🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đời Nhẹ Khôn Kham - Milan Kundera Ebooks Nhóm Zalo Đời nhẹ khôn kham Tiểu thuyết Milan Kundera bản Việt ngữ Trịnh Y Thư dịch từ ấn bản Anh ngữ The Unbearable Lightness of Being của Michael Henry Heim Bìa: Khánh Trường Kĩ thuật: Cao Xuân Huy Văn học xuất bản lần thứ nhất Hoa Kì 2002 Mục lục PHẦN MỘT: nặng và nhẹ PHẦN HAI: tâm hồn và thể xác PHẦN BA: những từ ngữ bị hiểu sai PHẦN BỐN: tâm hồn và thể xác PHẦN NĂM: nặng và nhẹ PHẦN SÁU: cuộc diễn hành vĩ đại PHẦN BẢY: nụ cười của karenin PHỤ LỤC: milan kundera đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết PHẦN MỘT nặng và nhẹ 1 Trở về vĩnh cửu là một ý niệm bí ẩn. Trong tay Nietzsche các triết gia khác thường bị nó làm điên đầu. Hãy nghĩ như sau: mọi việc tái diễn y như những gì chúng ta có lần trải qua và sự tái diễn đó chính nó tái diễn đến vô tận! Nhưng cái huyền thoại điên khùng này có bao hàm ý nghĩa gì đáng kể không? Nói cách tiêu cực, huyền thoại trở về vĩnh cửu phán rằng đời sống một khi hoàn toàn tan biến, không trở về, sẽ giống như cái bóng vô trọng lượng, chết trước khi nảy sinh, và cho dù nó kinh khiếp, đẹp đẽ, cao cả đến đâu chăng nữa sự kinh khiếp, đẹp đẽ, cao cả của nó không hề có ý nghĩa nào đáng kể. Chúng ta không cần ghi chép về nó cũng như chúng ta chẳng bao giờ lưu tâm đến cuộc chiến tranh giữa hai vương quốc Phi châu vào thế kỷ mười bốn, một cuộc chiến không hề ảnh hưởng đến vận mạng thế giới dù cả trăm ngàn người da đen bị chôn vùi dưới nỗi thống khổ tột cùng. Liệu cuộc chiến giữa hai vương quốc Phi châu vào thế kỷ mười bốn sẽ đổi khác nếu nó tái diễn hoài hoài, trong trở về vĩnh cửu? Có chứ: nó sẽ biến thành khối lượng đặc cứng, vĩnh viễn phình nở, và hư tính nó vô phương cứu chữa. Giả sử cuộc cách mạng Pháp tái diễn đến vô tận chắc các sử gia Pháp sẽ bớt kiêu hãnh về Robespierre. Nhưng vì chuyện gì xảy ra không trở về nên những năm tháng đẫm máu của cuộc cách mạng biến thành mớ chữ, lý thuyết, tranh luận. Nó nhẹ hơn lông chim, chẳng làm ai khiếp hãi. Có sự khác biệt vô hạn giữa Robespierre xuất hiện lần duy nhất trong lịch sử và Robespierre trở về vĩnh cửu, chặt đầu dân Pháp. Do đó, chúng ta hãy đồng ý rằng ý niệm trở về vĩnh cửu ám chỉ viễn ảnh trong đó sự vật hiện ra không giống những gì chúng ta ý thức về chúng: chúng hiện ra nhưng không cho thấy trạng huống hòa giải nơi bản chất phù du của chúng. Chính trạng huống hòa giảm này ngăn cản, không cho chúng ta đi đến phán quyết nào. Bởi làm sao chúng ta kết án được những gì xảy ra chỉ trong thoáng chốc phù du? Giữa bóng hoàng hôn của tan rã, mọi vật, kể cả chiếc máy chém, như bị ánh tinh quang của lòng hoài niệm chiếu chói lòa. Cách đây không lâu, có lần tôi bắt gặp trong tôi cảm giác vô cùng kỳ lạ. Trong lúc lướt đọc một cuốn sách nói về Hitler, đôi ba hình ảnh trong quyển sách khiến tôi chấn động. Chúng gợi tôi nhớ lại thời thơ ấu. Tôi lớn lên khi đang còn chiến tranh và gia đình tôi có mấy người bỏ mạng trong trại tập trung. Nhưng những cái chết này có ý nghĩa gì không nếu chúng ta đặt chúng bên cạnh hồi ức về thời kỳ hoàn toàn tan biến trong đời sống tôi, một thời kỳ không bao giờ trở lại? Sự hòa giải với Hitler này phát lộ sai lầm đạo đức vô cùng sâu xa của thế giới dựa trên căn bản không có sự trở về. Bởi trong thế giới này, chuyện gì cũng được tha thứ trước nên, cách đầy vô tâm, người ta sẵn sàng cho phép chúng xảy ra. 2 Nếu mỗi giây phút trong đời sống chúng ta tái diễn đến vô hạn chúng ta sẽ bị đóng đinh vào vĩnh cửu như Chúa Giê-su Ki tô bị đóng đinh lên thập giá. Quả là viễn ảnh kinh khiếp! Trong thế giới của sự trở về vĩnh viễn, đè lên mỗi động tác chúng ta là những trách nhiệm vô cùng nặng nề và đó là nguyên do tại sao Nietzsche gọi trở về vĩnh cửu là hệ lụy nặng nề nhất của hệ lụy (das schwerste Gewicht). Nếu trở về vĩnh cửu là hệ lụy nặng nề nhất của hệ lụy, đời sống chúng ta vẫn đứng vững với tất cả sự nhẹ nhàng xán lạn. Nhưng có thật nặng nề đáng bị vứt bỏ còn nhẹ nhàng thì xán lạn? Hệ lụy nặng nề nhất của hệ lụy nghiền nát chúng ta. Chúng ta chìm xuống tận đáy, nó đè bẹp chúng ta xuống đất. Nhưng trong thi ca tình ái mỗi thời đại, lúc nào người đàn bà cũng mong đợi được thân hình người đàn ông đè xuống. Do đó, hệ lụy nặng nề nhất cùng lúc lại là hình ảnh thỏa mãn đầy đủ nhất. Hệ lụy càng nặng nề, đời sống càng gần mặt đất bao nhiêu, chúng ta càng sống thật, càng thấy gần gũi chân lý bấy nhiêu. Ngược lại, sự vắng mặt tuyệt đối của hệ lụy khiến con người nhẹ hơn không khí. Hắn bay bổng lên cao, tách lìa khỏi mặt đất và xa rời trạng thái hiện hữu trần tục của hắn. Hắn chỉ có thật một nửa, mọi động tác hắn không bị gò bó nữa và chúng trở nên vô nghĩa. Như thế, chúng ta nên chọn phía nào? Nặng hay nhẹ? Chính câu hỏi này đã được Parmenides đặt ra từ thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Theo ông nhận xét, vũ trụ được chia thành những cặp đối dịch: nặng/nhẹ, đẹp-đẽ/thô-tạp, nóng/lạnh, hiện-hữu/phi-hiện-hữu. Ông gọi một bên là dương tính (nhẹ, đẹp-đẽ, nóng, hiện-hữu) và bên kia là âm tính. Có thể chúng ta cảm thấy sự phân chia thành hai cực âm dương này của Parmenides đơn giản cách trẻ con, nhưng chúng ta đụng ngay phải nghi vấn khá gay go: dương thuộc căn tính nặng hay căn tính nhẹ? Câu trả lời của Parmenides: nhẹ thuộc dương và nặng thuộc âm. Parmenides đúng hay sai vẫn còn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chúng ta chỉ biết chắc một điều: sự đối kháng giữa nặng và nhẹ là cái gì bí ẩn, mờ mịt nhất của sự vật. 3 Hình ảnh Tomas lởn vởn trong đầu óc tôi từ nhiều năm nay, nhưng chỉ những lúc được soi sáng bởi dòng suy ngẫm hồi tưởng này tôi mới nhìn thấy anh thật rõ ràng. Tôi thấy anh đứng bên khung cửa sổ, phóng tia mắt nhìn vào bức tường đối diện, bên kia khoảng sân rộng trước nhà, lòng rối bời không biết phải làm gì. Anh gặp Tereza lần đầu tiên lại một tỉnh lị nhỏ miền quê nước Tiệp. Gặp nhau chưa đầy tiếng đồng hồ, cô gái đưa anh ra bến xe, đứng đợi bên cạnh anh cho đến lúc anh bước chân lên toa tầu. Mười ngày sau, cô tìm đến nhà anh. Họ làm tình ngay hôm cô đến. Đêm đó cô lên cơn sốt và nằm rũ liệt trên giường ngủ anh suốt tuần với cơn cảm cúm tai ác. Bỗng nhiên anh thấy yêu say đắm người con gái hoàn toàn xa lạ này, một tình yêu anh không sao cắt nghĩa nổi. Với anh, cô gái như đứa bé ai đó đặt trong chiếc thúng cói trét nhựa thông rồi thả trôi theo dòng nước trôi giạt đến chân anh và anh vớt chiếc thúng lên ngay tại chân giường bên dòng nước. Cô ở nhà anh hết tuần lễ, chờ khỏe hẳn mới trở về tỉnh lị nơi cô cư ngụ cách Praha chừng một trăm hai mươi lăm dặm. Đây là lúc tôi vừa nhắc đến và xem đó là thời điểm định đoạt số mệnh đời Tomas: đứng bên cửa sổ, nhìn qua khoảng sân rộng trước nhà, mắt đập vào bức tường đối diện, anh đắn đo suy tính. Anh có nên ngỏ ý gọi cô gái về sống hẳn với anh không? Anh sợ trách nhiệm. Nếu anh ngỏ lời chắc cô sẽ không từ chối. Cô sẽ hiến dâng cuộc đời cô cho anh. Hay anh nên kiềm chế lòng mình, đừng nên tiến gần thêm nữa? Để cô gái tiếp tục sinh sống bằng nghề hầu bàn tại tiệm ăn khách sạn nơi cái tỉnh lị nhỏ bé đó của cô và anh sẽ không bao giờ thấy mặt cô nữa. Anh muốn hay không muốn cô gái về đây? Qua khoảng sân rộng trước nhà, mắt đập vào bức tường đối diện, anh tìm kiếm câu trả lời. Đầu óc anh cứ bị hình ảnh cô gái nằm trên giường ám ảnh. Trông cô không giống bất cứ người con gái nào anh gặp trước đó. Cô không phải là tình nhân cũng không phải là vợ anh. Cô là g p g g p ợ đứa bé anh vớt lên trong chiếc thúng cói trôi giạt và táp vào chân giường anh. Cô chìm vào giấc ngủ. Anh quỳ xuống bên cạnh cô. Hơi thở cô nồng ấm vì cơn sốt mỗi lúc mỗi nặng. Từ miệng cô thoát ra tiếng rên nho nhỏ. Anh áp mình lên mặt cô gái rồi khe khẽ vỗ về, dỗ cô đi vào giấc ngủ. Một lúc sau, anh thấy hơi thở cô điều hòa trở lại và khuôn mặt cô bỗng mơ hồ rướn lên, như được vô thức sai khiến, chạm vào mặt anh. Anh ngửi thấy hơi hướm nồng nàn của cơn sốt và anh hít mạnh làn hơi nóng đó vào buồng phổi như đang tận hưởng những gì thầm kín nhất từ thân thể cô gái. Bỗng nhiên, trí óc anh bỗng nặn ra ý tưởng anh đã chung sống với cô nhiều năm trời và giờ đây cô đang bị lưỡi hái tử thần đến dẫn đi. Anh chợt thấy rõ anh không sao sống nổi nếu bỗng mất cô trong cuộc đời. Anh muốn nằm xuống cùng chết với cô. Anh vùi đầu vào gối bên cạnh và giữ yên như thế trong một lúc rất lâu. Giờ đây, đứng bên cạnh cửa sổ, anh hồi tưởng lại giây phút đó. Cái gì đã xảy ra nếu đó không phải là tình yêu dõng dạc lên tiếng trong anh? Nhưng đó có thật là tình yêu không? Cảm giác muốn chết bên cạnh cô gái rõ ràng được cường điệu: trước đó anh gặp cô lần duy nhất! Hay đây chỉ là cơn điên loạn của người đàn ông biết rõ tâm trạng không thể yêu được của mình nhưng lại bị nhu cầu muốn ngụy tạo nó thôi thúc? Vô thức anh hèn nhát đến độ nó chọn cô gái đáng thương ở cái tỉnh lị nhỏ bé đó cho vai trò chung đóng trong vở hài kịch cỏn con, một cô gái anh không bao giờ có thể tượng tưởng có ngày bước vào cuộc đời anh! Phóng tầm mắt qua khoảng sân rộng, nhìn vào bức tường dơ bẩn trước mặt, anh không phân biệt được đây là tình yêu hay chỉ là cơn điên loạn. Anh phiền não hết sức về cảnh huống một người đàn ông cứng cỏi khác sẽ biết ngay cách hành động đối phó như thế nào. Anh do dự mãi và vì thế để mất đi những giây phút tuyệt đẹp nhất từng có trong đời (quỳ bên cạnh giường, tưởng tượng cùng chết với cô gái). g Anh bực dọc với chính anh cho đến lúc chợt nhận ra, với anh, không biết muốn gì là chuyện tự nhiên thôi. Chúng ta không bao giờ biết chúng ta muốn gì, bởi đời sống chỉ có một lần và chúng ta không thể so sánh nó với những kiếp trước hay hoàn thiện cho những kiếp sau. Chắc gì có Tereza sẽ làm đời sống anh tươi đẹp hơn so với cuộc sống độc thân như vầy? Thử xem quyết định nào tốt đẹp hơn chẳng mang lại ý nghĩa gì, bởi chúng ta hoàn toàn không có một căn bản nào cho sự so sánh. Mọi thứ chợt đến chợt đi trong đời sống, không hề có dấu hiệu báo trước, như người diễn viên diễn xuất một mình. Và đời sống có đáng giá gì không nếu buổi tập diễn đầu tiên cho đời sống lại chính là đời sống? Đó là lý do vì sao đời sống bao giờ cũng chỉ là bức phác họa. Không, “phác họa” cũng không đúng, bởi phác họa còn cho thấy đại cương sự vật, cho thấy nền tảng của bức tranh, trong khi phác họa đời sống hoàn toàn trống trơn, nó là một đại cương vô hình tượng. Einmal ist keinmal, Tomas nhủ thầm. Câu phương ngôn Đức nói cái gì xảy ra chỉ một lần tốt hơn đừng bao giờ xảy ra. Chúng ta sống chỉ một lần, tốt hơn đừng bao giờ sống. 4 Nhưng rồi một hôm tại bệnh viện, trong giờ nghỉ giữa những ca mổ, Tomas được người y tá gọi cho biết có điện thoại. Giọng Tereza phát ra từ ống nghe. Cô gọi anh từ trạm ga thành phố. Anh sung sướng đến tột độ. Chẳng may tối đó anh bận việc và anh phải hẹn cô đến nhà ngày hôm sau. Lúc gác máy điện thoại, anh tự trách mình đã không bảo cô gái đến nhà ngay bữa nay. Anh vẫn có dư thì giờ hoãn lại buổi hẹn tối nay mà! Anh cố tưởng tượng những gì Tereza làm ở Praha suốt ba mươi sáu tiếng đồng hồ đằng đẵng trước khi đến gặp anh. Anh đã định nhảy lên xe chạy khắp phố phường tìm kiếm cô gái. Tối hôm sau, cô xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà Tomas, xắc tay đeo lủng lẳng trên vai, trông cô tươi trẻ, thanh nhã hơn lần trước. Cô ôm trong tay quyển sách dày cộm, quyển Anna Karenina. Cô có vẻ tươi vui, cười nói huyên thuyên và ra điều cho anh biết cô chỉ tạt ngang đây thôi. Cô lên Praha có việc (tới đây cô trở nên lờ mờ khó hiểu), hình như cô lên để đi tìm việc làm. Sau đó, khi hai người trần truồng nằm cạnh nhau trên giường, anh hỏi cô ngủ đêm ở đâu để anh đưa cô về vì lúc đó đã gần nửa đêm. Cô có vẻ ngượng ngùng, trả lời chưa tìm ra khách sạn và chiếc va li lớn cô còn gửi ở trạm ga. Mới hai hôm trước đây, Tomas còn e sợ nếu anh ngỏ ý mời gọi cô gái lên Praha cô sẽ hiến dâng cuộc đời cô cho anh. Khi cô bảo anh chiếc va li cô còn để ở trạm ga, anh biết chiếc va li đó chứa đựng cả cuộc đời cô gái và cô gởi nó ở trạm ga cho đến khi cô hiến dâng xong cuộc đời cô cho anh. Hai người lái xe đến trạm ga. Tomas vào trình giấy tờ lấy chiếc va li, (nó to lớn dềnh dàng và nặng chình chịch) rồi anh lại lái xe đưa cô gái cùng chiếc va li về nhà. Làm cách nào anh có ngay quyết định đột ngột chóng vánh như thế khi mới hai đêm trước anh còn phân vân không biết có nên gửi tấm bưu thiếp hỏi thăm sức khỏe cô gái? Chính anh cũng phải ngạc nhiên về điều đó. Anh tự phá vỡ những nguyên tắc do chính anh đặt ra. Mười năm trước, sau khi li dị, anh đã ăn mừng như người ta ăn mừng ngày cưới. Anh hiểu ra anh không thể chung sống với bất cứ người đàn bà nào và chỉ trong đời sống độc thân anh mới là người toàn diện. Anh cố xếp đặt đời sống để không bao giờ có cảnh một người đàn bà bước chân qua ngưỡng cửa nhà anh với chiếc va li trên tay. Đó là lý do vì sao anh sắm một cái giường ngủ độc nhất trong nhà. Mặc dù cái giường khá rộng, Tomas vẫn nói rõ để những cô nhân tình của anh biết anh không ngủ chung được với ai. Thường anh lái xe đưa họ về sau khi ân ái. Và vì thế, hôm đầu tiên lên Praha, không phải vì Tereza lên cơn sốt mà anh không ngủ chung với cô. Đêm đầu anh ngủ trong chiếc ghế bành rộng, những đêm sau anh lái xe đến bệnh viện ngủ trên chiếc ghế bố nhỏ trong văn phòng làm việc. Nhưng lần này, bên cạnh Tereza, anh ngủ thiếp đi. Sáng hôm nay, khi thức giấc, anh thấy cô gái còn đang say ngủ, hai tay cô ôm chặt tay anh. Hai người tay trong tay ngủ như thế suốt đêm ư? Thật là điều khó tin! Và trong khi cô gái còn nhắm nghiền hai mắt say sưa ngủ, hai tay ôm chặt tay anh (chặt lắm, anh không sao gỡ ra được) chiếc va li to lớn dềnh dàng lặng lẽ đứng bên cạnh giường. Anh không dám gỡ tay cô gái vì sợ đánh thức cô. Anh khẽ nghiêng mình kỹ lưỡng quan sát. Một lần nữa đến với anh ý tưởng Tereza là đứa bé trong chiếc thúng cói trét nhựa thông bị thả trôi sông và giạt đến chân anh. Anh không thể để chiếc thúng với đứa bé trôi tuột về cuối dòng sông đầy sóng gió kia được! Nếu người con gái của Pharaoh không vớt chiếc thúng đựng cậu bé Môi-se lên từ dưới dòng nước thì làm gì có Cựu Ước, làm gì có nền văn minh chúng ta đang có ngày nay! Biết bao huyền thoại cổ xưa bắt đầu bằng chuyện đứa bé bị bỏ rơi được cứu vớt! Nếu Polybus không vớt lên cậu bé Oedipus, Sophocles đã không thể nào hoàn tất vở bi kịch tráng lệ nhất của ông! Lúc đó Tomas không nhận ra ẩn dụ thường rất nguy hiểm. Ẩn dụ không phải là thứ gì chúng ta có thể bỡn cợt, xem thường. Chỉ cần một ẩn dụ thôi đã đủ cho một tình yêu ra đời. 5 Anh sống vỏn vẹn hai năm trời với người vợ cũ, và hai người có đứa con trai. Sau khi li dị, đứa bé ở với mẹ, tiền cấp dưỡng hàng tháng anh chu cấp bằng một phần ba tiền lương của anh. Anh cũng được quyền đến thăm con hai tuần một lần. Nhưng lần nào cũng thế, đến kì Tomas lại thăm mẹ con nó lại nại ra một lý do nào đó đem con ra khỏi nhà. Dần dà, anh khám phá hễ anh đem đến cho đứa bé những món quà đắt tiền, mọi việc trở nên êm thắm, xuôi xẻ. Có nghĩa anh phải hối lộ bà mẹ để có tình thương đứa con. Anh nhìn ra tương lai những cố gắng vô vọng dạy dỗ đứa bé theo quen niệm của anh, những quan niệm hoàn toàn trái ngược với mẹ nó. Nghĩ đến chừng đó, Tomas đã thấy mệt mỏi, chán nản vô cùng. Một lần, vào Chủ nhật, mẹ đứa bé lại tìm cớ không cho Tomas đến thăm. Ngay lúc đó, anh dứt vạt quyết định sẽ không bao giờ nhìn mặt đứa bé nữa. Tại sao anh phải quan tâm đến đứa bé hơn tất cả những thứ khác trong đời anh? Ràng buộc giữa anh và nó có gì đâu ngoài một buổi tối bất cần? Anh cũng đắn đo trong việc gửi tiền cấp dưỡng hàng tháng. Anh ghét thậm tệ những ai nhân danh tình phụ tử bắt anh phải chiến đấu giữ con. Chẳng cần nói nhiều, không ai đứng về phía anh để bênh vực những quan niệm này. Chính ba mẹ ruột anh còn gay gắt lên án anh là sai lầm và vô trách nhiệm. Họ nói, nếu Tomas không màng gì đến con cái anh họ cũng sẽ làm y như vậy, nghĩa là họ cũng sẽ không màng gì đến anh nữa. Họ giữ liên hệ gắn bó với người con dâu cũ và thổi phồng vai trò gương mẫu cùng sự công bằng trong cung cách đối xử của họ. Thế là chỉ sau thời gian ngắn ngủi Tomas thoát khỏi mọi ràng buộc vợ, con, cha, mẹ. Điều duy nhất họ để lại anh là nỗi sợ hãi đàn bà. Tomas ham muốn đàn bà nhưng anh sợ hãi họ. Để dung hợp sự sợ hãi và lòng ham muốn, anh tự tạo cho mình thứ liên hệ với đàn bà anh gọi là “tình bạn xác thịt”. Anh bảo các cô nhân tình của anh: “Liên hệ duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đến cho hai chúng ta là liên hệ trong đó tình cảm không có chỗ đứng và không ai có quyền xen lấn vào đời sống cũng như sự tự do của người kia.” Để chắc chắn “tình bạn xác thịt” này không bao giờ biến thành tình yêu sôi nổi, anh đi lại với mỗi cô nhân tình dài hạn trong thời gian rất ngắn ngủi. Theo anh, phương pháp này hiệu g g g g p g p p y ệ nghiệm lắm và anh còn truyền tụng nó trong giới bạn bè thân hữu: “Điều quan trọng là bản phải biết dựa vào luật tam-tam. Hoặc bạn đi chơi với người đàn bà ba lần liên tiếp rồi chấm dứt luôn, hoặc bạn có thể giữ liên hệ trong thời gian dài nhưng phải tách những lần hẹn hò gặp gỡ ra cách nhau ít nhất ba tuần.” Luật tam-tam khiến Tomas có thể vừa duy trì liên hệ với đôi ba cô nhân tình cùng lúc mà vẫn xé lẻ đi lại với nhiều cô khác. Không phải ai cũng hiểu anh. Người hiểu anh rõ nhất là Sabina. Cô là họa sĩ. Cô thường bảo anh: “Lý do tôi thích anh vì con người anh trái ngược với kitsch[1], với cái gì tầm thường, thấp kém. Trong thế giới của kitsch, anh là con quái vật.” Chính Sabina là người Tomas nhờ cậy đến khi anh cần tìm việc làm cho Tereza ở Praha. Tuân theo quy ước bất thành của “tình bạn xác thịt”, Sabina hứa sẽ cố gắng giúp đỡ và chẳng bao lâu cô tìm được cho Tereza việc làm trong phòng tối một tờ báo tuần. Mặc dù công việc mới này chẳng đòi hỏi khả năng chuyên môn đặc biệt gì, Tereza đang từ hầu bàn bỗng nghiễm nhiên nhảy lên thành nhân vật trong báo giới. Khi Sabina dẫn Tereza đến giới thiệu với mọi người trong tòa báo, Tomas biết anh sẽ không bao giờ tìm được người vừa là tình nhân vừa là bạn tốt như Sabina. 6 Khế ước bất thành văn của “tình bạn xác thịt” quy định Tomas phải gạt bỏ tình yêu ra khỏi đời sống. Ngay lúc anh vi phạm quy định này của bản khế ước, các cô nhân tình khác của anh trở nên thấp hèn và họ sẵn sàng nổi loạn. Theo luật, anh thuê phòng riêng cho Tereza sinh sống cùng chiếc va li nặng chịch. Anh muốn cùng lúc có thể chăm sóc, bảo vệ, yêu thích sự có mặt của Tereza, nhưng vẫn không cần thiết phải thay đổi nếp sống hiện tại của mình. Anh không muốn tin Tereza ngủ tại nhà anh lọt ra ngoài: ngủ với nhau trọn đêm là tội chứng của tình yêu! Ở Anh không bao giờ ngủ đêm với đàn bà. Ở nhà tình nhân, anh chỉ việc lái xe về khi thấy chán. Chỉ khi nào anh phải đưa cô gái về anh mới gặp khó khăn đôi chút. Anh phải giải thích cho cô biết đã nửa đêm rồi và anh phải đưa cô về vì anh bị bệnh mất ngủ, vì anh không thể ngủ yên giấc nếu có người nằm bên cạnh. Điều này mặc dù không xa sự thật bao nhiêu, nhưng anh không bao giờ dám nói ra một sự thật khác lớn hơn: sau khi làm tình, anh thèm được một mình, anh thấy chán ngấy khi thức dậy nửa đêm có người nằm bên cạnh, anh thấy gớm ghiếc khi sáng ra có người lạ trong nhà, anh không thích có ai nghe tiếng anh đánh răng, súc miệng trong phòng tắm, anh cũng chẳng thấy thú vị gì một bữa ăn sáng ấm cúng hai người ngồi cùng bàn. Đó là lý do tại sao anh ngạc nhiên đến tột độ khi thức dậy buổi sáng hôm đó thấy Tereza đang ôm chặt tay anh ngủ. Nằm ngắm nhìn cô gái, anh không thể nào hiểu nổi chuyện gì đã xảy đến cho anh. Nhưng sau khi ôn lại diễn biến chuyện xảy ra mấy giờ đồng hồ trước đó, anh bắt đầu cảm nhận nỗi sung sướng tràn ngập đang dâng lên trong lòng anh, nỗi sung sướng anh chưa từng một lần trong đời bắt gặp. Kể từ giây phút đó, hai người chỉ mong chóng xong việc để về nhà ngủ với nhau. Tôi dám quả quyết, với hai người, làm tình không sung sướng bằng được ngủ chung với nhau sau đó. Cô gái bị ảnh hưởng thấy rõ. Hôm nào phải ngủ một mình nơi căn phòng thuê, cô đều bị mất ngủ. Còn những hôm nằm trong tay Tomas dù trước đó có chuyện lo lắng, khuấy động trong lòng mấy chăng nữa, cô vẫn dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Thường Tomas ghé sát miệng nói thầm vào tai cô những câu chuyện thần tiên theo ngẫu hứng anh đặt ra về cô, hay anh chu miệng phát ra những tiếng líu lo đều đặn nghe êm dịu và buồn cười. Cứ thế cô bị du vào giấc ngủ đầu tiên của đêm tối với những hình ảnh mơ hồ, bàng bạc tan biến dần. Tomas hoàn toàn chế ngự, kiểm soát giấc ngủ cô, anh muốn cô đi vào giấc ngủ lúc nào cô nhắm mắt ngủ liền lúc đó. Trong lúc ngủ, hai tay cô ôm chặt anh như hôm đầu tiên hai người ngủ chung giường. Cô ôm chặt cổ tay, ngón tay hay cổ g g g g g ặ y g y y chân anh. Nếu muốn gỡ ra mà vẫn không làm cô thức giấc, anh phải khéo léo lùa vào tay cô món vật gì đó. Cô đề phòng cẩn thận lắm, ngay khi đang ngủ say, không cho anh gạt gẫm mình như vậy. Nhưng nếu anh qua mặt được cô vẫn khư khư ôm chặt món vật anh lùa vào tay cô như thể đó cũng là một phần thân thể anh vậy. Có lần, sau khi Tomas dỗ cô vào giấc ngủ nhưng cô chưa thật sự ngủ say và miệng vẫn còn mấp máy nói chuyện với anh, anh hỏi: “Anh phải đi đây.” “Anh đi đâu?” Cô hỏi trong lúc hai mắt vẫn mơ màng khép kín. “Đi ra khỏi nơi đây.” Anh trả lời giọng cứng cỏi. “Em đi theo anh.” Cô ngồi bật dậy. “Không, không được đâu. Anh đi luôn khỏi nơi đây.” Vừa nói anh vừa bước ra khỏi cửa. Cô đứng dậy theo anh, hai mắt nheo lại vì còn mơ ngủ. Trên người cô không mặc gì ngoài chiếc áo ngủ ngắn. Nét mặt cô trống trơn, không để lộ cảm xúc nhưng bước chân lại rất mạnh bạo. Tomas bước dọc theo hành lang ra đến gian đại sảnh giữa khu nhà phố rồi anh đóng cửa bỏ mặc cô tất tả đằng sau. Cô đẩy tung cánh cửa tiếp tục bước theo anh, đầu óc còn mơ ngủ của cô cả quyết anh đang bỏ cô đi thật và bằng mọi giá cô phải chận anh lại. Anh bước xuống cầu thang, ra ngoài đường đứng đợi. Cô xuống theo, nắm tay anh rồi lôi tuột anh về phòng. Tomas đi đến kết luận: làm tình với đàn bà và ngủ với đàn bà là hai đam mê hoàn toàn khác biệt, không phải chỉ khác biệt thôi mà còn trái ngược nhau nữa. Tình yêu không phải là lòng ham muốn được làm tình (lòng ham muốn dẫn đến nhiều đàn bà) mà là nỗi đam mê được ngủ chung (lòng ham muốn thu hẹp lại còn một người đàn bà). 7 Nửa đêm Tereza bỗng kêu ú ớ trong giấc mơ. Tomas lay cô dậy, nhưng khi nhận ra khuôn mặt anh, cô hét lên: “Đi ra chỗ khác ngay! Đi ra chỗ khác ngay!” đoạn cô kể anh nghe về giấc mơ: Tomas, cô và Sabina trong một gian phòng lớn. Giữa phòng có cái giường rộng. Trông nó từa tựa như sân khấu nhà hát. Tomas ra lệnh cô đứng ở góc phòng trong lúc anh làm tình với Sabina. Nhìn cảnh tượng đó cô đau đớn khôn tả. Cô mong cơn đau thể xác làm giảm nỗi đau trong trái tim, cô đâm mạnh mũi kim nhọn vào kẽ ngón tay. “Em đau quá!” Cô rên lên, tay nắm lại như thể máu từ ngón tay đang thật sự rỉ ra. Tomas ôm chặt cô vào lòng, cô trở lại giấc ngủ trong vòng tay anh (sau khi run bần bật một lúc rất lâu). Hôm sau, nghĩ ngợi về giấc mơ của Tereza, anh chợt nhớ ra một chuyện. Anh mở ngăn kéo bàn giấy và lôi ra xấp thư từ Sabina viết cho anh. Tìm kiếm không lâu, anh thấy ngay đoạn Sabina viết trong một lá thư như sau: “Em muốn làm tình với anh ngay tại phòng vẽ của em. Giường hai ta nằm trông như bục sân khấu có người ngồi chung quanh. Khán giả không được lại gần nhưng họ không thể dời mắt…” Tai hại nhất lá thư đề ngày tháng hẳn hoi. Sabina viết lá thư gần đây thôi, sau khi Tereza dọn vào chung sống với anh thời gian khá lâu. “Em lục lọi thư từ của anh?” Cô không chối cãi: “Ừ, anh cứ việc tống em ra khỏi nhà.” Nhưng Tomas không đuổi cô ra khỏi nhà. Anh hình dung cảnh tượng cô đứng nép mình vào góc tường phòng vẽ Sabina, đâm mạnh mũi kim vào kẽ móng tay. Anh cầm tay cô rồi xoa nhè nhẹ lên những ngón tay, anh đưa lên môi hôn như thể những ngón tay còn đầm đìa máu đỏ. Nhưng từ hôm đó, dường như mọi thứ đồng loạt cùng nhau âm mưu hãm hại anh. Không ngày nào Tereza không khám phá đôi điều mới mẻ về cuộc sống bí mật của anh. Thoạt đầu, anh chối phăng nhưng bằng chứng cứ chường ra trắng trợn khiến anh phải biện minh rằng nếp sống lăng nhăng nhiều nhân tình của anh không hề cản trở tình yêu anh dành cho cô. Anh có vẻ không nhất quán chút nào: lúc đầu anh chối cãi lòng dạ thiếu chung thủy của mình nhưng về sau anh lại biện minh cho sự thiếu chung thủy đó. ệ ự g y Có lần đang nói lời từ biệt trên điện thoại sau khi hò hẹn một cô nhân tình anh bỗng nghe từ phòng bên có tiếng động như đánh răng vào nhau kêu lốp cốp. Thì ra Tereza đã về tự hồi nào anh không biết. Cô đang nốc một chai thuốc và cơn ghen khiến người cô run lên đến nỗi chai thuốc va vào răng phát những tiếng kêu lách cách. Anh chụp người cô như chụp người chết đuối. Chai thuốc rơi lăn lóc xuống nền nhà làm tấm thảm vương vãi những giọt thuốc trắng hồng. Cô tức giận cãi cọ với anh một trận thật to và anh phải vòng tay ôm chặt cô đến mười lăm phút cô mới dịu xuống. Anh biết anh vô lý hết sức vì không chính đáng và công bằng với cô. Một buổi tối, trước khi Tereza khám phá ra những lá thư của Sabina, hai người rủ nhau ra quán rượu cùng vài người bạn để ăn mừng công việc mới của cô. Cô được cất nhắc lên làm phóng viên nhiếp ảnh. Tomas khiêu vũ không mấy giỏi nên một trong những người bạn của anh dìu Tereza ra sàn nhảy. Hai người khiêu vũ thật đẹp và Tomas chợt thấy cô diễm lệ hơn bao giờ. Anh trố mắt nhìn cô nhảy những bước nhảy đẹp với người bạn anh. Anh có cảm tưởng cô đang gửi tín hiệu cho anh hay rằng lòng yêu thương cô dành cho anh, tình yêu nồng nhiệt vuốt ve thỏa mãn cái sở hiếu ích kỷ của anh, không hẳn chỉ ràng buộc vào cá nhân anh thôi. Anh có cảm tưởng nếu không gặp anh, cô vẫn có thể yêu thương bất kỳ người đàn ông nào khác. Anh thấy không khó khăn tưởng tượng Tereza và người bạn trẻ của anh là cặp tình nhân đang yêu nhau say đắm. Tưởng tượng dễ dàng câu chuyện hư cấu đó làm anh nhói lên đau đớn. Anh thấy thân hình Tereza có thể hòa nhập vẹn toàn với bất cứ thân hình người đàn ông nào. Ý tưởng này làm anh buồn rầu vô cùng. Khuya đêm hôm đó, khi về nhà, anh thú nhận anh có ghen tức khi thấy cô khiêu vũ với người bạn anh. Sự ghen tuông phi lý này hoàn toàn không đứng vững vì câu chuyện chỉ là giả thiết. Nhưng nó làm sáng tỏ một điều, Tomas xem lòng dạ chung thủy của cô là định đề vô điều kiện cho liên hệ giữa hai người. Nhưng tại sao anh lại cằn nhằn, bực dọc vì cô ghen tuông với những cô nhân tình bằng xương, bằng thịt của anh? 8 Ban ngày cô cố gắng (mặc dù không toại nguyện lắm) tin vào những điều Tomas nói. Nhưng cơn ghen bị dồn nén ban ngày nổ tung dữ dội trong những giấc mơ, và lần nào cũng thế Tomas phải đánh thức cô dậy những giấc mơ kinh hoàng đó mới hết. Những giấc mơ tái diễn như những chủ đề và biến khúc hay những chương trình đài truyền hình hàng tuần. Tỉ dụ, cô mơ đi mơ lại giấc mơ thấy mèo nhảy lên cào cấu mặt mũi mình. Chúng ta chẳng cần nhìn đâu xa để diễn giải giấc mơ này: trong ngôn ngữ Tiệp tiếng lóng con mèo ám chỉ người đàn bà đẹp. Tereza cảm thấy bị đàn bà đe dọa, tất cả đàn bà. Bất kì đàn bà nào cũng có thể trở thành tình nhân của Tomas và tất cả bọn họ làm cô sợ hãi. Trong một loạt những giấc mơ khác, cô thấy cô bị dẫn đến nơi chịu chết. Có lần, khi Tomas lay cô dậy vì tiếng hét cô quá kinh khiếp, cô kể anh nghe về giấc mơ: “Em thấy em đứng cạnh một cái hồ bơi rộng kiểu xây trong nhà. Ngoài em còn có chừng hai chục người khác. Toàn đàn bà. Họ và em trên người đều không mảnh vải che thân và bị bắt đi vòng vòng chung quanh hồ bơi. Trên trần nhà treo một cái giỏ lớn và em thấy có người đàn ông đứng bên trong. Người đàn ông đội mũ rộng vành nhưng em vẫn nhận ra đó chính là anh. Anh luôn miệng quát mắng ra lệnh lũ đàn bà chúng em. Lũ chúng em miệng phải ca hát trong lúc đi vòng vòng như thế, thỉnh thoảng còn phải uốn gối. Người nào uốn gối không đúng phép, anh lập tức giơ súng bắn chết và người đó ngã xuống hồ bơi chìm lỉm. Mỗi lần có người bị bắn, những người khác cười rộ lên và càng ca hát to hơn. Anh không hề rời mắt lũ đàn bà chúng em và hễ có người làm điều sai trái là anh lập tức nổ súng. Hồ bơi đầy xác người chết nổi lều bều. Em biết em không đủ sức uốn gối thêm lần nữa và anh sắp sửa bắn em chết!” Giấc mơ tái diễn lần thứ ba thì Tereza bị bắn chết! Nằm trong chiếc xe tang to lớn như xe chở bàn ghế, cô thấy chung quanh toàn xác chết. Có nhiều xác chết quá đến nỗi cửa sau xe không đóng lại được và chân cẳng cứ thế thò lủng lẳng ra ngoài. “Nhưng tôi chưa chết!” Tereza kêu lên. “Tôi vẫn còn cảm giác!” “Chúng tôi cũng vậy.” Những xác chết cười rộ. Họ cười cái cười giống những người đàn bà thật ngoài đời vẫn thường vui vẻ bảo cô không có chi bất thường nếu một ngày răng cô sẽ rụng, đường kinh cô sẽ tắt, da dẻ cô sẽ nhăn nheo vì tất cả bọn họ đều rụng răng, đều tắt kinh và da dẻ họ đều nhăn nheo. Cũng giọng cười như vậy, những xác chết bảo cô đã chết rồi và mọi chuyện bình thường, tốt đẹp! Đột nhiên cô thấy muốn đi tiểu. “Tôi cho mấy người hay là tôi mắc đi tiểu.” Cô kêu lên. “Thấy chưa, tôi đã chết đâu!” Nhưng họ vẫn cười rú lên. “Mắc tiểu là chuyện hoàn toàn bình thường!” Họ bảo cô “Cô sẽ còn cảm giác đó lâu lắm mới hết. Như người vừa bị cụt tay vẫn có cảm giác cánh tay mình còn trên thân thể, chúng ta sẽ còn cảm giác mắc đi tiểu mặc dù trong người không còn giọt nước tiểu nào.” Tereza dụi đầu vào ngực Tomas. “Chao ơi, cách họ nói chuyện với em! Như những người bạn cũ, họ như biết em tự bao giờ. Em thất kinh với ý tưởng sẽ phải vĩnh viễn chung đụng với họ.” 9 Tất cả những ngôn ngữ có ngữ nguyên là tiếng La tinh kiến tạo từ ngữ “compassion” (lòng trắc ẩn, lòng thương xót) bằng cách ghép tiếp đầu ngữ com (với) và từ gốc passio (cam chịu nỗi khổ sở). Ở những ngôn ngữ khác – Tiệp khắc, Ba lan, Đức, Thụy điển – từ ngữ này cũng dùng tiếp đầu ngữ có nghĩa tương đương với com nhưng kết hợp với từ khác có nghĩa là “cảm xúc” (Tiệp khắc: sou-cit; Ba lan: wspól-szucie; Đức: Mit-gefuhl; Thụy điển: med-kansla). Ở những ngôn ngữ gốc La tinh,“lòng trắc ẩn” mang ý nghĩa: chúng ta không thể lạnh lùng khi người khác đang đau khổ; hoặc chúng ta chia sẻ nỗi buồn với những người bất hạnh. Từ ngữ khác có nghĩa gần tương tự là từ “tội nghiệp” (Pháp: pitié; Ý: pietà; vân vân). Từ ngữ này ám chỉ sự hạ cố nào đó của mình với người đang đau khổ. “Thương xót người đàn bà” có nghĩa chúng ta ở vị thế cao hơn, khá hơn và chúng ta khom lưng hạ xuống ngang hàng với người đàn bà đó. Đó là lý do tại sao từ “trắc ẩn” thường gợi ý tưởng nghi hoặc. Nó chỉ định thứ tình cảm thấp kém, tầm thường không dính dáng đến tình yêu bao nhiêu. Yêu người nào vì lòng trắc ẩn nghĩa là không thực sự yêu. Ở những ngôn ngữ kết hợp từ “lòng trắc ẩn” bằng từ gốc có nghĩa “cảm xúc”,“lòng trắc ẩn” được dùng gần tương tự nhưng lại nhất quyết cho rằng tình cảm thấp kém tầm thường rất khó xảy ra. Sức mạnh bí mật trong ngữ nguyên soi sáng từ ngữ với ý nghĩa rộng lớn hơn: có lòng trắc ẩn (có chung một cảm xúc) nghĩa là: không những có thể sống với nỗi bất hạnh của người khác mà còn cảm thông được tất cả cảm xúc của người đó – vui sướng, lo lắng, hạnh phúc, đau đớn. Do đó lòng trắc ẩn này (với ý nghĩa nơi những từ ngữ soucit, wspólczuicie, Mitgehuhl, medkansla) bao hàm khả năng cực đại của trí tưởng tưởng về tình yêu, nghệ thuật của thần giao cách cảm. Trong đẳng cấp tình yêu, nó đứng ở vị trí tối cao. Khi kể Tomas nghe về giấc mơ cô tự đâm mũi kim nhọn vào kẽ móng tay, Tereza đã thiếu khôn ngoan tiết lộ cho anh biết cô g y g ộ lục lọi thư từ trong bàn giấy của anh. Giả sử Tereza là người đàn bà khác, Tomas chắc hẳn sẽ không bao giờ thèm nhìn mặt cô nữa. Biết như vậy, Tereza nói: “Anh cứ việc tống em ra khỏi nhà!” Nhưng thay vì đuổi cô, anh nắm tay cô và hôn lên đầu ngón tay bởi chính anh lúc đó cũng thấy đau đớn như thể những đường dây thần kinh từ đầu ngón tay cô cũng chạy thẳng lên óc não anh. Những ai không thừa hưởng cái khả năng quỷ quái này của lòng trắc ẩn (chung cảm xúc) sẽ lạnh lùng lên án hành vi của Tereza, bởi riêng tư là cái gì bất khả xâm phạm, bởi không phải ai cũng có quyền mở ngăn kéo chứa đựng thư từ riêng tư. Nhưng vì lòng trắc ẩn là định mệnh đời Tomas (hay lời nguyền rủa), anh thấy chính anh là người quỳ trước cái ngăn kéo mở toang, mắt trừng trừng nhìn những lá thư tình của Sabina. Anh hiểu Tereza, anh không giận dữ với cô, ngược lại, anh còn yêu thương cô nhiều hơn. 10 Hai năm trời trôi qua từ ngày Tereza khám phá ra lòng dạ thiếu chung thủy của Tomas. Cô trở nên hay cáu kỉnh, bẳn gắt, và tình trạng này càng ngày càng tệ hại chứ không khả quan chút nào. Thật hoàn toàn không lối thoát. Có thật Tomas không sao từ bỏ được lối sống “tình bạn xác thịt” đó không? Đúng vậy. Không có nó chắc anh vỡ tung ra mất. Anh không đủ sức mạnh đè nén lòng ham muốn. Mặt khác, anh thấy không cần thiết phải từ bỏ lối sống đó. Không ai biết rõ hơn chính anh những trò phiêu lưu tình ái chỉ làm Tereza bất an mà thôi. Vậy tại sao anh phải thay đổi? Với anh, lý do từ bỏ chuyện đi tìm thú vui nhục dục nơi những người đàn bà khác không trọng đại hơn lý do từ chối lời mời đi xem trận bóng đá là bao. Nhưng anh vui thú gì trong những cuộc săn đuổi ái tình? Vừa đặt chân đến nhà người đàn bà nào, anh đã thấy chán ngấy lên rồi và tự hứa sẽ không bao giờ nhìn mặt cô ta nữa. Lần nào cũng thế, hình ảnh Tereza lởn vởn trước mắt anh và chỉ có cách nốc rượu thật say anh mới gạt nó khỏi đầu óc anh được. Từ khi có Tereza trong đời, không lần nào làm tình với người đàn bà khác anh không phải dùng đến hơi men! Lúc về nhà, ngửi mùi rượu nồng nặc toát ra từ hơi thở Tomas, Tereza biết ngay là anh vừa phạm tội. Anh kẹt cứng trong cái rọ: anh chán ngấy những cô đàn bà anh lén lút đi lại, nhưng một ngày không có họ đã khiến anh nhấc điện thoại hò hẹn lung tung. Thoải mái nhất vẫn là Sabina. Anh biết Sabina là người ý tứ, cô không bao giờ tiết lộ với ai về những buổi hò hẹn của hai người. Phòng vẽ nơi cô làm việc và sinh sống khiến anh nhớ lại những kỷ niệm quá khứ, thời kỳ độc thân đầy hoa mộng của anh. Có lẽ chính anh cũng không nhận ra những thay đổi từ ngày anh gặp Tereza: anh sợ về nhà trễ vì anh biết cô đang ngồi đợi anh. Cho đến một hôm, Sabina bắt gặp anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay trong lúc hai người đang ân ái trên giường, cô thấy anh có vẻ hối hả như muốn xong chuyện cho sớm. Sau đó, vẫn không mảnh vải che thân cô uể oải đi lại trong phòng vẽ. Cô dừng lại trước giá vẽ nơi có bức tranh đang vẽ dở và thấy Tomas đang vội vã mặc lại quần áo. Mặc xong ngoại trừ một chân thiếu chiếc vớ, Tomas nhìn quanh giường rồi cúi đầu xuống đất tìm tòi lục lọi khắp nơi, trong kẽ ngách, dưới gầm bàn. “Tomas, hình như anh đang biến thành chủ đề những bức tranh em đang vẽ.” Sabina chợt cất tiếng. “Hai thế giới gặp gỡ. Một pô ảnh chụp hai lần. Đằng sau nét chấm phá một Tomas phóng đãng là khuôn mặt người đam mê tình yêu lãng mạn. Hay nói cách khác, qua Tristan, và luôn luôn nghĩ đến Tereza, tôi thấy cái thế giới bội phản đầy diễm lệ của một người phóng đãng.” Tomas đứng thẳng dậy, mặt ngơ ngác nghe Sabina nói. “Anh đang tìm cái gì vậy?” Cô hỏi anh. “Một chiếc vớ.” Cô đi tìm chiếc vớ với anh. Hai người chui rúc vào xó xỉnh khắp gian phòng. “Chẳng thấy vớ của anh đâu.” Sabina nói. “Chắc lúc đến đây dưới chân anh chỉ có một chiếc.” “Em nghĩ sao mà bảo anh xỏ có một chiếc vớ đến đây?” Tomas kêu lên, mắt lại nhìn đồng hồ. “Có thể chứ! Đầu óc anh dạo này hay quên lắm đấy. Lúc nào cũng sấp sấp ngửa ngửa, mắt nhìn đồng hồ. Em chẳng ngạc nhiên chút nào nếu quả thật dưới chân anh chỉ có một chiếc vớ lúc anh đến.” Tomas định xỏ chân không vào giày. “Ngoài trời lạnh lắm.” Sabina nói. “Để em cho anh mượn vớ của em.” Nói xong cô lấy trong tủ đưa cho anh chiếc vớ dài màu trắng, kiểu mắt lưới rất thời trang. Anh biết Sabina đang trả thù anh về tội dám nhìn đồng hồ trong lúc làm tình với cô. Chắc cô giấu chiếc vớ chỗ nào rồi. Trời bên ngoài lạnh thật và anh đành xỏ vào chân chiếc vớ dài của Sabina. Anh lái xe về nhà một chân đi vớ của mình chân kia vớ Sabina, chiếc vớ được vê xuống tận mắt cá chân. Anh bị kẹp giữa hai gọng kiềm: dưới mắt những cô tình nhân của anh, anh mang nặng dấu ấn tình yêu anh dành cho Tereza; và dưới mắt Tereza, anh mang dấu ấn những cuộc phiêu lưu tình ái với những cô tình nhân đó. 11 Để nỗi đau đớn của Tereza dịu xuống, anh làm đám cưới với cô (rốt cuộc phải trả lại căn phòng thuê vì lúc sau Tereza chẳng mấy khi về đó nữa.) Anh còn tặng cô một con chó con. Con chó anh xin từ người bạn đồng nghiệp. Chó mẹ giống Saint-Bernard, còn bố nó là con bẹc-giê nhà hàng xóm. Không ai thích nuôi chó lai và người bạn anh không nỡ giết bỏ bầy chó con mới đẻ đó. Nhìn bốn con chó con Tomas biết con nào anh nhận đem về nuôi, con đó sống sót, còn lại tất cả sẽ bị giết chết. Anh có cảm tưởng anh là lãnh tụ một quốc gia Cộng hòa đứng trước bốn phạm nhân mang án tử hình và anh đang ban hồng phúc ân xá xuống cho một tên trong bọn. Cuối cùng anh chọn con chó cái có thân hình Saint-Bernard và đầu bẹc-giê. Anh đem con chó về nhà làm quà tặng Tereza. Cô bế nó lên ôm sát vào ngực. Con chó lập tức bậy một bãi làm ướt vạt áo trước của cô. Đến lúc hai người đặt tên cho con chó, Tomas muốn tên nó phải cho thấy nó thuộc về Tereza. Anh nghĩ đến quyển sách Tereza kẹp dưới nách khi cô mới lên Praha. Anh đề nghị gọi con chó là Tolstoy. “Không thể Tolstoy được!”, Tereza giãy nảy. “Nó là chó cái mà. Hay là Anna Karenina?” “Không được.” Đến lượt Tomas phản đối. “Không người đàn bà nào có khuôn mặt tức cười đến thế. Trông nó giống Karenin hơn. Ừ, phải rồi! Chồng Anna. Thật đúng với những gì anh tưởng tượng về ông ta.” “Nhưng gọi là Karenin anh không sợ sẽ ảnh hưởng đến giống của nó sao?” “Rất có thể,” Tomas nói, “chó cái được gọi bằng tên giống đực riết sẽ phát sinh khuynh hướng đồng tính luyến ái đấy.” Lạ thật, những gì Tomas nói khơi khơi như vậy lại biến thành sự thật. Mặc dù chó cái thường trung thành với chủ hơn là với chó đực đồng loại, con Karenin chứng tỏ nó là ngoại lệ, lúc nào ự g ạ g g ạ ệ nó cũng quanh quẩn bên cạnh Tereza. Tomas có vẻ hài lòng lắm. Anh vỗ vỗ lên đầu con chó con: “Tốt lắm Karenin! Mày đúng là cái gì tao mong đợi. Mình tao không sao kham nổi bả nên mày phải giúp tao một tay.” Nhưng ngay với sự giúp đỡ của con chó Karenin, Tomas vẫn hoàn toàn thất bại đem hạnh phúc đến cho Tereza. Vài năm sau anh mới thật sự biết mình thất bại, đúng hơn là vào ngày thứ mười quê hương anh bị xe tăng Nga nghiền nát. Lúc đó là tháng Tám năm 1968, Tomas liên tiếp nhận được nhiều cú điện thoại từ một bệnh viện bên Zurich. Ông giám đốc bệnh viện bên đó, một y sĩ kết thân với anh từ khi hai người gặp gỡ trong một hội nghị y học quốc tế, tỏ ý lo ngại cho anh và ông nài nỉ anh sang Zurich làm việc tại bệnh viện của ông. 12 Tomas thẳng thừng từ chối sự giúp đỡ của ông bác sĩ Thụy sĩ vì anh nghĩ đến Tereza. Anh đoán Tereza không muốn sang Thụy sĩ sinh sống. Suốt tuần lễ đầu cuộc biến loạn, nỗi kích động khiến cô như hôn mê. Cô chạy đôn đáo cùng khắp đường phố với chiếc máy ảnh trên tay. Chụp xong cuốn phim nào cô tìm cách giao tận tay các ký giả ngoại quốc. Họ tranh nhau giành giật những cuộn phim trên tay cô. Có lần, đi quá xa, cô chụp thật gần cảnh một viên sĩ quan Nga cầm súng chĩa vào đám đông. Cô bị bắt giam tại tổng hành dinh quân đội Nga. Nơi đó họ dọa đem cô ra hành quyết nhưng khi vừa được thả, cô lại chạy ngay ra đường, máy ảnh trên tay bấm không ngừng. Đó là lý do vì sao Tomas tỏ vẻ ngạc nhiên khi cô hỏi anh vào ngày thứ mười của cuộc biến loạn: “Tại sao anh không muốn chạy sang Thụy sĩ?” “Tại sao anh phải đi?” “Họ có thể làm khó dễ anh ở đây.” “Họ làm khó dễ mọi người không riêng gì anh.” Tomas trả lời, tay phác cử chỉ lên xuống. “Còn phần em? Em liệu sinh sống được ở nước ngoài không?” “Sao không?” “Em xông xáo ngoài đường phố không quản hiểm nguy đến tính mệnh vì đất nước. Sao em lại hờ hững chuyện đi hay ở vậy?” “Lúc này Dubcek đã trở lại, mọi thứ đều thay đổi.” Tereza nói. Đúng vậy: nỗi khích động ban đầu bùng cháy không quá tuần lễ. Lãnh tụ quốc gia bị lính Nga dẫn độ như tội phạm. Không ai biết họ bị đưa về đâu. Ai nấy lo lắng cho số phận của họ. Dân chúng thù ghét người Nga. Họ tổ chức hội hè, nhưng là cuộc hội hè chè chén đầy thù hận. Dưới thị xã, làng mạc, bích chương viết tay dựng lên nhan nhản khắp nơi. Họ mỉa mai, châm biếm bọn xâm lăng. Những bức biếm họa tràn ngập đường phố vẽ hình Brezhnev và lính Nga trông như lũ xuẩn ngốc thất học. Nhưng không cuộc hội hè đình đám nào kéo dài mãi mãi. Trong khi đó, người Nga áp lực lãnh tụ Tiệp khắc kí vào bản thỏa hiệp với Moskva. Khi Debcek cùng các lãnh tụ khác quay về Praha, ông đọc một bài diễn văn từ trên làn sóng điện. Sau sáu ngày bị giam cầm, sức khỏe ông suy yếu đến độ ông nói không ra hơi. Giọng ông lắp bắp, hơi thở ông hổn hển, và trong khi nói ông cứ phải ngập ngừng rất lâu, có khi ngưng tiếng đến cả ba mươi giây đồng hồ. Bản thỏa hiệp cứu đất nước Tiệp khắc tránh khỏi tình trạng bi đát nhất mà mọi người e sợ: hành quyết tập thể và lưu đày hàng loạt lên Siberia. Nhưng điều vô cùng rõ rệt là quốc gia Tiệp khắc từ nay sẽ phải quỳ mọp trước mặt kẻ chiến thắng. Mãi mãi và mãi mãi, nó sẽ lắp bắp, ấp úng, hổn hển như Alexander Dubcek. Hội hè đã hết. Mối nhục hàng ngày bắt đầu. Tereza giải thích cho Tomas nghe và anh biết đó là sự thật. Nhưng anh biết bên dưới sự thật này còn sự thật khác cơ bản hơn. Lí do tại sao Tereza muốn từ bỏ Praha: nơi đây cô khổ công ạ y g tìm kiếm mà chưa bao giờ biết hạnh phúc là gì. Những ngày cô xông xáo ngoài đường phố chụp hình lính Nga, nét mặt khẩn trương là những giờ phút đẹp đẽ nhất đời cô. Cô sung sướng vỏn vẹn vài đêm, những đêm cô không bị chìm đắm vào những giấc mơ kinh hoàng tái hồi như chương trình đài truyền hình tiếp diễn từ tháng này qua năm nọ. Người Nga với hàng trăm chiến xa đem đến cho cô sự thăng bằng. Nhưng giờ đây hội hè bế mạc rồi, cô trở lại với cơn sợ hãi, cô sợ những đêm tối đầy mộng mị kia và cô muốn chạy trốn nó. Cô còn hiểu ra hoàn cảnh nào đem lại sức mạnh cho cô. Cô nao nức được đặt chân đến chân trời nào khác, nơi chốn cô tin tưởng sẽ tìm thấy những gì cô hằng mong mỏi. “Em không thấy khó chịu nếu Sabina cũng di cư sang Thụy sĩ?” “Geneva không phải là Zurich,” Tereza trả lời. “Cô ấy sẽ không còn là chướng ngại như ở Praha.” Người mong mỏi thoát li khỏi nơi mình đang sống là người không vui sướng chút nào. Đó là lý do tại sao Tomas chấp nhận lời yêu cầu của Tereza di cư sang Thụy sĩ như gã phạm nhân chấp nhận bản tuyên án từ quan tòa đưa xuống. Một hôm, anh, Tereza và con chó Karenin thấy mình đứng giữa lòng thành phố rộng lớn nhất Thụy sĩ này. 13 Hai người vừa đủ tiền sắm cái giường ngủ, Tomas lăn xả vào công việc mới với tất cả hăng say của người đàn ông bốn mươi bắt đầu xây dựng lại cuộc đời mới. Anh gọi lên Geneva nói chuyện với Sabina đôi lần. Tình cờ, tuần lễ sau vụ biến loạn ở Tiệp khắc, Sabina có buổi triển lãm tranh ở Geneva và giữa làn sóng cảm thông với cái xứ sở nhỏ bé của cô, giới thưởng ngoạn hội họa Geneva bỏ tiền ra mua hết tranh cô trưng bày. “Nhờ bọn Nga, em trở nên giàu có.” Cô cười nói với Tomas trong ống điện thoại. Cô rủ Tomas lên Geneva thăm phòng vẽ mới của cô. Cô bảo đảm nó không khác căn phòng cũ ở Praha bao nhiêu. Anh rất muốn lên Geneva thăm Sabina, nhưng anh không tìm ra lý do vắng nhà để giải thích với Tereza. Thế là Sabina mò xuống Zurich. Cô ngụ tại khách sạn và Tomas đến thăm cô sau giờ làm việc. Anh điện thoại cho cô từ quầy tiếp khách của khách sạn rồi bước lên cầu thang. Cửa phòng mở, Sabina đứng đón anh, trên người vỏn vẹn bồ quần áo lót mỏng. Và cái mũ dạ tròn màu đen. Cô đứng giữa cửa nhìn thẳng vào mắt anh, không nói năng. Tomas cũng vậy. Đột nhiên anh thấy xúc động lạ thường. Anh đưa tay nhấc cái mũ trên đầu Sabina rồi đặt nó xuống mặt bàn đêm cạnh đầu giường. Sau đó, hai người làm tình trong im lặng. Trên đường từ khách sạn về nhà (anh đã sắm sửa đầy đủ bàn ghế cho căn phố), Tomas vui sướng với ý nghĩ anh vẫn có thể chuyên chở nếp sống của anh như một con ốc sên chuyên chở cái vỏ của nó. Tereza và Sabina tượng trưng cho hai thái cực đời anh. Hai người hoàn toàn tách biệt, bất khả hòa giải, nhưng cả hai đều có những nét quyến rũ riêng, chẳng ai nhường ai. Nhưng sự việc anh mang theo cái hệ thống trợ sinh này kè kè bên người đến bất cứ nơi nào, như thể nó là một phần cơ thể anh, có nghĩa Tereza hằng đêm vẫn tiếp tục mơ những giấc mơ kinh hoàng quái dị. Hai người sinh sống ở Zurich được sáu bảy tháng, một hôm anh trở về nhà khá trễ và Tereza đã bỏ nhà ra đi. Cô để lại trên bàn lá thư. Trong thư cô nói cô phải quay về Praha. Cô phải về vì cô không đủ sức sinh sống nơi nước ngoài. Cô biết cô có bổn phận nâng đỡ anh nhưng cô quá vụng về, không biết phải làm gì. Cô đã điên rồ cho rằng khi ra nước ngoài sinh sống, đời sống cô sẽ thay đổi. Cô tưởng cô lớn khôn ra sau việc cô làm trong thời gian vụ biến loạn. Cô tưởng cô tinh khôn hơn, mạnh mẽ hơn. Nhưng cô đánh giá cô quá cao. Cô đang trì níu anh xuống g g q g g và cô sẽ không tiếp tục làm thế nữa. Cô phải đi đến kết luận trước khi mọi việc trở nên quá trễ tràng. Và cô tạ lỗi đã đem Karenin về với cô. Tomas uống vài viên thuốc ngủ rồi lên giường nằm nhưng anh không cách nào chớp mắt được cho đến khi trời sáng hẳn. Cũng may hôm đó thứ bảy anh không phải đi làm. Một trăm năm mươi lần anh nhẩm lại trong đầu hoàn cảnh anh bây giờ: cánh cửa nối liền quê hương anh và thế giới bên ngoài đã đóng sập. Điện tín, điện thoại cũng không cách nào đem Tereza trở về. Bọn nhà nước cầm quyền không đời nào cho phép cô ra khỏi nước lần nữa. Cô dứt vạt ra đi một cách thật sững sờ. 14 Ý tưởng biết mình bất lực đến vô vọng đập xuống anh như một chiếc búa tạ, nhưng lạ thay nó đến với anh cách vô cùng êm ả. Không ai ru anh vào tình thế anh phải làm quyết định gì. Anh không cần phải đứng nhìn bức tường căn nhà bên kia khoảng sân rộng, đắn đo suy nghĩ có nên sống với cô gái hay không. Tereza làm quyết định đó thay anh. Anh ra tiệm ăn trưa. Cơn buồn trong anh thật ghê gớm, nhưng lúc ngồi ăn, nỗi chán chường tuyệt vọng ban đầu bỗng phai nhạt dần và chẳng bao lâu còn lại chỉ là nỗi buồn man mác. Nhìn lại những năm tháng chung sống với Tereza, anh thấy chuyện hai người không thể kết thúc tốt đẹp hơn. Giả như có người dựng câu chuyện này, đây là cách ông ta kết thúc chuyện. Một hôm Tereza tự tìm đến anh và hôm khác cô tự ý bỏ ra đi. Cô đến với chiếc va li nặng trĩu. Cô ra đi cũng với chiếc va li nặng trĩu. Anh trả tiền, ra khỏi tiệm ăn rồi thả bộ xuống phố. Nỗi buồn càng lúc càng đẹp đẽ. Bảy năm với Tereza, bây giờ nhìn lại anh thấy bảy năm trời đó đẹp đẽ quá, đẹp hơn quãng đời anh thực sự sinh sống với cô. Tình yêu anh dành cho Tereza rất đẹp, nhưng anh cũng vô cùng mệt mỏi: lúc nào anh cũng phải giả vờ, giấu giếm, che đậy điều gì. Anh phải nâng cô lên, vuốt ve cho cô dịu xuống, cho cô thấy bằng chứng tình yêu của anh, bào chữa khi cô ghen tuông, khổ sở. Anh phải vỗ về cô sau những giấc mơ quái quỷ. Lúc nào anh cũng cảm thấy tội lỗi. Anh chống chế việc mình làm rồi lại tạ lỗi. Giờ đây cơn mệt mỏi chợt tan biến bay vào hư không, còn lại là vẻ đẹp nhẹ nhàng, man mác. Thứ bảy, lần đầu tiên anh dạo chơi phố phường Zurich vào ngày thứ bảy, anh đang hít thở không khí tự do. Những cuộc phiêu lưu mới mẻ đang chờ đón anh nơi mỗi góc đường. Một lần nữa, tương lai lại ẩn giấu bí mật. Anh trở về với đời sống độc thân, đời sống có lần anh cảm thấy đó mới chính là định mệnh đời anh, đời sống anh thật sự là anh. Bảy năm trời anh sống cạnh Tereza, mỗi bước chân anh cô dõi mắt nhìn theo chăm chú. Tốt hơn cô nên xỏ vào chân anh cái cùm. Bước chân anh thốt nhiên nhẹ bổng. Anh bay lên cao. Anh đi vào thế giới huyền ảo của Parmenides: anh đang tận hưởng cái khinh phù ngọt ngào của nhân sinh. (Anh có muốn gọi Sabina ở Ganeva không? Hay liên lạc với người đàn bà nào đó anh mới quen sau mấy tháng ở Zurich? Không, không hề có chuyện đó. Có lẽ anh linh cảm được bất cứ hình ảnh nào khác hiện ra trong lúc này đều khiến hồi ức của anh về Tereza trở nên đớn đau khôn tả.) 15 Tomas ngây ngất với nỗi buồn kỳ quặc này đến tối chủ nhật thì hết. Sáng thứ hai, mọi chuyện hoàn toàn biến đổi. Tereza tìm cách len lỏi vào đầu óc anh: anh tưởng tượng cảnh cô ngồi viết lá thư vĩnh biệt cho anh. Anh hình dung bàn tay run rẩy của cô. Anh thấy cô một tay xách chiếc va li nặng trĩu, tay kia dắt con chó Karenin. Anh thấy cảnh cô tra chìa khóa mở cửa căn phố của hai người ở Praha và choáng váng với nỗi cô đơn cùng cực phả vào mặt mũi khi cô đẩy tung cánh cửa. Hai ngày với nỗi buồn man mác tuyệt đẹp, lòng trắc ẩn của anh (lời nguyền rủa của thần giao cách cảm) đi nghỉ mát nơi khác. Nó ngủ giấc ngon lành như người thợ mỏ sau tuần lễ dài làm việc cực nhọc cần nghỉ ngơi lấy lại hơi sức cho ngày thứ hai. Tomas nhìn bệnh nhân nào cũng thấy Tereza. Anh cứ phải tự nhủ, Đừng nghĩ đến Tereza nữa! Đừng nghĩ đến cô ấy nữa! Tôi chán cái lòng thương xót của tôi lắm rồi. Cô ấy bỏ đi như vậy là điều hay, tôi sẽ không bao giờ thấy mặt cô ấy nữa. Không phải tôi muốn ném Tereza ra khỏi đời sống của tôi. Tôi chỉ muốn xa lánh cơn bệnh, cái lòng thương người mà tôi tưởng đã miễn nhiễm cho đến khi cô ấy gieo vào tôi. Thứ bảy và Chủ nhật, anh bị choáng ngợp bởi cái kinh phù ngọt lịm của nhân sinh, dâng lên trong anh từ khoảng sâu thăm thẳm của tương lai. Thứ hai, anh va chạm cái sức nặng anh chưa từng bao giờ va chạm. Hàng tấn sắt thép xe tăng Nga chẳng thấm vào đâu nếu đem so với sức nặng đó. Bởi không có gì trên quả đất này có thể nặng hơn lòng trắc ẩn. Ngay nỗi đau của chính mình cũng không đè bẹp mình xuống như nỗi đau mình gánh vác chịu đựng giùm người khác, vì nỗi đau này bay bổng theo thần trí tưởng tượng và kéo dài ra bởi hàng trăm tiếng dội vọng về. Anh cứ phải tự nhủ chớ nên chịu thua cái lòng trắc ẩn đó. Lòng trắc ẩn lắng nghe, đầu cúi xuống và lương tâm dường như tội lỗi. Lòng trắc ẩn biết nó đang đắc thắng nhưng nó đứng yên đầy vững vàng, chắc nịch, và năm ngày sau khi Tereza bỏ về Praha, Tomas báo tin cho ông bác sĩ giám đốc bệnh viện (người gọi dây nói cho anh mỗi ngày lúc anh còn ở Praha sau khi Nga xua quân xâm lăng Tiệp khắc) hay là anh phải quay về Tiệp khắc ngay lập tức. Anh thấy ngượng ngùng xấu hổ. Anh biết việc anh bỏ ngang nơi đây có vẻ vô trách nhiệm, khó lòng tha thứ. Anh định sẽ bộc bạch lòng mình, kể cho ông nghe câu chuyện Tereza và lá thư cô để lại trên bàn. Nhưng cuối cùng anh không nói ạ g g g được điều gì. Dưới mắt người bác sĩ giám đốc bệnh viện, việc Tereza trở về Tiệp khắc là hành động điên rồ và đáng trách. Nhưng Tomas không để bất cứ ai có cơ hội nghĩ xấu về cô. Sự thật, ông cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tomas nhún vai nói: “Es muss sein. Es muss sein.” Một ám chỉ. Hành âm chót trong tứ cầm khúc cuối cùng của Beethoven dựa trên hai mô-típ sau: Để lời nhạc tuyệt đối sáng tỏ, Beethoven mở đầu hành âm bằng nhóm bốn chữ “Der schwer gefasste Entschluss” mà vẫn thường được dịch là “lòng quyết tâm khó khăn.” Ẩn dụ này của Beethoven thật sự là bước đầu Tomas tìm về với Tereza bởi chính cô là người thuyết phục anh mua những đĩa nhạc tứ cầm tấu khúc và sô-na-ta của Beethoven. Ẩn dụ này còn xác đánh hơn ý nghĩ anh đang có mông lung trong đầu vì ông bác sĩ Thụy sĩ cũng là người yêu thích âm nhạc. Miệng cười lặng lẽ, ông hỏi lại, nhái theo giai điệu của mô-típ trong khúc nhạc: “Muss es sein?” “Ja, es muss sein!” Tomas lập lại câu trả lời. 16 Khác với Parmenides, Beethoven hiển nhiên xem nặng nề thuộc dương tính. Vì từ ngữ “schwer” trong ngôn ngữ Đức vừa có nghĩa “khó khăn” vừa có nghĩa “nặng nề” nên nhóm chữ “lòng quyết tâm khó khăn” của Beethoven còn có thể diễn giải là “lòng quyết tâm nặng nề”. Lòng quyết tâm nặng nề đồng điệu với Định mệnh (“Es muss sein!“). Cần thiết, nặng nề và giá trị quyện rối vào nhau; chỉ cần thiết mới có sức nặng, mà chỉ cái gì nặng nề mới có giá trị. Niềm tin này xuất phát từ âm nhạc Beethoven, và mặc dù chúng ta không thể bỏ qua sự kiện rất có thể (hay ngay cả rất có lẽ) điều này bắt nguồn từ những người lý giải Beethoven chứ chưa chắc Beethoven đã tư duy như vậy, nhưng ít nhiều chúng ta chia sẻ quan niệm chung: chúng ta tin tưởng sự vĩ đại của con người toát ra từ sự việc hắn dám gánh vác định mệnh đời mình như thần Atlas gánh vác khối vũ trụ khổng lồ trên vai. Và vì thế, người anh hùng của Beethoven là người dám nâng đỡ cái trọng lượng siêu hình đó. Tomas tiến lại gần biên giới Tiệp khắc. Tôi tưởng tượng, một Beethoven bằng xương bằng thịt, ảm đạm, thần trí khủng hoảng, đứng lên điều khiển ban nhạc kèn đồng của đội lính cứu hỏa địa phương tấu lên bản hành khúc “Es muss sein” trong buổi lễ tiễn đưa người xa xứ. Khi vào đến địa phận Tiệp khắc, Tomas được một đội hình chiến xa Nga ra tiếp đón. Anh phải ngừng xe đợi cả nửa tiếng đồng hồ mới qua khúc chặn. Một anh lính dáng điệu dữ dằn mình mặc quân phục màu đen đứng giữa ngã tư đường điều khiển dòng xe cộ qua lại như thể đường sá nơi đây thuộc hết về anh ta và chỉ mình anh ta thôi. “Es muss sein!” Tomas lặp đi lặp lại câu nói, nhưng anh bắt đầu nghi hoặc. Quả thật phải như vậy sao? Vâng, anh không sao chịu đựng nổi cảnh anh ở Zurich mà đầu óc lúc nào cũng tưởng tượng Tereza đang thui thủi sống một mình ở Praha. Nhưng anh còn bị lòng trắc ẩn tra tấn bao lâu nữa? Suốt cuộc đời anh? Một năm? Hay một tháng? Hay chỉ một tuần? Làm sao anh biết được? Làm sao anh đo lường được? Bất cứ cô cậu học sinh nào cũng có thể làm thí nghiệm vật lý để trắc nghiệm những giả thiết khoa học. Nhưng con người, sống chỉ một lần, không thể làm thí nghiệm để biết nên chạy theo tiếng gọi của đam mê (hay lòng trắc ẩn) hay không. Với ý nghĩ này trong đầu, Tomas đưa tay mở cửa căn phố của anh ở Praha. Karenin nhảy xổ lên thè lưỡi liếm mặt anh khiến sự trở về có vẻ dễ dàng lên đôi chút. Ý tưởng muốn ôm choàng Tereza (anh cảm thấy vậy lúc chui vào xe ở Zurich) hoàn toàn tan biến. Anh vẽ ra cảnh anh và Tereza đứng đối diện nhìn nhau trên cánh đồng tuyết trắng mờ mờ. Thân hình hai người run rẩy, níu vào nhau trong giá lạnh. 17 Ngay từ buổi đầu của cuộc chiếm đóng, phi cơ quân sự Nga ngày đêm vần vũ bay lượn trên bầu trời thành phố Praha. Chưa quen với tiếng động cơ, Tomas không sao yên giấc. Trăn trở trên giường bên cạnh Tereza say ngủ, anh chợt nhớ điều anh nói với cô cách đây lâu lắm khi có lần hai người ngồi bên nhau nói chuyện vãn vu vơ. Hai người nhắc đến người bạn tên Z của anh và anh chợt nhớ câu nói của cô: “Nếu không gặp anh trước có lẽ em sẽ yêu Z.” Ngay cả vào lúc đó, câu nói của Tereza làm Tomas buồn bực lạ lùng, và giờ đây anh thấy quả thật chỉ ngẫu nhiên Tereza yêu thương anh mà không phải người bạn tên Z. Bên cạnh tình yêu toàn vẹn cô dành cho anh trong thế giới những điều khả hữu có vô số tình yêu không toàn vẹn cô dành cho những người đàn ông khác. Tất cả chúng ta đều gạt đi ý tưởng tình yêu là cái gì nhẹ nhàng hay vô trọng lượng; chúng ta ép uổng tình yêu, không có nó đời sống chúng ta sẽ khác; chúng ta cảm thấy chính Beethoven, ảm đạm và khiếp hãi, đang tấu khúc nhạc “Es muss sein!” cho cái tình yêu vĩ đại của chúng ta. Tomas hay nghĩ đến câu nói của Tereza về người bạn tên Z. và anh đi đến kết luận chuyện tình cảm của anh không minh chứng cho câu “Es muss sein!” (Phải vậy thôi) mà câu “Es konnte auch anders sein!” (Vẫn có thể khác vậy). Bảy năm trước, ngẫu nhiên một ca bệnh thần kinh khá phức tạp phát hiện tại bệnh viện thị xã nơi Tereza cư ngụ. Họ cầu cứu lên bác sĩ trưởng khoa phẫu thuật bệnh viện Tomas làm việc. Ngẫu nhiên ông bác sĩ trưởng bị đau thần kinh háng và vì không đi lại được, ông nhờ Tomas đi thế. Thị xã có hai, ba khách sạn, nhưng Tomas ngẫu nhiên chọn nơi Tereza làm việc. Ngẫu nhiên anh có chút thì giờ dư trước giờ xe lửa khởi hành và anh xuống tiệm ăn trong khách sạn ngồi nghỉ ngơi. Ngẫu nhiên hôm đó Tereza đi làm, và ngẫu nhiên cô hầu ngay bàn Tomas. Tất cả có sáu chuyện ngẫu nhiên đẩy Tomas vào Tereza như thể anh không có khả năng tự mình tìm đến cô. Vì cô anh quay về nhà cũ. Một quyết định xác quyết dựa trên một tình yêu dun rủi, một tình yêu giá bảy năm trước ông bác sĩ trưởng không bất ngờ lâm bệnh thì làm gì có cơ thành tựu. Và người đàn bà đó, sự dun rủi tuyệt đối được nhân cách hóa, giờ đây đang nằm ngủ bên anh, hơi thở sâu hút vào trong. Đêm đã khuya lắm. Anh thấy bao tử mình nhói lên đau đớn như những khi có chuyện buồn rầu, lo nghĩ. Đôi lần, giữa hơi thở cô có tiếng ngáy nho nhỏ. Tomas không thấy thương xót. Anh chỉ cảm thấy sức ép đang đè nặng xuống bao tử anh và anh thất vọng mình đã trở về. PHẦN HAI tâm hồn và thể xác 1 Thật vô lý nếu người viết cố gắng thuyết phục người đọc những nhân vật trong tiểu thuyết mình có thật ngoài đời. Họ không từ bụng mẹ chui ra. Họ nảy sinh từ đôi ba nhóm chữ có vẻ gây kích động hay từ cảnh huống cơ bản nào đó. Tomas được đẻ ra từ câu nói “Einmal ist keinmal“, và Tereza từ tiếng sôi bụng cồn cào vì cơn đói. Hôm đến nhà Tomas lần đầu, bụng cô bỗng dưng sôi lên đùng đùng. Buổi sáng, lúc đứng chờ trên sân ga, cô chỉ ăn lót dạ qua loa một mẩu bánh mì thịt. Cô để hết tâm trí vào chuyến hành trình liều lĩnh trước mắt mà quên khuấy chuyện ăn uống. Nhưng ta rất dễ biến thành nạn nhân của chính thân thể ta nếu ta lãng quên nó. Cô ngượng chín người lúc đứng trước mặt Tomas, bụng sôi réo sùng sục. Cô muốn khóc lên được. Nhưng may quá, chỉ mười giây đồng hồ sau Tomas đã quàng tay lên người cô và cô quên hẳn tiếng sôi bụng của mình. 2 Tereza nảy sinh từ cảnh huống trong đó luật đối tính bất khả hòa giải giữa tâm hồn và thể xác, cuộc nghiệm sinh cơ bản của kiếp người, tàn nhẫn phơi bày. Thuở xưa, con người lạ lẫm lắng nghe tiếng đập đều đặn phát ra từ lồng ngực, thắc mắc không hiểu đó là tiếng gì. Hắn không có khả năng nhận ra chính bản thân mình với thể xác quá lạ lùng, xa lạ. Thể xác là cái cũi, và trong cái cũi đó là vật gì biết ngắm nhìn, lắng nghe, sợ hãi, nghĩ suy, kinh ngạc; cái gì đó, phần còn lại ngoài thể xác, chính là tâm hồn. Ngày nay, dĩ nhiên, thể xác không còn xa lạ nữa: chúng ta thừa biết tiếng đập phát ra từ lồng ngực là do quả tim và mũi chúng ta chẳng qua chỉ là cái ống hút thò ra từ thể xác có nhiệm vụ hút khí ốc-xy vào hai lá phổi. Bộ mặt chúng ta chỉ là nơi ghi tiếp mọi năng động của thể xác: tiêu hóa, hô hấp, nghe nhìn, suy nghĩ. Kể từ khi con người tìm tòi, khám phá và đặt tên cho các bộ phận trên thân thể mình, thân thể bớt phiền nhiễu con người nhiều lắm. Con người biết tâm hồn chẳng qua chỉ là chất xám trong não bộ. Sự đối chọi giữa tâm hồn và thể xác bị che phủ bởi hàng trăm danh từ khoa học và chúng ta cả cười, cho đó là thành kiến đã phai nhạt rất nhiều. Nhưng thử bắt người mới yêu lắng nghe tiếng bụng mình sôi sùng sục, nghe tiếng hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác mình. Lập tức cái ảo ảnh trữ tình của kỉ nguyên khoa học tan biến ngay vào hư không. 3 Qua thể xác, Tereza cố nhìn vào nội tâm mình. Đó là lý do tại sao, ngay từ khi còn bé thơ, cô đã có thói quen đứng trước gương. Và vì sợ bị mẹ bắt gặp nên mỗi lần liếc mắt nhìn vào gương soi cô có mặc cảm mình đang phạm phải tật xấu bí mật nào đó. Cô hay soi gương không phải vì thích chưng diện. Cô bị mê hoặc bởi “cái tôi” của cô. Nhìn vào gương, cô không nghĩ cô đang nhìn vào cái bề mặt phần thân xác, đây chính là tâm hồn cô đang hiện ra trên khuôn mặt. Cô quên mũi cô chỉ là cái ống có nhiệm vụ hít khí ốc-xy vào hai lá phổi. Cô thật sự tin tưởng cô trông thấy bản chất mình hiện ra trên mặt gương. Soi gương mãi, đôi lúc cô bực dọc về những nét của mẹ cô trên khuôn mặt mình. Càng nhìn vào tấm gương cô càng ước ao phải chi những gì thuộc về mẹ cô có ngày biến đi để nhường chỗ cho những gì thuộc về cô mà thôi. Mỗi lần thấy lời ước nguyện thành tựu cô say đắm trong ý tưởng: tâm hồn cô ngoi lên, tràn ra ngoài thân thể như đoàn tàu thủy túa lên boong tàu, đưa tay lên trời vẫy vẫy, vui sướng cùng cất tiếng hát vang. 4 Cô giống mẹ cô cả tính nết. Đôi lúc tôi có cảm tưởng cuộc đời cô chỉ là đoạn nối dài phần đời mẹ cô, giống như đường banh trái bi-da chỉ là cánh tay người chơi banh vươn dài. Cuộc đời Tereza bắt đầu từ đâu và từ lúc nào? Có lẽ nó bắt đầu từ khi ông ngoại cô, một thương gia sinh sống ở Praha, tán dương quá đáng về sắc đẹp cô con gái yêu quý của ông, tức là mẹ Tereza. Năm mẹ cô lên ba lên bốn gì đó, ông bảo mọi người rằng con gái ông đẹp như Thánh Mẫu trong tranh của Raphael. Cô gái bốn tuổi không bao giờ quên điều đó. Khi lớn lên đi học, cô không chịu lắng nghe lời giảng dạy của thầy cô trong lớp học mà cứ ngồi mơ mộng miên man về bức tranh nào của Raphael có hình Thánh Mẫu giống mình. Rồi đến tuổi cập kê, tính chuyện dựng vợ gả chồng, bà mẹ Tereza có cả thảy chín người đàn ông theo đuổi. Họ quỳ dưới chân bà thành vòng tròn. Đứng giữa chín người đàn ông như nàng công chúa kiêu sa, bà không biết chọn lựa ai bây giờ: người thứ nhất điển trai nhất, người thứ hai khôn ngoan lanh lợi nhất, người thứ ba giàu có nhất, người thứ tư thể thao nhất, người thứ năm có gia đình sang cả đàng hoàng, người thứ sáu biết làm thơ, người thứ bảy đi đâu đi đó rất nhiều, người thứ tám biết chơi vĩ cầm, người thứ chín tráng kiện nhất. Nhưng cả chín người quỳ mọp dưới chân bà như nhau, da đầu gối họ chai lì, dày cộm như nhau. Lý do cuối cùng bà chọn người thứ chín chẳng phải vì gã là người tráng kiện nhất trong bọn mà chỉ vì gã cố tình tặng cho bà cái bào thai. Bà kêu khẽ vào tai gã “Hãy cẩn thận” trong lúc hai người ân ái, thế mà gã không chịu nghe lời bà. Bà mang thai và không tìm ra thầy thuốc nào chịu phá thai. Thế là Tereza ra đời. Bà con trong họ khắp nơi đổ về đứng bên nôi đứa bé sơ sinh nói chuyện con cái. Bà mẹ Tereza chán chường chẳng thèm nói câu nào. Bà đang nghĩ đến tám gã đàn ông kia, dường như cả tám người đều tốt lành, cao đẹp hơn gã đàn ông thứ chín này. Giống như Tereza, bà mẹ cô cũng có thói quen hay nhìn mình trong gương. Một hôm bà khám phá ra những đường nhăn dưới đuôi mắt và bà quyết định cuộc hôn nhân này không đi đến đâu. Cùng lúc bà gặp gã đàn ông khác, một người không đàn ông chút nào, có tiền án, dính líu đến vài vụ lường gạt, chưa kể gã đã có hai đời vợ trước. Bà ghét thậm tệ những kẻ đầu gối chai lì quỳ mọp trước mặt bà khi xưa. Bây giờ bà muốn chính bà là người quỳ xuống trước mặt người đàn ông nào đó. Bà quỳ xuống trước mặt gã đàn ông gian xảo mới gặp này và bỏ mặc cha con Tereza tự xoay xở trong cuộc sống. Người đàn ông tráng kiện nhất bỗng chốc biến thành người cùng quẫn nhất. Ông cùng quẫn đến nỗi không gì trên cõi đời này còn ý nghĩa nữa. Ông nói toạc ra những điều ông nghĩ trong đầu và bọn công an không để ông yên. Ông bị bắt ra tòa và lãnh án nhiều năm tù. Nhà cửa bị tịch thu và Tereza lại quay về sinh sống với bà mẹ. Người đàn ông cùng quẫn chết trong tù sau thời gian ngắn. Tereza theo mẹ cùng người cha ghẻ về sống tại thị trấn nhỏ gần cao nguyên. Người cha ghẻ làm thư kí dưới phố, bà mẹ làm công trong một tiệm tạp hóa. Bà còn đẻ thêm ba người con nữa. Bà nhìn vào gương và thấy giờ đây bà là một bà già xấu xí. 5 Khi biết đã mất hết mọi thứ trên đời, bà bắt đầu truy tìm xem ai là thủ phạm làm cuộc đời bà khốn khổ như vầy. Dưới mắt bà, ai cũng có thể là thủ phạm: người chồng thứ nhất, tráng kiện, đàn ông, nhưng không có tình yêu, không chịu nghe lời bà cảnh giác khiến bà mang thai; người chồng thứ hai, có tình yêu nhưng không đàn ông chút nào, người lôi kéo bà về cái xó xỉnh này và bắt bà sống trong cảnh ghen tuông thường trực vì ông ta lén lút đi lại với hết người đàn bà này sang người đàn bà nọ. Nhưng bà bất lực trước cả hai người đàn ông. Người duy nhất nằm dưới quyền sinh sát của bà, người không có lối thoát, người làm con tin cho bà giải tỏa tất cả những nguyên cớ làm đời bà khốn khổ, chính là Tereza. Phải chăng Tereza đã là nguyên nhân định đoạt cả cuộc đời bà mẹ cô? Chính cô? Sự gặp gỡ phi lí giữa con tinh trùng người đàn ông tráng kiện nhất và noãn châu người đàn bà xinh đẹp nhất? Vâng, trong phút giây định mệnh đó, giây phút có tên là Tereza, cuộc chạy đua đường trường đầy lầm lỗi, cuộc đời bà mẹ cô khởi đầu. Bà không ngừng nhắc nhở cô, làm mẹ tức là hi sinh mọi thứ. Lời nói bà chứng thực bởi kinh nghiệm của người đàn bà đánh mất mọi thứ trên đời chỉ vì một đứa trẻ. Tereza lắng nghe và cô tin tưởng giá trị cao cả nhất trong đời sống là bổn phận làm mẹ, làm mẹ tức là hi sinh. Nếu người mẹ là Hi sinh được nhân cách hóa thì đứa con là Tội lỗi không có cơ may dung thứ. 6 Dĩ nhiên, Tereza đâu biết câu chuyện xảy ra trong đêm tối khi mẹ cô kêu khẽ vào tai cha cô,“Hãy cẩn thận.” Lương tâm cô cắn rứt nhưng có mơ hồ, lãng đãng như nguyên tội của thủy tổ loài người. Cô tìm mọi cách gột rửa nó ra khỏi tâm hồn mình. Cô thôi học từ năm mười lăm tuổi và đi kiếm tiền giúp mẹ. Cô làm nghề hầu bàn. Tiền kiếm được cô đem về đưa hết cho bà. Cô sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có tình thương của bà. Cô làm việc nhà, săn sóc lũ em ghẻ, dùng trọn ngày Chủ nhật lau chùi nhà cửa và giặt giũ quần áo cho cả gia đình. Thật đáng tiếc vì cô là người thông minh. Cô khao khát muốn vươn lên cao, nhưng ở cái xó xỉnh nơi cô sinh sống làm gì có cơ hội cho cô với lên? Ngồi giặt quần áo cô luôn đặt một quyển sách bên cạnh. Lúc giở trang sách, cô vô ý làm nước bắn tung tóe ướt cả quyển sách. Trong nhà không ai biết xấu hổ là gì. Mẹ cô mặc quần áo lót thản nhiên đi lại trong nhà, có khi bà còn không thèm che đậy bộ ngực. Mùa hè nóng bức bà cởi hết quần áo, trần truồng như nhộng là chuyện thường. Người cha ghẻ không đến nỗi vậy, nhưng ông ta hay xông vào phòng tắm mỗi khi Tereza tắm rửa bên trong. Có lần cô khóa cửa phòng tắm, bà mẹ cô thấy vậy giận dữ la lối: “Mày làm cái giống gì vậy Tereza? Bộ mày nghĩ sắc đẹp mày sẽ bị ông ấy cắn nát ra đấy à?” (Sự va chạm này cho thấy lòng ghét bỏ con gái còn nặng hơn lòng nghi kị người chồng. Tội lỗi con gái bà to tày đình, nó che lấp cả ý tưởng bậy bạ đen tối của người chồng. Những quyền hạn tối thiểu của Tereza – như có quyền khóa cửa phòng tắm – với bà, còn đáng bị xét hơn cả ý tưởng dâm ô của người chồng muốn giở trò bậy bạ với người con gái riêng.) Có lần vào một buổi tối mùa đông, đèn trong nhà cháy sáng và bà không buồn khoác lên người mảnh vải che thân nào. Tereza thấy vậy, vội vã chạy ra kéo bức màn cửa để hàng xóm trước nhà không nhìn thấy thân thể trần truồng của bà. Cô nghe tiếng bà cười lớn phía sau lưng. Ngày hôm sau, vài người bạn quen đến nhà chơi: bà hàng xóm, bà làm việc cùng chỗ, nữ giáo viên, và cả ba mụ khác vẫn thường đến nhà lê la tụ họp. Có cả cậu trai chừng mười lăm mười sáu tuổi, con một người đàn bà theo mẹ đến chơi. Cô vừa cất tiếng chào hỏi cậu trai, bà mẹ cô lập tức kể mọi người nghe về chuyển xảy ra hồi tối. Bà phá lên cười, đám đàn bà cũng cất tiếng cười theo. “Buồn cười chết thôi các bà ạ. Cái con bé Tereza nhà tôi, nó không chịu nghĩ cơ thể con người ta tiểu tiện và đánh rắm tùm lum.” Bà nói trong lúc cười. Tereza đỏ chín cả mặt, nhưng mẹ cô vẫn tiếp tục,“Có gì ghê gớm đâu nào?” Bà tự trả lời rồi tiếp tục cười. Những người đàn bà khác cũng ré lên cười theo. 7 Bà mẹ Tereza có tật hỉ mũi rất to, bà nói bô bô về đời sống riêng tư trong phòng the, bà còn thú vị biểu diễn cho mọi người xem hàm răng giả của bà. Bà rất khéo léo dùng lưỡi điều khiển hàm răng giả. Miệng bà chành ra, bà dùng lưỡi đẩy hàm trên xuống hàm dưới, khiến khuôn mặt bà trở nên rúm ró trông gớm ghiếc, ghê sợ. Hành động này của bà chẳng qua là cố gắng muốn gạt đi tất cả những gì dính líu đến tuổi trẻ và sắc đẹp. Khi bà còn son trẻ, khi bà có chín gã đàn ông say mê theo đuổi, quỳ xuống chung quanh bà, bà rất lo ngại trong việc bảo vệ tiết hạnh, như thể giá trị người con gái ở tính nết đằm thắm đoan trang chứ không phải sắc đẹp bên ngoài. Giờ đây bà không những mất hết vẻ nết na đằm thắm, bà còn thẳng tay đập phá tan tành. Bà dùng sự luông tuồng, thô bỉ vạch ra lằn ranh ngăn cách đời bà, với bà sự trẻ đẹp chỉ có ở đầu môi chót lưỡi người đời, tuyệt đối không có giá trị gì. Tôi thấy cuộc đời Tereza là hậu quả hành vi bà mẹ cô, hành vi cố ý gạt bỏ hình ảnh người con gái đẹp ra khỏi đời sống cô, bà ném bỏ nó tuốt phía sau lưng cô. (Và nếu Tereza có dáng đi rụt rè, nếu cử chỉ cô thiếu dịu dàng, duyên dáng thì chúng ta cũng đừng nên ngạc nhiên: hành vi, ngôn ngữ hung tợn, thô bạo, đầy chất tự hủy của mẹ cô để lại dấu hằn không sao xóa nhòa được trong tâm khảm cô.) 8 Bà mẹ Tereza đòi hỏi phải có công lí. Bà muốn thủ phạm làm đời bà khốn khổ phải đền tội. Đó là lý do tại sao bà trì kéo Tereza vào cái thế giới luông tuồng, thô bỉ của bà, thế giới không có chỗ đứng cho tuổi trẻ và sắc đẹp, thế giới trống rỗng ngoại trừ những trại tập trung khổng lồ lúc nhúc xác người nằm xếp lớp bên nhau, thế giới không có tâm hồn. Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa tật xấu bí mật của Tereza, tật hay nhìn khuôn mặt mình trong gương. Nó là trận chiến không ngừng giữa cô và bà mẹ. Nó là ý muốn khát khao thân xác mình không giống những thân xác khác, để thấy nét mặt bên ngoài là đoàn thủy thủ từ dưới hầm tàu chạy túa lên boong vui sướng hát ca. Cô thấy khó khăn lắm: tâm hồn cô – một tâm hồn sâu thẳm, nhát nhúa, chìm đắm – nằm yên nấp tận dưới đáy lòng cô. Cô thấy xấu hổ khi phải trưng bày nó ra cho mọi người xem xét. Thế rồi cái hôm đầu tiên cô gặp Tomas. Lách người qua bọn đàn ông ồn ào, nồng nặc hơi rượu bia trong tiệm ăn, thân xác cô lún xuống dưới sức nặng khay bia cô bưng trên tay, và tâm hồn cô thì lưng chừng đâu đó, khoảng ngang bụng hay cạnh sườn. Tomas cất tiếng gọi cô. Tiếng gọi có ý nghĩa rất lớn, bởi nó xuất phát từ người không biết chút gì về bà mẹ cô và lũ đàn ông say khướt miệng không ngớt buông lời chọc ghẹo chớt nhả này. Vai trò một người ngoài cuộc đưa Tomas lên cao, vượt hẳn những gã tầm thường khác. Điều nữa khiến anh được cô đặc biệt chú ý: trước mặt anh là quyển sách đang xem dở. Xưa nay có ai bước vào tiệm ăn này đem theo sách ngồi đọc bao giờ đâu. Dưới mắt Tereza, sách vở là biểu tượng cho hội tình thương bí mật. Bởi khí giới duy nhất cô có trong tay để chống chọi với cái thế giới thôi bỉ, nhơ nhớp chung quanh cô là những quyển sách cô mượn từ thư viện thành phố. Nhất là tiểu thuyết. Cô đọc bất cứ quyển gì cô vớ được trong tay, từ Fielding cho đến Tomas Mann. Sách vở không những giúp cô tạm thời thoát khỏi đời sống buồn nản, chán ngắt cô đang vương mắc, nó còn mang ý nghĩa khác: cô rất thích đi bộ xuống phố, trên tay ôm một quyển sách. Với cô quyển sách có ý nghĩa giống như cách đây gần thế kỉ người đàn ông lịch sự, bảnh bao cầm trên tay cây can khi bước ra đường phố. Nhờ quyển sách cô thấy mình khác những người chung quanh. (So sánh quyển sách với cây can không chính xác tuyệt đối lắm. Cây can khiến người đàn ông lịch sự, bảnh bao kia không những khác người, nó còn giúp ông ta hợp thời trang, mới mẻ. Quyển sách làm Tereza khác người, nhưng trông cô cũ kĩ, quê mùa đến tội nghiệp. Cô thấy đám trai trẻ qua lại trên đường phố với chiếc máy thu thanh áp sát tai trông thật ngớ ngẩn, dị hợm. Dưới mắt cô, bọn con trai đó chẳng có gì tân tiến, mới mẻ.) ọ g g Vì thế người đàn ông cất tiếng gọi cô trong tiệm ăn khách sạn là người lạ mặt và cũng là hội viên hội tình thương bí mật. Anh gọi cô bằng giọng từ tốn, nhã nhặn, và Tereza cảm thấy tâm hồn cô đột nhiên như muốn vùng lên chạy xuyên qua trăm ngàn mạch máu nhỏ li ti, tràn trên mặt và nôn nóng hiện ra cho anh trông thấy. 9 Từ hôm ở Zurich về, Tomas cảm thấy bất ổn với ý tưởng cuộc gặp gỡ giữa anh và Tereza chỉ là kết quả của sáu chuyện ngẫu nhiên. Nhưng có phải càng nhiều ngẫu nhiên bao nhiêu biến cố càng trọng đại, càng đáng nói bấy nhiêu? Sự tình cờ và chỉ có sự tình cờ mới ưu ái gửi đến chúng ta những thông điệp. Việc xảy ra do nhu cầu, được tiên liệu trước tái diễn ngày này qua ngày nọ, có khác chi món vật ù lì, câm nín. Chỉ có sự tình cờ mới có khả năng kể lể, chuyên chở thông điệp đến chúng ta. Tomas xuất hiện trước mặt Tereza trong tiệm ăn khách sạn là một nguyên nhân tuyệt đối. Anh ngồi đó, mải miết đọc quyển sách, bất chợt ngẩng đầu lên và thấy cô đang bước đến, anh khẽ mỉm cười nói: “Cô làm ơn cho li cô-nhắc.” Ngay sau đó, ngẫu nhiên máy hát trong tiệm ăn đang phát ra âm nhạc. Lúc bước vào sau quầy rượu rót li cô-nhắc, Tereza vặn nút cho tiếng nhạc lớn hơn một chút. Cô nhận ra đó là khúc nhạc của Beethoven. Cô bắt đầu biết nghe và thưởng thức nhạc Beethoven từ hôm thị xã nơi cô ở đón tiếp ban nhạc bốn đàn dây từ Praha xuống trình diễn. Tereza (như chúng ta biết, luôn luôn khao khát muốn vươn tới “cái gì cao hơn”) bỏ thì giờ đến nghe buổi trình tấu. Thính đường trống trơn, không ma nào thèm đến nghe ngoại trừ cặp vợ chồng người dược sĩ có tiệm bán thuốc dưới phố. Mặc dù khán giả chỉ vỏn vẹn có ba người nhưng ban nhạc rất tử tế, họ đã không hủy buổi trình diễn. Họ tấu cho ba người nghe trọn vẹn ba tứ cầm khúc cuối của Beethoven. Sau đó, vợ chồng người dược sĩ có nhã ý mời bốn người trong ban nhạc đi dùng cơm tối và họ mời luôn cô gái khán giả. Từ bữa đó trở đi, Beethoven trở thành hình tượng cái thế giới khác thường kia, thế giới cô luôn vọng tưởng tới. Đi vòng qua quầy rượu với li cô-nhắc của Tomas trên tay, cô cố tìm hiểu thông điệp của sự tình cờ: Làm cách nào có chuyện tiếng nhạc Beethoven trổi lên ngay lúc cô rót rượu cho người lạ mặt mà cô thấy dễ mến? Nhu cầu thương không cần biết đến công thức ảo diệu nào – nó hoàn toàn dựa trên sự tình cờ. Nếu tình yêu muốn trở nên bất tử thì bao nhiêu tình cờ hãy lập tức bắt đầu phấp phới bay xuống như đàn chim đậu lên bờ vai thánh Francis Assisi. 10 Anh gọi cô đến tính tiền li cô-nhắc. Anh đóng quyển sách lại và cô chợt nảy ra ý nghĩ muốn hỏi anh đang đọc quyển sách gì. “Cô tính tiền li rượu vào tiền phòng được chứ?” Anh hỏi cô. “Dạ được. Ông ở phòng số mấy?” Anh đưa chìa khóa phòng khách sạn cho cô xem. Chiếc chìa khóa đeo lủng lẳng vào miếng gỗ nhỏ có con số sáu màu đỏ sẫm. “Lạ nhỉ? Con số sáu.” Cô buột miệng. “Cái gì lạ?” Anh hỏi cô. Cô chợt nhớ căn nhà cô chung sống với cha mẹ ở Praha trước khi hai người xa nhau. Căn nhà số sáu. Nhưng cô không nói với anh điều này (chúng ta có thể cho đó là mánh khóe của cô): “Ông ở phòng số sáu còn tôi tan việc lúc sáu giờ.” “Chuyến xe lửa tôi khởi hành lúc bảy giờ”. Người lạ mặt nói. Cô không biết nói gì thêm đành đưa tờ biên nhận cho anh kí rồi mang ra quầy tính tiền. Lúc cô làm xong việc người lạ mặt không còn ngồi chỗ cũ nữa. Ông ta có hiểu ra câu nói kín đáo của cô không nhỉ? Cô rời khách sạn lòng rộn ràng niềm vui khó tả. Đối diện khách sạn là một công viên trơ trụi, xác xơ. Ở chốn tỉnh lẻ xấu xí, tồi tàn này chỉ có chừng đó thôi, nhưng với Tereza, cái công viên nhỏ bé, khiêm nhường đó là hòn đảo xinh đẹp: Nó có vườn cỏ, bốn cây bạch dương, ghế ngồi, một cây liễu, và vài bụi cây con. Người khách lạ ngồi trên chiếc ghế dài màu vàng mắt nhìn lơ đãng vào cửa ra vào khách sạn. Cũng chiếc ghế đó mới ngày hôm qua cô ngồi với quyển sách trên đùi! Tới đó cô biết (đàn chim của sự tình cờ đã bắt đầu đáp xuống vai cô) người khách lạ này là định mệnh đời cô. Ông ta gọi cô lại, mời cô ngồi xuống bên cạnh (đoàn thủy thủ tâm hồn cô đang túa chạy lên boong tàu thân thể.) Sau đó cô đưa ông ta ra trạm ga, và trước khi từ giã ông ta trao cô tấm thẻ. “Khi nào cô có dịp ghé thăm Praha…” 11 Tấm thẻ anh đưa cô vào giây phút chót không mang ý nghĩa gì cả. Chính tiếng gọi của những tình cờ dun rủi (quyển sách, Beethoven, con số sáu, chiếc ghế công viên màu vàng) đã cho cô can đảm bỏ nhà ra đi để thay đổi định mệnh đời mình. Có thể lắm chứ! Rất có thể chỉ cần vài chuyện tình cờ như thế đã đủ thổi bùng lên tình yêu trong cô và nó còn hà hơi tiếp vào cô sức mạnh cùng ý chí để cô vẫn thấy hăng hái, say mê vào những lúc cuối mùa này. Trong đời sống thường nhật, chúng ta bắt gặp không biết bao nhiêu chuyện tình cờ dun rủi, hay nói đúng hơn, không biết bao nhiêu lần gặp gỡ bất ngờ mà chúng ta gọi là tao ngộ. Tao ngộ là hai biến cố xảy ra cùng một lúc mà không hề được tính toán, dự trù trước. Chúng gặp nhau: Tomas xuất hiện trong tiệm ăn khách sạn cùng lúc máy hát trổi lên khúc nhạc Beethoven. Đa số những chuyện ngẫu nhiên như vậy chúng ta chẳng bao giờ bận tâm để ý. Giả sử thay vì Tomas, ngồi nơi bàn là gã bán thịt ngoài chợ có lẽ Tereza đã không bận tâm lắng nghe máy hát lúc đó đang trổi điệu nhạc gì (mặc dù sự gặp gỡ giữa Beethoven và gã bán thịt cũng là điều ngẫu nhiên khá lí thú.) Nhưng tình yêu đang nhen nhúm trong cô được thổi bùng, khuếch đại lên ý niệm về cái đẹp, và cô không bao giờ quên tiếng nhạc đó. Bất cứ lúc nào nghe lại tiếng nhạc, cô đều bị rung động. Tiếng nhạc tạo thành vùng hào quang rực rỡ bao phủ mọi cảnh vật chung quanh cô lúc đó. Trong đoạn đầu tiểu thuyết Tereza ôm trong tay hôm cô lên Praha tìm Tomas, Anna gặp Vronsky trong trạng huống rất li kì: Họ gặp nhau tại trạm xe lửa giữa lúc có người bị xe lửa cán chết. Ở đoạn cuối, Anna nhảy vào xe lửa tự tử. Cấu trúc đối xứng này – cùng một mô-típ xuất hiện ở đoạn đầu và đoạn cuối – với bạn nghe có vẻ “tiểu thuyết” quá phải không, và tôi sẵn sàng đồng ý với bạn, nhưng với điều kiện bạn phải tự chế, đừng để những ý niệm như “hư cấu”,“sắp đặt”,“không có thật ngoài đời” đi vào chữ “tiểu thuyết”. Bởi, đời sống con người được cấu thành do chính những đường lối, cách thức như vậy. Nó được cấu thành như người ta sáng tác âm nhạc. Được hướng dẫn bởi ý niệm thẩm mỹ, người ta biến thành những sự kiện ngẫu nhiên (nhạc Beethoven, cái chết dưới gầm toa xe lửa) thành những mô-típ, và rồi cái mô-típ đó chiếm hữu chỗ đứng thường trực trong đời sống con người. Anna có thể chọn cho mình cái chết khác. Nhưng, mô-típ cái chết và trạm ga xe lửa, cả hai buộc chặt vào sự ra đời của tình yêu, đã lôi cuốn mê hoặc Anna trong những giây phút tuyệt vọng với nét đẹp thâm trầm. Không cần biết đến nó, người ta cấu tạo đời sống tùy theo định luật thẩm mỹ ngay cả vào những lúc khốn cùng, tuyệt vọng nhất. Vì thế, thật sai lầm nếu chúng ta chê bai quyển tiểu thuyết bị mê hoặc bởi những biến cố ngẫu nhiên kì bí (như gặp gỡ của Anna, Vronsky, trạm ga, và cái chết, hay gặp gỡ của Beethoven, Tomas, Tereza, và li cô-nhắc), nhưng chúng ta có quyền chê trách con người mù quáng không thấy những biến cố ngẫu nhiên đó trong đời sống thường nhật. Bởi, như thế, con người đánh mất đi bề mặt vô cùng đẹp đẽ của cuộc sống. 12 Bị thúc đẩy bởi đàn chim của sự tình cờ đang phấp phới bay xuống đậu trên vai mình, Tereza xin nghỉ làm trọn tuần lễ và lén mẹ đáp xe lửa lên Praha. Ngồi trên xe, chốc chốc cô lại vào phòng vệ sinh nhìn ngắm khuôn mặt và cầu khẩn tâm hồn cô đừng quay lưng lại thân xác trong ngày trọng đại nhất đời này. Kiểm soát lại mình, cô chợt thấy có điều không ổn: cổ họng cô nhói lên từng cơn đau buốt. Chẳng lẽ cô ngã quỵ giữa ngày trọng đại nhất đời này sao? Nhưng không còn đường cho cô quay về nữa rồi. Cô gọi Tomas từ trạm ga, và giây phút anh mở cánh cửa đón cô vào, bụng cô bắt đầu sôi réo lên từng hồi. Cô chết điếng cả người. Cô có cảm tưởng bà mẹ chui vào nấp sẵn trong đó tự lúc nào và giờ đây bà đang cất tiếng cười ha hả để phá tan cuộc gặp gỡ giữa cô và Tomas. Trong vòng mấy giây đồng hồ, cô nghĩ Tomas sẽ mời cô ra khỏi nhà vì tiếng kêu khó chịu phát ra từ bụng cô. Nhưng không. Ngay sau đó anh quàng tay ôm cô. Cô sung sướng thầm cảm ơn anh không để ý tiếng sôi bụng của mình. Anh ôm hôn cô thật say đắm. Nước mắt cô trào ra. Chưa đầy phút sau, hai người đã đắm đuối nhập vào nhau giữa dòng ái ân cuồng nhiệt. Cô hét lên trong lúc làm tình. Cô lên cơn sốt. Cô bị cơn cảm cúm tai ác hành hạ. Cái ống hút dùng tiếp khí ốc-xy vào hai lá phổi đỏ ứng lên. Khi lên Praha lần thứ hai, cô xách theo chiếc va li nặng trĩu. Cô nhét vào va li tất cả vật dụng tư trang, nhất quyết không bao giờ quay về cái thị trấn buồn tênh này nữa. Tomas mời cô đến nhà vào buổi tối hôm sau. Đêm đó, cô nghỉ đêm tại một khách sạn tồi tàn. Sáng ra, cô gởi va li ở trạm ga rồi thơ thẩn lê bước khắp phố phường với quyển Anna Karenina trong tay. Mãi đến lúc cô bấm chuông nhà Tomas và anh mở cửa đón cô vào, cô mới chịu rời quyển sách. Quyển sách là tấm thẻ bài tùy thân cho phép cô bước vào thế giới của anh. Cô biết cô không có gì khác ngoài tấm thẻ bài đáng thương đó, và ý nghĩ này làm cô muốn rơi nước mắt. Để trấn an cơn buồn tủi, cô lớn tiếng nói chuyện huyên thiên và cười luôn miệng. Một lần nữa Tomas kéo cô vào lòng và hai người làm tình với nhau. Cô bước vào vùng lãng đãng khói sương. Sự vật trở nên mù mờ, huyễn hoặc. Chỉ có tiếng hét của cô là rõ mồn một mà thôi. 13 Không phải là tiếng thở hắt ra, cũng không phải tiếng rên rỉ mà là tiếng hét thật sự. Cô hét to đến nỗi Tomas phải nghiêng đầu sang bên, như thể anh sợ tiếng hét gần tai quá chọc thủng màng nhĩ anh mất. Tiếng hét không phải là tiếng kêu biểu lộ nhục cảm. Khoái cảm nhục dục là sự điều động toàn thể các giác quan: nhìn người tình của mình thật sự say đắm rồi cố gắng chụp bắt từng tiếng động. Nhưng tiếng hát của Tereza không phải thế, nó có chủ tâm làm què quặt mọi giác quan. Nó ngăn cản, không cho thính giác cũng như thị giác mình hoạt động. Tiếng hét thật ra là cái lí tưởng ngây ngô của cô về tình yêu, nó cố gắng gạt đi mọi đối nghịch, gạt đi đối tính giữa thể xác và tâm hồn, gạt đi có lẽ cả thời gian. Cô có nhắm hai mắt lại không? Không, nhưng hai mắt cô không nhìn vào chỗ nào nhất định. Tầm mắt cô phóng lên khoảng trống trần nhà. Có lúc cô lắc đầu thật mạnh từ bên này sang bên kia. Khi tiếng hét lắng xuống, cô lập tức chìm vào giấc ngủ bên cạnh Tomas, hai tay nắm chặt tay anh. Suốt đêm cô ngủ trong tư thế hai tay ôm chặt tay Tomas. Ngay từ năm lên tám cô đã có thói quen ngủ trong lúc hai tay nắm chặt vào nhau, cô tin tưởng mình đang nắm chặt bàn tay người mình yêu dấu, người của cuộc đời mình. Vì thế, chúng ta hiểu ngay lí do tại sao trong lúc ngủ cô nắm tay Tomas chặt như vậy: huấn luyện thành thục ngay từ khi còn rất bé thơ. 14 Một cô gái trẻ tuổi bị ép buộc phải đi hầu rượu bọn đàn ông say sưa và giặt giũ quần áo cho lũ em ghẻ – thay vì được quyền vươn tới “cái gì cao hơn” – là người biết dự trữ sinh lực, thứ sinh lực không người sinh viên đại học lười lĩnh nào dám mơ tưởng đến. Tereza đọc sách còn nhiều hơn các cô cậu sinh viên này. Cô học hỏi khá nhiều về đời sống, nhưng cô không bao giờ nhận ra điều đó. Sự khác biệt giữa người tự học và người tốt nghiệp đại học không nằm ở khả năng kiến thức mà ở sức sống cùng lòng tự tin vào đời sống. Lên Praha sinh sống Tereza lao vào cuộc sống mới với lòng cuồng nhiệt và sự bấp bênh. Cô có vẻ như chờ đợi một ngày có người đến nói với cô,“Cô làm gì ở đây thế? Cô hãy trở về nơi chốn của cô đi!” Tất cả lòng hăng hái say mê của cô cho đời sống được treo bằng sợi chỉ: tiếng gọi của Tomas. Chính tiếng gọi của Tomas đã dẫn dụ cái tâm hồn nhát nhúa, rụt rè của cô khỏi chỗ nó ẩn nấp tận đáy lòng sâu kín. Tereza có việc làm trong phòng tối tờ tạp chí tuần, nhưng công việc này không làm cô vừa ý. Cô muốn trở thành người chụp ảnh chứ không phải người thợ rửa hình. Cô bạn Sabina của Tomas có nhã ý cho cô mượn ba bốn cuốn dạy nhiếp ảnh và hẹn gặp cô ở quán cà phê để cắt nghĩa thế nào là bức ảnh đẹp tạo thú vị cho người xem. Tereza yên lặng chăm chú nghe. Mặt cô nghiêm trang lắng nghe từng câu nói của Sabina, khôn mặt cô lúc đó không phải là khuôn mặt các giáo sư thường thấy ở đám sinh viên trong lớp học. Nhờ Sabina, cô hiểu quan hệ giữa hội họa và nhiếp ảnh. Cô còn bảo Tomas đưa cô đi xem tất cả những buổi triển lãm tranh ảnh ở Praha. Chẳng bao lâu, ảnh cô chụp được tờ tạp chí chọn đăng và cô trở thành phóng viên nhiếp ảnh chuyên nghiệp của tờ báo. Tối hôm đó, hai người rủ thêm vài người bạn kéo nhau ra quán rượu để ăn mừng cô lên chức. Mọi người ra sàn khiêu vũ trong lúc Tomas ngồi lại bàn một mình, vẻ mặt tư lự. Về đến nhà, sau khi bị Tereza chọc ghẹo, anh thú nhận anh quả có lên cơn ghen khi thấy cô khiêu vũ với người bạn anh. “Tomas, anh ghen thật đấy à?” Cô ngờ vực hỏi đi hỏi lại đến mười mấy lần, như thể có người báo tin cô vừa được trao tặng giải Nobel. Rồi cô ôm thắt lưng Tomas, lôi anh theo những bước nhảy khắp phòng. Không phải những bước nhảy làm mọi người suýt soa thán phục ở quán rượu. Cô nhảy như dân làng thường nhảy múa trong dịp hội hè đình đám, những bước nhảy nô đùa nghịch ngợm, chân phóng cao lên không khí, thân hình nhấp nhô lên xuống. Cứ thế, Tomas bị cô lôi xềnh xệch khắp phòng. Nhưng buồn thay, chẳng bao lâu chính cô là người khổ sở với cảnh ghen tuông và với Tomas sự ghen tuông của Tereza không phải là giải Nobel, nó là gánh nặng chồng chất lên anh, gánh nặng anh phải đưa vai ra chịu đựng cho đến khi anh gần nhắm mắt lìa đời. 15 Trong lúc Tereza cùng lũ đàn bà khác bước vòng quanh hồ bơi, thân thể trần truồng, Tomas đứng trong chiếc giỏ treo toòng teng trên trần nhà, hò hét bắt họ vừa đi vừa ca hát và uốn gối. Ai uốn gối không đúng kiểu lập tức bị bắn chết và rơi tõm xuống hồ. Hãy để tôi trở lại giấc mơ này của Tereza. Sự kinh hoàng không ập đến với tiếng súng đầu tiên phát ra từ tay Tomas, nó bắt đầu ngay từ lúc cảnh tượng mới chớm hiện ra trong giấc mơ. Với Tereza hình ảnh gây kinh hoàng tột độ là hình ảnh những thân thể trần truồng diễn hành bên nhau. Khi còn ở nhà, mẹ cô cấm cô không được khóa cửa phòng tắm. Bà giải thích cái mệnh lệnh quái đản này như sau: “Mày khác gì thiên hạ đâu; mày không được quyền xấu hổ; mày không có lý do phải giấu giếm cái vật hàng triệu người đều có như nhau.” Trong thế giới của mẹ cô, thể xác nào cũng y như nhau và tuần tự nối đuôi nhau diễn hành thành hàng một. Từ lúc còn trẻ thơ, Tereza đã xem khỏa thân là dấu hiệu của đồng dạng trong trại tập trung, dấu hiệu của nhục nhã, đớn hèn. Chưa hết, vẫn còn nỗi kinh hoàng khác ùa đến ngay từ giây phút đầu tiên của giấc mơ: tất cả những người đàn bà đều phải cất tiếng ca hát! Không những thân thể họ y như nhau, vô dụng như nhau, không những thân thể họ là những bộ máy vô hồn như nhau – họ vui sướng với điều đó! Nỗi vui sướng của họ là nỗi vui sướng của kẻ không có tâm hồn. Họ vui vẻ thẳng tay ném tâm hồn họ xuống đất – họ ném đi cái tính tự mãn buồn cười, cái ảo giác có một không hai để trở thành giống hệt người bên cạnh. Tereza cùng ca hát với họ, nhưng cô không thấy vui sướng chút nào. Cô hát vì cô sợ lũ đàn bà kia sẽ xúm lại giết cô chết mất nếu cô cưỡng lại. Nhưng sự việc Tomas giơ súng bắn hết người này đến người khác khiến họ lần lượt rơi tõm xuống hồ bơi có ý nghĩa gì? Đám đàn bà sung sướng vì giống nhau, vì không có gì khác biệt trên thân thể họ. Thật ra họ đang ăn mừng cái chết đang chậm chạp tiến đến, cái chết khiến sự đồng dạng trở nên tuyệt đối. Vì thế, sự sung sướng cứ thế dâng lên theo mỗi tiếng súng Tomas bắn ra, dần đến cực điểm trong cuộc diễn hành bệnh hoạn. Mỗi lần súng nổ, họ lại phá lên cười sung sướng, và mỗi lần có xác người rơi ngã xuống hồ họ lại gân cổ ca hát lớn hơn. Nhưng tại sao Tomas là người cầm súng bắn? Tại sao anh lại bắn Tereza và những người đàn bà khác? Vì anh là người xô đẩy cô và lũ đàn bà đó. Giấc mơ của Tereza cho Tomas biết như thế, nó mở ra cho anh thấy điều cô muốn nói mà không nói được. Cô đến với anh để thoát khỏi thế giới của mẹ cô, thế giới trong đó mọi thân xác bình đẳng và giống hệt như nhau. Cô đến với anh mong mỏi trở thành thân xác độc nhất, có một không hai trên cõi đời này và không sao thay thế. Nhưng chính anh đã vẽ dấu bằng giữa cô và những người đàn bà khác: anh hôn mọi người đàn bà như nhau, anh vuốt ve họ như nhau, anh tuyệt đối không thấy khác biệt giữa thân xác cô và những thân xác khác. Anh đẩy cô tụt về thế giới cô cố sức thoát li, anh đẩy cô bước ra trần truồng diễn hành với những người đàn bà trần truồng khác. 16 Những giấc mơ tuần tự tiếp diễn: giấc thứ nhất cô thấy lũ mèo điên, chúng tượng trưng cho những đau đớn cô trải qua trong đời; giấc thứ hai hình ảnh cô bị hành quyết, nó thay đổi luôn; giấc thứ ba hình ảnh cô sau khi chết, khi nhục nhã như rơi vào trạng thái bất tận. Chúng ta chẳng cần bận tâm giải đoán những giấc mộng này của Tereza. Chúng nhắm vào Tomas rõ rệt đến nỗi phản ứng duy nhất anh làm được sau đó là gục mặt xuống, hai tay xoa nhẹ lên tay Tereza và miệng không thốt được tiếng nào. Những giấc mơ mang ý nghĩa tàn bạo nhưng cũng thật diễm lệ. Về điểm này, dường như cô muốn vượt khỏi lý thuyết của Freud về mộng mị. Nằm mơ không hẳn chỉ là hành vi truyền giao cách cảm (hay truyền giao ẩn mật, nếu bạn muốn nói như thế); nó còn là sinh hoạt thẫm mỹ, là trò chơi của trí tưởng tượng, trò chơi có giá trị trong chính nó. Những giấc mơ – về những sự kiện vị lai – chứng tỏ trí tưởng tượng là nhu cầu sâu thẳm nhất của con người. Điều nguy hiểm nằm nơi đó. Chúng ta mau chóng quên ngay những giấc mơ không đẹp. Nhưng vì giấc mơ của Tereza tái diễn năm này tháng nọ, nó trở thành truyền thuyết, thành truyện hoang đường và Tomas sống dưới lời nguyền rủa trù yểm bởi nét đẹp ray rứt khôn nguôi của giấc mơ đó. “Hỡi Tereza yêu quý, hỡi Tereza thân ái ơi! Tôi đang bị tội tình gì đây?” Có lần Tomas nói với Tereza như vậy trong lúc hai người ngồi đối mặt nhau trong quán rượu. “Đêm đêm em cứ mơ thấy cái chết như thể em thật tình mong muốn từ giã cõi đời này…” Lúc đó là ban ngày, lúc lý lẽ cùng ý chí đều vô cùng vững chãi. Một giọt rượu màu đỏ au đang từ từ lăn xuống thành li, Tereza trả lời anh,“Em không làm được gì cả, Tomas ạ. Ồ, em hiểu chứ. Em biết anh yêu em. Em biết tính trăng hoa của anh chẳng bao giờ gây chuyện đau buồn lớn lao cho chúng mình…” Cô nhìn Tomas với nỗi thương yêu tràn đầy trong khóe mắt, nhưng cô sợ hãi đêm tối trước mặt, cô sợ hãi những giấc mơ đang đón chờ cô trong bóng đêm. Đời sống cô bị xé toạc ra thành hai mảnh. Đêm và ngày cứ thế chống chọi nhau mãnh liệt. 17 Bất cứ ai có ý định muốn vươn lên tới “cái gì cao hơn” đều phải tiên liệu ngày nào đó sẽ mắc phải căn bệnh sợ hãi độ cao. Bệnh sợ hãi độ cao là gì? Là nỗi sợ hãi khi đứng trên cao? Nhưng tại sao chúng ta vẫn thấy sợ hãi dù trên đài quan sát chúng ta đang đứng có tay cầm chắc chắn? Không, bệnh sợ hãi độ cao là cái gì khác với tính sợ hãi khoảng cao. Nó là tiếng kêu của khoảng không trống trải bên dưới. Nó dụ dỗ, đánh lừa chúng ta. Chính ý định muốn nhảy từ trên cao xuống khiến chúng ta sợ hãi và vì thế chúng ta cố sức loay hoay tìm cách tự vệ. Những người đàn bà khỏa thân diễn hành quanh hồ bơi, những xác chết nằm trong xe tang vui sướng vì có Tereza cùng chết với họ – tất cả là những “cái gì từ bên dưới” Tereza không ngớt kinh khiếp và đã một lần trốn chạy trước đây nhưng, đầy bí ẩn, giờ đây chúng chường mặt ra đối đầu cô. Đây mới là căn bệnh sợ hãi khoảng cao của cô: lọt vào tai cô những tiếng gọi ngọt ngào (gần như vui sướng) kêu gọi cô hãy từ bỏ định mệnh, hãy gạt bỏ tâm hồn qua một bên. Sự cô độc vì không còn tâm hồn lớn tiến kêu gọi cô. Những khi yếu lòng, cô bị tiếng gọi đó mê hoặc và cô thấy mình sẵn sàng trở bước quay về. Cô sẵn sàng quay lưng lại đoàn thủy thủ tâm hồn trên boong con tàu thân thể; cô sẵn sàng tụt xuống, ngồi chung chạ cười đùa với đám bạn bè mẹ cô; cô sẵn sàng diễn hành quanh bờ hồ cùng với họ, thân thể trần truồng và miệng vui sướng hát ca. 18 Đúng, Tereza chiến đấu với mẹ cô cho đến ngày cô bỏ nhà ra đi, nhưng chúng ta đừng quên cô không ghét bỏ bà. Giá mẹ cô nói với cô bằng giọng nói nhu mì, êm ái chắc cô đã sẵn sàng gánh vác bất cứ chuyện gì bà mong muốn. Cô có sức mạnh thoát ly khỏi gia đình chỉ vì cô không bao giờ được nghe giọng nói như thế từ miệng bà. Khi nhận ra thái độ hung tợn của mình không chút ảnh hưởng gì lên đứa con gái, bà bắt đầu viết cho Tereza những lá thư với giọng điệu oán trách, than van. Bà than thở về gia đình, việc làm, sức khỏe. Bà làm như chỉ có Tereza mới là người thân trong cuộc đời bà. Tereza có cảm tưởng cuối cùng cô nghe được tiếng nói yêu thương của bà, và cô nảy ý định muốn quay về. Hơn thế nữa, cô muốn quay về vì cô quá mệt mỏi, quá suy yếu bởi tính trăng hoa, phóng đãng của Tomas. Cô thấy rõ sự bất lực của mình phơi bày ra, cô bị dụ vào căn bệnh sợ hãi độ cao, và cô không sao thoát khỏi cám dỗ muốn rơi ngã xuống, Một hôm mẹ cô gọi dây nói cho biết bà bị ung thư và chỉ còn sống thêm vài tháng. Tereza trở nên tuyệt vọng đến cùng cực. Cô tự trách mắng mình đã bỏ mẹ đi theo người đàn ông chẳng yêu thương gì mình. Cô sẵn sàng tha thứ tất cả mọi lỗi lầm của bà trong quá khứ. Giờ đây cô có thể hiểu mẹ cô hơn. Hai người cùng lâm vào hai hoàn cảnh tương tự: mẹ cô yêu thương người cha ghẻ cô, cô cũng yêu thương Tomas, và người cha ghẻ hành hạ mẹ cô thế nào Tomas hành hạ cô thế nấy. Mẹ cô trở thành người đàn bà ác độc chỉ vì bà chịu đựng biết bao nỗi đắng cay như vậy trong đời bà. Tereza cho Tomas hay tin mẹ cô lâm trọng bệnh, và cô dự định xin nghỉ làm một tuần lễ về thăm nhà. Giọng cô đầy tủi hờn, oán trách. Tomas không đồng ý cho Tereza về thăm mẹ vì anh linh cảm lí do cô quay về chính là căn bệnh sợ hãi độ cao. Anh gọi dây nói xuống bệnh viện tỉnh lị nơi bà mẹ Tereza cư ngụ. Hồ sơ các ca bệnh ung thư được lưu trữ cẩn thận khắp nơi trong nước nên Tomas tìm ra ngay sự thật bà mẹ Tereza chẳng bị ung thư gì, bà cũng không hề đi khám bệnh trên năm trời nay. Tereza nghe lời Tomas không về nhà thăm mẹ nữa. Vài tiếng đồng hồ sau khi quyết định, cô ra đường và tự làm ngã đến bị thương đầu gối. Cô bắt đầu đi đứng khó khăn, hôm nào cũng té ngã, va chạm bàn ghế, đồ đạc trong nhà, khá lắm là đánh rơi món đồ cầm trên tay. Cô bị kẹt cứng giữa gọng kiềm của cơn bệnh muốn rơi ngã xuống. Cô sống thường trực với căn bệnh sợ hãi độ cao. “Hãy đỡ tôi lên!” Đó là tiếng kêu cứu của kẻ đang rơi ngã. Và mỗi lần cô rơi xuống Tomas vẫn kiên nhẫn đưa tay kéo cô lên. 19 “Em muốn làm tình với anh ngay tại phòng vẽ của em. Giường hai ta nằm trông như bục sân khấu có người ngồi chung quanh. Khán giả không được lại gần nhưng họ không thể rời mắt…” Thời gian trôi qua, hình ảnh này mất dần đi ý nghĩa tàn bạo và nó trở thành nguyên do dễ gây kích động trong lòng Tereza. Cô hay ghé tai Tomas thầm thì những câu như vậy trong lúc hai người làm tình. Cô bỗng nảy ra ý nghĩ trong đầu rất có thể có con đường giúp cô tránh khỏi bản án buộc tội Tomas vì tính trăng hoa, phóng đãng của anh: chỉ cần Tomas dẫn cô theo, dẫn cô theo khi anh đến nhà các cô tình nhân của anh! Có lẽ, chỉ lúc đó thân xác cô mới vươn cao hơn các thân xác khác. Thân xác cô sẽ biến thành phần hai của Tomas, thành người phụ tá cho anh, người tri kỉ của anh. “Em cởi quần áo cô nàng, tắm rửa sạch sẽ rồi đem đến dâng lên anh…” Cô thầm thì bên tai anh những lời như thế trong lúc thân thể hai người ép sát nhau. Cô khao khát hòa nhập vào Tomas thành cái gì độc nhất để thân xác những người đàn bà khác biến thành đồ chơi của hai người. 20 Ồ, để trở thành tri kỉ của anh trong cuộc sống đầy trăng hoa, mây giớ này ư! Tomas không chịu hiểu điều đó cho Tereza nhưng cô không sao xóa tan được ý tưởng này trong đầu và cô cố tạo mối dây liên hệ thân thiết với Sabina. Tereza ướm lời bằng cách đề nghị đến nhà chụp ảnh cho Sabina. Sabina mời vô về nhà và cuối cùng tận mắt cô nhìn thấy căn phòng rộng rãi với đồ vật chính trong nhà: chiếc giường lớn, vuông vức, trông như bục sân khấu trình diễn kịch. “Tôi thấy áy náy quá vì chưa bao giờ có dịp mời cô đến đây.” Sabina nói trong lúc khoe Tereza những bức tranh treo trên tường nhà. Cô lôi ra một bức vẽ cảnh khu công trường thép đang xây cất cô vẽ thời còn đi học, thời mọi sinh viên Mỹ thuật đều bị bắt buộc vẽ theo khuynh hướng hiện thực. (Người ta cho nghệ thuật không hiện thực ăn mòn, phá hủy dần nền móng xã hội chủ nghĩa.) Trong tinh thần hăng say đó, cô cố chứng tỏ mình có tinh thần giác ngộ còn hơn cả các giáo sư hội họa của cô bằng cách vẽ nó gần giống bức ảnh chụp. “Đây là bức tôi vô ý làm giây lên vệt sơn đỏ. Ban đầu, tôi bực mình lắm, nhưng sau đó tôi thấy thích thú. Vệt sơn giây trên bức tranh giống như vết nứt; bức vẽ công trường biến thành tấm phông sân khấu cũ kĩ, nhàu nát, tấm phông với hình ảnh công trường vẽ đè lên trên. Tôi bắt đầu thử nghiệm vết nứt, tìm kiếm và tưởng tượng cái gì đó có thể ẩn hiện đằng sau vết nứt. Đây chính là bước đầu cho một lọat những họa phẩm tôi đặt tên là Đằng Sau Những Cảnh Tượng. Lẽ ra tôi phải thận trọng, không phải bạ ai cũng cho xem những bức tranh này. Tôi bị đuổi khỏi trường Mỹ thuật. Ở bề mặt, luôn luôn là thế giới hiện thực không sai chạy vào đâu, nhưng dưới nó, đằng sau tấm bố nứt nẻ, ẩn nấp đâu đó là cái gì khác hẳn, cái gì bí ẩn, trừu tượng.” Ngưng một lát, Sabina nói tiếp,“Ở bề mặt là lời nói dối vô cùng rõ ràng, rành rọt và bên dưới là sự thật ẩn giấu, mù mờ.” Tereza lắng nghe với sự tập trung hiếm thấy từ nét mặt bất cứ người sinh viên nào. Cô bắt đầu cảm nhận tất cả những bức tranh của Sabina, dù lúc trước hay bây giờ, đều chứa đựng tư tưởng giống nhau. Chúng là sự nhập lại của hai chủ đề, hai thế giới. Có thể nói chúng là những pô ảnh đúp. Một cảnh thổ soi sáng bởi chiếc đèn dầu kiểu xưa. Khối tĩnh vật mông lung gồm mấy quả táo, nắm hạt dẻ, và cây Nô-en nhỏ xíu thắp nến đỏ rọi chiếu hình ảnh bàn tay như muốn đâm thủng qua tấm bố. Tereza thấy thán phục tràn ngập trong lòng và vì Sabina xem cô như bạn nên lòng thán phục hoàn toàn không chút e dè, sợ sệt. Nó mau chóng biến thành tình bạn. Cô quên khuấy chuyện chụp ảnh cho Sabina và phải đợi Sabina nhắc cô mới sực nhớ ra. Cô rời mắt khỏi những bức tranh để thấy chiếc giường ngủ nằm nghênh ngang giữa phòng trông như bục sân khấu trình diễn kịch. 21 Trên mặt bàn nhỏ cạnh đầu giường có cái tượng hình đầu người, loại tượng thợ làm tóc dùng treo tóc giả. Nhưng thay vì mái tóc giả, Sabina treo ở đấy một cái mũ dạ tròn màu đen. “Mũ của ông tôi đấy.” Cô vừa cười vừa nói với Tereza. Đó là loại mũ – màu đen, cứng, tròn – Tereza chỉ thấy trên màn ảnh xi nê, loại mũ Chaplin hay đội. Cô cười với Sabina, cầm mũ lên, ngắm nghía một lúc rồi nói, “Chị muốn em chụp ảnh chị với cái mũ này không?” Sabina cười ngất về đề nghị này. Tereza đặt mũ xuống, cầm máy ảnh lên và bắt đầu bấm. Sau gần tiếng đồng hồ, Tereza bỗng cất tiếng, “Chị nghĩ sao về một bức ảnh khỏa thân?” “Khỏa thân?” Sabina cười. “Vâng, khỏa thân.” Tereza lặp lại lời đề nghị, giọng cô có phần quả quyết hơn. “Thế thì phải khui rượu uống.” Sabina đi lấy chai rượu. Tereza cảm thấy thân thể cô yếu đuối lắm, lưỡi cô cứng đờ ra. Trong lúc đó, Sabina bước tới bước lui trong phòng, ly rượu cầm trên tay, không ngớt nói về nhân vật cô gọi bằng ông. Ông là thị trưởng một thị xã nhỏ. Sabina không hề thấy mặt ông bao giờ, tất cả những gì ông để lại là cái mũ này và tấm ảnh chụp lúc ông đứng chung với đôi ba nhân vật chức sắc khác của thị xã. Chẳng biết họ đang làm gì trong bức ảnh đó. Có lẽ họ đang tham dự một buổi lễ lạc nào hay đang khánh thành đài kỷ niệm ghi nhớ công trạng một nhân vật có thới cũng đội mũ dạ tròn trên đầu trong cá dịp hội hè, đình đám. Sabina say sưa nói về cái mũ và ông già thị trưởng cho đến lúc uống cạn li rượu thứ ba mới chợt nói, “Tôi vào trong một chút và sẽ trở ra ngay” rồi biến mất vào buồng tắm. Cô bước ra với tấm áo choàng trên người. Tereza cầm máy ảnh lên đưa ngang tầm mắt. Sabina đưa tay mở tung chiếc áo choàng. 22 Với Tereza, cái máy ảnh vừa là con mắt bằng máy qua đó cô quan sát người tình của Tomas, vừa là cái màn che giấu khuôn mặt cô. Phải mất một lúc khá lâu Sabina mới hoàn toàn cởi hẳn áo choàng. Cảnh huống có vẻ khó khăn hơn cô dự liệu. Sau vài phút, cô bước lại Tereza và nói, “Nào, bây giờ đến lượt tôi chụp ảnh cô. Cởi quần áo ra!” Sabina nghe mệnh lệnh “Cởi quần áo ra!” không biết bao nhiêu lần từ miệng Tomas và nó ăn sâu vào tâm khảm cô. Thế là, người tình của Tomas ra lệnh cho vợ Tomas cởi quần áo ra. Hai người đàn bà thắt nhau lại bằng câu nói. Đó là cách Tomas đột biến câu chuyện bâng quơ với đàn bà thành phúc giây gợi tình nồng nhiệt. Thay vì mơn trớn, tâng bốc, nằn nhỉ, anh buông ra mệnh lệnh như vậy. Anh buông đột ngột, không ngờ trước, tiếng nói anh nhẹ êm nhưng chắc nịch đầy quyền uy và từ khoảng cách khá xa: những lúc như thế, anh không bao giờ đụng vào người đàn bà. Anh cũng hay làm vậy với Tereza. Và mặc dù tiếng ra lệnh của anh nghe rất nhẹ, gần như tiếng thì thầm vào tai, nó vẫn là một mệnh lệnh. Tereza răm rắp nghe theo và không lần nào cô không bị kích thích. Giờ đây nghe lại câu ra lệnh, cô càng muốn tuân lời nhiều hơn. Bởi tuân lệnh người lạ là điều điên khùng đặc biệt, trong trường hợp này còn điên khùng hơn bởi mệnh lệnh đó phát xuất từ người đàn bà chứ không phải đàn ông. Tereza trao máy ảnh cho Sabina rồi lần tay cởi quần áo. Cô đứng đó, trước mặt Sabina, hoàn toàn khỏa thân và trong tay không món vũ khí hộ thân. Thật đúng cô bị tước đoạt mất vũ khí: cô bị tước mất cái khí cụ cô dùng để che giấu khuôn mặt mình và để chĩa về Sabina. Cô hoàn toàn nằm dưới tay Sabina. Sự quy phục diễm lệ này gây cảm giác say sưa, choáng váng trong đầu Tereza. Cô ước mong giây phút đứng trần truồng trước mặt Sabina như vầy kéo dài mãi đến vô tận. Tôi nghĩ Sabina cũng có cảm giác kỳ diệu lạ lùng của giây phút đó: vợ người yêu mình rụt rè đứng chịu trận cách kì dị trước mặt mình. Nhưng sau khi bấm được hai ba pô ảnh, cảm giác kì diệu này làm Sabina sợ hãi, cô muốn đẩy nó đi, cô bật lên tràng cười ha hả. Tereza cười theo, và hai người đàn bà đi mặc lại áo quần. 23 Tất cả tội ác của đế quốc Nga trước đây được che phủ bởi bức màn đen kín mít, tinh vi. Một triệu người Lithuania phải bỏ xứ ra đi, hàng trăm ngàn người Ba Lan bị bức hại, toàn bộ sắc dân Crimean Tatars bị tiêu diệt. Tất cả mơ hồ rơi rớt trong trí nhớ chúng ta, không hề thấy tài liệu, hình ảnh nào ghi lại. Sớm muộn người ta sẽ phủ nhận, sẽ cho đây là những chuyện hoàn toàn bịa đặt, giả trá. Cuộc xâm lăng Tiệp khắc năm 1968 không thế. Cả hình chụp lẫn phim ảnh về cuộc biến động được lưu trữ tại nhiều văn khố khắp nơi trên thế giới. Những người cầm máy ảnh hay máy quay phim ở Tiệp Khắc nhìn ra công việc duy nhất họ có khả năng làm lúc đó là ghi nhận bộ mặt kinh hoàng này để các thế hệ mai sau biết rõ. Liên tiếp bảy ngày trời, Tereza xông xáo ngoài đường phố với chiếc máy ảnh trên tay. Lính Nga không biết phải phản ứng ra sao. Họ được huấn luyện kỹ lưỡng về cách đối phó nếu có người nổ súng hay ném đá vào họ, nhưng không hề được chỉ dạy phải đối phó ra sao trong trường hợp chĩa vào mặt họ là ống kính cái máy ảnh. Tereza chụp hết cuộn phim này sang cuộn khác và cô tìm đến trao tận tay các phóng viên ngoại quốc một nửa số phim (biên giới Tiệp vẫn mở ngỏ và các phóng viên ngoại quốc này hoan hỉ tiếp nhận bất cứ tài liệu gì.) Rất nhiều bức ảnh cô chụp lần lượt xuất hiện trên báo chí Tây phương. Xe tăng, những nắm tay đe dọa, nhà cửa cháy rụi, xác người chết phủ dưới lá cờ xanh-đỏ trắng, cờ quốc gia Tiệp khắc. Những thanh niên cưỡi xe gắn máy xả hết tốc lực chạy vòng quanh xe tăng Nga, người ngồi yên sau phất phới lá cờ. Những cô gái trẻ tuổi mặc váy ngắn cố tình khiêu khích, trêu chọc đám lính Nga đói đàn bà lâu ngày bằng cách ôm hôn bất cứ người lạ mặt nào gần đó. Như tôi thuật, cuộc xâm lăng của Nga vào đất Tiệp không phải là một biến động thương đau; nó là cuộc hội hè đình đám của thù hận, cuộc hội hè đầy ắp nỗi khích động lạ lùng (và không sao giải thích được.) 24 Khi chạy sang Thụy Sĩ, Tereza đem theo chừng năm mươi tấm ảnh đắc ý nhất. Cô ôm xấp ảnh đến tòa soạn một tạp chí minh họa có số lượng phát hành khá cao. Người chủ bút tờ tạp chí đón tiếp cô khá ân cần (dân Tiệp vẫn mang hào quang giống dân xấu số và người Thụy Sĩ thì thừa thãi lòng thương hại.) Ông mời cô ngồi, giở xem xấp ảnh, cất tiếng khen ngợi đoạn giải thích vì yếu tố thời gian, biến cố ở Tiệp xảy ra khá lâu rồi nên chúng tôi không thể đăng báo giùm cô bộ ảnh này được (chứ không phải vì chúng thiếu nghệ thuật.) “Nhưng ở Praha, sự việc đã chấm dứt đâu.” Cô phản đối và cố gắng giải thích cho ông ta nghe với vốn tiếng Đức ngữ nghèo nàn của cô rằng ngay giờ phút này, với tình trạng bị chiếm đón, với hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, hội đồng công nhân vẫn đang được thành lập trong các nhà máy, sinh viên vẫn biểu tình chống đối đòi người Nga cút khỏi đất nước họ, cả nước đang lớn tiếng cho thế giới biết nguyện vọng của họ là gì. “Quả thật đó là điều không dễ tin chút nào! Vậy mà ở đây không còn ai thèm quan tâm đến nữa.” Chợt có người đàn bà dáng dấp nhanh nhẹn bước vào phòng cắt đứt cuộc đối thoại giữa Tereza và người chủ bút một tập hồ sơ và nói: “Đây là bài phóng sự về khu bãi tắm khỏa thân.” Người chủ bút tinh tế đủ để cảm thấy e ngại một người Tiệp đi chụp ảnh xe tăng sẽ cho việc chụp ảnh khỏa thân trên bãi biển là cái gì phù phiếm, vô bổ. Ông ta đặt tập hồ sơ xuống phía đầu bàn rồi nói nhanh với người đàn bà: “Xin giới thiệu cô một đồng nghiệp người Tiệp. Cô ấy chụp nhiều bức ảnh tuyệt lắm.” Người đàn bà bắt tay Tereza rồi cầm lên xấp ảnh. “Cô xem ảnh tôi chụp xem sao.” Bà ta nói với Tereza. Tereza khom người về phía trước, rút ra xấp ảnh từ tập hồ sơ. Người chủ bút nói, giọng gần như xin lỗi: “Dĩ nhiên, những bức ảnh này hoàn toàn khác với ảnh cô chụp.” “Không khác lắm đâu. Chúng đều tương tự nhau.” Cả người chủ bút lẫn người nữ phóng viên nhiếp ảnh đều không hiểu Tereza muốn ngụ ý nói gì và ngay cả tôi cũng cảm thấy khó khăn giải thích ý tưởng đang lướt qua trong đầu cô khi cô so sánh hình ảnh bãi biển khỏa thân với cuộc xâm lăng của người Nga vào đất Tiệp. Lật đến tấm ảnh chụp gia đình bốn người đứng quây thành vòng tròn, cô ngừng lại một lúc: bà mẹ trần truồng đứng nghiêng người che lấy hai đứa trẻ, cặp vú đồ sộ của bà ta chảy xuống trông như vú bò hay vú dê, ông chồng bà ta cũng đứng nghiêng người như thế ở phía bên kia, bộ phận sinh dục của ông ta trông giống đùm vú một con bò cái thu nhỏ. “Cô không thích chút nào, phải không?” Người chủ bút cất tiếng hỏi. “Ảnh chụp đẹp lắm.” “Cô ấy bị sốc vì hình ảnh của đề tài.” Người nữ phóng viên nhiếp ảnh nói. “Tôi đoán cô chưa hề đặt chân đến bãi biển khỏa thân nào.” “Chưa bao giờ.” Tereza trả lời. Người chủ bút mỉm cười: “Cô thấy không, thật dễ đoán cô là người xứ nào. Các quốc gia Cộng sản thường khắc khổ, nghiêm ngặt quá đáng.” “Chẳng có gì sai quấy, bậy bạ về một thân hình không che đậy.” Người đàn bà nói giọng bao dung. “Đó là cái gì bình thường. Và cái gì bình thường đều đẹp đẽ.” Hình ảnh bà mẹ trần truồng đi lại tự nhiên trong nhà chợt thoáng hiện về trong đầu Tereza. Cô có cảm tưởng vẫn nghe được tiếng cười của bà phía sau lưng khi cô chạy ào ra kéo bức màn cửa sổ để bên hàng xóm không trông thấy mẹ cô như vậy trong nhà. 25 Người nữ phóng viên nhiếp ảnh mời Tereza xuống phòng ăn tập thể dùng cà phê. “Ảnh cô chụp thú vị lắm. Tôi thấy cô có con mắt với thân hình người nữ. Cô biết tôi nói gì chứ. Ảnh những cô gái dáng điệu khiêu khích.” “Những cô gái ôm hôn người lạ trước mũi xe tăng Nga?” “Đúng đấy. Cô có triển vọng trở thành nhiếp ảnh gia thời trang thượng thặng, cô biết không? Cô cần tìm cho mình một người mẫu, một người đang cần việc làm như cô chẳng hạn. Rồi cô tự thực hiện một bộ ảnh, xong đem đến cho các tay đại diện xem. Dĩ nhiên, cô sẽ phải mất thời gian khá lâu trước khi tên tuổi cô được chú ý. Nhưng tôi có thể giúp cô ngay lúc này, ngay tại đây: để tôi giới thiệu cô với người chủ biên phụ trang vườn tược trong tờ tạp chí của chúng tôi. Ông ta chắc đang cần vài tấm ảnh xương rồng hay hoa hồng gì đó.” “Cảm ơn bà nhiều lắm.” Tereza chân thành cảm ơn bà ta bởi hiển nhiên người đàn bà đang ngồi đối diện cô là người đầy lòng hảo tâm. Nhưng cô tự nói với chính cô, tại sao mình phải đi chụp ảnh xương rồng. Ở Zurich cô không muốn tái diễn chặng đường cô trải qua khi còn ở Praha: chiến đấu trong việc làm, tranh đấu cho từng bức ảnh được đăng báo. Cô chẳng bao giờ có tham vọng tìm kiếm hư danh. Cô chỉ muốn thoát khỏi thế giới của mẹ cô thôi. Vâng, cô ý thức rõ ràng lắm: dù cô nhiệt tình với nhiếp ảnh đến mấy chăng nữa cô vẫn có thể dễ dàng chuyển hướng sang bất cứ mục đích nào khác trong đời. Nhiếp ảnh chỉ là phương tiện giúp cô với lên tới “cái gì cao hơn” và giúp cô được sống bên cạnh Tomas. “Chồng tôi là bác sĩ. Anh ấy đủ sức nuôi tôi. Tôi thấy không cần thiết phải đi chụp ảnh làm gì.” Người nữ phóng viên nhiếp ảnh trả lời: “Tôi thấy rất uổng nếu cô bỏ ngang sau khi chụp những bức ảnh đẹp như vậy.” Vâng, những bức ảnh ghi nhận cuộc xâm lăng là cái gì hoàn toàn khác. Cô làm không phải cho Tomas. Nó đến từ lòng đam mê. Nhưng không phải lòng đam mê nhiếp ảnh. Tình huống này chắc sẽ không bao giờ tái diễn. Và những bức ảnh này, những bức ảnh có được nhờ lòng đam mê của cô, là những bức không ai thèm công nhận vì chúng đã mất yếu tố thời gian. Chỉ xương rồng mới hấp dẫn muôn đời. Và cô thấy xương rồng chẳng thú vị chút nào. Tereza nói: “Bà thật tốt bụng, nhưng tôi thích ở nhà hơn. Tôi thấy không cần phải đi làm.” Người đàn bà tiếp lời: “Nhưng ngồi nhà cô thấy hài lòng không?” “Hài lòng hơn chụp hình xương rồng.” “Dù phải chụp hình xương rồng, cô sống đời sống trong đó cô chủ động. Nếu cô chỉ sống cho chồng con thôi cô đâu còn đời sống của riêng cô nữa.” Đột nhiên Tereza thấy khó chịu: “Chồng tôi là đời sống tôi chứ không phải xương rồng.” g p g g Người nữ phóng viên nhiếp ảnh vẫn ôn tồn: “Cô muốn nói cô là người sung sướng?” Vẫn thấy khó chịu, Tereza trả lời: “Dĩ nhiên tôi sung sướng!” “Hạng đàn bà duy nhất nói được câu nói đó là hạng …” Bà ta bỗng im bặt, bỏ lửng câu nói. “… hạn hẹp. Có phải bà muốn nói như vậy?” Người đàn bà lấy lại tự chủ: “Không phải hạn hẹp. Lỗi thời thì đúng hơn.” “Đúng. Chồng tôi vẫn nói về tôi như thế.” Tereza bâng khuâng trả lời. 26 Nhưng Tomas suốt ngày cắm đầu vào công việc ở bệnh viện và Tereza thui thủi một mình ở nhà. Ít nhất cô có con chó Karenin bên cạnh, thỉnh thoảng cô dẫn nó ra ngoài đi dạo. Về nhà cô chỉ biết mải miết chúi đầu vào đống sách vở văn phạm Đức, Pháp. Nhưng cô chỉ thấy nỗi buồn vây kín và không sao tập trung được tư tưởng. Cô miên man nghĩ đến bài diễn của Dubcek đọc trên làn sóng điện sau khi ông từ Moskva về. Mặc dù đã quên bẵng nội dung bài diễn từ, cô vẫn nghe văng vẳng bên tai giọng nói run rẩy của ông. Cô vẽ ra cảnh những tên lính ngoại xâm xông vào uy hiếp và cầm tù ông, lãnh tụ một quốc gia độc lập, ngay trên mảnh đất quê hương ông rồi giam giữ ông hết bốn ngày tại nơi nào đó vùng đồi núi Ukrainia, cho ông hay ông sẽ bị hành quyết – cũng như trước đó mười năm họ hành quyết lãnh tụ Imre Nagy của Hung-ga-ri – đoạn đẩy ông lên xe chở về Moskva, ra lệnh ông tắm rửa, cạo râu, thay quần áo mới, thắt cà vạt, thông báo cho ông biết về quyết định hoãn lệnh hành quyết, khuyên ông nên trở về làm lãnh tụ thêm lần nữa, ấn ông ngồi xuống ghế đối diện Brezhnev, và bắt ông diễn kịch. Ông trở về trong nhục nhã để hiệu triệu cái xứ sở nhục nhã của ông. Ông nhục đến nỗi nói không ra hơi. Tereza không bao giờ quên những giây khắc im lặng rợn người trong bài diễn từ ông đọc. Ông mệt mỏi đến kiệt tàn hơi sức ư? Ông đang ốm đau? Ông bị thuốc? Hay đó chỉ là tuyệt vọng? Nếu chẳng có gì đáng nói tồn tại nơi con người Dubcek, ít nhất những giây khắc im lặng đến rợn người đó sẽ còn mãi mãi, những giây khắc khi ông dường như không còn khả năng hít thở, khi ông thở hổn hển trong lúc toàn thể dân chúng im lặng lắng nghe trước máy thu thanh. Những giây khắc im lặng chứa đựng nỗi kinh hoàng đã đổ chụp lên đầu người dân Tiệp. Ngày thứ bảy của cuộc xâm lăng, Tereza ngồi nghe Dubcek đọc bài diễn từ trong phòng biên tập của tờ báo cô đang cộng tác mà chỉ qua đêm biến thành bộ phận của phong trào phản kháng. Mọi người có mặt lúc đó đều tỏ thái độ chê trách, bất bình Dubcek. Họ chỉ trích ông đã thỏa hiệp; họ thấy nhục nhã; sự yếu đuối của ông khiến họ bị xúc phạm. Khi chạy sang Zurich và hồi tưởng những ngày giờ đó, Tereza không oán ghét ông nữa. “Yếu đuối” không có tội. Bất cứ ai phải đương đầu với sức mạnh cương cường hơn đều cảm thấy yếu đuối có lúc cô tưởng như ghê gớm khôn kham, sự yếu đuối đẩy Tereza và Tomas ra khỏi quê hương hai người. Cô thấy cô là người đứng trong hàng ngũ những kẻ yếu đuối, trong xứ sở những người yếu đuối, hơi thở hổn hển giữa những câu nói ngập ngừng, đứt quãng. Cô bị sự yếu đuối này lôi cuốn y như căn bệnh sợ hãi độ cao từng lôi cuốn cô trước đây. Cô bị lôi cuốn bởi chính cô cũng cảm thấy yếu đuối. Một lần nữa cô bị lòng ghen tuông nung nấu và một lần nữa hai tay cô lại run lên bần bật. Khi Tomas chú ý nhận ra cô như vậy, anh lại làm cái việc anh thường làm: ôm hai tay cô trong tay rồi cố xoa dịu bằng cách siết chặt. Cô giật ra khỏi tay anh. “Em, việc gì vậy?” Tomas hỏi cô. “Không có gì.” “Em muốn anh làm gì cho em?” “Em muốn anh già đi. Già đi đến mười tuổi. Hai mươi tuổi!” Ý cô muốn nói: Em muốn anh yếu đi. Yếu như em đây. 27 Karenin chẳng vui sướng chút nào khi phải di chuyển sang Thụy Sĩ. Nó ghét thay đổi. Chúng ta không thể vẽ biểu đồ thì giờ loài chó dọc theo đường thẳng; nó không tiệm tiến từ điểm này sang điểm kia. Nó chuyển động theo đường tròn như kim đồng hồ, từ tốn quay tròn, ngày này qua ngày khác trên cùng con đường. Hồi còn ở Praha, Karenin bực bội mỗi khi Tomas và Tereza mua về cái ghế mới hay di chuyển chậu hoa từ chỗ này sang chỗ khác. Ý niệm về thời gian của nó bị khuấy động như thể hai người cố tình lừa cây kim đồng hồ bằng cách đánh tráo những con số trên mặt. Tuy vậy, chẳng bao lâu nó tái lập trật tự và tập quán cũ trong căn nhà ở Zurich. Cũng như hồi còn ở Praha, sáng sáng nó nhảy lên giường đánh thức hai người, rồi theo chân Tereza đi dạo phố mua sắm, nó cũng không quên các buổi đi dạo khác trong ngày. Nó là thời biểu của cuộc sống hai người. Những khi tuyệt vọng, Tereza phải tự nhắc nhở hãy vì Tomas mà cố sức bám víu vào cuộc sống, vì anh yếu đuối hơn cô, có lẽ yếu hơn cả Dubcek và mảnh đất bị ruồng bỏ của hai người. Một hôm, lúc vừa đi dạo về, trong nhà bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang, Tereza cầm lên hỏi ai ở đầu dây bên kia. Cô nghe giọng đàn bà nói tiếng Đức xin nói chuyện với Tomas. Giọng cô ta có vẻ nóng nảy và Tereza cảm tưởng như có sự nhạo báng trong đó. Khi cô trả lời Tomas không có nhà và cô không rõ bao giờ anh về, người đàn bà ở đầu dây bên kia cất tiếng cười rồi cúp máy. Tereza biết đây chẳng phải chuyện chi ghê gớm. Có thể đó chỉ là người nữ y tá ở bệnh viện, hay một bệnh nhân, một cô thư kí, bất kỳ ai. Nhưng cô vẫn bực dọc và không tài nào tập trung tư tưởng làm việc khác. Đến đây cô nhận ra cô đã mất luôn chút sinh lực cuối cùng rơi rớt hồi còn ở quê nhà: cô hoàn toàn không có khả năng dung thứ câu chuyện tuyệt đối tầm thường cỏn con như vậy. Sống trên mảnh đất xa lạ nghĩa là đi trên dây giăng cao cách xa mặt đất mà không có lưới đỡ bên dưới, cái lưới đỡ chính là nơi chốn con người có gia đình, bằng hữu, đồng nghiệp, nơi con người có thể dễ dàng nói điều mình muốn nói bằng ngôn ngữ quen thuộc từ thuở ấu thơ. Ở Praha, cô chỉ tùy thuộc Tomas trong những vấn đề tình cảm, liên quan đến quả tim; ở đây cô tùy thuộc anh tất cả. Mai kia, giả như anh ruồng rẫy cô thì cô sẽ ra sao? Cô phải sống suốt đời trong nỗi ám ảnh lo sợ có ngày mất Tomas sao? Cô nhủ thầm: Sự quen biết giữa hai người dựa trên sai lầm ngay từ lúc ban đầu. Quyển sách Anna Karenina cô kẹp dưới nách là giấy tờ giả mạo; nó khiến Tomas có ý tưởng không đúng về cô. Dù yêu thương nhau nhưng hai người biến đời nhau thành địa ngục. Sự kiện hai người có tình yêu cho nhau chỉ là bằng chứng lỗi lầm không ở hai người, không ở thái độ cư xử nhau hay sự thất thường của cảm xúc. Lỗi lầm đó bắt nguồn từ sự tương khắc giữa hai người: Tomas cứng cỏi, mạnh mẽ còn Tereza yếu đuối, mỏi mòn. Cô giống Dubcek, người phải ngưng đến ba mươi giây đồng hồ trong một câu nói; cô giống cái xứ sở của cô, cái xứ sở nói lắp bắp, thở hổn hển, và không sao thốt lên nổi một câu nói tầm thường. Nhưng khi người mạnh mẽ quá yếu đuối khiến người yếu đuối đau đớn thì người yếu đuối phải mạnh mẽ lên để cất bước giã từ. Và sau khi tự nói với mình tất cả những điều này, Tereza dí sát mặt vào cái đầu bù xù của con chó Karenin: “Rất tiếc Karenin ạ. Dường như mày lại phải di chuyển thêm lần nữa.” g y ạ p y 28 Ngồi nép mình vào góc buồng toa xe lửa với chiếc va li nặng trĩu nhét trên hộc và con Karenin kẹp giữa hai chân, cô không ngớt suy nghĩ về gã đầu bếp tiệm ăn khách sạn nơi cô làm việc trong thời gian còn chung sống với bà mẹ. Gã đầu bếp không bỏ lỡ cơ hội nào vỗ lên phần sau của cô và không bao giờ chán miệng hỏi cô cách thật nham nhở trước mặt mọi người là bao giờ cô mới chịu lên giường với gã. Kể cũng kì lạ gã lại là người cô liên tưởng đến trong lúc này. Từ hồi nào, gã vẫn là thí dụ cho cái gì cô khinh miệt, ghê tởm nhất. Giờ đây cô chỉ biết ngước mặt lên hướng nhìn về phía gã và nói: “Anh thường nói anh muốn ngủ với tôi. Thì đây, tôi đây.” Cô muốn làm cái gì ngăn chặn, không cho cô quay về Tomas. Cô mong nhìn thấy chính tay mình đập phá bảy năm trời vừa trôi qua cuộc đời cô. Nó là căn bệnh sợ hãi độ cao. Một cảm giác mãnh liệt, không sao chế ngự nổi, cảm giác mong muốn rơi ngã xuống. Chúng ta còn có thể gọi bệnh sợ độ cao là sự chìm đắm trong nỗi say sưa của kẻ yếu. Biết ra nhược điểm của mình, hắn bó tay chịu thua chứ không chống trả. Hắn say đắm với sự yếu đuối, mong yếu hơn nữa, mong rơi xuống ngay trung tâm thành phố trước mắt mọi người, mong xuống thấp hơn, thấp hơn cả tận cùng bên dưới. Cô cố tự thuyết phục sẽ thu xếp dọn về sinh sống nơi nào đó ngoài Praha và từ bỏ luôn nghề nhiếp ảnh. Cô dự định quay về cái tỉnh lị nhỏ bé nơi tiếng gọi của Tomas có thời quyến rũ mời gọi cô. Nhưng khi về Praha cô phải dùng thì giờ giải quyết đôi ba việc vặt vãnh và cứ phải lần lữa trì hoãn chuyện di chuyển. Ngày thứ năm từ hôm cô quay về, Tomas thình lình xuất hiện. Karenin nhẩy chồm lên người anh và vì vậy phải mất lúc khá lâu hai người mới rảnh tay chào đón nhau. Hai người có cảm tưởng như đang đứng trên cánh đồng tuyết, thân thể run rẩy vì giá lạnh. Đoạn hai người tiến lại nhau như những người tình chưa bao giờ biết hôn. “Mọi việc yên ổn cả chứ?” Anh hỏi. “Vâng.” “Em ra tòa báo chưa?” “Em có gọi điện thoại.” “Rồi sao?” “Không có gì cả. Em vẫn đang chờ.” “Em chờ gì?” Cô không trả lời Tomas cô đang chờ cái gì. Cô không thể bảo anh cô vẫn chờ đợi ngày anh quay về. 29 Bây giờ hãy trở lại thời điểm chúng ta đã biết qua. Tomas sầu thảm đến tuyệt vọng và bao tử anh nhói lên từng cơn đau đớn. Đêm nào anh cũng mất ngủ. Tomas ngủ được một lát thì Tereza thức giấc. (Máy bay Nga vần vũ bay lượn trên bầu trời Praha và không ai có thể yên giấc vì tiếng động.) Vì cô anh quay về. Đó là ý tưởng hiện đến trước hết trong đầu Tereza khi Tomas trở về. Vì cô anh thay đổi định mệnh đời anh. Anh không còn trách nhiệm gì với cô nữa; trách nhiệm đó giờ đây ở phía cô. Cô thấy tinh thần trách nhiệm này dường như đòi hỏi sức mạnh quá mức nơi cô. Nhưng thốt nhiên cô nhớ ra trước ngày anh xuất hiện tại ngưỡng cửa căn nhà, chuông nhà thờ bỗng đổ sáu tiếng. Hôm hai người gặp nhau lần đầu, ca làm của cô tan vào lúc sáu giờ. Cô thấy anh ngồi xa xa trên chiếc ghế dài màu vàng đối diện cô và cô nghe chuông nhà thờ đổ sáu tiếng. Không, đây không phải là lòng mê tín dị đoan, nó là cái cảm quan thẩm mĩ cứu vớt cô khỏi nỗi chán chường tuyệt vọng và thâm nhập, tiêm nhiễm vào cô ý chí mới mẻ cho cô sống tới. Đàn chim của ngẫu nhiên lần nữa lại đáp xuống đậu trên vai cô. Hai mắt cô nhòe đi và cô thấy tràn ngập nỗi sung sướng không sao diễn tả được khi nghe tiếng thở đều đặn của Tomas bên cạnh mình. PHẦN BA những từ ngữ bị hiểu sai 1 Geneva là thành phố có những bồn phun nước lớn nhỏ, những công viên nơi có thời vang lừng tiếng nhạc. Ngay cả khu trường đại học cũng nằm khuất sau những lùm cây. Franz vừa dạy xong lớp học chiều. Lúc anh bước chân ra khỏi giảng đường, vòi phun nước đang thi nhau bắn lên không trung những cột nước trắng bạc tưới xuống thảm cỏ xanh. Lòng anh rộn rã niềm vui. Anh đang trên đường đến thăm cô nhân tình anh ở cách đó vài con đường. Anh ghé nhà cô luôn, nhưng khi đến anh tự cho mình đóng vai trò người bạn chứ không phải người tình. Bởi nếu anh làm tình với cô nơi phòng vẽ cô ngay tại Geneva này hóa ra anh là người đàn ông đi từ vợ sang nhân tình rồi về với vợ, trong cùng một ngày sao. Thêm nữa, ở Geneva vợ chồng ngủ với nhau theo kiểu Pháp, tức là chung một giường, anh biến thành gã đàn ông bò từ giường người đàn bà này sang giường người đàn bà khác trong khoảng thời gian vỏn vẹn vài tiếng đồng hồ. Anh thấy điều đó xúc phạm cả vợ lẫn tình nhân, cuối cùng cả anh nữa. Hai người yêu nhau được mấy tháng. Tình yêu anh dành cho cô quý giá đến độ anh cố tạo riêng cho nó chỗ đứng độc lập trong đời sống anh, một vùng đất tinh khiết được bao che chặt chẽ, trong đó anh cất giấu hình ảnh cô. Anh thường được mời đi diễn thuyết tại các trường đại học nước ngoài và khác với dạo trước, anh không từ chối bất cứ lời mời nào. Thế vẫn chưa đủ, anh còn bịa ra những cuộc hội nghị, những phiên họp tưởng tượng để kiếm cớ vắng nhà. Cô nhân tình của anh, không bị ràng buộc bởi việc làm, có mặt bên cạnh anh trong tất cả những lần đi nói chuyện đó, những buổi diễn thuyết có thật cũng như do anh tưởng tượng. Thế là, chỉ sau thời gian ngắn ngủi, anh đưa cô đi thăm rất nhiều thành phố Âu châu và một thành phố Mỹ châu. “Mười hôm nữa em đi Palermo với anh nhé.” Anh bảo cô “Em thích Geneva hơn.” Cô trả lời, mắt vẫn chăm chú xem xét bức tranh đang vẽ dở. “Không đi Palermo mà em sống được à?” Franz hỏi lại, cố gắng tạo không khí vui tươi. “Em biết Palermo rồi.” “Em biết rồi?” Giọng anh đượm chút ghen tuông. “Một người bạn có lần đi Palermo gửi cho em tấm bưu thiếp. Em dán nó trên toa-lét, anh không thấy sao?” Rồi cô kể anh nghe câu chuyện: “Hồi xửa hồi xưa, vào khoảng đầu thế kỷ, có người thi sĩ già. Ông già đến nỗi người môn đệ phải xốc nách đỡ ông lên mỗi khi ông bước chân ra ngoài. Một hôm, người môn đệ nói: ‘Ô kìa, thầy! Nhìn lên trời mà xem. Lần đầu tiên có phi cơ bay trên thành phố.’ Cụ già không buồn ngẩng đầu lên, mắt vẫn nhìn xuống đất, trả lời người môn đệ: ‘Thầy có hình của nó rồi.’ Em có bức hình thành phố Palermo. Nó cũng có chừng đó khách sạn và chừng đó xe cộ như tất cả những thành phố khác. Và phòng vẽ của em luôn luôn có những bức hình mới lạ.” Franz thấy buồn bã. Anh đã quen với cách ràng buộc liên hệ tình cảm của hai người bằng những chuyến du lịch ra nước ngoài, đến nỗi câu nói “Chúng ta đi Palermo đi!” thật ra chỉ là gợi ý “Chúng ta hãy làm tình đi!” và câu trả lời “Em thích Geneva hơn” chỉ có thể chứa đựng ngụ ý: cô hết ham muốn anh rồi. Tại sao anh cảm thấy bất an đến vậy? Đã có tín hiệu nào khiến anh phải lo sợ đâu! Sự thật, chính cô là người tấn công anh trước, ngay sau khi hai người gặp gỡ nhau lần đầu. Nhân dáng, mặt mũi anh dễ nhìn. Anh lại có địa vị rất cao trong nghề nghiệp. Đồng nghiệp anh ai cũng phải e dè tính khí cao ngạo cũng như vẻ tự tin đến chắc nịch toát ra từ con người anh vào những dịp hội họp giữa những nhân vật trong giới. Nếu vậy tại sao anh mang canh cánh trong lòng mối lo âu hằng ngày cô nhân tình anh đang sắp sửa từ bỏ anh. Tôi chỉ có thể giải thích, với Franz, tình yêu không phải là phần nối dài đời sống xã hội, mà cái gì hoàn toàn tương phản. Có nghĩa tình yêu là lòng mong muốn được quy phục dưới gót chân người tình. Kẻ quy hàng làm tù binh phải nộp luôn vũ khí. Và vì bị tước đoạt mất khả năng tự vệ dùng chống trả cú đánh phủ đầu, hắn không tránh được mối lo sợ thường xuyên không biết lúc nào cú đánh đổ ụp xuống. Đó là lý do tại sao tôi dám đoán chắc, với Franz, tình yêu đồng nghĩa với sự chờ đợi cú đánh chí tử từ trên đổ xuống đó. Trong lúc Franz thừ người ra với cơn buồn bực, người đàn bà buông cọ vẽ xuống và khuất mình sau gian phòng bên cạnh. Cô trở ra với chai rượu trên tay. Cô khui rượu, không nói không rằng, rót ra ly cho hai người. Ngay lập tức, Franz thở ra nhẹ nhõm và anh thấy hơi khôi hài. Câu nói “Em thích Geneva hơn” không có nghĩa cô từ chối, không chịu làm tình với anh nữa, ngược lại, nó ngụ ý cô chán cảnh phải giới hạn chỉ được yêu nhau tại các thành phố nước ngoài. Cô đưa ly rượu lên môi uống cạn. Franz làm theo cô. Dĩ nhiên, anh thấy sung sướng vô cùng vì lời từ chối đi Palermo của cô thật ra là lời kêu gọi tình yêu, nhưng anh lại vẩn vơ lo lắng mối lo khác: cô nhân tình của anh dường như sẽ quyết liệt vi phạm vùng đất tinh khiết do anh tạo dựng ra cho mối liên hệ giữa hai người; cô không chịu hiểu giùm anh những cố gắng anh lúng túng làm chỉ vì anh muốn tình yêu hai người bớt vô vị, nhàm chán và tách biệt nó khỏi ngôi nhà hôn nhân của anh. Thái độ tự trói buộc mình không làm tình với cô ở Geneva thật ra chỉ là hình thức Franz tự trừng phạt mình về tội đã kết hôn với người đàn bà khác. Anh mang trong người mặc cảm có điều gì đó tội lỗi hay không toàn vẹn. Mặc dù chuyện chăn gối giữa hai vợ chồng anh thật tình chẳng có gì đáng nói, anh vẫn ngủ chung giường với vợ, nửa đêm vẫn thức giấc giữa hơi thở nặng nề của nhau và hít vào phổi mùi vị, hơi hướm trên thân thể nhau. Đúng, anh muốn ngủ riêng giường, nhưng chiếc g g g g g g giường hai người nằm chung vẫn là biểu tượng của ràng buộc trong hôn nhân và như chúng ta biết, cái gì là biểu tượng rồi đề trở nên bất khả xâm phạm. Mỗi lần nằm bên cạnh vợ trên chiếc giường đó, trong đầu anh lại nảy lên ý nghĩ cô nhân tình anh chắc đang tưởng tượng ra cảnh anh đang nằm cạnh vợ như vầy, và lần nào anh cũng thấy xấu hổ với chính mình. Đó là lý do tại sao anh muốn tách rời chiếc giường anh nằm ngủ chung với vợ ra thật xa, càng xa càng tốt, chiếc giường anh làm tình với người đàn bà họa sĩ, nhân tình của anh. Người đàn bà rót thêm ly rượu nữa. Cô cạn ly rồi vẫn trong im lặng và với vẻ dửng dưng đến kỳ lạ, như thể quên bẵng sự có mặt của Franz ở đó, cô từ tốn đưa tay lên cởi áo ngoài. Cô hành động như người sinh viên kịch nghệ đang tập diễn trong lớp học để cả lớp phải tin cô đang một mình trong lớp và không ai nhìn thấy cô. Cô đứng đó, trên người chỉ còn bộ quần áo lót. Đột nhiên (như chợt nhớ ra Franz đang có mặt), cô giương mắt nhìn anh trân trân. Anh hoàn toàn không hiểu nổi cái nhìn. Nó làm anh bối rối. Tất cả những người yêu nhau, dù không chủ ý, thường tự bày cho mình những lề thói trò chơi tình ái mà ngay từ giai đoạn đầu đã không để bất cứ điều gì vượt qua lằn ranh giới hạn. Cái nhìn cô đang dán lên người Franz không có trong những lề thói trò chơi tình ái đó; nó không giống bất cứ cái nhìn, bộ tịch nào hai người thường có trước khi làm tình. Nó không mang vẻ khiêu khích hay bỡn cợt; nó mang một dấu hỏi, như đang thắc mắc điều gì vậy thôi. Vấn đề là Franz không hề biết ý niệm mơ hồ nào đó đang hỏi han điều gì. Kế đó, cô nhấc chân ra khỏi chiếc áo ngoài, nắm tay Franz và kéo anh đến đứng trước tấm gương lớn treo trên tường. Vẫn nắm tay người đàn ông, cô nhìn vào gương, vẫn cái nhìn như muốn tra vấn điều gì, thoạt đầu nhắm vào chính cô rồi quay sang Franz. Gần tấm gương lớn dựng giá treo tóc giả, trên giá treo một cái mũ dạ tròn màu đen cũ kỹ. Cô cúi xuống, cầm mũ đội lên đầu mình. Hình ảnh trong gương lập tức biến đổi: hình ảnh người đàn bà trong bộ quần áo lót, kiều diễm nhưng xa lạ và cách biệt, đầu đội cái mũ dạ tròn trông lạc lõng đến thảm thương, tay nắm tay người đàn ông cổ cồn cà vạt, com lê xám. Một lần nữa anh lại mỉm cười cho sự ngu ngốc của mình không sao hiểu nổi tâm lý cô nhân tình. Cô cởi áo ra không phải để lẳng lơ gợi tình mà như để diễn xuất trong vở tuồng cỏn con kỳ quặc, một tiết kịch chỉ có hai người. Anh nở rộng nụ cười rạng rỡ ra vẻ thông hiểu và chấp thuận. Anh đợi chờ từ cô một cử chỉ dịu dàng, nhưng cô làm như không biết. Vẫn nắm tay anh, cô đứng yên nhìn vào gương, trước nhìn vào chính mình sau quay sang anh. Giờ khắc qua đi. Franz bắt đầu cảm thấy pha tuồng (mà anh thấy vui vui nghĩ nó không đến nỗi quá vô duyên) kéo dài quá lâu. Anh sẽ sàng đưa hai ngón tay lên kẹp vành mũ rồi nhấc nó khỏi đầu cô, miệng vẫn mỉm cười, anh đặt nó trở lại chỗ treo tóc giả. Anh hành động như thế đang cố bôi xóa vệt đen do đứa trẻ tinh nghịch nào vẽ râu lên hình Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Cô giữ người bất động thêm vài giây nữa, mắt vẫn chăm chú nhìn vào gương. Franz phủ lên người cô những nụ hôn mơn trớn. Anh lặp lại đề nghị ban nãy rủ cô mười hôm nữa đi Palermo với anh. Lần này cô ừ, không hỏi han vặn vẹo gì và anh từ giã cô ra về. Anh lại thấy lòng mình tràn ngập niềm vui. Thành phố Geneva, suốt đời anh nguyền rủa là thành phố buồn thiu, bữa nay bỗng trở nên đẹp đẽ và đầy ắp những cuộc phiêu lưu. Lúc bước xuống đường, anh ngoảnh cổ ngước đầu lên nhìn khung cửa sổ rộng của căn phòng. Cửa sổ che nắng bằng những tấm bạt sọc. Franz tản bộ về phía công viên. Xa xa, nóc vòm ngôi nhà