🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đông Chu Liệt Quốc Ebooks Nhóm Zalo Mục Lục TÁC GIẢ GIỚI THIỆU HỒI THỨ 1 HỒI THỨ 2 HỒI THỨ 3 HỒI THỨ 4 HỒI THỨ 5 HỒI THỨ 6 HỒI THỨ 7 HỒI THỨ 8 HỒI THỨ 9 HỒI THỨ 10 HỒI THỨ 11 HỒI THỨ 12 HỒI THỨ 13 HỒI THỨ 14 HỒI THỨ 15 HỒI THỨ 16 HỒI THỨ 17 HỒI THỨ 18 HỒI THỨ 19 HỒI THỨ 20 HỒI THỨ 21 HỒI THỨ 22 HỒI THỨ 23 HỒI THỨ 24 HỒI THỨ 25 HỒI THỨ 26 HỒI THỨ 27 HỒI THỨ 28 HỒI THỨ 29 HỒI THỨ 30 HỒI THỨ 31 HỒI THỨ 32 HỒI THỨ 33 HỒI THỨ 34 HỒI THỨ 35 HỒI THỨ 36 HỒI THỨ 37 HỒI THỨ 38 HỒI THỨ 39 HỒI THỨ 40 HỒI THỨ 41 HỒI THỨ 42 HỒI THỨ 43 HỒI THỨ 44 HỒI THỨ 45 HỒI THỨ 46 HỒI THỨ 47 HỒI THỨ 48 HỒI THỨ 49 HỒI THỨ 50 HỒI THỨ 51 HỒI THỨ 52 HỒI THỨ 53 HỒI THỨ 54 HỒI THỨ 55 HỒI THỨ 56 HỒI THỨ 57 HỒI THỨ 58 HỒI THỨ 59 HỒI THỨ 60 HỒI THỨ 61 HỒI THỨ 62 HỒI THỨ 63 HỒI THỨ 64 HỒI THỨ 65 HỒI THỨ 66 HỒI THỨ 67 HỒI THỨ 68 HỒI THỨ 69 HỒI THỨ 70 HỒI THỨ 71 HỒI THỨ 72 HỒI THỨ 73 HỒI THỨ 74 HỒI THỨ 75 HỒI THỨ 76 HỒI THỨ 77 HỒI THỨ 78 HỒI THỨ 79 HỒI THỨ 80 HỒI THỨ 81 HỒI THỨ 82 HỒI THỨ 83 HỒI THỨ 84 HỒI THỨ 85 HỒI THỨ 86 HỒI THỨ 87 HỒI THỨ 88 HỒI THỨ 89 HỒI THỨ 90 HỒI THỨ 91 HỒI THỨ 92 HỒI THỨ 93 HỒI THỨ 94 HỒI THỨ 95 HỒI THỨ 96 HỒI THỨ 97 HỒI THỨ 98 HỒI THỨ 99 HỒI THỨ 100 HỒI THỨ 101 HỒI THỨ 102 HỒI THỨ 103 HỒI THỨ 104 HỒI THỨ 105 HỒI THỨ 106 HỒI THỨ 107 HỒI THỨ 108 P TÁC GIẢ hùng Mộng Long, 1574 - 1646, 馮夢⿓ (phồn thể) hoặc 冯 梦⻰ (giản thể), sinh vào năm thứ 2 thời Vạn Lịch triều Minh và mất thời Thuận Trị triều Thanh, là tác giả của tiểu tuyết nổi tiếng “Đông Chu Liệt Quốc”. Trước đây, tác giả thường được coi là người Ngô Huyện tuy nhiên gần đây, sau khi tái bản “Thọ Ninh Đãi Chí”, mới xác định rằng ông quê ở Trường Châu. Phùng Mộng Long tự là Do Long, cũng có khi ký là Long Tử Do, quê ở Trường Châu, nay là Tô Châu, Giang Tô. Ông xuất thân từ gia đình có học vấn, từ nhỏ ông đã nổi tiếng tài hoa. Lúc còn trẻ, Phùng Mộng Long là người khá phong lưu, nhưng cũng lận đận trong thi cử. Năm 57 tuổi, ông được chọn làm Cống Sinh. Trong đời vua Sùng Trinh nhà Minh, ông giữ chức tri huyện tại huyện Thọ Ninh, Phúc Kiến. Sau đó, Phùng Mộng Long không còn hứng thú với việc làm quan, chỉ ham thích những sinh hoạt văn nghệ dân gian. Cuối đời Minh, kinh tế thương nghiệp phát đạt, trong dân gian rất thịnh hành việc diễn xướng các ca khúc đương thời. Không phân nam bắc, chẳng chia nam phụ lão ấu, ai ai cũng thích nghe, thích hát. Đặc biệt là trong các thanh lâu (kỹ viện) nghiệp đàn ca càng phát đạt. Lúc quânThanh xua quân xuống vùng phía Nam, ông từng tham gia vào hoạt động chống Thanh, khi chính quyền Nam Minh bị tiêu diệt thì ông buồn rầu mà chết. Cả cuộc đời Phùng Mộng Long gắn liền với việc nghiên cứu, chỉnh lý, sáng tác văn học phong tục, đạt được những thành tựu mà ít người sánh kịp. Một khối lượng đồ sộ gồm các tác phẩm sưu tầm, biên soạn và sáng tác đã được ông để lại với nhiều loại hình như văn học dân gian, sân khấu, truyện ngắn và cả tiểu thuyết. Tiêu biểu là bộ Đông Chu Liệt Quốc của Phùng Mộng Long đã rất quen thuộc ở Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Châu Á. Nội dung tác phẩm xoay quanh cuộc tranh giành lãnh thổ và quyền lực giữa các nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc, cụ thể là từ Chu U Vương nhà Chu đến khi Tần Thủy Hoàng diệt thâu 6 nước Sở, Hàn, Yên, Triệu, Ngụy, Tề, đưa Trung Nguyên về tay nhà Tần. Tác phẩm thứ hai cũng rất đáng chú ý là bộ Tam Ngôn (nguyên bản Cổ kim tiểu thuyết) gồm các quyển Dụ Thế Minh Ngôn, Cảnh Thế Thông Ngôn và Tỉnh Thế Hằng Ngôn, lần lượt được khắc in vào trước sau niên hiệu Thiên Khải nguyên niên, Thiên Khải năm thứ 4 và Thiên Khải năm thứ 7 (1624-1627). Những tiểu thuyết trong Tam Ngôn có nguồn gốc khác nhau, tình huống khá phức tạp. Một bộ phận nhỏ là những “thoại bản” lưu truyền ở các đời Tống, Nguyên, Minh được ghi chép sau đó được Phùng Mộng Long gia công sử chữa, còn phần lớn là Phùng Mộng Long đã dựa vào những bút kí, tiểu thuyết, truyền kỳ, những mẩu chuyện lịch sử, dân gian thời trước để sáng tác nên. Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com M GIỚI THIỆU ột tác phẩm văn học tiêu biểu, xứng đáng của một dân tộc cũng là một tác phẩm hàm chứa những tính phổ biến và sâu xa của nhân loại. Đông Chu Liệt Quốc là một pho cổ sử, một áng văn tuyệt tác của nền văn học cổ đại Trung Hoa mà sự thâm thúy của các nhà du thuyết, tài ứng xử trong cách đối nhân xử thế, những lý và đạo trong việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của các bậc đế, vương, bách gia chư tử của hàng chục vương triều và hàng trăm tiểu quốc diễn ra trong suốt 500 năm lịch sử trước Công Nguyên ở nước Trung Hoa cổ đại, đã trở thành những điển tích có ảnh hưởng lớn đến nền văn chương nước nhà, nhất là các nho sĩ thời phong kiến. Đông Chu Liệt Quốc được viết theo lối tả truyện chương, hồi, theo phương pháp tự sự, ghi chép khá chân thực lịch sử các cuộc chiến tranh, các mưu đồ vương bá, mở đầu bằng nhà Đông Chu (Chu Tuyên Vương) và kết thúc bằng nhà Tần (Tần Thủy Hoàng) gồm thâu Lục quốc (Triệu, Sở, Tấn, Tề, Ngụy, Hàn) thống nhất nước Trung Hoa ngày ấy. Người xưa nói: “Đọc bộ sách này bằng mấy mươi sách khác” thật không ngoa. Bởi vì sách đã phản ánh quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và tiêu vong của biết bao triều đại trong năm thế kỷ với những cuộc chiến tranh triền miên, nạn chém giết, xâu xé, tiếm đoạt, tài ứng xử, thói ươn hèn của từ các bậc quân tử đến hàng tiểu nhân, từ những trí thức Nho gia đến hàng dân dã…, trong đó có cả tệ tham quyền, cố vị đến mọi thủ đoạn gian xảo, từ các cách sống xa hoa, dâm loàn của các đế vương đến những đời thường cơ cực, những nạn nhân của thời ly loạn. Tính hấp dẫn của cách tả truyện mang tính sử thi ở sách Đông Chu Liệt Quốc được chắt lọc từ những sự kiện lịch sử thâu tóm, không dài dòng kể lể, cũng không đi vào những chi tiết huyễn hoặc, ma quái, Phật trời kiểu Tây Du Ký, Đông Du Bát Tiên của Ngô Thừa Ân và các tác giả thời Tống. Qua các chương, hồi của sách Đông Chu Liệt Quốc, sự thật được phơi bày qua từng lời nói và hành động của các nhân vật, các luận thuyết, rồi quyền biến bằng các lệnh truyền, phán quyết của các vị vương, công hầu, khanh tướng với tài dẫn giải có lớp lang, trình tự trước, sau, trên, dưới, quyện chặt từ đầu đến cuối của cả bộ sách, khiến người đọc theo dõi say sưa và trọn vẹn, theo kiểu ghi chép khách quan của nhà làm sử. Bao nhiêu kẻ sĩ, khanh tướng, công hầu, bao nhiêu nhà thuyết khách cỡ Trương Nghi, Tô Tần, Kinh Kha, từ những bậc chiêu hiền, đãi sĩ, sống mộ điệu như Mạnh Thường Quân, cho đến những kẻ cơ hội đầy toan tính xảo quyệt con buôn, kể cả việc mua vua, bán chúa như Lã Bất Vi, Huyền Cao của hai nước Triệu, Trịnh, đều được sao chép thật công phu, chu đáo, mà hữu ý một cách vô tình. Với cách nhìn đổi mới trong việc đánh giá, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của loài người, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội 6 của Đảng ta, việc tiếp thu các tinh hoa của nền văn minh Hán học với sự hiện diện của bách gia chư tử các triều Trung Hoa cổ đại được coi là sự gạn đục khơi trong trong việc chắt lọc những hạt ngọc của muôn đời. Giới thiệu bộ sách Đông Chu Liệt Quốc, chúng tôi mong đưa đến tay bạn đọc một áng cổ văn uyên bác, tuy xa xưa mà ý nghĩa thâm sâu về cuộc đời, thuật làm người và dùng người, tính triết lý trong việc hiểu người biết ta, ngẫm nghĩ điều hay, chuộng lẽ phải, ghét bạo quyền, thói giảo hoạt, vẫn là những câu chuyện thời sự nóng hổi, được coi là những bài học muôn đời. Mong bạn đọc góp ý phê bình. Đ HỒI THỨ 1 Nghe lời hát, Tuyên Vương khinh sát Giãi tình oan, Đỗ Bá hiển linh ời vua Tuyên Vương nhà Chu, có nước Khương Nhung nổi loạn, vua Tuyên Vương ngự giá đi đánh, chẳng may bị thua, quân chết nhiều lắm. Vua Tuyên Vương có ý lo sợ, mới thân hành ra đất Thái Nguyên, kiểm soát sổ dân, xem số người nhiều ít thế nào, để phòng khi phải gọi ra lính. Khi vua Tuyên Vương ở Thái Nguyên trở về Kiểu Kinh, đi qua một cái chợ, bỗng thấy có lũ trẻ độ vài mươi đứa vỗ tay cùng hát. Vua Tuyên Vương truyền dừng xe lại để nghe. Nghe tiếng lũ trẻ hát rằng: “Thỏ mọc thì ác phải tà, Yểm hồ Cơ bặc ấy là mất Chu!” Vua Tuyên Vương giận lắm, truyền bắt lũ trẻ lại để hỏi. Lũ trẻ sợ hãi, chạy tán loạn cả; chỉ bắt được có hai đứa, một đứa còn bé và một đứa đã hơi lớn. Vua Tuyên Vương hỏi rằng: — Đứa nào dạy chúng bay hát câu ấy? Đứa bé sợ run cằm cặp, không nói được nữa, còn đứa hơi lớn quì xuống tâu rằng: — Câu hát ấy thực quả không phải chúng tôi đặt ra. Ba hôm trước có thằng bé mặc áo đỏ, đến giữa chợ này dạy chúng tôi hát mấy câu ấy. Không biết cớ sao chỉ trong một lúc mà huyên truyền khắp chốn kinh thành, trẻ con đứa nào cũng hát thế, chẳng phải có một chỗ này. Vua Tuyên Vương hỏi rằng: — Bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu? Đứa trẻ ấy tâu rằng: — Từ khi dạy xong bài hát thì không biết nó đi đàng nào. Vua Tuyên Vương nín lặng một hồi lâu, rồi đuổi hai đứa bé đi, truyền cho Tư thị quan phải hiểu dụ cấm từ nay trở đi, nếu đứa trẻ nào còn hát câu ấy nữa thì cha anh đứa ấy phải chịu tội. Vua Tuyên Vương về cung. Sáng hôm sau, vua Tuyên Vương ra triều, kể chuyện lại cho các quan nghe một lượt, rồi phán hỏi rằng: — Câu hát ấy, các quan đoán ra thế nào? Quan Đại tôn bá là Thiệu Hổ tâu rằng: — Yểm là một thứ cây dâu ở trên núi, dùng làm cung được, Yểm hồ là cái cung bằng gỗ Yểm; Cơ là loài cỏ, kết lại làm cái túi đựng tên được, Cơ bặc là cái túi đựng tên bằng cỏ Cơ. Cứ như ý kẻ hạ thần thiển nghĩ thì e là một cái điềm trong nước có việc cung tên giặc giã. Quan Thái tể là Trọng Sơn Phủ tâu rằng: — Cung tên là một thứ binh khí. Nay nhà vua kiểm soát dân số để định đi báo thù nước Khương Nhung, kẻ hạ thần e rằng nếu việc chiến tranh không thôi thì tất có ngày mất nước. Vua Tuyên Vương gật đầu, rồi lại phán hỏi rằng: — Câu hát ấy tự đứa trẻ mặc áo đỏ truyền ra, chẳng hay đứa trẻ ấy là thế nào? Quan Thái sử là Bá Dương Phụ tâu rằng: — Đó là ý trời muốn răn nhà vua, mới sai vị sao Huỳnh Hoặc hóa làm đứa trẻ dạy câu hát ấy. Huỳnh Hoặc là Hỏa tinh, vậy nên đứa trẻ ấy mặc áo sắc đỏ. Vua Tuyên Vương nói: — Bây giờ trẫm xá tội cho nước Khương Nhung, rồi đem bao nhiêu cung tên ở trong kho đốt bỏ cả đi, lại cấm trong nước không ai được làm ra nữa thì cái điềm gở ấy có thể tránh khỏi được hay không? Bá Dương Phụ tâu rằng: — Kẻ hạ thần xem thiên văn thì cái điềm gở ấy tự hồ ở trong cung vua, không quan hệ đến việc ngoài. Vả lại mặt trời là tượng vua; mặt trăng là thuộc về loài âm, nay trong câu hát nói “Thỏ mọc ác tà” thì âm thịnh dương suy, chắc hẳn có cái họa đàn bà can thiệp đến chính trị trong nước. Vua Tuyên Vương nói: — Trẫm đã nhờ có Khương hậu làm chủ trong cung là một người rất hiền, bao nhiêu cung tần đều tự tay Khương hậu kén chọn cả thì bởi đâu mà lại có nữ họa được. Bá Dương Phụ tâu rằng: — Câu hát ấy là nói về việc sau này sẽ có, nay nhà vua tu nhân tích đức thì cũng có thể trừ được, không cần phải đốt bỏ những cung tên làm gì. Vua Tuyên Vương nửa tin nửa ngờ, có ý không được vui, bãi triều vào cung. Khương hậu ra đón, Vua Tuyên Vương đem những lời tâu của các quan kể lại cho Khương hậu nghe. Khương hậu nói: — Trong cung có một việc rất lạ lùng, thiếp tôi vừa toan tâu để nhà vua được biết. Vua Tuyên Vương nói: — Việc gì như vậy? Hậu cứ nói. Khương hậu nói: — Hiện nay có một người cung nhân của Tiên Vương thuở xưa, đã ngoài 50 tuổi, có thai kể hàng 40 năm trời, đêm qua mới sinh được một đứa con gái. Vua Tuyên Vương giật mình hỏi: — Đứa con gái ấy ở đâu? Khương hậu nói: — Thiếp tôi nghĩ đó là một quái vật nên đã quăng xuống sông Thanh Thủy, cách đây độ 20 dặm. Vua Tuyên Vương truyền đòi người cung nhân già ấy vào, rồi hỏi sự tình đầu đuôi việc thụ thai ra làm sao. Người cung nhân già ấy quỳ xuống mà tâu rằng: — Tiện tỳ này nghe nói về đời Hạ Kiệt, có thần nhân ở đất Bao Thành hóa làm hai con rồng vào sân nhà vua rồi nhả dãi ở trong miệng ra, bảo vua Hạ Kiệt rằng: “Ta đây là hai vua ở Bao Thành”. Vua Hạ Kiệt sợ hãi, toan đem giết đi, mới sai quan Thái sử bói một quẻ xem sao. Quan Thái sử tâu rằng: “Thần nhân giáng xuống là điềm lành! Sao nhà vua không xin lấy một dãi ấy mà cất đi một chỗ. Cái dãi ấy là tinh khí của con rồng, mình xin được tất đắc phúc”. Vua Hạ Kiệt mới làm lễ tế con rồng, đem cái mâm bằng vàng để hứng lấy dãi, bỏ trong cái hòm sơn đỏ rồi cất vào kho. Vừa cất xong thì mưa gió ầm ầm, hai con rồng bay đi mất. Từ đời Hạ qua đời Ân trải 644 năm; sang đời Chu ta, lại gần được 300 năm rồi mà chưa hề mở lần nào cả. Đến đời Tiên Vương ta, trong hòm tự nhiên có hào quang chiếu sáng, quan giữ kho phải vào tâu Tiên Vương. Tiên Vương truyền mở xem. Nội thị mở ra, rồi bưng cái mâm bằng vàng có đựng dãi rồng ấy dâng lên, Tiên Vương giơ tay đỡ lấy, đánh rơi xuống đất, dãi rồng chảy lênh láng cả ra sân, bỗng hóa thành một con giải nhỏ. Nội thị đuổi bắt thì con giải ấy chạy vào trong cung vua mà biến đi mất. Bấy giờ tiện tỳ này mới 12 tuổi, giẫm phải vết chân con giải ấy, bỗng thấy trong mình cảm động, bụng mỗi ngày một to như người có thai vậy. Vì cớ không chồng mà chửa ấy Tiên Vương lấy làm quái dị, mới giam tiện tỳ vào nơi u thất, đến nay đã 40 năm trời. Đêm qua bỗng thấy đau bụng, sinh được một đứa con gái. Nội thị thấy vậy, không dám giấu giếm, phải vào tâu với lịnh bà. Lịnh bà cho là quái vật, sai nội thị đem bỏ ra ngoài sông, tiện tỳ biết tội đã nhiều, xin nhà vua trông lại. Vua Tuyên Vương nói: — Đó là việc về triều trước, có can dự gì đến nhà ngươi. Nói xong, truyền cho cung nhân lui ra, rồi sai nội thị tới sông Thanh Thủy xét xem đứa bé con ấy ra làm sao. Được một hồi lâu, nội thị về báo rằng: — Đứa bé con ấy đã trôi đi đâu mất rồi. Sáng hôm sau, vua Tuyên Vương ra triều, đem chuyện dãi rồng nói cho Bá Dương Phụ nghe, rồi hỏi rằng: — Đứa bé con ấy nay đã chết rồi, nhà ngươi nên bói một quẻ xem sao. Bá Dương Phụ tính đốt ngón tay rồi quì xuống tâu rằng: — Cứ như kẻ hạ thần suy tính thì yêu khí ấy dẫu ra khỏi chốn cung điện, nhưng chưa được trừ khử! Vua Tuyên Vương có ý không bằng lòng, mới hạ lịnh đi khắp mọi nơi; hễ vớt được đứa con gái ấy đem nộp thì bất cứ sống hay chết, nhà vua cũng thưởng cho 300 tấm lụa; nhược bằng có kẻ nào bắt được mà giấu giếm không chịu trình quan thì cả nhà phải chết chém; ai biết mà tố giác ra thì cũng có thưởng. Giao cho quan Thượng đại phu là Đỗ Bá chuyên xét về việc ấy. Lại sai quan Hạ đại phu là Tả Nho đi đốc xuất cho các Tư thị quan phải nghiêm cấm dân gian không được làm ra hay là đem bán những cung bằng gỗ dâu và túi tên bằng cỏ Cơ nữa, ai không tuân lệnh, phải tội xử tử. Ngày hôm sau, Tư thị quan đi tuần, gặp một người đàn bà mang mấy cái túi tên bằng cỏ Cơ và một người đàn ông vác mười bó cung bằng gỗ dâu đi theo sau. Hai vợ chồng nhà ấy chưa biết có lịnh cấm, cứ thủng thỉnh tiến qua cửa thành để đem vào chợ bán. Vừa đi đến cửa thành, Tư thị quan trông thấy, thét người bắt lại. Người đàn ông quẳng bó cung xuống đấy, ù té chạy mất. Tư thị quan sai trói người đàn bà và đem cả cung dâu túi cỏ vào nộp Tả Nho. Tả Nho nghĩ thầm trong bụng rằng: — Hai vật này chính ứng vào câu hát của lũ trẻ. Vả quan Thái sử tâu rằng có nữ họa, nay bắt được người đàn bà này, âu là ta phải về tâu mới được. Tả Nhỏ mới giấu hẳn chuyện người đàn ông đi, không nói đến nữa, chỉ tâu rằng người đàn bà trái phép, tội nên xử tử. Vua Tuyên Vương truyền đem chém, còn cung dâu và túi cỏ thì đem đốt ở giữa chợ để răn kẻ khác. Người đàn ông từ khi chạy trốn, vẫn không hiểu là vì cớ gì quan bắt vợ chồng mình, ngày hôm sau nghe thấy người ta đồn rằng: — Người đàn bà bị bắt hôm trước, dám trái phép làm cung dâu và túi cỏ, nay đã chết chém rồi. Bấy giờ mới biết là vợ mình chết chém, liền đi đến chỗ đồng không quãng vắng, ứa hai hàng nước mắt ra mà khóc, lại mừng thầm rằng mình được thoát nạn, mới lững thững đi đến bên sông Thanh Thủy, nhác trông thấy đàng xa có các giống chim kêu, vội vàng đến gần nhìn xem thì thấy có một cái chiếu cỏ cuốn thành một bó, lênh đênh ở trên mặt nước, các giống chim vừa lôi vừa kêu đã gần dạt vào bờ. Người đàn ông ấy lấy làm lạ, mới kéo lên bờ, nghe có tiếng khóc, liền mở ra xem, thấy một đứa con gái bé, nghĩ thầm trong bụng rằng: — Đứa bé này không biết của ai mà quăng bỏ như vậy, lại có các giống chim tha dạt vào bờ thì tất là quí tử, âu là ta đem về nuôi, ngày sau nó lớn lên, ta cũng có phận nhờ. Người đàn ông ấy cởi áo ra cuốn lấy đứa bé, ẵm trong lòng, rồi thẳng đường trốn sang Bao Thành để tìm phương tránh nạn. Vua Tuyên Vương từ khi giết người đàn bà ấy, cho là câu hát của lũ trẻ đã ứng nghiệm, mới được yên lòng, không nghĩ ngợi gì nữa. Cách sau độ vài ba năm gặp ngày đại tế, tối hôm tước vua Tuyên Vương ăn chay ra túc trực ở nhà Thái Miếu. Đêm khuya thanh vắng, bỗng trông thấy có một người con gái, từ phía tây bước thẳng vào trong miếu. Vua Tuyên Vương nổi giận, quát mắng ầm lên, truyền nội thị đuổi bắt, chẳng thấy một người nào thưa. Người con gái ấy không sợ hãi gì cả, cười khanh khách ba tiếng, lại khóc nức nở ba tiếng, rồi thu hết các thần chủ trong miếu, bó làm một bó mà xách đi. Vua Tuyên Vương vội vàng đuổi theo, bỗng giật mình tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao. Đến lúc tế xong, vua Tuyên Vương đòi Bá Dương Phụ vào để đoán mộng. Bá Dương Phụ tâu rằng: — Năm xưa câu hát của lũ trẻ, kẻ hạ thần đã đoán là có nữ họa; nay có cái mộng này thì hợp nhau lắm. Vua Tuyên Dương nói: — Ngày trước trẫm đã giết một mụ đàn bà bán cung dâu và túi cỏ, mà lại chưa trừ được nữ họa hay sao? Bá Dương Phụ lại nói rằng: — Đạo trời cao xa lắm, có ứng nghiệm rồi mới biết được, chứ một người đàn bà quê kệch ấy quan hệ gì đến khí số! Vua Tuyên Vương ngậm ngùi không nói gì cả, sực nghĩ đến năm trước có sai quan Thượng đại phu là Đỗ Bá đi kiểm soát về việc đứa bé bỏ sông mà sao từ bấy đến nay chưa thấy tâu báo gì. Nghĩ xong, đứng dậy về triều, truyền đòi Đỗ Bá vào hỏi. Đỗ Bá tâu rằng: — Kẻ hạ thần đã hết sức dò tìm đứa bé ấy mà chẳng thấy tăm hơi gì cả, về sau thấy có người đàn bà chết chém, thì câu hát của lũ trẻ đã ứng nghiệm rồi. Kẻ hạ thần e rằng dò tìm mãi thì sợ náo động đến dân tình trong nước, vậy nên sau cũng bỏ đi. Vua Tuyên Vương nổi giận mắng rằng: — Nếu như vậy thì sao nhà ngươi không tâu rõ, mà dám tự tiện coi thường! Nói xong, truyền vũ sĩ đem chém. Các quan trong triều đều sợ xám cả mặt đi. Bỗng thấy một viên quan chạy ra ôm lấy Đỗ Bá mà kêu lên rằng: — Khoan đã! Khoan đã! Vua Tuyên Vương ngoảnh trông thấy quan Hạ đại phu là Tả Nho, tức là bạn thân với Đỗ Bá. Tả Nho quì xuống tâu rằng: — Kẻ hạ thần thiết nghĩ rằng đời vua Nghiêu chín năm nước lụt, đời vua Thang bảy năm nắng to, tai biến như thế còn chẳng hại gì, nữa là những chuyện huyền hoặc ngày nay, sao nhà vua lại quá tin như vậy. Nếu nhà vua giết Đỗ Bá thì kẻ hạ thần e rằng người nước ngoài nghe thấy những chuyện huyền hoặc tất cũng đem lòng khinh bỉ, xin nhà vua nghĩ lại mà rộng thương cho. Vua Tuyên Vương nói: — Nhà ngươi vì bạn mà trái lời của Trẫm, thế ra nhà ngươi trọng bạn mà khinh vua hay sao? Tả Nho nói: — Vua phải, bạn trái thì nên theo vua; bạn phải, vua trái thì nên theo bạn, Đỗ Bá tội không đáng chết, nếu nhà vua giết đi thì thiên hạ tất chê nhà vua là bất minh, mà nếu kẻ hạ thần không biết can ngăn thì thiên hạ tất cũng chê kẻ hạ thần là bất trung. Nay nhà vua nhất định giết Đỗ Bá thì kẻ hạ thần xin cùng với Đỗ Bá cùng chết. Vua Tuyên Vương vẫn chưa nguôi cơn giận mà rằng: — Trẫm giết Đỗ Bá như bỏ đống cỏ nát, cần gì phải nói lắm cho phiền. Nói xong, truyền đem Đỗ Bá ra chém. Tả Nho về đến nhà, cũng tự vẫn mà chết. Con Đỗ Bá là Thấp Thúc trốn sang nước Tấn, làm quan sĩ sư, mới đổi họ là họ Sĩ; được phong ở đất Phạm, lại đổi làm họ Phạm. Người đời sau thương Đỗ Bá là người trung, mới lập đền thờ, gọi là miếu “Đỗ Chủ” cũng gọi là “Hữu tướng quân miếu”. Vua Tuyên Vương nghe nói Tả Nho tự vẫn, cũng có ý hối về việc giết Đỗ Bá, đêm ngày nghĩ ngợi, thành cái bệnh hay mê hoảng. Một hôm gặp tiết mùa thu, vua Tuyên Vương ra săn bắn chơi ở ngoài cõi. Đến lúc trở về, vua Tuyên Vương đang ngồi ở trên kiệu, hoa mờ mắt lên, bỗng trông thấy ở phía đằng xa có một cái xe nhỏ xồng xộc đi đến. Trên xe có hai người đứng, tay cầm cung tên, ngoảnh trông vua Tuyên Vương mà nói rằng: — Nhà vua lâu nay vẫn được mạnh mẽ chứ! Vua Tuyên Vương nhìn kỹ ra thì thấy Đỗ Bá và Tả Nho, mới giật mình kinh sợ, vừa mới chớp mắt đi, thì lại chẳng thấy gì nữa. Vua Tuyên Vương truyền hỏi các quan thị vệ thì đều tâu rằng, không ai trông thấy gì cả. Vua Tuyên Vương đang có ý nghi hoặc thì lại thấy cái xe Đỗ Bá, Tả Nho cứ lượn đi lượn lại ở trước mặt. Vua Tuyên Vương giận lắm, rút thanh bảo kiếm giơ lên toan chém. Đỗ Bá và Tả Nho cùng quát mắng rằng: — Hôn quân kia! Mi làm nhiều điều càn rỡ, chém giết những kẻ vô tội, nay mi đã đến ngày tận số, chúng ta đến đây để báo thù. Nói xong, giương cung bắn thẳng vào bụng vua Tuyên Vương. Vua Tuyên Vương kêu to lên một tiếng chết ngất người đi. Các quan xúm lại đổ thuốc, rồi vực vua Tuyên Vương về cung. V HỒI THỨ 2 Bao Quýnh chuộc tội dâng mỹ nữ U Vương đốt lửa lừa chư hầu ua Tuyên Vương từ khi trông thấy âm hồn Đỗ Bá và Tả Nho, bệnh mỗi ngày một nặng, hễ nhắm mắt đi thì lại thấy Đỗ Bá và Tả Nho. Vua Tuyên Vương truyền đòi hai vị lão thần là Doãn Cát Phủ và Thiệu Hổ vào cung để ký thác Thái tử. Hai vị lão thần vâng mệnh, lạy tạ trở ra. Vừa ra đến cửa cung thì gặp quan Thái sử là Bá Dương Phụ. Thiệu Hổ nói với Bá Dương Phụ rằng: — Câu hát của lũ trẻ ngày trước tôi đã đoán là có việc cung tên giặc giã, nay vua lại trông thấy ma quỉ cầm cung tên mà bắn thì dễ có khi bệnh nguy mất. Bá Dương Phụ nói: — Tôi xem thiên văn thì e rằng nhà nước còn có sự tai biến khác, chứ chẳng những một mình nhà vua mà thôi đâu. Doãn Cát Phủ nói: — Các ngài chỉ nói thiên đạo mà bỏ nhân sự, nếu vậy thì các quan trong triều cần dùng được việc gì! Nói xong, ba người đều về cả. Đêm hôm ấy vua Tuyên Vương băng hà, các quan tôn Thái Tử là Cung Nát lên ngôi vua, tức là U Vương. Từ khi Tuyên Vương băng hà rồi, bà Khương hậu đêm ngày buồn rầu, chẳng bao lâu cũng tạ thế. Vua U Vương là người bạo ngược, trong khi còn có tang mà ngày nào cũng uống rượu vui đùa, chẳng có bụng thương xót một chút nào; từ khi bà Khương hậu tạ thế rồi, lại càng không sợ ai nữa, say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì chính sự. Các vị lão thần như Doãn Cát Phủ, Thiệu Hổ cũng đều tạ thế cả. U Vương dùng Quắc công, Sái Công và Doãn Cầu làm chức tam công. Ba người đều là người tham quyền ham lợi, chỉ được nghề du nịnh để theo ý vua. Bấy giờ có quan Đại phu là Triệu Thúc Đái bảo Bá Dương Phụ rằng: — Nay Thiên tử không nghĩ đến chính sự, chỉ chuyên dùng kẻ nịnh thần, ta giữ chức Gián quan, nên phải ngăn vua mới được. Bá Dương Phụ nói: — Chỉ sợ can ngăn cũng vô ích mà thôi. Hai người thì thào với nhau, thế nào lại đến tai Quắc công, Quắc công sợ Triệu Thúc Đái can ngăn vua, lại nói rõ hắn là một đứa gian nịnh, liền vào ngay trong cung, tâu với U Vương rằng: — Bá Dương Phụ cùng với Triệu Thúc Đái bàn nhau để chê bai triều đình. Vua U Vương nói: — Những đồ ngu dốt lại dám nói càn, nghe làm gì cho bẩn tai. Một hôm, có quan Trấn Thủ ở Kỳ Sơn dâng biểu tâu rằng: — Núi Kỳ Sơn đổ, dân chết hại lắm. Vua U Vương chẳng lo sợ gì cả, chỉ sai nội thị đi tìm con gái đẹp để tuyển vào cung. Triệu Thúc Đái dâng biểu can: — Kỳ Sơn là chỗ phát tích của nhà Chu ta, nay núi lở như vậy, không phải là việc tầm thường, nhà vua nên tìm người hiền để giúp đỡ chính sự, may ra có tiêu trừ được cái thiên tai, sao lại không tìm người hiền mà chỉ tìm con gái đẹp làm gì? Quắc công tâu: — Quốc triều ta đóng đô ở đây là chỗ cơ nghiệp muôn năm, còn như Kỳ Sơn là nơi cũ đã bỏ đi rồi còn can hệ gì nữa. Triệu Thúc Đái có lòng bất kính dám đặt điều để nói xấu nhà vua, xin nhà vua soi xét. Vua U Vương nói: — Quắc công nói phải đó! Nói xong liền cách chức Triệu Thúc Đái, đuổi về. Triệu Thúc Đái đem gia quyến sang ở nước Tấn, sau con cháu nối đời làm quan Đại phu nước Tấn. Triệu Thôi và Triệu Thuẫn tức là dòng dõi ông ấy. Quan Đại phu là Bao Quýnh ở Bao Thành về triều, nghe tin Triệu Thúc Đái bị đuổi, vội vàng vào tâu với vua U Vương rằng: — Nay nhà vua không biết lo sợ để trừ tai biến, mà lại đuổi bỏ người trung thực, kẻ hạ thần e rằng trong nước không có người hiền thì khó lòng mà giữ được cơ nghiệp. Vua U Vương giận lắm, sai bắt Bao Quýnh bỏ ngục. Từ bấy giờ các quan trong triều không ai dám can ngăn nữa. Lại nói chuyện người đàn ông đi bán cung dâu túi cỏ ngày trước vớt được đứa bé con, trốn sang Bao Thành, sau nhân nghèo đói không thể nuôi được, gặp có nhà Tự Đại hiếm hoi, đưa cho hắn mấy tấm vải, xin lấy đứa bé đem về nuôi, đặt tên là Bao Tự. Năm Bao Tự mới 14 tuổi mà trông người bằng trạc 16, 17 tuổi, nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da, mắt liếc sắc như dao cau, miệng cười tươi như hoa nở, thật là một bậc nghiêng thành nghiêng nước, đắm nguyệt ngây hoa; chỉ vì ở nơi quê mùa hẻo lánh, vậy nên dẫu có sắc nước hương trời, nhưng chưa mấy người biết đến mà rước đi cả. Con trai Bao Quýnh là Hồng Đức, một hôm đi qua đấy, trông thấy Bao Tự đang gánh nước, dẫu cách ăn mặc mộc mạc mà cũng không che kín được cái vẻ đẹp của mỹ nhân. Hồng Đức giật mình kinh ngạc mà rằng: — Ai ngờ chỗ quê mùa hẻo lánh này mà lại có người tuyệt sắc! Nói xong, lại sực nghĩ đến phụ thân đang bị giam ở kinh thành đã ba năm nay chưa được tha về; nếu đem người con gái này đến dâng Thiên tử thì có lẽ phụ thân ta được khỏi tội. Hồng Đức mới hỏi dò tên tuổi đích xác rồi trở về nói với mẹ rằng: — Phụ thân con vì lời nói thẳng, làm trái ý vua, cũng không phải là có tội gì nặng. Nay Thiên Tử có tính hoang dâm, chỉ tìm gái đẹp tuyển vào trong cung, bây giờ có con gái nhà Tự Đại đẹp lắm, nếu mua được để dâng thiên tử mà chuộc tội cho phụ thân con, đó cũng là cái kế của Tản Nghi Sinh ngày xưa cứu vua Văn Vương được khỏi tội. Bà mẹ nói: — Nếu kế ấy dùng được thì ta có tiếc gì tiền của, con nên đi ngay. Hồng Đức liền đến nhà Bao Tự, nói với Tự Đại xin đưa 300 tấm lụa, mau lấy Bao Tự đem về, cho tắm gội sạch sẽ, ăn mặc lịch sự để đem về Kiểu Kinh. Khi đến Kiểu Kinh, Hồng Đức mang vàng bạc vào lễ Quắc công để nhờ Quắc công tâu hộ cho rằng hạ thần là Bao Quýnh đã tự biết hối tội, nay con là Hồng Đức xót tình cốt nhục, xin dâng mỹ nhân là Bao Tự để chuộc tội cho cha. Vua U Vương nghe lời tâu, truyền cho Bao Tự vào bệ kiến. Bao Tự vào lạy ở trước sân rồng. Vua U Vương trông thấy nhan sắc xinh đẹp, xưa nay chưa có ai được như thế, đầu mày cuối mặt, càng nồng tấm yêu, mới cho ngay Bao Tự vào cung, rồi hạ chỉ tha Bao Quýnh, lại cho được phục chức. Từ bấy giờ vua U Vương đêm ngày say đắm Bao Tự, ở chỗ Quỳnh Đài, gối tựa vai kề, sông thề núi chỉ, chẳng thiết gì các chính sự cả, hàng tháng không ra triều một lần, các quan không mấy khi được trông thấy mặt vua, ai cũng ngậm ngùi than thở. Có người đem chuyện Bao Tự vào báo với chánh cung là Thân hậu. Thân hậu giận lắm, một hôm đi đến Quỳnh Đài (chỗ Bao Tự ở) gặp vua U Vương đang cùng với Bao Tự sánh vai cùng ngồi, trông thấy Thân hậu vào, cũng không đứng dậy. Thân hậu không thể nhịn được, mới mắng Bao Tự rằng: — Đứa tiện tỳ kia, mày ở đâu mà đến đây làm rối loạn chốn cung cấm như vậy! Vua U Vương sợ Thân hậu xông vào đánh Bao Tự, mới lấy mình che cho Bao Tự mà nói hộ rằng: — Đây là mỹ nhân của trẫm mới mua, chưa định vị thứ, vậy nên chưa kịp cho vào trình diện, sao Hoàng hậu lại nóng tính thế! Thân hậu sỉ mắng một lúc, rồi hầm hầm trở ra. Bao Tự hỏi vua U Vương rằng: — Ai đó? Vua U Vương nói: — Đấy là Hoàng hậu đó, sáng mai ái khanh nên vào chào một tiếng. Bao Tự nín lặng không nói gì cả, đến sáng hôm sau cũng chẳng vào triều Thân hậu. Thân hậu ở trong cung, ngày đêm buồn rầu. Thái tử là Nghi Cữu quì xuống mà hỏi rằng: — Mẫu thân nay làm chánh cung, sao lại có ý không được vui? Thân hậu nói: — Thiên tử nay say đắm Bao Tự, một mai con yêu ấy nó đắc thế thì mẹ con ta không có chỗ mà dung thân. Nói xong, lại kể cho Thái tử nghe những chuyện Bao Tự không vào trình diện và trông thấy đến mà không đứng dậy ra nghênh tiếp, vừa kể chuyện vừa chảy nước mắt xuống ròng ròng. Nghi Cữu nói: — Khó gì việc ấy! Sáng mai là ngày Sóc Nhật, phụ vương tất ra coi triều, xin Mẫu thân cứ cho cung nữ đến hái hoa ở Quỳnh Đài, dụ cho con tiện tỳ ấy ra ngoài, rồi con đánh cho nó một mẻ để Mẫu thân được hả lòng. Giả sử phụ vương có quở trách thì con chịu tội, chứ không can gì đến Mẫu thân. Thân hậu nói: — Con không nên nóng nảy, phải nghĩ kỹ mới được. Thái tử căm tức trở ra. Sáng hôm sau, vua U Vương ra coi triều. Nghi Cữu cố ý sai mấy mươi người cung nữ đến chỗ Quỳnh Đài, hái bừa cả hoa đi. Các cung nữ ở Quỳnh Đài ngăn cấm mà mắng rằng: — Những khóm hoa ở đây là Thiên tử để cho Bao nương nương thỉnh thoảng ra ngắm, không được phá hủy; nếu phá hủy thì có tội, chứ chẳng chơi đâu! Những người cung nữ kia nói: — Chúng tôi vâng mệnh Thái tử, hái hoa để dâng bà Chánh cung, đứa nào dám ngăn cấm? Hai bên cãi nhau rầm rĩ cả lên, động đến tai Bao Tự. Bao Tự vừa bước ra thì Nghi Cữu xông đến, túm lấy tóc Bao Tự mà mắng rằng: — Đứa tiện tỳ kia, mày là người nào mà dám tự xưng là nương nương, chẳng coi ai ra gì, ngày nay ta đánh cho mày biết tay! Nói xong, nắm tay lại đấm luôn mấy cái. Các cung nữ sợ tội với vua, đều quì xuống kêu van Nghi Cữu rằng: — Xin Thái tử bớt giận, việc gì đã có Thiên tử phân xử. Nghi Cữu cũng sợ quá tay, mới buông tha cho Bao Tự. Bao Tự xấu hổ ngậm ngùi trở vào, biết là Nghi Cữu báo thù cho mẹ, hai hàng nước mắt lã chã khôn cầm. Các cung nữ khuyên giải rằng: — Đã có lịnh Thiên tử, nương nương bất tất phải phiền não. Nói chưa dứt lời thì vua U Vương vào. Vua U Vương trông thấy Bao Tự đầu bù tóc rối, nước mắt chạy quanh, mới hỏi Bao Tự rằng: — Hôm nay ái khanh vì cớ gì mà chưa trang điểm chi cả? Bao Tự nắm lấy tay áo vua U Vương mà khóc òa lên, rồi kể lể rằng: — Hôm nay Thái tử đem cung nữ đến hái hoa, nào thiếp tôi có tội lỗi gì đâu, Thái tử trông thấy, tức thì túm lấy mà đánh, nếu không có các cung nữ kêu van hộ thì tính mệnh thiếp tôi còn gì. Xin nhà vua xử đoán cho. Nói xong, lại khóc nức nở mãi. Vua U Vương nói: — Chỉ tại nhà ngươi không chịu vào triều Hoàng hậu, đến nỗi gây ra chuyện này. Đó là Hoàng hậu sai đến, không phải là tự ý Thái tử, nhà ngươi chớ lấy làm lạ. Bao Tự nói: — Thái tử đã báo thù cho mẹ thì tất định giết được thiếp mới nghe. Một thân thiếp này thì cũng chẳng đáng tiếc, nhưng từ khi thiếp được đội ơn nhà vua thương yêu đến, có thai đã hai tháng nay, một mình thiếp tức thành ra hai mạng. Xin nhà vua cho thiếp về để hai mẹ con thiếp bảo toàn được tính mệnh. Vua U Vương nói: — Ái khanh không lo, đã có trẫm phân xử. Nói xong, liền truyền một đạo chỉ kể tội Thái tử vô lễ, rồi đày ra Thân quốc để cho Thân hầu (cha bà Thân hậu) dạy bảo; còn các quan Thái phó, Thiếu phó dạy Thái tử học đều phải cách chức cả. Nghi Cữu muốn vào để khiến oan. Vua U Vương truyền cấm cửa không cho vào, bắt phải đi ra Thân quốc ngay. Thân hậu không thấy con vào cung, sai cung nữ ra hỏi, mới biết là Nghi Cữu đã phải đày ra Thân quốc. Bấy giờ chỉ có một thân một mình, không làm gì được, ngày nào cũng chỉ oán chồng nhớ con, khóc lóc than thở. Bao Tự có thai đã đủ 10 tháng sinh được hoàng nam. Vua U Vương quí như vàng ngọc, đặt tên là Bá Phục, mới có ý muốn bỏ Thân hậu mà lập Bao Tự lên hoàng Hoàng hậu, chỉ vì không có dịp nào, chưa tiện nói ra. Quắc công dò biết ý vua, mới cùng Doãn Cầu thương nghị, thông tin với Bao Tự nói Nghi Cữu đã bị đuổi ra Thân quốc, nên lập Bá Phục làm Thái tử, trong có lời nói của nương nương, ngoài ra hai chúng tôi tán trợ, khó gì mà chẳng nên việc. Bao Tự mừng lắm, trả lời cho Quắc công và Doãn Cầu rằng: — Hai người cứ hết lòng giúp đỡ, nếu Bá Phục được lập làm Thái tử thì xin cùng với hai người cùng hưởng phú quí. Bao Tự từ bấy giờ mật sai những người nhà tâm phúc ngày đêm rình lỗi của Thân hậu. Khắp trong các cung chỗ nào cũng là tai mắt Bao Tự cả, hơi thoảng qua có một chuyện gì đều đến tai ngay. Thân hậu ở trong cung chỉ gạt thầm nước mắt mà khóc một mình. Có một người cung nữ biết tâm sự Thân hậu, mới quì xuống mà tâu rằng: — Lịnh bà đã có lòng thương nhớ Thái tử, sao lịnh bà lại không viết một bức thư, sai người mang tới Thân quốc, để Thái tử dâng biểu tạ tội, may ra Thiên tử nghĩ lại mà cho về Đông cung thì mẹ con lại được sum họp với nhau, há chẳng hay lắm sao! Thân hậu nói: — Nhà ngươi nói rất phải, nhưng ngặt vì không có ai đưa tin cho. Người cung nữ nói: — Mẹ tôi là Ôn Uẩn cũng có biết thuốc, bây giờ lịnh bà giả bị bệnh, đòi mẹ tôi vào bắt mạch, rồi giao thư cho mẹ tôi đem ra, để sai anh tôi đi, chắc thế nào cũng được việc. Thân hậu nghe lời, mới viết một bức thư, trong thư đại lược nói rằng: “Thiên tử vô đạo, say đắm đứa yêu tỳ, khiến cho mẹ con ta phải ly biệt, nay đứa yêu tỳ có con thì lại càng đắc thế lắm. Con nên dâng biểu giả cách xin nhận lỗi, để phụ vương tha về, mẹ con được sum họp với nhau, rồi sau sẽ định liệu”. Viết xong, giả bị bệnh, nằm ở trong màn, đòi Ôn Uẩn vào bắt mạch. Có người báo tin ngay cho Bao Tự biết. Bao Tự nói: — Ý chừng nó muốn tạ sự để thông tin cho nhau đây! Hễ khi nào Ôn Uẩn trở ra thì các ngươi cứ khám cho kỹ, tất là bắt được. Khi Ôn Uẩn vào bắt mạch Thân hậu, Thân hậu sẽ thò tay vào cái gối đầu lấy bức thư ra đưa cho Ôn Uẩn, rồi lại ban cho hai tấm lụa. Ôn Uẩn giắt bức thư vào trong mình, tay ôm hai tấm lụa, hí hửng đi ra. Ra đến cửa cung, nội giám hỏi rằng: — Lụa nào mà nhà ngươi mang như vậy? Ôn Uẩn nói: — Tôi vào thăm bệnh Hoàng hậu, nên Hoàng hậu ban cho tôi đây. Nội giám nói: — Nhà ngươi có mang thứ gì nữa không? Ôn Uẩn nói: — Không, có gì nữa đâu! Nội giám vừa toan cho đi, lại thấy có một người nói rằng: — Chưa khám trong mình thì biết thế nào là không với có. Nói xong, liền nắm lấy tay Ôn Uẩn dắt trở lại. Ôn Uẩn luống cuống che đậy, có ý sợ hãi. Nội giám càng thêm nghi lòng, mới xúm lại khám cho thật kỹ, xé tan cả các tà áo, hở bức thư ra. Nội giám thấy thư của Thân hậu, tức khắc bắt Ôn Uẩn đem nộp Bao Tự. Bao Tự mở thư ra xem, trong lòng tức giận, truyền đem Ôn Uẩn giam kín vào một chỗ, rồi xé nhỏ hai tấm lụa ra từng mảnh một. Vua U Vương vào cung, thấy các mảnh lụa bừa bãi, liền hỏi sự thể ra sao. Bao Tự sụt sịt khóc mà đáp rằng: — Thiếp tôi chẳng may được tuyển vào cung, đội ơn nhà vua thương đến, để đến nỗi Hoàng hậu đem lòng ghen ghét; lại chẳng may sinh được chút con, càng thêm ghen ghét lắm. Nay Hoàng hậu gởi thư cho Thái tử mà cuối thư có câu rằng: — “Rồi sau sẽ định liệu”, đó tất là có bụng muốn giết hai mẹ con thiếp tôi, xin nhà vua phân xử cho thiếp tôi được nhờ. Nói xong, cầm bức thư đưa cho vua U Vương xem. Vua U Vương nhận được bút tích Thân hậu, liền hỏi người mang thư là ai. Bao Tự nói: — Hiện đã có bắt được Ôn Uẩn ở đó. Vua U Vương truyền gọi Ôn Uẩn vào, chẳng đợi hỏi han tí nữa, rút gươm chém làm hai đoạn. Đêm hôm ấy Bao Tự lại nỉ non ở bên tai vua U Vương rằng: — Tính mệnh hai mẹ con tôi, bây giờ ở trong tay Thái tử! Vua U Vương nói: — Chủ quyền ở trẫm, Thái tử làm gì được. Bao Tự nói: — Sau khi nhà vua muôn tuổi rồi, chắc hẳn Thái tử lên làm vua. Nay Hoàng hậu đêm ngày ở trong cung oán giận nguyền rủa, một mai mẹ con hắn được cầm quyền nước thì thiếp tôi cùng Bá Phục (con Bao Tự) thật chết không có chỗ mà chôn. Nói xong, ngậm ngùi than thở, lại rên rỉ khóc hoài. Vua U Vương nói: — Trẫm muốn bỏ Hoàng hậu và Thái tử, rồi cho Ái khanh làm Hoàng hậu, cho Bá Phục làm Thái tử, chỉ sợ các quan không theo thì biết làm thế nào? Bao Tự nói: — Bề tôi biết nghe lời vua là thuận, vua phải nghe lời bề tôi là nghịch, xin nhà vua cứ đem ý ấy mà hiểu dụ cho các quan, thử xem công nghị ra làm sao? Vua U Vương nói: — Ái khanh nói rất phải! Đêm hôm ấy Bao Tự sai người tâm phúc báo tin cho Quắc công và Doãn Cầu biết. Sáng hôm sau, vua U Vương ra triều hỏi các quan rằng: — Nay Hoàng hậu có tính ghen ghét, đêm ngày chỉ oán giận nguyền rủa trẫm, khó để làm chánh cung được, trộm tưởng nên bắt ra mà hỏi tội. Quắc công tâu rằng: — Hoàng hậu là chủ trong cung, dẫu có tội không nên tra hỏi, nếu không đáng ngôi chánh cung thì nên chọn người nào có đức hạnh vào làm mẫu nghị thiên hạ, đó thật là một điều đại phúc cho nước nhà. Doãn Cầu tâu rằng: — Kẻ hạ thần nghe nói lịnh bà Bao Tự là một người đức tính thuần thục, đáng làm chủ trong cung. Vua U Vương nói: — Nay Thái tử đang ở Thân quốc, nếu bỏ Thân hậu thì còn Thái tử biết nghĩ thế nào? Quắc công tâu rằng: — Nếu đã bỏ người mẹ thì còn dùng người con làm gì, chúng tôi xin phù Bá Phục lên làm Thái tử. Vua U Vương mừng lắm, truyền đem Thân hậu giam vào lãnh cung, truất ngôi của Nghi Cữu, rồi lập Bao Tự làm Hoàng hậu, lập Bá Phục làm Thái tử, nếu có ai can ngăn thì cho là đảng Nghi Cữu, trị tội rất nặng. Các quan trong triều ai cũng lấy làm bất bình, nhưng biết là ý vua đã định, dẫu nói cũng vô ích mà lại hại đến thân, vậy nên đều khoanh tay đứng im cả. Bá Dương Phụ tức thì xin từ chức còn các quan cáo về làm ruộng cũng nhiều. Bao Tự dẫu được phong làm chánh cung, nhưng chưa hề thấy hẩng nét mặt mà tươi cười bao giờ cả. Vua U Vương chỉ muốn mua vui, mới đòi nhạc công vào cung, gẩy đàn thổi sáo, gõ trống khua chuông và bắt cung nữ múa hát để chuốc rượu, mà Bao Tự cũng chẳng có ý vui vẻ. Vua U Vương hỏi rằng: — Ái khanh không thích âm nhạc thì thích thứ gì? Bao Tự nói: — Thiếp tôi chẳng thích thứ gì cả, chỉ còn nhớ hôm xưa tay xé tấm lụa, tiếng kêu sàn sạt nghe cũng vui tai. Vua U Vương nói: — Đã muốn nghe những tiếng xé lụa thì sao Ái khanh không nói trước với trẫm. Nói xong, tức khắc truyền cho quan giữ kho mỗi ngày phải đưa vào 100 tấm lụa, rồi sai người cung nữ nào có sức khỏe đứng xé để Bao Tự nghe. Bao Tự dẫu được nghe tiếng xé lụa, nhưng cũng vẫn không cười. Vua U Vương nói: — Sao trẫm không trông thấy ái khanh cười bao giờ? Bao Tự nói: — Vốn xưa nay thiếp tôi vẫn không hay cười. Vua U Vương nói: — Thế nào trẫm cũng làm cho Ái khanh phải bật cười mới nghe. Nói xong, truyền bảo các quan, ai hiến kế gì cho Bao Tự cười thì thưởng nghìn vàng. Quắc công hiến kế rằng: — Tiên vương ngày xưa có lập ra hơn 20 cái chòi ở dưới núi Ly Sơn, lại làm mấy chục cái trống thật lớn, phòng khi có giặc thì đốt lửa ở trên chòi hay là đánh trống để cho các nước chư hầu biết mà đến cứu. Lâu nay thiên hạ thái bình không đốt lửa bao giờ cả, nếu nhà vua muốn cho Hoàng hậu vui cười thì xin nhà vua cùng với Hoàng hậu ra chơi ở núi Ly Sơn nhân đêm đốt lửa để cho chư hầu kéo quân đến, đến mà không có giặc thì tất nhiên Hoàng hậu phải bật cười. Vua U Vương nói: — Ừ phải đó! Nói xong liền cùng với Bao Tự ngự ra chơi ở Ly Sơn, đến chiều bày tiệc để uống rượu vui, rồi truyền đốt lửa. Bấy giờ có Trịnh Bá Hữu nghe tin, vội vàng thẳng tới Ly Sơn, tâu với vua U Vương rằng: — Cái chòi đốt lửa này là Tiên vương ta ngày xưa đã ước với các nước chư hầu để phòng khi cơ sự nguy cấp, nên phải thủ tín mới được. Nay vô cớ đốt lửa để đánh lừa các nước chư hầu, một mai cơ sự gì nguy cấp mà đốt lửa lên, chư hầu không tin nữa thì lấy đâu được quân cứu viện. Vua U Vương nổi giận mắng rằng: — Ngày nay thiên hạ thái bình, cần gì đến quân cứu viện, Trẫm cùng với Hoàng hậu ra chơi đây không biết lấy gì làm tiêu khiển thì bỡn chơi với các nước chư hầu, chứ có hề gì! Ngày khác có sự nguy cấp, dự gì đến các ngươi, mà nhà ngươi phải lo. Vua U Vương truyền đốt to ngọn lửa lên, ánh sáng ngất trời, lại nổi hiệu trống ầm ầm như sấm. Các nước chư hầu ở gần đấy, tưởng là Kiểu Kinh có sự biến loạn, vội vàng đem quân tất tả kéo đến Ly Sơn. Khi đi đến nơi nghe tiếng nhạc đàn sáo, vua U Vương đang cùng với Bao Tự uống rượu vui, sai người ra tạ ơn các nước chư hầu rằng: — May không giặc giã gì, chẳng dám phiền đến các nước chư hầu nữa. Các nước chư hầu ngơ ngác nhìn nhau rồi thu binh trở về. Bao Tự đứng ở trên lầu, trông thấy các nước chư hầu tất tả kéo đến, lại tất tả kéo về, mà chẳng có một việc gì cả, mới thích chí vỗ tay cười rầm lên. Vua U Vương nói: — Một tiếng cười của ái khanh, đủ trăm vẻ đẹp! Ấy là nhờ cái mưu của Quắc công đó. Nói xong, truyền đem nghìn vàng thưởng cho Quắc công. Bởi thế mà người ta thường có câu rằng “Nghìn vàng mua lấy trận cười!”. Thân hầu nghe tin vua U Vương bỏ Thân hậu, lập Bao Tự, mới dâng biểu can rằng: — Ngày xưa vua Kiệt yêu nàng Muội Hỉ đến nỗi nhà Hạ mất; vua Trụ yêu nàng Đắc Kỷ đến nỗi nhà Thương mất, nay nhà vua say đắm nàng Bao Tự, bỏ vợ đích lập vợ thứ, đã trái đạo vợ chồng, lại bại nghĩa cha con, xin nhà vua nghĩ lại cho kỹ, để tránh khỏi cái tai vạ như nhà Hạ, nhà Thương đời trước. Vua U Vương xem lời tâu, tức thì nỗi giận, vỗ tay xuống bàn mà rằng: — Thằng nghịch tặc này, sao dám nói càn! Quắc công tâu rằng: — Thân hầu từ khi thấy Thái tử bị đuổi, vẫn đem lòng oán giận, nay nghe Thân hậu và Thái tử phải bỏ, có ý mưu phản, vậy nên mới dám cả gan mà kể tội nhà vua. Vua U Vương nói: — Bây giờ biết xử ra thế nào? Quắc công tâu rằng: — Thân hầu vốn không có công cán gì, vì có Thân hậu mà được phong tước, nay Thân hậu và Thái tử đã phải bỏ rồi thì Thân hầu cũng nên truất đi, mà đem quân đến đánh, để khỏi di họa về sau. Vua U Vương nghe lời, liền cách chức Thân hầu rồi sai Quắc công điểm binh để sắp sửa đi đánh Thân quốc. HỒI THỨ 3 Quân Khuyển Nhung làm loạn Kiểu Kinh Vua Bình Vương dời đô Lạc Ấp T ừ khi Thân hầu dâng biểu can vua U Vương, có người ở Kiểu Kinh nghe tin vua U Vương cho Quắc công làm tướng, sắp sửa đem quân đi đánh Thân quốc, vội vàng về báo ngay với Thân hầu. Thân hầu nghe báo, giật mình kinh sợ, nói: — Bây giờ ta nước nhỏ quân ít, chống cự làm sao nổi! Quan Đại phu là Lã Chương nói với Thân hầu rằng: — Thiên tử vô đạo, bỏ vợ đích lập vợ thứ, lòng dân ai cũng ta oán, chỉ cô độc có một mình; nay có Khuyển Nhung là một nước mạnh, tiếp giáp với Thân quốc ta, xin Chúa công viết thư mượn quân Khuyển Nhung vào phá Kiểu Kinh để cứu lấy Thân hầu, bắt Thiên tử phải truyền ngôi cho Thái tử, đó cũng là theo cái gương tốt của Y, Chu thuở xưa. Tục ngữ có câu rằng: — “Mình làm trước thì hơn được người”, xin Chúa công chớ bỏ mất cái cơ hội ấy. Thân hầu nói: — Nhà ngươi nói phải đó! Nói xong, liền sai người đem vàng lụa và một bức thư sang mượn quân Khuyển Nhung về phá Kiểu Kinh, hẹn với Khuyển Nhung rằng: — Khi nào phá được Kiểu Kinh thì vàng lụa trong kho tha hồ mà lấy. Vua Khuyển Nhung nói: — Nay Thiên tử vô đạo, Quốc cữu là Thân hầu muốn mượn quân ta để phù lập Thái tử, ta đây thực cũng sẵn lòng. Nói xong, liền điểm 15.000 quân chia làm ba đội, cho Bột Đinh làm hữu tiên phong, Mãn Giã Tốc làm tả tiên phong, còn vua Khuyển Nhung tự làm tướng đi thân chinh. Thân hầu cũng đem quân của mình hợp với quân Khuyển Nhung thẳng đường kéo vào vây đô thành. Vua U Vương nghe tin, giật mình kinh sợ, nói: — Quân ta chưa kịp đi mà giặc đã kéo đến thì biết làm thế nào! Quắc công tâu rằng: — Xin nhà vua mau mau sai người ra đốt lửa ở Ly Sơn để cho các nước chư hầu đến cứu. Trong đánh ra ngoài đánh vào thì chắc được toàn thắng. Vua U Vương nghe lời, sai người đi đốt lửa, các nước chư hầu không có một người nào đến cả, bởi vì khi trước đã phải lừa, vậy nên bây giờ cũng cho là nói dối, đều không đem binh đến cứu. Vua U Vương thấy cứu binh không đến, bảo Quắc công rằng: — Thế giặc chưa biết mạnh, yếu thế nào, nhà ngươi hãy thử ra xem, rồi trẫm sẽ đem quân tiếp ứng. Quắc công vốn không quen việc chinh chiến, bất đắc dĩ cũng vâng mệnh đem quân ra đánh. Ra đến cửa thành, Quắc công bảo vua Khuyển Nhung rằng: — Nhà ngươi là một thằng giặc dối vua hại nước dung tha thế nào được. Vua Khuyển Nhung sai Bột Đinh ra đối địch. Bột Đinh múa đao lên ngựa, xông lại đánh Quắc công. Đánh chưa được 10 hợp thì Quắc công bị Bột Đinh chém chết. Vua Khuyển Nhung và Mãn Giã Tốc thúc quân vào thành, cứ việc đốt phá, chém giết. Bấy giờ Thân hầu không thể ngăn lại được, cũng phải tùy ý quân Khuyển Nhung. Trong thành rất là rối loạn. Vua U Vương chưa kịp cất quân, thấy sự thế nguy cấp, vội vàng đem Bao Tự và Bá Phục lên xe mở cửa sau đi trốn. Bấy giờ có Trịnh Bá Hữu chạy theo để phù giá, thẳng đường đi về phía Ly Sơn. Đi đến nửa đường gặp Doãn Cầu. Doãn Cầu tâu với vua U Vương rằng: — Quân Khuyển Nhung đốt cháy cung điện, phá tan kho tàng, Quắc công hiện đã chết ở trong đám loạn quân. Vua U Vương chẳng còn hồn vía nào cả. Trịnh Bá Hữu lại sai người đốt lửa một lần nửa, lửa cháy nghi ngút, khói tỏa đến tận trời xanh, mà vẫn không thấy cứu binh đến. Quân Khuyển Nhung kéo đến vây kín Ly Sơn. Vua U Vương cùng với Bao Tự nhìn nhau mà khóc. Trịnh Bá Hữu nói: — Nay sự thế đã nguy cấp lắm, kẻ hạ thần xin liều mình cố sức đánh giải vây để tìm đường trốn sang nước Trịnh. Vua U Vương nói: — Trẫm không nghe lời của thúc phụ, đến nỗi nên cơ sự này, ngày nay tính mệnh mấy vợ chồng cha con nhà Trẫm, đều nhờ ở trong tay Thúc phụ đó. Trịnh Bá Hữu sai người đốt lửa ở Ly Sơn để làm nghi binh, rồi tay cầm một cái trường mâu, tự đi tiên phong, đưa vua U Vương chạy về phía sau. Doãn Cầu thì phù tá mẹ con Bao Tự để đi theo vua U Vương. Đi được một quãng, gặp tiểu tướng Khuyển Nhung là Cổ Lý Xích chặn đường đón đánh. Trịnh Bá Hữu nghiến răng nổi giận, xông lại giao chiến trong mấy hợp, chém ngay được Cổ Lý Xích. Quân Khuyển Nhung thấy Trịnh Bá Hữu khí thế hăng hái như vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả. Đi được độ nửa dặm, lại gặp tướng Khuyển Nhung là Bột Đinh đem đại binh đuổi theo. Trịnh Bá Hữu sai Doãn Cầu phù giá đi trước, rồi một mình đi sau, vừa đánh vừa chạy. Quân Khuyển Nhung xông lại vây kín Trịnh Bá Hữu. Trịnh Bá Hữu vẫn không sợ hãi, cứ cầm cái trường mâu một mình đánh cả bốn mặt. Quân Khuyển Nhung xúm quanh giương cung bắn, tên ra như mưa. Thương hại thay cho Trịnh Bá Hữu là một người trung thần, vì việc nước mà chết. Mãn Giã Tốc đuổi bắt vua U Vương. Vua Khuyển Nhung giết vua U Vương và Bá Phục, còn Bao Tự thì trông thấy nhan sắc xinh đẹp, liền bắt đưa về trong trướng. Doãn Cầu nấp ở trong xe, cũng bị quân Khuyển Nhung lôi ra đem chém. Thân hầu ở trong thành đem quân đi vùi tắt những nơi lửa cháy. Trước hết vào lãnh cung tha bà Thân hậu, rồi đến chốn Quỳnh Đài tìm vua U Vương và Bao Tự. Nghe nói vua U Vương và Bao Tự đã trốn sang Ly Sơn, vội vàng đem quân đuổi theo. Đi đến nửa đường gặp vua Khuyển Nhung. Vua Khuyển Nhung kể chuyện đã giết hôn quân rồi. Thân hầu giật mình, nói: — Bản tâm tôi chỉ muốn mượn thế để chữa lại những điều lầm lỗi của Thiên tử mà thôi, không ngờ thành ra cơ sự dường này! Những kẻ bất trung đời sau tất lại đem câu chuyện tôi kể mà chữa lỗi. Nói xong, vội vàng sai người làm lễ an táng cho vua U Vương. Vua Khuyển Nhung cười mà rằng: — Quốc cữu thật là cái bụng nhân nghĩa của đàn bà! Thân hầu về đến kinh thành, bày tiệc thết đãi vua Khuyển Nhung. Các đồ bảo ngọc trong kho, vua Khuyển Nhung lấy hết sạch cả. Thân hầu lại tặng cho vua Khuyển Nhung 10 xe vàng lụa, để khiến cho hắn được mãn nguyện mà thu quân về; ai ngờ vua Khuyển Nhung cậy công giết vua U Vương, cứ đóng quân ở kinh thành rồi ngày nào cũng uống rượu, và bày cuộc vui, chẳng nghĩ gì đến sự về nước nữa. Dân sự thấy vậy, đều trách oán Thân hầu. Thân hầu không biết làm thế nào, mới viết ba tờ mật thư để ước với nước Tấn, nước Vệ và nước Tần đem quân về đánh đuổi quân Khuyển Nhung, lại sai người đem tin Trịnh Bá Hữu bị quân Khuyển Nhung bắn chết báo cho Thế tử nước Trịnh là Khuất Đột biết, để tiến quân vào mà đánh báo thù. Khuất Bột bấy giờ mới 23 tuổi, mình dài 8 thước, là một người có khí khái, nghe tin phụ thân chết, căm tức vô cùng, liền mặc đồ tang phục, đem quân về kinh thành để đánh Khuyển Nhung. Có quân thám tử báo cho vua Khuyển Nhung biết. Vua Khuyển Nhung tức khắc sắp quân phòng bị. Khuất Bột đến kinh thành, toan tiến binh vào, công tử Thành can rằng: — Quân ta mấy hôm nay đi gấp, hãy còn nhọc mệt cả, nên đóng quân lại một chỗ, đào hào đắp lũy để đợi quân các nước chư hầu, rồi hợp sức nhau lại mà đánh thì mới được vẹn toàn. Khuất Đột nói: — Cái thù của quân phụ mình thì mình nên vào đánh ngay mới phải. Huống chi quân Khuyển Nhung nay đang kiêu ngạo, có ý trễ biếng, mà quân ta khí thế đang hăng hái, đánh tất phải được, nếu đợi các nước chư hầu thì e rằng quân sĩ lại sinh lòng chán nản. Nói xong, tiến quân đến tận dưới chân thành. Khuất Đột lên tiếng mắng rằng: — Quân giặc rợ mọi kia, sao không đem quân ra cùng ta đối địch. Trên mặt thành cứ im lặng như tờ, chẳng có ai trả lời cả. Khuất Đột truyền cho quân sĩ phá cửa thành, bỗng thấy trong đám rừng rậm nổi hiệu thanh la, có một toán quân kéo đến thì ra vua Khuyển Nhung đã lập kế sẵn, cho quân mai phục trước ở đó. Khuất Đột giật mình kinh sợ, vội vàng cầm giáo để tiếp chiến, lại nghe thấy trên mặt thành cũng nổi hiệu thanh la, rồi mở toang cửa thành, có một toán quân kéo ra. Phía trước có Bột Đinh, phía sau có Mãn Giã Tốc, hai bên ập lại đánh Khuất Bột. Khuất Bột không địch nổi, thua trận bỏ chạy. Quân Khuyển Nhung đuổi theo đến hơn 30 dặm, mới thu quân trở về, Khuất Bột bảo công tử Thành rằng: — Tôi không nghe lời ông, đến nỗi bị thua, bây giờ biết làm thế nào? Công tử Thành nói: — Ở đây cách Bộc Dương cũng không xa bao nhiêu, mà Vệ Vũ công là một người lão thành, đã trải biết việc đời. Thế tử nên sang đấy mà cầu cứu, hợp quân với nước Vệ thì có thể đánh được. Khuất Bột nghe lời, thẳng đường kéo sang Bộc Dương. Đi trong hai ngày, bỗng thấy toán quân ở trước mặt kéo đến, có một người đầu râu tóc bạc, mặc áo cẩm bào ngồi ở trong xe, trông như một vị thần tiên, đó tức là ông Vũ công nước Vệ, bấy giờ đã hơn 80 tuổi. Khuất Đột trông thấy, liền kêu to lên rằng: — Tôi đây là Thế tử nước Trịnh, tên gọi Khuất Đột. Quân Khuyển Nhung vào quấy nhiễu chốn kinh thành, cha tôi bị chết trận; bây giờ quân tôi lại thua, vậy phải sang đây để cầu cứu. Vệ Vũ công nói: — Thế tử cứ yên tâm. Ta đây cốt đem quân vào cứu viện. Vả lại nước Tần, nước Tấn cũng sắp kéo quân đến, lo gì mà không đánh được Khuyển Nhung. Khuất Đột nghe nói, lại theo Vệ Vũ công trở về Kiểu Kinh, đóng quân ở ngoài 20 dặm, rồi cho người đi dò la xem nước Tần, nước Tấn đã kéo quân đến chưa. Quân thám tử về báo rằng: — Ở phía tây có một toán quân kéo đến, trên lá cờ viết một chữ Tần. Vệ Vũ công nói: — Quân nước Tần mạnh tợn, xưa nay Khuyển Nhung vẫn có ý sợ. Vệ Vũ công nói chưa dứt lời thì lại thấy quân thám tử về báo rằng: — Quân nước Tấn cũng đã kéo đến, đóng ở ngoài phía bắc. Vệ Vũ công mừng lắm, nói: — Hai nước đã kéo quân đến thì việc tất phải xong. Liền sai người thông tin cho vua Tần và vua Tấn biết. Được một lúc, vua Tần và vua Tấn đều kéo đến dinh Vệ Vũ công, trông thấy Khuất Đột mặc đồ tang phục, liền hỏi là người nào. Vệ Vũ công nói: — Đây là Thế tử nước Trịnh. Nói xong liền đem chuyện Trịnh Bá Hữu chết trận và vua U Vương bị giết kể lại một lượt. Vua Tần và vua Tấn nghe nói, đều ngậm ngùi thương xót. Vệ Vũ công nói: — Tôi nay già yếu, chỉ vì việc nghĩa mà phải cố sức đến đây, còn việc dẹp giặc thì nhờ các quí quốc, bây giờ các quí quốc định mưu kế ra làm sao? Tần Tương công nói: — Giặc Khuyển Nhung kia chẳng qua chỉ tham tiền của và hiếp phụ nữ mà thôi, chúng đoán rằng quân ta mới đến, tất không phòng bị, âu là ta chia quân làm ba mặt vây đánh, còn một mặt phía tây thì mở đường cho chúng chạy, rồi Trịnh Thế tử đem quân mai phục ở đấy để đón đánh, tất nhiên được toàn thắng. Vệ Vũ công nói: — Kế ấy rất phải! Thân hầu ở trong thành, nghe tin quân các nước đã đến, trong lòng mừng rỡ, định chờ khi nào đánh thành thì mở cửa ra tiếp ứng. Thân hầu lại giả cách khuyên bảo vua Khuyển Nhung nên sai Bột Đinh đem các đồ vàng bạc châu báu về nước để chia bớt thế lực đi; lại sai Mãn Giã Tốc đem hết cả quân ra đóng ở ngoài thành để đối địch. Vua Khuyển Nhung tưởng thực, đều nghe theo cả. Mãn Giã Tốc đem quân ra đóng ở ngoài đông môn, định đến sáng hôm sau thì ra trận, không ngờ canh ba đêm hôm ấy, quân nước Vệ kéo đến, quân Khuyển Nhung vỡ chạy. Mãn Giã Tốc một mình không thể địch nổi, bất đắc dĩ cũng phải chạy trốn. Quân các nước đang đánh thành, bỗng thấy cửa thành mở toang ra, quân các nước cứ việc kéo ồ vào, không ai ngăn cấm cả, đó là cái mưu kế của Thân hầu. Vua Khuyển Nhung đang ngủ, sực tỉnh thức dậy, thấy sự thế nguy cấp, vội vàng cưỡi ngựa chạy về phía tây, lại gặp quân Khuất Đột chặn đường đón đánh, may nhờ có quân Mãn Giã Tốc thua chạy đến đấy, liền cố sức đánh nhau với Khuất Đột để cứu vua Khuyển Nhung, vua Khuyển Nhung mới chạy thoát được. Khuất Đột cũng không dám đuổi theo nữa, đem quân vào thành để yết kiến các nước chư hầu. Bấy giờ trời đã sáng rõ, Bao Tự không theo kịp vua Khuyển Nhung, tự thắt cổ chết. Thân hầu mở tiệc để thiết đãi các nước chư hầu. Vệ Vũ công buông đũa xuống mà đứng dậy, bảo các nước chư hầu rằng: — Ngày nay vua thì mất, nước thì tan, có phải là lúc chúng ta nên ngồi mà uống rượu hay sao! Các nước chư hầu đều chắp tay đứng dậy nói: — Người dạy điều gì, chúng tôi xin vâng mệnh. Vệ Vũ công nói: — Trong nước chớ nên để một ngày nào không có vua. Nay Thái tử cũ đang ở nước Thân, nên tôn lên ngôi Thiên tử, các nước chư hầu nghĩ thế nào? Tần Tương công nói: — Hiền hầu nói câu ấy, thật là cái thiêng liêng của Tiên vương nhà Chu ta xui khiến nên đó! Khuất Đột nói: — Tiểu tử này dẫu chưa lập được công trạng gì, nhưng một việc tôn Thái tử ấy tôi xin gắng sức, để nên được cái chí của cha tôi thuở xưa. Vệ Vũ công mừng lắm, rót một chén rượu để tạ lại, rồi ngay bấy giờ viết thành một tờ biểu chương và sắp xa giá đi đón Thái tử. Các nước chư hầu đều xin đem quân đi hộ vệ. Khuất Đột nói: — Việc này có phải là đi đánh trận đâu, cần gì phải nhiều quân; chỉ một đạo quân của tôi cũng đủ. Ngày hôm sau, Khuất Đột đem quân sang nước Thân để đón Thái tử là Nghi Cữu về làm Thiên tử. Nghi Cữu ở nước Thân, cả ngày buồn bực, chưa biết tin tức Thân hầu ra làm sao, bỗng thấy Khuất Đột đem một tờ biểu chương của Thân hầu cùng với các nước chư hầu ký kết để đón mình về làm Thiên tử, liền giật mình kinh sợ; đến lúc mở xem, mới biết là vua U Vương đã bị quân Khuyển Nhung giết, nghĩ đến tình cha con, liền ứa nước mắt khóc òa lên. Khuất Đột tâu rằng: — Thái tử nên lấy giang sơn làm trọng, mau mau về lên ngôi Thiên tử để cho yên lòng dân. Nghi Cữu nói: — Ta nay đeo một cái tiếng bất hiếu với thiên hạ! Bây giờ việc đã lỡ ra như vậy, biết tính làm sao? Nghi Cữu bất đắc dĩ cũng phải lên xe về Kiểu Kinh. Thân hầu đem các nước chư hầu ra ngoài kinh thành 30 dặm để nghênh tiếp, rồi chọn ngày tốt tiến quân vào thành. Nghi Cữu trông thấy cung thất tàn phá cả, ứa hai hàng nước mắt xuống, rồi phụng mệnh Thân hầu làm lễ cáo miếu lên ngôi Thiên tử, tức vua Bình Vương. Vua Bình Vương bảo Thân hầu rằng: — Trẫm là một người đã bị truất, mà nay được nối ngôi, đều nhờ cái công của Quốc cữu. Nói xong, liền hạ chỉ gia phong cho Thân hầu. Thân hầu nói: — Cái công lấy lại được Kiểu Kinh là nhờ có quân các nước chư hầu. Kẻ hạ thần đã không ngăn cấm được Khuyển Nhung, để đến nỗi đắc tội với Tiên vương, có đâu lại còn dám lĩnh thưởng. Nói xong, cố ý chối từ không nhận. Vua Bình Vương lại gia phong cho vua các nước chư hầu và truy tặng cho Trịnh Bá Hữu, rồi yết bảng hiểu dụ nhân dân ở chốn kinh sư. Ngày hôm sau, vua Bình Vương lại cho Vệ Vũ công và Trịnh Khuất Đột kiêm chức Khanh sĩ trong triều, để cùng với quan Thái tể là Chu Công Huyến cùng giúp quốc chính; chỉ có Thân hầu và Tần Tương công vì tiếp giáp với Khuyển Nhung, vậy phải cáo từ về nước. Sau Thân hầu thấy Khuất Đột là người tài giỏi, gả con gái cho, tức là bà Khương Thị. Lại nói đến vua Khuyển Nhung từ khi vào quấy nhiễu đất Kiểu Kinh, quen biết đường lối, dẫu bị các nước chư hầu đánh đuổi, nhưng khí thế vẫn còn hăng hái; lại tự nghĩ rằng khó nhọc mà thành ra không công, trong lòng oán giận, mới cất quân vào xâm phạm bờ cõi, chiếm mãi đến gần Kiểu Kinh, trong mấy tháng trời, giặc giả bối rối. Vả lại cung thất ở đất Kiểu Kinh, khi trước đã bị tàn phá, phong cảnh trông rất tiều tụy, vì thế vua Bình Vương mới định thiên đô sang ở Lạc Ấp. Một hôm, vua Bình Vương ra triều, hỏi các quan rằng: — Tiên vương ta ngày xưa đã đóng đô ở Kiểu Kinh, lại còn sửa sang Lạc Ấp là ý làm sao? Các quan đồng thanh mà tâu rằng: — Lạc Ấp là một nơi giữa trong thiên hạ, vậy nên Tiên vương ta ngày xưa sửa sang chỗ ấy gọi là Đông Đô, để đến năm nào có lễ triều hội thì thiên ra đấy mà tiếp kiến các nước chư hầu, đó là một chính sách rất hay. Vua Bình Vương nói: — Ngày nay quân Khuyển Nhung xâm phạm gần đến Kiểu Kinh, trẫm muốn dời đô sang Lạc Ấp thì các quan nghĩ thế nào? Quan Thái tể là Chu Công Huyến tâu rằng: — Nay cung thất tàn phá, nếu sửa sang lại thì khổ dân hại của, quân Khuyển Nhung lại nhân dịp tiến vào thì biết lấy gì chống giữ cho nổi. Thiên đô sang Lạc Ấp, thật là rất tiện. Các quan văn võ đều lo sợ giặc Khuyển Nhung, mới đồng thanh mà tâu rằng: — Quan Thái tể nói phải! Vệ Vũ công có ý không bằng lòng, cúi đầu thở dài. Vua Bình Vương hỏi Vệ Vũ công rằng: — Sao ngài lại không nói gì cả? Vệ Vũ công nói: — Lão thần năm nay đã hơn 90 tuổi, đội ơn nhà vua thương đến, được dự bàn việc nước, nếu biết mà không nói thì bất trung. Kẻ hạ thần thiết nghĩ đất Kiểu Kinh này núi quanh sông bọc, thật là một nơi hiểm yếu nhất thiên hạ; còn như Lạc Ấp thì suốt bốn mặt giặc vào chỗ nào cũng được, vậy nên Tiên vương dẫu gọi là Đông Đô, chẳng qua chỉ để làm một nơi triều hội các nước chư hầu mà thôi. Nay nhà vua bỏ Kiểu Kinh mà sang Lạc Ấp, kẻ hạ thần e rằng nhà Chu ta từ đây suy nhược mất. Vua Bình Vương nói: — Quân Khuyển Nhung xâm phạm gần đến Kiểu Kinh; vả lại cung thất tàn phá cả, trông khó coi lắm. Trẫm bất đắc dĩ mới phải dời sang Đông Đô. Vệ Vũ công nói: — Quân Khuyển Nhung là giống sài lang, không nên dắt vào đất nhà. Thân hầu mượn quân Khuyển Nhung thật là thất kế, khiến cho hắn đốt phá cung thất, hại đến Tiên vương, đó là một cái thù không đội trời chung, nay nhà vua nên luyện tập quân mã để đi đánh báo thù, nếu mà có ý nhút nhát, mình lui một bước thì giặc tiến một bước, kẻ hạ thần e rằng như tầm ăn lá, biết đâu làm chừng. Vua Nghiêu, vua Thuấn và vua Vũ ngày xưa, nhà tranh thềm cỏ, cung thất tồi tàn mà chẳng lấy làm xấu hổ, xin nhà vua nghĩ lại cho kỹ. Chu Công Huyến lại tâu rằng: — Vệ Vũ công nói như vậy là lời bàn “an thường”, không phải là lời bàn “thông biến”. Việc quân giặc tiến vào kinh sư là tự tại Tiên vương ngày xưa, còn nói làm gì nữa. Nay nhà vua mới về nối nghiệp, kho tàng hết sạch cả, trăm họ sợ quân Khuyển Nhung như giống sài lang, một mai quân Khuyển Nhung kéo đến, dân tình náo động thì khi bấy giờ ai là người chịu nhận cái lỗi ấy. Vệ Vũ công nói: — Thân hầu đã mượn được quân Khuyển Nhung thì tất cũng lui được quân Khuyển Nhung, âu là nhà vua thử sai người hỏi xem có mưu kế gì không? Các quan đang thương nghị thì có người đem tờ biểu cáo cấp của Thân hầu đến. Vua Bình Vương mở xem, thấy trong tờ biểu đại ý nói rằng: “Quân Khuyển Nhung cứ xâm nhiễu mãi thì Thân quốc khó lòng mà giữ được, xin nhà vua nghĩ tình qua cát mà cho quân ra cứu viện”. Vua Bình Vương nói: — Quốc cữu lo cho mình chẳng xong, còn lo gì được đến Trẫm, thôi thì nay Trẫm nhất quyết cứ dời đô. Nói xong, truyền cho quan Thái sử chọn ngày để dời sang Lạc Ấp, Tần Tương công nghe tin vua Bình Vương dời đô, cũng đem quân đi hộ giá. V HỒI THỨ 4 Tần Văn nằm mộng thấy con trời Trịnh Trang tìm mẹ đào hầm đất ua Bình Vương đi đến chợ Lạc Ấp, trông thấy phố phường đông đúc, cửa nhà đẹp đẽ, không khác gì đất Kiểu Kinh, trong lòng lấy làm mừng rỡ. Kinh đô đã định sở rồi, các nước Sở không đến, vua Bình Vương toan đi đánh, các quan can ngăn mãi, vua Bình Vương mới thôi. Tần Tương công cáo từ xin về nước. Vua Bình Vương nói: — Nay quân Khuyển Nhung vào xâm phạm đất Kỳ, đất Phong, nếu nhà ngươi đánh đuổi được quân Khuyển Nhung thì cho nhà ngươi cái đất ấy, để đền công khó nhọc đi hộ giá mới rồi. Tần Tương công lạy tạ ra về. Từ bấy giờ hết sức chỉnh đốn quân mã để đánh đuổi Khuyển Nhung, chưa được ba năm mà Khuyển Nhung thua lụn bại, thất điên bát đảo; bọn tướng Khuyển Nhung là Bột Đinh, Mãn Giã Tốc đều chết trận cả. Đất Kỳ và đất Phong thuộc về nước Tần, nước Tần thành ra một nước lớn. Tần Tương công tạ thế, con ông là Văn công lên nối ngôi. Một hôm, Tần Văn công nằm mộng thấy có con Hoàng Sa ở trên trời rơi xuống, hóa làm một đứa tiểu nhi, bảo Tần Văn công rằng: — Ta đây là con trời, trời sai ta xuống báo cho nhà ngươi biết là trời định cho nhà ngươi làm “Bạch đế”. Nói xong, biến đi mất. Sáng hôm sau, Tần Văn công đòi Thái sử Đôn vào đoán mộng. Thái sử Đôn nói: — Bạch là về phương tây. Trời cho Chúa công làm chủ ở phương tây. Chúa công nên làm lễ tế trời. Tần Văn công mới xây một cái đài thật cao, dùng trâu trắng để làm lễ tế trời. Bấy giờ cho người đất Trần Sương đi săn, bắt được một con thú giống như con lợn mà nhiều lông nhọn, đánh cũng không chết, không biết tên là con thú gì, định đem vào dâng Tần Văn công. Khi đi đến giữa đường, gặp hai đứa trẻ chỉ con thú ấy mà nói rằng: — Con thú này tên nó là con nhím, nó thường hay chúi ở dưới đất, ăn óc người chết. Nếu đánh dập đầu nó thì nó chết ngay. Con thú ấy nói rằng: — Đứa trẻ này là Trĩ tinh hiện lên, ai bắt được con trống thì làm nên nghiệp vương, ai bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá. Hai đứa trẻ thấy con thú nói như vậy, tức thì biến đi; cả con thú cũng biến mất. Người đi săn sợ hãi, chạy vào nói với Tần Văn công. Tần Văn công lại lập đền thờ hai đứa trẻ. Ở núi Chung Nam có cây gỗ tử, Tần Văn công sai người đẵn về để làm đền, nhưng cưa không đứt, bổ không vào, nhân gặp lúc mưa to gió lớn mới thôi không đẵn nữa. Đêm hôm ấy có người ngủ ở dưới chân núi, nghe tiếng các ma quỉ đến mừng thần cây tử, lại nghe tiếng nói rằng: — Nếu nước Tần sai người xõa tóc ra, lấy dây đỏ cuốn vào thân cây mà đẵn thì biết làm thế nào? Sáng hôm sau, người ấy nói với Tần Văn công, Tần Văn công theo lời, sai người đi đẵn thì cây liền đứt ngay, bỗng có một con trâu xanh ở trong cây chạy ra, đi thẳng xuống sông Ung Thủy. Sau dân ở gần đấy thỉnh thoảng lại trông thấy con trâu xanh hiện lên, Tần Văn công sai kỵ sĩ đón đánh, con trâu xanh khỏe lắm, húc kỵ sĩ ngã lăn xuống đất, kỵ sĩ xõa tóc ra, con trâu xanh sợ không dám đuổi nữa. Tần Văn công mới chế ra cái mũ mao để dùng ở trong quân, lại lập đền thờ thần cây tử. Lỗ Huệ công nghe tin nước Tần dám tiếm lễ tế trời, cũng sai Thái tể Nhượng đến tâu với vua Bình Vương xin dùng lễ tế trời ấy. Vua Bình Vương không cho. Lỗ Huệ công nói: — Ông tổ ta ngày xưa có công với nhà Chu biết bao nhiêu! Lễ nhạc đều bởi tay ông tổ ta đặt ra cả, ta là con cháu, có dùng đến nữa cũng chẳng hại gì. Vả Thiên tử không cấm Tần thì cấm Lỗ thế nào được. Lỗ Huệ công cứ dùng lễ tế trời. Vua Bình Vương biết mà không dám hỏi đến. Từ bấy giờ nhà Chu mỗi ngày một suy yếu, các nước chư hầu chuyên quyền, thường tranh lẫn nhau mà thiên hạ thành ra nhiễu loạn. Trịnh Thế tử là Khuất Đột nối ngôi tức là Trịnh Vũ công. Trịnh Vũ công nhân lúc nhà Chu suy yếu, chiếm lấy cả đất Quắc, đất Khoái, từ bấy giờ cũng thành ra một nước lớn. Trịnh Vũ công cùng với Vệ Vũ công cùng kiêm chức khanh sĩ ở triều nhà Chu. Từ khi Vệ Vũ công mất, Trịnh Vũ công một mình coi cả triều chính, bởi vậy lúc ở trong triều, lúc về nước Trịnh, thường đi lại luôn. Vợ Trịnh Vũ công là con gái Thân hầu tên gọi Khương Thị, sinh được hai con, con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ hai là Đoạn. Tại sao lại gọi là Ngộ Sinh? Số là lần ấy đẻ ngang làm cho Khương Thị phải chịu nhiều bề đau đớn, bởi vậy mới đặt tên là Ngộ Sinh, cũng vì thế mà Khương Thị đem lòng ghét giận. Đến lúc sinh con thứ hai là Đoạn thì trông người phương phi đẹp đẽ, mặt trắng môi son, lại có sức khỏe, bắn tài, vũ nghệ rất giỏi. Khương Thị có lòng yêu dấu, vẫn muốn cho Đoạn được làm chủ nước Trịnh, thường đối với Trịnh Vũ công, khen Đoạn là người hiền nên để cho nối ngôi. Trịnh Vũ công nói: — Anh em phải có thứ tự, không nên lộn bậy; vả lại ngộ Sinh cũng không có tội lỗi gì, sao lại bỏ con trưởng mà lập con thứ. Nói xong, mới lập Ngộ Sinh làm Thế tử; còn Đoạn thì phong cho ở đất Cung, gọi là Cung Thúc Đoạn, Khương Thị càng có ý không bằng lòng, Trịnh Vũ công mất, Ngộ Sinh lên nối ngôi, tức là Trịnh Trang công. Trịnh Trang công lại thay cha kiêm chức khanh sĩ nhà Chu. Khương Thị thấy Cung Thúc Đoạn vô quyền, trong lòng áy náy, mới bảo Trịnh Trang công rằng: — Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh kể hàng mấy trăm dặm, mà để cho một người em đồng bào ở chỗ đất nhỏ mọn không đủ dung thân, sao con lại nhẫn tâm làm vậy! Trịnh Trang công nói: — Mẫu thân muốn thế nào thì xin mẫu thân cứ dạy. Khương Thị nói: — Sao không đem đất Chế Ấp mà phong cho em. Trịnh Trang công nói: — Chế Ấp là một nơi hiểm yếu. Tiên Vương ngày xưa có di mệnh lại rằng không được phong cho ai; không kể đất Chế Ấp, còn thì mẫu thân muốn đâu, con xin theo ý. Khương Thị nói: — Nếu vậy thì phong cho Cung Thúc Đoạn ở đất Kinh Thành. Trịnh Trang công nín lặng không nói gì cả. Khương Thị nổi giận, nói: — Nếu con không thuận thế thì con cứ đuổi Cung Thúc Đoạn đi ra nước khác để nó làm gì mà kiếm ăn được thì làm. Trịnh Trang công nói: — Có đâu con lại dám thế. Ngày hôm sau, Trịnh Trang công đòi Cung Thúc Đoạn vào để phong cho đất Kinh Thành. Quan Đại phu là Sái Túc can rằng: — Kinh Thành là một ấp lớn, đất rộng người nhiều, nếu phong cho Cung Thúc Đoạn thì sợ về sau tất cậy thế làm càn. Trịnh Trang công nói: — Mẫu thân ta muốn làm vậy thì ta tất phải theo. Nói xong, liền phong cho Cung Thúc Đoạn ra ở đất Kinh Thành. Cung Thúc Đoạn lạy tạ trở ra, rồi vào cáo từ Khương Thị. Khương Thị đuổi người xung quanh ra, bảo Cung Thúc Đoạn rằng: — Anh mày chẳng nghĩ gì đến tình đồng bào, đãi mày rất bạc, nay phong cho mày, cũng là vì ta hai ba lần khẩn cầu mãi, hắn mới chịu theo, nhưng trong lòng hắn vị tất đã thuận. Mày đến đất Kinh Thành, nên luyện tập quân mã để phòng bị sẵn, nhân có cơ hội nào thì mày đem quân đến đánh, ta làm nội ứng cho, chắc có thể lấy được nước Trịnh. Nếu mày chiếm được ngôi của Ngộ Sinh thì ta dẫu chết cũng được thỏa lòng. Cung Thúc Đoạn vâng mệnh, rồi ra ở đất Kinh Thành, từ bấy giờ người trong nước gọi Đoạn là Kinh Thành Thái Thúc. Thái Thúc Đoạn ngày nào cũng giả cách đi săn bắn, để luyện tập binh mã, tìm kế lấy nước Trịnh. Lại chiếm lấy hai ấp ở gần đấy, quan ấp tể ở đấy trốn vào nước Trịnh, kêu với Trịnh Trang công. Trịnh Trang công chỉ cười nhạt, không nói gì cả. Quan Thượng khanh là công tử Lã kêu to lên rằng: — Tội Thái Thúc Đoạn thật là đáng giết. Trịnh Trang công nói: — Công tử Lã có ý kiến gì không? Công tử Lã nói: — Thái Thúc Đoạn trong thì cậy có Quốc mẫu yêu dấu, ngoài thì cậy có đất Kinh Thành hiểm yếu, đêm ngày luyện tập quân mã, tất là có chí định cướp nước Trịnh; xin Chúa công cho tôi đem quân ra tới Kinh Thành bắt Cung Thúc Đoạn đem về, khỏi đến nỗi hậu hoạn. Trịnh Trang công nói: — Tội ác của Đoạn chưa bày tỏ ra, không nên giết vội. Công tử Lã nói: — Nay Thái Thúc Đoạn chiếm lấy hai ấp, chẳng có lẽ bờ cõi của Tiên công ta mà Chúa công cứ để mỗi ngày một hao mòn hay sao! Trịnh Trang công vừa cười vừa nói: — Đoạn là con yêu của mẫu thân ta, là em yêu của ta, chẳng thà ta bỏ mất bờ cõi, còn hơn để hại đến tình anh em, khiến cho mẫu thân ta không được vừa ý. Công tử Lã nói: — Chẳng những mất bờ cõi mà thôi, tôi sợ mất nước nữa. Thái Thúc Đoạn mỗi ngày một cường thịnh, dân tình sợ hãi, tất sinh hai lòng. Ngày nay Chúa công bao dung Thái Thúc Đoạn, tôi e rằng ngày khác Thái Thúc Đoạn không bao dung Chúa công thì hối lại làm sao cho kịp! Trịnh Trang công nói: — Nhà ngươi chớ nói càn, để mặc ta lo nghĩ. Công tử Lã ra ngoài, bảo Sài Túc rằng: — Chúa công ta quyến luyến tình riêng mà quên việc lớn của nước, ta lấy làm lo lắm. Sái Túc nói: — Chúa công ta là một người tài trí, chẳng lẽ lại không nghĩ đến điều ấy, vì ở chỗ tai mắt đông người, không tiện nói ra. Nếu nhà ngươi thử vào hầu riêng và hỏi chuyện xem thì chắc là Chúa công ta đã có định kiến. Công tử Lã nghe lời, vào yết kiến Trịnh Trang công, Trịnh Trang công nói: — Nhà ngươi vào yết kiến ta, có việc gì không? Công tử Lã nói: — Quốc mẫu vẫn có ý không muốn cho Chúa công nối ngôi, vạn nhất trong ngoài hợp mưu với nhau thì chắc là Chúa công không giữ được nước Trịnh. Tôi ngày đêm lo nghĩ đến nỗi ăn không biết ngon, ngủ không yên giấc, vậy phải vào đây để xin Chúa công xét lại cho kỹ. Trịnh Trang công nói: — Việc này can ngại đến Quốc mẫu. Công tử Lã nói: — Chúa công lại không nghe thấy việc Chu công ngày xưa giết Quản, Sái hay sao? Việc nên quyết đoán mà không quyết đoán thì lại sinh ra nhiều điều tai hại, xin Chúa công phải mau mau quyết đoán ngay mới được. Trịnh Trang công nói: — Đây ta nghĩ kỹ lắm rồi, Đoạn dẫu vô đạo, nhưng chưa rõ là phản nghịch, nếu ta đem quân đi đánh thì Quốc mẫu tất tìm phương ngăn trở, mà người ngoài không biết, chẳng những cho ta là bất hữu tất lại bảo ta là bất hiếu. Chi bằng ta cứ mặc kệ để cho hắn không sợ hãi gì nữa, cậy thế làm càn, bấy giờ ta sẽ kể rõ tội trạng, đem quân đến đánh thì người trong nước không ai còn có lòng giúp hắn, mà Quốc mẫu ta cũng không trách được câu gì. Công tử Lã nói: — Nếu vậy thì Chúa công cao kiến lắm, chúng tôi không nghĩ đến, nhưng tôi sợ thế lực của Đoạn mỗi ngày một lớn, lan ra như cỏ thì cắt không hết được, biết làm thế nào. Nếu Chúa công muốn đợi hắn làm trước, rồi mới đến đánh thì Chúa công lập kế mà khiến cho hắn chóng nổi loạn. Trịnh Trang công nói: — Bây giờ biết làm kế gì? Công tử Lã nói: — Lâu nay Chúa công không vào triều nhà Chu, tất cả là vì việc Thái Thúc Đoạn. Bây giờ Chúa công giả cách vào triều, Thái Thúc Đoạn thấy Chúa công đi vắng tất đem quân đến đánh Trịnh; tôi xin đem một toán quân đến phục sẵn ở gần đất Kinh Thành khi Thái Thúc Đoạn kéo quân đi, tôi lẻn vào chiếm lấy, rồi Chúa Công cũng đem một đạo quân đi đường tắt kéo đến, hai bên đánh ập lại thì Thái Thúc Đoạn dẫu mọc cánh cũng không bay kịp. Trịnh Trang công nói: — Nhà ngươi nói rất phải, nhưng chớ có hở cho một người nào biết mới được. Công tử Lã cáo từ lui ra, nghĩ thầm trong lòng rằng: — Sái Túc thật là một người cao đoán! Sáng hôm sau, Trịnh Trang công giả cách truyền lệnh giao quốc chính cho Sái Túc để vào triều vua Bình Vương nhà Chu. Khương Thị nghe tin ấy, trong lòng mừng lắm, nói: — May cho Đoạn! Phen này có thể cướp được nước. Khương Thị mới viết một tờ mật thư, sai người tâm phúc đưa đến Kinh Thành, ước với Thái Thúc Đoạn đem quân vào đánh nước Trịnh. Công tử Lã sai người đón đường bắt được đứa mang thư ấy, tức thì giết ngay, rồi đem bức thư ấy đưa cho Trịnh Trang công. Trịnh Trang công mở ra xem xong, lại niêm phong lại, sai một người giả làm người nhà Khương Thị đến đưa cho Thái Thúc Đoạn, để lấy thư trả lời của Thái Thúc Đoạn. Trong thư Thái Thúc Đoạn trả lời, hẹn đến ngày mồng 5 tháng 5 thì khởi. Trịnh Trang công bắt được thư, mừng lắm, nói: — Tờ cung chiêu của Đoạn đây rồi, hẳn Quốc mẫu không cho che chở được nữa. Nói xong, liền vào cung từ biệt Khương Thị, chỉ nói việc vào triều Thiên tử nhà Chu, nhưng kỳ thực đem quân theo đường tắt tiến sang Kinh Thành. Công tử Lã cũng đã đem quân đi phục trước ở gần đất Kinh Thành. Thái Thúc Đoạn từ khi tiếp được mật thư của Khương Thị, cùng với con là Công Tôn Hoạt sang mượn quân nước Vệ; còn mình thì giả cách nói phụng mệnh Trịnh Trang công về coi quốc chính, rồi đem quân thẳng đường kéo về nước Trịnh. Công tử Lã đã sai quân giả dạng lái buôn lẻn vào đất Kinh Thành, đợi khi nào Thái Thúc Đoạn cất quân đi thì đốt lửa làm hiệu. Công tử Lã trông thấy ngọn lửa, tức khắc đem quân đến, người trong thành mở cửa ra đón, khi lấy được Kinh Thành rồi thì treo bảng hiểu dụ kể những đức tính Trịnh Trang công và tội ác của Thái Thúc Đoạn. Người trong thành thấy vậy đều chê Thái Thúc Đoạn là người bất nhân. Thái Thúc Đoạn đem quân đi đến nửa đường nghe tin Kinh Thành thất thủ, trong lòng bối rối, vội vàng đem quân trở về. Chẳng ngờ quân sĩ tiếp được thư nhà gửi đến, nghe nói Thái Thúc Đoạn bất nhân như vậy, đều bỏ trốn đi mất già nửa. Thái Thúc Đoạn thấy quân sĩ biến loạn, mới rút về Cung Thành, Trịnh Trang công đem quân đến đánh Cung Thành. Thái Thúc Đoạn nghe tin Trịnh Trang công sắp đến, mới thở dài than rằng: — Mẹ ta làm hại ta rồi! Bây giờ ta còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa! Nói xong liền đâm cổ mà chết. Trịnh Trang công kéo quân vào, ôm lấy tử thi Thái Thúc Đoạn mà khóc rằng: — Làm sao mà em dại đến thế này! Nói xong, lại lục những đồ hành trang của Thái Thúc Đoạn thì bắt được cả thư của Khương Thị gửi khi trước, Trịnh Trang công còn đem gói lẫn với bức thư trả lời của Thái Thúc Đoạn, sai Sái Túc đưa về cho Khương Thị xem, rồi đem Khương Thị ra an trí tại đất Dĩnh Ấp. Trịnh Trang công khi về đến nhà, không trông thấy Khương Thị, trong lòng cảm động, cũng thở dài mà than rằng: — Ta bất đắc dĩ mà phải giết em, nỡ nào lại còn lìa mẹ, nếu vậy thì ta thật là một người có tội với luân lý. Quan Phong Nhân ở Dĩnh Ấp là Dĩnh Khảo Thúc, vốn là người chính trực mà lại hiếu hữu, nghe tin Trịnh Trang công an trí Khương Thị ở Dĩnh Ấp, thường nói chuyện với người ta rằng: — Mẹ dẫu bất từ, con không nên bất hiếu, Chúa công làm việc này, hại đến phong hóa nhiều lắm! Nói xong, liền bắt mấy con chim cú đem vào dâng Trịnh Trang công. Trịnh Trang công hỏi rằng: — Nó là chim gì? Dĩnh Khảo Thúc nói: — Nó là chim cú. Giống chim này ban ngày thì quả núi ở trước mặt cũng không thấy, mà ban đêm thì tinh mắt lắm, cái tơ cái tóc cũng trông rõ cả, thật là một con vật trông rõ được cái nhỏ mà không trông thấy được cái lớn. Lúc nó bé, mẹ nó kiếm mồi nuôi nó, đến lúc nó lớn thì nó lại mổ mẹ nó, nó là giống chim bất hiếu, vậy nên tôi bắt để ăn thịt. Trịnh Trang công nín lặng, không nói gì cả, gặp bấy giờ nhà bếp dâng một con dê chín. Trịnh Trang công sai cắt một vai đưa cho Dĩnh Khảo Thúc ăn. Dĩnh Khảo Thúc chọn lấy những miếng thịt ngon, đem bọc vào giấy, giấu ở trong tay áo. Trịnh Trang công thấy lạ, liền hỏi. Dĩnh Khảo Thúc nói: — Tôi có mẹ già mà nhà lại nghèo, ngày nào mẹ tôi cũng chỉ ăn các thức dã vị, chưa được ăn đến món ngon này; nay Chúa công ban cho chúng tôi mà mẹ già chúng tôi không được nếm một miếng thì chúng tôi nghĩ đến, nuốt sao cho được, vậy tôi phải đem về làm cơm dâng mẹ già tôi. Trịnh Trang công nói: — Nhà ngươi đáng khen là một người hiếu tử. Nói xong, có ý buồn bã, thở dài một tiếng. Dĩnh Khảo Thúc hỏi rằng: — Chẳng hay vì sao mà Chúa công lại thở dài? Trịnh Trang công nói: — Nhà ngươi còn có mẹ già mà nuôi, để trọn cái đạo làm con; ta đây là vua chư hầu mà lại không được bằng nhà ngươi! Dĩnh Khảo Thúc giả cách không biết, lại hỏi rằng: — Quốc mẫu hiện đang mạnh khỏe, sao Chúa công lại nói như vậy? Trịnh Trang công mới đem chuyện Khương Thị thông mưu với Thái Thúc Đoạn để cướp nước Trịnh, và việc an trí Khương Thị ở Dĩnh Ấp, kể lại một lượt. Lại nói cho Dĩnh Khảo Thúc biết là đã có lời thề “Suối vàng” khi trước, bây giờ hối lại không kịp. Dĩnh Khảo Thúc nói: — Thái Thúc Đoạn nay đã mất rồi, Quốc mẫu chỉ một mình Chúa công là con, Chúa công lại không phụng dưỡng thì khác gì giống chim cú; nếu Chúa công còn ngại về lời thề “Suối vàng” thì tôi xin hiến một kế có thể giải kết đi được. Trịnh Trang công hỏi rằng: — Kế gì mà có thể giải kết được? Dĩnh Khảo Thúc nói: — Chi bằng Chúa công sai đào đất đến tận suối vàng, làm một cái nhà hầm, rước Quốc mẫu xuống ở đấy, rồi nói cho Quốc mẫu biết những cái tình nhớ mong của Chúa công; tôi chắc rằng Chúa công nhớ mong Quốc mẫu thế nào thì Quốc mẫu cũng nhớ mong Chúa công như vậy. Chúa công cùng với Quốc mẫu gặp nhau ở trong nhà hầm ấy thì khỏi trái với lời thề “Suối vàng” thuở xưa. Trịnh Trang công mừng lắm liền sai Dĩnh Khảo Thúc đến yết kiến Khương Thị, kể hết những nông nỗi Trịnh Trang công đã biết hối hận, muốn rước về để phụng dưỡng. Khương Thị vừa tủi, vừa mừng. Dĩnh Khảo Thúc rước Khương Thị xuống ở nhà hầm trước, rồi Trịnh Trang công cũng xuống sau, xụp dưới đất mà nói với Khương Thị rằng: — Ngộ Sinh con, lâu nay không biết phụng dưỡng Mẫu thân, thật là bất hiếu, xin Mẫu thân tha tội cho. Khương Thị nói: — Thôi, cái tội ấy là tại mẹ, không việc gì đến con. Nói xong, giơ tay đỡ Trịnh Trang công dậy, hai mẹ con ôm nhau mà khóc, rồi trèo lên mặt đất. Trịnh Trang công đỡ Khương Thị lên xe, rồi ngồi hầu một bên để cầm cương ngựa. Người nước Trịnh trông thấy Trịnh Trang công cùng với Khương Thị trở về, ai cũng khen Trịnh Trang công là người có hiếu. Trịnh Trang công cảm cái ơn Dĩnh Khảo Thúc làm cho tình nghĩa hai mẹ con lại được trọn vẹn, mới phong cho Dĩnh Khảo Thúc làm chức đại phu, cùng với Công Tôn Át cùng giữ binh quyền. Con Thái Thúc Đoạn là Công Tôn Hoạt từ khi sang mượn quân nước Vệ, về đến nửa đường, nghe tin Thái Thúc Đoạn bị giết, lại sang nước Vệ đem chuyện Trịnh Trang công giết em giam mẹ kêu với Vệ Hoàn công. Vệ Hoàn công nói: — Trịnh Trang công vô đạo như vậy, ta phải vì Công Tôn Hoạt mà đánh mới được. Nói xong, liền cất quân đi đánh Trịnh. T HỒI THỨ 5 Chu với Trịnh, gởi con làm tin Lỗ và Tống, đem quân giúp giặc rịnh Trang công nghe tin Công Tôn Hoạt cất quân đến đánh, mới họp các quan lại để thương nghị. Công tử Lã nói: — Cắt cỏ mà còn rễ thì gặp khí xuân cỏ lại mọc lên. Công Tôn Hoạt nay mượn được quân nước Vệ là vì Vệ Hoàn công chưa biết cái tội Thái Thúc Đoạn định cướp nước Trịnh, vậy nên mới đem quân giúp Công Tôn Hoạt để cứu Quốc mẫu, cứ như ý tôi thì chi bằng Chúa công viết một bức thư đưa cho Vệ Hoàn công, nói rõ sự tình đầu đuôi. Vệ Hoàn công tất rút quân về nước. Bấy giờ Công Tôn Hoạt thế cô, chẳng đợi phải đánh mà ta bắt được. Trịnh Trang công khen phải, rồi sai người đưa thư cho Vệ Hoàn công. Vệ Hoàn công mở thư ra đọc: “Ngộ Sinh này có mấy lời kính dâng Vệ Hiền hầu xét cho: Nguyên nhà tôi chẳng may, đến nỗi anh em hại lẫn nhau, thật xấu hổ với lân quốc lắm, nhưng tôi xử với em tôi là Đoạn, không là điều gì bất hữu, mà Đoạn cậy thế làm càn; tôi nghĩ đến cơ nghiệp tiền nhân, vậy phải đem quân trừ Đoạn, mẹ tôi là Khương Thị vì cớ yêu Đoạn quá, có ý không bằng lòng, tránh ra ở Dĩnh Ấp, tôi hiện đã rước về để phụng dưỡng. Nay Công Tôn Hoạt không biết tội cha, trốn sang quí quốc. Hiền hầu không rõ sự tình, mới đem quân giúp hắn. Tôi xét mình tôi chẳng có tội gì, xin Hiền hầu nghĩ lại, chớ dung những đứa loạn tặc mà để cho hai nước đến nỗi thất hòa thì nước tôi lấy làm may lắm.” Vệ Hoàn công đọc xong, giật mình kinh sợ, nói: — Thái Thúc Đoạn bất nghĩa, gây nên tai vạ, nay ta vì Công Tôn Hoạt cất quân, thật là giúp những đứa loạn tặc. Nói xong, liền sai sứ giả đi rút quân nước Vệ về. Sứ giả chưa đi kịp đến nơi thì Công Tôn Hoạt đã đánh lấy đất Lẫm Diên của nước Trịnh rồi. Trịnh Trang công giận lắm, sai Cao Cừ Di đem quân đi đánh Công Tôn Hoạt. Bấy giờ quân nước Vệ đã rút về, Công Tôn Hoạt thế cô, không thể địch nổi, lại bỏ đất Lẫm Diên chạy sang nước Vệ. Công tử Lã thừa thế đuổi theo Công Tôn Hoạt đến tận bờ cõi nước Vệ. Vệ Hoàn công thấy vậy, họp các quan lại để thương nghị. Công tử là Chu Hu nói: — Nước chạy vào thì đem đất mà lấp, giặc kéo đến thì đem quân mà đánh, còn nghi ngại về cái gì! Quan Đại phu là Thạch Thác nói: — Không nên! Không nên! Vì ta giúp Công Tôn Hoạt thì Trịnh mới kéo quân đến. Trước Trịnh Trang công đã có đưa thư sang nước ta, âu là ta cũng viết thư đáp lại mà xin lỗi thì tất nhiên nước Trịnh lại rút quân về. Vệ Hoàn công nói: — Nhà ngươi nói phải đó! Nói xong, liền sai Thạch Thác viết thư đưa cho Trịnh Trang công. Thư như sau này: “Vệ Hoàn này xin có mấy lời phúc lại để Trịnh Hiền hầu được biết. Tôi quá nghe lời nói của Công Tôn Hoạt, ngỡ là Hiền hầu giết em giam mẹ, khiến cho cháu không có chỗ mà nương thân, vậy mới cất quân giúp hắn. Nay đọc bức thư của Hiền hầu viết cho, mới biết cái tội ác của Thái Thúc Đoạn, tôi nghĩ hối hận biết là dường nào; hiền đã có sai người rút hết quân về rồi, nếu Hiền hầu có lòng xét cho thì xin bắt Công Tôn Hoạt để đem nộp, mà hai nước từ nay lại giao hiếu như cũ”. Trịnh Trang công xem xong, nói: — Nay Vệ đã biết phục tội thì ta còn muốn gì nữa. Khương Thị nghe nói Trịnh Trang công đem quân đánh Vệ, sợ Công Tôn Hoạt chết mất thì Thái Thúc Đoạn thành ra tuyệt tự, mới cố tình kêu van Trịnh Trang công, xin nghĩ lại cái di thể của Trịnh Vũ công thuở xưa mà tha cho một mạng Công Tôn Hoạt. Trịnh Trang công nể lời Khương Thị, lại liệu sức Công Tôn Hoạt thế cô, cũng không làm gì được nữa, mới phúc thư cho Vệ Hoàn công. Trong thư chỉ nói xin vâng lời rút quân về, cùng nhau hòa hiếu, Công Tôn Hoạt dẫu có tội, nhưng em tôi chỉ sinh được có một mình nó, xin cứ cho ở bên quí quốc để giữ lấy việc cúng thờ em tôi. Khi phục hồi rồi, Trịnh Trang công truyền rút quân về, còn Công Tôn Hoạt thì ở nhờ bên nước Vệ. Lại nói chuyện vua Bình Vương nhà Chu lâu ngày không thấy Trịnh Trang công đến, nhân có Quắc công Kỵ Phủ vào triều, vua Bình Vương hỏi chuyện, lấy làm hợp ý lắm, mới bảo Quắc công Kỵ Phủ rằng: — Cha con Trịnh Trang công xưa nay nối đời coi giữ quốc chính, bây giờ lâu ngày không thấy vào triều, trẫm muốn cho nhà ngươi hãy quyền giữ quốc chính, nhà ngươi cứ nhận đi. Quắc công Kỵ Phủ nói: — Trịnh Trang công lâu ngày không thấy vào triều, tất là trong nước có biến cố, nếu nhà vua cho kẻ hạ thần thay quyền thì Trịnh Trang công chẳng những oán kẻ hạ thần mà lại oán cả đến nhà vua nữa; kẻ hạ thần không dám phụng mệnh. Nói xong, cố ý xin cáo từ về nước. Trịnh Trang công dẫu về nước Trịnh, nhưng vẫn cho người ở chốn kinh sư để nghe ngóng những công việc trong triều có sự gì lạ thì truyền báo cho Trịnh Trang công biết. Bấy giờ vua Bình Vương muốn giao quốc chính cho Quắc công Kỵ Phủ, có lẽ nào mà Trịnh Trang công lại không biết hay sao. Trịnh Trang công nghe được tin ấy, tức khắc vào triều vua Bình Vương, quì xuống tâu rằng: — Kẻ hạ thần đội ơn nhà vua, cha con nối nhau cùng coi giữ quốc chính. Kẻ hạ thần xét mình không có tài cán gì, lấy làm thẹn lắm, xin từ chức khanh sĩ, trở về nước Trịnh. Vua Bình Vương nói: — Lâu nay nhà ngươi không vào triều, lòng trẫm xiết bao trông đợi, nay thấy nhà ngươi đến, khác nào như cá gặp nước, sao nhà ngươi lại nói như vậy? Trịnh Trang công nói: — Kẻ hạ thần gặp có sự biến cố ở trong nước, vậy nên lâu ngày không kịp vào triều. Nay trong nước đã yên việc, vội vàng vào triều, trong khi đi đường, kẻ hạ thần có nghe thấy người ta đồn rằng nhà vua muốn giao quốc chính cho Quắc công Kỵ Phủ, kẻ hạ thần thiết nghĩ cái tài của kẻ hạ thần kém Quắc công Kỵ Phủ nhiều lắm, có đâu kẻ hạ thần dám giữ lấy chức vị để đắc tội với nhà vua. Vua Bình Vương thấy Trịnh Trang công nói đến việc Quắc công Kỵ Phủ, thẹn đỏ mặt lên, nói gượng rằng: — Trẫm cũng biết là nhà ngươi tất có việc biến cố ở trong nước, vậy nên mới lâu ngày không vào triều, trẫm đã toan giao cho Quắc công Kỵ Phủ quyền giữ quốc chính trong mấy bữa để đợi nhà ngươi đến, nhưng Quắc công Kỵ Phủ cố ý từ chối mãi, trẫm đã cho về nước rồi, nhà ngươi còn nghi ngại điều gì nữa. Trịnh Trang công nói: — Quốc chính của nhà vua, có phải là việc riêng của kẻ hạ thần đâu, thế thì cái quyền dùng người cũng tự ý nhà vua. Nay cái tài của Quắc công Kỵ Phủ có thể giúp được quốc chính, vậy nên kẻ hạ thần từ chức là phải, nếu không thì các quan trong triều tất cho là kẻ hạ thần tham giữ quyền thế mà không biết đường tiến thoái, xin nhà vua xét lại cho. Vua Bình Vương nói: — Cha con nhà ngươi có công lớn với nước, vậy nên trẫm giao quốc chính cho, đã hơn 40 năm nay, vua tôi cùng đắc tình nhau. Nay nhà ngươi có lòng nghi Trẫm, Trẫm biết lấy gì mà giãi tỏ ra được, hay là trẫm cho Thái tử Hồ sang ở bên nước Trịnh để làm con tin. Trịnh Trang công nói: — Nhận chức hay là từ chức, đó là cái bổn phận của kẻ hạ thần, có lẽ nào Thiên tử lại phải cho con đến để làm tin, kẻ hạ thần e rằng như vậy thì thiên hạ tất cho là kẻ hạ thần có ý hiếp vua, cái tội ấy kẻ hạ thần để đâu cho hết! Vua Bình Vương nói: — Không phải thế, nghĩa là nhà ngươi có tài chính trị, trẫm muốn cho Thái tử Hồ sang du học ở nước Trịnh để khỏi có những điều hiềm nghi, nếu nhà ngươi cố từ mãi thì là buộc lỗi cho Trẫm. Trịnh Trang công hai ba lần không dám nhận. Các quan trong triều tâu rằng: — Nhà vua không gửi con làm tin thì không bỏ được cái lòng nghi ngờ của Trịnh Trang công, mà một mình nhà vua gửi con làm tin thì khiến cho Trịnh Trang công trái đạo thần tử, chi bằng vua tôi cùng gửi con làm tin thì hai bên cùng bỏ hết lòng nghi ngờ mà giữ trọn được đường ân nghĩa. Vua Bình Vương nói: — Như thế thì phải lắm! Trịnh Trang công mới sai Thế tử Hốt vào ở trong nhà Chu để làm con tin, còn Thái tử Hồ nhà Chu thì sang ở nước Trịnh. Vua Bình Vương băng hà. Trịnh Trang công cùng với Chu công Hắc Kiên cùng giữ quốc chính, sai Thế tử Hốt về nước Trịnh để đón Thái tử Hồ vào làm vua nhà Chu. Thái tử Hồ nghe tin cha chết, ngậm ngùi thương xót, vì khi cha ốm, chưa được hầu hạ thuốc thang, không ngờ nghĩ quá thành bệnh, khi về đến nhà Chu thì mất. Con là Lâm nối ngôi lên làm vua, tức là Hoàn Vương. Các nước chư hầu đều đến viếng tang và yết kiến Thiên tử mới. Quắc công Kỵ Phủ đến trước, cử chỉ rất hợp lễ phép, ai trông thấy cũng có lòng mến yêu. Vua Hoàn Vương thương cha vì cớ sang ở làm tin bên nước Trịnh mà đến nỗi chết; lại trông thấy Trịnh Trang công chuyên quyền, trong lòng ngờ vực, mới bàn riêng với Chu công Hắc Kiên rằng: — Trịnh Trang công bắt nhà Chu phải gửi con làm tin ở bên nước Trịnh, tất là có ý khinh Trẫm, trong tình vua tôi, sợ không yên được. Nay Quắc công Kỵ Phủ là người biết giữ lễ phép, Trẫm muốn giao quốc chính cho, nhà ngươi nghĩ thế nào? Chu công Hắc Kiên nói: — Trịnh Trang công vốn người tàn nhẫn, không phải là bề tôi trung thuận, ngặt vì khi nhà Chu ta dời sang Lạc Ấp thì nước Tần và nước Trịnh thật có công to. Bây giờ nhà vua mới lên ngôi, đã vội đòi quốc chính mà giao cho người khác, kẻ hạ thần e rằng Trịnh Trang công đem lòng căm tức thì tất sinh nhiều chuyện lôi thôi, nhà vua cũng nên phải nghĩ kỹ. Vua Hoàn Vương nói: — Trẫm không có thể ngồi mà chịu hắn áp chế được, thôi thì ý quân nhất quyết. Ngay hôm sau, vua Hoàn Vương ra triều, bảo Trịnh Trang công rằng: — Nhà ngươi là cựu thần của Tiên vương ngày xưa, Trẫm không dám phiền nhà ngươi phải giữ việc quốc chính, xin nhà ngươi cũng chớ lấy làm giận. Trịnh Trang công nói: — Kẻ hạ thần vẫn muốn từ chức đã lâu. Nói xong, lạy tạ rồi hầm hầm bước ra, nói chuyện với mọi người rằng: — Thằng bé con này tệ bạc, giúp làm sao được! Ngay hôm ấy, Trịnh Trang công trở về nước Trịnh. Thế tử Hốt đem các quan ra bờ cõi để nghênh tiếp, hỏi vì cớ gì mà lại về nước. Trịnh Trang công kể chuyện vua Hoàn Vương không dùng. Hết thảy mọi người đều có ý bất bình. Quan Đại phu là Cao Cừ Di nói: — Nước Trịnh ta mấy đời giúp nhà Chu, công lao rất lớn, huống chi Thái tử Hồ khi trước ở nước ta, nước ta chưa hề có điều gì thất lễ, nay bỏ Chúa công ta mà dùng Quắc công Kỵ Phủ thì thật là đại bất nghĩa. Sao Chúa công không cất quân đánh nhà Chu, bỏ vua Hoàn Vương đi mà lập vua khác, khiến cho chư hầu phải sợ nước Trịnh thì có thể làm nên được nghiệp bá. Dĩnh Khảo Thúc nói: — Không nên! Đạo vua tôi cũng giống như tình mẹ con, Chúa công đã không nỡ đem lòng thù mẹ, sao lại nỡ đem lòng thù vua, xin Chúa công cứ ẩn nhẫn trong ít lâu, rồi lại vào triều, vua nhà Chu tất có lòng hối. Chúa công chớ nóng nảy trong một lúc mà làm uổng mất cái danh tiết của Tiên công ta thuở xưa. Sái Túc nói: — Cứ như ý kiến hẹp hòi của tôi thì hai kế ấy đều nên dùng cả. Tôi xin đem một đạo quân vào bờ cõi nhà Chu, giả cách nói vì năm mất mùa, phải vào mượn lương ở Ôn Ấp và Lạc Ấp. Nếu vua nhà Chu sai người trách phạt thì ta nhân tìm cớ mà sinh sự; nhược bằng vua nhà Chu chịu nhịn, không nói gì cả thì bấy giờ Chúa công sẽ vào triều, cũng chưa lấy gì làm chậm. Trịnh Trang công nghe nói, mới cho Sái Túc đem quân đi. Sái Túc đi đến đất Ôn ấp, giả cách nói vì năm nay mất mùa đòi vay thóc của Ôn Đại phu. Ôn Đại phu chối là chưa phụng mệnh vua nhà Chu thì không dám cho vay. Sái Túc nói: — Hiện nay lúa mạch đang chín, nếu không cho vay thì ta cứ việc lấy. Nói xong, liền sai quân sĩ mang liềm xuống ruộng, có bao nhiêu lúa cắt hết rồi xếp đầy xe tải về. Ôn Đại phu vẫn biết quân nước Trịnh mạnh tợn, không dám chống cự. Sái Túc đóng quân ở đấy hơn ba tháng, lại kéo sang địa phận nhà Chu, trông thấy lúa ở các ruộng cũng đều chín cả, lại mật sai quân sĩ giả dạng làm người đi buôn, phục sẵn ở các làng, rồi đến canh ba đêm hôm ấy kéo ra mà cắt hết lúa. Khi quân trong thành biết thì quân nước Trịnh đã đi xa rồi. Quan trấn thủ ở hai địa phương ấy đều sai người đem thư tới Lạc Ấp để tâu với vua Hoàn Vương nhà Chu. Vua Hoàn Vương giận lắm, toan cất quân đi đánh. Chu công Hắc Kiên tâu rằng: — Sái Túc lấy trộm lúa, chẳng qua là một việc nhỏ, nhà vua chớ nên vì việc ấy mà bỏ mất cái tình thân thuộc của nước Trịnh. Nếu Trịnh Trang công có biết việc này thì tất phải đến xin lỗi để giữ tình hòa hiếu. Vua Hoàn Vương nghe lời, mới truyền cho các nơi bờ cõi phải canh giữ cho nghiêm mật, còn việc lấy trộm lúa thì bỏ đi, thôi không nói đến nữa. Trịnh Trang công thấy vua nhà Chu không trách phạt gì cả, cũng có ý hối, mới thương nghị định vào triều vua nhà Chu. Trịnh Trang công vừa toan khởi hành thì Tề Hi công cho sứ đến mời Trịnh Trang công sang hội ở đất Thạch Môn. Trịnh Trang công cũng muốn kết thân với nước Tề, lại sang phó hội. Khi sang đến nơi thì Trịnh Trang công cùng với Tề Hi công uống máu ăn thề, kết làm anh em, có sự gì thì hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau. Tề Hi công lại hỏi đến chuyện Thế tử Hốt đã lấy vợ chưa. Trịnh Trang công đáp rằng chưa. Tề Hi công nói: — Tôi có đứa con gái, tuổi dẫu còn nhỏ nhưng cũng hơi có trí tuệ, nếu Thế tử bằng lòng thì xin hứa lời hẹn trước. Trịnh Trang công vâng lời, rồi cáo từ trở về. Khi về đến nhà, Trịnh Trang công nói chuyện lại với Thế tử Hốt. Thế tử Hốt nói: — Lấy vợ tìm chỗ bằng đôi phải lứa, nay Trịnh là nước nhỏ, Tề là nước lớn, khác nhau nhiều lắm, vậy nên không muốn trông xa với cao làm gì. Trịnh Trang công nói: — Việc kết hôn là tự ý kẻ kia, nếu mình cầu thân với nước Tề thì cũng nhiều việc có thể trông cậy được, sao con lại từ chối? Thế tử Hốt nói: — Kẻ trượng phu ở đời, nên có chí tự lập, không nên mong trông cậy về đường hôn nhân. Trịnh Trang công khen là người có chí, cũng không cố ép. Sau có sứ nước Tề đến, nghe nói Thế tử Hốt không thuận việc kết hôn, mới về nói với Tề Hi công. Tề Hi công nói: — Thế tử nước Trịnh thật là người khiêm nhượng quá. Con gái ta cũng hãy còn nhỏ tuổi, âu là ngày khác sẽ bàn. Một hôm, Trịnh Trang công cùng các quan bàn việc vào triều vua nhà Chu, bỗng có tin buồn của Vệ Hoàn công đưa đến. Trịnh Trang công mới biết công tử nước Vệ là Chu Hu giết Vệ Hoàn công. Trịnh Trang công giẫm chân mà than rằng: — Chẳng bao lâu nữa mà nước ta lại có việc tranh chiến. Các quan nghe nói, đều hỏi rằng: — Chẳng hay vì cớ gì mà Chúa công lại đoán như vậy? Trịnh Trang công nói: — Chu Hu là một đứa hay sinh sự, nay hắn đã giết vua cướp ngôi thì tất phải thị hùng mà gây việc tranh chiến. Vả lại nước Trịnh và nước Vệ vốn có hiềm khích với nhau thì thế nào hắn cũng đánh Trịnh trước, ta nên phải phòng bị mới được. Lại nói đến chuyện Chu Hu nước Vệ giết vua, sự thể thế nào? Nguyên Vệ Trang công lấy bà Trang Khương nước Tề đẹp mà không có con, lại lấy nàng Lệ Vỉ nước Trần làm vợ thứ, cũng không có con. Em gái Lệ Vỉ là nàng Đái Vỉ theo chị sang hầu hạ Vệ Trang công, sinh được hai con trai là Hoàn và Tấn. Trang Khương không có tính ghen ghét, mới nuôi Hoàn làm con mình, lại tiến cho Vệ Trang công một người cung nữ. Người cung nữ ấy được Vệ Trang công thương yêu, sinh con là Chu Hu. Chu Hu tính hung tợn, hay thích việc tranh chiến. Vệ Trang công quá yêu Chu Hu, hắn muốn làm gì cũng chiều. Quan Đại phu là Thạch Thác thường can Vệ Trang công rằng: — Người ta yêu con, nên dạy lấy nghĩa lý, chớ để cho tập nhiễm những tính nết xấu, vì yêu quá thì nó thường hay cậy thế làm càn. Nếu Chúa công muốn truyền ngôi cho Chu Hu thì nên lập ngay làm Thế tử, bằng không thì tất phải đè nén đi mới được, chớ để sinh tai vạ về sau. Vệ Trang công không nghe. Con Thạch Thác là Thạch Hậu vẫn bè đảng với Chu Hu, thường đem nhau đi săn, làm nhũng nhiễu dân sự. Thạch Thác giận lắm, đánh Thạch Hậu 50 roi, rồi giam vào một cái buồng kín, không cho đi đâu cả. Thạch Hậu trèo tường trốn ra, đến ở lì nhà Chu Hu, cùng với Chu Hu ăn một mâm, nằm một chiếu, không về với Thạch Thác nữa. Thạch Thác cũng không thể làm thế nào cho được. Sau Vệ Trang công mất, công tử Hoàn nối ngôi, tức là Vệ Hoàn công. Vệ Hoàn công tính khí nhu nhược, Thạch Thác biết là không làm gì được, mới cáo lão về nhà, không dự đến quốc chính nữa. Từ bấy giờ Chu Hu lại càng chẳng sợ hãi ai, ngày đêm nào cũng chỉ cùng với Thạch Hậu bàn việc cướp ngôi. Bấy giờ có tin Thiên tử nhà Chu là vua Bình Vương băng hà, vua Hoàn Vương lên nối ngôi, Vệ Hoàn công muốn vào triều vua nhà Chu. Thạch Hậu bảo Chu Hu rằng: — May cho ta lắm, đại sự làm xong được! Sáng mai Chúa công vào triều vua nhà Chu, công tử nên làm một tiệc tiễn ở ngoài tây môn, rồi phục sẵn quân giáp sĩ ở đấy, trong khi ăn tiệc, tuốt gươm ra mà đâm; có đứa nào dám chống cự không theo, tức khắc chém cả, như vậy thì chỉ trong một lúc mà cướp được ngôi chư hầu. Chu Hu mừng lắm, sai Thạch Hậu đem 500 quân ra phục sẵn ở ngoài tây môn. Chu Hu bày tiệc rượu nơi công quán rồi ra mời Vệ Hoàn công vào. Chu Hu khúm núm dâng chén rượu nói: — Nay Huynh hầu đi đường xa, em xin có chén rượu tiễn chân. Vệ Hoàn công nói: — Hiền đệ khéo quá nghĩ, ta đi chẳng qua chỉ hơn một tháng lại về, hiền đệ ở nhà coi giữ quốc chính, nên phải cẩn thận mới được. Chu Hu nói: — Xin Huynh hầu cứ yên tâm. Uống được vài tuần rượu, Chu Hu đứng dậy rót một chén thật đầy, dâng Vệ Hoàn công. Vệ Hoàn công uống một hơi cạn chén, rồi lại rót một chén thật đầy đưa lại Chu Hu. Chu Hu đứng dậy đỡ lấy, giả bộ lỡ tay, đánh rơi chén xuống đất, vội vàng nhặt lên rồi đem chén ra rửa. Vệ Hoàn công không biết là dối, truyền đem chén đến để rót lại, toan đưa cho Chu Hu uống. Chu Hu thừa cơ bước rảo đến sau lưng Vệ Hoàn công, rút dao găm ra, đâm thẳng một nhát, suốt lưng sang bụng. Vệ Hoàn công chết ngay lập tức. Các quan vốn biết Chu Hu sức khỏe hơn người, lại thấy có Thạch Hậu đem 500 quân đến vây nhà công quán, đều biết là không chống lại nổi, cũng phải hàng phục tất cả, giả bộ nói là Vệ Hoàn công ngộ cảm mà chết. Chu Hu lên nối ngôi, cho Hà Thúc Doanh làm Thượng đại phu. Em Vệ Hoàn công là Tấn phải trốn sang ở nước Hình. Chu Hu lên ngôi được 3 ngày, nghe thấy người ngoài huyên truyền nhau về việc mình giết anh, mới đòi quan Thượng đại phu là Thạch Hậu vào để thương nghị. Rồi lại hỏi Thạch Hậu rằng: — Ta muốn ra oai với các nước láng giềng để cho dân trong nước phải sợ thì nhà ngươi bảo trước hết nên đánh nước nào? Thạch Hậu nói: — Các nước láng giềng đều không có hiềm khích gì cả, chỉ có nước Trịnh là khi trước nhân việc loan Công Tôn Hoạt, có đem quân sang đánh nước ta; Tiên công ta ngày xưa chịu nhũn xin hòa, đó là một điều quốc sĩ của ta. Nếu Chúa công muốn dùng quân thì tôi thiết tưởng chỉ có nước Trịnh là nên đánh. Chu Hu nói: — Mới rồi nước Trịnh cùng với nước Tề ăn thề ở đất Thạch Môn để cùng kết thân với nhau, nếu ta đánh Trịnh, Tề tất đem quân sang cứu thì một nước Vệ này địch nổi thế nào được hai nước? Thạch Hậu nói: — Ngày nay, nước khác họ với ta, chỉ có Tống là hơn cả; nước cùng họ với ta, chỉ có Lỗ là hơn cả. Chúa công muốn đánh Trịnh thì nên sai người sang cầu viện nước Tống và nước Lỗ, lại hợp quân nước Trần, nước Sái. Cả 5 nước cùng hợp sức với nhau thì lo gì chẳng đánh được. Chu Hu nói: — Trần, Sái là nước nhỏ, vốn thần phục Thiên tử nhà Chu, mới rồi nước Trịnh cùng với vua nhà Chu có hiềm khích, tất nước Trần, nước Sái cũng biết, bây giờ ta bảo đi đánh nước Trịnh thì Trần, Sái theo ngay, chỉ có Tống, Lỗ là nước lớn, không thể cưỡng ép được. Thạch Hậu nói: — Chúa công chỉ biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác; ngày xưa Tống Mục công lên nối ngôi anh là Tống Tuyên công; đến lúc Tống Mục công chết, nghĩ cái ơn của anh, lại bỏ con mình là công tử Phùng mà lập con người anh là Dữ Di. Bởi vậy công tử Phùng oán cha mà ghét Dữ Di, trốn sang ở nước Trịnh. Nước Trịnh lại dung túng cho công tử Phùng, toan giúp quân cho về đánh Tống để cướp ngôi của Dữ Di; nay Chúa công bảo sang đánh Trịnh thì Tống tất bằng lòng. Còn như nước Lỗ thì quốc chính đều ở trong tay công tử Huy giữ hết binh quyền, coi vua nước Lỗ cũng như không; nếu Chúa công sai người đem vàng bạc mà khấn lễ công tử Huy thì nước Lỗ tất phải đem quân đi đánh Trịnh. Chu Hu mừng lắm, tức khắc sai người sang Lỗ, Trần và Sái; chỉ có sang Tống thì chưa chọn được người đi. Thạch Hậu xin cử một người họ Ninh, tên Dực, là người ở đất Trung Màu. Người ấy có tài du thuyết, dùng sang sứ nước Tống được. Chu Hu nghe lời, sai Ninh Dực sang mượn quân nước Tống. Tống Thương công hỏi rằng: — Cớ gì mà sang đánh Trịnh? Ninh Dực nói: — Trịnh Trang công vô đạo, giết em giam mẹ, cháu là Công Tôn Hoạt phải trốn sang nước tôi, Trịnh lại đem quân đến đánh. Tiên công tôi ngày xưa, sợ thế nước Trịnh mạnh, mới phải chịu nhún xin lỗi. Nay Chúa công tôi định đem quân sang đánh báo thù, thiết nghĩ quí quốc đây cũng là một nước có thù với nước Trịnh, vậy mới sai tôi sang đây để cầu viện. Tống Thương công nói: — Ta cùng với nước Trịnh vốn không hiềm khích gì, sao nhà ngươi lại bảo là có thù? Ninh Dực nói: — Chúa công đuổi hết người xung quanh đi, tôi xin nói rõ. Tống Thương công đuổi hết tả hữu đi, rồi ghé lại hỏi Ninh Dực rằng: — Thế nào? Nhà ngươi cứ nói. Ninh Dực nói: — Người nào truyền ngôi cho Chúa công, Chúa công có biết không? — Tống Thương công nói: — Anh ta là Tống Mục công truyền ngôi cho ta đấy. Ninh Dực nói: — Cha chết thì con nối là cái lẽ thường từ xưa đến nay. Tống Mục công dẫu có bụng tốt mà truyền ngôi cho Chúa công, nhưng tôi e rằng công tử Phùng mất ngôi phải sang ở nước Trịnh, chắc hẳn trong lòng cũng chưa hề đã quên được nước Tống. Công tử Phùng giao thông với nước Trịnh đã cố kết như vậy, một mai Trịnh cất quân giúp công tử Phùng về đánh Tống; người trong nước cảm cái ơn của Tống Mục công thuở xưa, lại nhớ đến người con. Trong ngoài sinh biến thì Chúa công nguy lắm. Ngày nay dẫu gọi là đánh Trịnh, nhưng kỳ thực là trừ bỏ cái vạ tâm phúc của Chúa công. Chúa công nên chủ trương việc này, nước Vệ tôi cũng xin cất quân cùng với Lỗ, Trần và Sái đều sang đánh Trịnh thì tài nào Trịnh không phải thua. Tống Thương công vẫn có lòng ghét công tử Phùng, nghe mấy câu nói ấy chính hợp ý mình, mới thuận đem quân đi đánh Trịnh. Quan Đại tư mã là Khổng Phủ Gia can rằng: — Chúa công không nên nghe lời sứ nước Vệ, nếu bảo Trịnh Trang công giết em giam mẹ là có tội, thế thì Chu Hu giết anh cướp ngôi, không có tội hay sao, xin Chúa công nghĩ lại. Tống Thương công đã nhận lời với Ninh Dực, mới không nghe Khổng Phủ Gia, tức khắc cất quân đi đánh Trịnh. Công tử Huy nước Lỗ ăn lễ của nước Vệ, không theo ý Lỗ Ẩn công, cũng tự tiện cất quân sang hội với quân Vệ. Nước Trần và nước Sái cũng đúng hẹn kéo quân đến cả. Năm nước ăn thề với nhau, tôn Tống Thương công làm minh chủ, cho Thạch Hậu làm tiên phong, còn Chu Hu đi sau để tiếp ứng. Năm nước cùng kéo quân đến vây cửa đông môn nước Trịnh. Trịnh Trang công họp các quan lại để thương nghị. Các quan mỗi người bàn một cách, người thì nói nên đánh, người thì nói nên hòa, rối rít cả lên. Trịnh Trang công vừa cười vừa nói: — Ta nghe lời bàn các quan chưa được kế gì hay cả. Nay Chu Hu mới nổi loạn cướp ngôi, dân tình chưa ai thiếp phục, vậy nên nhân các thù oán cũ, mượn quân bốn nước sang đánh nước ta, để định ra oai khiến dân nước Vệ phải sợ mà thôi. Công tử Huy nước Lỗ tham lễ của nước Vệ, việc cất quân ấy cũng không theo ý Lỗ Ẩn công. Trần, Sái cùng với nước Trịnh không thù oán gì, tất là không có lòng muốn đánh. Chỉ có nước Tống thấy công tử Phùng ở nước Trịnh ta, đem lòng ghét giận thì mới thực bụng để giúp nước Vệ, nay ta đưa công tử Phùng ra ở đất Trường Cát thì Tống tất kéo quân ra đất; bấy giờ ta lại sai công tử Lã đem quân ra cửa đông môn đánh nhau với Vệ, rồi giả cách thua chạy, khiến cho Chu Hu được tiếng thắng trận, đắc chí mà kéo quân về, vì trong nước công việc chưa yên, chắc hẳn không dám ở lại. Ta nghe nói quan Đại phu nước Vệ tên gọi Thạch Thác là người trung thần, chẳng bao lâu nước Vệ tất có nội biến. Chu Hu giữ mình không nổi, còn hại ta thế nào được. Nói xong, liền sai quan Đại phu là Hà Thúc Doanh đem một đạo quân đưa công tử Phùng ra ở đất Trường Cát. Trịnh Trang công lại sai người sang nói với Tống Thương công rằng: — Công tử Phùng trốn sang nước tôi, nước tôi không nỡ giết, nay đã đem an trí ở đất Trường Cát, xin Chúa công tự xử lấy. Tống Thương công quả nhiên đem quân ra vây đất Trường Cát. Trần, Sái và Lỗ thấy Tống đem quân đi chỗ khác, cũng đều có ý muốn rút quân về, trông thấy công tử Lã đem quân ra cửa đông môn đánh nhau với quân nước Vệ mà cũng mặc kệ không ra tiếp ứng. Thạch Hậu đem quân ra đánh nhau với công tử Lã, mới được vài hợp, Công Tôn Hoạt giả cách thua chạy. Thạch Hậu thúc quân đuổi theo. Công tử Lã chạy vào trong thành, đóng chặt cửa lại. Thạch Hậu cho quân gặt hết các ruộng lúa ở ngoài cửa thành, rồi hạ lệnh rút quân về nước. Chu Hu hỏi Thạch Hậu rằng: — Quân ta chưa được đại thắng, cớ sao đã vội rút quân về? Thạch Hậu đuổi hết người xung quanh, rồi đem tình hình vì cớ gì mà nên rút quân về nói riêng với Chu Hu. Chu Hu bằng lòng lắm. T Hu: HỒI THỨ 6 Vệ Thạch Thác vì nghĩa giết con Trịnh Trang công giả mệnh đánh Tống hạch Hậu mới đánh được Trịnh có một trận, đã hạ lệnh rút quân về, các tướng không hiểu ý, đều vào tâu với Chu — Quân ta khí thế đang hăng hái, nên thừa thế tiến đánh, cớ sao lại vội rút quân trở về? Chu Hu cũng có ý nghi ngờ, mới gọi Thạch Hậu vào hỏi. Thạch Hậu xin đuổi hết người xung quanh, rồi nói nhỏ với Chu Hu rằng: — Quân Trịnh vốn là quân mạnh tợn, nay ta được một trận cũng đủ làm oai rồi. Chúa công mới lên nối ngôi, công việc trong nước chưa được yên ổn, nếu ở ngoài mãi thì sợ có nội biến. Chu Hu nói: — Nhà ngươi không nói thì ta chưa nghĩ đến. Được một lúc, Trần, Sái và Lỗ cùng đến chúc mừng về việc thắng trận và đều xin rút quân về nước. Thạch Hậu cậy công có ý tự đắc, cùng với Chu Hu thu quân trở về. Chu Hu nói: — Người trong nước còn có ý không phục thì biết làm thế nào? Thạch Hậu nói: — Phụ thân tôi là Thạch Thác, khi trước làm quan Thượng khanh, người trong nước ai cũng tin phục, nếu Chúa công đòi vào triều, để cùng coi quốc chính thì ngôi cao của Chúa công mới yên ổn được. Chu Hu liền sai người đem một đôi ngọc bích trắng, 500 hộc gạo trắng đến làm quà cho Thạch Thác, rồi mời Thạch Thác vào triều để bàn việc. Thạch Thác nói dối là ốm nặng, cố từ không chịu vào. Chu Hu lại hỏi Thạch Hậu rằng: — Phụ thân nhà ngươi đã không chịu vào triều, ta muốn đến tận nơi mà hỏi, phỏng có nên không? Thạch Hậu nói: — Chúa công đến thì vị tất phụ thân tôi đã chịu tiếp kiến, để tôi phụng mệnh Chúa công về hỏi xem ra làm sao? Nói xong, liền về nhà nói với Thạch Thác, kể những tình ý kính mến của Chu Hu. Thạch Thác nói: — Chúa công đòi ta, có ý muốn hỏi việc gì? Thạch Hậu nói: — Nay Chúa công mới lên ngôi, dân tình chưa được mến phục vậy muốn nhờ phụ thân chỉ bảo cho một kế. Thạch Thác nói: — Chư hầu lên ngôi, có bẩm mệnh vua nhà Chu mới là chính đáng. Nếu Chúa công vào triều vua nhà Chu, được vua nhà Chu phong cho thì người trong nước ai còn dám nói gì nữa. Thạch Hậu nói: — Câu nói ấy rất phải! Nhưng tự nhiên vào triều thi tất vua nhà Chu sinh lòng nghi, làm thế nào có một người nói trước với vua nhà Chu mới được. Thạch Thác nói: — Nay có Trần Hoàn công là người trung thành với vua nhà Chu, các lễ triều sinh, không bỏ thiếu bao giờ, vua nhà Chu có lòng yêu mến. Nước ta cùng với nước Trần vốn giao hiếu với nhau, mới rồi lại mượn quân sang đánh nước Trịnh thì tình nghĩa càng thân mật lắm. Nếu Chúa công sang qua nước Trần, nhờ Trần Hoàn công nói trước với vua nhà Chu, rồi sẽ vào triều thì khó gì mà chẳng nên việc. Thạch Hậu đem lời nói của Thạch Thác thuật lại cho Chu Hu nghe. Chu Hu mừng lắm, mới sắp sửa các đồ lễ vật cùng với quan Đại phu nước Trần là Tử Hàm bạn thân với nhau. Thạch Thác mới trích máu đầu ngón tay viếc một bức thư, sai người tâm phúc đưa cho Tử Hàm nhờ Tử Hàm đệ trình Trần Hoàn công. Bức thư như sau này: “Thạch Thác cúi đầu trăm lạy có mấy lời kính dâng Trần Hiền hầu: Nước Vệ tôi nhỏ mọn, không ngờ trời lại tra tai, sinh ra cái vạ giết vua, đó dẫu là cái tội Chu Hu, nhưng thật tại thằng con hư của tôi là Thạch Hậu, nó tham lợi mà đem lòng xui giục. Nếu mà hai kẻ loạn tặc kia không giết được thì thiên hạ tất lắm đứa bắt chước cái gương xấu ấy mà làm càn; tôi đây tuổi già mình yếu, không thể trừng trị nổi, thật đắc tội với Tiên công lắm. Bây giờ hai kẻ loạn tặc ấy dắt nhau sang quí quốc, là bởi cái mưu của tôi bày ra. Xin Chúa công bắt mà trị tội, để làm gương cho những kẻ thần tử mai sai, thật là một việc may cho cả thiên hạ, chẳng những may riêng cho nước tôi mà thôi”. Trần Hoàn công xem xong, hỏi Tử Hàm rằng: — Nhà ngươi nghĩ thế nào? Tử Hàm nói: — Đứa loạn tặc của nước Vệ, tức là đứa loạn tặc của nước Trần, bây giờ chúng nó dắt nhau sang nước ta là chúng nó tự đem thân đến chỗ chết, Chúa công chớ nên dung túng cho chúng nó. Trần Hoàn công khen phải, mới lập kế sẵn để bắt Chu Hu. Chu Hu cùng Thạch Hậu đến nước Trần, vẫn không biết cái mưu của Thạch Thác, hai người cứ ngang nhiên mà đi. Trần Hoàn công cho công tử Đà ra nghênh tiếp, mời vào nghỉ ở nơi công quán, rồi thay Trần Hoàn công hẹn với Chu Hu đến ngày hôm sau thì tiếp kiến ở nhà Thái Miếu. Chu Hu thấy Trần Hoàn công tiếp đãi tử tế có ý mừng lắm. Sáng hôm sau, Thạch Hậu đến cửa nhà Thái Miếu, trông thấy có cái biển trắng đề một câu rằng: “Kẻ nào làm tôi bất trung, làm con bất hiếu thì không được vào nhà miếu”. Thạch Hậu sợ lắm, hỏi Tử Hàm rằng: — Để cái biển này là có ý gì? Tử Hàm nói: — Đó là lời di huấn của Tiên công tôi ngày xưa, vậy nên Chúa công tôi không dám quên. Thạch Hậu mới không có ý nghi ngại. Được một lúc, Chu Hu đến. Thạch Hậu đưa Chu Hu vào miếu. Chu Hu đang khúm núm sắp sửa thi lễ, bỗng thấy Tử Hàm đứng ở bên cạnh Trần Hoàn công quát to lên rằng: — Ta phụng mệnh vua nhà Chu chỉ bắt hai đứa loạn tặc là Chu Hu và Thạch Hậu, còn đồ đảng thì tha tất cả. Nói chưa dứt lời thì có quân giáp sĩ phục ở hai bên đổ ra bắt Chu Hu. Thạch Hậu đang luống cuống chưa kịp rút gươm, cũng bị quân giáp sĩ trói lại. Tử Hàm đem bức thư của Thạch Thác tuyên đọc một lượt, mọi người chung quanh mới biết rõ là Chu Hu và Thạch Hậu bị bắt đều bởi mưu của Thạch Thác mượn tay nước Trần, ai cũng cho là phải lắm. Trần Hoàn công toan đem Chu Hu và Thạch Hậu ra chém. Các quan đều can rằng: — Thạch Hậu là con Thạch Thác, chưa biết ý Thạch Thác thế nào, chi bằng ta báo tin cho nước Vệ sang mà nghị tội thì sau không trách vào đâu được nữa. Trần Hoàn công nói: — Các quan nói phải đó! Nói xong, truyền đem Chu Hu và Thạch Hậu mỗi người giam cấm một nơi; Chu Hu thì giam ở Bộc Ấp, còn Thạch Hậu thì giam ở Trần Đô để khiến cho âm tín không được giao thông với nhau, rồi sai người đem thư sang báo tin cho Thạch Thác nước Vệ biết. Thạch Thác từ khi cáo quan về, không đi đến đâu cả, thấy Trần Hoàn công cho người đem thư đến, tức khắc vào triều họp cả các quan lại, rồi mở bức thư Trần Hoàn công ra xem, mới biết Chu Hu và Thạch Hậu đã bị bắt tại nước Trần rồi, chỉ đợi nước Vệ cho người sang để cộng đồng nghị tội. Các quan đều đồng thanh mà nói rằng: — Việc này là việc lớn của nước nhà, xin Lão quan ngài chủ trương cho mới được. Thạch Thác nói: — Hai đứa loạn tặc ấy không thể tha được, tất phải đem mà chính pháp, nào ai là người dám đương cái việc ấy. Quan Hữu tể tên là Xú đứng dậy nói. — Những kẻ loạn tặc, ai cũng có phép được giết, tôi dẫu hèn mạt, nghĩ cũng tức thay, vậy thì tôi xin đương việc giết Chu Hu. Các quan đều nói: — Việc ấy giao cho Hữu tể Xú được đấy! Nhưng thủ ác là Chu Hu đã chính pháp rồi, còn Thạch Hậu là kẻ tòng nghịch, cũng nên cho nhẹ tội một chút. Thạch Thác nổi giận nói: — Những tội ác của Chu Hu, đều bởi thằng Thạch Hậu nó xúi giục nên cả, nay các quan lại định cho nhẹ tội, chẳng hóa ra nghe ta có bụng tư với con hay sao! Âu là để lão thân hành đi mà tự tay chém thằng loạn tặc ấy, nếu không thì còn mặt mũi nào mà trông thấy nhà miếu của tiền nhân nữa. Gia thần là Nhu Dương Kiên nói: — Lão quan chớ nóng nẩy, tôi xin đi thay. Thạch Thác liền sai Hữu tể Xú sang Bộc Ấp để chém Chu Hu, còn Nhu Dương Kiên thì sang Trần Đô để chém Thạch Hậu, rồi sắp sửa xe giá đi đón công tử Tấn ở nước Hình về. Hữu tể Xú cùng với Nhu Dương Kiên sang đến nước Trần, vào yết kiến Trần Hoàn công tạ ơn đã trừ hộ đảng loạn, rồi Hữu tể Xú đến Bộc Ấp đem Chu Hu ra chém. Chu Hu trông thấy Hữu tể Xú, kêu to lên rằng: — Mày làm bề tôi ta, sao mày dám xâm phạm đến ta! Hữu tể Xú nói: — Nước Vệ ta ngày trước có người làm bề tôi mà dám giết vua, vậy nên ta lại bắt chước. Chu Hu nín lặng, cúi đầu chịu chết. Nhu Dương Kiên đến Trần Đô đem Thạch Hậu ra chém. Thạch Hậu nói: — Chết thì ta cũng đành phận, nhưng hãy giải ta về cho ta được trông thấy mặt phụ thân ta đã, rồi sẽ đem chém. Nhu Dương Kiên nói: — Ta phụng mệnh phụ thân nhà ngươi đến đây để chém nhà ngươi, nếu nhà ngươi muốn gặp mặt phụ thân thì ta sẽ đem đầu nhà ngươi về để phụ thân nhà ngươi được trông thấy. Nói xong, liền tuốt gươm ra chém Thạch Hậu. Công tử Tấn ở nước Hình về nước Vệ, đem việc giết Chu Hu vào cáo miếu Vệ Vũ công, lại phát tang để trở Vệ Hoàn công, rồi lên nối ngôi, tức là Vệ Tuyên công. Tôn Thạch Thác làm quốc lão, cho được nối đời coi giữ quốc chính. Từ bấy giờ nước Trần và nước Vệ hai nước thân mật với nhau. Trịnh Trang công thấy các nước đã rút quân về, toan sai người đi dò la tin tức công tử Phùng ở đất Trường Cát xem ra làm sao. Bỗng thấy công tử Phùng từ Trường Cát trốn về, vào yết kiến Trịnh Trang công. Trịnh Trang công hỏi: công tử Phùng kể chuyện đất Trường Cát đã bị quân nước Tống chiếm cứ mất rồi, vậy nên phải trốn chạy về đây, xin Chúa công che chở cho. Nói xong nức nở khóc hoài. Trịnh Trang công úy dụ một vài câu, rồi lại cấp lương cho ra ở nhà công quán. Một hôm Trịnh Trang công nghe tin Chu Hu bị giết, Vệ Tuyên công lên nối ngôi, liền họp các quan lại thương nghị rằng: — Việc Chu Hu đánh nước ta, không can dự đến Vệ Tuyên công, chỉ có nước Tống là khí trước đứng đầu việc sang đánh Trịnh, bây giờ ta muốn báo thù thì các quan tính thế nào? Sái Túc nói: — Ngày trước năm trước họp quân đánh Trịnh, bây giờ ta đánh Tống thì bốn nước kia tất nhiên sợ hãi, phải đem quân giúp Tống, chi bằng ta sai người đi giảng hòa với Trần, lại lấy lợi kết với nước Lỗ. Nếu Trần và Lỗ đã thân mật với ta thì nước Tống thế cô, không làm gì nổi. Trịnh Trang công nghe lời, liền sai người sang giảng hòa với nước Trần. Trần Hoàn công không cho. Công tử Đà can rằng: — Thân mật với lân quốc là một việc có ích cho nước, bây giờ Trịnh đến giảng hòa, sao ta lại không nhận. Trần Hoàn công nói: — Trịnh Trang công là người trí trá, không có thể tin được, này hãy xem như Tống và Vệ đều là nước lớn cả, sao không đến giảng hòa mà lại giảng hòa với nước ta trước, tất là có kế gì đây. Huống chi ngày trước ta theo Tống đánh Trịnh, bây giờ lại giảng hòa với Trịnh thì nước Tống tất giận. Được lòng Trịnh lại mất lòng Tống, có được ích gì! Nói xong liền chối từ, không tiếp sứ nước Trịnh. Trịnh Trang công giận lắm, nói: — Trần chỉ cậy thế có nước Tống và nước Vệ. nay nước Vệ vừa mới dẹp yên đảng loạn, giữ mình chưa xong, còn giúp ai được, để ta giảng hòa với nước Lỗ, rồi hợp quân Tề và Lỗ trước báo thù nước Tống, sau đánh nước Trần, đó thật là một cái thế rất dễ như người chẻ cây tre vậy. Sái Túc nói: — Không phải thế! Số là nước ta mạnh mà nước Trần yếu, nay ta xin giảng hòa, Trần tất có bụng nghi, vậy nên không theo, âu là ta cho quân cướp phá bờ cõi, rồi lại sai người nào khéo nói đem trả những đồ bắt được, để tỏ ra mình không nói dối, bấy giờ Trần tất phải giảng hòa. Khi ta đã giảng hòa với Trần thì ta sẽ bàn đến việc đánh Tống. Trịnh Trang công khen phải, rồi sai 5000 quân sang cướp phá bờ cõi nước Trần, bắt lấy các xe lương thực cả thẩy hơn 100 chiếc. Trần Hoàn công nghe tin, có ý sợ hãi, mới họp các quan lại thương nghị. Bỗng thấy quân báo có sứ nước Trịnh là Dĩnh Khảo Thúc đem trả các đồ bắt được khi trước và đưa một bức thư của Trịnh Trang công. Trần Hoàn công hỏi công tử Đà rằng: — Nay Trịnh lại cho sứ đến là ý làm sao? Công tử Đà nói: — Đó là cái bụng tốt của người ta, mình không nên cố ý từ chối mãi. Trần Hoàn công cho Dĩnh Khảo Thúc vào yết kiến. Dĩnh Khảo Thúc dâng bức thư của Trịnh Trang công. Trần Hoàn công mở ra xem. Trong thư đại lược nói rằng: “Ngộ sinh này có mấy lời kính dâng Trần Hiền hầu xét cho: Tôi cùng với Hiền hầu cùng làm bề tôi nhà Chu, đáng lẽ hai nước nên thân mật với nhau để giữ lấy cái bổn phận làm chư hầu. Mới rồi tôi cho người sang giảng hòa mà Hiền hầu không cho, bởi thế những quan quân ở ngoài bờ cõi nước tôi không biết, ngỡ là hai nước có hiềm khích gì, mới dám tự tiện xâm phạm vào bờ cõi của quí quốc. Tôi nghe tin ấy thật lấy làm áy náy, ngủ không được yên, nay đem các đồ bắt được, nộp lại đủ số và cho Dĩnh Khảo Thúc sang tạ tội. Từ rày trở đi tôi cùng với Hiền hầu kết nghĩa anh em, xin Hiền hầu bằng lòng cho”. Trần Hoàn công xem xong, biết nước Trịnh có bụng muốn giảng hòa thật, mới tiếp đãi Dĩnh Khảo Thúc một cách rất tử tế và cho công tử Đà sang đáp lại. Từ bấy giờ nước Trần và nước Trịnh cùng giảng hòa với nhau. Trịnh Trang công xem xong hỏi Sái Túc rằng: — Bây giờ Trần đã giảng hòa rồi, ta muốn đánh Tống thì thế nào? Sái Túc nói: — Tống là một nước lớn, vua nhà Chu cũng có ý trọng đãi, không nên đánh vội. Ngày trước Chúa công đã định vào triều vua nhà Chu, vì có nước Tề mời sang hội ở đất Thạch Môn, lại gặp Chu Hu đem quân đến đánh, thành ra nấn ná mãi cho đến bây giờ. Âu là ngày nay Chúa công vào triều nhà Chu, giả cách nói là phụng mệnh Thiên tử, hợp quân Tề, Lỗ để sang đánh Tống. Dùng quân có hợp lẽ phải thì tất được toàn thắng. Trịnh Trang công mừng lắm, nói: — Nhà ngươi mưu sự thật là vạn toàn! Nói xong, liền giao cho Thế tử Hốt coi giữ quốc chính, rồi cùng với Sái Túc vào triều vua Hoàn Vương nhà Chu. Chu công Hắc Kiên khuyên vua Hoàn Vương nhà Chu nên tiếp đãi nước Trịnh tử tế để làm gương cho các nước chư hầu. Vua Hoàn Vương vốn ghét Trịnh Trang công lại nhớ đến việc nước Trịnh sang ăn cướp lúa ngày trước, có ý tức giận, bảo Trịnh Trang công rằng: — Năm nay mùa màng nước Trịnh thế nào? Trịnh Trang công tâu rằng: — Nhờ hồng phúc Thiên tử, vậy nên không có những cái hại thủy, hạn. Vua Hoàn Vương nói: — May mà nước Trịnh được mùa thì lúa má của nhà Chu, Trẫm mới có thể giữ mà ăn được. Trịnh Trang công thấy vua Hoàn Vương nhà Chu có ý mỉa mai mình như vậy, mới nín lặng không nói gì được nữa, cáo từ lui ra. Vua Hoàn Vương lại sai người đem 10 xe lúa đưa cho Trịnh Trang công và bảo rằng: — Thiên tử ban cho nước Trịnh để phòng bị những năm mất mùa. Trịnh Trang công thấy vậy, hối hận vô cùng, bảo Sái Túc rằng: — Nhà ngươi khuyên ta vào triều vua nhà Chu, nay vua nhà Chu khinh bỉ như vậy, lại nói những câu oán hận, và giễu ta mà cho 10 xe lúa, ta muốn chối từ không nhận thì nên nói thế nào? Sái Túc nói: — Các nước chư hầu sở dĩ kính trọng nước Trịnh ta là vì nước Trịnh ta mấy đời nay kiêm chức khanh sĩ nhà Chu; vua nhà Chu cho gì, bất cứ nhiều ít, cũng gọi là ơn vua, nếu Chúa công chối từ mà không nhận thì rõ ràng là hiềm khích với vua nhà Chu. Trịnh đã mất lòng vua nhà Chu thì sao khiến cho các nước chư hầu kính trọng được. Trịnh Trang công đang cùng với Sái Túc thương nghị, bỗng có Chu công Hắc Kiên vào yết kiến Trịnh Trang công, tặng riêng cho Trịnh Trang công hai xe vóc lụa. Trịnh Trang công hỏi Sái Túc rằng: — Chu công Hắc Kiên đến yết kiến ta là có ý gì? Sái Túc nói: — Vua nhà Chu có hai con trai, con trưởng là Đà, con thứ là Khắc. Vua nhà Chu yêu con thứ, vẫn ủy thác cho Chu công Hắc Kiên, sau này tất muốn cướp ngôi con trưởng, vậy nên Chu công Hắc Kiên định kết thân với nước ta, để lấy nước ta làm ngoại viện. Chúa công nhận những đồ vóc lụa ấy rồi cũng dùng được việc. Trịnh Trang công nói: — Dùng được việc gì? Sái Túc nói: — Chúa công vào triều vua nhà Chu, các nước chư hầu ai cũng biết cả, nay Chúa công đem những vóc lụa ấy phủ lên 10 xe lúa của Thiên tử cho. Khi trở ra về, nói phao lên rằng vua Chu có ban cung tên cho Chúa công để đem quân sang đánh Tống, vì nước Tống lâu nay bỏ thiếu không vào triều cống Thiên tử. Mượn cái hiệu lệnh ấy mà lấy quân các nước chư hầu, nước nào không theo thì cho là trái mệnh. Ta làm như vậy, các nước chư hầu chắc phải tin theo, nước Tống dẫu lớn, địch lại thế nào nổi. Trịnh Trang công vỗ vào vai Sái Túc mà bảo rằng: — Nhà ngươi thật là một kẻ trí sĩ, việc gì ta cũng xin theo ý nhà ngươi mà làm. Trịnh Trang công ra khỏi địa phận nhà Chu, giả cách nói phụng mệnh Thiên tử sai sang đánh Tống, ai nghe cũng tưởng là chuyện thực. Tin đồn đến nước Tống, Tống Thương công sợ hãi,