Công Thình (Diệu Tín Liên Châu) – 1991.
---🙞 ☯ 🙜---
(*) Sanpaku: Tam bạch đản : Tròng đen của mắt nằm ở phía mí mắt trên, để lộ vệt trắng ở phía mi dưới.
Ngô Đình Diệm, Kennedy, Gandhy, Abraham Licoln, Công nương Dianna, Thanh Nga, Marilyn Monroe,… bị chứng Tam bạch đản, và chết trên vũng máu, hay bị bạo tử.
32
www.SachVui.Com
Chƣơng IV : HÃY TIN ĐƢỜNG
In Sugar We Trust
Vào thời trung cổ, những kẻ loạn trí ít khi bị nhốt. Nhưng đến khi đường luân lưu từ các tay bào chế thuốc cho đến các nhà làm bánh kẹo, ở thời văn minh sáng chói này, thì nhiều nhà thương điên mọc lên. Cuộc giam cầm rầm rộ các người điên này, như một sứ giả đã phát biểu, khởi đầu vào thế kỷ 17 sau khi việc tiêu thụ đường ồ ạt ở Anh bừng rộ suốt 200 năm, và kể từ lúc người ta chỉ bỏ vài nhúm đường vào thùng bia, thỉnh thoảng thôi, cho đến khi hai triệu cân Anh đường được sử dụng vào kỹ nghệ này. Vào thời đó, các y sĩ ở Luân Đôn đã theo dõi và ghi nhận các dấu hiệu trên cơ thể và các triệu chứng sinh lý do tai họa của đường gây nên.
Trong thời điểm ấy những người tiêu dùng đường không có triệu chứng rõ rệt trên cơ thể và các y sĩ còn bấn loạn trong việc chẩn trị, nên các bệnh nhân không còn bị xem là bị bùa mê thuốc lú nữa mà bị gọi là điên dại, rối loạn cảm xúc. Những thanh niên dưới 25 tuổi mà lười biếng, hoặc mệt mỏi, hoặc dâm đãng, hoặc có cha mẹ bất hòa đều bị cầm giữ trong bệnh viện tâm thần đầu tiên ở Paris. Kẻ nào bị cha mẹ than phiền, họ hàng trách móc, thầy tu đầy uy quyền quở mắng đều bị tóm cổ. Các người vú nuôi, vị thành niên mang thai, trẻ con đần độn hay hư hỏng, người già cả, kẻ tê bại, bị trúng phong, gái điếm hay người mất trí lên cơn, kẻ lang thang vô gia cư đều bị "quét sạch". Nhà thương điên cho săn bắt các tay Thầy Chữa Miệt Vườn, các kẻ ngoại đạo để thanh lọc xã hội một "cách nhân đạo", "tân tiến". Y sĩ và tu sĩ lo việc tẩy uế này để lập công với nhà vua.
Khi nhà thương điên được xây cất ở Paris theo chiếu chỉ của Hoàng Cung thì 12% dân cư ở đây bị tống giam vô đó. Từ dạo ấy cho đến thế kỷ 20, số đường tiêu thụ cứ gia tăng mãi và sỉ số nhập viện cũng tăng đều đều. Ba trăm năm sau (kể từ thế kỷ 17) thì người bị rối loạn cảm xúc được biến dạng thành người máy biết đi, nhờ thuốc an thần điều hành bộ não của họ.
Ngày nay, những chuyên viên tiến bộ của khoa tâm thần như bác sĩ A. Hoffer. Bác sĩ Alan Scott và bác sĩ A. Checkin. Đặc biệt là bác sĩ Linus Pauling, đã xác nhận bệnh tâm thần là huyền thoại và chứng rối loạn cảm xúc chỉ là dấu hiệu đầu tiên nói lên sự bất lực hấp thụ đường của cơ thể.
33
www.SachVui.Com
Bác sĩ Pauling viết: "Công năng của óc và các mô thần kinh dễ bị ảnh hưởng bởi nhịp độ phản ứng hóa học ở nội tạng hơn là công năng của cơ quan khác và các mô liên hệ. Tôi tin là bệnh tâm thần hầu hết là do nhịp độ bất thường này, mà thể chất di truyền và thức ăn được xác định, và do sự tu tập bất thường của một số chất liệu thiết yếu ở các tế bào. Việc lựa chọn thực phẩm (và thuốc men) trong một thế giới biến chuyển nhanh chóng về khoa học kỹ thuật, thường khó đạt kết quả tuyệt hảo.
Cơ thể thiếu hụt sinh tố B12, bất cứ từ nguyên do nào, đều đưa đến bệnh tâm thần, thường nặng hơn bệnh của các cơ quan sinh lý. Qua nhiều năm theo dõi, nghiên cứu, chúng tôi thấy bệnh tâm thần thường kết hợp với bệnh thiếu máu nguy cấp. Trước khi bệnh chứng khác xuất hiện, có một số báo cáo y khoa cũng cho biết rằng nhiều bệnh tâm thần có ít B12 trong huyết thanh, và đã tỏ ý muốn y học nên công nhận sự kiện này.
Axit Nicotine (Niacin) đã chữa lành chứng loạn trí cho hàng trăm ngàn bệnh nhân phung điên (Pellagra), (người mắc bệnh Pellagra lúc đầu bị phung sau đó bị điên), và cũng đã chữa lành nhiều chứng bệnh khác trong cơ thể. Gần đây hơn, nhiều báo cáo đã cho biết ích lợi thiết thực của axit nicotinic và của nicotinamide trong việc trị liệu tâm thần. Còn một vitamin nữa cũng tỏ ra hữu hiệu đối với bệnh tâm thần nếu dùng tới liều lượng nào đó: Vitamin C hay Ascorbic axit.
Triệu chứng thiếu Vitamin C thường song hành với triệu chứng suy nhược tâm thần. theo hiểu biết của riêng tôi thì việc trao đổi vitamin C trong cơ thể bệnh nhân loạn trí có gia tăng hơn so với bệnh nhân bình thường, và cho bệnh nhân dùng một liều lượng vitamin C lớn thì việc trị liệu chắc phải mang lại kết quả tốt.
Có thể có một số người bị thiếu vitamin C ở não bộ (cerebral scurvy) mà không có triệu chứng nào biểu lộ, hay bị một thứ Pellagra ở não (cerebral pellagra) hay bị thiếu máu nguy cấp ở não… mỗi loại vitamin, mỗi thứ axit amino quan trọng. Mỗi chất dinh dưỡng cần thiết đều biểu tượng cho một chứng bệnh ở tế bào, mà cha ông ta ngày xưa đã quen chữa trị mỗi khi bệnh quấy nhiễu bằng cách chọn thức ăn, và quí vị ấy cũng duy trì sức khỏe bằng cách đó mà thôi!
Trong việc chữa bệnh Loạn trí bằng liều lượng B3 cực mạnh (Mega vitamin B3 therapy for Schizophrenia). Bác sĩ A. Hoffer xác nhận "bệnh nhân cũng được khuyên nên theo lề lối dinh dưỡng với sự hạn chế dùng đường và thức ăn có pha nhiều đường (sucrose rich food).
34
www.SachVui.Com
Một cuộc nghiên cứu các trẻ con quá năng động bị bệnh thần kinh, bị thương tật ở não, học hành ngu độn… có cho thấy: cha mẹ của chúng tiểu đường, tức cơ thể của chúng không tiêu hóa được đường-lượng đường Glucose trong máu bất chợt xuống thấp, chứng tỏ hệ thống tiêu hóa đường của chúng bị suy kém, vì thế chúng cần ăn nhiều đường trong các bữa ăn.
Khảo sát quá trình ăn uống của các bệnh nhân loạn trí cho thấy họ thích chọn các món ngọt, kẹo bánh, café, thuốc uống có pha café, và các món có pha đường. Những thức ăn này kích động nang thượng thận: ta nên dũng cảm loại trừ hay cấm dùng.
Những bác sĩ cấp tiến chỉ khám phá những gì những bà Thầy Chữa Miệt Vườn "thấp hèn" đã thấu hiểu từ lâu, nhờ quý bà cần mẫn tìm về hòa hợp với thiên nhiên.
Bác sĩ Thomas Szasz viết: trên hai mươi năm khảo cứu bệnh tâm thần. Tôi chưa hề nghe một bệnh viện tâm lý trị liệu nào báo cáo tâm thần bình thường của một đối tượng đến khám bệnh cả. Sau những tảo thanh tàn khốc, có vài y sĩ tà thuật còn sống sót, chớ mấy người bị gán là khùng điên, rồi bị đưa đi chẩn bệnh, thì luôn luôn bị nhốt vào nhà thương dưỡng trí. Kẻ nào vô phúc mà bị bác sĩ tâm thần chẩn đoán thì không điên cũng khùng.
Ở thế kỷ 17 mà cũng có những chuyện như thế đấy. Mỗi khi bác sĩ hay chuyên viên có giấy phép trị bệnh tà được thỉnh đến là in tuồng quý ông ấy phải làm ra một cái gì, và nếu không làm nên trò trống gì thì bệnh nhân đành chịu khốn nạn thôi: "bị tống cổ vào nhà thương". Người ta đồn rằng mấy ông ấy che dấu lỗi lầm bằng cái kiểu ấy. "Nhốt mấy ông luôn cho rồi!"
Hành vi lố bịch của quan chức Tòa Án tối cao Pháp Đình và các tay săn Thầy Chữa Miệt Vườn sau rồi cũng phải gặp quả báo dội ngược (back lash), không tránh khỏi làn sóng ác cảm của dư luận đã ghê tởm tập đoàn y sĩ và tu sĩ, nổi tiếng nhờ gây nên thảm họa; giờ đây họ đành chịu cảnh xào xáo nội bộ, khiến thiên hạ nhớ đến bàn tay đẫm máu của họ. Các tà giáo lúc trước, nay được tiến cử làm các hệ phái Tin Lành chính thống. Giáo đường trở nên quạnh quẽ, nên bọn thân tín hoàng tộc bèn quy định phạt vạ những ai bỏ đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Tình trạng ngày càng bi đát, tập tục thiêu sống Nhà Huyền Thuật và nghiêm trị bùa chú không ngăn chặn được cao trào tôn thờ tà thuật, mê tín và bệnh điên. Giờ đây các y sĩ và tu sĩ tìm cách giảng giải các triệu chứng của bệnh tâm thần do đường gây nên. Khiến cho trí não con người bị đờ đẫn và cảm xúc bị rối loạn.
35
www.SachVui.Com
Năm 1970, một y sĩ kiêm tu sĩ nặc danh nghĩ ra được cách lý giải. Nếu lúc ấy có giải Nobel thì ông ta chắc được thưởng rồi. Lời giảng giải bệnh điên thật đơn sơ đã làm hài lòng các y sĩ và thầy tu suốt ba thế kỷ. Họ vui vẻ để lo việc làm giàu, dù trẻ nít đã nói từ ngữ ấy từ lâu, thế mà quý ông ở Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, Đông phương, và quý ông ở Ba Tư, chưa ai nói đúng. Ông tu sĩ vô danh ấy nổi giận, công kích thánh kinh bằng cách giải thích sai lệch huyền thoại Oman thành một tội lỗi mới gọi là Onanism. Ông ta viết một quyển sách tựa là Onania, hay tội trọng vì tự làm ô uế. Mấy ông y sĩ khác đã kích tự điển y khoa là đồi bại hóa từ ngữ La tinh có ý nghĩa tương tự: Manustupration (xúc phạm thánh vật hay làm bẩn bàn tay). Chữ này được từ điển Anh ngữ và đại học Oxford làm dịu ý nghĩa đi bằng từ ngữ Thủ Dâm (Masturbation), năm 1766. Quyển Onania bán rất chạy vài khoa học gia thấy từ ngữ ấy hay hay bèn ra tay hành động, chỉ cần phớt lờ hỏa ngục để rút kinh nghiệm, để làm hậu thuẫn cho luận cứ khoa học giả định (pseudoscientific buttressing). Hơn nữa ai bảo thủ dâm gây ra bệnh cuồng trí? Để đánh đổ thuyết này thì cứ thủ dâm vài năm đi rồi mới biết có điên hay không. Chả có ai thử làm điều ấy cả?
Còn dải đất lành tự do nay thì sao? Cha đẻ của khoa học tâm thần Hoa Kỳ, cũng là một trong các sáng lập viên của cuộc cách mạng Hoa Kỳ và là người ký bản tuyên ngôn độc lập; ông Benjamin Rush: Tiến sĩ y khoa đấy! ông đã la lên: "Ồ, không mà! Oman thành đạt sớm để quả quyết rằng chơi trò tình dục đơn phương là "khoái" được điên, được bất lực sinh lý, được đi tiểu gắt rát, tay chân quờ quạng, lao phổi, khó tiêu, mắt mờ, chóng mặt, trúng phong, mất trí nhớ, bệnh u uất, đần độn rồi chết".
Bác sĩ vĩ đại khoa tâm thần người Pháp tên là Esquirol đồng ý với tất cả các bác sĩ khác trên thế giới rằng thủ dâm là nguyên do của bệnh điên và phải được ngăn cấm ráo riết. Đó là chướng ngại không phá nổi, nó đưa bệnh nhân vào trạng thái ngu si, lao, tiều tụy rồi chết. Thói hư đó gây ra chứng ngớ ngẩn, lẩm cẩm rồi dẫn đến tâm trạng chán nản, ủ ê rồi tự tử. Thế thì xã hội văn minh công nhận thủ dâm gây nên điên loạn!!
Thủ dâm là xú bấp an toàn cho óc suy luận của các vị y sĩ. Họ tuyên bố: chúng tôi đủ khả năng chữa lành mọi bệnh trừ bệnh thủ dâm. Vì thế, nếu chữa không xong họ cho bệnh nhân vào dưỡng trí viện để trị bệnh thủ dâm; mang đai trinh tiết ban ngày, về đêm thì mang vòng có gai vào "cái ấy" để ngủ.
Đến phiên các chuyên viên phẫu thuật, họ đóng góp cái gì? Phần nghi thức trong kinh Cựu Ước có nói về cắt da qui đầu. Có thể việc cắt âm hạch cũng được nghĩ tới.
36
www.SachVui.Com
Những năm sau 1850, bác sĩ Isaac Baker Brown, tay giải phẫu cừ khôi ở Luân Đôn (sau này là chủ tịch hội Y học Luân Đôn) sáng tạo ra một phẫu thuật gọi là Giải Phẫu Âm Hạch (clitordectomy). Viện cớ rằng thủ dâm là một thứ bệnh hủi của luân lý (Moral Leprosy) và hậu quả đưa đến bệnh loạn thần kinh (hysteria), trúng phong (epilepsy) và phong sù.
Một người có tước vị trong Đại học Hoàng Gia, chuyên về phẫu thuật, cho ấn hành một tờ báo đề nghị nên cắt đa qui đầu để trị và ngừa cái thói nham nhở ấy và còn đề nghị xa hơn nữa: dùng phẫu thuật để cắt dây thần kinh ở mặt trên của "cây gậy ngọc" của phái nam và cắt buồng trứng phụ nữ. Thì ra giải pháp tối hậu để chạy chữa bệnh thủ dâm và khùng điên là thiến hoạn và cắt mất tử cung. Đến thế kỷ 20, thêm một bước khổng lồ nữa: Phẫu thuật bộ não.
Sử gia A. Comfort viết: "khoảng năm 1880 cá nhân nào, với lý do tối nghĩa, muốn cột, xiềng xích hay tra ổ khóa vào bộ phận sinh dục nam hay nữ của đứa trẻ biết ái dục sớm, hay của các bệnh nhân tâm thần, đó là hai nhóm người dễ tuân lời họ nhất, muốn trang điểm cho họ các đồ thiết bị quái dị bằng da hay cao su. Muốn đánh đập, khủng bố hay thiến hoạn, hoặc dùng sắt nung đỏ để chữa trị, hay cắt dây thần kinh ở bộ phận sinh dục thì sẽ được chức quyền y khoa "đáng kính và nhân đạo" cho phép, vì đó là hành vi theo lương tâm. Bệnh điên vì thủ dâm giờ đây được thật sự công nhận vì có can hệ đến y khoa.
Đoàn thể y khoa đầu tiên, thành lập trước Hội Y Khoa Hoa Kỳ (American Medical Association-AMA). Có tên là Hội Y khoa Hoa Kỳ Giám định các dưỡng trí viện Association Of Medical Superintendents Of American Instiutions For The Insane). Hội Đoàn này được thành lập năm 1844, vào lúc mà các cửa hàng Hoa Kỳ ở vùng biên giới biếu thêm nữa cân Anh đường cho bạn trẻ nào vào cửa và mua hàng từ năm xu trở lên.
Công bố trước nhất của nghiệp đoàn đầu tiên, gồm những người hay cúi đầu rụt vai ngay nơi vùng đất an lành tự do này, là quyết nghị biện hộ cho khóa trinh tiết (Strait Jacket): "chúng tôi đồng lòng quyết định rằng mọi toan tính bãi bỏ hoàn toàn, toàn việc sử dụng tất cả phương tiện kìm hãm con người sẽ không bị trừng phạt vì lợi ích thiết thực của người điên".
Đến năm 1855, một bài báo trong tờ New Orleans Medical and Surgical Journal cho biết: "không có thiên tài nào, loại chiến tranh nào, bệnh dịch tả nào, hay những thảm họa tương tự, từng gây ra hậu quả tệ hại như thói thủ dâm, đó là nhân tố tàn phá xã hội văn minh".
37
www.SachVui.Com
Trong khi chức quyền y khoa Hoa Kỳ đang công kích tội thủ dâm thì họ cũng chụp mũ ông I. P. Semmelweis là lang băm. Ông này đã khám phá ra rằng nguyên do bệnh sốt của trẻ sơ sinh là vì bác sĩ vô ý không rửa tay sau khi mổ xẻ xác chết, mà cứ tỉnh bơ đi thẳng vào phòng sanh; lúc đó khoảng giữa thập niên đầu thế kỷ 19. Dù được Oliver Wendell Holmes bênh vực quyết liệt, nhưng Semmelwcis bị xua đuổi như chó vì bị xem là Thầy Chữa Miệt Vườn hạ cấp, hình như ông chết trong nhà thương điên năm 1865.
Hằng trăm năm trước đây, nếu các vị tu sĩ ngoan cố không chấp nhận tư tưởng cấp tiến rằng chính bàn tay dơ bẩn của họ đã gieo rắt bao nhiêu là bệnh, thì khó mà nói cho họ hiểu sự liên hệ giữa sự tiêu thụ đường quá mức của quần chúng với nhiều bệnh lạ lùng.
Cuối triều đại Nữ Hoàng Victoria, luận thuyết về bệnh điên vì thủ dâm chừng như hết giá trị, thế rồi Sigmund Freud bước vào sân khấu. Ông khẳng định thủ dâm không nhất thiết làm cho ta bị điên hay tự tử gì cả, mà nó gây ra một chứng bệnh lạ. Chứng bệnh loạn thần kinh, cách cứu chữa không còn là chiếc đai tiết hạnh hay dao phẫu thuật mà là chiếc gường lâm sàng của y sĩ tâm thần. Chiếc đai trinh tiết giá khoảng mười đô la thôi, nhưng chi phí khám bệnh phải tính giờ mà trả, và thời gian điều trị lên đến hằng tuần, hằng tháng, hằng năm.
Năm 1897 Freud viết: "Tôi chợt thấy sáng lên một điều mới mẽ, thủ dâm là một thói quen trọng đại, một thứ nghiện ngập thuở ban sơ, mà chỉ có các thứ nghiện ngập khác như rượu, bạch phiến, thuốc lá mới thay thế được, và các thứ đó thì đã có khắp nơi rồi. Không thấy ông ta đề cập tới cocain và đường vì ông ta mê tít hai món đó.
Bác sĩ Freud có viết trong một quyển sách rằng ông được một phụ nữ nọ ở Vienne mời đến khám bệnh cho con bà, nét mặt của bà đầy âu lo. Cặp mắt diều hâu của ông tìm thấy đúng phóc một vết ở đáy quần thằng bé, và kín đáo mở cuộc phỏng vấn. Đứa bé quả quyết đó là trứng gà, bác sĩ tài ba bèn nhanh nhẹn kết luận đây là do thủ dâm. Bác sĩ Szasz bình luận chua chát trong quyển "Sự chế tạo bệnh điên" cậu kia đâu có mời Freud đến, và chả có chứng cớ gì để tin rằng cậu ta đang khổ đau vì bệnh tật. Người đau khổ chính là bà mẹ, rối trí vì năng lực tình dục con mình đang trưởng thành".
Hằng trăm chuyện hãi hùng trong các sách, mà khi đọc xong lại buồn cười, do đoàn thể y sĩ nhất là y sĩ tâm thần gây nên trong khi điều trị bệnh điên vì thủ dâm. Đã biến mất một cách lạ lùng khỏi các sách lịch sử y khoa. Bác sĩ Szasz nhận định: "Có hằng triệu từ ngữ nói về sự tự làm sáng danh (Self Glorification), mà không có từ ngữ nào nói đến bệnh điên vì thủ dâm. Cũng giống như các y sĩ liên can vào việc khủng
38
www.SachVui.Com
bố các Nhà Huyền Thuật, những chuyện buồn thảm này không thấy sách vở nhắc tới. Bác sĩ Szasz so sánh sự kiện này với hiến pháp Hoa Kỳ trong đó người ta cố tránh đề cập đến sự dân da đen làm nô lệ. Cũng vậy, nhóm y sĩ tâm thần nhìn nhận chậm trễ nhất sự bất lực hấp thụ đường của cơ thể con người, qua một số triệu chứng mà người ta hay gọi là bệnh tâm thần
Mãi đến 1911 mới có Eugen Bleuler bịa ra một từ ngữ dễ sợ, Schizophrenia. (Tinh thần phân biệt) để thay cho từ Dementia Praecox (bệnh điên lúc còn thanh xuân). Thì ra chỉ một tên mới mà thôi. Triệu chứng này cùng lứa tuổi với đường. Trước kia y sĩ vì lúng túng trước các triệu chứng ấy nên bảo các bệnh nhân bị bùa mê thuốc lú, nay họ bảo đó là bệnh loạn trí. Có một thời bệnh nhân khùng điên bị giao cho các tay trừ tà, ếm ma, nay thì giao cho bác sĩ tâm thần. Thế thì thủ dâm không còn gây nên "bệnh chạm dây thần kinh".
Vậy đâu là nguyên nhân? Những nỗ lực của bà mẹ tìm cách ngăn cấm thủ dâm? Thực tập chải chuốt quá sớm? Những cuộc cãi vã với bố trong buổi điểm tâm? Kỷ luật bất nhất? Thiếu tình thương hay thương quá lố? Các vấn đề gia đình trong quá khứ: giàu hay nghèo, khổ sở hay ung dung, và nay bổng sực nhớ lại?
Khi khoa tâm thần tỏ ra không khá hơn thuật trừ ma ếm quỷ, thì vài kẻ quì lụy danh lợi xoay qua các phương pháp thô bạo như: "Kích ngất trị liệu (Shock treatment): dùng thuốc men, điện, Isulin. Đến năm 1935, Egas Moniz ở Lisbon giới thiệu giải pháp tối hậu trị bệnh loạn trí: Mổ óc ra (Lobotomy). Năm 1949, Moniz được giải thưởng Nobel vì đã tiên phong gây hãi hùng tối hậu.
Y học phương Đông luôn luôn xác nhận là tinh thần xa thể xác không phải là hai phần riêng rẽ. Cái mà thiên hạ coi là bệnh, là đau ốm thì chỉ là dấu hiệu mất quân bình của cơ thể. Muốn có sức khỏe trọn vẹn, phải dùng thức ăn nguyên vẹn. Khoa thần kinh và tâm thần của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc xác định: Bệnh viện thần kinh và tinh thần rối loạn (neurosis anti psychosis) không xuất hiện ở xứ này, kể cả bệnh điên loạn vì quá kiêu căng (paranoia).
Sagen Isiduka, một bác sĩ Nhật bản hoang đường và phản nghịch (fabled Japanese doctor and doctor). Thiên hạ gọi như thế vì ông cứ bám theo lối trị liệu cũ rích, dù cho từ năm 1800 trở đi, dân Nhật tìm cách hội nhập vào sinh hoạt khoa học và y học tây phương, dạy các môn đệ rằng: "Cái mà Tây Y gọi là bệnh suy nhược tinh thần có thể trị bằng ăn uống đúng phép". (*)
39
www.SachVui.Com
Nyoiti Sakurazawa, người kế thừa của Isiduka, đi thuyết ở Âu Châu và Mỹ Châu từ 1920 cho đến ngày ông mất, năm 1966, đã công bố rằng: "trong khi ung thư là bệnh cực âm của các người có sức mạnh, thì bệnh loạn trí là bệnh quá âm của những người có thể chất yếu đuối".
Theo khoa châm cứu trong y học Đông phương, mọi sự vật đều nảy sinh từ nguyên lý âm dương hòa hợp. Đường là món cực âm và thịt máu đỏ lại quá dương. Lạm dụng đường đưa đến các bịnh thịnh âm như: ung thư và cái gọi là Schizophrenia (loạn trí).
Qua bao nhiêu kinh nghiệm, Đông y công nhận rằng thể chất bạc nhược là do di truyền, nhưng phẩm chất của bào thai trong tháng thứ nhất lại có thể thay đổi nhờ thức ăn của bà mẹ, và dấu hiệu bên ngoài của thể chất yếu đuối là vành tai nhỏ bé dính vào đôi gò má, còn phần trên và dưới của tai thì không có đường rãnh phân ranh với đầu. Vành tai rộng có đường phân giới rõ rệt là dấu hiệu của một cơ thể cường tráng nhờ di truyền. Tây y giờ đây đánh giá cao lối chẩn đoán này: họ xác nhận là vành tai to và có phần rời ra cho ta biết một nang thượng thận tốt.
Từ khi có sự chú tâm đặc biệt của Hoa Kỳ vào Y khoa Đông phương nhờ tiếp cận được với Trung Quốc vào những năm sau 1970, và trong khi thiên hạ vội vã chê trách Sakurazawa và những chuyên viên châm cứu khác là lang băm, thì một bác sĩ nội tiết ở New York đang say mê hiệu quả cụ thể của vài học thuyết căn bản trong y thuật Đông phương cổ truyền.
Năm 1940, bác sĩ John Tintera nhận thấy sự quan trọng của hệ nội tiết đối với phương pháp trị liệu bệnh tâm trí ngớ ngẩn (Brain boggling). Đặc biệt là sự quan trọng của nang thượng thận. Trong 200 trường hợp trị liệu bệnh thiếu kém kích thích tố của nang thượng thận (liên quan đến vỏ não), ông ta nhận thấy các lời than phiền hệ trọng nhất của các bệnh nhân đến khám bệnh thường giống với lời tâm sự của các bệnh nhân không khả năng hấp thụ đường (inability to handle sugar) như là: mỏi mệt, dễ nóng giận, hay lo âu, buồn nản, sợ sệt, tửu lượng kém, không tập trung tinh thần được, dị ứng, huyết áp thấp (họ đang mang khổ ách đường đấy!) ông buộc tất cả bệnh nhân đến khám bệnh phải qua cuộc kiểm tra GTT (Glucose Test Tolerance) tức kiểm nghiệm khả năng dung nạp đường. Kết quả làm mọi người sửng sốt và khiến cho phòng thí nghiệm phải tái kiểm tra để tránh sự nhầm lẫn ban đầu. Điều làm cho nhân viên phòng thí nghiệm thắc mắc là: chứng rối loạn tâm thần của đám thiếu niên, và vì sao việc xét nghiệm lại chỉ áp dụng cho bệnh nhân nào bị nghi là bị tiểu đường mà thôi!
40
www.SachVui.Com
Trong định nghĩa của Dorland về chứng Schizophrenia tinh thần phân liệt. (và chứng lẩm cẩm trước tuổi già-Dementia praecox của Bleuler) có đoạn như là "thường được nhận thấy sau khi tuổi trưởng thành xuất hiện" và khi đề cập đến tâm trí đần độn của lứa tuổi học trò, thì có câu "bệnh xảy ra ngay sau khi thời dậy thì bắt đầu".
Những bệnh trạng này dường như xuất hiện hay trở nên trầm trọng vào tuổi dậy thì, nhưng nếu dò xét quá khứ của những bệnh nhân thì ta sẽ thấy các triệu chứng ấy đã có từ lúc chào đời, đến thời thơ ấu, xuyên suốt đến tuổi học cấp I và II. Mỗi giai đoạn đều có đặc tính bệnh lý riêng, dễ nhận thấy vào thời dậy thì và làm cho các vị giáo chức phải bận tâm vì thiếu niên phạm tội và học hành dốt nát. Một cuộc điều tra khả năng dung nạp đường GTT trong thời kỳ vừa nêu trên nhằm báo động cho cha mẹ và y sĩ chăm sóc, và có thể tiết kiệm được bao nhiêu thời gian và tiền bạc để khám và trị bệnh tâm thần ấy, cũng như tìm môi sinh thích hợp cho sự phát triển cảm xúc bình thường của con cái mình. Bác sĩ Tintera nhấn mạnh đoạn này: "Thái độ tiêu cực, tính năng động, tật bướng bĩnh, chống đối kỷ luật, là dấu hiệu cần đi thử nước tiểu, thử hồng huyết cầu và thử GTT. Có cách thử GTT (kiểm tra khả năng dung nạp đường) cho trẻ thơ mà không gây thương tích. Thật ra tôi thường xuyên tha thiết yêu cầu nên thử GTT, trước khi đến khám bệnh.
Hầu như trong mọi cuộc tranh luận về nghiện ngập ma túy, rượu và về bệnh Schizophrenia người ta đều đồng ý là không có thể chất của kẻ nào sinh ra đã mang cái khổ ách đó cả, mà họ chỉ có cái cảm xúc lúc còn thơ dại thôi. Từ lâu chúng tôi có thuyết phục từng y sĩ, dù các ông ấy đã hay chưa học khoa trị bệnh tâm thần do di truyền hay vì sinh lý, để các ông ấy nhận được mối liên hệ giữa các bệnh nội tiết và chứng vừa nêu – bệnh suy kém hormone của nang thượng thận (hypoadrenocortic).
Tintera đã cho phát hành nhiều tờ báo y học có giá trị lịch sử. Ông luôn nhấn mạnh rằng bệnh thuyên giảm hay bình phục tùy thuộc vào công năng trọn lành của toàn thể các bộ phận. Cách trị liệu chính yếu là thức ăn, ông thường xuyên nhắc nhở: sự quan trọng của thức ăn cần được đặc biệt chú ý. Ông nghiêm nghị khuyên tuyệt đối không dùng đường với mọi hình thức, mọi cách dùng.
Trong khi Egas Moniz ở Bồ Đào Nha đang nhận giải thưởng Nobel vì nghĩ ra được phương pháp giải phẫu óc trị bệnh Schizophrenia (loạn trí) thì phần thưởng của Tintera là những lời sỉ vả và đe dọa của tập thể y sĩ chính thống uyên thâm. Nếu Tintera giữ nguyên vị thế trong y khoa nội tiết thì ông ta đã yên thân. Đằng này ông quả quyết rằng đường là nguyên nhân gây ra bệnh Schizophrenia nên mới bị cô lập. Ông cũng bị mạ lị khi lớn tiếng bảo rằng thân thể suy
41
www.SachVui.Com
nhược vì nghiện rượu có liên quan mật thiết đến nang thượng thận suy yếu vì lạm dụng đường, trong khi các bác sĩ nhất định rằng không có gì đáng chú ý trong việc nghiện rượu, chỉ thấy số người nghiện càng ngày càng nhiều. Thế là họ thả trôi tệ trạng này cho các công ty rượu nặc danh lo liệu. Tuy nhiên khi Tintera bạo gan viết trong một tạp chí của quần chúng: "thật lạ kỳ nếu nói đến nhiều thứ dị ứng, trong khi chỉ có một thứ dị ứng do nang thượng thận suy yếu vì đường". Thì tên tuổi của ông hết bị lu mờ.
Cái chết của Tintera vào năm 1969 ở tuổi 57 giúp cho các chuyên viên y khoa dễ công nhận những phát minh mà y học Đông phương về di truyền và thực phẩm qua nguyên lý âm dương đã luận bàn từ xa xưa. Ngày nay tất cả các bác sĩ trên toàn thế giới đang lập lại những gì mà Tintera đã công bố: "Không một ai nên đi trị bệnh tinh thần nếu chưa qua cuộc Thử Nghiệm Khả Năng Dung Nạp Đường". Để xem cơ thể mình chịu nổi đường không?!
Cái gọi là y khoa dự phòng lớn tiếng hơn: "Ta nghĩ rằng ta dùng đường được vì xưa nay ta có nang thượng thận cường tráng". Tại sao phải đợi đến lúc có triệu chứng và dấu hiệu là chúng nó đã mòn mỏi? Hãy giải thích cho chúng bằng cách ngưng dùng đường dưới mọi hình thức, trước nhất phải khởi sự bằng cách không uống nước ngọt giải khát nữa!".
Lòng ta bâng khuâng trước các sự kiện lịch sử y khoa. Qua bao thế kỷ, biết bao linh hồn buồn khổ vì bị thiếu sống, bị tội vì lắm tà thuật, bị nguyền rủa vì tội trừ ma ếm quỷ, bị giam vì tội điên khùng, bị hành hạ vì "chạm dây" do thủ dâm, bị trị tâm thần vì loạn óc, bị mổ óc vì loại trí… ! Ôi! Biết bao bệnh nhân sẵn sàng lắng nghe thầy thuốc ở địa phương nói cho họ biết rõ là: "Khổ ách của Đường đang quấy nhiễu đời họ! Đích thực chỉ có thế thôi".
Mùa Vu Lan 1992 D. T. Liên Châu
---🙞 ☯ 🙜---
42
www.SachVui.Com
Chƣơng V : ĐỔ TỘI CHO LOÀI ONG
Blame it on the bees
Khoảng năm 1662, số lượng đường tiêu thụ đường ở Anh quốc nhảy vọt từ 0 đến 16 triệu cân Anh hằng năm. Trong vòng hai thế kỷ. Thế rồi năm 1665, một tai ách giáng xuống Luân Đôn, trong tháng chín năm ấy 30 ngàn người chết. Chỉ một bệnh viện dành chứa các nạn nhân dịch hạch cho cả thành phố, nên nhiều bệnh nhân phải bị nhốt tại nhà mình, có canh gác cẩn thận, cửa sơn chữ thập đỏ to tướng. Ai không bệnh thì chạy ra ngoài thành phố, trong khi rất nhiều lang băm xảo quyệt gạ bán các thuốc gì đó, thì các y sĩ có học thức dùng dao và chất có hà tính (caustic) nóng bỏng để mổ các u dưới nách, dưới háng. Khi mổ xẻ tỏ ra không có kết quả và các y sĩ nhập cuộc lại bị nhiễm bệnh, họ ngưng các lối trị liệu ấy. Bệnh hoành hành suốt một năm.
Dân quê hầu như không dùng đường, được thoát nạn. Nếu ai dám gọi đó là tai ương của thành phố hảo ngọt (city sugar plague) thì có lẽ bị lên án là đe dọa ngành thương mại và Hoàng Cung, rồi bị treo cổ.
Sau đó ít lâu, Thomas Willis (nhà giải phẫu, y sĩ, hội viên đầu tiên của Hội Hoàng Tộc, và hội viên danh dự của Đại học Y khoa Hoàng Gia) bắt đầu thực nghiệm các kiến thức y khoa, khiến cho ông trở nên một y sĩ đáng kính thời ấy. Tài liệu phân giải cơ thể đầu tiên (1664) diễn ra là một phần bộ não gọi là võng não Willis, bằng từ ngữ Latin trong sáng, đạo mạo. Ngày nay người ta vẫn dùng từ ngữ ấy. Ông cũng viết bằng Anh ngữ: một phương pháp đơn giản nhằm bảo toàn những ai còn tráng kiện trong vùng dịch hạch, và chữa bệnh cho các nạn nhân, Willis là người đầu tiên diễn tả bằng văn tự, nói đúng hơn là khám phá ra vị ngọt mới lạ và khác thường trong nước tiểu của những bệnh nhân giàu sang và trọng vọng. Trong tài liệu y học thứ nhì tựa là Pharmaceutics Rationalis (bằng chữ latin, xuất bản 1674) ông bảo triệu chứng này là Diabetes Mellitus.
Theo nghĩa Hy Lạp. Diabetes là nước tiểu thái quá, nhiều vô độ. Theo nghĩa Latin thì đó là chứng Polyuria (poly = nhiều, uria = nước tiểu) còn từ ngữ mellitus là ngọt như mật ong (mell = mật ong itus = sưng viêm)
Sau trận dịch hạch ở Luân Đôn, Y khoa mới khám phá một triệu chứng chưa từng thấy : Tiểu nhiều và có mùi vị ngọt tại sao không nên gọi Polyuria Saccharitis tức chứng viêm vì đường? Lúc ấy vua nước
43
www.SachVui.Com
Anh vừa bị chém đầu và hoàng tử lên thay cha. Willis là tay bảo hoàng nồng nhiệt nên trở thành y sĩ riêng của vua Charles II. Nhà vua và thân quyến đều giàu sụ nhờ kinh doanh đường. Thế thì ai dám bảo đường là nguyên do của bệnh mới, nhất là khi vua hay các quan đến nhờ bạn trị bệnh. Bạn muốn phá sản hay đứt đầu ư? Vậy thì dùng tiếng Hy Lạp đặt tên cho bệnh ấy thì mới ổn. Hay là đổ tội cho loài ong thì đỡ lo hơn nữa! Mật ong thì ai cũng biết mà chả có ai nghĩ đến việc nuôi ong để làm giàu. Đổ tội cho loài ong và dùng từ Latin để diễn tả chứng viêm vì mật ong thì bạn được nổi danh, lại củng cố được thế đứng trong lịch sử y khoa, mà tính mạng được bảo đảm.
Dù sao Willis cũng có công đóng góp vào khoa Đặc tính Bệnh học (Nosology). Ông biết thủ thân, năm trước có Galileo phải khổ tâm với tôn giáo Pháp Đình. Xưa nay khoa học hay chịu lép với các nhà doanh thương. Sau khi cả một làng ở Nhật ăn cá bị nhiễm độc do chất phế thải có thủy ngân của kỹ nghệ, nhiều người chết, thì thiên hạ đặt tên là bệnh Minamata (tên làng chứ không phải thủy ngân)
Willis trực giác được tương quan giữa đường và chứng Scurvy (cơ thể thiếu máu, suy nhược, nướu răng và niêm mạc rỉ máu do thiếu Vitamin C) hàng thế kỷ trước khi người ta khám phá ra vitamin C. Khi đường bị tinh lọc thì tất cả vitamin kể cả vitamin C bị mất đi. Đường thiên nhiên trong rau trái tươi cung cấp vitamin C cho cơ thể. Trong những thế kỷ 17 & 18 các món tráng miệng bằng trái cây tươi bị thay thế bằng các món tẩm đường nên số bệnh nhân Scurvy tăng nhiều.
Người ta hay đổ lỗi cho vi khuẩn gây ra bệnh lao, nhưng cứu xét mối tương quan giữa bệnh này với đường thì nhiều bằng chứng cho thấy bữa ăn dùng nhiều đường có thể tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn nẩy nở. Ba trăm năm trước đây, số tử vong vì bệnh lao nhất là ở Anh tăng kinh khủng. theo nhận xét của Naburo Muramoto thì công nhân lò đường mắc bệnh lao nhiều nhất.
Năm 1910 khi Nhật Bản tiếp nhận nguồn cung cấp đường vừa nhiều vừa rẻ của Đài Loan thì số người bị bệnh lao cũng tăng vọt. Bác sĩ James Hurt năm 1633 có viết trong quyển "Klinike or the Diet of Disease" (bệnh viện hay ăn uống sinh bệnh), quyển sách chỉ nam cho sức khỏe gia đình, hoặc vài nguyên tắc đơn sơ dễ áp dụng, nếu được thực nghiệm và tuân hành đứng đắn sẽ giúp cho gia đình khỏi bệnh mà lại được trường thọ. Bác sĩ Hurt không phải là thành viên trong hội Y học Hoàng tộc: Ông là nhà y học thiên nhiên nên ông tin rằng bác sĩ phải là giáo viên chỉ dạy cách ăn uống và cách bảo toàn sức khỏe, thay vì lo cho tên mình gắn liền vào một bệnh chứng mới lạ. Cảm nghĩ của ông về đường ở thế kỷ 17 hiện nay đã quá lỗi thời "Đường rất độc hại cho cơ
44
www.SachVui.Com
thể; sử dụng thái quá làm cho máu nóng, gây sự bế nghẽn ở nội tạng. Bệnh lao phổi, thúi răng, làm cho răng đen và hơi thở hôi hám. Do đó hãy nhắc nhở thanh niên đừng lạm dụng đường".
Ngày nay theo nhận xét của Tự Điển y khoa thì chứng Cachexia (suy nhược toàn diện vì kém dinh dưỡng), có thể xảy đến với các bệnh mãn tính như lao phổi và các chứng ác tính ở thời kỳ cuối. Y khoa phải ngụp lặn mất ba trăm năm mới thấy được một điều hiển nhiên, và mạnh dạn công bố bao nhiêu triệu chứng của hằng bao bệnh tật mang những tên gồm những từ ngữ đa vận, đều do đường gây ra.
Hiện nay chỉ những người có tâm thần lững lờ (brain boggling) mới đọc hết lịch sử y khoa mà vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân gây ra bệnh tiểu đường (một bệnh mãn tính và bất trị) và vẫn chưa thấy rằng tiểu đường sinh ra do lá lách không tiết ra đủ lượng Insulin. Thế là họ dùng tiếng Hy Lạp để khỏa lấp. Ngôn ngữ và lịch sử thường bị hiểu lệch lạc, giải thích theo chủ quan. Vì thế ta có thể đoán biết là tiểu đường đã xuất hiện hàng ngàn năm nay.
Khi tài liệu y khoa thời cổ (Ebess Papyrus), rất là quý giá, được tìm thấy vào 1872 tại Luxor ở Ai Cập, thì có những toa thuốc trị "quá nhiều nước tiểu". Dù đây là một triệu chứng của tiểu đường thôi, nhưng các sử gia y khoa vẫn vội vã kết luận rằng tiểu đường đã xuất hiện trên 2000 năm. Điều ấy hình như rất thuận lợi cho sự phủ nhận đường tinh chế hiện nay là tác nhân gây tiểu đường.
Dân Ai Cập thuở ấy đâu có đường tinh chế. Họ dùng mật ong và đường thiên nhiên trong cây chà là (đường thốt lốt) kẹo thì làm bằng bột nhồi (dough) hòa với mật ong và trái chà là, chất hỗn hợp này được cắt thành hình tam giác. Đường thốt lốt và mật ong là thực phẩm trọn vẹn ăn bao nhiêu tùy thích mà không sợ bị bệnh. Qua hằng chục thế kỷ, không có ai ngoài vùng nhiệt đới ăn được đường thốt lốt cả.
Bác sĩ G. D. Campell chuyên trị tiểu đường ở Nam Phi Châu có nói: thật khó giải thích tại sao Hyppocrate không bao giờ nói đến một ca bệnh tiểu đường. Một lương y tận tụy như ông làm sao không nhận ra bao nhiêu sắc thái của chứng này, hoặc đơn lẽ hay hỗn tạp. Có lẽ đây là tình trạng mất quân bình bất thường của cơ thể hay một chứng đặc phát (sporadicity) chỉ xảy ra thời nay nơi vài cộng đồng người miền quê. Lịch sử y khoa cận đại phải dựa vào từ ngữ Hy Lạp để củng cố thành kiến của họ.
Sự kiện y học nói rằng số bệnh nhân tiểu đường dường như gia tăng hơn xưa. Bệnh này hồi xưa đâu có, tương quan giữa lượng đường tiêu thụ ở Châu Mỹ thời nay và số tử vong vì tiểu đường chưa được kê khai
45
www.SachVui.Com
bằng con số. Ở Đan Mạch chính quyền có cho làm bản thống kê. Còn lịch sử y khoa Hoa Kỳ thì ít để ý đến sự việc này. Năm 1880, mỗi một người Đan Mạch dùng trên 29 cân Anh đường hằng năm, và từ suất ghi nhận là 1,8 trên 100. 000 người. Năm 1911 lượng đường tiêu thụ hơn gấp đôi (82 cân/người) số tử vong lên đến 8 trên 100.000 người. Năm 1934, lượng đường tinh chế cho mỗi đầu người là 113 cân Anh, thì từ suất là 18, 9 trên 100. 000 người.
Trước thế chiến II. Đan Mạch tiêu dùng đường nhiều nhất ở Âu Châu. Từ ngữ Danish (dân Đan Mạch) cũng có nghĩa là bánh ngọt hình quả bom (a pastry sugar bomb), vì thế cứ năm người thì có một người bị ung thư. Ở Thụy Điển mỗi người dùng 12 cân vào năm 1880, lên đến 120 cân Anh năm 1929, cứ 6 người thì có 1 bị ung thư. Các xứ Bắc Âu lập thống kê lúc lượng đường tiêu thụ còn thấp. Hoa Kỳ và nhiều xứ khác thì chậm trễ hơn. Một điểm cần ghi nhận: khi lượng đường tiêu thụ gia tăng thì các bệnh chết người cũng leo thang ác liệt.
Trong trận chiến chống bệnh do đường, các phát minh có vẻ rời rạc, hiếm hoi. Không có chi đáng ghi nhận cho đến khi xảy ra cuộc tranh cãi giữa ông Oskar Minkowski (Nga sô) và cộng sự viên là ông J. Von Mering vào năm 1889. Sau rốt họ đồng ý cắt lá lách của một con chó để xem nó sống được không: chó chết, mấy con sau cũng chết. trước khi chết chúng tiểu ra rất nhiều và nước tiểu chứa 5 đến 10% đường, rõ ràng là tại lá lách.
Năm 1923, một y sĩ Canada lãnh giải Nobel nhờ biết cách lấy ra một nội tiết tố Insulin (mà một lá lách bình thường tiết ra một số lượng cần thiết cho nhu cầu cơ thể) và chứng tỏ được rằng nó có thể hóa giải lượng đường dư thừa trong máu. Chính lượng đường dư thừa này giết từ từ bệnh nhân tiểu đường.
Từ thập niên 1880 trở đi bệnh nhân tiểu đường phải cam chịu khổ đau. Có khi phải nhịn đói, có khi ăn thật béo, khi thì bị tiêm muối diêm (baking soda), khi thì phải kiêng cốc loại vì các dược sĩ (hiểu sai) xem cốc loại là đường carbohydrate. Nên ngón chân, tứ chi, đều bị cắt cưa. Nhưng rồi đáng buồn thay, bệnh nhân vẫn cứ chết!!
Năm 1911. Từ điển bách khoa Britannica giải nghĩa tiểu đường như sau: tiểu đường là chứng bệnh do chức năng trao đổi chất bị biến tính, thường xảy ra ở các đô thị, nhất là các đô thị tân tiến, và người Do Thái dễ bị chứng này. Việc lạm dụng đường được xem như là nguyên do, chứng béo phì cơ thể giúp cho bệnh nhân này khai triển và chính đường cũng làm cho béo phệ. Không lứa tuổi nào thoát khỏi bệnh này, thường thì các người khoảng 50 tuổi dễ vướng bệnh. Số đàn ông gấp đôi số bệnh nhân phụ nữ, giống dân da sậm màu ít bị. Rất hiếm khi bệnh nhân
46
www.SachVui.Com
được chữa lành, nên phải chết. Có hai cách trị liệu khác nhau: - một là thức ăn uống, - hai là thuốc men. Đáng chú ý là thực phẩm vì có vài loại làm bệnh nặng thêm, đặc biệt hơn hết là các loại có pha đường Saccharin hay chất bột (Starchy)… Có vài cách trị nhằm loại trừ càng nghiêm nhặt càng hay những món này ra khỏi các bữa ăn. Tốt hơn hết mỗi bệnh nhân nên tìm cách ăn uống thích hợp cho cơ thể mình.
Nhiều dược liệu đã được sử dụng trong việc trị liệu tiểu đường, nhưng chỉ có vài món đáng ghi nhận. Á phiện hữu ích hơn hết, có thể xoa dịu mọi triệu chứng. Morphia và Codera có công dụng tương tự, người ta có thử dùng Heroin hydrochloride dễ thay thế các thứ vừa kể. Nhưng hình như có công dụng đối với các trường hợp nhẹ.
Các cơ quan y tế khai thác Isulin, và tôn sùng nó như phép lạ y khoa. Việc sản xuất isulin đem lại mối lợi to tát cho kỹ nghệ dược phẩm. Từ đầu thập kỷ 1920 tật nghiện đường lan tràn nên mua bán đường cũng phát đạt. Chích isulin tốn tiền lắm nhưng tạm làm êm dịu triệu chứng. Hằng triệu tiểu đường phải lệ thuộc isulin cho đến hết đời. Isulin bày bán khắp nơi, bệnh nhân tiểu đường sống sót nhờ tiêm isulin rút từ lá lách súc vật trong lò thịt… Tiểu đường biến thành nhiều chứng. Từ ngữ Diabetes Mellitus. Chứng viêm vì mật ong, làm xuất ra nhiều nước tiểu, cũng bị lỗi thời và được thay thế bằng thuật ngữ tân kỳ, diễn tả triệu chứng rõ hơn: Hypoinsulinism (underproduction of insulin). Insulin tiết ra không đầy đủ.
Năm 1924, một năm sau khi công trình phát minh Insulin được giải Nobel một giáo sư y khoa tìm thấy cái hay trong cái kém (vừa bổ sung vừa đối nghịch) của chứng hypoinsulin, đều không tránh được là bệnh nhân và bác sĩ, trong những năm đầu trị liệu bằng insulin, hoặc dùng quá nhiều hoặc dùng quá ít. Quá liều lượng thích ứng gây ra sốc insulin (Insulin Shock) bác sĩ Seale Harris của đại học bang Alabama bắt đầu chú ý vào triệu chứng sốc insulin nơi mấy người hoặc không bị tiểu đường hoặc không dùng insulin. Những người này được chẩn đoán và Scale Harris thấy mức Glucose trong máu của họ thấp. Bệnh nhân tiểu đường thì có lượng Glucose cao.
Harris báo cáo: Lượng Glucose trong máu thấp được xem như là triệu chứng dư thừa isulin (hyper – insulinism). Cho đến thời điểm ấy, bệnh nhân có triệu chứng này phải chịu trị bệnh động mạch vành tim (coronary thrombosis), hoặc trị chứng về tim nào đó, trị bướu não, trúng phong, bệnh dưới túi mật, viêm ruột thừa, loạn thần kinh, suyễn, dị ứng, ung loét, ngộ độc rượu, hay chứng rối loạn tâm thần.
Nhưng bác sĩ Harris không được giải thưởng Nobel vì phát minh của ông gây rắc rối cho y khoa và chả đem lợi lạc gì (not a boon). Phương
47
www.SachVui.Com
thuốc trị bệnh dư insulin trong máu (tức thiếu Glucose trong máu), của ông quá đơn sơ nên không ai nhờ đó mà khá giả được: Đó là cách tự cai quản cơ thể của mình. Bệnh nhân phải từ bỏ đường tinh chế (refined sugar). Kẹo, café và nước ngọt giải khát, đó là những chất độc gây bệnh: Phải tự bảo vệ lấy, không nhờ ai cứu vớt được. Harris chỉ khuyên bảo những điều không nên làm.
Đúng như tiên liệu, y khoa giáng lên lưng bác sĩ Harris những đòn đau điếng như hằng tấn gạch rơi lên người ông vậy. Những điều ông phát giác nếu để lộ ra ngoài quần chúng sẽ làm phiền lòng các y sĩ chuyên viên phân tâm học và các ngành y tế khác. Hội y Tế Hoa Kỳ
(American Medical Association) phải mất 25 năm mới thấy được công trạng của bác sĩ Harris để hiến huy chương cho ông
Đến năm 1929. Bác sĩ Frederic Bunting, người phát minh ra isulin, bèn cho dân chúng biết là chất đó chỉ tạm giảm bệnh chứ không trị lành bệnh (a palliative, not a cure), cách ngừa tiểu đường là bỏ hẳn lề thói nguy hiểm mê ăn đường cho thỏa thích, vô tiết độ (cut down on dangerous sugar bingeing).
Ở Anh quốc, các con số sau đây cho ta thấy insulin chỉ làm chậm bước thần chết :
Số tử vong vì tiểu đường, trước khi có Insulin:
110/1 triệu ngườinăm 1920
119/1 triệu ngườinăm 1922
112/1 triệu ngườinăm 1925
Sau khi có insulin, tỷ số người chết vì tiểu đường:
115/1 triệu ngườinăm 1926
131/1 triệu ngườinăm 1928
142/1 triệu ngườinăm 1929
145/1 triệu ngườinăm 1931
Vào thập niên 1930, các khoa học gia Hoa Kỳ nhận xét rằng dân Trung Quốc và Nhật Bản nhờ dùng cơm gạo như món ăn chính nên ít bị tiểu đường, dân Do Thái và Ý bị tiểu đường nhiều hơn.
Họ kết luận là dân Do Thái dùng nhiều mỡ động vật, dân Ý ăn nhiều dầu ô liu, và lượng chất béo làm họ bị tiểu đường. Nhưng họ quên hẳn sự kiện Đông và Tây dùng lượng đường tinh chế khác nhau. Số bệnh nhân tiểu đường hạ thấp rõ rệt trong kỳ đệ nhất thế chiến (khi ấy đường được phân phối hạn chế) và số lính trẻ bị tiểu đường cứ gia tăng từ thế chiến thứ I đến thế chiến thứ II (lính được cung cấp đường còn dân thì không).
48
www.SachVui.Com
Herbert Spencer bảo: Kiến thức không chín chắn chỉ làm tâm hồn rối loạn. Y học Tây phương đáp ứng bệnh vì đường không ổn thỏa. Nhiều phái đoàn truyền giáo đem đường tinh chế nhân tạo vào Nhật Bản, sau trận nội chiến ở Hoa Kỳ. Trước hết dân Nhật dùng sucrose như thuốc trị bệnh, giống như dân Á Rập và Ba Tư hằng thế kỷ trước. Đường phải chịu thuế rất nặng như thuốc men nhập cảng vậy. Khoảng 1906. 45. 000 mẫu đất được trồng mía ở Nhật so với 7 triệu mẫu trồng lúa gạo. Điều khá lý thú là trong quân đội Nhật, như quân đội Bắc Việt Nam vào thập niên 1970, mỗi người đều đem theo gạo xấy đủ ăn ba ngày, với cá khô, rong biển khô và xí muội.
Sau khi chiến thắng quân đội Liên Xô, nhiều người Nhật dần dần bỏ cách ẩm thực cổ truyền, để chạy theo Y khoa, dinh dưỡng, kỹ thuật và tôn giáo Tây phương. Đường thêm vào bữa ăn thì bệnh tật Tây phương cũng thêm vào đời sống của họ. Một y tá người Nhật, sau khi học kỹ thuật y khoa Tây phương, ngã bệnh và bị các bác sĩ cùng làm việc với bà bỏ rơi, ba đứa con của bà cũng chịu cùng số phận. Đứa thứ tư là Nyoiti Sakurazawa đã chiến thắng lao phổi và ung loét bao tử lúc vừa hơn 10 tuổi, nhờ theo đường lối trị liệu không chính thống của bác sĩ Isiduka (theo lối ăn uống cổ truyền). Hàng ngàn bệnh nhân bị Tây y bỏ rơi được Isiduka chữa lành.
Bác sĩ Isiduka đã nhận thấy hiệu năng của khoa Sinh Hóa (Biochemico Validity) thời xưa, đó là Vô Song Nguyên Lý luận giải bằng Âm Dương (Unique Principle of Yin and Yang), khi ông ta bật mí được tính chất đối nghịch mà bổ sung cho nhau của Na (sodium) [Dương] và K (Potassium) [Âm] (Quyển Vô Song Nguyên Lý đã được dịch ra Việt ngữ) Na – Dương , K – Âm.
Chàng trai Sakurazawa theo học với thầy Isiduka. Khi thầy qua đời. Sakurazawa tiến xa hơn, cậu học thêm y khoa châm cứu và các tài liệu minh triết của nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Sau thế chiến I, Sakurazawa qua Paris và vào Đại học Sorbonne và Viện Pasteur. Vào thập niên 1920, ông mở phòng châm cứu tư (lúc ấy châm cứu còn xa lạ với Âu Châu) ở Paris để sống.
Về sau ông cộng tác với bác sĩ De Morant (Pháp) ông này thích châm cứu khi làm việc với đoàn quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, để viết quyển sách châm cứu đầu tiên bằng tiếng Pháp. Tác phẩm này được dịch ra Đức ngữ và Anh ngữ với phần phụ chú đề cao Sakurazawa
(tức George Ohsawa) bằng câu "bài dịch này trích trong Hoàng Đế Nội kinh" (Yellow Emperor's Classic of Internal Medicine) mà nhiều trường y khoa Hoa Kỳ hiện vẫn dùng làm sử liệu y học.
49
www.SachVui.Com
Ông cho phát hành nhiều sách bằng Nhật ngữ, Pháp ngữ, về Triết Đông và Y khoa phòng ngừa. Ông dịch tác phẩm "Men The Unknown" (con người, kẻ còn xa lạ) cho dân Nhật hiểu. Với kinh nghiệm bản thân về văn hóa Đông và Tây, ông kết luận rằng Tây y đã chậm mất nhiều thập niên để công bố cho quần chúng mối liên hệ giữa đường và bệnh tật trong quyển You are all Sanpaku (bạn hoàn toàn bị chứng Tam Bạch Đản) ông viết: "Ngày nào đó Tây y sẽ công nhận một điều mà Đông phương đã biết từ nhiều năm rồi, rằng đường là một hiểm họa khốc hại nhất mà nền văn minh kỹ nghệ đem gieo rắc vào các xứ Đông Nam Á và Phi Châu".
Phương pháp thuốc của Ohsawa (Sakurazawa) nhằm chỉ cho mọi người cách tự điều hòa thân thể để trị liệu và ngăn ngừa mọi bệnh; Bác sĩ Scale Harris cũng nhấn mạnh điều này. Các chức quyền y khoa Hoa Kỳ như hải ngoại đều cười giễu cợt ông. Cách phân giải bệnh vì đường của ông rất đơn sơ : khi ta ăn tinh bột, sự tiêu hóa thức ăn thành đường Glucose (đường đơn chất – Âm: simple sugar – yin): máu đưa Glucose vào lá lách: tại đây mức Glucose tăng cao, kích động sự tiết ra Insulin (Dương). Máu đưa Insulin vào gan, nơi đây Glucose thặng dư biến thành Glycogen (đường phức hợp – Dương: complex sugar – yang). Gan tồn trữ Glycogen.
Trái lại, đường Glucose trong máu giảm làm cho nội tiết tố xuất ra từ nang thượng thận và tuyến yên (pituitary gland) [những hormones này – ACTH – mang âm tính] để tăng mức Glucose trong máu bằng cách biến đổi một lượng Glycogen trong gan trở thành Glucose. Người khỏe mạnh mức Glucose trong máu được quân bình nhờ sự tương tác giữa Insulin
(Dương), hormone nang thượng thận và ACTH (Âm).
Nơi cơ thể suy nhược, mức Glucose biến đổi bất thường. Nếu Insulin do lá lách tiết ra quá lố thì quá nhiều Glucose biến glycogen, thế thì mức Glucose trong máu lại hạ thấp nhanh chóng. Đây là chứng dư insulin (Hyperinsulinism) hay chứng thiếu Glucose trong máu (hypoglycemia) và là giai đoạn đầu của chứng Sugar Blues (khổ ách vì đường). Lá lách bị kích động quá độ vì dùng quá nhiều đường đơn chất, như đường sucrose tinh chế, mật ong, trái cây và gián tiếp do thuốc men (kể cả Cần sa, Marijuana).
Nếu thiếu Insulin, gan không thể đổi lượng Glucose thừa ra glycogen. Thì ta bị tiểu đường, lá lách mệt mỏi không tiết ra đủ insulin để trung hòa các món ăn Âm như là đường đơn chất, mật ong, trái cây hay thuốc men. Sau rốt là quá gắng gượng, lá lách phải suy bại, lượng đường tích tụ mỗi lúc một nhiều. Dùng nhiều đường, mật ong và trái cây
50
đưa đến chứng dư insulin hay thiếu Glucose, rồi đưa đến tiểu đường tức dư Glucose trong máu. Đây là giai đoạn hai của chứng Sugar Blues. Chứng dư Glucose trong máu được khám phá đầu tiên nhờ ngửi mùi vị của mẫu nước tiểu đem xét nghiệm. và bác sĩ Thomas Willis gọi đó là tiểu đường, năm 1674. Đến đầu thế kỷ 20, kỹ thuật y khoa mới nhận thấy chứng thiếu Glucose trong máu, tức giai đoạn một của Sugar Blues. Vì bệnh này do Âm thịnh, tiên sinh Sakurazawa bảo phải dùng Dương để đối trị, tốt hơn hết là nhờ thức ăn thật quân bình không quá Âm mà cũng không quá Dương. Nên ăn gạo lứt nguyên vẹn, không bị chà xát, đậu huyết Azuki và bí rợ. Ông chỉ dẫn cách trồng tại Pháp và Bỉ các món carbohydrate thiên nhiên ấy. Tại Mỹ Châu ông khuyên trồng đậu nành mà ông gọi là bò sữa Phương Đông.
Để có protein thảo mộc rẻ tiền, năm 1920 đậu nành lan tràn ở Hoa Kỳ vì dùng để nuôi gia súc, rồi thịt gia súc lại trở thành thực phẩm. Bí ngô, đậu huyết, gạo lứt và nhiều sản phẩm làm từ đậu nành như tương misô, đậu hũ, nước tương thiên nhiên nguyên chất chưa được quần chúng chú ý. Sakurazawa tiên tri rằng thái độ ấy sẽ biến cải. Quả thật, khi cuộc khủng hoảng năng lượng và thực phẩm xảy ra vào thập niên 1970, thì xu hướng biến cải ấy hiển lộ.
Dĩ nhiên tập đoàn Tây y tố cáo Sakurazawa là thầy ngải, lang băm. Cách trị liệu lạ lùng như châm cứu mà không có bằng cấp do Đại học Harward chứng nhận, nhất là thời Hoa Kỳ chưa bang giao với Trung Hoa cũng làm cho ông bị xua đuổi ở vài nơi. Phương pháp trị liệu bằng ẩm thực của ông gồm nhiều cốc loại lứt mà Tây y hiểu lầm và cho là điên rồ vì dùng quá nhiều carbohydrate (carbohydrate đơn có khuynh hướng biến thành đường đơn chất trên tiến trình tiêu hóa cho nên mới tăng lượng Glucose trong máu và gây nguy cơ tiểu đường).
Sakurazawa là mối đe dọa việc kinh doanh đường và kỹ nghệ Insulin. Trong thập niên 1960 Tiên sinh có viết: "Không một bác sĩ Tây y nào có thể chữa lành bệnh tiểu đường. Dù insulin đã ra đời 30 năm nay rồi. Họ vẫn cho dùng insulin, nên bệnh nhân phải "chống nạn insulin" để khấp khểnh bước đi cho đến chết”. Thế mà sinh nhật thứ 25 của insulin, dược chất này vẫn được công nhận. Trong thời gian đó, những bệnh nhân tiểu đường phải trả hàng triệu đô la cho các thứ thuốc không mấy giá trị này, chẳng những ở Hoa Kỳ mà cả trên thế giới nữa. Số bệnh nhân cứ tăng mãi làm đầy túi tiền của bác sĩ và giúp các công ty dược phẩm phát đạt.
Sakurazawa khẳng định rằng bất cứ lối dinh dưỡng nào dành cho bệnh nhân tiểu đường mà loại trừ carbohydrate (bị Tây y gọi lầm) đều
51
nguy hiểm. Ông kêu gọi các nhà dinh dưỡng học Tây phương hãy nhận xét thấu đáo phẩm chất của thực phẩm mà họ dán nhãn hiệu là carbohydrates. Ông xin họ phân biệt cốc loại lứt nguyên vẹn, còn vỏ lứt, chưa chà xát như nguồn cội của các carbohydrate và không nên lẫn lộn món này với khoai tây, bánh mì, cốc loại, hạt bị chế biến và đường tinh chế mà Hoa Kỳ xem như là những nguồn cung cấp carbohydrate.
Sự bối rối của y khoa Hoa Kỳ trước các chứng bệnh vì đường rất dễ thấy, vì vợ của bác sĩ và chính các ông ấy cũng mắc bệnh này, họ cũng bó tay chờ thời, và bỏ rơi các bệnh nhân thân chủ… chuyện bác sĩ Stephen gyland ở Tampa - Florida, là điển hình. Bác sĩ Gyland ngã bệnh với vô số triệu chứng bất ổn nơi thể xác và tinh thần. Khả năng tập trung tinh thần và trí nhớ tàn lụn, suy nhược toàn diện, chóng mặt tim đập mau chậm tùy tiện, lo âu bất chợt, cơ bắp run giật bất chợt… Bác sĩ Gyland đến một chuyên viên y khoa nổi tiếng để được bảo là rối loạn thần kinh và nên nghỉ ngơi. Đến y sĩ khác, ý kiến khác, khuyên bảo khác. Trước khi lành bệnh ông đã đến mười bốn y sĩ và ba bệnh viện hay nhất ở Hoa Kỳ.
Các ông bác sĩ cảm thấy mình giúp đỡ bệnh nhân rất nhiều khi gọi tên bệnh của người ấy. Immanuel Kant bảo bệnh của bác sĩ Gyland có nhiều tên. Ông muốn gọi tên nào cũng được: viêm thần kinh, bướu não tiểu đường, mạch máu não bị cứng. Ông phải mất hết gia tài sự sản để trở về điểm khởi đầu: cũng bệnh, cũng làm việc không được, cũng rối trí với những từ ngữ y học khác nhau. Đang tuyệt vọng thì gặp được tài liệu của bác sĩ Harris đăng trong tạp chí của Hội đoàn y tế Hoa Kỳ ấn bản năm 1924 – Gyland trải qua cuộc thí nghiệm GTT (khả năng dung nạp đường – Glucose Tolerance Test) suốt 5 giờ, nhờ vậy mới biết mình bị thiếu Glucose trong máu (Hypogiy – cemia) tức khổ ách đường (Sugar Blues). Bác sĩ Harris chỉ dẫn cách ăn uống đơn giản: từ bỏ đường tinh chế và bột mì trắng toát đã mất vỏ lứt. Nhờ vậy các chứng choáng váng, buồn rầu vô cớ, cơ bắp co giật, loạn thần kinh, cứng mạch máu não… phai dần.
Sau khi bình phục, ông nhờ một y sĩ chẩn đoán bệnh đúng mà cho thuốc sai, bệnh ông mang nhãn hiệu "Low blood sugar" thiếu đường trong máu nên phải ăn nhiều thỏi kẹo để tăng đường lên. Ôi! Chỉ thêm dầu vào lửa, bệnh trạng thêm tồi tệ.
Nếu bạn đã từng kinh nghiệm cái viễn vong ấy của y học như tôi và hàng triệu người khác, thì chúng ta không còn lưu luyến làm gì, dù lòng có xót xa cho thế sự, nhưng cũng cùng có cảm nghĩ rằng chúng mình còn có nghĩa vụ thiêng liêng. Bác sĩ Gyland từng chịu đắng cay, có gửi bức tâm thư cho tạp chí của Hội Đoàn Y tế Hoa Kỳ (số 152 phát hành
52
ngày 18 tháng 7 năm 1953) khiển trách những đồng nghiệp đã quên lãng công trình tiền phong của bác sĩ Seale Harris. Ông mong rằng bài học khổ đau của ông sẽ giúp ích cho việc chẩn trị hằng bao nhiêu nạn nhân mang khổ ách của đường, kể cả người bị tuyên truyền (như ông) rằng đường tinh chế là thuốc trị lành nỗi khổ đau của họ, trong khi chính đường là thủ phạm.
Gyland tiếp tục chứng minh điều ấy bằng cách cho người đã lành bệnh rỉ tai cho người khác hiểu. Hơn 600 người được ông chữa lành chứng bệnh mà ông đã chứng nghiệm trên xác thân của ông. Ông làm bản nghiên cứu tường tận các nạn nhân, với chi tiết nói rõ cách chẩn đoán các triệu chứng xuất hiện, và kết quả của phép trị liệu mà tiên khởi là phải dứt hẳn thói quen dùng carbohydrate tinh chế đứng đầu là đường và thứ hai là bột mì trắng toát vì mất vỏ lứt. Ông là kẻ quấy rầy Hội Đoàn y tế Hoa Kỳ (AMA), nhưng sau rốt ông được phép đọc bản nghiên cứu trước một trong các cơ quan y tế. Ông nóng lòng chờ đợi bản ấy được phổ biến trên mấy tờ báo của AMA, nhưng chả thấy đâu cả! Rõ ràng AMA có bối rối khi báo động cho hội viên nên áp dụng GTT (Glucose Test Tolerance) ngay (thử khả năng dung nạp đường của cơ thể) trong sự chẩn bệnh thông thường (ba cuộc thử nghiệm như thế với thời lượng khác nhau được áp dụng). Bản nghiên cứu của Gyland sau rốt được đăng trên tờ báo y khoa của Brazil bằng tiếng Bồ Đào Nha.
Trong khi bác sĩ Gyland lê bước đó đây tìm thầy trị bệnh khổ ách của đường thì nhà viết báo khoa học, tốt nghiệp ở Đại học Harward và Viện kỹ thuật Massachussets (Massachussets Institute of Technology), cũng lang thang đến bao phòng mạch suốt mười năm rồi mới gặp lương y chẩn đoán đúng bệnh nhờ thử nghiệm GTT. Bệnh chứng của nhà văn A. W. Pezet phai nhạt dần. Ông bèn đặt câu hỏi hóc búa với bác sĩ E. M. Abrahamson:
"Tại sao quá nhiều bác sĩ biết ít hay chả biết gì về vô số triệu chứng đang quấy nhiễu hằng triệu người? Nếu việc chẩn đoán vì trị tận gốc bệnh chứng ấy tỏ ra quá ư đơn giản như vậy thì điều gì đã xảy ra cho y học từ xưa đến nay?".
Pezet có cảm tưởng rằng mình đang làm nghĩa vụ thiêng liêng khi biết mình có cùng triệu chứng như mình trước đây, và cũng tự giải cứu bằng phương pháp giống mình. Kết quả khích lệ là có sự hợp tác của Abrahamson – Pezet đã phát hành quyển "Thân thể, tinh thần và đường" vào năm 1951. Trên 200 ngàn quyển bìa cứng được bán hết, chứng tỏ quần chúng hết sức ái mộ nội dung của sách và việc phát hành nhằm ghi công đức của bác sĩ Seale Harris. Sách không phải đăng trên tạp chí y khoa như các tài liệu của Gyland và Harris, mà vượt qua hệ thống ban
53
chấp hành AMA để trực tiếp đến với quần chúng khổ đau từ lâu và bị chẩn trị sai lầm. Nhiều bệnh nhân yêu cầu bác sĩ cho thử nghiệm GTT và từ ngữ Hypoglycemia (thiếu đường trong máu) bắt đầu thông dụng ngoài xã hội. Rủi thay nhiều bệnh nhân vẫn bị dẫn giải sai lầm nên hiểu không đúng từ ngữ ấy và nhiều bác sĩ bảo họ rằng cách đáp ứng sự thiếu hụt đường trong máu là ăn nhiều thỏi kẹo trong các bữa ăn.
Năm 1969, chuyên viên dinh dưỡng Carton Fredericks hợp tác với bác sĩ Herman Goodman để viết một quyển sách rất hữu ích cho quần chúng: "Low Blood Sugar and You".
Dù vậy AMA vẫn lên giọng bảo đảm với dân chúng Hoa Kỳ rằng họ đủ sức xoa dịu nỗi đớn đau của mọi người. Năm 1973, tạp chí AMA công bố mấy bài báo làm cho quần chúng tin rằng chứng hypoglycemia đang lan tràn khắp xứ này, rằng nhiều bệnh chứng đang gây khốn khổ cho quần chúng, đều do hypoglycemia gây ra, mà y khoa chưa xác định được. Lời lẽ đó không dựa trên chứng cớ y khoa. Hypoglycemia có nghĩa mức đường trong máu thấp, người ta mắc chứng này thì xuất nhiều mồ hôi, người run rẩy, lo âu, tim đập nhanh, nhức đầu hay đói bụng, có cảm giác yếu đuối toàn thân và đôi khi bị trúng phong mê man. Tuy nhiên phần đông bệnh nhân bị các chứng trên không phải bị hypoglycemia… Chỉ thiểu số bị Hypoglycemia à?? Trong số người thắc mắc điều này có bà Marilyn Hamilton Light, phó giám đốc cơ quan nghiên cứu công năng trao đổi chất của nang thượng thận, thuộc hội nghiên cứu Hypoglycemia. Bà cũng từng sống trong cơn ác mộng như bác sĩ Gyland. Theo hồ sơ lưu trữ của hội thì có 20 bác sĩ và bốn y sĩ tâm thần bị Chứng Sugar Blues trước khi cảm thấy rằng mình có thể bị hypoglycemia (nhờ có người nói cho biết, tình cờ, gặp cơ may, hay đọc được tài liệu). Về sau nhờ thí nghiệm GTT xác nhận.
Marilyn Light viết thư cho Bộ y tế, Bộ giáo dục, và Sở xã hội và Y tế, yêu cầu cho biết vài con số tiêu biểu mà dân số bị chứng Hypoglycemia trên đất Hoa Kỳ. Bà được trả lời như sau: Theo một số sự kiện của Sở đặc trách Phỏng vấn Tìm hiểu Sức khỏe Quần chúng – chưa phổ biến – thì có 66 ngàn ca bệnh hypoglycemia so với 134 ngàn người đã tiếp xúc, tức là 49, 2% - đâu phải là nhiều, chỉ có 49, 2% thôi mà!!
Cuộc điều tra kế tiếp cho biết các điểm sau:
1 – Chính phủ Hoa Kỳ cho tiến hành cuộc phỏng vấn như thế. Để ghi nhận các sự kiện và khuynh hướng của tất cả các vấn đề liên quan đến sức khỏe.
2 – Những người được phỏng vấn, đáp ứng một cách tự phát, không ai nhắc. Không thấy từ ngữ hypoglycemia và cả từ ngữ "low blood sugar
54
(lượng đường trong máu thấp) trên bảng theo dõi (cheek list) các chứng mãn tính mà dân chúng được hỏi.
3 – Người phỏng vấn phải ứng biến để đặt câu hỏi cho họ nói ra hết các hình thái của triệu chứng.
4 – Người trả lời phải hiểu thấu bệnh trạng của họ, dùng đúng từ ngữ để diễn tả, họ phải có hảo ý tình nguyện cống hiến những điều cần biết cho phỏng vấn viên, trước khi được tiếp nhận.
5 – Dù con số 49, 2% đã lỗi thời hơn 10 năm rồi, và phải biểu tượng cho sự lan tràn của Chứng Sugar Blues đến mức báo động. Giống như bệnh truyền nhiễm, nhưng cơ quan HEW chưa bao giờ thêm từ ngữ hypoglycemia vào bảng kiểm kê bệnh trạng, và trong thời gian tới đây họ sẽ không làm điều đó. Liệu bạn có thể tưởng tượng được rằng HEW và AMA sẽ bãi bỏ chương trình chăm lo ung thư hay bệnh tim vì tỷ số bệnh nhân mới đến 49, 2%! Sự khác biệt giữa mấy bệnh tốn tiền như ung thư và mấy bệnh rẻ tiền như Chứng Sugar Blues (khổ ách của đường), là điểm cốt yếu cần suy gẫm. Lối trị liệu ung thư của y khoa chính thống mắc mỏ lắm; nhờ vậy bác sĩ mới mua được du thuyền. Cách trị liệu Chứng Sugar Blues hay Hypogoycemia chỉ là lời khuyên nên tự điều chỉnh đời mình, nên giã biệt đường tinh chế nhân tạo, khỏi tìm đến bác sĩ và bệnh viện. Thế thì làm gì "vắt" bạn ra tiền để mua chiếc áo lông chồn cho vợ hay có thể đi ra tận biển Bermuda để tắm nắng.
Trong thập niên 1970, y khoa phòng ngừa được đề cao với bao khẩu hiệu. Phòng ngừa là đến khám bệnh ở phòng mạch bác sĩ hay bệnh viện. Để qua các cuộc xét nghiệm đắt đỏ, để có thể đón nghe "giảng đạo" về hút thuốc, cholesterol, nếu bác sĩ có thể giấu cái bụng phệ dưới lớp áo trắng. Và có thể kiêng cử hút thuốc để đủ thời gian cần thiết mở miệng dạy bảo. Những ai sợ ung thư và bệnh tim đều đóng góp mạnh mẽ vào cái y khoa phòng ngừa này. Để ngừa Chứng Sugar Blues, hay Hypoglycemia hay triệu chứng sắp bị tiểu đường (Prediabetes) hãy nên dùng khẩu hiệu duy nhất: Dinh dưỡng phòng ngừa. Đừng dùng đường nữa; ngưng ngay trước khi nang thượng thận bị hủy hoại, trước khi bị Chứng Sugar Blues hay Hypoglycemia hay sắp bị tiểu đường. Ai muốn gọi thế nào cũng được.
"Khéo ăn uống để ngừa bệnh", - lời khuyên đơn sơ này tốn bao nhiêu tiền?
Năm 1967, tài liệu tìm hiểu Chứng Sugar Blues vẫn giữ kín, nhờ vậy AMA (Hội Y tế Hoa Kỳ) công bố là không biết chứng này, và năm 1973, họ có thể lớn tiếng ngẩng mặt nói rằng sự lan tràn Hypoglycemia
55
ở Hoa Kỳ thiếu bằng chứng y khoa. Sau rốt, chứng cớ hiển nhiên là thống kê dịch tả. Mấy bệnh nhân trước đây bị chẩn đoán và trị liệu sai lầm mới báo cáo chứng cớ, chớ không phải mấy ông bác sĩ.
Minh chứng y khoa kiểu đó không ổn vì 66. 000 người kia trong bảng thống kê không có hồ sơ y bạ để hậu thuẫn cho ý kiến của họ. Hầu hết các bác sĩ và bệnh viện đều từ chối cấp cho bệnh nhân phó bảng y bạ về kết quả khám bệnh và xét nghiệm. Cái gì AMA tin được đều đặt trên sự ngu dốt của chúng ta.
Nếu quý bạn chưa cảm nhận được sai biệt giữa sự kiện thông thường và sự kiện khoa học thì cho phép tôi (William Dufty) lý giải. Nếu tôi bị nhức đầu hay cảm sốt, đó là sự kiện đối với tôi, do tôi cảm thọ. Nếu tôi nói với bác sĩ điều ấy, thì ông xem điều đó là chứng cớ lặt vặt của cá nhân hay lời khai báo mà thôi. Rồi bác sĩ đo thân nhiệt của tôi, ghi vào giấy, lúc ấy nhức đầu của tôi mới là một minh chứng y khoa. Nếu bác sĩ khác ghi lại sự kiện đó thì đó là sự kiện khoa học. Nếu tôi cần biết bệnh sốt của tôi hôm thứ ba vừa qua có phải đã lên đến 101OF (~38. 3OC) và hỏi bác sĩ về hồ sơ y bạ của tôi thì tôi bị từ chối. Sự kiện bất nhất ấy giờ đây đã trở nên sự kiện khoa học, chỉ có giá trị cho một bác sĩ khác nữa. Nếu tôi phàn nàn về bệnh chứng, bác sĩ sẽ không cho tôi biết những sự kiện khoa học về bệnh trạng đã qua, mà lại cho là thứ chuyện vặt vãnh như khi tôi đến gặp bác sĩ lần đầu.
Sau 30 năm cho người tiêu dùng ít carbohydrate, y khoa hiện đại hủy bỏ công trình cũ để chạy theo phát minh khác. Đầu năm 1931, một nhóm khoa học gia do bác sĩ Edwin L. Bireman hướng dẫn, báo cáo trong tập chí y khoa trong tiểu bang New England, rằng bữa ăn với lượng carbohydrate cao đích thực có làm giảm Glucose trong máu của những người bị tiểu đường nhẹ và những người không bệnh. Bác sĩ Bireman xác nhận: Bữa ăn với nhiều carbohydrate không tăng lượng đường trong máu, nhiều bác sĩ đã hiểu sai sự việc này suốt 30 năm nay.
Hội Nghiên cứu Tiểu đường Hoa Kỳ (American Diabetes Association) bèn đốc thúc ngành y khoa hãy nhanh chóng chuyển hướng và yêu cầu cho bệnh nhân tiểu đường dùng lượng carbohydrate bằng hay cao hơn của người không bệnh. Hành động của hội nghiên cứu tiểu đường A. D. A nói lên một sự thật:
- Vì sử dụng bừa bãi insulin, vì những cách đối chứng trị liệu, nên rốt cuộc bệnh nhân phải khốn khổ với chứng "cứng động mạch", bệnh tim, và tai biến mạch máu não. Tệ trạng ấy do dùng lượng chất béo không thích hợp với bệnh nhân tiểu đường.
56
Năm chục năm sau, khi biến cố lịch sử tìm ra insulin, số bệnh nhân tiểu đường cứ tăng mãi. Từ thế chiến thứ I đến chiến tranh Việt Nam, thanh niên ở độ tuổi 18 đi khám bệnh để vào quân dịch bị loại vì tiểu đường càng ngày càng đông. Ở thập niên 1970 số bị loại là 12 %. Tiểu đường là nguyên nhân chính gây ra bệnh mù mắt; nhiều tật nguyền khác và gây tử vong vì bệnh tim hay thận. Số bệnh nhân ước lượng tại Hoa Kỳ vào khoảng 4 đến 12 triệu. Số người sắp bị bệnh tiểu đường (prediabetics), bị thiếu Glucose trong máu, dư insulin trong máu, có thể cao hơn nhiều.
Những lời nhắn nhủ quần chúng hãy tự điều hòa lấy thân thể mình để chế ngự bệnh vì đường, đều bị quên lãng vì lời rao của chính phủ rằng ngân sách liên bang đã trích ra hằng triệu đô la để tìm cho được thứ thuốc viên, thuốc nước, thuốc chích, có thể là sẽ sáng chế ra mấy tụy tạng nguyên tử, để ngày nào đó thay phép lạ mà trị dứt bệnh.
Ai cũng muốn được khỏe mạnh mà lại khoái ăn nhiều bánh ngọt ư?! ---🙞 ☯ 🙜---
57
Chƣơng VI : TUỔI THƠ VÀ TIỂU ĐƢỜNG
(From nipple to needle)
Giữa trưa tháng bảy oi bức ở khu phố Manhattan (New York), một người đàn ông lảo đảo bước xuống cầu thang xe điện ngầm, tay bám các chấn song, rồi đâm đầu về chiếc máy bán kẹo và nước ngọt, chỉ còn kẹo cao su. Mồ hôi ra đầy người, xe đến, ông nhào ra toa, một tay nắm cột, tay kia cởi áo choàng, rồi đổi tay, áo rơi xuống sàn xe, phải cố hết sức ông mới nhặt lên được. Xe ngừng lại với tiếng rít của mấy bánh xe sắt. Hai tay bám lên thanh thép chạy dài theo trần của toa để không bị quỵ xuống sàn. Hai người nắm ông lại, một bà sang trọng và một nông dân lực lưỡng. Hai khách khác đứng dậy nhường chỗ. Họ nới cà vạt giùm ông.
Bà khách hỏi: "Ông bị bệnh tim à? Ông có Nitroglycerin hay thuốc chi để uống không?". Ông chỉ thở dài tuyệt vọng, chớ không nói nên lời. Người nông dân dùng bàn tay đập vào mặt mỗi bên một cái, ông mở mắt, với giọng thều thào ông nói ông bị lên cơn tiểu đường sắp ngất xỉu nên rất cần chất ngọt. Khách trên xe rỉ tai nhau, hai đứa trẻ mở giỏ thực phẩm cắm trại, lấy ra hai hộp nước cam. Người lái tàu điện gọi xe cứu thương, một phụ nữ béo phệ ở hàng ghế bên cạnh trao cho ông một cái bánh ngọt có mứt sệt trên mặt. Dần dần ông phục hồi sức sống rồi bước xuống xe ở Times Square. Đó là một ký giả nồng cốt của tờ New York Times chuyên viết các mục bình luận chính trị. Ông bị tiểu đường đã 23 năm, vì quên cái xách tay chứa các dược phẩm ngọt nên mới khổ sở đến thế. Ông bị sốc insulin (Insulin Shock). Dư Insulin trong máu nên bị phản ứng thiếu đường Glucose (Hypoglycemic reaction). Chứng Sugar Blues đấy!
Tháng sau (6 tháng 3 năm 1974) ông qua đời. Trong kỳ phát hành cuối tháng 3 tờ New York Magazine có đăng tải chuyện ở hầm xe điện này: Trái ngược lại với lời đồn đãi về tính lãnh đạm của dân New York. Ông đã được mọi người chung quanh chăm sóc – lại thêm một ý nghĩ không đẹp cho đô thị bị phá vỡ. Hết phịa chuyện này, người ta lại bàn sang chuyện khác. Miệng mồm thiên hạ có chịu ngừng nghỉ đâu!
Heroin là chất giết người, người nghiện phải chết. Người nghiện rượu cũng sẽ chết vì lỗi lầm của chính mình. Thiên hạ nguyền rủa những cái chết này nhưng khi có người chết vì bạo bệnh do đường gây nên thì mấy ai canh giữ xác lại dùng đường thâu canh, không thấy sách báo nào nói câu: "đường là độc dược".
58
Bao nhiêu khách hâm mộ ngôi sao của phim Love Story phải khóc sướt mướt khi hay bệnh tim của nàng chuyển qua ung thư máu. Đòn phép khai thác tâm lý quần chúng đang quấy nhiễu sân khấu và màn ảnh. Quá nhiều ca bệnh tim bộc phát, khiến ta phải tìm cách ngăn chặn âm mưu cầu lợi tinh vi, qua các khung cảnh: Bẩy rắn độc, ngục tù và hình ảnh những bệnh nhân tâm thần, khởi động sợ hãi cho quần chúng. Những lời tự thú khổ đau và gây những cảnh bi thảm của các kẻ nghiện rượu, á phiện thường xuất hiện trên ti vi.
Nhưng những kẻ nghiện đường đâu rồi? Trong văn chương hiện đại, cái gì vắng thiếu lại mang ý nghĩa phong phú. Có quyển sách nào, vở kịch nào, hay chương trình ti vi nào đếm xỉa đến khổ nạn của đường đang giáng xuống trần gian ở thế kỷ 20 này không?
Có ai tìm hiểu bệnh chứng này không?
Rồi chúng ta cũng có hai ngoại lệ làm sáng tỏ sự tiềm ẩn. Ngoại lệ thứ nhất là buổi nói chuyện của nghiệp đoàn Merv Griffin vào cuối năm 1973.
Ông này tiết lộ bệnh kín của ông Hypoglycemia (máu thiếu đường); ông khổ sở với thân hình gương mẫu và tật nghiện rượu của mình. Phản ứng gương mẫu của ông đối với bệnh thiếu đường trong máu là cống hiến rất nhiều chương trình ti vi để khán giả am tường bản chất độc hại của đường tinh chế trộn pha trong các món ăn, uống; nó gây bệnh ra sao – lối trị liệu đơn giản là hoàn thiện cách ăn uống.
Ngoại lệ thứ hai được tìm thấy trong quyển sách triết học của Andy Warhol phát hành 1975 – Warhol thành thật tiết lộ đường là món anh ta ưa thích nhất: "Bạn không thể mời công chúa đến bàn tiệc với chiếc bánh ngọt là món mở đầu, dù bạn có thèm mấy đi nữa. Người ta mong đợi protein… " Anh tiếp tục: Sau khi mạng sống được cứu vãn, công việc vất vả tiếp theo là việc làm tình… sao tôi thấy chuyện ấy phiền toái quá" – Khi ông còn trẻ, mẹ thường cho một thỏi sô cô la nếu tô màu xong một trang hình vẽ có sẵn.
Lúc Insulin vừa mới ra đời, Sidney Kingsley viết bản kịch Men in White (gã đàn ông trong y phục trắng) với nhân vật chính đa tình như Clark Gable. Trong chuyện có hai bác sĩ cãi vã kế bên gường một thiếu nữ bệnh nặng. Ông bác sĩ trẻ chẩn đoán (đúng bệnh) rằng cháu gái đang bị "sóc insulin" (cần Glucose) trong khi bác sĩ đứng tuổi lại bảo phải tiêm insulin vì cháu đang bị hôn mê vì tiểu đường (dư Glucose).
May thay, ý kiến của bác sĩ trẻ được thực thi, cháu gái hồi tỉnh, mỉm cười duyên dáng với ân nhân… phim bị cắt tại đây. Chuyện phim này đều là sự bất nhất và bối rối của y khoa 40 năm về trước.
59
Thời nay hàng triệu người tự thú rằng chính đường gây thảm họa cho đời họ. Bao nhiêu nạn nhân của đường hành động vụng về, đang bước đi chệnh choạng chung quanh chúng ta hằng giờ, ở xã hội trước mắt chớ không phải trong sách báo, ở hậu trường sân khấu chớ không phải ngay trên sân khấu, ở phim trường hay phòng thu hình chớ không phải trên màn ảnh.
Trẻ thơ thường không ghét mẹ nữa khi chấm dứt mến thương bình sữa, theo lời dạy của Thánh Mohamed, minh sư Hồi Giáo – (có thể đây là trường hợp của George cậu bé người da trắng, cao, đẹp trai, cậu đã làm quen với đường qua núm vú cao su. Lúc răng vừa hình thành, cậu đã kết thân với đường qua nước ngọt, cam vắt và sốt cà tô mát (có pha nhiều đường) hiệu Ketchup ăn với trứng chiên mỗi buổi sáng.
Có thể ba má của cậu cũng như hàng triệu người khác, không biết trong Ketchup có đường (ít ai để ý danh sách các chất liệu ghi trên nhãn hiệu). Ta chớ nên lẫn lộn – nhãn Ketchup có ghi: cà tô mát, đường, dextrose, giấm, muối, củ hành và gia vị - Dextrose cũng là đường. Đường nhân tạo (man refined sugar) mang nhiều tên lắm nhé! Thịt cừu và khoai tây ăn với đậu trái vào buổi chiều; tráng miệng bằng bánh ngọt hay quả đào vô hộp ngâm trong sirô đậm đặc – quá ngọt!
Khi còn bé, George được thưởng một thỏi sô cô la "Hershey" hay một chai nước ngọt "seven up" với bánh sữa sô cô la trước khi ngủ. Răng hư thối rõ rệt: cổ họng đau hoài nên thịt dư ở cuốn họng phải cắt đi lúc mới lên 5 tuổi. Y khoa thiếu nhi có kê khai bao nhiêu bệnh, kể cả mấy bệnh vừa nhập cảng, thì cậu đều có đủ. Hết nữa mùa hè 1954 cậu nằm liệt gường.
Nhà bà ngoại của George (gốc người BaLan) luôn có mùi dưa cải muối, mùi xà phòng giặt có chất Phê-nol (độc tố) để sát trùng, mùi hoa từ đinh hương (lilac) và mùi rượu rum. Bà thường kể lối ăn uống đặc biệt của bà nhưng hình như bà cũng khoái bánh Donut có lớp sô cô la trên mặt như bao nhiêu người khác. George nhớ có lần bà kéo váy bằng vải in hoa hòe lên để tự chích vào đùi một thứ thuốc gì đó. Cậu không bận tâm nhiều về việc này –"Có thể bà già 52 tuổi này bị tiểu đường thì phải?". Ngày nọ cậu nhặt một cây kim chích ngoài hẻm, cậu liền đem tặng bà để làm kim phòng hờ.
Khi George lên 13 tuổi thì bà mất ở tuổi 59. Bà không chịu nổi đường. Không ai trong gia quyến rút ra được bài học kinh nghiệm về nỗi đau đớn dai dẳng của bà. Về sau mỗi lần đi lễ chủ nhật, George ngồi với người cô ở bục của thánh ca mà nhai kẹo. Má của George cũng yêu đường, kẹo nên cậu luôn cố gắng là bé ngoan để mẹ thưởng, ba năm sau khi bà ngoại chết, bác sĩ cho biết George mắc bệnh tiểu đường.
60
Cậu được tuyên dương vận động viên quần vợt xuất sắc. Vào ngày vinh quang ấy, cậu mặc chiếc áo thun màu xanh đậm, nghi thức cho phép người được tuyên dương đợt trước đến bắt tay cậu và xoay phù hiệu màu cam vào phía ngực áo. Cậu kháng cự, giờ cơm trưa vì nội tâm động loạn nên cậu ăn thều thào, chút ít Hamburger và bánh Pic dồn kem. Mãn giờ cậu chạy ù lại quầy giải khát để uống nước ngọt cho no.
Một giờ sau cậu vô phòng vệ sinh và tiểu ra hết. Từ 165 cân Anh, cậu xuống còn 140 trong thời gian ngắn thôi, thử nước tiểu xong, bác sĩ nhìn ba má George. Và nói: "Muốn sống bình thường cậu ấy phải tiêm insulin vào đùi như bà cậu ấy!". Hơi thở của George trở nên nặng nề như muốn ngưng hẳn: "Chúa ơi! Còn bao lâu nữa? con mới tròn 16!" đêm ấy, mẹ George cho cậu thỏi sô cô la hạnh nhân cuối cùng. Bà khóc thầm sao trời không để bà gánh chịu bệnh ấy cho con.
George phải ở lại bệnh viện suốt 1 tuần để học chích kim vào quả cam cho quen tay rồi tiêm vào đùi. Ăn uống phải theo liều lượng ấn định, dĩ nhiên là không đường – 4000 calorie được cân bằng với 45 đơn vị Eli Lily NPHU-80 Insulin. Mỗi thức ăn đều mang một con số, bia cũng vậy. Phẩm chất không tính, chỉ tính ca-lo. Cấm dùng đường, nhưng các món ăn ở siêu thị có pha đường thì cứ tự nhiên mà dùng.
Có lần George bảo: "Có thể vợ bác sĩ đi mua các món ấy cho mình ăn, và ông ấy đâu có để ý đến các nhãn hiệu hay dò xét thực chất bên trong". Lúc ấy tôi (William Dufty) cũng vậy.
George được trang bị ống chích, kim, cồn, vải thưa (compress), clinistix, Insulin và đường viên. Mỗi lần đi tiểu cậu vẩy tấm clinistix qua nước tiểu, nếu nó trở nên màu đỏ thì máu đã quá nhiều Glucose vậy phải nhanh tay tiêm insulin vào; Clinistix không đổi màu tức là Glucose trong máu quá ít vì tiêm quá nhiều insulin hoặc làm việc vất vả hay quên dùng bữa. Tình trạng này dễ làm cậu bị sốc. Quá nhiều insulin giống như quá nhiều Heroin vậy.
Bộ não thông báo cho George biết tình trạng thiếu đường để George tìm ngay vài viên đường. Lượng đường hết lên cao rồi lại xuống thấp. Thẻ cấp cứu (Medic alert) mang ở cổ có ghi số điện thoại phòng khi cậu bị ngất. Trong ví của cậu có tấm thẻ ghi dòng chữ: "Tôi bị tiểu đường, tôi không say; nếu tôi có bất tỉnh hay có cử chỉ bất thường xin xem mặt sau của thẻ". Mặt sau thẻ: "Cần cấp cứu: nếu tôi không nhai được xin cho nước cam, sô cô la hay kẹo, si rô gọi, bác sĩ".
Để chuẩn bị đấu bóng rổ, cậu phải dùng Insulin lại. Đôi khi vì quá gắng sức. George cảm thấy mũi ước và lạnh, tay chân ngứa rần lên. Phía sau não bộ nghe như nhẹ bổng. Bị sốc insulin rồi: ngậm đường viên
61
ngay để tạm sống giống người khác; ngày nọ đang làm việc trong siêu thị, hộp đường mang theo bị tung nắp, mấy viên đường văng lõm ngỏm ra sàn. Một người lớn tuổi đi qua tặng cho mấy lời: "À há, thằng nhóc tiểu đường". Chua cay thật, thừa cơ hội mà chửi rủa… Tình huynh đệ thầm kín đấy! George cảm thấy bơ vơ vô hạn.
Một ngày khác, sau trận bóng rổ, bè bạn đi ăn kem lạnh. Món George kiêng cữ. Cậu dũng cảm tỏ ý không phiền muộn. Nhưng cảm thấy lẻ loi… Cậu nhớ có một chiếc xe ngừng trước nhà, có ai đó cầm quả bóng rổ đi vào… cậu vừa bước ra sàn để tiếp đón… rồi khi tỉnh dậy thấy cánh tay mình đang tiếp nhận nước Glucose từ cái chai treo đầu gường.
Lúc đầu cần 45 đơn vị insulin mỗi ngày, khi tốt nghiệp trung học con số này lên 55.
Vào năm thứ hai Đại học thì Marijuana hay grass (cần sa hay cỏ thuốc) đang thịnh hành. Grass và thời sự Việt Nam là đề tài chính trong mọi câu chuyện. George bị ghi vào hồ sơ "tiểu đường 4-F – khỏi nhập ngũ". Nhưng lại dính vào cần sa. Năm 1967 George vô đại học, cũng là năm George dùng thuốc LSD đầu tiên. Richard Alpest có đến thuyết trình về các thuốc gây ảo giác và có công bố rằng có thuốc làm hạ mức glucose trong cơ thể, còn LSD thì làm tăng.
Tiết lộ này làm cho George cảm thấy mù tịt. Bộ não của cậu có thể không nhận thức được. Nhưng qua cảm giác từ tỉnh mạch cậu biết đây là sự thật.
Bất cứ lúc nào cậu say cần sa thì cậu rất thèm ngọt (LSD phản ứng ngược lại) cậu cứ tiểu nhiều và cần thêm insulin. Nhiều bè bạn của George hay đau ốm đang bàn luận về y học Đông phương, George bèn bám sát… Một quyển sách của Nhật Bản bảo rằng tiểu đường có thể chữa trị và ngăn ngừa được bằng cách ăn các chất Carbohydrate nguyên cám. Theo giáo điều Tây y gạo là carbohydrate (gạo lứt hay gạo trắng cũng vậy), cho nên George bị cấm dùng món này. Giờ đây tâm thức của cậu đang hướng về thực phẩm và cậu thấu hiểu rằng bất cứ cái gì được đưa vào mồm đều do ý nghĩ đã gợi lên dù đó là hút cần sa, sử dụng LSD hay ăn cơm. George tập sử dụng đôi đũa và làm quen với thức ăn thiên nhiên: đổi Hamburger lấy cá, bỏ gạo trắng để dùng gạo lứt, thêm chút ít rong biển, rau tươi: nhưng vẫn còn dùng 55 đơn vị insulin (45 buổi sáng và 10 vào buổi tối).
Về sau có lần giữa đêm cậu luôn uốn vặn mình như cá sắp chết trên thớt. Bạn cùng phòng vội điện thoại gọi xe cứu thương. Bác sĩ khuyên nên hạ lượng insulin còn 45 đơn vị/ngày. Minh sư Đông phương hay
62
thật! Mới vài tuần ăn cơm lứt với rong biển thôi đấy. Để ăn mừng sự tiến bộ này cậu vứt thẻ tiểu đường đang lủng lẳng ở cổ. Tốt nghiệp đại học, cậu đến San Francisco để gia nhập nhóm hippi. Một buổi trưa ngồi trên trần sàn nhà và hút cần sa. Khi tỉnh dậy thì thấy mình ở nhà thương với chai nước glucose treo trên đầu gường. Mấy nhà thương thường cho cậu quá nhiều glucose nên trước khi xuất viện, họ phải chích thêm insulin. George bắt đầu nhận thấy sự giả tạm của đối chứng trị liệu.
Cậu bực bội vì phải lệ thuộc insulin, bận tâm đến giờ giấc, khổ sở vì tiểu đường. Nếu không bị tiểu đường thì giờ đây cậu làm cái trò gì? Chắc gì lý lịch đã khá hơn. Tàn phế là cái cớ để thối thoát mọi trách nhiệm, để được tha thứ lỗi lầm, hên thật! insulin, LSD là mấy món phải chọn để lệ thuộc.
Mùa hạ năm ấy, tại buổi hòa nhạc Rock. George thèm ngọt cấp bách. Cậu có đường viên nhưng nước cam hộp thì khoái hơn, đến quầy bán nước giải khát, George phải đứng nối đuôi ở phía sau, thời gian trôi qua quá chậm. George bắt đầu loạng choạng nhưng cũng có lết tới bờ rào rồi ngã xuống đất tay quờ quạng, tìm tháo dây cao su buộc vào hộp đường.
Các tạp chí bang California phát hành đầu thập niên 1970 đều làm người ta tin rằng tất cả những viên đường California đều không tẩm LSD. Nhưng cậu không trốn cảnh sát mà cầu cứu, có người đi qua nghe thấy nhưng làm lơ. George ngã gục. Nghe tiếng rên rỉ, người bạn đến cho cậu đường, cậu tỉnh dậy tuy nhiên, đó là phương pháp giết cậu êm dịu, từ từ, kéo ra chút ít nhưng đẩy vào sâu hơn.
George tìm được việc làm ở trại nuôi súc vật tại California, nơi đó xưa kia giống dân da đỏ đến để lập nghiệp với ống điếu nhét đầy lá cây gai để tỏ thái độ cầu hòa. George chỉ dùng loại thuốc gây mê đó suốt thời gian ở đây với insulin. Cậu dùng bánh mì lứt, pho mát, ăn táo vừa hái, rau cải mọc hoang theo dòng suối, tráng miệng bằng dâu ngoài rừng… Cậu cỡi ngựa, đập rắn, đốn gỗ. Những ngày làm việc vất vã như thế, mức insulin cần thiết chỉ còn 25 đơn vị. Rồi dần dà số lượng này hãy còn cao, nhờ nhận thức được cảm giác bị "sốc" insulin, cậu bèn dùng mật ong để đủ sức làm việc. Để lượng đường dư thừa trong máu lâu dài sẽ là một tệ hại.
Trong đoàn kỳ người ta vẫn tỉnh táo, vẫn làm chủ được bản thân, quá ít Glucose trong máu (hypoglycemia) bạn có thể nằm bất tỉnh nơi nào đó. Người bị tiểu đường biết rõ nỗi kinh hoàng tối hậu này của Chứng Sugar Blues (tai ách vì đường). Những buổi sáng thức dậy với bọng đái đầy nước tiểu vì chiều hôm trước ăn uống quá nhiều, cậu hay lấy tấm
63
Clinistix đưa qua dòng nước tiểu và luôn nổi giận khi thấy nó đổi qua màu đỏ. Vừa nhìn ánh bình minh tươi đẹp, cậu vừa thầm trách mẹ sao nỡ làm cậu bị tàn tật, tại sao cậu tự thú rằng mình sợ chứng thiếu đường, hay sợ bị "sốc" insulin? Khi tìm đối tượng để đổ lỗi thì George cũng tự xóa lỗi cho mình. George khóc để rứt bỏ oán hờn về người mẹ cách đây 2000 dặm. Xưa kia sao mẹ cho con bú nước đường qua núm vú cao su để chẳng bao lâu con không dám rời cây kim bằng thép này… !
Trở về quê hương Berkeley, với LSD, George lúc này đã hiểu rõ là ăn uống cẩn thận, khôn khéo có thể giúp ích cho cậu và phải bỏ cần sa và insulin. Nhưng cậu không phải là tay đầu bếp giỏi, mà cậu cũng không thích học nấu nướng. Vả lại, cậu muốn để cho mẹ lo, lúc trước mẹ đưa con vào tình cảnh đen tối này, giờ đây mẹ phải biến đổi cách ăn uống cho con, phải giúp cho con trở về cuộc sống yên lành. Cậu không ăn thịt, nhưng cần sa khiến cho cậu thèm ngọt. Thỉnh thoảng cậu có ăn uống ngoại lệ, nhưng nhu cầu insulin vẫn hạ còn 25 đơn vị, dĩ nhiên cần phải khéo léo điều thân để tránh "sốc".
Cuộc tình không êm ái ở Sacramento đôi khi hiện rõ trên màn ảnh ký ức của George; sau khi nghe lời đường mật của George, cô gái sẵn sàng hiến dâng và chờ… nhưng… George bất lực. Chua xót cho thân phận, tinh thần bị chấn thương dương vật lại bị teo nhỏ!! Cô tình nhân trẻ chỉ còn nhìn George rút cây kẹo làm bằng mật ong ra khỏi bao giấy…
Chuyện tình cờ quái gỡ ấy thúc đẩy cậu kiên quyết làm những "chuyện khùng điên" để lấy lại cho được tính khí đàn ông. Cố gắng bỏ hẳn insulin, chỉ ăn gạo lứt, đậu đỏ và bí ngô. Rồi bỗng nhiên cậu uống hằng lít nước và tiểu ra nước trong vắt. Thế là George bỏ cuộc và phải tiêm thuốc như trước. Cậu bèn nhịn ăn, bệnh chưa thấy giảm… từ cực đoan này, cậu nhảy qua cực đoan khác vì muốn hết bệnh ngay. Cậu không có đủ nhẫn nại để bỏ dần insulin, từ từ bước qua phương thức ăn gạo lứt với rau đậu. Thất chí cậu nghĩ thầm: "Có thể tôi chưa bao giờ rời vú mẹ chăng?... Tôi không hiểu gì hết!"
Mùa hè năm 1969, cậu dùng 40 triệu LSD. Cậu tự thú lúc ấy cậu muốn tự tử. Ôi cái ta cũ mèm, ghê tởm ấy! rồi cậu lưu lạc đến sống với nhóm sinh viên phóng đãng ở Berkeley nghiện cần sa (grass). Cho đến một ngày kia cậu bước vào phòng rửa mặt… "Tôi thấy cô gái khá đẹp, dong dỏng cao đang đứng trong ấy. Tôi nghĩ rằng tôi đã gặp nàng ở nơi nào đó một lần rồi". Rồi cậu chợt thấy mình đang ngắm mình trong tấm gương, mình đang trân trố nhìn mình. Cậu vội vã bước ra tìm xe bus đi cắt tóc. Cậu ngưng dùng LSD và cỏ thuốc vì thấy các độc tố đã biến hình hài cậu thành một quái vật. Cậu thèm ngọt, thèm mấy thỏi kẹo lắm. Khi từ bỏ LSD ai cũng thế cả…
64
Sau khi tha hồ ăn ngọt, George cần đến 60 đơn vị insulin. Nhưng cậu còn đủ sáng suốt để quay về y khoa Đông phương mà cậu đã say mê từ lâu.
Cậu chuyển sang sống trong một tập thể ở gần thành phố Boston. Ở đây có chuyên viên rất giỏi nấu nướng các món ăn Đông phương như gạo lứt, rau đậu, chút ít cà, rong biển, nước tương nguyên chất, đậu hủ, tương và trái cây đúng mùa. Dần dần, sức khỏe cậu được phục hồi. Cậu nhận thấy các món không pha đường đều ngọt ngọt. Đường sữa, yaourt, phó mát không còn cám dỗ cậu được nữa.
Trong 2 năm thôi, lượng insulin cần thiết giảm từ 60 đơn vị/ngày xuống còn 15 đơn vị/ngày. Trọng lượng cơ thể đứng vững ở 150 cân Anh. Không cần đem theo mấy viên đường nữa. Nếu còn chút ít "sốc" insulin, cậu không dùng mật ong mà chỉ nhai bánh mì lứt hay cơm gạo lứt. Có khi cậu nhai đến 50 lần, mấy món ăn ấy biến thành đường Glucose ngon ngọt ngay trong miệng – thật nhẹ nhàng cho bộ máy tiêu hóa
Hàng tuần, người bạn cố tri hồi còn nhỏ ở Đại học châm cứu cho cậu. Cậu ấy bảo: "Khoa châm cứu giúp tôi học được tính nhẫn nại". Cậu còn bảo lá gan của tôi quá mệt mỏi, vì bị dùng quá nhiều đường lấn áp từ hồi tuổi thơ và cũng vì sầu hận dồn nén vào đấy! gan suy yếu tàn phá lá lách, lá lách là căn cứ xuất phát insulin.
Ngày kia trên phi cơ, George ngồi cạnh một cậu bé con, George đoán ra ngay là cậu bé bị bệnh tiểu đường vì mẹ bé đang nhìn vào các món ăn và lẩm nhẩm tính lượng ca-lo. George phải mất 10 năm khốn đốn mới tìm thấy lối thoát. Công ty Lilly sản xuất insulin càng ngày càng có khách hàng trẻ tuổi hơn! Cậu bé mới 9 tuổi. George quá xúc động nên định hỏi bé bị khổ ách vì đường bao lâu rồi, nhưng George rùng mình, không dám mở miệng!!
---🙞 ☯ 🙜---
65
Chƣơng VII : CHUYỆN CẢI BẮP VÀ VUA
Of cabbages and Kings
Tác giả: William Dufty
Dịch giả: Lê Công Thình
Khẩu phần của đoàn phu xây cất Vạn Lý Trường Thành là dưa cải ăn với cơm. Cải nén với muối có thể tồn trữ lâu ngày mà không mất phẩm chất. Cho nên đây là món ăn duy nhất dùng chung với gạo lứt. Khi quân Mông Cổ chiếm Trung Hoa, họ thấy món này rất bổ ích và tiện lợi nên
dùng làm thực phẩm lưu trữ cho đoàn quân viễn chinh của họ. Họ đến tận Hungary và truyền món cải mặn này sang Âu Châu; về sau Đức quốc và các nước Đông Âu đều xem đây là món ăn chính.
Julius Cesar, một Quân Vương với đoàn quân thiện chiến nhất thế giới, đã ra lệnh cho mỗi quân sĩ phải mang theo một túi hạt như quân kháng chiến Việt Nam hồi thập niên 1960. Họ không có đường, và nhà bếp mà chỉ có chuyên gia phẫu thuật chăm sóc vết thương. Bất cứ ở đâu, họ chỉ ăn hạt lứt với cải bắp hay các thứ rau họ tóm được trên đường tiến quân. Pliny xác nhận là bắp cải đã giúp cho dân thành La Mã khỏi nhờ vả y sĩ.
Đoàn quân Âu Châu nào ăn uống sai với phương pháp trên đều gặp trở ngại. Sử gia Jean De Joinville, khi nói về đạo quân thập tự của Saint Louis xâm lăng xứ Ai Cập, phồn vinh nhờ đường (1260), có mô tả chứng bệnh với nướu răng rướm máu, băng huyết ở da, và chân bị phù, đã giáng lên quân sĩ khiến họ bị thảm bại, thống soái cùng các tướng tài bị bắt.
Dân Trung Hoa, Mông Cổ và La Mã đã biết đưa cải có dược tính trị được bệnh mà thời nay gọi là bệnh thiếu sinh tố C: tiếng latin gọi là bệnh chứng ngoài da, tiếng Anh gọi là Scurvy. Dân quê Âu Châu biết giá trị của thảo mộc, cho nên các cô đỡ, các Y Sĩ Thiên Nhiên cho bệnh nhân những toa thuốc gồm toàn thảo mộc hoang dã mà họ thường gọi là dược thảo trị bệnh Scurvy. Hải quân và Lục quân Thập tự chinh bị Scurvy đánh tan rã. Trong khi các vị lãnh đạo giáo xứ, các nguyên thủ quốc gia lo thiêu sống các Y Sĩ Thiên Nhiên, những người làm huyền thuật, những Thầy Chữa Miệt Vườn, thì chính các vị tai to mặt lớn cũng là nạn nhân của các trò "ma thuật hợp pháp" do chính họ bày vẽ.
66
Họ có quan niệm rằng vua hay người thân trong hoàng tộc trị được bệnh Scurvy chỉ bằng cách sờ vào thân bệnh nhân. Nếu ông vua này tự hào là mình có quyền năng chữa lành Scurvy bằng cách sờ tay, thì sao lại có ông vua kia tự thú là mình không linh thiêng? Đại văn hào Voltaire có ghi chép cuộc gặp gỡ giữa một chức sắc cao cấp của Giáo hội Kito thời ấy đang bị Scurvy (bệnh thiếu vitamin C trong cơ thể nên nướu răng và da bị rướm máu, chân phù) và một ông vua có long thể bất an. Vua hy vọng vị thánh đức kia sờ cho mình lành bệnh – nhưng sờ thì cứ sờ, bệnh thì cứ bệnh…
Thuở ấy bộ binh và lính thủy mê tít đường. Vua, Nữ hoàng và mấy quan chức có đủ uy quyền thỏa mãn nhu cầu của họ. Nhưng tay của hai thứ lính vừa kể mới dính đường nhiều nhất vì phải hộ tống hay chuyên chở món hàng quý báu này đi hàng ngàn dặm. Lính và thương gia đi biển có phần ăn theo chiếu chỉ của vua ấn định, cho nên họ có thái độ tham lam, tư cách tham lợi và óc quan lại.
Lính bộ binh thì đi cướp giật thức ăn của dân quê, dân thôn xã và thú vật thì ăn thức ăn nguyên vẹn nên sức khỏe được vẹn toàn. Thực đơn của lính thủy do triều đình sắp xếp. Lại nữa, họ sống ở những đô thị mới xây dựng hay bềnh bồng ngoài biển khơi để tìm vùng đất lạ nên phải ăn thực phẩm bị tinh chế để rồi phải bị đau ốm. Lần đầu Christopher Columbus đi tìm tân thế giới, một nhóm thủy thủ của ông ngã bệnh liệt gường. Columbus toan cho vứt mấy người xấu số này xuống biển, thì màu xanh lục của đất liền hiện ra. Các bệnh nhân xin ở lại đảo để chờ chết, không ngờ ấy là đảo thần tiên, quả ngon cỏ lạ cám dỗ họ. Tất cả đều lành bệnh nhờ mấy món này…
Vài tháng sau Columbus quay thuyền về Âu Châu. Khi đi gần đảo có mấy người da trắng râu dài thượt vẫy tay chào. Để tôn vinh sự việc độc đáo này, đảo được đặt tên là Curacao (theo ngôn ngữ Bồ Đào Nha từ này có nghĩa là lành bệnh) Vasco De Gama dự tính đến nhóm đảo ở biển Caribe bằng Mũi Kỳ Vọng (Cape of Good Hope) phải mất một trăm thủy thủ trên tổng số là một trăm sau mươi, do bệnh Scurvy. Magellan ra khơi với năm thuyền vào năm 1519 để đi vòng quanh thế giới. Ba năm sau chỉ tìm thấy có đảo Guam và đảo Curacao, và trở về Tây Ban Nha với một thuyền và mười tám người sống sót.
Dưới triều đại Nữ Hoàng Elizabeth, hàng trăm thủy thủ bị Scurvy, nhưng họ bị nghi ngờ là giả đau để trốn phận sự, nên bị dùng roi để điều trị. Hải quân Hoàng Gia thường không đủ quân số sẵn sàng chờ lệnh vì hết phân nữa bị đau ốm. Giờ đây Scurvy bị xem là bệnh của chuyện đời xưa, người ta nghĩ rằng vào thời đó không có phương cách lưu trữ rau
67
quả tươi trên những hải trình xa xôi. Nhưng thử hỏi thủy thủ của hải tặc Vikings, của các thương thuyền Phoenixim, của các xứ viễn Đông thì sao? Họ đâu có bị tai họa Scurvy. Có người đem theo bắp cải mặn hay rau củ hoặc quả nén, hay ngâm nước muối, có nhóm đem theo đậu, nấm và hạt giống để làm mầm giá, đó là những nguồn vitamin C. Một phụ nữ dân Celt biết sự bổ ích của các món ăn ấy nhưng không dám đệ trình lên Hải quân của Nữ Hoàng vì sợ bị đưa lên giàn hỏa. Đây là thời kỳ gian nan của y học không chính thống.
Đoàn thám hiểm của một người Pháp tên Jacques Cartier bị bệnh Scurvy quấy nhiễu, lúc đến New Foundland (1535). Có một ông lang địa phương người Da Đỏ từ tốn hốt cho những thang thuốc gồm toàn dược thảo, đem lại an vui cho cả đoàn.
Năm 1593, Đô Đốc Sir Richard Hawkins chăm sóc sức khỏe cho cả đoàn bằng cam và chanh. Tuy nhiên mỗi khi sự tích của bệnh Scurvy được nhắc đến thì có một yếu tố ít khi được kể ra. Người ta cũng thêu dệt về các bữa ăn của thủy thủ dưới tay Nữ Hoàng, rồi còn bảo rằng các hải đội của La Mã, Phoenix, các xứ ở viễn Đông và của nhóm Hải Tặc Vikings không bao giờ được ăn uống ngon như vậy. Cũng thế quân Thập Tự Chinh đem tai họa về quê nhà mà cứ tưởng là đem về châu báu, nên họ đàn áp dân Á Rập để vơ vét đường nguyên chất và rượu rum. Lúc đầu bộ binh và hải quân phải kiếm đường và rượu rum bằng mọi cách.
Bác sĩ Thomas Willis là người đầu tiên bảo rằng có thể có sự liên hệ giữa đường và bệnh Scurvy. Lời cảnh giác ấy nằm trong sách viết bằng Latin ngữ và phát hành ở Thụy Sĩ, sau khi ông mất: "Diatriba De Medicamentorum Operationibus In Humano Corpore" (phân tích về hoạt tính của loại thuốc men trong cơ thể con người).
Bác sĩ viết: "Tôi xin bài bác hoàn toàn các món lưu trữ với đường hay pha trộn với nhiều đường, tôi nhận thấy sự chế tạo đường và sử dụng đường vô tiết độ rõ ràng đưa đến sự gia tăng số ca bệnh Scurvy trong thời gian gần đây… "
Không có chứng cớ cụ thể nào cho thấy lời cảnh báo của bác sĩ Willis được thiên hạ chú ý. Chắc chắn là hải quân Hoàng Gia cũng không bận tâm đến lời khuyên này dù hàng ngàn người đã bỏ mạng. Chúng ta nên nhớ lúc ấy Anh Quốc đang nắm quyền khống chế việc mua bán đường. Năm 1740 Commodore Anson ra khơi với 6 thuyền và 1500 thủy thủ. Bốn năm sau chỉ còn một thuyền với 335 người về cập bến.
68
Vào khoảng 1750 James Lind đồng sự với y sĩ trên thuyền Salisbury, rất thắc mắc về sự thảm bại của Anson do nhiều ca bệnh Scurvy gây nên. Ông bèn nghĩ ra việc thử nghiệm dinh dưỡng đầu tiên. Lind ra khơi… Mười hai người bị Scurvy được chia thành sáu nhóm, tất cả đều ăn uống theo khẩu phần Hoàng Gia ấn định (vào thập niên 1500, người nào được mời vào đền vua mới có một nhúm đường mà ăn).
Bốn nhóm đầu Lind cho dùng phụ liệu trong các bữa ăn như sau: rượu trái táo, giấm và nước biển: nhóm thứ năm dùng theo toa thuốc của bệnh viện: tỏi đâm nhuyễn, hột cải, lẩn quẩn… nhóm thứ sau dùng hai quả cam và một quả chanh mỗi ngày. Hai người của nhóm thứ sáu này dùng bữa ngon lành, họ lấy sức và lành bệnh rất nhanh, và một người sau 6 ngày có đủ sức làm việc trở lại, người kia thì phục hồi sinh lực nhanh chóng hơn, rồi đi chăm sóc 10 bệnh nhân còn lại…
Thỉnh thoảng quý vị bác sĩ chính thống nổi hứng cho bệnh nhân uống thuốc mới lạ. Họ thường mất mặt và mất cả thân chủ chỉ bằng cách cho uống những loại thuốc chỉ ngon ngoài miệng. Vào khoảng thế kỷ 16, dân Anh ở quê nhà bị rụng tóc và răng. Cho đến lúc ấy chỉ có những người sang giàu mới bị các chứng này. Về sau các kẻ sống đầu đường xó chợ cũng nghiện đường, và cũng khổ vì răng tóc. Tương quan giữa đường và các bệnh Scurvy có vẻ thiếu giá trị khoa học dù đó là thực tế, rau củ, trái cây… đều là những nguồn sinh tố thiên nhiên và cũng ngọt ngào.
Đến khi đường kỹ nghệ tinh chế ra đời, thì các món này bị đường hay các món hóa chất lấn lướt. Đường là chất ngọt bị tước mất sinh tố C trên tiến trình tinh lọc 90% chất thiên nhiên của mía bị thải trừ… đường chỉ là chất ngọt đậm đặc nhân tạo, thiếu tính tươi mát thiên nhiên, nó đích thực là nguồn cội của Scurvy (miệng và nướu răng phồng lỡ, thối tha, chân phù, da lở, chảy máu, có khi gọi là bệnh hoại huyết, thiếu sinh tố C).
Thành quả thử nghiệm của Lind đã thấu tai bộ tư lệnh Hải quân Hoàng Gia, nhưng cơ quan y tế đầu não không công nhận nguyên do sinh ra Scurvy là do dinh dưỡng thiếu kém trong khẩu phần của Hải quân. Ai cũng biết Đế quốc Anh (thuở ấy) có một hải lực kiêu hùng nhất thế giới và thủy thủ được ăn uống ngon nhất trong lịch sử loài người. Vì thế tên thủy thủ nào "dám" bị Scurvy thì phải ăn roi vì tội lười làm việc.
Một năm sau khi cuộc thử nghiệm được thành tựu, Lind giải ngũ, tốt nghiệp đại học Edinburgh, sau cùng trở thành y sĩ đặc biệt của vua George III, tiếp tục nghiên cứu, đến năm 1753 phổ biến lối trị liệu Scurvy. Nhưng khẩu phần của Hải quân vẫn giữ phẩm chất như cũ, nên phải mất 100 ngàn sinh mạng trong vòng 50 năm. Lind lìa trần năm
69
1794. Một năm sau, cái từng bị gọi là chuyện bậy bạ (poppy cock) trở thành nội dung của chỉ thị: "từ nay mỗi người ra biển khơi phải dùng một liều lượng nước cốt trái chanh với phần rượu rum ấn định". Max Planck nhận định: "chân lý khoa học không thuyết phục được kẻ đối nghịch đương thời. thế hệ sau đó lớn lên mới sống với chân lý ấy".
Nếu Lind không cho Hải quân dùng đường, mà khuyên họ dùng trà Bancha, ăn cải bắp, mầm giá, rong biển hay cá tươi, rất giàu sinh tố C, thì bờ cõi nước Anh có thể hoàn toàn khác hẳn.
Sự phát âm lẫn lộn giữa chữ Lemon (chanh) và Lime (vôi) làm hỏng chiến thám hiểm vùng cực bắc của Ngài George Nare (1875). Thay vì chanh địa Trung Hải được gói và để chung với hành trang thì họ lại gói vôi của Caribe: bệnh Scurvy nổi lên phá vỡ cuộc hành trình, biên bản điều tra không nói nguyên do thảm hại là tại ăn uống. Chẳng bao lâu học thuyết vi trùng gây bá bệnh của Pasteur được mọi người khâm phục. Bác sĩ Lind trở nên lỗi thời như các bà Thầy Chữa Miệt Vườn xa xưa. Nhiều bác sĩ nổi tiếng công bố rằng Scurvy sinh ra do nhiễm độc của axit. Đến 1916, người ta đổ lỗi cho hàng lố vi khuẩn đã gây ra Scurvy và các thứ bệnh. - Ồ! Vậy thì vi khuẩn nào gây ra táo bón? Sau rốt vào thời kỳ thế chiến II, hai bác sĩ Đức quốc được bổ nhiệm chăm sóc tù binh Nga Xô. Họ quyết đoán rằng có một loài sâu gây ra Scurvy!
Chúng ta hết sức ngoan cố, không nhận trách nhiệm là chính chúng ta tự đem bệnh vào thân ta.
Bên kia Đại Tây Dương, cuộc nội chiến đang cấu xé Hoa Kỳ, tình trạng sức khỏe của quân nhân cũng không khá hơn. Có 30 ngàn ca bệnh Scurvy vì binh sĩ tùy tiện dùng sữa đặc có đường. Quân đội Hoa Kỳ phải mất 30 năm để hiểu cái điều mà y học của người Da Đỏ đã từng nhắc nhở họ: "Đừng đua đòi theo cách ăn uống của Ăng-Lê".
Vào cuối thế kỷ 19 cả xứ Hoa Kỳ đều nghiện sữa đặc có đường, cho nên việc nuôi trẻ bằng sữa mẹ không còn hợp thời, vì thế trẻ sơ sinh bắt đầu ôm bình sữa, và hình dạng mới của Scurvy lại xuất hiện với tên mới: bệnh Barlow, tên của bác sĩ đã tri hô lên bệnh chứng sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng.
Mùa hè 1933, một bác sĩ nha khoa Hoa Kỳ liều lĩnh đi thám hiểm tại vùng giá lạnh ở Tây Bắc của Canada (miền Yukon). Bác sĩ W. Price tìm thấy sức khỏe của các bộ tộc da đỏ không bị "văn hóa đô hộ" của người da trắng làm suy thoái, nhất là hàm răng còn nguyên vẹn. Mùa đông, hàn thử biểu chỉ đến 30 độ F (dưới âm 1 độ C), nên chanh, cam không thể mọc ở xứ này, nguồn vitamin C ở đây không có. Dân chúng chỉ sống nhờ vào săn bắn thú, thế thì tại sao họ không bị Scurvy?
70
Một du khách Hoa Kỳ nhờ người thông dịch viên địa phương nêu thắc mắc này với một người cao niên: Làm thế nào dân xứ ông thoát khỏi bệnh Scurvy? (bệnh hoại huyết: miệng, nướu răng lở, có mủ da nứt và chảy máu do thiếu vitamin C). Ông liền trả lời:
- Đó là bệnh của người da trắng.
- Người Da Đỏ quý ông không thể bị Scurvy à!
- Có thể chứ, nhưng chúng tôi có cách phòng ngừa.
- Xin ông nói rõ hơn.
- Người da trắng quý ông biết nhiều điều của thế gian này thì cần gì phải cần biết thêm.
- Kính xin ông cho tôi học hỏi.
Người da đỏ bèn đi xin ý kiến của trưởng bộ tộc, khi trở lại, ông bảo rằng Trưởng bộ tộc có thiện ý chia sẻ bí quyết với vị khách thân hữu: Dân chúng tôi ở đây không ăn bột mì và đường bán ở các cửa hàng của người da trắng. Khi bắn hạ một con nai (ở cực bắc) chúng tôi liền mổ lưng con vật lấy hai cục mỡ, hai nang thượng thận (adrenal glands), trong gia đình có mấy người thì cục mỡ đó được chia thành bấy nhiêu phần, mỗi người phải ăn hết phần dành cho mình. Dạ dày thứ hai của con vật cũng là thức ăn bổ dưỡng.
Các giống dân sống theo tục lệ cổ xưa đều ăn các cơ quan nội tạng của thú rừng, còn thịt đùi, thịt nạt lưng đều vứt cho chó. Người văn minh tiến bộ có lối ăn uống nghịch lại vì họ ăn để tìm khoái lạc chứ không phải để sống. Đã bao thế kỷ qua, giống dân da đỏ ở Yukon sống an lành nhờ sinh tố C trong nang thượng thận của nai và gấu.
Năm 1937, hai khoa học gia: bác sĩ Albert Szent Gyorgyi ở Hungary, và chuyên viên hóa học người Anh, Ngài Walter Haworth, được giải Nobel nhờ khám phá ra vitamin C (khám phá ra điều thiên hạ đã biết!). Bác sĩ Haworth hợp tác với Paul Karr về mặt hóa học, còn bác sĩ Szent Gyorgyi lãnh thưởng nhờ khoa sinh học và y học. S. Gyorgyi bất chợt nghĩ đến việc lấy một chất ở nang thượng thận của bò để nghiên cứu vì chất này có đặc tính bất thường, đáng lưu tâm. Đến nay qua 5 thế kỷ rồi, người da trắng với kiến thức dồi dào mới biết rằng họ còn cần phải học nhiều điều ở người da đỏ.
Năm 1855, tù trưởng Sealth của bộ tộc Duwamish, hiện thuộc tiểu bang Washington của Hoa Kỳ có viết kháng thư lên Tổng Thống Franklin Pierce để chống đối việc mua đất của bộ tộc, thành phố Scarlet hiện ở giữa lãnh thổ Duwamish này. Bức tâm thư của ông tố giác thái độ sát sinh hại vật của người da trắng:
71
"Làm sao quý ông có thể mua bán bầu trời và hơi ấm của đất đai được. Chúng tôi không sở hữu sự mát mẻ của không khí hay vẻ đẹp của mặt nước lấp lánh. Thế thì chúng tôi không bán cho quý ông các thứ ấy được.
Chúng tôi biết rõ rằng người da trắng không hiểu nếp sống của chúng tôi. Một mảnh đất không có ý nghĩa gì sâu sắc đối với họ, vì họ là kẻ xa lạ đến chiếm đoạt sản phẩm của đất. Đất đai là kẻ thù của họ, tâm hồn của họ không hòa hợp với đất như tình huynh đệ. Được mảnh đất này họ lại đi tìm mảnh đất khác. Mồ mã tổ tiên nằm cùng khắp, sao họ nỡ chà đạp, họ quên nghĩa vụ của trưởng tử."
Người da đỏ quý trọng không khí. Vạn vật đều tìm sinh lực trong hơi thở - cầm thú, cỏ cây và con người. Người da trắng hình như không để ý đến hơi thở; giống như người hấp hối từ lâu nên mũi khôn ngửi thấy được gì, kể cả mùi hôi thối. Họ phải xem cầm thú trên vùng đất họ đang ở như anh em. Tôi là người sống nơi hoang dã nên có cái nhìn sự vật một cách khác lạ, tôi đã từng thấy hàng ngàn trâu rừng phơi thây sình thối trên đồng cỏ do người da trắng bắn khi tàu hỏa đi qua.
Nếu không còn cầm thú trên mặt đất này, loài người sẽ cảm thấy tâm hồn mình cô đơn, vì bất cứ điều gì xảy ra cho thú vật đều xảy ra nơi loài người. Mọi sự vật trên đời này đều liên hệ với nhau.
Đất với người là một:
Điều chúng tôi hiểu, ngày kia người da trắng cũng sẽ hiểu. Đấng toàn trí, toàn giác trùm khắp vạn vật. Hiện giờ quý ông có thể nghĩ rằng quý vị đang nắm Đấng ấy trong tay (!) như sắp làm chủ đất của chúng tôi đang ở. Nhưng đó là mê lầm. Thân thể của Đấng đó không ở ngoài thân thể của mọi người, tình thương của Đấng đó đối với dân da trắng và dân da đỏ không khác biệt. Hủy loại đất đai là phỉ báng Đấng Tạo Hóa, đừng trây bẩn lên đất, nơi an nghĩ của mọi người.
Chúng tôi có thể thông cảm nếu biết được điều gì đã là mộng ước của người da trắng, niềm hy vọng nào họ tỏ bày cùng con cái vào những đêm đông giá lạnh, dục vọng nào đang cháy rực trong tâm thức họ?. .
Các chiến sĩ của chúng tôi cảm thấy nhục nhã. Sau cuộc bại trận, họ sẽ sống tiêu cực, để thân thể suy nhược vì say sưa và mê các món ngọt" (Lời người dịch: hiện nay người da đỏ béo phì rất đông, và mang những chứng bệnh thời đại như người da trắng, vì ăn ở như người da trắng.)
72
Chƣơng VIII : BIẾN DỄ THÀNH KHÓ
How to complicate simpicity
Lệnh vua ban: khai hoang trồng mía.
Bao nhiêu khu rừng già đầy gỗ quý ở các đảo Antilles phải triệt hạ, bao nhiêu loại cây rất hữu ích cho đám dân mộc mạc (cây thực phẩm, cây làm ra sữa, làm dây, bị đốn sạch để dâng hiến cho thần đường).
Xưa kia dân Cuba sống yên vui với mảnh đất của tổ tiên, mọi nhu cầu cho cuộc sống đều được đáp ứng. Một thương gia tha phương người Đức nói một câu bất hủ: trời ban cho dân Cuba mọi thứ trên đời.
Lúc ấy đất đã thuộc về các công ty đường. Dân chúng đành chờ trực lương bổng để sống. Họ không hòa nhập vào được dòng tiến hóa kỹ nghệ hiện đại, mà phải nương theo kỹ nghệ khổng lồ này để họ lãnh nền giáo dục mới, các cuộc giải trí và bánh mì. Ôi cuộc sống thanh đạm, tự chủ, nay trở thành cuộc sống nô dịch cho ngoại bang, chờ lệnh từ căn phòng ở New York.
Bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên bất tận ở Châu Mỹ bị phá hủy để rồi dân cư phải đi mua chất liệu cần thiết từ các nơi khác. Căn bản của chính sách là đấy.
Giữa thế kỷ 20, Hoa Kỳ bị khủng hoảng thực phẩm và năng lượng. Hai thứ này đi cặp với nhau rất khắn khít. Khác biệt căn bản giữa Mỹ và Âu Châu (phần lớn các bậc tiền bối đến khai thác Châu Mỹ, đều từ Âu Châu sang), là sự phung phí và cướp giật. Việc sáng chế cối xay đào sâu thêm hố ngăn cách giữa Đông và Tây, buổi đầu người ta dùng cối đá để xay bột. Khi hạt bị nghiền ra bột, tinh lực hay sinh lực thiên của nó (có khi được gọi là chất bổ, sinh tố hay Enzyme) bị giảm sút: bột không nẩy mầm được, không tái sinh được. Chẳng bao lâu sức nước thay sức người để xây cối đá. Rồi thập tự quân đem máy xây bằng sức gió của Á Rập về Anh quốc. Sau đó đá được thay thế bằng bánh xe thép để nghiền, rồi nước trở thành hơi nước để tiện việc, sau rốt đành nhường ngôi cho điện lực.
Năng lực điện tử càng ngày được sử dụng, thì sức sống tàng trữ trong cốc loại càng suy giảm vì tinh chế. Văn minh là thế đó, là sống cách biệt với đất đai. Tiến bộ ư? Xay, nghiền nát, rồi sàng sãy; lúc đầu dùng vải vạ, để rây lọc, kế đó dùng vải gai rồi sau cùng là tơ lụa để lấy hết chất xơ. Dùng bột tinh chế cơ thể sẽ bị suy yếu, hạt có mầm ẩn bên trong, nếu trồng xuống đất cây sẽ mọc. Đổ bột xuống đất bột sẽ sình thối, hạt qua
73
máy nghiền hạt phải tan xác. Sức sống con người có liên hệ chặt chẽ với mầm sống của cốc loại. Kỹ thuật tẩy cho trắng và sấy hấp càng ngày càng tinh vi, trước kia người ta dùng máu để thanh lọc nước mía, về sau dùng than từ xương thú vật đốt thành.
Mầm và vỏ lứt lúa mì còn vướng lại trên vải lọc bị phế thải-xác mía thì cho bò ăn. Càng sống thanh lịch do ăn lúa mì và đường đã bị thanh lọc, con người càng thích ăn thịt thú đã sống nhờ đồ phế thải từ lúa mì và mía. Máy xay giúp con người ăn khỏi nhai nghiền cho kỹ mới tiêu hóa. Bánh mì lứt cũng phải nhai kỹ, còn bánh mì làm bằng bột đã tinh lọc thì tha hồ nuốt. Người ta thích làm gì cũng nhanh chóng: nuốt nhanh hơn nhai.
Từ thế chiến thứ II kỹ nghệ thực phẩm Hoa Kỳ tìm cách chế biến thực phẩm để già trẻ gì cũng khỏi phải nhai vào bữa ăn điểm tâm. Cốc loại là nguồn sống chính yếu của con người, giờ đây bị tẩy sạch, nhuộm màu. Sấy, nướng, chiên, rắc đường, ướp hương thơm hóa học, rồi dồn nhét vào một cái hộp to hơn thể tích của thực phẩm bên trong. Và phần lớn năng lượng của thực phẩm bị các cơ quan quảng cáo và thương mại hủy hoại: chỉ phân nữa hộp chứa thứ thực phẩm đã chết (dead food). Còn nữa phần kia thì chứa phiếu xin lấy tiền lại nếu chất lượng món hàng không như ý. Và cũng có còi, súng trẻ nít, để cho mấy bà mẹ cưng con nhanh tay lấy và đưa các hộp đựng các món ấy đến quầy tính tiền.
Một trong các lý do gợi nên ý niệm: "Đông là Đông, Tây là Tây, hai bên không thể gặp nhau được" là gì lúc ấy cối xay chỉ có ở phương Tây, mãi đến vài thế kỷ sau phương Đông mới tiếp nhận nếp sống phương Tây và sử dụng cối xay. Con người và đất đai có cùng một bản thể, trọn vẹn bình an và thánh thiện, cùng cội nguồn. Hạt vẹn toàn trong lớp lứt có nghĩa là hạt thánh thiện và khỏe mạnh (holy and healthy). Từ ngữ Thái bình của Nhật biểu trưng bằng cái miệng có cơm. Phí phạm hạt gạo tức là nhục mạ thiên nhiên và trật tự vũ trụ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, trẻ con nào bỏ sót hạt cơm trong chén, thì mỗi hạt tượng trưng cho một lỗ trên mặt người hôn phối tương lai bị bệnh đậu mùa. Ở phương Đông người ta giã lúa trong những cối bằng gỗ, rồi tung lên cho gió thổi vỏ lúa. Hạt gạo bấy giờ trọn vẹn với vỏ lứt và đầy đủ phẩm chất thiên nhiên như một quả với hạt giống bên trong. Hạt gạo vẹn toàn và tất cả những gì thuộc về cây lúa đều trở về đất. Hạt gạo được nhai trong miệng, chớ không nhờ cối đá nhai nghiền giùm. Gần như không còn gì để lại cho thú vật. Cho đến bây giờ, ở phương Đông người ta vẫn còn nuôi vài loài gia súc. Những gì thừa thải đều không bị vứt bỏ, vì nếu cơ thể không cần dùng thì cho trở về đất.
74
Vào thời kỳ kỹ nghệ bừng rộ ở Mỹ Châu và Âu Châu, các nhà sản xuất máy xay cạnh tranh ráo riết, đưa nhau ra tòa dành đặc quyền phát minh. Lúc ấy đường và bột mì được tinh lọc tối đa, hết sạch các chất phức hợp bổ ích, chỉ còn lại gì liên hệ đến calori. Rốt cuộc máy Engelberg của Đức quốc được cấp bằng phát minh. Việc đập lúa ngoài đồng trở nên thô kệch. Mỗi hạt gạo đều bị tướt mất lớp lứt, vỏ lụa, chất dinh dưỡng quý báu và chất khoáng, chỉ còn lại cái lõi trắng toát, thuần chất các bô hy drat đơn, rồi bỗng nhiên thứ món ăn thấp hèn của phương Đông lại làm vừa miệng một số người giàu có ở phương Tây: gạo chà bóng nhập sang đấy.
Trong tiếng Pháp có hai từ ngữ: Gạo trắng và gạo toàn vẹn (riz complet). Cũng thế, có người thích ăn táo gọt vỏ, có người ăn luôn vỏ. Gạo ở các xứ Đông phương là món ăn chính, nên máy xay gạo Engelberg rất đắc dụng, và do đó sự suy thoái sinh lực nòi giống được ghi nhận rõ rệt. Gạo chà bóng là món mới, tân thời, lịch sự, văn minh. Nơi nào muốn cải cách cuộc sống thì máy này được tiếp đón niềm nở. Nhưng gạo chà xát, sạch bóng lại gây ra một bệnh chứng mới lạ: bệnh Beri Beri (phù thũng): là từ ngữ của xứ Senegal, có nghĩa là suy yếu. Khi bệnh phù thũng theo gạo trắng nhập vô xứ Nhật thì dân chúng ở đây biết cách đối trị. Tập quán cổ truyền còn tồn tại trong tâm thức, nên họ quay về với gạo toàn vẹn ngày xưa để sức khỏe lại được vẹn toàn. Ngày nay, người nào đến cửa hàng ăn uống của Nhật, bất cứ ở Châu Mỹ hay Châu Âu, mà muốn ăn gạo lứt, cô tiếp viên sẽ ân cần hỏi thăm sức khỏe các bạn.
Hải quân Hoàng Gia Anh gặp nhiều phiền não vì bệnh Scurvy như thế nào thì Hải quân Nhật Hoàng cũng khổ tâm vì bệnh phù thũng như thế ấy. Các sĩ quan quân y Nhật đã hấp thụ sở học Tây phương, không tài nào hiểu nổi cách trị liệu đơn giản. Đưa đường trắng, gạo bóng lên tàu thì phù thũng cũng lên theo. Thay vì trở lại ăn gạo không chà xát như dân quê. Hải quân Nhật Hoàng lại thích ăn uống giống Hải quân Anh và Đức quốc, đặc biệt là các món như thịt, sữa đặc có đường… được thêm vào các bữa ăn.
Chỉ có những kẻ có đầu óc đế quốc và thuộc địa, những tay trùm lái buôn phục vụ cho kỹ thuật Âu Châu và khoa học gia đại tài Tây phương, mới nghĩ rằng bệnh phù thũng có thể trị liệu bằng khoa học hiện đại. Trước tiên bệnh phù thũng được xếp vào loại bệnh ở xứ nóng, người ta cố tìm vi trùng gây bệnh. Các pháp trị liệu lúc ấy gồm: ký ninh, arsenic, chích lấy máu, tắm nước lạnh, tắm hơi, tắm nắng, đấm bóp và mã tiền (Strychnine). Ở đảo Java (Nam Dương) vào thập niên 1980 quân đội
75
Đức, các nhà truyền giáo, đều ngủ trong mùng, và xịt thuốc có axit phenic-nhưng phù thũng cứ quấy nhiễu.
Các y sĩ và khoa học gia, tốt nghiệp ở Đức hẳn hoi, được lệnh đến Java tìm cho ra phương pháp trị liệu: nhiều khoa học gia phải bỏ xác hay về quê nhà trên băng ca. Duy có một ông bác sĩ trẻ tên là Christian Eijkman. Trở lại đảo, tiếp tục công trình, ông làm việc một mình trong phòng nghiên cứu giữa đám rừng già, gần thủ đô Batavia. Ông lấy máu người bệnh phù thũng chích vô mấy con gà – chúng sống phây phây, rồi bất chợt ngày nọ, một con đi loạng choạng. Tia sáng hy vọng đã lóe ở cuối đường hầm chăng? Nhưng chẳng bao lâu tất cả gà kể cả mấy con không bị tiêm máu người bệnh, thảy đều có dấu hiệu mang bệnh. Thế là hy vọng tiêu tan. Sau đó tất cả gà lành bệnh một cách kỳ diệu, lúc y học tây phương chưa ra tay – Eijkman đặt nghi vấn…
Trước kia gà ăn gạo lứt, loại rẻ tiền mà dân địa phương thường ăn. Rồi bỗng nhiên gạo này hết, gà được ăn gạo trắng – loại gạo chà xát mà bệnh nhân tây phương trong các bệnh viện ăn, cùng với đường trắng tinh chế, bánh mì trắng, bơ, mứt sệt và các món ngọt do mấy nhà truyền giáo và bọn đầu sọ thực dân đưa về từ mấy thuộc địa khác. Việc cho gà ăn món sang trọng (gạo trắng tinh) này chẳng bao lâu bị tố giác, nên gà phải trở lại ăn gạo lứt rẻ tiền.
Nhờ đó, Eijkman rút được bài học quý giá: "dân Java không nói bí quyết cho quân đội chiếm đóng biết: nếu ai ăn gạo trắng và đường thì phải bị Beri Beri. Nếu muốn lành bệnh phải ăn gạo lứt. Điều này không xa lạ với người phương Đông. Họ xác nhận là mọi sự vật đều tuân theo luật công bằng tuyệt đối của thiên nhiên. Luật thiên nhiên chủ trương rằng mọi người phải ăn thực phẩm trọn vẹn, như ăn toàn thân cá, ăn tỏi tây (leek) với rể của nó, carot với dầu củ, thực vật mọc hoang dưới biển hay được trồng tỉa trên đất liền. Nhiều vị Hoàng Đế Nhật Bản khuyên dân chúng nên ăn gạo lứt".
Bác sĩ trẻ ấy bèn để ý đến mấy nhà tù tân tiến, sạch sẽ, đang nhốt mấy người địa phương chống đối quân đội chiếm đóng. Tù nhân được cho ăn gạo trắng tinh giống như gạo dành cho bệnh viện. Kết quả: 3900 tù nhân thì có 270 người bị phù thũng. Ở ngoài nhà tù dân địa phương sống trong nhà tranh thiếu điều kiện vệ sinh, theo đầu óc sát trùng của bọn thực dân Đức, thực phẩm chủ yếu của họ là gạo lứt, giã bằng cối gỗ. Trong số dân 1000 người, Eijkman không thấy ai bị phù thũng.
Với thái độ rụt rè ông báo cáo (1893) "chứng viêm thần kinh bất thường như Beri Beri đã được trắc nghiệm nơi gà… không ai thèm để ý. Ông bèn quay về Âu Châu, đến năm 1901 bác sĩ C. Grinjs, một đồng
76
nghiệp đến thay ông, và cho phổ biến tài liệu về việc thí nghiệm bệnh phù thũng nơi vài giống chim và nơi con người.
Ông cho biết nguyên do là tại cơ thể không hấp thụ được vài chất bổ dưỡng cần yếu. Hiện hữu trong lớp lứt của gạo, gạo chà trắng mất lớp lứt này.
Năm 1907, hai công nhân xứ Na Uy, Holst và Froelich, làm cho gà và bồ câu bị chứng phù thũng. Chuột bạch là động vật có vú được chọn cho ăn gạo trắng để thử nghiệm. Chuột suy yếu, kết quả chẩn đoán cho biết nó bị thứ bệnh khá giống như Scurvy, không ngờ đó là tin giật gân cho khoa học Tây phương. Bài học kinh nghiệm này rất đơn giản: người Đông phương mộc mạc dùng món ăn chính là gạo lứt. Nhưng sự kiện này lại quá thô sơ đối với cộng đồng khoa học gia tây phương, lúc ấy đang say mê các thành quả hóa học, vì khoa này có triển vọng lý giải tận căn tất cả những bí ẩn của cuộc đời.
Năm 1911, tại viện Lister ở Luân Đôn, một chuyên gia hóa chất người Ba Lan, bác sĩ Casmir Funk tiếp nối công cuộc thí nghiệm của Eijkman về gà và gạo. Suốt bốn tháng ông xay xát 836 cân Anh gạo lứt để lấy ra 170 grams vỏ lứt và chế ra một dung dịch, rồi thử đem một liều lượng rất nhỏ cho một con bồ câu bị bại xuội (vì Beri Beri) uống, vài giờ sau bồ câu phục hồi sinh lực. Năm 1912 Funk đem phổ biến học thuyết "cấp tiến" này, ông thấy có một chất bổ dưỡng trong gạo lứt bị mất đi vì chà xát.
Goethe có nói: "khi có một vấn đề không thấu suốt được, người ta đặt tên mới cho nó". Casmir Funk cũng gắng tìm trong các từ ngữ Hy Lạp hay La Mã, để tổ chức lễ đặt tên cho một chất liệu hàm chứa sinh lực của trời đất. Chất này nằm trong lớp lứt của gạo nguyên vẹn không bị chà trắng. Ông chọn một từ ngữ Latin biểu tượng đời sống: "Vita và phối hợp với từ ngữ amine tức là những axit amino trong nguyên sinh chất của tế bào để ráp thành chữ Vitamin, rồi đến chữ Anti Beri Beri vitamin (sinh tố trị bệnh Beri Beri). Nếu bác sĩ Funk còn vướng chấp truyền thông Anglo Saxon là lấy tên mình đặt cho thành quả phát minh của mình, như là tên bác sĩ gắn liền với tên bệnh chứng do ông ấy tìm ra, thì Funkies (chất bẩn của kẻ bần tiện) để cho cái thế giới đảo điên này thêm điên đảo.
Giai đoạn tiến bộ kế tiếp được nổi bật ở Đại học Wisconsin vào năm 1912, các nhà hóa học Đức tìm ra các thức ăn quân bình cho cơ thể gồm các chất proteins, carbohydrates, chất béo, muối và nước. Bà Mary Shelley đã phản ảnh tính chất khoa học của thời đại này qua một nhân vật trong truyện là bác sĩ Frankenstein. Ngoài đời, bác sĩ Frankenstein là anh em cùng huyết thống với Nam Tước Liebig, một mẫu người siêu
77
suất của nền hóa học tân thời. Liebig công bố rằng ông ấy sắp nấu được một loại sữa nhân tạo trong phòng thí nghiệm riêng, có giá trị dinh dưỡng cao hơn sữa người hay sữa bò. Lúc ấy, nguồn cội là phẩm chất của thức ăn không quan trọng bằng tập trung tinh thần vào việc lập nên công thức hóa học.
Stephan Babcock, bạn học của Liebig ở Đức, về sau trở thành khoa học gia hàng đầu ở Bộ Canh Nông Hoa Kỳ, vào hậu thế kỷ 19. Ông phân tích thực phẩm dành cho một số bò cái, sau đó phân của chúng, ông ngạc nhiên rằng số lượng khoáng chất trong phân lại nhiều hơn trong thực phẩm của chúng đã ăn. Ông ta đệ trình cả hai công thức hóa học lên thứ trưởng viện nghiên cứu, rồi thẳng thắn hỏi công thức nào tốt nhất để cho bò ăn. Theo nhận xét hóa học thì hầu như không có sai biệt giữa thức ăn và phân: thành phần phải giống nhau. Mọi người đều mù tịt, chỉ trừ đàn bò ấy, mà bò thì không nói lên được gì, vì nó cũng bị khoa học tân thời xỏ mũi (100 năm sau, có một khoa học gia tìm được phương pháp tái tạo phân chuồng thành thực phẩm cho trâu bò).
Tại đại học Wisconsin, năm 1912, giáo sư E. V. MC Collum dùng chuột để thí nghiệm các chất dinh dưỡng. Ông thực hiện nhiều cách phối hợp protein, carbohydrate và chất béo để nuôi mấy loài thú gậm nhấm. Có vài cách phối hợp làm cho chuột sung sức, còn mấy cách khác thì làm cho chúng suy yếu. Cả hai cách ăn bổ dưỡng và kém dinh dưỡng đều có dùng các thành phần hóa chất giống hệt như nhau. Rõ ràng hóa học không giải đáp vấn đề một cách ổn thỏa. Chuột bị nhốt, chỉ ăn sữa, đường và các món độc hại của người phương Tây. Nếu mấy con chuột được sống tự do và chọn thức ăn theo bản năng thiên nhiên, thì ông Mc Collum có lẽ đã thu hoạch kết quả mỹ mãn. Tuy nhiên vì sai lầm trong thử nghiệm, ông kết luận rằng tất cả proteins không có giá trị dinh dưỡng như nhau, tất cả các carbohydrates không giống nhau và các chất béo đều khác nhau. Một lần nữa, chỉ có tập đoàn khoa học gia quá say mê ngành hóa học của Đức quốc mới đồng ý với ông. Mc Collum lấy một chất dinh dưỡng trong vài thứ chất béo, cũng như trong lá cây linh lăng thảo (Alfalfa), và trong gan thận của thú vật. Ông lấy chất ấy trong bơ sữa rồi cho vào bơ thảo mộc. khi cho chuột ăn, lúc ấy chúng đang ăn các món có đường, sữa, thì chuột lớn mạnh. Kết quả tốt rồi, chắc chắn là có một chất bổ mới lạ nữa rồi. Mc Collum bèn gọi là chất A hòa tan trong chất béo. Lại thêm một thiên tài khoa học được vào bảng vàng. Chữ A thêm vào từ ngữ vitamin (do Casimir Funk đặt ra) thành vitamin A. Các tay lái buôn sắp có lợi nhuận hằng tỉ đô la nữa rồi!
Năm 1906 Frederic Hopkins của đại học Cambridge kêu gọi hãy chú tâm thêm vào việc nghiên cứu các loại vitamin. Ông nói: chắc chắn là
78
mỗi thứ thực phẩm đều chứa những vi lượng chất bổ cần ích cho cơ thể. Nếu lời lẽ trên được công nhận là đứng đắn, thì đường không phải là thực phẩm.
Năm 1920 Hopkins hợp tác với bác sĩ W. H. Wilson của bệnh viện St Mary ở Luân Đôn. Cả hai đồng phát biểu chứng suy dinh dưỡng do ăn uống thiếu các vitamin cần yếu có thể ngăn ngừa được bằng cách thêm các chất liệu có chứa những vitamin này. Lịch sử các bệnh dịch như Scurvy và Beri Beri là bằng chứng cụ thể.
Giờ đây, nếu những phát minh ấy có ích lợi thực tiễn, thì chúng ta có thể suy diễn rằng phải có chất gì hiện hữu trong gạo còn lớp lứt, chưa chà xát: ta có thể gọi đó là vitamin hay gì gì cũng được: nhưng quả thật cái đó rất cần thiết cho sức khỏe, dù sức khỏe của gà Java hay của người tây phương. Điều đó cũng có nghĩa là nếu gạo và đường bị tinh chế thì sinh tố cũng biến mất, ăn vào chỉ tạo khổ.
Năm 1973, một ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ công bố đường là một chất phá hoại dinh dưỡng anti nutrient. Những chất như thế quả thật là độc tố, vì chúng khuynh đảo thế quân bình của dòng máu và các cơ quan trọng yếu trong cơ thể. Quý vị lãnh đạo khoa học chia sẻ thành quả phát minh vĩ đại này cho những người sống đầu đường xó chợ chưa? Hội Y học Hoa Kỳ (AMA), đã cảm phát động phong trào giáo dục để giúp dân Hoa Kỳ và nhân dân toàn thế giới biết rõ rằng gạo trắng và đường trắng có thể gây bệnh Beri Beri hay bất cứ tên gì bạn muốn gọi, hay chưa? Phải chăng chúng ta từng được nhắn nhủ rằng bữa ăn có gạo lứt và không có đường sẽ chữa lành mọi bệnh và cho ta sự tráng kiện?
Bệnh phung diên (Pellagra) và phù thũng (Beri Beri) chỉ là triệu chứng của một bệnh đơn nhất mà thôi. Pellagra tăng trưởng đến độ làm bệnh nhân bị tàn phế toàn diện rồi chết – toàn thể các mô đều bị suy thoái. Từ nhiều năm qua, Pellagra được xem như bệnh nhiễm trùng miền nhiệt đới, bệnh nhân ngủ thật nhiều và có liên hệ đến ruồi Tse tse.
Sau khi quân đội chiến thắng được bệnh sốt vàng da nhờ chích ngừa, thì thuốc ngừa được dùng trị mọi bệnh ở vùng nhiệt đới. Suốt hai thế kỷ, Pellagra đã gây phiền toái cho bao bộ não y khoa vĩ đại, dù họ có sử dụng cả Arsenic (thạch tín) và các độc dược khác.
Dân quê ở Ý và Tây Ban Nha thường nói rằng nếu cho bệnh nhân Pellagra ăn uống đủ bổ dưỡng thì họ khỏe mạnh ngay. Y khoa làm sao chấp nhận ý tưởng quá thô sơ ấy được. Họ đang tìm thuốc ngừa và giết ruồi Tse tse để mơ sẽ được giải Nobel. Thì ra dân quê lại sống lâu, nhà giàu dùng tiền cho bác sĩ nên dễ gần thần chết.
79
Vào khoảng 1914, Pellagra viếng miền Nam Hoa Kỳ, bệnh lan tràn nhiều nơi. Quốc hội và quần chúng bèn gây áp lực, buộc Chức Quyền chỉ đạo Y khoa và Sở Y tế Hoa Kỳ phải tìm ngay giải pháp trị dứt bệnh dịch tả của nước Ý này (Italian plaque). Nhưng khoa học gia hàng đầu được cấp tài khoản vô hạn định để nghiên cứu, nhưng suốt năm năm họ không đạt được thành quả nào!
Các bác sĩ miền Nam tin chắc là bệnh này hay lây. Tại những làng ở các tiểu bang South Carolina, Georgia và Mississipi bổng nhiên dân cư bị ban chẩn, da phát đỏ ửng. Sở y tế phải tìm người tình nguyện đến những nơi mà nhiều bác sĩ lạnh chân không dám đến (các báo cáo cho biết đây là bệnh truyền nhiễm).
Joe Goldberger là người Do Thái gốc Hungary, sống ở khu tồi tàn của Đông New York. Ông là nhà vi khuẩn học chuyên nghiên cứu các bệnh vùng nhiệt đới. Chúng ta nên nhớ lúc ấy là thời kỳ y khoa tìm diệt trùng. Thay vì Goldberger làm việc tại phòng thí nghiệm thì ông lại đi đến các bệnh viện và nhà thương điên để khám bệnh cho mấy bệnh nhân còn sống nhăng. Ông hỏi giám đốc nhà thương điên ở Georgia "có bao nhiêu bác sĩ và y tá của bệnh viện bị phung điên (phung rồi điên). Giám đốc trả lời không có ai bị cả! Chỉ có nhiều bệnh nhân chết vì bệnh ấy". Thế thì luận thuyết bảo rằng Pellagra truyền nhiễm không còn vững nữa.
Có người nêu thắc mắc tại sao Pellagra quấy nhiễu nhà nghèo nhiều hơn nhà giàu. Goldberger lý giải: "Không phải gia đình nghèo nào cũng dùng những thực phẩm tươi tốt, hợp với thiên nhiên". Mấy ông bác sĩ nhà thương điên liền trả lời: "Không phải như vậy đâu. Ở đây, bác sĩ và bệnh nhân ăn cùng một thực đơn. Goldberger xin đi thăm các nhà ăn; kia rồi ! cháo ngô, yến mạch, sirô mía: nhưng bột bắp và đường trắng đều tinh chế. Các người phục vụ và y tá cũng ăn như thế, mà lại có thêm mấy miếng thịt bự, ngon và mấy ly sữa nữa.
Rồi ông đi thăm mấy trại mồ côi; các em ăn những món như trên. Các em từ 6 đến 12 tuổi bị bệnh nhiều nhất vì ăn thức ăn tinh chế nhiều hơn, đó là các món phá hoại dinh dưỡng (anti-nutrients).
Không còn gì nghi ngờ, ông đệ trình xin chánh phủ Hoa Kỳ cấp cho ngân khoản để thí nghiệm hiệu quả dinh dưỡng tại hai viện mồ côi ở cùng tỉnh lỵ do giáo khu quản lý. Suốt hai tuần lễ không thấy Pellagra xuất hiện, và những trẻ bị bệnh này tỏ ra khả quan.
Trước khi công bố kết quả, Goldberger đảo ngược tiến trình thí nghiệm; ông cần làm cho những người khỏe mạnh phải mắc bệnh, bằng cách cho họ ăn theo thực đơn của ông đưa ra. Chỉ có một nơi ông có thể thực hiện kế hoạch mà khỏi sợ quần chúng phản đối nếu kết quả không
80