🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đồng Tiền Lên Ngôi Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách: Đồng tiền lên ngôi Nguyên tác: The Ascent of Money Tác giả: Niall Ferguson Người dịch: Lê Quốc Phương, Vũ Hoàng Linh Nhà Xuất Bản Thế giới - Nhã Nam © 2015 The Happiness Project #25-NF TVE-4U Read Freely - Think Freedom Thực hiện: Hanhdb, Bún, tamchec Hoàn thành: 05/2017 DỰ ÁN HẠNH PHÚC The Happiness Project #25-NF Hạnh phúc luôn tồn tại xung quanh chúng ta, điều quan trọng ta phải biết nắm bắt, kéo nó về phía mình để đem lại an lành cho bản thân, cho cuộc sống! Cuốn sách này là một niềm vui nhỏ bé chúng tôi muốn dành tặng đến bạn, người đọc ạ! "Hãy nhớ rằng không có hạnh phúc trong sự sở hữu hay sự thâu nhận, mà chỉ có trong sự trao tặng. Hãy mở rộng vòng tay - Hãy chia sẻ - Hãy ghì ôm. Hạnh phúc là một loại nước hoa, mà khi bạn rưới lên những người khác, thế nào cũng có một vài giọt dính trên người bạn." Og Madino LỜI GIỚI THIỆU Tiền, tiền, và tiền... Từ hàng nghìn năm nay tiền luôn gắn liền với cuộc sống con người. Nó trở nên quen thuộc đến nỗi người ta coi sự tồn tại của nó là hiển nhiên. Trong xã hội hiện đại này khó có thể tìm ra một người trưởng thành không biết đến sự tồn tại của tiền, hoặc không biết cách sử dụng tiền. Thật ra, sự tồn tại của tiền hoàn toàn không tự nhiên. Mặc dù không ai biết chính xác tiền xuất hiện từ khi nào, nhưng rõ ràng nó là một khái niệm rất mới trong lịch sử tồn tại của loài người. Có thể nói không ngoa rằng tiền là một phát minh vĩ đại nhất về mặt kinh tế của loài người cho đến nay. Tại sao? Vì tiền là một thước đo chung của mọi loại sản phẩm và dịch vụ. Với thước đo chung này, mọi thứ hàng hóa dịch vụ có thể được quy đổi thành một con số và làm cho việc trao đổi chúng trở nên đặc biệt dễ dàng. Không có tiền, không có nền kinh tế hàng hóa, không có thị trường, không có khoa học công nghệ và xã hội hiện đại. Nhưng tiền không đơn thuần chỉ là... tiền. Với một bà nội trợ khi đi chợ mua thực phẩm, tiền đơn giản là những mảnh giấy do ngân hàng trung ương phát hành có mệnh giá nhất định (tiền mặt) hoặc tiền điện tử dưới dạng thẻ ngân hàng (thẻ ghi nợ - debit hoặc thẻ tín dụng - credit). Với một nhà đầu tư, tiền có thể là nhiều loại tiền mặt (do nhiều ngân hàng trung ương phát hành), vàng, tiền gửi không kỳ hạn trong ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, các giấy tờ sở hữu (nhà cửa, tài sản), các hợp đồng quyền chọn (option), các loại hàng hóa (bạc, nhôm, đồng, thậm chí gạo, lúa mì...) và vô số các công cụ tài chính phức tạp khác. Các loại "tiền" này khác nhau ở tính thanh khoản và có giá quy đổi nhảy múa từng giây từng phút trên các sàn giao dịch. Có thể nói, tiền trong xã hội hiện đại ngày nay là một sản phẩm do con người tạo ra và có quá trình tiến hóa hàng nghìn năm, trở nên đặc biệt phức tạp và có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn đối với xã hội loài người hiện đại. Và như vậy, để tìm hiểu một cách thấu đáo và đầy đủ về tiền là một việc hoàn toàn không đơn giản. Rất may là phần lớn các tri thức này đã được Niall Ferguson hệ thống hóa một cách khoa học và trình bày một cách hấp dẫn trong cuốn sách mà quý vị đang cầm trên tay, cuốn Đồng tiền lên ngôi (The Ascent of Money). Đồng tiền lên ngôi được mở đầu với một phần hướng dẫn bao quát về lịch sử của thế giới với sự phát triển và suy tàn của nhiều mô hình xã hội sử dụng và không sử dụng tiền tệ. Theo tác giả, tiền không đơn thuần là một phương tiện để phục vụ việc trao đổi, giao thương. Với quá trình hình thành được dẫn ngược về các định dạng thô sơ nhất của tiền tệ như những phiến đất sét từng được sử dụng cho việc ghi chép các hoạt động nông nghiệp của khu vực Lưỡng Hà, tiền tệ còn được xem như là "vấn đề của niềm tin, thậm chí là đức tin". Từ đó, tác giả dẫn chúng ta qua các chủ đề về hệ thập phân và phương thức tính lãi, những khái niệm gốc rễ của tài chính hiện đại; sự tham gia của người Do Thái trong lịch sử phát triển tài chính cùng hoạt động cho vay nặng lãi và sau đó là sự đi lên của thế lực tài chính hùng mạnh Medici tại Florence vào thế kỷ 14 và 15; ba phát minh cơ bản được thêm vào mô hình tài chính của nền kinh tế Italia: tiền tệ được tiêu chuẩn hóa, sự hình thành của hệ thống dự trữ theo tỷ lệ (fractional reserve banking), và độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng của ngân hàng trung ương; sự hình thành, phát triển, và suy tàn của hệ thống bản vị vàng để nhường chỗ cho một hệ thống lưu hành giấy bạc ngân hàng dựa trên các khoản tiền gửi ngân hàng và tỷ giá hối đoái thả nổi. Chương 2 bàn về thị trường trái phiếu, các rentier, và lạm phát. Thị trường trái phiếu được cho là cuộc cách mạng vĩ đại thứ hai trong sự lên ngôi của đồng tiền. Thị trường trái phiếu cho phép chính phủ và các tập đoàn lớn thực hiện việc vay mượn từ một nhóm đối tượng rộng rãi và đa dạng hơn ngân hàng. Thời kỳ Phục hưng của Italia và toàn bộ khối châu Âu, chiến tranh được xem là thủy tổ của thị trường trái phiếu. Sự thành công mang tính lịch sử của gia đình Nathan Mayer Rothschild chính là dựa trên sự khôn khéo và nhạy bén trong kinh doanh và việc có một nguồn vốn cùng mạng lưới thông tin tốt hơn nhiều so với những đối thủ khác. Chương 3 đề cập đến các hiện tượng bong bóng trên thị trường tài chính. Tác giả cung cấp một phần phân tích tổng quát cho lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán Mỹ trong giai đoạn từ năm 1979 đến 2008. Giai đoạn này được lựa chọn để nắm bắt được một cách bao quát nhất một chu kỳ từ suy thoái đến sự hình thành bong bóng và điểm vỡ của bong bóng trong thị trường chứng khoán Mỹ. Sử dụng sự nhảy vọt về hoạt động của thị trường chứng khoán trong giai đoạn này, tác giả thể hiện được cổ phiếu, với chức năng là một kênh đầu tư vào các công ty lợi nhuận cao, có tỷ suất lợi nhuận vượt xa trái phiếu. Chương 4 được dành để bàn về rủi ro, bắt đầu bằng khái niệm cơ bản về bảo hiểm với vai trò là một công cụ phòng chống rủi ro trong tương lai. Tác giả chuyển tiếp đến lịch sử của ngành bảo hiểm hiện đại và nguồn gốc của nó từ Scotland. Sự phát triển của ngành này được gắn liền với Robert Wallace, Alexander Webster, và các nghiên cứu về các ý tưởng liên quan đến xác suất, tuổi thọ trung bình, luật số lớn (law of large numbers), phân phối chuẩn, độ thỏa dụng, và phép suy luận Bayes. Chương 5 nói về cuộc chơi bất động sản và các ảnh hưởng của nó đến thị trường tài chính, bắt đầu với lịch sử của trò chơi Cờ tỷ phú và sự say mê của các nước phương Tây đối với bất động sản. Tác giả phân tích sự suy tàn của tầng lớp quý tộc sở hữu bất động sản và sự ra đời của Chính sách Mới (New Deal) cũng như khái niệm bảo lãnh thị trường vay thế chấp mua nhà. Chương cuối cùng (Chương 6) mô tả quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới về thương mại và đầu tư, sự xuất hiện của các nền kinh tế mới nổi, hay theo cách nói của tác giả là mới nổi trở lại (vì thực tế là một số nền kinh tế này trước đây đã có thời kỳ đặc biệt hùng mạnh). Quá trình toàn cầu hóa được mô tả với một lịch sử đầy bạo lực, với các cuộc chiến tranh và sự áp đặt của người Âu lên các phần còn lại của thế giới, các vụ phá sản ở quy mô quốc gia, và các tác động dây chuyền đưa khủng hoảng cục bộ thành khủng hoảng toàn cầu và sự xuất hiện của hai cuộc Thế chiến. Phần kết của cuốn sách là một phần viết đầy lắng đọng. Tác giả tóm lược lại bằng ngôn ngữ cô đọng nhất lịch sử phát triển của tiền tệ và hệ thống tài chính quốc tế, sự không bằng phẳng trong lịch sử của nó với quá nhiều giai đoạn bùng-vỡ cũng như nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này. Đây là phần viết đặc biệt thú vị với những người muốn có một hình dung tổng quát nhanh chóng về nội dung cuốn sách. Nó cũng đi sâu hơn vào một số vấn đề mang tính học thuật và cung cấp cho độc giả một tóm lược về các nghiên cứu kinh tế học và tài chính hiện đại. Tiền tệ là một sản phẩm do con người tạo ra, và chỉ để nhằm phục vụ con người. Lịch sử của nó, cũng giống như lịch sử của con người, là một lịch sử mang tính tiến hóa. Lịch sử này là một lịch sử phát triển, nhưng hoàn toàn không bằng phẳng hay chỉ toàn màu hồng. Nó là một lịch sử đầy những biến động và thậm chí thấm đầy máu. Những sai lầm, đổ vỡ, các cuộc khủng hoảng trong hệ thống tiền tệ, tài chính (và vì thế kinh tế) rõ ràng thể hiện rõ nét bản chất con người trong đó. Với 400 trang sách, Niall Ferguson đã có một công trình đặc biệt thú vị, giới thiệu được một bức tranh toàn cảnh của lịch sử này, qua ngôn ngữ kể chuyện thú vị và các phân tích sâu sắc. Cuốn sách này xứng đáng được đọc và chia sẻ bởi tất cả các bạn đọc Việt Nam quan tâm đến "tiền" - không chỉ ở khía cạnh tiêu dùng nó như thế nào, mà đến cả câu chuyện sâu xa và lịch sử đầy biến động của nó cũng như tầm ảnh hưởng khủng khiếp của nó đến đời sống kinh tế hiện đại. Tiến sĩ Trần Vinh Dự DẪN NHẬP Miếng ăn, tiền mặt, xèng, đồng, bạc, hào... cho dù bạn gọi nó là gì thì tiền vẫn quan trọng. Với người Ki tô giáo, lòng yêu tiền là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Với các vị tướng, tiền là tài lực nuôi chiến tranh; với các nhà cách mạng, nó là gông xiềng của tầng lớp lao động. Nhưng thực sự thì tiền là gì? Có phải nó là một núi bạc như các nhà chinh phục người Tây Ban Nha từng nghĩ? Hay chỉ cần là những phiến đất sét và những tờ giấy in? Làm thế nào mà chúng ta lại sống trong một thế giới nơi hầu hết tiền bạc đều vô hình, không nhiều nhặn gì hơn những con số trên màn hình máy tính? Tiền từ đâu đến? Và chúng đã biến đi đâu? Năm 2007 thu nhập của một người Mỹ trung bình (dưới 34.000 đô la chút ít) chỉ tăng suýt soát 5%.[1] Trong khi đó chi phí sống tăng 4,1%. Như vậy trên thực tế, ông Trung Bình chỉ giàu có hơn trước 0,9%. Nếu tính cả lạm phát, thu nhập của một hộ gia đình tầm trung vị[2] ở Mỹ hầu như không thay đổi kể từ năm 1990 và chỉ tăng có 7% trong suốt mười tám năm qua.[3] Hãy thử so sánh tình trạng của ông Trung Bình với Lloyd Blankfein, giám đốc điều hành Ngân hàng Đầu tư Goldman Sachs. Năm 2007, ông Lloyd nhận được 68,5 triệu đô la tiền lương, tiền thưởng và cổ phiếu thưởng, tăng 25% so với năm trước, và gấp gần 2.000 lần thu nhập của một anh Joe Trung Bình. Cũng cùng năm đấy, doanh thu thuần của Goldman Sachs đạt 46 tỷ đô la, cao hơn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của hơn một trăm quốc gia, trong đó có Croatia, Serbia và Slovenia; Bolivia, Ecuador và Guatemala; Angola, Syria, và Tunisia. Tổng tài sản của ngân hàng này lần đầu tiên vượt mức 1.000 tỷ đô la.[4] Nhưng Lloyd Blankfein còn lâu mới là người kiếm được nhiều nhất trong giới tài chính. Nhà quản lý quỹ phòng hộ kỳ cựu George Soros đã kiếm được 2,9 tỷ đô la. Ông Ken Griffin ở công ty Citadel, cũng như những người sáng lập hai quỹ phòng hộ hàng đầu khác, đã bỏ túi hơn 2 tỷ đô la. Trong khi đó, gần một tỷ người trên thế giới phải sống với thu nhập 1 đô la mỗi ngày.[5] Bạn giận dữ vì thế giới quá bất công ư? Tức tối vì những nhà tư sản kếch xù cùng những chủ nhà băng có lợi tức lên đến tiền tỷ ư? Hoang mang bởi hố ngăn toang hoác giữa kẻ Có, người Không với kẻ Chơi du thuyền ư? Bạn không phải là người duy nhất mang tâm trạng đó. Trong suốt lịch sử văn minh phương Tây, thường xuyên có một mối thù hằn đối với ngành tài chính và những nhà tài chính, bắt nguồn từ quan niệm cho rằng những ai kiếm sống bằng nghề cho vay tiền đều phần nào là những kẻ ăn bám trên các hoạt động kinh tế "thực thụ" trong nông nghiệp và công nghiệp. Sự thù hằn này có ba lý do. Một phần là bởi vì các con nợ thường đông đảo hơn các chủ nợ và con nợ thường hiếm khi có thiện cảm với chủ nợ. Một phần khác là bởi vì các cuộc khủng hoảng tài chính và bê bối tài chính xảy ra thường xuyên tới mức tạo ra ấn tượng rằng hoạt động tài chính là lý do dẫn tới nghèo đói chứ không phải giàu sang, dẫn tới biến động chứ không phải ổn định. Và một phần nữa là bởi vì, trong nhiều thế kỷ, dịch vụ tài chính ở các nước trên thế giới được cung cấp một cách bất tương xứng bởi những thành viên của một vài cộng đồng thiểu số xét về mặt dân tộc hay tôn giáo, những người đã bị tước mất quyền sở hữu đất đai hay các chức vụ nhà nước, nhưng lại đạt được thành công trong ngành tài chính nhờ các hệ thống gắn kết chặt chẽ dựa trên cơ sở họ hàng và lòng tin. Bất chấp các thành kiến thâm căn cố đế của chúng ta đối với "đồng tiền bẩn thỉu", tiền vẫn là gốc rễ cho hầu hết tiến bộ. Biến tấu một câu nói của Jacob Bronowski[6](mà hồi còn là học sinh, tôi thường chăm chú xem chương trình ti vi tuyệt vời của ông về lịch sử tiến bộ khoa học) thì sự lên ngôi của đồng tiền là điều thiết yếu cho sự lên ngôi của con người. Khác xa với công việc của những kẻ bóc lột chỉ biết hút máu các gia đình nợ nần hay đánh bạc bằng tiền tiết kiệm của đám mẹ góa con côi, những sáng kiến tài chính là nhân tố không thể thiếu được trong bước tiến của loài người từ mức sống khốn khổ lên những đỉnh cao huy hoàng của sự thịnh vượng vật chất mà nhiều người hôm nay được hưởng. Cuộc tiến hóa của tín dụng và cho vay nợ cũng quan trọng không kém bất cứ phát minh khoa học kỹ thuật nào trong sự trưởng thành của văn minh nhân loại, từ Babylon cổ đại cho tới Hồng Kông ngày nay. Các ngân hàng và thị trường trái phiếu tạo ra nền tảng vật chất cho sự huy hoàng của thời Phục hưng ở Italia. Tài chính doanh nghiệp là nền tảng không thể thiếu cho cả đế quốc của người Hà Lan và người Anh, cũng như thắng lợi của nước Mỹ trong thế kỷ 20 không thể tách rời khỏi những tiến bộ trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính thế chấp mua nhà và tín dụng tiêu dùng. Và có lẽ, một cuộc khủng hoảng tài chính sẽ là thứ báo hiệu ngày tàn đối với vai trò đứng đầu toàn cầu của nước Mỹ. Đằng sau mỗi hiện tượng lịch sử vĩ đại là một bí mật tài chính, và cuốn sách này ra đời nhằm làm sáng tỏ những bí mật quan trọng nhất trong số đó. Lấy ví dụ, thời Phục hưng tạo ra sự bùng nổ trong thị trường các tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc bởi lẽ các chủ ngân hàng Italia như dòng họ Medici tạo ra cả gia tài nhờ áp dụng toán học phương Đông vào tiền tệ. Cộng hòa Hà Lan chiếm thế thượng phong trước Đế chế Habsburg bởi vì việc sở hữu thị trường chứng khoán đầu tiên trên thế giới có ưu thế hơn so với việc sở hữu mỏ bạc lớn nhất thế giới. Các vấn đề của vương triều Pháp không thể giải quyết được nếu không có một cuộc cách mạng bởi vì một kẻ sát nhân từng bị kết án người Scotland đã làm sụp đổ hệ thống tài chính Pháp qua việc gây ra sự kiện bong bóng vỡ đầu tiên trên thị trường chứng khoán. Vai trò của Nathan Rothschild cũng quan trọng không kém vai trò của công tước Wellington trong chiến bại của Napoléon tại Waterloo. Chính sự dại dột về tài chính, một vòng quay chết chóc của vỡ nợ và phá giá, đã khiến Argentina từ nước giàu thứ sáu thế giới trong thập niên 1880 trở thành nước có lạm phát leo thang không gượng dậy được trong thập niên 1980. Đọc cuốn sách này bạn sẽ hiểu tại sao, thật là nghịch lý, những người sống ở quốc gia an toàn nhất thế giới cũng là những người được bảo hiểm nhiều nhất trên thế giới. Bạn sẽ phát hiện ra từ bao giờ và tại sao những dân tộc nói tiếng Anh lại mang nỗi ám ảnh kỳ quặc với việc mua bán nhà. Có lẽ điều quan trọng hơn cả là bạn sẽ thấy quá trình toàn cầu hóa tài chính, cùng với nhiều hệ quả khác, đã xóa nhòa ranh giới ngày xưa giữa các thị trường phát triển và các thị trường mới nổi như thế nào, biến Trung Quốc trở thành chủ ngân hàng của nước Mỹ - chủ nợ cộng sản của con nợ tư bản, một sự đổi thay có tầm thời đại. Có những khi sự lên ngôi của đồng tiền dường như là không thể nào khác được. Trong năm 2006, sản lượng kinh tế toàn thế giới được ước lượng vào khoảng 47 nghìn tỷ đô la. Tổng giá trị vốn hóa thị trường trên các thị trường chứng khoán thế giới đạt 51 nghìn tỷ đô la, cao hơn 10%. Tổng giá trị trái phiếu trong nước và quốc tế đạt 68 nghìn tỷ đô la, cao hơn 50%. Giá trị các loại chứng khoán phái sinh (derivative) đang lưu hành đạt 473 nghìn tỷ đô la, nhiều hơn mười lần tổng sản lượng kinh tế. Hành tinh Tài chính đang khiến Hành tinh Trái đất trở nên còi cọc. Và Hành tình Tài chính dường như cũng xoay nhanh hơn. Mỗi ngày có hai nghìn tỷ đô la được giao dịch trên các thị trường ngoại hối. Mỗi tháng có bảy nghìn tỷ đô la được giao dịch trên các thị trường chứng khoán toàn cầu. Mỗi phút trong mỗi giờ trong mỗi ngày trong mỗi tuần, luôn có một ai đó ở nơi nào đó đang giao dịch. Và các hình thức tài chính mới luôn được tạo ra. Lấy ví dụ, trong năm 2006, khối lượng các cuộc thôn tính dùng đòn bẩy tài chính (dùng vốn vay để mua lại các hãng) tăng vọt lên tới 753 tỷ đô la. Sự bùng nổ "chứng khoán hóa", nhờ đó các khoản nợ riêng lẻ như vay thế chấp mua nhà được "cắt lát", rồi gộp lại với nhau và tái đóng gói để bán ra, đã khiến cho tổng giá trị phát hành hằng năm của các loại chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp mua nhà, chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản và các cam kết nợ có thế chấp (collateralised debt obligation - CDO) đạt trên ba nghìn tỷ đô la. Khối lượng hợp đồng phái sinh - tức là các hợp đồng dựa trên chứng khoán, chẳng hạn như hợp đồng hoán đổi lãi suất (interest rate swap) hay hợp đồng hoán đổi rủi ro vỡ nợ tín dụng (credit default swap) - còn tăng nhanh hơn, đến nỗi tới cuối năm 2007, giá trị danh nghĩa của các công cụ phái sinh phi tập trung ("over-the-counter")[7](tức là ngoài các công cụ được mua bán trên các sàn giao dịch tự do) đã đạt gần 600 nghìn tỷ đô la. Trước thập niên 1980, người ta hầu như không biết tới các công cụ tài chính này. Các định chế tài chính mới cũng sinh sôi nảy nở. Quỹ phòng hộ đầu tiên được thành lập vào thập niên 1940, và cho tới những năm 1990 mới chỉ có 610 quỹ như vậy, quản lý 38 tỷ đô la. Hiện nay đã có tới hơn 7.000 quỹ, quản lý số tiền 1,9 nghìn tỷ đô la. Các công ty cổ phần tư nhân cũng sinh sôi nảy nở, cùng với một hệ thống ngân hàng ngầm (shadow banking system) thông qua các "pháp nhân ống dẫn"[8]và các "pháp nhân đầu tư được cơ cấu hóa" (structured investment vehicle – SIV[9], được đặt ra để tách các tài sản nhiều rủi ro khỏi bảng cân đối của ngân hàng. Nếu như trong bốn thiên niên kỷ qua, người ta đã được chứng kiến sự lên ngôi của con người tư duy, thì ngày nay chúng ta dường như đang sống trong thời lên ngôi của con người hoạt động ngân hàng. Năm 1947, tổng giá trị gia tăng mà khu vực tài chính đóng góp chiếm 2,3% tổng sản phẩm quốc nội của nước Mỹ; tới năm 2005, phần đóng góp của khu vực này đã lên tới 7,7% GDP. Nói cách khác, hiện nay cứ trong mỗi 13 đô la trả cho người làm công ở Mỹ thì xấp xỉ 1 đô la được trả cho những người làm việc trong ngành tài chính.[10] Ở Anh, tài chính còn đóng vai trò quan trọng hơn khi năm 2006 nó đóng góp tới 9,4% GDP. Khu vực tài chính cũng là cực hút mạnh mẽ nhất trên thế giới đối với các tài năng học thuật. Hồi năm 1970, chỉ có khoảng 5% những người tốt nghiệp Đại học Harvard, nơi tôi đang giảng dạy, vào làm trong ngành tài chính. Tới năm 1990, con số này đã lên tới 15% [11]. Tỷ lệ này năm ngoái (2007) còn cao hơn nữa. Theo tờ Harvard Crimson, hơn 20% nam giới tốt nghiệp năm 2007 và 10% nữ giới trông đợi công việc đầu tiên của mình là trong ngành ngân hàng. Nhưng ai có thể trách họ? Trong những năm gần đây, cả lương và tiền thưởng trong ngành tài chính cao gần gấp ba lần tiền lương của những sinh viên tốt nghiệp các trường trong nhóm Ivy League[12]làm trong các khu vực khác của nền kinh tế. Vào thời điểm lứa sinh viên khóa 2007 tốt nghiệp, có vẻ như không gì có thể ngán cản được sự đi lên không ngừng của nền tài chính toàn cầu. Kể cả cuộc tấn công khủng bố ở New York và London. Kể cả chiến sự dữ dội ở Trung Đông. Lại càng không phải là sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Bất chấp việc Trung tâm Thương mại Thế giới bị phá hủy, bất chấp các cuộc xâm lược Afghanistan và Iraq và sự tăng vọt của các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, giai đoạn từ cuối năm 2001 tới giữa năm 2007 được đánh dấu bằng sự mở rộng không ngừng các hoạt động tài chính. Đúng là ngay sau khi xảy ra thảm họa 11/9, Chỉ số Trung bình Công nghiệp Dow Jones giảm tới 14%. Nhưng chỉ sau đó hai tháng, chỉ số này đã lấy lại được mức tương đương thời điểm trước ngày 11/9. Hớn nữa, cho dù 2002 là một năm đáng thất vọng đối với các nhà đầu tư cổ phiếu Mỹ, thị trường sau đấy đã tăng điểm và vượt qua mức đỉnh trước đó (ở thời điểm cao trào cơn điên cuồng "dot com") vào mùa thu năm 2006. Tới đầu tháng 10/2007, chỉ số Dow Jones đạt ở mức gần gấp đôi mức đáy của năm năm trước. Và sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán Mỹ không phải là hiện tượng ngoại lệ. Trong năm năm tính tới ngày 31/7/2007, tất cả các thị trường cổ phiếu trên thế giới, chỉ trừ có hai thị trường, đều có lợi nhuận hằng năm ở mức hai chữ số. Trái phiếu của các thị trường mới nổi cũng tăng mạnh mẽ và các thị trường bất động sản, nhất là tại các nước nói tiếng Anh, đều có được sự tăng vốn đáng kể. Bất kể các nhà đầu tư bỏ tiền vào hàng hóa, tác phẩm nghệ thuật, rượu vang lâu năm hay các loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản kỳ quái, họ đều kiếm được tiền. Làm thế nào để giải thích các hiện tượng kỳ lạ này? Theo một trường phái tư duy, các sáng kiến tài chính mới nhất đã cải thiện về căn bản tính hiệu quả của thị trường vốn toàn cầu; cho phép rủi ro được phân bổ cho những bên có khả năng gánh chịu nó tốt nhất. Những người nhiệt tâm nói tới sự cáo chung tính biến động của thị trường. Các nhà quản lý ngân hàng tự mãn tổ chức hội thảo với các nhan đề như "Sự tiến hóa của thành tựu". Vào tháng 11/2006, tôi có mặt trong một hội thảo như vậy được tổ chức tại căn phòng sang trọng của câu lạc bộ Lyford Cay trên quần đảo Bahamas. Đề tài bài phát biểu của tôi là vấn đề rất dễ xảy ra sự sụt giảm lượng thanh khoản lúc đó đang tràn trề chảy qua hệ thống tài chính toàn cầu, và chúng ta cần cẩn trọng khi nghĩ rằng thời kỳ tốt đẹp sẽ kéo dài mãi mãi. Các thính giả tỏ ra không ấn tượng gì với bài phát biểu này. Họ cho rằng tôi là một kẻ thích đánh động. Một trong các nhà đầu tư giàu kinh nghiệm bậc nhất có mặt tại đó thậm chí còn đề nghị ban tổ chức năm sau, "không mời diễn giả bên ngoài, thay vào đó làm một suất chiếu bộ phim Mary Poppins”.[13] Việc nhắc tới Mary Poppins đã đánh thức một ký ức thời thơ ấu của tôi. Những người hâm mộ Julie Andrews có lẽ cũng nhớ rằng cốt truyện của bộ phim ca nhạc trẻ mãi ấy xoay quanh một sự kiện tài chính đã kịp mang vẻ cổ lỗ vào thập niên 1960 khi bộ phim được sản xuất: một cuộc rút tiền hàng loạt - khi những người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng rút tiền. Người ta đã không còn thấy hiện tượng nào như thế ở London kể từ năm 1866. Không phải ngẫu nhiên mà gia đình mướn Mary Poppins có tên là Banks. Ông Banks quả thật là một người làm ngân hàng, nhân viên cấp cao của Ngân hàng ủy thác Dawes, Tomes Mousley, Grubbs, Fidelity. Do ông này nài nỉ, lũ trẻ nhà Banks một ngày nọ được bà trông trẻ mới dẫn tới ngân hàng của ông, tại đây ông Dawes khuyên con trai ông Banks, cậu Michael, gửi tiết kiệm số tiền tiêu vặt của cậu (mặc dù trong túi cậu chỉ có đồng hai xu). Thật không may, cậu Michael trẻ tuổi muốn dùng số tiền này để mua thức ăn cho lũ bồ câu ở ngoài ngân hàng, và đòi ông Dawes, "Trả đây! Trả tiền của cháu đây!" Không may hơn nữa, một số người khách khác của ngân hàng nghe thấy lời khẩn khoản của Michael. Kết quả là họ bắt đầu rút tiền của mình. Chẳng mấy chốc, một toán các chủ tài khoản thi nhau rút tiền, khiến ngân hàng phải ngừng việc thanh toán. Bị sa thải một cách thích đáng, ông Banks phải bật lên tiếng than vãn đầy bi thảm rằng ông đã bị "làm cho tan nát và sụp đổ khi đang ở đỉnh cao". Những lời này có lẽ cũng thích đáng nếu đặt vào miệng Adam Applegarth, cựu giám đốc điều hành ngân hàng Northern Rock ở nước Anh. Ông này đã gặp phải tình cảnh tương tự vào tháng 9/2007 khi khách hàng lũ lượt xếp hàng trước các chi nhánh ngân hàng của ông ta để rút tiền. Việc này diễn ra sau thông báo rằng Northern Rock đã cầu viện tới "hỗ trợ thanh khoản" từ Ngân hàng Anh. Cuộc khủng hoảng tài chính giáng xuống thế giới phương Tây mùa hè năm 2007 là lời nhắc nhở kịp thời về một trong các chân lý vĩnh hằng của lịch sử tài chính. Không sớm thì muộn mọi bong bóng đều vỡ. Không sớm thì muộn số người bán khi giá hạ sẽ nhiều hơn số người mua khi giá lên. Không sớm thì muộn lòng tham sẽ trở thành nỗi sợ. Thời điểm tôi hoàn thành nghiên cứu cho cuốn sách này vào những tháng đầu năm 2008, khả năng nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái đã hiện ra rõ rệt. Có phải bởi vì các công ty Mỹ ngày càng kém trong việc thiết kế các sản phẩm mới? Hay bởi vì tốc độ đổi mới công nghệ đột nhiên chậm lại? Không. Lý do gần nhất của tình trạng bất ổn kinh tế năm 2008 là nằm ở ngành tài chính: nói chính xác hơn, đó là một cơn co thắt trên thị trường tín dụng, do tình trạng không trả được nợ leo thang ở một loại hình nợ được biết đến với cái tên mỹ miều là các khoản vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn (subprime mortgage). Hệ thống tài chính toàn cầu của chúng ta đã trở nên tinh vi tới mức các gia đình tương đối nghèo tại những bang từ Alabama tới Wisconsin có thể mua hay tái thế chấp nhà ở của họ bằng những khoản vay thường là phức tạp. Những khoản vay này sau đó sẽ được gộp vào với những khoản vay tương tự (mà các gia đình này không được biết), sau đó được tái đóng gói thành các cam kết nợ có thế chấp (CDO), được các ngân hàng ở New York và London bán lại cho các ngân hàng địa phương ở Đức, các chính quyền thành phố ở Na Uy - những nơi này mới thực sự là những người cho vay thế chấp nhà ở. Các CDO này được chia nhỏ tới độ người ta có thể cam đoan rằng "cấp" lãi suất thu từ những người đi vay ban đầu cũng đáng tin cậy không kém tiền lãi từ trái phiếu kỳ hạn mười năm của Bộ Tài chính Mỹ, và do đó xứng đáng được xếp hạng tín dụng AAA. Công nghệ giả kim tài chính đã đạt tới độ tinh xảo mới, đủ để có thể biến chì thành vàng. Thế nhưng, khi các khoản vay mua nhà thế chấp ban đầu được ấn định lại ở mức lãi suất cao hơn sau khi kết thúc giai đoạn một hay hai năm "dùng thử", nhiều người vay bắt đầu vỡ nợ. Đây là dấu hiệu cho thấy bong bóng bất động sản ở Mỹ bắt đầu vỡ, gây ra mức sụt giảm giá nhà mạnh nhất kể từ những năm 1930. Những gì xảy ra sau đó giống như một phản ứng dây chuyền diễn ra chậm chạp nhưng có sức tàn phá ghê gớm. Tất cả các loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản, kể cả nhiều công cụ tài chính trên thực tế không bảo đảm bằng thế chấp dưới chuẩn, đã sụt giảm giá trị nghiêm trọng. Các tổ chức tài chính như "ống dẫn" và "pháp nhân đầu tư được cơ cấu hóa" do các ngân hàng lập ra để giữ các chứng khoán này nằm ngoài bảng cân đối đều ở trong tình trạng hết sức khó khăn. Với việc mua vào số chứng khoán đó, tỷ lệ giữa vốn và tài sản của các ngân hàng rót xuống gần mức tối thiểu theo luật định. Các ngân hàng trung ương ở Mỹ và châu Âu tìm cách làm giảm áp lực lên các ngân hàng thông qua việc cắt giảm lãi suất và hỗ trợ cho vay bằng các "chương trình đấu giá có kỳ hạn" đặc biệt. Thế nhưng, vào thời điểm viết cuốn sách này (tháng 5/2008), lãi suất mà các ngân hàng được phép vay tiền, cho dù dưới hình thức phát hành thương phiếu, bán trái phiếu hay vay mượn lẫn nhau, vẫn cao hơn đáng kể so với lãi suất mục tiêu của quỹ Dự trữ Liên bang, cũng là mức lãi suất cho vay tối thiểu trong nền kinh tế Mỹ. Những khoản vay ban đầu dự tính dành cho các doanh nghiệp hợp doanh tư nhân để họ mua lại các công ty thì nay cũng chỉ có thể bán ra ở mức chiết khấu cao. Do gánh chịu những tổn thất nặng nề, nhiều ngân hàng nổi tiếng của Mỹ và châu Âu đã không chỉ cầu cứu ngân hàng trung ương các nước phương Tây để vay các khoản hỗ trợ ngắn hạn nhằm tái lập dự trữ, mà còn quay sang các quỹ lợi ích quốc gia (sovereign wealth fund) của các nước châu Á và Trung Đông nhằm được bổ sung vốn cổ phần để tái thiết vốn cơ sở. Tất cả những điều này dường như đầy bí ẩn với một số độc giả. Nhưng tỷ lệ vốn trên tài sản của các ngân hàng, cho dù nghe có vẻ mang tính chuyên môn, có nhiều ý nghĩa trong thực tiễn chứ không chỉ trong sách vở. Dù thế nào đi nữa, người ta cũng đã nhất trí đổ lỗi cho vụ "đại co cụm" trong hệ thống ngân hàng Mỹ, coi đó là lý do dẫn tới sự bùng phát và tiến triển của cuộc Đại Suy thoái 1929-1933, thảm họa kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại.[14] Nếu các ngân hàng Mỹ thực sự đánh mất nhiều hơn nhiều con số 255 tỷ đô la, mà hiện nay họ thừa nhận, do khủng hoảng vay mua nhà thế chấp dưới chuẩn và đổ vỡ tín dụng, thì có một nguy cơ thực thụ là sự đổ vỡ tín dụng phải ở mức độ lớn hơn nhiều - có thể là gấp mười lần - mới đủ để khiến cho bảng cân đối của các ngân hàng sụt giảm tương ứng với mức giảm vốn của chúng. Nếu cuộc khủng hoảng này quét sạch hoàn toàn hệ thống ngân hàng ngầm bao gồm các khoản nợ được chứng khoán hóa và các tổ chức nằm ngoài bảng cân đối, thì sự đổ vỡ tín dụng còn phải nghiêm trọng hơn nữa. Điều này có hệ lụy không chỉ với nước Mỹ mà với cả thế giới, bởi lẽ sản lượng của Mỹ hiện nay chiếm hơn một phần tư tổng sản lượng toàn cầu, trong khi nhiều nền kinh tế châu Âu và nhất là châu Á vẫn phụ thuộc nặng nề vào thị trường Mỹ cho các sản phẩm xuất khẩu. Châu Âu hiện nay dường như cũng sắp phải trải qua cuộc suy giảm có quy mô tương tự như ở Mỹ, đặc biệt tại một số nước (như Anh và Tây Ban Nha) vừa trải qua những bong bóng nhà đất tương tự. Khả năng châu Á có thể thoát khỏi ảnh hưởng của suy thoái Mỹ, tương tự như nước Mỹ từng thoát khỏi cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-98, tới nay vẫn chưa rõ ràng. Điều chắc chắn là những nỗ lực của Cục Dự trữ Liên bang nhằm giảm thiểu sự đổ vỡ tín dụng bằng cách cắt giảm lãi suất và tăng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Mỹ hiện đang tạo ra sức ép xuống giá nặng nề đối với giá trị đối ngoại của đồng đô la. Việc đồng đô la mất giá trùng hợp với tăng trưởng công nghiệp liên tục của châu Á đã làm giá hàng hóa tăng vọt ở mức tương đương với thập niên 1940 chứ không chỉ là 1970. Không quá khi nói rằng vào giữa năm 2008, chúng ta đã chứng kiến các triệu chứng lạm phát của một cuộc chiến tranh thế giới trong khi không hề có cuộc chiến tranh thế giới nào. Nếu như ai đó đọc đoạn văn trên mà không cảm thấy lo lắng gì thì chắc hẳn người ấy không hiểu nhiều về lịch sử tài chính. Do vậy, một trong những mục đích của cuốn sách này là giáo dục nhận thức. Có một thực tế phổ biến là một tỷ lệ đáng kể công chúng ở các nước nói tiếng Anh không hiểu gì về tài chính. Theo một cuộc điều tra vào năm 2007, bốn trong số mười chủ thẻ tín dụng ở Mỹ không trả hết số tiền nợ đến hạn hằng tháng của thẻ mà họ sử dụng thường xuyên nhất, cho dù mức lãi suất âm mà các công ty thẻ tín dụng áp dụng là hết sức cao. Gần một phần ba (29%) nói rằng họ không biết mức lãi suất trên thẻ của họ là bao nhiêu. 30% khác cho rằng nó thấp hơn 10%, trong khi trên thực tế hầu hết các công ty thẻ tín dụng áp dụng mức lãi suất cao hơn đáng kể so với con số 10%. Hơn một nửa số người được phỏng vấn trả lời rằng họ được dạy "không nhiều lắm" hay "không có tí nào" về các vấn đề tài chính ở nhà trường.[15] Một cuộc điều tra năm 2008 cho thấy hai phần ba người Mỹ không hiểu lãi suất kép được tính như thế nào.[16] Trong cuộc điều tra do các nhà nghiên cứu ở Trường Quản trị thuộc Đại học Buffalo tiến hành, một nhóm học sinh lớp 12 chỉ đạt điểm 52 trên 100 khi trả lời các câu hỏi về tài chính cá nhân và kinh tế.[17] Chỉ có 14% biết rằng cổ phiếu có xu hướng tạo ra lợi tức sau 18 năm nhiều hơn trái phiếu chính phủ Mỹ. Chưa đến 23% biết rằng sẽ đánh thuế thu nhập trên tiền lãi thu được từ tài khoản tiết kiệm nếu như thu nhập của chủ tài khoản lên tới một mức nào đó. Đến 59% không phân biệt được sự khác nhau giữa lương hưu công ty, Bảo hiểm xã hội và chương trình 401(k)[18]. Đây cũng không phải là hiện tượng chỉ có ở Mỹ. Năm 2006, Cơ quan Điều chỉnh và Giám sát Dịch vụ Tài chính Anh (Financial Services Authority) tiến hành điều tra về hiểu biết tài chính của công chúng. Điều tra này cho thấy một phần năm số người được hỏi không biết sức mua của các khoản tiết kiệm của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao với các tỷ lệ lạm phát 5% và lãi suất 3%. Chỉ có một phần mười số người được hỏi biết được mức giảm giá nào tốt hơn cho một chiếc ti vi được định giá ban đầu 250 bảng: giảm 30 bảng hay 10%. Ví dụ trên cho thấy, các câu hỏi nêu ra trong những cuộc điều tra này đều hết sức cơ bản. Như vậy có thể giả định rằng chỉ có một số ít trong số những người được điều tra có thể phân biệt được, chẳng hạn, sự khác nhau giữa quyền chọn bán (put option) và quyền chọn mua chứng khoán (call option). Và sẽ còn ít người hơn nữa có thể phân biệt được sự khác nhau giữa CDO và CDS. Các chính trị gia, các ngân hàng trung ương và các nhà kinh doanh thường than phiền về sự thiếu hiểu biết của công chúng về tiền tệ, và điều đó có cơ sở. Một xã hội kỳ vọng hầu hết cá nhân chịu trách nhiệm tự quản lý chi tiêu và thu nhập sau thuế của mình, kỳ vọng hầu hết người trưởng thành đều có nhà riêng mà lại để cho cá nhân xác định cần tiết kiệm bao nhiêu để nghỉ hưu, có nên đóng bảo hiểm y tế hay không, chắc chắn sẽ tích lũy khó khăn cho tương lai khi để cho các công dân được trang bị kiến thức nghèo nàn đưa ra những quyết định tài chính cần đến sự khôn ngoan. Bước đầu tiên để hiểu sự phức tạp của các tổ chức tài chính hiện đại và thuật ngữ tài chính là tìm hiểu nguồn gốc của chúng. Một khi đã hiểu được nguồn gốc của một tổ chức hay công cụ tài chính, bạn sẽ hiểu được vai trò hiện tại của nó dễ dàng hơn nhiều. Do đó, các bộ phận then chốt của hệ thống tài chính hiện đại sẽ được lần lượt trình bày. Chương đầu tiên trong cuốn sách này lần theo sự lên ngôi của tiền tệ và tín dụng; Chương 2 đề cập tới thị trường trái phiếu; và Chương 3 về thị trường cổ phiếu. Chương 4 thuật lại câu chuyện về bảo hiểm; Chương 5 về thị trường bất động sản; và Chương 6 về sự thăng, trầm rồi lại thăng của tài chính quốc tế. Mỗi chương sẽ nhắm vào một câu hỏi lịch sử quan trọng. Vào lúc nào tiền không còn là kim loại mà biến thành tiền giấy, trước khi biến mất hẳn? Có phải với việc đặt ra lãi suất dài hạn, thị trường trái phiếu sẽ thống trị thế giới? Vai trò của các ngân hàng trung ương ra sao trong các bong bóng trên thị trường cổ phiếu và khi các bong bóng này vỡ? Tại sao bảo hiểm không nhất thiết là cách thức tốt nhất để bảo vệ bạn khỏi rủi ro? Có phải người ta phóng đại những lợi ích của việc đầu tư vào bất động sản? Có phải sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Trung Hoa và Mỹ là chìa khóa cho sự ổn định tài chính toàn cầu, hay đó chỉ là con quái vật truyền thuyết? Với việc cố gắng trình bày lịch sử tài chính từ thời Lưỡng Hà cổ đại cho tới tài chính vi mô hiện đại, chắc hẳn tôi đã đặt ra cho mình một công việc bất khả thi. Rất nhiều nội dung sẽ bị bỏ qua để đảm bảo sự súc tích và đơn giản. Thế nhưng công việc này cũng đáng làm nếu nó có thể khiến hệ thống tài chính hiện đại trở nên rõ ràng hơn trong tâm trí của một bạn đọc bình thường. Bản thân tôi cũng học được rất nhiều điều khi viết cuốn sách này, trong đó có ba điều nổi bật. Thứ nhất là nghèo khổ không phải là kết quả của việc các nhà tài phiệt tham lam bóc lột người nghèo. Nó liên quan nhiều hơn tới việc thiếu các tổ chức tài chính, thiếu vắng các ngân hàng chứ không phải có mặt chúng. Chỉ khi người đi vay có thể tiếp cận được các mạng lưới tín dụng hiệu quả thì họ mới có thể thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ cho vay nặng lãi, và chỉ khi người tiết kiệm có thể gửi tiền của mình vào các ngân hàng đáng tin cậy thì đồng tiền mới có thể luân chuyển từ những kẻ giàu có ăn không ngồi rồi tới những người nghèo khổ chăm chỉ. Luận điểm này không chỉ áp dụng cho các nước nghèo trên thế giới. Nó cũng đúng với những khu vực dân cư nghèo khổ nhất ở các nước phát triển - được biết đến như "những châu Phi trong lòng thế giới phát triển" - chẳng hạn như các khu dân cư ở nơi tôi sinh ra, Glasgow, nhiều người sống lay lắt chỉ với 6 bảng mỗi ngày và phải chi tiêu cho tất cả mọi thứ từ kem đánh răng cho tới phương tiện đi lại, trong khi lãi suất từ bọn cho vay nặng lãi trong vùng có thể lên tới hơn 11 triệu phần trăm một năm. Điều quan trọng thứ hai mà tôi nhận ra liên quan tới bình đẳng và bất bình đẳng. Nếu như hệ thống tài chính có một khiếm khuyết thì đó là nó phản ánh và khuếch đại chính loài người chúng ta. Theo những gì chúng ta đang học được từ những nghiên cứu ngày một nhiều trong lĩnh vực tài chính hành vi thì tiền tệ khuếch đại xu hướng phản ứng thái quá của chúng ta, xu hướng đánh đu từ trạng thái hân hoan khi tình hình tốt đẹp sang trạng thái não nề ủ dột khi tình hình bất lợi. Các cú bùng và vỡ bong bóng có căn nguyên sâu xa từ sự dễ biến động trong tình cảm của con người. Nhưng tài chính cũng khoét sâu những khác biệt giữa chúng ta, nó đem lại sự giàu có cho những người may mắn, khôn ngoan và làm bần cùng những người kém may mắn và không khôn ngoan lắm. Toàn cầu hóa tài chính có nghĩa là, sau thời kỳ chia rẽ kéo dài hơn ba trăm năm, thế giới không còn có thể được chia ra một cách rõ ràng thành các nước phát triển giàu có và các nước kém phát triển nghèo khổ nữa. Khi các thị trường tài chính trên thế giới càng hội nhập hơn thì cơ hội cho những người hiểu biết tài chính sẽ ngày càng lớn, cho dù họ có sống ở đâu, đồng thời rủi ro nghèo đi của những người thiếu hiểu biết tài chính sẽ gia tăng. Đó nhất định không phải là một thế giới phẳng nếu căn cứ vào sự phân phối thu nhập nói chung, bởi lẽ lợi tức trên vốn đã tăng cao hơn hẳn so với thu nhập của lao động không có kỹ năng và có kỹ năng thấp. Phần thưởng cho việc "khôn ra" chưa bao giờ lại lớn đến thế. Và đòn phạt cho sự thiếu hiểu biết tài chính cũng chưa bao giờ khắc nghiệt đến vậy. Cuối cùng, tôi hiểu được rằng hiếm có thứ gì lại khó dự đoán chính xác như thời điểm và quy mô của các cuộc khủng hoảng tài chính, bởi vì hệ thống tài chính quả thực rất phức tạp và rất nhiều mối quan hệ trong hệ thống này là phi tuyến tính, thậm chí là hỗn loạn. Sự lên ngôi của đồng tiền chưa bao giờ thuận buồm xuôi gió cả, và mỗi thách thức mới lại gây ra một phản ứng đối phó mới từ những người làm ngân hàng và hội cùng thuyền với họ. Giống như chân trời ở vùng núi Andes, lịch sử tài chính chưa bao giờ là một đồ thị đi lên trơn tru mà là một chuỗi hình răng cưa với những đỉnh và đáy không đồng đều. Hay, ví von theo cách khác, lịch sử tài chính tựa như một trường hợp tiến hóa cổ điển đang diễn biến, mặc dù nó xảy ra trong khung thời gian ngắn hơn nhiều so với tiến hóa trong thế giới tự nhiên. "Giống như có một số loài bị tuyệt chủng trong tự nhiên," Trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ Anthony W. Ryan đã phát biểu trước Quốc hội tháng 9/2007, "một số công cụ tài chính mới sẽ trở nên kém hiệu quả hơn các công cụ khác." Ngôn ngữ kiểu Darwin như thế dường như hết sức thích đáng vào thời điểm tôi viết cuốn sách này. Có thật là chúng ta đang ở bên bờ vực của "cái chết hàng loạt" trong thế giới tài chính - một trong những sự tuyệt chủng hàng loạt xảy ra có tính định kỳ, giống như sự tuyệt chủng cuối kỷ Cambri đã giết chết 90% loài trên trái đất, hay thảm họa kỷ Phấn Trắng-kỷ Đệ Tam đã xóa sổ khủng long? Đây là một kịch bản mà nhiều nhà sinh vật học có lý do để lo sợ, bởi vì biến đổi khí hậu do con người gây ra đã gieo rắc những hiểm họa tới môi trường sống tự nhiên trên toàn cầu. Nhưng cái chết hàng loạt của các tổ chức tài chính cũng là một kịch bản mà chúng ta phải lo ngại, vì nó là một thảm họa khác cũng do con người gây ra, quét qua hệ thống tài chính toàn cầu một cách chậm rãi và đau đớn. Vì tất cả những lý do này, dù bạn đang phải mệt mỏi lo mưu sinh hằng ngày hay đang phấn đấu trở thành chủ nhân của vũ trụ, thì bạn cũng cần hiểu được sự lên ngôi của đồng tiền trong thời đại này hơn bao giờ hết. Nếu cuốn sách này góp phần phá vỡ rào cản nguy hiểm đã dựng lên giữa kiến thức tài chính và các loại kiến thức khác thì công sức tôi bỏ ra sẽ không vô ích. Chương 1 NHỮNG GIẤC MỘNG THAM LAM Hãy tưởng tượng một thế giới không có tiền. Trong hơn một trăm năm qua, những người theo chế độ công hữu và những người vô chính phủ - đó là chưa kể bọn phản động cực đoan, những người theo tôn giáo cực đoan cùng những tay hippy - đã mơ mộng một thế giới như thế. Theo Friedrich Engels và Karl Marx, tiền chỉ là công cụ cho sự bóc lột tư bản, nó thay thế tất cả mối quan hệ của con người, ngay cả quan hệ trong gia đình, bằng "quan hệ đồng tiền" tàn nhẫn. Như Marx sau đó tìm cách chứng minh trong cuốn Tư bản, tiền là lao động được biến thành hàng hóa, là giá trị thặng dư do lao động trung thực tạo ra, bị tước đoạt rồi "vật chất hóa" nhằm thỏa mãn ước vọng tích lũy vô độ của giai cấp tư sản. Những quan điểm như vậy không dễ gì mất đi. Cho tới tận thập kỷ 1970, một số người cộng sản ở châu Âu vẫn ao ước một thế giới không có tiền tệ, như được mô tả đầy hứng khởi theo kiểu không tưởng trên tờ Socialist Standard (Ngọn cờ xã hội chủ nghĩa): Tiền tệ sẽ mất đi... Vàng có thể được dự trữ như Lenin mong muốn, để xây dựng các nhà vệ sinh công cộng... Trong các xã hội cộng sản, hàng hóa sẽ luôn có sẵn và miễn phí. Tổ chức xã hội cho tới tận gốc rễ sẽ không dùng tiền... Ham muốn điên rồ và loạn óc về tiêu dùng và tích lũy sẽ biến mất. Việc tích lũy sẽ trở thành ngớ ngẩn: sẽ không còn có tiền để mà để dành hay người làm công để mà thuê mướn... Những con người mới sẽ giống như những tổ tiên đi săn bắt và hái lượm của họ, tin tưởng thế giới tự nhiên sẽ cung cấp cho họ miễn phí và thừa mứa những gì họ cần để sống, và họ sẽ không còn phải lo lắng cho tương lai...[19] Thế nhưng không có nhà nước cộng sản nào - thậm chí cả Bắc Triều Tiên - nhận thấy việc bãi bỏ tiền tệ là thực tế.[20] Chỉ cần xem xét qua các xã hội săn bắt-hái lượm cũng đủ thấy cuộc sống không có tiền tệ sẽ có những bất lợi đáng kể. Năm năm trước đây, các thành viên của bộ lạc Nukak-Makú bất ngờ đi lang thang ra khỏi rừng mưa Amazon gần San Jose del Guaviare ở Colombia. Người Nukak là một bộ lạc bị thời gian lãng quên, bị tách rời khỏi phần còn lại của nhân loại cho tới khi họ xuất hiện đột ngột lần đó. Họ sinh sống hoàn toàn dựa vào những con khỉ săn được và những trái cây lượm được mà không có khái niệm gì về tiền. Họ cũng không có cả khái niệm về tương lai. Ngày nay, họ sống ở một khoảng rừng thưa gần thành phố, nhờ vào trợ cấp của chính quyền. Khi được hỏi họ có nhớ rừng không, họ cười. Sau nhiều đời lê bước cả ngày tìm kiếm cái ăn, họ ngạc nhiên khi giờ đây có những người hoàn toàn xa lạ cung cấp cho họ tất cả những gì họ cần và không đòi hỏi thứ gì từ họ cả.[21] Cuộc sống của một người săn bắt-hái lượm thực sự "đơn độc, nghèo khổ, dơ dáy, thô lỗ và ngắn ngủi", giống như mô tả của Thomas Hobbes về thế giới tự nhiên. Tất nhiên là ở một số khía cạnh nhất định, lang thang trong rừng giết khỉ có thể dễ chịu hơn là lao động vất vả trong một nền nông nghiệp tự cấp tự túc. Nhưng các nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng, các bộ lạc săn bắt-hái lượm còn sống sót đến thời hiện đại thường không hiền hòa như người Nukak. Chẳng hạn, với người Jivaro ở Ecuador, gần 60% cái chết của đàn ông là do bạo lực. Con số này với người Yanomamo ở Brazil là gần 40%. Khi hai nhóm người nguyên thủy tình cờ gặp nhau, có nhiều khả năng họ sẽ đánh nhau để tranh giành nguồn lực khan hiếm (lương thực và phụ nữ có khả năng sinh đẻ) hơn là trao đổi thương mại với nhau. Những người săn bắt-hái lượm không buôn bán. Họ cướp đoạt. Họ cũng không để dành mà tiêu thụ thức ăn ngay khi họ tìm thấy chúng. Do đó, họ không cần tới tiền. Núi tiền Cũng đã có những xã hội tân tiến hơn người Nukak không dùng tới tiền, điều này có thật. Năm trăm năm trước đây, xã hội tân tiến nhất Nam Mỹ, Đế quốc Inca, là một xã hội phi tiền tệ. Người Inca đánh giá cao những đặc tính thẩm mỹ của các kim loại quý hiếm. Vàng là "mồ hồi của mặt trời", bạc là "nước mắt của mặt trăng". Lao động là đơn vị tính giá trị trong Đế quốc Inca, cũng như sau này nó được giả định trong xã hội cộng sản. Và cũng giống như trong xã hội cộng sản, nền kinh tế của Đế quốc Inca phụ thuộc vào việc lên kế hoạch tập trung, thường là cứng nhắc, và lao động bắt buộc. Thế nhưng vào năm 1532, Đế quốc Inca lụn bại bởi một người, mà cũng như Christopher Columbus, đến Tân Thế giới để tìm kiếm và biến thứ kim loại quý giá kia thành tiền tệ.[22] Francisco Pizarro, con trai ngoài giá thú của một viên đại tá Tây Ban Nha, đã vượt Đại Tây Dương để tìm kiếm của cải vào năm 1502.[23] Là một trong những người Âu đầu tiên vượt eo đất Panama để tới Thái Bình Dương, ông dẫn đầu chuyến đầu tiên trong ba chuyến viễn chinh tới Peru năm 1524. Địa hình rất khó khăn, thực phẩm khan hiếm và những người bản xứ đầu tiên họ gặp tỏ ra thù địch. Thế nhưng, việc đoàn viễn chinh thứ hai của họ được chào đón tại vùng Tumbes, nơi các cư dân bản xứ chào họ là "những đứa con của mặt trời", đã thuyết phục Pizarro và các đồng sự của ông ta tiếp tục thám hiểm. Trở lại Tây Ban Nha để nhận sự phê chuẩn của triều đình cho kế hoạch "mở rộng đế quốc Castile"[24]và trở thành "Thống đốc Peru", Pizarro đã huy động được 3 tàu, 27 con ngựa và 180 người, được trang bị vũ khí mới nhất của châu Âu: súng và nỏ tự động.[25] Đoàn viễn chinh thứ ba căng buồm rời Panama ngày 27/12/1530. Những người chinh phục chỉ mất chưa đến hai năm để đạt được mục tiêu của mình: một trận đối đầu với Atahuallpa, một trong hai người con đang tranh giành nhau của hoàng đế Inca Huayna Capac mới qua đời. Sau khi bác bỏ đề nghị tuân phục sự cai trị Kitô giáo từ thầy dòng Vincente Valverd và ném Kinh Thánh xuống đất một cách khinh bỉ, Atahuallpa chỉ có thể đứng nhìn người Tây Ban Nha, chủ yếu dựa vào nỗi khiếp hãi mà những con ngựa của họ gây ra (loài vật người Inca chưa hề biết đến), tiêu diệt quân đội của mình. Bởi người Tây Ban Nha ít quân hơn hẳn người Inca, đây thực sự là một kết quả đảo lộn đáng kinh ngạc. [26] Atahuallpa nhanh chóng nhận ra mục đích tìm kiếm của Pizarro và tìm cách mua tự do cho mình bằng đề nghị chất đầy căn phòng nơi ông ta đang bị giam giữ bằng vàng (một lần) và bạc (hai lần). Tính toàn bộ, trong những tháng sau đó người Inca đã thu thập 13.420 pound (6.087 kg) vàng 22 carat và 26.000 pound (11.793 kg) bạc nguyên chất.[27] Dẫu vậy, Pizarro vẫn quyết định xử tử tù nhân của mình và Atahuallpa bị thắt cổ công khai vào tháng 8 năm 1533.[28] Với sự sụp đổ của thành phố Cuzco, Đế quốc Inca bị xé nát trong một trận cướp bóc thả cửa của người Tây Ban Nha. Bất chấp cuộc nổi dậy của Manco Capac, kẻ bị coi là bù nhìn của Pizarro vào năm 1536, ách thống trị của Tây Ban Nha đã được thiết lập vững chắc và được biểu tượng hóa bằng việc xây dựng một kinh đô mới là Lima. Đế quốc Inca chính thức bị giải thể vào năm 1572. Bản thân Pizarro cũng chết bằng bạo lực như khi ông ta sống. Ông ta bị đâm tới chết tại Lima năm 1541 sau khi cãi nhau với một người đi chinh phục như mình. Nhưng di sản ông ta để lại cho hoàng gia Tây Ban Nha thậm chí còn vượt xa cả mơ ước của chính ông. Những người Tây Ban Nha đi chinh phục bị hấp dẫn bởi huyền thoại về El Dorado, một vị vua người da đỏ mà theo đồn đại thì che phủ thân mình bằng bụi vàng vào những dịp lễ lạt. Tại nơi mà quân của Pizarro gọi là Thượng Peru, một vùng đất hoang vu toàn núi và sương mù mà những ai không quen với độ cao sẽ phải thở gấp, họ tìm thấy một thứ quý giá ngang thế. Tại đỉnh núi cao 4.824 mét so với mực nước biển, đỉnh Cerro Rico - cái tên có nghĩa là "đồi giàu có" - đối xứng tới mức kỳ lạ, họ tìm thấy hiện thân tối thượng của những gì linh nghiệm nhất trong mọi ý tưởng về tiền tệ: một ngọn núi chứa toàn quặng bạc rắn. Khi một người da đỏ tên là Diego Gualpa phát hiện ra năm vỉa bạc lớn ở nơi đây năm 1545, anh ta đã làm thay đổi lịch sử kinh tế thế giới.[29] Người Inca không thể hiểu được nỗi khao khát vô độ đối với vàng và bạc luôn chi phối người châu Âu. 'Thậm chí nếu tất cả tuyết trên dãy Andes biến thành vàng, họ vẫn không thỏa mãn," Manco Capac đã than phiền như thế. [30] Người Inca không hiểu rằng, đối với Pizarro và người của ông ta, bạc không chỉ là một thứ kim loại trang trí, sáng lấp lánh. Nó có thể biến thành tiền: một đơn vị kế toán, vật trữ giá trị - thứ quyền lực có thể mang theo người. Để khai thác mỏ, người Tây Ban Nha trước tiên dựa vào việc trả lương cho dân cư sống ở các làng gần đấy. Nhưng các điều kiện khắc nghiệt tới nỗi kể từ cuối thế kỷ 16, họ đã phải thiết lập hệ thống lao động cưỡng bức (la mita), trong đó đàn ông tuổi từ 18 tới 50 ở mười sáu tỉnh cao nguyên phải đi phu lao động mười bảy tuần mỗi năm.[31] Tỷ lệ tử vong đối với các thợ mỏ thật khủng khiếp, một phần lớn là bởi tiếp xúc thường xuyên với khói thủy ngân do quy trình tinh chế ngoài trời, khi quặng bạc đào lên được nghiền nát vụn thành một hỗn hợp cùng với thủy ngân, sau đó được rửa và đun nóng để thủy ngân bốc hơi.[32] Không khí dưới hầm mỏ thời đó (và cả bây giờ) rất độc hại, thợ mỏ phải xuống các giếng sâu 700 bộ (213 mét) trên những bậc thang sơ sài, rồi leo lên lại sau nhiều giờ đào xới với các bao tải chứa quặng đeo trên lưng. Các vụ đá rơi đã giết chết và làm bị thương hàng trăm người. Theo lời của Domingo de Santo Tomás, thành phố Potosí với con sốt khai thác bạc mới xuất hiện là "miệng của địa ngục, nơi có vô số người bước vào mỗi năm và bị lòng tham lam của người Tây Ban Nha đem hiến sinh cho 'vị thần' của họ". Rodrigo de Loaisa gọi các mỏ này là các "hố địa ngục" và nhận xét "nếu hai mươi người da đỏ khỏe mạnh bước vào đấy hôm thứ Hai, một nửa sẽ đi ra què cụt vào ngày thứ Bảy".[33] Thầy tu Fray Antonio de la Calancha dòng Augustine viết năm 1638: "Mỗi đồng peso được đúc ở Potosí lấy đi mạng sống của mười người da đỏ vùi xác sâu dưới những hầm mỏ." Khi lực lượng lao động bản xứ kiệt quệ, hàng nghìn nô lệ châu Phi được mang đến để thay thế vị trí của họ như những "con la người". Thậm chí ngày nay vẫn còn có cái gì đó giống như địa ngục trong những giếng lò và đường hầm ngột ngạt ở Cerro Rico. Đỉnh Cerro Rico Ở Potosí: núi tiền của Đế quốc Tây Ban Nha Tuy là nơi chết chóc cho những người bị bắt buộc làm việc tại đây nhưng Potosí lại là mỏ của cải cho Tây Ban Nha. Từ năm 1556 tới năm 1783, "đồi giàu có" này đã cung cấp 45.000 tấn bạc nguyên chất. Số bạc này được chuyển thành các thanh bạc và tiền xu tại Casa de Moneda (xưởng đúc tiền) rồi được vận chuyển tới Seville. Bất chấp không khí loãng và khí hậu khắc nghiệt, Potosí nhanh chóng trở thành một trong những thành phố chính của Đế quốc Tây Ban Nha, với dân số ở thời đỉnh cao vào khoảng từ 160.000 tới 200.000 người, đông hơn hầu hết các thành phố châu Âu vào thời gian đó. Valer un potosí, "đáng giá một potosí" hiện nay vẫn là thành ngữ trong tiếng Tây Ban Nha ý nói đáng giá một kho của. Có vẻ như cuộc chinh phục của Pizarro đã khiến cho vương triều Tây Ban Nha giàu có vượt cả những giấc mộng tham lam. Người ta thường cho rằng tiền là một phương tiện trao đổi, có ưu điểm khắc phục tính thiếu hiệu quả trong giao dịch hàng đổi hàng; là đơn vị kế toán, tạo điều kiện cho việc định giá và tính toán; là vật trữ giá trị, cho phép các giao dịch kinh tế được diễn ra trong những khoảng thời gian dài cũng như vượt qua những khoảng cách địa lý. Để thực hiện tất cả các chức năng này một cách tốt nhất, tiền cần phải có mặt ở mọi nơi, dễ dàng có được, bền chắc, có thể thay thế, có thể mang đi và đáng tin cậy. Vì thỏa mãn được gần như tất cả các tiêu chí này, những kim loại như vàng, bạc và đồng được xem là những nguyên liệu tiền tệ lý tưởng. Những đồng xu đầu tiên được biết đến xuất hiện từ khoảng năm 600 TCN và được các nhà khảo cổ học tìm thấy tại đền thờ Artemis ở Ephesus (gần Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay). Những đồng tiền xứ Lydia hình trứng này được làm từ hợp kim của vàng và bạc (electrum) và được khắc hình đầu sư tử. Chúng là tiền thân của đồng tetradrachm (đồng 4 drachm) của thành Athens, loại đồng xu bạc được tiêu chuẩn hóa mang hình đầu nữ thần Athena ở một mặt và hình con cú (gắn với nữ thần Athena bởi trí khôn của nó) ở mặt bên kia. Đến thời La Mã, người ta đúc tiền xu bằng ba loại kim loại: aureus (vàng), denarius (bạc) và sestertius (đồng). Các đồng xu này được xếp thứ tự như trên căn cứ vào mức độ hiếm của các kim loại, nhưng tất cả đều mang hình đầu của hoàng đế đang trị vì ở mặt này, và hai nhân vật truyền thuyết Romulus và Remus[34] ở mặt bên kia. Đồng xu không chỉ là sản phẩm của riêng vùng Địa Trung Hải cổ đại nhưng rõ ràng chúng xuất hiện đầu tiên ở nơi này. Mãi cho tới năm 221 TCN, tiền xu bằng đồng được tiêu chuẩn hóa mới xuất hiện ở Trung Quốc dưới triều đại của vị Hoàng đế đầu tiên: Tần Thủy Hoàng. Trong mỗi trường hợp, tiền xu làm từ kim loại quý đều được gắn với những vị vua hùng mạnh, những người giữ độc quyền đúc tiền với mục đích một phần là khai thác nó như một nguồn thu. Hệ thống tiền xu của La Mã còn thọ hơn cả bản thân đế chế La Mã. Giá cả vẫn được tính bằng các đồng denarius bạc dưới thời Charlemagne, vua của người Frank từ năm 768 tới 814. Nhưng vào thời điểm Charlemagne được phong danh hiệu Hoàng đế (Imperator Augustus) vào năm 800 thì xảy ra tình trạng thiếu hụt kinh niên kim loại bạc ở Tây Âu. Nhu cầu tiền lớn hơn ở các trung tâm thương mại phát triển cao hơn trong Đế quốc Hồi giáo đang thống trị Nam Địa Trung Hải và Cận Đông khiến cho thứ kim loại quý hiếm này có xu hướng chảy ra khỏi khu vực châu Âu chậm phát triển. Tiền denarius khan hiếm dưới thời Charlemagne tới mức chỉ cần hai mươi tư đồng bạc này là đủ để mua được một con bò dưới triều đại Carolingian. Ở một số vùng của châu Âu, người ta dùng hồ tiêu và da sóc để thay thế tiền tệ; ở những vùng khác, pecunia[35]chuyển nghĩa là ruộng đất chứ không còn là đồng tiền. Để khắc phục khó khăn này, người châu Âu có một trong hai cách. Họ có thể xuất khẩu lao động và hàng hóa, trao đổi nô lệ và gỗ để lấy bạc ở Baghdad hay lấy vàng châu Phi ở Cordoba và Cairo. Hoặc họ có thể cướp đoạt các kim loại quý giá này bằng cách tiến hành chiến tranh với thế giới Hồi giáo. Trong các cuộc Thập tự chinh, cũng như những cuộc chinh phục sau đó, mục đích khắc phục khó khăn tiền tệ của châu Âu cũng quan trọng không kém gì việc biến những kẻ dị giáo thành người Kitô giáo.[36] Thập tự chinh là công việc tốn kém mà lợi ích ròng lại khiêm tốn. Để giải quyết những khó khăn tiền tệ của mình, các chính quyền thời trung đại và cận đại đã thất bại trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề mà các nhà kinh tế gọi là vấn đề lớn về tiền lẻ: đó là khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ ổn định giữa các loại tiền được làm từ kim loại khác nhau. Điều này có nghĩa là những đồng tiền có mệnh giá nhỏ dễ bị rơi vào tình trạng thiếu hụt kinh niên, nhưng cũng lại dễ bị mất giá và làm giả.[37] Tại Potosí và những nơi khác ở Tân Thế giới, nơi họ tìm thấy lượng bạc dồi dào (đáng chú ý là Zacatecas ở Mexico), những kẻ chinh phục người Tây Ban Nha dường như đã phá vỡ được sự hạn chế trong nhiều thế kỷ. Người được hưởng lợi đầu tiên tất nhiên là vương triều Castile, kẻ bảo trợ cho những cuộc chinh phục này. Các đoàn tàu vận chuyển, có lúc lên tới 100 tàu, đã đưa 170 tấn bạc mỗi năm vượt qua Đại Tây Dương để cập bến ở Seville. Một phần năm tất cả những gì làm ra thuộc về hoàng gia, và số tiền này chiếm tới 44% tổng chi phí của hoàng gia vào thời điểm kỷ lục ở giai đoạn cuối thế kỷ 16.[38] Nhưng cách người Tây Ban Nha tiêu tiền cũng đảm bảo rằng của cải mới tìm thấy của Tây Ban Nha sẽ khiến cho toàn bộ lục địa châu Âu nhận được sự kích thích tiền tệ. "Đồng tám" của Tây Ban Nha được làm ra dựa vào đồng thaler của Đức (là gốc của chữ dollar - "đô la" sau này) và trở thành đồng tiền toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Nó không chỉ được chi cho những cuộc chiến tranh kéo dài của Tây Ban Nha ở châu Âu mà còn cho quan hệ thương mại đang phát triển nhanh chóng giữa châu Âu với châu Á. Dẫu thế, tất cả bạc ở Tân Thế giới không thể khiến nước Cộng hòa Hà Lan bất trị phải quỳ gối, không thể khiến nước Anh phải quy phục vương triều Tây Ban Nha, cũng không thể cứu Tây Ban Nha khỏi sự suy thoái không thể tránh khỏi của nền kinh tế và của cả đế quốc. Cũng như vua Midas, các vị vua Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 là Charles V và Philip II nhận ra rằng việc dư thừa thứ kim loại quý báu không chỉ là ân sủng mà còn là tai họa. Lý do là gì? Họ đã đào quá nhiều bạc để chi trả cho những cuộc chiến tranh chinh phục của mình, khiến cho thứ kim loại này sụt giảm giá trị nghiêm trọng dựa trên cơ sở tương quan sức mua với các hàng hóa khác. Trong cuộc "cách mạng giá cả" ảnh hưởng đến toàn châu Âu từ những năm 1540 tới 1640, giá thực phẩm - từng không có xu hướng tăng trong ba trăm năm trước đó - đã tăng mạnh. Tại Anh (nước mà chúng tôi có số liệu về giá đầy đủ nhất), chi phí sống đã tăng bảy lần trong khoảng thời gian này. So với tiêu chuẩn hiện nay thì đây không phải là mức lạm phát cao (trung bình khoảng 2% mỗi năm), nhưng đây là mức tăng khá cao giá bánh mì theo tiêu chuẩn thời Trung Cổ. Trong lòng Tây Ban Nha, việc dư thừa bạc cũng là một "tai ương tài nguyên" giống như việc dư thừa dầu hỏa ở bán đảo Ả Rập, Nigeria, Ba Tư, Nga và Venezuela trong thời hiện đại. Nó làm suy giảm động cơ của hoạt động kinh tế sản xuất, trong khi củng cố sức mạnh của những nhà độc tài thu lợi nhờ vào phí tổn của các hội đồng đại diện cho người dân (trong trường hợp Tây Ban Nha là Cortes tức nghị viện).[39] Người Tây Ban Nha đã không hiểu rằng giá trị của thứ kim loại quý giá không phải là tuyệt đối. Tiền chỉ có giá trị bằng cái mà người khác sẵn lòng trao cho bạn để đổi lấy nó. Gia tăng lượng cung tiền không làm xã hội giàu hơn, cho dù việc đó có thể làm giàu cho một chính phủ nắm độc quyền sản xuất tiền. Với điều kiện những thứ khác không đổi, mở rộng lượng cung tiền sẽ chỉ khiến giá cả gia tăng. Quả thực không có lý do nào ngoài sự tình cờ của lịch sử khiến cho trong thời gian rất lâu trong tâm trí người phương Tây, tiền tệ đồng nghĩa với kim loại. Ở Lưỡng Hà thời cổ đại, từ khoảng 5.000 năm trước, người ta đã sử dụng các vật tượng trưng bằng đất sét để ghi nhận các giao dịch liên quan tới nông sản như lúa mạch hay len, hoặc dùng các kim loại như bạc. Nhẫn bạc, bạc khối hay bạc miếng hẳn đã từng đóng vai trò như tiền mặt (và cả thóc cũng vậy), nhưng các tấm đất sét cũng quan trọng như thế, và có thể còn quan trọng hơn. Ngày nay vẫn có rất nhiều tấm còn nguyên vẹn và chúng nhắc nhở rằng vào lúc con người bắt đầu ghi chép lại các hoạt động của mình, họ làm như vậy không phải để viết lịch sử, thi ca hay triết học mà để làm ăn.[40] Chúng ta không thể không kinh ngạc khi cầm lấy những công cụ tài chính cổ xưa ấy. Mặc dù chỉ được làm bằng đất thô sơ, chúng vẫn tồn tại lâu hơn nhiều so với những đồng bạc được đúc ở Potosí. Một tấm đất sét được bảo quản hết sức tốt từ thành phố Sippar (ngày nay là Tell Abu Habbah ở Iraq) có niên đại từ thời trị vì của vua Ammi-ditana (1683-1647 TCN), trên đó viết rằng người cầm tấm đất sét sẽ nhận được một lượng lúa mạch nhất định vào mùa thu hoạch. Một tấm khác, được khắc dưới thời trị vì của nhà vua kế vị, vua Ammi-saduqa, ra lệnh rằng người mang nó sẽ được nhận một lượng bạc nhất định vào cuối cuộc hành trình.[41] Một tấm đất sét từ thiên niên kỷ 2 TCN ở Lưỡng Hà, mặt trước (ảnh trên) và mặt sau (ảnh trang bên). Chữ khắc trên đó viết rằng Amil-mirra sẽ trả 330 đơn vị lúa mạch cho người mang tấm đất sét này vào mùa thu hoạch. Nếu các khái niệm cơ bản đó đều có vẻ quen thuộc với chúng ta, thì phần nào là bởi tờ giấy bạc ngân hàng (banknote) hiện đại cũng có chức năng tương tự. Hãy nhìn vào những dòng chữ mầu nhiệm trên bất cứ tờ tiền giấy nào của Ngân hàng Anh: "Tôi hứa sẽ trả cho người mang giấy này theo yêu cầu số tiền là..." ("I promise to pay the bearer on demand the sum of...") Giấy bạc ngân hàng (bắt nguồn từ Trung Quốc vào thế kỷ 7) là những mẩu giấy gần như không có giá trị tự thân. Chúng chỉ là các lời hứa chi trả (và do đó tên gọi ban đầu của nó ở phương Tây là "hứa phiếu" - promissory note [42]), tương tự các tấm đất sét của Babylon cổ đại vào bốn thiên niên kỷ trước đó. Ở mặt sau đồng 10 đô la có dòng chữ "Chúng ta tin vào Thượng đế", nhưng người mà bạn thực sự tin khi nhận một tờ tiền như vậy là người kế tục công việc của người đàn ông ở mặt trước tờ bạc (Alexander Hamilton, Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên của Hoa Kỳ). Vào thời điểm viết cuốn sách này thì nhân vật đó là Henry M. Paulson Con, người tiền nhiệm của Lloyd Blankfein trong vị trí giám đốc điều hành ngân hàng Goldman Sachs. Khi một người Mỹ trao đổi hàng hóa hay lao động của mình để lấy một "nắm" đô la, anh ta thực ra đang tin tưởng rằng "Hank" Paulson (và cả Chủ tịch Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ Ben Bernake nữa) sẽ không lặp lại sai lầm của Tây Ban Nha trong việc sản xuất quá nhiều tiền giấy, khiến cuối cùng chúng không có giá trị gì nhiều hơn giá trị của mảnh giấy mà chúng được in trên đó. Ngày nay, bất chấp thực tế là sức mua của đồng đô la đã giảm sút đáng kể trong năm mươi năm qua, chúng ta vẫn khá hài lòng với tiền giấy, không kể tới tiền xu là thứ trên thực tế được làm từ đồ đồng nát. Chúng không phải là những vật trữ giá trị. Ngạc nhiên hơn nữa, chúng ta hài lòng với những thứ tiền mà chúng ta thậm chí không nhìn thấy. Ngày nay, tiền điện tử có thể rời khỏi người thuê mướn chúng ta, đến tài khoản ngân hàng của chúng ta, đến các cửa hàng bán lẻ yêu thích của chúng ta mà có khi chẳng cần phải hiện hữu bằng vật chất. Chính loại tiền "ảo" này hiện đang thống trị cái mà các nhà kinh tế gọi là cung tiền. Tiền mặt mà những người Mỹ bình thường giữ chỉ chiếm 11% tổng lượng cung tiền được gọi là M2. Tính chất phi vật chất của hầu hết tiền tệ ngày nay có lẽ là bằng chứng tốt nhất cho bản chất thực sự của nó. Những người đi chinh phục đã không hiểu được rằng tiền là vấn đề của niềm tin, thậm chí là đức tin: tin vào người chi trả; tin vào người phát hành tiền hay vào tổ chức sẽ chấp nhận tờ séc hoặc các khoản chuyển khoản của người chi trả. Tiền không nhất thiết phải là kim loại. Nó là sự tín nhiệm được ghi dấu. Và việc ghi dấu vào đâu không quá quan trọng: có thể vào đất sét, vào giấy, vào một màn hình tinh thể lỏng. Bất cứ cái gì cũng có thể trở thành tiền tệ, từ vỏ những con ốc sứ trên quần đảo Maldives tới những chiếc đĩa bằng đá khổng lồ trên quần đảo Yap ở Thái Bình Dương[43]. Và ngày nay, trong thời đại điện tử thì dường như một thứ vô hình cũng có thể trở thành tiền tệ. Mối quan hệ trung tâm kết tinh trong tiền tệ là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Hãy nhìn lại những tấm đất sét ở Lưỡng Hà. Các giao dịch được ghi lại trên đó là việc trả nợ những hàng hóa đã cho vay; những tấm này hiển nhiên được người cho vay ghi lên và giữ lại (thường chúng được đặt trong những bình đất sét được niêm phong) để lưu lại số nợ và ngày trả nợ. Hệ thống cho vay của Babylon cổ đại rõ ràng đã khá phức tạp. Các khoản nợ có thể được chuyển nhượng, vì thế người ta viết "trả cho người mang" chứ không phải cho một chủ nợ có tên tuổi rõ ràng. Các phiếu chứng nhận bằng đất sét hay hối phiếu (draft) được phát cho những người gửi ngũ cốc hay các hàng hóa khác tại cung điện hay đền đài. Người cho vay phải trả lãi (khái niệm này có lê bắt nguồn từ sự gia tăng tự nhiên đàn gia súc) với mức lãi suất thường lên tới 20%. Các bài tập toán từ thời trị vì của Hammurabi (1792-1750 TCN) cho thấy người ta có thể đã áp dụng lãi suất kép với các khoản cho vay dài hạn. Nhưng nền tảng của tất cả những điều này nằm ở mức độ tin cậy trong lời hứa chi trả của người đi vay. (Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Anh, gốc của từ "tín dụng" (credit) lại là credo, có nghĩa là "tôi tin" trong tiếng Latin.) Những người vay nợ có thể được xóa nợ theo định kỳ - trên thực tế, Luật Hammurabi quy định xóa nợ ba năm một lần - nhưng điều này có lẽ không ngăn cản việc làm ăn của những người cho vay cá nhân hay công cộng với kỳ vọng hợp lý rằng họ sẽ nhận lại được tiền của mình.[44] Trái lại, xu hướng lâu dài ở Lưỡng Hà thời cổ đại là mở rộng tài chính khu vực tư nhân. Tới thế kỷ 6 TCN, các gia đình như nhà Egibi ở Babylon đã trở thành các chủ đất và chủ nợ đầy thế lực, với các lợi ích thương mại trải dài tới Uruk cách đấy hơn 100 dặm về hướng nam và tràn vào Ba Tư về hướng đông. Hàng nghìn tấm đất sét còn tồn tại từ thời đó cho chúng ta biết số người đã trở thành con nợ của nhà Egibi vào lúc này hay lúc khác. Việc gia đình này thịnh vượng trong năm đời cho thấy nhìn chung họ đều thu lại được các khoản cho vay của mình. Sẽ không hoàn toàn chính xác khi nói rằng tín dụng được phát minh ra ở Lưỡng Hà cổ đại. Hầu hết các khoản cho vay ở Babylon chỉ là các khoản tiền ứng trước đơn giản từ các nhà kho thuộc hoàng gia hay tôn giáo. Khi ấy vẫn chưa có tín dụng theo nghĩa hiện đại như sẽ được thảo luận ở cuối chương này. Mặc dù vậy, đây là bước khởi đầu quan trọng. Nếu thiếu đi nền tảng đi vay và cho vay thì lịch sử kinh tế thế giới sẽ khó lòng khởi sắc. Và nếu không có mạng lưới ngày càng phát triển của mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ thì kinh tế toàn cầu ngày nay sẽ bị ngừng lại. Trái ngược với bài hát nổi tiếng trong vở nhạc kịch Cabaret, tiền không làm trái đất quay tròn theo nghĩa đen. Nhưng nó khiến cho một số lượng khổng lồ những con người, hàng hóa và dịch vụ di chuyển vòng quanh thế giới. Điều đáng ngạc nhiên là ý tưởng về tín dụng bắt rễ rất chậm chạp và lừng khừng ở chính vùng đất mà nó đã phát triển hết sức ngoạn mục. Những kẻ cho vay nặng lãi Bắc Italia vào đầu thế kỷ 13 là một vùng đất được chia thành nhiều thị quốc xung khắc lẫn nhau. Trong số những gì còn sót lại của Đế quốc La Mã đã mất có hệ thống chữ số (I, II, III, IV...) rất không phù hợp với các tính toán phức tạp về mặt toán học, chưa nói tới nhu cầu thương mại. Không ở đâu mà điều này lại trở thành một vấn đề như ở Pisa, nơi các thương nhân phải vất vả với bảy loại tiền xu khác nhau trong giao dịch. Qua so sánh, đời sống kinh tế tại thế giới phương Đông - trong vương triều Hồi giáo Abassid hay tại nước Trung Hoa thời nhà Tống - tiên tiến hơn nhiều so với phương Tây, tương tự như dưới thời Charlemagne trước đó. Để khám phá ra tài chính hiện đại, châu Âu cần nhập khẩu nó. Vai trò thiết yếu trong việc này thuộc về một nhà toán học trẻ tuổi tên là Leonardo thành Pisa, hay Fibonacci. Là con trai của một viên chức thuế quan thành Pisa làm việc tại vùng đất nay là Bejaia thuộc Algeria, chàng Fibonacci trẻ tuổi từng say sưa với thứ mà anh ta gọi là "phương pháp Ấn Độ" trong toán học - một sự kết hợp giữa những hiểu biết sâu xa của người Ấn Độ và người Ả Rập. Fibonacci du nhập các ý tưởng này và tạo ra cuộc cách mạng trong cách thức người châu Âu đếm số. Ngày nay, ông được nhớ đến nhiều nhất nhờ dãy số Fibonacci (0, 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21...), trong đó mỗi số tiếp theo là tổng của hai số trước đó, và tỷ lệ giữa một số với số liền trước nó sẽ tiến dần tới "tỷ lệ vàng" (gần bằng 1,618). Đây là một xu hướng phản ánh nhiều đặc tính lặp lại thường thấy trong thế giới tự nhiên (ví dụ như trong hình học phân dạng [fractal] ở dương xỉ và vỏ ốc).[45] Nhưng dãy Fibonacci chỉ là một trong số nhiều ý tưởng toán học phương Đông được giới thiệu với châu Âu trong cuốn sách mở đường Liber Abaci "Sách về tính toán" được xuất bản năm 1202 của ông. Trong tác phẩm này, độc giả có thể tìm thấy các lý giải về phân số, cũng như khái niệm giá trị hiện tại (giá trị chiết khấu hiện tại của một dòng doanh thu trong tương lai).[46] Quan trọng hơn cả là việc Fibonacci giới thiệu hệ thống chữ số Hindu-Ả Rập. Ông không chỉ trao cho châu Âu hệ thập phân, có tác dụng giúp cho mọi loại tính toán trở nên dễ dàng hơn nhiều so với hệ thống chữ số La Mã; ông còn chỉ ra cách thức áp dụng hệ này trong hạch toán thương mại, quy đổi tiền tệ, và quan trọng hơn cả, trong việc tính lãi. Nhiều ví dụ trong Liber Abaci trở nên sinh động hơn nhờ được diễn giải qua các ví dụ về hàng hóa như da thuộc, hạt tiêu, pho mát, dầu và hương liệu. Đây chính là ứng dụng của toán học trong việc kiếm tiền, và đặc biệt là trong việc cho vay tiền. Một ví dụ điển hình trong cuốn sách này như sau: Một người đặt 100 bảng tại một nhà [của thương nhân] để nhận lấy tiền lãi 4 denarius trên mỗi bảng mỗi tháng và anh ta nhận lại sau mỗi năm khoản tiền là 30 bảng. Bạn phải tính toán số vốn và lợi nhuận bị giảm hằng năm dựa trên số tiền 30 bảng nói trên. Bạn cần tính xem anh ta sẽ gửi được số tiền này trong bao nhiêu năm, tháng, ngày và giờ... Các trung tâm thương mại của Italia như thành phố Pisa, quê hương của Fibonacci, và thành Florence đã chứng tỏ chúng là mảnh đất màu mỡ cho những hạt giống tài chính. Nhưng trên hết là Venice, nơi chịu nhiều ảnh hưởng của phương Đông hơn cả, nơi đã trở thành phòng thí nghiệm cho vay lớn nhất châu Âu. Không phải tình cờ mà người cho vay nổi tiếng nhất trong văn học phương Tây cư trú ở Venice. Câu chuyện của ông ta đã minh họa tuyệt vời cho những trở ngại trong nhiều thế kỷ từng hạn chế việc biến các lý thuyết của Fibonacci thành hoạt động tài chính hiệu quả. Những trở ngại đó không phải là các yếu tố kinh tế hay chính trị. Chúng là yếu tố văn hóa. Vở kịch Gã lái buôn thành Venice của Shakespeare dựa trên một câu chuyện trong một cuốn sách từ thế kỷ 14 của Italia có tên là Il Pecorone ("Gã đần"), tập hợp các câu chuyện và giai thoại được Giovanni Fiorentino viết năm 1378. Một truyện trong tập này kể về một người phụ nữ giàu có cưới một chàng trai trẻ đứng đắn. Chồng cô ta cần tiền, và bạn của anh ta, vì muốn giúp đỡ, đến gặp một người cho vay tiền để hỏi vay thay cho anh chồng. Người cho vay, cũng là dân Do Thái như Shylock, đòi một pound thịt làm đảm bảo và số thịt này sẽ phải được trao nếu tiền không được trả. Như Shakespeare viết lại về sau, người Do Thái cho vay nặng lãi Shylock đồng ý cho anh chàng Bassanio thất tình vay ba ngàn ducat, với điều kiện là được bạn của Bassanio, thương nhân Antonio, bảo đảm. Như Shylock nói, Antonio là một người "tốt" - không có nghĩa là anh ta có phẩm chất đặc biệt mà nghĩa là uy tín của anh ta là "đủ". Nhưng Shylock cũng chỉ ra rằng việc cho các thương nhân (hay bạn của họ) vay là hành động nhiều rủi ro. Tàu thuyền của Antonio nằm rải rác tại nhiều nơi trên thế giới, một chiếc trên đường tới Bắc Phi, chiếc thứ hai tới Ấn Độ, chiếc thứ ba tới Mexico và chiếc thứ tư tới Anh: ... của cải của anh ta đều là giả định: anh ta có một chiếc tàu buôn trên đường tới Tripoli, chiếc khác tới Ấn Độ; tôi còn biết anh ta có chiếc thứ ba tại Mexico, chiếc thứ tư đến Anh, và nhiều của cải khác, rải rác nơi này nơi nọ. Nhưng tàu bè chỉ là ván gỗ, thủy thủ chỉ là người: có những con chuột trên bờ và những con chuột dưới nước, những tên kẻ cắp dưới nước và những tên kẻ cắp trên bờ, tôi muốn nói tới bọn cướp biển, và còn có mối nguy hiểm của sóng, gió và ghềnh nữa. Đó chính là lý do tại sao những người cho thương nhân vay tiền, dù chỉ trong thời gian một chuyến hành trình trên biển, đều cần được bù đắp. Chúng ta thường gọi khoản bù đắp này là tiền lãi: số tiền trả cho người cho vay phải nhiều hơn tổng số tiền cho vay, tức là tiền gốc. Thương mại quốc tế như cách mà Venice phụ thuộc vào không thể diễn ra nếu những nhà tài chính không được hồi báo cho rủi ro của họ khi bỏ tiền vào ván gỗ và con người. Nhưng tại sao Shylock lại trở thành một kẻ ác như vậy, khi thực sự đòi một pound thịt - nghĩa là Antonio phải chết - nếu như anh ta không thể thực hiện nghĩa vụ của mình? Dĩ nhiên câu trả lời là bởi vì Shylock là một trong số nhiều người cho vay trong lịch sử thuộc một cộng đồng thiểu số. Tới thời của Shakespeare, người Do Thái đã cung cấp tín dụng thương mại ở Venice trong gần một thế kỷ. Họ thực hiện công việc ấy trước cửa một tòa nhà từng được gọi là Banco Rosso, ngồi sau những chiếc bàn - gọi là tavule - và trên những chiếc ghế - gọi là banci. Nhưng Banco Rosso nằm ở một khu ghetto (khu ổ chuột của người Do Thái) chật chội cách xa trung tâm thành phố. Có một lý do xác đáng giải thích tại sao các thương nhân Venice phải tới khu ghetto của người Do Thái nếu họ muốn vay tiền. Với người Kitô giáo, cho vay lấy lãi là một tội. Những người cho vay lấy lãi từng bị Công đồng [47] Lateran thứ Ba phạt vạ tuyệt thông năm 1179. Thậm chí việc tranh cãi rằng cho vay lấy lãi không phải là tội cũng bị Công đồng Vienna lên án là dị giáo vào những năm 1311-12. Những người Kitô giáo cho vay nặng lãi phải bồi hoàn cho Giáo hội thì mới có thể được đem chôn trên đất nhà chung. Họ bị các tu sĩ thuộc dòng Francis và dòng Dominic, thành lập vào năm 1206 và 1216 (ngay sau khi cuốn Liber Abaci của Fibonaccira đời), đặc biệt căm ghét. Không thể đánh giá thấp sức mạnh của việc cấm kỵ này, cho dù nó hẳn đã yếu đi vào thời Shakespeare.[48] Tại Duomo (nhà thờ lớn) ở Florence, có một bức tranh tường của Domenico di Michelino vẽ cảnh nhà thơ vĩ đại người Florence, Dante Alighieri cầm cuốn sách của mình có nhan đề Thần khúc. Như Dante từng tưởng tượng trong khúc XVII của kiệt tác này, có một khu vực đặc biệt trong vòng tròn thứ bảy của Địa ngục dành riêng cho những kẻ cho vay nặng lãi: Gương mặt họ hiện lên vẻ đau thương Thỉnh thoảng họ lại đưa tay chống đỡ Khi với cát nóng, khi với lửa tàn. Không khác gì trong mùa hè, con chó Dùng mõm, dùng chân để bảo vệ mình Khỏi bị rận hay ruồi trâu cắn xé. Lúc tôi đã nhìn kỹ mặt vài người Trong số đang chịu cơn mưa lửa đó Không nhận ra một ai, nhưng mà tôi Thấy ở cổ mỗi người đeo một túi Chứa đầy tiền, có màu sắc, in hình Và mắt của họ hình như chỉ cúi.[49] Người Do Thái cũng không được phép cho vay lấy lãi. Nhưng có một điều khoản thuận tiện trong sách Đệ nhị luật (hay Phục truyền luật lệ ký) của Cựu Ước: "Với người ngoài thì người có thể cho vay lấy lãi; còn với người anh em của người thì không được cho vay lấy lãi." Nói cách khác, người Do Thái có thể cho vay lấy lãi một cách hợp pháp nếu đi vay là người Kitô giáo, nhưng không thể làm thế với một người Do Thái khác. Cái giá của việc làm như thế sẽ là sự loại trừ về mặt xã hội. Người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Cùng với nhiều người Bồ Đào Nha đã cải đạo (converso) khác, tức là những người Do Thái bị buộc phải chấp nhận đạo Kitô theo một sắc lệnh năm 1497, họ đã tìm chốn tị nạn ở Đế quốc Ottoman. Từ Constantinople và các cảng khác của Đế quốc Ottoman, họ thiết lập các mối quan hệ buôn bán với Venice. Người Do Thái bắt đầu có mặt ở Venice từ năm 1509, khi những người Do Thái sống ở Mestre chạy nạn khỏi cuộc chiến tranh của Hội Cambrai. Ban đầu chính quyền thành phố miễn cưỡng nhận người tị nạn, nhưng ít lâu sau họ thấy rõ người Do Thái có thể là nguồn tiền có ích và nguồn dịch vụ tài chính, mà họ vừa có thể đánh thuế vừa có thể vay tiền.[50] Năm 1516, chính quyền Venice quy định một khu vực đặc biệt trong thành phố dành cho người Do Thái trên địa điểm của một xưởng đúc sắt cũ, dần dần khu vực ấy được gọi là ghetto nuovo ("khu ghetto mới", getto nghĩa đen là đúc). Đêm đến và vào những ngày lễ Kitô giáo, họ phải ở trong khu vực ấy. Những ai đã ở Venice được hơn hai tuần sẽ mang một chữ O màu vàng trên lưng hoặc một cái mũ hay khăn quấn đầu màu vàng (sau này là màu đỏ tươi).[51] Sự cư trú bị hạn chế trong thời hạn được quy định trên cơ sở condotte (giấy chứng nhận), gia hạn năm năm một lần.[52] Một cuộc thu xếp tương tự đạt được năm 1541, một số người Do Thái từ Romania được ban cho quyền sống ở một khu biệt lập khác, gọi là ghetto vecchio ("khu ghetto cũ"). Đến năm 1590 có khoảng 2.500 người Do Thái ở Venice. Các tòa nhà ở khu ghetto mọc cao đến bảy tầng để lấy chỗ ở cho những người mới đến. Suốt cả thế kỷ 16, vị thế của người Do Thái ở Venice vẫn bị hạn chế và bấp bênh. Năm 1537, khi chiến tranh nổ ra giữa Venice và Đế quốc Ottoman, Thượng viện Venice đã ra lệnh tạm tịch biên tài sản của "người Thổ Nhĩ Kỳ, người Do Thái và các thần dân Thổ Nhĩ Kỳ khác". Một cuộc chiến tranh khác từ năm 1570 đến 1573 đã dẫn đến việc bắt giữ tất cả người Do Thái và thu giữ tài sản của họ, tuy rằng khi hòa bình lập lại họ được trả tự do và trả lại tài sản.[53] Để tránh lặp lại hiện tượng này, người Do Thái đã kiến nghị với chính quyền Venice cho phép họ được tự do trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào trong tương lai. Họ may mắn có được người đại diện là Daniel Rodriga, một thương nhân người Do Thái gốc Tây Ban Nha, ông này đã chứng tỏ là một nhà thương thuyết tài ba. Hiến chương mà ông đạt được năm 1589 bảo đảm cho mọi người Do Thái vị thế công dân Venice, cho phép họ tham gia buôn bán tận vùng bờ đông Địa Trung Hải - một đặc quyền quý giá - và cho phép họ thực hành tôn giáo của mình một cách công khai. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế quan trọng. Họ không được phép gia nhập phường hội hoặc tham gia bán lẻ, do đó bị hạn chế chỉ được cung cấp các dịch vụ tài chính, và những đặc quyền của họ có thể bị tước bỏ chỉ cần báo trước 18 tháng. Được làm công dân, người Do Thái giờ đây có nhiều co hội thành công hơn gã Shylock khi ra tòa án Venice. Chẳng hạn, năm 1623, Leon Voltera đã kiện Antonio dalla Donna vì anh này bảo đảm cho một hiệp sĩ vay tiền của Voltera rồi biến mất. Tuy nhiên, vào hai năm 1636-37 xảy ra một vụ bê bối liên quan đến việc mua chuộc các thẩm phán, trong đó một số người Do Thái có dính líu, khiến cho một lần nữa nguy cơ bị trục xuất lại hiển hiện.[54] Tuy chỉ là hư cấu, nhưng câu chuyện về Shylock như vậy không hoàn toàn tách biệt khỏi hiện thực Venice. Thực tế là, vở kịch của Shakespeare minh họa hoàn toàn chính xác ba điểm quan trọng về giao dịch vay tiền thời cận đại: quyền lực của kẻ cho vay áp đặt lãi suất cao ngất ngưởng khi thị trường tín dụng đang trong thời kỳ sơ khai; tầm quan trọng của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp tài chính mà không dùng đến bạo lực; nhưng trên hết là tình trạng dễ bị công kích của những người cho vay thuộc thành phần thiểu số trước thái độ thù địch của những người đi vay thuộc sắc tộc chiếm đa số. Bởi cuối cùng thì Shylock vẫn bị ngăn trở. Mặc dù tòa án thừa nhận quyền của chủ nợ khi đòi thực hiện giao kèo - lấy một pound thịt thuộc về ông ta - luật cũng cấm ông ta làm đổ máu của Antonio. Hơn nữa, bởi vì Shylock là kẻ ngoại cư, nên luật pháp yêu cầu ông ta phải giao nộp của cải và tính mạng vì âm mưu gây ra cái chết của một người Kitô giáo. Ông ta chỉ thoát tội bằng cách chấp thuận rửa tội. Và sau đấy, tất cả mọi người đều sống vui vẻ, ngoại trừ Shylock. Gã lái buôn thành Venice đặt ra những câu hỏi sâu sắc về kinh tế cũng như về quan điểm bài Do Thái. Tại sao các con nợ không phải lúc nào cũng quỵt nợ, nhất là khi chủ nợ thuộc về một cộng đồng thiểu số không được ưa thích? Tại sao những người như Shylock không phải lúc nào cũng thua cuộc? Những người cho vay nặng lãi, giống như những người nghèo là nạn nhân của họ, luôn luôn tồn tại. Chẳng hạn, họ vẫn giàu lên ở Đông Phi. Nhưng không cần thiết phải đến các nước đang phát triển mới hiểu được những nguyên tắc trong hình thức cho vay thô sơ này. Theo báo cáo năm 2007 của Bộ Công thương Anh, có khoảng 165.000 hộ gia đình tại Anh dùng các khoản cho vay bất hợp pháp, vay mượn số tiền lên tới 40 triệu bảng một năm và trả lại số tiền lớn gấp ba lần số này. Để giải thích tại sao những kẻ cho vay nặng lãi luôn luôn bị ghét, bất kể họ thuộc dân tộc nào, bạn chỉ cần đến thăm Glasgow, thành phố quê hương tôi. Đã từ lâu, các khu nhà ở phía đông thành phố trở thành vùng đất màu mỡ cho những kẻ cho vay nặng lãi. Tại các quận như Shettleston, nơi ông bà tôi từng sống, có những cửa chóp bằng thép trên cửa sổ các khu chung cư cũ nát và những hình vẽ graffiti thù địch tôn giáo tại trạm chờ xe buýt. Đời sống kinh tế của Shettleston từng xoay quanh túi tiền của các công nhân làm việc tại những nhà máy thép của hãng Boyd. Ngày nay, nó xoay quanh các khoản trợ cấp thất nghiệp rót vào tài khoản của những người thất nghiệp tại bưu điện. Tuổi thọ trung bình của đàn ông ở Shettleston vào khoảng 64, thấp hơn mười ba năm so với mức trung bình ở Anh và tương đương với tuổi thọ trung bình ở Pakistan. Điều này có nghĩa là một đứa trẻ sinh ra ở Shettleston thường sẽ sống không đủ lâu để có thể nhận được tiền lương hưu của mình. Những khu vực cùng khốn ở Glasgow là miền đất săn của những kẻ cho vay nặng lãi. Ở quận Hillington, Gerard Law là kẻ cho vay nặng lãi số một suốt hai mươi năm. Hắn lấy quán rượu Argosy tại Paisley Road West làm văn phòng, ở lì đấy hầu hết các ngày làm việc mặc dù hắn là người kiêng rượu. Hệ thống của Law rất đơn giản. Người cần tiền sẽ trao sổ trợ cấp hay thẻ rút tiền bưu điện cho hắn làm tin để vay tiền, thông tin được hắn ghi vào sổ cho vay. Khi một tấm séc trợ cấp thất nghiệp tới hạn, Law sẽ giao trả thẻ cho người nợ tiền hắn và chờ thu lãi. Cuốn sổ cho vay hết sức thô sơ: đó chỉ là một tập hợp các giao dịch được ghi lại một cách lộn xộn, tại đó có khoảng hai mươi hay ba mươi cái tên và bí danh quen thuộc xuất hiện bên cạnh các khoản tiền khác nhau: "Al Râu 15", "Ngựa chứng 100", "Bernadett 150", "Caffy Còi 1210". Mức lãi suất thông thường mà Law áp dụng cho các con nợ cao đến choáng váng, 25% mỗi tuần. Thông thường, những người như AI Râu vay 10 bảng và trả lại 12,5 bảng (tiền gốc cộng với lãi) một tuần sau đó. Tuy vậy, nhiều khách hàng của Law không thể trả nợ đúng hạn; điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người trong vùng này phải sống với số tiền ít ỏi chỉ 5,9 bảng một ngày. Vì thế họ phải vay thêm tiền. Không lâu sau, một số khách hàng sẽ nợ của Law số tiền hàng trăm, thậm chí hàng ngàn bảng. Việc họ nhanh chóng bị mắc kẹt trong các khoản nợ của mình không có gì đáng ngạc nhiên. Mức 25% một tuần tương đương với lãi suất kép 11 triệu phần trăm trong một năm. Bắt giữ kẻ cho vay nặng lãi: Gerard Law bị các cảnh sát thuộc đơn vị chống cho vay tiền bất hợp pháp của Glasgow dẫn đi. Về dài hạn, lãi suất ở châu Âu có xu hướng giảm. Vậy tại sao một số người ở Anh ngày nay vẫn trả mức lãi lên tới tám con số cho những khoản nợ vặt vãnh? Và chắc chắn phải là người mất trí mới không quỵt các khoản nợ này. Một số khách hàng của Law quả thực là những người không bình thường lắm về tâm thần. Nhưng có những lý do rõ ràng cho thấy ngay cả những khách hàng bình thường của gã cũng nhận thấy việc bội tín với gã là không khôn ngoan, cho dù mức lãi có cắt cổ đi chăng nữa. Như tờ Scotsman viết: "nhiều nạn nhân của gã quá sợ hãi nguy cơ không trả được nợ do tiếng tăm của gã" - mặc dù người ta vẫn không biết đích xác rằng Law có thực sự dùng tới bạo lực không.[55] Sau lưng mỗi kẻ cho vay nặng lãi, như trường hợp của Shylock cho thấy, luôn tiềm tàng một mối đe dọa ngầm. Thật dễ dàng lên án những kẻ cho vay nặng lãi là vô đạo đức và phạm tội. Gerard Law đã bị kết án mười tháng tù vì hành vi của mình. Tuy nhiên chúng ta cần cố gắng hiểu lý do kinh tế của việc hắn làm. Trước hết, hắn đã lợi dụng được việc không có tổ chức tài chính chính thức nào có thể cho những người thất nghiệp ở Shettleston vay tiền. Thứ hai, Law phải vừa tham lam vừa tàn nhẫn, bởi vì những khách hàng ít ỏi của hắn rất có thể sẽ quỵt nợ. Khó khăn cơ bản trong việc cho vay nặng lãi là hoạt động kinh doanh này có quy mô quá nhỏ và nhiều rủi ro nên không thể áp dụng các mức lãi suất thấp. Nhưng mức lãi suất cao lại khiến việc không trả được nợ dễ xảy ra hơn và chỉ có sự đe dọa mới khiến người ta tiếp tục trả nợ. Vậy làm thế nào để những người cho vay tiền vượt qua mối màu thuẫn cơ bản: nếu họ quá rộng lượng, họ sẽ không kiếm được tiền; nếu họ quá chặt chẽ, như Gerard Law, người ta rốt cuộc sẽ gọi cảnh sát? Câu trả lời là phải lớn mạnh hơn và quyền lực hơn. Sự ra đời của ngân hàng Shylock còn lâu mới là người cho vay duy nhất nhận ra điểm yếu vốn có của chủ nợ, nhất là khi chủ nợ là người nước ngoài. Vào đầu thế kỷ 14, ngành tài chính ở Italia nằm dưới sự thống trị của ba gia tộc Florence: nhà Bardi, nhà Peruzzi và nhà Acciaiuoli. Cả ba gia tộc này đều bị xóa sổ trong thập niên 1340 do sự vỡ nợ của hai trong số các khách hàng chủ chốt của họ: vua Anh Edward III và vua Robert xứ Napoli. Nhưng nếu điều này minh họa điểm yếu tiềm tàng của những người cho vay thì sự đi lên của nhà Medici lại minh chứng cho điều ngược lại: quyền lực tiềm tàng của họ. Có lẽ không gia đình nào khác có thể tạo được dấu ấn lên cả một thời đại như nhà Medici đã đặt dấu ấn của mình lên thời Phục hưng. Hai người trong dòng họ này trở thành giáo hoàng (Leo X và Clement VII); hai người trở thành hoàng hậu Pháp (Catherine và Marie); ba người trở thành công tước (các xứ Florence, Nemours và Tuscany). Chính lý thuyết gia quan trọng nhất về quyền lực chính trị là Niccolò Machiavelli đã viết về lịch sử của dòng họ này, âu cũng là điều thích đáng. Sự bảo trợ của họ đối với nghệ thuật và văn học đã nuôi dưỡng hàng loạt các thiên tài từ Michelangelo cho tới Galileo. Và những thành tựu kiến trúc đáng kinh ngạc của họ ngày nay vẫn bao quanh du khách khi đến Florence. Chỉ cần nhìn vào tòa biệt thự Cafaggiolo, tu viện San Marco, vương cung thánh đường San Lorenzo và những cung điện nguy nga mà Công tước Cosimo de’ Medici từng ở trong giai đoạn giữa thế kỷ 16: cung điện Pitti trước đây, cung điện Vecchio đã được trang trí lại và những công sở mới (Uffizi) có các sân trải dài cho tới sông Arno.[56] Nhưng đâu là nguồn gốc của những kỳ quan này? Tiền được lấy ở đâu để trả cho các kiệt tác như bức tranh lộng lẫy Sự ra đời của thần Vệ Nữ của Sandro Botticelli? Câu trả lời đơn giản là nhà Medici buôn bán ngoại tệ: họ là thành viên của Arte de Cambio (Phường hội những người đổi tiền). Họ được gọi là chủ ngân hàng (banchiere) bởi vì, cũng giống như những người Do Thái thành Venice, họ kinh doanh trên những chiếc ghế băng đằng sau bàn trên đường phố. Ngân hàng đầu tiên của nhà Medici (từ "quầy" có lẽ mô tả chính xác hơn) ở gần cung điện Cavalcanti, đoạn cắt giữa phố Porta Rossa và phố Arte della Lana ngày nay, chỉ cách chợ đồ len chính ở Florence một khoảng đi bộ ngắn. Trước thập niên 1390, người ta có thể có lý khi cho rằng nhà Medici là những tay găngxtơ hơn là chủ ngân hàng: đó là một thị tộc nhỏ bé, có tiếng vì những hành động bạo lực thấp hèn hơn là hoạt động tài chính uy tín. Trong khoảng thời gian từ năm 1343 đến 1360, có không dưới năm người trong dòng họ Medici bị xử tử vì đã phạm tội nặng.[57] Thế rồi xuất hiện Giovanni di Bicci de' Medici. Mục tiêu của ông ta là hợp pháp hóa nhà Medici. Và nhờ làm việc chăm chỉ, sống chừng mực và tính toán kỹ lưỡng, ông đã thành công. Một chủ ngân hàng đang ngồi trên ghế băng của mình: bức tranh Chủ ngân hàng (1514), Quentin Massys. Năm 1385, Giovanni trở thành người quản lý chi nhánh tại Rome của ngân hàng do người bà con của ông là Vieri di Cambio de' Medici điều hành tại Florence. Tại Rome, Giovanni đã gây dựng được tiếng tăm của mình trong công việc buôn tiền. Các giáo hoàng là khách hàng lý tưởng trên nhiều khía cạnh, bởi lẽ có nhiều loại tiền khác nhau chảy ra và chảy vào két bạc của Vatican. Như chúng ta đã thấy, đó là thời kỳ đồng hành của nhiều hệ thống tiền tệ bao gồm cả vàng, bạc và kim loại thường, cho nên việc buôn bán đường dài hay trả thuế trở nên phức tạp bởi nhu cầu chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Nhưng Giovanni đã nhìn thấy rõ các cơ hội lớn hơn tại quê hương Florence của mình, ông trở về đó vào năm 1397. Cho tới thời điểm bàn giao cơ nghiệp cho người con trai cả Cosimo vào năm 1420, ông đã thiết lập được chi nhánh ngân hàng ở Venice cũng như ở Rome; sau đấy các chi nhánh được mở ở Geneva, Pisa, London và Avignon. Giovanni cũng có phần hùn vốn trong hai nhà máy len ở Florence. Đóng vai trò hết sức quan trọng trong công việc kinh doanh ban đầu của nhà Medici là các hối phiếu (cambium per literas), được phát triển trong thời trung đại như là một cách cấp vốn cho thương mại.[58] Nếu một thương nhân nợ một thương nhân khác số tiền không thể trả bằng tiền mặt cho tới khi kết thúc giao dịch sau đó vài tháng, thì chủ nợ có thể lấy hối phiếu của con nợ và sau đó sử dụng làm phương tiện thanh toán hoặc đổi lấy tiền mặt với mức chiết khấu nhất định từ chủ ngân hàng đóng vai trò trung gian môi giới. Trong khi việc lấy lãi bị Giáo hội lên án là cho vay nặng lãi thì không có gì ngăn cản một thương nhân khôn ngoan kiếm lợi từ những giao dịch như vậy. Đó chính là bản chất công việc kinh doanh của nhà Medici. Không cần đến séc; các chỉ dẫn đều bằng miệng và được viết trong sổ sách của ngân hàng. Không cần đến tiền lãi; những người gửi tiền được nhận một khoản discrezione - chiết khấu (tỷ lệ với lợi nhuận hằng năm của hăng) để đền bù cho rủi ro bỏ tiền ra của họ.[59] Chi tiết từ một sổ cái kế toán của ngân hàng Medici Libro segreto - nghĩa đen là sách bí mật[60]- của Giovanni di Bicci de' Medici soi rọi quá trình đi lên của gia đình này.[61] Phần nào, đây chỉ đơn giản là việc ghi sổ sách kế toán kỹ lưỡng. Theo tiêu chuẩn hiện đại, chắc chắn nó có những khiếm khuyết. Nhà Medici không sử dụng phương thức bút toán kép một cách có hệ thống cho dù phương thức này được biết đến ở Genoa từ những năm 1340.[62] Dẫu vậy, một nhà nghiên cứu hiện đại không thể không cảm thấy ấn tượng trước sự mạch lạc và trật tự trong các tài khoản của nhà Medici. Các tài liệu lưu trữ còn có một số bảng cân đối của nhà Medici thời kỳ đầu, với các khoản dự trữ và tiền gửi được đặt chính xác ở một bên (coi như nợ hay vostro) và các khoản vay cho khách hàng hay các hối phiếu thương mại (commercial bill) ở bên kia (là tài sản hay nostro). Nhà Medici không sáng tạo ra những kỹ thuật này, nhưng họ áp dụng chúng trên quy mô lớn hơn những gì người ta từng biết đến ở Florence. Thế nhưng chìa khóa cho sự thành công của nhà Medici không phải ở quy mô mà ở sự đa dạng hóa. Trong khi các ngân hàng ban đầu của Italia có cấu trúc đơn khối (monolithic) dễ dàng bị phá sản khi có một con nợ không trả nợ thì ngân hàng Medici trên thực tế bao gồm nhiều công ty hợp danh (partnership) có quan hệ với nhau, mỗi công ty hợp danh dựa trên một hợp đồng đặc biệt và được đàm phán lại một cách thường xuyên. Những người quản lý chi nhánh không phải người làm thuê mà là các thành viên hợp danh cấp thấp, được trả công bằng một phần lợi nhuận. Chính sự phi tập trung hóa này đã giúp cho ngân hàng Medici có lãi lớn đến thế. Với mức vốn khoảng 20.000 florin vào năm 1402 và chi phí tiền lương cho nhiều nhất là mười bảy người, ngân hàng này đã thu được lợi nhuận 151.820 florin từ năm 1397 tới 1420 - tính trung bình khoảng 6.326 florin mỗi năm, với tỷ lệ lợi tức 32%. Riêng chi nhánh Rome đã nhanh chóng có mức sinh lợi trên 30%.[63] Có thể thấy bằng chứng chứng tỏ mô hình này hoạt động hiệu quả ở trong sổ thuế thành Florence, liệt kê hết trang này sang trang khác các tài sản của Giovanni di Bicci, với tổng trị giá khoảng 91.000 florin.[64] Khi Giovanni chết năm 1429, những lời trăng trối của ông là hối thúc những người thừa kế duy trì mức độ nhanh nhạy về tài chính như mình. Tang lễ của ông có sự tham dự của 26 người cùng mang họ Medici và tất cả đều gửi lời chào tiễn biệt tới vị capo della casa (trưởng tộc) tự lập nên sự nghiệp này. Tới khi Pius II trở thành giáo hoàng năm 1458 thì con trai của Giovanni, Cosimo de' Medici cũng chính là bang Florence trên thực tế. Như chính Giáo hoàng đã nói: "Các vấn đề chính trị được giải quyết tại nhà của ông ấy. Người mà ông ấy chọn sẽ trở thành quan chức... Chính ông ấy là người quyết định chiến tranh, hòa bình và kiểm soát luật pháp... Ông ấy là vua trên thực tế, dù không phải trên danh nghĩa." Những nhà cai trị nước ngoài được khuyên nên tiếp xúc trực tiếp với ông và không nên lãng phí thời gian gặp gỡ bất cứ ai khác ở Florence. Như nhà sử học thành Florence là Francesco Guicciardini đã nhận xét: "Ông ấy nổi tiếng tới mức, có lẽ chưa từng có công dân nào có thể so sánh được kể từ khi La Mã sụp đổ cho tới nay." Một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất của Botticelli, khắc họa một chàng trai trẻ có vẻ đẹp rung động lòng người, trên thực tế là món quà tưởng niệm một vị chủ ngân hàng đã mất. Khuôn mặt trên tấm huân chương là Cosimo de' Medici và cạnh đó là dòng chữ pater patriae: "người cha của đất nước". Tới thời điểm Lorenzo Kiệt xuất, cháu nội của Cosimo, tiếp quản ngân hàng năm 1469 thì nhà Soprano cổ xưa đã trở thành nhà Corleone và hơn thế nữa. Tất cả đều dựa vào hoạt động ngân hàng. Nhưng hơn hết, chính họa phẩm Ba Vua ngưỡng vọng của Botticelli đã ghi nhận sự thay hình đổi dạng của ngành tài chính mà nhà Medici đã đạt được. Khi quan sát kỹ bức tranh này, chúng ta thấy cả ba nhà thông thái đều là người nhà Medici: người lớn tuổi nhất đang rửa chân cho Chúa hài đồng Jesus là Cosimo Lớn; phía dưới ông, hơi nghiêng về tay phải là hai con trai ông: Piero (mặc đồ màu đỏ) và Giovanni (mặc đồ màu trắng). Cũng trong bức tranh còn có Lorenzo (mặc áo choàng màu xanh nhạt) và đang vỗ kiếm là Giuliano. Bức tranh này được người đứng đầu Phường hội các Chủ ngân hàng đặt hàng để làm quà kỷ niệm cho gia đình Medici. Có lẽ bức tranh này gọi là Ngưỡng vọng nhà Medici thì thích hợp hơn. Từng một thời bị nguyền rủa, các chủ ngân hàng giờ đây đã gần với thần thánh. Việc quyền lực thống trị Cộng hòa Florence rơi vào tay một trong những gia đình chủ ngân hàng siêu giàu có hiển nhiên đã gây nên sự chống đối. Từ tháng 10/1433 tới tháng 9/1434, Cosimo và nhiều người ủng hộ ông bị trục xuất khỏi Florence và phải sang Venice lưu vong. Năm 1478, em trai của Lorenzo là Giuliano bị gia đình Pazzi giết chết trong một âm mưu tàn bạo nhằm chấm dứt sự cai trị của nhà Medici. Bản thân ngân hàng này cũng chịu thiệt hại do Lorenzo sao nhãng việc kinh doanh vì quá để tâm tới chính trị. Các trưởng chi nhánh như Francesco Sassetti ở Avignon hay Tommaso Portinari ở Bruges trở nên nhiều quyền lực hơn và ít chịu sự giám sát chặt chẽ. Ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào việc huy động tiền gửi, trong khi thu nhập từ hoạt động thương mại và trao đổi ngoại hối có nhiều biến động. Những sai lầm gây tốn kém bắt đầu xuất hiện, như các khoản vay của chi nhánh tại Bruges cho Charles Can đảm, Công tước xứ Burgundy, hay của chi nhánh London cho vua Edward IV, các khoản vay này không bao giờ được hoàn trả đầy đủ. Để giúp cho ngân hàng tiếp tục tồn tại, Lorenzo buộc phải đột kích quỹ Monte delle Dote của thành phố (một loại quỹ tương hỗ giúp trả các khoản tiền hồi môn của các cô gái).[65] Cuối cùng, vào năm 1494, trong cảnh hỗn loạn khi nước Pháp xâm lược, gia đình Medici bị trục xuất, toàn bộ gia sản của họ bị tịch thu và thanh lý. Buộc tội gia đình Medici gây ra những bất hạnh của thành phố, thầy tu dòng Dominic Girolamo Savonarola đã kêu gọi tiến hành một cuộc thanh tẩy "Lửa thiêu những phù hoa"[66]. Lời kêu gọi này được đáp ứng khi một đám đông chiếm dinh cơ nhà Medici và đốt hầu hết sổ sách của ngân hàng này. (Các dấu đuốc màu đen vẫn còn lưu trên những giấy tờ còn sót lại.) Như chính Lorenzo đã viết trong một bài hát mà ông ta soạn trong thập niên 1470: "Nếu bạn vui được hôm nay, xin cứ / Nào có gì chắc chắn ngày mai." Thế nhưng khi giới tinh hoa giàu có của Florence suy ngẫm về việc kẻ xúi giục Savonarola và đám đông bình dân lên thay thế cho sự cai trị của nhà Medici, họ bắt đầu cảm thấy nuối tiếc gia đình huy hoàng này. Năm 1537, khi mới 17 tuổi, Cosimo de' Medici (Trẻ) được triệu hồi trở lại Florence và năm 1569 trở thành Đại Công tước xứ Tuscany. Dòng họ này nối đời làm công tước trong hơn hai trăm năm, cho tới tận năm 1743. Những palle (hình viên tròn) giống đồng tiền xu ở trên gia huy của nhà Medici là sự nhắc nhở thường xuyên tới nguồn gốc của gia đình này. Mặc dù đã có nhiều người thử nghiệm trước họ, gia tộc Medici là những chủ ngân hàng đầu tiên thực hiện được quá trình chuyển dịch từ thành công tài chính tới vị thế và quyền lực cha truyền con nối. Họ đạt được điều này nhờ học được một bài học quan trọng: trong tài chính, hiếm khi nào nhỏ lại đẹp[67]. Bằng cách làm cho ngân hàng của họ lớn hơn và đa dạng hóa hơn bất kỳ tổ chức tài chính nào trước đây, họ đã tìm ra cách san đều rủi ro. Và nhờ vào việc tham gia buôn bán tiền tệ cũng như cho vay, họ giảm được rủi ro khách hàng không trả nợ. Hệ thống ngân hàng của Italia trở thành mô hình cho các quốc gia Bắc Âu để các nước này đạt được thành công thương mại rực rỡ nhất trong những thế kỷ sau, trong đó đáng chú ý nhất là người Hà Lan và người Anh, nhưng ngoài ra còn có cả người Thụy Điển nữa. Chính ở Amsterdam, London và Stockholm đã xảy ra làn sóng đổi mới tài chính có tính quyết định tiếp theo, và tiền thân của các ngân hàng trung ương hiện đại lần đầu tiên xuất hiện. Thế kỷ 17 chứng kiến sự thành lập ba tổ chức hoàn toàn mới, theo những cách khác nhau, được tạo ra để phục vụ các chức năng tài chính công cộng cũng như tư nhân. Ngân hàng Giao dịch Amsterdam (Wisselbank) được thành lập năm 1609 để giải quyết các vấn đề thực tế mà các thương nhân gặp phải trong quá trình lưu chuyển nhiều loại tiền tệ khác nhau ở Các tỉnh Hợp nhất[68], nơi có không ít hơn 14 loại tiền khác nhau và vô số đồng tiền của nước ngoài. Bằng cách cho phép thương nhân lập các tài khoản được định giá bằng một loại tiền tệ tiêu chuẩn, Ngân hàng Giao dịch đi đầu trong việc phát triển hệ thống séc, ghi nợ trực tiếp và chuyển tiền mà ngày nay chúng ta coi như hiển nhiên. Điều này cho phép ngày càng có nhiều giao dịch thương mại được diễn ra mà không cần tới việc sử dụng số tiền mặt trên thực tế. Một thương nhân có thể trả tiền cho người khác chỉ đơn giản bằng cách ghi nợ ở tài khoản của anh ta tại ngân hàng và ghi có cho tài khoản của đối tác.[69] Hạn chế của hệ thống này chỉ là việc Ngân hàng Giao dịch phải duy trì một tỷ lệ gần 100% giữa lượng tiền gửi trong các tài khoản và dự trữ của ngân hàng bằng kim loại và tiền đồng. Cho tới tận năm 1760, khi lượng tiền gửi trong các tài khoản gần bằng 19 triệu florin, dự trữ bằng kim loại của ngân hàng này cũng lên tới trên 16 triệu. Do đó một cuộc rút tiền gửi ồ ạt ở ngân hàng này là hầu như không thể xảy ra, bởi lẽ ngân hàng có đủ tiền để thỏa mãn hầu như toàn bộ nhu cầu tiền mặt của các chủ tiền gửi, nếu vì một lý do nào đó họ đồng loạt muốn rút tiền từ tài khoản tiền gửi của mình. Điều này hiển nhiên giúp ngân hàng trở nên an toàn, nhưng nó cũng ngăn cản việc ngân hàng thực hiện chức năng mà ngày nay được coi là đặc điểm nhận dạng của một ngân hàng, đó là tạo ra tín dụng. Chính ở Stockholm vào gần nửa thế kỷ sau, với sự ra đời của Riksbank Thụy Điển vào năm 1656, mà trở ngại này đã được phá vỡ. Mặc dù thực hiện các chức năng tương tự như Wisselbank của Hà Lan, Riksbank cũng được thiết kế để làm một Lanebank, có nghĩa là nó tham gia cả vào việc cho vay lẫn hỗ trợ các khoản thanh toán thương mại. Bằng cách cho vay các khoản vượt quá dự trữ kim loại của nó, ngân hàng này đã đi đầu trong hình thức sau này có tên là hoạt động ngân hàng dự trữ theo tỷ lệ, nhằm tận dụng tiền gửi để cho người đi vay vay tiền và sinh lợi cho ngân hàng. Bởi lẽ khó có khả năng người gửi tiền đồng loạt rút tiền, nên người ta chỉ giữ lại một tỷ lệ nào đó trong tổng số tiền gửi làm dự trữ của ngân hàng vào một thời điểm nhất định. Do đó các khoản nợ của ngân hàng bằng với tiền gửi tại đấy (mà ngân hàng phải trả lãi trên đó) cộng với dự trữ (mà nó không thu được lãi trên đó); tài sản của ngân hàng trở thành các khoản cho vay (nó có thể thu lãi trên đó). Sáng kiến vĩ đại thứ ba của thế kỷ 17 xảy ra tại London với việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) năm 1694. Được thiết kế chủ yếu nhằm tài trợ chi phí chiến tranh cho chính phủ (bằng cách biến đổi một phần nợ của chính phủ thành cổ phần trong ngân hàng), ngân hàng này nhận được một số đặc quyền nổi bật. Từ năm 1709, nó là ngân hàng duy nhất được phép vận hành dưới hình thức công ty cổ phần (xem Chương 3); và từ năm 1742, nó thiết lập thế độc quyền một phần trong việc phát hành giấy bạc ngân hàng, một hình thức kỳ phiếu (promissory note) riêng biệt không mang lãi, nhằm hỗ trợ cho thanh toán mà không cần tới việc hai bên giao dịch phải có tài khoản lưu hành. Để hiểu được quyền năng của ba sáng kiến này, các sinh viên MBA năm đầu tại Trường Kinh doanh Harvard tiến hành một trò chơi tiền bạc đơn giản. Trò chơi bắt đầu với việc một ngân hàng trung ương giả định, thay mặt cho chính phủ, chi trả giáo sư 100 đô la tiền công cho một công việc tư vấn không béo bở lắm. Vị giáo sư mang tiền tới một ngân hàng giả định do một trong số các sinh viên điều hành và gửi tiền vào đó, thế là ông nhận được một phiếu gửi tiền. Để đơn giản, giả sử ngân hàng này vận hành với tỷ lệ dự trữ 10% (tức là ngân hàng muốn duy trì tỷ lệ dự trữ trên tổng nợ của nó ở mức 10%), nó sẽ gửi 10 đô la cho ngân hàng trung ương và cho vay 90 đô la còn lại cho một trong các khách hàng. Trong khi khách hàng này chưa quyết định làm gì với khoản vay, ông ta gửi tiền vào một ngân hàng khác. Ngân hàng này cũng có quy định dự trữ 10%, do đó nó gửi 9 đô la tại ngân hàng trung ương và cho vay 81 đô la còn lại cho một trong các khách hàng. Sau vài vòng như vậy, giáo sư yêu cầu lớp học tính mức độ tăng trong cung tiền. Việc này cho phép ông trình bày về hai định nghĩa then chốt trong lý thuyết tiền tệ hiện đại: M0 (còn được gọi là tiền cơ sở [monetary base] hay tiền có mãnh lực [high-powered money]), bằng tổng nợ của ngân hàng trung ương, tức là bằng tiền mặt cộng với các khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại dưới hình thức tiền gửi tại ngân hàng trung ương; và M1 (còn được gọi là tiền theo nghĩa hẹp [narrow money]), bằng tiền mặt đang lưu thông cộng với tiền gửi không kỳ hạn. Tới thời điểm tiền được gửi tại ba ngân hàng sinh viên khác nhau, M0 bằng 100 đô la nhưng M1 sẽ bằng 271 đô la (100 + 90 + 81). Ví dụ này minh họa rõ ràng, dù đã được đơn giản hóa cao độ, hoạt động ngân hàng dự trữ theo tỷ lệ thời hiện đại cho phép tạo ra tín dụng và do đó tạo ra tiền. Vị giáo sư sau đó bất ngờ đòi lấy lại 100 đô la của mình từ sinh viên thứ nhất. Sinh viên này phải rút từ dự trữ của anh ta và đòi lại tiền mà anh ta cho sinh viên thứ hai vay, tạo ra hiệu ứng domino khiến M1 co hẹp cũng nhanh chóng như khi nó mở rộng. Việc này minh họa cho nguy cơ xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Do ngân hàng thứ nhất chỉ có một người gửi tiền, việc ông này rút tiền sẽ tạo ra một yêu cầu nhiều gấp mười lần so với dự trữ của nó. Sự sống còn của chủ ngân hàng thứ nhất rõ ràng phụ thuộc vào việc anh ta có thể đòi lại số tiền mà anh ta đã cho khách hàng của mình vay không, người này đến lượt mình lại phải rút toàn bộ tiền gửi của anh ta tại ngân hàng thứ hai, và cứ như vậy. Khi cho vay, các chủ ngân hàng cần phải suy nghĩ kỹ về mức độ dễ dàng trong việc thu hồi tiền của họ. Đây thực chất là vấn đề tính thanh khoản (liquidity) của khoản cho vay. Cần phải thừa nhận rằng định nghĩa cung tiền có cái gì đó hơi tùy tiện. Một số cách xác định M1 bao gồm cả séc du lịch. M2 cộng thêm tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ và giấy chứng nhận tiền gửi. M3 là khái niệm còn rộng hơn nữa, bao gồm thêm tiền gửi đô la châu Âu (eurodollar deposit) tại các thị trường nước ngoài, và các thỏa thuận mua lại (repurchase agreement) giữa các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính khác. Nhưng chúng ta không nhất thiết phải bận tâm với những vấn đề kỹ thuật ở đây. Điểm quan trọng cần thấy được là với việc lan rộng khắp thế giới phương Tây của: a) các giao dịch phi tiền mặt nội ngân hàng và liên ngân hàng, b) hoạt động ngân hàng dự trữ theo tỷ lệ, và c) thế độc quyền phát hành tiền mặt của ngân hàng trung ương, bản chất của tiền tệ đã tiến hóa theo một cách thức hết sức quan trọng. Tiền tệ không còn được hiểu như người Tây Ban Nha từng hình dung về nó trong thế kỷ 16, là thứ kim loại quý hiếm được đào lên, nung chảy và đúc thành đồng tiền. Giờ đây, tiền tệ là tổng các khoản nợ cụ thể (tiền gửi và dự trữ) của ngân hàng. Tín dụng thì chỉ đơn giản là tổng các tài sản của ngân hàng (các khoản cho vay). Một phần trong số tiền này vẫn có thể bao gồm kim loại quý, mặc dù tỷ lệ các kim loại này được dự trữ trong kho của ngân hàng trung ương ngày càng cao. Nhưng hầu hết tiền tệ bao gồm tiền giấy và tiền xu đều được thừa nhận là tiền pháp định, cùng với thứ tiền vô hình chỉ tồn tại trong bảng báo cáo tài khoản tiền gửi. Sáng kiến mới về tài chính đã thay thế cho thứ bạc trơ ì ở Potosí và trở thành cơ sở cho hệ thống tiền tệ hiện đại, trong đó các mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ được môi giới hóa hay "trung gian" hóa bởi ngày càng nhiều các tổ chức có tên là ngân hàng. Ngày nay, chức năng cốt lõi của các tổ chức này là thu thập thông tin và quản lý rủi ro. Nguồn lợi nhuận của chúng nằm ở việc tối đa hóa sự chênh lệch giữa chi phí từ các khoản nợ và thu nhập trên tài sản của chúng, trong khi không làm giảm dự trữ tới mức độ khiến ngân hàng trở nên dễ đổ vỡ trước một cuộc rút tiền gửi ồ ạt - một sự khủng hoảng lòng tin vào khả năng đáp ứng người gửi tiền của ngân hàng khiến cho việc rút tiền ngày càng leo thang và cuối cùng dẫn tới phá sản: thực chất đó là sự đổ vỡ của ngân hàng. Một điều quan trọng là trong khi các kỹ thuật ngân hàng Italia được cải thiện tại các trung tâm tài chính ở Bắc Âu thì có một quốc gia lại tụt hậu một cách không ngờ. Ỷ lại vào kho kim loại quý dồi dào, nước Tây Ban Nha hùng mạnh đã không phát triển được một hệ thống ngân hàng tiên tiến, thay vào đó nó dựa vào những khoản tiền mặt được ứng trước ngắn hạn từ các thương nhân ở Antwerp để đổi lấy việc giao nhận bạc trong tương lai. Quan niệm tiền tệ thực ra là tín dụng chứ không phải kim loại chưa bao giờ được tiếp thu tại Madrid. Trên thực tế, cuối cùng vương triều Tây Ban Nha đã vỡ nợ toàn bộ - hay một phần số nợ - ít nhất mười bốn lần trong giai đoạn từ năm 1557 tới 1696. Với lý lịch như thế, toàn bộ số bạc tại Potosí cũng không thể biến Tây Ban Nha thành nơi an toàn cho tín dụng. Trong thế giới hiện đại, quyền lực chuyển sang các chủ ngân hàng, chứ không phải những kẻ phá sản. Sự tiến hóa của ngân hàng Các sử gia về tài chính có quan điểm khác nhau về vai trò của sự phát triển hệ thống ngân hàng sau thế kỷ 17 đối với sự gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu tại Anh vào cuối thế kỷ 18, sau đó lan rộng sang Tây Âu và những thuộc địa quy mô lớn của châu Âu tại Bắc Mỹ và Á-Úc (Australasia). [70] Nhưng chắc chắn không có gì phải nghi ngờ rằng cách mạng tài chính đi trước cách mạng công nghiệp. Đúng là những đột phá quyết định trong ngành dệt và sản xuất thép, hai mũi nhọn của cuộc cách mạng công nghiệp, không phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng trong việc cung cấp vốn.[71] Nhưng các ngân hàng đóng vai trò quan trọng hơn nhiều trong quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu lục địa so với ở Anh. Trên thực tế, có thể việc tìm một mối quan hệ nhân quả đơn giản sẽ là vô ích (các tổ chức tài chính tiên tiến hơn tạo ra tăng trưởng hay tăng trưởng thúc đẩy phát triển tài chính). Hai quá trình này hoàn toàn có thể phụ thuộc lẫn nhau và củng cố cho nhau. Cả hai đều thể hiện đặc tính tiến hóa rõ rệt, với sự đột biến thường kỳ (sáng kiến kỹ thuật), sự hình thành loài (sự ra đời nhiều loại hãng mới) và cân bằng ngắt quãng (các cuộc khủng hoảng sẽ quyết định hãng nào tồn tại và hãng nào sẽ biến mất). Nói theo lời Adam Smith, "hoạt động sáng suốt của ngân hàng, bằng cách dùng tiền giấy thay thế phần lớn... vàng và bạc... tạo ra... một đường xe ngựa băng băng." Trong một thế kỷ sau khi ông xuất bản cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia, 1776), các sáng kiến tài chính đã bùng nổ kéo theo sự xuất hiện của vô số kiểu ngân hàng khác nhau ở châu Âu và Bắc Mỹ. Loại hình được thiết lập xưa nhất là các ngân hàng chiết khấu hối phiếu, giúp tài trợ cho nội thương và ngoại thương bằng cách chiết khấu các hối phiếu do một thương nhân ký phát cho một thương nhân khác. Ngay vào thời Smith, London đã là nơi quần tụ nhiều hãng đặc biệt thành công như Barings, chuyên về dịch vụ ngân hàng thương mại vượt Đại Tây Dương (theo tên gọi sau của loại hình dịch vụ này). Vì các lý do luật định, các ngân hàng Anh thời kỳ này hầu hết đều là các hợp danh (partnership) tư nhân, một số tập trung vào việc kinh doanh trong khu City - tên gọi khu vực một dặm vuông tại London nơi tập trung các hoạt động tài chính phục vụ giới thương nhân trong nhiều thế kỷ, trong khi số khác lại chuyên phục vụ giới thượng lưu có ruộng đất. Những ngân hàng thuộc loại sau được gọi là các "ngân hàng nông thôn", và sự thăng trầm của chúng theo sát sự thăng trầm của ngành nông nghiệp ở Anh. Sự khác biệt then chốt giữa tiến hóa trong tự nhiên và tiến hóa trong tài chính nằm ở đặc điểm có thể gọi là "thiết kế thông minh"[72]- mặc dù trong trường hợp này, người điều tiết luôn là con người chứ không phải là thần thánh. Dần dần, thông qua một quá trình thử sai kéo dài, Ngân hàng Anh đã phát triển các chức năng công cộng, để đổi lại lệnh tái xác nhận độc quyền phát hành tiền giấy của nó được ban hành năm 1826. Nó thành lập chi nhánh tại các tính và dần dần tiếp quản toàn bộ công việc phát hành tiền giấy từ tay các ngân hàng nông thôn”[73]. Ngân hàng này cũng ngày càng đóng vai trò chủ chốt trong các giao dịch liên ngân hàng. Ngày càng nhiều các khoản tiền mà các ngân hàng nợ lẫn nhau được giao dịch qua các phòng giao dịch của Ngân hàng Anh tại phố Threadneedle. Với việc luật cho vay nặng lãi theo đó giới hạn mức chiết khấu trên hối phiếu thương mại bị bãi bỏ vào năm 1833, Ngân hàng Anh có thể hoàn toàn phát huy lợi thế quy mô do là ngân hàng lớn nhất trong khu City. Dần dần, tỷ lệ chiết khấu của nó được xem như mức lãi suất ngắn hạn tối thiểu trên cái gọi là thị trường tiền tệ (thị trường dành cho các khoản tín dụng ngắn hạn, chủ yếu thông qua việc chiết khấu hối phiếu thương mại). Một câu hỏi vẫn chưa được giải đáp trong bốn mươi năm sau đó là tương quan giữa dự trữ của Ngân hàng Anh với lượng lưu thông tiền giấy của nó sẽ phải như thế nào. Trong thập niên 1840, quan điểm của Thống đốc Ngân hàng J. Horsley Palmer là mức dự trữ chủ yếu được điều tiết bởi quy mô của việc chiết khấu, miễn là một phần ba số dự trữ này bao gồm tiền vàng hay vàng thỏi. Thủ tướng Anh, Sir Robert Peel, tỏ ra ngờ vực cách làm này. Ông tin rằng việc làm như vậy chứa đựng rủi ro phát hành tiền quá mức và lạm phát. Luật Hoạt động Ngân hàng năm 1844 của Peel chia Ngân hàng Anh thành hai bộ phận: ban nghiệp vụ ngân hàng thực hiện các công việc kinh doanh thương mại của Ngân hàng Anh, và ban phát hành, được trao 14 triệu bảng tiền chứng khoán cùng một số lượng không ấn định tiền vàng và vàng thỏi, số tiền này sẽ dao động căn cứ vào cán cân thương mại giữa nước Anh và thế giới. Lượng phát hành tiền tín dụng (fiduciary note) không được vượt quá tổng giá trị của số chứng khoán và vàng nói trên. Nhưng các cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau (vào các năm 1847, 1857 và 1866) cho thấy quy định này trói buộc quá chặt; ở cả ba cuộc khủng hoảng, Luật này đều bị tạm ngừng thi hành để tránh sự sụp đổ thanh khoản[74]hoàn toàn. Chỉ sau cuộc khủng hoảng cuối cùng, khi một cuộc đổ xô đi rút tiền ngoạn mục đã khiến ngân hàng Overend Gurney sụp đổ, tổng biên tập tạp chí The Economist (Nhà kinh tế) Walter Bagehot mới đưa ra một công thức mới cho vai trò phù hợp của Ngân hàng Anh trong khủng hoảng. Đó là vai trò làm "nơi bấu víu cho vay cuối cùng", cho vay thoải mái, nhưng với mức lãi phạt, nhằm chống lại các cuộc khủng hoảng thanh khoản.[75] Nhưng cần nhấn mạnh là Bagehot không giải quyết được hoàn toàn vấn đề tiền tệ thời Victoria. Ông cũng không khá hơn những lý thuyết gia kinh tế nổi tiếng trong thế kỷ 19 để có thể thách thức nguyên tắc thiêng liêng, được thiết lập từ thời Isaac Newton làm Giám quản xưởng đúc tiền (Master of the Mint), rằng một bảng (pound sterling) sẽ được chuyển đổi thành vàng theo một tỷ lệ ấn định không đổi là 3 bảng 17 shilling và 10,5 xu tương đương 1 ounce vàng[76]. Nếu đọc các thảo luận đương thời về chế độ bản vị vàng, có thể thấy rằng người thời Victoria cũng làm nô lệ cho thứ kim loại quý này giống như những kẻ sang chinh phục châu Mỹ ba thế kỷ trước đó. "Chỉ có các Kim loại Quỹ mới là tiền," một trong những bậc quyền cao chức trọng của khu City là Nam tước Overstone đã tuyên bố. "Tiền giấy là tiền bởi vì nó là đại diện cho Tiền Kim loại. Nếu không làm được vậy, thì chúng sẽ là thứ tiền giả mạo không hơn không kém. Một người gửi có thể nhận được kim loại, nhưng không phải người gửi nào cũng có thể, do đó tiền gửi không phải là tiền thực sự."[77] Nếu như nguyên tắc này được tuân thủ, và nếu như lượng cung tiền của nền kinh tế Anh thực sự bám vào số tiền vàng và vàng thỏi có trong dự trữ của Ngân hàng Anh, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế Anh đã bị dừng lại, kể cả khi tính tới hiệu ứng mở rộng nền kinh tế nhờ số vàng mới được phát hiện trong thế kỷ 19. Việc phát hành tiền của Ngân hàng Anh hạn chế tới mức dự trữ vàng thỏi của nó thậm chí còn nhiều hơn giá trị tiền mặt lưu hành từ giữa thập kỷ 1890 cho tới Thế chiến thứ nhất. Chỉ có sự ra đời của hàng loạt các loại ngân hàng mới, đặc biệt là các ngân hàng nhận tiền gửi, mới giúp cho quá trình mở rộng tiền tệ diễn ra. Sau năm 1858, các hạn chế đối với ngân hàng cổ phần bị dỡ bỏ, mở đường cho sự ra đời của một số ngân hàng thương mại lớn: London & Westminster (thành lập năm 1833), National Provincial (1834), Birmingham & Midland (1836), Lloyds (1884) và Barclays (1896). Hình thức ngân hàng đầu tư công nghiệp từng thành công ở Bỉ (Société Générale), ở Pháp (Crédit Mobilier) và Đức (Ngân hàng Darmstädter) thì lại không thành công lắm tại Anh sau thất bại của Overend Gurney. Nhu cầu thiết yếu không phải ở chỗ các ngân hàng mua lượng lớn cổ phần của các công ty công nghiệp mà là ở chỗ các tổ chức thu hút tiền gửi của người tiết kiệm, tạo ra cơ sở liên tục mở rộng cho những khoản cho vay mới ở phía bên kia bảng cân đối. Trong quá trình này có vai trò hết sức quan trọng của các ngân hàng tiết kiệm mới ra đời, đã sinh sôi nảy nở vào đầu thế kỷ 20. Cho tới năm 1913, số tiền gửi tại các ngân hàng tiết kiệm Anh đã lên tới 256 triệu bảng, xấp xỉ một phần tư tổng tiền gửi tại Anh. Tài sản của các ngân hàng tiết kiệm Đức lớn gấp 2,5 lần tài sản của các ''đại ngân hàng" mà nhiều người biết như Darmstädter, Deutsche, Dresdner và Disconto-Gesellschaft. Cho tới khi xảy ra Thế chiến thứ nhất, giá trị tiền gửi của người dân tại các ngân hàng Anh đã đạt gần 1,2 tỷ bảng, trong khi tổng tiền mặt lưu hành chỉ là 45,5 triệu bảng. Giờ đây tiền đã chủ yếu nằm trong các ngân hàng và người ta không nhìn thấy chúng, dù rằng không lúc nào không nghĩ tới chúng. Mặc dù có khác biệt nhưng hầu hết các nền kinh tế phát triển đều theo chân nước Anh trong việc điều tiết thông qua một ngân hàng trung ương độc quyền, hoạt động theo chế độ bản vị vàng, và tập trung việc nhận tiền tiết kiệm tại một số tương đối ít các tổ chức tài chính lớn. Ngân hàng Pháp (Banque de France) được thành lập năm 1800 và Reichsbank của Đức được thành lập năm 1875, Ngân hàng Nhật Bản vào năm 1882 và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ vào năm 1907. Tại Anh, cũng như tại châu Âu lục địa, có các xu hướng rõ rệt tiến tới tập trung hóa, được thể hiện bằng sự sụt giảm số lượng các ngân hàng nông thôn từ mức cao nhất là 755 vào năm 1809 xuống chỉ còn 17 vào năm 1913. Quá trình tiến hóa của ngành tài chính tại Mỹ lại rất khác. Tại đây, các nhà lập pháp có vẻ dị ứng với ý tưởng để cho một số nhà tài chính có quyền lực quá lớn. Họ đã hai lần hủy bỏ một ngân hàng trung ương từ khi còn trứng nước (Ngân hàng Hoa Kỳ thứ nhất và thứ hai), và chỉ tới năm 1913 mới thông qua luật cho phép thành lập Hệ thống Dự trữ Liên bang. Cho tới thời điểm này, nước Mỹ trên thực tế đã tham gia một thí nghiệm tự nhiên với hệ thống ngân hàng hoàn toàn tự do. Đạo luật Ngân hàng Quốc gia năm 1864 giảm đáng kể các rào cản cho việc thành lập ngân hàng sở hữu tư nhân, và quy định mức vốn thấp so với tiêu chuẩn châu Âu. Cùng lúc đó, lại có những cản trở trong việc thành lập loại ngân hàng hoạt động xuyên qua ranh giới các bang. Ảnh hưởng kết hợp của các quy định này là sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các ngân hàng toàn quốc và ngân hàng bang từ cuối thế kỷ 19 cho tới đầu thế kỷ 20, từ chưa đến 12.000 ngân hàng vào năm 1899 lên tới đỉnh cao là 30.000 ngân hàng vào năm 1922. Một số lượng lớn các ngân hàng có vốn quá ít chính là tiền đề cho sự thiếu ổn định tài chính và các cơn hoảng loạn, là đặc điểm thường thấy trong đời sống kinh tế Mỹ - ngoạn mục nhất là Đại Suy thoái, khi một cuộc khủng hoảng ngân hàng lớn bị làm cho trầm trọng hơn thay vì được giảm nhẹ trong tay một cơ quan tiền tệ mới có hơn mười lăm năm kinh nghiệm hoạt động. Sự ra đời của bảo hiểm tiền gửi vào năm 1933 đã góp phần lớn làm giảm bớt sự dễ đổ vỡ của các ngân hàng Mỹ trước những cuộc rút tiền ồ ạt. Tuy vậy, khu vực ngân hàng vẫn hết sức manh mún cho tới tận năm 1976, khi Maine trở thành bang đầu tiên hợp thức hóa hoạt động ngân hàng xuyên bang (interstate banking). Mãi cho tới tận năm 1993, sau cuộc khủng hoảng của các ngân hàng tiết kiệm và cho vay (xem Chương 5), số lượng các ngân hàng toàn quốc ở Mỹ mới lần đầu tiên trong gần một thế kỷ giảm xuống dưới con số 3.600. Năm 1924, John Maynard Keynes từng lớn tiếng bác bỏ chế độ bản vị vàng, xem nó là "di tích thời dã man". Nhưng sự giải phóng tiền tệ do ngân hàng tạo ra, thoát khỏi sự neo giữ của kim loại quý, đã diễn ra chậm chạp. Hiển nhiên chế độ bản vị vàng có những lợi thế của nó. Tính ổn định của tỷ giá cho phép dự đoán giá trong thương mại và giảm chi phí giao dịch, trong khi sự ổn định lâu dài của giá cả đóng vai trò neo giữ các kỳ vọng về lạm phát. Chi phí vay mượn cũng có thể đã giảm xuống trong chế độ bám giữ vào vàng, do các chính phủ phải cam kết theo đuổi những chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng. Khó khăn trong việc neo giữ tiền tệ vào chế độ bản vị dựa trên một hàng hóa duy nhất, hay trên thực tế là neo giữ loại tiền tệ này vào loại tiền tệ khác, chính là việc các nhà hoạch định chính sách bắt buộc phải lựa chọn giữa di chuyển vốn tự do và chính sách tiền tệ quốc gia độc lập. Họ không thể đồng thời có cả hai. Neo giữ tiền tệ cũng có thể làm cho lãi suất ngắn hạn biến động cao hơn, do ngân hàng trung ương muốn giữ giá của đồng tiền ổn định theo tỷ giá cố định so với vàng. Điều này có nghĩa là giảm phát sẽ xảy ra nếu lượng cung của hàng hóa làm neo bị hạn chế (như trường hợp lượng cung của vàng so với nhu cầu về vàng trong hai thập kỷ 1870 và 1880). Và điều này có thể đưa đến các cuộc khủng hoảng tài chính (như đã xảy ra trong thời kỳ tái thiết lập bản vị vàng sau năm 1929). Trái lại, một hệ thống tiền tệ dựa chủ yếu vào các khoản tiền gửi ngân hàng và tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ không chịu những hạn chế này. Chế độ bản vị vàng mất rất nhiều thời gian mới chết hẳn, nhưng không có nhiều người nuối tiếc khi vết tích cuối cùng của nó được dỡ bỏ ngày 15/8/1971, ngày Tổng thống Richard Nixon đóng cửa cái gọi là "cửa sổ" vàng, mà qua đó, trong những điều kiện hạn chế nhất định, đồng đô la vẫn còn có thể được hoán đổi thành vàng. Từ ngày đó trở đi, mối liên hệ kéo dài nhiều thế kỷ giữa tiền tệ và kim loại quý đã bị phá vỡ. Quốc gia phá sản Thành phố Memphis, bang Tennessee (Hoa Kỳ), nổi tiếng với những chiếc giày da màu xanh da trời, các bữa liên hoan ngoài trời và những vụ phá sản. Nếu bạn muốn hiểu cách thức các chủ nhà băng ngày nay - những người kế tục dòng họ Medici - đối phó với vấn đề rủi ro tín dụng do những người đi vay không đáng tin cậy tạo ra, thì Memphis nhất định là nơi thích hợp cho bạn. Tính trung bình, có khoảng từ một tới hai triệu vụ phá sản hằng năm tại Mỹ, gần như toàn bộ đều hên quan tới các cá nhân lựa chọn phá sản thay vì thực hiện các nghĩa vụ mà họ không đáp ứng được. Một tỷ lệ lớn đến ngạc nhiên các vụ phá sản xảy ra ở bang Tennessee. Điều đáng chú ý là quá trình này dường như không đau đớn lắm, nếu so sánh với chuyện tương tự xảy ra tại Venice vào thế kỷ 16 hay một số khu vực tại Glasgow ngày nay. Hầu hết người đi vay lâm vào tình cảnh khó khăn tại Memphis có thể thoát khỏi hay ít nhất cũng giảm được số nợ của mình, mà không bị coi đó là vết nhơ và vẫn an toàn về mặt thân thể. Một trong những câu hỏi lớn nhất là làm thế nào nền kinh tế tư bản thành công nhất thế giới lại có thể được xây dựng trên nền tảng các đổ vỡ kinh tế dễ dàng như thế. Khi tới thăm Memphis lần đầu vào đầu mùa hè năm 2007, tôi bị cuốn hút bởi sự có mặt khắp nơi và dày đặc của cả tín dụng dễ dãi và sự phá sản dễ dàng. Tất cả những gì tôi phải làm là đi bộ dọc một con phố gần trung tâm thành phố. Đầu tiên sẽ là các trung tâm mua sắm và cửa hàng đồ ăn nhanh, đó là những nơi người Tennessee tiêu dùng đáng kể. Ngay cạnh đó là văn phòng "tư vấn thuế" sẵn sàng giúp những ai thiếu tiền mặt đòi khoản khấu trừ thuế (tax credit) cho người có thu nhập thấp. Tôi thấy một cửa hiệu cho vay tiền lấy ô tô làm thế chấp, bên cạnh đó là một công ty cho vay thế chấp nhà lần hai, và một cửa hàng đổi séc lấy tiền mặt đồng thời ứng trước tiền dựa vào lương cho khách hàng (với lãi suất 200%). Đó là chưa kể tới một hiệu cầm đồ có quy mô bằng cả cửa hàng bách hóa. Ở vị trí tiện lợi cho những người đã thế chấp tất cả tài sản của mình là một trung tâm cho thuê những đồ nội thất rẻ tiền và ti vi. Và kế bên đó? Trung tâm Plasma, trả 55 đô la một lần cho những người hiến máu. Thành phố Memphis hiện đại đã trao cho thành ngữ "vắt kiệt máu" một ý nghĩa hoàn toàn mới. Một cốc máu có thể không khó mất đi như một pound thịt nhưng ý tưởng chung lại giống nhau đến đáng buồn. Thế nhưng hậu quả của việc phá sản tại Memphis ít nghiêm trọng hơn nhiều so với rủi ro chết chóc mà Antonio gặp phải tại Venice. Ngay sau Trung tâm Plasma, tôi dừng chân tại văn phòng của George Stevenson, một trong các luật sư kiếm sống bằng cách tư vấn cho các vụ phá sản tại Tòa Phá sản Hoa Kỳ khu vực Tây Tennessee. Vào thời gian tôi tới Tennessee, số các đơn xin phá sản tại riêng khu vực Memphis đã vào khoảng 10.000, và tôi không ngạc nhiên khi thấy Tòa Phá sản đông kín người. Hệ thống này có vẻ hoạt động rất trơn tru. Từng người một, các cá nhân và cặp vợ chồng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán ngồi cùng với một luật sư, người sẽ đứng ra thay mặt họ để đàm phán với các chủ nợ. Thậm chí còn có một lối tắt riêng cho những người muốn phá sản nhanh chóng - mặc dù tính trung bình, chỉ có ba trên năm vụ phá sản là được dàn xếp (nghĩa là đạt được thỏa thuận với chủ nợ). Khả năng rũ bỏ món nợ không thể duy trì và bắt đầu lại từ đầu là một trong những đặc trưng kỳ khôi của chủ nghĩa tư bản Mỹ. Vào đầu thế kỷ 19, chưa hề có các nhà tù cho con nợ ở Mỹ, trong khi cùng thời gian đó, các con nợ Anh sẽ phải mòn mỏi lê thân trong tù hàng năm trời. Từ năm 1898, mỗi người Mỹ đều có quyền xin thực hiện Chương VII (thanh lý tài sản) hay Chương XIII (tự nguyện tái tổ chức cá nhân) trong Luật Phá sản Mỹ. Dù giàu hay nghèo, người dân Mỹ dường như coi phá sản là "quyền không thể tách rời", gần như tương đương với quyền "sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc". Lý lẽ cho thực tế này là quan điểm rằng luật ở Mỹ tồn tại nhằm khuyến khích tính thần kinh doanh, tức là tạo điều kiện cho sự hình thành các doanh nghiệp mới. Và điều này có nghĩa là cho người ta được dung thứ nếu các kế hoạch của họ thất bại, kể cả khi chuyện đó xảy ra lần thứ hai, và theo đó cho phép những người ưa rủi ro bẩm sinh học hỏi từ các thử nghiệm và thất bại của mình, cho tới khi cuối cùng, họ cũng tìm ra cách kiếm tiền triệu. Suy cho cùng, những người phá sản hôm nay rất có thể là các chủ doanh nghiệp thành đạt của ngày mai. Thoạt nhìn, có vẻ như lý thuyết này thực sự hiệu quả. Nhiều doanh nhân thành công nhất nước Mỹ đã thất bại trong những nỗ lực ban đầu của mình, bao gồm cả ông vua xốt cà chua John Henry Heinz, ông trùm ngành xiếc Phineas Barnum và đại gia xe hơi Henry Ford. Tất cả những người này cuối cùng đều giàu kinh khủng, và một lý do không nhỏ là họ có được cơ hội để thử, để thất bại và để làm lại. Nhưng nếu quan sát kỹ những gì xảy ra ở Tennessee thì vấn đề lại khác. Những người có mặt tại Tòa Phá sản Memphis không phải là các doanh nhân sắp phá sản. Họ chỉ là những cá nhân bình thường không thể trả được các hóa đơn của mình - thường là các hóa đơn y tế lớn mà người Mỹ đột nhiên phải đối mặt nếu như họ không được bảo hiểm y tế cá nhân chi trả. Việc phá sản có lẽ ban đầu là để giúp các doanh nhân và doanh nghiệp của họ, nhưng ngày nay có tới 98% hồ sơ phá sản được xác định là không thuộc kinh doanh. Nguyên nhân chính dẫn tới phá sản không phải là máu kinh doanh mà là tình trạng nợ nần. Trong năm 2007, nợ tiêu dùng của Mỹ đạt tới mức kỷ lục 2,5 nghìn tỷ đô la. Vào năm 1959, nợ tiêu dùng tương đương 16% thu nhập cá nhân khả dụng. Hiện nay, con số này là 24%.[78] Một trong những thách thức mà bất kỳ nhà sử học tài chính hiện đại nào cũng gặp phải là làm sao hiểu được nguyên nhân xảy ra sự bùng nổ nợ nần của hộ gia đình, và ước tính các hậu quả có thể sẽ xảy ra nếu như - và điều này dường như là không tránh khỏi - có sự gia tăng tỷ lệ phá sản tại các bang như Tennessee. Trước khi có thể trả lời được các câu hỏi này một cách đầy đủ, chúng ta cần xem xét các thành phần then chốt khác của hệ thống tài chính: thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, thị trường bảo hiểm, thị trường bất động sản và quá trình toàn cầu hóa phi thường này đã diễn ra trong vòng hai mươi năm qua trên tất cả các thị trường. Nhưng nguyên nhân sâu xa chắc chắn nằm trong việc tiến hóa của tiền tệ và các ngân hàng, với nợ là thành phần chủ chốt. Một thực tế không thể né tránh là quyết định phá vỡ mối liên hệ giữa việc tạo ra tiền và dùng kim loại neo giữ đã đưa đến sự mở rộng tiền tệ chưa từng có - và cùng với nó là sự bùng nổ tín dụng mà thế giới chưa bao giờ được chứng kiến. Bằng cách đo tính thanh khoản như là tỷ lệ tiền theo nghĩa rộng trên sản lượng[79]trong một trăm năm qua, chúng ta thấy rõ rằng xu hướng kể từ thập kỷ 1970 là tỷ lệ này tăng lên - ở những nước lớn phát triển, tỷ lệ này tăng từ khoảng 70% giai đoạn trước khi đóng cửa "cửa sổ vàng" tới hơn 100% vào năm 2005.[80] Trong khu vực đồng euro, tỷ lệ này tăng rất nhanh, từ mức chỉ hơn 60% vào năm 1990 lên tới gần 90% ngày nay. Trong khi đó, tỷ lệ vốn thích đáng (capital adequacy) của các ngân hàng tại các nước phát triển đang giảm chậm chạp nhưng đều đặn. Tại châu Âu, vốn ngân hàng hiện nay chưa bằng 10% tài sản, so với con số khoảng 25% vào đầu thế kỷ 20.[81] Nói cách khác, các ngân hàng không chỉ nhận thêm tiền gửi; họ còn cho vay một tỷ lệ lớn hơn của số tiền gửi này và giảm thiểu vốn cơ sở của mình. Ngày nay, tài sản của ngân hàng (tức là các khoản cho vay) tại các nền kinh tế lớn trên thế giới tương đương 150% tổng GDP của các nước này.[82] Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlement), tổng tài sản ngân hàng quốc tế vào tháng 12/2006 tương đương 29 nghìn tỷ đô la, xấp xỉ 63% GDP toàn thế giới.[83] Giá đóng cửa của vàng trên thị trường New York (đô la trên ounce, theo thang logarit), 1908-2008. Như vậy liệu có đáng ngạc nhiên khi tiền tệ không còn giữ nguyên được giá trị như thời bản vị vàng? Tờ bạc đô la ngày nay có thiết kế như bây giờ kể từ năm 1957. Từ đó, sức mua của nó, trong tương quan với chỉ số giá tiêu dùng, đã giảm đi một cách đáng kinh ngạc mất 87%. Lạm phát trung bình hằng năm trong giai đoạn này vượt quá 4%, cao gấp hai lần mức lạm phát mà châu Âu từng chứng kiến trong cuộc cách mạng giá cả do việc khai thác bạc ở Potosí mang lại. Một người đổi 1.000 đô la tiền tiết kiệm lấy vàng vào năm 1970, thời điểm mà cửa sổ vàng vẫn còn có hiệu lực, sẽ nhận được hơn 26,6 ounce một chút thứ kim loại quý này. Vào thời điểm viết cuốn sách này, với mức giá vàng đạt gần 1.000 đô la cho một ounce, ông ta có thể bán số vàng lấy số tiền 26.596 đô la. Một thế giới không có tiền sẽ tồi tệ hơn, tồi tệ hơn nhiều, so với thế giới hiện nay. Thật là sai lầm khi cho rằng (như nhân vật Antonio của Shakespeare từng nghĩ) tất cả những người cho vay tiền chỉ là lũ đỉa, hút máu các con nợ không may mắn. Những kẻ cho vay nặng lãi có thể hành động như thế, nhưng các ngân hàng đã biến chuyển kể từ thời gia đình Medici, nhằm mục đích (như cách nói cô đọng của Huân tước Rothschild Đệ Tam) "hỗ trợ cho sự chuyển dịch tiền tệ từ điểm A, nơi hiện nó đang ở, tới điểm B, nơi người ta cần tới nó".[84] Tín dụng và nợ, nói tóm lại, nằm trong số những viên gạch thiết yếu cho phát triển kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự giàu có thịnh vượng của các quốc gia không kém gì khai khoáng, chế tạo hay điện thoại di động. Trái lại, nghèo đói hiếm khi có thể quy trực tiếp cho các mánh mung của những nhà tài chính tham lam. Nó thường xảy ra hơn là do thiếu vắng các tổ chức tài chính, các ngân hàng, chứ không phải do sự hiện diện của chúng. Chỉ khi nào người vay tiền tại những nơi như khu Đông Glasgow có thể tiếp cận được các mạng lưới tín dụng hiệu quả, họ mới có thể thoát khỏi móng vuốt của bọn cho vay nặng lãi; chỉ khi nào những người gửi tiền đưa tiền của mình vào các ngân hàng đáng tin cậy thì số tiền đó mới được chuyển dịch từ vốn nhàn rỗi tới những người chăm chỉ. Do đó, quá trình tiến hóa của ngân hàng chính là bước đi quan trọng đầu tiên trong sự lên ngôi của đồng tiền. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 8/2007 rất ít liên quan tới hình thức cho vay truyền thống của ngân hàng, hay thậm chí tới các vụ phá sản mà trên thực tế đã giảm trong năm 2007 (do sự thay đổi về mặt luật pháp). Nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng là sự thăng trầm của "cho vay chứng khoán hóa", nó cho phép các ngân hàng tạo ra các khoản cho vay, sau đó tái đóng gói chúng rồi đem bán lần nữa. Nhưng điều này xảy ra được chỉ là vì tiếp theo sự lên ngôi của các ngân hàng là sự lên ngôi của cột trụ lớn thứ hai trong hệ thống tài chính hiện đại: thị trường trái phiếu. Chương 2 SỰ LỆ THUỘC CỦA CON NGƯỜI Trong một trăm ngày đầu tiên Bill Clinton làm tổng thống, ban đầu người quản lý chiến dịch tranh cử của ông là James Carville đã có một nhận xét nổi tiếng. "Tôi đã từng nghĩ nếu như có kiếp luân hồi, thì tôi muốn trở lại thế giới trong vai trò tổng thống hay giáo hoàng, hay cầu thủ bóng chày đạt tỷ lệ ghi điểm 0,4[85]," ông ta nói với tờ Wall Street Journal (Nhật báo Phố Wall). "Nhưng giờ đây tôi muốn trở lại thế gian trong vai trò thị trường trái phiếu. Khi ấy bạn có thể làm tất cả mọi người sợ" Ông ta đã khá ngạc nhiên khi giá trái phiếu tăng sau cuộc bầu cử tháng 11 trước đó, và động thái này diễn ra trước cả bài phát biểu, trong đó tổng thống cam kết giảm thâm hụt liên bang. "Cái thị trường đầu tư ấy, bọn họ là một đám khó thỏa mãn," cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Lloyd Bentsen nhận xét. "Liệu nỗ lực này [của Tổng thống] có đáng tin cậy? Có thực sự là chính quyền có quyết tâm thúc đẩy việc đó? Bọn họ đã phán xét nó như vậy đấy." Nếu giá trái phiếu tiếp tục tăng cao, như lời của cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan Greenspan, đó sẽ là "đòn kích thích [kinh tế] mạnh mẽ nhất mà tôi có thể nghĩ tới."[86] Điều gì có thể khiến các quan chức này phát biểu với sự tôn trọng, thậm chí là kinh sợ, về một thị trường chỉ đơn giản là mua đi bán lại các giấy nợ (IOU) của chính phủ? Trái phiếu 10 năm của chính phủ Nhật, bao gồm cả các phiếu lĩnh lãi Sau việc các ngân hàng tạo ra tín dụng thì sự ra đời của trái phiếu là cuộc cách mạng lớn thứ hai trong tiến trình lên ngôi của đồng tiền. Các chính phủ (và các công ty lớn) phát hành trái phiếu để vay tiền từ đông đảo dân chúng và tổ chức, thay vì chỉ từ các ngân hàng. Thử lấy ví dụ về trái phiếu kỳ hạn 10 năm của chính phủ Nhật có mệnh giá 100.000 yên và lãi suất cố định hay phiếu lãi (coupon) 1,5%. Đây chỉ là một phần nhỏ trong "núi" nợ công lên tới 838 nghìn tỷ yên mà Nhật Bản đã tích tụ, chủ yếu trong giai đoạn từ những năm 1980 cho tới nay. Trái phiếu này mang theo lời hứa của chính phủ Nhật, sẽ trả lãi 1,5% của 100.000 yên hằng năm trong vòng mười năm tới cho bất kỳ ai sở hữu trái phiếu này. Người mua trái phiếu ban đầu có quyền bán nó bất kỳ lúc nào anh ta muốn và ở bất kỳ mức giá nào do thị trường xác lập. Vào thời điểm viết cuốn sách này, mức giá trái phiếu đó vào khoảng 102.333 yên. Tại sao lại thế? Bởi vì thị trường trái phiếu hùng mạnh xác lập cái giá ấy. Từ sự khởi đầu khiêm tốn tại các thị quốc bắc Italia 800 năm trước đây, thị trường trái phiếu tới nay đã tăng trưởng tới mức khổng lồ. Tổng giá trị trái phiếu được giao dịch quốc tế hiện nay vào khoảng 18 nghìn tỷ đô la. Giá trị trái phiếu được giao dịch trong nước (ví dụ như các trái phiếu Nhật do các nhà đầu tư Nhật sở hữu) nằm ở mức đáng kinh ngạc là 50 nghìn tỷ đô la. Tất cả chúng ta, dù có muốn hay không (và hầu hết chúng ta thậm chí còn không biết về nó), đều bị ảnh hưởng bởi thị trường trái phiếu theo hai cách thức quan trọng. Thứ nhất, một tỷ lệ lớn tiền tiết kiệm cho tuổi già của chúng ta được đầu tư trên thị trường trái phiếu. Thứ hai, do quy mô khổng lồ của nó, và bởi vì các chính phủ lớn được đánh giá là những người đi vay đáng tin cậy nhất, chính thị trường trái phiếu đã thiết lập các mức lãi suất dài hạn cho nền kinh tế nói chung. Khi giá trái phiếu giảm, thì lãi suất tăng vọt, dẫn đến những hậu quả đau đớn cho tất cả những người đi vay. Cách thức tác động của nó như sau. Giả sử một người có 100.000 yên muốn để dành. Người này mua trái phiếu có mệnh giá 100.000 yên để giữ cho khoản tiền này an toàn, đồng thời lại tạo ra các khoản thu nhập thường xuyên cho người đó. Nói một cách chính xác, trái phiếu này trả mức lãi suất cố định hay "phiếu lãi" bằng 1,5%: tức là 1.500 yên mỗi năm trong trường hợp trái phiếu trị giá 100.000 yên. Nhưng lãi suất thị trường hay tỷ suất lợi tức (yield) hiện hành được xác định bằng cách chia phiếu lãi cho thị giá trái phiếu, và nếu mức thị giá hiện tại là 102.333 yên thì 1.500/102.333 = 1,47%.[87] Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống khi thị trường trái phiếu hoảng hốt trước gánh nợ khổng lồ của chính phủ Nhật Bản. Giả sử các nhà đầu tư bắt đầu lo ngại là Nhật Bản sẽ không thể đáp ứng được các khoản thanh toán mà nó cam kết trả hằng năm. Hay giả sử họ bắt đầu lo ngại về sự lành mạnh của đồng tiền Nhật Bản - đồng yên - làm căn cứ cho các trái phiếu được yết giá và lãi suất được trả. Trong những tình huống như vậy, giá trái phiếu sẽ sụt giảm khi các nhà đầu tư đua nhau bán số trái phiếu họ có. Các trái phiếu này chỉ tìm thấy người mua khi giá đủ thấp để bù đắp cho người mua rủi ro gia tăng từ việc chính phủ Nhật không trả được nợ hoặc từ việc đồng tiền của Nhật bị giảm giá. Hãy tưởng tượng giá trái phiếu của chúng ta bị giảm xuống còn 80.000 yên. Tỷ lệ lợi tức khi đó sẽ là 1.500/80.000 = 1,88%. Chỉ trong một khoảnh khắc, lãi suất dài hạn của toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản đã nhảy lên hai phần năm của một phần trăm, từ 1,47% lên 1,88%. Những người trước khi có thay đổi này đã đầu tư vào trái phiếu để dành dụm cho nghỉ hưu sẽ bị thiệt hại 22%, bởi vì vốn của họ sẽ giảm đi một khoản bằng khoản giảm giá trái phiếu. Còn những người muốn vay mua nhà trả góp sau cú chuyển dịch thị trường này sẽ phải trả thêm ít nhất là 0,41% mỗi năm (hay nói theo ngôn ngữ thị trường là 41 điểm cơ sở [basis point]) cho các khoản vay của mình. Nói như lời của Bill Gross, người điều hành quỹ trái phiếu lớn nhất thế giới tại Pacific Investment Management Company (PIMCO), "các thị trường trái phiếu có quyền lực bởi vì chúng là cơ sở nền tảng cho tất cả các thị trường. Chi phí tín dụng, lãi suất [dựa trên trái phiếu tiêu chuẩn], rốt cuộc sẽ quyết định giá trị của cổ phiếu, nhà ở và tất cả các loại tài sản." Từ quan điểm của một nhà chính trị, thị trường trái phiếu có quyền lực một phần do nó đưa ra phán quyết hằng ngày về tính khả tín trong các chính sách tài khóa và tiền tệ của mọi chính phủ. Nhưng quyền lực thực tế của nó nằm ở khả năng trừng phạt một chính phủ bằng chi phí vay mượn cao hơn. Thậm chí chỉ một chuyển động gia tăng nửa điểm phần trăm cũng có thể gây tổn hại cho một chính phủ đang bị thâm hụt ngân sách, và làm tăng nghĩa vụ nợ phải trả cho các khoản chi tiêu vốn dĩ đã cao của chính phủ này. Như trong rất nhiều mối quan hệ tài chính khác, có một vòng tròn hồi tiếp. Chi phí trả lãi cao hơn sẽ làm thâm hụt ngân sách nhiều hơn. Thị trường trái phiếu sẽ càng lo ngại nhiều hơn. Các trái phiếu sẽ lại bị bán tống bán tháo và hạ giá hơn. Lãi suất sẽ lại tăng. Vòng luẩn quẩn này lại tiếp tục. Chẳng mấy chốc chính phủ sẽ phải đứng trước ba lựa chọn ảm đạm. Nó có nên tuyên bố không trả được nợ đối với một phần các khoản nợ của mình, và khi đó biến nổi lo sợ tồi tệ nhất của thị trường trái phiếu thành hiện thực? Hoặc là, để trấn an thị trường trái phiếu, chính phủ cần cắt giảm chi tiêu ở một số lĩnh vực nào-đấy, khiến cho cử tri hay các thế lực bị ảnh hưởng trở nên giận dữ? Hoặc là, nó cố gắng làm giảm thâm hụt bằng cách tăng thuế? Thị trường trái phiếu hình thành từ chỗ hỗ trợ chính phủ vay mượn. Nhưng trong khủng hoảng, có thể chính thị trường này sẽ chi phối chính sách của chính phủ. Nhưng làm cách nào mà ''ông Bond" này lại trở nên nhiều quyền lực hơn hẳn ông Bond do Ian Fleming tạo ra? Tại sao, cả hai loại bond này đều có quyền sinh quyền sát đến vậy[88]? Núi nợ "Chiến tranh," triết gia Hy Lạp cổ đại Heraclitus tuyên bố, "là cha đẻ của mọi thứ." Hiển nhiên, chiến tranh là cha đẻ của thị trường trái phiếu. Trong bức tranh khắc đáng chú ý của Pieter van der Heyden Trận chiến tiền tệ, những ống heo, túi tiền, thùng tiền và rương tiền - hầu hết được trang bị kiếm, dao, và thương - tấn công lẫn nhau trong một cuộc ẩu đả náo loạn. Những vần thơ bằng tiếng Hà Lan dưới bức tranh viết: "Tất cả đều vì tiền và hàng hóa, cái cuộc chiến này, cái trận cãi vã này." Nhưng những dòng chữ này cũng có thể viết: "Chiến tranh chỉ có thể xảy ra nếu bạn huy động được tiền để thanh toán cho nó." Khả năng tài trợ cho chiến tranh thông qua thị trường nợ của chính phủ, giống như rất nhiều thứ khác trong lịch sử tài chính, là phát kiến của thời Phục hưng ở Italia. Pieter van der Heyden khắc theo tranh của Pieter Bruegel tiền bối. Trận chiến tiền tệ, khoảng sau năm 1570. Dòng chữ tiếng Hà Lan viết: "Tất cả đều vì tiền và hàng hóa, cái cuộc chiến này, cái trận cãi vã này.” Trong phần lớn thế kỷ 14 và 15, các thị quốc Trung cổ ở Tuscany là Florence, Pisa và Siena thường xuyên đánh lẫn nhau hay đánh nhau với các thành phố khác của Italia. Tiền bạc cũng tham gia đánh nhau như con người. Thay vì yêu cầu các công dân của mình tham gia công việc đánh nhau bẩn thỉu, các thành phố này mướn những nhà thầu quân sự (condottiero), để họ huy động các đội quân cướp đất và của cải từ các đối thủ. Trong số những condottiero trong hai thập kỷ 1360 và 1370 có một người nổi bật hơn cả. Dáng người oai vệ của ông vẫn còn lưu lại trên những bức tường tại Nhà thờ Lớn (Duomo) của Florence - bức tranh này vốn do công chúng Florence đặt hàng để bày tỏ lòng biết ơn và ghi nhận "tài lãnh đạo không gì so sánh được" của ông. Cho dù có vẻ khó tin, nhưng người lính đánh thuê xuất sắc này lại là một chàng trai người hạt Essex (Anh), sinh ra và lớn lên ở làng Sible Hedingham. Bởi John Hawkwood đã thay mặt họ để tham chiến một cách hết sức khéo léo, những người Italia gọi ông là Giovanni Acuto, nghĩa là John Sắc Sảo. Lâu đài Castello di Montecchio ở ngoại ô Florence là một trong những bất động sản mà người Florence trao cho ông để tưởng thưởng công lao của ông. Thế nhưng Hawkwood là một lính đánh thuê, sẵn sàng chiến đấu cho bất kỳ ai trả tiền cho mình, kể cả các thành phố Milan, Padua, Pisa hay Giáo hoàng. Những bức tranh tường lộng lẫy tại cung điện Palazzo Vecchio ở Florence mô tả cảnh hai đoàn quân của Pisa và Florence đụng độ nhau năm 1364, vào thời điểm Hawkwood đang chiến đấu cho Pisa. Thế nhưng mười lăm năm sau, ông ta đã chuyển sang phục vụ Florence và dành hết phần đời binh nghiệp còn lại của mình cho thành phố này. Tại sao? Bởi vì Florence chính là nơi chốn của tiền. Chi tiêu cho chiến tranh liên miên đã đẩy các thị quốc Italia vào khủng hoảng. Ngay cả trong những năm không có chiến tranh, chi tiêu cũng cao gấp hai lần thu nhập từ thuế. Phải trả tiền cho những người như Hawkwood, Florence chìm ngập trong tình cảnh thâm hụt tài chính. Ngày nay, bạn vẫn có thể nhìn thấy trong sổ sách tại Quốc thư khố Tuscany rằng gánh nợ của thành phố này tăng 100 lần từ 50.000 florin vào đầu thế kỷ 14 lên tới 5 triệu vào năm 1427.[89] Đó thực sự là một núi nợ - từ đó mới có cái tên monte commune hay núi nợ công.[90] Tới đầu thế kỷ 15, tiền vay chiếm tới gần 70% thu nhập của thành phố. "Núi" nợ này tương đương với hơn một nửa tổng sản lượng hằng năm của nền kinh tế Florence. Những người Florence có thể vay mượn số tiền khổng lồ như vậy từ ai? Câu trả lời là từ chính họ. Thay vì trả thuế đất đai, các công dân giàu có có nghĩa vụ cho chính phủ thành phố mình vay tiền. Để đổi lấy các khoản cho vay bắt buộc này (gọi là prestanze), họ nhận được tiền lãi. Chính xác thì hành vi này không gọi là cho vay lấy lãi (là thứ như chúng ta biết, bị Giáo hội ngăn cấm) do khoản tiền cho vay là bắt buộc; và để phù hợp với giáo luật, khoản tiền lãi được coi như là tiền đền bù (damnum emergens) cho những chi phí thực tế hay giả định phát sinh từ khoản đầu tư bắt buộc. Như Hostiensis (hay Henry) ở Susa đã viết vào khoảng năm 1270: Nếu một thương nhân nào đó, quen với việc theo đuổi các hoạt động trao đổi thương mại công bằng và hưởng lợi từ các hoạt động này, mà vì lòng từ thiện, cho tôi, người đang hết sức cần tiền, vay một khoản tiền mà lẽ ra anh ta có thể sử dụng để kinh doanh, thì tôi sẽ có nghĩa vụ bù đắp interesse (lợi ích) cho anh ta [chú ý đây chính là nghĩa sử dụng ban đầu của từ "interest" - tiền lãi]...[91] Một đặc điểm quan trọng của hệ thống Florence là người ta có thể bán các khoản tiền cho vay này cho những công dân khác nếu nhà đầu tư cần có tiền mặt ngay; nói cách khác, chúng là những tài sản có tính thanh khoản khá cao, cho dù những trái phiếu này vào thời đó chỉ là vài dòng không hơn không kém ghi trong một cuốn sổ bọc da. Như vậy, trên thực tế, Florence đã biến công dân của mình thành những nhà đầu tư lớn nhất. Cho tới đầu thế kỷ 14, hai phần ba các hộ gia đình ở đây đã đóng góp theo cách thức này để tài trợ cho khoản nợ công của chính quyền, mặc dù hầu hết phần đóng góp đến từ số ít ỏi vài nghìn cá nhân giàu có.[92] Các khoản bút toán của nhà Medici trong "Ruolo delle prestanze" ("Sổ cho vay") không chỉ minh chứng cho sự giàu có của gia đình này vào thời điểm đó, mà còn thể hiện mức độ đóng góp của họ cho ngân khố thị quốc. Một lý do giải thích việc hệ thống này hoạt động rất hiệu quả là họ cùng vài gia đình giàu có khác đã kiểm soát chính quyền thành phố và do đó kiểm soát cả nền tài chính của thành phố. Cấu trúc quyền lực đầu sỏ[93]này tạo nền tảng chính trị vững chắc cho thị trường trái phiếu. Không giống như một ông vua vô trách nhiệm được truyền ngôi nối dõi và có thể vi bội lời hứa trả tiền cho chủ nợ, những người phát hành trái phiếu tại Florence nói chung cũng là những người mua chúng. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi họ quan tâm sâu sắc đến việc đảm bảo tiền lãi được trả. Dẫu vậy, vẫn có một giới hạn về số lượng những cuộc chiến tranh ít nhiều không sinh lợi có thể được tiến hành theo cách này. Các khoản nợ của những thành phố Italia càng lớn thì họ càng phải phát hành thêm trái phiếu; và lượng trái phiếu được phát hành càng lớn thì rủi ro họ không trả được nợ theo cam kết càng cao. Trên thực tế, Venice đã phát triển hệ thống nợ công thậm chí còn trước cả Florence, từ cuối thế kỷ 12. Monte vecchio (núi cũ), tên của khoản nợ được tích lũy này, đóng vai trò chủ chốt trong việc tài trợ cho các cuộc chiến vào thế kỷ 14 giữa Venice với Genoa và các địch thủ khác. Một núi nợ khác nảy sinh sau cuộc chiến tranh kéo dài với người Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra từ năm 1463 tới 1479 và được gọi là monte nuovo (núi mới). [94] Các nhà đầu tư nhận được mức lãi 5% hằng năm, trả hai lần mỗi năm từ các khoản thuế hàng hóa của thành phố (được đánh trên các hàng tiêu dùng như muối). Tương tự như prestanze của Florence, prestito ở Venice là các khoản cho vay bắt buộc, nhưng tồn tại trong một thị trường thứ cấp cho phép các nhà đầu tư bán trái phiếu của mình cho những nhà đầu tư khác để đổi lấy tiền mặt.[95] Nhưng tới cuối thế kỷ 15, một loạt thất bại quân sự của Venice khiến cho thị trường prestito bị suy yếu nghiêm trọng. Từng có giá 80 (thấp hơn mệnh giá 20%) vào năm 1497, trái phiếu loại monte nuovo ở Venice chỉ còn 52 vào năm 1500, hồi phục lại mức 75 vào cuối năm 1502 để rồi sụt giảm từ 102 xuống còn 40 vào năm 1509. Tại những thời điểm thấp nhất trong giai đoạn từ năm 1509 đến 1529, một monte vecchio chỉ bán được với giá 3 và một monte nuovo bán được với giá 10.[96] Nếu bạn mua trái phiếu chính phủ trong khi chiến tranh đang diễn ra, hiển nhiên bạn đang chấp nhận rủi ro: rủi ro ở chỗ có thể chính phủ sẽ không trả lãi cho bạn. Mặt khác, hãy nhớ là tiền lãi được trả căn cứ vào mệnh giá của trái phiếu, cho nên nếu bạn có thể mua một trái phiếu lãi 5% với mức giá 10% mệnh giá, bạn sẽ thu được tỷ suất lợi tức cao 50%. Thực chất là bạn dự kiến mức sinh lợi tỷ lệ với rủi ro mà bạn sẵn sàng đón nhận. Đồng thời, như chúng ta đã thấy, chính thị trường trái phiếu xác lập lãi suất cho toàn nền kinh tế. Nếu như chính phủ phải trả lãi 50% thì ngay cả những người đi vay thương mại đáng tin cậy cũng phải trả một cái phí bảo hiểm chiến tranh nào đó. Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên khi vào năm 1499, lúc Venice phải chiến đấu cả trên bộ tại Lombardy và trên biển chống lại Đế quốc Ottoman, thành phố này chứng kiến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng khi các trái phiếu sụt giá thê thảm và lãi suất tăng vọt.[97] Tương tự, thị trường trái phiếu sụp đổ năm 1509 là kết quả trực tiếp từ thất bại của quân đội Venice ở Agnadello. Hậu quả trong các trường hợp này đều giống nhau: đó là việc kinh doanh đình trệ. Không chỉ các thị quốc Italia đóng góp cho sự đi lên của thị trường trái phiếu. Ở Bắc Âu, các chính thể đô thị cũng phải đối mặt với vấn đề tài trợ cho các khoản thâm hụt của họ sao cho không làm mất lòng Giáo hội. Ở đây, người ta đi đến một giải pháp hơi khác. Mặc dù cấm lấy lãi trên khoản vay (mutuum), nhưng luật về cho vay lấy lãi không áp dụng với các hợp đồng thời trung đại gọi là census, trong đó cho phép một bên mua các khoản tiền thanh toán hằng năm (niên kim) từ bên kia. Vào thế kỷ 13, các niên kim này bắt đầu được phát hành tại các thành thị bắc Pháp như Douai và Calais và các thành thị ở xứ Flanders[98]như Ghent. Niên kim thuộc một trong hai hình thức: rente heritable hay erfelijkrente (niên kim thừa kế), là dòng thu nhập vĩnh viễn mà người mua có thể để lại cho người được thừa kế, hoặc rente viagère hay lijfrente (niên kim trọn đời), là trường hợp dòng tiền thu nhập chấm dứt khi người mua chết. Người bán, chứ không phải người mua, có quyền lấy lại rente bằng cách trả lại tiền gốc. Cho tới giữa thế kỷ 16, việc bán các niên kim này mang tới khoảng 7% thu nhập của tỉnh Hà Lan.[99] Cả hai vương triều Pháp và Tây Ban Nha đều muốn huy động tiền theo cách này, nhưng họ phải sử dụng các thành thị làm trung gian. Trong trường hợp của Pháp, các khoản tiền được hôtel de ville (tòa thị chính) Paris thay mặt nhà vua huy động; trong trường hợp Tây Ban Nha, các juro (khoản vay) hoàng gia được bán cho thị trường thông qua Casa di San Giorgio (một tập đoàn tư nhân đã mua lại quyền thu thuế cho thành phố) ở Genoa (nay thuộc Italia) và thông qua beurs, một hình thức tiên phong cho thị trường chứng khoán hiện đại, ở Antwerp (nay thuộc Bỉ). Thế nhưng những người đầu tư vào các khoản nợ của hoàng gia cần cẩn thận. Trong khi các thành thị, với những hình thức cai trị kiểu tập đoàn đầu sỏ và các khoản nợ trong phạm vi địa phương, sẽ có động cơ tránh vỡ nợ, thì điều này không còn đúng với những nhà cai trị chuyên chế. Như chúng ta đã thấy ở Chương 1, vua Tây Ban Nha vỡ nợ nhiều lần trong giai đoạn cuối thế kỷ 16 và thế kỷ 17: hoãn trả nợ toàn phần hay một phần cho các chủ nợ trong các năm 1557, 1560, 1575, 1596, 1607, 1627, 1647, 1652 và 1662.[100] Một phần lý do giải thích các khó khăn tài chính của Tây Ban Nha là những chi phí cực kỳ tốn kém trong nỗ lực nhằm đánh bại các tỉnh nổi dậy ở Bắc Hà Lan. Cuộc nổi loạn này là một sự kiện bước ngoặt trong lịch sử tài chính cũng như lịch sử chính trị. Với thể chế cộng hòa, Các tỉnh Hợp nhất kết hợp được ưu điểm của thị quốc với quy mô của quốc gia. Họ có thể tài trợ được cho những cuộc chiến của mình nhờ phát triển Amsterdam thành thị trường cho một loạt các loại chứng khoán mới: không chỉ có niên kim trọn đời và vĩnh viễn, mà còn cả các khoản cho vay xổ số (người đầu tư sẽ mua một xác suất nhỏ để trúng khoản tiền lớn). Tới năm 1650, đã có hơn 65.000 rentier (người sống bằng lợi tức) Hà Lan, những người đầu tư vốn vào một công cụ nợ nào đó, nhờ đó hỗ trợ tài chính cho cuộc đấu tranh lâu dài của người Hà Lan nhằm duy trì nền độc lập của mình. Trong khi người Hà Lan chuyển từ tình trạng tự vệ sang bành trướng đế quốc thì núi nợ của họ cũng ngày một chất cao hơn, từ 50 triệu guilder (ghin-đơ) năm 1632 lên tới 250 triệu guilder vào năm 1752. Thế nhưng, tỷ suất lợi tức trên trái phiếu Hà Lan lại giảm dần một cách đều đặn, xuống thấp tới mức 2,5% vào năm 1747, một dấu hiệu cho thấy không những vốn đã trở nên thừa mứa ở Các tính Hợp nhất mà các nhà đầu tư cũng rất ít lo ngại về việc Hà Lan vỡ nợ.[101] Cùng với cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688 ở Anh, khi vua James II theo Công giáo bị lật đổ và Công tước xứ Orange người Hà Lan theo đạo Tin Lành được đưa lên ngôi, những sáng kiến này và các đổi mới khác đã từ Amsterdam vượt eo biển Manche tới London. Hệ thống tài khóa của Anh vốn đã khác biệt đáng kể so với hệ thống của các nền quân chủ ở lục địa. Đất đai do nhà vua sở hữu đã bị đem bán sớm hơn ở những nơi khác làm tăng quyền lực của nghị viện trong việc kiểm soát chi tiêu của hoàng gia, trong khi quyền lực nghị viện tại Tây Ban Nha, Pháp và Đức bị suy giảm. Ở Anh cũng có sự dịch chuyển rõ rệt hướng đến ngành dân chính có tính chuyên nghiệp, sống dựa vào lương chứ không bằng tham ô. Cuộc Cách mạng Vinh quang càng làm sâu sắc thêm sự khác biệt này. Từ lúc này trở đi, không còn hiện tượng vỡ nợ thường xuyên nữa (ký ức về sắc lệnh "Ngừng thanh toán" năm 1672 vẫn còn in đậm trong tâm trí những nhà đầu tư London, khi vua Charles II trong tình cảnh nợ nần như chúa Chổm đã hoãn thanh toán các khoản nợ của mình). Từ đây cũng không còn hiện tượng giảm giá kim loại tiền đúc, nhất là sau khi Anh áp dụng chế độ bản vị vàng vào năm 1717. Các khoản tài chính của hoàng gia chịu sự giám sát kỹ lưỡng của nghị viện. Đồng thời, có nỗ lực bền bỉ nhằm hợp nhất các khoản nợ mà vương triều Stuart đã tích tụ trong nhiều năm, quá trình này được hoàn thành vào năm 1749 với việc Henry Pelham tạo ra Quỹ Hợp nhất (Consolidated Fund)[102].[103] Điều này trái hẳn với định hướng tài chính đang diễn ra tại Pháp, nơi các vụ vỡ nợ xảy ra có tính định kỳ; các chức vụ được rao bán để thu tiền chứ không để phục vụ dân sự; việc thu thuế bị tư nhân hóa hay bị đùn đẩy; các báo cáo ngân sách hiếm hoi và hầu như không thể hiểu được; Estates General [Hội nghị Ba Đẳng cấp] (là cơ quan gần nhất với một nghị viện ở Pháp) không còn hội họp; và các tổng quản tài chính nối tiếp nhau cố gắng huy động tiền bằng cách phát hành các rente và tontine[104](các niên kim được bán căn cứ vào cuộc đời của các nhóm người) theo những điều khoản rộng rãi quá mức với các nhà đầu tư.[105] Ở London, tới giữa thế kỷ 18 đã có một thị trường trái phiếu thịnh vượng, trong đó các trái phiếu hợp nhất vô thời hạn (consol) của chính phủ là loại chứng khoán chủ yếu được mua bán, vì có tính thanh khoản cao - nói cách khác là dễ bán - và hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài (nhất là người Hà Lan).[106] Ở Paris, trái lại, không có những hiện tượng như vậy. Chính sự khác biệt tài chính này sẽ tạo ra những hậu quả chính trị sâu sắc. Bởi vì đây có thể coi là thứ trái phiếu thành công nhất từng được phát hành, chúng ta cũng nên dừng lại để quan sát kỹ hơn về trái phiếu hợp nhất nổi danh của Anh. Cho tới cuối thế kỷ 18, người ta có thể đầu tư vào hai loại: loại mang phiếu lãi 3% và loại mang phiếu lãi 5%. Ngoài khác biệt lãi suất thì cả hai loại này đều giống hệt nhau: chúng cùng là các trái phiếu vĩnh viễn, không ấn định ngày đáo hạn, và chính phủ chỉ có thể mua lại (thu hồi) khi thị giá của chúng bằng hay cao hơn mệnh giá (par). Hình minh họa sau cho thấy một trái phiếu hợp nhất thông thường, là hóa đơn một phần được in, một phần viết tay, nêu rõ số tiền đầu tư, mệnh giá chứng khoán, tên nhà đầu tư và ngày tháng: Nhận vào ngày 22 tháng 1 năm 1796 từ Bà Anna Hawes số tiền Một trăm linh một bảng, được tính là Một trăm bảng tiền vốn, hay phần góp trong vốn hay cổ phần liên hợp, với niên kim năm phần trăm, phát hành hợp nhất không đáo hạn ngày 6 tháng 7 năm 1785... có thể chuyển nhượng tại Ngân hàng Anh... Với việc trả 101 bảng cho trái phiếu vô thời hạn 100 bảng, bà Hawes đảm bảo nhận được tỷ suất lợi tức hằng năm trên đầu tư của mình ở mức 4,95%. Đây không phải là khoản đầu tư đúng lúc lắm. Tháng 4 năm đó diễn ra chiến thắng đầu tiên tại Montenotte của một đội quân Pháp do viên sĩ quan trẻ người đảo Corse có tên là Napoléon Bonaparte chỉ huy. Ông ta lại chiến thắng lần nữa tại Lodi vào tháng 5. Trong hai thập kỷ tiếp theo, người này sẽ là một mối nguy cho sự an toàn và ổn định tài chính của Đế quốc Anh, chưa nói tới nền hòa bình của châu Âu, mối nguy lớn hơn tất cả các dòng họ Habsbourg và Bourbon gộp lại. Để đánh bại ông ta, sẽ phải xuất hiện thêm một núi nợ nữa. Và khi núi nợ ngày một cao thì giá trái phiếu vô thời hạn cá nhân sẽ giảm đi - và nó đã giảm đến 30% trong thời điểm tài sản của nước Anh ở mức tồi tệ nhất. Việc đi lên như sao băng của chàng lùn đảo Corse để trở thành Hoàng đế Pháp và chúa tể lục địa châu Âu là một sự kiện hiếm người có thể đoán được vào năm 1796, và bà Anna Hawes hiển nhiên không ở trong số đó. Nhưng một công tích còn nổi bật hơn (và tồn tại lâu dài hơn) về thăng tiến trong đẳng cấp xã hội sẽ xảy ra gần như vào đúng khung thời gian ấy. Chỉ vài năm sau thất bại cuối cùng của Napoléon tại Waterloo, một người đàn ông đã vươn lên trong khung cảnh u ám của khu Do Thái ở Frankfurt để trở thành một Bonaparte tài chính: ông chủ của thị trường trái phiếu và thậm chí, như một số người nhận định, ông chủ của nền chính trị châu Âu. Tên của người đó là Nathan Rothschild. Bonaparte tài chính Là ông chủ của những tài sản không giới hạn, ông ta tự khoe rằng mình là người phân xử hòa bình và chiến tranh, rằng nguồn tín dụng của các quốc gia phụ thuộc vào cái gật đầu của ông ta; ngân hàng giao dịch của ông ta nhiều vô số; những nhân viên thư tín của ông ta còn nhiều hơn cả các vua chúa cầm quyền; các quốc vụ khanh được ông ta trả lương. Ở vị thế tột bậc trong các nội các ở châu Âu lục địa, giờ đây ông ta muốn thống trị nội các của chúng ta.[107] Những lời này được nghị sĩ cấp tiến Thomas Dunscombe phát biểu năm 1828. Người mà ông ta nhắc tới chính là Nathan Mayer Rothschild, người thành lập chi nhánh London của cái được xem là ngân hàng lớn nhất thế giới trong gần trọn thế kỷ 19.[108] Thị trường trái phiếu đã khiến gia tộc Rothschild giàu có - đủ để xây 41 dinh cơ sang trọng ở khắp châu Âu, trong đó có Waddesdon Manor tại Buckinghamshire, tòa nhà này được phục hồi trở lại tráng lệ bởi Huân tước Rothschild Đệ Tứ, chút của Nathan. Cụ tổ cần cù của ông, theo Huân tước Rothschild, là một người "thấp, béo, hay bị ám ảnh, cực kỳ thông minh, có khả năng tập trung cao độ... Tôi hình dung ông ấy không phải là một người dễ chịu cho lắm nếu phải làm ăn cùng." Em họ của ông là Evelyn de Rothschild có cùng quan điểm. "Tôi nghĩ ông ấy rất tham vọng" ông ta nói khi ngắm bức chân dung của Nathan Rothschild treo tại phòng lớn trong văn phòng của ngân hàng N. M. Rothschild ở ngõ St Swithin Lane, London, "và tôi nghĩ ông ấy là người rất quyết tâm. Tôi không nghĩ ông ấy chịu đựng được những kẻ khờ." Mặc dù những người trong gia đình Rothschild chịu khó viết thư song chỉ còn tương đối ít thư từ của Nathan gửi cho các anh em trai của mình còn sót lại. Nhưng có một trang thư cho thấy rõ ông ta là người như thế nào. Được viết bằng ngôn ngữ Judendeutsch (tiếng Đức chuyển tự sang chữ cái Hebrew) gần như không ai đọc được, như tất cả các bức thư khác của Nathan, bức thư này cô đọng cái có thể gọi là luân lý nghề nghiệp kiểu Do Thái và sự thiếu kiên nhẫn của ông với những người anh em kém linh lợi: Tôi viết cho các anh em để đưa ra ý kiến của mình, bởi đó là trách nhiệm chết tiệt của tôi khi viết cho các anh em... Tôi đã đọc thư của mọi người không chỉ một lần mà có lẽ tới một trăm lần. Các anh em có thể tự tưởng tượng lấy. Sau bữa tối, tôi thường không có việc gì làm. Tôi không đọc sách, tôi không chơi bài, tôi không tới rạp hát, niềm vui duy nhất của tôi chỉ là công việc và thế là tôi đã đọc thư của anh Amschel, anh Salomon, James và Carl... về lá thư của Carl [đề cập tới việc mua một căn nhà lớn ở Frankfurt]... tất cả chỉ toàn những điều vô nghĩa, bởi vì chừng nào chúng ta còn làm ăn tốt và còn giàu có, tất cả mọi người sẽ phỉnh phờ chúng ta và những ai không có lợi ích gì nhờ chúng ta sẽ ghen tị với chúng ta. Anh Salomon thì lại quá tốt, luôn tán đồng với mọi thứ và với bất kỳ ai nên nếu như có một thằng ăn bám nào thì thầm vào tai anh, anh sẽ nghĩ rằng tất cả nhân loại đều cao thượng cả [;] thực tế là tất cả bọn chúng đều chỉ theo đuổi lợi ích cho mình.[109] Điều không mấy ngạc nhiên là anh em của Nathan gọi Nathan là "viên tướng thống soái". "Tất cả những gì chú viết," Salomon mệt mỏi than phiền năm 1815, "là trả tiền cái này, trả tiền cái kia, gửi thứ này, gửi thứ kia” [110] Chính nghị lực phi thường ấy, cộng với tài năng tài chính thiên bẩm, đã lôi Nathan từ chốn vô danh tại Judengasse (phố Do Thái) ở Frankfurt tới chỗ nắm trong tay thị trường trái phiếu London. Nhưng một lần nữa, cơ hội cho sáng kiến tài chính lại do chiến tranh tạo ra. Sáng ngày 18/6/1815, 67.000 binh sĩ Anh, Hà Lan và Đức dưới quyền chỉ huy của Công tước Wellington trông sang bên kia cánh đồng Waterloo, khá gần Brussels, nơi có đám binh sĩ Pháp có số lượng gần ngang bằng do Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte chỉ huy. Trận chiến Waterloo là đỉnh cao của hơn hai thập kỷ xung đột lúc bùng lúc lắng giữa Anh và Pháp. Nhưng nó không chỉ là một trận đánh giữa hai đội quân. Nó còn là cuộc tỷ thí giữa hai hệ thống tài chính đối địch nhau: hệ thống thứ nhất của Pháp, dưới thời Napoléon dựa vào việc cướp bóc (đánh thuế những kẻ bị chinh phục); hệ thống kia của Anh dựa trên vay nợ. Chưa bao giờ người ta lại phát hành nhiều trái phiếu để tài trợ cho xung đột quân sự đến vậy. Từ năm 1793 tới 1815, nợ quốc gia của Anh đã tăng gấp ba lần, lên đến 745 triệu bảng, nhiều hơn hai lần sản lượng hằng năm của nền kinh tế Anh. Sự gia tăng nguồn cung trái phiếu đã gây ra gánh nặng lớn cho thị trường London. Từ tháng 2/1792, giá của một trái phiếu vô thời hạn 100 bảng với lãi suất 3% thông thường đã giảm từ 96 bảng xuống còn 60 bảng trước ngày diễn ra trận Waterloo, và có lúc (vào năm 1797) còn giảm xuống dưới 50 bảng. Đó thực sự là thời buổi khó khăn cho những người như bà Anna Hawes. Theo một truyền thuyết lâu đời, những khoản tiền triệu đầu tiên của gia đình Rothschild có được là nhờ Nathan đã phỏng đoán chính xác về tác động của kết quả trận đánh tới giá trái phiếu Anh. Trong một vài phiên bản của câu chuyện này, đích thân Nathan đã chứng kiến trận đánh, ông ta đã mạo hiểm vượt qua trận bão ở eo biển Manche để tới London trước khi tin chính thức về chiến thắng của Wellington tới nơi, và bằng cách mua một lượng lớn trái phiếu trước khi giá tăng mạnh, ông ta đã kiếm được từ 20 tới 135 triệu bảng Anh. Đây chính là huyền thoại mà sau này nước Đức Quốc xã cố gắng hết sức thêu dệt. Năm 1940, Joseph Goebbels chấp thuận việc xuất bản cuốn Die Rothschilds (Nhà Rothschild), trong đó mô tả một gã Nathan lươn lẹo đã hối lộ một viên tướng Pháp để đảm bảo cho chiến thắng của Công tước Wellington, rồi cố tình đưa tin sai về kết quả trận đánh tới London nhằm tạo ra cơn hoảng loạn bán ra các trái phiếu Anh, sau đó ông ta vồ lấy với mức giá mua rất thấp. Nhưng thực tế thì hoàn toàn khác.[111] Không những không kiếm được tiền từ chiến thắng của Wellington, nhà Rothschild suýt nữa còn khuynh gia bại sản. Cơ nghiệp của gia đình này được làm ra không phải nhờ Waterloo, mà bất chấp Waterloo. Sau một chuỗi các can thiệp sai lầm, quân đội Anh đã bắt đầu đánh nhau với Napoléon trên lục địa châu Âu từ tháng 8/1808, khi người sau này là Công tước Wellington, còn lúc ấy là Trung tướng Arthur Wellesley, dẫn đầu một đoàn quân viễn chinh tới Bồ Đào Nha mà một năm trước vừa bị Pháp xâm lược. Gần như suốt sáu năm sau đó, nhu cầu đưa người và nguyên vật liệu tới bán đảo Iberia[112]luôn thường trực. Việc bán trái phiếu cho công chúng chắc hẳn đã huy động được khá nhiều tiền cho chính phủ Anh, nhưng tiền giấy không có ích mấy ở các chiến trường xa xôi. Để cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội và trả tiền cho các đồng minh của Anh chống Pháp, Wellington cần tới một loại tiền tệ có thể được chấp nhận ở mọi nơi. Thách thức chính là phải biến số tiền huy động được trên thị trường trái phiếu thành tiền vàng, và đưa chúng tới nơi nào người ta cần chúng. Gửi tiền vàng từ London tới Lisbon là một công việc tốn kém và nguy hiểm trong thời chiến. Nhưng khi các thương nhân Bồ Đào Nha từ chối chấp nhận các hối phiếu của Wellington thì dường như chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc vận chuyển tiền. Là con trai của một nhà buôn đồ cổ và môi giới hối phiếu khá thành công ở Frankfurt, Nathan Rothschild mãi đến năm 1799 mới sang Anh. Trong gần mười năm sau đó, ông ta chủ yếu hoạt động ở vùng công nghiệp hóa miền Bắc, mua hàng dệt chuyển về Đức. Mãi tới năm 1811, ông mới bắt đầu kinh doanh ngân hàng tại London. Vậy tại sao chính phủ Anh lại cần tới ông khi gặp khó khăn tài chính? Câu trả lời là Nathan đã tích lũy được những kinh nghiệm quý giá khi buôn lậu vàng sang châu Âu, chọc thủng sự phong tỏa mà Napoléon áp đặt lên hoạt động thương mại giữa Anh và Pháp. (Thực sự là giới chức Pháp đã nhắm mắt làm ngơ cho việc vi phạm này, với niềm tin đơn giản của những người theo chủ thuyết trọng thương rằng việc vàng rời khỏi Anh nhất định sẽ làm suy yếu quá trình chuẩn bị chiến tranh của Anh). Tháng 1/1814, Bộ trưởng Tài chính Anh cho phép Tổng cục trưởng Quân nhu John Charles Herries được phép "dùng ngài đó [Nathan], một cách bí mật và kín đáo nhất, để thu gom từ Đức, Pháp và Hà Lan lượng tiền vàng và tiền bạc của Pháp ở mức lớn nhất, nhưng không được nhiều hơn 600.000 bảng, mà ông ta có thể mua được trong vòng hai tháng từ thời điểm này." Số tiền này sau đó được chuyển lên tàu vận tải của Anh đổ tại cảng Helvoetsluys của Hà Lan rồi được chuyển tới cho Wellington, lúc này đã vượt qua dãy Pyrenees để tiến vào Pháp. Đây là một phi vụ cực lớn, phụ thuộc vào khả năng của anh em nhà Rothschild trong việc tận dụng hệ thống tín dụng hai bên bờ eo biển Manche của họ và quản lý chuyển giao tiền vàng trên quy mô lớn. Họ thực hiện nhiệm vụ của mình thành công đến nỗi Wellington chẳng mấy chốc đã viết thư bày tỏ lòng biết ơn trước "lượng cung tiền khổng lồ". Như Herries viết: "Rothschild đã thực hiện những công việc được giao phó hết sức thành công, và mặc dù là một người Do Thái [nguyên văn], chúng tôi vẫn hết sức tin tưởng ông ta." Tới tháng 5/1814, Nathan đã giao gần 1,2 triệu bảng cho chính phủ Anh, nhiều gấp hai lần số lượng được nêu ra trong chỉ dẫn ban đầu dành cho ông. Việc huy động lượng vàng lớn như thế, dù ở thời điểm sắp kết thúc chiến tranh, hiển nhiên có nhiều rủi ro. Nhưng từ quan điểm của nhà Rothschild, những khoản hoa hồng hậu hĩnh mà họ được hưởng là thừa để họ chấp nhận rủi ro. Họ rất phù hợp với công việc này vì đã có sẵn một hệ thống ngân hàng trong gia đình - Nathan ở London, Amschel ở Frankfurt, James (em út) ở Paris, Carl ở Amsterdam và Salomon thì di chuyển tới bất cứ nơi nào Nathan thấy cần. Phân tán ra ở khắp châu Âu, năm anh em nhà Rothschild có được vị trí độc nhất vô nhị để có thể khai thác những khác biệt về giá cả và tỷ giá giữa các thị trường - một quá trình được gọi là kinh doanh chênh lệch tỷ giá (arbitrage). Chẳng hạn, nếu giá vàng ở Paris cao hơn ở London, James ở Paris sẽ bán vàng để lấy hối phiếu, và sau đó lại gửi hối phiếu tới London, tại đây Nathan sẽ dùng chúng để mua lượng vàng lớn hơn. Việc những giao dịch mà họ thay mặt Herries thực hiện đủ lớn để ảnh hưởng tới sự chênh lệch giá cả càng làm cho việc kinh doanh của họ sinh lợi. Thêm vào đó, nhà Rothschild cũng lo một phần trong số những khoản trợ cấp lớn để chi trả cho các đồng minh của Anh ở lục địa. Tới tháng 6/1814, Herries ước tính rằng họ đã thanh toán cho các đồng minh số tiền 12,6 triệu franc. Thủ tướng Anh, Huân tước Liverpool nhận xét, "Ông Rothschild" đã trở thành "một người bạn rất hữu ích". Ông cũng nói với Ngoại trưởng, Huân tước Castlereagh, "Tôi không biết chúng ta sẽ làm gì nếu như không có ông ta..." Và tới lúc đó, những người anh em nhà Rothschild đã gọi Nathan là ông chủ của Sở Giao dịch Chứng khoán. Sau khi thoái vị vào tháng 4/1814, Napoléon bị đày tới hòn đảo nhỏ Elba của Italia, tại đây ông ta tiếp tục trị vì như tại một đế quốc thu nhỏ. Hòn đảo này quá bé, không thể kìm hãm ông. Ngày 1/3/1815, trước nỗi kinh hoàng của các vua chúa và bộ trưởng tụ họp nhau nhằm duy trì trật tự châu Âu cũ tại Đại hội Vienna, Napoléon trở về nước Pháp với quyết tâm gây dựng lại đế chế của mình. Các cựu chiến binh trong grande armée (quân đội vĩ đại) tụ họp dưới cờ ông. Nathan Rothschild phản ứng trước "tin không dễ chịu" này bằng cách ngay lập tức quay trở lại mua vàng, mua tất tần tật những vàng thỏi và đồng vàng mà ông ta cùng các anh em trai ông có thể kiếm được, sẵn sàng vận chuyển cho Herries để đưa tới tay Wellington. Tổng cộng lại, nhà Rothschild đã cung cấp lượng tiền vàng hơn 2 triệu bảng Anh - đủ để chứa đầy 884 hộp và 55 thùng tô nô. Đồng thời, Nathan cũng nhận trách nhiệm gửi một đợt trợ cấp mới cho các đồng minh của Anh trên lục địa, nâng tổng giá trị các giao dịch của ông với Herries trong năm 1815 lên gần 9,8 triệu bảng. Với tỷ lệ hoa hồng cho các hoạt động này ở mức từ 2 tới 6%, sự quay trở lại của Napoléon hứa hẹn biến anh em nhà Rothschild thành những người giàu có. Nhưng có một rủi ro mà Nathan đã đánh giá thấp. Khi vội vàng mua một lượng vàng lớn như thế, ông ta giả định rằng, giống như các cuộc chiến với Napoléon trước kia, cuộc chiến này sẽ kéo dài. Đây suýt nữa là một tính toán sai lầm trí mạng. Giá trái phiếu hợp nhất vô thời hạn của Anh từ 1812 tới 1822 Wellington có câu nói nổi tiếng gọi trận Waterloo là "trận đánh cam go nhất bạn có thể thấy trên đời". Sau một ngày tấn công, phản công dữ dội và phòng ngự kiên cường, sự có mặt trễ tràng của quân đội Phổ đã có ý nghĩa quyết định. Với Wellington, đó là một chiến thắng vinh quang. Nhưng với nhà Rothschild thì không phải như vậy. Nathan Rothschild chắc hẳn hài lòng khi nhận được tin tức về thất bại của Napoléon sớm nhất, nhờ tốc độ những người đưa tin của ông ta, gần 48 giờ trước khi Thiếu tá Henry Percy truyền thông tin chính thức của Wellington tới Nội các. Nhưng dù tin đó đến sớm sủa, đó không phải là một tin tốt cho Nathan. Ông ta không ngờ trận đánh xảy ra có tính quyết định như thế. Giờ đây, ông ta và những người anh em của mình đang ngồi trên một đống tiền mà không ai cần đến - để trả cho một cuộc chiến đã kết thúc. Hòa bình được lập lại, những đội quân lớn chiến đấu chống Napoléon có thể được giải ngũ, và liên minh được giải thể. Điều đó có nghĩa là không còn phải trả lương cho binh lính và trợ cấp cho các đồng minh thời chiến của Anh. Giá vàng, từng tăng vọt trong thời chiến, chắc chắn sẽ giảm. Nathan đối mặt không phải với lợi nhuận kếch xù như truyền thuyết về ông mà với những tổn thất nặng nề và ngày càng tăng. Nhưng vẫn còn một lối thoát khả dĩ: nhà Rothschild có thể dùng số vàng của mình để làm một cú đặt cược khổng lồ và hết sức liều lĩnh vào thị trường trái phiếu. Ngày 20/7/1815, ấn bản buổi tối của tờ Courier London đưa tin Nathan đã "mua rất nhiều chứng khoán", ở đây là trái phiếu chính phủ Anh. Canh bạc của Nathan đặt vào cửa chiến thắng của Anh tại Waterloo và triển vọng các khoản vay của chính phủ giảm đi sẽ đẩy giá trái phiếu Anh vọt lên cao. Nathan mua nhiều, và khi giá trái phiếu hợp nhất vô thời hạn bắt đầu tăng, ông ta tiếp tục mua thêm. Bất chấp lời cầu khẩn của các em trai là hãy bán ra để thu lợi nhuận, Nathan giữ vững tinh thần thêm một năm nữa. Cuối cùng, vào cuối năm 1817, khi giá trái phiếu đã tăng hơn 40%, ông ta bán. Sau khi tính cả ảnh hưởng tới sức mua đồng bảng do lạm phát và tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận thu được của ông ta vào khoảng 600 triệu bảng tính theo thời giá hiện nay. Đây là một trong những thương vụ táo bạo nhất trong lịch sử tài chính, trong đó thắng lợi tài chính được cứu khỏi nanh vuốt thảm bại quân sự của Napoléon. Những người đương thời đã chú ý tới mối tương đồng giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại. Theo lời một trong các đối tác của nhà Baring, đối thủ lớn của nhà Rothschild, "Tôi phải thành thực thừa nhận là tôi không có can đảm để làm như ông ta. Các giao dịch của ông ta được lên kế hoạch cẩn thận, được thực hiện với sự khôn ngoan và khéo léo tuyệt vời. Ông ta lão luyện với tiền và vốn quỹ như Bonaparte lão luyện trong chiến tranh."[113] Đối với thư ký của Thủ tướng Áo, Hoàng tử Metternich, nhà Rothschild đơn giản là die Finanzbonaparten (các Bonaparte tài chính).[114] Những người khác còn đi xa hơn, dù không phải không có ý châm biếm. "Tiền là Thượng đế trong thời đại chúng ta," nhà thơ Đức Heinrich Heine tuyên bố vào tháng 3/1841, "và Rothschild là nhà tiên tri của Người."[115] Ở mức độ đáng kinh ngạc ngay cả với ngày nay, nhà Rothschild tiếp tục thống trị nền tài chính thế giới trong vòng nửa thế kỷ sau trận Waterloo. Thành tựu này có vẻ phi thường đối với những người cùng thời đến độ họ thường phải tìm cách giải thích viện đến những lý do kỳ bí. Theo một nguồn từ thập niên 1830, nhà Rothschild có được gia sản của mình nhờ chiếm được một "lá bùa Hebrew" bí hiểm cho phép Nathan Rothschild, người sáng lập ra chi nhánh ở London, trở thành "chúa tể của các thị trường tiền tệ châu Âu". [116] Các câu chuyện tương tự cũng được kể lại trong Vùng Định cư, nơi những người Do Thái ở Nga bị buộc phải cư trú, cho tới tận những năm 1890.[117] Như chúng ta đã thấy, Quốc xã ưa lối giải thích rằng sự đi lên của nhà Rothschild là do thao túng tin tức trên thị trường chứng khoán và các hành động gian giảo khác. Những huyền thoại này thậm chí ngày nay vẫn tồn tại. Theo cuốn sách bán chạy Chiến tranh tiền tệ[118]của Song Hongbing được xuất bản tại Trung Quốc năm 2007, nhà Rothschild hiện nay vẫn tiếp tục kiểm soát hệ thống tiền tệ toàn cầu bằng ảnh hưởng của mình tới Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ.[119] Thực tế thật ra buồn tẻ hơn: nhờ tận dụng được các thành công trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Napoléon, nhà Rothschild đã tạo dựng được cho mình vai trò chủ chốt trên thị trường trái phiếu London có tính quốc tế hóa ngày càng cao. Họ đạt được điều này nhờ thiết lập được một cơ sở vốn và mạng lưới thông tin tốt hơn nhiều so với những đối thủ theo sát nhất như nhà Baring. Từ năm 1815 tới 1859, ước tính chi nhánh London của nhà Rothschild đã phát hành mười bốn loại trái phiếu chính phủ khác nhau với mệnh giá gần 43 triệu bảng, chiếm hơn nửa tổng số trái phiếu được phát hành bởi tất cả các nhà băng ở London.[120] Tuy trái phiếu chính phủ Anh là loại chứng khoán chủ chốt được họ bán cho các nhà đầu tư, song họ cũng bán cả trái phiếu của Pháp, Phổ, Nga, Áo, Napoli và Brazil.[121] Thêm vào đó, họ gần như đã độc quyền trong kinh doanh trái phiếu phát hành bởi chính phủ Bỉ sau năm 1830. Thông thường, nhà Rothschild sẽ mua thẳng từ các chính phủ một phần trái phiếu mới được phát hành, tính thêm khoản hoa hồng cho việc phát hành trái phiếu này tới hệ thống các nhà môi giới và đầu tư của họ ở khắp châu Âu, và chỉ hoàn tiền cho chính phủ đó khi đã nhận được tất cả các khoản tiền của người mua. Luôn luôn có một khoảng chênh lệch hào phóng giữa giá mà nhà Rothschild trả cho chính phủ vay tiền và giá mà họ đòi từ nhà đầu tư (chừa một khoảng giãn cách dành cho việc "giá lên" sau khi chào giá lần đầu ra công chúng). Tất nhiên, như chúng ta thấy, đã có những hoạt động cho vay quốc tế quy mô lớn từ trước đó, đáng chú ý là ở Genoa, Antwerp và Amsterdam.[122] Nhưng đặc điểm nổi bật của thị trường trái phiếu London sau năm 1815 là nhà Rothschild yêu cầu các trái phiếu phát hành mới của mỗi chính phủ được niêm yết theo đồng bảng Anh chứ không phải đồng tiền của nước đó, và việc trả lãi phải diễn ra ở London hay ở một thị trường nào đó mà nhà Rothschild có chi nhánh. Họ đã xác lập một tiêu chuẩn mới trong đợt chào giá đầu tiên trước công chúng (initial public offering - IPO) các trái phiếu 5% của Phổ. Các trái phiếu này - sau những cuộc đàm phán kéo dài và căng thẳng[123]- đã được phát hành không chỉ ở London mà còn ở cả Frankfurt, Berlin, Hamburg và Amsterdam.[124] Trong cuốn sách Về sự buôn bán các trái phiếu nhà nước (1825), chuyên gia pháp lý Đức Johann Heinrich Bender coi đây là một trong những sáng kiến tài chính quan trọng nhất của nhà Rothschild: "Bất kỳ người chủ trái phiếu chính phủ nào... cũng có thể thu được tiền lãi một cách thuận tiện ở vài địa điểm khác nhau mà không mất công sức gì.”[125] Nhưng chắc chắn phát hành trái phiếu không phải công việc kinh doanh duy nhất của nhà Rothschild: họ cũng tham gia buôn trái phiếu, buôn tiền tệ, kinh doanh vàng và dịch vụ ngân hàng tư nhân, đồng thời cũng đầu tư vào các ngành bảo hiểm, khai mỏ và đường sắt. Dẫu vậy, thị trường trái phiếu vẫn là nơi tập trung nguồn lực chính của họ. Khác với các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn, nhà Rothschild tự hào trong việc chỉ kinh doanh những loại trái phiếu mà thời nay có thể gọi là trái phiếu xếp hạng đầu tư[126]. Không có trái phiếu nào họ phát hành trong thập niên 1820 bị vỡ nợ ở thời điểm năm 1829, cho dù có xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ của Mỹ Latin vào giữa thập niên này (cuộc khủng hoảng đầu tiên trong rất nhiều cuộc khủng hoảng). Cùng với thành công là sự giàu có hơn nữa. Khi Nathan chết vào năm 1836, tài sản cá nhân của ông ta tương đương với 0,62% thu nhập quốc dân của Anh. Từ năm 1818 tới 1852, tổng vốn của năm "nhà" Rothschild (ở Frankfurt, London, Naples, Paris và Vienna) tăng từ 1,8 triệu lên 9,5 triệu bảng. Ngay từ năm 1825, tổng vốn của năm nhà này đã cao hơn chín lần so với tài sản của anh em nhà Baring và Ngân hàng Pháp. Tới năm 1899, ở mức 41 triệu bảng, số tài sản này nhiều hơn vốn của năm ngân hàng cổ phần lớn nhất nước Đức cộng lại. Dần dần, hãng này trở thành nhà quản lý tài sản đa quốc gia cho tài sản của dòng họ chính những người quản lý nó. Với số người tăng lên sau mỗi thế hệ, sự thống nhất trong gia đình được duy trì bằng cách điều chỉnh định kỳ các hợp đồng giữa năm nhà và tăng cường việc kết hôn giữa các anh em họ hay giữa chú bác với cháu gái. Trong số hai mươi mốt cuộc hôn nhân của hậu duệ cha của Nathan, ông Mayer Amschel Rothschild, được cử hành chính thức từ năm 1824 tới 1877, thì có tới mười lăm là giữa các con cháu trực hệ của ông ta. Thêm vào đó, sự trung thành tập thể của gia tộc này đối với tín ngưỡng Do Thái, vào thời điểm nhiều gia đình Do Thái khác bỏ đạo hay kết hôn với người ngoại đạo, càng làm tăng ý thức của họ về bản sắc và mục đích chung là "một gia tộc vương giả [Do Thái] da trắng". Ông già Mayer Amschel từng nhiều lần răn bảo năm người con trai của mình: "Nếu con không thể khiến người ta yêu mình, hãy khiến họ sợ." Trong lúc họ ngự trên thế giới tài chính giữa thế kỷ 19 như các chủ nhân của thị trường trái phiếu, nhà Rothschild quả thực đã khiến người ta sợ hơn là yêu. Những kẻ phản cách mạng phe hữu than phiền trước sự lên ngôi của một hình thức của cải mới, có khả năng sinh lợi và tính thanh khoản cao hơn những điền sản của tầng lớp quý tộc tinh hoa châu Âu. Như Heinrich Heine nhận thấy, hệ thống tài chính mà nhà Rothschild tạo ra có cái gì đó thực sự mang tính cách mạng: Hệ thống chứng khoán bằng giấy giải phóng... con người, cho phép họ chọn nơi sinh sống họ muốn; họ có thể sống ở bất cứ nơi đâu mà không cần làm việc, nhờ lợi tức trên trái phiếu, thứ tài sản di động của họ, rồi họ tập hợp nhau và cấu thành thứ quyền lực thực sự trong những thủ đô của chúng ta. Và chúng ta vẫn biết từ lâu rằng điều gì sẽ xảy ra một khi các nguồn năng lượng đa dạng đến vậy tồn tại bên cạnh nhau, một khi có sự tập trung hóa cao như vậy của trí thức và quyền uy xã hội. Trong mắt Heine, Rothschild cũng tương tự như Richelieu và Robespierre, là một trong "ba cái tên gây kinh sợ báo trước sự hủy diệt từng bước giới quý tộc cũ". Richelieu hủy diệt quyền lực của nó; Robespierre chặt đầu những phần tử còn rơi rớt đã trở nên suy đồi; và giờ đây Rothschild trao cho châu Âu một giới tinh hoa xã hội mới bằng cách: nâng hệ thống trái phiếu chính phủ lên quyền lực tối thượng... [và] trao cho tiền tệ những ưu thế trước kia thuộc về đất đai. Hiển nhiên là ông ta đã tạo ra một giới quý tộc mới, nhưng giới này dựa trên thứ ít đáng tin cậy nhất, đó là tiền... [một thứ mà] còn lưu động hơn nước và kém ổn định hơn không khí...[127] Trong lúc đó, những người cực đoan bên cánh tả thì than vãn trước sự đi lên của một thứ quyền lực mới trong lãnh địa chính trị, nắm quyền phủ quyết đối với tài chính công và do đó, đối với hầu hết chính sách. Sau thành công trong việc phát hành trái phiếu của Rothschild cho Áo, Phổ và Nga, Nathan được vẽ biếm họa như người môi giới bảo hiểm cho "Liên minh Trống rỗng", giúp bảo vệ châu Âu khỏi những ngọn lửa của nền chính trị theo chủ nghĩa tự do.[128] Năm 1821, ông thậm chí còn bị đe dọa giết do “mối liên hệ của ông ta với các thế lực ngoại bang, và nhất là sự giúp đỡ đối với Áo, ủng hộ những mưu đồ của chính phủ này chống lại tự do của châu Âu".[129] Sử gia theo quan điểm tự do Jules Michelet ghi lại trong nhật ký của mình năm 1842: "Ông Rothschild biết rõ từng hoàng tử châu Âu, từng triều thần trong giới chứng khoán. Ông ta có tất cả tài khoản của họ trong đầu mình, tài khoản này của triều thần và tài khoản kia của vua chúa; và ông ta nói chuyện với họ thậm chí không cần mở sổ sách. Ông ta nói với một người như thế này: Tài khoản của ông sẽ bị hao hụt nếu ông bổ nhiệm một bộ trưởng như vậy.”[130] Cũng dễ đoán là nguồn gốc Do Thái của nhà Rothschild tạo ra một động cơ mới cho những định kiến chống Do Thái vốn đã ăn sâu. Khi nhà Rothschild chỉ vừa xuất hiện ở Mỹ vào thập niên 1830 là thống đốc Mississippi đã lên án "Nam tước Rothschild" vì "có máu của Judas và Shylock chảy trong mạch máu, và... đã kết hợp được những phẩm chất của cả hai gã đồng hương này." Cuối thế kỷ 18, nhà văn dân túy Harvey "Đồng xu" mô tả ngân hàng Rothschild như một con bạch tuộc đen khổng lồ đang vươn những cái tua của mình ra khắp thế giới.[131] Tuy nhiên chính đồn thổi về khả năng của nhà Rothschild có thể cho phép hay ngăn chặn chiến tranh xảy ra theo ý muốn lại là điều gây ra nhiều phẫn nộ nhất. Từ năm 1828, Hoàng thân Pückle-Muskau đã nhắc đến "Rothschild... người mà nếu không có ông ta thì không một thế lực nào ở châu Âu hiện nay có thể tiến hành chiến tranh".[132] Một nhà bình luận đầu thế kỷ 20[133]đặt ra câu hỏi một cách thẳng thừng: Liệu có ai đó thực sự cho rằng bất cứ nhà nước châu Âu nào có thể gây ra một cuộc chiến lớn, hay bất cứ khoản nợ quốc gia nào có thể kiếm người mua nếu nhà Rothschild và những mối quan hệ của họ quyết định chống lại? [134] Quả thực, người ta có thể cho rằng nhà Rothschild cần tới chiến tranh. Rốt cuộc thì chính chiến tranh đã tạo ra món của cải lớn nhất cho Nathan Rothschild. Không có chiến tranh, các nhà nước trong thế kỷ 19 sẽ không có mấy nhu cầu phát hành trái phiếu. Nhưng như chúng ta đã thấy, chiến tranh có xu hướng làm giảm giá các trái phiếu sẵn có do làm gia tăng rủi ro (như Venice trong thế kỷ 16) rằng một quốc gia vay nợ sẽ không đáp ứng được nghĩa vụ trả lãi của mình trong trường hợp thua trận và mất lãnh thổ. Tới giữa thế kỷ 19, nhà Rothschild từ các thương nhân đã thăng tiến thành các nhà quản lý quỹ, và họ cẩn thận chăm sóc danh mục khổng lổ các trái phiếu chính phủ của mình. Giờ đây, sau khi đã kiếm được tiền, họ có nguy cơ mất nhiều hơn là được nếu chiến tranh xảy ra. Cũng vì lý do này nên họ luôn tỏ ra thù địch với các nỗ lực nhằm thống nhất quốc gia ở cả Italia và Đức. Và cũng vì lý do này mà họ tỏ ra rất lo ngại trước triển vọng nước Mỹ rơi vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Nhà Rothschild đã quyết định kết quả những cuộc chiến tranh của Napoléon bằng cách đặt sức mạnh tài chính của mình bên bàn cân nước Anh. Giờ đây họ góp phần quyết định kết quả cuộc Nội chiến Mỹ - bằng cách ngồi yên ở ngoài rìa. Đánh bại Dixie[135] Tháng 5/1863, khi Nội chiến Mỹ diễn ra được hai năm, Thiếu tướng Ulysses S. Grant đã chiếm được Jackson, thủ phủ bang Mississippi, và đẩy quân đội Liên hiệp (miền Nam) dưới quyền chỉ huy của Trung tướng John C. Pemberton lùi về phía tây tới Vicksburg bên bờ sông Mississippi. Bị bao vây, trong khi các tàu chiến quân Liên bang (miền Bắc) bắn phá tất cả các vị trí từ phía sau, đội quân của Pemberton tuy đã đẩy lùi hai đợt tấn công của quân Liên bang nhưng cuối cùng phải đầu hàng do kiệt sức bởi cuộc bao vây nghiền nát. Ngày 4/7, đúng ngày Độc lập, Pemberton đầu hàng. Từ lúc này trở đi, sông Mississippi đã nằm chắc chắn trong tay miền Bắc. Miền Nam thực sự bị cắt thành hai nửa. Việc Vicksburg thất thủ luôn được coi như một trong những bước ngoặt lớn của cuộc chiến. Thế nhưng, từ góc độ tài chính, đây không hẳn là một sự kiện quyết định. Sự kiện quan trọng đã diễn ra hơn một năm trước đó, ở hạ du cách Vicksburg 200 dặm, nơi dòng Mississippi đổ vào Vịnh Mexico. Ngày 28/4/1862, Đô đốc (Flag Officer)[136] David Farragut đã chạy thoát khỏi tầm bắn của pháo đài Jackson và pháo đài St Philip để chiếm quyền kiểm soát New Orleans. Trận đánh diễn ra ít đổ máu và không kéo dài như cuộc vây xiết thành Vicksburg nhưng hậu quả gây ra cho phía miền Nam không kém phần nặng nề. Tình hình tài chính của phe Liên hiệp là một trong những điều đáng tiếc lớn trong lịch sử Mỹ.[137] Phân tích rốt ráo, chúng ta thấy việc thiếu tiền mặt cũng có vai trò tương tự như việc thiếu năng lực sản xuất hay nguồn nhân lực trong việc làm suy giảm nỗ lực đáng kể xét trên khía cạnh quân sự của các bang miền Nam. Vào đầu cuộc chiến, do thiếu vắng hệ thống thuế khóa trung ương có sẵn, Bộ Tài chính của Liên hiệp non trẻ phải trả phí tổn cho quân đội bằng cách bán trái phiếu cho các công dân, dưới hình thức hai khoản nợ lớn trị giá 15 triệu đô la và 100 triệu đô la. Nhưng nguồn tiền có tính thanh khoản ở miền Nam lại hữu hạn, bởi vì ở đây chủ yếu là các nông trại tự cung tự cấp và những thị trấn tương đối nhỏ. Để tồn tại, như cáo buộc của một số người, Liên hiệp phải quay sang nhà Rothschild với hy vọng rằng triều đại tài chính vĩ đại nhất thế giới này có thể giúp họ đánh hạ miền Bắc như đã từng giúp Wellington đánh bại Napoléon tại Waterloo. Đây không hẳn là một ý tưởng hoang đường. Tại New York, đại diện của Rothschild là August Belmont đã kinh hãi chứng kiến cảnh nước Mỹ rơi vào nội chiến. Là Chủ tịch Quốc gia của đảng Dân chủ, ông này từng là người đi đầu ủng hộ cho Stephen A. Douglas, đối thủ của Abraham Lincoln tại cuộc bầu cử tổng thống năm 1860. Belmont tiếp tục phê phán gay gắt cái mà ông ta gọi là "chính sách tịch thu và giải phóng cưỡng bức chết người" của Lincoln.[138] Salomon de Rothschild, con trai thứ ba của James, cũng thể hiện quan điểm nghiêng về miền Nam trong những bức thư của ông ta từ trước khi chiến tranh bắt đầu.[139] Một số nhà bình luận miền Bắc rút ra kết luận hiển nhiên là nhà Rothschild đang ủng hộ miền Nam. "Belmont, nhà Rothschild, và toàn thể dân Do Thái... đang mua trái phiếu Liên hiệp," tờ Chicago Tribune gầm lên năm 1864. Một người ủng hộ Lincoln buộc tội "người Do Thái, Jeff Davis [tổng thống phe Liên hiệp] và quỷ sứ" là bộ ba ma quỷ chống lại Liên bang.[140] Khi tới thăm London năm 1863, chính Belmont nói với Lionel de Rothschild rằng "miền Bắc chẳng mấy chốc sẽ bị chinh phục". (Và ngọn lửa nghi ngờ càng được khơi thêm khi người chịu trách nhiệm lôi kéo nước Anh về phe miền Nam, Ngoại trưởng Liên hiệp Judah Benjamin, là một người Do Thái.) Nhưng trên thực tế, nhà Rothschild đã chọn cách không ủng hộ miền Nam. Tại sao? Có thể bởi vì họ thực sự không ưa chế độ nô lệ. Nhưng lý do quan trọng không kém là cảm giác rằng Liên hiệp không phải là một con nợ có rủi ro tín dụng thấp (trên hết, chính Tổng thống Liên hiệp Jefferson Davis từng công khai ủng hộ xóa hết nợ chính phủ khi ông còn là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ). Sự thiếu lòng tin này dường như cũng được chia sẻ rộng rãi ở châu Âu. Khi Liên hiệp cố gắng bán các trái phiếu thông thường trên thị trường châu Âu, các nhà đầu tư tỏ ra không hào hứng. Nhưng người miền Nam vẫn có một con bài khôn khéo giấu trong tay áo của họ. Con bài đó (giống như tay áo của họ) được làm bằng bông, chìa khóa cho nền kinh tế Liên hiệp và là sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của miền Nam. Ý tưởng của họ là sử dụng bông của miền Nam không chỉ để thu lợi từ xuất khẩu mà còn làm bảo chứng cho một loại hình trái phiếu mới được bảo đảm bằng bông. Khi một hãng ít người biết đến của Pháp tên là Emile Erlanger & Co. bắt đầu thay mặt cho miền Nam phát hành trái phiếu bảo đảm bằng bông, tín hiệu phản hồi ở London và Amsterdam có phần tích cực hơn. Điều hấp dẫn nhất ở các trái phiếu này, niêm yết theo đồng bảng với phiếu lĩnh lãi 7% và thời gian đáo hạn 20 năm, là chúng có thể được chuyển thành bông với mức giá trước chiến tranh là sáu xu một pound (0,454 kg). Bất chấp những bất lợi trên chiến trường của miền Nam, các trái phiếu này vẫn duy trì được giá trị trong hầu hết thời gian chiến tranh bởi lý do đơn giản là giá của vật bảo đảm (bông) tăng lên do nhu cầu cao hơn trong chiến tranh. Trên thực tế, giá trái phiếu này thậm chí còn tăng gấp đôi trong thời gian từ tháng 12/1863 tới tháng 9/1864, bất chấp các thất bại của quân Liên hiệp ở Gettysburg và Vicksburg, do giá bông tăng vọt.[141] Hơn thế, miền Nam còn có lợi thế là có thể tăng giá trái phiếu lên nữa - bằng cách kiểm soát lượng bông được cung cấp. Năm 1860, cảng Liverpool là cửa ngõ chính cung cấp bông nhập khẩu cho ngành công nghiệp dệt của Anh, lúc đó là ngành chính yếu trong nền kinh tế công nghiệp thời Victoria. Hơn 80% lượng nhập khẩu này đến từ miền Nam nước Mỹ. Các lãnh tụ quân Liên hiệp tin tưởng rằng điều này cho phép họ có lợi thế để kéo nước Anh tham chiến cùng phe với mình. Để gia tăng sức ép, họ quyết định áp dụng lệnh cấm vận đối với tất cả các mặt hàng bông xuất khẩu tới Liverpool. Ảnh hưởng thật kinh khủng. Giá bông tăng vọt từ 61/4shilling một pound lên 271/4shilling. Nhập khẩu từ miền Nam giảm từ 2,6 triệu kiện năm 1860 xuống còn 72.000 kiện năm 1862. Một nhà máy bông điển hình của Anh như nhà máy hiện được bảo tồn ở Styal, nam Manchester, mướn khoảng 400 công nhân, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ của số lượng 300.000 người được Vua Bông (King Cotton)[142] mướn ở Lancashire. Không có bông, nên thực tế là không có gì cho những công nhân này làm việc. Đến cuối năm 1862, một nửa số nhân công này đã bị thải hồi và gần một phần tư toàn bộ dân cư Lancaster phải sống nhờ trợ cấp người nghèo.[143] Người ta gọi đó là nạn đói bông. Nhưng đây là nạn đói do con người làm ra. Và những người làm ra nạn đói này dường như cũng đạt được mục tiêu của mình. Lệnh cấm vận không những gây ra thất nghiệp, đói kém và bạo loạn ở miền Bắc nước Anh; việc thiếu hụt còn đẩy giá bông lên cao và làm tăng giá trị các trái phiếu bảo đảm bằng bông của miền Nam, biến chúng thành các món đầu tư đặc biệt hấp dẫn với nhiều nhân vật quan trọng trong tầng lớp tinh hoa chính trị ở Anh. Thủ tướng tương lai của Anh là William Ewart Gladstone đã mua một số trái phiếu này và chủ bút tờ The Times John Delane cũng vậy.[144] Trái phiếu bông của Liên hiệp cùng với cấc phiếu lĩnh lãi, mới có bốn phiếu đầu tiên bị xé Nhưng khả năng thao túng thị trường trái phiếu của miền Nam phụ thuộc vào một điều kiện thiết yếu: đó là các nhà đầu tư phải có khả năng sở hữu bông đảm bảo cho trái phiếu trong tay trong trường hợp miền Nam không thực hiện được nghĩa vụ trả lãi. Thế chấp rốt cuộc cũng chỉ có giá trị nếu người chủ nợ có thể cầm nắm được. Đó là lý do tại sao sự thất thủ của New Orleans vào tháng 4/1862 lại là bước ngoặt thực sự trong Nội chiến Mỹ. Khi cảng chính của miền Nam nằm trong tay quân Liên bang, bất kỳ nhà đầu tư nào muốn nhận bỏng của miền Nam đều phải đi qua vòng phong tỏa đường biển của quân Liên bang không chỉ một mà là hai lần, khi vào và khi ra. Với sức mạnh hải quân của miền Bắc ngày càng được tăng cường trên sông Mississippi và các vùng xung quanh, đây không phải là một triển vọng hấp dẫn lắm. Một tờ tiền "mặt xám" của phe Liên hiệp: đồng 5 đô la của bang Louisiana Nếu miền Nam vẫn giữ được New Orleans cho tới sau vụ thu hoạch, khi bông đã lên tàu sang châu Âu, thì họ vẫn có thể bán được hơn 3 triệu bảng trái phiếu bông ở London. Khi đó thì có thể ngay cả nhà Rothschild vốn e ngại rủi ro cũng sẽ rời khỏi ngã ba đường tài chính mà họ đang đứng. Nhưng trên thực tế, nhà Rothschild cho rằng món nợ của công ty Erlanger này "quá mang tính đầu cơ và rất có thể sẽ hấp dẫn tất cả những nhà đầu cơ ngồng cuồng nhất... chúng tôi không nghe nói tới người đáng kính nào có liên quan tới vụ này cả."[145] Phe Liên hiệp đã chơi quá tay. Họ đã tắt van bông nhưng sau đó mất khả năng mở van trở lại. Tới năm 1863, các nhà máy ở Lancashire đã tìm thấy những nguồn cung cấp bông mới ở Trung Quốc, Ấn Độ và Ai Cập. Và lúc này, các nhà đầu tư đã nhanh chóng mất lòng tin vào các trái phiếu do bông bảo đảm của miền Nam. Những hậu quả đối với nền kinh tế phe Liên hiệp quả là thảm họa. Với việc thị trường trái phiếu trong nước cạn kiệt và chỉ có hai khoản vay không đáng kể từ nước ngoài, chính phủ Liên hiệp buộc phải in tiền giấy không được bảo đảm để trả cho chi phí chiến tranh và các chi phí khác, với tổng số tiền in ra trị giá 1,7 tỷ đô la. Đúng là cả hai phe trong nội chiến đều phải in tiền. Nhưng tới cuối chiến tranh, đồng đô la "mặt xanh" của phe Liên bang vẫn còn có giá tương đương 50 xu tiền vàng, trong khi đó đồng đô la "mặt xám" của phe Liên hiệp chỉ còn giá 1 xu, bất chấp nỗ lực cải cách tiền tệ vô vọng vào năm 1864.[146] Tình hình còn tồi tệ hơn nữa do các bang và các chính quyền thành phố ở miền Nam có thể tự in tiền giấy của riêng mình; và còn do tình trạng tiền giả tràn lan, bởi tiền giấy phe Liên hiệp được làm một cách thô sơ và dễ bị bắt chước. Và khi tiền ngày càng nhiều trong lúc hàng hóa ngày càng ít thì lạm phát sẽ bùng nổ. Giá cả ở miền Nam tăng khoảng 4.000% trong thời gian Nội chiến.[147] Trái lại, giá cả ở miền Bắc chỉ tăng có 60%. Thậm chí trước khi lực lượng quân sự chủ yếu của phe Liên hiệp tuyên bố đầu hàng vào tháng 4/1865 thì nền kinh tế miền Nam đã sụp đổ, tình trạng siêu lạm phát như là tín hiệu báo trước sự thảm bại. Nhà Rothschild đã đúng. Những người đầu tư vào trái phiếu Liên hiệp cuối cùng đều mất trắng do phe miền Bắc sau khi chiến thắng tuyên bố không trả nợ cho phe miền Nam. Cuối cùng, cách duy nhất để tài trợ cho chiến tranh của miền Nam là in tiền. Đây sẽ không phải là lần cuối cùng trong lịch sử một cố gắng thúc đẩy thị trường trái phiếu mang lại kết quả là lạm phát phi mã và thảm bại quân sự. Cái chết êm dịu của Rentier Số phận những người đánh mất cả tấm áo manh quần vì trái phiếu phe Liên hiệp không phải điều gì quá khác thường trong thế kỷ 19. Nhà nước Liên hiệp hoàn toàn không phải là chính quyền đầu tiên ở châu Mỹ đi đến việc khiến các chủ nợ thất vọng; nó chỉ đơn thuần là kẻ phá nợ nằm ở xa nhất về phương Bắc. Ở phía nam sông Rio Grande, những vụ vỡ nợ và phá giá tiền tệ gần như đã thành chuyện hằng ngày. Những gì Mỹ Latin trải qua trong thế kỷ 19 đã báo trước nhiều vấn đề gần như có mặt mọi nơi vào giữa thế kỷ 20. Một phần điều này xảy ra vì tầng lớp xã hội có khả năng đầu tư vào trái phiếu nhất - và do đó có lợi ích trong việc duy trì trả lãi đúng hạn bằng một đồng tiền ổn định - tại nơi này yếu hơn ở các nơi khác. Một phần khác là vì các nước cộng hòa Mỹ Latin nằm trong số những nước đầu tiên phát hiện ra rằng họ có thể vỡ nợ mà không chịu hậu quả nhiều lắm khi có một tỷ lệ đáng kể chủ nợ là người nước ngoài. Chẳng phải tình cờ mà cuộc khủng hoảng nợ lớn đầu tiên của Mỹ Latin xảy ra rất sớm, từ năm 1826 tới 1829, khi Peru, Colombia, Chile, Mexico, Guatemala và Argentina cùng không trả được nợ cho các khoản vay phát hành tại London chỉ vài năm trước đó.[148] Trên nhiều khía cạnh, thị trường trái phiếu quả thực có thế lực. Tới cuối thế kỷ 19, nước nào không trả được nợ là phải chịu nguy cơ trừng phạt kinh tế, bị nước ngoài áp đặt quyền kiểm soát lên nền tài chính của mình, và thậm chí trong ít nhất năm trường hợp còn gặp phải can thiệp quân sự của nước ngoài.[149] Thật khó tin rằng Gladstone[150]lại ra lệnh xâm lược Ai Cập năm 1882 nếu như chính phủ Ai Cập không đe dọa phá vỡ cam kết với các chủ nợ trái phiếu châu Âu, trong đó có cả Gladstone. Đặt một "thị trường mới nổi" trong sự che chở của Đế chế Anh là cách chắc chắn nhất để loại bỏ rủi ro chính trị khỏi các mối bận tâm của nhà đầu tư.[151] Ngay cả những nước nằm ngoài Đế chế cũng có nguy cơ bị tàu chiến viếng thăm nếu các nước này không trả nợ, như trường hợp của Venezuela năm 1902, khi một đoàn tàu chiến do các nước Anh, Đức và Italia phối hợp đã phong tỏa tạm