🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đứa Trẻ Thứ 44 Ebooks Nhóm Zalo ĐỨA TRẺ THỨ 44 Tác giả: Tom Rob Smith Dịch giả: Võ Hồng Long Nhà xuất bản: NXB Thời Đại Ngày xuất bản: 09-2014 Số trang: 364 Thể loại: Trinh thám; Hình sự Đánh máy: Hoa Quân Tử Nguồn: truyentrinhtham Ngày hoàn thành: 26-03-2016 Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach Nếu có điều kiện hãy mua sách để ủng hộ tác giả và nhà xuất bản nhé! GIỚI THIỆU TOM ROB SMITH (sinh năm 1979) là nhà văn người Anh, sinh ra và lớn lên tại London. Anh tốt nghiệp đại hạc Cambridge năm 2001. Đứa trẻ thứ 44 là tác phẩm đầu tay của anh nhưng đã từng được đề cử tới 17 giải thưởng quốc tế/ bao gồm cả giải Man Booker, và giành được 7 giải, trũng đá có giải CWA lan Fleming Steel Dagger năm 2008 và Wavertan Good Read năm 2009. Những lời khen tặng nổi bật dành cho ĐỨA TRẺ THỨ 44 BESTSELLER QUỐC TẾ GIÀNH GIẢI CWAIAN FLEMING STEELDAGGER “Xuất sắc... Một trong những niềm vui hiếm hơi của nghề điểm sách là đầu tiên ta được nghe trước đủ thứ quảng cáo cường điệu về một tiểu thuyết và rồi phát hiện ra từng từ một đều đúng.” - Chicago Tribune “Smith đã vẽ nên một bức tranh lạnh gáy về một kỷ nguyên nơi công lý không tồn tại và tương lai của các gia đình vô tội nằm cả trong tay bọn tội phạm vị kỷ." - Washington Post Book World “Một tiểu thuyết đầu tay xuất sắc.” - San Diego Union-Tribune “Cuốn tiểu thuyết đầu tay này đã gặt hái được nhiều ngợi ca, và điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Những miêu tả xã hội sinh động trong tác phẩm này có thể so sánh với Martin Cruz Smith.” - USA Today “Cuốn trinh thám ly kỳ hấp dẫn này sẽ bắt chúng ta thức quá giờ đi ngủ." - Boston Herald “Một tiểu thuyết đầu tay hay... đáng chú ý trên nhiều cấp độ, không chỉ với tư cách một câu chuyện ly kỳ hấp dẫn mà còn như một sự giải mã xuyên suốt những gì được coi là công lý... cốt truyện diễn tiến nhanh từ đầu đến cuối... Và ta hồ hởi cổ vũ Leo suốt chặng đường.” - Newsweek “Cốt truyện thông minh, đầy kịch tính tâm lý." - Wall Street Journal “Smith đã xuất sắc tái tạo câu chuyện thật về một sát thủ Nga.” - New York Daily News “Một tiểu thuyết đầu tay đáng chú ý - sáng tạo, hồi hộp, và không ngơi thu hút được chú ý của ta từ trang đầu tiên đến tận trang cuối.” - Scott Turow, nhà văn “Ly kỳ đến nghẹt thở, đầy cảm xúc và những thắt mở nút mà ta vẫn chờ đợi khỉ đọc những tác phẩmhay nhất của le Carré, ĐỨA TRÉ THỨ 44 dữ dội như một con sói Nga. Nó tóm lấy cổ họng ta và không buông ra nữa." - Robert Townet nhà văn, nhà biên kịch "Một tiều thuyết ly kỳ nổi bật... một trong những chuyện vụ án hay nhất năm." - Roanoke Times (VA) “Sống động... Câu chuyện khiến ta chìm đắm còn các nhân vật như có thật bằng thịt bằng xương." - Tampa Tribune “Không thể náo đánh giá công bằng cho kiệt tác đầu tay này chỉ trong một cột báo, bởi có quá nhiều cảnh trinh thám tỉ mỉ, quá nhiều những quyết định bất ngờ được đưa ra bởi các nhân vật được xây dựng hoàn chỉnh, và một cốt truyện phức tạp mà trong đó, cuối cùng, mọi mảnh ghép đều vừa khít với nhau. Tác phẩm này, buộc phải mượn từ đã được dùng nhiều nhất thập kỷ này: thật tuyệt vời." - New York Sun. “Một tiểu thuyết ly kỳ đầy kích thích... mới lạ... đầy thuyết phục và đáng sợ... chắc chắn sẽ được dựng thành phim và bộ phim sẽ vô cùng gây hưng phấn." - Raleigh News & Observer{NC) “Thuyết phục... một tiểu thuyết điều tra tội phạm được đo ni đóng giày để đọc mùa hè và cho một bộ phim điện ảnh." - Austin American- Statesman “Hy vọng ĐỨA TRẺ THỨ 44 sẽ khởi đầu cho nhiều cuốn sách tuyệt vời khác... một cốt truyện độc nhất vô nhị." - Olympian (WA) “Một tác phẩm đầu tay đáng chú ý... một sự hòa trộn hiếm có của sự hiểu biết sâu sắc, văn phong tuyệt hảo và một câu chuyện độc đáo." - Nelson DeMille, nhà văn. “Cuốn tiểu thuyết ly kỳ này có mọi điều bạn muốn ở một cuốn sách đọc trong kỳ nghỉ - và còn hơn thế - u ám nhưng hấp dẫn, đây chính là thứ sẽ khiến cho những chuyến bay dài lê thê qua mau." - The Independent (London) “ĐỨA TRẺ THỨ 44 đã báo hiệu tài năng và đẳng cấp của người viết ra nó ngay từ những trang đầu tiên." - Raymond Khoury, tác giả Dấu chân của Chúa “Tom Rob Smith đã kể một câu chuyện mạnh mẽ về con người với sự rõ ràng mẫu mực và nhịp độ cừ khôi." - Mail On Sunday (London) “Một tác phẩm đầu tay đáng kinh ngạc - khác biệt, hoàn chỉnh, chín chắn... và rất ly kỳ. H - Lee Child, tác giả Một phát một mạng, Không có ngày mai, Reacher báo thù MATXCƠVA MỘT NGÀY THÁNG HAI Thanh tra Leo Demidov nhận được thông tin có một vụ án mạng xảy ra trên đường ray, một đứa trẻ hơn bốn tuổi bị lột trần, mổ ruột, miệng nhét đất. Mọi lời khai đều xác thực đây đơn thuần chỉ là một tai nạn thảm khốc. Sự việc tưởng đã dừng lại cho tới khi Leo tình cờ phát hiện ra, bên ngoài phạm vi Matxcơva còn có rất nhiều cái chết thương tâm và bí ẩn như thế. Không thể công khai điều tra, Leo - với sự sát cánh của người vợ - từng bước vén tấm màn đen tối đã che dậy cái chết của những đứa trẻ trên khắp đất nước, cùng lúc ấy quá khứ của anh cũng được hé lộ, và con người anh lần đầu tiên hiện ra chân thật ngay cả với chính anh. Kịch tính, dữ dội đôi lúc đến cường điệu, Đứa trẻ thứ 44 là một trong số không nhiều câu chuyện trinh thám có khả năng gây xúc động ngay cả với những người ít quan tâm đến thể loại này nhất. Không chỉ là hành trình đi tìm sự thật đằng sau những kỳ án, nó còn là hành trình tìm lại chính mình của cá nhân, là câu chuyện về tình yêu và gia đình, và trên hết thảy, là lời khẳng định khó khăn nhưng quả quyết về chiến thắng cuối cùng của niềm tin vào công lý và lương tâm con người. Bộ phim dựa trên tiểu thuyết này dự kiến sẽ công chiếu trong năm 2014. LIÊN XÔ UKRAINA LÀNG CHERVOY 25 THÁNG GIÊNG, 1933 VÌ MARIA ĐÃ QUYẾT ĐỊNH CHẾT nên con mèo của bà sẽ phải tự xoay xở lấy. Bà đã chăm sóc nó đến quá cái nghĩa lý của việc nuôi thú cưng. Đã từ lâu, chuột lớn chuột nhắt đều bị dân làng bẫy ăn thịt. Gia súc biến mất không lâu sau đó. Hết sạch, chỉ trừ một con, con mèo này, con vật bầu bạn mà bà giấu đi. Sao bà lại không thịt nó ư? Bà cần cái gì đó để sống vì nó; cái gì đó để bà che chở và thương yêu - cái gì đó để vì nó mà bà tồn tại. Bà đã thề tiếp tục nuôi nó cho đến ngày bà không còn tự nuôi thân được nữa. Ngày ấy là hôm nay đây. Bà đã xắt đôi ủng da của mình thành sợi mỏng rồi luộc với cây tầm ma và hạt củ cải đường. Bà cũng đã đào tìm giun đất, mút vỏ cây. Sáng nay trong con sốt mê sảng bà đã gặm chân ghế trong bếp, nhai mãi cho đến khi nướu găm đầy vụn gỗ. Thấy bà, con mèo bỏ trốn, nấp dưới gầm giường, không chịu ló mặt ra ngay cả khi bà quỳ xuống, gọi tên nó, cố dỗ nó ra. Đấy là lúc Maria quyết định chết, vì không có gì để ăn và không còn gì để thương yêu nữa. Maria chờ đến đêm xuống rồi mới mở cửa trước. Bà cho rằng nhờ bóng tối con mèo sẽ có cơ may vào tới rừng mà không bị ai thấy. Có ai trong làng mà trông thấy thì họ sẽ đuổi bắt nó. Ngay cả khi chính bà đã gần kề cái chết thế này, cái ý nghĩ con mèo bị làm thịt vẫn khiến bà khổ sở. Bà tự an ủi với niềm tin rằng bất ngờ sẽ đứng về phía nó. Trong một ngôi làng mà người lớn phải nhai đất với hy vọng tìm thấy kiến hoặc trứng côn trùng, nơi trẻ con bới phân ngựa mong tìm được vỏ hạt chưa tiêu còn đàn bà thì đánh nhau giành sở hữu mấy mẩu xương thì Maria tin chắc không ai nghĩ rằng một con mèo lại còn sống. *** PAVEL KHÔNG TIN NỔI MẮT MÌNH. NÓ xấu xí, gầy còm, mắt xanh và bộ lông đốm đen. Rõ ràng đó là một con mèo. Đang nhặt củi thì nó thấy con mèo từ trong nhà Maria Antonovna phóng ra băng qua con đường tuyết phủ, hướng về phía rừng. Nó nín thở liếc nhìn xung quanh. Không còn ai khác phát hiện ra con mèo cả. Không có ai quanh đây; không có ánh đèn nào nơi những ô cửa sổ. Những làn khói, dấu hiệu duy nhất của sự sống, bốc lên từ chưa được phân nửa số ống khói. Như thể làng nó bị tuyết rơi dày dìm chết; mọi dấu hiệu của sự sống đều bị dập tắt. Phần lớn bề mặt tuyết vẫn còn nguyên: hầu như không có dấu chân và không có lấy một lối đi đào xuống. Ngày vắng vẻ như đêm. Không ai dậy làm lụng. Bạn bè nó không có đứa nào ra chơi, mà ở trong nhà, thu lu trên giường cùng gia đình, hàng mắt trũng sâu nhìn đăm đăm trần nhà. Người lớn bắt đầu trông như trẻ con, trẻ con trông như người lớn. Hầu hết mọi người đã thôi không rúc rỉa tìm cái ăn nữa. Trong tình cảnh này thì sự xuất hiện của một con mèo quả đúng là diệu kỳ - sự tái xuất hiện của một sinh vật từ lâu đã được xem là tuyệt chủng. Pavel nhắm mắt và cố nhớ lại lần sau cùng nó được ăn thịt. Khi mở mắt ra, nó đang chảy nước dãi. Nước dãi nhểu xuống bên mặt nó thành dòng. Nó đưa mu bàn tay chùi đi. Háo hức, nó thả đống củi đấy chạy về nhà. Nó phải báo cho mẹ Oksana tin quan trọng này. *** OKSANA NGỒI QUẤN MÌNH trong chăn len nhìn xuống sàn. Chị cứ ngồi im phắc, bảo tồn năng lượng trong khi nghĩ ra các cách cứu sống gia đình mình, những ý nghĩ xâm chiếm chị từng giờ thức và từng giấc mơ chập chờn. Chị là một trong số ít người không chịu đầu hàng. Chị sẽ không bao giờ đầu hàng. Không đầu hàng chừng nào chị vẫn còn mấy thằng con. Nhưng quyết tâm không thôi vẫn chưa đủ, chị phải thận trọng: một cố gắng sai lầm có thể nghĩa là kiệt sức, và kiệt sức luôn có nghĩa là chết. Vài tháng trước, Nikolai Ivanovich, hàng xóm và là một người bạn, đã tuyệt vọng lao vào cướp kho ngũ cốc của nhà nước. Anh ta đã không trở về. Sáng hôm sau chị vợ Nikolai và Oksana đi tìm. Họ thấy xác anh ta bên đường, nằm ngửa - thân hình da bọc xương với cái bụng căng tròn, bao tử anh ta đầy cứng hạt còn sống mà anh ta đã ních vào những phút sau cùng. Người vợ khóc lóc trong khi Oksana lấy chỗ hạt còn lại trong túi anh ta, chia đôi. Lúc trở về làng, vợ Nikolai báo tin cho dân làng biết. Thay vì được thương xót, chị ta lại bị ghen tị, điều duy nhất mọi người nghĩ đến là mấy vốc hạt chị ta có. Oksana nghĩ chị ta là một kẻ ngốc nghếch thật thà - chị ta đã gây nguy hiểm cho cả hai. Ý nghĩ của chị bị gián đoạn vì có tiếng ai đó đang chạy. Không ai lại chạy trừ phi có tin quan trọng. Chị đứng lên, sợ hãi. Pavel ào vào phòng và hổn hển thông báo: - Mẹ, con thấy một con mèo. Chị bước đến cầm chặt tay con trai. Chị cần kiểm cho chắc là nó không bị ảo giác: cái đói có thể chơi khăm. Nhưng mặt nó không có vẻ gì là mê sảng. Mắt nó sắc sảo, vẻ mặt nghiêm trọng. Nó mới mười tuổi mà đã như một người đàn ông. Hoàn cảnh buộc nó quên đi tuổi thơ. Bố nó gần như đã chết: nếu chưa chết thì đối với họ cũng như chết rồi. Ông bỏ lên thành phố Kiev những mong mang lương thực về. Ông không bao giờ trở lại và Pavel hiểu, không cần ai nói hay an ủi, rằng bố nó sẽ không bao giờ quay về. Giờ Oksana phụ thuộc vào con trai cũng như nó phụ thuộc vào chị. Họ là bầu bạn của nhau và Pavel đã thề thành tiếng là nó sẽ làm được điều mà bố nó đã không làm được: nó sẽ làm sao cho gia đình mình sống. Oksana đưa tay lên má con trai. - Con bắt nó được không? Nó mỉm cười, kiêu hãnh: - Nếu con có một mẩu xương. Ao nước đóng băng. Oksana thọc tay sâu qua lớp tuyết tìm một hòn đá. Sợ tiếng ồn thu hút sự chú ý, chị gói hòn đá trong khăn choàng để giảm bớt tiếng động khi chị đục một lỗ nhỏ trên băng. Chị bỏ hòn đá xuống. Lấy tinh thần trước làn nước lạnh cóng, đen ngòm, chị thò tay vào, thở dốc vì lạnh. Chỉ vài giây thôi là cánh tay chị sẽ tê cứng đi, nên chị nhanh tay hơn. Bàn tay chị chạm tới đáy mà không sờ thấy gì ngoài bùn. Nó đâu rồi nhỉ? Lo lắng, chị cúi xuống, thọc cả cánh tay, mò bên này bên kia, bàn tay mất hết cảm giác. Mấy ngón tay chị quẹt phải thủy tinh. Nhẹ nhõm, chị nắm lấy cái chai lôi lên. Da chị tím tái, như thể bị đấm. Điều đó chẳng làm chị bận tâm - chị đã tìm được cái muốn tìm, một cái chai khằn kín hắc ín. Chị lau sạch lớp bùn trên thành chai rồi nhìn vào bên trong. Trong chai là một mớ xương vụn. Về tới nhà, chị thấy Pavel đã nhóm lửa. Chị hơ nắp chai trên ngọn lửa, nhựa đường nhỏ xuống than hồng thành từng giọt tròn sánh đặc. Trong khi họ chờ, Pavel nhận thấy da chị tím nên xoa xoa cánh tay chị cho máu lưu thông trở lại, nó lúc nào cũng để tâm lo cho chị như thế. Khi nhựa đường chảy hết, chị dốc ngược cái chai mà lắc. Vài mẩu xương thò ra bên miệng chai. Chị rút ra, đưa cho con trai. Pavel xem xét cẩn thận, chà chà lên bề mặt, ngửi từng mẩu một. Khi chọn xong, nó đã sẵn sàng đi. Chị ngăn nó lại. - Cho em con đi cùng. Pavel nghĩ đấy là một sai lầm. Em trai nó vụng về và chậm chạp. Và dù sao con mèo cũng thuộc về nó. Nó đã thấy con mèo, và sẽ bắt. Đấy là chiến công của nó. Aksana dúi thêm một mẩu xương vào tay nó: - Cho Andrei theo. *** ANDREI SẮP LÊN TÁM và nó yêu quý anh trai mình lắm. Nó hiếm khi ra khỏi nhà, hầu hết thời gian nó ngồi chơi bài trong phòng sau, nơi cả ba mẹ con ngủ. Những quân bài do bố nó làm từ những tờ giấy cắt thành ô vuông rồi dán vào nhau, một món quà chia tay trước khi bố nó lên Kiev. Andrei vẫn còn chờ bố quay về. Không ai bảo cho Andrei biết phải trông chờ khác đi. Mỗi khi nhớ bố, mà điều này thì thường xuyên, nó chia bài ra giữa sàn và chơi bài một mình. Nó đinh ninh rằng nếu nó chơi được hết ván bài thì bố nó sẽ quay về. Đố chẳng phải là lý do bố cho nó cỗ bài trước khi đi sao? Tất nhiên Andrei thích chai bài với anh trai hơn, nhưng Pavel đã không có thời gian mà chơi nữa rồi. Anh luôn bận giúp mẹ và chỉ chơi vào buổi tối ngay trước khi đi ngủ. Pavel vào phòng. Andrei mỉm cười, hy vọng anh nó sẵn sàng chơi một ván, nhưng anh nó cúi xuống xếp bài lại: - Cất bài đi. Mình ra ngoài. Laptys của em đâu? Hiểu câu hỏi là mệnh lệnh, Andrei bò xuống giường lôi đôi laptys của mình ra, hai mảnh được cắt từ lốp máy kéo và một mớ giẻ rách mà dùng dây buộc lại sẽ thành một đôi ủng tạm bợ. Pavel giúp nó buộc chặt dây giày, giải thích rằng đêm nay chúng sẽ có dịp ăn thịt miễn là Andrei làm y lời. - Bố sẽ về ư? - Bố không về đâu. - Bố mất tích rồi hả anh? - Ừ, bố mất tích rồi. - Ai đem thịt cho mình? - Mình sẽ tự đi bắt lấy. Andrei biết anh nó là một thợ săn sành sỏi. Anh bẫy được nhiều chuột hơn bất cứ thằng bé nào trong làng. Đây là lần đầu tiên Andrei được anh rủ đi cùng trong một việc quan trọng như vậy. Ra ngoài tuyết, Andrei hết sức để ý để không ngã. Nó thường vấp và trượt chân, vì nó chỉ thấy được thế giới bên ngoài lờ mờ. Chỉ những thứ nó cầm lên tận mặt thì nó mới thấy rõ. Khi ai đó nhận ra được một người ở đằng xa - trong khi Andrei chỉ thấy mỗi một vệt lờ mờ - nó sẽ cho đó là sự thông minh hoặc kinh nghiệm hoặc một năng lực nào đó mà nó chưa có được. Đêm nay, nó sẽ không ngã và biến mình thành thằng ngốc. Nó sẽ khiến anh trai thấy tự hào. Điều này quan trọng với nó hơn cái hy vọng được ăn thịt. Pavel dừng lại ở bìa rừng, cúi xuống xem xét dấu vết con mèo trên tuyết. Andrei cho rằng kỹ năng lần theo dấu vết của anh nó thật xuất sắc. Sợ sệt, nó khum xuống, theo dõi anh nó sờ một dấu chân mèo. Andrei chẳng biết gì về tìm vết hay săn bắn: - Con mèo đi qua đây hả anh? Pavel gật và nhìn vào rừng: - Dấu mờ quá. Bắt chước anh, Andrei đưa ngón tay sờ quanh dấu chân mèo, hỏi: - Thế là sao hả anh? - Con mèo không nặng lắm, nghĩa là sẽ có ít thịt cho ta. Nhưng nếu nó đói thì rất có thể nó sẽ đi tìmmồi. Andrei cố hiểu thông tin này nhưng đầu óc nó cứ vẩn vơ. - Anh ơi, nếu anh là quân bài thì anh sẽ là quân nào? Anh là quân át hay quân K, quân pích hay quân cơ? Pavel thở dài và Andrei, đau nhói vì sự phật ý của anh trai, cảm thấy nước mắt bắt đầu ứa ra: - Nếu anh trả lời thì em có hứa sẽ thôi không nói nữa không? - Em hứa. - Mình sẽ không bắt được con mèo này đâu nếu em cứ nói và làm con mèo sợ chạy mất. - Em sẽ giữ yên lặng. - Anh sẽ là quân J, một hiệp sĩ, người mang kiếm. Em đã hứa rồi - không nói gì đâu đấy. Andrei gật. Pavel đứng lên. Chúng đi vào rừng. Chúng đi một hồi lâu - tưởng như hàng nhiều giờ đã trôi qua mặc dù cảm nhận của Andrei về thời gian, cũng như thị giác của nó, không sắc bén lắm. Có ánh trăng và lớp tuyết phản chiếu, anh nó dường như dễ dàng lần theo dấu vết. Cả hai tiếp tục tiến sâu vào rừng, xa hơn mọi lần Andrei vẫn đi. Nó thường phải chạy để theo cho kịp. Chân nó nhức nhối, bụng nó đau tức. Nó lạnh và đói, và dù ở nhà không có cái ăn thì ít nhất nó cũng không cảm thấy đau. Sợi dây buộc mớ giẻ với dải lốp xe đã bung ra và nó có thể cảm thấy tuyết len xuống lòng bàn chân. Nó không dám bảo anh dừng để buộc lại. Nó hứa rồi - không nói gì hết. Chút nữa tuyết sẽ tan, mấy miếng giẻ sẽ sũng nước, và thế là hai bàn chân nó sẽ tê cóng. Để không nghĩ đến sự khó chịu nữa, nó bẻ một cành con trên cây nhỏ rồi gặm vỏ, nhai nát thành một thứ bột thô cố cảm giác xạo xạo nơi răng và lưỡi. Người ta bảo nó bột vỏ cây làm thỏa cảmgiác đói. Nó tin họ; tin chuyện đó thật hữu ích. Đột nhiên Pavel ra hiệu cho nó đứng yên. Andrei dừng lại giữa chừng, răng nó nâu sì vỏ cây. Pavel khom người xuống. Andrei làm theo, nhìn quanh rừng tìm cái anh nó đã thấy, bất cần biết đó là gì. Nó nheo mắt, cố nhìn cho rõ mấy thân cây. Pavel nhìn chằm chằm con mèo và con mèo dường như cũng nhìn nó chằm chằm bằng cặp mắt nhỏ màu xanh. Nó đang nghĩ gì? Sao nó không bỏ chạy? Được giấu trong nhà bà Maria, có lẽ nó chưa biết sợ người. Pavel rút dao ra, cứa đầu ngón tay rồi bôi máu lên mẩu xương gà mẹ đưa. Nó làm tương tự với khúc mồi của Andrei - một đầu chuột nát - lấy máu mình vì nó không dám tin thằng em sẽ không thét lên làm con mèo hoảng sợ. Không nói một lời, hai anh em tách ra, tiến về hai hướng ngược nhau. Lúc ở nhà Pavel đã chỉ dẫn cặn kẽ cho Andrei nên không cần phải nói nữa. Khi chúng đã cách nhau một đoạn, ở hai phía của con mèo, chúng đặt mẩu xương trên tuyết. Pavel liếc qua thằng em, kiểm cho chắc là Andrei không làm hỏng việc. Làm y lời dặn, Andrei lôi sợi dây trong túi ra. Pavel đã thắt một đầu dây thành cái thòng lọng. Andrei chỉ phải làm mỗi một việc là quấn thòng lọng quanh cái sọ chuột. Nó làm vậy xong rồi bước lùi lại hết chiều dài sợi dây, nằm úp bụng xuống, làm tuyết bị nén lạo xạo. Nó nằm đợi. Chỉ giờ đây, nằm trên đất, nó mới nhận ra nó hầu như không thấy mồi của mình. Nó là một vệt mờ. Bỗng nhiên nó sợ, hy vọng con mèo sẽ đi về phía anh trai. Pavel sẽ không mắc sai lầm, anh nó sẽ bắt con mèo, rồi chúng sẽ về nhà ăn. Lo sợ và lạnh, tay nó bắt đầu run. Nó cố giữ cho hai bàn tay yên lại. Nó nhìn ra cái gì đó: một hình thù đen đen di chuyển về phía nó. Hơi thở của Andrei bắt đầu làm tan tuyết trước mặt; những giọt nước lạnh lăn tới rồi thấm vào quần áo nó. Nó muốn con mèo đi về phía đằng kia, về chỗ cái bẫy của anh nó, nhưng khi cái hình dáng lờ mờ tiến gần hơn thì không thể phủ nhận rằng con mèo đã chọn nó. Tất nhiên, nếu nó bắt được con mèo này thì Pavel sẽ yêu quý nó, sẽ chơi bài với nó, và không bao giờ nổi cáu nữa. Viễn cảnh ấy làmnó sung sướng, tâm trạng nó biến từ sợ hãi sang chờ đợi. Đúng, nó sẽ là người bắt được con mèo này. Nó sẽ thịt con mèo. Nỏ sẽ tự chứng tỏ mình. Anh nó đã dặn gì nhỉ? Anh đã dặn không được giật dây quá sớm. Nếu con mèo giật mình, tất cả sẽ đi tong. Vì lý do này, và vì nó không thể biết chắc con mèo đang đứng đâu, Andrei quyết định là sẽ chờ, cho chắc ăn. Nó đã gần nhìn rõ được bộ lông đen với bốn chân. Nó sẽ đợi thêm chút nữa, một lúc nữa... Nó nghe tiếng anh nó rít lên: - Làm đi! Andrei hoảng hốt. Nó đã nghe cái giọng điệu ấy nhiều lần rồi. Thế nghĩa là nó vừa làm gì sai. Nó cố hết sức nheo mắt thì thấy con mèo đang đứng giữa cái bẫy của nó. Nó giật sợi dây. Nhưng quá muộn, con mèo đã vọt đi. Thòng lọng đã trượt. Dù vậy, Andrei vẫn kéo sợi dây mảnh về phía mình, hy vọng tha thiết rằng làm sao đó ở phía đầu kia sẽ có một con mèo. Thòng lọng trống không đến tay và nó cảm thấy mặt mình đỏ lên vì xấu hổ. Quá tức giận, nó sẵn sàng đứng lên đuổi theo con mèo, tóm lấy nó mà siết cổ và đập nát sọ nó. Nhưng nó không nhúc nhích: nó thấy anh trai còn nằm bẹp trên mặt đất. Và Andrei, biết là luôn phải làm theo sự dẫn dắt của ông anh, cũng làm theo. Nó nheo mắt, căng mắt thì nhận ra là cái hình thù đen mờ mờ ấy giờ đang tiến về phía bẫy của anh nó. Nỗi tức giận vì cái vô tích sự của thằng em đã nhường chỗ cho sự phấn chấn vì sự khinh suất của con mèo. Các cơ trên lưng Pavel gồng lên. Chắc chắn con mèo đã ngửi thấy máu, và con đói mạnh hơn sự thận trọng. Nó nhìn con mèo dừng lại giữa chừng, một chân giơ lên, nhìn nó chằm chằm. Nó nín thở: mấy ngón tay nắm chặt sợi dây và chờ đợi, thầm giục con mèo đi tiếp. Nào. Nào. Nào. Con mèo chồm tới trước, há miệng ngoặm lấy mẩu xương. Canh thật đúng lúc, nó giật sợi dây. Cái thòng lọng quấn quanh bàn chân mèo, chân trước sập bẫy. Pavel bật dậy, kéo mạnh sợi dây, siết chặt cái thòng lọng. Con mèo cố chạy nhưng sợi dây giữ chặt. Nó vật con mèo xuống đất. Tiếng gào ré vọng khắp rừng, như thể một sinh vật lớn hơn rất nhiều đang cố thoát thân, giãy giụa trong tuyết, vồng mình lên, cắn sợi dây. Pavel sợ là nút thắt sẽ đứt. Sợi dậy quá mảnh và xơ rồi. Khi nó thử tiến gần hơn, con mèo giật ra, xa khỏi tầm với. Nó hét về phía em trai: - Giết đi! Andrei vẫn còn nằm yên không nhúc nhích, không muốn mắc thêm sai lầm nữa. Nhưng giờ nó đã được chỉ thị. Nó bật dậy, chạy lên, liền trượt và ngã sấp. Ngóc mũi ra khỏi tuyết, nó thấy con mèo đằng trước đang rít, sùi bọt mép, và giãy giụa. Nếu sợi dây đứt, con mèo sẽ sổng mất và anh nó sẽ ghét nó suốt đời. Pavel hét lên, giọng khản đi, điên cuồng: - Giết đi! Giết nó! Giết nó đi! Andrei loạng choạng đứng lên, không hề biết rõ mình đang làm gì, nó nhảy tới chồm lên mình con mèo đang giãy giụa. Có lẽ nó hy vọng cú va chạm sẽ làm con mèo chết. Nhưng giờ, nằm trên con vật, nó cảm thấy được là con mèo còn sống và cựa quậy dưới bụng nó, cào cấu cái áo khoác bao bố khâu lại của nó. Cứ nằm bẹp trên con mèo để nó không chạy thoát, Andrei nhìn ra sau, mắt cầu xin Pavel tới lo liệu: - Nó còn sống! Pavel chạy đến và quỳ xuống, chuồi tay xuống dưới mình thằng em thì trúng ngay cái táp của con mèo. Nó bị cắn. Nó giật tay ra. Mặc kệ ngón tay chảy máu, nó trèo qua phía bên kia và lại đút hai tay xuống, lần này chạm trúng đuôi mèo. Mấy ngón tay nó bắt đầu lần mò lên phía lưng mèo. Từ hướng tấn công này, con vật không còn đường chống cự. Andrei vẫn nằm yên không nhúc nhích, cảm thấy cuộc vật lộn diễn ra dưới bụng mình, cảm thấy tay anh trai gần đến đầu con mèo, gần hơn, gần hơn nữa. Con mèo biết thế nghĩa là chết và bắt đầu cắn loạn - áo khoác của Andrei, tuyết - điên lên vì sợ, nỗi sợ mà Andrei có thể cảm thấy như những rung động trong bụng mình. Bắt chước anh nó hét lên: - Giết nó đi! Giết đi! Giết nó đi! Pavel thộp cổ con vật. Trong một lúc không ai động đậy, chỉ nằm yên, thở sâu. Pavel tựa đầu trên lưng Andrei, hai tay vẫn nắm chặt cổ mèo. Cuối cùng nó rút tay dưới bụng thằng em ra rồi đứng lên. Andrei vẫn nằm trên tuyết, không dám động đậy. - Giờ em đứng lên được rồi. Nó có thể đứng cạnh anh trai. Nó có thể đứng tự hào. Andrei đã không thất vọng. Nó đã không thất bại. Nó đưa tay ra, nắm lấy tay anh trai, đứng lên. Pavel chẳng thể bắt được con mèo nếu không có nó. Sợi dây có thể đã đứt. Con mèo có thể đã thoát được. Andrei mỉm cười, rồi cười lớn, vỗ tay và nhảy nhót ngay đó. Trong đời mình, chưa bao giờ nó thấy hạnh phúc như vậy. Chúng là một đội. Anh trai ômchặt nó và cả hai nhìn xuống chiến lợi phẩm của mình: một con mèo gầy gò đã chết lún trong tuyết. Mang chiến lợi phẩm của mình về làng để không ai thấy là sự cẩn thận cần thiết. Mọi người sẽ đánh nhau, giết nhau vì một món bở như vậy, và tiếng gào ré của con mèo có thể đã báo động cho ai đó rồi. Pavel không chịu để mặc cho sự may rủi. Chúng đã không mang theo túi để giấu con mèo. Nó ứng biến và quyết định sẽ giấu con mèo dưới một bó củi. Nếu chúng gặp ai trên đường về, người ta sẽ tưởng chúng đang đi nhặt củi và sẽ không hỏi gì. Nó xách con mèo dưới tuyết lên: - Anh sẽ để mèo dưới bó củi để không ai nhìn thấy. Nhưng nếu mình đi nhặt củi thật thì em cũng phải ôm củi. Andrei thấy rất ấn tượng vì logic của anh trai - nó thì sẽ không bao giờ nghĩ được như vậy. Nó bắt đầu đi nhặt củi. Vì mặt đất bị tuyết phủ nên khó mà tìm được thứ củi lộ ra, và nó buộc phải để tay trần mà bới. Sau mỗi lần bới nó lại chà mấy ngón tay vào nhau mà thổi. Nó bắt đầu chảy mũi, nước mũi đọng lại nơi môi trên. Dù vậy, nó không nề hà, đêm nay thì không đâu, sau thành công của chúng, và nó cất tiếng ngâm nga một bài bố nó thường hát, lại chọc ngón tay vào tuyết. Pavel cũng thấy khan hiếmcủi, nó đi xa chỗ thằng em. Chúng phải tách ra. Xa xa nó thấy một cây đổ, nhánh tỏa ra mọi hướng. Nó vội tiến đến, bỏ con mèo dưới tuyết để rảnh tay bẻ cành khô nơi thân cây. Ở đây có rất nhiều, dư sức cho cả hai anh em, vậy nên nó nhìn quanh tìm Andrei. Nó định gọi thì nghẹn lại. Có tiếng động. Nó quay ngoắt lại, nhìn quanh. Rừng rậm và tối. Nó nhắm mắt, tập trung vào cái âm thanh đó - một nhịp điệu: tiếng lạo xạo của tuyết, lạo xạo, lạo xạo. Tiếng ấy trở nên nhanh hơn, to hơn. Adrenaline chạy khắp người Pavel. Nó mở mắt ra. Trong bóng đen có một cái gì động đậy: một người đàn ông đang chạy. Hắn cầm một cành cây lớn và nặng. Những bước chân sải dài. Hắn đang phóng thẳng về phía Pavel. Hắn ta đã nghe thấy anh em nó giết con mèo và giờ hắn sắp cướp chiến lợi phẩm của chúng. Nhưng Pavel sẽ không để hắn làm vậy: nó sẽ không để cho mẹ chết đói. Nó sẽ không thất bại như bố nó. Nó bèn đưa chân hất tuyết lấp con mèo, cố giấu nó đi. - Chúng cháu đang nhặt... Giọng Pavel lạc đi khi người đàn ông lao qua những rặng cây, giơ cành cây lên. Chỉ giờ đây, khi thấy bộ mặt hốc hác và ánh mắt hoang dại của gã này, Pavel mới nhận ra người đàn ông này không muốn con mèo. Hắn muốn nó. Miệng Pavel há hốc đâu chừng cùng lúc cành cây bổ xuống, đầu cành cây nện vào đỉnh đầu nó. Nó không cảm thấy gì hết, nhưng nó biết mình không còn đứng nữa. Nó đang quỳ. Ngước nhìn lên, đầu ngoẹo một bên, máu trào xuống một bên mắt, nó nhìn người đàn ông giơ cành cây lên định giáng một đòn thứ hai. *** ANDREI NGỪNG NGÂM NGA. Có phải anh trai vừa gọi nó không? Nó không kiếm được nhiều củi lắm, chắc chắn là không đủ cho kế hoạch của chúng, nó không muốn bị mắng, nhất là sau khi nó đã làm được cừ như thế. Nó rút tay dưới tuyết lên và đứng dậy. Nó nhìn vào rừng, nheo mắt, dù cái cây gần nhất thì cũng chỉ thấy lòa lòa: - Pavel? Không có tiếng đáp. Nó lại gọi. Đây có phải trò chơi không? Không, Pavel không giỡn chơi, không vậy nữa. Andrei đi về hướng nó đã thấy anh lần cuối, nhưng nó không thấy gì hết. Thật ngớ ngẩn. Có gì đó không ổn. Nó lại gọi, lần này to hơn. Sao anh nó không trả lời? Andrei quẹt mũi vào ống tay áo và tự hỏi đây có phải là một thử thách không. Anh nó sẽ làm gì trong tình huống này? Anh nó sẽ lần theo dấu vết trên tuyết. Andrei thả mớ củi và quỳ xuống, mò mẫm bò tìm trên đất. Nó tìm thấy dấu chân của nó và lần trở lại chỗ nó bỏ anh trai. Tự hào, nó chuyển sang dấu chân của anh. Nếu đứng lên, nó không thể thấy dấu chân, nên nó khom xuống, mũi chỉ cách mặt tuyết một cánh tay, nó cứ tiếp tục, như con chó đang đánh hơi. Nó tới được chỗ một cây đổ, những que củi rơi vãi xung quanh dấu chân khắp nơi - một số dấu rất sâu và lớn. Tuyết có màu đỏ. Andrei vốc một nắm, măn măn trong tay, bóp chặt và thấy tuyết hóa thành máu. - Pavel! Nó cứ gọi mãi cho đến khi cổ họng rát và giọng lạc đi. Thút thít, nó muốn nói với anh trai rằng anh ăn phần thịt mèo của nó cũng được. Nó chỉ muốn anh quay về. Nhưng chẳng ích gì. Anh nó đã bỏ nó mà đi rồi. Và nó chỉ còn một mình. *** OKSANA ĐÃ GIẤU một túi nhỏ bột cây ngô, cây rau muối, và vỏ khoai tây nghiền đằng sau mấy viên gạch lò sưởi. Trong các cuộc kiểm tra chị luôn để lửa cháy riu riu trong lò. Những người đi tịch thu được cử đến kiểm cho chắc là chị không tích trữ lúa mì không bao giờ nhìn qua bên kia ngọn lửa. Đêm nay, gia đình chị sẽ có một bữa tiệc. Chị làm tan vài nắm tuyết, đem đun sôi rồi đổ bột cây ngô vào cho đặc. Chị thêm vào phần xương còn lại trong chai. Khi đã chín, chị nghiền chỗ ấy thành bột. Tất nhiên chị chỉ đang làm trước. Phần việc của Pavel vẫn chưa xong. Nhưng chị cảm thấy chắc chắn là nó sẽ làm được. Nếu Chúa bắt chị chịu gian truân thì Người cũng đã cho chị một đứa con trai để đỡ đần. Ngay cả nếu nó không bắt được con mèo, chị tự hứa cũng sẽ không nổi giận. Khu rừng quá lớn, mà con mèo quá nhỏ, và dù gì tức giận chỉ làm hao sức thôi. Thậm chí, khi chị cố chuẩn bị trước tâm lý đón nỗi thất vọng thì chị cũng không cưỡng được cảm giác chếnh choáng trước viễn cảnh bữa thịt và xúp khoai tây. Andrei đứng nơi ngưỡng cửa, mặt mày trầy trụa, tuyết dính trên áo, mũi chảy nước mũi và máu. Đôi laptys của nó rách bươm và ngón chân lòi ra. Oksana chạy đến: - Anh con đâu? - Anh bỏ con rồi. Andrei òa ra khóc. Nó không biết anh trai ở đâu. Nó không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó không giải thích đưọc. Nó biết mẹ sẽ ghét nó. Nó biết sẽ là lỗi của nó, cho dù nó đã làm đúng mọi chuyện, cho dù chính anh trai mới là người bỏ nó. Oksana nghẹt thở. Chị xô Andrei sang một bên và hấp tấp ra khỏi nhà, nhìn về phía rừng. Không thấy Pavel đâu. Có lẽ nó ngã và bị thương. Có lẽ nó cần được giúp. Chị chạy trở vào nhà, thiết tha tìmcâu trả lời, chỉ thấy Andrei đứng bên nồi xúp và chiếc thìa trong miệng. Bị bắt quả tang, nó rụt rè nhìn mẹ, một dòng xúp khoai tây nơi miệng nó chảy giọt xuống. Quá tức giận - vì người chồng đã chết, đứa con trai mất tích - chị chạy lại, đánh nó ngã lăn ra đất, tọng chiếc thìa gỗ vào họng nó: - Khi tao rút chiếc thìa ra, mày phải kể cho tao nghe xem đã xảy ra chuyện gì. Nhưng khi chị rút chiếc thìa ra thì nó chỉ biết ho sặc sụa. Điên tiết, chị lại tọng chiếc thìa vào họng nó: - Cái thằng vô tích sự, vụng về, đần độn này. Con trai tao đâu? Nó đâu rồi? Chị lại rút chiếc thìa ra, nhưng nó vẫn khóc và nghẹn. Nó không nói được. Nó cứ khóc và sặc và thế là chị đánh nó, thụi vào lồng ngực nhỏ bé của nó. Chỉ khi nồi xúp sắp trào thì chị mới dừng lại. Chị đứng lên, bắc nồi xúp trên bếp xuống. Andrei thút thít giữa sàn nhà. Oksana nhìn nó, cơn giận nguôi dần. Nó còn bé quá. Nó rất yêu anh trai. Chị quỳ xuống, bế nó lên, rồi đặt nó trên ghế. Chị lấy chăn quấn quanh người nó và múc xúp vào bát cho nó, một suất thịnh soạn hơn mọi khi nó được ăn. Chị cố bón cho nó, nhưng nó không há miệng. Nó không tin chị. Chị đưa thìa cho nó. Nó nín khóc và bắt đầu ăn. Nó ăn xong bát xúp. Chị lại múc đầy. Chị bảo nó ăn chậm thôi. Nó không nghe, chén hết bát thứ hai. Rất khẽ chị hỏi đã có chuyện gì và lắng nghe nó giải thích vệt máu trên tuyết, những cành củi bỏ lại, không thấy anh đâu, và dấu chân in sâu. Chị nhắm mắt. - Anh con chết rồi. Anh con bị bắt ăn thịt rồi. Con hiểu không? Khi các con đang săn con mèo đó thì có người đang săn các con. Con hiểu không? Andrei vẫn im lặng, nhìn chằm chằm những giọt nước mắt của mẹ. Thực ra, nó không hiểu. Nó nhìn chị đứng lên ra khỏi nhà. Nghe thấy tiếng mẹ, nó chạy ra cửa. Oksana đang quỳ trên tuyết, ngước nhìn vầng trăng tròn. - Con cầu xin Chúa trả lại con trai cho con. Giờ thì chỉ có Chúa mới có thể mang nó về. Vài người hàng xóm xuất hiện trước cửa nhà họ. Họ nhìn Oksana. Họ nghe chị khóc. Nhưng nỗi đau kiểu này không có gì là lạ, nên người ta cũng chẳng đứng nhìn lâu. HAI MƯƠI NĂM SAU MÁTXCƠVA 11 THÁNG HAI, 1953 HÒN TUYẾT ĐẬP MẠNH vào sau đầu Jora. Cú va chạm bất ngờ khiến tuyết vỡ tung quanh tai nó. Đâu đó đằng sau, nó nghe thấy thằng em cười, cười rõ to - tự hào về bản thân, tự hào về cú ném, dù rằng đó là ăn may, chỉ xảy xa một lần. Jora phủi tuyết trên cổ áo khoác nhưng mấy mẩu vụn cũng đã trôi xuống lưng nó rồi. Tuyết tan ra, trượt trên da nó, để lại những vệt nước lạnh cóng. Nó kéo áo sơ mi bỏ ra ngoài quần, với tay hết mức để cào chỗ tuyết dính. Không thể tin được tính tự phụ của anh trai - cứ lo chiếc áo thay vì dè chừng đối thủ - Arkady cứ từ từ, vun mấy vốc tuyết lên nhau, nắm này chồng lên nắm kia. Quá lớn nên quả bóng tuyết trở nên vô dụng: khó ném, bay chậm, và né được dễ dàng. Lâu nay, đấy là sai lầm của nó, làm quả bóng tuyết quá to. Thay vì làm đối thủ đau hơn thì mấy hòn tuyết đó có thể vỡ ra giữa không và vụn ra, tan tành và còn không trúng anh nó nữa. Nó và Jora rất hay chơi ngoài tuyết. Đôi khi có cả tụi con nít khác nữa, nhưng thường thì chỉ có hai anh em. Trò chơi thường bắt đầu ngẫu nhiên, rồi càng lúc càng gay cấn sau mỗi cú ném trúng. Arkady luôn thua, bị tốc độ và sức mạnh những cú ném của anh áp đảo. Trò chơi luôn kết thúc cùng một kiểu: thất vọng, đầu hàng, bực bội, hoặc tệ hơn, khóc lóc và giận dỗi bỏ đi. Nó không thích chuyện nó bao giờ cũng là người thua, và tệ hơn nữa, nó ghét chuyện nó quá cay cú về chuyện đó. Lý do duy nhất mà nó vẫn chơi là bởi vì nó chắc chắn hôm nay sẽ khác, hôm nay nó sẽ thắng. Và hôm nay là ngày đó đây. Cơ hội của nó đây rồi. Nó tiến đến gần hơn nhưng không quá gần: nó muốn cú ném này được tính. Bắn thẳng thì không tính. Jora thấy nắm tuyết bay đến: một cục tròn trắng bay vòng trên không, không lớn quá, không nhỏ quá, chỉ như hòn nó vẫn ném. Nó chẳng thể làm gì được nữa rồi. Tay nó còn ở sau lưng. Nó phải thừa nhận là em trai nó học nhanh. Hòn tuyết đập vào đầu mũi nó, bắn vào mắt nó, thốc lên mũi nó, miệng nó. Nó lùi lại, mặt nó đóng cả tuyết. Một cú ném hoàn hảo - thế là trận đấu kết thúc. Nó đã bị thằng em đánh bại - một thằng nhỏ còn chưa đầy năm tuổi. Thế nhưng chỉ giờ đây khi lần đầu tiên thua cuộc nó mới đánh giá cao tầmquan trọng của chiến thắng. Em nó lại cười - cố làm bộ làm tịch ra nữa, như thể một nắm tuyết trên mặt là thứ buồn cười nhất. À, ít nhất thì nó chưa bao giờ hả hê như Arkady bây giờ; nó chưa bao giờ cười ngặt nghẽo thế hay thỏa mãn chiến thắng như thế. Em nó là một đứa thua thảm hại và là một kẻ chiến thắng còn tệ hại hơn nữa. Thằng nhỏ cần phải được dạy cho một bài học, bị bẽ mặt. Nó đã thắng một trận, chỉ có vậy: một cú ăn may, một cuộc chơi bình thường, một trong cả trăm cuộc chơi: không - một trong cả ngàn. Và bây giờ, nó giả vờ là không hiểu sao chúng lại huề, hay tệ hơn nữa, em nó lại giỏi hơn nó ư? Jora cúi xuống, bới trong tuyết, xuống tận mặt đất đóng băng bên dưới, gom một nắm bùn đóng bánh lẫn cát và sỏi. Thấy anh mình đang chuẩn bị một hòn tuyết khác, Arkady quay đầu bỏ chạy. Đây sẽ là một cú phục thù: được vo cẩn thận và được ném hết sức bình sinh. Nó không định hứng một trong mấy cú ném kiểu đó đâu. Nếu bỏ chạy thì nó sẽ an toàn. Cú ném, dù được làm ngon lành thế nào, dù chính xác đến cỡ nào, cũng chỉ có thể bay trên không rồi bắt đầu méo mó đi, và rã ra. Mà dù cho có trúng đi nữa, sau một khoảng xa nhất định, nó cũng vô hại, gần như không đáng ném gì hết. Nếu nó chạy, nó sẽ kết thúc ở cửa trên. Nó không muốn chiến thắng của mình bị lật nhào, bị tì vết vì một loạt những cú ném tới tấp từ phía anh trai. Không, chạy và tuyên bố thắng cuộc. Kết thúc trò chơi ngay bây giờ. Nó sẽ tận hưởng được cảm giác này ít nhất cũng đến ngày mai khi nó có thể lại thua tiếp. Nhưng đấy là chuyện ngày mai. Hôm nay là chiến thắng. Nó nghe anh trai hét tên nó. Và nó ngoảnh lại, vẫn chạy, mỉm cười - chắc rằng mình đã ngoài tầmném rồi. Cú va chạm như một quả đấm vào mặt nó. Đầu nó quay cuồng, chân nó hẫng khỏi mặt đất, và trong tích tắc nó đang bềnh bồng trên không. Khi bàn chân nó chạm đất trở lại thì hai giò nó khuỵu xuống, nó té, bất động - choáng váng quá còn không chìa tay ra được nữa - đổ sầm xuống tuyết. Trong một lúc, nó chỉ nằm đó, không thể hiểu chuyện gì đã xảy ra. Có cát, bùn, nước bọt và máu trong miệng nó. Nó thử chọc ngón tay đeo găng vào giữa hai môi. Răng nó có cảm giác lạo xạo như bị tọng cát vào miệng. Có một khe hở. Một cái răng đã gãy. Nó òa khóc, nhổ nước bọt xuống tuyết, đào bới trong đống lộn xộn; tìm chiếc răng rơi mất. Không hiểu sao đó là điều duy nhất nó có thể nghĩ đến lúc này, đó là điều duy nhất nó quan tâm. Nó phải tìm ra cái răng. Nó đâu rồi? Nhưng nó không thể tìm thấy, trên nền tuyết trắng như vậy. Mất rồi. Và đấy không phải cái đau, mà là nỗi tức giận, sự oán hận vì nỗi bất công này. Nó không thể thắng một trận sao? Nó đã giành được một cách ngay thẳng. Anh nó không cho nó điều đó được sao? Jora chạy lại em trai. Ngay khi nắm bùn, cát, tuyết và sỏi rời khỏi tay thì nó đã hối tiếc quyết định của mình. Nó đã hét gọi thằng em, muốn em nó cúi xuống, để tránh cú ném. Thay vì ngồi xuống, Arkady quay lại đón ngay cú ném. Thay vì giúp đứa em thì hành động đó dường như là một cái vung tay đặc biệt hiểm ác. Khi đến gần, nó thấy máu trên tuyết và cảm thấy buồn nôn. Nó đã gây ra chuyện này. Nó đã biến trò chơi của chúng, một trò chơi mà nó thích thú như thích thú bất cứ thứ gì, thành một chuyện khủng khiếp. Sao nó lại không thể để em nó thắng? Nó có thể thắng ngày mai, ngày kia rồi ngày kia nữa. Nó cảm thấy xấu hổ. Jora cúi xuống, đặt tay lên vai em. Arkady gạt đi, ngước nhìn lên với hai mắt đỏ ngầu đầy nước mắt và miệng đầy máu, trông như một con thú hoang. Nó không nói gì. Cả khuôn mặt nó đanh lại vì giận dữ. Nó đứng lên, hơi loạng choạng. - Arkady? Đáp lại, em trai nó chỉ há miệng và hét lên, tạo ra một âm thanh như con thú. Jora chỉ nhìn thấy được mỗi hàm răng be bét. Arkady quay người bỏ chạy. - Arkady, đợi đã! Nhưng Arkady không đợi - không dừng lại, không muốn nghe lời xin lỗi của anh trai. Nó cắm đầu cắm cổ chạy, lưỡi nó đưa lên tìm khe hở mới có chỗ răng cửa. Tìm thấy rồi, nó lần đầu lưỡi lên nướu, nó hy vọng sẽ không bao giờ gặp lại anh trai nữa. 14 THÁNG HAI LEO NGƯỚC NHÌN lô chung cư 18 - một khói bê tông xám, bè bè, ít tầng. Lúc đó xế chiều, trời đã tối. Cả ngày làm cho một việc dễ ghét và vụn vặt. Theo biên bản khám nghiệm của bên dân quân, người ta đã phát hiện một cậu bé bốn tuổi mười tháng chết trên đường ray. Cậu bé đang chơi trên đường ray, cách đây ba đêm, rồi bị một tàu chở khách đâm phải, người nó bị bánh tàu cắt nát. Lái tàu chuyến 9 giờ tối đi Khabarovsk đã thuật lại ở trạm dừng đầu tiên rằng anh ta đã thoáng thấy ai đó hoặc cái gì đó trên đường ray ngay sau khi rời nhà ga Yaroslavskiy Vokzal. Con tàu quả có đâm trúng cậu bé hay không thì còn chưa chắc chắn. Có lẽ lái tàu không muốn thừa nhận đã đâm phải đứa trẻ. Nhưng không cần thiết phải nhấn mạnh vấn đề này: đấy là một tai nạn thảm khốc không cần đặt vấn đề đổ lỗi cho ai. Sự việc lẽ ra đã khép lại. Thông thường, không có lý gì mà Leo Stepanovich Demidov - một nhân viên MGB, cơ quan An ninh Nhà nước - lại tham gia vào vụ việc như thế này. Ở đây thì có việc gì cho gã? Mất một đứa con là chuyện đau đớn cho gia đình và người thân. Nhưng, nói trắng ra, nó chẳng có nghĩa lý gì ở tầm mức quốc gia. Trẻ con sơ ý, trừ phi chúng không biết giữ mồm giữ miệng, không phải là vấn đề của An ninh Nhà nước. Tuy nhiên, tình huống cụ thể này lại trở nên phức tạp ngoài dự kiến. Nỗi đau của bậc cha mẹ đã mang một hình thức khác thường. Dường như họ không thể chấp nhận rằng con trai họ (Leo đã xem biên bản, ghi nhớ cái tên Arkady) phải chịu trách nhiệm cho chính cái chết của nó. Họ báo với mọi người rằng nó đã bị giết. Do ai - họ không biết. Vì lý do gì - họ không biết. Làm sao một chuyện như thế mà lại có thể xảy ra được - một lần nữa, họ không biết. Nhưng dù không có một lập luận hợp lẽ và đáng tin thì họ cũng có một sức mạnh tinh thần đứng về phía họ. Có một khả năng rất thực tế là họ đang thuyết phục những người cả tin hàng xóm, bạn bè, và người lạ, bất cứ ai chịu nghe. Như để cho sự việc còn trầm trọng hơn, chính bố đứa bé, Fyodor Andreev, là một nhân viên MGB cấp thấp và là một trong những thuộc cấp của Leo. Đáng lẽ anh ta phải hiểu biết hơn thì anh ta lại làmcho MGB mang tiếng xấu bằng cách sử dụng ảnh hưởng quyền lực của mình để tăng tính xác tín cho khẳng định vô lý này. Anh ta đã đi quá giới hạn. Anh ta đã để tình cảm che mờ lý trí. Nếu tình hình không dịu bớt, nhiệm vụ của Leo ở đây ắt hẳn sẽ là bắt người đàn ông này. Toàn bộ vụ này đang rối tinh lên. Và Leo buộc phải tạm thời gác lại một nhiệm vụ nhạy cảm, nhiệm vụ thực sự, để xử lý vấn đề này. Không ham gặp mặt Fyodor, Leo thong thả đi cầu thang, ngẫm nghĩ làm thế nào gã lại thế này - giám sát phản ứng của dân. Gã chưa bao giờ có ý định gia nhập Bộ An ninh Nhà nước; sự nghiệp này đã bắt nguồn từ thời gã làm nghĩa vụ quân sự. Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, gã được tuyển mộ vào một đơn vị đặc nhiệm, OMSBON - Lữ đoàn Mô tô cơ giới Đặc nhiệm Độc lập. Các tiểu đoàn ba và bốn của đơn vị này được tuyển lựa từ Viện Giáo dục Thể chất Trung ương, nơi gã là học viên. Được lựa chọn vì năng lực thể chất và tính lực lưỡng, họ được đưa đến một trại huấn huyện ở Mytishchi, phía Bắc Mátxcơva, ở đây họ được dạy cận chiến, đào tạo về vũ khí, nhảy dù tầm thấp, và sử dụng chất nổ. Trại huấn luyện này thuộc NKVD, được xem là mật vụ trước khi An ninh Nhà nước trở thành MGB. Các tiểu đoàn này trực thuộc NKVD, không phải quân đội, và bản chất các nhiệm vụ của họ phản ánh điều này. Được đưa ra sau giới tuyến quân thù, phá hủy cơ sở hạ tầng, thu thập thông tin, thực hiện các cuộc ám sát, họ là những tay đột kích bí mật. Leo thích sự độc lập trong các chiến dịch của gã, mặc dù gã thận trọng giữ kín ý nghĩ này. Gã thích cái thực tế, hay có lẽ chỉ là cái ấn tượng, rằng số mệnh của gã năm trong tay gã. Gã đã rất xuất sắc. Kết quả là gã được trao Huân chương Suvorov hạng hai. Sự điềm tĩnh của gã, thành công trong binh nghiệp, ngoại hình điển trai, và trên hết là niềm tin tuyệt đối và chân thành của gã vào đất nước đã khiến gã trở thành chàng trai trên áp phích - hoàn toàn theo nghĩa đen - cho quân Liên Xô giải phóng lãnh thổ bị quân Đức chiếm đóng. Gã cùng một toán lính từ các sư đoàn hổ lốn được chụp đứng quanh xác thiết giáp Đức, súng chĩa lên trời, niềm hân hoan chiến thắng trên mặt. Đằng sau, khói bốc lên từ những ngôi làng cháy âm ỉ. Sự phá hủy và chết chóc và những nụ cười chiến thắng - Leo, với hàm răng đẹp và đôi vai rộng, được đưa lên đứng hàng trước. Một tuần sau, tấm ảnh lên trang nhất báo Pravda và Leo nhận được lời chúc mừng từ những người lạ, lính, thường dân, những người muốn bắt tay gã, ôm gã, biểu tượng của chiến thắng. Sau chiến tranh, OMSBON đổi thành NKVD và Leo chuyển theo. Sự thăng tiến đó dường như hợp lẽ. Gã không hỏi gì: đó là con đường do cấp trên trải ra và thế là gã bước đi, đầu ngẩng cao. Đất nước có thể yêu cầu gã bất cứ điều gì và gã sẽ sẵn lòng. Gã có thể điều hành trại Gulag ở lãnh nguyên Bắc Cực vùng Kolyma nếu người ta yêu cầu. Tham vọng duy nhất của gã là một tham vọng chung: phục vụ đất nước, một đất nước đã đánh bại chủ nghĩa phát xít, một đất nước đã đem lại nền giáo dục và chăm sóc y tế miễn phí, đã gióng lên quyền của người lao động trên toàn thế giới, đã trả lương cho cha gã - một công nhân trong một dây chuyền lắp ráp đạn dược - một mức lương tương đương với lương của một bác sĩ có đầy đủ bằng cấp. Mặc dù công việc của gã trong Bộ An ninh Nhà nước thường khó chịu nhưng gã cũng hiểu sự cần thiết của nó, sự cần thiết bảo vệ cách mạng khỏi thù trong giặc ngoài, khỏi những kẻ tìm cách phá hoại và những kẻ quyết chứng kiến nó thất bại. Vì mục đích này, Leo sẵn sàng hy sinh đời mình. Chủ nghĩa anh hùng hay huấn luyện quân sự gã được rèn dạy không dính dáng gì đến việc hôm nay. Ở đây không có kẻ thù. Đây là một đồng nghiệp, một người bạn, một người cha kiệt quệ vì đau buồn. Thế nhưng, cho dù là vậy, đây là một nguyên tắc của MGB và người cha đau khổ này là mục tiêu. Leo cần phải giải quyết thận trọng. Gã không thể cho phép mình bị chi phối bởi chính thứ tình cảm đã khiến cho Fyodor mù quáng. Sự quá khích này đang đẩy một gia đình lương thiện vào chỗ nguy hiểm. Nếu không kìm lại, những đồn đại thiếu căn cứ về án mạng này có thể phát triển như cỏ dại, lan tràn trong cộng đồng, làm dân chúng lo lắng. Nhiệm vụ của Leo là dập tắt bất cứ suy luận vô căn cứ nào, và dìu dắt họ trở về từ bờ vực. Câu chuyện giết người có một kịch tính tự nhiên mà chắc chắn sẽ lôi cuốn được một số típ người ưa tưởng tượng. Nếu đã đến mức ấy thì gã sẽ nhẫn tâm: cậu bé đã mắc sai lầm và đã phải trả giá bằng mạng sống của mình. Không cần thêm ai đau khổ vì sự sơ ý của nó nữa. Chắc như vậy là quá nhiều. Gã không cần đi quá xa. Chuyện này có thể được xử lý khéo léo. Họ đang đau buồn - thế thôi. Hãy kiên nhẫn với họ. Họ không suy nghĩ được rõ ràng. Trình bày các bằng chứng. Gã ở đây không phải để đe dọa họ, ít ra thì cũng không ngay lúc này: gã ở đây để giúp họ. Leo gõ cửa và Fyodor ra mở. Leo cúi đầu chào: - Tôi rất lấy làm tiếc về nỗi mất mát của anh. Fyodor lùi lại, để Leo vào. Ghế nào cũng đã có người ngồi. Căn phòng chật cứng người, như thể một cuộc họp làng đã được triệu tập. Có người già, trẻ nhỏ - rõ ràng cả gia đình đã tập hợp. Trong không khí thế này, không khó tưởng tượng những cảm xúc được dồn đẩy thế nào. Chắc chắn họ đã khích lệ nhau nghĩ rằng có một lực lượng bí hiểm nào đấy chịu trách nhiệm cho cái chết của cậu con nhỏ của họ. Có lẽ như thế mới khiến họ dễ chấp nhận nỗi mất mát hơn. Có lẽ họ cảm thấy có lỗi vì đã không dạy dỗ đứa bé phải tránh xa đường ray. Leo nhận ra một số gương mặt quanh mình. Họ là đồng nghiệp của Fyodor. Và bỗng nhiên họ bối rối khi bị bắt gặp ở đây. Họ không biết nên làm gì, họ tránh ánh mắt nhìn, muốn cáo từ nhưng không thể. Leo quay sang Fyodor: - Có lẽ sẽ dễ dàng nói chuyện hơn nếu chỉ có hai chúng ta? - Xin mời, đây là gia đình tôi, họ muốn nghe điều anh nói. Leo nhìn quanh - chừng hai mươi cặp mắt đang dán vào gã. Họ biết gã định nói gì và họ không thích gã vì điều đó. Họ tức giận vì rằng thằng bé đã chết và đây là cách họ biểu lộ nỗi đau đó. Leo chỉ cần phải chấp nhận rằng gã là tâm điểm của nỗi giận dữ đó. - Tôi không thể nghĩ ra điều gì nặng nề hơn là mất đi một đứa con. Tôi là đồng nghiệp và là bạn của anh, đã có mặt khi vợ chồng anh mừng sinh nhật cậu con trai. Tôi nhớ đã chúc mừng anh. Và tôi biết tôi buồn khủng khiếp khi phải nói lời an ủi anh thế này. Có lẽ có chút cứng nhắc, nhưng Leo nói thật lòng. Đáp lại gã là sự im lặng. Leo cân nhắc những lời tiếp theo một cách thận trọng: - Tôi chưa bao giờ trải qua nỗi đau sau cái chết của một đứa con. Tôi không biết chuyện đó sẽ khiến mình phản ứng thế nào. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy cần phải đổ lỗi cho ai đó, ai đó để tôi căm ghét. Nhưng, bằng cái đầu tỉnh táo, tôi có thể cam đoan với mọi người rằng nguyên nhân cái chết của Arkady là không cần bàn cãi. Tôi có mang theo đây tờ biên bản, tôi có thể để nó lại đây nếu mọi người muốn. Ngoài ra, tôi được cử đến đây để trả lời bất cứ câu hỏi nào. - Arkady bị giết. Chúng tôi muốn anh giúp điều tra. Nếu đích thân anh không làm thì chúng tôi muốn MGB gây áp lực với bên kiểm sát để khởi tố vụ án hình sự. Leo gật đầu, cố giữ vẻ hòa hợp. Khả năng xấu nhất là phải tranh cãi với họ. Người cha thật kiên quyết, quan điểm của họ thật kiên định. Anh ta đang đòi hỏi chính thức khởi tố một ugolovnoye delo, một vụ án hình sự, không có nó dân quân sẽ không điều tra. Anh ta đang kêu gọi điều không thể. Leo nhìn chằm chằm các đồng nghiệp. Họ nhận ra, trong khi những người khác thì không, rằng cái từ này - án mạng - đã làm ô uế tất cả mọi người trong phòng. - Arkady bị tàu chạy qua đâm phải. Cái chết của cháu là một tai nạn, một tai nạn khủng khiếp. - Vậy tại sao cháu lại bị trần truồng? Tại sao miệng cháu bị nhét đất? Leo cố hiểu xem điều vừa nói là gì. Cậu bé trần truồng? Lần đầu tiên gã nghe thấy. Gã mở biên bản ra: Cậu bé được tìm thấy có mặc quần áo. Giờ đây khi gã đọc lại dòng đó lần nữa thì gã thấy nó như một câu kỳ quặc. Nhưng nó đây thôi: cậu bé mặc quần áo. Gã tiếp tục đọc kỹ tài liệu: Bị kéo lê trên mặt đất, trong miệng có đất. Gã gập biên bản lại. Cả phòng đang chờ đợi. - Cậu bé gia đình quý vị vẫn mặc nguyên quần áo. Đúng là có đất ở trong miệng. Nhưng người cháu bị tàu lôi đi; có chút đất trong miệng cũng là dễ hiểu. Một bà cụ đứng lên. Mặc dù lom khom do tuổi già nhưng mắt bà sắc sảo: - Đấy không phải điều chúng tôi được nghe. - Thật không may, nhưng các vị đã không được thông tin đúng. Bà cụ sấn tới. Rõ ràng bà là một thế lực đáng kể đằng sau sự phỏng đoán này. - Người đàn ông phát hiện ra thi thể - Taras Kuprin - lúc đang quét dọn. Ông ta sống cách đây hai dãy phố. Ông ta kể với chúng tôi rằng Arkady trần truồng, anh nghe rõ chưa? Không một mảnh vải che thân. Tàu đâm cũng không thể lột trần cháu bé được. - Người này, Kuprin, đúng là đã tìm thấy thi thể. Lời khai của ông ta có trong biên bản. Ông ta khẳng định thi thể nằm trên đường ray, còn nguyên quần áo. Ông ta khá chắc chắn về chuyện đó. Lời khai của ông ta rõ ràng giấy trắng mực đen đây. - Sao ông ta lại nói với chúng tôi khác? - Có lẽ ông ta lẫn lộn. Tôi không biết. Nhưng có chữ ký của ông ta trong lời khai, còn lời khai của ông ta thì trong biên bản. Tôi không tin ông ta sẽ nói gì khác đi nếu giờ tôi hỏi ông ta. - Anh đã xem thi thể cháu bé chưa? Câu hỏi của bà cụ làm Leo bất ngờ. - Tôi không điều tra vụ việc này: nó không thuộc nhiệm vụ của tôi. Nhưng dù có là việc của tôi đi nữa thì cũng chẳng có gì phải điều tra cả. Đây là một tai nạn khủng khiếp. Tôi ở đây để nói với mọi người, để làm rõ mọi chuyện khi nó bị nhầm lẫn một cách không cần thiết. Tôi có thể đọc to toàn bộ biên bản nếu mọi người muốn. Bà cụ lại nói: - Biên bản kia là dối trá. Mọi người căng thẳng. Leo vẫn yên lặng, cố giữ bình tĩnh. Họ phải nhận ra không có sự thỏa hiệp. Họ phải nhận ra là không có nhượng bộ. Họ phải thừa nhận, họ phải chấp nhận rằng cậu bé của họ không may đã chết. Leo ở đây là vì lợi ích của họ. Gã quay sang Fyodor, chờ anh ta chỉnh bà cụ. Fyodor bước lên: - Leo, chúng tôi có chứng cứ mới, chứng cứ vừa mới tìm thấy hôm nay. Một phụ nữ sống trong một căn hộ nhìn ra đường ray đã thấy Arkady đi cùng một người đàn ông. Chúng tôi không biết gì thêm. Phụ nữ này không phải bạn của chúng tôi. Chúng tôi chưa từng gặp cô ấy. Cô ấy đã nghe về vụ giết người... - Fyodor... - Cô ấy đã nghe về cái chết của con trai tôi. Và nếu điều chúng tôi được nghe là đúng thì cô ấy có thể mô tả người đàn ông này. Cô ấy có thể nhận mặt hắn ta. - Người phụ nữ này đâu? - Chúng tôi đang chờ cô ấy đến. - Cô ta đến đây? Tôi rất muốn nghe xem cô ta sẽ nói gì. Người ta đưa ghế mời Leo ngồi. Gã xua đi. Gã sẽ đứng. Không ai nói gì, mọi người chờ tiếng gõ cửa. Leo tiếc đã không nhận chiếc ghế ấy. Gần một tiếng trôi qua, trong im lặng, rồi có tiếng gõ nhẹ. Fyodor mở cửa, tự giới thiệu và mời người phụ nữ vào. Cô ta chừng ba mươi tuổi: một khuôn mặt dịu dàng, đôi mắt to, lo lắng. Bởi cô hoảng vì quá đông người, Fyodor cố trấn tĩnh cô: - Đây là bạn bè và gia đình tôi. Không có gì phải e ngại. Nhưng cô ta không nghe. Cô ta nhìn chằm chằm Leo. - Tên tôi là Leo Stepanovich. Sĩ quan MGB. Tôi được giao vụ này. Tên cô là gì? Leo giở sổ ra, tìm được một trang mới. Người phụ nữ không đáp. Gã ngước lên. Cô ta vẫn không nói gì. Leo sắp nhắc lại câu hỏi thì cuối cùng cô ta nói: - Galina Shaporina. Giọng cô ta lí nhí. - Và cô đã nhìn thấy gì? - Tôi thấy... Cô ta nhìn quanh phòng, nhìn xuống sàn, rồi nhìn lại Leo, lại chìm vào im lặng. Fyodor thúc giục cô ta, sự căng thẳng lộ rõ trong giọng nói: - Cô đã thấy một người đàn ông? - Đúng, một người đàn ông. Fyodor, đứng ngay bên cạnh cô ta, mắt nhìn xoáy vào cô, thở phào. Cô ta tiếp tục: - Một người đàn ông, có lẽ là công nhân, trên đường ray - tôi đứng ở cửa sổ nhà mình và thấy anh ta. Lúc đấy rất tối. Leo gõ gõ bút chì lên sổ: - Cô đã thấy anh ta cùng một cậu bé? - Không, không có cậu bé. Miệng Fyodor há hốc, lời nói chen nhau tuôn ra: - Nhưng chúng tôi nghe nói cô đã nhìn thấy một người đàn ông dắt tay con trai tôi. - Không, không, không - không có cậu bé nào cả. Anh ta xách một chiếc túi, tôi nghĩ vậy - một chiếc túi đầy dụng cụ. Đúng thế, một chiếc túi. Anh ta đang làm việc trên đường ray, có lẽ sửa chữa. Tôi không nhìn rõ lắm, chỉ thoáng qua, thế thôi. Đáng ra tôi không nên ở đây. Tôi rất tiếc chuyện con trai anh chết. Leo gập sổ. - Cảm ơn cô. - Còn câu hỏi nào nữa không? Leo chưa kịp trả lời thì Fyodor đã nắm cánh tay người phụ nữ: - Cô đã thấy một người đàn ông. Người phụ nữ giằng tay ra. Cô ta nhìn khắp phòng, mọi con mắt đều đổ dồn vào cô ta. Cô ta quay sang Leo: - Anh có cần gặp tôi lúc khác nữa không? - Không. Cô có thể đi. Tránh những cặp mắt xung quanh, Galina đi vội đến cửa. Nhưng cô ta chưa kịp tới cửa thì bà cụ gọi to: - Cô lo sợ dễ dàng thế ư? Fyodor tiến lại bà cụ. - Mẹ, ngồi xuống đi. Bà cụ đáp, không ghê tởm cũng không đồng tình: - Arkady là con trai con đấy. - Vâng. Leo không thấy được ánh mắt Fyodor. Gã tự hỏi điều gì đã được ngầm trao đổi giữa hai người này. Cho dù là gì, bà cụ cũng đã ngồi xuống. Giữa lúc đó thì Galina đã lẻn đi mất. Leo hài lòng là Fyodor đã can thiệp. Gã hy vọng điều đó có nghĩa họ đã đến được một bước ngoặt. Bàn tán về chuyện nhảm và tin đồn chẳng giúp gì cho ai cả. Fyodor quay lại phía Leo: - Xin thứ lỗi cho mẹ tôi, bà ấy quá buồn khổ. - Đó là lý do tôi ở đây. Để chúng ta có thể nói cho hết nội trong căn phòng này. Cái không thể xảy ra là một khi tôi đã rời phòng này rồi, những lời bàn tán vẫn tiếp tục. Nếu có ai hỏi anh về con trai anh, anh không thể nói nó bị giết. Không phải vì tôi ra lệnh cho anh như thế mà bởi vì điều đó không đúng. - Chúng tôi hiểu. - Fyodor, tôi muốn anh nghỉ làm ngày mai. Điều này đã được cho phép. Nếu còn gì khác tôi giúp được anh... - Không, không gì nữa. Tại cửa căn hộ, Fyodor bắt tay Leo: - Tất cả chúng tôi đều rất đau khổ. Xin thứ lỗi cho chúng tôi nếu đã có nóng nảy. - Điều đó không được ghi vào biên bản. Nhưng, như tôi đã nói, chuyện này kết thúc ở đây. Mặt Fyodor cứng nhắc. Anh ta gật đầu. Như thể những lời ấy đắng và anh ta buộc phải thốt ra: - Cái chết của con trai tôi là một tai nạn khủng khiếp. Leo bước xuống cầu thang, thở sâu. Bầu không khí trong phòng thật ngột ngạt. Gã mừng đã xử lý xong, mừng vì vấn đề đã được giải quyết. Fyodor là người tốt. Một khi anh ta đã chấp nhận cái chết của đứa con trai, sự thật sẽ được chấp nhận dễ dàng hơn. Gã ngừng lại. Có tiếng ai đó đằng sau. Gã quay lại. Là một cậu bé, không quá bảy tám tuổi: - Thưa chú, cháu là Jora. Cháu là anh của Arkady. Cháu có thể nói chuyện với chú được không? - Tất nhiên rồi. - Là lỗi của cháu. - Lỗi cháu gì kia? - Cái chết của em cháu: cháu đã ném nắm tuyết vào em. Cháu đã trộn vào đó sỏi cát và đất. Arkady bị thương, hòn tuyết trúng vào đầu em cháu. Em cháu bỏ chạy. Có lẽ nó làm em cháu choáng váng, có lẽ đó là lý do em cháu không để ý con tàu. Đất mà người ta tìm thấy trong miệng em cháu là lỗi của cháu. Cháu đã ném tuyết vào em. - Em trai cháu chết là vì tai nạn. Không lý do gì cháu phải cảm thấy hối lỗi. Nhưng cháu rất ngoan vì nói thật với chú. Nào, giờ quay lại với bố mẹ cháu đi. - Cháu chưa nói với bố mẹ chuyện quả bóng tuyết trộn đất và bùn, đá. - Có lẽ họ không cần phải biết đâu. - Bố mẹ cháu sẽ tức giận. Bởi đó là lần cuối cùng cháu nhìn thấy em. Thưa chú, mọi lần chúng cháu vẫn chơi tử tế. Và lẽ ra chúng cháu sẽ lại chơi rất vui vẻ, chúng cháu sẽ làm hòa, chúng cháu sẽ lại là bạn bè, cháu chắc chắn điều đó. Nhưng giờ cháu không bù đắp cho em được nữa rồi, cháu còn không thể nói xin lỗi. Leo đang nghe lời tự thú của cậu bé. Cậu bé muốn sự tha thứ. Nó òa lên khóc. Bối rối, Leo vỗ vỗ đầu nó, thì thầm, như thể đó là những lời hát ru: - Không phải lỗi của ai hết. LÀNG KIMOV MỘT TRĂM SÁU MƯƠI KI LÔ MÉT VỀ PHÍA BẮC MÁTXCƠVA CÙNG NGÀY ANATOLY BRODSKY không ngủ đã ba ngày rồi. Ông mệt mỏi đến nỗi những việc cơ bản nhất cũng cần tập trung. Cửa chuồng gia súc trước mặt ông khóa. Ông biết mình phải phá cửa ra. Dù là vậy thì ý này dường như cũng khó trở thành hiện thực. Đơn giản là ông không còn sức. Tuyết đã bắt đầu rơi. Ông nhìn lên bầu trời đêm; tâm trí lơ lửng và cuối cùng nhớ ra mình đang ở đâu và đáng ra phải làm gì thì tuyết đã phủ lên mặt. Ông liếm những bông tuyết trên môi và nhận ra nếu không vào được trong chuồng, ông sẽ chết. Dồn hết sức lực, ông đá vào cửa. Bản lề lung lay, cánh cửa vẫn đóng. Ông đá tiếp. Thanh gỗ toác ra. Phấn chấn bởi âm thanh đó, ông dồn chút sức cuối cùng nhắm vào cú đá thứ ba vào ổ khóa. Gỗ toác ra, cửa bật mở. Ông đứng trước cửa, chờ cho quen với bóng tối. Ở một bên trong chuồng có hai con bò bị quây lại. Bên kia là dụng cụ và rơm rạ. Ông trải vài cái túi thô lên sàn nhà đóng băng, cài kín nút áo khoác, nằm xuống, khoanh tay lại rồi nhắm mắt. Anatoly mở mắt và thấy đôi ủng bám tuyết cách mặt mình chỉ mấy xăng ti mét. Ông nằm ngửa ra và nhìn lên người đàn ông đang lù lù trước mặt. Răng chĩa ngay trên bụng ông, run run. Không ai động đậy. Hơi thở của họ tạo thành một làn sương mỏng trước mặt, hiện ra rồi biến mất. Anatoly không cố nắm lấy cây chĩa. Ông không cố tránh ra. Họ cứ yên như thế, như hình đóng băng, cho đến khi cảm giác xấu hổ xâm chiếm Mikhail. Anh ta thở hồng hộc như vừa bị một sức mạnh vô hình nào đó thoi vào bụng, rồi thả cái chĩa vô hại xuống đất, quỳ sụp xuống: - Hãy tha lỗi cho tôi. Anatoly ngồi dậy. Adrenaline đã lay ông dậy nhưng cơ thể đau nhức. Ông ngủ được bao lâu rồi? Chưa lâu, chưa đủ lâu. Giọng ông khản đặc, cổ họng khô khốc: - Tôi hiểu. Lẽ ra tôi không nên đến đây. Tôi không nên đề nghị cậu giúp đỡ. Cậu còn phải nghĩ đến gia đình. Tôi đã đẩy cậu vào tình thế nguy hiểm. Chính tôi mới là người phải xin cậu tha lỗi. Mikhail lắc đầu: - Tôi sợ. Tôi lo lắng. Tha lỗi cho tôi. Anatoly liếc nhìn ra ngoài trời tuyết và bóng đêm. Ông không thể đi bây giờ. Ông sẽ không sống sót được. Tất nhiên ông không thể cho phép mình ngủ. Nhưng ông vẫn cần một chỗ ẩn náu. Mikhail vẫn chờ câu trả lời, chờ đợi sự tha thứ: - Không có gì mà tha thứ cả. Cậu không đáng trách. Là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy. - Nhưng ông là bạn tôi. - Tôi vẫn là bạn cậu và tôi sẽ luôn là bạn cậu. Hãy nghe tôi: tôi muốn cậu quên rằng buổi tối nay đã từng xảy ra. Quên rằng tôi từng đến đây. Quên rằng tôi từng đề nghị cậu giúp đỡ. Hãy nhớ chúng ta như trước kia. Nhớ rằng chúng ta là những người bạn thân nhất. Hãy làm điều này cho tôi và tôi cũng sẽ làm như thế với cậu. Tôi sẽ đi trước khi trời hửng sáng. Tôi hứa. Cậu sẽ thức dậy và tiếp tục cuộc sống của cậu như thường lệ. Tôi đảm bảo với cậu sẽ không ai biết tôi ở đây. Đầu Mikhail gục xuống: anh ta khóc. Trước đêm nay thì anh ta đã tin mình sẽ làm bất cứ gì cho bạn. Đấy là dối trá. Sự trung thành, dũng cảm, tình bạn của anh, thảy đều đã tỏ ra chỉ là tờ giấy mỏng - chúng rách toạc ngay lần thử thách thực sự đầu tiên. Khi Anatoly đến bất ngờ chiều hôm đó, Mikhail dường như đã ngạc nhiên một cách dễ hiểu. Anatoly đã đến làng mà không báo trước. Tuy vậy, ông vẫn được chào đón nồng hậu, được mời ăn, mời uống, và có chỗ ngủ. Chỉ khi chủ nhà hay tin rằng ông đang đi về phía Bắc đến biên giới Phần Lan thì cuối cùng họ mới hiểu lý do của chuyến viếng thăm bất ngờ. Ông chưa bao giờ nhắc đến việc đang bị An ninh Nhà nước, MGB, truy nã. Ông không cần phải nói. Họ hiểu được. Ông là kẻ bỏ trốn. Khi sự thật rõ ra, sự chào đón không còn. Hình phạt cho hành vi giúp đỡ và tiếp tay kẻ đào tẩu là tử hình. Ông biết điều này nhưng hy vọng bạn mình sẽ sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Ông thậm chí còn hy vọng bạn mình sẽ đi cùng đến phương Bắc. MGB không truy tìm hai người, và hơn nữa, Mikhail có người thân quen ở các thị trấn đến tận Leningrad, có cả Tver và Gorky. Thực ra, đòi hỏi như thế là quá nhiều, nhưng Anatoly đã một lần cứu mạng Mikhail, và dù ông chưa bao giờ xem đó là món nợ có lúc nào đó cần phải trả thì đó chỉ là vì ông chưa bao giờ nghĩ mình sẽ cầu viện đến nó. Trong lúc họ nói chuyện thì rõ ra rằng Mikhail không sẵn lòng chấp nhận kiểu rủi ro đó. Thực ra, anh ta không sẵn sàng chấp nhận bất cứ thứ rủi ro nào. Vợ anh ta thường xen vào cuộc trao đổi của họ, muốn nói chuyện riêng với chồng mình. Mỗi lần xen ngang chị ta thường trừng mắt nhìn Anatoly với ác ý không che đậy. Hoàn cảnh đòi hỏi sự khôn ngoan và thận trọng như là một phần của cuộc sống hằng ngày. Và không thể chối cãi được rằng ông đã đem hiểm nguy đến cho gia đình bạn mình, một gia đình mà ông yêu quý. Hạ thật thấp những kỳ vọng xuống, ông bảo Mikhail rằng ông không muốn gì hơn là một đêm ngủ trong chuồng bò của họ. Ông sẽ ra đi vào sáng ngày mai. Ông sẽ đi bộ đến nhà ga gần nhất, theo cách ông đã đến đây. Ngoài ra, chính ông đã có ý phá khóa chuồng bò. Trong trường hợp rất khó xảy ra là ông bị bắt thì gia đình có thể khai là không biết và vờ như có kẻ đột nhập. Ông đã tin rằng sự phòng xa này trấn an được chủ nhà. Không thể nhìn bạn mình khóc, Anatoly cúi sát: - Không có gì phải cảm thấy cố lỗi cả. Chúng ta ai cũng chỉ cố sinh tồn thôi mà. Mikhail thôi khóc. Anh ta ngước lên, gạt nước mắt. Nhận ra đây có lẽ là lần cuối họ nhìn thấy nhau, hai người bạn ôm chầm lấy nhau. Mikhail lui lại: - Ông là người tốt hơn tôi. Chúc ông may mắn. Anh ta đứng lên, rời chuồng bò và cẩn thận đóng cửa, lấy chân gạt ít tuyết để chèn lại như cũ. Anh ta quay lưng về hướng gió rồi lê bước về nhà. Giết Anatoly và khai báo ông là kẻ xâm nhập sẽ đảmbảo an toàn cho gia đình mình. Giờ anh ta sẽ phải liều. Anh ta phải cầu nguyện. Anh chưa bao giờ nghĩ mình là kẻ hèn nhát, và trong chiến tranh, khi tính mạng của chính anh lâm nguy, anh cũng chưa bao giờ hành động như một kẻ hèn nhát. Một số người thậm chí còn nói anh dũng cảm. Nhưng có gia đình, đã khiến anh sợ hãi. Anh có thể mường tượng ra những điều tồi tệ hơn cả cái chết cho chính mình nhiều. Vào đến nhà, anh ta cởi ủng và áo khoác, rồi lên giường. Mở cửa, anh giật mình bởi bóng người bên cửa sổ. Vợ anh thức, nhìn chằm chằm ra chuồng bò. Nghe tiếng anh đi vào, chị quay lại. Thân hình nhỏ nhắn không tỏ gì là chị có thể bưng bê, mang vác và chặt hái, làm việc mười hai tiếng mỗi ngày để nuôi sống gia đình. Chị không quan tâm chuyện Anatoly đã từng cứu mạng chồng mình. Chị không quan tâm về quá khứ của họ, tình bạn của họ. Sự trung thành và lòng biết ơn là những thứ trừu tượng. Anatoly là một mối đe dọa cho sự an toàn của gia đình họ. Điều đó mới thực. Chị muốn ông ta đi đi, càng xa gia đình họ càng tốt, và ngay lúc này chị căm ghét ông ta - người bạn hòa nhã và lịch sự chị từng yêu mến và trân trọng với tư cách là một vị khách này - hơn bất cứ người nào còn sống. Mikhail hôn vợ. Má chị lạnh. Anh nắm tay chị. Chị ngước nhìn anh, nhận thấy anh đã khóc: - Anh làm gì ngoài kia? Mikhail hiểu vẻ sốt sắng của chị. Chị hy vọng anh đã làm điều cần thiết. Chị hy vọng anh đặt gia đình mình trên hết. - Ông ấy để cửa chuồng bò mở. Bất cứ ai cũng có thể thấy. Anh đóng nó lại. Anh ta có thể thấy nắm tay vợ mình lơi ra, cảm thấy sự thất vọng của chị. Chị nghĩ anh yếu đuối. Chị đúng. Anh không mạnh mẽ để giết bạn mình, cũng không mạnh mẽ để giúp bạn. Anh ta cố tìm lời an ủi: - Không có gì phải lo cả đâu. Không ai biết ông ấy ở đây. MÁTXCƠVA CÙNG NGÀY CÁI BÀN BỊ ĐẬP BẸP RÚM, giường lật ngược lên, thảm rạch nát, gối bị xé ra từng mảnh còn ván sàn thì bị cạy lên, nhưng đến giờ, cuộc lục soát trong căn hộ Anatoly Brodsky vẫn chưa mang lại manh mối cho biết ông ta đang ở đâu. Leo cúi xuống kiểm lò sưởi. Một tập giấy bị đốt. Những lớp tro mịn từ thư từ đã bị chất thành đống rồi đốt. Gã đưa họng súng cời cời đống tro mong tìm thấy vài mảnh chưa bị lửa bén tới. Tro rụm ra - tất cả đã cháy đen. Kẻ phản bội đã trốn thoát. Leo đáng bị khiển trách. Gã đã còn nghi ngờ nên chưa buộc tội người đàn ông này, một người lạ. Gã đã cho rằng ông ta vô tội; một kiểu sai lầm chỉ kẻ mới vào nghề mắc phải. Gã đã xem thường một nguyên tắc cơ bản trong công việc của họ: giả định có tội. Mặc dù nhận trách nhiệm, Leo vẫn không thể thôi tự hỏi nếu gã không buộc phải uổng phí cả ngày trời xử lý cái chết do tai nạn của cậu bé, liệu Brodsky có trốn thoát được không? Gặp gỡ người thân, dập tắt những tin đồn thiếu căn cứ - đây không phải công việc của một sĩ quan MGB cấp cao. Thay vì đích thân giám sát chiến dịch, gã lại đồng ý đứng ngoài nó để đi gỡ rối một chuyện chỉ là một vấn đề cá nhân. Lẽ ra gã không nên đồng ý. Gã đã tự tin trước mối đe dọa mà lão Brodsky này gây ra - nhận định sai lầm nghiêm trọng đầu tiên của gã từ khi gia nhập An ninh Nhà nước. Gã hiểu rằng ít có nhân viên nào có cơ hội mắc sai lầmlần thứ hai. Gã đã không nghĩ nhiều về vụ án này: Brodsky là người có học, có biết đôi chút tiếng Anh, thường xuyên giao dịch với người nước ngoài. Đây là cơ sở để cảnh giác, nhưng, như Leo đã chỉ ra, người này là một bác sĩ thú y đáng kính trong một thành phố có ít bác sĩ thú y được đào tạo. Các nhà ngoại giao phải mang chó mèo của họ đến chỗ ai đó. Hơn nữa, đây là người đàn ông đã từng phục vụ trong Hồng Quân, là bác sĩ trận địa. Lý lịch của ông ta không gì chê trách được. Theo hồ sơ quân đội, ông ta đã tình nguyện, và mặc dù theo quy định thì ông ta không đủ bằng cấp làm bác sĩ, mặc dù chuyên môn của ông ta là chữa bệnh cho thú vật, ông ta đã làm việc trong nhiều trạm xá và hai lần liên tiếp được tuyên dương. Kẻ bị tình nghi hẳn đã cứu rất nhiều mạng sống. Thiếu tá Kuzmin đã nhanh chóng đoán biết lý do dè dặt của người được ông ta bảo trợ. Trong đời lính của Leo, gã đã được nhiều bác sĩ trận địa chữa trị cho rất nhiều vết thương và rõ ràng một dạng tình đồng chí đã ngăn gã lại. Kuzmin nhắc nhở Leo rằng thói đa cảm có thể làm người ta mù quáng trước sự thật. Người nào tỏ ra đáng tin nhất thì đáng bị nghi ngờ nhất. Tin tưởng nhưng phải điều tra. Trách nhiệm của một điều tra viên là đào bới tung sự vô tội lên cho đến khi tội lỗi lộ ra. Nếu không có tội lỗi nào lộ ra cả thì có nghĩa là họ chưa đào bới đủ sâu. Trong vụ Brodsky, vấn đề không phải là liệu các nhà ngoại giao nước ngoài có gặp ông vì ông là bác sĩ thú y không, mà là có phải kẻ khả nghi này đã trở thành một bác sĩ thú y để các nhà ngoại giao nước ngoài có thể công khai gặp ông ta hay không? Tại sao ông ta mở phòng khám chỉ cách Đại sứ quán Hoa Kỳ trong tầm đi bộ? Và tại sao - ngay sau khi ông ta mở phòng khám này - nhiều nhân viên sứ quán Hoa Kỳ lại đi kiếm thú nuôi? Cuối cùng, tại sao những con vật nuôi của các nhà ngoại giao nước ngoài lại cần được chăm sóc nhiều hơn vật nuôi của dân thường? Kuzmin là người đầu tiên đồng ý rằng có một khía cạnh khôi hài trong toàn bộ chuyện này, và chính cái nét gây cười này khiến ông ta không yên. Tính vô hại nơi hoàn cảnh là một thứ ngụy trang thông minh. Tưởng như MGB đang bị cười vào mũi. Có ít tội nào nghiêm trọng hơn thế. Sau khi xem xét vụ án và ghi nhận ý kiến của người hưởng dẫn, Leo quyết định rằng thay vì bắt ngay nghi can, họ sẽ cho người theo dõi ông ta, lập luận rằng nếu công dân này đang làm gián điệp thì đấy là cơ hội để phát hiện ra ông ta làm việc với ai và bắt hết một mẻ. Mặc dù gã chưa bao giờ nói nhiều nhưng gã khó chịu khi bắt bớ mà không có chứng cứ. Tất nhiên, đó là nỗi dằn vặt mà gã đã đành chịu suốt cả sự nghiệp. Gã là một điều tra viên. Gã muốn điều tra. Gã không chút nghi ngờ rằng cuối cùng rồi gã cũng sẽ bắt Anatoly Brodsky, gã chỉ muốn bằng chứng; một dấu hiệu có tội nào đó thay vì phỏng đoán đơn thuần. Nói tóm lại, gã muốn cảm thấy đúng đắn khi bắt ông ta. Một phần của chiến dịch giám sát là Leo trực ca ngày, theo dõi kẻ bị tình nghi trong khoảng từ támgiờ sáng đến tám giờ tối. Trong ba ngày qua, gã không thấy gì bất thường. Kẻ khả nghi làm việc, ăn trưa ở ngoài, rồi về nhà. Tóm lại, ông ta dường như là một công dân tốt. Có lẽ chính cái vẻ ngoài vô thưởng vô phạt này đã che mờ giác quan của gã. Khi, sáng nay, gã bị Kuzmin nổi giận kéo riêng ra, cho gã biết tin về tình hình Fyodor Andreev - cậu bé bị chết, phản ứng kích động - và được lệnh xử lý vụ này ngay lập tức, gã đã không phản đối. Thay vì cương quyết chỉ ra gã có những việc quan trọng hơn phải làm thì gã lại đồng ý. Nghĩ kỹ lại mới thấy tất cả dường như thật lố bịch biết bao. Thật bực làm sao khi gã đang trò chuyện với người thân của đứa trẻ, dỗ dành bọn trẻ, thì kẻ bị tình nghi này, tên phản bội này đang tẩu thoát, đang chế nhạo gã. Mật vụ được giao nhiệm vụ theo dõi đã ngu ngốc không hề nghi ngờ tại sao không có lấy một khách hàng nào ở phòng khám thú y cả ngày hôm đó. Mãi cho đến lúc nhá nhem tay mật vụ mới nghi ngờ và đi vào, giả làm khách hàng. Anh ta thấy phòng trống. Cửa sổ sau bị cạy mở. Nghi can hẳn đã trốn thoát không biết từ khi nào, rất có khả năng là vào lúc sáng, ngay sau khi ông ta đến. Brodsky đã tẩu thoát. Khi Leo nghe mấy lời đó, gã như muốn nôn: gã đề nghị một cuộc gặp khẩn với thiếu tá Kuzmin tại nhà riêng ông ta. Leo giờ đã có bằng chứng về tội mà gã đang tìm kiếm, nhưng gã không còn kẻ bị tình nghi nữa. Gã ngạc nhiên khi thấy cấp trên của mình cố vẻ hài lòng. Hành vi của kẻ phản bội đã xác nhận giả thiết của ông ta: công việc của họ là không tin. Nếu một cáo buộc chỉ chứa một phần trăm sự thật thì nên xem lại toàn bộ cáo buộc đúng hơn là bác bỏ nó. Leo đã được chỉ thị phải bắt kẻ bị tình nghi bằng mọi giá. Gã không được ngủ, ăn hay nghỉ ngơi, gã không được làm gì hết cho đến khi người đàn ông kia bị họ giam giữ tại nơi - như Kuzmin hợm hĩnh chỉ ra - lẽ ra ông ta đã phải ở ba ngày trước rồi. Leo dụi mắt. Gã cảm thấy ruột gan như thắt lại. May mắn lắm thì gã dường như ngây thơ, còn cùng lắm thì là gã bất tài. Gã đánh giá thấp đối thủ, cảm thấy một cơn tức giận khác thường đột ngột bùng lên, gã định đá sấp cái bàn. Gã quyết định không làm thế. Gã đã luyện cho mình phải giữ kín cảm xúc. Một nhân viên cấp dưới vội vã vào phòng, có lẽ hăm hở muốn giúp, muốn chứng minh sự tận tụy của anh ta. Leo xua anh ta đi, muốn được một mình. Gã dành chút thời gian để bình tĩnh lại, nhìn ra ngoài cửa sổ, tuyết đã rơi khắp thành phố. Gã châm điếu thuốc, nhả khói lên mặt kính. Đã phát sinh không ổn từ đâu? Kẻ bị tình nghi hẳn đã thấy các mật vụ theo dõi mình nên lập kế hoạch chạy trốn. Nếu ông ta đốt các giấy tờ thì nghĩa là ông ta muốn giấu các tài liệu liên quan đến hoạt động gián điệp hoặc nơi đến hiện tại của ông ta. Leo chắc chắn là Brodsky đã có kế hoạch tẩu thoát, một cách trốn khỏi đất nước. Gã phải tìm ra vài mảnh ghép của kế hoạch này. *** Hàng xóm là một cặp vợ chồng đã nghỉ hưu, ở độ bảy mươi, sống với con trai, con dâu và hai đứa cháu. Một gia đình sáu người ở hai phòng, không phải là tỉ lệ bất bình thường. Cả sáu người đang ngồi bên nhau trong bếp, một sĩ quan cấp thấp đứng sau lưng với mục đích hăm dọa. Leo có thể thấy là họ hiểu mình vướng vào tội của một người khác. Gã có thể thấy nỗi sợ của họ. Xua đi quan sát này cho là không thích hợp - gã đã một lần mắc lỗi vì quá đa cảm rồi - gã bước đến bàn: - Anatoly Brodsky là kẻ phản bội. Nếu các người giúp đỡ ông ta bất cứ bằng cách gì, dù chỉ là bằng cách không nói gì, các người sẽ bị xem là đồng phạm. Ông cụ, ông nội, rõ ràng là người khôn ngoan, nhanh nhảu đưa ra hết mọi thông tin ông ta có. Sao chép cách chọn từ của Leo, cụ nói kẻ phản bội đã đi làm sáng hôm đó sớm hơn một chút, xách chiếc cặp mọi ngày, cũng mặc áo khoác và đội chiếc mũ mọi ngày. Không muốn tỏ ra bất hợp tác, ông cụ đưa ra các ý kiến và gợi ý về nơi ẩn náu của kẻ phản bội, tất cả những thứ đó Leo cảm nhận chỉ là sự đoán liều. Ông cụ kết luận là trong gia đình họ ai cũng ghét ông ta, không ai tin người hàng xóm Brodsky, và rằng người duy nhất thích ông ta là Zina Morosovna, người phụ nữ sống ở tầng dưới. Zina Morosovna đâu chừng ngoài năm mươi và run rẩy như một đứa trẻ, một thực tế mà bà ta đang cố che giấu không mấy thành công bằng cách hút thuốc. Leo thấy bà ta đứng bên cạnh một bản sao rẻ tiền bức chân dung Stalin - da mịn, mắt thông minh - được treo nổi bật phía trên lò sưởi. Leo không thèm giới thiệu hay trình chứng minh thư mà đi thẳng vào vụ truy nã nhằm làm bà ta mất phương hướng. - Tại sao bà lại là bạn tốt của Anatoly Brodsky trong khi mọi người khác trong tòa nhà này đều không thích và không tin ông ta? Zina bị bất ngờ, ý thức thận trọng của bà ta mờ mịt đi vì phẫn nộ trước lời dối trá này: - Mọi người trong tòa nhà này đều quý Anatoly. Ông ấy là người tốt. - Brodsky là gián điệp. Thế mà bà gọi ông ta là người tốt? Phản bội mà là một phẩm chất tốt hả? Nhận ra sai lầm quá muộn, Zina bắt đầu đính chính lời nhận xét của mình: - Tôi chỉ có ý nói là ông ấy rất ý tứ không làm ồn. Ông ấy là người lịch thiệp. Lời dè dặt này thốt ra lắp bắp và không ăn nhập gì. Leo lờ đi. Gã lấy giấy ra và viết xuống những lời thiếu cân nhắc của bà ta với những chữ to thấy rõ: ÔNG TA LÀ NGƯỜI TỐT Gã viết rõ ràng để bà ta có thể thấy chính xác gã đang viết gì. Zina lùi vào gốc phòng, dụi điếu thuốc, và ngay lập tức hối tiếc, quờ quạng tìm điếu khác: - Tôi không biết Anatoly đã đi đâu nhưng tôi biết ông ta không có gia đình. Vợ ông ta bị giết trong chiến tranh. Con trai ông ta bị chết vì bệnh lao. Ông ta hiếm khi có khách. Như tôi được biết, ông ta có rất ít bạn bè... Bà dừng. Anatoly từng là bạn của bà. Họ đã có nhiều buổi tối ăn uống cùng nhau. Thậm chí có lúc bà ta đã hy vọng ông yêu bà, nhưng ông không tỏ chút quan tâm. Ông không bao giờ vượt qua được nỗi mất mát người vợ. Đắm trong hồi tưởng, bà liếc nhìn Leo. Gã không động lòng. - Tôi muốn biết ông ta ở đâu. Tôi không quan tâm đến bà vợ hay thằng con đã chết của ông ta. Chuyện đời ông ta không khiến tôi bận tâm, trừ phi nó liên quan đến việc ngay lúc này ông ta ở đâu. Tính mạng của bà đang trên bàn cân - chỉ có một cách duy nhất để sống còn. Nhưng liệu bà có thể phản bội người đàn ông mà bà yêu không? Thật ngạc nhiên, quyết định này cần ít sự cân nhắc hơn bà tưởng: - Anatoly tách biệt một mình. Tuy nhiên, ông ta có nhận và gửi thư. Thỉnh thoảng ông ta nhờ tôi gửi thư. Thư từ thường xuyên duy nhất được gửi đến ai đó ở làng Kimov. Đâu đó phía Bắc, tôi nghĩ vậy. Ông ta nói có một người bạn ở đấy. Tôi không nhớ tên người bạn. Đó là sự thật. Đó là toàn bộ những gì tôi biết. Giọng bà ta nghẹn lại vì tội lỗi. Mặc dù không thể thừa nhận một biểu hiện cảm xúc nào theo vẻ bề ngoài của nó, bản năng của Leo mách bảo gã rằng bà ta đang phụ lại lòng tin. Gã xé trang giấy kết tội trong cuốn sổ ra và đưa nó cho bà ta. Bà ta nhận lấy tờ giấy như là món trả công cho sự phản bội. Gã nhìn thấy sự ghê tởm trong mắt bà ta. Gã không để nó làm mình phải nghĩ ngợi. Tên ngôi làng phía Bắc Mátxcơva là một đầu mối nhỏ nhoi. Nếu Brodsky đang làm gián điệp thì có nhiều khả năng ông ta đang được những kẻ ông ta làm việc cho che chở. Từ lâu MGB đã tin rằng có tồn tại một mạng lưới những ngôi nhà an toàn nằm dưới sự kiểm soát của nước ngoài. Ý kiến rằng một kẻ phản bội được nước ngoài tài trợ phải cầu đến một mối liên hệ cá nhân - một nông dân của nông trang tập thể - mâu thuẫn với quan niệm rằng ông ta là gián điệp chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Leo vẫn cảm thấy chắc chắn đây là đầu mối gã nên theo đuổi. Gã gạt bỏ những điều bất nhất sang một bên: việc của gã là bắt được người đàn ông này. Đây là đầu mối duy nhất gã có. Sự ngần ngừ đã khiến gã phải trả giá rồi. Gã vội vã đến chiếc xe tải đỗ bên ngoài và bắt đầu đọc lại hồ sơ vụ việc, tìm kiếm điều gì có thể liên hệ đến làng Kimov. Gã bị cắt ngang khi viên chỉ huy phó - Vasili Ilyich Nikitin - quay lại. Ba lămtuổi, hơn Leo năm tuổi, Vasili có thời là một trong những nhân viên triển vọng nhất của MGB. Tàn nhẫn, ganh đua, hắn không trung thành với bất kỳ ai ngoài MGB. Leo ngầm coi lòng trung thành đó là yêu nước thì ít mà vì lợi ích cá nhân thì nhiều. Vừa lục soát xong phòng khám thú y, Vasili rõ ràng rất tự mãn. Hắn đưa cho Leo một bức thư vò nát mà hắn giải thích là đã tìm thấy sau bàn viết của kẻ phản bội. Tất cả thư từ khác đều bị đốt - giống như ở căn hộ - nhưng trong lúc vội, kẻ bị tình nghi đã bỏ sót bức thư này. Leo đọc nó. Bức thư của một người bạn nói với Anatoly rằng ông ta cứ tự nhiên đến ở với anh ta bất kỳ lúc nào. Địa chỉ bị mờ một phần, nhưng tên thành phố thì rõ ràng: Kiev. Leo gấp bức thư và đưa lại cho viên thuộc cấp: - Cái này là Brodsky viết. Không phải của người bạn. Ông ta muốn chúng ta tìm thấy nó. Ông ta không đến Kiev. Bức thư được viết tay vội vã. Chữ viết rời rạc, khó mà đánh lừa được. Nội dung thật nực cười và dường như chỉ nhằm thuyết phục người đọc rằng người viết là một người bạn mà Brodsky có thể nhờ cậy lúc ngặt nghèo. Địa chỉ được cố ý làm nhòe đi nhằm ngăn cản việc xác định ra nhanh chóng người gửi thực sự, và vì vậy là bằng chứng cho sự giả mạo của bức thư. Chỗ có bức thư - được thả sau bàn - dường như được sắp đặt. Vasili quả quyết về tính chân thực của bức thư: - Sẽ là tắc trách nếu không điều tra đầy đủ đầu mối Kiev. Mặc dù Leo không chút nghi ngờ bức thư là giả mạo, gã tự hỏi có khôn ngoan không nếu cử Vasili đi Kiev như là một biện pháp phòng ngừa, để khỏi có lời buộc tội có thể có là gã đã bỏ qua bằng chứng. Gã bác ngay ý tưởng này: gã tiến hành điều tra thế nào không quan trọng, nếu gã không tìm thấy kẻ bị tình nghi thì sự nghiệp của gã sẽ đi tong. Gã quay qua chú ý vào tập hồ sơ. Theo hồ sơ, Brodsky là bạn của một người tên Mikhail Sviatoslavich Zinoviev, người này đã được cho giải ngũ Hồng Quân sau khi bị phát cước kinh niên. Gần bị hoại tử, vài ngón chân của anh ta bị cắt cụt, anh ta được chăm sóc cho đến khi sức khỏe phục hồi và được giải ngũ. Brodsky đã thực hiện cuộc phẫu thuật. Leo rà ngón tay trên tài liệu, tìm kiếm địa chỉ hiện nay: Kimov Leo quay sang cấp dưới, bắt gặp vẻ mặt cáu kỉnh của Vasili: - Chúng ta sẽ đi. BA MƯƠI KI LÔ MÉT VỀ PHÍA BẮC MÁTXCƠVA 15 THÁNG HAI CON ĐƯỜNG RA KHỎI MÁTXCƠVA bị đóng băng và mặc dù lốp xe tải đã được gắn xích đi tuyết thì tốc độ của họ cũng hiếm khi vượt quá mười lăm ki lô mét mỗi giờ. Gió và tuyết thổi quanh họ dữ dội đến mức như thể nó có lợi ích riêng nếu họ không tới được đích của gã. Cần gạt trên kính chắn gió, lắp vào mái cabin trước, khó khăn lắm mới giữ được một mảng nhỏ cửa sổ được sạch. Với tầmnhìn xa chưa tới mười mét, chiếc xe tải cố tiến lên. Leo cố gắng thực hiện chuyến đi trong điều kiện như thế này thì chẳng khác gì một sự liều lĩnh. Leo ngồi khom lưng, bản đồ trải trong lòng, hai bên là Vasili và tài xế. Cả ba đều mặc như thể họ đang ở ngoài trời - áo khoác, găng tay, mũ. Cabin thép, mái thép và sàn thép chỉ được ủ ấm bởi hơi nóng còn sót lại từ cái động cơ ầm ầm. Nhưng ít ra thì cabin cũng che chở được trước thời tiết. Phía sau xe, chín mật vụ được vũ trang lỉnh kỉnh không được xa xỉ đến như vậy. Chiếc xe tải ZiS-151 được che mái bạt mà không khí lạnh và thậm chí cả tuyết vẫn luồn vào. Vì nhiệt độ có thể xuống đến âm ba mươi độ, mọi ngăn sau của chiếc ZiS-151 đều có một lò đốt bằng củi đóng vào sàn. Cái vật kỳ cục hình củ hành này chỉ có thể sưởi ấm cho những ai ngồi cách nó một sải tay, nên họ buộc phải túm tụmlại và thường xuyên đổi chỗ. Leo cũng đã nhiều lần ngồi ở đó: cứ sau mười phút hai người ngồi gần lò sưởi nhất sẽ miễn cưỡng rời xa chỗ ấm, tới chỗ lạnh nhất tít đầu kia ghế trong khi những người còn lại nhích lại gần. Lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình Leo có thể cảm thấy sự bất đồng trong đội của mình. Lý do không phải là sự khó chịu hay thiếu ngủ, lính của gã đã quen với điều kiện khắc nghiệt. Không, có gì đó khác. Có lẽ là việc đáng ra đã có thể né được nhiệm vụ này. Có lẽ họ không tin vào đầu mối Kimov. Nhưng gã đã yêu cầu lính của mình tin tưởng, và họ đã tin tưởng rồi. Đêm nay, gã cảm thấy sự thù nghịch, chống đối. Không tính tới Vasili thì gã không quen với chuyện này. Gã gạt ý nghĩ đó sang một bên. Ngay bây giờ, trong những mối bận tâm của gã, sự quý mến của mọi người nằm hạng bét. Nếu giả thiết của gã tỏ ra là đúng, nếu kẻ khả nghi đang ở Kimov, thì Leo nghĩ có khả năng ông ta sẽ trốn đi khi trời mờ sáng, cho dù là tự đi hoặc có sự trợ giúp của người bạn. Leo đang liều mà đánh cược là họ sẽ đến ngôi làng kịp thời. Gã quyết định không điều động dân quân địa phương đóng ở Zagorsk, thị trấn lớn gần nhất, vì theo gã bọn họ không chuyên nghiệp, kỷ luật kém, và không được đào tạo đầy đủ. Thậm chí các sư đoàn MGB tại địa phương cũng không đáng tin cậy trong một chiến dịch như thế. Đã biết trước mình là người bị truy nã, khó có khả năng Brodsky sẽ đầu hàng. Ông ta sẽ chiến đấu tới cùng. Cần phải bắt sống ông ta. Lời thú tội của ông ta có tầm quan trọng tối cao. Hơn nữa, việc ông ta trốn thoát làm bẽ mặt cá nhân Leo và gã quyết tâm sửa chữa, quyết tâm rằng gã sẽ là người thực hiện vụ bắt này. Đây không đơn thuần là vấn đề danh dự. Cũng không đơn thuần rằng sự nghiệp của gã phụ thuộc vào sự thành công này. Hậu quả còn sâu xa hơn thế. Thất bại trong một vụ án gián điệp gây nhiều chú ý thế này có thể dẫn đến những lời cáo buộc rằng Leo đã cố ý phá hoại cuộc điều tra. Thất bại trong việc bắt kẻ bị tình nghi sẽ khiến gã bị vướng víu sâu hơn. Nếu Brodsky không có ở Kimov, nếu Leo sai, thì Vasili sẽ là người đầu tiên đứng ra làm chứng tường tận việc cấp trên của hắn xem thường đầu mối khả quan Kiev. Đánh hơi thấy sự kém cỏi của gã, những người khác trong Ban chỉ huy, như những con thú bao vây con mồi bị thương, hầu như chắc chắn sẽ đứng ra tố cáo gã là chỉ huy kém cỏi, trong khi Vasill sẽ tự đứng ra ứng cử làm người kế nhiệm quá hợp lý của Leo. Leo liếc qua thuộc cấp của mình, một kẻ điển trai và không kém phần gớm ghiếc - như thể vẻ điển trai của hắn ta được trát đầy lên cái tâm thối nát, một gương mặt anh hùng với trái tim của kẻ tay sai. Chỉ có những vết nhỏ nhoi nhìn thấy được trên vẻ mặt cuốn hút của hắn ta, ở khóe miệng, một kiểu cười hơi nhếch mép, nếu ta biết cách diễn giải nó, gợi cho thấy những suy nghĩ đen tối nằm sau cái vẻ bề ngoài tốt đẹp của hắn. Có lẽ nhận thấy mình bị chú ý, Vasili quay sang và cười, một cái cười mímmôi, mơ hồ. Điều gì đó làm hắn hài lòng. Leo biết ngay chắc chắn có gì đó không ổn. Gã xem bản đồ. Với dân số chưa đến một nghìn người, làng Kimov chỉ là hạt bụi trên tấm bạt Liên Xô. Gã đã báo trước tài xế không được trông chờ vào biển chỉ đường. Thậm chí với tốc độ mười lămki lô mét mỗi giờ ngôi làng này cũng có thể xuất hiện và biến mất chỉ trong lúc sang số. Nhưng khi Leo lần ngón tay theo chỗ dấu chỉ đường, gã bắt đầu ngờ rằng họ đã chạy quá chỗ rẽ. Bọn họ vẫn còn đang đi về phía Bắc trong khi lẽ ra phải đi hướng Tây. Vì gần như không thể xác định phương hướng dựa trên khung cảnh xung quanh thế này, gã tính toán họ đang ở đâu tính theo ki lô mét. Họ đã quá xa về phía Bắc. Lái xe đã đi quá. - Quay lại! Leo nhận thấy cả tài xế lẫn Vasili dường như không ngạc nhiên trước yêu cầu đó. Tài xế lắp bắp: - Nhưng chúng ta không nhìn thấy lối ra. - Chúng ta chạy quá rồi. Dừng xe lại. Tài xế cho xe chậm lại, nhấp phanh để tránh bị trượt trên băng. Chiếc xe dần dần dừng lại, Leo nhảy ra và giữa trời bão tuyết bắt đầu hướng dẫn cho tài xế loay hoay quay xe ngoặt hình chữ u, chiếc ZiS-151 ngang gần bằng con đường. Xe mới quay đầu giữa chừng, tạo với đường thành một góc vuông thì tài xế dường như phớt lờ lệnh của Leo, lùi xe quá xa và quá nhanh. Leo chạy đến đấm thình thình vào cửa nhưng đã quá muộn. Một lốp sau đã lăn khỏi đường. Nó cứ quay tròn bất lực trong đống tuyết. Con tức giận của Leo bừng lên bởi lòng ngờ vực mỗi lúc một tăng đối với tên tài xế, anh ta dường như bộc lộ một mức độ kém cỏi không tin được. Vasili đã sắp đặt chuyến xe, và tài xế. Leo mở cửa cabin, quát lên: - Cút ra! Tài xế bước ra. Lúc này, các đặc vụ đằng sau xe cũng đã nhảy ra để xem xét tình hình. Họ nhìn Leo không hài lòng. Đấy là sự bực dọc do bị trì hoãn, về chính nhiệm vụ, hay là bực dọc vì sự lãnh đạo của gã? Gã không thể hiểu nổi. Gã ra lệnh cho một người giữ tay lái, trong khi cả đội, gồm cả Vasili, đẩy chiếc xe ra khỏi tuyết. Lốp xe xoay tròn, bắn bùn vào quân phục của họ. Cuối cùng, xích đi tuyết bám được mặt đường và chiếc xe tải tròng trành về phía trước. Leo cho tay tài xế thất sủng ra sau ngồi. Leo tự hỏi còn bao nhiêu người trong đội của gã đầu tư vào thất bại của gã thay vì thành công của gã. Cảm thấy đơn độc, bị cô lập trong đội của mình, gã cầm tay lái. Gã lái xe. Gã tìm đường. Gã sẽ đưa họ tới đó. Gã không thể tin ai được. Vasili vào xe ngồi bên cạnh gã, khôn ngoan yên lặng. Leo vào số xe. Lúc họ về đúng đường, đi theo phía Tây tiến đến làng Kimov, cơn bão đã qua. Mặt trời mùa đông yếu ớt bắt đầu mọc lên. Leo kiệt sức. Lái xe trong trời tuyết đã vắt hết sức lực của gã. Cánh tay và hai vai tê cứng, mí mắt trĩu xuống. Họ đang đi qua trung tâm nông thôn - những cánh đồng, những khu rừng. Quay sang phía thung lũng thoai thoải, gã nhìn thấy ngôi làng: một cụm nhà gỗ, một số nhà nằm bên đường, số khác nằm cách xa, tất cả đều có nền nhà hình vuông và mái cao hình tam giác, một khung cảnh vẫn không đổi suốt trăm năm qua. Đây là nước Nga xưa cũ: những cộng đồng xây dựng xung quanh những giếng nước múc bằng gàu và truyện cổ tích, nơi sức khỏe của gia súc được quyết định bởi đặc ân của Dvorovoi, thần vườn, nơi các bậc cha mẹ dặn dò con trẻ rằng nếu chúng không ngoan, các linh hồn sẽ bắt chúng và biến chúng thành vỏ cây. Các bậc cha mẹ cũng từng được kể câu chuyện đó khi họ còn nhỏ, và họ không bao giờ quên chúng, bỏ hàng tháng trời khâu quần áo chỉ để dâng tặng thần rừng, Rusalki, người được cho là có thể nhảy chuyền qua các ngọn cây và có thể, nếu muốn, cù một người cho đến chết. Leo lớn lên ở thành phố và những mê tín làng quê này chẳng có ý nghĩa gì với gã cả. Gã dừng xe ở ngôi nhà đầu tiên. Gã lấy trong túi áo khoác ra một lọ thủy tinh chứa những viên nhỏ, xù xì màu trắng đục - methamphetamine nguyên chất, một thứ ma túy được Đức Quốc xã ưa chuộng. Gã biết đến nó từ thời đang chiến đấu ở mặt trận phía Đông. Có những chiến dịch Leo không được nghỉ ngoi. Đây là một trong những chiến dịch đó. Giờ gã được bác sĩ của MGB kê đơn, gã liên tục sử dụng nó từ sau chiến tranh, mỗi khi nhiệm vụ đòi hỏi phải chạy cả đêm. Không thể đánh giá thấp tác dụng của nó. Nhưng cái giá của nó là sự suy sụp hoàn toàn chừng hai tư tiếng sau: sự kiệt sức hoàn toàn chỉ có thể hồi phục bằng cách dùng thêm thuốc hoặc ngủ mười hai tiếng. Tác dụng phụ đã bắt đầu bộc lộ. Gã sút cân; các đường nét trên mặt thắt lại. Trí nhớ kém dần, gã không thể nhớ được những chi tiết chính xác và những cái tên, nhũng vụ án và các vụ bắt người trước đây trở nên lộn xộn trong trí nhớ và giờ gã phải ghi lại cho nhớ. Không thể nói gã có bị hoang tưởng hơn do việc dùng thuốc hay không, bởi hoang tưởng là một tài sản thiết yếu, một phẩm chất tốt đẹp cần được trui rèn và vun trồng. Nếu nó được tán rộng thêm bằng methamphetamine, như thế chỉ càng tốt hơn thôi. Gã lắc một lượng nhỏ vào lòng bàn tay, rồi một ít nữa, cố nhớ dùng đúng liều. Quá nhiều còn hơn là quá ít. Thấy đã vừa, gã nuốt sạch cùng với thứ đựng trong chai bên hông. Vodka đốt cháy cổ họng, không át đi được vị hóa chất cay sẽ khiến gã muốn nôn ọe. Gã chờ cho cảm giác đó qua đi trong khi thăm dò xung quanh. Tuyết mới đổ xuống che lấp mọi thứ. Leo hài lòng. Bên ngoài làng Kimov có ít chỗ để ẩn náu. Có thể nhìn thấy một người từ khoảng cách hàng ki lô mét, dấu vết của họ trên tuyết dễ dàng lần theo. Gã không biết nhà nào là của Mikhail Zinoviev. Vì một xe nhà binh đỗ bên đường sẽ làm mất đi yếu tố bất ngờ, Leo nhảy ra, rút súng, và tiến đến ngôi nhà gần nhất. Mặc dù methamphetamine chưa phát huy tác dụng, gã đã cảm thấy tỉnh táo hơn, sắc sảo hơn khi bộ não sẵn sàng cho đợt hưng phấn tất yếu nhờ ma túy. Gã đến cổng, kiểm lại vũ khí. Trước khi gã kịp gõ cửa, một cụ bà da nâu xuất hiện. Bà mặc một chiếc váy có họa tiết xanh, ống tay màu trắng và quàng khăn trùm đầu thêu. Bà không bận tâm đến Leo, hay khẩu súng, quân phục, hay chiếc xe nhà binh của gã. Bà không sợ và không thèm che giấu những nếp nhăn khinh bỉ hằn trên trán. - Tôi tìm Mikhail Sviatoslavich Zinoviev. Đây là nhà anh ta phải không? Anh ta đâu rồi? Như thể Leo nói tiếng nước ngoài, bà cụ nghếch đầu và không trả lời. Đó là lần thứ hai trong hai ngày một bà già tỏ ra gan lì với gã, lộ rõ vẻ khinh thường với gã. Có gì đó ở những bà cụ này khiến họ không thể chạm tới được; quyền lực của gã chẳng có nghĩa gì với họ cả. Thật may, thế bí được gỡ khi người con trai của bà cụ, một người có thân hình lực lưỡng và ăn nói lắp bắp, vội vã đi ra: - Hãy thông cảm cho mẹ tôi. Bà ấy già rồi. Tôi có thể làm gì giúp anh? Một lần nữa người con trai xin lỗi thay cho người mẹ. - Mikhail Sviatoslavich. Anh ta đâu? Nhà anh ta ở đâu? Nhận ra Leo không định bắt họ, rằng anh ta và gia đình được an toàn thêm một ngày nữa, người con trai thấy vô cùng nhẹ nhõm. Anh ta vui vẻ chỉ về ngôi nhà của người bạn mình. Leo quay lại xe. Quân của gã đã tập hợp. Gã chia đội ra thành ba nhóm. Họ sẽ tiến đến ngôi nhà từ các phía khác nhau, một từ phía trước, một từ phía sau, và nhóm thứ ba sẽ tiến tới và bao vây chuồng bò. Mỗi người được trang bị một khẩu súng lục tự động Stechkin APS 9mm được thiết kế riêng cho MGB sử dụng. Ngoài ra, mỗi nhóm có một người mang khẩu AK47. Họ đã sẵn sàng cho trận đánh dàn trận, nếu phải đến mức ấy. - Chúng ta sẽ bắt sống kẻ phản bội. Chúng ta cần lời thú tội của hắn. Nếu có nghi ngờ, bất cứ nghi ngờ gì, thì không được bắn. Leo lặp lại mệnh lệnh, đặc biệt nhấn mạnh với nhóm do Vasili dẫn đầu. Giết Anatoly Brodsky sẽ là một lỗi bị trừng phạt. Sự an toàn của chính họ chỉ là thứ yếu so với mạng sống của kẻ bị tình nghi. Đáp lại, Vasili cầm lấy khẩu AK47 của nhóm mình: - Cho chắc ăn. Nhằm hạn chế khả năng Vasili phá hoại chiến dịch này, Leo giao cho họ siết chặt khu vực ít quan trọng nhất: - Nhóm anh sẽ lục soát chuồng bò. Vasili cất bước. Leo nắm vai hắn: - Chúng ta phải bắt sống ông ta. Giữa đường tới ngôi nhà, binh lính chia thành ba nhóm, tách ra theo các hướng khác nhau. Hàng xóm đứng bên cửa sổ liếc trộm rồi biến mất vào trong nhà. Khi cách cửa ba mươi bước chân, Leo dừng lại để hai nhóm kia vào vị trí. Đội của Vasili bao vây chuồng bò, trong khi nhóm thứ ba đã tới sau nhà, tất cả chờ tín hiệu của Leo. Bên ngoài nhà, không có dấu hiệu của sự sống. Một làn khói bốc lên từ ống khói. Quần áo tả tơi treo trước những ô cửa sổ nhỏ. Không thể nhìn thấy các phòng bên trong. Ngoại trừ tiếng đánh tách của khóa an toàn khẩu AK47, còn thì chỉ là tĩnh lặng. Bỗng nhiên một cô bé bước ra từ một ngôi nhà nhỏ hình chữ nhật, hố vệ sinh, nằm phía sau nhà chính. Cô bé đang ngâm nga, âm thanh xuyên qua làn tuyết. Ba mật vụ đứng gần Leo nhất quay lại, chĩa súng vào cô bé. Cô bé chết trân, kinh hoàng. Leo giơ tay: - Không được bắn. Gã nín thở, hy vọng không phải nghe tiếng súng máy nổ. Không ai nhúc nhích. Thế rồi cô bé ba chân bốn cẳng chạy vụt về phía ngôi nhà, thét lên gọi mẹ. Leo cảm thấy cơn phấn chấn đầu tiên của methamphetamine - cái mệt mỏi tan biến. Gã chồm tới, thuộc hạ theo sau, tiến về phía ngôi nhà như một cái thòng lọng quanh cổ. Cô bé mở toang cửa trước, vụt vào trong nhà. Leo chỉ theo sau vài giây, đưa vai hất cửa, giơ súng lên, xông vào nhà. Gã thấy mình đang ở trong một gian bếp nhỏ, ấm cúng, mùi bữa ăn sáng tỏa khắp phòng. Có hai cô bé - đứa chị khoảng mười tuổi và đứa em khoảng lên bốn - đứng bên cạnh lò sưởi nhỏ. Mẹ chúng, một phụ nữ kiên cường, khắc khổ, trông như thể chị ta có thể nuốt đạn rồi phun ra, đứng trước chúng, hai bàn tay che trước ngực hai đứa bé. Một người đàn ông trạc tứ tuần từ phòng sau bước vào. Leo quay sang anh ta: - Mikhail Sviatoslavich? - Vâng? - Tôi là Leo Stepanovich Demidov, sĩ quan MGB. Anatoly Tarasovich Brodsky là gián điệp. Ông ta đang bị truy nã về để xét hỏi. Cho tôi biết ông ta ở đâu? - Anatoly? - Bạn của anh. Ông ta đâu? Và đừng có mà nói dối. - Anatoly sống ở Mátxcơva. Ông ấy là bác sĩ thú y. Nhiều năm rồi tôi không gặp ông ấy. - Nếu anh cho tôi biết ông ta ở đâu, tôi sẽ bỏ qua chuyện ông ta từng đến đây. Anh và gia đình anh sẽ an toàn. Vợ Mikhail liếc nhìn chồng: chị ta bị cám dỗ bởi lời đề nghị. Leo tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm. Gã đã đúng. Kẻ phản bội đã ở đây. Không chờ câu trả lời, gã ra hiệu cho quân lục soát ngôi nhà. * * * VASILI VÀO CHUỒNG BÒ, súng giơ cao, ngón tay trên cò. Hắn bước đến đống rơm, chỗ ẩn trốn duy nhất, đủ cao để che giấu một người. Hắn bắn mấy phát. Từng mớ rơm tung lên. Khói bốc ra từ nòng súng. Mấy con bò đằng sau hắn thở phì phì, lùi xa, cào tung đất. Nhưng không thấy máu rỉ ra. Không có ai ở đây, bọn họ đang lãng phí thì giờ. Hắn ra ngoài, lẳng khẩu súng máy lên vai, và châmthuốc. Hốt hoảng vì tiếng súng máy, Leo chạy ra khỏi nhà. Vasili nói to: - Không có ai ở đây. Phấn chấn hẳn lên do sức mạnh của ma túy, Leo chạy vội đến chuồng bò, hàm gã nghiến chặt. Bực mình vì bị phớt lờ, Vasili ném thuốc giữa tuyết, nhìn nó tan chảy xuống đất: - Hắn không có đó, trừ phi hắn có thể ngụy trang thành bò. Có lẽ anh nên bắn chúng, nhỡ đâu. Vasili liếc quanh chờ tiếng cười, các thuộc hạ liền tuân theo. Hắn không nhầm: hắn nhận ra rằng không ai trong số họ thấy hắn buồn cười. Hơn thế nữa, tiếng cười của họ cho thấy rằng cán cân quyền lực đã bắt đầu thay đổi. Lòng trung thành của họ với Leo đang suy giảm. Có lẽ do chuyến đi vắt sức. Có lẽ là do quyết định của Leo để Brodsky tự do trong khi lẽ ra ông ta đã bị bắt. Nhưng Vasili tự hỏi liệu nó có liên quan gì đến Fyodor và cái chết của đứa bé không. Leo đã được cử đến để dẹp yên vụ đó. Nhiều người ở đây là bạn của Fyodor. Nếu có sự căm giận, thì có thể khai thác, thao túng. Leo quỳ xuống, kiểm tra dấu vết trên tuyết. Có dấu ủng còn mới; một số là của quân lính, nhưng bên dưới đó là những dấu chân từ chuồng bò đi ra và hướng về phía cánh đồng. Gã đứng lên và đi vào chuồng. Vasili nói với theo: - Tôi đã tìm trong đó rồi! Phớt lờ hắn ta, Leo sờ vào then cửa bị phá: gã thấy bao bố trải dưới đất thì gã quay ra ngoài, nhìn về phía cánh đồng: - Tôi muốn ba người đi theo tôi, ba người nhanh nhẹn nhất. Vasili, anh ở đây. Tiếp tục lục soát trong nhà. Gã cởi bỏ chiếc áo lạnh nặng nề. Không có ý làm mất mặt, gã đưa nó cho tay cấp phó của mình. Không vướng víu nữa, có thể chạy được rồi, gã bắt đầu theo dấu vết ra cánh đồng. Ba người được lệnh đi theo chẳng buồn cởi bỏ áo khoác. Cấp trên của họ đang muốn họ chạy trong tuyết mà không mặc áo khoác trong khi gã thậm chí không thèm xem xét thi thể đứa con trai đã chết của đồng nghiệp họ. Cái chết của một đứa bé đã bị bác đi như thể chuyện vặt. Mấy tên thuộc hạ không định để bị viêm phổi, không mù quáng tuân theo một người mà quyền uy của anh ta đang dần chấm hết, một người không thèm quan tâm đến họ. Tuy nhiên, Leo vẫn là cấp trên của họ, ít nhất là vào lúc này, và sau khi nhìn Vasili, cả ba người bắt đầu uể oải vờ như tuân lệnh, lúp xúp theo sau người đã cách họ hàng trăm mét. Leo tăng tốc. Methamphetamine giúp gã tập trung: không gì khác tồn tại ngoài dấu vết trên tuyết, nhịp bước chân của gã. Gã không thể dừng lại hay chậm lại, không thể thất bại, không thể cảm thấy cái lạnh. Dù gã đoán nghi can đã đi trước đó ít nhất một tiếng, nhưng điều đó cũng không khiến gã bận tâm. Người đàn ông kia không biết mình bị rượt đuổi, ông ta chắc chắn đang bước bộ. Phía trước là mỏm đồi thoai thoải và Leo hy vọng từ đỉnh đồi gã sẽ nhìn thấy kẻ bị tình nghi. Lên đến đỉnh gã dừng lại, quan sát xung quanh. Bốn bề là những cánh đồng tuyết phủ. Xa hơn phía trước là bìa một khu rừng rậm, nhưng đằng trước đó, cách chừng một ki lô mét, dưới chân đồi, có một người đàn ông đang lê chân trên tuyết. Đấy không phải nông dân hay người lao động. Đấy là kẻ phản bội. Leo dám chắc. Ông ta đang đi về phía Bắc đến khu rừng. Nếu ông ta đến được rừng, ông ta sẽ ẩn nấp. Leo không có chó để tìm dấu ông ta. Gã nhìn ra sau - ba tên mật vụ đang ì ạch. Một mối liên kết nào đó nói gã với họ đã đứt. Không thể trông mong ở họ được. Tự gã sẽ phải bắt kẻ phản bội. Như có giác quan thứ sáu mách bảo, Anatoly dừng bước và quay lại. Có một người đàn ông đang chạy từ trên đồi xuống. Không nghi ngờ gì nữa, đó là mật vụ của Nhà nước. Anatoly chắc chắn mọi bằng chứng liên hệ ông với ngôi làng xa xôi này đã được xóa sạch. Vì vậy mà ông dừng lại một lúc, không làm gì hết, bị thôi miên khi thấy kẻ săn đuổi mình. Ông đã bị phát hiện. Ông thấy thót dạ, mặt đỏ bừng, và rồi, nhận ra người đàn ông này có nghĩa là cái chết, ông quay lại và bắt đầu chạy về phía rừng. Vài bước đầu còn vụng về và sợ hãi, lảo đảo đổ nghiêng vào đống tuyết đã dày hơn. Ông nhanh chóng hiểu ra chiếc áo khoác chính là vật cản. Ông cởi nó ra, vứt xuống đất, và chạy thục mạng. Anatoly không còn mắc cái sai lầm nhìn ra sau nữa. Ông tập trung vào cánh rừng phía trước. Ở tốc độ này, ông sẽ tới được cánh rừng trước khi kẻ săn đuổi bắt kịp. Cánh rừng sẽ cho một cơ hội để biến mất, để ẩn nấp. Và nếu phải đánh nhau, ông sẽ có nhiều cơ may trong kia, nơi có những cành cây và hòn đá, hơn là tay không ngoài trời. Leo tăng tốc, cố sức hơn nữa, như thể đang trên đường chạy đua. Một phần trong tâm trí gã vẫn nhớ rằng địa thế không đáng tin và chạy với tốc độ này là liều lĩnh. Nhưng methamphetamine khiến gã tin rằng bất cứ gì cũng có thể - gã có thể thu hẹp khoảng cách giữa họ. Bỗng nhiên Leo sẩy chân, trượt sang bên rồi ngã úp mặt ầm lên tuyết. Choáng váng, vùi trong tuyết, gã nằm ngửa ra, tự hỏi không biết mình có bị thương không trong khi nhìn lên bầu trời xanh lợt. Gã không thấy đau. Gã đứng lên, phủi tuyết trên mặt và tay, nhìn những vết xước trên tay mà không chút cảm giác. Gã tìm bóng dáng Brodsky, những tưởng thấy ông ta đang biến vào rừng. Nhưng thật ngạc nhiên, kẻ bị tình nghi cũng đã ngừng chạy. Ông ta đứng yên. Bối rối, Leo vội vã chạy lên. Gã không hiểu - ngay khi việc trốn thoát dường như có thể thì người đàn ông này dường như không làm gì hết. Ông ta đang nhìn mặt đất đằng trước. Giữa họ giờ chỉ còn cách nhau một trăm mét. Leo rút súng, chạy chậm dần rồi bước. Gã nhắm súng, biết rõ rằng gã không dám mạo hiểm bắn ở khoảng cách này. Timgã thình thịch, đập hai lần theo mỗi bước chân. Sức mạnh của methamphetamine lại dâng lên: môi gã khô khốc. Ngón tay run rẩy vì quá thừa năng lượng, mồ hôi chảy xuống lưng. Họ chỉ còn cách nhau năm mươi bước chân. Brodsky quay lại. Ông ta không có vũ khí. Ông ta không có gì trong tay; như thể ông ta chịu thua một cách đột ngột và không giải thích nổi. Leo tiếp tục tiến lên, gần hơn và gần hơn. Cuối cùng gã có thể thấy điều gì ngăn cản Brodsky. Có một con sông đóng băng rộng chừng hai mươi mét ngăn cách ông ta với cánh rừng. Từ trên đồi không thể nhìn thấy con sông, khuất dưới thảm tuyết dày bao phủ khắp bề mặt đóng băng. Leo gọi to: - Kết thúc rồi! Anatoly cân nhắc nhận định này, ông quay lại nhìn về phía rừng, rồi bước lên trên băng. Bước chân ông loạng choạng, trượt theo bề mặt trơn. Mặt băng nứt ra vì sức nặng, gần như không chịu nổi ông. Ông không chịu chậm lại. Hết bước này sang bước khác, mặt băng bắt đầu rạn ra - những đường nứt đen, ngoằn ngoèo hình thành trên mặt băng, cắt chéo nhau và lan dần ra dưới chân ông. Ông càng đi nhanh thì vết nứt càng nhiều, tỏa ra các hướng. Nước băng tràn lên qua các thớ nứt. Ông bước tiếp: ông đã ở giữa sông, mười mét nữa sẽ đến bờ bên kia. Ông nhìn xuống dòng nước đen ngòm và lạnh giá đang chảy phía dưới. Leo đến mép bờ sông, cho súng vào bao, với tay ra: - Băng không trụ nổi đâu. Ông không đến được rừng đâu. Brodsky dừng bước và quay lại: - Tôi không cố đến được chỗ rừng. Ông co chân phải lên và bằng một động tác thình lình nện ủng xuống, khiến mặt băng vỡ tan, và thọc chân xuống dòng sông. Nước bắn lên, băng vỡ ra, và ông rơi xuống. Tê cứng hoàn toàn, bị sốc, ông để cho mình chìm xuống: nhìn lên ánh nắng. Rồi, cảm thấy mình trồi lên, ông lại đạp cho người chìm xuống, cách xa chỗ băng vỡ. Ông không định nổi lên. Ông sẽ biến mất vào dòng nước đen này. Phổi ông bắt đầu đau buốt và ông đã cảm thấy cơ thể chống chọi lại quyết định tự vẫn. Ông đạp cho người xuống sâu thêm, càng xa ánh sáng càng tốt, xa bất kỳ cơ hội sống sót nào. Cuối cùng, khả năng nổi tự nhiên khiến ông trồi lên; thay vì ngóp lên không khí, mặt ông va vào một lớp băng dày đặc. Dòng nước chảy chậm kéo ông xuống sâu hơn. * * * KẺ PHẢN BỘI SẼ KHÔNG NỔI LÊN; chắc chắn ông ta đang bơi xa lỗ trống để tự sát và để bao che đồng bọn. Leo vội vã chạy dọc theo bờ sông, ước chừng chỗ của ông ta dưới mặt băng. Gã tháo dây lưng da nặng nề và khẩu súng ra, vứt xuống đất, và bước ra dòng sông băng, ủng gã trượt trên mặt băng. Hầu như ngay lập tức băng bắt đầu căng ra. Gã vẫn đi, cố giữ cho bước chân thật nhẹ, nhưng băng đang rạn và gã có thể cảm thấy nó chìm dần dưới sức nặng của gã. Đến giữa sông, gã ngồi xuống, điên cuồng đào bới lớp tuyết. Nhưng không thấy kẻ bị tình nghi đâu cả - bốn bề chỉ có nước đen ngòm. Leo đi xuôi dòng xa hơn nữa và những vết rạn nứt đuổi theo từng bước chân gã, bao vây gã khắp mọi phía. Nước bắt đầu dâng lên, các vết nứt nối vào nhau. Gã nhìn lên trời, hít đầy phổi, sẵn sàng để nghe thấy một tiếng rắc. Băng sụp xuống. Mặc dù không hoàn toàn cảm thấy hết cái lạnh, mê man vì methamphetamine, nhưng gã cũng biết mình phải di chuyển thật nhanh. Ở nhiệt độ này thời gian được tính bằng giây. Gã xoay lại. Có những tia sáng nơi băng đã vỡ làm đôi, nhưng xa hơn, nước đen kịt, bị chắn mất nắng bởi một mảng tuyết dày đặc. Gã đạp chân, hướng theo dòng nước. Không thể thấy bất cứ thứ gì, gã bơi xa hơn và xa hơn nữa, quáng quàng mò mẫm tứ phía. Cơ thể gã kêu gào đòi không khí. Đáp lại, gã tăng tốc độ, đạp mạnh hơn, đẩy mình nhanh hơn trong dòng nước: không lâu nữa gã sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài quay lại hoặc chết. Nhận ra không có cơ hội thứ hai, và quay về tay không có nghĩa là phải chết, gã cố một sải nữa xuôi dòng nước. Tay gã quờ phải cái gì đó: vải, áo, một ống quần. Đó là Brodsky, bất động dưới băng. Nhưng như thể va chạm đó khiến ông ta sống lại, ông ta bắt đầu giãy giụa. Leo bơi xuống dưới ông ta, túm lấy cổ. Con đau trong ngực gã nhức nhối. Gã phải trồi lên mặt nước. Một tay quàng quanh cổ kẻ bị tình nghi, gã cố đấm vỡ lớp băng phía trên, nhưng mấy cú đấm trượt theo bề lớp băng cứng láng. Brodsky thôi động đậy. Ông tập trung, không chịu nghe theo mọi khát vọng sống của cơ thể, ông há miệng, hớp nước lạnh vào phổi, chào đón cái chết. Leo tập trung vào những tia sáng ở đầu nguồn. Gã đạp thật mạnh, đẩy cả hai người tới chỗ sáng. Tù nhân của gã đã im lìm, bất tĩnh. Leo choáng váng, gã không thể nín thở lâu hơn được nữa. Gã đạp lần nữa - cảm thấy ánh nắng chiếu vào mặt - bơi tới trước. Cả hai người ngoi lên mặt nước. Leo thở gấp rồi lại thở gấp. Nhưng Brodsky thì không thở. Leo kéo ông vào bờ. Phá vụn những mảng băng để mở đường. Chân gã chạm được bờ. Gã leo lên, kéo theo tù nhân của gã. Da họ tái nhợt. Leo không ngớt run lẩy bẩy. Ngược lại, kẻ bị tình nghi vẫn hoàn toàn bất động. Leo mở miệng ông ta, hút nước ra, thổi khí vào phổi ông ta. Gã ấn vào ngực ông ta, hà hơi vào phổi, rồi ấn lên ngực, hà hơi vào phổi: - Nào! Brodsky ú ớ tỉnh lại, gập người và nôn thốc nước đá trong bụng ra. Leo không có thời gian để cảmthấy nhẹ nhõm. Họ chỉ có vài phút trước khi chết vì bị hạ thân nhiệt. Gã đứng lên. Gã thấy ba tên lính tới gần. Ba người này đã thấy Leo khuất dưới dòng sông và nhận ra cấp trên của họ đã đúng ngay từ đầu. Trong tích tắc, cán cân quyền lực lại chuyển từ Vasili về Leo. Cảm giác hậm hực về việc gã xử lý vụ Fyodor giờ không còn ý nghĩa. Lý do duy nhất họ cảm thấy đủ an toàn để cho tình cảm xen vào là họ mường tượng trước rằng chiến dịch này sẽ thất bại và Leo sẽ bị tước bỏ quyền lực. Không có chuyện đó: vị trí của gã sẽ mạnh hơn bao giờ hết. Họ chạy nhanh hết sức mình; mạng sống của họ tùy thuộc vào điều đó. Leo quỳ xuống bên cạnh kẻ bị bắt. Mắt Brodsky nhắm lại - ông ta lại đang chìm vào hôn mê. Leo vả vào mặt ông ta, cần phải giữ cho ông ta tỉnh táo. Gã lại tát. Kẻ bị tình nghi mở mắt, nhưng hầu như ngay lập tức nhắm lại. Leo tát, và tát, tát nữa. Họ đang hết giờ. Gã đứng lên, hét to: - Nhanh lên! Giọng gã trở nên yếu ớt, năng lượng cạn dần khi gã bị cảm lạnh và sức mạnh của thuốc bắt đầu tan. Thuốc đã qua đỉnh điểm. Sự mệt mỏi lạ thường lại xâm chiếm cơ thể gã. Quân của gã tới nơi: - Cởi áo khoác ra. Nhóm lửa đi. Cả ba người cởi áo khoác, quấn một chiếc cho Leo và hai chiếc kia cho Brodsky. Như vậy vẫn chưa đủ. Họ cần một đống lửa. Ba người họ đi kiếm củi. Có những cọc rào cách đó không xa, thế là hai mật vụ chạy lại đó, trong khi người thứ ba bắt đầu xé ống tay áo sơ mi vải thô của mình thành dải. Leo vẫn tập trung vào tù nhân, vẫn tát để ông ta tỉnh táo. Nhưng Leo cũng cảm thấy buồn ngủ. Gã muốn nghỉ ngơi. Gã muốn nhắm mắt lại. - Nhanh lên! Mặc dù ý gã là gào to nhưng tiếng gã rất khó nghe thấy. Hai nhân viên quay lại cùng những tấm ván nhổ ở hàng rào. Họ dọn một khoảng đất, gạt tuyết ra và để gỗ trên đất lạnh. Trên đống gỗ này, họ để những mảnh vải. Rồi họ chụm mấy tấm gỗ mỏng, tạo thành hình tháp trên những mảnh vải đó. Một người lấy bật lửa, đổ xăng lên vải. Đá phát lửa, vải bén lửa, bắt đầu cháy. Củi cháy âm ỉ. Nhưng củi quá ướt và không chịu bén lửa. Khói từ từ bốc lên. Leo không cảm thấy chút hơi ấm nào. Phải rất lâu củi mới khô. Gã xé lớp vải lót bên trong áo khoác ra, ném vào lửa. Nếu lửa tắt, cả hai đều chết. Họ chỉ còn một chiếc bật lửa. Một người cẩn thận tháo rời bật lửa ra và rưới phần xăng còn lại lên đốm lửa lay lắt. Lửa bùng lên, được tiếp sức bởi bao thuốc vò nát và giấy thuốc lá xé tưa. Cả mấy tay mật vụ quỳ xuống, thêm củi vào. Gỗ bắt đầu cháy. Anatoly mở mắt, nhìn vào đống lửa trước mặt. Củi kêu lách tách vì hơi nóng. Dù ông có muốn chết đi nữa thì hơi ấm cũng khiến ông cảm thấy thật dễ chịu. Khi lửa cháy to và hổ phách đỏ rực, ông nhận ra với cảm xúc lẫn lộn rằng mình sẽ sống sót. Leo ngồi đó, ánh mắt chú mục vào tâm đống lửa. Hơi từ quần áo gã bắt đầu bốc lên. Hai mật vụ, hối hả tìm lại lòng tin của gã, tiếp tục đi kiếm củi. Người thứ ba đứng gác. Một khi không còn lo lửa tắt nữa, Leo lệnh cho một người quay trở lại căn nhà và chuẩn bị trở về Mátxcơva. Quay về phía tù nhân, gã hỏi: - Ông còn đủ sức đi không? - Tôi từng đi câu cá với con trai tôi. Ban đêm chúng tôi đốt lửa như thế này và ngồi quanh. Nó không thích câu cá lắm, nhưng tôi nghĩ nó thích những đống lửa. Nếu nó chưa chết, có lẽ giờ nó cũng trạc tuổi cậu. Leo không nói gì. Người tù nói tiếp: - Nếu cậu cho phép, tôi muốn được ở đây một lát nữa. Leo cho thêm củi vào lửa. Họ có thể đợi thêm một lúc nữa. *** TRÊN ĐƯỜNG VỀ không ai nói gì. Khoảng cách Leo đã chạy trong chưa đầy ba mươi phút đã khiến họ mất gần hai tiếng để quay lại. Mỗi bước chân dường như càng lúc càng nặng nề hơn bởi methamphetamine đã biến mất khỏi cơ thể gã. Chỉ có sự thành công mới giữ cho gã đứng vững. Gã sẽ trở về Mátxcơva sau khi đã tự chứng tỏ, sau khi đã khôi phục địa vị. Gã đã đứng bên bờ vực thất bại và quay trở lại từ đó. Gần đến ngôi nhà, Anatoly bắt đầu tự hỏi làm sao họ tìm ra ông. Ông nhận ra rằng hẳn ông đã nhắc đến tình bạn giữa ông và Mikhail với Zina. Bà ta đã phản bội ông. Nhưng ông không cảm thấy oán giận bà. Bà chỉ đang cố sống còn. Không ai có thể trách móc bà về điều đó. Dù sao, chuyện đó cũng không liên quan. Vấn đề bây giờ là thuyết phục kẻ bắt ông rằng Mikhail không tiếp tay cho ông. Ông quay về phía kẻ bắt mình: - Khi tôi đến đây tối qua, gia đình họ đã đuổi tôi đi. Họ không muốn liên quan gì tới tôi hết. Họ dọa sẽ báo chính quyền. Đó là lý do tôi buộc phải lẻn vào chuồng bò. Họ tưởng tôi đã đi rồi. Gia đình họ không làm gì sai cả. Họ là những người tốt, những người lao động vất vả. Leo cố tưởng tượng điều gì thực sự xảy ra tối qua. Kẻ phản bội nhờ bạn mình nhưng sự giúp đỡ không đến. Đấy không hẳn là một kế hoạch tẩu thoát. Đấy hoàn toàn không phải là kế hoạch tẩu thoát của một gián điệp chuyên nghiệp. - Tôi không quan tâm gì đến bạn ông cả. Họ đến khu đất nông trại. Ngay trước mặt họ, xếp hàng quỳ bên ngoài cổng chuồng bò là Mikhail Zinoviev, vợ anh ta, và hai cô con gái. Tay họ bị trói sau lưng. Họ đang run cầm cập, lạnh cóng dưới trời tuyết. Rõ ràng họ ở trong tình trạng này đã lâu. Mặt Mikhail bầm giập. Máu chảy ra từ cái mũi nát bét; quai hàm sái hẳn một góc kinh hãi. Nó bị vỡ. Những tay lính đứng thành một vòng tản mác, ngập ngừng quanh họ. Vasili đứng ngay sau lưng gia đình kia. Leo dừng bước, định nói, thì Vasili bỏ tay khoanh trên ngực xuống, lấy súng ra. Hắn gí họng súng và bắn một phát vào sau đầu Zinoviev. Âmthanh phát ra. Thân người đàn ông đổ ập xuống tuyết. Vợ anh ta và hai cô con gái vẫn bất động, trân trối nhìn thi thể trước mặt họ. Chỉ có Brodsky phản ứng, ông kêu lên, một âm thanh không phải của người - không một lời nào mà là nỗi đau xen lẫn căm giận. Vasili bước sang bên một bước và chĩa súng vào sau đầu người vợ. Leo giơ tay: - Hạ súng xuống! Đây là mệnh lệnh. - Những kẻ này đều là phản bội. Chúng ta phải làm gương. Vasili bóp cò, tay hắn giật lại, phát súng thứ hai nổ, tấm thân người phụ nữ đổ vật xuống tuyết bên cạnh chồng. Brodsky cố vùng ra nhưng hai lính áp giải đã đá ông khuỵu gối xuống. Vasili tiến thêm một bước sang bên, chĩa súng vào sau đầu đứa chị. Mũi cô bé đỏ vì lạnh. Người run run. Cô bé đang nhìn thi thể mẹ. Cô sẽ chết trên tuyết bên cạnh bố mẹ mình. Leo rút súng, nhằm vào cấp phó của gã: - Hạ súng xuống. Bổng nhiên mọi mệt mỏi tan biến, không phải vì một thứ ma túy nào. Sự giận dữ và adrenaline chạy dọc cơ thể gã. Tay gã giữ chắc. Gã nheo một mắt và nhắm cẩn thận. Ở khoảng cách này, gã sẽ không bắn trượt. Nếu giờ gã nổ súng, cô bé sẽ sống. Cả hai cô bé sẽ sống - không đứa nào bị giết. Không hề nghĩ tới, nhưng lời ấy đã vang lên trong đầu gã: Bị giết Gã lên cò súng. Vasili đã sai về đầu mối Kiev. Hắn bị bức thư của Brodsky đánh lừa. Hắn dám chắc với mấy gã kia là họ đang phí thời gian đến Kimov. Hắn đã bóng gió rằng thất bại đêm nay sẽ khiến hắn trở thành sếp mới. Những nhầm lẫn đáng xấu hổ này sẽ được đưa vào báo cáo về Leo. Ngay bây giờ Vasili có thể cảm thấy mấy sĩ quan kia đang nhìn hắn. Vị thế của hắn đã bị giáng một đòn bẽ mặt. Một phần trong hắn muốn xem liệu Leo có dám giết hắn không. Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Nhưng hắn không khờ. Trong thâm tâm hắn biết rằng hắn là kẻ hèn còn Leo thì không. Vasili hạ súng. Giả vờ như hài lòng, hắn ra hiệu về hai đứa trẻ: - Các cô bé đã học được một bài học quý. Có lẽ lớn lên chúng sẽ trở thành những công dân tốt hơn cha mẹ chúng. Leo tiến tới chỗ viên thuộc cấp, qua hai xác chết, để lại dấu ủng trên tuyết dính máu. Gã vung khẩu súng thành một đường cong, đánh gờ súng vào bên đầu Vasili. Vasili ngã ngửa, ôm lấy thái dương. Có một vệt máu ở chỗ trán da bị xước. Nhưng hắn chưa kịp đứng thẳng dậy thì đã cảm thấy nòng súng Leo gí vào thái dương hắn. Ngoại trừ hai đứa bé, đang nhìn xuống đất, chờ chết, mọi người đều nhìn. Hết sức từ từ, Vasili nghiêng đầu nhìn lên, hàm hắn đánh lập cập. Hắn sợ chết, kẻ xem cái chết của người khác là bình thường. Ngón tay Leo chạm vào cò súng. Nhưng gã không thể làm thế. Không, dù đang lúc máu lạnh. Gã không thể là người hành quyết kẻ này. - Anh sẽ ở đây chờ dân quân đến. Anh sẽ phải giải thích chuyện gì xảy ra và giúp đỡ họ. Anh có thể tự về Mátxcơva lấy. Leo giúp hai bé gái đứng lên và đưa chúng vào nhà. Phải cần tới ba mật vụ mới đưa được Anatoly Brodsky lên thùng xe tải. Người ông rũ liệt tựa như sự sống đã bị hút đi. Ông đang lẩm nhẩm khó hiểu, hoảng loạn vì đau đớn và không nghe thấy gì khi những tay lính bảo ông im miệng. Họ không muốn nghe ông khóc. * * * TRONG NHÀ, hai bé gái không nói gì, vẫn chưa thể hiểu rằng những thi thể nằm ngoài tuyết kia là cha mẹ chúng. Bất cứ lúc nào chúng cũng hy vọng cha nấu bữa sáng cho chúng hoặc mẹ chúng đi làmđồng về. Không có gì là thực cả. Cha mẹ chúng là cả thế giới. Làm sao thế giới tồn tại mà không có họ được? Leo hỏi chúng còn người thân nào khác không. Không đứa nào trả lời. Gã bảo đứa lớn gói ghémđồ đạc - họ sẽ lên Mátxcơva. Chẳng đứa nào nhúc nhích. Gã vào phòng ngủ và bắt đầu gói đồ cho chúng, tìm kiếm đồ đạc, quần áo của chúng. Tay gã bắt đầu run rẩy. Gã dừng lại, ngồi trên giường, và nhìn xuống ủng. Gã chụm hai đế giày lại và nhìn chằm chằm nơi mấy vệt đầy tuyết lẫn máu nén cứng, mỏng tang đang rã trên sàn nhà. * * * VASILI BÊN LỀ ĐƯỜNG NHÌN THEO, hút điếu thuốc cuối cùng khi chiếc xe tải chạy đi. Hắn nhìn hai bé gái đang ngồi trong khoang lái, bên cạnh Leo, chỗ đáng ra là của hắn. Chiếc xe quành lại rồi mất dạng cuối đường. Hắn nhìn quanh. Có những khuôn mặt bên các cửa sổ của nông trại gần đó. Lúc này họ không quay đi. Hắn mừng là vẫn còn khẩu súng máy. Hắn đi vào nhà, nhìn hai thi thể đang năm trên tuyết. Hắn vào bếp, nấu nước và pha trà. Trà rất đặc nên hắn thêm đường cho ngọt. Gia đình này có một lọ đường nhỏ, có lẽ để dùng trong một tháng. Hắn đổ gần hết chỗ đường vào cốc, thành một thứ ngọt lợm. Hắn nhấp trà và đột nhiên thấy mệt mỏỉ. Hắn tháo ủng và cởi áo, đi vào phòng ngủ, kéo chăn, và nằm xuống. Hắn ước có thể lựa chọn giấc mơ. Hắn sẽ chọn giấc mơ trả thù. MÁTXCƠVA 16 THÁNG HAI DÙ ĐÂY LÀ nơi gã làm việc năm năm qua, nhưng Leo chưa bao giờ cảm thấy thoải mái ở Lubyanka, trụ sở của MGB. Những cuộc nói chuyện phiếm rất hiếm. Các phản ứng đều thận trọng. Tất cả chuyện này khó gây ngạc nhiên nếu xét đến bản chất công việc của họ, nhưng trong tâm trí gã thì chính tòa nhà có cái gì đó khiến mọi người thấy khó chịu, như thể nỗi sợ là một yếu tố được đưa vào thiết kế tòa nhà. Chẳng biết gì về ý đồ của kiến trúc sư, gã đành chấp nhận rằng giả thiết của mình là vớ vẩn. Tòa nhà được xây từ trước cách mạng, chỉ tồn tại như một văn phòng bảo hiểm trước khi được lực lượng an ninh mật Bolshevik tiếp quản. Nhưng gã vẫn thấy thật khó tin là người ta lại ngẫu nhiên chọn một tòa nhà có kích thước gây ái ngại như vậy: không cao không thấp, không rộng cũng không hẹp, nằm đâu đó lưng chừng một cách khó chịu giữa những thứ ấy. Mặt tiền tạo ấn tượng về sự canh gác: hàng hàng cửa sổ sít sịt nhau, chồng lên cao dần, tới một chiếc đồng hồ đặt trên chóp nhìn xuống toàn bộ thành phố như thể một con mắt tròn duy nhất. Một đường ranh giới vô hình tồn tại xung quanh tòa nhà. Người qua đường tránh xa cái vành đai tưởng tượng này như lo sợ họ sẽ bị hút vào. Vượt qua đường rãnh ấy có nghĩa ta là nhân viên hoặc người bị kết án. Khi ở bên trong những bức tường này, không có cơ may ta được xem là vô tội. Có lẽ Lubyanka không được xây dựng với chủ ý gây sợ hãi, tuy nhiên nỗi sợ vẫn chiếm cứ nó, nỗi sợ hãi đã biến tòa nhà trước đây vốn là văn phòng bảo hiểm thành của riêng nó, thành nơi trú ngụ của nó. Leo xuất trình chứng minh thư, một tấm thẻ không chỉ có nghĩa là gã có thể đi vào tòa nhà mà còn có thể đi ra khỏi đó. Tuy đã vào bên trong, Leo vẫn đang mặc đồ ngoài trời, gồm găng tay da và chiếc áo khoác len dài. Gã vẫn run cầm cập. Khi gã đứng yên, sàn nhà dường như tròng trành. Những cơn chóng mặt choán lấy gã, kéo chừng vài giây. Gã cảm thấy như mình sắp gục xuống. Đã hai ngày rồi gã không ăn gì, nhưng nghĩ đến thức ăn khiến gã buồn nôn. Cho dù vậy, gã vẫn ngoan cố không chịu nghĩ đến khả năng mình bị ốm: gã chắc chắn bị cảm lạnh một chút, có lẽ mệt mỏi, nhưng nó sẽ qua thôi. Trong cơn suy sụp sau khi dùng methamphetamine, gã chỉ cần ngủ. Không có cách nào để gã có thể nghỉ làm một ngày. Không phải hôm nay, khi vẫn còn đó cuộc chất vấn Anatoly Brodsky. Các cuộc thẩm vấn đúng ra không phải là phần trách nhiệm của gã. MGB có các chuyên gia không làm gì khác ngoài thẩm vấn kẻ bị tình nghi, đi từ phòng giam này sang phòng giam khác, lấy lời thú tội với một sự dửng dưng chuyên nghiệp và niềm tự hào cá nhân. Họ được khích lệ, giống hầu hết mọi nhân viên, bởi những điều đơn giản như khả năng được thưởng theo thành tích, được thưởng nếu như kẻ bị tình nghi ký ngay vào bản thú tội vô điều kiện mà không sửa đổi. Leo biết đôi chút về phương thức của họ. Gã không quen riêng ai trong số họ. Những chuyên gia thẩm vấn tạo thành một phe cánh riêng, làm việc như một đội, thường thẩm vấn chung kẻ bị tình nghi, phối hợp tài năng đặc biệt của họ để tấn công sự ngoan cố từ nhiều góc độ khác nhau. Tàn nhẫn, rành mạch, biết xoa dịu: tất cả những phẩm chất này được sử dụng đúng chỗ. Bên ngoài công việc, những người này ăn cùng nhau, đi với nhau, chia sẻ những câu chuyện, và so sánh các phương pháp. Dù họ ít nhiều giống như những người khác, nhưng có một lý do nào đó khiến Leo nhận ra họ khá dễ dàng. Đa số các hoạt động cực đoan hơn của họ chỉ diễn ra dưới tầng hầm, nơi họ có thể kiểm soát các yếu tố môi trường như nhiệt độ và ánh sáng. Ngược lại, vai trò nhân viên điều tra của Leo có nghĩa là gã dành hầu hết thời gian ở phía trên hoặc ngoài trời. Tầng hầm là một thế giới gã hiếm khi bước xuống, một thế giới mà gã nhắm mắt không nhìn vào, một thế giới mà gã muốn giữ dưới chân mình. Sau một lúc chờ đợi, Leo được gọi vào. Gã loạng choạng đi vào văn phòng thiếu tá Kuzmin. Không có gì trong căn phòng này là ngẫu nhiên: mọi thứ đều được trù liệu và sắp xếp một cách tỉ mỉ. Những bức tường được trang trí ảnh đen trắng đóng khung, trong đó có tấm ảnh Stalin bắt tay Kuzmin, một tấm ảnh được chụp vào sinh nhật thứ bảy mươi của Lãnh tụ. Xung quanh là một bộ sưu tập áp phích tuyên truyền được sưu tầm qua nhiều thập niên khác nhau. Leo cho rằng việc phân chia theo thời kỳ nhằm ngụ ý rằng Kuzmin vẫn luôn chiếm giữ văn phòng này mà điều này thì không đúng; có một thời kỳ dài ông ta làm tình báo quân đội. Có một tấm áp phích hình một con thỏ trắng béo múp trong chuồng. HÃY ĂN THỊT THỎ NHIỀU HƠN! Có ba người phụ nữ đang tươi cười đi vào nhà máy. HÃY GỬI TIỀN TIẾT KIỆM CỦA BẠN CHO CHÚNG TÔI! CHÚNG TÔI ở đây không phải là ba phụ nữ tươi cười kia, mà là tài khoản tiết kiệm quốc gia. Một tờ áp phích hình một người đàn ông béo tròn mặc bộ vest và đội chiếc mũ chóp cao, xách hai chiếc túi đầy tiền. NHỮNG GÃ HỀ TƯ BẢN! Hình ba chiều những bến tàu, nhà máy đóng tàu, đường xe lửa, những công nhân tươi cười, những công nhân mệt mỏi, một đoàn tàu, tất cả đều vinh danh Lenin. HÃY XÂY DỰNG! Những áp phích này được thay đổi thường xuyên và Kuzmin cẩn thận trưng ra bộ sưu tập phong phú của ông ta. Cũng được quan tâm không kém là bộ sưu tập sách. Giá sách của ông ta chất đầy những cuốn với mọi nhan đề phù hợp. Thậm chí thùng giấy lộn cũng chỉ chứa những thứ được ông ta lựa chọn cẩn thận. Mọi người, từ viên thư ký cấp thấp nhất đến sĩ quan cấp cao nhất, đều hiểu rằng nếu muốn vứt đi cái gì đó thì ta phải lén lấy nó ra ngoài, rồi kín đáo vứt nó trên đường về nhà. Kuzmin đứng bên cửa sổ nhìn qua quảng trường Lubyanka. Ông ta mập lùn và mặc, như vẫn thường vậy, một bộ quân phục với kích cỡ quá nhỏ so với khung người ông ta. Cặp kính dày cộp và thường tuột xuống mũi. Dù, như Leo biết, Kuzmin không còn tham gia vào các cuộc thẩm vấn nữa, nhưng có tin đồn rằng trong thời hưng thịnh của mình ông ta đã gần như một chuyên gia, thích dùng bàn tay nhỏ nhắn béo múp của mình hơn. Giờ nhìn ông ta, điều đó thật khó tin. Leo ngồi xuống. Kuzmin vẫn đứng bên cửa sổ. Ông ta muốn đặt câu hỏi trong khi nhìn ra ngoài. Điều này là vì ông ta tin, và thường nhắc nhở Leo, rằng nên xem xét những biểu hiện cảm xúc bên ngoài bằng thái độ hoài nghi tận cùng trừ phi người kia không nhận ra rằng mình đang bị quan sát. Ông ta đã trở nên lão luyện trong việc tỏ ra là đang ngắm cảnh, nhưng thực tế thì vẫn quan sát mọi người qua tấm kính. Cái lợi của thủ thuật này bị giảm đi đáng kể bởi hầu hết mọi người, kể cả Leo, đều biết rằng họ đang bị quan sát. Và dù gì thì cũng rất ít người hạ thấp mức độ cảnh giác khi ở trong Lubyanka. - Chúc mừng Leo. Tôi biết cậu sẽ bắt được ông ta. Kinh nghiệm là một bài học quý giá cho cậu. Leo gật đầu. - Cậu bệnh sao? Leo ngập ngừng. Rõ ràng trông gã tệ hơn gã tưởng: - Không sao. Một đợt cảm, có lẽ vậy, nhưng sẽ khỏi thôi. - Tôi đoán là cậu bực mình với tôi về việc đã lôi cậu ra khỏi vụ Brodsky và bắt cậu xử lý vụ Fyodor Andreev. Có đúng không? Cậu nghĩ vụ Fyodor không liên quan và lẽ ra tôi nên để cậu tiếp tục chiến dịch Brodsky? Ông ta đang cười, điều gì đó làm ông ta thích thú. Leo tập trung, đánh hơi được hiểm nguy: - Không, thưa thiếu tá. Tôi không bực mình. Lẽ ra tôi nên bắt Brodsky ngay. Đấy là lỗi của tôi. - Đúng, nhưng cậu đã không bắt ông ta ngay. Nên, trong trường hợp đó, liệu tôi có sai không khi lôi cậu ra khỏi một vụ án gián điệp và bắt cậu đi nói chuyện với một ông bố đang đau khổ? Đấy là câu hỏi của tôi. - Tôi chỉ nghĩ về việc tôi đã không bắt Brodsky ngay. - Cậu đang lảng tránh câu hỏi đấy. Ý tôi đơn giản thế này: vụ việc gia đình Fyodor không phải là một vấn đề tầm thường. Đó là một sự suy đồi ngay trong chính MGB. Mặc dù tôi hài lòng vì cậu đã bắt được Brodsky song tôi xem công việc của cậu với Fyodor quan trọng hơn. - Tôi hiểu. - Giờ chúng ta qua vấn đề Vasili Nikitin. Thật khó tránh được rằng hành động của gã sẽ không bị tố giác. Vasili sẽ không ngần ngại cố gắng sử dụng nó để chống lại gã. Leo không thể trông chờ sự ủng hộ của Kuzmin hay đoán khía cạnh nào của sự việc này khiến gã lo ngại nhất. - Cậu chĩa súng vào anh ta? Và rồi cậu đánh anh ta? Anh ta bảo cậu mất bình tĩnh. Anh ta bảo cậu dùng ma túy. Nó khiến cậu mất hết khôn ngoan. Anh ta đang thúc ép đình chỉ công tác của cậu. Anh ta đang tức tối, cậu hiểu rồi đấy. Leo hiểu rất rõ: xử tử không phải là vấn đề ở đây. - Tôi là sĩ quan cấp cao có mặt nên tôi ra lệnh. Vasili bất tuân. Làm sao tôi có thể duy trì sự chỉ huy, làm sao ai trong chúng ta có thể duy trì sự chỉ huy, nếu mệnh lệnh bị phớt lờ? Có lẽ đó là do xuất thân nhà binh của tôi. Trong các cuộc hành quân, sự bất tuân và không phục tùng sẽ bị phạt bằng cái chết. Kuzmin gật đầu. Leo đã lựa chọn cách biện hộ khôn ngoan - kỷ luật nhà binh: - Tất nhiên là cậu đúng. Vasili là người nóng nảy. Anh ta cũng thừa nhận như thế. Anh ta bất tuân mệnh lệnh. Điều này đúng. Nhưng anh ta tức giận vì sự tiếp tay của gia đình kia. Tôi sẽ không bỏ qua điều anh ta đã làm, cậu hiểu không? Chúng ta có sẵn một cơ chế cho những vi phạm đó. Nó nên được áp dụng ở đây. Và Vasili đã bị khiển trách đích đáng. Còn về chuyện ma túy... - Tôi đã không ngủ hai tư tiếng rồi. Và thuốc kia là do các bác sĩ ở đây cấp cho tôi. - Chuyện đó không hề khiến tôi bận tâm. Tôi đã bảo cậu làm điều cần thiết, nghĩa là ở mức độ dùng đến cái gì cần. Nhưng tôi muốn cảnh báo cậu một lời. Đánh một đồng nghiệp, cậu sẽ bị chú ý. Mọi người sẽ nhanh chóng quên rằng lý do của cậu là chính đáng. Ngay khi Vasili hạ súng xuống thì chuyện lẽ ra nên kết thúc. Nếu cậu muốn trừng phạt anh ta nữa, cậu nên báo cáo cho tôi về sự không phục tùng của anh ta. Cậu đã xem thường công lý. Đấy là điều không thể chấp nhận được. Điều đó không bao giờ chấp nhận được. - Tôi xin lỗi. Kuzmin rời khỏi cửa sổ. Đứng bên cạnh Leo, ông ta đặt tay lên vai gã: - Thế là đủ rồi. Coi như vấn đề đã khép lại. Tôi có một thách thức khác cho cậu: cuộc thẩm vấn Brodsky. Tôi muốn cậu đứng ra thực hiện. Cậu có thể gọi bất kỳ ai hỗ trợ - một chuyên gia thẩm vấn - nhưng tôi muốn cậu phải có mặt khi ông ta gục. Quan trọng là cậu phải nhận ra bộ mặt thật của ông ta, đặc biệt là vì cậu đã từng bị vẻ vô tội của ông ta đánh lừa. Đây là một lời đề nghị bất thường. Kuzmin nhận thấy vẻ ngạc nhiên của Leo: - Điều này sẽ có lợi cho cậu. Chúng ta phải đánh giá một người dựa trên điều mà người đó sẵn lòng làm. Chứ không phải điều họ sẵn lòng để người khác làm thay họ. Cậu có phản đối gì không? - Thưa không. Leo đứng lên, chỉnh lại áo khoác: - Tôi sẽ bắt đầu ngay. - Điều cuối cùng: tôi muốn cậu và Vasili cùng làm việc này. *** BUỒNG GIAM CÓ BA LOẠI. Buồng để nhốt phòng vuông, sàn phủ rơm, không gian đủ để ba người lớn nằm cạnh nhau. Trong loại buồng giam nào thì cũng luôn có năm người, được nhét chặt đến nỗi một người không thể gãi ngứa mà người khác không động đậy theo, một bộ hình lắp ghép chân tay người. Do không có nhà xí, phải có một khoảng trống để đặt bô và người tù buộc phải đi vệ sinh trước mặt người khác. Khi bô đầy, các tù nhân phải đưa đến rãnh gần nhất. Cuối cùng, loại buồng giam cuối cùng là buồng thẩm vấn. Leo đã tới một trong những phòng giamnhư vậy, nơi người ta giữ kẻ phản bội: một cửa thép tròn, có lỗ nhìn qua. Gã gõ cửa, tự hỏi sẽ nhìn thấy gì bên trong. Mở cửa là một thanh niên chừng mười bảy tuổi. Căn phòng nhỏ hình chữ nhật, tường bê tông và sàn hoàn toàn bê tông, nhưng có đèn sáng đến mức Leo phải nheo mắt. Năm bóng đèn công suất lớn mắc trên trần. Phía bức tường sau, nằm phi lý giữa không gian lạnh lẽo là chiếc ghế sofa. Anatoly Brodsky đang ngồi trên đó: tay chân bị tới. Tay nhân viên trẻ tự hào giải thích: - Ông ta vẫn nhắm mắt, vẫn cố ngủ. Tôi thề là ông ta không được một chút nghỉ ngơi. Chiếc ghế sofa kia là chỗ tốt nhất. Ông ta chỉ muốn ngồi lên và ngủ thiếp đi. Nó thật thoải mái, thực sự mềm mại. Tôi đã ngồi trên đó rồi. Nhưng tôi không cho ông ta ngủ. Nó giống như để đồ ăn ngoài tầm với của kẻ đang chết đói. Leo gật đầu và có thể thấy cậu nhân viên trẻ hơi thất vọng vì không nhận được thêm thật nhiều khen ngợi cho sự cống hiến của mình. Cậu ta lui về vị trí ở góc phòng, cầm chiếc dùi cui gỗ màu đen. Cứng nhắc, sốt sắng, má đỏ phừng, cậu ta trông như một chú lính đồ chơi. Brodsky ngồi trên mép ghế sofa, cúi gập xuống, mắt ông ta nhắm hờ. Không còn chiếc ghế nào khác, Leo đành ngồi cạnh ông ta. Thật là một sắp đặt phi lý. Chiếc sofa thực sự rất êm và Leo ngả người ra, đánh giá cao kiểu thẩm vấn khác thường của căn phòng này. Nhưng gã không được lãng phí thời giờ, gã phải làm việc ngay. Vasili sẽ đến bất kỳ lúc nào và Leo hy vọng rằng Anatoly sẽ chịu hợp tác trước khi hắn đến. Anatoly ngước nhìn, mắt ông mở to hơn. Phải mất một lúc bộ não thiếu ngủ mới nhận ra người bên cạnh ông. Đây là người đã bắt ông. Đây là người đã cứu mạng ông. Ông uể oải, giọng líu nhíu, ông nói như thể đang bị thuốc: - Bọn trẻ? Các con của Mikhail? Giờ chúng ở đâu? - Chúng được đưa vào trại trẻ mồ côi. Chúng an toàn. Trại trẻ mồ côi - đó có phải lời nói đùa, có phải một phần của hình phạt? Không, người này không đùa. - Cậu đã bao giờ đến trại trẻ mồ côi chưa? - Chưa. - Các cô bé sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn nếu cậu để chúng tự lo liệu. - Bây giờ nhà nước sẽ chăm sóc chúng. Leo ngạc nhiên khi người tù đưa tay lên, vẫn bị trói, sờ trán gã. Cậu nhân viên trẻ tiến đến, giơ dùi cui gỗ lên, sẵn sàng giáng một cú vào đầu gối người tù. Leo xua tay và cậu ta miễn cưỡng lùi lại. - Cậu bị sốt. Cậu nên ở nhà. Cậu có nhà riêng chứ? Nơi cậu ngủ và ăn và làm những việc mà người bình thường làm? Leo lấy làm lạ về người đàn ông này. Ông ta vẫn là bác sĩ, thậm chí ngay lúc này. Ông ta vẫn tỏ ra bất kính, thậm chí ngay lúc này. Ông ta vẫn can đảm, thô sơ và Leo không thể không quý mến ông ta. Leo lùi lại, ống tay áo quệt lên trán ướt lạnh: - Ông có thể tránh được sự đau đớn không cần thiết bằng cách nói cho tôi. Không một người nào chúng tôi xét hỏi lại không ước gì họ đã thú nhận tất cả ngay. Ông yên lặng thì được gì nào? - Tôi sẽ chẳng được gì cả. - Vậy ông sẽ nói cho tôi sự thật chứ? - Vâng. - Ông làm việc cho ai? - Anna Vladislavovna. Con mèo của bà ấy sắp mù. Dora Andreyeva. Con chó của bà ấy không chịu ăn. Arkadi Maslow. Con chó của ông ấy bị gãy chân trước. Matthias Rakosi. Ông ấy có một bộ những con chim hiếm. - Nếu ông vô tội, tại sao ông chạy trốn? - Tôi chạy trốn bởi vì các anh theo dõi tôi. Không có lý do gì khác. - Vô lý. - Tôi đồng ý nhưng nó vẫn cứ là sự thật. Một khi anh bị theo dõi, anh luôn bị bắt. Một khi anh bị bắt, anh luôn là kẻ có tội. Không người vô tội nào lại bị đưa đến đây. - Ông làm việc cho những quan chức nào ở Đại sứ quán Mỹ, và ông đã tuồn cho họ những thông tin gì? Cuối cùng Anatoly cũng đã hiểu ra. Vài tuần trước đây, một thư ký cấp thấp làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ đã mang con chó của anh ta đến khám. Con chó bị một vết xước nhiễm trùng. Nó cần một liều kháng sinh, nhưng do không có kháng sinh nên ông đã rửa sạch và khử trùng vết thương cho con vật, và giữ nó lại để theo dõi. Không lâu sau, ông nhận thấy một người đàn ông lảng vảng ngoài nhà mình. Đêm đó ông không ngủ được, không hiểu mình đã làm gì sai. Sáng hôm sau, ông bị theo dõi đến nơi làm việc, và lại bị theo dõi về nhà. Điều này tiếp diễn trong ba ngày. Sau bốn đêm không ngủ, ông quyết định chạy trốn. Bây giờ, cuối cùng, đây là chi tiết tội trạng của ông. Ông đã điều trị cho con chó của một người nước ngoài. - Tôi chắc chắn rằng cuối cùng rồi tôi cũng sẽ nói bất cứ điều gì anh muốn tôi nói, nhưng hiện giờ tôi sẽ nói thế này: Tôi - Anatoly Tarasovich Brodsky - là một bác sĩ thú y. Không lâu sau hồ sơ của anh sẽ nói tôi là gián điệp. Anh sẽ có chữ ký của tôi và lời thú tội của tôi. Anh sẽ buộc tôi phải đưa ra những cái tên. Sẽ có nhiều vụ bắt bớ khác, nhiều chữ ký nữa, và nhiều lời thú tội nữa. Nhưng bất cứ điều gì sau cùng tôi nói với anh thì đấy cũng là lời dối trá, bởi vì tôi là bác sĩ thú y. - Ông không phải là tội nhân đầu tiên kêu oan. - Anh có thực sự tin tôi là gián điệp không? - Chỉ từ cuộc trò chuyện này thôi tôi cũng đã có đủ để kết ông tội lật đổ chính quyền. Ông đã tỏ thái độ rõ ràng là ông ghét đất nước này. - Tôi không ghét đất nước này. Anh ghét đất nước này. Anh ghét người dân của đất nước này. Nếu không tại sao anh lại bắt quá nhiều người như vậy? Leo bắt đầu hết kiên nhẫn. - Ông có hiểu điều gì sẽ xảy ra với ông nếu ông không chịu nói với tôi? - Ngay đến trẻ con cũng biết điều gì đang xảy ra ở đây. - Nhưng ông vẫn không chịu thú tội? - Tôi sẽ không để anh được thoải mái đâu. Nếu anh muốn tôi nhận mình là gián điệp, anh sẽ phải tra tấn tôi. - Tôi đã hy vọng tránh được chuyện này. - Anh nghĩ vẫn còn chính trực được ngay dưới này sao? Đi mà lấy dao. Đi mà lấy đồ nghề của anh. Khi tay anh dính máu tôi, lúc đó hẵng nghe lời lẽ đạo đức của anh. - Tôi chỉ cần một danh sách những cái tên. - Không có gì khó lay chuyển hơn sự thật. Thế nên tại sao anh ghét họ như vậy. Họ xúc phạm anh. Đó là lý do tôi có thể làm anh thất vọng chỉ bằng cách đơn giản nói rằng tôi - Anatoly Tarasovich Brodsky - là một bác sĩ thú y. Sự vô tội của tôi xúc phạm anh bởi vì anh muốn tôi có tội. Anh muốn tôi có tội bởi vì anh đã bắt tôi. Có tiếng gõ cửa. Vasili đã đến. Leo đứng lên, lẩm bẩm: - Lẽ ra ông nên chấp nhận đề nghị của tôi. - Có lẽ một ngày anh sẽ hiểu tại sao tôi không thể. Cậu nhân viên trẻ mở cửa. Vasili bước vào. Hắn mang băng dán vô trùng chỗ bị đánh, việc mà Leo nghĩ là không có tác dụng thực sự nào ngoài việc nhằm thu hút sự thăm hỏi và để hắn được mô tả lại sự việc cho càng nhiều người càng tốt. Đi cùng Vasili là một người đàn ông trung niên tóc lơ thơ, mặc một bộ vest nhàu nhĩ. Thấy Leo đang ở chỗ Anatoly, Vasili dường như lo lắng: - Hắn đã thú tội chưa? - Chưa. Vasili lộ rõ nhẹ nhõm, ra hiệu cho tên nhân viên đỡ người tù đứng lên, trong khi gã trung niên mặc bộ vest nâu bước lên, cười và chìa tay ra cho Leo: - Bác sĩ Roman Hvostov. Tôi là chuyên gia tâm lý. - Leo Demidov. - Rất vui được gặp anh. Họ bắt tay. Hvostov chỉ về phía người tù: - Đừng lo về ông ta. Hvostov dẫn họ đến phòng mổ của ông ta, cánh cửa đã mở, ông ta ra hiệu cho họ vào, như thể họ là những đứa trẻ và đây là phòng chơi của ông ta. Phòng mổ nhỏ và sạch sẽ. Có một chiếc ghế bọc da màu đỏ gắn xuống sàn nhà lát gạch trắng. Bằng cách sử dụng một loạt các nấc đẩy, chiếc ghế có thể hạ xuống thành giường nằm rồi nâng lên lại. Trên tường có những ngăn kính đầy những chai và thuốc bột và thuốc viên, được dán nhãn màu trắng có chữ viết tay màu đen cẩn thận và gọn gàng. Dưới ngăn kính là một dãy dụng cụ phẫu thuật bằng thép. Cố mùi thuốc khử trùng. Brodsky không kháng cự khi bị buộc chặt vào ghế. Cổ tay, cổ chân và cổ của ông bị buộc dây da đen. - Có thời tôi làm việc ở một nhà tù Gulag, gần thành phố Molotov. Bệnh viện đầy những người giả vờ bị tâm thần. Bọn họ làm bất cứ gì để trốn việc. Họ chạy loăng quăng như thú, chửi bới tục tằn, xé quần xé áo, thủ dâm công khai, ỉa đái trên sàn nhà, bất cứ điều gì và đủ kiểu để buộc tôi tin là họ mất trí. Các cậu đừng có tin. Việc của tôi là xác định ai nói dối và ai điên thật. Có nhiều bài thử lý thuyết nhưng tù nhân nhanh chóng bắt bài và thông tin này được chia sẻ rồi chẳng bao lâu ai cũng biết cách làm thế nào để đánh lừa hệ thống. Ví dụ, một tù nhân nghĩ hắn ta là Hitler hay một con ngựa hoặc cái gì đó kỳ dị tương tự và rõ ràng lạ lùng thì hầu như chắc chắn là giả điên. Và rồi các tù nhân thôi giả vờ làm Hitler và trở nên tinh vi, phức tạp hơn trong các mánh khóe. Cuối cùng chỉ có một cách để biết sự thật. Ông ta hút chất dầu màu vàng đặc quánh vào ống tiêm, rồi để lên khay sắt và cẩn thận cắt một vạt trên áo người tù, buộc ga rô cao su dây quanh cánh tay trên làm nổi lên một đường ven lớn màu xanh. Hvostov nói với người tù: - Nghe nói ông hiểu chút ít về y. Tôi sẽ tiêm dầu long não vào máu ông. Ông có hiểu nó sẽ khiến ông ra sao không? - Hiểu biết y học của tôi chỉ giới hạn trong việc giúp người. - Điều này cũng giúp người. Nó có thể giúp những kẻ bị lừa. Ông sẽ không thể nói dối. Thực sự ông không có khả năng làm được gì hết. Nếu ông có thể nói, ông sẽ chỉ có thể nói sự thật. - Vậy thì cứ làm đi. Cứ tiêm dầu của ông đi. Cứ nghe cái tôi phải nói. Hvostov nói với Leo: - Chúng ta sẽ dùng một cái gạc cao su. Để ông ta khỏi cắn lưỡi khi lên đến đỉnh điểm cơn sốc. Tuy nhiên, khi ông ta bình tĩnh lại, chúng ta có thể yên tâm lấy gạc ra và anh có thể hỏi. Vasili lấy một con dao và bắt đầu dùng đầu dao gảy móng tay, làm viên đất búng vào bên áo khoác. Khi làm xong, hắn bỏ con dao xuống và cho tay vào túi, rút thuốc lá ra. Tay bác sĩ lắc đầu: - Vui lòng không hút trong đây. Vasili vứt điếu thuốc. Tay bác sĩ kiểm tra ống tiêm - có vài giọt dầu vàng ở đầu kim tiêm. Ông ta hài lòng, cắm sâu đầu kim vào ven của Brodsky. - Được rồi. Các anh hỏi đi. Xem ông ta nói gì. Vasili bước lên và lấy tấm gạc cao su ra. Vasili quay đi với ánh mắt ngờ vực: - Thế này là ông ta định nói cái chó gì? - Thử đi. - Ông làm việc cho ai? Đáp lại, đầu ông ta rũ xuống. Tiếng lục bục trong cổ họng. - Thử lại xem. - Ông làm việc cho ai? Đầu Brodsky nghiêng sang bên, như con rối, con búp bê: y như thật, có thể cử động nhưng không thực sự sống. Miệng ông ta mở ra và khép lại, lưỡi thè ra - sự bắt chước máy móc lời nói nhưng không phát ra âm thanh: - Thử lại. - Ông làm việc cho ai? - Thử lại đi. Vasili lắc đầu, quay sang Leo: - Vớ vẩn quá. Anh thử đi. Leo đang dựa lựng vào tường, như thể đang cố lùi càng xa càng tốt. Gã bước lên: - Ông làm việc cho ai? Một âm thanh phát ra từ miệng ông ta. Thật lố bịch, hài hước, như trẻ con thổi lì phì. Hvostov khoanh tay và nhìn vào mặt Brodsky. - Thử lại đi. Bắt đầu bằng câu đơn giản. Hỏi tên ông ta. - Tên gì? - Thử lại. Tin tôi đi. Ông ta sắp nói đấy. Thử lại đi. Leo bước đến gần hơn. Gã gần tới mức có thể giơ tay ra và sờ vào trán ông ta. - Ông tên gì? Môi ông ta mấp máy. - Anatoly. - Ông làm việc cùng những ai? Ông ta không còn rung giật nữa. - Ông làm việc cho ai? Một thoáng yên lặng. Rồi ông ta nói, ú ớ, lắp bắp - như người ta nói trong khi ngủ: - Anna Vladislavovna. Dora Andreyeva, Arkadi Maslow, với Matthias Rakosi. Vasili lấy sổ tay, nguệch ngoạc những cái tên, rồi hỏi: - Có nhận ra tên nào không? Có, Leo nhận ra những cái tên này: Anna Vladislavovna: con mèo của bà ấy sắp mù. Dora Andreyeva: con chó của bà ấy không chịu ăn. Arkadi Maslow: con chó của ông ta bị gãy chân trước. Cái hạt mầm nghi hoặc, nằm im lìm và không tiêu dưới đáy dạ dày Leo, nứt toác ra. Anatoly Tarasovich Brodsky là một bác sĩ thú y. Anatoly Tarasovich Brodsky chỉ là một bác sĩ thú y. 17 THÁNG HAI BÁC SĨ ZARUBIN ĐỘI chiếc mũ lót lông chồn, cầm chiếc túi da lên, và chen ra khỏi xe điện đông đúc, hời hợt xin lỗi. Vỉa hè lạnh băng, và khi bước xuống, ông ta phải dựa vào thành xe. Đột nhiên ông ta cảm thấy già đi; chân không vững, sợ bị trượt ngã. Xe điện chạy đi. Ông ta nhìn quanh, hy vọng đây là trạm dừng cần đến - vùng ngoại ô phía Đông là nơi ông ta biết rất mơ hồ. Nhưng khá là đơn giản để xác định phương hướng - điểm đến của ông ta nổi bật trên nền trời đông u ám. Bên kia đường, cách chừng mấy trăm mét, cao hơn ông ta và hơn tất cả cái gì khác là khu căn hộ gồm bốn tòa nhà hình chữ U, được sắp xếp theo cặp như thể chúng phản chiếu nhau. Tay bác sĩ ngạc nhiên trước thiết kế hiện đại này, nhà ở của hàng ngàn gia đình. Đây không chỉ là một dự án nhà ở. Đây là một công trình cho một thời đại mới. Không còn nhà riêng một hai tầng. Chúng đã biến mất, bị san bằng, đập nát thành tro bụi, và thay vào chỗ của chúng là những căn hộ được xây dựng hoàn hảo, do nhà nước thiết kế và sở hữu, mỗi căn được sơn màu xám và chồng lên nhau, sát cạnh nhau. Ông ta chưa hề thấy ở đâu những hình dạng giống nhau y hệt; được lặp lại nhiều lần theo nhiều hướng như vậy, mỗi căn hộ là sự sao chép hoàn hảo căn hộ bên cạnh. Lớp tuyết dày bám trên mái mỗi tòa nhà giống như Thượng đế đã vẽ một đường trắng và bảo không được tiến thêm nữa, phần bầu trời còn lại là của ta. Điều đó, Zarubin nghĩ, là thử thách tiếp theo của họ: phần bầu trời còn lại. Nó chắc chắn không thuộc về Chúa. Đâu đó ở một trong bốn tòa nhà là căn hộ 124 - nhà của nhân viên MGB Leo Stepanovich Demidov. Đầu buổi sáng nay, tay bác sĩ đã được thiếu tá Kuzmin cho biết chi tiết về sự biến mất đột ngột của Leo. Gã đã bỏ đi vào lúc khởi đầu một phiên chất vấn quan trọng, kêu rằng bị sốt và không thể tiếp tục nhiệm vụ. Kuzmin đã băn khoăn về thời điểm gã bỏ đi. Leo có thực sự bị ốm không? Hay có lý do khác cho sự vắng mặt của gã? Tại sao gã đã bảo đảm rằng đủ sức khỏe để làm việc, để rồi đổi ý sau khi được giao nhiệm vụ thẩm vấn kẻ bị tình nghi? Và tại sao gã cố xét hỏi kẻ phản bội một mình? Tay bác sĩ được phái đến điều tra tính xác thực con bệnh của Leo. Từ góc độ y khoa, tay bác sĩ cho rằng, thậm chí trước khi khám, tình trạng sức khỏe kém của Leo là do tiếp xúc quá lâu với nước lạnh, có thể bị viêm phổi trầm trọng do gã dùng ma túy. Và nếu điều này đúng, nếu gã ốm thực sự, thì Zarubin phải xử sự như là một bác sĩ và giúp gã nhanh chóng phục hồi. Tuy nhiên, nếu gã giả ốm vì bất kỳ lý do gì, Zarubin sẽ hành động như một nhân viên MGB và tiêm cho gã một liều giảm đau thật mạnh, vờ như đó là thuốc chữa bệnh hoặc thuốc bổ. Leo sẽ bị nằmliệt giường trong hai tư tiếng, gã sẽ không thể tẩu thoát và cho ông thiếu tá đủ thời gian để quyết định phải tiếp tục thế nào hay nhất. Theo sơ đồ tầng lầu bằng thép được gắn vào cột bê tông ở tầng trệt tòa nhà đầu tiên, căn hộ số 124 nằm ở đơn nguyên thứ ba, tầng mười bốn. Thang máy, một khoang kim loại vừa cho hai người, hoặc bốn nếu ta không ngại đứng sát vào nhau, rầm rập chạy lên tầng mười ba rồi dừng lại một lúc, như để lấy hơi, trước khi lên đoạn cuối. Zarubin cần cả hai tay để kéo cánh cửa cọt kẹt sang hai bên. Ở độ cao này, gió ngoài hành lang lộ thiên khiến ông bác sĩ chảy nước mắt. Ông ta nhìn quang cảnh qua những đường nét tồi tàn của thành phố Mátxcơva tuyết phủ trước khi rẽ trái và đến căn hộ 124. Mở cửa là một phụ nữ trẻ. Tay bác sĩ đã đọc hồ sơ của Leo và biết rằng gã kết hôn với một phụ nữ tên Raisa Gavrilovna Demidova: hai bảy tuổi, giáo viên. Hồ sơ không nói cô ấy đẹp. Cô ấy đẹp, đẹp lạ thường, và điều đó lẽ ra phải được nêu trong hồ sơ. Những điều này rất hệ trọng. Ông ta chưa chuẩn bị tinh thần cho tình huống này. Ông ta vốn ưa vẻ đẹp. Không phải vẻ đẹp phô trương, vị kỷ; ông ta thích vẻ đẹp kín đáo hơn. Đây là một phụ nữ như vậy. Không phải cô cố gắng trau chuốt bề ngoài; ngược lại, cô làm mọi cách để tỏ ra tầm thường, để giảm bớt vẻ đẹp của cô. Mái tóc cô, quần áo cô đều theo lối thời trang thông thường nhất, nếu có thể gọi đó là thời trang. Rõ ràng cô không muốn gây chú ý với đàn ông, điều này lại khiến cô càng thêm quyến rũ đối với tay bác sĩ. Cô sẽ là một thách thức. Những năm còn trai trẻ, tay bác sĩ vốn là một tay lăng nhăng, thực sự là một huyền thoại, trong một số giới xã hội nhất định. Ký ức về những vụ chinh phục trong quá khứ khiến ông ta mỉm cười với cô. Raisa thoáng thấy hàm răng nhuốm màu, chắc chắn vàng vì nhiều năm nghiền thuốc nặng. Cô cười đáp lại. Cô đã dự tính MGB sẽ cho người đến dù họ không báo trước, và cô đợi người đàn ông này tự giới thiệu: - Tôi là bác sĩ Zarubin. Tôi được cử đến để khám cho Leo. - Tôi là Raisa, Vợ Leo. Ông có chứng minh thư không? Tay bác sĩ bỏ mũ, tìm thẻ và đưa ra: - Xin cứ gọi tôi là Boris. Trong nhà thắp nến. Raisa giải thích rằng điện tạm thời bị cắt - từ tầng mười trở lên điện thường có trục trặc. Họ phải chịu cắt điện định kỳ, đôi khi chỉ một phút, có khi cả ngày. Cô nói xin lỗi; cô không biết khi nào sẽ có điện lại. Zarubin nói như để pha trò: - Anh ấy sẽ qua thôi. Anh ấy không phải một bông hoa. Miễn là anh ấy vẫn giữ ấm. Cô hỏi tay bác sĩ có uống nước không: đồ uống nóng, có lẽ bởi trời lạnh bên ngoài. Ông ta đồng ý, chạm trên bàn tay cô khi cô nhận chiếc áo khoác của ông ta. Trong bếp, tay bác sĩ đứng dựa vào tường, tay để trong túi, ngắm nhìn khi cô pha trà. - Tôi hy vọng nước vẫn nóng. Cô có giọng nói thật dễ chịu, dịu dàng và điềm đạm. Cô cho trà vào tách nhỏ trước khi rót vào chiếc cốc cao. Trà rất đặc, gần như đen ngòm, và khi đã ngang nửa cốc, cô quay qua ông ta: - Ông thích trà đặc cỡ nào? - Cứ hết mức cô pha được. - Như thế này? - Có lẽ thêm chút nước nữa. Khi cô lấy ấm samovar đổ thêm nước vào cốc, đôi mắt Zarubin lướt xuống cơ thể cô, lang thang ở đường nét bộ ngực, vòng eo. Quần áo của cô thật tuềnh toàng - chiếc váy vải màu xám, bít tất dày, áo len đan bên ngoài áo sơ mi trắng. Ông ta tự hỏi tại sao Leo không dùng địa vị của mình mà sắm cho cô những hàng cắt may xa xỉ của nước ngoài. Nhưng thậm chí thứ quần áo sản xuất hàng loạt và chất vải thô cũng không làm cô kém đi phần gợi cảm: - Chồng cô thế nào? - Anh ấy sốt. Anh ấy thấy lạnh khi người nóng. Anh ấy run. Anh ấy không chịu ăn. - Nếu anh ta bị sốt thì tốt nhất lúc này không nên ăn gì. Tuy nhiên, không thèm ăn cũng có thể do dùng methamphetamine. Cô có biết gì về chuyện này không? - Nếu là liên quan đến công việc thì tôi không biết gì hết. - Cô có nhận thấy bất cứ thay đổi nào ở anh ấy không? - Anh ấy bỏ bữa, anh ấy ra ngoài cả đêm. Nhưng đó là khi công việc đòi hỏi. Tôi nhận thấy sau những quãng thời gian làm việc dài thì anh ấy thường trở nên lơ đễnh. - Anh ấy quên cái này cái nọ à? Cô đưa cốc nước cho vị bác sĩ: - Ông có dùng đường không? - Nếu có mứt thì tốt quá. Cô với lên giá trên cùng. Khi cô với tay, lưng áo hếch lên, lộ ra một khoảng da tái, tuyệt vời - đường trũng sau lưng. Zarubin cảm thấy miệng khô khốc. Cô lấy xuống lọ mứt màu tía thẫm, mở nắp và lấy cho ông ta cái thìa. Ông ta xoáy một thìa và đưa lên lưỡi, nhấp trà nóng, cảm nhận mứt tan ra. Với một cảm xúc mãnh liệt đầy chủ ý, ông ta nhìn chằm chằm vào mắt cô. Nhận ra ham muốn của ông ta, cô đỏ mặt. Ông ta nhìn sắc đỏ khi chúng lan xuống tận cổ cô. - Cảm ơn cô. - Có lẽ ông sẽ khám ngay? Cô vặn đậy nắp lọ mứt, để nó sang bên và bước vào phòng ngủ. Ông ta không động đậy. - Tôi uống xong trà đã. Có gì vội đâu. Cô buộc phải quay lại. Zarubin nhúm môi thổi trà. Trà thật nóng và ngọt. Cô lại bối rối. Ông ta thích thú bắt cô phải đợi. * * * PHÒNG NGỦ KHÔNG CỬA SỔ THẬT NÓNG BỨC, không khí ngột ngạt. Chỉ từ cái mùi thôi Zarubin cũng biết rằng người nằm trên giường bị ốm. Ông ta ngạc nhiên thấy mình cảm thấy như thất vọng. Ngẫm nghĩ xem điều gì đằng sau cảm xúc ấy, ông ta ngồi xuống giường, cạnh Leo. Ông ta cặp nhiệt độ. Nhiệt độ cao, nhưng không quá nguy hiểm. Ông ta kiểm tra ngực Leo. Ông ta không nghe thấy gì bất thường. Leo không bị lao. Không có dấu hiệu nào cho thấy gì khác ngoài cảm lạnh. Raisa đứng bên cạnh ông ta và quan sát. Tay bác sĩ có thể cảm thấy mùi xà phòng trên tay cô. Ông ta thích được ở gần sát cô thế này. Ông ta lấy một lọ thủy tinh màu nâu trong túi xách và đong khoảng một thìa chất lỏng màu xanh lá: - Nhấc đầu anh ấy lên. Cô giúp chồng mình ngồi dậy. Zarubin cho chất lỏng vào họng gã. Khi gã nuốt rồi, cô hạ đầu Leo xuống gối. - Thứ đấy để làm gì vậy? - Thuốc bổ - để giúp anh ấy ngủ. - Anh ấy không cần thứ đó. Tay bác sĩ không nói gì. Ông ta không thèm bịa ra một lời nói dối. Thứ thuốc kia nói là để chữa bệnh nhưng thực ra là loại do tay bác sĩ chế ra: hỗn hợp thuốc an thần, chất gây ảo giác, và để đánh lừa vị giác, được thêm vị xi rô ngọt. Mục đích của nó là làm vô hiệu hóa cơ thể và đầu óc. Sau khi uống vào, trong chưa đầy một tiếng cơ bắp sẽ bị tác động trước hết - trở nên uể oải, yếu ớt đến mức thậm chí một cử động nhẹ nhất cũng gây cảm giác như công việc vất vả không thể tưởng tượng nổi. Chất gây ảo giác sẽ kích hoạt mau chóng sau đó. Một ý tưởng đã choán lấy Zarubin: nó đã định hình trong nhà bếp khi Raisa đỏ mặt và kết thành kế hoạch ngay lúc ông ta ngửi thấy mùi xà phòng trên tay cô. Nếu ông ta báo cáo rằng Leo không bị ốm, rằng gã bịa lý do nghỉ việc, thì gã chắc chắn sẽ bị bắt và thẩm vấn. Với tất cả những ngờ vực khác xoay quanh ứng xử của gã, sẽ có một gánh nặng nghi ngờ đổ lên gã. Gã gần như sẽ ngồi tù. Vợ gã, cô vợ xinh đẹp của gã, rút cuộc sẽ cô đơn và dễ tổn thương. Cô sẽ cần một đồng minh. Vị trí của Zarubin trong Bộ An ninh Nhà nước ngang hay thậm chí còn hơn vị trí của Leo, và ông ta chắc chắn mình có thể ngỏ một khả năng thay thế dễ chịu và chấp nhận được. Zarubin đã có gia đình nhưng ông ta có thể nhận cô làm nhân tình. Ông ta tin rằng bản năng sinh tồn của Raisa đã lên tiếng. Dù mọi thứ đã được cân nhắc, vẫn có thể còn một cách ít phức tạp hơn để đạt được điều ông ta muốn. Ông ta đứng lên: - Chúng ta nói chuyện riêng được không? Trong bếp, Raisa khoanh tay. Nếp nhăn trên trán - một nếp nhăn nhỏ trên làn da tái hoàn hảo của cô. Zarubin muốn là lưỡi của mình lên đó. - Chồng tôi sẽ ổn chứ? - Anh ta bị sốt. Và tôi sẽ sẵn sàng nói như vậy. - Ông sẽ sẵn sàng nói gì? - Tôi sẽ sẵn sàng nói anh ta ốm thực sự. - Anh ấy ốm thực sự. Ông vừa nói đấy thôi. - Cô có hiểu tại sao tôi ở đây không? - Vì ông là bác sĩ và chồng tôi bị ốm. - Tôi được cử đến đây xem chồng cô ốm thật không, hay chỉ cố trốn tránh công việc. - Nhưng rõ ràng anh ấy ốm. Cho dù có phải là bác sĩ hay không, ai cũng có thể thấy điều đó. - Đúng, nhưng tôi là người ở đây. Tôi là người quyết định. Và họ sẽ tin vào điều tôi nói. - Bác sĩ, ông vừa nói anh ấy ốm. Ông nói anh ấy sốt. - Và tôi sẽ sẵn sàng nói như thế, trong hồ sơ, nếu cô sẵn sàng ngủ với tôi. Cô thậm chí còn không chớp mắt. Không một phản ứng hiển hiện nào. Sự lạnh lùng của cô còn khiến Zarubin ham muốn cô hơn. Ông ta nói tiếp: - Chỉ một lần thôi, trừ phi là cô thích tôi, trong trường hợp đó thì chuyện ấy sẽ tiếp tục. Chúng ta có thể sắp xếp được: cô sẽ được bất cứ điều gì cô muốn, trong phạm vì hợp lý. Vấn đề là không cho ai biết cả. - Còn nếu tôi nói không? - Tôi sẽ nói chồng cô là kẻ dối trá. Tôi sẽ nói anh ta liều lĩnh trốn tránh công việc vì lý do chưa rõ. Tôi sẽ đề nghị điều tra anh ta. - Họ sẽ không tin ông. - Cô có chắc không? Sự nghi ngờ đã có. Chỉ cần một cú hích nhẹ của tôi. Nghĩ rằng sự yên lặng của cô chính là lời chấp nhận, Zarubin bước đến cô, ngập ngừng áp bàn tay lên chân cô. Cô không động đậy. Họ có thể làm tình trong bếp. Không ai biết. Chồng cô sẽ không tỉnh dậy. Cô có thể kêu gào sung sướng, cô có thể gây ồn ào bao nhiêu tùy thích. Raisa liếc qua bên, ghê tởm, không biết phải làm gì. Tay Zarubin xuôi xuống chân cô: - Đừng lo. Chồng cô sẽ ngủ nhanh thôi. Anh ta sẽ không quấy rầy. Chúng ta không quấy rầy anh ta. Tay ông ta luồn dưới váy cô: - Ắt cô còn thích thú chuyện này. Nhiều phụ nữ khác thì đã.. Ông ta gần sát đến nỗi cô có thể ngửi thấy hơi thở ông ta. Ông ta cúi xuống cô, môi hé ra, bộ răng ố của ông ta sát gần cô như thể cô là một trái táo ông ta định cắn. Cô tránh ông ta. Ông ta nắm cổ tay cô. - Mười phút không phải là cái giá quá cao để trả cho mạng sống của chồng cô. Hãy làm vì anh ta. Ông ta kéo cô lại gần, nắm tay chặt hơn. Bỗng nhiên ông ta thả ra, giơ cả hai tay lên. Raisa đã kề dao lên cổ ông ta: - Nếu ông không rõ về tình trạng của chồng tôi thì đi báo với thiếu tá Kuzmin - một người bạn tốt của chúng tôi - để cho người khác đến. Ý kiến của người thứ hai sẽ được hoan nghênh nhất. Cả hai đi né nhau, con dao trên cổ ông ta, cho đến khi Zarubin lùi khỏi bếp. Raisa vẫn ở cửa bếp, cầm con dao ngang hông. Tay bác sĩ lấy áo khoác, ung dung mặc vào. Ông ta lấy chiếc túi da, mở cửa trước, nheo mắt vì ánh nắng mùa đông: - Chỉ có trẻ con mới còn tin vào tình bạn, mà chỉ có bọn trẻ con ngu ngốc mới thế. Raisa bước lên, giật lấy chiếc mũ đang treo trên móc vứt xuống chân ông ta. Khi ông ta cúi xuống để nhặt nó, cô đóng sầm cửa. Nghe tiếng ông ta đi xa rồi mà tay cô vẫn còn run rẩy. Cô vẫn cầm con dao. Có lẽ cô đã tạo lý do để ông ta nghĩ cô sẽ ngủ với ông ta. Cô nhẩm lại những sự kiện trong đầu: mở cửa, cười trước cách pha trò lố bịch của ông ta, lấy áo khoác của ông ta, pha trà. Zarubin đã tưởng bở. Cô chẳng làm gì như vậy. Nhưng có lẽ cô nên đùa bỡn với lời đề nghị của ông ta, giả vờ rằng cô bị quyến rũ. Có lẽ lão già kia chỉ cần nghĩ rằng cô khoái những tán tỉnh của lão. Cô quẹt trán. Cô đã xử lý chuyện này thật tệ. Họ đang gặp nguy. Cô vào phòng ngủ và ngồi xuống cạnh Leo. Môi gã mấp máy như thể đang lặng lẽ cầu khẩn. Cô cúi sát hơn, cố nghe xem gã nói gì. Hầu như không nghe được, những lời rời rạc không ăn khớp. Gã đang mê sảng. Gã nắm tay cô. Da gã ẩm ướt. Cô rụt tay lại và thổi tắt nến. * * * LEO ĐANG ĐỨNG TRÊN TUYẾT, con sông trước mặt gã, Anatoly Brodsky ở bờ bên kia. Ông ta đã qua sông và gần được an toàn trong rừng. Leo bước theo ông ta thì nhận ra dưới chân gã, bị nhốt trong mảng tuyết dày, là những người đàn ông và đàn bà mà gã đã bắt. Gã nhìn sang hai bên - cả dòng sông đầy những xác người đông cứng. Nếu gã muốn đến khu rừng, nếu gã muốn bắt người đàn ông kia, gã phải giẫm lên họ. Không có lựa chọn - đấy là phận sự của gã - gã nhanh bước chân. Nhưng bước chân của gã dường như làm những xác chết sống lại. Băng bắt đầu tan chảy. Dòng sông hồi sinh, quằn quại. Ngập chân vào chỗ băng tan, Leo giờ cảm thấy những khuôn mặt dưới ủng gã. Dù gã có chạy nhanh thế nào, họ cũng ở khắp nơi, đằng sau, phía trước. Một bàn tay tóm lấy chân gã - gã giãy ra. Một bàn tay khác tóm lấy cổ chân, rồi bàn tay thứ hai, thứ ba, thứ tư. Gã nhắm mắt, không dám nhìn, chờ bị kéo xuống. Khi Leo mở mắt, gã đang đứng trong văn phòng xám xịt. Raisa bên cạnh gã, cô mặc chiếc váy đỏ nhạt, chiếc váy cô mượn một người bạn vào ngày đám cưới của họ, được sửa vội để khi cô mặc trông không quá rộng. Trên mái tóc, cô cài duy nhất một bông hoa trắng hái ở công viên. Gã mặc một bộ vest xám không được vừa vặn. Bộ vest không phải của gã: gã mượn của một đồng nghiệp. Họ ở trong một văn phòng tồi tàn của một công sở tồi tàn, đứng bên nhau, trước chiếc bàn có người đàn ông hói đầu đang hùi hụi với mớ giấy tờ. Raisa xuất trình giấy tờ của họ và họ đợi trong khi người ta kiểm tra căn cuớc. Không lời thề thốt, không lễ cưới hay những bó hoa chúc mừng. Không có khách mời, không nước mắt hay lời cầu chúc - chỉ có hai người họ, mặc những bộ đồ đẹp nhất họ có thể kiếm được. Không đình đám: chỉ có tư sản mới làm đình đám. Người làm chứng duy nhất của họ gã công chức hói trán này, ông ta điền các chi tiết vào một cuốn sổ dày cộm sờn rách. Khi giấy tờ xong xuôi, họ được trao một tấm giấy chứng nhận kết hôn. Họ đã là vợ chồng. Quay về căn hộ cũ của cha mẹ gã, nơi họ tổ chức lễ cưới, có bạn bè, hàng xóm, mọi người đều hăm hở tận dụng lòng mến khách. Mấy ông già hát những bài hát xa lạ. Nhưng có gì đó không ổn với ký ức này. Có những khuôn mặt lạnh lùng và khắc nghiệt. Gia đình Fyodor ở đó. Leo vẫn đang nhảy nhưng lễ cưới biến thành đám tang. Mọi người nhìn chằm chằm vào gã. Có tiếng gõ nhẹ nơi cửa sổ. Leo quay sang chỉ thấy dáng một người đàn ông áp mặt vào cửa kính. Leo bước đến anh ta, lau hơi nước đọng trên cửa. Đó là Mikhail Sviatoslavich Zinoviev, một viên đạn xuyên qua đầu anh ta, quai hàm anh ta vỡ nát, đầu méo mó. Leo lùi lại, quay đi. Căn phòng giờ hoàn toàn trống trải, ngoại trừ hai cô bé - các con của Zinoviev khoác những tấm giẻ bẩn thỉu. Trẻ mồ côi, bụng chúng trương lên, da phồng rộp. Rận rệp bò khắp quần áo chúng, trên lông mày và cả mái tóc đen bù xù của chúng. Leo nhắm mắt và lắc đầu. Run rẩy, lạnh cóng, gã mở mắt. Gã đang chìm dưới nước, chìm rất nhanh. Phía trên là băng. Gã cố bơi lên nhưng dòng nước nhận gã xuống. Trên băng có người, đang nhìn gã, đang xem gã chết chìm. Một cơn đau nhức nhối rát trong phổi. Không thể nín thở, gã mở miệng ra. * * * LEO THỞ DỐC, MỞ MẮT. Raisa ngồi bên cạnh gã, đang cố trấn tĩnh gã. Gã nhìn quanh, bối rối: tâm trí gã nửa mơ nửa tỉnh. Đây là thực: gã đã quay về căn nhà của mình, quay về hiện tại. Thấy nhẹ nhõm, gã nắm tay Raisa, thì thầm một tràng vội vã: - Em còn nhớ lần đầu ta gặp nhau không? Em nghĩ anh thô lỗ, nhìn chằm chằm vào em. Anh xuống bến tàu điện ngầm khác đi chỉ để hỏi tên em. Và em không chịu cho anh biết. Nhưng anh không chịu đi chừng nào em chưa nói cho anh. Nên em đã nói dối tên em là Lena. Suốt cả tuần anh chỉ có nói về người phụ nữ xinh đẹp tên là Lena. Anh bảo với mọi người rằng Lena thật xinh đẹp. Khi cuối cùng anh gặp lại em, và thuyết phục em dạo bộ cùng anh, anh đã gọi em là Lena suốt cả buổi. Cuối buổi hômđấy, anh sẵn sàng hôn em và em đã sẵn sàng nói ra tên thật của mình. Ngày hôm sau, anh kể với mọi người rằng người phụ nữ Raisa xinh đẹp nhường nào, mọi người trêu anh mà nói rằng tuần trước đó là Lena, còn tuần này là Raisa, và tuần sau sẽ là người khác. Nhưng không bao giờ như vậy. Mãi mãi vẫn là em. Raisa lắng nghe chồng mình nói và lấy làm lạ trước sự biểu lộ tình cảm ủy mị bất ngờ này. Nó xuất phát từ đâu? Có lẽ ai cũng trở nên ủy mị khi họ ốm. Cô đỡ gã nằm xuống, và không lâu sau gã ngủ thiếp đi. Đã mười hai tiếng kể từ khi bác sĩ Zarubin ra về. Một lão già tầm thường, tự phụ là một kẻ thù nguy hiểm. Để xua đi lo lắng, cô đi làm món xúp - nước luộc thịt gà với những miếng thịt, không chỉ là rau luộc và xương gà. Nó sôi sủi bọt trên lửa nhỏ, sẵn sàng cho Leo ăn khi gã có thể ăn được. Cô khuấy xúp, lấy một bát cho mình. Vừa xong việc, cô nghe có tiếng gõ cửa. Đã muộn. Cô không chờ có khách. Cô cầm con dao, cũng con dao ấy, để sau lưng trước khi tiến gần đến cửa: - Ai đấy? - Thiếu tá Kuzmin. Tay cô run rẩy, cô mở cửa. Thiếu tá Kuzmin đang đứng ngoài cùng cận vệ, hai người lính trẻ trông dữ dằn: - Bác sĩ Zarubin đã nói với tôi. Raisa thốt: - Làm ơn, ông hãy vào tận mắt xem Leo... Kuzmin dường như ngạc nhiên: - Không, không cần thiết. Tôi không cần quấy rầy cậu ấy. Tôi tin ông bác sĩ về những vấn đề y khoa. Ngoài ra, đừng nghĩ tôi là kẻ nhút nhát, nhưng tôi sợ lây cảm từ cậu ấy. Cô không thể hiểu điều gì đã xảy ra. Tay bác sĩ đã nói sự thật. Cô cắn môi, cố không để lộ ra sự nhẹ nhõm của mình. Ông thiếu tá tiếp tục: - Tôi đã báo cho trường cô. Tôi giải thích là cô sẽ nghỉ để giúp chồng hồi phục. Chúng ta cần cậu ấy khỏe mạnh. Cậu ấy là một trong những nhân viên tốt nhất của chúng tôi. - Anh ấy thật may mắn vì được đồng nghiệp quan tâm như vậy. Kuzmin xua lời nhận xét đi. Ông ta ra hiệu cho người lính đằng sau. Người này đang cầm một túi giấy. Anh ta bước lên, đưa nó cho cô: - Đây là quà của bác sĩ Zarubin. Nên không cần cảm ơn tôi. Raisa vẫn cầm con dao sau lưng. Để đón lấy túi quà, cô cần cả hai tay. Cô luồn lưỡi dao sau váy. Khi nó đã yên vị, cô đưa tay ra, đón lấy túi quà, nó nặng hơn cô tưởng: - Ông có vào không? - Cảm ơn cô, nhưng đã muộn rồi và tôi cũng mệt. Kuzmin nói lời tạm biệt. Cô đóng cửa và bước vào bếp, đặt túi lên bàn và lấy con dao sau lưng ra. Cô mở túi. Trong túi có cam và chanh, thứ xa xỉ trong một thành phố khan hiếm thực phẩm. Cô nhắm mắt, tưởng tượng sự thỏa mãn mà Zarubin đang thích thú trước lòng biết ơn của cô, không phải vì túi hoa quả, mà vì ông ta đơn thuần làm công việc của mình, về việc ông ta đã báo cáo rằng Leo ốm thật. Những quả cam và chanh chỉ là cách ông ta nói rằng cô nên cảm thấy mắc nợ ông ta. Nếu ông ta có ý khác, ông ta đã khiến cả hai người họ bị bắt. Cô đổ cả túi trái cây vào thùng rác. Cô nhìn chằm vào những màu sắc rực rỡ rồi mới nhặt từng quả lên. Cô sẽ ăn quà của ông ta. Nhưng cô không chịu khóc. 19 THÁNG HAI LẦN ĐẦU TIÊN trong suốt bốn năm, Leo nghỉ làm mà không xin phép trước. Có những người phải đi tù vì tội vì phạm đạo đức lao động; những người rời chỗ làm khi chưa làm đủ thời gian hoặc những người đến muộn ca làm việc nửa tiếng. Tuy nhiên, Leo sẽ không bị nguy hiểm nào hết. Theo lời Raisa, gã đã được bác sĩ khám và thiếu tá Kuzmin đã đến thăm, cho phép gã được nghỉ. Điều này có nghĩa nỗi lo lắng gã đang cảm thấy là về chuyện gì khác. Càng nghĩ đến nó thì nó càng hiện rõ. Gã không muốn quay lại làm việc. Trong ba ngày qua, gã không rời khỏi nhà. Tách biệt khỏi thế giới, gã nằm trên giường, uống nước chanh đường nóng, ăn xúp củ cải và chơi bài với vợ, người đã không chiếu cố cho sự đau ốm của gã, thắng hầu hết các ván. Hầu hết thời gian gã ngủ, và sau ngày nghỉ đầu tiên gã không còn gặp ác mộng nữa. Nhưng thay vào đó là gã cảm thấy uể oải. Gã hy vọng cảm giác đó sẽ mờ dần đi, tin rằng sự u buồn là tác dụng phụ của methamphetamine. Cảm giác ấy ngày càng tệ hơn. Gã đã lấy mấy lọ đựng thuốc - những lọ thủy tinh đựng những tinh thể trắng đục - và đổ xuống bồn rửa. Không còn những vụ bắt người phải dùng ma túy trợ lực. Có phải do ma túy không? Hay là những vụ bắt bớ? Khi khỏe lên gã thấy dễ dàng giải thích các sự kiện trong những ngày qua hơn. Họ đã mắc một sai lầm: Anatoly Tarasovich Brodsky là một sai lầm. Trước mặt gã là tượng đài nhà lãnh đạo Cheka, giữa quảng trường Lubyanka, bao quanh là mảng cỏ xanh và luồng giao thông. Leo thuộc lòng câu chuyện của ông. Mọi mật vụ đều thuộc lòng câu chuyện vẻ ông ta. Là lãnh đạo đầu tiên của Cheka, cơ quan mật vụ do Lenin thành lập sau khi lật đổ chế độ Sa hoàng, ông là ông tổ của NKVD. Ông ta là mẫu hình tiêu biểu. Các sách huấn luyện đầy rẫy lời trích được cho là của ông ta. Có lẽ câu nói nổi tiếng nhất và thường được trích dẫn nhất của ông ta là: Một mật vụ phải rèn luyện cho con tỉm mình trở nên Vô tình. Vô tình chiếm vị trí thiêng liêng trong quy tắc làm việc của họ. Vô tình là một phẩm chất. Vô tình là cần thiết. Hãy khát khao vô tình! Vô tình nắm giữ chiếc chìa khóa mở cánh cửa đến một nhà nước hoàn thiện. Nếu làm một Cheka cũng giống như tuân theo một học thuyết tôn giáo thì vô tình là một trong những điều răn của họ. Trước đây việc học tập của Leo tập trung vào thể thao, sức mạnh thể chất - một điều cho đến nay vẫn giúp ích hơn là cản trở sự nghiệp của gã, cho gã cái lốt của một kẻ đáng tin, mà nếu là một học giả thì sẽ là đáng nghi. Nhưng nó có nghĩa gã buộc phải dành ít nhất mỗi tuần một đêm để viết lại cẩn thận những trích dẫn mà một mật vụ phải thuộc lòng. Vì trí nhớ kém, tình trạng còn tồi tệ hơn do sử dụng ma túy, gã không phải là một kẻ ham sách vở. Tuy nhiên, khả năng nhớ những phát biểu chính trị chủ chốt là cần thiết. Bất cứ một lời nói lỡ nào cũng biểu hiện sự thiếu lòng tin và tận tụy. Và bây giờ, sau ba ngày nghỉ việc, khi gã bước đến cánh cửa vào Lubyanka và nhìn lại bức tượng nhà lãnh đạo Cheka, gã nhận ra tâm trí mình rời rạc - mấy cụm từ đã quay lại với gã nhưng không đủ và không đứng trật tự. Điều duy nhất gã có thể nhớ chính xác, trong hàng ngàn hàng ngàn lời, trong toàn bộ những chân lý và nguyên tắc của cuốn kinh thánh Cheka, là tầm quan trọng của sự vô tình. Leo được đưa đến phòng Kuzmin. Tay thiếu tá đang ngồi. Ông ta chỉ cho Leo ngồi vào chiếc ghế đối diện. - Cậu đã khỏe hơn chưa? - Tôi đã khỏe hơn, cảm ơn thiếu tá. Vợ tôi nói thiếu tá đã đến thăm. - Chúng tôi lo cho cậu. Đây là lần đầu cậu ốm. Tôi đã kiểm tra hồ sơ. - Tôi xin lỗi. - Không phải lỗi của cậu. Cậu dũng cảm, bơi dưới dòng sông đó. Và chúng tôi mừng vì cậu cứu được ông ta. Ông ta đã cung cấp một số thông tin hệ trọng. Kuzmin vỗ tập hồ sơ mỏng màu đen ở giữa bàn. - Khi cậu vắng mặt, Brodsky đã thú tội. Phải mất đến hai ngày, hai lượt trị liệu sốc bằng long não. Ông ta cứng đầu lạ lùng. Nhưng cuối cùng ông ta gục ngã. Ông ta đưa tên của những người cố cảm tình với Anh-Mỹ. - Ông ta giờ ở đâu? - Brodsky à? Ông ta bị xử tử tối hôm qua. Leo đã hy vọng gì chứ? Gã tập trung không biểu lộ gì, như thể gã vừa nghe nói trời bên ngoài lạnh lắm. Kuzmin lấy tập hồ sơ màu đen lên, đưa cho gã: - Trong này, cậu sẽ có đầy đủ bản ghi lời thú tội. Leo mở hồ sơ. Mắt gã bắt gặp dòng đầu tiên: Tôi - Anatoly Tarasovich Brodsty - là gián điệp. Leo lật giở các trang đánh máy tiếp theo. Gã nhận ra cái mẫu, mở đầu là lời xỉn lỗi, bày tỏ hối tiếc trước khi mô tả bản chất tội trạng của mình. Gã đã thấy mẫu này hàng ngàn lần. Chúng khác nhau ở những chi tiết: tên, địa chỉ. - Ông có muốn tôi đọc nó bây giờ không? Kuzmin lắc đầu, đưa cho gã một phong bì dán kín. - Ông ta kể tên sáu công dân Xô viết và một người Hungary. Họ là những người đang cộng tác, làmviệc cho chinh phủ nước ngoài. Tôi đã đưa sáu cái tên cho các mật vụ khác. Tên người thứ bảy cậu phải điều tra. Vì cậu là một trong những nhân viên xuất sắc nhất của tôi, tôi giao cho cậu vụ khó nhất. Trong phong bì này có những công việc chúng ta đã làm sơ bộ, vài tấm ảnh, và toàn bộ thông tin hiện chúng ta biết về cá nhân này, trong đó, như cậu sẽ thấy, không nhiều lắm. Nhiệm vụ của cậu là thu thập thêm thông tin và nếu Anatoly đúng, nếu người này là kẻ phản bội, câu sẽ phải bắt và mang người đó đến đây, thủ tục thông thường. Leo xé mở phong bì, lôi ra vài tấm ảnh lớn đen trắng. Chúng là ảnh theo dõi, được chụp từ khoảng cách ngang đường. Những tấm ảnh vợ Leo. CÙNG NGÀY RAISA NHẸ NHÕM vì sắp hết ngày. Cô đã mất tám tiếng để dạy đúng cùng một bài giảng cho tất cả mọi lớp học. Thường thì cô dạy môn chính trị bắt buộc, nhưng sáng nay cô nhận được chỉ thị của Bộ Giáo dục gửi đến trường lệnh cho cô phải làm theo kế hoạch giảng dạy đính kèm. Dường như những chỉ thị này được gửi đến tất cả các trường ở Mátxcơva và phải có hiệu lực tức thì- những bài học ngày thường có thể để đến ngày mai. Những chỉ thị này quy định cô phải dành cả ngày để thảo luận với từng lớp về tình yêu đối với mầm non của đất nước. Những bài học để tất cả trẻ em, cho dù chúng bao nhiêu tuổi, phải được nhắc nhở những điều thận trọng cơ bản trong cuộc sống hằng ngày. Chúng không được qua đường mà không nhìn trước nhìn sau, chúng phải cẩn thận khi đi tàu điện ngầm, và cuối cùng - điều này được nhấn mạnh đặc biệt - chúng không được chơi đùa trên đường ray. Trong năm qua, có những vụ tai nạn thảm thương trên đường ray. Sự an toàn của mầm non đất nước là trên hết. Chúng là tương lai. Nhiều minh họa lố bịch và mờ nhạt được đưa ra. Mỗi lớp học kết thúc bằng một câu hỏi nhỏ để bảo đảm mọi thông tin đã được tiếp thu. Điều gì các em không bao giờ nên làm? Câu trả lời đúng: chơi trên đường ray. Tương đối mà nói, cô có ít lý do để than phiền. Ngôi trường mà cô giảng dạy, Trường Trung học số Bảy - tòa nhà hình chữ nhật dựng trên những cột bê tông chắc chắn - hóa ra lại là một trong những viên ngọc của chính sách giáo dục nhà nước. Được chụp nhiều ảnh và quảng bá nhiều, người thành lập ra nó không ai khác là Nikita Khrushchev, người đã có một bài phát biểu ở phòng tập thể thao mới, sàn nhà được đánh sáp đến mức mấy vệ sĩ của ông ta phải đánh vật để khỏi trượt ngã. Ông ta nói rằng giáo dục phải đáp ứng nhu cầu của đất nước. Và điều đất nước cần là những nhà khoa học, kỹ sư và vận động viên đoạt huy chương vàng Olympic hiệu quả cao, trẻ khỏe. Phòng tập thể dục bề thế như nhà thờ, nằm bên cạnh tòa nhà chính, rộng hơn và sâu hơn cả chính ngôi trường, được trang bị đường chạy trong nhà và một loạt thảm, vồng, thang dây, và ván nhún, tất cả được sử dụng tối đa nhờ một thời gian biểu ngoài giờ, gồm một tiếng rèn luyện hằng ngày đối với mỗi học sinh bất kể độ tuổi hay khả năng. Trong số các đồng nghiệp, cô chỉ làm bạn với một người - Ivan Kuzmitch Zhukov, một giáo viên ngôn ngữ và văn chương. Cô không biết rõ tuổi của anh ta - anh ta không nói - nhưng anh ta chừng bốn mươi. Tình bạn của họ đến thật tình cờ. Anh ta ngẫu nhiên than phiền về quy mô của thư viện - một căn phòng nhỏ như phòng đựng bát đĩa ở dưới tầng hầm, cạnh nồi hơi, chất đầy những cuốn sách mỏng, ấn phẩm Pravda cũ mèm, những sách được phê duyệt, và không hề có một tác giả nước ngoài nào. Nghe anh ta nói thế, Raisa nói khẽ rằng anh ta nên cẩn thận hơn. Lời nói nhỏ đó đã bắt đầu một tình bạn bất ngờ, mà từ phía cô, có lẽ là không khôn ngoan lộc lợi gì nếu tính đến chuyện Ivan có khuynh hướng nói toạc ra ý nghĩ. Trong mắt mọi người, anh ta là một kẻ bị để ý. Những giáo viên khác tin rằng anh ta chứa chấp tài liệu cấm dưới sàn nhà, hoặc tệ hơn, anh ta đang viết một cuốn sách và chắc chắn lén lút chuyển những trang viết phản động sang phương Tây. Raisa có cơ hội giữ mối quan hệ này chỉ bởi vì lòng trung thành của cô chưa bao giờ bị dòm ngó quá sát sao như vậy. Suy cho cùng, cô là vợ của một nhân viên an ninh nhà nước, một chuyện hầu như ai cũng biết, có cả một số học sinh. Theo logic thì Ivan nên giữ khoảng cách. Chắc chắn anh ta tự trấn an với suy luận rằng nếu Raisa muốn tố cáo anh ta thì cô đã làm rồi, nếu tính đến nhiều khinh suất cô đã nghe anh ta nói và thật dễ dàng để cô thì thầm tên anh ta vào tai chồng cô bên gối. Nên hóa ra rằng, người duy nhất cô tin tưởng trong đám giáo viên lại là người ít được tin tưởng nhất, và người duy nhất anh ta tin là người phụ nữ lẽ ra anh ta không nên tin tưởng nhất. Anh ta đã kết hôn, có ba con. Dù vậy, cô đã ngờ anh ta yêu cô. Đó không phải là điều cô trông mong, và cô hy vọng vì lợi ích của cả hai người, anh ta cũng không trông mong chuyện đó. *** NGOÀI CỔNG CHÍNH vào trường học, bên kia đường, trong tiền sảnh của một tòa chung cư thấp tầng, Leo đứng đó. Gã đã cởi bỏ đồng phục và mặc thường phục, loại đồ gã mượn được ở chỗ làm. Trong Lubyanka có những tủ chứa đủ các thứ linh tinh: áo khoác, áo vest, quần - nhiều kích cỡ và chất lượng vải, được giữ lại cho chính mục đích này. Mặc chiếc áo khoác len xám dài tận mắt cá chân và chiếc mũ lông dày lấp trán, Leo tin rằng vợ gã sẽ không nhận ra nếu tình cờ nhìn về phía gã. Gã giậmgiậm chân để giữ ấm, xem đồng hồ, một chiếc Poljot Aviator bằng thép không gỉ - quà tặng sinh nhật của vợ gã. Không lâu nữa lớp học của cô hôm nay sẽ kết thúc. Gã nhìn ngọn đèn trên đầu. Gã lấy cái chổi lau nhà bỏ đi, chọc vỡ bóng đèn khiến tiền sảnh tối lại. Đây không phải lần đầu vợ gã bị theo dõi. Ba năm trước, Leo đã dàn xếp một cuộc giám sát vì lý do chẳng liên quan đến việc cô có phải là mối đe dọa an ninh không. Họ kết hôn chưa đầy một năm. Cô dần trở nên xa cách. Họ sống cùng nhau mà như sống riêng, làm việc nhiều giờ, thoáng nhìn thấy nhau vào buổi sáng và buổi tối mà rất ít giao tiếp, giống như hai tàu đánh cá rời cùng một cảng mỗi ngày. Gã không tin rằng gã đã thay đổi, với tư cách người chồng, nên không thể hiểu tại sao cô lại thay đổi với tư cách là một người vợ. Mỗi khi gã đề cập đến chủ đề này, cô lại kêu là cảm thấy không khỏe, nhưng cô từ chối đi gặp bác sĩ, nhưng dù sao, ai lại cứ không khỏe, hết tháng này sang tháng khác? Lời giải thích duy nhất gã có thể nghĩ ra là cô đang yêu một người khác. Nghi ngờ hết mọi lẽ, gã cử một tay lính mới, một mật vụ trẻ triển vọng, theo dõi vợ gã. Tay mật vụ này đã theo dõi mỗi ngày trong suốt một tuần. Leo biện minh cho hành động này, mặc dù khó chấp nhận nổi, là do tình yêu thúc đẩy. Tuy nhiên, việc này cũng mạo hiểm, không chỉ vì Raisa có thể phát hiện ra. Nếu đồng nghiệp gã phát hiện ra, họ giải thích việc này khác đi. Nhưng Raisa không ngoại tình và không ai phát hiện ra vụ theo dõi này. Leo thấy nhẹ nhõm, gã chấp nhận rằng gã chỉ cần kiên nhẫn, chu đáo, và giúp đỡ cô trong những khó khăn cô gặp phải. Sau nhiều tháng, mối quan hệ của họ dần dần khá hơn. Leo đã thuyên chuyển tay mật vụ trẻ sang một vị trí ở Leningrad, một động thái mà gã giới thiệu là một sự thăng chức. Tuy nhiên, nhiệm vụ này lại hoàn toàn khác. Lệnh điều tra do cấp trên đưa xuống. Đây là công việc nhà nước; một vấn đề an ninh quốc gia. Mối nguy hiểm không phải là cuộc hôn nhân của họ mà là tính mạng họ. Leo biết chắc rằng tên của Raisa đã được Vasili đưa vào trong bản thú tội của Anatoly Brodsky. Việc một mật vụ khác chứng thực chi tiết của một bản thú tội chẳng có nghĩa gì hết: hoặc đấy là một âm mưu, hoặc là lời nói dối trắng trợn, hoặc Vasili đã cấy cái tên đó vào đầu Brodsky một lúc nào đó trong quá trình thẩm vấn, một việc quá dễ làm. Leo tự trách mình. Thời gian gã nghỉ làm đã cho Vasili cơ hội mà hắn tận dụng một cách tàn nhẫn tuyệt đối. Leo đã bị gài bẫy. Gã không thể đổ rằng bản thú nhận đó là dối trá - đấy là văn bản chính thức hợp lý và chân thực như mọi bản thú tội khác. Phương hướng hành động duy nhất là xác định nỗi ngờ vực của gã, rằng kẻ phản bội Brodsky đang cố đổ tội cho Raisa để trả thù. Khi nghe lời giải thích này, Kuzmin đã hỏi tại sao kẻ phản bội lại biết gã đã kết hôn. Tuyệt vọng, Leo buộc phải nói dối, cho rằng gã đã nhắc tên vợ mình trong khi họ trò chuyện. Leo không phải là kẻ có tài nói dối. Bằng việc bảo vệ cho vợ, gã đã tự buộc tội chính mình. Bảo vệ cho ai đó nghĩa là khâu số mệnh của mình vào lớp vải lót số mệnh của họ. Kuzmin đã kết luận rằng vi phạm an ninh có khả năng xảy ra đó sẽ phải được điều tra toàn diện. Hoặc Leo có thể tự làmhoặc cho phép một mật vụ khác làm. Nghe đến kết luận cuối cùng như vậy, gã đã nhận vụ này trên cơ sở rằng chỉ cần cố gắng minh oan cho vợ mình. Cũng theo đúng cách mà ba năm trước đây chấm dứt những mối nghi ngờ về sự chung thủy của vợ gã, giờ gã phải chấm dứt những mối nghi ngờ về lòng trung thành của cô với nhà nước. Bên kia đường, trẻ em đổ ra cổng trường, xuống đường, rồi tỏa ra mọi hướng. Một cô bé chạy sang đường, hướng thẳng về phía Leo và vào tòa chung cư nơi Leo đang nấp. Khi cô bé đi qua chỗ tối, bàn chân nó giẫm phải mảnh vỡ bóng đèn, cô bé dừng lại, cân nhắc xem có nên nói gì không. Leo quay sang nhìn nó. Nó có mái tóc dài buộc dây đỏ. Có lẽ chừng bảy tuổi. Đôi má hồng vì lạnh. Hết sức đột ngột, nó vụt chạy, đôi giày nhỏ vỗ lên mấy lượt cầu thang, chạy xa khỏi người lạ mặt và về nhà nơi cô bé vẫn còn bé bỏng để tin rằng nó vẫn an toàn. Leo bước đến cửa kính, nhìn những học sinh cuối cùng ra khỏi tòa nhà. Gã biết Raisa không có lịch hoạt động ngoại khóa đặc biệt nào - nên cô sẽ về sớm. Và cô ở kia, ngay cổng, đứng với một đồng nghiệp nam. Anh ta có bộ râu xám gọn ghẽ, mắt kính tròn, Leo nhận thấy anh ta không phải là một người thiếu cuốn hút. Anh ta trông có giáo dục, có học thức, lịch sự, đôi mắt lanh lợi và chiếc cặp đầy sách. Đây hẳn là Ivan: Raisa đã nhắc đến anh ta, giáo viên ngôn ngữ. Theo phỏng đoán, Leo cho rằng người đàn ông này già hơn gã ít nhất mười tuổi. Leo muốn họ tạm biệt nhau ở cổng, thế mà họ lại đi cùng nhau, bước bên nhau và trò chuyện thoải mái. Gã chờ đợi, để họ đi trước. Họ thật thân thiết với nhau: Raisa cười vì một câu đùa và Ivan dường như hài lòng. Leo có khiến cô cười không? Không hẳn, không thường xuyên. Gã chắc chắn không phản đối việc bị cười nhạo khi gã ngớ ngẩn hay vụng về. Gã có khiếu hài hước ở khía cạnh ấy, nhưng không, gã không bao giờ nói tếu. Raisa thì có. Cô vui tính cả trong lời nói lẫn trong suy nghĩ. Ngay từ lần đầu họ gặp nhau, từ hồi cô lừa cho gã tin rằng cô tên Lena, gã chưa bao giờ nghi ngờ rằng cô thông minh hơn gã. Nếu tính đến các rủi ro liên quan đến sự thông minh lanh lợi, gã chưa bao giờ thấy ghen tị - cho đến giờ, khi nhìn cô đi cùng với người đàn ông này. Bước chân Leo tê cứng. Gã mừng là đang đi, theo dõi vợ gã ở khoảng cách năm mươi mét. Dưới vầng sáng bóng đèn đường cam nhạt, theo dõi cô không khó khăn gì - hầu như có rất ít người khác trên đường. Điều đó thay đổi khi họ rẽ sang Avtozavodskaya, phố lớn, cũng là tên của một ga tàu điện ngầm mà chắc chắn họ sắp đi vào. Có những hàng người đang xếp hàng ngoài cửa hàng tạp phẩm, choán hết vỉa hè. Leo thấy thật khó theo dấu vợ, càng khó hơn khi vợ gã mặc trang phục khó phân biệt. Gã không còn cách nào khác là phải rút ngắn khoảng cách giữa họ, gã nhanh bước chân. Gã cách sau cô chưa đầy hai mươi mét. Ở khoảng cách này, có nguy cơ cô sẽ thấy gã. Raisa và Ivan rẽ xuống ga Avtozavodskaya, khuất tầm mắt. Leo vội vã tiến lên, len lỏi giữa những người bộ hành. Trong đámđông người đi tàu, cô sẽ dễ dàng biến mất. Đây là, như báo Pravda thường kiêu hãnh, hệ thống tàu điện ngầm nhộn nhịp nhất và tốt nhất trên thế giới, với hàng trăm nghìn lượt khách mỗi ngày. Đến cửa ga, gã đi theo bậc thềm đá xuống sảnh dưới - một văn phòng sang trọng, một phòng tiếp đại sứ, cột đá cẩm thạch màu kem, lan can màu gụ bóng loáng, và được chiếu sáng dưới mái vòm kính đục. Đang giờ cao điểm và một xăng ti mét sàn nhà cũng khó mà thấy được. Hàng ngàn người sù sụ áo khoác dài và khăn quàng cổ chen lấn xếp hàng ở thanh soát vé. Đi ngược dòng người, Leo chạy ngược lên cầu thang, dùng chỗ cao để quan sát những cái đầu trong đám đông. Raisa và Ivan đã đi qua hàng rào thép soát vé và đang đợi lên cầu thang cuốn. Leo hòa vào đám đông, len vào những khoảng trống, rồi lấn lên. Nhưng bị kẹt cứng trong biển người, gã không có lựa chọn nào khác là phải dùng đến biện pháp kém lịch sự nhất, đưa tay đẩy mọi người sang bên. Không ai dám làm gì hơn là tỏ ra bực bội, không ai biết Leo có thể là ai. Đến chỗ soát vé, đúng lúc gã thấy vợ mình khuất tầm mắt. Gã bước qua, xếp hàng và lấy ngay chỗ đầu tiên còn sẵn trên thang cuốn. Dọc theo đường chéo những bậc thang gỗ xuống dưới chân thang là chóp của hàng trăm chiếc mũ đông. Không thể phân biệt được ai là ai, gã nghiêng sang phải. Raisa có lẽ cách gã mười lăm mười sáu bước chân. Để nói chuyện được với Ivan, đang đứng ở bậc sau lưng và phía trên cô, cô quay ra sau và nhìn lên. Leo đã ở trong tầm nhìn của cô. Gã nấp đằng sau người đàn ông trước mình, không muốn mạo hiểm nhìn thêm lần nữa, đợi cho đến khi gã ở thấp hơn rồi mới dámnhìn lại. Lối đi được chia thành hai đường hầm: cho tàu chạy hướng Bắc và Nam, và lối nào cũng đầy hành khách đang hối hả bước đi, đang cố tìm cách lên sân ga, đua nhau giành lấy một chỗ ở chuyến tàu tiếp theo. Leo không thấy vợ đâu cả. Nếu Raisa trên đường về nhà, cô sẽ phải qua ba trạm phía Bắc trên tuyến Zamoskvorestkaya đi Teatral naya nơi cô sẽ đổi tuyến. Không còn cách nào khác là phải giả định đấy là điều cô đang làm, gã đi dọc sân ga, nhìn sang phải rồi trái, nhìn kỹ những khuôn mặt đang xếp hàng, chen chúc nhau, nhìn chằm chằm về một hướng. Raisa không có ở đây. Lẽ nào cô đã bắt chuyến tàu theo hướng khác? Sao cô lại đi phía Nam? Bỗng nhiên một người đàn ông di chuyển và Leo thoáng thấy chiếc túi. Ivan đằng kia. Raisa bên cạnh anh ta, cả hai đang đứng ở mép sân ga. Leo ở quá gần, đến mức có thể với tay ra chạm vào má cô. Nếu cô quay đầu, thậm chí chỉ một chút, thì họ sẽ chạm mắt nhau. Chắc chắn gã gần như đang ở trong tầm nhìn của cô; nếu cô không thấy gã thì đấy là bởi vì cô không nghĩ sẽ gặp gã. Gã không thể làm gì, không có chỗ để nấp. Gã tiếp tục đi dọc theo sân ga, chờ cô gọi tên gã. Gã sẽ không thể giải thích rằng đây là ngẫu nhiên. Cô sẽ biết tỏng là gã nói dối, cô sẽ biết gã đang theo dõi cô. Gã đếm hai mươi bước, rồi dừng lại bên mép sân ga, nhìn chằm chằm vào bức tranh kính trước mặt. Ba dòng mồ hôi chảy dọc bên mặt gã. Gã không dám chùi hay quay lại xem cô có nhìn về phía gã không. Gã cố tập trung vào bức tranh, biểu dương sức mạnh quân sự Xô viết - một chiếc xe tăng nòng giương cao, bên cạnh là khẩu trọng pháo, và trên xe là những lính Nga áo khoác dài phấp phới đang khua súng. Gã từ từ quay đầu lại. Raisa đang nói chuyện với Ivan. Cô không nhìn thấy gã. Một làn gió ấmthổi xuống sân ga đông đúc. Con tàu đang đến. Khi mọi người quay lại nhìn, Leo bắt gặp một người đàn ông đang nhìn theo hướng ngược lại, không phải về con tàu đang tiến đến, mà nhằm thẳng vào gã. Đó là một cái liếc nhìn thoáng một cái, một phần tích tắc nhìn vào mắt. Người kia chừng ba mươi tuổi. Leo chưa bao giờ thấy anh ta. Nhưng gã biết ngay người này là đồng nghiệp Cheka, một nhân viên Bộ An ninh Nhà nước. Có một mật vụ thứ hai trên sân ga. Đám đông dồn về những cánh cửa tàu. Mật vụ kia đã bỏ đi, khuất tầm mắt. Những cánh cửa mở ra. Leo không nhúc nhích; người gã vẫn không xoay về con tàu, mà nhìn chằm vào đúng cái điểm gã đã thấy ánh mắt chuyên nghiệp lạnh lùng kia. Bị những hành khách xuống tàu xô đẩy, gã hết ngạc nhiên mà lên tàu, sau Raisa một toa. Mật vụ này là ai? Sao người ta cần một mật vụ nữa theo dõi vợ gã? Họ không tin gã sao? Tất nhiên là họ không tin. Nhưng gã không ngờ họ lại dùng biện pháp bổ sung cực đoan như vậy. Gã đi xuống phía cửa sổ để có thể nhìn sang toa bên cạnh. Gã có thể nhìn thấy tay Raisa, đang giữ thanh ngang. Không thấy bóng dáng mật vụ thứ hai. Cánh cửa sắp đóng. Mật vụ thứ hai lên cùng toa Leo, đi qua gã làm vẻ thờ ơ rõ ràng và chọn một chỗ cách xa gã vài mét. Anh ta được huấn luyện bài bản, tỏ ra bình tĩnh, và nếu không có cái nhìn thoáng ngắn ngủi đó, có lẽ gã không nhận ra anh ta. Mật vụ này không đi theo Raisa. Anh ta theo dõi Leo. Lẽ ra gã phải hiểu rằng chiến dịch này không được giao hoàn toàn vào tay gã. Có khả năng gã sẽ thỏa hiệp. Họ thậm chí có thể nghi ngờ gã làm việc cùng Raisa, nếu cô là gián điệp. Cấp trên của Leo có nghĩa vụ đảm bảo rằng gã làm đúng việc của mình. Bất cứ điều gì gã báo cáo về sẽ được kiểm tra chéo với mật vụ kia. Vì vậy, điều thiết yếu là Raisa về thẳng nhà. Nếu cô tới bất kỳ chỗ nào khác - quán xá không đúng, hiệu sách không đúng, ngôi nhà không đúng, nơi người không đúng sống - cô sẽ tự đặt mình vào hiểm nguy. Cơ hội duy nhất để thoát, và là một cơ hội mỏng manh, là không nói gì, không làm gì, không gặp ai. Cô có thể làm việc, mua sắm, và ngủ nghỉ. Bất cứ sinh hoạt nào khác đều có thể bị hiểu sai. Nếu Raisa đang về nhà, cô sẽ ở lại trên tàu này ở ba điểm dừng tiếp theo mà đến ga Teatral' naya, nơi cô sẽ đổi sang tuyến Arbatsko-Pokrovskaya và đi về phía Đông. Leo thăm dò tay mật vụ theo dõi gã. Ai đó đã đứng lên để xuống ga và thế là tay mật vụ kia ngồi vào ghế trống. Giờ anh ta đang thờ ơ nhìn ra ngoài cửa sổ, chắc chắn đang liếc theo dõi Leo. Tay mật vụ kia biết mình đã bị lộ. Có lẽ cả cái đó cũng là chủ đích của anh ta nữa. Không có gì là nghiêm trọng miễn là Raisa về thẳng nhà. Con tàu dừng lại ở ga thứ hai - Novokuznetskaya. Một trạm nữa họ sẽ đổi tuyến. Cánh cửa mở ra. Leo nhìn Ivan xuống ga. Gã nghĩ: Ở lại trên tàu đi. Raisa xuống tàu, bước xuống sân ga và tiến về lối ra. Cô không về nhà. Leo không biết cô đi đâu. Đi theo cô nghĩa là phơi cô ra trước sự theo dõi của mật vụ kia. Không theo cô là gã đặt tính mạng mình vào tình trạng nguy hiểm. Gã phải lựa chọn. Gã quay đầu. Tay mật vụ kia không động đậy. Từ vị trí đó, anh ta không thể thấy Raisa xuống tàu được. Anh ta đang theo đầu mối Leo chứ không phải Raisa, khi anh ta giả định rằng hai người sẽ có hành tung ăn khớp nhau. Cửa sắp đóng. Leo đứng yên tại chỗ. Leo liếc sang bên, qua cửa sổ, như thể Raisa vẫn ở toa bên cạnh, như thể gã vẫn đang theo dõi cô. Gã đang làm gì đây? Đó là một quyết định bốc đồng, thiếu thận trọng. Kế hoạch của gã dựa trên việc tay mật vụ kia tin rằng vợ gã còn ở trên tàu, may mắn lắm thì đó cũng là một kế hoạch mong manh. Leo không trông mong vào đám đông. Raisa và Ivan vẫn còn trên sân ga, tiến về lối ra một cách chậm chạp không thể chịu nổi. Vì tay mật vụ kia đang nhìn ra cửa sổ, anh ta sẽ nhìn thấy họ ngay khi tàu chạy. Raisa đã đến gần lối ra, xếp hàng kiên nhẫn. Cô không vội vã, cô không có lý do phải vậy, không biết rằng cả tính mạng cô và Leo đang gặp nguy hiểm trừ phi cô đi khuất tầm nhìn. Con tàu bắt đầu lăn bánh. Toa của họ gần như nằm ngang với lối ra. Chắc chắn mật vụ kia sẽ thấy Raisa - anh ta sẽ biết Leo đã cố ý để lỡ. Con tàu tăng tốc - nó đã song song với lối ra. Raisa đang đứng lồ lộ. Leo cảm thấy máu sôi trong bụng. Gã từ từ quay đầu sang xem phản ứng của tay mật vụ. Một người đàn ông trung niên cường tráng và bà vợ trung niên to béo của ông ta đang đứng giữa lối đi, che chắn bất cứ góc nhìn nào ra sân ga của tay mật vụ. Con tàu rầm rập chạy vào đường hầm. Anh ta không thấy Raisa ở lối ra. Anh ta không biết Raisa không còn ở trên tàu. Hầu như khó che giấu nổi sự nhẹ nhõm của mình, Leo tiếp tục màn kịch câm nhìn chằm chằm vào toa bên cạnh. Ở nhà ga Teatral' naya, Leo đợi thật lâu hết mức rồi mới xuống tàu, vờ như gã vẫn theo dõi vợ mình, như thể cô đang đi về nhà. Gã tiến đến lối ra. Liếc ra sau, gã thấy tay mật vụ đã xuống tàu và đang cố thu hẹp chút khoảng cách giữa họ. Leo nhấn bước. Lối đi mở rộng ra thành đường lớn dẫn đến các tuyến đường khác nhau hoặc tới lối ra lên mặt đường. Gã phải cắt cái đuôi này mà không tỏ ra đang làm vậy. Đường hầm sang phải sẽ đưa gã tới những chuyến tàu đi về phía Đông ở tuyến Arbatsko- Pokrovskaya, đường về nhà. Leo rẽ phải. Mọi chuyện phụ thuộc nhiều vào con tàu tiếp theo. Nếu gã có thể đi thêm một quãng đủ xa, gã có thể lên tàu trước khi tay mật vụ bắt kịp và nhận ra Raisa không có trên sân ga. Giờ trên đường hầm dẫn đến sân ga, gã đối mặt với đám đông phía trước. Bỗng nhiên gã nghe tiếng con tàu chạy đến, nó dừng lại trên sân ga. Không có cách nào tới đó kịp, không thể khi mà đầy người đằng trước. Gã cho tay vào túi áo, lấy thẻ An ninh Nhà nước ra và vỗ lên vai người đàn ông đằng trước. Như thể bị trúng nước sôi, người đàn ông kia tránh sang bên, người phụ nữ tránh sang bên, đám đông rẽ ra. Lối đi đã rộng rãi, gã có thể nhanh chóng tiến lên phía trước. Con tàu ở đó, cửa mở, sẵn sàng chạy. Gã cất thẻ và lên tàu. Gã quay sang xem cái đuôi bao xa. Nếu người này bắt kịp và lên chuyến tàu này, trò chơi kết thúc. Những người đã tránh đường nay đã dồn lại. Tay mật vụ kẹt lại sau lưng họ, dùng đến cách kém tế nhị hơn, cố xô đẩy tìm ra đường đi. Anh ta đang tới gần. Sao cửa không đóng đi? Mật vụ đang ở trên sân ga, chỉ cách vài mét. Cửa bắt đầu đóng. Tay anh ta với ra, nắm lấy thành cửa. Nhưng cỗ máy không thể bị kéo lại, và người đàn ông này - mà Leo lần đầu tiên thấy rõ mặt - không còn cách nào khác là phải thả ra. Vẫn giữ vẻ thờ ơ tự nhiên, Leo cố gắng không có phản ứng, liếc nhìn tay mật vụ kia bị bỏ lại. Trong bóng tối đường hầm, Leo cởi bỏ chiếc mũ đẫm mồ hôi. CÙNG NGÀY THANG MÁY DỪNG ở tầng năm, tầng trên cùng, cánh cửa mở ra, và Leo bước vào hành lang hẹp. Hành lang có mùi thức ăn. Đã bảy giờ tối, thời điểm nhiều gia đình ăn uzhin, bữa ăn cuối trong ngày. Khi gã đi ngang qua những căn hộ, gã có thể nghe âm thanh chuẩn bị bữa tối qua những cánh cửa gỗ dán mỏng manh. Càng đến gần nhà cha mẹ, gã càng thấy mệt. Gã đã mất mấy tiếng đi dọc ngang thành phố. Sau khi cắt đuôi tay mật vụ theo dõi ở nhà ga Teatral'naya, gã về nhà, lên đến căn hộ 124, bật đèn và radio, kéo rèm - một sự thận trọng cần thiết cho dù họ ở tầng mười bốn. Rồi gã rời nhà, cố ý đi lòng vòng để đến tàu điện ngầm rồi đi ngược trở lại thành phố. Gã chưa thay quần áo và tiếc vì không làm vậy. Nó đã trở nên khó chịu; áo sơ mi, ướt sũng mồ hôi, đã khô và dính vào lưng gã. Gã chắc nó đã bốc mùi mặc dù gã không thể ngửi thấy. Gã xua đi những nghĩ ngợi này. Cha mẹ gã sẽ chẳng quan tâm. Họ sẽ quá phân tâm bởi việc gã đến xin lời khuyên của họ; điều lâu lắm rồi gã không làm. Cán cân mối quan hệ của họ đã thay đổi - bây giờ gã giúp đỡ họ nhiều hơn là họ giúp gã. Leo thích như vậy. Gã thích cái cảm giác có thể đảm bảo cho họ những công việc nhẹ nhàng tại nơi làm việc. Chỉ cần một câu hỏi lịch sự, cha gã đã trở thành quản đốc của một nhà máy đạn dược, rời xa dây chuyền lắp ráp, trong khi mẹ gã, suốt ngày ngồi khâu dù, cũng được đề bạt tương tự. Gã đã cải thiện khả năng được mua thực phẩm của họ - họ không còn phải xếp hàng nhiều giờ đồng hồ để mua các nhu yếu phẩm như bánh mì và kiều mạch. Họ được đến các spetztorgi, cửa hàng đặc biệt không dành cho đại chúng. Trong những cửa hàng giới hạn này có những niềm sung sướng lạ kỳ như cá tươi, nghệ tây, và thậm chí những miếng sô cô la đen thứ thiệt thay vì cái thứ giả mà ca cao được thay bằng hỗn hợp lúa mạch đen, đại mạch, bột mì và đậu. Nếu cha mẹ gã gặp rắc rối với hàng xóm lắm chuyện thì hàng xóm kia không bao giờ được lắm chuyện nữa. Không cần dùng đến bạo lực, không hăm dọa thô lỗ, chỉ một gợi ý rằng họ đang đối mặt với một gia đình có những mối quan hệ tốt hơn. Căn hộ này, căn hộ mà gã dàn xếp để họ được phân phối, nằm trong một khu dân cư dễ chịu ở phía Bắc thành phố - một tòa nhà thấp tầng trong đó mỗi căn hộ có nhà tắm riêng và ban công nhỏ nhìn xuống thảm cỏ nhỏ và con phố yên tĩnh. Họ không phải ở chung với ai: một điều khác thường trong thành phố này. Sau năm mươi năm vất vả, cuối cùng họ cũng được tận hưởng cuộc sống đặc quyền đặc lợi, điều mà cha mẹ gã biết ơn sâu sắc. Họ đâm nghiện tiện nghi. Và tất cả như nghìn cân treo sợi tóc vì sự nghiệp của Leo. Leo gõ cửa. Khi mẹ gã, bà Anna, mở cửa, bà dường như ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên ấy, khiến bà trong thoáng chốc không nói được gì, đã tan biến. Bà bước lên, ôm con trai, nói phấn khởi: - Tại sao con đến mà không báo trước? Bố mẹ nghe nói con ốm. Bố mẹ đến thăm con nhưng con còn ngủ. Raisa mở cửa cho bố mẹ vào. Bố mẹ đã nhìn con. Mẹ thậm chí còn nắm tay con, nhưng bố mẹ có thể làm gì chứ? Con cần nghỉ ngơi. Con đã ngủ như một đứa trẻ. - Raisa đã cho con biết là bố mẹ đến. Cảm ơn bố mẹ mang hoa quả - cam và chanh. - Bố mẹ nào có mang hoa quả đến. Ít nhất thì mẹ không nghĩ bố mẹ đã làm thế. Nhưng mẹ già rồi. Có lẽ khi bố mẹ đã mang tới thật. Nghe cuộc trao đổi, cha gã, ông Stepan, từ nhà bếp đi ra, nhẹ nhàng chen qua vợ. Gần đây bà béo lên. Cả hai người đều hơi béo lên. Trông họ khỏe mạnh. Stepan ôm con trai: - Con khỏe hơn chưa? - Con khỏe hơn rồi. - Tốt lắm. Bố mẹ lo cho con quá. - Cái lưng bố sao rồi? - Lâu rồi không thấy đau. Một trong những lợi ích của công việc hành chính, ta chỉ làm có mỗi việc giám sát công việc vất vả của người khác. Ta đi loanh quanh với bút và bìa giấy. - Bố đừng cảm thấy tội lỗi. Bố làm công việc kia đủ rồi. - Có lẽ, nhưng mọi người nhìn con khác đi khi con không còn là một trong bọn họ. Bạn bè của bố không còn thân thiện nữa. Nếu ai đó đến muộn, bố là người phải báo cáo họ. Rất may là đến giờ chưa ai muộn làm. Leo nghĩ đi nghĩ lại những lời này trong đầu: - Bố sẽ làm gì nếu họ muộn làm? Bố sẽ báo cáo chứ? - Bố chỉ cứ nhắc họ mỗi buổi tối là đừng đến muộn. Không, nói cách khác, cha gã sẽ không báo cáo họ. Có lẽ ông đã bỏ qua vài trường hợp. Ngay bây giờ, không phải lúc để cảnh báo ông, nhưng sự rộng lượng đó có thể bị phát hiện. Trong bếp, cải bắp đang sôi sùng sục trong nồi đồng. Cha mẹ gã đang chuẩn bị golubsty nên Leo bảo họ cứ tiếp tục làm, họ có thể nói chuyện trong bếp. Gã lui lại nhìn cha gã trộn thịt (thịt tươi, không phải thịt khô, chỉ có thể là nhờ công việc của Leo), bột cà rốt tươi (một lần nữa chỉ có thể là nhờ gã), và nấu cơm. Mẹ gã chuẩn bị tách những chiếc lá đã nhạt màu của bắp cải vừa nấu chín. Cha mẹ gã biết có gì đó không ổn và chờ, không giục giã cho Leo mở lời. Gã mừng vì họ bận rộn chuẩn bị đồ ăn: - Ta chưa bao giờ nói nhiều về công việc của con. Như thế là tốt nhất. Đã có những lúc con thấy công việc gặp khó khăn. Con đã làm những việc mà con không tự hào nhưng là những thứ luôn cần thiết. Leo dừng lại, cố tìm ra cách tốt nhất để nói tiếp. Gã hỏi: - Có người thân quen nào của bố mẹ bị bắt chưa? Câu hỏi thật vụng về, Leo hiểu rất rõ. Stepan và Anna liếc nhìn nhau rồi tiếp tục làm đồ ăn, chắc chắn họ mừng vì có việc gì đó để làm. Anna nhún vai: - Ai cũng có quen một ai đó bị bắt. Nhưng bố mẹ không thắc mắc gì. Mẹ tự nhủ: các sĩ quan các con làm việc có bằng chứng. Mẹ chỉ biết điều mẹ nhìn thấy ở mọi người và thật dễ tỏ ra tốt bụng và bình thường và trung thành. Công việc của con là nhìn xa hơn những thứ đó. Con biết điều gì tốt nhất. Những người như bố mẹ không có quyền phán xét. Leo gật đầu, nói tiếp: - Hôm qua, người ta bảo con tố cáo Raisa. Cấp trên của con tin rằng cô ấy là kẻ phản bội. Họ tin cô ấy làm gián điệp cho cơ quan nước ngoài. Con được lệnh điều tra. Một giọt dầu từ ngón tay Stepan rơi xuống sàn nhà. Ông nhìn chằm chằm vào giọt dầu rồi hỏi: - Nó có phải là kẻ phản bội không? - Bố, vợ con là giáo viên. Cô ấy làm việc. Cô ấy về nhà. Cô ấy đi làm. Rồi cô ấy về nhà. - Vậy con hãy bảo họ như thế. Có chứng cứ nào không? Tại sao họ đặt điều như vậy? - Có lời thú tội của một gián điệp bị xử tử. Ông ta nhắc đến tên cô ấy. Ông ta khai đã làm việc với cô ấy. Nhưng con biết lời thú tội đó dối trá. Con biết rằng gián điệp kia thực ra chỉ là một bác sĩ thú y. Chúng con đã mắc sai lầm khi bắt ông ta. Con tin lời thú tội của ông ta là điều ngụy tạo của một nhân viên khác đang cố làm hại con. Con biết vợ con vô tội. Toàn bộ chuyện này là hành động trả thù. Stepan lau tay vào tạp dề của Anna: - Nói với họ sự thật. Để họ lắng nghe. Tố giác nhân viên này. Con là người có chức quyền mà. - Lời thú tội này, cho dù có giả tạo hay không, đã được chấp nhận là sự thật. Đó là văn bản chính thức và tên của cô ấy có trong đó. - Con không thể nói việc bắt người gián điệp này - bác sĩ thú y này - là sai lầm sao? - Có. Đó là điều con định làm. Nhưng nếu con giải thích họ sẽ không tin con, lúc ấy thì họ không chỉ bắt cô ấy; họ còn bắt cả con nữa. Nếu cô ấy có tội mà con lại nói rằng cô ấy vô tội thì con cũng có tội. Thế chưa hết. Con biết chuyện này sẽ thế nào. Có nhiều khả năng họ sẽ bắt cả bố mẹ nữa. Một phần của luật tố tụng nhằm vào bất cứ người nhà nào của tội phạm bị kết án. Chúng ta phạm tội vì liên đới. - Và nếu con tố cáo nó? - Con không biết. - Con biết đấy. - Chúng ta sẽ thoát. Cô ấy thì không. Nước vẫn sôi trên bếp. Cuối cùng Stepan nói: - Con ở đây vì không biết chắc phải làm gì. Con ở đây vì con là người tốt và muốn bố mẹ dạy con làm điều đứng đắn, điều phải lẽ. Con muốn bố mẹ đưa ra lời khuyên đúng đắn. Đấy sẽ là nói với họ rằng họ đã sai, rằng Raisa vô tội ư? Và dùng cảm đón nhận hậu quả có thể xảy ra ư? - Đúng. Stepan gật đầu, nhìn Anna. Sau một lúc, ông nói thêm: - Nhưng bố không thể khuyên con như vậy. Và bố không chắc con tin rằng bố sẽ cho con lời khuyên như vậy. Làm sao bố có thể đây? Sự thật là, bố muốn vợ bố sống. Bố muốn con trai bố sống. Và bố muốn sống. Bố sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo điều đó. Như bố hiểu tình hình thì đấy là một mạng đổi ba mạng. Bố rất tiếc. Bố biết rằng con chờ đợi nhiều hơn ở bố. Nhưng bố mẹ già rồi, Leo ạ. Bố mẹ sẽ không qua nổi ở Gulag. Bố mẹ sẽ bị chia cắt. Bố mẹ sẽ chết cô đơn. - Thế nếu bố còn trẻ, bố sẽ khuyên con thế nào? Stepan gật đầu: - Con nói đúng. Lời khuyên của bố cũng vậy thôi. Nhưng đừng giận bố. Con trông đợi điều gì khi con đến đây? Con trông đợi bố mẹ nói “được, bố mẹ không sợ chết” sao? Và cái chết của bố mẹ đáp ứng yêu cầu gì? Vợ con có được cứu không? Các con sẽ được chung sống hạnh phúc không? Nếu có, bố sẽ vui lòng hy sinh đời mình vì hai con. Nhưng đấy không phải là điều sẽ xảy ra. Điều duy nhất sẽ xảy ra là chúng ta sẽ chết - tất cả chúng ta, cả bốn người chúng ta - nhưng con phải chết mà biết rằng con làm điều đúng đắn. Leo nhìn mẹ. Khuôn mặt bà tái như những lá cải bà cầm trên tay. Bà khá điềm tĩnh. Bà không phủ nhận Stepan, mà hỏi: - Bao giờ con phải quyết định? - Con có hai ngày để thu thập bằng chứng. Rồi con phải báo cáo lại. Cha mẹ gã tiếp tục chuẩn bị bữa tối, quấn thịt trong lá bắp cải, đặt mấy miếng cạnh nhau trong khay nướng, trông chúng như một dãy ngón tay cái úc núc cắt cụt. Không ai nói gì cho đến khi khay đầy. Stepan hỏi: - Con sẽ ăn với bố mẹ chứ? Theo mẹ vào phòng khách, Leo thấy có ba bộ bát đĩa đã dọn sẵn: - Bố mẹ đang chờ khách ạ? - Bố mẹ chờ Raisa. - Vợ con? - Nó sẽ đến ăn tối. Khi con gõ cửa, bố mẹ tưởng con là nó. Anna đặt chiếc đĩa thứ tư lên bàn, giải thích: - Hầu như tuần nào nó cũng đến đây. Nó không muốn con biết nó cô đơn thế nào, ăn tối một mình chỉ có chiếc đài radio làm bầu bạn. Giờ bố mẹ đâm quý nó. Đúng là Leo chưa bao giờ đi làm về lúc bảy giờ. Có tiếng gõ cửa. Stepan mở cửa, để Raisa vào phòng trước. Cô ngạc nhiên chẳng kém cha mẹ gã khi thấy gã. Stepan giải thích: - Nó có việc gần đây. Đây là lần đầu tiên cả nhà ăn cùng nhau. Cô cởi áo khoác, Stepan nhận lấy. Cô bước lại gần Leo, nhìn gã từ trên xuống: - Quần áo của ai vậy? Leo nhìn xuống quần, áo sơ mi - đồ của người chết. - Anh mượn - ở chỗ làm. Raisa cúi sát hơn, thì thầm vào tai Leo: - Áo anh hôi quá. Leo đến phòng tắm. Ở cửa, gã liếc ra sau, nhìn Raisa giúp bố mẹ chuẩn bị bàn ăn. Từ nhỏ đến giờ Leo không quen dùng nước nóng. Cha mẹ gã ở chung căn hộ cũ với gia đình người chú của cha gã. Chỉ có hai phòng ngủ, mỗi gia đình một phòng. Căn hộ không có nhà vệ sinh hay phòng tắm riêng; những người sống trong tòa nhà phải dùng công trình phụ ngoài trời, ở đó không có nước nóng. Buổi sáng, những hàng dài, và buổi chiều tuyết rơi lên đầu họ trong khi họ chờ. Một bồn tắm đầy nước nóng là một sự xa xỉ quá đáng, một giấc mơ. Leo cởi áo, tắm rửa. Sau khi xong, gã mở cửa, hỏi mượn bố một chiếc sơ mi. Mặc dù cơ thể ông cụ bị công việc làm cho suy yếu - bị dây chuyền lắp ráp cũng như những cái nắp xe tăng mà ông lắp ráp làm cho khòm xuống - phom người ông cũng gần bằng con trai, vai rộng và rắn chắc. Chiếc áo vừa vặn. Thay đồ xong, Leo ngồi vào bàn ăn. Trong khi món golubsty đang nướng trong lò, họ ăn zakuski, món xà lách dưa chua, nấm và thêm một lát mỏng lưỡi bê nấu với kinh giới ô để nguội trong thịt đông và ăn kèm với cây cải ngựa. Thật là một bữa tiệc thịnh soạn hiếm có. Leo không cưỡng nổi phải nhìn chằm chằm vào món ăn, nhẩm tính chi phí từng món. Cảm thấy buồn nôn, gã nhận xét: - Anh có thể hiểu tại sao em đến đây hằng tuần. Raisa cười: - Đúng. Bố mẹ làm hư em. Em đã bảo bố mẹ là cháo lúa mạch cũng được rồi nhưng... Stepan xen vào: - Đó là cái cớ để bố mẹ làm hư mình mà. Cố gắng tỏ ra tự nhiên, Leo hỏi vợ: - Em từ chỗ làm đến thẳng đây à? - Đúng vậy. Đó là lời nói dối. Cô đã đi đâu đó với Ivan trước. Nhưng trước khi Leo kịp nghĩ thêm, Raisa đính chính: - Không phải vậy. Thường em đến đây ngay sau giờ làm. Nhưng tối nay em có cuộc hẹn, thế nên em đến hơi muộn. - Cuộc hẹn? - Với bác sĩ. Raisa nhoẻn miệng cười: - Em định nói với anh khi chỉ có hai ta, nhưng vì... - Nói gì cơ? Anna đứng lên: - Con có muốn bố mẹ ra ngoài không? Leo ra hiệu cho mẹ ngồi xuống: - Đừng mẹ. Chúng ta là gia đình. Không có gì bí mật cả. - Em đã có thai. 20 THÁNG HAI LEO KHÔNG NGỦ ĐƯỢC. Gã nằm tỉnh ráo, nhìn chằm chằm lên trần nhà, lắng nghe nhịp thở chầm chậm của vợ, lưng cô tì bên mình gã không phải vì cố ý tỏ dấu hiệu thân mật mà chỉ là cử động ngẫu nhiên. Cô là người khó ngủ. Gã có thể chuyển trách nhiệm điều tra cho người khác. Gã có thể tự lừa phỉnh rằng gã đang phục tùng theo phán quyết. Gã quá thân thiết, quá liên quan. Nhưng bất cứ điều tra nào như vậy cũng sẽ chỉ đi đến một kết luận. Vụ việc đã mở ra rồi. Sẽ không ai đưa ra ý kiến chống lại giả định có tội. Leo rời giường, ra đứng bên cửa sổ phòng khách, từ đây không nhìn được thành phố mà là lô căn hộ đối diện. Một bức tường đầy cửa sổ, chỉ có ba ô sáng đèn, ba trong số chừng một ngàn ô cửa, và gã tự hỏi ưu phiền gì đang làm rối bời những người cư ngụ bên kia, và điều gì khiến họ mất ngủ. Gã cảmthấy một mối thân tình lạ kỳ với ba ô vuông ánh đèn vàng nhạt kia. Đã bốn giờ sáng, giờ bắt bớ - thời điểm tốt nhất để bắt người, tóm lấy họ khi đang ngủ. Họ yếu đuối và mất phương hướng. Những lời nói thiếu thận trọng thốt ra, khi các mật vụ tràn vào nhà, thường được sử dụng để chống lại kẻ bị tình nghi trong quá trình chất vấn. Thật không dễ giữ được sự thận trọng khi vợ mình bị túm tóc lôi đi trên sàn nhà. Đã bao nhiêu lần Leo đạp đế giày phá cửa ra? Đã bao nhiêu lần gã chứng kiến một cặp vợ chồng bị lôi ra khỏi giường, đèn pin chiếu vào mặt mà còn đang mặc đồ ngủ? Đã bao nhiêu lần gã nghe tiếng một mật vụ cười khi nhìn thấy chỗ kín của ai đó? Đã bao nhiêu người bị gã lôi khỏi giường? Đã bao nhiêu căn hộ bị gã phá tan? Còn những đứa trẻ bị gã giữ lại khi cha mẹ chúng bị bắt đi? Gã không thể nhớ. Gã xua đi những cái tên, những khuôn mặt. Trí nhớ kém đi đã giúp gã rất nhiều. Gã đã rèn luyện nó? Có phải gã dùng ma túy không phải để làm việc nhiều hơn, mà để tiêu hủy dần dần ký ức về công việc? Có một câu chuyện cười, phổ biến trong giới mật vụ, những người có thể kể ra mà không bị trừng phạt. Một người đàn ông và vợ mình đang ngủ trên giường, bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa thình lình. E sợ điều tồi tệ nhất, họ thức dậy, hôn chào tạm biệt nhau: Anh yêu em, vợ ơi. Em yêu anh, chồng ơi. Sau khi nói lời từ biệt, họ ra mở cửa. Trước mặt họ là người hàng xóm hoảng loạn, hành lang đầy khói lửa cao tận trần nhà. Người đàn ông và vợ mình cười nhẹ nhõm và tạ ơn Chúa: chỉ là tòa nhà bị cháy. Leo đã nghe nhiều biến thể của câu chuyện này. Thay vì hỏa hoạn là kẻ cướp có vũ khí, thay vì kẻ cướp có vũ khí là bác sĩ mang tin xấu. Trước đây, gã đã cười giễu, tự tin rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra với mình. Vợ gã mang thai. Việc này có thay đổi gì không? Có lẽ nó sẽ thay đổi thái độ của cấp trên đối với Raisa. Họ chưa bao giờ quý mến cô. Cô chưa sinh cho Leo được đứa con nào. Thời này, người ta trông chờ, đòi hỏi các cặp vợ chồng phải có con. Sau khi hàng triệu người đã chết trong khi chiến đấu, có con là một nghĩa vụ với xã hội. Tại sao Raisa không có thai? Câu hỏi này cứ bám riết cuộc hôn nhân của họ. Kết luận duy nhất là có gì đó không ổn về phía cô. Áp lực tăng lên gần đây: những câu hỏi thường xuyên hơn. Raisa đi khám bác sĩ thường xuyên để giải quyết vấn đề. Quan hệ tình dục của họ thật thực dụng, bị thúc đẩy bởi những áp lực bên ngoài. Mỉa mai thay cho Leo là ngay khi cấp trên của gã có được điều họ muốn - Raisa có thai - họ lại muốn cô chết. Hay là gã nên đề cập đến chuyện cô có mang? Gã dẹp ngay ý kiến này. Một kẻ phản bội là một kẻ phản bội, không có tình tiết miễn truy cứu. Leo đi tắm. Nước lạnh. Gã thay đồ và chuẩn bị bữa sáng, món yến mạch. Gã không muốn ăn và nhìn nó đông cứng trong bát. Raisa vào bếp, ngồi xuống, dụi mắt cho tỉnh ngủ. Gã đứng lên. Không ai nói gì khi gã chờ yến mạch được hâm nóng. Gã để một bát trước mặt cô. Cô không nói gì. Gã pha một ly trà nhạt, đặt nó trên bàn, cạnh lọ mứt: - Anh sẽ cố về nhà sớm một chút. - Anh không phải thay đổi sinh hoạt hằng ngày vì em. - Dù sao anh cũng sẽ cố. - Leo, anh không phải thay đổi sinh hoạt hằng ngày vì em. Leo khép cửa. Đã hừng sáng. Qua gờ hành lang gã có thể nhìn thấy mọi người đứng cách xa hàng trăm mét dưới kia đang chờ xe điện. Gã lại thang máy. Khi thang máy tới, gã nhấn nút lên tầng thượng. Tầng ba mươi, tầng cao nhất, gã bước ra khỏi thang máy và đi xuống cuối hàng lang đến cửa bảo dưỡng, trên đó ghi: CẤM VÀO. Khóa đã bị phá từ lâu. Cửa dẫn ra lượt cầu thang lên sân thượng. Trước gã đã lên đây, khi lần đầu tiên họ chuyển nhà đến. Nhìn về phía Tây có thể thấy thành phố. Quay phía Đông có thể nhìn thấy nông thôn, nơi Mátxcơva tách ra và nhường chỗ cho những cánh đồng tuyết phủ. Cách đây bốn năm, khi chiêm ngưỡng cảnh này, gã đã cho mình là người may mắn nhất trên đời còn sống. Gã là một anh hùng - gã có tấm hình trên báo chứng minh điều đó. Gã có một công việc đầy quyền lực, một cô vợ đẹp. Niềm tin của gã ở nhà nước là tuyệt đối. Gã có nhớ cảm giác đó không - tự tin tuyệt đối, không lay chuyển? Có, gã nhớ. Gã đi thang máy xuống tầng mười bốn, quay về căn hộ của mình. Raisa đã đi làm. Bát ăn sáng của cô chưa rửa, để trong bếp. Gã cởi áo khoác, tháo ủng, hơ tay cho ấm, sẵn sàng lục tìm. Leo đã tổ chức và giám sát lục soát nhiều ngôi nhà, căn hộ và văn phòng. Các mật vụ kể cho nhau nghe về sự tỉ mỉ khác thường họ muốn trưng ra để chứng minh cho sự tận tụy của họ. Cho dù đây là nhà gã và đây là đồ vật của gã, Leo cũng dự định thực hiện cuộc lục soát này không có khác biệt. Gã xé ga trải giường, bao gối và chăn, lật nệm lên và dò tìm cẩn thận, từng xăng ti mét vuông, như người mù đọc chữ nổi. Giấy tờ tài liệu có thể được khâu vào trong tấm nệm, trở nên vô hình trước mắt nhìn. Cách duy nhất để xác định đồ vật cất giấu này là dùng tay mò. Không tìm được gì, gã chuyển sang giá sách. Gã lục tìm mọi quyển sách, kiểm tra xem có gì giấu bên trong không. Gã tìm thấy một trăm rúp, bằng tiền lương một tuần. Gã nhìn món tiền này, tự hỏi thế nghĩa là gì, cho đến khi nhớ ra cuốn sách là của mình và số tiền là của mình, một món tiền giấu riêng. Một mật vụ khác có lẽ sẽ tuyên bố nó là bằng chứng người sở hữu là một kẻ đầu cơ. Leo bỏ chỗ tiền lại. Gã mở các ngăn kéo, nhìn xuống quần áo của Raisa được gấp gọn gàng. Gã nhặt lên từng chiếc, lần sờ và giũ giũ rồi mới thả xuống thành đống trên sàn nhà. Khi mọi ngăn tủ đã trống trơn, gã kiểm tra phía sau và hai bên. Không tìm được gì, gã quay lại, lục tìm căn phòng. Gã áp người vào tường, lần những ngón tay dọc theo tường xem có gì hình dạng một ngăn bí mật hoặc chỗ hõm hay không. Gã gỡ xuống tờ báo được đóng khung, tấm hình chụp gã bên cạnh xe thiết giáp bốc cháy. Thật lạ thường khi nghĩ rằng khoảnh khắc đó, với những xác chết vây quanh, là quãng thời gian hạnh phúc hơn. Gã tháo khung ra, mảnh báo rơi xuống sàn. Lồng tấm ảnh và khung lại, gã lật giường lên, dựa nó vào tường. Gã quỳ xuống. Ván sàn được vít chắc chắn. Gã vào bếp lấy tuốc nơ vít rồi lật từng tấm ván lên. Bên dưới không có gì ngoài đất và đường ống. Gã vào bếp rửa tay. Ít nhất thì cũng có nước ấm. Gã thong thả chà miếng xà phòng nhỏ: cọ rửa da thậm chí khi đất đã trôi hết. Gã đang cố tẩy rửa gì khỏi bàn tay? Sự phản bội, không - gã không quan tâm đến những ẩn dụ. Gã đang rửa tay bởi vì nó bẩn. Gã đang lục soát căn hộ của mình vì phải làmnhư vậy. Gã không được suy nghĩ quá nhiều. Có tiếng gõ cửa. Gã rửa bàn tay dính đầy bọt xà phòng màu kem từ cổ tay đến khuỷu tay. Có tiếng gõ cửa lần hai. Nước vẫn còn nhỏ giọt trên cánh tay, gã đi vào phòng trước, gọi ra: - Ai đó? - Vasili đây. Leo nhắm mắt, cảm thấy tim mình đập nhanh và cố gắng kiểm soát cơn tức giận trào lên. Vasili lại gõ cửa. Leo bước tới, mở cửa. Đi cùng Vasili là hai người. Đầu tiên là một sĩ quan trẻ mà Leo không nhận ra. Anh ta có đường nét mềm mại và làn da tái nhợt như giấy. Anh ta nhìn chằm chằm Leo bằng đôi mắt vô cảm, như hai viên bi ve ấn vào trong viên bột nhồi. Viên sĩ quan thứ hai là Fyodor Andreev. Vasili đã lựa chọn những người này cẩn thận. Người da tái để bảo vệ hắn, chắc chắn rất khỏe, một tay thiện xạ hoặc một con dao lanh lẹ. Hắn mang theo Fyodor để trả thù. - Có việc gì? - Chúng tôi đến giúp. Thiếu tá Kuzmin cử chúng tôi đến. - Cảm ơn các anh, nhưng việc điều tra đang trong tầm kiểm soát. - Tôi chắc chắn là anh làm được. Chúng tôi đến để hỗ trợ. - Cảm ơn, nhưng không cần đâu. - Thôi nào, Leo. Chúng tôi đã đi một quãng đường xa. Và ngoài trời lạnh quá. Leo dịch sang, để họ vào nhà. Không ai cởi bỏ ủng đóng đầy băng, những miếng rã ra khỏi đế, chảy trên thảm. Leo đóng cửa, hiểu rằng Vasili đến đây để nhử mình. Hắn muốn Leo nổi nóng. Hắn muốn một cuộc tranh cãi, những lời lẽ thiếu cân nhắc, bất cứ điều gì làm trầm trọng thêm vụ này. Leo hỏi khách uống trà hay vodka. Sở thích uống của Vasili đã quá nổi tiếng, nhưng nếu đó được xem là tật xấu thì đó là tật xấu nhỏ nhặt nhất trong số các tật xấu. Hắn ta khước từ lời mời của Leo bằng một cái lắc đầu rồi liếc nhìn vào phòng ngủ: - Anh tìm được gì rồi? Không đợi trả lời, Vasili vào phòng, nhìn tấm nệm đã bị lật ngược: - Anh còn chưa cắt nó ra. Hắn cúi xuống, lôi dao ra, sẵn sàng rạch tấm nệm. Leo chụp tay hắn lại: - Có một cách để tìm đồ vật khâu vào trong đồ. Anh không phải cắt nó. - Vậy anh định dọn dẹp mọi thứ lại như cũ sao? - Đúng thế. - Anh vẫn nghĩ vợ anh vô tội? - Tôi chẳng tìm được gì gợi ý khác đi. - Tôi khuyên anh vài điều được không? Tìm cô vợ khác đi. Raisa xinh đẹp. Nhưng còn rất nhiều phụ nữ xinh đẹp. Có lẽ anh sẽ sống yên ổn hơn với những người không quá xinh đẹp như thế. Vasili cho tay vào túi, lấy ra một tập ảnh gấp lại. Hắn đưa cho Leo. Ánh chụp Raisa bên ngoài trường với Ivan, giáo viên dạy văn. - Cô ta đang hú hí với hắn, Leo ạ. Cô ta phản bội anh và phản bội nhà nước. - Ảnh này chụp ở trường. Cả hai đều là giáo viên. Tất nhiên chụp họ ở cùng nhau là phải rồi. Nó chẳng chứng minh được gì hết. - Anh có biết tên hắn không? - Ivan, tôi nghĩ vậy. - Chúng ta đã theo dõi hắn một thời gian rồi. - Chúng ta theo dõi rất nhiều người. - Có lẽ anh cũng là một người bạn của hắn? - Tôi chưa bao giờ gặp gỡ anh ta. Chưa bao giờ nói chuyện với anh ta. Thấy đống quần áo trên sàn, Vasili cúi xuống và nhặt một chiếc quần lót của Raisa. Hắn vò trong ngón tay, cuộn tròn rồi cho lên mũi và không thôi rời mắt khỏi Leo. Thay vì thấy tức giận trước hành động khiêu khích này, Leo ghê tởm tên cấp phó mà gã chưa bao giờ thèm ghê tởm trước đây. Chính xác thì cái kẻ ghét gã nhiều đến thế là ai? Hắn ta bị thúc đẩy bởi ganh ghét nghề nghiệp hay bởi tham vọng bất chính? Giờ nhìn hắn ta đang ngửi đồ của Raisa, Leo nhận ra có gì đó cá nhân trong sự căm ghét này. - Tôi có thể xem căn nhà được không? Sợ có cái bẫy nào đó, Leo đáp: - Tôi sẽ đi cùng. - Không, tôi muốn xem một minh. Leo gật đầu. Vasili bước đi. Gần như tức thở, cổ họng nghẹn lại vì tức tối, Leo nhìn trân trân cái giường bị lật ngược. Gã ngạc nhiên bởi giọng nói nhẹ nhàng bên cạnh. Là Fyodor: - Anh phải làm tất cả việc này. Lục soát hết quần áo của vợ anh, lật ngược giường lại, lật giở hết ván sàn - xé tan cuộc sống riêng của anh. - Chúng ta sẵn sàng chịu những khám xét như vậy. - Vậy mà anh không điều tra cái chết của con tôi? Anh điều tra vợ anh, bản thân anh, bạn bè anh, hàng xóm anh, nhưng anh không thèm nhìn qua xác con tôi? Anh không dành ra một tiếng để xem bụng nó bị mổ ra thế nào, và nó chết miệng bị nhét đầy bùn đất thế nào? Fyodor bình tĩnh, giọng anh ta nhẹ nhàng - cơn giận của anh ta không còn mãnh liệt nữa. Nó đã thành băng giá. Anh ta có thể nói với Leo theo cách đó - cởi mở, thẳng thắn - bởi vì anh ta biết Leo không còn là mối đe dọa nữa. - Fyodor, anh cũng đâu có nhìn thấy xác nó. - Tôi đã nói chuyện với ông già phát hiện ra xác nó. Ông ta kể cho tôi điều ông ta thấy. Tôi thấy trong mắt ông già đó, cơn sốc của ông ta. Tôi đã nói chuyện với nhân chứng, người phụ nữ bị anh làmkhiếp sợ bỏ đi. Một người đàn ông đã dắt tay con trai tôi, dẫn nó đi dọc theo đường tàu. Cô ta thấy khuôn mặt người đàn ông kia. Cô ta có thể mô tả hắn. Nhưng không ai muốn cô ta nói. Và giờ cô ta quá sợ hãi không dám nói. Con trai tôi đã bị giết, Leo. Người ta đã làm cho tất cả nhân chứng sửa lại lời khai. Điều này tôi đã nghĩ đến. Nhưng anh từng là bạn tôi. Và anh đến nhà tôi và bảo cả nhà tôi phải im mồm. Anh đã đe dọa một gia đình đang đau khổ. Anh đọc cho chúng tôi nghe một câu chuyện hoang đường và bảo chúng tôi phải ghi vào lòng những lời dối trá kia. Thay vì tìm ra kẻ giết con trai tôi, anh lại lo giám sát đám tang cẩn thận. - Fyodor, tôi đã cố giúp anh. - Tôi tin anh. Anh bảo chúng tôi cách tồn tại. - Đúng. - Và theo cách nào đấy, tôi biết ơn anh. Nếu không, kẻ đã giết con trai tôi cũng có thể đã giết tôi và gia đình tôi rồi. Anh đã cứu tính mạng chúng tôi. Đó là lý do tôi ở đây, không phải để hả hê, mà để đáp lại anh cái ân huệ. Vasili nói đúng. Anh phải hy sinh vợ anh. Đừng nhọc công tìm bằng chứng. Tố cáo cô ấy rồi thì anh sẽ sống sót. Raisa là gián điệp, điều đó đã được quyết định. Tôi đã đọc bản thú tội của Anatoly Brodsky. Nó được viết cùng loại mực đen như trong biên bản về tai nạn của con tôi. Không, Fyodor đã sai. Anh ta đang tức giận. Leo tự nhủ, gã có một mục tiêu đơn giản - điều tra vợ mình và báo cáo những gì phát hiện được. Vợ gã vô tội. - Tôi tin rằng lời nói của kẻ phản bội liên quan đến vợ tôi chỉ xuất phát từ động cơ trả thù mà thôi. Cho đến nay điều tra của tôi ủng hộ hướng đó. Vasili từ phòng bên đi ra. Thật khó nói hắn đã nghe được bao nhiêu phần cuộc trò chuyện. Hắn trả lời: - Trừ chuyện rằng sáu cái tên khác ông ta khai đã bị bắt. Và tất cả sáu người này đều đã thú tội. Thông tin của Anatoly Brodsky là vô giá. - Vậy thì tôi rất hài lòng là người đã bắt ông ta. - Vợ của anh đã được một gián điệp bị kết án khai ra. - Tôi đã đọc lời thú tội của ông ta và tên Raisa nằm cuối danh sách. - Những cái tên không được sắp xếp theo thứ tự quan trọng. - Tôi tin rằng vì thù hận mà ông ta đưa vào. Tôi tin rằng ông ta muốn hãm hại cá nhân tôi. Thật khó mà lừa được bất kỳ ai, một trò lừa vô vọng, rõ rành rành. Các anh được hoan nghênh đến giúp tôi lục soát - nếu đó là lý do các anh đến. Như các anh thấy... Leo chỉ về phía ván sàn đã bị lật lên. - Tôi đã tìm rất kỹ. - Bỏ cô ta đi, Leo. Anh cần phải thực tế. Một mặt là sự nghiệp của anh, bố mẹ anh - mặt kia là anh có một kẻ phản bội, một con điếm. Leo liếc nhìn Fyodor. Mặt anh ta không tỏ vẻ vui sướng, không lộ vẻ ác độc. Vaslli tiếp tục: - Anh biết cô ta là một con điếm. Đó là lý do trước đây anh đã cho người theo dõi cô ta. Con giận của Leo bị cú sốc thay thế. Họ đã biết. Họ đã biết ngay từ đầu. - Anh đã nghĩ đó là bí mật sao? Tất cả chúng tôi đều biết. Tố cáo cô ta đi, Leo. Kết thúc chuyện này. Kết thúc nghi ngờ, kết thúc những câu hỏi vụn vặt trong thâm tâm anh đi. Bỏ cô ta đi. Sau đó chúng ta sẽ đi uống. Rồi đến tối, anh sẽ có một phụ nữ khác. - Mai tôi sẽ báo cáo phát hiện của mình. Nếu Raisa là kẻ phản bội, tôi sẽ nói vậy. Nếu cô ấy không phải, tôi sẽ nói không. - Vậy thì chúc anh may mắn, đồng chí. Nếu anh thoát được vụ tai tiếng này thì một ngày nào đó anh sẽ điều hành MGB. Tôi chắc chắn điều đó. Và sẽ là một vinh dự cho tôi được làm dưới quyền anh. Ở cửa chính, Vasili quay lại: - Nhớ những gì tôi nói. Tính mạng của anh, của bố mẹ anh đang được đặt lên bàn cân với tính mạng của cô ta. Đây không phải là một quyết định khó khăn. Leo đóng cửa. Khi nghe họ bỏ đi, gã nhận ra tay mình đang run run. Gã quay lại phòng ngủ, nhìn đống ngổn ngang. Gã sắp xếp lại ván sàn, vặn vít lại. Gã dọn lại giường, trải vuốt chăn cẩn thận và rồi làm nó hơi nhàu chút, cho giống như gã đã thấy. Gã sắp xếp lại cả quần áo của Raisa, gấp lại và xếp lên, nhận ra rằng gã không thể nhớ chính xác thứ tự mà gã đã lôi ra. Nên phải làm cho gần giống. Khi gã nhặt chiếc áo sơ mi vải lên, một vật nhỏ rơi ra, trúng vào chân gã và lăn trên sàn nhà. Leo cúi xuống nhặt lên. Đồng xu một rúp. Gã ném lên tủ cạnh giường. Khi chạm mặt tủ, đồng xu tách làmđôi, hai nửa lăn về hai phía. Gã ngỡ ngàng, đi lại chỗ tủ. Gã quỳ xuống và nhặt hai nửa lên. Bên trong một nửa, có một khe rỗng. Khi lắp vào nhau, trông chúng như thể một đồng xu bình thường. Leo đã nhìn thấy đồng xu thế này trước đây. Đó là thiết bị để mang lén vi phim. *** CÓ MẶT TẠI PHÒNG CUNG KHAI CỦA LEO là thiếu tá Kuzmin, Vasili Nikitin, và Tunur Raphaelovich - người thay Leo thẩm vấn Anatoly Brodsky. Leo chỉ biết sơ qua người này: một kẻ tham vọng, kiệm lời và đầy uy tín. Phát hiện ra Raphaelovich sẵn sàng cam đoan mọi điều trong nội dung tờ thú tội, gồm cả phần nói về Raisa, thật là khủng khiếp. Người này không phải là tay sai của Vasili. Raphaelovich không tôn trọng hay e sợ hắn. Leo tự hỏi có phải Vasili đã cài tên cô vào bản thú tội hay không. Hắn không có khả năng thao túng Raphaelovich, không ảnh hưởng, và theo thứ bậc của họ thì hắn là nhân viên cấp dưới trong quá trình thẩm vấn. Hai ngày qua, Leo đã làm việc với giả định rằng đây là hành động trả thù của Vasili. Gã đã nhầm. Vasili không đứng sau chuyện này. Người duy nhất có thể sắp đặt ngụy tạo lời thú tội có sự yểm trợ của một nhân chứng cấp cao như vậy là thiếu tá Kuzmin. Đó là một cuộc sắp đặt, được chỉ huy bởi không ai khác ngoài người thầy của gã, người đã nhận dìu dắt Leo. Leo đã phớt lờ đi lời khuyên của ông ta trong vụ Anatoly Brodsky và giờ gã đang được dạy cho một bài học. Kuzmin đã nói gì với gã? Tình cảm khiến người ta mù quáng. Đây là một cuộc sát hạch, một bài tập. Vấn đề được xem xét ở đây là Leo có đáp ứng được vai trò một mật vụ không: chẳng có gì liên quan đến Raisa hết, không hề. Tại sao lại chỉ định chồng kẻ khả nghi điều tra vợ mình trừ phi quan ngại chủ yếu là người chồng sẽ ứng xử thế nào trong cuộc điều tra đó? Không phải Leo là người bị theo dõi sao? Không phải Vasili đã đến kiểm tra xem gã có khám xét căn hộ đúng mức không ư? Hắn không quan tâm đến những gì tìm được trong nhà Leo: hắn quan tâmđến phương pháp làm việc của Leo. Đã rõ cả rồi. Vasili đã chọc tức gã hôm qua, bảo gã nên tố cáo vợ mình chính xác chỉ vì hắn hy vọng rằng Leo sẽ làm đúng điều ngược lại và bảo vệ cô. Hắn không muốn Leo tố cáo Raisa. Hắn không muốn gã qua được cuộc sát hạch này. Đó là một cái bẫy. Tất cả những gì gã cần làm là cho thiếu tá Kuzmin thấy rằng gã sẵn sàng tố cáo vợ mình, chứng minh lòng trung thành của gã với MGB là tuyệt đối, chứng minh lòng tin của gã là dứt khoát, chứng minh con tim gã có thể tàn nhẫn - nếu gã làm được điều này thì tất cả họ đều an toàn: Raisa, đứa con chưa ra đời của gã, cha mẹ gã. Tương lai của gã ở MGB sẽ được đảm bảo, còn Vasili sẽ ra rìa. Nhưng chẳng phải đây là một giả định sao? Nếu kẻ phản bội, như ông ta đã thú nhận, đúng là kẻ phản bội thì sao? Nếu bằng cách nào đó ông ta đã làm việc cùng Raisa thì sao? Có lẽ ông ta đã khai thật. Tại sao Leo lại chắc chắn đến vậy rằng người đàn ông này vô tội? Tại sao gã lại chắc chắn đến vậy rằng vợ gã vô tội? Suy cho cùng, tại sao cô lại đi kết bạn với một giáo viên dạy văn có tư tưởng chống đối? Đồng xu kia đang làm gì trong căn hộ của họ? Không phải sáu cái tên khác trong lời thú tội đã bị bắt và tất cả đều được thẩm vấn thành công rồi sao? Danh sách đã được chứng minh và Raisa có trong danh sách. Đúng, cô là gián điệp và ở đây, trong túi gã, là đồng xu, bằng chứng để chứng minh điều đó. Gã có thể đặt đồng xu lên bàn và đề nghị bắt cả cô và Ivan Zhukov để xét hỏi. Gã đã bị lừa. Vasili nói đúng: cô là kẻ phản bội. Cô mang thai con người khác. Không phải gã luôn biết rằng cô không chung thủy với gã sao? Cô không yêu gã. Gã chắc như thế. Tại sao lại mạo hiểm mọi thứ vì cô - một phụ nữ lạnh lùng với gã, một phụ nữ may mắn lắm thì chỉ chịu đựng gã. Cô là mối đe dọa tới tất cả những gì gã đang phục vụ, tất cả những gì gã giành được cho cha mẹ mình và cho chính bản thân gã. Chuyện đã hết sức rõ ràng: nếu Leo nói rằng cô có tội thì chuyện này sẽ kết thúc tốt đẹp cho cả gã và cha mẹ gã. Điều đó là chắc chắn. Là điều an toàn duy nhất phải làm. Nếu đây là một phép thử phẩmchất của Leo, Raisa cũng sẽ được tha. Và cô sẽ không bao giờ cần phải biết. Nếu cô là gián điệp thì những người này đã có bằng chứng và chờ xem liệu Leo có làm việc với cô không. Nếu cô là gián điệp thì gã sẽ tố cáo cô, cô đáng chết. Điều duy nhất phải làm là tố cáo vợ mình. Thiếu tá Kuzmin bắt đầu thủ tục: - Leo Stepanovich, chúng tôi có lý do tin rằng vợ cậu đang làm việc cho cơ quan nước ngoài. Cá nhân cậu không bị nghi ngờ về bất cứ tội gì hết. Đây là lý do chúng tôi đề nghị cậu điều tra những cáo buộc. Hãy cho chúng tôi biết cậu tìm thấy gì. Leo đã có lời xác nhận mà gã chờ đợi. Đề nghị của thiếu tá Kuzmin rất rõ. Nếu gã tố cáo vợ mình, gã sẽ tiếp tục được họ tin tưởng. Vasili đã nói gì? Nếu anh thoát khỏi vụ tai tiếng này thì một ngày nào đấy anh sẽ điều hành MGB. Tôi chắc chắn điều đó. Sự thăng tiến chỉ còn cách một câu nói thôi. Căn phòng yên ắng. Thiếu tá Kuzmin rướn người lên: - Leo? Leo đứng dậy, chỉnh lại áo khoác đồng phục: - Vợ tôi vô tội. BA THÁNG SAU PHÍA TÂY DÃY NÚI URAL THỊ TRẤN VOUALSK 13 THÁNG BA DÂY CHUYỀN LẮP RÁP Ô TÔ chuyển sang ca tối. Ilinaya đã ngừng công việc và bắt đầu cọ rửa bàn tay, dùng miếng xà phòng đen hôi rình: loại xà phòng duy nhất sẵn có. Nước lạnh, xà phòng không sủi bọt - nó chỉ vữa ra thành những mẩu nhờn - nhưng điều duy nhất ả có thể nghĩ đến là mấy tiếng đồng hồ từ bây giờ đến ca làm việc tiếp theo. Ả định tối nay đi chơi. Trước hết, ả phải tẩy rửa dầu và kim loại bám dưới móng tay. Rồi ả sẽ về nhà, thay đồ, tô chút phấn màu lên má rồi tới Basarov, nhà hàng gần ga xe lửa. Nhà hàng Basarov là nơi quen thuộc với những người đến đây vì công việc, các viên chức dừng nghỉ chân trước khi họ tiếp tục chuyến đi trên tuyến đường sắt xuyên Siberia về phía Đông hoặc Tây. Nhà hàng phục vụ đồ ăn - xúp hạt kê, cháo lúa mạch, cá trích muối - mà Ilinaya nghĩ thật kinh khủng. Quan trọng hơn, có bán rượu. Vì bán rượu nơi công cộng mà không bán đồ ăn là phi pháp, đồ ăn chỉ là phương tiện để đạt được mục đích, một đĩa thức ăn là một loại giấy phép uống rượu. Thực ra quán này có phần như một ổ cho gái đứng đường hơn. Quy định không cá nhân nào được mua hơn một trăm gamvodka đã bị phớt lờ. Basarov, gã chủ đứng tên quán rượu, luôn say xỉn và thường thô bạo, và nếu Ilinaya muốn hành nghề tại quán của hắn ta, hắn muốn chia phần. Không cách nào ả có thể giả vờ là uống rượu ở đó để giải sầu, trong khi dò tìm khách hàng vãng lai. Không ai đến đấy uống rượu cho vui; quán toàn khách tạt qua, không có người địa phương. Nhưng đó là một lợi thế. Ả không thể kiếmăn với dân địa phương được nữa. Gần đây ả bị ốm - đau, đỏ ửng, phát ban, đại khái thế. Vài khách quen bị các triệu chứng tương tự và nói xấu ả khắp thị trấn. Giờ ả chỉ còn kiếm ăn với những người không biết ả, những người không ở lại thị trấn lâu nên không thể phát hiện ra họ đi tiểu nước đục trước khi họ tới Vladivostok hay Mátxcơva, tùy là họ đi về hướng nào. Ả không vui thú gì việc truyền mấy con vi khuẩn cho dù họ chẳng phải hạng người tốt đẹp gì. Nhưng ở thị trấn này, đi bác sĩ khám một bệnh lây qua đường tình dục còn nguy hiểm hơn chính sự lây truyền. Với một phụ nữ không chồng, thế chẳng khác nào đi nộp một lời thú tội, ký dưới bằng một vết nhơ. Ả phải đến phòng khám chui để chữa trị. Việc đó cần phải có tiền, có thể rất nhiều tiền, mà ngay lúc này ả đang tiết kiệm cho một việc khác, một việc quan trọng hơn nhiều - thoát khỏi thị trấn này. Lúc ả đến, quán đông nghịt và các cửa sổ phủ đầy hơi nước. Không khí sặc mùi makhorka, loại thuốc lá rẻ tiền. Ả nghe tiếng cười say xỉn cách năm mươi bước chân, trước khi bước qua cửa. Ả đoán là lính. Ả đoán đúng. Thường có một kiểu tập trận diễn ra ở vùng núi, và những tay lính lúc rảnh việc thường đến đây. Basarov chủ yếu lo phục vụ dạng khách hàng này. Hắn bán rượu pha nước lã, nói rằng, khi có ai cự nự, mà bọn họ thì thường làm thế, đấy là một nỗ lực cao thượng nhằm hạn chế say xỉn. Thường có những vụ ẩu đả. Tuy nhiên, ả biết rằng bất chấp những kể lể của hắn nào là cuộc sống của hắn khó khăn ra sao và khách hàng tệ hại thế nào, hắn cũng kiếm được kha khá nhờ bán số rượu nguyên chất mà hắn đã lấy bớt đi. Hắn là kẻ đầu cơ. Hắn là tên cặn bã. Chỉ vài tháng trước, ả lên tầng trên để đưa phần tiền hằng tuần và, qua khe hở cửa phòng ngủ hắn, ả thấy hắn đếm những đồng rúp hết tờ này đến tờ khác, những đồng tiền hắn để trong chiếc hộp thiếc có dây buộc chặt. Ả đã theo dõi, không dám thở, khi hắn gói hộp thiếc vào tấm vải trước khi giấu trong ống khói. Từ lúc đó, ả đã mơ ăn trộm món tiền đó rồi chạy trốn. Tất nhiên, Basarov chắc chắn sẽ bẻ cổ ả nếu hắn bắt kịp ả, nhưng ả tính rằng hắn có phát hiện ra hộp thiếc trống không thì tim hắn đã nổ tung ra, ngay tại ống khói. Ả rất chắc quả tim hắn và cái hộp kia chỉ là một. Theo ả nghĩ, mấy tay lính còn uống chừng một giờ nữa. Lúc này bọn họ chỉ sờ soạng ả thôi, một ưu đãi bọn họ không phải mất tiền trừ phi người ta coi vodka miễn phí là tiền boa mà ả không cho là vậy. Ả dò quanh những khách hàng khác, tin rằng ả có thể kiếm thêm chút ít khi mấy tay lính kia phải quay về trại. Toán lính chiếm hết mấy bàn đầu, để các khách hàng còn lại những bàn sau. Những khách hàng này ngồi một mình - chỉ họ và đồ uống của họ và món thức ăn chưa động đến. Chắc chắn: họ đang kiếm tình. Chẳng có lý do nào khác để lảng vảng nơi đây. Ilinaya chỉnh lại vạt váy, bỏ ly rượu đấy, và đi qua giữa đám rất nhiều lính với những cái véo và bình phẩm cho đến khi tới một trong những bàn sau. Người đàn ông ngồi đó chừng bốn mươi, có lẽ trẻ hơn một chút. Thật khó đoán. Hắn không điển trai, nhưng ả nghĩ có lẽ vì thế mà hắn sẽ trả thêm. Bọn đẹp mã đôi khi nhồi vào đầu ý nghĩ tiền không cần thiết, kiểu như một thỏa thuận sẽ làm hài lòng cả đôi bên. Ả ngồi xuống, bắt tréo chân và mỉm cười: - Tôi là Tanya. Những lúc thế này, cứ nghĩ mình là một ai khác lại có ích. Gã đàn ông châm điếu thuốc rồi đặt tay lên đầu gối Ilinaya. Chẳng thèm mua đồ uống cho ả, hắn rót một nửa vodka còn lại của hắn vào một trong cả đống cốc bẩn thỉu quanh đấy rồi đẩy sang cho ả. Ả nghịch chiếc cốc, chờ hắn nói gì đó. Hắn uống xong, không có vẻ gì là muốn trò chuyện. Cố để không trợn ngược mắt lên, ả bắt chuyện: - Anh tên gì? Hắn không đáp, cho tay vào túi áo, lục lọi. Hắn đưa tay ra, nắm tay siết chặt. Ả hiểu đây như một dạng trò chơi và ả phải chơi cùng. Ả gõ lên khớp ngón tay hắn. Hắn lật nắm tay lại, từ từ xòe ngón tay ra, từng ngón một... Trong bàn tay hắn là một mẩu vàng nhỏ. Ả cúi nhìn. Ả chưa kịp nhìn rõ thì hắn đã nắm tay lại và cho vào túi áo. Hắn vẫn không nói gì. Ả dò xét khuôn mặt hắn. Mắt hắn đỏ ngầu và say xỉn, và ả chẳng thích hắn tẹo nào. Nhưng mà ả cũng không thích nhiều người và chắc chắn không thích một gã đàn ông nào ả từng ngủ cùng. Nếu ả muốn trở nên cầu kỳ thì ắt ả sẽ giải nghệ, rồi lấy một người trong vùng, và đành ở lại thị trấn này suốt đời. Con đường duy nhất để quay về Leningrad, nơi gia đình ả sống, nơi ả đã sống cả đời mình cho đến khi có lệnh chuyển đến đây, một thị trấn ả chưa bao giờ nghe đến, là liệu ả có kiếm đủ tiền để hối lộ đám công chức không. Vì không có bạn bè quyền thế cho phép chuyển nơi cư trú nên ả cần mẩu vàng đó. Hắn chạm chiếc cốc của ả, thốt ra lời đầu tiên: - Uống đi. - Anh phải trả tiền cho tôi trước đã. Rồi anh có thể bảo tôi phải làm gì. Đấy là luật, luật duy nhất. Mặt người đàn ông xáo động như thể ả vừa ném một hòn đá xuống bề mặt những biểu hiện của hắn. Trong một lúc ả thấy cái gì đó ẩn giấu bên dưới vẻ ngoài béo phị, nhạt nhẽo của hắn, cái gì đó khó chịu, cái gì đó khiến ả muốn quay mặt đi. Nhưng mẩu vàng khiến ả vẫn nhìn hắn, khiến ả vẫn ngồi yên tại chỗ. Hắn lấy mẩu vàng trong túi, giơ ra. Khi ả với tay ra và nhặt nó nơi lòng bàn tay ẩm ướt của hắn thì hắn khum bàn tay lại, giữ mấy ngón tay ả theo. Không đau nhưng dù gì mấy ngón tay ả vẫn bị kẹp. Ả không thể để hắn nắm tay cũng không thể rút tay ra mà không có mẩu vàng. Đoán được hắn muốn ả phải làm gì, ả mỉm cười rồi cười vang như đứa con gái yếu thế, thả lỏng cánh tay. Hắn bung nắm tay. Ả cầm lấy mẩu vàng và nhìn chằm chằm. Nó có hình dạng một chiếc răng. Ả nhìn chằm chằmngười đàn ông: - Anh lấy ở đâu thế? - Thời buổi khó khăn, người ta bán bất cứ thứ gì họ có. Hắn cười. Ả thấy buồn nôn. Kiểu tiền tệ gì thế này? Hắn gõ gõ cốc rượu. Chiếc răng kia là tấm vé cho ả thoát khỏi đây. Ả uống cạn cốc rượu. *** IUNAYA DỪNG BƯỚC: - Anh làm việc trong nhà máy à? Ả biết là hắn không làm việc trong nhà máy, nhưng không có ngôi nhà nào quanh đây ngoại trừ nhà của công nhân nhà máy. Hắn thậm chí còn không thèm đáp. - Này? Chúng ta đi đâu thế? - Sắp tới rồi. Hắn dẫn ả đến nhà ga ở rìa thị trấn. Dù nhà ga còn mới, nhưng lại nằm ở khu vực cũ kỹ nhất, gồmnhững căn nhà một phòng xiêu vẹo mái tôn và tường gỗ mỏng, nằm san sát nhau trên những con đường bốc mùi cống rãnh. Những căn nhà này là của công nhân nhà máy gỗ, họ sống năm hay sáu hoặc thậmchí bảy người trong một phòng, không phù hợp cho chuyện hai người sắp làm. Trời lạnh cóng. Ilinaya đang tỉnh táo lại. Chân ả bắt đầu mỏi. - Thời gian của anh thế này. Cái răng vàng cho anh được một giờ. Đấy là điều chúng ta đã thỏa thuận. Nếu anh lấy đi thời gian tôi cần quay lại quán, nghĩa anh chỉ còn hai mươi phút kể từ bây giờ. - Nó nằm phía sau nhà ga. - Sau đó chỉ có rừng thôi. - Cô sẽ thấy. Hắn tiến lên, đến bên hông nhà ga và chỉ vào bóng đêm. Ả cho tay vào túi áo, bước theo hắn, nheo nheo mắt theo hướng hắn chỉ. Ả có thể thấy đường ray mất hút vào rừng và không gì khác: - Tôi đang nhìn cái gì đây? - Đằng kia. Hắn chỉ một ngôi nhà gỗ nhỏ nằm bên cạnh đường ray, cách không xa bìa rừng: - Tôi là kỹ sư. Tôi làm việc ở đường sắt. Kia là nhà bảo dưỡng. Chỗ đấy rất kín đáo. - Một căn phòng thì rất kín đáo. - Tôi không thể mang cô về chỗ tôi ở được. - Tôi biết một chỗ lẽ ra chúng ta nên đến. - Thế này hay hơn. - Không phải với tôi. - Chỉ có một luật chơi. Tôi trả tiền, cô nghe lời. Hoặc trả lại vàng cho tôi, hoặc làm như tôi bảo. Chuyện này chẳng có gì hay ngoài mẩu vàng. Hắn đưa tay ra, chờ mẩu vàng được trả lại. Hắn dường như không thất vọng cũng chẳng bực tức hay mất kiên nhẫn. Ilinaya thấy dễ chịu với sự thờ ơ này. Ả cất bước về phía căn nhà gỗ: - Ở trong đấy anh có mười phút, thỏa thuận? Không lời đáp - ả coi đó là chấp nhận. Căn nhà bị khóa, nhưng hắn có một chùm chìa khóa và sau một hồi mò mẫm tìm đúng cái chìa thì hắn loay hoay với cái ổ khóa: - Nó bị đóng băng rồi. Ả không đáp, quay đầu sang bên và thở dài tỏ ý khó chịu. Kín đáo là một chuyện và ả nghĩ hắn đã có vợ. Nhưng vì hắn không sống trong thị trấn này, ả không hiểu vấn đề của hắn là gì. Có lẽ hắn sống với gia đình hoặc bạn; có lẽ hắn là một viên chức cấp cao. Ả không quan tâm. Ả chỉ muốn mười phút tiếp theo kết thúc. Hắn cúi xuống, khum hai tay bên ổ khóa và thổi hơi vào. Chìa khóa đã tra vào, ổ khóa bật mở. Ả vẫn đứng ngoài. Nếu không có ánh sáng, thỏa thuận sẽ hủy, mà ả thì đã giữ mẩu vàng ở dưới ủng. Ả đã cho kẻ này nhiều thời gian hơn cần thiết. Nếu hắn muốn phung phí thời gian cho một cuộc hành trình chẳng tới đâu thì tùy hắn. Hắn bước vào nhà, biến mất trong bóng tối. Ả nghe tiếng quẹt diêm. Ánh sáng lóe lên từ cây đèn bão. Gã đàn ông nhấc đèn và treo lên cái móc nhô ra từ mái nhà. Ả liếc vào trong. Ngôi nhà đầy những đoạn ray thừa, đinh vít, bu lông, dụng cụ, và thanh gỗ. Có mùi hắc ín. Hắn bắt đầu dọn dẹp một bàn thợ. Ả cười: - Mông tôi sẽ dính dằm mất. Ả ngạc nhiên thấy hắn đỏ mặt. Ứng biến, hắn trải áo khoác lên mặt bàn. Ả bước vào trong: - Một quý ông tuyệt vời... Thường ả sẽ cởi áo khoác, có lẽ ngồi trên giường và cởi bỏ tất, diễn trò. Nhưng vì không có giường và không có lò sưởi, ả định chỉ cho phép hắn kéo váy ả lên. Ả sẽ vẫn mặc áo: - Hy vọng anh không phiền nếu tôi vẫn mặc áo khoác? Ả đóng cửa, không trông chờ việc này sẽ khiến nhiệt độ khác đi, trong nhà vốn lạnh cóng như bên ngoài. Ả quay người. Người đàn ông ở gần sát hơn là ả nhớ được. Ả bắt gặp cái gì đó như kim loại bay về phía mình - ả không kịp hiểu ra đó là gì. Vật kia đã đâm vào bên mặt ả. Cái đau từ điểm tiếp xúc xuyên suốt cơ thể, chạy dọc xương sống xuống tận bàn chân. Cơ bắp ả chùng xuống; chân ả sụm xuống như thể gân đã bị cắt đứt. Ả ngã vào cửa. Mắt mờ đi, ả thấy nóng mặt, có máu trong miệng. Ả sắp xỉu, bất tỉnh, nhưng ả cố gắng chống cự lại nó, bắt mình phải tỉnh táo, tập trung vào giọng hắn: - Làm y như tao bảo. Liệu sự quy phục có làm người đàn ông này hài lòng không? Mấy mẩu răng gãy cắm trong lợi khiến ả nghĩ khác. Ả không muốn tin vào sự khoan dung của hắn. Nếu ả chết trong một thị trấn ả cămghét, một thị trấn ả bị lưu đày, cách gia đình ả một ngàn bảy trăm ki lô mét, thì ả thà sẽ chết trong khi móc mắt tên khốn kiếp này. Hắn túm lấy cánh tay ả, chắc hắn nghĩ là mọi chống cự đã tan biến. Ả nhổ một miệng đầy máu và đâm vào mắt hắn. Chắc hắn quá bất ngờ vì hắn buông ả ra. Ả quờ tay lên cánh cửa phía sau mình, và đẩy nó ra - cánh cửa bật mở và ả ngã ra ngoài trời tuyết, nằm ngửa, mắt ngước nhìn trời. Hắn chộp lấy hai bàn chân ả. Ả điên cuồng quẫy đạp, cố tránh xa ra. Hắn nắm được một chân, kéo ả vào trong nhà. Ả tập trung, nhắm mục tiêu: gót giày ả đá trúng quai hàm hắn. Cú đá rất tốt, đầu hắn ngoặt ra sau. Ả nghe hắn hét lên. Hắn thả tay ra. Ả lăn sấp lại, đứng dậy và chạy. Lảo đảo mò mẫm, phải mất vài giây ả mới nhận ra mình đang chạy thẳng ra khỏi ngôi nhà gỗ, xa thị trấn, cách xa nhà ga và dọc theo đường ray. Bản năng mách bảo phải tránh xa hắn. Bản năng khiến ả thất vọng. Ả đang chạy xa sự an toàn. Ả nhìn ra sau. Hắn đang đuổi theo. Hoặc ả phải tiếp tục hướng này hoặc là quay lại về phía hắn. Không cách nào có thể lách qua hắn được. Ả cố hét to lên nhưng miệng đầy máu. Ả bị nghẹn, lắp bắp, làm gián đoạn nhịp độ và làm thu hẹp lại chút khoảng cách giữa họ. Hắn sắp bắt kịp. Bỗng nhiên mặt đất bắt đầu rung chuyển. Ả ngước nhìn. Một con tàu chở hàng đang tiến đến, rầmrầm chạy về phía họ, những chụm khói bốc ra từ phía trước bằng sắt cao. Ả giơ cánh tay, vẫy vẫy. Với khoảng cách gần năm trăm mét, thậm chí nếu lái tàu có thấy ả chăng nữa thì cũng chẳng kịp dừng lại đúng lúc. Chỉ có vài giây trước cú đâm sầm. Nhưng ả không chạy khỏi đường tàu, tiếp tục tiến đến nó, chạy nhanh hơn - định chui dưới con tàu. Con tàu không có dấu hiệu dừng lại. Không có tiếng rít phanh kim loại, không có tiếng còi. Ả gần con tàu đến mức những rung chấn gần như lắc ả xuống tận hai bàn chân. Con tàu bắt đầu lao vào ả. Ả lao mình sang bên, tránh đường ray và ngã xuống đống tuyết dày. Đầu máy và đoàn tàu gào rú chạy qua, lay tuyết trên đầu những ngọn cây gần đấy rơi xuống. Nghẹt thở, ả liếc nhìn ra sau, hy vọng kẻ theo đuổi đã bị cắt đuôi, nghiền nát dưới con tàu, hoặc bị mắc kẹt phía bên kia đường ray. Nhưng hắn vẫn bình tĩnh. Hắn đã nhảy về cùng phía với ả và đang nằm trên tuyết. Hắn đứng dậy, lảo đảo về phía ả. Ả nhổ máu trong miệng ra và hét lên: kêu cứu, tuyệt vọng. Đây là tàu chở hàng, không có ai mà nghe hoặc nhìn thấy. Ả đứng dậy và chạy, đến bìa rừng, không chậm đi, đâm xuyên qua những cành cây chìa ra. Ả định đi vòng rồi trở lại đường ray về thị trấn. Ả không thể trốn ở đây: hắn quá gần, ánh trăng sáng quá. Dù ả biết tốt hơn là tập trung mà chạy, nhưng ả cũng không cưỡng nổi cái thôi thúc. Ả phải nhìn. Ả phải biết hắn ở đâu. Ả quay lại. Hắn đã biến mất. Ả không thấy hắn. Còn tàu vẫn rầm rầm chạy qua. Ả hẳn đã mất dấu hắn khi ả vào rừng. Ả đổi hướng, chạy về thành phố, về nơi an toàn. Gã đàn ông từ một gốc cây bước ra, ôm lấy eo ả. Họ ngã nhào xuống tuyết. Hắn nằm trên ả, xé áo ả và chửi rủa. Tiếng hắn không át nổi tiếng tàu nên ả không nghe được. Ả chỉ thấy răng và lưỡi hắn. Rồi ả nhớ ra: ả đã chuẩn bị cho lúc này. Ả cho tay vào túi áo khoác, tìm cái đục đã lấy cắp ở chỗ làm. Trước đây ả đã dùng nó nhưng chỉ để hăm dọa, chỉ để cho thấy ả có thể chống cự nếu cần. Ả cầm chặt cái cán gỗ. Ả chỉ có một cơ hội để làm thôi. Khi hắn để tay lần lên váy ả, ả đâm đầu kim loại vào bên đầu hắn. Hắn ngồi đậy, ôm lấy tai. Ả lại bạt hắn một nhát nữa, cắt bàn tay đang ôm lấy tai. Ả nên đâmliên tiếp, ả nên giết hắn, nhưng mong muốn bỏ chạy quá mạnh mẽ. Ả lùi lại, bò đi như côn trùng, vẫn còn nắm cái đục đầy máu. Gã đàn ông quỳ hai chân hai tay xuống, bò theo ả. Một miếng vành tai hắn rách ra, treo lủng lẳng