🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dòng Sông Trôi Khuất Địa Đàng Ebooks Nhóm Zalo DÒNG SÔNG TRÔI KHUẤT ĐỊA ĐÀNG RIVER OUT OF EDEN MỘT GÓC NHÌN THEO HỌC THUYẾT DARWIN VỀ SỰ SỐNG RICHARD DAWKINS NGÔ TOÀN – MAI HIÊN dịch NHÀ XUẤT BẢN TRẺ Đánh máy và làm ebook: Kestrel Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com TÁC GIẢ DỊCH GIẢ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 DÒNG SÔNG SỐ CHƯƠNG 2 MẸ CHÂU PHI VÀ CON CHÁU CỦA BÀ CHƯƠNG 3 KIẾN THA LÂU ĐẦY TỔ CHƯƠNG 4 HÀM THỎA DỤNG CỦA CHÚA CHƯƠNG 5 QUẢ BOM NHÂN BẢN TÁC GIẢ Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com RICHARD DAWKINS, sinh năm 1941, nhà sinh vật học của Đại Học Oxford (Anh), là thành viên của Hiệp Hội Hoàng Gia và Hiệp Hội Văn Học Hoàng Gia Anh. Ông là người có công lớn nhất trong giới khoa học hiện đại trong việc mang thuyết tiến hóa đến cho công chúng toàn thế giới. Ông cũng từng là trưởng khoa “Khoa Học với Công Chúng” của Đại Học Oxford trong 13 năm liền với học hàm “Giáo Sư Simonyil” - học hàm cho những ai có công mang khoa học đến với công chúng mà vẫn giữ được bản chất trung thực của khoa học. Richard Dawkins là tác giả của bộ sách đồ sộ gồm 11 cuốn, bao gồm nhiều cuốn cực kì giá trị, mang tầm ảnh hưởng rộng rãi không chỉ trong giới khoa học mà còn toàn bộ công chúng, kể cả giới nghệ thuật và tôn giáo. Một lý do khiến sách của ông vượt ra khỏi những cuốn sách khoa học thông thường và mang tầm ảnh hưởng rộng đến vậy là bởi vì sự thấu đáo và toàn diện mà những lập luận khoa học ông đưa ra, cũng như Charles Darwin từng chấn động thế giới và vấp phải rất nhiều thử thách từ các giới, những lập luận khoa học của Richard Dawkins cũng đưa tầm suy nghĩ của con người lêm một tầm vóc mới. Nhưng Richard Dawkins không chỉ chinh phục người đọc bằng những lập luận khoa học, điều lớn nhất giúp sách ông trở nên phổ biến chính là sự kỳ thú chất chứa trong sách. Cách thức ông kể về hàng trăm ngàn hiện tượng khoa học tự nhiên có thể làm hứng thú bất kỳ ai, từ các nhà khoa học lớn đến các bạn trẻ thích khám phá, hay kể cả những người đơn giản chỉ thích nghe chuyện lạ. Còn có rất nhiều điều lý thú khác mà chúng ta có thể tìm thấy trong sách của ông, cũng như đưa vào các bài giảng, các buổi nói chuyện và trình bày mà ông đem đến cho công chúng. Sự kết hợp giữa một nhà khoa học uyên bác và một nhà văn tài ba, một nhà giáo dục công chúng lừng danh, khó có một từ ngữ nào đầy đủ để diễn tả hết các khía cạnh của con người này. Chúng ta chỉ có thể bắt đầu đơn giản bằng cách đọc sách của ông. Chúng tôi, những dich giả, hy vọng góp phần bé nhỏ mang các kiến thức uyên bác cùng những câu chuyện kỳ thú ấy đến với độc giả Việt Nam. Năm 2009 là năm kỉ niệm lần thứ 200 ngày sinh của Charles Darwin, và kỉ niệm lần thứ 150 ngày công bố cuốn sách Nguồn Gốc Các Loài, cho nên tôi đặc biệt vui mừng được biết sự ra đời của ấn bản tiếng Việt cuốn Dòng Sông Trôi Khuất Địa Đàng. Đây là cuốn sách ngắn nhất của tôi, và theo khía cạnh nào đó nó là cuốn dễ đọc nhất. Tôi muốn nghĩ rằng Darwin cũng ưng ý với cuốn sách, và tôi rất hy vọng rằng cuốn sách sẽ đem lại niềm say mê cho độc giả Việt Nam cũng như tôi đã từng say mê viết ra nó vậy. Oxford, Tháng Hai 2009 Richard Dawkins DỊCH GIẢ Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com NGÔ MINH TOÀN- sinh năm 1979, tốt nghiệp Đại Học Khoa Học Tự Nhiên TP Hồ Chí Minh và Tiến sĩ ngành Vật Lý Sinh Học tại Trieste - Italy. Toàn hiện là tu nghiệp sinh sau Tiến sĩ tại Đại học Maryl ADN - Hoa Kì và vẫn luôn gắn bó với Viện Vật Lý và Điện Tử - Hà Nội. Ngô Minh Toàn được Báo Tuổi Trẻ ngày 15/11/2006 giới thiệu như một tấm gương tri thức vượt khó. Đối với anh, giúp mọi người gần hơn, hiểu hơn về khoa học và đem khoa học đến với nhiều người hơn là một ước mơ lớn. Và việc đem các sách khoa học hấp dẫn đến với độc giả Việt Nam là một hành động cụ thể cho ước mơ trên. TRẦN THỊ MAI HIÊN - sinh năm 1981, tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương Thành phố Hồ Chí Minh và thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh tại Italy, hiện đang là Trợ lí Nghiên cứu cho chương trình Giáo dục Sức khỏe Cộng đồng cho người châu Á của Đại Học Maryl ADN và John Hopkins. Nhóm dịch giả Ngô Toàn - Mai Hiên, với năng lực và sự hăng hái của tuổi trẻ, hứa hẹn sẽ tiếp tục đem đến cho độc giả những cuốn sách khoa học giá trị. Tưởng nhớ Henry Colyear Dawkins (1921- 1992) Học giả của trường St.John, Oxford Một bậc thầy về nghệ thuật làm cho mọi chuyện rõ ràng LỜI MỞ ĐẦU Tự Nhiên, phải chăng, là tên chung Của hàng tỉ tá hàng tỉ tá hàng tỉ tá Những hạt chất chơi trò ú tim vô cùng Của những hòn bi-da hòn bi-da hòn bi-da Piet Hein Piet Hein đã từng họa ra thế giới vật lý nguyên thủy kinh điển trong những vần thơ như thế. Nhưng chỉ đến khi sự va chạm rộn ràng giữa những hòn bi-da nguyên tử tạo ra một vật thể mang tính chất dường như bé nhỏ, thì một điều gì đó mạnh mẽ vĩ đại bỗng xảy ra trong vũ trụ. Tính chất đó chính là khả năng tự nhân bản; nghĩa là, vật thể đó có khả năng dùng nguyên liệu từ môi trường xung quanh để tạo ra các bản sao chính xác của mình, và thỉnh thoảng, bao gồm cả những bản sao với những lỗi vô cùng nhỏ. Sau sự kiện phi thường này, ở bất kì nơi đâu trong vũ trụ, sự chọn lọc Darwin diễn ra, và rồi thì một tác phẩm nghệ thuật ngoạn mục ra đời, mà trên hành tinh này, chúng ta gọi đó là sự sống. Chưa bao giờ nhiều dữ kiện đến thế lại được giải thích bởi ít giả thiết đến vậy. Thuyết Darwin không chỉ đơn thuần tạo ra một sức mạnh kiến giải dồi dào. Tính hiệu quả của nó còn mang một vẻ tao nhã, một vẻ đẹp thi vị vượt hẳn những truyền thuyết được nhắc đến nhiều nhất về khởi nguyên của thế giới. Một trong nhứng mục đích khi tôi viết cuốn này là đề cao giá trị truyền cảm của tri thức hiện đại về sự sống Darwin. Bản thân hình ảnh Eva Ti Thể còn giàu chất thơ hơn cả nhân vật truyền thuyết cùng tên với bà. Nét đặc biệt của sự sống, theo lời David Hume, “quyến rũ đến mức ai đã từng suy ngẫm về nó đều phải đem lòng ngưỡng mộ”, chính là chi tiết phức hợp mà các cơ cấu của sự sống – các cơ cấu mà Charles Darwin đã gọi là “các cơ quan với độ hoàn thiên và tinh vi tột bậc” – đáp ứng được mục đích cụ thể và thể hiện rõ ra ngoài. Một đặc tính nữa của sự sống trên Trái đất này gây ấn tượng mạnh mẽ cho chúng ta đó chính là sự đa dạng dồi dào của chúng: tương tự như khi ước lượng số lượng các loài, người ta thấy có khoảng hàng chục triệu cách khác nhau để kiếm sống. Một mục đích nữa của tôi là thuyết phục độc giả rằng “cách để kiếm sống” đồng nghĩa với “cách để truyền đi văn bản mã hóa kiểu ADN tới tương lai”. “Dòng sông” của tôi là dòng sông ADN, trôi đi và rẽ nhánh ra trong thời gian địa chất. Ở đây, phép hình tượng về những đôi bờ dốc đứng cản trở trò chơi gien các loài lại trở thành một hình tượng hữu ích đến bất ngờ.[1] Dù theo cách này hay cách khác, tất cả các cuốn sách của tôi đều được cống hiến để giải thích và khám phá sức mạnh gần như không giới hạn của nguyên lý Darwin – sức mạnh bùng lên bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu đủ thời gian cho sự tự nhân bản nguyên thủy mở ra một hệ quả mới. Dòng sông trôi khuất địa đàng tiếp tục sứ mệnh này và còn nâng đến một cực điểm mang tính ngoài Trái đất. Đó là việc ảnh hưởng ngược lại có thể nảy sinh khi các nhân bản tử tham gia vào trò chơi, mà đến nay vẫn là trò khiêm tốn của các hòn bi-da nguyên tử. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi nhận được sự giúp đỡ, động viên, góp ý và cả lời phê bình mang tính xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau từ Michael Birkett, John Brockman, Steve Davies, Daniel Dennett, John Krebs, Sara Lippincott, Jerry Lyons, và đặc biệt là vợ tôi, Lalla Ward, cũng là người đã thực hiện các hình minh họa. Thỉnh thoảng có một vài đoạn văn tôi trích từ các bài báo đã công bố. Các đoạn của chương 1 về kỹ thuật số và analog được dựa vào bài báo của tôi trên The Spectator số ra ngày 11 tháng 06 năm 1994. Phần chương 3 mô tả lại công trình của Dan Nilsson và Susanne Pelger về sự tiến hóa của mắt được trích lại một phần từ bài báo News ADN Views của tôi đã được đăng trên Nature ngày 21 tháng 04 năm 1994. Tôi xin cảm ơn các nhà biên tập của hai tạp chí trên, những người quan tâm đến bài báo một cách sâu sắc. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn John Brockman và Anthony Cheetham vì lời mời tham gia vào The Science Maters Series. Oxford, 1994 CHƯƠNG 1 DÒNG SÔNG SỐ Mỗi dân tộc đều có những truyền thuyết thần thoại về tổ tiên của mình, những truyền thuyết ấy dần dà được đưa vào hệ thống tín ngưỡng tôn giáo. Người ta tôn kính, thờ phượng tổ tiên của mình. Những bậc tổ tiên tôn kinh đó lại cũng đã từng thờ phượng tôn kính tổ tiên của họ. Bởi vì người thực sự nắm giữ chiếc chìa khóa để hiểu được sự sống chính là tổ tiên ruột thịt của chúng ta, chứ chẳng phải những vị thượng đế siêu nhiên nào cả. Có rất nhiều sinh vật sinh ra, nhưng phần đông số đó đều chết trước khi trưởng thành. Trong phần thiểu số sống sót và sinh sản, có một thiểu số ít ỏi hơn sẽ có con cháu tồn tại qua hàng ngàn thế hệ sau đó. Phần thiểu số nhỏ xíu của phần thiểu số này, những bậc tiền bối ưu tú, là tất cả những gì mà thế hệ tương lai sẽ gọi là tổ tiên. Tổ tiên thì hiếm, con cháu thì khắp nơi. Mọi sinh vật đã từng sống – từng cá thể động vật và thực vật, mọi vi khuẩn và nấm mốc, từ những thứ bò ngổn ngang cho đến tất cả những ai đang đọc cuốn sách này – có thể nhìn lại tổ tiên mình và tuyên bố một cách đầy tự hào rằng: Chẳng ai trong số các tổ tiên của chúng tôi đã chết lúc còn non cả. Tất cả họ đều đạt đến độ trưởng thành, và mỗi người trong số họ đều đã đủ sức tìm được ít nhất một bạn tình khác giới và giao phối thành công[2]. Chẳng ai trong số các tổ tiên của chúng ta bị hạ gục bởi kẻ thù, hay do virus, hay do sẩy chân bên bờ đá, trước khi sinh ra ít nhất một em bé chào đời. Hàng ngàn những người cùng sinh thời với tổ tiên chúng ta đã không thành công, nhưng tổ tiên của chúng ta thì không hề thất bại. Những điều ấy quả thực quá đỗi hiển nhiên, vậy mà ta vẫn có thể rút ra được rất nhiều điều: bao nhiêu điều lạ lùng khó đoán, bấy nhiêu lời giải thích bấy nhiêu điều kinh ngạc. Tất cả những điều ấy sẽ là chủ đề của cuốn sách này. Bởi tất cả các sinh vật thừa hưởng gien từ tổ tiên mình, chứ không phải từ những sinh vật không thành công cùng thời với tổ tiên, nên tất cả các sinh vật có khuynh hướng sở hữu những gien thành công. Chúng ta có những điều kiện để trở thành những tổ tiên – và điều đó nghĩa là tồn tại và sinh sản. Đó là lí do vì sao sinh vật luôn có khuynh hướng thừa hưởng gien mang lại tiềm năng xây dựng một cỗ máy hoàn chỉnh – tức là một cơ thể hoạt động một cách tích cực như thể đang nỗ lực để trở thành một tổ tiên. Đó là lí do vì sao chúng ta yêu cuộc sống, thích tình ái và yêu trẻ con. Chính bởi tất cả chúng ta, không loại trừ một ai, đều thừa hưởng gien từ một dòng dõi liên tục gồm các tổ tiên thành công. Thế giới trở nên chiếm đầy những sinh vật sở hữu tiềm năng trở thành các tổ tiên. Điều đó, nói gọn lại trong một câu, chính là học thuyết Darwin. Tất nhiên, Darwin nói nhiều hơn thế, và ngày nay chúng ta còn có thể nói thêm nhiều thứ nữa, và đó là lí do vì sao cuốn sách không dừng lại ở đây. Ta có thể hiểu nhầm đoạn văn trên theo một cách rất tự nhiên nhưng cũng rất nguy hại. Chúng ta sẽ bị hút vào suy nghĩ rằng, khi các tổ tiên làm được những điều thành công thì gien mà họ truyền cho con cái là gien đã được nâng cấp từ gien mà họ nhận được từ cha mẹ mình. Đặc điểm thành công ấy được khắc vào trong gien, và đó là lí do vì sao hậu duệ của họ bay lượn, bơi lội và ve vãn thật tài tình. Sai, hoàn toàn sai! Gien không cải thiện trong quá trình sử dụng, chúng chỉ được truyền đi, không thay đổi ngoại trừ một vài lỗi ngẫu nhiên cực kì hiếm. Không phải thành công đã tạo ra những gien tốt. Chính những gien tốt mới tạo ra thành công. Chẳng có điều gì một cá nhân làm được trong đời mình lại ảnh hưởng đến gien. Những cá nhân ấy được sinh ra với gien tốt và có khuynh hướng lớn lên để trở thành một tổ tiên thành công; do đó các gien tốt có khuynh hướng được truyền cho tương lai nhiều hơn các gien xấu. Mỗi thế hệ là một cái lọc, hay một cái sàng: những gien tốt có khuynh hướng lọt qua sàng để đi đến thế hệ kế tiếp; gien xấu có khuynh hướng dừng lại trên những cơ thể bị chết yểu hoặc không sinh sản được. Gien xấu cũng có thể vượt qua được cái sàng đến được một hay hai thế hệ, có thể bởi chúng may mắn ở cùng cơ thể với gien tốt. Nhưng may mắn thì chưa đủ để vượt qua được hàng ngàn cái sàng nối tiếp nhau, cái này dưới cái kia. Sau hàng ngàn thế hệ nối tiếp nhau phần lớn những gien vượt qua được là những gien tốt. Tôi đã nói rằng những gien tồn tại qua các thế hệ là những gien thành công trong việc tào ra các tổ tiên. Điều này là sự thật, nhưng có một ngoại lệ rành rành mà tôi phải giải thích trước khi nó gây ra nhầm lẫn. Một số cá thể bị vô sinh vĩnh viễn, nhưng dường như chúng được thiết kế để hỗ trợ sự truyền gien của mình đến các thế hệ tương lai. Kiến thợ, ong thợ và mối thợ vốn vô sinh. Chúng làm việc không phải để trở thành tổ tiên, mà để những họ hàng có khả năng sinh sản, thường là anh chị em ruột của chúng, trở thành các tổ tiên. Có hai điểm cần phải hiểu ở đây. Thứ nhất, trong bất kì loài động vật nào, anh chị em ruột luôn có xác suất cao để có cùng một gien. Thứ hai, chính là môi trường, chứ không phải gien, sẽ quyết định việc một cá thể, con mối chẳng hạn, sẽ trở thành con sinh sản hay con thợ vô sinh. Mọi con mối đều mang gien có thể biến chúng thành các chú thợ vô sinh trong những điều kiện môi trường nhất định, và thành các con sinh sản trong các điều kiện khác. Những con sinh sản truyền đi những bản sao giống hệt các gien nằm trong người con thợ, và điều này đã khiến các con thợ hết lòng giúp đỡ chúng làm cái việc truyền đi ấy. Những con thợ làm việc cần cù dưới ảnh hưởng của các gien mang bản tương đương của chúng cũng nằm trong cơ thể của các con sinh sản. Những bản sao gien đó trong con thợ đang cố gắng để hỗ trợ chính các phiên bản sinh sản của chúng lọt qua cái sàng chuyển thế hệ. Nguyên lý này cũng đúng cho kiến và ong, chỉ khác là mối thợ có thể là đực hoặc cái, trong khi kiến thợ và ong thợ đều là cái. Ở một hình thức lỏng lẻo hơn, điều này cũng đúng cho một số loài chim, động vật có vú và một số loài động vật khác mà trong chúng ít nhiều có sự chăm sóc con nhỏ từ phía anh hoặc chị ruột. Tóm gọn lại, gien có thể luồn lách để lọt qua sàng, không chỉ bằng cách hỗ trợ chính cơ thể của mình trở thành tổ tiên mà còn bằng cách hỗ trợ cơ thể họ hàng mình trở thành tổ tiên nữa. Dòng sông trong tựa đề cuốn sách này chính là dòng sông ADN, nó chảy qua thời gian chứ không phải không gian. Đó là dòng sông thông tin, không phải dòng sông của xương thịt hay cơ bắp: một dòng sông mang những chỉ dẫn ngắn gọn cho việc xây dựng cơ thể, chứ không phải dòng sông mang chính các cơ thể. Thông tin đó truyền qua các cơ thể, tác động lên các cơ thể mà không hề bị các cơ thể tác động ngược trở lại trên hành trình mà nó đi qua. Dòng sông này không chỉ không hề bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm và thành quả của chuỗi cơ thể mà nó chảy qua. Nó còn không bị ảnh hưởng bởi một nguồn tạp nhiễm tiềm ẩn đầy quyền năng: tình dục. Trong mỗi tế bào của bạn, một nửa gien của mẹ kề vai sát cánh với một nửa gien của bố. Các gien từ bố và mẹ phối hợp với nhau mật thiết để tạo nên con người bạn, tinh tế và không thể bị chia nhỏ. Nhưng chính bản thân các gien lại không trộn lẫn với nhau. Chỉ có hiệu ứng của chúng mới trộn lẫn với nhau mà thôi. Bản thân các gien mang sự đồng nhất toàn vẹn như một phiến đá, khi đến lúc phải chuyển sang thế hệ tiếp theo, một gien sẽ truyền sang cơ thể đứa con hoặc không. Các gien từ bố và mẹ không trộn lẫn với nhau; chúng kết hợp một cách độc lập. Mỗi gien của bạn đều đến hoặc từ bố hoặc từ mẹ. Nó cũng đến từ một và chỉ một trong bốn ông bà nội ngoại; từ một, và chỉ một, trong số tám ông bà cố nội ngoại; và cứ như thế. Tôi vừa đề cập đến hình ảnh dòng sông gien, chúng ta cũng có thể nói tương tự về hình ảnh một nhóm bạn cùng diễu hành qua dòng thời gian. Tất cả các gien trong một quần thể sinh sản, về lâu dài, là các bạn đồng hành của nhau. Nhưng xét trong ngắn hạn, chúng nằm trong các cơ thể sinh vật và tạm thời gần gũi hơn với các gien trong cùng cơ thể đó. Gien có thể tồn tại qua năm tháng với điều kiện chúng giỏi trong việc xây dựng nên những cơ thể thích hợp cho việc sống và sinh sản theo cách riêng của loài đó. Nhưng còn nhiều hơn thế nữa. Để tồn tại giỏi, một gien phải hợp tác tốt với các gien khác cùng loài – chung một dòng sông. Để tồn tại được lâu dài, gien phải là những bạn đồng hành hợp ý với nhau. Chúng phải hoạt động tốt trong tập thể, hay là dựa trên tập thể, gồm các gien khác trong cùng một dòng sông. Gien của một loài khác nằm trong một dòng sông khác. Chúng không cần phải “hòa thuận” với nhau, tất nhiên, bởi vì chúng không cùng chia sẻ một cơ thể chung nào cả. Đặc điểm phân định một loài và mọi thành viên của chúng có cùng dòng gien chảy qua, và các gien trong loài đó sẵn sàng làm bạn đồng hành tốt của nhau. Một loài mới xuất hiện khi một loài hiện tại chia ra làm hai. Dòng sông gien đó rẽ nhánh qua thời gian. Đứng từ phía các gien mà nói, sự hình thành các loài, sự khởi đầu các loài mới, chính là một “lời chia tay dài lâu”. Sau một giai đoạn ngắn bị phân cách, hai dòng sông mãi mãi đi theo hai con đường riêng, cho đến khi một trong chúng khô hạn đi. Luôn luôn nằm giữa hai bờ, nước sông được trộn đi trộn lại bởi sự tái kết hợp qua sinh sản hữu tính. Nhưng nước trong dòng này không bao giờ tràn khỏi bờ để xâm nhiễm dòng sông kia. Sau khi một loài phân chia ra, hai tập hợp gien không còn là bạn đồng hành của nhau nữa. Chúng không còn gặp nhau trong cùng các cơ thể và chúng không còn nhất thiết phải phù hợp với nhau nữa. Giữa chúng sẽ không còn sự giao phối - ở đây chính xác là sự giao phối giữa các cỗ xe tạm thời của chúng, tức là các cơ thể. Tại sao một loài lại phân chia? Điều gì tạo bước khởi đầu cho lời chia tay lâu dài giữa các gien? Điều gì đã làm cho một dòng sông phân nhánh làm hai và tách khỏi nhau, không bao giờ gặp lại nữa? Người ta vẫn đang tranh cãi về chi tiết, nhưng không ai nghi ngờ rằng yếu tố quan trọng nhất là sự chia cắt địa lý ngẫu nhiên. Dòng sông gien chảy trong thời gian, nhưng sự tái kết hợp giữa các gien xảy ra trong các cơ thể bằng xương bằng thịt, mà các cơ thể sinh vật lại chiếm cứ một địa điểm nào đó trong không gian. Một con sóc xám Bắc Mỹ có thể sinh sản cùng một con sóc xám nước Anh, nếu chúng gặp được nhau. Nhưng chuyện đó khó xảy ra. Tựa như dòng sông gien sóc xám ở Bắc Mỹ bị tách biệt khỏi dòng sông gien sóc xám ở nước Anh bởi một đại dương rộng ba ngàn dặm vậy. Thành ra, hai tập hợp gien không còn đồng hành với nhau nữa, mặc dù có lẽ chúng vẫn còn có khả năng làm bạn đồng hành tốt của nhau nếu như có chút cơ hội. Chúng đã nói lời chia tay, mặc dù đó không phải là lời chia tay không rút lại được. Nhưng sau khoảng vài ngàn năm chia cắt nữa, rất có thể đến lúc đó hai dòng sông đã dạt trôi quá xa đến mức cho dù các chú sóc gặp nhau, chúng cũng không còn có khả năng trao đổi gien cho nhau được nữa. “Dạt trôi” ở đây không có nghĩa là trong không gian mà là “dạt xa” trong độ tương hợp với nhau. Chắc chắn đó cũng là nguyên nhân tiềm ẩn khiến sóc xám và sóc đỏ tách rời nhau trước đây. Bây giờ chúng không thể lai giống với nhau. Mặc dù sống cùng nhau ở vài vùng của Châu Âu, chúng gặp nhau, chắc cũng choảng nhau trong mấy vụ tranh giành hạt dẻ, nhưng chúng không thể giao phối để sinh ra những đứa con có khả năng sinh sản được. Hai dòng sông gien của chúng đã dạt khỏi nhau quá xa, nghĩa là gien của chúng không còn có thể hợp tác với nhau trong cùng cơ thể được nữa. Rất nhiều thế hệ trước, tổ tiên của sóc xám và tổ tiên của sóc đỏ là cùng chung một loài. Nhưng chúng bị chia cắt về mặt địa lý – có thể do một dãy núi, hay do sông suối, và cuối cùng là do Đại Tây Dương. Và rồi các tập hợp gien của chúng lớn lên trong sự riêng rẽ. Sự chia cắt địa lý đã sinh ra sự thiếu tương hợp. Bạn đồng hành hợp nhau trở nên kém ăn ý (nếu đem đi tranh tài trong cuộc thi phối ngẫu). Bạn đồng hành vốn kém ăn ý lại còn trở nên kém hợp nữa, cho đến khi chúng không còn là bạn đồng hành nữa. Lời chia tay đó là lần cuối. Hai dòng sông bị chia tách ra và được dự đoán là sẽ còn tách ra càng ngày càng xa. Kịch bản tương tự cũng là nền tảng cho sự chia cắt xa xưa hơn, ví dụ giữa tổ tiên của chúng ta và tổ tiên của loài voi. Hay là giữa tổ tiên của loài đã điểu (mà cũng là tổ tiên của chúng ta) với tổ tiên của loài bò cạp. Ngày nay, có khoảng ba mươi triệu nhánh của dòng sông ADN, đây là ước lượng về số loài sinh vật trên Trái đất. Người ta cũng ước đoán rằng các loài hiện đang sống chiếm một phần trăm của các loài đã từng tồn tại. Cũng có nghĩa là tính toàn bộ, đã có khoảng ba tỷ nhánh của dòng sông ADN. Ngày nay, ba mươi triệu nhánh sông đã tách rời một cách không thể thay đổi. Rất nhiều trong số đó đã được định đoạt là sẽ bị khô cạn vào hư không, vì hầu hết các loài sẽ trở nên tuyệt chủng. Nếu bạn ngược dòng ba mươi triệu nhánh sông này về quá khứ, bạn sẽ thấy rằng, từng cặp từng cặp một hợp lại với nhau. Nhánh sông gien người nhập lại với nhánh sông gien tinh tinh gần như cùng một lúc với nhánh sông gorilla, khoảng bảy triệu năm trước. Trở lại thêm một vài triệu năm nữa, nhánh sông gien của loài khỉ dã nhân Châu Phi nhập lại với nhánh của đười ươi. Xa hơn nữa, chúng ta có nhánh sông gien của vượn nhập vào một nhánh sông khác vốn sau này xuôi theo dòng đã tách ra thành các loài vượn (gibbon) và vượn mực (siamang)[3]. Khi chúng ta tiếp tục ngược dòng quá khứ, nhánh sông gien của chúng ta nhập lại với các nhánh sông mà sau này rẽ ra thành nhánh khỉ Cựu Thế giới, khỉ Tân Thế giới, và vượn cáo (lemurs) của Madagascar. Rồi xa hơn nữa, nhánh chúng ta nhập vào với những nhánh dẫn đến những nhóm chủ yếu trong lớp thú: các loài gặm nhấm, các loài mèo, loài dơi và voi. Sau đó, chúng ta sẽ gặp dòng sông dẫn đến rất nhiều loài bò sát, chim, động vật lưỡng cư, cá và các loài không xương sống. Bây giờ, có một điều quan trọng ta phải thận trọng về hình tượng dòng sông gien. Khi nói tới phân nhánh sông dẫn tới tất cả các loài thú – thay vì nhánh sông dẫn tới chẳng hạn loài sóc đỏ - ta dễ bị lôi cuốn vào việc tưởng tượng ra một hình ảnh vĩ đại, vào cỡ sông Mississippi hay Missouri. Xét cho cùng, nhánh sông cho ra lớp thú đã phân chia ra hết lần này đến lần khác, cho đến khi nó tạo ra toàn bộ lớp thú – từ loài chuột chù nhỏ choắt (pigmy shrew) đến voi khổng lồ, từ loài chuột chũi dưới đất cho đến những con khỉ trên cây. Nhánh thú của dòng sông có nhiệm vụ làm nguồn nước cho hàng ngàn con nước quan trọng, làm sao nó khác được một dòng chảy vĩ đại cuộn réo ầm ầm? Những hình ảnh này là một sai lầm lớn. Khi các tổ tiên của tất cả loài thú hiện đại tách rời từ những tổ tiên không phải là thú, sự kiện cũng chẳng mạnh mẽ dữ dội hơn bất kỳ một sự phân chia loài nào khác. Nếu có một nhà tự nhiên học nào tình cờ có mặt lúc đó, sự kiện này cũng chẳng mảy may làm ông để ý. Nhánh mới của dòng sông gien mới đầu chỉ là một dòng chảy nhỏ giọt, chứa một loài vật nhỏ xíu sống về đêm không khác những người anh em không phải thú của nó là mấy, như sự khác nhau giữa sóc đỏ và sóc xám. Chỉ với kiến thức hậu nghiệm[4], chúng ta mới xem tổ tiên của loài thú là thú. Vào thời kì đó, nó chắc cũng chỉ là một loài bò sát giống thú nữa, chẳng đáng kể gì so với vài chục loài (cỡ đó) có mũi ăn sâu bọ làm mồi cho khủng long mà thôi. Sự phân chia trước đó giữa tổ tiên các đại nhóm động vật như động vật có xương sống, thân mềm, giáp xác, côn trùng, giun đốt, giun dẹt, sứa và nhiều nhóm khác… cũng kém kịch tính như vậy. Khi nhánh sông dẫn tới các loài thân mềm (và các loài khác) lìa xa nhánh sông dẫn tới động vật xương sống (và các loài khác), hai quần thể của các loài sinh vật (có lẽ là giống giun) chắc đã trông giống nhau đến mức chúng có thể giao phối với nhau. Lý do duy nhất khiến chúng đã không làm vậy là bởi chúng bỗng nhiên bị tách biệt bởi rào cản địa lý, có thể là một vạt đất khô chia rẽ mặt nước vốn liền nhau trước đó. Lúc đó không ai có thể biết được rằng một quần thể đang ở trên đường sinh ra loài thân mềm và quần thể còn lại thì thành động vật xương sống. Chỉ biết rằng hai dòng sông ADN lúc đó chỉ là những con lạch nhỏ hầu như chẳng tách rời là mấy, và hai nhóm sinh vật thì hầu như chẳng hề phân biệt. Các nhà động vật học đều biết điều này, nhưng đôi khi họ quên khuấy đi suy ngẫm về hai nhóm động vật thực sự lớn, như là thân mềm và xương sống. Họ cứ bị cám dỗ vào ý nghĩ rằng sự phân chia giữa các nhóm lớn phải là một sự kiện dữ dội lắm. Lý do khiến cho các nhà động vật học mắc sai lầm như vậy là do họ được lớn lên trong niềm tin sùng kính rằng mỗi sự phân chia lớn trong giới động vật đều được trang bị một thứ gì đó độc nhất vô nhị, thường được gọi bằng một từ tiếng Đức là Bauplan. Mặc dù từ này chỉ có nghĩa là “bản thiết kế”, nó đã trở thành một từ chuyên môn được công nhận, và tôi sẽ biến nó thành tiếng Anh, mặc dù (tôi hơi sốc khi biết rằng) nó chưa được đưa vào ấn bản hiện thời của bộ Từ điển tiếng Anh Oxford. (Bởi tôi không khoái từ này như các đồng nghiệp của tôi, nên phải công nhận rằng tôi có chút ít “frisson of Schadenfreude” (sự sung sướng trên đau khổ của người khác) khi thấy nó vắng mặt trong từ điển; hai từ mượn này (frisson và schadenfreude, ND) đều có trong cuốn từ điển Oxford, cho nên chắc không ai có ý kiến gì cho việc dùng từ nước ngoài đâu). Theo nghĩa chuyên môn của nó, bauplan thường được dịch là “bản thiết kế nền tảng của cơ thể”. Chính việc sử dụng từ “nền tảng” (hay việc sính dùng tiếng Đức để tỏ vẻ thâm túy) đã làm hỏng ý nghĩa. Nó có thể khiến các nhà động vật học mắc những sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ, có một nhà động vật học có ý kiến rằng sự tiến hóa trong kỷ Cambri (nằm trong giữa khoảng sáu trăm triệu năm và năm trăm triệu năm về trước) chắc chắn phải là một dạng tiến hóa hoàn toàn khác so với quá trình ở những thời kỳ sau này. Lập luận của ông là ngày nay chỉ xuất hiện thêm loài mới, trong khi ở kỷ Cambri các nhóm lớn xuất hiện, như là thân mềm và giáp xác. Nhầm to! Ngay cả các sinh vật khác nhau về căn bản như là thân mềm và giáp xác mới đầu cũng chỉ là những quần thể cách nhau về mặt địa lý của cùng một loài mà thôi. Có lúc chúng còn có thể lai với nhau nếu tình cờ gặp nhau nữa kìa, nhưng chúng đã không gặp nhau. Sau hàng triệu năm với những sự tiến hóa riêng rẽ, chúng có những đặc tính mà chúng ta, với kiến thức hậu nghiệm của ngành động vật hiện đại, mới nhận thấy đó là các đặc tính của thân mềm và giáp xác mà thôi. Các đặc điểm đó được đề cao lên với một tên gọi rất long trọng là “bản thiết kế nền tảng của cơ thể” hay là “bauplan”. Nhưng thực tế các bauplan chính của giới động vật đã phân chia từ những nguồn gốc chung qua những bước bé nhỏ và chậm rãi. Phải công nhận rằng người ta vẫn còn mâu thuẫn về việc: tiến hóa có mức độ từ từ hay là “nhảy cóc” đến mức nào. Nhưng không có ai, tôi nói thực sự là không một ai, lại nghĩ rằng tiến hóa đã nhảy cóc đến mức tạo ra cả một bauplan mới chỉ trong một bước. Tác giả mà tôi trích dẫn đã phát biểu điều trên vào năm 1958. Rất ít nhà động vật học ngày nay lại chủ động đi theo vết xe của ông, nhưng đôi khi họ lại làm như vậy mà không hề nhận ra, khi phát biểu cứ như thể là các nhóm động vật chủ yếu đã xuất hiện một cách tự phát, như là nữ thần Athena xuất hiện từ trong đầu của thần Zeus[5], thay vì là phân ra từ một quần thể mẹ do sự phân cách địa lý ngẫu nhiên nào đó[6]. Ngành sinh học phân tử đã luôn chứng tỏ rằng các lớp động vật lớn gần với nhau hơn rất nhiều so với chúng ta vẫn thường nghĩ. Bạn có thể xem bộ mã gien là một từ điển mà trong đó sáu mươi tư từ của một ngôn ngữ (sáu mươi tư bộ ba có thể kết hợp ra từ một bảng chữ cái bốn ký tự A, T, C và G) được ánh xạ lên hai mươi mốt từ của một ngôn ngữ khác (hai mươi axít amin cộng với một dấu chấm câu). Xác suất ngẫu nhiên để có được hai lần cùng một ánh xạ 64:21 là nhỏ hơn một phần triệu triệu triệu triệu triệu. Thế mà bộ mã gien thực sự lại giống hệt ở mọi động vật, thực vật và vi khuẩn đã từng được nghiên cứu. Các sinh vật sinh sống trên Trái đất chắc chắn đã phải bắt nguồn từ một tổ tiên duy nhất. Không ai tranh cãi điều đó, nhưng rồi những sự tương tự đến mức sửng sốt, ví dụ như giữa côn trùng và động vật xương sống, đang ngày càng được tìm thấy khi người ta xem xét không chỉ bộ mã đó mà cả các chuỗi ADN cụ thể. Có một cơ chế gien khá tinh vi phức tạp đóng vai trò tạo ra bản thiết kế cơ thể có đốt của các loại côn trùng. Một cơ chế gien có đặc điểm tương tự đến mức thần kỳ cũng được tìm thấy ở lớp thú. Xét về mặt phân tử, mọi động vật là những họ hàng khá gần với nhau và thậm chí là cả với thực vật nữa. Ta phải đi tới vi khuẩn mới tìm được người họ hàng xa của mình, và ngay cả đến mức đó chính bộ mã gien cũng giống hệt với bộ mã của chúng ta. Lý do mà người ta có thể làm những phép tính chính xác đến vậy trên bộ mã gien, mà không phải trên giải phẫu học của các bauplan, chính là do bộ mã gien sử dụng kỹ thuật số một cách nghiêm ngặt, và các con số là những thứ mà bạn có thể đếm một cách chính xác. Dòng sông gien là một dòng sông số, và bây giờ tôi phải giải thích thuật ngữ kỹ thuật này có nghĩa gì. Các kỹ sư phân biệt rõ hai loại mã: bộ mã kỹ thuật số và bộ mã analog. Máy hát đĩa, máy cát-xét – gần đây là điện thoại – sử dụng bộ mã analog, sóng dao động liên tục do áp suất không khí (âm thanh) được chuyển thành sóng dao động tương ứng của điện áp trong một đường dây điện. Một máy hát đĩa cũng hoạt động theo cách tương tự: các đường rãnh khiến cho đầu đọc rung động, và chuyển động của đầu đọc được chuyển thành các dao động trong điện áp. Ở đầu kia các sóng điện áp này được biến đổi trở lại, bởi một màng dao động trong tai nghe của điện thoại hay là cái loa của máy hát đĩa, thành các sóng áp suất không khí tương ứng, và bạn có thể nghe được. Bộ mã rất đơn giản và trực tiếp: dao động điện trong đường dây tỷ lệ với dao động trong áp suất không khí. Mọi điện áp nằm giữa những mức giới hạn nào đó có thể truyền qua đường dây, và sự chênh lệch giữa chúng là quan trọng. Trong điện thoại kỹ thuật số, chỉ có hai hoặc là một số lượng rời rạc như 8 hay 256 mức điện áp khả dĩ truyền qua mạch điện. Thông tin không nằm trong chính các mức điện áp mà ở sự bố trí các mức riêng rẽ đó. Đây được gọi là sự Điều biến Mã xung (Pulse Code Modulation). Điện áp thực tế tại mọi thời điểm hiếm khi bằng chính xác bất kỳ một con số nào trong số giá trị quy ước (chẳng hạn 8 giá trị), nhưng thiết bị nhận sẽ làm tròn nó đến mức điện áp thiết kế gần nhất, để cho những gì xuất hiện ở đầu kia của đường dây trở nên chính xác ngay cả khi quá trình truyền dọc đường đi bị kém chất lượng. Vấn đề của ta chỉ là đặt các mức điện áp riêng rẽ này đủ xa nhau sao cho các thăng giáng ngẫu nhiên sẽ không bao giờ khiến thiết bị nhận diễn dịch sai thành một mức khác. Đây là một đặc điểm tuyệt vời của hệ thống mã kỹ thuật số, mà đây cũng chính là lý do vì sao mà các hệ thống âm thanh hình ảnh – và công nghệ thông tin nói chung – càng ngày càng phát triển theo hướng kỹ thuật số. Dĩ nhiên máy tính dùng mã kỹ thuật số trong mọi việc. Để cho tiên lợi thì đây là một mã nhị phận – có nghĩa là chỉ có hai mức điện áp riêng rẽ thay vì 8 hay 256. Ngay cả trong một điện thoại kỹ thuật số, âm thanh đi vào ống nói và đi ra khỏi tai nghe thực ra vẫn là các rung động analog của áp suất không khí. Chỉ có thông tin chuyển từ bộ chuyển đổi này sang bộ chuyển đổi khác mới là kỹ thuật số. Thế thì ta cần xây dựng một loại mã nào đó để chuyển các giá trị analog, theo từng micro giây một, thành các xung rời rạc – các con số mã hóa kỹ thuật số. Khi bạn thề thốt với người yêu qua điện thoại, mọi lời nũng nịu hay nghẹn ngào, mọi hơi thở nồng nàn, từng âm sắc của giọng nói đều được truyền đi qua hệ thống dây chỉ hoàn toàn dưới dạng các con số. Bạn có thể xúc động đến rơi nước mắt bởi các con số - miễn là chúng được mã hóa và giải mã đủ nhanh. Các hệ thống chuyển mã điện tử hiện đại nhanh đến mức thời gian truyền có thể được chia thành từng khoảng xen kẽ giống như kiểu một kiện tướng cờ vua có thể chia thời gian của mình cho 20 trận đấu khác nhau theo một vòng. Bằng cách này, hàng ngàn cuộc điện đàm có thể được xếp vào trong cùng một đường điện thoại, làm cho chúng cứ như là đồng thời nhưng lại tách biệt nhau về mặt điện tử mà không ảnh hưởng lẫn nhau. Rất nhiều trong số các đường truyền tín hiệu hiện nay không còn là đường dây mà là các chùm sóng radio, hoặc là các đường truyền trực tiếp từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác, hay từ vệ tinh này sang vệ tinh kia. Mỗi một đường truyền tín hiệu là một dòng sông khổng lồ các con số. Nhưng do sự tách biệt điện tử tài tình này, nó là hàng ngàn con sông số chia sẻ nhau hai bờ theo một nghĩa tượng trưng nào đó – những con sóc đỏ và sóc xám, chúng cùng chia nhau một cái cây nhưng không bao giờ hòa trộn gien với nhau. Trở lại với thế giới của các kỹ sư, nhược điểm của các tín hiệu analog không đáng kể nếu như chúng không bị sao chép lặp đi lặp lại quá nhiều lần. Một đoạn ghi băng có thể có chút tiếng gió mà ta không nhận ra, trừ khi ta khuếch đại âm thanh. Nhưng khi ta khuếch đại, ngoài việc phóng lớn âm thanh chính và cả tiếng rè đó, ta cũng đồng thời tạo ra những tiếng ồn khác. Do vậy, nếu ta sao cuộn băng này ra một cuộn băng khác, rồi lại sao cuộn mới ra một cuộn băng khác nữa và cứ lặp lại như thế, sau một trăm “thế hệ”, những gì còn lại chỉ là tiếng ù ù kinh khủng. Thời điện thoại còn dùng mã analog, người ta cũng gặp khó khăn tương tự. Mọi tín hiệu điện thoại đều bị suy yếu dần đi khi truyền qua đường dây dài, thế là cần phải tăng cường lên – hay là tái khuếch đại – sau mỗi chiều dài khoảng cỡ một trăm dặm. Mỗi quá trình khuếch đại đều làm tăng tiếng ồn lên, cho nên âm thanh càng ngày càng xấu đi... Nhưng khoan đã, ngay cả các tín hiệu số cũng phải cần đến sự khuếch đại ấy chứ. À, nhưng lý do mà ta đã thấy, khuếch đại không tạo ra sai số nào cả đối với các tín hiệu số: mọi thứ có thể được thiết kế sao cho thông tin được truyền đi một cách hoàn hảo, không cần biết đến bao nhiêu trạm khuếch đại tham gia vào quá trình truyền tín hiệu. tiếng ồn không tăng lên ngay cả khi tín hiệu truyền qua hàng trăm hàng ngàn dặm. Hồi tôi còn là một cậu bé, mẹ tôi giải thích cho tôi hiểu rằng các tế bào thần kinh là các đường dây điện thoại của cơ thể. Nhưng chúng là analog hay kỹ thuật số? Câu trả lời là chúng là một hỗn hợp thú vị của cả hai loại. Một tế bào thần kinh không giống như một sợi dây điện. Nó là một cái ống mỏng và dài, dọc theo đó sóng thay đổi về mặt hóa học, giống như một ngòi pháo cháy xèo xèo – ngoại trừ là, không giống như ngòi pháo, tế bào thần kinh đó nhanh chóng hồi phục và lại cháy xèo xèo sau một quãng nghỉ ngắn. Biên độ tuyệt đối của sóng – nhiệt độ của ngòi pháo – có thể thăng giáng khi nó chạy dọc qua các tế bào, nhưng điều này không quan trọng. Quy luật mã hóa không để tâm đến điều đó. Nó chỉ để ý là có xung hóa học hay là không có mà thôi, giống như hai mức điện áp riêng rẽ trong một điện thoại số. Ở mức độ này, hệ thần kinh là kỹ thuật số. Nhưng các xung thần kinh không bị ép thành các byte: chúng không phân thành các con số mã hóa rời rạc. Thay vì thế, cường độ của thông tin (độ lớn của âm thanh, độ sáng của ánh sáng, thậm chí có thể là cường độ của cảm giác) được mã hóa thành nhịp độ của các xung. Giới kỹ sư gọi điều này là sự Điều Biến Tần Số Xung (Pulse Frequency Modulation), và họ thường dùng nó trước khi sự Điều Biến Mã Xung được chọn sử dụng. Nhịp xung là một đại lượng analog, nhưng chính xác các xung lại là kỹ thuật số: chúng hoặc có hoặc không, chứ không nằm ở giữa. Nhờ vậy, hệ thần kinh cũng có những lợi điểm như một hệ thống kỹ thuật số thông thường. Với nguyên tắc hoạt động này của hệ thần kinh, ta cũng có hệ thống tương đương với hệ thống khuếch đại, nhưng không phải sau mỗi một trăm dặm mà là sau mỗi milimet – có tám trăm trạm khuếch đại giữa tủy sống và đầu ngón tay. Nếu độ lớn tuyệt đối của xung thần kinh – hay là sóng thuốc pháo – là quan trọng, thì thông tin chắc đã bị méo mó đi đến mức không thể nhận ra được nữa khi chạy qua một chiều dài cánh tay người, nói gì đến cả cái cổ dài của con hươu cao cổ. Mỗi giai đoạn trong quá trình khuếch đại đều tạo ra thêm sai số ngẫu nhiên, giống như khi ta sao một cuộn băng từ một cuộn băng khác thành một chuỗi tám trăm lần. Hay là khi ta photocopy một tờ photocopy từ một tờ photocopy khác. Sau tám trăm “thế hệ” bản photocopy như vậy, tất cả còn lại chỉ là một trang giấy xám xịt mực. Sự mã hóa bằng số cho ta giải pháp duy nhất cho bài toán của hệ thần kinh, và chọn lọc tự nhiên đã chọn nó một cách thích đáng. Điều này cũng đúng cho gien. Francis Crick và James Watson, hai nhà khám phá của cấu trúc phân tử của gien, theo tôi, phải được tôn vinh qua hàng nhiều thế kỷ như là Aristotle và Plato vậy. Họ đã được trao giải Nobel “ngành sinh lý và y học” là xác đáng nhưng như vậy vẫn còn chưa đủ. “Cuộc cách mạng liên tục” (thuật ngữ này bản thân nó đã có mâu thuẫn[7]), không chỉ y học mà toàn bộ những hiểu biết của chúng ta về sự sống, sẽ còn tiếp tục được cách mạng thêm nhiều lần, hết lần này qua lần khác như là kết quả trực tiếp của sự thay đổi trong tư duy mà hai con người trẻ tuổi đã khởi xướng năm 1953. Gien, và các bệnh về gien, chỉ là đỉnh của tảng băng trôi. Điều thực sự mang tính cách mạng trong ngành sinh học phân tử trong kỷ nguyên hậu Watson-Crick đó chính là ở chỗ nó đã trở thành kỹ thuật số. Nhờ Watson và Crick, chúng ta biết rằng gien, trong cấu trúc nội tại tí hon của chúng, chính là những sợi dây dài chứa toàn thông tin số. Hơn nữa, nó thực sự là kỹ thuật số theo nghĩa đầy đủ và mạnh của máy vi tính, chứ không phải theo nghĩa yếu như trong hệ thần kinh. Mã gien không phải là mã nhị phân như trong máy tính, cũng không phải một mã tám mức như trong một số hệ thống điện thoại, mà là mã tứ phân với bốn ký tự. Thật thần kỳ là ngôn ngữ máy móc của gien rất giống với máy tính. Ngoại trừ những thuật ngữ khác nhau, nội dung tạp chí sinh học phân tử thậm chí chẳng khác gì tạp chí máy tính cả. Cuộc cách mạng số ở trong chính lõi của sự sống này đã ra một đòn cuối cùng chí mạng đối với thuyết sức sống – niềm tin cho rằng vật chất sống khác biệt sâu sắc với vật chất không sống. Cho mãi đến năm 1953, người ta còn có thể tin rằng có điều gì đó huyền bí về nguyên sinh chất. Không còn nữa rồi. Ngay cả những nhà triết học đã từng được kinh qua quan điểm của thuyết cơ giới về sự sống cũng không dám hy vọng rằng sẽ có ngày những giấc mơ dữ dội nhất của họ cũng được thỏa mãn một cách hoàn toàn đến vậy. Nếu như kỹ thuật mới tăng tốc lên một chút so với kỹ thuật hiện đại, thì kịch bản khoa học viễn tưởng sau đây hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Giáo sư Jim Crickson bị bắt cóc bởi một thế lực ma quỷ xa lạ nào đó và bị ép phải làm việc trong phòng thí nghiệm vũ khí sinh học của chúng. Để cứu nhân loại, ông nhất thiết phải trao đổi một số thông tin tuyệt mật với thế giới bên ngoài, nhưng ông không được sử dụng mọi kênh thông tin thông thường. Ngoại trừ một kênh. Mã ADN bao gồm sáu mươi tư đơn vị mã bộ ba, vừa đủ cho toàn bộ bảng chữ cái tiếng Anh gồm chữ hoa và chữ thường, thêm mười con số, khoảng trắng và dấu chấm câu. Giáo sư Crickson lấy một loại virus cúm cực kỳ nguy hại ra từ phòng thí nghiệm, rồi tiến hành thiết kế vào trong hệ thống gien của nó toàn bộ thông điệp mà ông muốn gửi ra thế giới bên ngoài, gồm những câu văn được viết trọn vẹn bằng tiếng Anh. Ông cứ lặp đi lặp lại thông điệp này trên hệ gien đó rồi thêm vào một chuỗi chìa khóa dễ nhận biết, chẳng hạn như mười số nguyên tố đầu tiên. Rồi ông tự gây nhiễm cho mình và hắt hơi trong một căn phòng đầy ắp người. Có một làn sóng cúm quét qua cả thế giới, và rồi những phòng thí nghiệm y học ở thế giới xa xôi kia bắt đầu làm việc với chuỗi gien này, với sứ mệnh tạo ra một loại vaccine. Chẳng bao lâu người ta nhận thấy rằng có một kiểu mẫu lạ lùng được lặp đi lặp lại trên gien đó, rồi bỗng một người nào đó nhận thấy chuỗi số nguyên tố - vốn không thể xuất hiện một cách tự phát được, thế là người này nảy ra ý định tạo ra một kỹ thuật đọc mã. Kể từ đó chẳng bao lâu người ta có thể đọc toàn bộ văn bản tiếng Anh của giáo sư Crickson, vốn đã được hắt hơi vòng quanh thế giới. Vốn là một hệ thống phổ quát của toàn bộ sự sống trên hành tinh này, hệ thống gien của chúng ta mang tính kỹ thuật số từ trong cốt lõi. Ta có thể mã hóa, chính xác đến từng chữ một, toàn bộ cuốn Kinh Tân ước vào phần chỉ chứa những đoạn ADN “tạp nham” của hệ gien người. ADN tạp nham có nghĩa là ADN không được cơ thể dùng theo cách thông thường. Mỗi tế bào trong cơ thể bạn chứa một lượng tương đương với 46 cuộn băng dữ liệu khổng lồ, và chúng nhả ra những ký tự kỹ thuật số thông qua vô số những đầu lọc làm việc đồng thời với nhau. Trong mỗi tế bào, những cuộn băng này – tức là các nhiễm sắc thể - chứa đựng cùng một thông tin, nhưng các đầu đọc trong các loại tế bào khác nhau lọc ra những phần khác nhau của cơ sở dữ liệu, để phục vụ cho những mục đích chuyên biệt của chúng. Đó là lý do tại sao các tế bào cơ khác với các tế bào gan. Chẳng có sinh lực do linh hồn đưa đẩy nào, cũng không có một loại chất thạch nguyên sinh kỳ bí, đập lên đập xuống phập phồng nào cả. Sự sống chỉ bao gồm hàng byte hàng byte hàng byte dữ liệu số mà thôi. Gien chính là thông tin, thông tin thuần túy – thông tin mà có thể được mã hóa, tái mã hóa, và giải mã mà không có sự suy giảm hay thay đổi nào trong ý nghĩa. Thông tin thuần túy thì có thể được sao chép và, do nó là thông tin số, độ trung thực của việc sao chép là cực kỳ tốt. Các ký tự ADN được sao chép ở một mức độ chính xác có thể thách thức mọi nỗ lực cao nhất của các kỹ sư hiện đại. Chúng được sao chép xuôi theo các thế hệ, với vừa đủ những sai sót thỉnh thoảng xảy ra để tạo nên những biến dị. Trong số những biến dị này, những tổ hợp mã hóa, vốn đã chiếm đa số trong môi trường, hiển nhiên và một cách tự động sẽ là những tổ hợp, mà khi được giải mã và tuân theo quy luật trong cơ thể, sẽ khiến cho cơ thể đó có những bước đi tích cực để bảo tồn và truyền đi chính những thông điệp ADN đó. Chúng ta – và cũng có nghĩa là toàn bộ sinh vật – là các cỗ máy sinh tồn được lập trình để truyền đi cơ sở dữ liệu kỹ thuật số mà đã thực hiện chính việc lập trình đó. Học thuyết Darwin bây giờ được hiểu là nói về sự sống sót và tồn tại của những sinh vật ở mức độ mã thuần túy và mang tính kỹ thuật số. Giờ đây, sau khi đã hiểu vấn đề với kiến thức hậu nghiệm, ta thấy không thể có cách nào khác cho bài toán gien này. Ta cũng có thể tưởng tượng ra một hệ thống gien hoạt động theo kiểu analog. Nhưng ta thấy những gì xảy ra đối với thông tin dạng analog khi nó được sao chép lại qua nhiều thế hệ liên tiếp nhau. Đó chính là một dạng Tam sao Thất bản[8]. Hệ thống điện thoại dùng khuếch đại, các