🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đường Chân Trời Đã Mất
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ.
Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng.
Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi.
Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang.
Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong.
Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương.
Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức,
https://thuviensach.vn
người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời.
Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị.
Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về.
Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường.
Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về…
Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Mở đầu
Mấy điếu xì gà cháy đã gần tàn, chúng tôi bắt đầu phần nào cảm thấy nỗi thất vọng, cái cảm giác vẫn thường đến với những người trước kia đều là bạn học, giờ đây đã lớn tuổi gặp lại nhau, và thấy giữa họ không còn nhiều điều chung như họ vẫn tưởng. Rutherford đã trở thành nhà văn chuyên viết tiểu thuyết. Wyland là một Bí thư Sứ quán, anh ta vừa thết đãi chúng tôi một bữa tối tại Tempelhof, bữa ăn chẳng có gì là vui vẻ lắm, tôi nghĩ vậy, nhưng có cái không khí trầm tĩnh vẫn thường thấy ở một nhà ngoại giao vào những dịp như vậy. Dường như chỉ vì chúng tôi là ba chàng trai chưa vợ của nước Anh, lại đang cùng ở tại thủ đô một nước ngoài, nên đã khiến chúng tôi quây lại với nhau mà thôi. Và tôi đã đi đến kết luận rằng, cái vẻ hơi hợm mình ở Wyland Tertius trước kia không hề bớt đi theo năm tháng và với cái chân trong Hội Hoàng gia Victoria; với Rutherford tôi thích hơn. Anh chàng đã trưởng thành từ một chú bé gầy gò, thông minh, chú bé trước kia tôi đã từng trêu chọc, vừa che chở. Có thể vì anh giờ đây kiếm được nhiều tiền hơn và có một cuộc sống thú vị hơn cả hai chúng tôi nên đã khiến Wyland và tôi có một cảm giác chung - cảm giác phần nào ghen tị.
Tuy nhiên, buổi tối hôm ấy không hề buồn tẻ. Chúng tôi đã được nhìn thấy quang cảnh nhộn nhịp sôi động của những chiếc máy bay khổng lồ Lufthansa từ khắp các vùng Trung Âu bay tới và đến khoảng nhá nhem tối, những cây đèn cao áp bật sáng, thì quang cảnh trở nên rực sáng, đầy màu sắc của một sân khấu.
Một trong số những máy bay ấy là của nước Anh, anh phi công vận trang phục đầy đủ đi sát qua bàn chúng tôi; anh ta chào Wyland, nhưng Wyland thoạt đầu không nhận ra nên đã không chào lại. Khi nhận ra, Wyland liền giới thiệu anh chàng phi công với tất cả chúng tôi, và mời anh cùng ngồi vào bàn. Anh phi công còn trẻ, tính tình vui vẻ hòa nhã, tên anh là
https://thuviensach.vn
Sanders. Wyland xin lỗi anh vì một người khi ăn mặc quần áo đội mũ phi công kín mít thì thực khó nhận ra người đó là ai. Sanders cười rồi đáp lại:
"Ồ, tôi biết rõ điều đó. Xin anh nhớ cho là tôi đã từng phục vụ tại Baskul."
Wyland cũng cười, nhưng có phần thiếu tự nhiên và câu chuyện chuyển sang hướng khác.
Có thêm Sanders, bàn chúng tôi vui hẳn lên và chúng tôi cùng nhau uống rất nhiều bia. Khoảng mười giờ, Wyland rời sang nói chuyện với một người ở bàn bên, Rutherford nhân đó hỏi Sanders:
" Ồ này, nhân tiện tôi muốn hỏi anh bạn, vừa nãy anh bạn có nói mình đã phục vụ tại Baskul. Nơi đó tôi cũng biết chút ít. Anh vừa nói về việc gì đã xảy ra ở đó nhỉ?".
Sanders mỉm cười, vẻ lúng túng:
"Ồ, đây chỉ là một câu chuyện lộn xộn nhỏ tôi đã chúng kiến hồi tôi đang phục vụ ở đó."
Nhưng rồi anh chàng thanh niên không giữ được nổi điều anh muốn giấu kín:
"Sự thực là, đã có một anh chàng người Afghanistan hay người Châu Phi hay người nước nào đây đã cuỗm mất một chiếc máy bay của chúng tôi và hậu quả sự việc thực tệ hại, hẳn các ông cũng dễ thấy. Một sự kiện trắng trợn tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tên không tặc đã rình anh phi công, đánh anh gục xuống, lột lấy quần áo, mặc vào rồi trèo lên buồng lái mà không một ai nhìn thấy. Nó cũng biết cách ra đúng hiệu cho thợ máy và thế rồi cho máy bay đi rất nhẹ nhàng. Điều rắc rối là hắn đã không hề trở lại."
Rutherford tỏ vẻ quan tâm, sốt sắng hỏi:
"Thế việc ấy xảy ra hồi nào?"
https://thuviensach.vn
"Ồ, cách đây có đến đã một năm. Tháng năm, năm ba mươi mốt. Chúng tôi đang làm công việc di tản những dân thường từ Baskul đi Peshawar, do có cuộc Cách mạng nổi lên ở Baskul, có lẽ các ông vẫn còn nhớ sự kiện này. Baskul bị rối loạn chút ít, nếu không thì sự việc đã chẳng có thể xảy ra được. Tuy vậy, sự việc đã xảy ra, điều này phần nào cho thấy quần áo có thể biến đổi con người thành thầy tu được đây, phải không các ông?"
Rutherford lại hỏi:
" Tôi nghĩ ở hoàn cảnh như vậy hẳn mỗi máy bay không phải chỉ có một người phụ trách lái?"
"Đúng vậy, với tất cả các máy bay thường chở quân lính đều có rất đông người phụ trách. Nhưng chiếc máy bay này là một loại đặc biệt. Được chế tạo riêng cho một tiểu vương Ấn Độ - một loại phi cơ đặc biệt. Nhân viên Cục Đo đạc của Ấn Độ đã có lần dùng nó để bay đi làm việc ở vùng cao xứ Kashmir."
"Và anh nói chiếc phi cơ đó đã không hề tới Peshawar?"
"Không hề tới Peshawar và cho đến nay chúng tôi vẫn chưa khám phá ra nó. Điều kỳ quặc của câu chuyện là ở đây. Tất nhiên, nếu không tặc là một người thuộc một bộ lạc nào đó, anh ta hẳn có thể đã bay về một vùng đổi núi với ý nghĩ bắt giữ những người trên máy bay để đòi tiền chuộc, không hiểu sao tôi nghĩ là tất cả họ đều đã chết rồi. Ở vùng biên giới có biết bao nhiêu là những nơi hiểm trở máy bay có thể va vào tan vỡ để rồi không còn tin tức gì về nó nữa."
"Đúng vậy, vùng ấy thì tôi có biết. Thế trên máy bay lúc ấy có mấy người?"
"Tôi nghĩ là có bốn. Ba nam giới và một cô truyền giáo."
"Liệu có phải trong số mấy người đàn ông có thể có một người tên là Conway không?"
https://thuviensach.vn
Sanders tỏ vẻ ngạc nhiên: "Ồ, vâng, quả có anh Conway Vinh quang, thế ông biết anh ta à?"
"Anh ta và tôi trước đây đã cùng học một trường", Rutherford nói, hơi lúng túng vì đó là sự thực, nhưng đây là điều mà anh thấy rõ nó không hợp với anh.
"Cứ theo như những sự việc anh ta đã làm ở Baskul thì Conway quả là một anh chàng tính tình vui vẻ, tế nhị", Sanders nói tiếp.
Rutherford gật đầu: "Đúng vậy, nhưng rất kỳ quặc... kỳ quặc lắm...". Anh như tỉnh lại sau một lúc đầu óc lan man lơ đễnh. Rồi anh nói tiếp: "Câu chuyện không hề thấy đăng trên báo, song tôi nghĩ hình như tôi đã đọc được tin này ở đâu đó. Câu chuyện về sau ra sao nhỉ?".
Đột nhiên, Sanders có vẻ lúng túng, thậm chí tôi còn nghĩ anh chàng gần như đỏ mặt lên. "Thú thực với ông", anh ta đáp lại, "Hình như tôi đã nói xa quá những gì tôi được phép nói. Nhưng có thể giờ đây câu chuyện không có gì là quan trọng nữa, một tin cũ rích, đáng xếp xó, ông thấy đây, tôi muốn nói, câu chuyện xảy ra thế nào, người ta ỉm đi. Câu chuyện có thể chẳng hay ho gì lắm. Quan chức chính phủ chỉ cho biết là họ đã bị một phi cơ và nêu tên những người bị mất tích. Lối công bố không khiến nhiều người ngoài cuộc quan tâm đến."
Vừa lúc đó thì Wyland quay lại ngồi vào bàn với chúng tôi, Sanders quay lại phía anh nửa như xin lỗi:
"Này ông Wyland, mấy ông bạn đây vừa nói về anh Conway Vinh quang. Tôi e rằng tôi đã hơi huyên thuyên về câu chuyện Baskul - tôi mong rằng ông bỏ qua vấn đề này cho!."
Wyland nghiêm nét mặt nín lặng một lúc. Rõ ràng anh đang tính cách làm sao cho vừa tỏ ra lịch sự đối với mấy anh bạn đồng hương vừa giữ được nghiêm kỷ luật công tác. Một lát sau, anh nói:
https://thuviensach.vn
"Tôi thật đáng tiếc là đã nghĩ dân hàng không các anh vẫn coi trọng danh dự không bao giờ nói những chuyện huyên thuyên ngoài đường như vậy."
Sau khi chỉnh anh thanh niên, Wyland vui vẻ quay lại nói với Rutherford:
"Tất nhiên, với anh, thích nghe những chuyện như thế là đúng, nhưng tôi tin chắc là anh cũng hiểu rằng, ở nơi biên giới đôi khi cũng cần thiết phải ỉm đi những câu chuyện phải giữ bí mật một chút."
"Mặt khác" Rutherford lạnh lùng đáp, " Người ta vẫn hay tò mò muốn đưọc biết sự thực."
"Với người có lý do chính đáng để muốn biết sự thực thì không có gì phải giấu giếm. Hồi đó tôi đang làm việc tại Peshawar và tôi có thể đoán chắc với anh về điều đó. Anh biết rõ Conway phải không, tôi muốn nói anh biết anh ta từ ngày còn đi học?"
" Biết qua một chút ở Oxford và mấy lần ngẫu nhiên gặp nhau sau đấy. Còn anh, anh có gặp anh ta nhiều không?"
"Hồi ở Angora, khi tôi công tác ở đây, hai chúng tôi có gặp nhau một hai lần."
"Thế anh có thích Conway không?"
"Tôi nghĩ anh ta là một con người tài ba, có điều hơi phất phơ một chút."
Rutherford mỉm cười. "Con người tài ba thì hẳn đi rồi. Quãng đời sinh viên của anh ta thực hết sức sôi nổi - cho đến lúc chiến tranh bùng nổ. Đại diện của trường Oxford về môn bơi thuyền và là người dẫn đầu hội, anh ta giành được giải thưởng về đủ thứ - và tôi còn cho anh ta là một nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư vào bậc nhất mà tôi được biết. Một con người tài ba kỳ lạ về nhiều mặt, một loại người mà dễ được Jowett phong làm thủ tướng. Nhưng thực sự là từ sau những ngày ở Oxford, người ta chưa hề được nghe
https://thuviensach.vn
thấy nói nhiều về anh ta. Tất nhiên chiến tranh đã cắt ngang sự nghiệp của anh ta. Anh ta rất trẻ và theo tôi hiểu, anh ta đã chịu đựng qua nhiều thử thách."
"Anh chàng đâu đã bị khiển trách hoặc gì đó", Wyland đáp lại, "nhưng không có gì là nghiêm trọng lắm. Sự nghiệp không hề kém, anh ta đã được tặng Huân chương Phục vụ ưu tú của Pháp (D.S.O.)1[1]. Sau đó, tôi tin là anh ta có quay về giảng dạy ở Oxford một thời gian ngắn. Tôi biết là anh ta có đi về Phương Đông năm hai mốt. Nhờ biết nhiều tiếng Phương Đông nên anh ta đã kiếm được việc làm mà không cần qua những thủ tục thông thường. Anh ta đã giữ nhiều chức vụ."
Rutherford mỉm cười vui vẻ hơn.
"Tất nhiên, cái đó giải thích tất cả. Lịch sử sẽ chẳng bao giờ nêu ra hết con số những tài năng bị mai một trong cái công việc hàng ngày đọc chép giấy tờ của Bộ Ngoại giao cùng mời các vị cãi vã nhau trong Tòa Công sứ uống trà."
"Conway công tác tại Lãnh sự quán chứ không phải trong Bộ Ngoại giao", Wyland cao giọng nói. Rõ ràng anh ta không thèm quan tâm đến thứ chuyện vặt ấy, và sau một lát chuyện trò ba láp như vậy, khi Rutherford đứng dậy cáo từ, anh ta cũng không giữ lại. Dù sao thì đã khuya, nên tôi cũng nói xin rút lui. Thái độ của Wyland khi chúng tôi chào từ biệt ra về vẫn có tính chất lặng lẽ chịu đựng của một quan chức, Còn Sanders thì tỏ ra rất thân tình, anh nói anh mong lúc nào đó sẽ được gặp lại chúng tôi.
Tôi định đi chuyến xe lửa xuyên lục địa vào cái giờ buồn bã của buổi sáng sớm. Trong lúc cùng nhau đợi tắc xi, Rutherford có mời tôi trong thời gian đợi xe lửa, tạt vào chỗ khách sạn anh đang ở. Anh nói ở đây anh có một phòng khách để hai người có thể ngồi nói chuyện được. Tôi trả lời được như vậy là rất hay. Và anh nói: "Vậy hay nếu anh ưng thì chúng ta sẽ nói chuyện về Conway, còn nếu anh không thích thì thôi."
https://thuviensach.vn
Tôi nói, mặc dù tôi biết Conway rất ít, tôi vẫn thích được nghe nói về anh.
"Anh ta rời khỏi trường vào cuối học kỳ đầu tiên của tôi và sau đó tôi không hề gặp lại anh. Nhưng có một lần anh ta tỏ ra rất tốt đối với tôi. Hồi ấy, tôi chỉ là một học sinh nhỏ mới vào trường, thực không có lý do gì để anh ta tốt với tôi như vậy. Sự việc cũng thường thôi, song tôi cứ nhớ mãi."
Rutherford gật đầu. "Chúng tôi cũng rất thích anh ta mặc dầu tôi cũng chỉ tiếp xúc với anh ta rất ít, nếu tính đo bằng thời gian."
Rồi im lặng, cái im lặng có phần kỳ cục, trong khi đó rõ ràng cả hai chúng tôi đều nghĩ về một người đã tỏ ra quan trọng đối với chúng tôi, điều vượt xa nếu xét đoán dựa trên những lần tình cờ được tiếp xúc với anh ta. Từ đó tôi vẫn thường thấy những ai đã gặp Conway, dù chỉ là hình thức và trong chốc lát, vậy mà họ vẫn cứ nhớ anh ta một cách hết sức sâu sắc. Anh ta đúng là một thanh niên cừ khôi, còn với tôi, người đã biết anh ở tuổi hay sùng bái các vị anh hùng, hình ảnh anh trong đầu óc tôi thực đặc biệt lãng mạn. Anh cao lớn, gương mặt khôi ngô, không những xuất sắc trong các môn thể thao mà còn giành được các thứ giải khác của nhà trường. Vị hiệu trưởng giàu tình cảm có lần nói về những thành tích của Conway đã khen là "vinh quang" và cũng từ đó anh ta có biệt hiệu "Conway Vinh quang". Có thể chỉ có anh ta là xứng đáng với cái tên đó. Tôi còn nhớ lần anh ta đọc diễn văn bằng tiếng Hy Lạp vào ngày phát phần thưởng của nhà trường; và thường được liệt vào hạng nhất trong các buổi biểu diễn sân khấu của trường. Ở anh ấy có một cái gì đó mang tính cách của con người thuộc triều đại Nữ hoàng Elizabeth, tài linh hoạt rất tự nhiên, vẻ mặt khôi ngô, con người sôi nổi kết hợp cả hoạt động tinh thần lẫn thể chất. Có một chút gì của dân Philip-Sidney. Ngày nay nền văn minh của chúng ta không làm nảy sinh được những con người như vậy. Tôi nói ý kiến đó với Rutherford và anh đáp lại:
"Vâng, đúng vậy, và chúng ta có một từ đặc biệt để dè bỉu những con người đó - ta gọi họ là những nhà tài tử. Tôi cho rằng hẳn cũng có những kẻ
https://thuviensach.vn
gọi Conway với cái từ ấy, những người như Wyland chẳng hạn. Tôi không thèm đếm xỉa đến Wyland. Tôi không thể chịu được cái loại người đầy vẻ nghiêm trang và ta đây quan trọng. Và anh có nhận thấy cái đầu óc quan đầu tỉnh của anh ta không? Những câu dạy đời về những con người cần trọng danh dự và nói huyên thuyên chuyện ngoài đường - như thể Cái Đế quốc chết tiệt nọ là lớp Năm ở trường dòng St. Dominic! Song, vậy mà, tôi cứ phải luôn đụng đầu với các vị quan lớn ngoại giao ấy."
Chúng tôi lặng lẽ đi qua mấy khu nhà. Rutherford nói tiếp:
"Tuy vậy, tôi cũng không tiếc là đã mất toi buổi chiều hôm nay. Nghe anh chàng Sanders nói về câu chuyện ở Baskul, tôi thấy rất thú vị, một điều đặc biệt. Chuyện này, trước đây tôi đã có nghe nói và không tin lắm. Đây chỉ là một phần của câu chuyện còn ly kỳ hơn nhiều mà tôi thấy chả có lý do gì để tin, hoặc giả nêu có thì cũng là một lý do rất mong manh. Giờ đây thì có hai lý do rất mong manh. Tôi dám nói, hẳn anh cũng thấy đây, tôi không phải là một người cả tin. Tôi đã từng đi đây đi đó nhiều nơi và biết trên đời có những sự việc rất kỳ quặc - nghĩa là những điều chính mắt được nhìn thấy, còn nếu anh chi nghe qua người khác thì thường là không kỳ quặc lắm đâu. Vậy mà…”
Thốt nhiên, Rutherford như chợt thấy rõ những điều anh vừa nói chẳng có ý nghĩa gì lắm đối với tôi, nên phá ra cười. "Ồ, có một điều chắc chắn là tôi không thích tâm sự với Wyland. Tâm sự với anh ta chẳng khác nào tìm cách đổi một bản anh hùng ca lấy mấy mẩu thức ăn. Tôi muốn làm điều đó với anh."
"Có lẽ anh làm cho tôi hãnh diện quá đây!" Tôi nói.
"Không phải cuốn sách anh viết đã khiến tôi có ý nghĩ ấy."
Tôi chưa hề nói ra tôi đã viết một cuốn sách có phần về chuyên môn, (nói cho cùng, sách của một nhà thần kinh học không phải được ai cũng đọc đến), nên tôi rất ngạc nhiên khi thấy Rutherford đã nghe nói đến nó. Tôi bày
https://thuviensach.vn
tỏ ý này với anh và anh trả lời: "Ồ, anh thấy đây, tôi quan tâm đến nó vì Conway đã một thời bị mắc chứng quên đi mọi sự việc."
Tới khách sạn, Rutherford đến phòng khách lấy chìa khóa. Lúc hai chúng tôi lên tầng năm, anh nói: "Tất cả những cái đó chỉ là nói quanh mà thôi. Sự thật là Conway chưa chết, ít nhất cách đây mấy tháng anh ta còn sống."
Trong thang máy chật hẹp, thời gian cũng chóng nên không ai nói được câu gì. Lát sau khi đi trong hành lang, tôi hỏi anh: "Thế anh có chắc chắn về điều ấy không? Làm sao anh lại biết?"
Vừa mở khóa cửa, anh vừa đáp: "Vì tôi đã đi cùng Conway từ Thượng Hải đến Honolulu trên một chuyến máy bay phản lực của hãng hàng không Nhật Bản hồi tháng mười một năm ngoái?"
Rồi anh không nói nữa cho đến lúc cả hai chúng tôi đã yên vị ngồi trong chiếc ghế bành uống nước, hút thuốc:
"Anh thấy đây, tôi đã đến Trung Quốc trong một dịp nghỉ vào dạo mùa thu. Tôi chả vẫn thường đi đó đi đây luôn. Đã nhiều năm tôi không gặp Conway. Chúng tôi không hề thư từ cho nhau, và cũng không thể nói tôi thường xuyên nghĩ đến anh ấy, mặc dầu hình ảnh của anh vẫn là một trong số ít những hình ảnh mà tôi dễ dàng nhớ lại. Hồi đó tôi có việc đến thăm một người bạn ở Hán Khẩu và đáp xe lửa tốc hành về Bắc Kinh. Trên xe lửa tôi đã có dịp được trò chuyện với một bà xơ Nhất, một bà xơ rất đỗi hấp dẫn trong số mấy bà xơ từ thiện người Pháp. Bà đi Trùng Khánh nơi có tu viện của bà. Vì tôi biết nói một ít tiếng Pháp nên bà xơ xem ra thích thú nói chuyện với tôi về công việc của bà và về các vấn đề nói chung. Thực ra, tôi vốn không có cảm tình lắm đối với các tổ chức truyền giáo thường, nhưng cũng như mọi người ngày nay, tôi sẵn sàng thừa nhận là người La Mã đứng tách ra một tầng lớp riêng, vì họ hoạt động rất tích cực và không hề làm bộ như mấy ngài sĩ quan trong một xã hội đầy rẫy lính thường. Nhưng đó chỉ là nhân tiện mà nói thôi. Vấn đề chính là bà xơ này, khi nói chuyện với tôi về cái bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh, có nêu ra một trường hợp
https://thuviensach.vn
đầy xúc động vừa mới đưa đến bệnh viện bà mấy tuần gần đây, bệnh nhân mà người ta nghĩ hẳn là một người châu Âu, tuy anh ta chẳng nói được điều gì về bản thân mà cũng không đem theo một giấy tờ gì hết. Quần áo anh ta mặc là quần áo của người thổ dân, vào loại nghèo khổ nhất; lúc các bà xơ nhận anh vào viện thì anh yếu lắm. Anh ta nói tiếng Trung Quốc rất thạo, nói tiếng Pháp cũng giỏi và bà bạn đồng hành với tôi còn đoán chắc là trước khi chưa được biết các bà xơ là người nước nào, anh ta đã nói với họ bằng tiếng Anh, giọng nói rất thanh nhã. Tôi nói tôi không thể tưởng tượng được trên đời lại có một hiện tượng lạ như vậy và nhẹ nhàng giễu bà là đã phân biệt được giọng nói thanh nhã của một thứ ngôn ngữ mà bà không hề biết. Rồi chúng tôi nói đùa về nhiều vấn đề linh tinh khác. Cuối cùng, bà mời tôi nếu có dịp tới Trùng Khánh, xin đến thăm hội truyền giáo của bà. Điều này, tất nhiên lúc đó, xem ra khó thực hiện, như bảo tôi leo núi Everest, vậy nên khi xe lửa tới Trùng Khánh, tôi bắt tay bà, lòng thực sự luyến tiếc cuộc gặp gỡ may mắn giữa tôi và bà đã kết thúc. Tuy vậy, chỉ sau đây mấy tiếng đồng hồ tôi trở lại Trùng Khánh. Chả là xe lửa đi khỏi đây được một vài dặm thì hỏng máy và thực rất khó khăn người ta mới đẩy được xe chúng tôi quay trở về nhà ga. Đến đây, chúng tôi được biết là mười hai tiếng đồng hồ nữa mới có thể có đầu máy thay thế. Điều này vẫn thường xảy ra với đường sắt của Trung Quốc. Vậy là tôi còn phải ở lại Trùng Khánh một nửa ngày nữa - điều ấy khiến tôi nhớ đến lời mời của bà xơ và tôi đã đến thăm hội truyền giáo của bà."
Đến đây, tôi được tiếp đón thân mật và tất nhiên chủ nhà cũng có phần ngạc nhiên. Tôi cho rằng, điều khó hiểu nhất đối với một người không phải là giáo dân là làm sao mà một giáo dân Thiên Chúa giáo lại có thể phối hợp được một cách dễ dàng cái cứng nhắc của chính quyền với cái rộng lượng hào phóng của dân sự. Cái đó có quá phức tạp không? Nhưng không sao, dù sao thì những người Hội truyền giáo ở đây đã tiếp đón tôi rất vui vẻ. Đến đây chưa được một tiếng đồng hồ, tôi đã có bữa ăn sửa soạn chu đáo, một bác sĩ trẻ người Trung Quốc ngồi tiếp tôi và nói chuyện với tôi nửa bằng tiếng Pháp, nửa tiếng Anh, rất vui. Sau bữa ăn, anh bác sĩ và bà xơ Nhất dẫn
https://thuviensach.vn
tôi đi tham quan bệnh viện mà họ tỏ ra rất lấy làm hãnh diện. Tôi nói với họ tôi làm nghề viết văn, thế là những con người rất chất phác ấy cứ xốn xang với ý nghĩ tôi có thể nêu cả họ trong một cuốn sách. Anh bác sĩ giới thiệu mỗi khi chúng tôi đi qua một giường bệnh. Các phòng được quét dọn hết sức sạch sẽ, tỏ ra việc quản lý ở đây rất thành thạo, chu đáo. Tôi đã quên hẳn cái người bệnh nhân bí ẩn có giọng nói tiếng Anh rất thanh nhã, cho đến lúc bà xơ Nhất nhắc cho tôi biết là đã sắp đến giường con người đó. Tôi chỉ nhìn thấy sau gáy, anh ta hình như đang ngủ. Người ta khuyên tôi nên nói với anh ta bằng tiếng Anh, do vậy tôi cất tiếng chào "Good afternoon". Đúng thực, giọng anh ta nói là giọng nói của một người có học thức. Nhưng tôi không có thì giờ để tỏ ra ngạc nhiên, vì tôi đã nhận ngay ra anh, mặc dầu bộ râu và dáng vẻ con người anh đã hoàn toàn thay đổi, mặc dầu đã lâu lắm tôi không gặp anh. Anh ấy chính là Conway. Chắc chắn đúng là anh rồi, nhưng nếu tôi mà ngừng để nghĩ lại điều này thì rất có thể sẽ đi đến kết luận đây không thể là Conway được. Cũng may, nhìn anh, tôi nhận ra ngay. Tôi gọi tên anh và nói tên tôi; tuy anh ta cứ nhìn tôi trừng trừng, không tỏ dấu hiệu gì là nhận ra, nhưng tôi vẫn quả quyết là mình đã không lầm. Cái chút tật co giật nhẹ trên gương mặt anh mà tôi đã để ý thấy từ trước kia vẫn còn đây, và vẫn cặp mắt mà hồi ở Balliol chúng tôi thường nói rằng nó có màu xanh Cambridge hơn là màu xanh Oxford. Ngoài tất cả những cái đó ra, anh ta còn là một người mà người ta không thể lầm được - nhìn thấy anh một lần là nhớ mãi. Tất nhiên, anh bác sĩ và bà xơ Nhất tỏ ra hết sức xúc động. Tôi nói với họ là tôi quen biết người này, anh là người Anh và là bạn của tôi; việc anh không nhận ra tôi chỉ có thể là do anh đã hoàn toàn mất đi trí nhớ. Hai người gật đầu và tỏ ra rất lạ, và chúng tôi đã thảo luận rất lâu về trường hợp này. Họ cũng không cho biết được điều gì bằng cách nào mà anh ta trong hoàn cảnh thế này đã đến được Trùng Khánh.
"Nói tóm tắt, tôi đã ở lại đây hơn nửa tháng, hy vọng bằng cách nào đó sẽ giúp được Conway nhớ lại mọi sự việc. Điều này tôi không làm được, nhưng sức khỏe anh đã hồi phục và hai chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều. Khi tôi thẳng thắn nói anh là ai và tôi là ai, thì anh tỏ ra nín nhịn,
https://thuviensach.vn
không tranh cãi gì. Thậm chí, anh còn tỏ ra hết sức vui vẻ, hơi lơ đãng một chút, và dường như có tôi làm bạn anh rất mừng. Khi nghe tôi ngỏ ý muốn mang anh về thì anh chỉ lặng lẽ nói anh không nghĩ đến chuyện đó. Thực hơi bực mình với cái thái độ không thiết tha gì đến một mơ ước cho bản thân. Tôi thu xếp để hai chúng tôi trở về càng sớm càng tốt. Tôi có một người quen vốn là bạn thân làm việc tại cơ quan lãnh sự quán ở Hán Khẩu, do đó hộ chiếu và giấy tờ cần thiết đã được giải quyết nhanh chóng không khó khăn. Thực vậy, tôi thấy vì lợi ích của Conway, công việc cần được giữ kín không cho báo chí biết để đăng tin rộng rãi, và tôi cũng rất vui mừng vì mình đã giữ được kín. Tất nhiên, nếu không, báo chí họ đã xô đến chen lấn để lấy tin."
"Vâng, chúng tôi đi khỏi Trung Quốc một cách bình thường. Chúng tôi đi thuyền xuôi dòng sông Dương Tử đến Nam Kinh, sau đó đáp xe lửa đi Thượng Hải. Ngay đêm hôm ấy có chuyến máy bay Nhật Bản đi Frisco, nên chúng tôi phải hết sức gấp rút và đi được chuyến đó."
"Anh thực đã giúp rất nhiều cho Conway."
Tôi nói Rutherford không phản đối, anh nói:
"Tôi nghĩ với người khác có thể tôi đã không giúp đỡ nhiều như với Conway. Nhưng ở Conway có một cái gì đó, và luôn như vậy - thực khó mà giải thích được, chỉ biết cái đây đã khiến người ta cảm thấy vui vẻ khi đem hết sức mình ra giúp anh ta."
"Đúng vậy", tôi gật đầu. "Anh ấy hấp dẫn một cách đặc biệt, có một sức quyến rũ khiến ngay giờ đây hình dung lại, tôi vẫn thấy vui thích và tất nhiên, tôi vẫn nghĩ anh ta như hồi anh ta còn là một cậu học sinh trong bộ flanels khi chơi cricket."
"Thực đáng tiếc anh không biết Conway hồi anh ta học ở Oxford. Anh ta đúng là xuất sắc, không còn từ nào khác hơn để diễn tả. Người ta nói, sau chiến tranh anh ấy khác đi. Bản thân tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy với tất cả những tài năng của mình, Conway hẳn
https://thuviensach.vn
đã làm được những công việc lớn lao hơn. Ý nghĩ của tôi về sự nghiệp của một vĩ nhân không hề vươn tới tất cả cái đám quan chức của Vương Quốc Anh này. Còn Conway thì đúng là hoặc phải là một vĩ nhân. Anh và tôi, chúng ta đều biết Conway, và tôi nghĩ mình đã không phóng đại khi tôi nói đây là một sự kiện mà chúng ta sẽ không bao giờ quên. Ngay khi tôi và anh ta gặp nhau tại giữa đất nước Trung Quốc, lúc ấy đầu óc anh ta rỗng không, cái quá khứ của anh còn là một điều bí ẩn, vậy mà tôi vẫn thấy sức hấp dẫn ở Conway."
Rutherford ngừng lại hồi tưởng rồi nói tiếp: "Như anh có thể hình dung thấy, trên tàu chúng tôi nối lại tình thân bạn bè trước kia. Tôi nói cho Conway rất nhiều những điều tôi biết về anh và Conway lắng nghe với thái độ chăm chú dường như hơi vô lý. Anh nhớ lại rất rõ những gì đã xảy ra với anh từ ngày anh đến Trùng Khánh và có điều này hẳn cũng có thể khiến anh quan tâm là Conway không hề quên ngoại ngữ anh biết. Chẳng hạn, anh bảo tôi rằng, anh biết hẳn anh phải đã có làm một cái gì đó ở Ấn Độ, vì anh có thể nói tiếng Hindu."
"Tại Yokohama, tàu thủy lấy thêm đầy khách; trong số hành khách mới lên có nghệ sĩ dương cầm Sieveking, trên đường đi biểu diễn hòa nhạc tại Hoa Kỳ. Anh ta ngồi chung bàn ăn với chúng tôi và thỉnh thoảng nói chuyện với Conway bằng tiếng Đức. Điều này chứng tỏ bề ngoài Conway rất bình thường. Ngoài cái chứng bệnh quên mà trong lúc trò chuyện thường không thấy, thì anh không có chứng bệnh gì khác."
"Rời Nhật Bản được mấy đêm, người ta mời nghệ sĩ Sieveking biểu diễn độc tấu một buổi trên tàu. Conway cùng tôi đã đi dự nghe. Tất nhiên, Sieveking đã biểu diễn khá giỏi mấy tác phẩm của Brahms mà Scarlatli cùng rất nhiều bản nhạc của Chopin. Một hai lần tôi đưa mắt nhìn Conway và thấy anh nghe rất thích thú, điều này cũng rất tự nhiên vì trước kia anh vốn là người sành âm nhạc. Vào cuối chương trình, buổi biểu diễn kéo dài vì khán giả yêu cầu diễn lại nhiều lần. Sieveking, theo tôi nghĩ, đã nhã nhặn vui vẻ chiều lòng đám người hâm mộ lúc ấy đang quây quanh cấy đàn
https://thuviensach.vn
dương cầm. Anh ta chơi lại hầu hết là những tác phẩm của Chopin, như anh biết đây, Sieveking vốn có phần chuyên về Chopin. Cuối cùng, nghệ sĩ rời cây đàn đi về phía cửa ra vào, một số người hâm mộ vẫn bám theo, nhưng rõ ràng họ cũng cảm thấy nghệ sĩ đã chiều họ đủ lắm rồi. Giữa lúc ấy, một sự việc khá kỳ lạ đã xảy ra. Conway đến ngồi vào trước bàn phím và chơi nhanh mấy bản nhạc rất sôi động mà tôi không nhận ra, còn Sieveking thì rất ngạc nhiên quay lại hỏi Conway đã chơi những bản nhạc gì. Sau một lát yên lặng có phần lạ lùng hơi lâu, Conway chỉ đáp lại được rằng anh cũng không biết nữa. Sieveking la to lên rằng không thể tin được và anh còn bị kích thích hơn. Lúc ấy Conway như hết sức cố gắng cả về thể xác lẫn tinh thần để nhớ lại, và cuối cùng anh nói đây là bản Étude của Chopin. Tôi nghĩ chả chắc đã phải nên tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên khi Sieveking kiên quyết nói đây không phải là của Chopin. Tuy nhiên, Conway đột ngột tỏ ra rất phẫn nộ về điều đó, khiến tôi ngạc nhiên vì cho đến lúc này chưa bao giờ tôi thấy Conway tỏ ra một chút xúc động nào trước bất kỳ một sự việc gì. "Ông bạn thân của tôi ơi," Sieveking nói, "Tôi thuộc lòng các bản nhạc hiện có của Chopin, nên tôi có thể đoán chắc với anh rằng, Chopin không hề sáng tác ra bản nhạc mà anh vừa chơi. Rất có thế nếu Chopin viết thì là như vậy, vì nó đúng phong cách của ông nhưng tôi biết ông không hề sáng tác bản nhạc này. Tôi đố anh chỉ được cho tôi biết tổng phổ của nó ở cuốn sách in nào." Một lát sau, Conway đáp: "Ồ, vâng, giờ đây tôi nhớ ra rồi, bản nhạc này chưa hề được in ra. Tôi chỉ được biết nó qua lần gặp một người trước kia là học trò của Chopin... Và đây là một bản nhạc khác chưa in ra mà tôi học được ở người đó."
Rutherford đưa mắt để tôi vững tin hơn và nói: "Tôi chả biết anh có phải là nhạc sĩ không, nhưng dù anh không phải đi nữa thì tôi cũng xin nói là hẳn anh hình dung ra được sự ngạc nhiên và xúc động của Sieveking và cả của tôi nữa trong lúc Conway tiếp tục chơi. Với tôi, tất nhiên đây là một thoáng nhìn đột nhiên và thực bí ẩn vào quá khứ của Conway, cái đầu mối đầu tiên thuộc loại nào đó đã thoát mất. Sieveking tất nhiên tỏ ra mải mê với
https://thuviensach.vn
vấn đề âm nhạc, một vấn đề thực phức tạp, như anh thấy đây nếu tôi nhắc để anh biết rằng Chopin mất năm 1849."
"Trên một ý nghĩa nào đó, toàn bộ sự việc thực hết sức khó hiểu và có lẽ tôi cần nói thêm là, lúc ấy có đến ít nhất mười hai người chứng kiến, trong số này có một giáo sư có danh tiếng của trường Đại học California. Tất nhiên, nói lời giải thích của Conway, tính về thời gian thì hoàn toàn không chấp nhận được, hoặc gần như vậy, nhưng còn chính bản nhạc thì giải thích sao đây. Nêu nó không phải như Conway nói thì là thế nào? Sieveking đoán chắc với tôi rằng, nếu hai bản nhạc đó được công bố thì chỉ trong vòng sáu tháng chúng sẽ có mặt trong bảng các tác phẩm để biểu diễn của các nhà nghệ sĩ dương cầm lỗi lạc. Dù cho đây là nói quá phóng đại, thì đó là ý kiến nhận xét của Sieveking. Hồi ấy, sau nhiều lần bàn cãi chúng tôi chẳng khẳng định được điều gì, bởi Conway chi khăng khăng giữ ý kiến của mình, và vì anh đã bắt đầu tỏ vẻ mỏi mệt, nên tôi lo lắng muốn đưa anh về nghỉ. Giai đoạn cuối cùng là bàn về chuyện thu đĩa hát. Sieveking nói anh sẽ thu xếp ngay việc này khi anh tới Mỹ và Conway thì hứa sẽ chơi trước micro. Tôi thường vẫn cảm thấy rất đáng tiếc về mọi phương diện, vì anh đã không thể giữ được lòi hứa."
Rutherford đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay và cho tôi biết tôi còn khối thời gian để đáp xe lửa, bởi câu chuyện anh kể gần như đã xong: "Vì đêm hôm đó - cái đêm sau buổi biểu diễn độc tấu đàn dương cầm ấy - Conway lấy lại được trí nhớ. Chúng tôi đã lên giường để nghỉ, tôi đang nằm và còn thức thì thấy Conway bước vào buồng tôi và nói chuyện với tôi. Gương mặt anh đanh lại với dáng điệu mà tôi chi có thể nói đây là vẻ buồn tràn ngập - nỗi buồn chung của mọi người, nếu anh hiểu ý tôi muốn nói, nó có một cái gì xa xăm hoặc thăm thẳm, như người Đức vẫn gọi là Wehmut hoặc Weltschmerz. Anh nói anh đã nhớ lại được mọi thứ, rằng trí nhớ đã trở lại với anh trong lúc Sieveking chơi đàn, thoạt đầu chỉ từng mảng một. Anh ngồi một lúc lâu trên thành giường; tôi cứ để tùy anh muốn lúc nào nói thì nói và nói theo cách gì cũng được. Tôi nói rằng tôi rất mừng vì thấy trí nhớ anh trở lại, nhưng lấy làm buồn nếu anh đã muốn nó không trở lại nữa. Anh
https://thuviensach.vn
ngước mắt lên nhìn và nói mấy lời mà tôi luôn coi đây là một lời khen ngợi cực kỳ quý báu. "Lạy Chúa, anh Rutherford...", Conway nói, "anh có khả năng hình dung được sự việc". Sau đó một lát, tôi mặc quần áo, thuyết phục anh cũng làm như vậy, rồi chúng tôi đi đi lại lại trên boong tàu. Đêm hôm ấy yên tĩnh, trời đây sao, tiết trời ẩm, mặt biển nom tái nhợt, sanh sánh như sữa đông đặc. Nếu không có tiếng động cơ máy kêu vo vo thì có thể nói hai chúng tôi đang dạo chơi hóng mát. Tôi cứ để Conway tùy ý nói theo cách của anh, lúc đầu tôi không hỏi gì hết. Đâu vào khoảng rạng sáng thì anh bắt đầu nói chuyện có mạch lạc, và khi anh nói xong thì trời đã nắng nóng, đến giờ bữa điểm tâm. Khi tôi nói "xong", tôi không có ý nói rằng anh không còn gì để nói với tôi sau lần tâm sự đầu tiên. Trong hai mươi tư tiếng đồng hồ sau anh đã bổ sung nhiều đoạn hổng quan trọng. Anh tỏ ra rất đau khổ và đã không sao chợp được mắt, vì thế hầu như chúng tôi nói chuyện liên tục. Đến khoảng nửa đêm đêm hôm sau là tàu cập bến Honolulu. Chiều tối hôm trước chúng tôi cùng uống bia trong buồng tôi, khoảng mười giờ đêm, anh cáo từ đi về, và từ đây tôi không còn được gặp lại anh nữa."
"Anh không muốn nói..." Tôi đã hình dung ra một vụ tự tử rất bình tĩnh, có suy nghĩ mà trước đây có lần tôi đã được chứng kiến trên chuyến tàu chở thư từ Holyhead đến Kingstown.
Rutherford cười: "Ồ, lạy Chúa, không - Conway không phải loại người như vậy. Anh ta chỉ lẩn tránh tôi mà thôi. Đáp lên bờ thì dễ nhưng hẳn anh ấy thấy khó mà tránh được không bị tôi tìm ra khi tôi cho người đi tìm, và tất nhiên tôi đã làm việc đó. Về sau, tôi được tin anh ấy đã tìm được cách theo đoàn thủy thủ của một tàu chở chuối đi về phía Nam đến Fiji."
"Làm sao anh biết được như vậy?"
"Cũng dễ thôi. Ba tháng sau, Conway gửi thư cho tôi từ Bangkok, kèm theo một ngân phiếu trả lại số tiền tôi đã chi phí cho anh. Anh cũng cám ơn tôi và nói anh rất khỏe mạnh. Anh còn nói anh sắp thực hiện một chuyên đi thực xa - về phía Tây Bắc. Có thế thôi."
"Anh ấy định đi đâu?"
https://thuviensach.vn
"Vâng, thật là mơ hồ, phải không anh? Có rất nhiều nơi ở về phía Tây Bắc Bangkok. Ngay kể cả Berlin cũng được."
Rutherford ngừng nói, rót đầy cốc của hai chúng tôi. Một câu chuyện thực ly kỳ - hoặc nếu không thì cũng là do anh kể khiến nó có vẻ như vậy, tôi cũng không rõ nữa. Phần âm nhạc của câu chuyện tuy cũng rắc rối, nhưng không làm tôi quan tâm nhiều bằng cái bí mật về sự kiện Conway tới được bệnh viện của Hội Truyền giáo; và tôi đưa ra ý kiến này. Rutherford đáp sự thực thì hai vấn đề ấy chi là hai mảng của cùng một vấn đề.
"Ồ, vậy làm thế nào mà Conway tới được Trùng Khánh?" Tôi hỏi. "Tôi nghĩ hẳn anh ta đã nói hết điều ấy với anh trong đêm hôm ở trên tàu?"
"Conway đã nói cho chúng tôi biết một chút về việc ấy, và thực là vô lý nêu đã kể cho anh biết nhiều như vậy, tôi lại giữ kín phần còn lại. Có điều, đây là một câu chuyện khá dài, dù chỉ nói sơ qua thì thời gian từ đây cho đến lúc anh lên xe lửa cũng không đủ. Vả lại, có một cách khác thích hợp hơn. Tôi vốn có phần dè dặt trong việc bộc lộ những mánh khóe nghề nghiệp của mình, nhưng sự thực câu chuyện của Conway, sau khi suy nghĩ kỹ, tôi thấy nó hấp dẫn tôi quá thể. Tôi bắt đầu bằng cách: Sau những lúc trò chuyện với Conway trên tàu, tôi đều ghi chép lại để khỏi quên đi những chi tiết; về sau, vì một số mặt của sự việc bắt đầu cuốn hút tôi, thôi thúc tôi phải làm nhiều hơn nữa, phải đem những điều đã ghi chép được cùng những mẩu nhớ lại đúc thành một câu chuyện mạch lạc. Làm như vậy, tôi không muốn nói là tôi bịa đặt hoặc thay đổi một chút gì. Đã có rất nhiều tư liệu qua những điều Conway kể cho tôi nghe: Anh ta vốn là một người ăn nói lưu loát, có tài truyền cảm khẩu khí của câu chuyện. Và tôi nghĩ tôi cũng bắt đầu cảm thấy mình đã hiểu con người anh ta."
Nói rồi, anh đi lại phía chiếc cặp da, lấy ra một tập bản thảo đã đánh máy. "Này đây, những tài liệu mà anh vừa nói, anh mang về có thể sử dụng theo ý muốn của anh."
"Như vậy, tôi nghĩ là anh cho tôi không tin vào câu chuyện anh đã kể?"
https://thuviensach.vn
"Ồ, không hẳn như vậy, nếu anh tin, thì xin nhớ cho đây sẽ là lý do tuyệt hảo cho Tertullian2[1], anh nhớ nhé? (Bởi vì nó là không thể có được). Một lý lẽ không tồi, có thể như vậy. Hãy cho tôi biết ý nghĩ của anh nhé!"
Tôi cầm tập bản thảo mang về và đọc gần hết nó trên xe lửa. Tôi đã có ý định khi về tới Anh, tôi sẽ gửi trả lại Rutherford, kèm theo một bức thư dài, nhưng chưa kịp gửi nó qua bưu điện thì tôi đã nhận được mấy chữ của anh nói rằng anh đã lại lên đường đi lang thang và trong mấy tháng tới anh sẽ không có địa chỉ nhất định. Anh viết anh sẽ đi Kashmir và từ đây đi về "phía Đông". Tôi không lấy làm ngạc nhiên.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG MỘT
Tuần lễ thứ ba của tháng Năm, tình hình ở Baskul trở nên tồi tệ hơn nhiều và ngày 20, máy bay không lực, qua sự thỏa thuận, đã từ Peshawar đến đây để di tản những kiều dân da trắng. Con số này khoảng tám mươi người và hầu hết đã được chuyên chở yên lành qua vùng núi non hiểm trở bằng những máy bay quân sự thông thường. Một số ít những máy bay khác cũng được sử dụng, trong số đó có một chiếc phi cơ đặc biệt của Tiểu vương Chandapore cho mượn. Trên chiếc phi cơ này, vào khoảng mười giờ sáng hôm ấy có bốn hành khách đáp là: Cô Roberta Brinklow của Hội Truyền giáo Phương Đông; Henry D. Barnard, một người Mỹ, Hugh Conway, Lãnh sự của Nữ hoàng Anh, và đại úy Charles Mallinson, Lãnh sự phó.
Những tên người kể trên sau này được đăng trên báo chí ở Ấn Độ và ở Anh.
Conway ba mươi bảy tuổi. Anh đã công tác ở Baskul hai năm, làm một công việc mà giờ đây qua những sự kiện vừa rồi, có thể coi là bắc yên cho một con ngựa tồi. Một giai đoạn trong cuộc đời anh thể là đã chấm dứt, trong vòng hai tuần lễ nữa, hoặc có thể là sau vài tháng, về phép ở Anh quốc, anh sẽ được cử đến một nơi khác: Tokyo hoặc Tehran, Manila hoặc Muscat; những người làm nghề ngoại giao như anh chẳng bao giờ biết trước cái gì sẽ đến với mình. Anh đã công tác tại Lãnh sự quán suốt mười năm, thời gian khá dài để đánh giá anh sắc sảo, có khả năng hoàn thành những công việc của nhiều người khác. Anh biết rằng, những món bở không bao giờ đến phần mình; nhưng thực cũng có điều để an ủi anh một cách chân thành là không phải chỉ toàn những món cay chua và nghĩ cho cùng, anh cũng không phải con người ham thích những món bở. Anh thích chọn một công việc ít hình thức và khá sinh động, mà thường thì những công việc như vậy không được bở; với con mắt người khác, chắc hẳn họ cho là anh chơi
https://thuviensach.vn
bài quá kém. Sự thực, anh cảm thấy mình đã chơi khá tốt; mười năm qua anh đã làm một công việc đầy những đổi thay và có phần thú vị.
Anh vóc người cao to, nước da bánh mật, mái tóc cắt ngắn màu nâu và cặp mắt xanh đen. Trông anh nghiêm khắc, suy tư trừ lúc anh cười (những lúc như thể không có nhiều lắm và những khi ấy, nom anh như đứa trẻ). Ở gần mắt trái anh thường thấy giật giật nhẹ, nhất là khi anh làm việc quá căng hoặc uống rượu nhiều thì càng thấy rõ. Suốt ngày đêm hôm trước ngày di tản, anh đã luôn tay đóng gói và phá hủy các tài liệu, nên chứng giật giật ấy càng thấy rõ khi anh bước lên máy bay. Anh mệt lử nhưng cũng hết sức vui mừng vì đã xoay sở để được đáp chiếc phi cơ sang trọng của tiểu vương chứ không phải đi những máy bay thường. Anh cho phép mình ngả người thoải mái trên chiếc ghế mấy lúc máy bay cất cánh vút lên cao. Anh là con người đã quen chịu đựng gian khổ và ít mong có được những tiện nghi để bù lại. Anh có thể sẽ vui vẻ chịu đựng gian khổ trên đường đi tới Samarkand, nhưng còn từ London đi Paris anh sẽ tiêu món tiền mười bảng cuối cùng để đáp máy bay Mũi Tên Vàng.
Máy bay bay được hơn một tiếng đồng hồ thì Mallinson nói anh ta nghĩ anh phi công đã đi chệch đường. Mallinson ngồi ngay phía trước. Anh là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, đôi má đỏ hồng, thông minh, nhưng chưa phải là trí thức, còn nặng những hạn chế cũng như những tốt đẹp của nhà trường. Trượt thi là nguyên nhân chính đã khiến anh bị điều đến Baskul và anh đã cùng làm với Conway được sáu tháng, và Conway đã bắt đầu mến anh.
Nhưng Conway ngại mệt vì phải nói chuyện trên máy bay, nên anh chi uể oải mở mắt đáp lại mặc cho máy bay muốn bay theo đường nào thì bay, anh phi công hẳn phải biết rõ việc mình làm hơn ai hết.
Nửa giờ sau, khi Conway đã gần thiếp ngủ vì mệt và vì tiếng động cơ máy bay kêu rì rì, Mallinson lại đánh thức anh dậy nói: "Này anh Conway, trước đây tôi cứ nghĩ Fenner lái chuyên bay này?"
"Ồ, thế không phải anh ta ư?"
https://thuviensach.vn
"Người lái vừa quay đầu lại thì tôi thấy đúng là không phải Fenner." "Nhìn qua tấm kính thì khó mà biết rõ được."
"Ồ, vậy thì phải là người khác. Tôi thấy điều đó chẳng có gì quan trọng."
"Nhưng Fenner trước đây có nói chắc chắn với tôi rằng anh ta sẽ lái chuyến này cơ mà?"
"Hẳn người ta đã thay đổi ý kiến và thay anh ta bằng một người khác." "Vậy, người ấy là ai mới được chứ?"
"Chú em ơi! Làm sao tôi biết được? Chú nghĩ là tôi nhớ tên tất cả các sĩ quan phi công trong không lực ư?"
"Tôi quen rất nhiều người trong bọn họ, mà tôi cũng không nhận ra người này là ai."
"Hẳn người này nằm trong số ít người mà chú không biết đây thôi." Conway mỉm cười và nói thêm: "Để khi tới Peshawar, chú có thể làm quen với anh ta rồi hỏi anh ta là ai?"
"Cứ kiểu này thì chúng ta sẽ không tới được Peshawar. Đích xác là anh này đã đi chệch đường bay. Mà tôi cũng không lấy làm lạ - bay trên độ cao khủng khiếp này thì anh ta nhận sao ra được mình đang ở đâu."
Conway nín thinh. Anh đã quen đi lại bằng đường hàng không nên cho đó là điều tất nhiên. Vả lại, anh cũng chẳng có điều gì riêng mà hăm hở vội vã đến Peshawar; chuyến bay hết bốn giờ hay sáu giờ đối với anh cũng chẳng đáng quan tâm. Anh chưa lập gia đình. Đến Peshawar anh cũng sẽ chẳng có ai thân thiết ra đón chào. Anh có bạn bè ở đây, đến Peshawar, một số họ có thể sẽ kéo anh đến câu lạc bộ để uống bia, cũng vui đây, nhưng không phải vì thế mà anh phải thở dài trước vì chuyên bay chậm trễ.
Mà anh cũng không thở dài khi nhìn lại quá khứ; mười năm vừa qua, nhìn lại, anh cũng thấy nó thú vị đây, tuy không phải là một cảnh tượng hoàn
https://thuviensach.vn
toàn thích thú. Thay đổi luôn, có những quãng thời gian khá thú vị, trở nên có phần không ổn định; đây là bản tóm tắt thời tiết của chính anh trong thời gian ấy cũng như của thế giới. Anh nghĩ đến Baskul, đến Bắc Kinh, Macao và nhiều nơi khác - anh thường di chuyển luôn. Xa xôi nhất là Oxford, nơi anh đã làm công tác giảng dạy trong vài năm sau Chiến tranh, giảng dạy về lịch sử Phương Đông, nơi anh đã từng hít bụi trong những thư viện đầy ánh nắng, đã từng tòng teng chiếc xe đạp dạo xuống vùng xuôi. Cái hình ảnh gợi lại đã hấp dẫn anh, nhưng không làm được anh xao động; với một ý nghĩa nào đó, anh cảm thấy mình vẫn là một phần của tất cả những gì anh đã có thể trở thành.
Một cảm giác lộn ruột quen thuộc cho anh biết máy bay bắt đầu hạ thấp. Anh định mắng cho Mallinson mấy câu về sự bồn chồn lúc nãy, và có lẽ anh đã mắng rồi nêu anh thanh niên không đột nhiên đứng ngay dậy, đầu chạm vào trần buồng máy bay, lay lay đánh thức anh Barnard, người Mỹ, đang gà gật ngủ ở ghế hàng bên kia lối đi.
"Trời ơi!." Mallinson kêu lên, mắt nhìn qua cửa sổ. "Mọi người hãy nhìn xuống bên dưới xem kìa!"
Conway đưa mắt nhìn. Quang cảnh bên dưới không phải là quang cảnh mà anh chờ đợi, nếu như thực sự anh có chờ đợi. Không phải là những doanh trại gọn ghẽ, bố trí vuông vắn với những khu nhà để máy bay hình thuôn; không nhìn thấy gì ngoài một làn sương mù mờ đục che phủ, một vùng hoang vu mênh mông mang màu nâu sẫm. Máy bay tuy đang lao xuống thực nhanh, nhưng vẫn còn ở một độ cao khác với những chuyến bay thường. Nhìn thấy những dãy núi lớp lớp chạy dài, có lẽ gần hơn đường mờ đầy mấy của các khu thung lũng khoảng đến một dặm. Đây là quang cảnh điển hình của một vùng biên giới, tuy Conway chưa hề nhìn thấy bao giờ từ trên một độ cao như vậy. Anh cũng lấy làm lạ nhìn mãi vẫn không thể nhận ra đây là một vùng nào gần Peshawar.
"Tôi không nhận ra đây thuộc vùng nào trên thế giới," anh nói. Rồi kín đáo, vì sợ sẽ làm những người khác hoảng sợ, anh ghé tai Mallinson nói:
https://thuviensach.vn
"Hình như chú nghĩ đúng đây. Anh lái này đã bay lạc đường thì phải."
Chiếc phi cơ lao xuống cực nhanh khiến không khí bốc nóng hơn, vùng đất cháy xém ở dưới như một cái lò khói. Bỗng nhiên cửa mở bật ra. Những đỉnh núi, đỉnh nọ tiếp đỉnh kia nhô lên trên đường chân trời với những hình bóng lởm chởm. Giờ đây máy bay bay dọc theo một thung lũng cong cong, dưới đáy lởm chởm những tảng đá và những mảnh vụn của các con suối đã khô cạn. Nom chẳng khác gì một nền nhà rải rác những vỏ quả hạnh nhân. Máy bay xóc nảy lên trong những túi không khí khiến thấy khó chịu chẳng khác gì con thuyền gặp vùng nước xoáy. Cả bốn người đều phải bám ghì lấy ghế ngồi.
"Như họ muốn hạ cánh thì phải!" Anh chàng người Mỹ hét lên giọng khàn khàn.
"Không thể được!" Mallinson đáp lại. "Có điên mới tính chuyện hạ cánh. Sẽ va vào núi mà tan xác.
Nhưng anh chàng phi công đã hạ cánh thực. Một khoảnh đất nhỏ quang đãng bên cạnh một rãnh sâu, thực khéo léo tuyệt vời mới làm được chiếc phi cơ nảy xóc rồi đứng dừng bặt lại. Nhưng cái gì xảy ra sau đó lại còn rắc rối và đáng lo sợ hơn. Từ bốn phía, một bầy những thổ dân, người nào cũng rậm râu và đội khăn xông ra, vây quanh chiếc máy bay và ngăn không cho một người nào bước chân xuống trừ người lái. Anh phi công nhảy xuống đất và nói chuyện rất sôi nổi với đám người kia. Lúc này mới thấy rõ anh ta không phải là Fenner, càng không phải là một người Anh, thậm chí không phải là một người châu Âu nữa. Rồi những can xăng được lấy từ một nơi nào gần đó đem đến đổ vào những cái két rất to.
Bốn người bị cầm tù trên máy bay tha hồ mà la hét, đáp lại chỉ có những cái cười nhe răng ngạo mạn và sự yên lặng không đếm xỉa đến họ. Còn nếu ai hơi có ý định nhảy xuống liền thấy hàng chục họng súng chĩa vào đe dọa. Conway vốn biết một ít tiếng thổ dân Pushtu, cố gắng tìm lời lẽ nói với đám người nọ, nhưng cũng vô hiệu; còn câu trả lời duy nhất của viên phi công với những ý kiến của bất kỳ ai nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào cũng
https://thuviensach.vn
chỉ là mũi súng ngắn hoa lên đầy ý nghĩa. Nắng giữa trưa hun nóc buồng khách chiếc phi cơ, nung đốt không khí bên trong buồng máy bay khiến mấy người khách trong đó muốn xỉu đi vì nóng và vì la hét đã mệt người. Họ đành bất lực bởi điều kiện bắt buộc người di tản không được mang theo vũ khí.
Khi cuối cùng, các két xăng đã được vít chặt, một can nước ấm được đưa qua một cửa sổ cabin. Không câu hỏi nào được trả lời, tuy xem ra đám người bên ngoài không có vẻ tỏ ra thù địch đối với mấy người trên máy bay. Sau một hồi thảo luận nữa, viên phi công leo lại lên buồng lái, một người Pathan (Dân tộc Afghanistan ở vùng gần Pakistan) lóng ngóng quay cánh quạt và chuyến bay lại tiếp tục. Việc cất cánh máy bay ở một khu đất hẹp, lại thêm một khối xăng, còn tài tình hơn việc hạ cánh. Máy bay bay vút lên cao và trong một vùng hơi nước mờ mịt quay hướng về phía Đông như đã định được hướng đi. Lúc ấy vào giữa buổi chiều.
Một việc làm hết sức lạ lùng và khó hiểu!
Tỉnh lại vì không khí mát hơn tất cả bốn người không thể tin được sự việc vừa xảy ra là có thực; đây là một sự vi phạm, một sự xúc phạm trắng trợn mà không một ai thấy xảy ra tương tự từ trước đến nay trong tất cả những sự kiện hỗn loạn ghi được ở vùng biên giới. Thực thế, sự việc vừa xảy ra không thể tin được nêu chính bản thân họ không phải là nạn nhân. Tất nhiên, sau những phút ngỡ ngàng khó tin là sự phẫn nộ cao độ và chỉ khi sự phẫn nộ nguôi đi mới đến chuyện suy đoán trong lo âu. Mallinson đưa ra thuyết cũng dễ chấp nhận nêu không có ai có ý kiến khác: Đây là một vụ bắt cóc để tống tiền. Thủ thuật này không có gì là mới, tuy cách làm phải coi là độc đáo. Phần nào được an ủi khi cảm thấy đây là một câu chuyện không hoàn toàn mới tinh; dù sao thì trước đây cũng đã từng xảy ra nhiều vụ bắt cóc và hầu như đều kết thúc yên lành. Đám thổ dân giữ nhốt anh trong một hang núi nào đó cho đến lúc Chính phủ trả tiền và thế là anh được thả. Anh sẽ được đối xử rất lịch sự vì tiền để trả không phải tiền túi của anh, toàn bộ sự việc chỉ khó chịu trong suốt thời gian nó xảy ra mà thôi. Sau đó, tất
https://thuviensach.vn
nhiên, không quân sẽ cử một phi đội đến thả bom, còn anh có được câu chuyện khá hấp dẫn để kể lại suốt đời. Mallinson đưa ra thuyết của mình với thái độ bực dọc; còn Barnard, anh chàng người Mỹ lại tỏ ra hết sức hài hước. Anh ta nói: "Vâng, thưa các ngài, tôi dám nói đây là một ý kiến ngộ nghĩnh của một kẻ nào đó, nhưng tôi không thể nhận thấy không lực của các ngài đã yểm hộ mình một cách đầy vinh quang. Người Anh các ngài vẫn thường chế giễu các vụ cướp đường ở Chicago cùng nhiều nơi khác bên Mỹ, song tôi không hề thấy có, một tên cướp đường nào đã nẫng đi mất một chiếc máy bay của Chú Sam. Và tôi muốn biết, tên không tặc này đã thực sự làm gì anh phi công. Tôi đoán chắc nó đã đập chết anh ta." Nói xong, anh chàng ngáp dài. Barnard, vóc người to béo, gương mặt đầy nếp nhăn, mà những nếp vui hài hước không bù đắp lại được những nét bi quan. Không một ai ở Baskul biết rõ anh ta ngoài việc anh ta đã từ Ba Tư tới và đâu như ở đây, anh chàng có dính dáng gì đến công việc dầu khí.
Trong lúc ấy, Conway bận bịu với một công việc rất thực tế. Anh đã thu góp tất cả những mẩu giấy mà mấy người có được để viết ra những lời kêu gọi bằng nhiều thứ tiếng thổ dân để quãng quãng lại ném xuống. Cơ may thực cũng mỏng manh vì đây là một vùng rất thưa thớt dân cư, nhưng đó vẫn là một việc đáng làm.
Người thứ tư, cô Brinklow, chỉ ngồi mím môi, lưng ưỡn thẳng, rất ít nói và cũng rất ít than phiền. Cô ta người nhỏ nhắn, một phụ nữ khá cứng cỏi, với một vẻ như bị bắt buộc phải tham dự vào một hội nghị mà có những ý kiến cô không thể hoàn toàn tán đồng.
Conway nói ít hơn hai người đàn ông kia vì dịch những thông điệp SOS ra tiếng thổ dân là một công việc tinh thần đòi hỏi phải tập trung tư tưởng. Tuy nhiên, khi được hỏi, anh cũng đáp lại và có khuynh hướng đồng ý với Mallinson về thuyết họ bị bắt cóc. Anh phần nào tán đồng những lời chỉ trích của Barnard đối với Không lực Anh quốc. "Mặc dù vậy, sự việc vẫn rất có thể xảy ra. Ở một nơi đang xáo động như thể, người ăn vận quần áo phi công lái máy nom rất giống những người khác. Không ai lại nảy ra ý ngờ
https://thuviensach.vn
vực cái ý tốt của một người ăn vận đúng quần áo phi công, tỏ ra thạo công việc. Và anh chàng này hẳn phải thạo: Biết ra hiệu lệnh,... Và rõ ràng hắn còn biết lái. Tuy nhiên, tôi cũng đồng ý với các bạn đây là một sự việc khiến một anh chàng nào đó sẽ bị phiền nhiễu đây. Và chắc chắn có một anh chàng sẽ phải chịu vạ, dù tôi cho rằng anh ta không đáng tội."
"Vâng, thưa ông," Barnard đáp, "Tôi rất khâm phục cách nhìn cả hai mặt của vấn đề. Đây đúng là tinh thần người ta cần có ngay cả khi anh bị chế giễu."
Conway nghĩ bụng: Người Mỹ họ có tài khéo nói với vẻ bề trên mà vẫn không làm người nghe phật ý. Anh mỉm cười độ lượng, nhưng không nói tiếp. Cái mệt mỏi nơi anh là thứ mệt mỏi mà không có nguy nan nào làm dẹp đi được. Vào khoảng chiều muộn, khi Barnard và Mallinson vừa đã tranh cãi với nhau, nay định hỏi Conway về một điểm nào đó thì thấy anh đã ngủ thiếp đi rồi.
"Anh ấy bị mệt quá đây!" Mallinson nói, "Tôi không lạ gì vì mấy tuần nay anh ấy đã phải làm việc quần quật."
"Anh là bạn của ông ta à!" Barnard hỏi.
"Tôi cũng làm việc với anh ấy ở Tòa lãnh sự. Tôi biết suốt bốn đêm cuối cùng vừa qua, anh ấy đã không chợp mắt. Tất nhiên, chúng ta thực may mắn hết sức vì có anh ấy trong lúc khó khăn như hiện nay. Ngoài việc biết nhiều ngoại ngữ, anh ấy còn có tài đối xử với mọi người. Người có thể sẽ gỡ cho chúng ta khỏi khó khăn này hẳn phải là anh ấy. Trong mọi trường hợp, anh ấy đều rất bình tĩnh."
"Ồ, vậy thì cứ để anh ấy ngủ." Barnard nói.
Cô Brinklow lúc này cũng đưa ra một lời nhận xét hiếm hoi: "Tôi thấy trông anh ấy đúng là một con người dũng cảm."
Conway không chắc chắn lắm về điều trước đây mình là một con người rất dũng cảm. Anh nhắm mắt chỉ vì người anh mệt mỏi chứ không thật sự
https://thuviensach.vn
ngủ. Anh vẫn nghe và cảm thấy mọi động tác của chiếc máy bay và anh cũng đã nghe thấy với những cảm xúc lẫn lộn, những điều Mallinson ca ngợi anh. Vừa lúc đó, anh thấy bản thân mình có điều nghi ngờ qua cái cảm giác căng thẳng nơi dạ dày, cái cảm giác phản ứng của cơ thể mỗi khi anh có điều gì không được ổn trong suy nghĩ. Qua kinh nghiệm, anh thấy rõ mình không phải là một con người thích mạo hiểm chỉ vì mạo hiểm. Trong nguy hiểm, có một khía cạnh mà đôi khi anh thích thú đó là sự kích thích, cái cảm giác có tác dụng tẩy rửa đi những xúc cảm ủy mị, yếu ớt, nhưng anh không hề thích thú sự liều lĩnh sinh mạng của mình. Mười hai năm trước đây anh đã lớn lên, biết căm thù những hiểm họa của cuộc chiến tranh trong hào lũy ở Pháp; nhiều lần anh đã tránh được cái chết vì không dại đột làm những việc không thể làm được để tỏ ra dũng cảm. Ngay cái huân chương D.S.O3[1] anh giành được cũng không phải do can đảm về cơ thể nhiều lắm mà bằng một thứ kỹ thuật mới phát triển là sự chịu đựng. Và từ thời chiến tranh mỗi khi gặp một nguy nan, anh thường đương đầu với nó mỗi ngày một kém thích thú, trừ trường hợp nó hứa hẹn những sự rung động kỳ lạ.
Anh vẫn nhắm mắt. Anh cảm động và có phần hơi buồn về những điều anh vừa nghe Mallinson nói. Số phận cuộc đời anh là người ta thường lầm coi thái độ trầm tĩnh của anh là lòng dũng cảm, trong khi thực ra đây chỉ là một cái gì đó thiếu thiết tha nhiều hơn là cương cường gan dạ. Tất cả những khi ấy theo anh, dường như đều là những lúc anh lâm vào một hoàn cảnh khó xử, và không hề có gì là dũng cảm lắm, anh chỉ cảm thấy chủ yếu là ghê tởm những gì có thể còn gây ra phiền nhiễu. Chẳng hạn, có cô Brinklow. Anh nhìn thấy trước trong một số hoàn cảnh nhất định anh sẽ phải hành động với giả thiết cho rằng cô ta là một phụ nữ, nên cô ta còn quan trọng hơn mấy người kia cộng lại, và anh chùn lại trước một hoàn cảnh mà cách xử sự không cân xứng như vậy có thể là không thể tránh được.
Tuy nhiên, khi tỏ ra dấu hiệu anh đã thức dậy thì người đầu tiên anh nói chuyện với lại chính là cô Brinklow. Anh biết rằng cô ta không còn trẻ và cũng không xinh đẹp - hai đức tính tiêu cực nhưng cực kỳ hữu ích trong những bước gặp khó khăn như sắp tới đây họ sẽ gặp phải. Anh có phần lấy
https://thuviensach.vn
làm buồn cho cô, vì anh nghĩ cả Mallinson cùng anh chàng người Mỹ nọ đều không ưa thích những nhà truyền giáo, nhất là khi những người ấy lại là phụ nữ. Bản thân anh, anh không có thành kiến, nhưng anh e rằng, cô ta sẽ nhận thấy cái tính tình cởi mở kém thân thiện của anh và thậm chí vì thế coi đây là một hiện tượng khó xử.
"Chúng ta dường như đang gặp phải một hoàn cảnh khó khăn kỳ lạ", anh rướn người về phía trước, ghé vào tai cô Brinklow nói: "Nhưng tôi rất vui mừng vì thấy cô tỏ ra rất bình tĩnh. Tôi thực sự không nghĩ có điều gì đó dễ sợ sắp xảy ra cho chúng ta."
"Tôi tin chắc nó sẽ không xảy ra nếu anh có thể ngăn trước được nó", cô ta đáp lại, và câu trả lời ấy đã không khiến được anh an tâm.
"Cô phải nói cho tôi biết xem chúng tôi có thể làm được điều gì để cô yên tâm hơn."
Barnard nghe được từ "yên tâm" liền lặp lại giọng khàn khàn: "Ồ, tất nhiên, chúng ta đều rất yên tâm. Chúng ta đang tiến hành một cuộc hành trình thú vị. Tiếc là không có một cỗ bài ở đây để chúng ta có thể chơi một ván."
Conway hoan nghênh tinh thần của câu nói, mặc dầu anh không thích chơi bài. "Tôi nghĩ cô Brinklow đây không chơi bài" anh vừa nói vừa mỉm cười.
Nhưng nhà truyền giáo nhanh nhẹn quay lại đáp: "Quả thực, tôi vẫn hay chơi bài và tôi không hề thấy có gì hại trong việc làm đó. Trong Kinh Thánh không có ngăn cấm chơi bài."
Tất cả mọi người phá lên cười, dường như để cám ơn cô đã tạo ra cho họ một cái cớ. Conway nghĩ, dù sao thì cô ta cũng không quá cuồng tín.
Suốt buổi chiều máy bay đã bay xuyên qua lớp sương mù mỏng của tầng cao khí quyển, ở độ quá cao, khiến không nhìn thấy rõ những gì ở bên
https://thuviensach.vn
dưới. Đôi khi, lâu lâu, lại thấy bức màn sương bị rách một mảng để lộ ra đường nét lởm chởm của một đỉnh núi, hoặc ánh lấp lánh của một dòng nước không quen biết. Chỉ có thể xác định đại khái hướng bay bằng cách nhìn hướng mặt trời; máy bay vẫn bay về hướng Đông, đôi khi quay một chút về hướng Bắc, nhưng còn đi đến đâu thì tùy thuộc vào tốc độ chuyến bay, mà Conway không thể ước tính được chính xác. Tuy nhiên, dường như bay lâu như thể này đã tốn khá nhiều xăng, tuy tốn bao nhiêu lại còn tùy vào nhiều yếu tố không chắc chắn. Conway không biết mấy về kỹ thuật hàng không, nhưng có điều anh biết chắc anh phi công này bất kể là ai, cũng là một tay lái cừ khôi. Cứ xem việc đỗ xuống nghỉ ở chỗ thung lững lởm chởm đầy đá vừa qua là đủ rõ, và còn mấy sự việc khác xảy ra sau đó. Và Conway không thể xua đi được cái cảm giác, ở anh bao giờ cũng vậy, khi anh được chứng kiến một tài năng tuyệt vời không phải bàn cãi. Anh vốn quen ưa thích giúp đỡ người khác nên chỉ biết được một ai đó không hỏi và không cần sự giúp đỡ là anh thấy yên tâm, ngay dù sắp tới có đầy rẫy những tình huống phức tạp. Nhưng anh không nghĩ rằng các bạn cùng đi với anh cũng có cái cảm xúc tế nhị như vậy. Anh thừa nhận họ hẳn có những lý do riêng để lo lắng hơn anh. Mallinson, chẳng hạn, anh ta đã đính hôn với một cô gái tại Anh; Barnard có thể đã có gia đình; cô Brinklow có công việc hoặc thiên hướng của cô. Ngẫu nhiên, Mallinson lại là người ít bình tĩnh nhất; mỗi lúc anh một trở nên bực bội hơn - thậm chí còn bực tức với ngay cả cái vẻ bình tĩnh trên gương mặt Conway, điều mà anh vẫn ca ngợi lúc vắng Conway. Có lần, những lời lẽ tranh cãi nổ ra to đến át cả tiếng động cơ. Mallinson giận dữ hét lên: "Đây, thế chúng ta đành cứ phải khoanh tay trong lúc cái thằng điên kia muốn làm gì thì làm ư? Cái gì đã ngăn chúng ta không đập vỡ kính để quẳng cả cái thằng điên kia đi nhân thế?"
"Chẳng có gì ngăn hết," Conway đáp lại "trừ việc hắn có súng mà chúng ta lại tay không, vả lại, quẳng hắn đi thì sau đó không một ai trong chúng ta biết lái đưa máy bay hạ cánh xuống đất."
"Chắc chắn cũng chẳng khó lắm. Tôi dám nói là anh có thể làm được việc đó."
https://thuviensach.vn
"Mallinson thân yêu của tôi ơi, tại sao lúc nào chú cũng nghĩ rằng tôi có thể làm được những phép lạ ấy?"
"Ồ, dù sao thì việc này cũng khiến tôi bực mình vô cùng. Liệu chúng ta có hạ thủ được hắn không?"
"Thế chú bày cho tôi nên làm cách gì bây giờ?"
Mỗi lúc Mallinson lại bị kích động hơn. "Này nhé, hắn đang ngồi kia phải không? Cách chúng ta chỉ hơn một mét, mà chúng ta lại có ba người chọi một! Chẳng lẽ cứ chịu giương mắt nhìn thằng điên ấy ư? ít nhất thì cũng bắt được nó khai ra cái trò này là trò gì?"
"Được, hãy thử xem." Conway nói rồi bước mấy bước lại gần tấm chắn giữa buồng khách và buồng lái, buồng lái ở phía trước cao hơn một chút. Tấm kính chắn khoảng sáu inch, vuông và có rãnh để gạt mở, qua đó người lái khi quay đầu và hơi cúi xuống một chút có thể nói chuyện được với hành khách ở buồng dưới. Conway lấy khớp đốt ngón tay gõ vào tấm chắn. Câu trả lời thực nực cười như anh đã nghĩ trước. Tầm kính được gạt sang một bên và một họng súng nhô ra. Không một lời nói, có vậy thôi. Conway lui lại không bàn cãi gì hết và tấm kính lại được gạt trở lại.
Mallinson đứng nhìn chỉ phần nào dịu đi. Anh nói: "Tôi cho là nó không dám bắn đâu. Đây có thể chỉ là một mánh khóe lừa bịp."
"Đúng vậy", Conway nói nhưng mình muốn để chú thử xem cho chắc chắn.
"Ồ, tôi nghĩ chúng ta dù sao cũng phải bằng cách nào đó chiến đấu chứ không chịu bó tay ngoan ngoãn như thế này."
Conway thông cảm với anh. Anh biết rõ cái quy ước nọ cùng tất cả những liên quan của nó với anh lính áo đỏ và những cuốn sách lịch sử nhà trường, là người Anh không sợ gì hết, không bao giờ đầu hàng và không bao giờ chịu bị đánh bại. Anh nói: "Xông vào đánh nhau mà không có một chút
https://thuviensach.vn
cơ may nào để thắng thì quả là một trò chơi tồi, tôi không phải là thứ anh hùng như vậy."
"Ngài nói hay lắm!" Barnard vui vẻ nói xen vào. "Khi anh bị một kẻ tóm được gáy thì anh có thể vui vẻ và chịu thua cũng được. Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui vẻ với cuộc sống chừng nào nó còn tồn tại và hút xì gà. Tôi hy vọng ông không thấy một sự nguy hiểm thêm nào khiến chúng ta phải quan tâm."
"Với tôi thì không, nhưng nó có thể làm phiền cô Brinklow."
Barnard mau mồm sửa lại, anh nói: "Xin lỗi bà, nhưng bà có lấy làm phiền không nếu tôi hút thuốc ở đây?"
"Không hề sao," cô Brinklow dịu dàng đáp, "Bản thân tôi không hút, nhưng tôi lại ưa ngửi mùi thơm của xì gà."
Conway thấy trong số tất cả những người phụ nữ có thể nói lên được một câu như vậy thì cô Brinklow là người tiêu biểu nhất. Dù sao thì lúc này cơn kích động của Mallinson cũng đã dịu đi một chút, và để tỏ tình thân thiện, anh đưa mời Conway một điếu thuốc lá, tuy anh không châm lửa để mình hút. Conway dịu dàng nói: "Anh biết rõ tình cảm của chú. Chúng ta đang ở vào một hoàn cảnh xấu, và theo một ý nghĩa nào đó, thì hoàn cảnh này thực hết sức tồi tệ, vì chúng ta không còn cách gì có thể làm để tự giải thoát."
"Theo cách khác thì cũng càng tốt," anh không thể không nói thêm với chính mình, vì anh vẫn còn cực kỳ mệt. Trong bản chất anh cũng có một nét mà một số người có thể gọi đây là lười nhác, tuy không hẳn là như vậy. Không ai có thể làm việc tích cực hơn anh, khi có công việc phải làm và cũng không ai có tính thần trách nhiệm hơn anh; nhưng sự thể vẫn là anh không thiết tha hoạt động cho lắm và cũng không thích thú gánh vác trách nhiệm chút nào. Cả hai thứ ấy đều thể hiện trong việc làm của anh và anh đã hoàn thành tốt nhất cả hai, song anh luôn sẵn sàng nhường chỗ cho ai đó, nếu họ có thể làm được như anh hoặc tốt hơn. Chắc phần nào vì thế mà
https://thuviensach.vn
thành tựu của anh trong những năm làm việc tại Vụ không được nổi bật đáng như nó phải đạt. Anh không phải là con người nhiều tham vọng để xô đẩy vượt người khác, và cũng không phải là con người làm ra vẻ quan trọng, phô trương ta đây không làm gì khi thực sự không có gì để làm. Những công văn giấy tờ anh thảo đôi khi ngắn gọn đến mức cộc lốc, và thái độ bình tĩnh của anh trong những trường hợp khẩn cấp, tuy được nhiều người khen ngợi, nhưng nhiều khi vẫn bị nghi là không thành thực. Quyền lực muốn cảm thấy con người phải tự căng mình ra, và vẻ bề ngoài thờ ơ lạnh nhạt của anh chỉ là một cái áo choàng che kín những xúc cảm bên trong của con người có giáo dục. Với Conway, thường có những kẻ đen tối nghi kỵ cho là anh thực sự thờ ơ với công việc như vẻ bề ngoài, anh vẫn tỏ ra là bất kỳ sự việc gì xảy đến anh cũng kệ thấy. Nhưng những nhận xét này cũng như ý nghĩ cho là anh lười nhác, đều không thật sự đúng. Điều mà hầu hết những người quan sát bề ngoài không nhận thấy ở anh là một cái gì hoàn toàn đơn giản: Đó là anh thích sự yên tĩnh, suy tư và được ở một mình.
Giờ đây, vì tính nết anh như vậy và lúc này lại không có việc gì làm, nên anh tựa lưng vào chiếc ghế mây thiêm thiếp ngủ. Khi thức giấc, anh thấy mấy người kia, mặc dầu mỗi người đều có những băn khoăn lo lắng riêng, nhưng vẫn ai nấy đều đã ngủ cả. Cô Brinklow ngồi thẳng người, mắt nhắm lại như một thần tượng lỗi thời và xám xịt; Mallinson thì cúi người về phía trước, một bàn tay chống cằm. Anh chàng người Mỹ thậm chí còn ngáy to. Họ cũng rất biết điều đây, Conway nghĩ bụng, việc gì mà cứ la hét lên để cho mệt người. Nhưng lập tức, trong cơ thể anh, anh cảm thấy hơi chóng mặt, tìm đập hơi mạnh và anh như gắng sức hít vào thực mạnh. Anh nhớ lại đã có lần trước kia anh cũng có những triệu chứng này – hồi ở trên núi Alps bên Thụy Sĩ.
Rồi anh quay về phía của sổ nhìn ra ngoài. Bầu trời xung quanh hoàn toàn quang đãng và trong ánh sáng buổi chiều tà, trước mắt anh hiện ra một cảnh tượng mà lúc này đã cuốn cạn đi chút hơi thở còn lại trong phổi anh. Xa từ đằng kia, tại nơi giới hạn của tầm xa, là trùng điệp những dãy núi phủ tuyết với những con sông đóng băng cuốn kết như những tràng hoa, những
https://thuviensach.vn
con sông đóng băng trông như đang bập bềnh nổi trên lớp lớp mây mông mênh. Những lớp mây phủ kín toàn bộ vòng cung của đường tròn hòa lẫn vào nhau về phía Tấy nơi đường chân ười là những màu sắc lòe loẹt, chói lọi, chẳng khác gì một tấm phông phong cách ấn tượng, tác phẩm của một thiên tài nửa điên dại. Và trong lúc đó, trên tầng cao kỳ lạ, tiếng động cơ kêu vo vo, chiếc máy bay bay trên một vực thẳm, trước mặt là một bức tường trắng toát, tưởng như một mảng của chính bầu trời cho đến lúc ánh nắng rọi tới. Và khi ấy, giống như hàng chục khu nghỉ Jungfraus4[1] chồng chất lên nhau nhìn từ Mürren5[2], bức tường bốc cháy thành một vùng sáng chói hừng vĩ lóa mắt.
Conway không phải là con người dễ bị gấy ấn tượng và như một thông lệ, anh không quan tâm đến những "cảnh", đặc biệt những cảnh nổi tiếng hơn mà nhiều thành phố quan tâm đã tạo ra địa điểm công viên. Đã có một lần anh được người ta đưa lên ngọn đồi Con Hổ, gần Darjeeling6[3], để ngắm cảnh mặt trời mọc trên ngọn Everest7[4] và anh đã thất vọng với ngọn núi cao nhất thế giới. Nhưng cái cảnh tượng dễ sợ ở bên kia tấm kính cửa sổ lúc này lại ở cỡ khác; nó không có vẻ được bày đặt ra để chiêm ngưỡng. Những vách băng quyết liệt nọ có một cái gì thô và ghê tởm, và khi tiến lại gần chúng là cả một sự liều lĩnh siêu phàm. Anh ngẫm nghĩ, mường tượng lại những tấm bản đồ, tính khoảng cách, ước lượng thời gian và tốc độ. Rồi anh thấy Mallinson cũng thức giấc. Anh chạm vào tay chàng thanh niên.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG HAI
Một nét đặc biệt của Conway là cứ để mọi người tự thức dậy và không nói năng gì khi họ thốt lên những lời tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng về sau, khi Barnard hỏi ý kiến anh, thì anh nói với vẻ lưu loát tự nhiên của một giáo sư đại học đang giải thích một vấn đề. Anh nói theo anh nghĩ, có thể vẫn còn ở trong địa phận Ấn Độ; máy bay bay về hướng Đông đã nhiều giờ, bay ở độ quá cao nên không thể nhìn thấy gì mấy, song chắc có thể đường bay là theo một thung lũng có sông, chạy dài từ Đông sang Tây.
"Tôi muốn tôi không phải dựa vào trí nhớ, mà tôi có cảm giác đây là khu thung lũng ở mạn thượng lưu sông Indus. Nếu vậy thì chúng ta đã được đưa đến một vùng rất ngoạn mục của thế giới và như các bạn thấy đây, thực là ngoạn mục."
"Vậy, thế anh có biết đây là nơi nào không?" Barnard ngắt lời Conway và hỏi.
"Ồ, không - trước đây, tôi chưa hề đến gần vùng này bao giờ nhưng tôi cũng sẽ không lấy làm lạ nếu đây là dãy núi Nanga Parbat, nơi anh chàng Mummery đã bỏ mạng. Về câu trúc và hình dáng chung thì dường như cũng ăn khớp với tất cả những gì tôi đã được nghe nói về dãy núi này."
"Thế anh cũng là một nhà leo núi ư?"
"Hồi ít tuổi hơn, tôi từng thích môn thể thao này. Có điều, tất nhiên, tôi chỉ thường leo ở Thụy Sĩ mà thôi."
Mallinson cáu kỉnh nói xen vào: "Xin bàn luận về việc rồi đây chúng ta sẽ đi đến đâu, tôi thấy nó còn thiết thực hơn. Cầu Chúa truyền cho người nào có thể nói cho chúng ta biết điều đó."
https://thuviensach.vn
"Ồ, này, tôi thấy hình như chúng ta đang đi về phía rặng núi đằng xa kia phải không, anh Conway?" Barnard nói: "Tôi xin lỗi anh vì tôi đã gọi anh như vậy, nhưng nêu chúng ta sắp cùng mắc vào một chuyên phiêu lưu thì tôi chẳng cần câu nệ cho lắm."
Conway cho việc ai gọi tên mình ra cũng là điều tự nhiên, nên việc Barnard xin lỗi, anh thấy chỉ là một điều vặt không cần thiết.
"Ồ, đúng thế!"
Anh nói và tiếp thêm:
"Tôi nghĩ dãy núi ấy phải là dãy Karakorams. Ở đây có rất nhiều hõm, đèo, nếu anh chàng của chúng ta có ý định vượt qua nó."
"Anh chàng của chúng ta?" Mallinson la lên. "Anh muốn nói thằng điên của chúng ta phải không? Tôi thừa nhận là cái thuyết bắt cóc bấy giờ bị bỏ qua rồi. Chúng ta giờ đây đã đi qua vùng biên giới, quanh đây không còn có bộ lạc nào cư ngụ. Lời giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ được là anh chàng này đích là một thằng đang lên cơn điên. Thử hỏi nếu không điên thì ai lại bay vào vừng này?"
"Tôi biết không có ai, ngoài một phi công tuyệt vời mới có thể làm được việc này." Barnard đáp lại. "Tôi không phải là người thông thạo về khoa địa lý, nhưng tôi cũng biết được những dãy núi này nổi tiếng là cao nhất thế giới, và nêu đúng vậy, thì vượt qua được chúng quả là một thành tích giỏi bậc nhất."
"Và đây cũng là ý muốn của Thượng đế," cô Brinklow bất ngờ nói xen vào.
Conway không nói ra ý kiến của mình. Ý của Thượng đế hay sự điên rồ của con người - anh thấy dường như nếu muốn có đủ lý lẽ xác đáng để giải thích hầu hết mọi sự việc, người ta có thể tùy ý chọn. Hoặc (anh nghĩ đến điều này khi anh ngắm nhìn cái cabin ngăn nắp nhỏ bé in lên trên nền cửa sổ của cảnh tượng thiên nhiên dữ dội ngoài kia) lần lượt là ý muốn của con
https://thuviensach.vn
người và sự điên rồ của Thượng đế. Hẳn được thỏa mãn khi biết chắc phải nhìn sự vật theo cách nào. Và, trong lúc anh còn vừa ngắm vừa suy nghĩ, cân nhắc, thì xảy ra một sự biến đổi kỳ lạ.
Anh sáng trở nên xanh xanh trên toàn bộ triền núi, những khu sườn dưới thấp sẫm lại thành màu tím. Có một cái gì sâu hơn tính bàng quang quen thuộc nổi lên trong anh - không hẳn là sự kích động, càng không phải sợ hãi, mà một sự chờ đợi cực căng thẳng. Anh nói: "Barnard, anh nói đúng đây, sự kiện này mỗi lúc một trở nên đáng chú ý hơn."
"Đáng chú ý hay không, tôi cũng không đưa ra đề nghị ta phải cảm ơn về sự việc này." Mallinson khăng khăng giữ ý kiến của mình. "Chúng ta không yêu cầu họ đưa chúng ta đến đây, và có trời biết chúng ta sẽ phải làm gì khi chúng ta đến nơi ấy, bất kỳ nơi ấy là nơi nào. Và tôi thấy dù cho tên lái này ngẫu nhiên chỉ là một tên lái để phô trương thì sự việc này cũng không vì thế mà thoát khỏi tội vi phạm xấc xược. Ngay cả trường hợp nếu hắn chỉ lái để phô trương, thì hắn vẫn thực sự là một thằng điên. Tôi đã có lần nghe nói về một phi công hóa điên ở trên không trung. Còn thằng cha này hẳn đã điên ngay từ phút đầu. Thuyết của tôi là như vậy, anh Conway ạ."
Conway nín lặng. Anh thấy bực mình với cái lối cứ liên tục la hét át cả tiếng động cơ máy, và nói cho cùng, cứ tranh cãi về những khả năng thì có ích gì. Nhưng khi Mallinson ép anh cho ý kiến, anh nói:
"Chú biết đây, đây là một sự điên loạn được tổ chức rất giỏi. Chú hẳn còn nhớ việc hạ cánh xuống lấy xăng và cả việc đây là chiếc máy bay duy nhất có thể bay lên tới một độ cao như vậy.
"Cái đó không hề chứng minh rằng hắn ta không điên. Hắn có thể điên rồ để tính toán mọi chuyện."
"Phải, tất nhiên, có thể là như thể."
"Ồ, vậy thì chúng ta phải quyết định một phương án hành động chứ. Chúng ta sẽ làm gì đây khi máy bay hạ cánh? Nghĩa là, nếu nó không va vào
https://thuviensach.vn
đâu và giết chết hết chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì? Chạy lại ngợi khen hắn về chuyến bay kỳ diệu chăng!"
"Không đời nào, chừng nào anh còn sống," Barnard đáp lại, "Tôi sẽ nhường để anh làm công việc chạy về phía hắn."
Conway lại tỏ ra không thích kéo dài cuộc tranh cãi, nhất là từ khi anh chàng người Mỹ, một tay khôi hài điềm tĩnh, xem ra rất có thể tự mình xử trí được. Conway đã có ý nghĩ rằng, nhóm người này đã không phải kém phần may mắn được tập hợp. Chi có Mallinson hay gây gổ, mà cái đó một phần cũng do đang ở trên độ cao. Không khí loãng có những tác động khác nhau đến con người; Conway chẳng hạn, ở trên độ cao, anh thấy đầu óc minh mẫn và cơ thể lâng lâng, cảm giác này không có gì là khó chịu. Thực tế, anh hít thở một cách thích thú từng đợt ngắn cái không khí mát lạnh. Đành rằng toàn bộ hoàn cảnh là đáng kinh sợ, song lúc này, anh không thể bực bội về một cái gì đã tiến hành một cách có chủ tâm rõ rệt và với một sức quyến rũ như vậy.
Và trong lúc ngắm nhìn ngọn núi tráng lệ trước mắt trong lòng anh bỗng trào lên một niềm thích thú, vi trên trái đất vẫn còn những nơi như thế này, xa xôi, cao vời vợi mà chưa có dâu chân người. Bức thành băng giá của dãy Karakorams giờ đây in nổi bật hơn bao giờ hết trên nền trời phương Bắc lúc này đã trở nên xám xịt và thê thảm; những ngọn núi lập lòe lạnh buốt, cực kỳ hùng vĩ và xa xôi, ngay cả cái không có tên gọi của chúng cũng mang tính cách oai nghiêm. Mấy nghìn độ cao đã làm thất bại những vị khổng lồ nổi tiếng, thực đã cứu thoát những ngọn núi này khỏi những đoàn người leo núi; chúng không mấy hấp dẫn với những ai muốn đạt kỷ lục. Conway là con người đối lập với những người kiểu ấy; anh vốn coi lý tưởng về những cái gì tuyệt đối, tột bậc của người phương Tây là thô tục và với anh dường như "Cái tối đa cho cái cao nhất" là một ý kiến kém hữu lý hơn và có thể còn tầm thường hơn là câu "cái nhiều cho cái cao". Thực tế anh không quan tâm đến sự cố gắng quá sức và lấy làm chán ngán những thành tích chói lọi.
https://thuviensach.vn
Trong lúc anh còn đang ngắm quang cảnh trước mắt thì hoàng hôn buông xuống, dìm những vùng sâu vào trong bóng tối om đang dâng lên như một thùng thuốc nhuộm. Rồi toàn bộ dãy núi giờ đây gần hơn, nhợt nhạt đi, tiến vào một vùng lộng lẫy tươi mát hơn; mặt trăng tròn trặn nhô lên, lần lượt chạm vào mỗi ngọn núi chẳng khác nào vị thiên thần thắp sáng đèn cho đến lúc đường chân trời dài dặc lấp lánh in trên nền bầu trời lam sẫm. Không khí trở lạnh, gió nổi lên làm máy bay tròng trành. Những hiểm nguy mới này khiến cho mấy người trên máy bay lo lắng; người ta đã không tính đến chuyện máy bay có thể bay tiếp sau lúc nhá nhem tối, và giờ đây chỉ còn hy vọng vào chuyện cạn hết xăng. Tuy nhiên, cái đó phải đến nhanh. Mallinson bắt đầu bàn cãi về việc này, còn Conway phần nào miễn cưỡng bàn, vì anh thực sự không biết, anh chỉ đưa ra ước tính máy bay chỉ có thể bay xa nhất được chừng một ngàn dặm, mà giờ thì đã gần tới con số đó rồi.
"Vậy, chúng ta sẽ bị đưa đến đâu?" Mallinson hỏi vẻ thiểu não.
"Cũng khó nói đích xác, nhưng có lẽ đến một vùng nào đó ở Tây Tạng. Nếu đây là dãy núi Karakorams thì Tây Tạng ở phía bên kia. Một ngọn núi trên dọc đường hẳn là ngọn K2, thường được coi là ngọn núi cao thứ nhì trên thế giới."
"Xếp sau ngọn Everest," Barnard nói, "Kìa, đây là một phong cảnh khá đẹp."
"Và theo quan điểm của nhà leo núi thì nó còn khó leo hơn ngọn Everest. Công tước Abruzzi đã chịu bỏ cuộc và coi đây là một ngọn núi tuyệt đối không thể leo lên được."
"Ối trời!" Mallinson lầm bầm, vẻ bực dọc còn Barnard phá lên cười. "Anh Conway, tôi đoán hẳn anh là hướng dẫn viên chính thức của chuyến đi này, và xin thú thực nếu chỉ được một ly cà phê cô nhắc là tôi xin bất cần đây sẽ là Tây Tạng hay Tennessee.
"Nhưng, rồi đây, chúng ta sẽ làm gì với chuyện này?" Mallinson lại nêu vấn đề ra. "Tại sao chúng ta lại đến đây? Vấn đề là thế nào? Tôi không hiểu
https://thuviensach.vn
tại sao các anh lại có thể đùa cợt về chuyện này được."
"Ồ, thì cũng tốt như gây gổ về nó, anh bạn trẻ ạ. Vả lại, nếu anh chàng nọ đúng là mất trí như anh nghĩ thì có lẽ cũng chẳng có vấn đề gì."
"Hắn phải là thằng điên. Tôi không thấy còn cách giải thích nào khác. Anh Conway, anh nghĩ thế nào?"
Conway lắc đầu.
Cô Brinklow quay ngoắt lại, như cô có thể làm trong lúc giữa giờ giải lao của một vở kịch. "Vì các anh không ai hỏi ý kiến tôi, có lẽ tôi không nên đưa ra nhận xét gì." Cô bắt đầu với giọng khiêm tốn sâu sắc. "Nhưng tôi cần nói rằng tôi cũng có ý kiến như ông Mallinson. Tôi tin chắc anh chàng tội nghiệp này không thể không mất trí. Tất nhiên, tôi nói tới anh chàng phi công. Nếu hắn ta không điên, thực không có gì tha thứ cho hắn được." Cô nói thêm, tiếng nói tự tin, hét to, át cả tiếng máy nổ ầm ầm. "Các ông có biết không, đây là lần đầu tiên tôi đi máy bay! Chuyến đầu tiên của tôi đây! Trước kia không có gì có thể quyến rũ tôi đi máy bay, mặc dù một người bạn của tôi đã hết sức thuyết phục tôi đi một chuyên bay từ London tới Paris."
"Và giờ đây cô lại đang bay từ Ấn Độ sang Tây Tạng," Barnard nói, "Ấy chuyện đời cứ thường xảy ra như vậy đó."
Cô Brinklow nói:
"Ngày trước tôi có quen một nhà truyền giáo đã từng ờ Tây Tạng. Ông ta nói người Tây Tạng rất kỳ lạ. Họ tin rằng loài người xuất phát từ loài khỉ mà ra."
"Thế thì họ thực giỏi."
"Ồ, không, không. Tôi không nói với ý nghĩa của khoa học hiện đại. Họ đã tin như vậy từ mấy trăm năm nay rồi và đây chỉ là một trong những thói mê tín của họ mà thôi. Tất nhiên, bản thân tôi phản đối tất cả những chuyện ấy và theo tôi, Darwin còn tồi tệ hơn người Tây Tạng nhiều. Tôi đứng về phía Kinh thánh."
https://thuviensach.vn
"Chắc dòng Chính thống phải không cô?"
Nhưng cô Brinklow dường như không hiểu ý này.
"Tôi vẫn thuộc về tổ chức LMS," cô rít lên, "Song tôi không đồng ý với họ về vấn đề làm lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh."
Conway tiếp tục cảm thấy đây là một nhận xét khá hài hước, mãi lâu sau, khi anh đã nhận ra LMS là những chữ cái đầu của mấy từ: London Missionary Society (Hội các nhà truyền giáo London). Tuy nhiên, khi hình dung ra những phiền phức trong việc kéo dài sự bàn cãi về thần học ở trạm Euston, anh bắt đầu nghĩ rằng ở cô Brinklow này có một cài gì đó hơi hấp dẫn. Anh ngẫm nghĩ liệu anh có thể đưa cho cô mượn cái áo khoác để cô đỡ lạnh lúc đêm này không, nhưng rồi cuối cùng anh nghĩ vóc người cô có lẽ còn khỏe mạnh cứng cáp hơn anh. Do đó, anh cuộn mình, nhắm mắt lại, rồi nhẹ nhàng, yên tĩnh ngủ thiếp đi.
Chuyến bay vẫn tiếp tục.
Đột nhiên máy bay tròng trành khiến tất cả bốn người giật mình thức giấc.
Conway bị đập đầu vào cửa sổ khiến anh choáng váng một lúc; lần tròng trành nữa khiến anh loạng choạng giữa hai hàng ghế. Lúc này trở lạnh hơn. Việc đầu tiên anh làm là như cái máy anh nhìn vào đồng hồ đeo tay. Đồng hồ chỉ một rưỡi, hẳn anh đã ngủ chợp đi được một chút. Hai tai anh nghe vang vang những tiếng đen đét thực to. Thoạt đầu anh cho là tưởng tượng, sau mãi anh nhận ra động cơ máy đã tắt, máy bay đang lao húc vào giữa cơn gió mạnh. Rồi anh nhìn qua cửa sổ thấy mặt đất đã sát gần, mơ hồ xám xịt, và đang vun vút chạy ở phía dưới. "Nó sắp hạ cánh rồi!" Mallinson hét lên.
Barnard cũng bị tung ra khỏi ghế lầm lì đáp lại: "Nếu số nó đỏ."
Cô Brinklow, người bị đảo lộn ít nhất trong suốt lúc chấn động, đang sửa lại chiếc mũ đội đầu cho ngay ngắn một cách hết sức bình tĩnh, như thể
https://thuviensach.vn
tàu sắp cập bến Dover8[1].
Liền ngay đó, máy bay chạm đất. Nhưng lần hạ cánh này thực kém.
"Trời ơi, kém quá, kém quá!" Mallinson rên rỉ, tay bíu vào ghế, trong suốt mười giây va đập và lắc lư. Nghe có tiếng cái gì đó căng ra và nổ bục, một bánh xe nổ tung. "Thế là hết", anh nói thêm, giọng bi quan đau khổ. "Cái chống hậu gãy rồi, chúng ta sẽ phải đỗ nằm ở đây thôi, chắc chắn là như vậy!"
Conway vốn không hay nói nhiều vào những khi gay cấn; lúc này anh duỗi đôi chân đã tê cứng và sờ sờ chỗ đầu bị va vào cửa sổ. Một vết thâm tím, thế thôi. Anh phải làm một cái gì để giúp đỡ những người này. Nhưng khi chiếc máy bay ngừng hẳn thì anh là người đứng dậy sau cùng. "Hãy bình tĩnh," anh kêu to khi thấy Mallinson giật mạnh mở tung cái cửa buồng khách, chuẩn bị nhảy xuống đất và trong sự yên lặng tương đối lúc bấy giờ, tiếng Mallinson đáp lại nghe kỳ quái:
"Không cần phải bình tĩnh - đây nom như nơi cùng trời cuối đất rồi - ít nhất thì cũng chẳng có một bóng người quanh đây."
Một lát sau, mọi người đều thấy lạnh run. Bên tai không nghe thấy một tiếng gì ngoài tiếng gió thổi ào ào và tiếng chân họ bước lạo xạo, họ cảm thấy mình bị đưa đến vùng ác nghiệt và buồn rầu man rợ - cái buồn rầu man rợ bao trùm cả mặt đất lẫn bầu không khí ở đây. Mặt trăng như đã biến mất sau những đám mây; ánh sao soi sáng một vùng trống không khủng khiếp, phần phật gió. Chẳng cần nghĩ ngợi hay quen biết, người ta cũng đoán được vùng lạnh giá này nằm trên núi cao, và những ngọn núi ở đây là những ngọn núi nằm trên những đỉnh núi. Một trong những ngọn núi này lập lòe ở trên đường chân trời xa như một hàm răng chó sói.
Mallinson bồn chồn nhanh nhẹn đã trèo ngay vào buồng lái: "Dưới đất thì tôi bất chấp tên lái này, không kể hắn là ai," anh kêu lên. "Tôi sẽ xử trí ngay với hắn..."
https://thuviensach.vn
Mấy người kia nhìn thấy anh cương quyết như vậy đều tỏ vẻ sợ hãi và như bị thôi miên, cứ đứng ngấy người ra. Conway nhoài người chạy theo anh, nhưng đã quá muộn không ngăn được Mallinson vào buồng lái. Tuy vậy, chỉ một thoáng sau đã thấy anh thanh niên lại nhảy xuống, bíu chặt lấy cánh tay Conway, giọng lắp bắp khàn khàn khẽ nói: "Này, anh Conway, thực lạ quá... Hình như thằng cha ấy nó bị ốm hoặc chết gì đó... Tôi gặng hỏi mấy hắn cũng không nói một lòi. Anh hãy trèo lên xem... Dù sao thì tôi đã lấy được khẩu súng của hắn."
"Tốt nhất, chú hãy đưa nó cho tôi," Conway nói, và tuy vẫn còn choáng váng do vừa bị va đập vào đầu, anh vẫn quyết tâm hành động. Từ trước đến nay, ở khắp nơi, trong mọi hoàn cảnh trên đời này, anh thấy dường như đây là lần kết hợp cả sự khó chịu lẫn ghê tởm. Anh kiễng chân rướn người lên để có thể nhìn vào trong buồng lái đóng kín, tuy nhìn không rõ lắm. Mùi xăng bốc ra nồng nặc, do vậy anh không dám đánh diêm để soi. Anh chỉ lờ mờ nhìn thấy người lái nhô về phía trước, đầu gục lên trên những cần máy kiểm tra. Anh lắc lắc thân mình người lái, tháo chiếc mũ hắn đội trên đầu và nới dấy thắt nút áo vòng quanh cổ. Một lát sau, anh quay lại nói với mọi người: "Đúng là đã có chuyện gì xảy ra với hắn ta. Chúng ta phải lôi hắn ra." Nhưng người quan sát đứng ngoài có thể nói thêm rằng có một cái gì đó đã xảy ra với Conway. Tiếng anh nói chắc nịch hơn, sắc bén hơn; như không còn lập lờ bên bờ sự nghi ngờ sâu sắc nữa. Giờ đây, thời gian, địa điểm, không khí lạnh, sự mệt mỏi không còn đáng quan tâm lắm nữa; có một việc nhất thiết phải làm, và thế là cái thói quen ở anh, cái tập quán lớn hơn ở anh đã vượt lên trên tất cả và đang chuẩn bị làm công việc ấy.
Với sự giúp đỡ của Barnard và Mallinson, người phi công được kéo ra khỏi chiếc ghế ngồi lái và nhấc lên đưa xuống đất. Anh ta chỉ ngất lịm mà chưa chết. Conway không biết nhiều về y học, nhưng cũng như hầu hết những người đã từng sinh sống ở nơi đất lạ, hiện tượng đau yếu là hết sức quen thuộc.
https://thuviensach.vn
"Đây có thể là do độ cao đã gây nên cơn đau tim," anh phán đoán, vừa cúi người xuống xem xét con người mà anh không quen biết. "Đặt anh ta ở đây thì chúng ta không giúp được gì cho anh ta vì chẳng có gì che chắn được những luồng gió khủng khiếp này. Tốt hơn hết là ta hãy đưa anh ta vào buồng khách và cả chúng ta nữa. Đây là đâu, chúng ta hoàn toàn không biết, vậy chẳng có hy vọng gì tính chuyện đi đâu trước trời sáng".
Lòi nhận định cũng như ý kiến gợi ra đều được mọi người chấp nhận ngay. Ngay cả Mallinson cũng tán thành. Họ khiêng người lái vào buồng khách và đặt anh ta nằm dài dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế. Bên trong buồng khách cũng không ấm gì hơn ở ngoài nhưng nó còn che được cơn gió mạnh. Trong một thời gian dài, gió đã khiến mọi người phải quan tâm lo lắng - cái duyên cớ, có thể gọi là như vậy, của cả một đêm lo âu buồn rầu. Đây không phải là gió thường. Cũng không phải chỉ là gió mạnh và lạnh. Mà như thể một kẻ điên cuồng đang sống vây quanh họ, một chủ nhân đang giẫm đạp lên cơ ngơi của chính mình. Nó làm nghiêng ngả rung lắc dữ dội cái máy bay cùng đám người bên trong và khi Conway nhìn qua cửa sổ, anh thấy như gió đang cuốn bớt đi những mẩu ánh sáng từ những ngôi sao.
Người lái nằm đó bất động, còn Conway trong buồng chật hẹp và tối om khó khăn cố gắng xem xét dưới ánh sáng diêm lập lòe. Nhưng anh cũng chẳng phát hiện được gì nhiều.
"Hắn ta bị suy tim." Cuối cùng anh nói.
Liền lúc đó, cô Brinklow lục trong túi xách của mình, và khiến mọi người xúc động khi cô nói: "Thứ này tôi chưa hề nhấp một giọt, nhưng tôi luôn mang nó bên mình, đề phòng trường hợp xảy ra tai nạn. Và đây cũng là một thứ tai nạn phải không?"
"Tôi phải nói là đúng vậy," Conway đáp, giọng đanh lại. Anh mở nút lọ, ngửi mùi và rót một ít thứ rượu mạnh ấy vào mồm người lái máy bay. "Đúng thứ này là cần thiết cho hắn ta. Cám ơn cô".
https://thuviensach.vn
Sau một lát, thấy mi mắt hắn hơi cử động, Mallinson bỗng nhiên như phát điên. "Tôi không thể nhịn được," anh hét lên và cười sằng sặc. "Chúng ta có khác gì một đám người dở hơi đi đánh diêm soi một xác chết không... Mà hắn đâu có phải là một người đẹp đẽ gì. Một thằng Tầu, tôi dám nói đúng vậy."
"Có thể thế." Conway nói, giọng bình tĩnh nhưng có phần nghiêm khắc. "Nhưng đây chưa phải là một xác chết. May ra chúng ta còn có thể cứu được hắn."
"May ra? Đây là cái may của hắn chứ không phải của chúng ta." "Đừng có quá chắc chắn thế. Lúc này anh cứ im mồm đi."
https://thuviensach.vn
Trong người Mallinson còn có khá nhiều tính cách của một anh học trò, nên anh đã không cãi lại câu ra lệnh cộc lốc của người lớn tuổi hơn, mặc dầu lúc này rõ ràng anh khó tự nén nổi mình. Conway tuy thương hại Mallinson, nhưng giờ đây anh còn lo cấp thiết giải quyết ngay vấn đề anh phi công, vì trong tất cả đám người ở đây, anh ta là người duy nhất có thể giải thích phần nào cái số phận của họ lúc này. Conway không muốn bàn cãi thêm nữa một cách chỉ là ước đoán; suốt trong chuyến bay, đã bàn cãi đủ rồi. Vốn luôn tò mò về mặt tinh thần, nhưng giờ đây anh đã thấy khó chịu, vì anh biết rằng toàn bộ hoàn cảnh lúc này không còn tính chất hấp dẫn của một sự kiện nguy hiểm, mà nó đang đe dọa họ sẽ phải chịu đựng nhiều thử thách để rồi kết thúc bằng một tai họa. Thức để anh canh gác suốt cả một đêm đầy gió gào thét; anh đương đầu với sự việc một cách thẳng thắn, vì anh đã không ngại gì nói ngay ra cho mọi người biết sự thể sẽ là như vậy. Anh đoán họ đã bay qua khá xa dãy núi phía Tây của ngọn Himalaya và đã đi về phía những ngọn núi ít ai biết đến ở vùng Kuen-Lun. Nếu vậy, thì giờ đây họ đang ở một vùng cao nhất và ít mến khách nhất trên trái đất này, vùng cao nguyên Tây Tạng, mà ngay chỗ thung lũng thấp nhất cũng cao hơn mặt nước biển hai dặm, một vùng rộng mênh mông, không có người ở, một vùng suốt ngày chỉ có gió gào và trên quy mô lớn, chưa được khám phá. Ở một vùng khỉ ho cò gáy, bị bỏ quên này, nơi họ đang đứng đây, họ sẽ thiếu thốn hơn bất kỳ ở một hòn đảo hoang vắng nào. Rồi, đột nhiên, như thể để đáp lại trí tò mò của anh bằng cách làm tăng thêm, một sự thay đổi gây sợ hãi đã diễn ra. Mặt trăng mà lúc nãy anh cho là lấp sau mây, giờ đây ngoi lên miệng của một ngọn núi cao đầy bóng tối và trong lúc chưa lộ hẳn ra, ánh trăng đã xua tan bóng tối ở phía trước. Conway nhìn thấy hình dáng một khu thung lũng chạy dài với những ngọn đồi thấp, tròn trĩnh, trông buồn rầu, nằm hai bên, màu đen huyền in trên màu xanh sẫm tia điện của bầu trời ban đêm. Nhưng mặt anh cứ dán vào phía đầu khu thung lũng, vì ở đấy, anh thấy dường như có một ngọn núi đẹp nhất trên đời, vút cao lên vào khoảng trống, nom thực nguy nga tráng lệ dưới ánh trăng lung linh mờ ảo. Ngọn núi đúng là một hình chóp tuyết tuyệt hảo, đường nét giản dị như được vẽ lên bởi bàn tay một em bé, và thực không thể xếp nó vào loại nào về mặt kích thước, chiều
https://thuviensach.vn
cao hoặc độ gần. Nom nó rất lộng lẫy, đứng ở một tư thế rất thanh bình khiến trong một lát, anh đã ngạc nhiên, không biết nó là thực hay chỉ là ảo ảnh. Rồi, trong lúc anh đang ngắm nhìn, một dải mây nhỏ che phủ phần đáy của hình chóp khiến cảnh tượng sinh động hẳn lên trước khi có tiếng tuyết lở ầm ầm khẳng định đây là cảnh có thực.
Anh cũng muốn gọi mọi người cùng ra nhìn, nhưng sau nghĩ lại, anh thấy nhìn quang cảnh ấy có thể mọi người lại hóa ra lo lắng. Mà ngay cả với cách nhìn thông thường thì cũng đúng vậy, cảnh tráng lệ hoang dã như thế chi làm tăng thêm sự thật về cô lập và nguy hiểm. Rất có thể nơi có người ở gần nhất đây cũng xa hàng mấy trăm dặm. Ở đây họ không có thức gì để ăn; vũ khí không có gì ngoài một khẩu súng lục; chiếc máy bay thì đã bị hư hại và hầu như đã cạn xăng, dù cho một ai trong bọn họ có biết lái cũng đành chịu. Họ không có quần áo đủ để chống lại cái gió và cái rét khủng khiếp ở đây. Chiếc áo đi môtô và chiếc áo choàng ulster9[1] của Mallinson cũng không đủ và ngay cả cô Brinklow vốn đã đắp vào người đầy len dạ và khăn quàng như chuẩn bị lên Bắc cực (Lúc đầu nhìn cô ta ăn mặc như vậy, anh thấy buồn cười) vậy mà vẫn thấy co ro. Tất cả mọi người, chi trừ có bản thân anh là không bị tác động của độ cao. Ngay Barnard lúc này cũng trở nên trầm ngâm. Mallinson thì cứ lầm bầm một mình; rõ ràng nếu những thử thách gay go này tiếp diễn lâu thì không hiểu cái gì sẽ xảy ra với anh. Trước những viễn cảnh đầy lo âu đấy, Conway thấy mình không thể không đưa mắt đầy thán phục nhìn cô Brinklow. Anh nghĩ cô ta không phải một con người bình thường, không một người phụ nữ nào vẫn dạy người Afghanistan hát tụng Thánh ca lại có thể được quý trọng như vậy. Nhưng sau mỗi tai họa, cô ta lại vẫn thường tỏ ra khác thường, và anh cảm thấy biết ơn sâu sắc cô về điều đó. "Tôi mong rằng cô không cảm thấy khó chịu quá?" Anh hỏi cô, giọng thân tình, khi anh thấy cô ngước mắt nhìn anh.
"Binh lính trong Chiến tranh còn phải chịu đựng gian khổ hơn thế này nhiều.' Cô đáp lại.
https://thuviensach.vn
Conway thấy sự so sánh không đúng lắm. Sự thực, bản thân anh chưa bao giờ phải trải qua một đêm trong chiến hào quá khó chịu như thế này, tuy chắc chắn với nhiều người khác điều ấy là có thể có. Anh đã tập trung tư tưởng vào người phi công nọ, anh ta giờ đây cứ thở nấc từng cơn và đôi lúc khẽ cựa quậy. Có lẽ Mallinson đã đúng khi đoán người này là người Trung Quốc. Anh ta có cái mũi và đôi gò má đặc biệt Mông Cổ, mặc dầu anh ta đã thủ vai một trung úy - phi công người Anh rất thành thạo. Mallinson bảo anh ta xấu xí, nhưng với Conway, vốn đã từng sống ở Trung Quốc, lại thấy anh ta thuộc loại người khá dễ coi, tuy giờ đây, dưới ánh sáng lập lòe của mấy que diêm, nước da xanh xao và cái mồm há hốc của anh ta nom không có gì là đẹp.
Đêm tối kéo dài, như thể mỗi phút là một cái gì nặng trĩu và sờ thấy được, và cần phải đẩy đi để nhường chỗ cho phút sau. Sau một lúc, ánh trăng nhạt dần và cũng mờ theo cái ngọn núi ma quái ở phía xa, rồi những trò độc ác của bộ ba: Đêm tối, lạnh giá và gió gào, cứ tăng dần lên cho đến tận tảng sáng. Như thấy dấu hiệu của bình minh, gió ngừng thổi để lại cảnh vật trong yên tĩnh đầy trắc ẩn. Đóng khung trong hình tam giác mờ nhạt ở phía trước, quả núi lại hiện ra, thoạt đầu màu xám, sau trắng toát, rồi nhuốm màu hồng khi ánh nắng sớm mai rọi vào đỉnh. Trong bóng tối, giờ đây mỗi lúc một nhạt dần, khu thung lũng thành hình rõ, để lộ ra cái nền đá tảng và đá cuội thoai thoải dốc ngược lên. Một bức tranh không có gì ấm cúng lắm, nhưng với Conway, quan sát nó anh thấy có một nhận thức kỳ lạ về vẻ đẹp của nó, về một cái gì không chút gợi cảm lãng mạn, mà nghiêm khắc. Gần như một tính chất trí thức. Cái hình chóp trắng ở phía xa buộc đầu óc người ta phải chấp nhận không bàn cãi, như chấp nhận định đề Euclide vậy, và cuối cùng, khi mặt trời đã lên cao trên nền trời màu xanh cá heo thẫm, thì anh cảm thấy chỉ hơi khó chịu một chút thôi.
Không khí trở nên ấm hơn, mấy người kia cũng thức giấc; anh bàn với họ nên đưa người phi công ra chỗ quang đãng để không khí khô ráo và ánh nắng có thể khiến anh ta hồi tình lại. Mọi người nghe theo, họ lại bắt đầu một cuộc canh gác thứ hai và vui vẻ hơn. Cuối cùng, anh phi công đã mở
https://thuviensach.vn
mắt và bắt đầu nói lắp bắp. Bốn người cúi xuống sát người anh ta, lắng nghe nói những tiếng vô nghĩa trừ có Conway là hiểu được và chốc chốc anh lại đáp lời. Sau một lúc, anh phi công trở nên mỗi lúc một yếu hơn, nói mỗi lúc một khó khăn và cuối cùng tắt thở. Lúc ấy vào lúc nửa buổi.
Conway liền quay lại nói với mấy người bạn: "Tôi rất buồn phải nói rằng anh ta đã nói với tôi rất ít - tôi muốn nói ít là so với những điều chúng ta muốn biết. Anh ta chỉ nói rằng giờ đây chúng ta ở đất Tây Tạng, điều này thì đã rõ. Anh ta không nói mạch lạc về nguyên do anh ta đã đưa chúng ta đến đây, nhưng hình như anh ta biết nơi này. Anh ta nói một thứ tiếng Trung Quốc mà tôi nghe không hiểu lắm, song tôi nghĩ anh ta có nói gì đó về một tu viện Lama ở gần đây, dọc theo thưng lũng, và tôi hiểu được, là đến đây, chúng ta sẽ có thức ăn và nhà ở. Anh ta gọi nơi đó là Shangri-La. La, tiếng Mông Cổ nghĩa là đèo. Anh ta hết sức nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải đến đó."
"Thế thì tôi lại thấy hình như chẳng có lý do nào để chúng ta cần phải đến đây." Mallinson nói. "Suy cho cùng, có thế thằng cha ấy nó loạn óc. Có đúng không?"
"Về điều ấy hẳn chú biết cũng rõ như tôi. Nhưng nếu không đến đây thì chúng ta đi đâu bấy giờ?"
"Tùy anh, tôi không quan tâm. Tất cả những gì tôi biết chắc là cái Shangri-La này nêu ở phía kia, thì hẳn phải cách biệt văn minh thêm mấy dặm nữa. Tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu chúng ta thu ngắn quãng đường lại, chứ đừng kéo dài ra. Mẹ kiếp! Anh không mang chúng tôi trở về chăng?"
Conway nhẫn nại đáp: "Mallinson, tôi thấy chú không hiểu rõ hoàn cảnh chúng ta hiện nay. Chúng ta đang ở một vùng mà không ai biết đến lắm, trừ có điều đi đến đây là một việc làm rất khó khăn và nguy hiểm, thậm chí cả đối với một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ. Với lại hàng mấy trăm dặm của cái xứ sở này đang bao quanh chúng ta thì cái khái niệm đi bộ trở về Peshawar, tôi thấy không có chút hy vọng nào."
https://thuviensach.vn
"Tôi không nghĩ là tôi có thể làm được chuyện ấy." Cô Brinklow nói, giọng nghiêm chỉnh.
Barnard gật đầu. "Dường như chúng ta rất may, nếu cái tu viện Lama ấy lại ở gần quanh đây."
"Có thể là tương đối may." Conway nói. "Nghĩ cho cùng thì hiện thời chúng ta không có một chút lương thực, và như các anh đều có thể tự thấy được, vùng đất này không phải là nơi dễ dàng sống. Chỉ ít tiếng đồng hồ nữa là chúng ta sẽ đói lả. Và rồi còn đêm nay, nếu cứ ở lại đây, chúng ta sẽ phải đương đầu với gió rét và giá lạnh. Đây không phải là một viễn cảnh dễ chịu gì. Tôi thấy, chúng ta chỉ còn có cơ may là tìm đến với một số người khác, và như vậy giờ đây chúng ta còn đi tìm họ ở đâu ngoài cái nơi mà anh phi công nọ đã bảo chúng ta?"
"Và nếu đây là một cái bẫy thì sao?" Mallinson hỏi, nhưng Barnard đáp lại thay Conway: "Một cái bẫy khá ấm áp đấy. Với một mẩu phó mát trong đó thì tôi xin chui xuống tận đáy bẫy."
Mọi người phá ra cười, trừ Mallinson, coi bộ như muốn phát điên và loạn thần kinh. Cuối cùng, Conway nói tiếp:
"Tôi quyết định cứ đi, vậy tất cả chúng ta có ưng thuận không? Rõ ràng có một lối đi dọc khu thung lũng; coi bộ nó cũng không dốc lắm, tuy nhiên, chúng ta sẽ phải đi chầm chậm. Dù sao thì ở đây chúng ta cũng chẳng làm được việc gì. Ngay cả đem chôn người này chúng ta cũng không làm được nếu không có thuốc nổ. Vả lại, người của tu viện rất có thể sẽ giúp chúng ta thuê được phu khuân vác để trở về. Chúng ta sẽ cần đến họ. Tôi xin gợi ý, chúng ta phải bắt đầu đi ngay, để trường hợp đến chiều mà muộn không tìm thấy nơi đó, chúng ta có thì giờ quay lại đây ngụ thêm một đêm trong buồng khách của máy bay."
"Và giả dụ chúng ta tìm thấy được tu viện ấy?" Mallinson hỏi, vẫn giọng gay gắt. "Liệu có gì bảo đảm chúng ta sẽ không bị giết không?"
https://thuviensach.vn
"Không, làm gì có chuyện ấy. Mà tôi nghĩ đi đến đây là một sự đánh liều ít nguy hiểm hơn và có thể còn đáng lựa chọn hơn là liều ở đây mà chịu chết đói hoặc chết lạnh." Rồi cảm thấy cái lý lẽ lạnh lùng ấy không hoàn toàn thích hợp vào lúc này, nên anh nói thêm: "Thực tế giết người là chuyện hầu như không hề xảy ra ở một tu viện phật giáo. Còn ít hơn cả chuyện bị giết ở trong một nhà thờ nước Anh."
"Như Thánh Thomas ở Canterbury vậy," cô Brinklow nói, vừa gật đầu nhấn mạnh sự tán đồng, nhưng lại phá hỏng hoàn toàn vấn đề anh đưa ra.
Mallinson nhún vai đáp lại giọng bực bội buồn rầu. "Thôi được, vậy chúng ta đi Shangri-La. Bất kỳ ở đâu và không kể rồi sẽ ra sao, chúng ta cũng cứ thử xem. Nhưng mong sao tu viện đó không ở trên lưng chừng ngọn núi kia."
Nghe anh nói, mọi người đều đưa mắt chú ý nhìn về phía chóp núi đang lấp lánh, nơi thung lũng chạy tới. Dưới ánh sáng ban ngày ngọn núi nom tuyệt đẹp và đột nhiên mọi người trố mắt ra nhìn, vì họ thấy từ đằng xa có hình dáng một đám người đang đi xuống dốc, lại gần phía họ.
"Đúng là ý Trời!" Cô Brinklow thầm thốt lên.
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG BA
Ở con người Conway bao giờ cũng có một phần bàng quan đứng nhìn, mặc dầu phần còn lại có thể hoạt động sôi nổi. Ngay giờ đây, trong lúc chờ đợi đám người lạ kia tới gần, anh cũng không tỏ ra xốn xang quyết định xem có thể hoặc không thể làm gì khi những trường hợp bất ngờ có thể xảy ra. Cái đó không phải là dũng cảm, hoặc điềm tĩnh hoặc một sự tự tin cao cả vào quyền lực của mình để tùy cơ quyết định. Nói một cách tệ nhất thì đây là một hình thức lười nhác, không muốn gạt đi cái thái độ chỉ đứng nhìn xem sự việc xảy ra.
Khi đám người leo xuống thung lũng thì thấy rõ đây là một đám khoảng hơn mười hai người đang khiêng theo một cái ghế có mui che như một cái kiệu. Một lát sau, có thể nhìn rõ trên ghế có một người, mình khoác áo choàng màu xanh lam. Conway không hiểu tất cả đoàn người ấy đi đâu, nhưng đúng như cô Brinklow vừa nói lúc nãy: Đây là trời phù hộ nên mới khiến đám người nọ ngẫu nhiên tới đây vào đúng lúc này. Khi đám người chi còn cách một quãng có thể nghe thấy tiếng hô gọi, thì Conway rời mấy người của mình tiến lên phía trước; anh đi thong thả vì vốn biết người phương Đông trọng nghi lễ chào hỏi lúc gặp nhau và thích giành thời gian làm việc đó. Khi còn cách họ mấy thước, anh dừng lại, cúi đầu chào rất lịch sự. Anh rất ngạc nhiên thấy người khoác áo choàng xanh từ trên ghế bước xuống, tiến lại phía anh với dáng điệu ung dung và trang nghiêm, rồi giơ tay ra. Conway đáp lại và nhận thấy người ấy là một ông già hoặc một người nhiều tuổi Trung Quốc, tóc đã hoa râm, mày râu nhẵn nhụi, có phần xanh xao trong chiếc áo khoác ngoài bằng lụa thêu hoa. Người Trung Quốc đó hẳn cũng ngắm nhìn nhận xét Conway như vậy. Rồi, bằng một thứ tiếng Anh chính xác và có lẽ quá chính xác, người ấy nói: "Tôi từ Tu viện Lama Shangri-La tới".
https://thuviensach.vn
Conway lại cúi đầu chào và sau một lúc lặng yên, anh bắt đầu nói ngắn gọn về trường hợp đã dẫn anh cùng ba người bạn đây lâm vào một vùng rất ít người lui tới này. Nghe anh thuật lại xong, người Trung Quốc ra hiệu là mình đã hiểu.
"Câu chuyện thật đặc biệt", người ấy nói và đưa mắt nhìn chiếc máy bay bị hư hại, với vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. Sau đó, người ấy nói tiếp: "Tôi tên là Tưởng, mong ông làm ơn giới thiệu tôi với các bạn của ông."
Conway cố mỉm cười lịch sự. Anh có phần ngạc nhiên vì cái hiện tượng mới lạ giữa vùng Tây Tạng hoang vu lại có một người Trung Quốc nói tiếng Anh rất thành thạo, có cách xử thế của một con người phố Bond. Anh quay lại phía mấy người của anh lúc ấy cũng đã theo kịp đến và đang nhìn cuộc gặp gỡ, với mỗi người một mức độ ngạc nhiên khác nhau. Anh giới thiệu: "Đây là cô Brinklow... Ông Barnard đây là một người Mỹ... Đây là ông Mallinson... Còn tôi là Conway. Chúng tôi rất vui mừng được gặp ông, tuy cuộc gặp gỡ này cũng khó hiểu như việc chúng tôi bị đưa đến đây. Thực vậy, chúng tôi cũng đang định đi đến tu viện của ông, do đó là hai lần may. Nếu ông có thể chỉ cho tôi hướng đi.
"Không cần làm việc đó. Tôi xin rất vui lòng làm người dẫn đường cho các ông."
"Nhưng tôi đâu dám phiền ông đến như vậy. Ông thực quá tốt, song nếu đường từ đây đến tu viện không xa..."
"Nói không xa, song nó không dễ đi. Tôi lấy làm vinh dự được đi cùng ông và các bạn của ông."
"Nhưng thực là..."
"Tôi thiết tha mong ông chấp nhận."
Conway thấy bàn cãi lúc này, xét về địa điểm và hoàn cảnh thì có nguy cơ trở nên buồn cười, nên đáp lại: "Thế thì hay quá, chúng tôi rất đội ơn ông."
https://thuviensach.vn
Mallinson vốn từ nãy vẫn nén chịu nghe những lời như đùa cợt ấy, giờ đây nói xen vào, giọng chua cay đốp chát: "Chúng tôi sẽ không ở lại lâu," anh nói cộc lốc. "Chúng tôi sẽ trả tiền sòng phẳng và chúng tôi muốn thuê một số người của các ông để giúp chúng tôi trở về. Chúng tôi muốn quay lại cuộc sống văn minh càng sớm càng tốt."
"Thế ông tin chắc chắn rằng đến đó là các ông phải sống xa nền văn minh ư?"
Câu hỏi với giọng nói hết sức ngọt ngào chỉ khiến cho anh thanh niên càng thêm gay gắt. "Tôi tin chắc là lúc này tôi đang ở xa nơi tôi muốn được sống, và cả bọn chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi sẽ xin cám ơn việc các ông cho chúng tôi trú tạm một thời gian, nhưng chúng tôi sẽ cám ơn các ông rất nhiều nếu ông giúp chúng tôi phương tiện để trở về. Ông nghĩ đi từ đây về Ấn Độ sẽ mất bao lâu?"
"Tôi thực sự không thể nói được điều gì về việc ấy."
"Ồ, tôi mong rằng chúng tôi sẽ không gặp trở ngại gì về việc này. Tôi đã có một số kinh nghiệm thuê mướn người dân địa phương làm công việc khuân vác; chúng tôi mong ông sẽ dùng thế lực của mình để chúng tôi được đối xử thẳng thắn."
Conway thấy hầu hết những lời lẽ của Mallinson có phần hung hăng một cách không cần thiết và anh vừa sắp xen vào thì người Trung Hoa nọ đáp lại, vẫn với vẻ hết sức đàng hoàng trang nghiêm: "Thưa ông Mallinson, tôi chỉ có thể đoán chắc với ông rằng, các ông sẽ được đối xử rất tử tế và cuối cùng các ông sẽ không phải nuối tiếc một chút gì."
"Cuối cùng?" Mallinson gào to, nhấn mạnh vào từ ấy, nhưng cuộc cãi vã được gạt đi dễ dàng vì người ta đã bày ra thết đãi rượu vang và hoa quả, những thứ này được đám người Tây Tạng to bé, chắc nịch, mình vận quần áo bằng da cừu, đầu đội mũ lông, chân đi giầy da bò, mang theo. Rượu vang có mùi thơm không khác gì thứ vang trắng của Đức, còn hoa quả gồm những quả xoài chín kỹ; sau một thời gian mấy tiếng đồng hồ nhịn đói, lúc
https://thuviensach.vn
này ăn vào bốn người thấy ngon tuyệt, tuy có chút khó nuốt đấy. Mallinson ăn uống ngon lành không chút nghĩ ngợi, nhưng Conway, giờ đây những lo lắng trước mắt đã được giải quyết, còn những lo lắng xa xôi anh không muốn nghĩ đến, anh lấy làm lạ không hiểu làm thế nào mà người ta lại trồng được xoài ở nơi núi cao như thế này. Anh cũng suy nghĩ về ngọn núi ở phía bên kia thung lũng; một ngọn núi gây xúc động mạnh khi được đánh giá theo một tiêu chuẩn nào đó, và anh ngạc nhiên là một số nhà du lịch đã không nói nhiều đến nó trong những cuốn sách mà một chuyên đi đến Tây Tạng thế nào cũng thôi thúc họ phải viết ra. Nhìn ngọn núi, đầu óc anh đang hình dung mình leo lên nó và đang tìm một con đường qua đèo hoặc qua một hành lang thì có tiếng Mallinson kêu lên kéo đầu óc anh quay về thực tại; anh liền nhìn xung quanh và thấy người Trung Hoa nọ đang chăm chú nhìn anh và hỏi: "Ông Conway, ông vừa đang ngắm ngọn núi phải không?"
"Vâng. Một quang cảnh thực đẹp. Nó hẳn có tên gọi, phải không ông?" "Nó có tên gọi là ngọn Karakal."
"Tôi chưa từng được nghe thấy cái tên ấy.Nó có cao lắm không ông?" "Trên hai mươi tám nghìn bộ."
"Thật thế à? Tôi không nghĩ là lại có một ngọn núi nào cao như vậy ngoài ngọn Himalaya. Chẳng hay con số đó có chính xác không? Ai là người đã đo nó?"
"Thưa ngài, ngài còn nghĩ người đo nó là ai? Có gì là kỵ nhau giữa cuộc sống ở tu viện với khoa Tam giác lượng?"
Conway thích thú câu nói và anh đáp lại: "Ồ, không, không chút nào hết". Rồi anh cười lễ phép. Anh nghĩ đây là một câu nói đùa hơi thô thiển, nhưng có lẽ một câu nói đùa đáng tận dụng. Và ngay sau đó, cuộc hành trình đến Shangri-La bắt đầu.
Suốt sáng hôm đó họ phải trèo chậm chạp trên những con đường không dốc lắm, nhưng ở độ cao như vậy, đòi hỏi người leo phải gắng hết sức, nên
https://thuviensach.vn
không còn ai có dư sức để nói chuyện. Người Trung Hoa nọ ngồi sang trọng trên chiếc ghế của ông ta, việc làm này có thể coi như không hào hiệp nếu không thấy là vô lý khi hình dung cô Brinklow ngồi trên cái chỗ ngồi huy hoàng đó. Conway, người mà không khí loãng trên độ cao ít tác động đến hơn mọi người, cũng thấy khó nhọc, đôi lúc mới bắt chuyện với đám người khiêng ghế. Anh biết một ít tiếng Tây Tạng, chi vừa đủ để hiểu được rằng đám người này rất mừng khi được trở về tu viện. Dù có ý muốn tiếp tục nói chuyện với người cầm đầu của đoàn người này, anh cũng không thể làm được, vì người này, mắt nhắm lại, gương mặt lấp một nửa sau bức màn che và hình như ông ta có tài nhắm mắt là ngủ liền và ngủ đúng lúc.
Trong lúc đó, mặt trời đã sưởi ấm; cơn đói và khát đã dịu đi, nếu không phải là họ đã được ăn uống thoải mái; và không khí trong sạch như ở một hành tinh khác, cứ mỗi ngụm hít sâu lại trở nên quý giá hơn. Người ta phải hít thở thong thả, khoan thai; việc làm này lúc đầu nghe có vẻ làm cho mọi người bối rối, nhưng sau một thời gian, nó khiến mọi người an tâm, ngây ngất, toàn thân chuyển dịch theo nhịp hít thở, bước đi và suy nghĩ; những lá phổi, không còn kín đáo và tự hoạt động mà hoạt động tuân theo sự hài hòa với đầu óc và cặp chân. Conway, vốn có chiều hướng thần bí phù hợp một cách kỳ lạ với cái chất hoài nghi, nên không thấy lúng túng khổ sở vì cái cảm giác ấy. Một hai lần anh nói mấy câu vui vẻ với Mallinson, nhưng anh thanh niên này còn đang vất vả, căng thẳng để trèo núi. Barnard cũng thở hổn hển như người lên cơn hen, còn cô Brinklow đang chiến đâu ác liệt với cái phổi mà vì một lý do nào đó cô cố gắng giấu giếm không cho ai biết.
"Chúng ta sắp lên tới đỉnh rồi," Conway nói để khuyến khích.
"Tôi đã có một lần chạy đuổi theo xe lửa và cũng cảm thấy đúng như bây giờ," cô đáp lại.
Conway nghĩ bụng: Vậy đấy, có những người coi rượu táo cũng như rượu sâm banh. Đấy là vấn đề khẩu vị.
Anh ngạc nhiên khi thấy ngoài những phút lúng túng khó xử, anh có rất ít hoài nghi, lo lắng, và cái đó về riêng bản thân thì anh không hề có chút
https://thuviensach.vn
nào. Trong cuộc đời, có những lúc người ta mở rộng tâm hồn mình đúng như có thể mở rộng miệng túi, nếu cuộc vui buổi tối tỏ ra đắt giá, nhưng cũng mới mẻ một cách không ngờ. Conway, vào buổi sáng mệt bở hơi tai ấy, đúng nhìn ngọn Karakal, anh cũng sẵn sàng mở rộng tâm hồn thấy mình được khuây khỏa nhưng chưa hẳn phân khích khi đón nhận những cái mới mẻ. Sau mười năm bôn ba qua nhiều vùng ở châu Á, anh đã có được cách đánh giá khe khắt về nhũng nơi và những sự việc xảy ra; song, trước cảnh tượng này, anh phải thừa nhận là nó hứa hẹn, báo hiệu nhiều cái phi thường.
Đi được khoảng vài dặm, dọc khu thung lũng, thì đến quãng đường phải leo dốc cao hơn, nhưng lúc này mặt trời bị mấy phủ kín và một đám sương mù trắng xóa che kín trước mắt mọi người. Tiếng sấm và tiếng tuyết lở từ đồng tuyết ở phía trên vang dội lại; không khí trở lạnh, với khí hậu bất thường luôn thay đổi của vùng núi, không khí trở nên lạnh buốt. Một cơn gió mạnh và mưa tuyết kéo đến làm ướt hết cả đám người, khiến họ thêm hết sức khó chịu; ngay cả Conway, trong một lúc cũng cảm thấy không thể đi xa hơn được nữa. Song chi một lát sau đó, dường như đã lên đến đỉnh cao, vì thấy đám người khiêng dừng lại để điều chỉnh kiệu. Barnard và Mallinson cả hai đều bị mệt quá nên đoàn người cứ liên tiếp phải ngừng lại để đợi; nhưng đám người Tây Tạng rõ ràng lo lắng muốn đi vội, họ ra hiệu cho mấy người của Conway biết đoạn đường còn lại sẽ đỡ khó đi hơn.
Nghe những lời đoán chắc như vậy, mấy người lại thấy lo âu khi thấy đám người Tây Tạng mở bọc lấy thừng ra.
"Họ chuẩn bị để treo cổ bọn ta chăng?" Barnard thốt kêu lên, vẻ hài hước, thất vọng; song đám người dẫn đường liền ra hiệu cho biết là họ chi có ý định buộc mọi người lại theo kiểu leo núi thông thường mà thôi. Khi họ thấy Conway cũng thạo việc dùng "thừng, họ tỏ ra kính họng anh hơn và để anh tùy ý buộc theo cách của anh. Anh sắp xếp buộc người anh ngay sau Mallinson với mấy người Tây Tạng ở phía trước và phía sau; rồi đến Barnard và cô Brinklow, rồi đến một số người Tây Tạng ở phía sau nữa. Conway chẳng mấy đã nhận thấy trong lúc người cầm đầu họ tiếp tục ngủ
https://thuviensach.vn
thì đám người Tây Tạng có ý muốn để anh thay thế lãnh đạo đoàn người. Anh cũng quen nhanh chóng và nếu có gì khó khăn anh sẽ đưa ra cái mà anh biết là của anh: Gây được lòng tin và tư cách chỉ huy. Trước kia, anh vốn là một nhà leo núi bậc nhất và chắc bây giờ anh vẫn còn rất khá. "Cô phải để ý đến ông Barnard," anh bảo cô Brinklow, nửa đùa nửa thật; và cô Brinklow đáp lại với vẻ bẽn lẽn của một con đại bàng: "Tôi sẽ cố gắng hết sức mình, nhưng như ông biết đây, từ trước đến nay tôi chưa hề bị lấy thừng buộc vào người bao giờ."
Đoạn đường sau, tuy đôi lúc có gây hứng thú, cũng đã bớt gay go hơn, không như anh đã nghĩ, và người ta cũng đỡ căng đến vỡ lồng ngực lúc leo lên. Con đường đi là một đoạn tắt cắt ngang dọc sườn một bức tường đá mà đỉnh cao ở trên bị mây mù che kín. Có lẽ cũng may vì mây mù phủ kín cả vực thẳm ở phía bên kia, tuy Conway vốn rất tinh mắt về nhìn đỉnh cao, muốn được nhìn rõ nơi mình đang đứng. Con đường mòn nhiều chỗ rộng không quá hai bộ, và cứ nhìn cách thức đám người Tây Tạng xoay sở để khiêng chiếc kiệu ở những điểm đó, anh thấy rất phục họ cũng như phục thần kinh của con người ngồi kiệu vẫn điềm nhiên ngủ được suốt dọc đường. Đám người Tây Tạng này chắc chắn tin cậy được, nhưng dường như đến những quãng đường mòn rộng hơn và hơi dốc xuống, họ vẫn tỏ ra vui mừng. Những lúc ấy họ bắt đầu cùng nhau cất tiếng du dương hát lên những giai điệu nhạc sĩ Massenet trước đây đã soạn cho một số vở ba lê Tây Tạng. Mưa tạnh, không khí ấm dần lên.
"Này, một mình chúng ta chắc chắn sẽ không thể nào tìm ra được con đường này," Conway nói, ý định để làm mọi người phấn chấn thêm, nhưng Mallinson không thích lắm. Thực vậy, anh có tâm trạng rất sợ và giờ đây khi đoạn xấu nhất đã qua, tâm trạng này lại có cơ lộ rõ hơn. "Chúng ta phải tiếc lắm chăng?" Anh đáp lại, giọng chua chát.
Con đường mòn tiếp tục dốc xuống thẳng đứng hơn, và đến một chỗ Conway thấy có mấy cây edelweiss10[1], dấu hiệu chào mừng đầu tiên của tầng cao mến khách hơn.
https://thuviensach.vn
"Trời ơi, anh Conway, dễ thường anh tưởng tượng mình đang dạo chơi vơ vẩn trên vùng núi Alps chăng? Chúng ta đang chuẩn bị cho mình sẽ cắm trại ra sao đây, đây là điều tôi muốn biết? Và chương trình hành động của chúng ta khi tới đó sẽ ra sao? Chúng ta sẽ làm gì?"
Conway điềm tĩnh đáp: "Nếu chú có tất cả những kinh nghiệm mà tôi có, chú sẽ biết rằng ở đời có những lúc thích thú nhất là lúc không làm gì hết. Sự việc xảy đến với anh và anh cứ mặc cho nó nảy sinh. Chiến tranh có phần giống như thế đấy. Người ta lấy làm hạnh phúc, như trường hợp chúng ta hiện nay, khi xúc cảm về cái mới làm dịu đi nỗi khó chịu."
"Anh triết lý quá đáng với tôi lắm đây. Hồi ở Baskul đầy bạo loạn tâm tính anh đâu có như vậy!"
"Tất nhiên là không, vì khi ấy tôi còn có cơ may để thay đổi sự việc bằng hành động của mình. Còn giờ đây, ít nhất vào lúc này, không có cái cơ may đó. Chúng ta có mặt ở đây vì chúng ta có mặt ở đây, nếu anh muốn tìm lý do thì nó đây. Tôi vẫn thường lấy nó để an ủi mình?"
"Hẳn anh cũng biết rồi đây con đường trở lại ngược con đường chúng ta vừa đến thực khủng khiếp. Chúng ta đã phải trườn bò trên mặt một ngọn núi dốc thẳng đứng suốt một tiếng đồng hồ, cuối cùng - tôi đã để ý thấy điều đó."
"Thì tôi cũng vậy."
"Anh cũng để ý thấy ư?" Mallinson phá ra cười, vẻ phấn khích. "Tôi dám nói tôi là một kẻ hay quấy rầy, nhưng tôi không thể khác được. Tôi nghi ngờ tất cả những cái này. Tôi có cảm tưởng chúng ta đang thực vượt qua cả ý của bọn này muốn chúng ta phải làm. Bọn chúng đang đẩy chúng ta vào một nơi nguy hiểm."
"Dù cho có thế nữa thì chỉ còn cách là ở đây cho đến cùng và chết."
"Tôi biết đó là logic vấn đề, nhưng xem ra thái độ ấy chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Tôi e rằng bản thân tôi không dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh
https://thuviensach.vn
như anh. Tôi quên làm sao được mới cách đây có hai ngày, chúng ta còn đang ở lãnh sự quán Baskul. Nhớ lại tất cả những gì xảy đến với chúng ta từ ngày đó, tôi thấy phần nào khó chịu quá. Tôi rất buồn. Người tôi đã mệt rã rời. Nó khiến tôi thấy mình đã may mắn tránh được chiến tranh; tôi cho rằng tôi phải phát điên lên vì sự việc. Cả cái thế giới quanh tôi đây, tôi thấy dường như đã hoàn toàn phát điên. Bản thân tôi hẳn cũng đang điên dại khi ngồi nói với anh những điều này."
Conway lắc đầu "Chú em thân yêu ơi, không phải vậy. Chú hai mươi tư tuổi đầu lại đang ở trên độ cao khoảng hai dặm rưỡi; những cái đó cũng đủ làm nguyên nhân gây nên tâm trạng chú lúc này. Tôi nghĩ chú đã vượt qua được cuộc thử thách gay go một cách rất tài tình, hơn tôi nhiều vào lúc tôi ở tuổi chú."
"Thế anh có cảm thấy sự điên rồ của tất cả những cái ấy không? Cái cách chúng ta bị đưa đến vùng núi cao này và những lúc khủng khiếp chờ đợi trong gió gào, nào anh phi công hấp hối chết dần và rồi cuộc gặp gỡ những người này, anh có thấy tất cả như xảy ra trong con ác mộng và không thể tin được khi anh nhìn lại không?"
"Tất nhiên là như vậy."
"Vậy, tôi muốn biết anh làm thế nào mà vẫn giữ được sự bình tĩnh lạnh lùng trước mọi sự việc?"
"Chú thực sự muốn biết ư? Tôi sẽ nói nếu chú muốn biết, mặc dầu khi tôi nói ra có thể chú sẽ cho tôi là con người chai đá. Vì có quá nhiều những cái khác khi tôi có thể nhìn lại, cũng như đã xảy ra trong con ác mộng. Đây không phải là phần phát điên duy nhất của thế giới, chú Mallinson ạ. Xét cho cùng, nếu chú phải nghĩ về Baskul, thì chú có nhớ là ngay cái lúc trước khi chúng ta rời đây ra đi, những người cách mạng nổi dậy đã tra tấn những tù binh của họ như thế nào để moi tin tức không? Một chiếc máy giặt là11[1] bình thường tất nhiên là rất hữu hiệu, nhưng tôi không hề thấy một cái gì dễ sợ nực cười hơn. Và chú có nhớ cái thông điệp cuối cùng trước khi đường
https://thuviensach.vn
dây thông tin với chúng ta bị cắt đứt không? Một tờ thông báo của hãng dệt Manchester hỏi xem chúng ta có biết cửa hàng buôn nào ở Baskul nhận bán coocxê! Chú thấy thế có đủ điên không? Chú hãy tin rằng, khi tới đây cái xấu nhất có thể đến với chúng ta cũng chi là chúng ta đánh đổi một hình thức điên này lấy một hình thức điên khác. Còn về chiến tranh, nêu chú có bị vướng vào đây thì chú cũng nên làm như tôi, học co lại một cách lạnh lùng."
Hai người còn đang nói chuyện với nhau thì một đoạn leo dốc khó khăn nhưng chỉ ngắn thôi đã khiến họ phải nín thở, chỉ trong mấy bước mà phải căng thẳng như suốt từ trước cộng lại. Một lát sau đó, mặt đất trở nên bằng phẳng, đám người từ trong mây mù bước ra vùng quang đãng đầy ánh nắng. Phía trước, chỉ cách có một quãng ngắn là tu viện Lama Shangri-La.
Với Conway khi nhìn tu viện lần đầu tiên, đây có thể là một ảo ảnh vỗ cánh bay ra từ các nhịp điệu cô đơn, trong đó tình trạng thiếu dưỡng khí đã bao vây mọi giác quan của anh. Thực tế, đây là một cảnh tượng kỳ lạ và gần như khó tin. Một nhóm đình tạ nhiều màu sắc vắt vẻo bên sườn núi, chúng không mang nét trầm ngâm ảm đạm của một tòa lâu đài ở Rhineland12[2], mà có cái tinh tế ngẫu nhiên của những đài hoa cắm xuyên vào một vách đá cheo leo. Một cảnh tượng nguy nga hùng vĩ mà thanh tú. Một cảm xúc khắc khổ đưa mắt ngước nhìn từ những mái nhà màu xanh sữa đến cái thành lũy đá xám ở bên trên coi cũng kỳ lạ như Wetterhorn trên Grindelwald13[3]. Phía bên kia những sườn ngọn núi Karakal phủ đầy tuyết cao vút lên thành một hình chóp chói lòa. Conway nghĩ đây rất có thể là một phong cảnh vùng núi đáng kinh hoàng nhất trên thế giới và anh hình dung đến sức nén càng vô biên của tuyêt và băng đè lên đá mà đá lúc này làm nhiệm vụ của một bức tường khổng lồ ngăn giữ nó lại. Có lẽ một ngày nào đó, toàn bộ ngọn núi sẽ vỡ tung ra, và một nửa cái cảnh lộng lẫy băng giá của Karakal đổ nhào xuống thung lũng. Anh ngạc nhiên không hiểu sao cái rủi ro mỏng manh kết hợp với cái kinh hoàng của nó thậm chí còn có thể gây được phấn khích dễ chịu.
https://thuviensach.vn
Không kém phần quyến rũ là quang cảnh ở phía dưới vì bức tường núi tiếp tục đổ xuống, gần như thẳng đúng, thành một đường nứt, hiện tượng này có thể do một biên cố địa chất ở thời xa xưa tạo nên. Nền thung lũng ở nơi mờ xa, nhìn dịu mắt một màu xanh lục; nơi đây kín gió, tu viện nhìn ra nó bao quát chứ không lấn át. Conway thấy đây là một địa điểm thiên nhiên ưu đãi đầy vẻ hấp dẫn, mặc dầu nếu nơi đây có người ở thì cộng đồng này hẳn hoàn toàn bị cô lập bởi những dãy núi cao vời vợi, không thể leo sang được phía xa bên kia. Nơi đây duy chỉ có khu tu viện là lộ ra một con đường trèo lên được mà thôi. Nhìn cảnh vật, Conway cảm thấy lòng hơi se lại vì sợ hãi, có lẽ những điều lo âu của Mallinson không hoàn toàn coi thường được. Nhưng cảm giác ấy chỉ thoáng qua để rồi hòa vào mối cảm xúc sâu xa hơn, nửa thần bí, nửa rõ ràng trước mắt là cuối cùng đã đến được một nơi tận cùng, nơi chấm dứt.
Anh chẳng hề nhớ rõ bằng cách nào anh và mấy người kia đã đến được tu viện này, hoặc những thể thức họ đã được tiếp nhận vào đây, được cởi giày và dẫn vào khu nhà này. Không khí loãng ở đây có kết cấu như trong giấc mơ phù hợp với màu xanh men sứ của da trời; với mỗi hơi anh thở, mỗi ánh mắt anh đưa nhìn ở nơi yên tĩnh đê mê này đã khiến anh như không để ý đến nỗi bồn chồn của Mallinson, những lời dí dỏm của Barnard và hình tượng một người đàn bà chuẩn bị chu đáo để đương đầu với trường hợp xấu nhất ở cô Brinklow. Anh mơ hồ nhớ lại sự ngạc nhiên khi thấy khu bên trong tu viện rộng rãi thế, ấm áp thế và rất sạch sẽ; nhưng anh không có thì giờ để quan sát nhiều hơn những cái đó vì người Trung Hoa nọ từ trên cái ghế có mui che đã bước xuống dẫn đường cho anh cùng mấy người đi qua mấy phòng chờ. Giờ đây, người ấy tỏ ra rất nhã nhặn, lịch sự.
"Tôi phải xin lỗi," người ấy nói, "Vì đã không chăm sóc các ông trên đường đi, nhưng xin thú thực, những cuộc hành trình như vậy không hợp với tôi và tôi phải lo giữ sức cho mình. Tôi mong rằng các ông không đến nỗi quá mệt."
"Chúng tôi đã cố gắng," Conway đáp lại, vừa gượng mỉm cười.
https://thuviensach.vn
"Tuyệt. Và giờ đây, nếu các ông vui lòng đi theo, tôi sẽ xin dẫn các ông đến phòng của mình. Chắc các ông muốn được tắm rửa. Nơi ăn chỗ ở của chúng tôi giản dị, song tôi hy vọng nó sẽ đáp ứng đẩy đủ."
Tới đây, Barnard lúc này vẫn còn hơi mệt, đã bật nên tiếng cười khúc khích vừa khò khè thở. "Ồ" anh vừa thở vừa nói, "Tôi có thể nói là tôi chưa yêu mến cái khí hậu ở đây - không khí dường như có phần nào dính vào ngực tôi - nhưng từ những cửa sổ phía trước nhìn ra, quang cảnh hẳn tuyệt đẹp. Chúng tôi có phải xếp hàng vào tắm, hay đây là một khách sạn nước Mỹ?"
"Ông Barnard, tôi nghĩ là ông sẽ thấy mọi sự đều hoàn hảo."
Cô Brinklow vẻ nghiêm trang gật đầu nói: "Quả vậy, tôi mong được như vậy."
"Và sau đó," người Trung Hoa nói tiếp: "Tôi rất lấy làm hân hạnh được các vị cùng chúng tôi dự bữa ăn trưa."
Conway đáp lại rất lịch sự. Chỉ có Mallinson là lặng thinh không tỏ thái độ gì trước những điều dễ chịu bất ngờ ấy. Cũng như Barnard, anh bị khó thở vì ở độ cao, nhưng giờ đây, cố gắng, anh đã đủ hơi sức để kêu lên: "Và sau đó, nếu ông vui lòng, chúng tôi cũng xin phác họa kế hoạch về chuyến quay trở về. Càng sớm càng tốt, ý tôi là như vậy."
https://thuviensach.vn
CHƯƠNG BỐN
“Hẳn các ông thấy đấy” ông Tưởng nói. "Chúng tôi cũng không đến nỗi man rợ như các ông tưởng.
Conway, chiều muộn hôm đó, không muốn cãi lại điều ông Tưởng đã nói. Anh thích thú với cái cảm giác dễ chịu trong cơ thể hòa lẫn với sự tỉnh táo trong tình thần, và dường như đối với anh trong mọi cảm giác, đây là cảm giác thực sự văn minh nhất. Cho đến lúc này, những đồ dùng thiết bị ở Shangri-La đã có đủ tất cả những gì anh có thể mong muốn, và chắc chắn có nhiều hơn sự mong đợi của anh. Một tu viện ở Tây Tạng mà có một hệ thống sưởi tập trung bằng hơi nước, có lẽ không có gì là ghê gớm lắm ở một thời đại mà ngay cả ở Lhasa người ta cũng đã có lắp đường dây điện thoại; nhưng sự kết hợp cơ khí của khoa vệ sinh phương Tây với nhiều cái của phương Đông và của truyền thống thì anh thấy cực kỳ kỳ lạ. Như cái bồn tắm chẳng hạn, trong đó anh vừa được hưởng thú vị tắm rửa, là một dụng cụ bằng sứ màu men xanh lục mịn màng, một sản phẩm theo như nhãn đề thì là của hãng Akron ở Ohio bên Mỹ, nhưng người thổ dân phục vụ anh lại phục vụ anh theo kiểu Trung Quốc, anh ta lau tai, lau lỗ mũi cho anh, rồi dùng một miếng gạc bằng lụa mỏng để lau qua hai hàng mi mắt dưới của anh. Lúc đó anh nghĩ không biết ba người bạn của anh có nhận được sự chăm sóc như vậy không.
Conway đã sống gần một thập kỷ ở Trung Quốc, và không phải lúc nào cũng ở thành phố lớn; và nghĩ kỹ lại thì anh cho thời gian ấy là những ngày sung sướng nhất trong cuộc đời anh. Anh mến người Trung Quốc, anh quen với lối sống của người dân ở đây. Đặc biệt anh thích cách nấu ăn của người Trung Quốc, với các món gia vị của họ; và do đó bữa ăn đầu tiên ở Shangri La đã đem đến cho anh cái không khí thân quen và sự ân cần tiếp đãi. Anh cũng đã có ý ngờ vực trong thức ăn có thứ cỏ hoặc thuốc để làm người ta dễ
https://thuviensach.vn
thở, vì không những bản thân anh cảm thấy có một sự biến đổi khác, mà còn thấy rất rõ điều đó ở mấy người cùng đi với anh. Anh để ý thấy ông Tưởng không ăn gì ngoài một ít thứ rau xà lách xanh và không uống vang. Ngay lúc bắt đầu ngồi vào mâm ông ta đã nói: "Xin lỗi các ông, chúng tôi có chế độ ăn kiêng rất nghiêm ngặt: Tôi bắt buộc phải giữ gìn sức khỏe của mình."
Đây cũng là lý do ông ta đã từng viện ra từ trước, và Conway nghĩ không biết ông ta mắc phải chứng bệnh gì. Giờ đây nhìn kỹ ông Tưởng, Conway thấy thực khó mà đoán đúng ông ta bao nhiêu tuổi; những nét nhỏ nhắn trên bộ mặt có phần khó xác định, cùng với nước da màu đất sét ẩm đã khiến nhìn ông ta thấy đây hoặc là một thanh niên sớm già hoặc là một ông già mà đã giữ được những nét trẻ trung một cách tài tình. Ông ta không phải là không có vẻ hấp dẫn nào đó; một tác phong lịch sự đúng kiểu từ con người ông ta toát ra một hương vị quá tế nhị mà người ta chỉ nhận thấy khi không nghĩ đến nó.
Vận chiếc áo khoác thêu bằng lụa màu xanh lam với chiếc áo lót sẻ hai bên quen thuộc và chiếc quần ống bó ở hai mắt cá, tất cả một màu xanh lam của nước, ông ta có sức hấp dẫn lạnh lùng mà Conway thích thú, tuy anh biết đó không phải là sở thích của mọi người.
Sự thực, không khí ở đây như ở Trung Quốc chứ không có gì đặc biệt là Tây Tạng, và chính điều này đã khiến Conway có cảm giác thoải mái như ở nhà mình, tuy một lần nữa anh không thể nghĩ đó là cảm giác chung của mấy người kia. Cái phòng ở cũng khiến anh thích thú; nó cân đối một cách đẹp, và được trang trí sơ sài với mấy tấm thảm và hai bức sơn mài khá đẹp. Ánh sáng là từ mấy ngọn đèn giấy, những ngọn đèn này không đung đưa những khi lặng gió. Anh cảm thấy dễ chịu cả về tình thần lẫn thể xác, và những ý nghĩ gợi lại có thể có một thứ thuốc gì không còn làm anh lo âu nữa. Dù sao đi nữa, nếu thực sự có thuốc pha vào thức ăn thì nó cũng đã giúp cho Barnard dễ thở và Mallinson đỡ hùng hổ; cả hai đều đã ăn uống no nê, để ý đến ăn hơn là nói chuyện. Conway cũng đã đói thật sự và anh thấy đúng thôi khi phép xã giao lịch sự đòi hỏi phải từ từ bàn đến những vấn đề
https://thuviensach.vn
quan trọng thì anh không bao giờ vội vã khi bản thân hoàn cảnh nó đem lại niềm vui, cho nên với anh phương pháp xử thế trên là rất thích hợp. Thực tế, cho mãi đến tận lúc anh bắt đầu hút một điếu thuốc lá, anh mới có ý kiến nhận xét nói với ông Tưởng: "Xem ra cộng đồng của ông ở đây rất khá giả, và hết sức mến khách. Tuy nhiên, tôi nghĩ các ông không thường xuyên có khách."
"Rất hiếm, quả thế." Ông người Trung Quốc đáp, vẻ trịnh trọng cân nhắc. "Vùng này ít có người qua lại."
Nghe nói vậy, Conway mỉm cười. "Ông đặt vấn đề rất khéo. Lúc tới đây, tôi đã thấy đây là một nơi bị cô lập nhất mà tôi chưa từng thấy. Một nền văn hóa riêng biệt có thể nảy nở ở đây mà không lo bị tiêm nhiễm từ thế giới bên ngoài."
"Tiêm nhiễm. Ông muốn nói gì vậy?"
"Tôi nói thế để chỉ những đoàn khiêu vũ, những rạp chiếu bóng, những dấu hiệu điện tử.v.v. Những ống dẫn nước cũng như những bể chứa nước của các ông thực nghiêm chỉnh và hiện đại, theo ý tôi, đây là chút lợi ích duy nhất mà phương Đông có thể tiếp nhận từ phương Tây. Tôi thường nghĩ người La Mã thực là may mắn, nền văn minh của họ chỉ đạt tới những buồng tắm nước nóng chứ không dính tới những tri thức tai hại về máy móc."
Conway ngừng lại. Anh nói rất lưu loát một cách ngẫu nhiên chứ không phải giả dối, nhưng chủ yếu để tạo một không khí và kiềm chế nó. Anh vốn khá thạo về việc làm này. Chỉ do muốn đáp lại thái độ cực kỳ lịch sự của chủ nhà nên anh đã không tỏ ra tò mò một cách lộ liễu hơn.
Nhưng cô Brinklow lại không có sự e dè như vậy. "Xin ông làm ơn," cô nói, tuy lời lẽ không hề tỏ ra quỵ lụy, "Nói cho chúng tôi biết về tu viện ở đây, được không?"
Ông Tưởng rướn đôi hàng lông mày tỏ vẻ không bằng lòng một cách tế nhị về câu hỏi vội vã của cô. Ông nói: "Thưa bà, tôi sẽ rất lấy làm vui mừng
https://thuviensach.vn
được nói với bà trong chừng mực khả năng của tôi. Vậy, xin bà cho biết bà muốn biết rõ về những gì?"
"Trước hết, xin ông cho biết ở đây, các ông có bao nhiêu người và thuộc những quốc tịch gì?" Rõ ràng đầu óc ngăn nắp của cô Brinklow lúc này hoạt động không kém phần thành thạo so với lúc ở nhà truyền giáo Baskul.
Ông Tưởng đáp: "Con số những người của chúng tôi đã đạt tới chức vụ Lama vào khoảng năm mươi vị, ngoài ra còn một số ít khác, như bản thân tôi chẳng hạn, chưa đạt tới trình độ thụ pháp đầy đủ. Chúng tôi sẽ được thụ pháp theo đúng trình tự, đây là điều chúng tôi mong muốn. Cho đến lúc ấy, hiện giờ chúng tôi chỉ là những Lama nửa chừng, những Lama chờ thụ pháp, như các ngài có thể gọi. Còn về nguồn gốc dân tộc, thì ở đây có đại diện của rất nhiều dân tộc, tuy nhiên có lẽ con số người Tây Tạng và người Trung Quốc chiếm đa số."
Cô Brinklow không bao giờ bỏ qua không kết luận ngay, dù cho có sai đi nữa. Cô nói: "Tôi biết vậy, đây thực sự là một tu viện của người thổ dân. Thế ngài tu viện trưởng của các ông là một người Tây Tạng hay một người Trung Quốc?"
"Không."
"Ở đây có người Anh không?"
"Khá nhiều."
"Trời ơi, vậy xem ra thực kỳ lạ." Cô Brinklow chỉ ngừng một chút để lấy hơi rồi nói tiếp. "Và giờ đây, xin ông cho biết tín ngưỡng của các ông là gì?"
Conway ngả người, vẻ chờ đợi phần nào thích thú. Anh vẫn thường xuyên thích quan sát sự va chạm của hai tâm tính trái ngược nhau; tính bộc trực của một người con gái ở cô Brinklow chuyên tâm hỏi về triết học của đạo giáo Lama hẳn sẽ gây nhiều hứng thú. Mặt khác, anh lại không muốn
https://thuviensach.vn
việc này khiến chủ nhân e ngại, nên anh nói để tạm thời hòa giải: "Đây có phần là một vấn đề lớn."
Nhưng cô Brinklow không ưa hòa giải. Rượu vang đã khiến mấy người khác trở nên yên tĩnh hơn thì dường như lại làm cho cô sôi nổi thêm. "Tất nhiên", cô vừa khoát tay tỏ vẻ độ lượng. "Tôi tin vào một thứ tôn giáo chân thực, nhưng tôi cũng có tư tưởng khá khoáng đạt để thừa nhận rằng, những người khác, tôi muốn nói người nước ngoài, đã rất thành thực trong niềm tin của họ. Và tất nhiên ở một tu viện như ở đây tôi không mong chờ được người ta tỏ ra đồng tình với tin ngưỡng của tôi."
Thái độ nhân nhượng của cô khiến tu sĩ Tưởng cúi đầu đáp lễ: "Nhưng thưa bà, tại sao?" Ông đáp lại bằng một thứ tiếng Anh chính xác và văn hoa. "Chúng ta lại phải khăng khăng cho rằng vì một đạo giáo là đúng thì tất cả những đạo giáo khác đều là sai?"
"Ồ, tất nhiên, điều đó khá rõ, phải không ông?"
Conway lại nói xen vào. "Thực ra, tôi nghĩ chúng ta chẳng nên tranh cãi làm gì. Nhưng, ở đây cô Brinklow có cùng một ước muốn hiểu biết như tôi là mục đích của tu viện độc đáo này là gì?"
Tu sĩ Tưởng đáp lại chậm rãi và chi khe khẽ như người thì thầm: "Thưa ông, nếu tôi phải nói rất ngắn gọn thì tôi có thể nói niềm tin trước hết của chúng tôi là tin vào sự tiết chế. Chúng tôi khắc sâu cái đức tính tránh tất cả mọi sự thái quá - thậm chí, xin ông tha lỗi cho điều tôi nói có phần ngược đời, chúng tôi tránh cả sự thái quá ngay trong đức hạnh. Ở thung lũng đây như các ngài đã thấy, trong đó có mấy nghìn người sống dưới sự kiểm soát trật tự của chúng tôi, chúng tôi đã thấy rằng cái nguyên lý cuộc sống ấy đã đem lại hạnh phúc rất lớn lao cho họ. Chúng tôi chỉ huy, điều khiển, có mức độ vừa phải, và đáp lại, chúng tôi cũng thấy thỏa mãn với cách tuân thủ vâng lời có mức độ của họ. Và tôi nghĩ tôi có thể cho là những người dân của chúng tôi sống có tiết độ vừa phải, trong sạch và chân thực vừa phải."
https://thuviensach.vn
Conway mỉm cười. Anh nghĩ ông già Trung Quốc này ăn nói rất chững chạc, ngoài ra nó phần nào khêu gợi đến cái tính chất của chính anh.
"Tôi nghĩ tôi đã hiểu những điều ông nói. Và tôi cho rằng những người sáng nay đến gặp chúng tôi đều là những người dân trong thưng lũng của các ông?"
"Thưa vâng. Tôi mong rằng trong suốt chuyến đi, các ông không có điều gì để chê trách họ."
"Ồ, không, không một chút chê trách. Tôi rất lấy làm vui mừng là dù sao họ cũng đã chắc chắn quá cái mức vừa phải. Nhân tiện xin hỏi: Ông đã cẩn thận nói rằng quy định về tiết chế vừa phải là áp dụng cho họ. Vậy xin ông cho biết quy định ấy có áp dụng cho các bậc tu sĩ các ông không?"
Trả lời câu hỏi ấy, tu sĩ Tưởng chỉ có thể lắc đầu. "Thưa ông, tôi rất lấy làm tiếc là ông đã chạm đến một vấn đề mà tôi không thể bàn luận. Tôi chỉ có thể nói thẳng là trong cộng đồng chúng tôi có nhiều niềm tin và nhiều tục lệ, nhưng hầu hết chúng tôi đều không cuồng nhiệt tin vào những thứ đó. Tôi rất lấy làm buồn là lúc này tôi không thể nói được nhiều hơn."
"Xin ông không việc gì phải xin lỗi. Cuộc nói chuyện này đã để lại cho chúng tôi những điều cần suy xét một cách vui vẻ nhất." Trong giọng Conway nói cũng như trong những cảm giác của anh, có cái gì khiến anh lại có cảm giác nghĩ là mình vừa được dùng một liều thuốc kích thích. Mallinson xem ra cũng như vậy, tuy anh ta nhân dịp này liền đưa ra ý kiến: "Tất cả những điều chúng ta vừa bàn luận đều rất hay, nhưng tôi thực sự nghĩ là đã đến lúc chúng ta bàn đến chuyện vạch kế hoạch để chúng tôi trở về. Chúng tôi muốn quay lại Ấn Độ càng sớm càng tốt. Liệu ông có thể thuê giúp chúng tôi được bao nhiêu phu khuân vác?"
Câu hỏi quá thực tiễn và quyết liệt, xuyên vỡ cái vỏ ngọt ngào để rồi không kiếm được chỗ đặt chân bên dưới. Chỉ sau một lúc lâu tu sĩ Tưởng mới đáp lại: "Thưa ông Mallinson, thực không may, tôi không phải là người
https://thuviensach.vn
có trách nhiệm để bàn về vấn đề này. Nhưng dù sao thì chúng tôi cũng nghĩ là vấn đề này không thể thu xếp ngay lập tức được."
"Song cũng phải thu xếp một cái gì chứ! Chúng tôi ai cũng có công việc phải quay về để làm, và bạn bè cùng anh em, họ hàng thân thích của chúng tôi, mọi người đều đang lo lắng về số phận của chúng tôi. Chúng tôi nhất thiết phải quay trở về. Chúng tôi xin cám ơn ông đã tiếp đãi chúng tôi như thế này, song sự thực chúng tôi không thể kéo dài ở đây không làm việc gì. Nếu có thể thực hiện được, chúng tôi xin bắt đầu bàn về việc này chậm nhất là ngày mai. Tôi hy vọng sẽ có nhiều người trong số người dưới quyền ông vui lòng đi hộ tống chúng tôi và tất nhiên, chúng tôi sẽ trả công cho họ xứng đáng."
Mallinson ngừng nói, vẻ cáu kỉnh, như thể anh đã hy vọng được trả lời không cần phải nói nhiều lời; nhưng anh vẫn không moi được gì ở tu sĩ Tưởng ngoài thái độ yên lặng và gần như trách móc: "Nhưng, như ông biết đây, tất cả những cái đó không thuộc quyền giải quyết của tôi."
"Không ư? Ồ, có lẽ, dù sao thì ông cũng có thể làm được một điều gì chứ. Nếu ông có thể kiếm cho chúng tôi được một tấm bản đồ vùng này thì hay quá. Dường như chúng tôi sẽ phải đi rất xa, và đây lại càng có lý do để ta bắt đầu khởi sự. Ở đây, các ông có tấm bản đồ nào không?"
"Chúng tôi có rất nhiều."
"Vậy xin ông vui lòng làm ơn cho chúng tôi mượn mấy tấm. Chúng tôi xin trả lại sau. Tôi nghĩ đôi khi các ông cũng phải có liên lạc với thế giới bên ngoài. Vậy cũng nên gửi một thông điệp ra ngoài để bạn bè chúng tôi được yên tâm. Từ đây đến trạm điện tín gần nhất là bao xa?"
Gương mặt có vết nhăn của tu sĩ Tưởng dường như tỏ ra đã nhẫn nại lắm rồi. Song ông ta không đáp lại.
Mallinson đợi một lát rồi nói tiếp: "Ồ, khi cần một thứ gì thi ông nhắn gọi đến đâu để lấy? Một thứ gì thuộc loại dụng cụ văn minh, ý tôi muốn nói vậy." Một thoáng lo sợ đã bắt đầu xuất hiện trên cặp mắt và trong giọng của
https://thuviensach.vn
anh. Thốt nhiên, anh gạt chiếc ghế đang ngồi ra phía sau và đứng dậy. Mặt anh tái đi, tay yếu ớt lau trán. "Tôi mệt quá," anh lầm bầm nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh phòng. "Tôi chẳng thấy một ai trong các ông thực sự cố gắng giúp đỡ tôi. Tôi chỉ hỏi có một câu rất đơn giản. Rõ ràng là các ông trả lời được. Các ông đã làm thế nào để mang được tất cả những bồn tắm hiện đại này đặt ở đây?'
Tiếp theo là một sự yên lặng khác.
"Vậy là các ông không muốn nói cho tôi biết? Tôi cho đây chỉ là một phần của tất cả những bí mật khác ở đây. Anh Conway, tôi phải nói là anh quá ư nhu nhược. Tại sao anh không hỏi cho ra sự thực? Lúc này tôi đã mệt lắm rồi - nhưng ngày mai, xin anh nhớ lấy, chúng ta phải đi khỏi đây vào ngày mai - đây là điều rất thiết yêu..."
Anh đã suýt nữa lăn xuống sàn nhà nếu không có Conway kịp đỡ anh ngồi lên ghế. Sau đó, anh tỉnh lại, nhưng không nói gì nữa.
"Ngày mai ông ấy sẽ khỏe hơn," Tu sĩ Tưởng dịu dàng nói. "Không khí ở đây đối với người lạ mới đến rất khó thở, nhưng rồi chẳng mấy chốc sẽ quen đi."
Conway cảm thấy mình như sực tỉnh khỏi cơn mê. "Sự việc đối với anh ấy có phần khó chịu," anh nói, giọng nhẹ nhàng, buồn rầu. Rồi anh nói thêm giọng mạnh mẽ hơn: "Tôi cho rằng tất cả chúng ta đều cảm thấy điều đó. Vậy, tốt hơn hết việc bàn cãi này xin hoãn lại để đến ngày mai và bây giờ ta hãy đi ngủ. Barnard, anh để ý coi sóc Mallinson nhé? Và, cô Brinklow, tôi chắc cô cũng cần đi ngủ." Đã có một số tín hiệu nào đó đưa ra nên liền lúc ấy một người hầu xuất hiện. "Được, chúng tôi sẽ xong bây giờ - chào anh - tôi sẽ theo ra ngay." Anh gần như đẩy mấy người ra khỏi phòng, rồi không còn giữ đúng lễ nghi, trái hẳn với cái phong cách trước đây của anh. Anh quay lại phía chủ nhân. Câu trách cứ của Mallinson đã kích động anh.
"Nào, thưa ông, tôi cũng không muốn giữ ông ở lại lâu nên tốt hơn là ta vào vấn đề ngay. Anh bạn của tôi có nóng tính nhưng tôi cũng không trách
https://thuviensach.vn
anh ta, anh ta rất chính đáng khi đòi hỏi làm sáng tỏ mọi sự việc. Cuộc hành trình trở về của chúng tôi cần phải được thu xếp, và chúng tôi không thể làm được việc này nếu không được ông hoặc những người khác ở đây giúp đỡ. Tất nhiên, tôi cũng biết rời đây ngay ngày mai là không thể được và riêng phần tôi, tôi mong rằng làm sao chúng tôi chi phải ở lại đây một thời giam ngắn nhất là điều hết sức thú vị. Nhưng có thể các bạn tôi không có cùng ý nghĩ như tôi. Cho nên, nếu đúng sự thực như ông nói là ông không thể làm gì được để giúp chúng tôi, thì xin ông cho chúng tôi được gặp ai đó có thể giúp được chúng tôi trong việc này."
Vị tu sĩ Trung Quốc đáp: "Thưa ngài, ngài thực khôn ngoan hơn ông bạn của ngài, nên ngài không nôn nóng. Tôi rất lấy làm mừng."
"Đây không phải là câu trả lời."
Tu sĩ Tưởng bắt đầu cười, tiếng cười giật giọng, khúc khích, rõ ràng là gượng gạo. Conway nhận ra ngay đây là một cách giả vờ lịch sự khi thấy câu vừa nói là một câu nói đùa tưởng tượng, mà người Trung Hoa vẫn dùng để khỏi bẽ mặt vào những trường hợp khó xử. Sau một lúc, ông ta mới đáp lại: "Tôi cảm thấy chắc chắn là ông không vì việc gì mà phải lo lắng về vấn đề này. Tất nhiên, đến một lúc nào đó chúng tôi sẽ có thể đem hết sức mình giúp các ông thực hiện việc cần thiết. Như ông cũng có thể hình dung thấy là có nhiều khó khăn, nhưng nếu tất cả chúng ta cùng nghiên cứu để giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và không vội vã..."
"Tôi không đặt vấn đề một cách vội vã. Tôi chỉ muốn hỏi để biết về phu khuân vác."
"Ồ, thưa ngài thân mến, đây lại là vấn đề khác. Tôi không tin các ông lại dễ dàng tìm được người chịu nhận đi xa như vậy. Họ đều có gia đình ở trong thung lũng này, họ đâu có muốn rời nhà để đi những chuyến đi ra vùng bên ngoài đường dài và khó khăn."
"Tuy nhiên, vẫn có thể thuyết phục họ đi được nếu không thì tại sao sáng nay họ đã đi cùng ông và là đi đâu vậy?"
https://thuviensach.vn
"Sáng nay ư? Ồ, đây lại là vấn đề khác."
"Khác ở chỗ nào? Phải chăng, khi tôi và các bạn tôi ngẫu nhiên gặp ông sáng nay, không phải là ông đang thực hiện một chuyến đi xa?"
Không có câu trả lời, Conway liền tiếp tục nói, giọng bình tĩnh hơn. "Tôi hiểu. Vậy, đó không phải là một cuộc gặp ngẫu nhiên. Thực tế tôi đã nghĩ mãi từ lâu về việc này. Vậy là ông đã có chủ định đến để đón chúng tôi. Điều ấy tỏ rõ các ông hẳn đã biết trước việc chúng tôi bị đưa đến đây. Và xin có câu hỏi thú vị là làm thế nào mà các ông lại biết được?"
Những lời anh nói phần nào làm căng bầu không khí yên tĩnh kỳ thú của quang cảnh. Ánh sáng ngọn đèn lồng soi rõ gương mặt vị tu sĩ Trung Quốc; một gương mặt bình tĩnh như của một pho tượng. Thốt nhiên, khẽ lấy tay huơ, ông ta phá vỡ sự căng thẳng, gạt tấm rèm lụa sang một bên, ông mở một cửa sổ dẫn ra ngoài bao la. Rồi, khẽ chạm vào cánh tay Conway, ông dẫn anh ra ngoài không khí lạnh trong suốt như pha lê. "Ông thực là người tài trí", giọng ông ta mơ màng, "Nhưng không phải đã hoàn toàn đúng. Vì lẽ đó, tôi muốn khuyên ông không nên để các bạn ông phải lo âu vì những cuộc bàn cãi trừu tượng nọ. Xin ông hãy tin ở tôi, cả ông cũng như các bạn ông, không có ai sẽ gặp phải một nỗi nguy hiểm gì ở Shangri-La này."
"Nhưng chúng tôi đâu có lo lắng về chuyện sẽ gặp nguy hiểm. Chúng tôi chi bực mình về chuyện phải trì hoãn ở lại đây lâu mà thôi."
"Tôi hiểu điều đó. Và, tất nhiên, có thể các ông sẽ phải ở lại đây một thời gian, một điều không thể tránh khỏi."
"Nếu chỉ một thời gian ngắn và thực sự là không thể tránh khỏi thì, tất nhiên, chúng tôi sẽ gắng hết sức mình chịu đựng."
"Ồ, một ý nghĩ mới đúng đắn làm sao! Vì chúng tôi không mong gì hơn ông cùng các bạn ông sẽ thấy vui vẻ trong thời gian nán lại ở đây."
"Thế thì rất hay, và như tôi đã nói với ông, riêng tôi, tôi có thể nói tôi sẽ không bận tâm lắm. Tôi cho đây là một tình huống mới và thú vị, và dù sao
https://thuviensach.vn
thì chúng tôi cũng cần được nghỉ ngơi đôi chút."
Vừa nói anh vừa đưa mắt ngước lên nhìn ngọn Karakal hình tháp đang lấp lánh đằng xa. Lúc ấy, dưới ánh trăng vằng vặc, dường như vươn cao một bàn tay là có thể chạm tới nó, nom nó sáng quá, cái ánh sáng của một vật giòn, dễ vỡ, in hình lên khoảng mênh mông màu xanh lam phía bên kia.
“Ngày mai," tu sĩ Tưởng nói, "Ông có thể còn thấy nó thú vị hơn nhiều. Ngoài ra, nếu các ông mệt, thì trên đời này không có nơi nào tốt hơn ở đây để các ông nghi ngơi."
Thực vậy, trong lúc Conway tiếp tục ngắm nhìn, một cảm giác yên tĩnh nghỉ ngơi bao trùm lên anh, như thể quang cảnh kia làm dịu cặp mắt và cả tâm hồn anh. Không có lấy một gọn gió, trái hẳn với những cơn gió gào thét trên cao nguyên mà anh đã gặp đêm qua; anh cảm thấy toàn bộ khu thung lũng là một khu cảng khóa kín nằm trong đất liền, với ngọn Karakal bao trùm như một ngọn hải đăng. Nhìn ngọn núi, anh mỉm cười vì thực sự là có ánh sáng trên đỉnh núi, một ánh sáng le lói màu xanh băng giá phù hợp với vẻ huy hoàng lộng lẫy mà nó phản ánh. Có một cái gì đã khiến anh tìm hỏi nghĩa đen của cái tên đó, và câu trả lời của tu sĩ Tưởng vẳng lên như tiếng vang thì thầm trong phút mơ màng của chính anh. "Karakal, theo tiếng thổ dân thung lũng ở đây, có nghĩa là Trăng xanh," tu sĩ Trung Quốc nói.
Conway không đưa ra kết luận rằng việc anh cùng mấy người đến Shangri-La đã bằng cách nào đó được mọi người ở đây trông đợi. Anh đã có ý nghĩ phải nói điều này ra và anh biết vấn đề rất quan trọng; nhưng sáng ra, điều này anh không quan tâm mấy, có chăng chỉ ở ý nghĩa lý thuyết mà thôi và anh đã co lại không muốn gây thêm lo âu cho người khác. Một phần con người trong anh khẳng định rằng có một cái gì đó rất kỳ quặc ở nơi này, rằng thái độ của tu sĩ Tưởng buổi chiều hôm trước không đáng để tín cậy, và mấy người bọn anh, rõ ràng là bị cầm tù, trừ khi và chỉ cho đến khi có các quan chức chính quyền chịu ra tay giúp họ. Và rõ ràng anh có bổn phận phải buộc chính quyền ở đây làm điều đó. Suy cho cùng, ít ra thì anh cũng là người thay mặt cho chính phủ Anh quốc; thực hết sức phi lý những người ở một tu
https://thuviensach.vn
viện Tây Tạng lại từ chối một yêu cầu chính đáng của anh... Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là quan điểm bình thường của một người ở cương vị công chức; và một phần của Conway vừa là con người bình thường vừa là công chức. Trong những trường hợp khó khăn không ai đóng vai người hùng giỏi hơn anh; trong những khó khăn cuối cùng trước việc di tản, cách xử sự của anh (anh nghĩ sai đi một chút) đáng lẽ đã khiến anh ít nhất là được phong tặng tước hầu và một cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Henty, mang tên Với Conway ở Baskul.
Tự nhận lấy trách nhiệm lãnh đạo mấy chục kiều dân của nhiều nước, gồm phụ nữ và trẻ em, anh đã để tất cả trú ngụ tại khu lãnh sự quán chật hẹp trong những ngày cách mạng sôi động đẫm máu do những người kích động bài ngoại gây lên; anh đã vừa cương quyết, vừa mềm dẻo, thuyết phục được đám người này để họ bằng lòng cho di tản bằng đường hàng không toàn bộ số kiều dân; anh cảm thấy thành tích ấy không phải là tồi. Có thể bằng cách chạy vạy và viết hàng đống báo cáo, anh có thể sẽ kiếm được một cái gì đó trong lễ Huân chương Năm Mới sắp tới. Nhưng, dù sao thì anh cũng đã chiếm được lòng thán phục nhiệt thành của Mallinson. Rủi thay, giờ đây anh chàng thanh niên ấy hẳn vô cùng thất vọng về anh. Tất nhiên, thật đáng tiếc, nhưng Conway vốn đã quen với việc người ta chỉ mến thích anh khi họ hiểu lầm anh. Anh không thật sự là con người cương quyết, có tài ba hoa lên lớp dạy người, và dốc lòng dốc sức vào xây dựng đế chế; sự làm ra vẻ như vậy ở anh đủ là một vở kịch ngắn một hồi thỉnh thoảng lại được số phận và Bộ ngoại giao Anh thu xếp với nhau để diễn lại, với số lượng mà một người nào đó có thể tìm thấy trong những trang sách của Whitaker.
Sự thực là, điều bí ẩn ở Shangri-La và việc chính anh đến đây, đã bắt đầu tác động đến anh một cách quyến rũ hấp dẫn. Dù sao thì anh cũng không cảm thấy có gì để lo âu cho bản thân. Công việc chính quyền anh đảm nhận luôn có khả năng đẩy anh đến những vùng kỳ quặc trên thế giới, và như thông lệ, đến chỗ càng kỳ quặc anh càng thấy bớt buồn tẻ; vậy việc gì mà cằn nhằn vì rủi ro ngẫu nhiên, chứ không phải vì một tờ giấy phép của chính phủ đã đẩy anh đến vùng kỳ quặc nhất thế giới này?
https://thuviensach.vn