🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đội Đặc Nhiệm Tk1
Ebooks
Nhóm Zalo
Đội đặc nhiệm TK1
Tác giả: Phan Văn Lợi
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân Năm xuất bản: 2002
Nguồn: ptlinh, chienvit (quansuvn.net) Ebook: do_long_khanh, TVE Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org
Giới thiệu
Vào 1 ngày đẹp trời sau Mậu Thân 68, Vệ Tinh của Liên Xô bỗng phát hiện ra dấu vêt rõ ràng của kim loại quý tại vùng rừng hẻo lánh sát biên giới Lào của tỉnh Quảng Nam. Một mỏ vàng lộ thiên hay một kho vàng cũ của phát xít Nhật? Một đội đặc nhiệm được thành lập để thực hiện cuộc tìm kiếm. Đội mang tên TK1, bao gồm 4 thành viên:1 chiến sĩ an ninh, 2 trinh sát đặc nhiệm và 1 cán bộ địa chất giàu kinh nghiệm.
4 người đã tiến hành tìm kiếm xuyên qua vùng rừng nguyên sinh hầu như chưa có dấu chân người, qua nhưng nghĩa địa voi, rừng khô cháy, núi cao, vực sâu. Người cán bộ địa chất bất ngờ gặp tai nạn và hy sinh khi vượt vực, mang theo mọi bản đồ và la bàn. 3 người còn lại tiếp tục hành trình bằng kinh nghiệm của thợ săn. Khi đến đúng địa điểm đánh dấu trên bản đồ, họ bị trực thăng của kẻ thù phát hiện và săn đuổi.
Chương I
Buổi chiều một ngày đầu tháng 4 năm 1969.
Đang chuẩn bị cho chuyến đột nhập về vùng ven thị xã Quảng Trị, tôi bỗng được lệnh lên gặp ông Thủy để nhận công tác gấp. Chia tay với Bằng và Dũng, hai người đồng đội cùng tổ trinh sát, tôi vội vã đi lên khu hầm chỉ huy, trong lòng thấp thỏm. Vẫn biết đi công tác đột xuất đồi với lính an ninh là chuyện thường tình, nhưng đích thân đồng chí trưởng ty giao nhiệm vụ thì hẳn là công việc rất quan trọng...
Ông Thủy rút từ cặp hồ sơ ra tờ giấy ghi điện mật, nhưng không đưa cho tôi mà giơ lên trước đèn, vừa nhìn bức điện vừa nói:
– Tôi mới nhận được điện của Khu ủy, trên ấy điều cậu đi công tác gấp. Trong điện ghi đích danh nên không thể thay bằng người khác được. Chính vì thế mà tôi phải cho đồng chí Diễn xuống ngay, sợ các cậu đi rồi thì lỡ việc. Thế nào, đột xuất như vậy có ảnh hưởng gì tới công việc của tổ cậu không?
– Báo cáo, không sao ạ! Đồng chí Bằng đảm đương được, cậu Dũng cũng quen rồi. Nhưng có việc gì mà Khu ủy điều đến tôi ạ? Ông Thủy nhìn tôi, mắt thoáng cười sau cặp kính loáng ánh đèn:
– Đừng sốt ruột? Cậu đã biết rồi, có những việc khi bắt tay vào làm mới rõ. - Ông ngừng lại như để cân nhắc điều gì, rồi nói tiếp - Riêng trong chuyện này, tôi cũng mới nắm những nét chung nhất thôi. Về phần cậu chỉ cần nhớ: Khu ủy điều cậu đi công tác gấp, trong chiều mai phải có mặt ở T.2. Đường xa lại khó đi, cậu phải lên đường ngay mới kịp.
Ông mở cặp hồ sơ trên bàn, lấy ra tờ giấy giới thiệu:
– Không có lệnh điều động đâu! Tôi đã viết sẵn giấy giới thiệu cho cậu. À, trong điện nói rõ: chỉ mang theo vũ khí và tư trang cần thiết. Những thứ cần dùng cho công tác sắp tới sẽ lĩnh ở T.2. Cậu cần bao lâu để chuẩn bị?
– Báo cáo, tôi đi ngay được ạ!
– Tốt! Đây là mật khẩu đêm nay trên đường giao liên, đọc xong nhớ kỹ rồi đưa lại cho tôi. - Ông đưa tôi mảnh giấy nhỏ - Tôi đã điện hỏi bên giao liên, đường đêm nay yên, đi được.
Tôi đọc mật khẩu rồi đưa trả mảnh giấy. Mật khẩu rất dễ nhớ. Còn tờ giấy giới thiệu tôi gấp lại, cẩn thận cho vào bao nilong, cất trong túi áo ngực. Nội dung giấy giới thiệu cũng như thường lệ, chỉ phần lý do công tác lại ghi: "Gặp anh Hai Nguyên", rất cụ thể nhưng khó hiểu.
Ông Thủy tháo kính, ngả người vào lưng ghế:
– Cậu còn hỏi gì nữa không?
Tôi chưa trả lời ngay, trong đầu thoáng nghĩ về chặng đường sắp tới. Chưa đến T.2 lần nào, nhưng tôi biết đó là trạm giao liên thuộc đường dây 559, chuyên đưa đến các đoàn cán bộ vào ra công tác ở Trị Thiên. Trạm nằm ở phía tây Vĩnh Linh, đâu như trong một cánh rừng thuộc Bãi Hà. Như vậy đêm nay tôi lại đi ra Bắc, ngược hướng với Bằng và Dũng. Sẽ vượt sông Bến Hải ở Bến Than. Sức trai hăm ba tuổi lại quen vất vả từ nhỏ, chặng đường này đối với tôi chẳng mùi mẽ gì.
Ngẩng đầu lên, thấy ông Thủy vẫn đang chờ trả lời, tôi vội đáp: – Báo cáo, rõ cả rồi ạ! Chỉ có đoạn từ Bến Than đến T.2 tôi chưa đi lần nào...
– Qua Bến Than, cậu phải đi gần một ngày nữa. Tới đó đã là đất miền Bắc, cứ hỏi đường lên Bãi Hà, sẽ có người đến. Nhưng nhớ giữ kỹ giấy giới thiệu. Không có nó, cậu không đi được bước nào trên đất Vĩnh Linh đâu. À, cậu quê ngoài đó cơ mà, còn lạ gì nữa!
Ông đứng dậy tới bên chiếc ba lô treo ở vách hầm, lấy ra hai phong lương khô đưa cho tôi:
– Cầm lấy ăn dọc đường. Chỉ đi trong một ngày đêm, khỏi cần xuống hậu cần nhận gạo. Vả lại đi gấp cũng chẳng kịp nấu cơm. Mà ra quê cậu đâu có lo đói. Này, cậu biết anh Hai Nguyên rồi phải không?
– Dạ, đã gặp vài lần rồi ạ! Anh Hai Nguyên là cán bộ lãnh đạo của Khu ủy, tôi có gặp mấy lần khi anh về Ty an ninh làm việc. Đó là người lãnh đạo mà lính an ninh chúng tôi hết lòng kính phục. Anh có tác phong giản dị, cách nói chuyện rất hấp dẫn, vừa sâu sắc vừa dí dỏm. Cánh trinh sát bên Tỉnh đội kể mãi về chuyện trước Mậu Thân, anh cùng lính đặc công mặc đồ cụt ngụy trang cắp AK bò vào tan sân bay Ái Tử, thành thạo không kém bất cứ một chiến sĩ đặc công dày dạn nào. Về tuổi tác, đáng ra như tôi phải gọi anh bằng chú, nhưng anh dặn chúng tôi cứ gọi bằng anh cho dễ xưng hô và để anh được trẻ lâu...
Thấy ông Thủy nhìn đồng hồ, tôi vội nhìn xuống chiếc "Pônzốt” đeo ở cổ tay: đã bảy giờ tối.
– Thôi, cậu đi được rồi đấy?
Ông đứng dậy cầm chiếc ba lô nhẹ tênh giúp tôi khoác lên vai và đi cùng tôi ra tới cửa hầm ngoài cùng. Đặt cả hai tay lên vai tôi, ông thân mật nói:
– Mình chưa biết cụ thể công việc sắp tới của cậu, nhưng chuyến đi này có lẽ dài ngày. Vậy chúc cậu lên đường may mắn và mạnh khoẻ. Trước lúc cậu đi, mình chỉ dặn một điều: Khi trên đã điều động một người lính an ninh, thì có nghĩa công việc sắp tới không chỉ cần đến lòng dũng cảm trung thành, mà còn cần cả kinh nghiệm, sự hiểu biết và bản lĩnh của một chiến sĩ an ninh. Thôi, đi nhé!
Cảm động trước lời dặn dò chân tình của ông, tôi bối rối nên chỉ đáp ấp úng: "Chào thủ trưởng, tôi đi ạ"' ông bắt tay tôi lần cuối rồi quay vào hầm.
Xốc lại chiếc ba lô và khẩu súng trên vai, tôi bước ra mé đồi đưa mắt tìm lối đi. Lúc đó tôi đâu có ngờ rằng mình đang bước những bước đầu tiên của một chuyến đi dài ngây, một chuyến đi kỳ lạ chẳng hề giống bất cứ chuyến công tác nào trước đó.
Sau gần một đêm và một ngày cuốc bộ thật lực, tôi tới trạm khách của T.2 đúng giờ qui định nhưng không gặp anh Hai Nguyên, chỉ nhận được mẩu giấy của anh gửi lại với nội dung ngắn và rõ như một mệnh lệnh: "Nghỉ ngơi và chờ đợi”.
Đêm ấy tôi mắc võng nằm một mình trong căn nhà vắng ở góc rừng, trằn trọc mãi bởi tâm trạng nôn nao trước công việc sắp tới, mà đến lúc này vẫn chưa biết được là việc gì.
Sáng hôm sau khi từ dưới suối lên, tôi nghe trong nhà có tiếng người, chắc có ai mới đến. Đang định phơi bộ quần áo vừa giặt, bỗng thấy một người mặc quan phục hiện ra trước cửa, nụ cười tươi rói trên khuôn mặt ngăm đen thân thiết. Tôi ngớ người rồi bật reo: "A, anh Đằng!" Ném bộ quần áo ướt lên chiếc sào tre, tôi nhào tới ôm chầm lấy anh. Anh cười khà khà:
– Chưa hết! Ai đây?
– Anh né sang một bên.
– Ôi! Cả anh Hùng nữa! Các anh đi đâu vậy? - Tôi hỏi một câu khá ngớ ngẩn.
– Đi với cậu chứ đi đâu? Vào đây? Vào đây nói chuyện. Chúng tôi ngồi xuống bên bàn, ngắm nhìn nhau.
– Các anh vẫn thế, chẳng thay đổi gì cả? - Tôi nói. – Thay đổi thế nào được, bọn mình vẫn khỏe như vâm. Tới trạm nghe ông Hai Nguyên bảo xuống đây sẽ gặp người quen. Gặng mãi ông ấy chẳng nói, chỉ tủm tỉm cười. Ai ngờ lại là cậu… Nói chuyện một lúc, rồi tôi dẫn các anh ra suối. Hai anh xuống tắm, còn tôi ngồi giặt giúp mấy bộ quần áo. Câu chuyện vẫn sôi nổi không dứt.
Thì ra các anh vẫn chưa biết ra đây làm nhiệm vụ gì. Đang hoạt động ở phía bắc đường Chín bên đất Lào, nhận được điện là
lên đường ngay. Đi suốt đêm ra tới đường Trường Sơn, vẫy một chiếc xe con, may gặp đồng chí cán bộ đoàn 559 là người quen của anh Đằng đi Hà Nội họp. Anh ấy cho xe chở tận Bãi Hà.
Anh Đằng và anh Hùng là trinh sát quân báo của một sư đoàn chủ lực chuyên hoạt động ở chiến trường Quảng Trị, Nam Lào. Tôi quen các anh trong một trường hợp khá đặc biệt mà có lẽ chẳng ai muốn có một dịp như vậy để làm quen với nhau. Hôm ấy tổ công tác của chúng tôi đang trên đường trở về hậu cứ sau một chuyến công tác. Thời gian này địch nống ra đánh phá ác liệt hòng đẩy bộ đội ta lên xa trên núi. Sau Mậu Thân lực lượng ta tổn thất khá nhiều. Các cơ sở nằm vùng phần bị bắt, phần bị lộ phải nít ra nên công tác của chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Hôm ấy có việc gấp nên chứng tôi đi từ trưa. Lúc ngang qua dãy đồi sim ở vùng tây Cam Lộ, chúng tôi gặp một đơn vị đang bị phục kích. Đó là tổ trinh sát của anh Đằng và anh Hùng. Chúng tôi đã cùng lợp sức diệt gọn toán thám báo địch. Rồi quen nhau từ đó.
Về sau, thỉnh thoảng có dịp công tác qua, các anh lại ghé vào hậu cứ Ty an ninh thăm chúng tôi. Có lần anh Đằng đưa cho tôi một tờ báo của Quân khu, trong đó có đăng bài viết về trận đánh nhỏ của chúng tôi. Bài báo biểu dương tổ trinh sát của tôi, nói đó là trận đánh phản phục kích, đánh phối hợp theo tiếng súng tuyệt đẹp...
Chẳng biết anh Đằng đã kể gì với nhà báo, chứ chúng tôi thì lại hết sức cảm phục các anh. Bị phục kích bất ngờ như thế, trước một khẩu trung liên và nửa tá nòng tiểu liên bắn như đổ đạn, nhưng vẫn đánh trả được và chỉ bị thương nhẹ có hai người, chứng tỏ các anh là những người lính trinh sát dạn dày bản lĩnh mà còn lâu cánh lính trẻ chúng tôi mới theo kịp...
Vì vậy tôi rất mừng khi được đi với hai anh trong chuyến công tác, dù chưa biết sẽ làm công việc gì.
Đợi hai anh tắm xong, chúng tôi cùng lên nhà. Vừa bước vào cửa đã thấy anh Hai Nguyên ngồi uống nước trà bên bàn, ung dung như một thầy giáo đang đợi trống đánh báo giờ vào lớp.
– Thế nào, đã kịp làm quen với nhau rồi phải không? - Anh nheo mắt hóm hỉnh.
Cả ba chúng tôi cùng bật cười. Anh Đằng trả lời:
– Thế mà hỏi mãi anh không nói. Ai chứ Hải với bọn em còn hơn cả ruột thịt...
– Biết thế nên mình mới để các cậu đi với nhau chuyến này. Nhưng việc đó nói sau, đang còn đợi một cậu nữa từ Hà Nội vào. Giờ các cậu cứ phải nghỉ ngơi thôi. Tuyệt đối không được sốt ruột đấy nhé. Mình đi đây? Nếu tối nay rảnh, sẽ xuống ngủ với các cậu một đêm.
Nói xong, anh đứng dậy, thân mật vỗ vai từng người rồi nhanh nhẹn bước ra cửa. Đã quen với tác phong của anh nên chúng tôi không ngạc nhiên.
Đến chiều, chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây, lại hàn huyên mãi không thôi. Anh Hùng lấy trong ba lô ra gói lạc và kí đường, trổ tài nấu một mẻ kẹo. Kẹo lạc anh nấu rất ngon, nhưng vừa ăn vừa phải bóc giấy báo dính sau lớp kẹo vì không có bánh tráng để đổ.
Lúc sẩm tối, anh Hai Nguyên ôm võng xuống ngủ với chủng tôi. Bốn chiếc võng mắc chụm đầu vào cây cột giữa nhà. Chúng tôi rủ rỉ trò, chuyện đến nửa đêm. Khi nghe anh hỏi chuyện, tôi thấy anh biết khá rõ hoàn cảnh gia đình của mỗi chúng tôi. Đến lúc nghe anh kể về mình, mới biết anh quê Quảng Nam chứ không phải ở Nam Bộ như lâu nay tôi vẫn tưởng. Vì ít được tiếp xúc nên tôi không rành phân biệt giọng nói người miền trong. Hơn nữa, cái tên Hai Nguyên cùng với phong thái cởi mở sôi nổi làm anh có dáng dấp của một "anh Hai Nam Bộ" trong suy nghĩ của tôi.
Quê anh ở cạnh con sông Thu Bồn, một làng quê nghèo và hiền lành như bao làng quê miền Trung. Nhà anh chỉ có hai anh em. Cha mẹ anh mất sớm, lúc đó anh mười tuổi còn người anh trai mười lăm. Vốn xuất thân từ một gia đình có truyền thống hiếu học nên cả hai anh em đều sáng dạ, ham học. Bà con nội ngoại thấy vậy đã xúm lại giúp hai anh em theo việc đèn sách. Anh cùng
anh trai vào Quy Nhơn ở nhờ nhà một người bà con xa làm nghề buôn bán, vừa đi học vừa phụ giúp bán hàng và tính toán sổ sách để có thêm chút ít thu nhập ngoài số tiền nhỏ mà bà con ở quê thỉnh thoảng gửi vào. Năm 1943 cả hai anh em cùng lúc thi đỗ diplome khiến họ hàng gần xa ai cũng tự hào và hả dạ. Ở quê, có những dòng họ giàu có sẵn sàng chu cấp cả trăm lần hơn thế cho con cháu ăn học, mà đâu có ai được như vậy. Anh trai anh vẫn tiếp tục học lên. Nhưng anh thấy số tiền ít ỏi mà bà con làng xóm gom góp chu cấp không kham nổi việc hai anh em cùng học, nên anh tự ý nghỉ, đi làm nghề dạy kèm để kiếm thêm, dù người anh hết sức can ngăn và la mắng.
Năm Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, anh trở ra quê hăng hái tham gia phong trào ở địa phương. Trong những ngày sôi nổi ấy, anh lăn vào tất cả mọi công việc mà chính quyền Cách mạng non trẻ ở quê cần đến, từ dựng cổng chào, cắt khẩu hiệu, dạy bình dân học vụ cho tới tập quân sự, tuần tra canh gác... Khi những chuyến tàu rầm rập ngày đêm chở thanh niên trai tráng "Nam tiến" chạy qua cái thị xã Đà Nẵng nồng mùi cá biển, thì anh không còn chịu được nữa. Anh nhảy lên một chuyến tàu như thế, bằng mọi cách năn nỉ với đồng chí chỉ huy cho đến lúc được nhận theo. Từ đó anh đã đi qua nhiều miền đất, nhiều chặng đường gian truân của cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, anh là trung đoàn trưởng chỉ huy một trung đoàn tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Hòa bình, anh ở lại miền Bắc tham gia xây dựng quân đội. Vì vậy kể từ ngày bám theo đoàn tàu Nam tiến đến mãi sau này, anh không nhận được tin gì về anh trai mình. Anh không bao giờ quên được những ngày tháng gian nan khốn khó hai anh em mồ côi cha mẹ đùm bọc nương tựa vào nhau trong sự cưu mang của bà con họ hàng. Hình ảnh ngôi nhà tranh bé nhỏ có cây mai già mọc trước mảnh sân đầy rêu, nơi hài anh em anh sinh ra và lớn lên, luôn hiện ra trong tâm trí những lúc anh nhớ về quê nhà, về người anh trai của mình. Mỗi khi xuân đến, màu hoa mai nở vàng rực càng làm cháy lên trong anh nỗi khát khao trở về sững và chiến đấu trên mảnh đất quê hương.
Năm 1959, anh được điều sang đoàn cán bộ vào Nam tăng cường cho Khu ủy Trị Thiên. Hai năm sau, nhân gặp một người bạn ở Tỉnh ủy Quảng Nam ra Bắc công tác, anh mới biết anh trai mình hiện đang sống ở Sài Gòn, là giáo sư dạy sử ở một trường dại học. Anh ấy đã lập gia đình, có hai con, một trai một gái...
Anh kể tiếp:
– Trước sáu tám, mình được tin anh mình chuyển ra sống ở Đà Nẵng. Nghe nói ông đã bỏ nghề dạy học, giờ chỉ ở nhà viết sách. Còn đứa cháu trai thì đi lính ngụy, hình như làm "philốt". Không biết đã có khi nào nó ném bom xuống đầu chú nó chưa...,
Anh cười buồn, ngưng một lúc rồi mới nói tiếp:
– Dạo Mậu Thân, mình có nhờ bạn bè trong đó tìm kiếm. Sau này anh em báo ra là đã móc được với anh mình, nhưng chưa kịp nhận hồi âm vì tình hình lúc đó diễn ra ác liệt quá... Mình chỉ mong hai anh em còn sống đến ngày hòa bình để được ôm lấy nhau, để dắt nhau về lại ngôi nhà nhỏ có cây mai già ấy mà thắp cho ông bà cha mẹ mấy nén hương...
Trong đêm khuya thanh vắng, câu chuyện về gia đình qua giọng kể thủ thỉ buồn buồn của anh làm chúng tôi nao cả lòng. Tôi không ngờ người cán bộ lãnh đạo lúc nào cũng nhiệt tình sôi nổi và hóm hỉnh đó lại chứa chất trong lòng một tâm sự da diết đến như thế.
Sáng hôm sau tỉnh giấc, thấy anh Hai Nguyên đã dậy cuốn võng đi từ lúc nào. Anh Đằng cười:
– Ông này đúng là đặc công thứ thiệt. Đi lúc nào mà êm ru, mình chẳng hay biết gì cả!
Nhưng chỉ nửa giờ sau anh lại đến. Cùng đi với anh có một người trạc tuổi anh Hùng, dáng cao cao, nước da trắng, mặc bộ quân phục và đeo chiếc ba lô cóc mà tất cả đều còn mới tinh như vừa nhận từ trong kho ra.
Vừa bước qua cửa, anh Hai Nguyên nói ngay:
– Vậy là người thứ tư đã tới. Giới thiệu với các cậu, đây là đồng chí Sơn, kỹ sư địa chất, mới từ Hà Nội vào. Sáng nay các cậu nghỉ ngơi, làm quen với nhau. Chiều hai giờ ta làm việc nhé! - Anh cười, vẫy tay chào rồi quay người đi ngay.
Tôi bước tới, giúp anh Sơn cởi ba lô đặt trên bàn:
– Anh ngồi nghỉ, lát rồi em dẫn xuống suối tắm cho mát! Anh Đằng róc nước ra chén, đưa mời:
– Đồng chí Sơn uống nước? Đồng chí quê ở đâu nhỉ?... Cứ thế, chỉ lát sau là chúng tôi đã cởi mở trò chuyện thân tình. Riêng tôi vẫn phân vân không biết vì sao anh Sơn lại đi với chúng tôi. Trông anh đúng là dân trí thức chính cống, lại mới từ Hà Nội vào. Tôi thì chẳng đáng nói, chứ trên đã điều những người như anh Đằng và anh Hùng cho chuyến công tác này, hẳn công việc đâu có đơn giản... Sau này tôi phải tự xấu hổ với những suy nghĩ ban đầu của mình. Qua câu chuyện, chúng tôi được biết anh Sơn là kỹ sư địa chất, chuyên đi tìm kiếm khảo sát các mỏ kim loại màu và đá quí. Suốt sáu năm từ khi tốt nghiệp ra trường cho đến nay, hầu như anh lang thang trong rừng, đặt chân lên nhiều miền núi non của tổ quốc, từ Nghệ An, Thanh Hóa cho tới những dãy núi trùng điệp ở Đông Bắc, Tây Bắc. Chỉ những lúc phải về phân tích mẫu, lập đồ bản... anh mời làm việc ở Hà Nội. Đúng là người ta rất dễ nhầm lẫn nếu đánh giá một con người chỉ qua dáng vẻ bên ngoài.
Anh Đằng vô cùng mừng rỡ khi biết anh Sơn đồng hương với anh, mà lại là đồng hương tầm gần, có nghĩa cùng huyện, chứ không phải loại đồng hương pháo tầm xa cũng không với tới. Quê anh Sơn ở gần núi Gội, còn nhà anh Đằng ở cạnh ga Cát Đằng (tỉnh Nam Định), chỉ cách nhau chừng mười cây số, gọi là ga trước ga sau của một chuyến tàu chợ. Anh Sơn đã lập gia đình, chị ấy dạy học ở trường cấp hai trong xã. Hai anh chị sinh được một cháu gái, năm nay cháu ba tuổi.
Tôi nhường cho anh Đằng quyền được dẫn đồng hương xuống suối tắm giặt để các anh có dịp tâm sự với nhau. Khi từ
dưới suối lên, nhìn nét mặt rạng rỡ của anh, tôi hiểu điều gì đã làm anh vui đến vậy. Ở quê, gia đình anh chỉ còn mỗi mình ông cụ thân sinh. Mẹ anh mất cách đây hai năm, nhưng mãi sau này anh mới biết tin. Hai ông bà sinh được có mình anh... Năm 1956, theo ước nguyện của bố, anh Đằng làm đơn tình nguyện vào trường thiếu sinh quân và được chấp nhận, nhưng khi đến trường thì bị trả về với lý do quá tuổi quy định, kèm theo lời xin lỗi gia đình về sự sơ suất trong xét tuyển. Năm ấy anh mười tám tuổi. Anh không chịu về, mấy ngày liền bám theo các anh cán bộ quân lực nằng nặc xin vào một trường quân sự nào đó. Cuối cùng, anh được nhận vào trường bộ đội đặc công. Hơn hai năm sau, anh đã là thành viên trẻ nhất trong đoàn cán bộ đi mở đường Trường Sơn. Lăn lộn mải miết với các tuyến đường hết đông lại sang tây Trường Sơn, đến năm 1965 anh được điều về phòng quân báo của một sư đoàn chủ lực. Trong chừng ấy năm có dăm lần về phép, mỗi lần mươi ngày, anh chỉ kịp giúp bố mẹ lợp lại mái nhà hay làm cái chuồng lợn, chứ không đủ thời gian để có thể tìm hiểu một cô nào đó mà lấy làm vợ. Lần về phép gần đây nhất của anh cũng đã cách bốn năm...
Vì vậy việc bất ngờ gặp được người đồng hương ở nơi xa xôi này và biết được những tin tức tốt lành còn nóng hổi về quê nhà sau bao ngày xa cách, khiến anh vô cùng vui sướng.
Đúng như đã hẹn, anh Hai Nguyên đến lúc hai giờ chiều. Cùng đi có một đồng chí thiếu tá mà anh giới thiệu là cán bộ tham mưu của đoàn 559. Tôi có cảm giác chiếc quân hiệu lấp lánh trên mũ và đôi cấp hàm đỏ chót nơi ve áo anh làm cho không khí trang nghiêm hẳn lên.
Anh Hai Nguyên nói:
– Các đồng chí biết nhau cả rồi, nên ta vào việc luôn. Tôi được Trung ương giao nhiệm vụ thành lập và chỉ đạo một tổ công tác đặc biệt. Sau khi trao đổi bàn bạc với các đơn vị có trách nhiệm phối hợp, tôi quyết định chọn bốn đồng chí để thành lập tổ công tác này. Từ nay, các đồng chí là thành viên của tổ, đồng chí Đằng
làm tổ trưởng. Nhiệm vụ của các đồng chí là tìm kiếm một vỉa quặng vàng được phát hiện qua vệ tinh của Liên Xô. Theo bạn, vỉa quặng này rất đáng chú ý vì những số liệu kỹ thuật đều cho thấy nó có hàm lượng vàng rất cao và chỉ phát hiện tập trung ở một nơi. Tọa độ của nó là...
Anh đọc tọa độ rồi cầm bút chì chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ tỉ lệ 1:100.000 mà đồng chí thiếu tá vừa trải lên bàn. Điểm anh chỉ nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam, sát với biên giới Việt-Lào.
– Thế nào? - Nheo mắt nhìn chúng tôi, anh hỏi - Nhiệm vụ khá bất ngờ và lý thú phải không? Nhưng cứ nghe tiếp đã nhé? Trong cuộc họp vừa rồi ở Hà Nội, tôi được biết: Trung ương đã chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu thông tin này, và đã có nhiều ý kiến khác nhau. Một ý kiến cho rằng đây đúng là mạch quặng vàng lộ thiên, dấu hiệu của mỏ vàng nằm sâu trong lòng đất. Tọa độ được phát hiện ở phía trên mỏ vàng Bồng Miêu nhưng cách khá xa, liệu có liên quan gì về mặt địa chất? Điều này rất khó xác định do không đủ dữ liệu. Có ý kiến khác nêu ra nhận định: đây là một kho vàng tồn tại do nguyên nhân lịch sử nào đó. Khả năng này rất đáng chú ý. Trước đây nhân dân vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh đã từng phát hiện một số vàng thỏi và tiền vàng nhưng số lượng không nhiều, xác định là vàng do vua Hàm Nghi mang theo khi ra vùng này lập căn cứ chống Pháp. Có người nói đây có thể là vàng mà quân Nhật vơ vét khi sang chiếm nước ta, rồi sau chúng đem thu giấu vì không chuyển về nước được... Tình tiết này có thật trong lịch sử, nhưng tọa độ phát hiện nằm giữa núi cao rừng thẳm, cách xa các đường giao thông và khu dân cư, kể cả các bản làng của đồng bào dân tộc, khó ai có thể vận chuyển lên cất giấu ở đó...
Cuối cùng cuộc họp quyết định phải tổ chức thăm dò tìm kiếm, giao trách nhiệm cho tôi trực tiếp chỉ đạo với sự phối hợp về mọi mặt của đoàn 559, quân khu Bốn và Tổng cục địa chất. Phía bạn có cung cấp cho ta một bức không ảnh... - Anh mở nắp chiếc xà cột da đeo bên người lấy ra một tấm ảnh màu to cỡ trang vở học
sinh đặt lên bàn - ... tất nhiên không phải là ảnh gốc. Nó đã được phổ màu và chụp lại.
Chúng tôi cùng rướn người tới nhìn. Trên tấm ảnh chỉ thấy những mảng xanh đậm nhạt khác nhau bao quanh một đám màu vàng úa có hình dạng như chiếc lá cây. Bên lề tấm ảnh có ký hiệu chỉ hướng bắc nam.
Anh Hai Nguyên cười:
– Các đồng chí không phân biệt được gì bằng mắt thường đâu? Ngay cả khi có ảnh gốc, cũng phải có máy chuyên dụng và chuyên viên phân tích ảnh mới biết được. Lúc này tấm ảnh chỉ có ý nghĩa hướng dẫn. Bộ phận kỹ thuật cho biết bức không ảnh này được chụp từ độ cao khá lớn, chụp chính diện một khoảng mặt đất hình vuông cạnh từ mười đến mười hai kilomet. Qua phân tích, địa hình trong ảnh nếu mở rộng ra sẽ có dạng như một thung lũng. Xung quanh là rừng già nguyên sinh, - anh chỉ những mảng màu xanh - ở giữa là đồng cỏ dài chừng năm kilomet và rộng ba kilomet. Tọa độ vỉa quặng nằm ngay dải rừng phía bắc đồng cỏ. Theo thông tin của bạn, ở góc đông bắc đồng cỏ có một cây thủy tùng cổ thụ. - Nói đến đây, anh nhìn anh Hùng và hỏi - Thế nào? Chuyên gia về rừng có biết cây thủy tùng không?
Anh Hùng ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Có phải loại tùng trên núi Yên Tử không ạ?
– Không phải! Theo một đồng chí phó tiến sĩ lâm sinh cho biết, loài cây này thuộc họ tùng bách, thân thẳng dáng cao vút, tán lá hình chóp, lá hình kim xanh quanh năm. Vỏ cây thủy tùng sần sùi, lâu năm có thể bong ra từng mảng. Một đặc điểm nữa là nhựa của nó rất độc... - Anh chợt cười - Nghe như bài giảng thực vật ấy nhỉ? Tôi cũng chỉ nói lại những điều hỏi được, biết đâu nó sẽ có ích cho các đồng chí! Thủy tùng là loài cây của xứ lạnh, phát triển nhiều vào thời trung cổ, không hiểu sao ở nước ta còn sót lại cây này? Nhưng chính vì hiếm như thế nên nó là dấu hiệu quan trọng để giúp các đồng chí xác định đúng khu vực phải tới.
Anh bưng chén nước nhấp một ngụm rồi nói tiếp:
– Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất, ta đang phải tập trung tất cả cho chiến đấu. Việc tìm kiếm thăm dò trong lúc này sẽ rất khó khăn, nhất là không thể tổ chức quy mô vì nhiều lý do khác nhau. Chắc các đồng chí cũng tự hỏi: Tài nguyên của ta, của cải của ta, ta lấy lúc nào mà chẳng được? "Cơm chưa nấu thì gạo còn đó..." Nhưng tình hình không cho phép như vậy. Theo tài liệu tình báo ta nắm được, một nhân viên CIA có cỡ vừa được điều tới phân vụ CIA ở Sài Gòn đang chú ý đặc biệt đến địa bàn này. Đây là vùng không cần thiết phải có cứ điểm quân sự, địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt và không có nhánh đường nào thuộc tuyến đường Trường Sơn chạy qua. Ta chưa biết địch có ý đồ gì, nhưng nguồn tin này rất đáng lưu ý bởi có sự trùng hợp là tọa độ mà ta quan tâm nằm trong khu vực này. Trung ương đã chỉ thị cho bên tình báo tiếp tục khai thác nguồn tin đó, đồng thời yêu cầu các cơ quan lưu trữ thu thập nghiên cứu các tài liệu lịch sử để tìm những thông tin có liên quan.
Tình hình là thế. Giờ chắc các đồng chí đã hiểu vì sao ta phải tổ chức tìm kiếm trong lúc nước sôi lửa bỏng này. Hơn nữa trong đó mùa mưa thường bắt đầu từ tháng sáu, mà bây giờ đã là đầu tháng tư, cần phải tiến hành gấp trước khi mưa tới...
Nói đến đây anh ngừng lại, mắt nhìn ra xa như đang nghĩ tới điều gì. Chúng tôi yên lặng chờ đợi. Lát sau anh mới chậm rãi nói tiếp:
– Tổ của các đồng chí được đặt tên là TK1. Như vậy, sẽ có những toán TK tiếp theo. TK1 vừa có nhiệm vụ mở đường, vừa tìm kiếm thăm dò, vừa phải chiến đấu khi cần thiết. Nhiệm vụ rất nặng nề. Các đồng chí phải xuyên rừng nhiều ngày trên một địa bàn xa lạ hiểm trở, không dân cư và có thể gặp địch. Trong suốt chuyến đi sẽ không có sự liên lạc nào với trên, với các đơn vị bạn. Mặt trận sẵn sàng cung cấp cho TK1 những phương tiện thông tin tốt nhất mà ta hiện có, nhưng với cự ly đó, những bộ máy thích hợp lại quá cồng kềnh. Do vậy, khi gặp trở ngại, các
đồng chí phải hoàn toàn dựa vào sức mình chứ không có sự giúp đỡ hỗ trợ nào khác. Chúng ta không thể tính trước từng phương án cho mỗi tình huống, nhưng bất kỳ trường hợp nào các đồng chi cũng phải tỉnh táo vận dụng tất cả khả năng và kinh nghiệm của mình để hành động. Những gì các đồng chí đã học, đã rèn luyện được qua thực tế công tác chiến đấu, mọi kiến thức, mọi hiểu biết từng người tích lũy được tử trước đến nay đều có thể cần đến. Không có trở ngại nào là không thể vượt qua, nếu chúng ta vững vàng và biết suy nghĩ đúng hướng. Theo kế hoạch, đường về là đi ngược lại con đường đã đi, nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra đúng như dự kiến. Các đồng chí cần hết sức linh hoạt, tận dụng mọi cơ hội. Và tôi xin nói rằng trong kế hoạch này, yêu cầu cao nhất là sự trở về của TK1, cho dù không tìm ra vỉa quặng. Người ta bảo: khi giải một bài toán mà chứng minh được đề bài ra sai thì coi như hoàn thành phép giải. Còn trong trường hợp này, chỉ cần xác định cách giải hiện tại không đúng để tìm cách giải khác, đã là có kết quả. Tất nhiên khi trở về mà mang theo kết quả tìm kiếm mỹ mãn thì đó là một thắng lợi toàn diện rồi...
Nghe đến đây, bốn chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Ai cũng cảm động trước sự tin cậy của anh Hai Nguyên. Anh tin chúng tôi sẽ làm hết sức mình mới chịu quay về.
Sau đó, anh phổ biến cho chúng tôi mật hiệu liên lạc khi cần thiết. Mật hiệu rất ngắn gọn: nếu nhận được tin "Hoa mai đã nở”, thì đấy là tín hiệu của tổ tôi báo về, bộ phận chỉ đạo sẽ có cách liên lạc trở lại. Còn nếu nhận "Hoa mai vàng đã nở” có nghĩa chúng tôi phát hiện được mục tiêu. Các tỉnh lân cận và các đơn vị bộ đội đóng trên những địa bàn có liên quan sẽ được thông báo và hướng dẫn cách xử li khi có người đưa ra tín hiệu này. Đây cũng là mật hiệu để nhận biết các toán TK tiếp theo.
Anh Hai Nguyên nhìn đồng hồ rồi nói:
– Như vậy tôi đã phổ biến xong. Chắc các đồng chí còn nhiều điều muốn hỏi, nhưng chưa vội. Giờ cứ nghe tiếp công tác chuẩn
bị và bàn bạc suy nghĩ. Sáng mai ta sẽ cùng nhau trao đổi kỹ hơn.
Anh đưa mắt ra hiệu. Đồng chí thiếu tá đứng lên mỉm cười nhìn chúng tôi:
– Tôi được giao nhiệm vụ chuẩn bị và hỗ trợ cho TK1. Bây giờ tôi trình bày về tuyến đường mà các đồng chí sẽ đi, sau đó là phần hậu cần.
Theo dự kiến, sẽ có xe đưa các đồng chí ngược lên miền tây Quảng Bình sang Lào rồi theo đường Trường Sơn đi về phía nam. Đến khe Trầm, - Anh chỉ trên bản đồ - các đồng chí đổ bộ và từ đó đi thẳng tới tọa độ cần tìm. Trên bản đồ, đoạn này đo được một trăm mười bảy cây số, tính theo đường chim bay. Từ đây tới gần bắc đường Chín, có những chặng xe có thể chạy ban ngày. Từ đường Chín vào xe phải chạy đêm. Vùng này khá nguy hiểm vì thỉnh thoảng có thám báo địch hoạt động...
Chúng tôi nhìn bản đồ: địa điểm được gọi là khe Trầm nằm trên đất Lào, gần như đối diện với A Lưới (Thừa Thiên) qua đường biên giới. Từ đó, chúng tôi phải đi về hướng đông nam, vượt qua biên giới Lào - Việt vào phần đất nhô ra ngoài cùng của tỉnh Quảng Nam.
Đồng chí thiếu tá nói tiếp:
– Trên cũng đã cân nhắc khả năng đi từ hướng đông lên. Đi theo hướng này sẽ tranh thủ được sự giúp đỡ của đồng bào ở các bản dân tộc để tiếp cận mục tiêu gần hơn, nhưng hiện tại có nhiều trở ngại mà ta chưa thể khắc phục được. Vì thế, con đường tôi vừa trình bày vẫn là phương án tối ưu lúc này. Còn về hậu cần, đoàn 559 được lệnh cung cấp cho TK1 những thứ tốt nhất hiện có. Đây là danh mục các trang bị cần thiết cho chuyến đi. - Anh đưa cho chúng tôi tờ giấy đánh máy - Tuy nhiên, các đồng chí mới là người quyết định những gì cần mang theo...
Cuộc họp kết thúc lúc trời sắp tới. Sau khi tiễn anh Hai Nguyên và đồng chí thiếu tá ra cửa, chúng tôi quay vào ngồi xuống bên
bàn. Chưa ai nói gì. Tất cả đều đang suy nghĩ về những điều vừa được nghe. Hơi lâu sau, anh Đằng lên tiếng:
– Chuyến đi này có vẻ như là một cuộc thám hiểm ấy nhỉ? Vào bộ đội mười mấy năm, làm đủ mọi thứ việc, nhưng chưa khi nào mình nghĩ tới chuyện có lúc sẽ đi tìm vàng.
Mọi người cùng cười. Anh Hùng hỏi:
– Này Sơn, chắc cậu đi tìm vàng nhiều rồi phải không - Nghề của tôi mà?
– Anh Sơn đáp - ở miền Bắc ta đã tìm được một số nơi có vàng, nhưng thường là vàng ở dạng sa khoáng, chưa bao giờ phát hiện ra quặng vàng có hàm lượng cao. Nghe nói tại các mỏ vàng ở châu Mỹ, tảng quặng vàng lớn nhất cũng chỉ nặng mấy chục ký là cùng. Cho nên tôi rất ngạc nhiên khi có vỉa quặng vàng được phát hiện qua vệ tinh... Tôi chợt nghĩ, biết đâu Liên Xô họ phát hiện vỉa quặng từ một nguồn khác, nhưng vì lý do tế nhị nào đó nên không thể nói thẳng ra được. Hiện nay Liên Xô, và cả Mỹ, đã có nhiều thành tựu trong sử dụng vệ tinh vào những lĩnh vực khác nhau, kể cả việc thăm dò tài nguyên khoáng sản, nhưng những kỹ thuật tiên tiến nhất chủ yếu vẫn tập trung cho lĩnh vực quân sự, tình báo...
Tôi háo hức hỏi:
– Theo anh, liệu ta có tìm được vỉa quặng vàng lớn không? Anh Sơn tủm tỉm:
- Mọi điều đều có thể xẩy ra, nhưng phải tới nơi mới biết? Anh Đằng cười:
– Cậu Hải yên trí? Thế nào cũng tìm ra, cậu chuẩn bị sức để mang, mà nhớ là chỉ được "may túi ba gang” thôi đấy... Anh Đằng nói đúng. Chúng tôi phải tính toán, chỉ mang theo nhưng thứ thật cần thiết. Bàn mãi, cuối cùng cũng quyết định: Về vũ khí, ba chúng tôi mỗi người một AK báng gấp, riêng anh Sơn chỉ mang K54 vì còn phải đem theo một số dụng cụ cần cho việc thăm dò địa chất. Súng của chúng tôi còn tốt, không cần cấp mới.
Lựu đạn, thuốc nổ cũng cần, nhưng nặng và sử dụng trong rừng không tiện nên không nhận. Riêng đạn cần nhiều hơn. Ngoài cơ số đạn chiến dấu, phải có đạn để săn bắn vì không thể mang đủ lương thực cho cả chuyến đi. Lương khô, gạo tươi, gạo sấy mỗi thứ năm ký cho một người. Thịt hộp chỉ mang đủ dùng cho mấy ngày đầu. Rồi màn, võng, tăng, đèn pin, bật lửa, túi phao bơi... Thuốc men thì chỉ mang thuốc chữa rắn cắn, thuốc phòng sốt rét, bông băng. Các loại khác khi cần sẽ lấy ở cây lá trong rừng. Anh Hùng bảo nên mang nhiều muối và xin thêm những viên thuốc lọc nước, vì đi rừng không phải lúc nào cũng đun được nước uống. Dây leo núi cũng không mang được. Thay vào đó, mỗi người sẽ mang hai chục mét dây dù, vừa làm dây võng vừa để sử dụng vào việc khác. Ngoài bản đồ, địa bàn, anh Đằng đề nghị cấp thêm một ống nhòm cỡ vừa. Anh Sơn yêu cầu xin một chiếc soong quân dụng mười lít, kiểu soong cạn miệng rộng. Anh nói: “Tuy cồng kềnh, nhưng để nấu ăn dọc đường và khi cần có thể dùng đãi vàng”.
Mãi đến khi trăng lên cao, chúng tôi mới đi ngủ.
Sáng hôm sau, khi anh Hai Nguyên và đồng chí thiếu tá tới anh Đằng báo cáo ngắn gọn những gì chúng tôi bàn đêm qua. Đồng chí thiếu tá hỏi thêm một số chi tiết rồi cầm bản danh mục trang cấp đi ngay. Anh Hai Nguyên ngồi lại đến trưa, cùng chúng tôi bàn bạc về những việc cần thiết trong chuyến đi. Anh nói:
– Một chuyến đi rừng, cứ cho là trong vài ba tháng, đối với những người như các đồng chí không có gì phải lo nhiều. Nhưng sở dĩ tôi dặn kỹ như vậy vì điều đáng lo đến từ hướng khác. Theo tôi nếu CIA, và nói chung phía địch, cũng có những thông tin như chúng ta, sự việc sẽ phức tạp lên nhiều. Chúng hơn hẳn ta về phương tiện kỹ thuật, cũng lợi thế hơn trong tổ chức thăm dò tìm kiếm. Nếu trường hợp đó xảy ra, TK1 sẽ phải đối đầu với sự nguy hiểm cao độ và tất cả chỉ còn trông cậy vào bản lĩnh của các đồng chí. Trung ương đã tính tới tình huống này và cũng bàn bạc nhiều phương án khác như: Dùng máy bay đổ bộ lực lượng tìm kiếm;
trang bị phương tiện thông tin liên lạc với hệ thống những đài hỗ trợ; tổ chức lực lượng ứng cứu khi cần thiết... Nhưng cuối cùng đành phải chấp nhận phương án hiện nay vì tình hình lúc này không cho phép ta áp dụng các biện pháp nói trên. Nếu tiến hành, nguy cơ thất bại là rất khó tránh khỏi. Khi đó, việc nắm được ý đồ của ta càng kích thích kẻ địch hành động. Cần nhắc thêm các đồng chí là phải hết sức giữ bí mật trong cả chuyến đi...
Lúc đồng chí phục vụ mang cơm nước tới thì cuộc bàn bạc cũng vừa chấm dứt. Anh Hai Nguyên ra về sau khi đã hẹn sẽ xuống ăn với chúng tôi bữa cơm chia tay. Đến chiều, đồng chí thiếu tá cùng hai người nữa mang những trang bị cần thiết tới.
Chúng tôi rất hài lòng với những thứ nhận được, duy chỉ có mấy con dao rừng là không được vừa ý. Loại dao này dùng cho bộ đội công binh, thường gọi là dao tông, vừa to vừa nặng.
Sáng hôm sau, trong khi chúng tôi sắp xếp đồ đạc thì anh Đằng xin phép anh Hai Nguyên rồi ôm cả bốn con dao đi. Gần trưa anh trở về, mang theo hai con dao mà anh đổi được trong một bản Vân Kiều gần đây. Loại dao này đồng bào dân tộc thường dùng, có cán gỗ chắc chắn, lưỡi dao hơi mỏng nhưng sắc ngọt, đầu lưỡi có mấu như rựa, dùng đi rừng rất tiện.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi cố gắng hoàn tất mọi việc chuẩn bị. Giờ xuất phát ấn định vào sáng mai. Đồng chí thiếu tá giúp từng người kiểm tra trang bị cá nhân. Anh thu lại bức không ảnh và tấm bản đồ, cấp cho chúng tôi một tấm khác y hệt nhưng còn mới nguyên, đường đi được đánh dấu bằng những dấu kim châm, phải dùng kính lúp soi mới thấy. Bản đồ và địa bàn giao cho anh Sơn giữ. Mọi tư trang cá nhân, kể cả ảnh, thư từ, nhật ký... đều phải gửi lại. Trước khi gói các thứ đem gửi, anh Sơn đưa tôi xem ảnh vợ và con gái. Trong ảnh là một người phụ nữ còn trẻ có khuôn mặt trái xoan thùy mị và đôi mắt vời vợi như đang ngóng về phương xa xôi. Chị bồng một cháu gái chừng ba tuổi, trông bụ bẫm và rất dễ thương.
Chiều tối, anh Hai Nguyên xuống ăn cơm với chúng tôi như đã hẹn. Các đồng chí ở trạm tổ chức một bữa liên hoan nhỏ khá chu đáo, có cả một chai rượu chanh Hà Nội. Mọi người cùng nâng cốc chúc cho chuyến đi thắng lợi. Trong bữa ăn, chúng tôi chỉ nói chuyện tâm tình, không ai nhắc tới công việc.
Hôm sau, chúng tôi lên đường từ bốn giờ sáng. Anh Hai Nguyên đưa chúng tôi ra tận ngã ba Bãi Hà. Ở đó đã có một chiếc ô tô Bắc Kinh cùng với lái xe và đồng chí thiếu tá đợi sẵn. Anh là người dẫn đường từ đây vào tới khe Trầm. Anh Hai Nguyên bắt tay và ôm lấy từng người nói lời chúc may mắn. Xe chạy một quãng xa, ngoái lại vẫn thấy anh đứng giữa ngã ba giơ tay vẫy theo.
Chương II
Xe chúng tôi ngược lên miền tây Quảng Bình vượt biên giới sang đất Lào rồi hướng về phía nam. Vì có lệnh ưu tiên, lại đi đúng dịp đường đang khô nên xe chạy khá nhanh. Buổi chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến được một trạm giao liên phía bắc đường Chín. Từ đây vào xe phải chạy đêm.
Đêm cuối cùng chúng tôi đi vào một con đường vắng, hai bên cây cối rậm rạp. Quầng sáng vàng nhạt của bóng đèn gầm lướt trên luống cỏ tốt bời bời giữa hai làn vết bánh xe. Đồng chí thiếu tá cho biết nhánh đường này ít xe qua vì ta đã mở một tuyến khác thuận lợi hơn. Hầu như suốt đêm xe hết bò lên dốc lại xuống dốc, lắc lư nghiêng ngả, lúc lúc lại nẩy chồm chồm trên những khúc đường xấu. Cành lá quật ràn rát trên mui vải bạt.
Đến bốn giờ sáng, xe chạy chậm lại. Đồng chí thiếu tá ngoái bảo: "Sắp đến nơi, các đồng chí chuẩn bị!" Khi xe dừng bên một con suối lớn, chúng tới mang ba lô xách súng nhanh nhẹn nhảy xuống. Đồng chí thiếu tá cũng đã xuống xe, đứng bên đường chỉ lối rẽ. Từng người một bắt tay anh, chạy tới vỗ nhẹ vào vai đồng chí lái xe thay lời chào, rồi nối nhau lủi nhanh vào rừng. Giờ mới thực sự là những bước đầu tiên của chuyến đi. Tôi bước chệnh choạng trên cỏ, người như vẫn còn lắc lư chao đảo theo nhịp xe lắc. Phía sau lưng, chiếc xe đang rồ máy quay đầu trở về.
Đi được hơn cây số, anh Đằng cho tổ nghỉ lại. Anh cầm súng đứng cảnh giới, bảo chúng tôi ngả lưng vào ba lô ngủ một lát, đợi sáng sẽ đi tiếp.
Khi mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống dải sương trắng là là mặt suối, anh Đằng giục mọi người lấy nước vào bi đông, chuẩn bị lên đường. Xung quanh yên tĩnh, tiếng chim hót lảnh lót khắp nơi. Tôi có cảm giác là lạ, sau mới nghĩ ra là do nhìn
thấy mặt trời nhô lên từ sau ngọn núi và dòng suồl chảy từ đông sang tây.
Chúng tôi xốc ba lô lên vai, khoác súng lội qua đoạn suối cạn rồi bước lên bờ dốc mọc đầy những cây lau bông trắng muốt đọng sương ướt sũng. Anh Đằng đi trước, khẩu AK nới dây dài mang thòng trước ngực, tay cầm dao phát nhánh cây lấy lối đi. Cả những ngày sau này, anh và anh Hùng thay nhau mở đường. Các anh tự nhận lấy công việc nặng nhọc nhất lúc đi rừng.
Suốt buổi sáng, chúng tôi đi mải miết trong khu rừng rậm, chỉ dừng lại khi cần xác định phương hướng. Đường không dốc lắm nhưng khó đi vì cây bụi và cây dây leo mọc chằng chịt. Có lúc phải từng người lần lượt nối nhau chui qua một vòm cây rậm rạp, tối om như lỗ cống.
Anh Hùng gỡ hộ tôi nhánh cây vướng nhùng nhằng sau ba lô và nói:
– Cố lên! Sắp hết quãng rậm rồi.
– Sao anh biết?
– Đây là cánh rừng ven con suối lúc nãy, đất thấp ẩm nên cây cối mọc rậm. Lên cao sẽ thoáng hơn.
Đến gần trưa thì đường đã dễ đi. Vẫn những khu rừng có nhiều tầng cây mọc chen chúc nhau, nhưng thưa hơn. Từng chùm tia nắng xuyên tán lá soi qua bóng râm làm rừng sáng lên.
Quá trưa, cả tổ dừng lại trên một triền dốc. Vì không gặp nước nên chúng tôi quyết định ăn lương khô, nghỉ khoảng một tiếng sẽ đi tiếp.
Ở mấy cánh rừng đi qua trong buổi chiều, thỉnh thoảng lại gặp dấu vết của con người: vài vết chém trên nhánh cây, một đống tro tàn bên mấy hòn đá ám khói..., chứng tỏ nơi đây vẫn có người đặt chân tới. Có thể là thợ săn, có thể bộ đội ta, cũng có khi thám báo địch.
Chừng bốn giờ chiều, chúng tôi tụt xuống một bờ dốc và may mắn gặp được con suối nhỏ, nước chỉ ngập ngang bắp chân
nhưng trong vắt. Anh Đằng chọn vạt đất trống tương đối bằng phẳng để nghỉ đêm.
Vừa đặt ba lô xuống, anh Hùng xách súng nhao đi ngay. Anh Đằng vặn lưng cho đỡ mỏi rồi cùng anh Sơn nhặt cành khô nhóm lửa. Tôi lấy gạo vào hai chiếc gô đem xuống suối vo sạch, đổ nước vào và xách lên. Bếp đã làm xong: hai chiếc nạng đóng hai bên đống lửa, một nhánh cây tươi gác ngang bên trên. Tôi luồn quai gô vào nhánh cây, treo trên lửa để nấu cơm.
Anh Hùng trở về, tay cầm mấy nhánh lá xanh. Anh Đằng hỏi: – Thế nào Hùng?
– Êm lắm! Xung quanh không thấy dấu vết gì, cũng không có dấu cọp.
Tôi biết anh vừa đi một vòng quanh chỗ trú đêm để xem xét, nhưng không hiểu anh bẻ mấy nhánh lá làm gì.
– Lá gì vậy, anh Hùng - Tôi hỏi.
– Cậu nếm xem - Anh nói và chìa nhánh lá ra.
Tôi vặt một chiếc lá đưa lên miệng nhấm, vị chua thấm vào đầu lưỡi làm nước bọt tiết ra. Tôi thốt lên:
– Lá bứa! Thế mà em không nhận ra.
– Vitamin C đấy! Tối nay ta sẽ nấu món canh chua. Thay nhau tắm rửa xong, chúng tôi quây quần bên hai gô cơm bốc hơi nghi ngút và soong canh lá bứa nấu với thịt hộp do anh Hùng “đạo diễn". Bữa cơm còn có món thịt kho rim mà chiều qua đồng chí thiếu tá đã chu đáo dặn trạm giao liên gói cho chúng tôi mang theo. Mọi người đều ăn rất ngon miệng. Khi nghe tôi xuýt xoa khen món canh chua, anh Hùng cười hể hả:
– Rồi cậu còn được biết nhiều món ngon! Rừng không phụ lòng người bao giờ!
Cơm xong thì trời cũng chạng vạng tối. Những âm thanh náo nức sôi động của cuộc sống rừng già lúc ban ngày đã ắng lại, chỉ
còn nghe tiếng lá rì rào, tiếng con suôn nhỏ róc rách chen lẫn tiếng vài con chim mải kiếm mồi giờ mới vội vã bay về tổ. Chúng tôi mắc võng ngủ trên cành cao, sau khi đã dập tắt đống lửa. Ở đây chưa xa đường giao thông là mấy, cần đề phòng bọn thám báo phát hiện ra ánh lửa. Lúc chiều tôi có nghe tiếng máy bay L.19 lượn hướng con đường xe đi đêm trước. Vừa đặt mình xuống võng, tôi đã ngủ say như chết. Có lẽ do hai đêm trước chỉ gà gật trên xe và cả ngày đi đường mệt nhọc. Sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khi trời vừa rạng. Từ trên cành cây cao có thể nhìn thấy nền trời ửng hơn sau đỉnh núi. Anh Sơn gọi với lên:
– Cẩn thận, đừng tưởng là ngủ dưới đất đấy nhé!
Thì ra các anh ấy đã dậy cả. Anh Hùng đang ngồi bên bếp lửa, từ chiếc soong treo trên bếp vọng ra tiếng sôi ùng ục. Tôi tháo võng nhét vào ba lô ôm tụt xuống đất, ngượng nghịu: – Sao các anh không gọi em?
– Còn sớm, vội gì? - Anh Hùng trả lời rồi đưa thìa lên miệng nếm, xuýt xoa vì nóng.
Tôi xuống suối rửa mặt, lấy nước vào bi đông và trở lên ngồi cạnh anh Sơn.
– Hôm qua mình đi được nhiều chưa anh? - Tôi hỏi. – Đi nhiều nhưng được thì chưa bao nhiêu? - Anh Sơn cười nhét chiếc địa bàn vào túi áo ngực.
Sống với nhau mới mấy ngày mà tôi thấy tính anh rất dễ mến. Anh hiền lành ít nói, nhưng lại có cách nói chuyện rất có duyên. Mọi việc anh đều tỏ ra thành thạo không kém gì anh Đằng và anh Hùng. Trong tổ chỉ mình tôi là vụng. Không hiểu sao anh Hai Nguyên lại chọn tôi?
Bữa sáng có món cháo gạo nấu đặc ăn với đường. Sau khi ăn xong, chúng tôi sắp xếp ba lô chuẩn bị ra đi. Tôi cùng anh Hùng dập tắt đống lửa rồi xóa hết mọi dấu vết.
Mấy ngày sau đó, cảnh rừng chúng tôi đi qua vẫn như ngày đầu. Cũng những cây cổ thụ sừng sững, những lùm cây bụi cành lá lòa xòa quệt vào mặt, những cây dây leo đôi lúc níu chân người kéo giật trở lại. Đường đi hết lên dốc rồi xuống dốc, nhưng tôi biết mình đang đi lên cao. Thỉnh thoảng lại gặp một cái khe nhỏ len lỏi qua những tảng đá, nước trong vắt và mát lạnh.
Bây giờ đang cuối mùa xuân. Trong những cánh rừng nở đầy các loài hoa dại mà hầu hết tôi không biết tên. Có cây dây leo nở những đóa hoa dạng loa kèn to hơn miệng bát màu đỏ màu vàng sặc sỡ, làm thành từng chuỗi dài giăng từ cây này sang cây khác. Lại loài dây leo nọ hoa nở từng chùm rực rỡ, treo lủng lẳng như những chiếc đèn lồng. Trên tán của một cây thân gỗ cao to có những bông hoa li ti màu trắng nở dày đặc kết thành đám mây nhỏ, gặp cồn gió thổi, cánh hoa rụng tơi tả phủ đầy trên mũ. ở một bụi cây bên đường, mấy bông hoa đỏ chót như những ngọn lửa lấp ló trong đám lá. Lại còn loài cây gì trông từa tựa như cây khoai môn mọc trong góc tối ẩm ướt, phải xòe các chiếc lá to bằng miệng thúng cố hứng lấy chút ánh nắng, vậy mà cũng nở được những bông hoa kì dị giống bắp ngô to tướng đỏ rực, vươn cao đến vài ba mét như để chào mời. Đôi lúc ngẩng đầu lên, tôi lại bắt gặp trên cao một khóm lan rừng có những túm rễ ngoằn ngoèo bám chi chít vào thân cây cổ thụ đang trổ từng chuỗi bông dài đẹp lộng lẫy như những chuỗi ngọc. Ngay cả các loài cây cỏ mọc sát mặt đất cũng có những thứ hoa riêng của nó: những chùm hoa nhỏ xinh xinh như những chùm hạt cườm, hoặc những bông hoa bé tí giống chiếc cúc áo nhiều màu sắc.
Được trang điểm bởi muôn ngàn bông hoa dại đủ màu đủ vẻ núi rừng rực rỡ hẳn lên trong nắng mai. Đi trong rừng mùa này ngửi thấy nhiều mùi hương khác nhau, từ thơm ngát; thơm nồng, thơm dịu đến mùi ngai ngái, hăng hắc..., và rõ hơn cả là mùi mật ngòn ngọt của trái cây đang chín. Như say trong hường rừng, vô vàn ong bướm cùng đủ loại côn trùng cánh lụa cánh cứng bay
vượn thỏa thuê từ bông hoa này sang bông hoa khác, tiếng vù vù vo vo vang suốt ngày.
Rừng thật đẹp, nhưng chúng tôi không có thời gian để thưởng thức. Tất cả tâm trí đều dồn cho công việc trước mắt. Vả lại với hơn ba mươi kí ba lô súng đạn trên người thì việc đi lại trong rừng rậm chẳng nhẹ nhàng chút nào. Có những đoạn dốc gần như dựng đứng, phải níu từng mẩu rễ, từng cành cây mà leo lên. Lại có những khe đá ẩm ướt tối om, phải dò dẫm bước trên những phiến đá phủ rêu trơn tuột. Đi dưới bóng râm của nhiều tầng lá che trên đầu không hẳn lúc nào cũng mát, nhất là về buổi chiều. Khi đó những cây lá bịt bùng xung quanh không cho một ngọn gió nào lùa tới, và lớp đất rừng phủ đầy lá mục bốc hơi nóng hầm hập làm ta phải ngợp thở, mồ hôi túa ra thấm vào những vết rách xước trên da thật rát buốt như bị xát muối. Rừng tuy đẹp, nhưng vẻ đẹp hoang dã luôn đi kèm với sự khắc nghiệt. Con người muốn sống được với rừng, phải vượt qua mọi thừ thách của nó.
Buổi sáng hôm đó, sau khi leo hết triền dốc dài, chúng tôi gặp một cánh rừng thưa. Đang đi, chợt anh Đằng dừng lại gọi khẽ: – Hùng ơi, lên đây! - Anh Hùng vượt lên, đến bên anh - Cậu ngửi thấy mùi gì không?
Anh Hùng hít hít mấy cái:
– Mùi khét của cọp! Chắc nó vừa qua đây.
Bất giác, tay tôi nắm chặt khẩu súng. Anh Hùng cắp súng lom khom đi ngược hướng gió tìm dấu vết trên mặt đất. Chúng tôi bước chầm chậm theo sau. Xung quanh vắng lặng, chỉ có tiếng chân sột soạt trên cỏ. Chim chóc cũng bay đâu hết, không nghe tiếng hót. Một cành cây rơi xuống đất đánh "bịch" làm tôi giật nẩy người.
Lát sau anh Hùng quay lại:
– Cọp đàn anh ạ! Có ba con, chúng vừa qua đây khoảng dăm phút.
– Không sao đâu? Chúng ta đi thôi!
Tôi bước gấp mấy bước tới sát sau anh, vừa đi vừa thận trọng quan sát xung quanh. Một lúc sau không nén nổi, tôi cất tiếng hỏi: – Liệu có gặp nó không anh Đằng?
Anh ngoái lại nhìn tôi bật cười:
– Có gặp cũng chẳng sao! Cọp rừng già không mấy khi bắt người.
Anh Sơn nói:
– Hồi bọn tôi đi ở miền tây Nghệ An, vẫn gặp cọp hàng ngày như người ta đi rừng gặp nhau. Lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Chỉ cần cảnh giác là được...
Chợt anh Hùng kêu khẽ:
– Kia kìa, chúng đấy?
Cả ba chúng tôi cùng đứng lại, ngoái đầu nhìn theo hướng anh chỉ. Tôi chưa thấy gì. Anh Đằng đưa ống nhòm lên mắt: – Thấy rồi! Đúng ba con. - Anh trao ống nhòm cho tôi - Hải nhìn đi, ở đoạn dốc có cái cây đổ ấy!
Tôi rê ống nhòm đến chỗ anh chỉ. Kia rồi! Trong ống kính hiện rõ một nhà cọp: Có hai con còn nhỏ, chỉ nhinh hơn con chó một chút, đang lẽo đẽo theo sau cọp mẹ. Chúng nối nhau đi xuống đoạn dốc trống trải, dáng mềm mại, những vằn đen vằn vàng trên bộ lông thấp thoáng sau ngọn cỏ.
Tôi trả anh Đằng chái ống nhòm, hỏi:
– Nếu lúc nãy gặp nó, mình có bắn không anh?
– Nó không có ý tấn công mình thì bắn làm gì?
– Ngoài quê em các cụ kể hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Thủy Ba cọp vẫn bắt người luôn. Có khi cả đoàn hàng chục người vừa đi vừa gõ mõ la hét, mà nó vẫn chồm ra cắp người đi cuối rồi chạy mất.
– Chuyện ấy cũng có đấy? - Anh Hùng nói - Suy cho cùng cọp dữ có lỗi của con người. Chiến tranh, săn bắn, chặt cây phá rừng... đã xua các loài thú khác trốn biệt lên núi xa. Con cọp đói
mồi, và nó gặp người nhiều nên quen dần, không sợ nữa. Đói quá hóa liều, mà liều một lần rồi quen... Cũng có khi tình cờ nó gặp và ăn xác người chết vì bom đạn, "ăn quen bén mùi", từ đó nó thích ăn thịt người.
– Thế theo anh, vì sao cọp rừng già lại hiền hơn?
– Không phải hiền hơn, nó vẫn là loài thú dữ ăn thịt. Nhưng ở đây đâu thiếu con mồi, nó đâu có đói quá đến mức phải liều? Hơn nữa, con người trong mắt nó là loài vật lạ mà có khi nó chưa gặp lần nào. Chưa biết lành dữ ra sao thì động vào làm gì?
Anh Sơn cười, xen vào:
– Nghe anh Hùng nói chuyện cọp mà như nói về người ấy nhỉ? – Cậu phản đồi à? - Ngược lại là khác! Tôi đã sống nhiều trong rừng, tôi biết. Con cọp chỉ bắt mồi khi đói, theo bản năng sinh tồn. Nó săn đuổi các loài thú khác, con nào yếu ớt chậm chân sẽ bị nó bắt, còn con khỏe mạnh khôn ngoan thì chạy thoát. Như vậy cọp cũng góp phần vào quá trình đào thải tự nhiên của cuộc sống. Chính con người mới là kẻ phá vỡ sự cân bằng vốn có của thiên
nhiên khi săn bắt bừa bãi các loài thú, có lúc chỉ để giải trí. Anh Đằng góp chuyện:
– Lại còn chiến tranh nữa! Các cậu đã đi qua những vùng rừng bị rải chất độc hóa học, chắc biết. Có lần mình gặp một con nai đẻ ra quái thai. Con nai mẹ cuống quít chạy quanh cái bọc thịt đỏ hỏn phập phồng, mắt nó ngơ ngác hoảng hốt trông tội lắm Hơn tuần sau mình quay lại nơi đó, thấy nai mẹ đã chết. Xác hai mẹ con nó đang rữa ra trên lớp lá rụng...
Mọi người lặng im. Tôi nói sang chuyện khác:
– Anh Hùng này, làm sao anh biết được mùi cọp?
– Con cọp có mùi riêng của nó chứ? Cũng như khi đi đêm, không nhìn thấy gì nhưng ta vẫn phát hiện ra tụi Mỹ phục kích nhờ ngửi được mùi của chúng. Trong rừng, cọp thường đái vào gốc cây để đánh dấu lãnh địa của nó, thợ săn thoáng ngửi qua là biết liền.
– Thế làm sao anh biết có ba con?
– À, phải nhìn dấu chân nó để lại. Việc này khó hơn. Có người đi săn cả đời mà vẫn bị lầm đấy! Người thợ săn giỏi là phải biết nhìn, nghe, suy nghĩ..., tích lũy từng chút hiểu biết, từng chút kinh nghiệm. Đến một lúc nào đó, tất cả thấm vào trong đầu óc anh, gần như thành bản năng, thành linh cảm. Lúc đó anh chỉ nhìn qua dấu chân, hoặc ngửi chút mùi vương lại trong không khí là đã biết nhiều điều về con vật thậm chí có thể biết nó no mồi hay còn đói..., có lẽ chỉ không biết được con đực hay con cái thôi. Để lúc nào rảnh rỗi mình bày thêm cho cậu. Cũng phải học dần mỗi lúc một ít, không thể biết ngay tất cả được đâu.
Anh Đằng đang đi phía trước nói với lại:
– Cậu Hải yên trí! Đi xong chuyến này cậu sẽ học được khối thứ, lúc đó trở thành... người rừng là cái chắc?
Mọi người cười vang. Một đàn chim thấy động vỗ cánh bay rào rào.
Tôi không nhớ mình đã mê rừng từ lúc nào, nhưng hồi còn nhỏ, những ngày đẹp trời, tôi thường leo lên cây ngóng lên phía Trường Sơn ngắm không chán mắt những dãy núi điệp trùng. Dưới nắng vàng, màu xanh cây lá cứ rực lên nơi dãy núi gần nhất, còn những dãy xa hơn có màu xanh dương, xanh lơ, xanh nhạt, và cuối cùng là lớp núi xanh mờ hòa vào trong mây trắng. Tôi ao ước được dặt chân tới những vùng rừng xa xôi và say sưa mơ mộng thả hồn trong những cánh rừng đẹp như mơ cùng những chuyến phiêu lưu kỳ thú nơi rừng xanh núi thẳm...
Chính niềm say mê đó đã khiến tôi hết sức thán phục và ngưỡng mộ anh Hùng trước những hiểu biết của anh về rừng. Vốn tính ít nói, không mấy khi anh kể về bản thân mình, nhưng lại rất say sưa sôi nổi khi kể chuyện rừng. Ở trong rừng, anh biết nhiều loại lá có thể nấu canh và những thứ cỏ cây dùng làm thuốc. Nhìn qua một thứ quả dại nào đó, anh có thể nói ngay là ăn được hay không. Khi nghe anh kể về cỏ cây hoa lá muông thú, không ai nghĩ anh là người trai của quê lúa Thái Bình.
Sống trong một làng quê nằm giữa cánh đồng cò bay thẳng cánh, nhưng nhà anh quanh năm thiếu ăn vì chỉ có vài sào ruộng xấu cấy một vụ. Vì thế từ những đời trước, gia đình anh đã phải làm thêm nghề sơn tràng. Hàng năm sau khi gieo cấy xong, những người đàn ông để ruộng đất nhà cửa lại cho phụ nữ trông nom rồi kéo nhau lên rừng đơn gỗ kết bè xuôi sông về bán ở đồng bằng. Nghe qua tưởng đơn giản, nhưng thực ra cuộc sống trên rừng dưới sông của những người thợ sơn tràng không phải dễ dàng. Đốn được cây gỗ đưa xuống tới sông để cốn bè đã là khó, nhưng chưa vất vả bằng lúc phải chống bè vượt qua những ghềnh đá, những con thác hung dữ ở miền thượng lưu. Nhiều khi qua thác bè vỡ hoặc lúc gặp cơn lũ cuốn bất ngờ thì lại tay không trở về làng, còn giữ được mạng sống đã là may mắn lắm.
Nhưng được cái cuộc sống gian nan trong núi rừng, trên sông nước dạy người ta khôn ra, hiểu biết nhiều hơn và dạn dày với mọi nỗi gian truân. Năm mười hai tuổi, anh Hùng được bố cho đi một chuyến như thế, và từ đó anh mê rừng đến không gì cưỡng lại được. Anh theo bố đi rừng không bỏ chuyến nào. Năm mười sáu tuổi, anh ở lại hẳn trong nhà một bà mế già mà gia đình anh đã từng quen biết thân thiết, và sau này lấy vợ là cháu gái bà.
Ở đó, cuộc sống của dân bản phụ thuộc vào rừng. Anh Hùng cũng đi rừng như mọi người. Anh gắn bó với rừng và rừng giúp anh thỏa mãn mọi khát khao mơ tưởng từ khi còn bé ngồi nghe ông cha kể chuyện rừng. Để sống được với rừng, anh còn phải học phải biết nhiều điều, và rừng dạy cho anh những bài học mà không nhà trường nào dạy được. Bà mế già là người thầy thuốc duy nhất của cả bản, bà dạy anh nhiều bài thuốc từ cây cỏ trong rừng.
Năm 1963 anh nhập ngũ, lúc vợ mới sinh con trai đầu lòng. Cuộc đời người lính của anh cũng lại gắn bó với rừng. Những hiểu biết về rừng cùng cuộc sống được rèn luyện trong rừng từ tuổi niên thiếu, đã giúp anh trở thành người chiến sĩ trinh sát đầy
bản lĩnh của một sư đoàn mà từ khi thành lập đến nay, mọi chiến công đều gắn liền với những địa danh của núi rừng. Đó là những điều về anh mà anh Đằng đã kể tôi nghe. Còn anh, chỉ một lần duy nhất anh kể về mình là lúc khoe chuyện vợ đã hai lần đưa con về thăm quê nội. Mỗi lần như vậy bà con nội ngoại đều hết sức mừng rỡ giữ hai mẹ con lại hàng tháng trời không muốn cho đi... Nhìn nét mặt rạng rỡ của anh, tôi hiểu rằng anh đã ao ước biết nhường nào được một lần đưa con trai về thăm quê, về với những cánh đồng rập rờn sóng lúa, với làng quê nho nhỏ khuất sau lũy tre xanh, nơi tuổi thơ của anh có bao kỷ niệm êm đềm...
Gần hết ngày hôm ấy, chúng tôi đi được quãng đường khá dài nhưng chưa gặp nguồn nước nào. Anh Đằng giục mọi người rảo bước mong gặp suối trước khi trời tối.
Lúc sắp bước ra một tráng cỏ, anh chợt lùi lại ngoắc tay gọi khẽ: "Hải, tới đây!" Tôi nhao tới bên anh thì thào hỏi: "Gì thế anh?", trong đầu thầm nghĩ "Lại cọp rồi..."
Anh Đằng không đáp, đưa tay chỉ về phía trước mặt. Tôi nhìn theo, thấy cuối tráng cỏ có đàn gà đang ăn. Biết anh dành cho tôi cơ hội kiếm thức ăn buổi tối, tôi nói ngay: "Để đấy cho em" và tuột ba lô đặt xuống đất. Tôi nhìn ngọn cây tìm hướng gió, nhanh nhẹn luồn qua những bụi cây ven tráng cỏ tới gần đàn gà. Khi chỉ còn cách chừng sáu chục mét, tôi quì xuống giương súng ngắm. Không thể tới gần hơn được nữa, sợ chúng nghe động bay hết thì ê mặt. Con gà trống có bộ lông màu nâu nhạt điểm những sắc đỏ sắc vàng và cái đuôi dài tha thướt, nom cũng ra dáng lắm. Những con mái thường hơn với màu lông đen xám lẫn lộn. Con trống vừa bới mồi vừa quanh quẩn bên mấy ả mái. Tôi đưa bộ lông sặc sỡ của nó vào đường ngắm, nhưng chưa bắn ngay mà rê nòng súng theo mục tiêu đang lăng xăng lui tới. Đến lúc một con nữa chập vào đường ngắm, tôi mới bóp cò. Phát súng nổ vang làm mấy con gà hất hoảng bay vút vào bụi rậm. Tôi chạy ra bãi cỏ
nhặt hai con vừa trúng đạn rồi thong thả quay lại nơi ba anh đang đợi.
Thấy tôi, anh Đằng reo lên:
– Ái chà! Hai con một lúc cơ à?
– Gà nhỏ quá, phải hai con ăn mới đủ anh ạ! - Tôi đáp, cố làm ra vẻ dửng dưng.
Cả ba anh cùng cười ồ: "Khá lắm? Cậu này chơi được đấy!” Chúng tôi vội vã đi tiếp, nhưng vừa qua hết trảng cỏ đã gặp ngay khe nước. Một sự bất ngờ thật dễ chịu.
Lúc chuẩn bị bữa tối, anh Hùng vừa quay hai con gà đang xèo xèo trên đống than đỏ rực, vừa nói:
– Để hôm khác có con thú nào ngon thịt, mình sẽ biểu diễn cho các cậu một cách nướng tuyệt diệu, bảo đảm khách sạn Phú Gia ở Hà Nội cũng khó làm ngon hơn được...
Trời nhá nhem tối. Chúng tôi ngồi bên đống lửa cháy rừng rực, khoan khoái thưởng thức món gà rừng nướng thơm lừng chấm với muối có rắc mấy hạt mì chính. Vờ cúi mặt làm như mải gặm đùi gà, nhưng thực ra trong lòng tôi đang nở từng khúc ruột khi nghe ba anh tấm tắc khen món gà rừng nướng, cứ như nhờ tôi bắn nên thịt gà mới ngon đến vậy. Biết thế nào được! Khi ta hai mươi ba tuổi, chưa hẳn mọi cái đều chín chắn, trong ta vẫn còn sót lại chút ngây thơ của thời trẻ nít, nhất là khi ở bên nhưng người từng trải hơn mình. Chính vì thế mà một thành công cỏn con như vậy cũng làm tôi sướng rơn, người cứ lâng lâng mãi.
Đến tối, chúng tôi kéo thêm mấy khúc gỗ chất vào đống lửa rồi dựng lều ngủ ngay bên khe nước. Tôi nằm cạnh anh Hùng, mê mải nghe anh kể chuyện rừng. Anh say sưa nói về cách bẫy chim săn thú, tìm rau quả đào củ mài, cách xác định phương hướng khi đi đêm trong rừng... Anh nói:
– Có người cho rằng những thứ quả nào có dấu chim ăn thì người ăn được, nhưng không hẳn như thế. Nhiều loại quả chim ăn được nhưng người ăn lại bị ngộ độc đấy! Muốn ăn, phải tìm
những thứ mà bọn thú bốn chân như chồn, sóc, khỉ... vẫn ăn. Nhất là khỉ, chúng biết chọn thức ngon nhất để chén... Anh còn kể cho tôi nghe những lần đi tìm trầm, phải lang thang trong rừng hàng tháng trời. Những chuyến đi săn lợn lòi, trai tráng trong bản kéo nhau đi đông vui như ngày hội. Người và chó xua lũ lợn vào một góc rừng nào đó đã giăng lưới và có thợ săn cầm nỏ cầm lao phục sẵn. Tiếng mõ, tiếng phèng la khua vang lừng hết cánh rừng này qua cánh rừng khác. Một chuyến săn như thế có khi kéo dài đến bốn, năm ngày...
Trăng lên lúc đêm đã khuya. Anh Đằng giục chúng tôi ngủ để lấy sức mai đi. Nãy giờ hai anh vẫn nằm nghe chuyện, thỉnh thoảng mới góp vào một câu.
Tôi vén mép tăng nhìn ra. Trăng sáng quá. ánh trăng rười rượi trên tráng cỏ đầy sương và tiếng côn trùng nỉ non làm cho đêm rừng càng trở nên huyền ảo. "Khuya rồi, ngủ đi Hải”, anh Đằng khẽ nhắc. Tôi buông mép tăng, kéo tấm võng đôi dùng làm chăn trùm kín đầu, lát sau đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Chương III
Sang ngày thứ sáu ở trong rừng. Theo tính toán của anh Sơn, chúng tôi vẫn đang đi trên đất Lào. Trước khi lên đường, anh Đằng nhắc từ hôm nay phải tranh thủ kiếm thêm thức ăn để hạn chế dùng số lương thực mang theo.
Hôm qua anh Hùng đã chỉ cho tôi biết cây củ mài. Theo anh, ở rừng củ mài là loại lương thực tốt nhất vì nó nhiều tinh bột lại lành, ăn thay cơm được mà không sợ say như ăn sắn. Có điều củ mài thường đâm sâu dưới đất, đào rất khó, chúng tôi đang còn gạo ăn nên chưa đào lần nào. Còn chim, thú trong rừng không thiếu. Ban ngày, xung quanh chúng tôi lúc nào cũng nghe tiếng chim. Riêng sóc thì ở đâu cũng gặp, chúng chuyền thoăn thoắt khi ẩn khi hiện trên cành cây.
Hôm đi qua cánh rừng thưa, chúng tôi gặp cả một đàn lợn rừng hơn chục con đang dũi đất kiếm ăn. Con lợn đầu đàn to gần bằng con bò, có hai răng nanh cong vút bên khóe miệng, những túm lông trên sống lưng dày rậm như bờm. Nghe động, nó choãi chân đứng thủ thế, cặp mắt gườm gườm, lông gáy dựng ngược lên. Lát sau nó hộc mấy tiếng rồi quay lại dẫn bầy đàn thong thả bước đi.
Hầu hết những đoạn suối chúng tôi qua đều có dấu chân của những con thú lớn xuống uống nước. Tôi đang mong có dịp bắn được một con nai, con mang nào đó. Thịt mang ngon lắm, mềm và ngọt hơn thịt bò. Nhưng lúc này chưa được, chúng tôi đang vội. Chặng đường phía trước còn rất dài.
Chừng giữa buổi, cả tổ đi vào một hẻm núi, hai bên là hai ngọn núi cao sừng sững. Những thân cây mọc trên vách núi nghiêng cành xòe tán lá rậm rạp che kín trên dầu. Hẻm núi tồi mờ. Mấy cây dây leo to tướng như đàn rắn kì dị ngoắc đuôi vào nhánh cây thòng xuống đong đưa.
Đang đi, bỗng nghe rào rào, rồi những vật gì rơi lộp độp xung quanh. Tôi vội ngước nhìn lên, suýt trượt chân trên tảng đá trơn tuột. Những cái bóng chuyền thoăn thoắt trên cành cây và tiếng lẹc khẹc vọng xuống. Thì ra là lũ khỉ. Chúng đang hái trái cây, bẻ cành khô ném xuống đầu chúng tôi có vẻ như không chấp nhận sự đột nhập của những kẻ lạ mặt. Chúng tôi vẫn cắm cúi bước, mong thoát nhanh ra khỏi cái hẻm núi tối tăm khó chịu này. Nhưng rồi không hiểu từ đâu, bọn khỉ kéo tới đàn đàn lũ lũ có đến hàng trăm con, chuyền cành ào ào như gió cuốn và ném xuống tất cả những gì chúng vớ được, làm chúng tôi tối tăm mặt mũi.
Tôi bực mình tuột súng cầm ở tay, nói với anh Đằng: – Để em cho tụi nó mấy phát cho chừa đi?
– Ấy đừng, bắn làm gì! - Anh Đằng vội giơ tay ngăn lại - Chịu khó một lúc, ném chán là chúng thôi. Chẳng nguy hiểm gì đâu. Anh Hùng nói thêm:
– Cậu mà bắn một con là chúng càng kéo tới đông hơn và đuổi mình đến cùng đấy?
– Chẳng lẽ mình chịu à? - Tôi vẫn chưa hết cáu.
– Không phải chịu, mà là không cần thiết phải khiêu khích chúng. Thực ra, lũ khỉ cũng chỉ hiểu lầm thôi. Đây là lãnh địa của chúng mà.
Quả nhiên sau một hồi ném chán tay, lũ khỉ chí choé gọi nhau tản đi.
Đến gần trưa, vách núi hai bên thấp dần. May quá, sắp ra khỏi hẻm núi rồi. Đi thêm một quãng qua khỏi khúc quanh, mắt chúng tôi bỗng lóa lên bởi ánh nắng vàng rực chan hòa khắp cánh rừng trước mặt. Đúng là như vừa chui ra khỏi lỗ cống, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.
Mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Phía trước nghe có tiếng suối chảy. Mọi người bước hối hả để mau đến chỗ có thể nghỉ lại nấu cơm.
Đang đi vội, anh Đằng bỗng nhảy bật lùi một bước. Tôi tuột súng nhào tới nhưng anh gạt lui: "Đừng, rắn đấy!" Khi nhìn ra trước, tôi chợt thót tim, người sởn gai ốc: một con rắn hổ mang to tướng chắn ngang lồl đi, chỉ cách năm mét. Nó đang ngóc cái đầu dẹp lép phồng mang phun phun phì phì, lưỡi thụt ra thụt vào như tia chớp. Tiếng anh Sơn nói nhanh sau lưng tôi:
– Đứng yên đừng cử động, để đó cho tôi?
Anh bước chệch sang một bên, đứng dạng chân nâng súng bằng cả hai tay bắn liền bốn phát không cần ngắm, tiếng nổ liền liền như loạt tiểu liên.
Con rắn như bị dao phạt ngang cổ, lăn lộn cuộn cái thân dài thượt đen mốc, kéo theo cả cái đầu toé máu chỉ còn dính với thân bằng một mẩu da. Phải đến mấy phút sau nó mới chịu nằm im. Hú vía! Mấy hôm trước chúng tôi vẫn gặp rắn, nhưng thường thấy động là chúng trườn đi ngay. Còn con này hình như đang định tấn công. Tôi kinh hãi nhìn con rắn: nó dài gần ba mét, to gần bằng cổ chân, vảy lởm chởm trên cái thân đen mốc, khúc đuôi dài ngoằng đến giờ vẫn còn giật giật.
Anh Hùng nói với anh Sơn lúc này vẫn đang cầm khẩu K54 nòng còn bốc khói:
– Cậu xử trí đúng đấy! Khi đó nếu mình di chuyển là nó lao tới mổ ngay.
Anh Đằng hể hả:
– Không ngờ đồng hương bắn giỏi đến vậy! Cứ như trong phim ấy!
Anh Sơn nhét khẩu súng vào bao, cười hiền lành: – Ở ngoài kia đi rừng tôi cũng mang K54. Thỉnh thoảng xin được đạn bên bộ đội, vẫn vào rừng tập bắn. Lâu rồi quen tay thôi! Tôi nhìn anh thán phục. Vốn là tay súng giỏi, tôi biết để bắn được như thế không chỉ cần quá trình tập luyện công phu, mà đòi hỏi có năng khiếu và thần kinh phải vững như thép.
Chúng tôi lại đi. Tôi thận trọng bước dài tránh xác con rắn, nó chết rồi mà trông vẫn thật đáng sợ. Con này đã cắn ai thì chẳng thuốc nào cứu được.
Đến chiều, khi vừa chui ra khỏi quãng rừng rậm, chúng tôi gặp một con đường của voi đi. Tôi dễ dàng nhận ra điều ấy bởi suốt dọc lối chi chít dấu chân voi. Có dấu đã cũ, có dấu trông còn mới, chắc chúng vừa đi qua đây không lâu. Có lẽ bầy voi thường qua lại trên lối này, vì chúng làm những cây con gãy rạp, tạo thành một làn đường rộng hơn chục mét.
Nãy giờ anh Hùng vẫn quan sát dấu chân voi nhưng chưa nói gì. Tôi tranh thủ nêu ra phán đoán theo kiểu anh đã dạy. Nghe xong, anh cười bảo:
– Cậu nói có phần đúng, như vậy là tiếp thu bài tốt đấy? Nhưng... - Anh xốc lại ba lô trên lưng, suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp - Muốn phán đoán đúng phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, nhất là phải biết đặc tính của con vật. Mình ví dụ thế này nhé: Con voi nặng nên dấu chân nó hằn rõ. Bây giờ đang mùa khô, vì vậy có khi đã vài tháng mà dấu chân trông vẫn còn như mới do cỏ không mọc lên được, cũng không có mưa nên không bị xói mòn hoặc đất cát tràn vào.
– Vậy làm sao để biết nó đi qua khi nào?
– Phải nhìn cây chứ! Con voi dùng vòi cuốn lá ăn. Nó lại giẫm chân lên những bụi cây thấp hoặc ngọn cỏ. Nhìn cây lá là xác định được. Đấy, cậu nhìn xem có dấu cây gãy nào còn mới không? Với những dấu vết này, bầy voi đi qua gần đây nhất cũng phải non một tháng rồi.
Tôi ngẩn người nghe anh nói. Đúng là không thể một lúc mà học hết mọi thứ được.
– Thế anh bảo bầy voi này có đông không? - Tôi hỏi. Anh Hùng chưa kịp trả lời thì anh Sơn đã lên tiếng: – Hải cứ nói trước đi, xem có đúng không?
Tôi cười:
– Em nghĩ là rất đông. Dấu chân chi chít thế kia, phải ba bơn chục con là ít.
Anh Đằng nghe tôi nói liền bật cười:
– Lần này cậu chỉ được hai điểm là cùng! Sao vậy anh! – Cứ hỏi Hùng thì biết!
Anh Hùng không đợi tôi hỏi, nói ngay:
– Bầy voi đi qua lần vừa rồi chỉ bốn hoặc năm con. Muốn biết, phải tìm trong những dấu chân kia, chọn ra những dấu còn mới như nhau. Nhưng có điều... Anh chưa nói hết câu thì anh Đằng đưa tay ra hiệu im lặng. Theo hướng anh chỉ, chúng tôi nhìn thấy trên ngọn cây khô trước mặt có hai chấm đen: hai con chim đang đậu. Anh Hùng nói khẽ: "Các anh đứng lại đã nhé!”, rồi cầm súng lủi qua những lùm cây. Ít phút sau, tiếng súng nổ vang lên, một con chim rơi xuống, con còn lại hốt hoảng bay mất. Chúng tôi bước nhanh tới. Anh Hùng đang đứng dưới gốc cây nhìn lên. Con chim trúng đạn rơi vướng trên nhánh cây, cao đến hai chục mét là ít. "Phí của! Thế là mất bữa thịt chim...", tôi tặc lưỡi tiếc rẻ. Anh Hùng giúi khẩu súng vào tay tôi, bỏ ba lô xuống đất bám thân cây thoăn thoắt leo lên, loáng cái đã đến nơi. Anh ôm nhánh cây bò ra một đoạn rồi dùng cả thân người nhún. Con chim bật khỏi đám lá rơi thẳng xuống. Tôi chạy đến nhặt lên. Không biết loài chim gì nhưng rất to, nặng đến ba kí là ít. Nó có bộ lông màu nâu nhạt, đầu cánh điểm những chấm trắng làm tôi nghĩ đến loài đại bàng, nhưng chắc không phải vì con này mỏ ngắn và thẳng, chân lại không có vuốt cong nhọn.
Anh Hùng vừa xuống đến nơi, tôi hỏi ngay:
– Chim gì vậy anh?
– Cậu làm như tớ biết hết mọi thứ không bằng! - Anh cười. – Chim gì cũng được. Thịt chim chỉ có ngon hay dở chứ ăn không ngộ độc đâu mà sợ! - Anh Đằng nói vui.
Tối đó chúng tôi ăn cơm với thịt chim kho muối. Món thịt khá ngon nhưng có mùi hơi khét.
Lúc chui vào lều ngủ, tôi nhắc anh Hùng:
– Hồi chiều anh đang nói về đàn voi...
– À, mình cũng đang nghĩ. Theo mình thì bầy voi đã đi lại nhiều lần trên đường này, nhưng có lẽ không phải đi kiếm ăn. Vì nếu thế, chúng phải tản ra trong rừng, đằng này lại chỉ đi theo một lối nhất định. Đây có thể là con đường đi tới nghĩa địa voi.
– Nghĩa địa voi? - Tôi sủng sốt kêu lên.
– Đúng vậy? Mình chưa nhìn thấy lần nào, nhưng đã nghe kể. - Anh quay sang nói với anh Đằng - Này, anh Đằng có nhớ hồi ở bản Nầm không? Ở ngoài Thà Khẹt ấy?
– À, cái bản nuôi voi chứ gì?
– Ấy đấy! - Anh Hùng kể tiếp - Bọn mình đi công tác, trú lại bản đó có đến nửa tháng. Dân bản sống chủ yếu bằng nghề săn voi. Họ bẫy voi rừng về thuần dưỡng rồi đem bán sang Thái Lan. Mình đã xem cách họ dạy voi, hay lắm! Thế nhưng không phải ai cũng dạy được voi đâu nhé! Cả bản hơn tràm đàn ông, chỉ có mươi người chuyên nghề dạy, còn những người khác chỉ đi bẫy và làm các việc phụ giúp.
Ở đó mình được các cụ già kể nhiều chuyện về loài voi. Theo các cụ thì những đàn voi đông đúc thường có nghĩa địa riêng của chúng ở trên núi cao. Khi trong đàn có con nào già yếu gần đến ngày chết, nó liền được mấy con khác khỏe mạnh kèm đi đến nghĩa địa để chờ chết. Lúc voi già chưa chết, những con đưa đi vẫn kiếm ăn quanh quẩn gần đấy và đem thức ăn về cho nó. Đến khi voi già chết, bầy voi bẻ lá phủ kín xác bạn rồi mới quay về.
Biết đâu lối đi lúc chiều mình gặp là lối bầy voi đến nghĩa địa, nơi những con voi già đến để chờ chết...
Nằm lắng nghe câu chuyện lạ lùng về loài voi, tôi thầm mong được nhìn thấy nghĩa địa voi một lần cho biết. Trong rừng núi còn biết bao những chuyện kỳ lạ về các loài cỏ cây muông thú mà con người chưa thể hiểu hết được. Chính sự bí ẩn đó đã làm cho
rừng già - cái nôi của sự sống từ ngàn xưa - trở nên hấp dẫn lạ thường.
Chúng tôi vẫn may mắn trong suốt buổi sáng hôm nay, khi con đường của voi vẫn trùng với hướng đi. Nói "may mắn” là vì, đi theo lối voi vẫn dễ hơn nhiều, và tôi còn hy vọng gặp được nghĩa địa voi.
Trưa hôm đó cả tổ nghỉ lại bên một con suối cạn. Đành phải ăn lương khô vì nước trong bi đông dành để uống, không thể nấu cơm được. Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, tay bẻ từng mẩu lương khô cho vào miệng nhai, mắt nhìn theo đàn bướm đang bay dập dờn ở đoạn suối khô dưới chân vách đá. Không hiểu sao mùa này mà ở đây vẫn còn sót lại đàn bướm đông đến thế. Vô vàn con bướm trắng bướm màu kết thành đám dày đặc, trông xa như dải mây mỏng vướng dùng dằng nơi chân núi.
Mải nhìn đàn bướm, đến khi nghe tiếng động lục cục tôi mới ngoái đầu nhìn lại. Anh Hùng đã ăn xong, đang lấy dao đào đất ở chỗ lòng suối khô. Chắc anh tìm nước. "Đào làm gì nhỉ, lát nữa đã đi rồi? Mà làm sao có nước ở đây được?” Tôi chạy xuống chỗ anh, thắc mắc tự hỏi.
– Đào gì vậy anh Hùng? - Tôi hỏi.
– Cậu cứ lấy dao đào giúp đi, tí sẽ biết. - Anh cười trả lời. Tôi rút dao hì hục cạy những tảng đất nứt nẻ. Lát sau, chúng tôi đào được một khoảng rộng bằng nửa chiếc chiếu. Anh Hùng lại đào tiếp lớp thứ hai. Khi cạy lên tảng đất to bằng cái mũ, anh bảo: "Cậu bóp vụn ra xem?" Tôi làm theo lời anh. Đang bóp cho đất vỡ ra, tôi chợt giật nẩy người khi chạm phải một vật gì trơn trơn lành lạnh. Nhìn xuống thấy một con vật đang trườn ra. – Ôi lươn! Ở đây có lươn à? - Tôi reo lên.
– Không phải lươn đâu, chạch núi đấy. Nó cũng như cá chạch dưới ta thôi!
Đúng là con chạch thật! Cũng có đuôi, có vây, thân mình nhơn nhớt, chỉ khác ở cái đầu nhọn hơn.
– Ăn được không anh?
– Được chứ! Còn ngon nữa là khác!
Tôi đưa mắt nhìn dọc khe suối cạn:
– Thế đào ở đâu cũng có hả anh?
– Đừng tưởng bở! Phải chọn vũng suối nào nước đọng lâu nhất, và tất nhiên là lòng suối không có đá. Con chạch theo nước về đến đây thì nước khô, nó phải chui xuống đất ẩm chờ trời mưa. Mà những vũng suối đã khô lâu ngày thì đừng đào mất công.
– Nó chết hết phải không anh?
– Không hẳn thế! Con chạch rất khó chết. Nhưng khi ấy nó chui xuống sâu hơn. Mình đào bằng dao, biết bao giờ mới bắt được?
Một lúc sau, chúng tôi đào được hơn chục con cỡ ngón tay, con to nhất bằng ngón chân cái.
– Thôi đến lúc phải đi rồi - Anh Hùng bỏ những con chạch vào gô, đậy nắp lại - Cốt kiếm nồi canh chua thôi. Đến chiều cậu sẽ biết nó ngon như thế nào. - Anh nhìn tôi cười.
Con đường của voi vẫn kéo dài và ngày càng lên cao. Chúng tôi đạp lên những dấu chân voi, cắm cúi bước trong nắng chiều rát bỏng sau lưng.
Leo hết đoạn dốc cao, tôi dừng lại lấy mũ lau mồ hôi đầm đìa trên mặt, chợt ngửi thấy trong gió thoảng mùi thối khăn khẳn. Chắc có con vật nào chết quanh đây. Đi thêm một quãng nữa, mùi thối càng nặng hơn. Anh Đằng giục mọi người rảo bước, vượt nhanh ra khỏi vùng này. Gần tới đỉnh dốc, anh Sơn dừng lại lấy bản đồ trải trên đất, dùng địa bàn ngắm hướng rồi gọi:
– Anh Đằng ơi, đứng lại đã!
– Gì thế Sơn?
Anh Sơn chưa đáp mà xem lại bản đồ lần nữa, suy nghĩ một lát và ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
– Phải đi cắt rừng thôi! Con đường này bây giờ đang chệch với hướng của mình tới mười bảy độ.
Tôi ngoái đầu nhìn: đúng là lối voi đi đến đây thì quành lại, đâm thẳng lên đỉnh dốc.
– Thôi được, ta rẽ luôn. Gắng đến đoạn nào có nước để nghỉ. Chúng tôi xốc ba lô, rẽ cây bước tới. Được mấy bước, anh Hùng chợt ngập ngừng:
– Hay là... - Chúng tôi cùng quay lại nhìn anh - Mình đi lên đoạn nữa. Theo tôi, mùi hôi thối lúc nãy là của một con voi chết. Có thể nghĩa địa voi ở gần đây. Ta tới thẳng đấy xem sao rồi đi tiếp. - Anh vội vã giải thích.
Anh Đằng đang ngần ngừ, tôi nói luôn:
– Phải đó anh ạ! Chắc không xa đâu, chỉ sau đỉnh dốc kia thôi. Lên tới đó nếu không có, ta nhắm hướng đi càng tiện. Anh Đằng bật cười:
– Đúng lý quá, không ai cãi vào đâu được.
Chúng tôi quay lại đi tiếp theo dấu chân voi, mặc cho mùi thôi vẫn theo ngọn gió tây nam phả tới. Đến đỉnh dốc, tôi hăm hở bươn lên dẫn đầu. Chẳng thấy gì cả, chỉ có dấu chân voi đi qua dưới những gốc cây cổ thụ sừng sững lúc này đang nhuốm nắng vàng hượm trên ngọn. Anh Đằng giục:
– Cứ đi nữa đi! Tớ cảm thấy như gần đâu đây thôi. Thêm một quãng vài trăm mét, khi vòng qua hết mấy tảng đá lớn, chúng tôi cùng đứng sững lại bởi cảnh tượng trước mắt thật lạ lùng: trên một vùng đất rộng và tương đối bằng phẳng, vô số những bộ xương voi nằm la liệt xen với những tảng đá bạc trắng lô nhô. Thỉnh thoảng mới có một bóng cây mọc giữa đám cỏ, trên ngọn có mấy con chim đậu im lìm.
Anh Đằng kéo chúng tôi đi lên mé trên, tránh mùi hôi thối nồng nặc đang bốc lên từ xác con voi nằm gần đó. Tôi mượn anh chiếc ống nhòm đưa lên mắt nhìn. Nhiều bộ xương dầu dãi mưa nắng lâu ngày đã trắng hếu, giữa đống nổi lên tảng xương đầu to
tướng và những cánh xương sườn cong cong. Có vài bộ xương lổn nhổn còn dính những mảnh da đen mốc rách tả tơi. Trên cái xác voi đang bốc mùi, mấy con chìm ăn thịt đủng đỉnh đi lại, chốc chốc lại chúi đầu dưới lớp da voi rúc thật thối. Con vật to lớn giờ đây trở thành một đống lùng nhùng, chỉ còn đôi ngà dài cong vút đang ánh lên dưới nắng chiều như muốn chứng minh rằng nó đã từng kiêu hãnh tồn tại trên cõi đời này.
Trong bóng chiều đã xế, cả vùng nghĩa địa tĩnh mịch vắng lặng. Cảnh vật trở nên thê lương, buồn bã. Những tảng đá trắng lô nhô trên cỏ như những tấm bia mộ xếp lớp lớp trải dài đến hút tầm nhìn.
Chúng tôi lặng lẽ quay lại tìm hướng băng rừng tiếp tục cuộc hành trình. Trong đầu tôi vẫn miên man suy nghĩ về nghĩa địa voi. Những con vật chung thủy từng sống bầy đàn quấn quít, đã tìm về trên đỉnh núi cao quanh năm tràn đầy nắng gió này để chết cùng một chỗ. Cả đến khi phải từ giã cuộc sống, chúng cũng không muốn xa nhau và không muốn rời xa rừng già. Lại còn những con voi dìu bạn mình đi suốt chặng đường dài giữa rừng hoang để đến nơi yên nghỉ cuối đời như ý muốn... Con vật chỉ hành động theo bản năng mà sống với nhau có tình có nghĩa như thế, huống chi con người.
Chương IV
Ngày thứ tám. Chúng tôi lên đường từ sáng sớm, khi sương còn giăng trắng rừng. ánh rặt trời rọi qua sương tạo nên một bức màn màu hồng mờ mờ. Những cành lá đọng nước quệt vào người làm quần áo ướt sũng. Đôi dép cao su chốc chốc lại tụt khỏi chân. Chừng tám giờ sáng thì sương tan hết, nhưng đường đi ngày càng dốc hơn. Chúng tôi đang leo lên sườn của một ngọn núi nào dó. Chân người đi trước gần như ở trên đầu người đi sau. Anh Đằng thỉnh thoảng phải dừng lại, một tay níu cây, một tay kéo giúp từng người vượt qua chỗ dốc ngược. Anh nói:
– Cố lên các cậu! Chưa ăn thua gì đâu, sắp tới còn khó đi hơn đấy!
– Sao vậy anh? - Tôi hỏi.
– Mấy hôm nay ta đang leo lên sống lưng của dãy Trường Sơn. Đến lúc sang sườn đông cậu mới biết, hiểm trở hơn nhiều. Tôi tặc lưỡi:
– Kệ, đi được tất! Em chỉ trông mau tới nơi thôi.
– Đừng tưởng đến đỉnh chỉ cần vắt chân một cái là sang sườn đông như lúc cưỡi trâu đâu nhá! Còn phải leo chán - Anh Sơn trêu.
Mặt trời dần lên cao, ánh nắng đốt nóng trên cổ, trên vai áo. Chúng tôi níu cây vất vả leo từng đoạn dốc. Lúc này chẳng ai còn sức để trò chuyện. Mũi và miệng bắt đầu đua nhau thở, hơi thở lùng bừng trong lỗ tai. Từ nãy mồ hôi đã đầm đìa cả người tôi, giờ nó chảy thành dòng vào mắt cay xè. Chiếc ba lô và khẩu súng càng nặng hơn, nhiều lúc như níu lấy vai kéo ngược trở lại.
– Nghỉ tí đã, các cậu? - Tiếng anh Đằng nói ngay trên đầu. Tôi xoay người ngồi phịch xông đất, một tay vẫn níu lấy cành cây. Đoạn này dốc quá, không cẩn thận là lăn lông lốc xuống sườn
núi. Anh Hùng và anh Sơn cũng lên tới, vừa thở vừa nhìn tôi cười:
– Thế nào? Mệt không?
Tôi gật đầu thay cho lời đáp, miệng vẫn há ra làm thêm phần việc của mũi. Ngồi một lúc, khi hơi thở đã điều hòa trở lại, tôi mới lựa thế tỳ chân vào gốc cây để rảnh tay lấy bi đông nước mở nắp đưa lên miệng uống. Nước trong bi đông nóng hầm hập. Tôi quay sang phía anh Đằng:
– Từ đầu tới giờ, nay mới được bữa leo đã đời!
– Chưa hết đâu, đoạn sau còn dốc hơn đấy! Này, cậu đưa bao gạo lát mình mang cho.
– Anh đừng lo, em đi được. Hồi ở ngoài kia, mỗi lần đi lấy gạo là em mang bốn chục cân đi cả ngày đấy!
Tôi ngước nhìn lên. Vách núi cao tít, ở đây không nhìn thấy đỉnh vì bị cây che khuất. Những thân cây trắng mốc mọc chưa theo phương thẳng đứng tạo với vách núi thành một góc hẹp. Dưới gốc vẫn các loài cây thấp mọc um tùm.
Nghỉ được mươi phút, anh Đằng giục đi tiếp. Phải tranh thủ vì chưa biết con dốc này cao đến đâu. Nắng ngày càng gay gắt, đất rừng bốc hơi nóng ngột ngạt. Được nghỉ một lúc nên tôi bước nhanh hơn, mặc dù đôi vai mỏi nhừ.
Phía trên, anh Đằng thỉnh thoảng lại vung dao phạt những nhánh cây vướng lối đi. Hơn một giờ sau, đang chúi người leo lên, tôi bỗng vấp đầu vào chân anh.
– Có việc gì thế anh? - Tôi hỏi.
Anh không đáp, ngoái xuống gọi:
– Hùng ơi, lên đây? Anh Hùng vội bươn lên...
– Phải dùng dây Hùng ạ?
Anh Hùng gật đầu, mắt ngước nhìn vách núi sừng sững. Anh Đằng bảo chúng tôi:
– Các cậu rút dây võng ra, ta nối lại làm dây leo cho an toàn.
Chúng tôi lựa chỗ đặt ba lô, tháo dây võng nối lại với nhau. Anh Hùng kiểm tra các mối nối, chập lại làm bốn và gút hai đầu thành sợi dây dài hai chục mét, đủ chịu được sức nặng của người leo. Cuốn cuộn dây quanh thắt lưng, anh khoác chéo súng sau vai rồi bám vách núi thoăn thoắt leo lên. Khi leo hết chiều dài sợi dây, anh buộc một đầu vào gốc cây giật thử mấy cái và ngoái xuống bảo:
– Xong rồi, các vị lên đi? Anh Đằng ẩy vào vai tôi: "Xuất phát”. Tôi nắm lấy sợi dây, bắt đầu leo. Dễ hơn lúc nãy nhiều vì hai tay có chỗ níu chắc chắn. Lúc gần đến nơi, mồ hôi túa ra lòng bàn tay làm tròn dây, mấy lần tôi suýt tuột tay, may nhờ kịp đạp chân giữ người lại. Lên tới chỗ anh Hùng đứng, tôi phải há mồm hớp lây hớp để những ngụm không khí nhằm làm dịu quả tím đang đập rộn trong lồng ngực đòi thêm ôxy.
Đến lượt anh Sơn. Anh leo nhẹ nhàng hơn tôi nhiều, nhưng lên đến nơi cũng phải há hốc mồm ra thở. Anh Đằng thì khỏi nói! Anh túm dây bươn lên một cách thoải mái, dáng mềm mại như mèo.
Mặt trời gần tới đỉnh đầu, ánh nắng làm tôi lóa mắt khi nhìn lên. Những ngọn cây lay động trên cao nhưng dưới gốc chẳng có chút gió nào, cái nóng vẫn hầm hập trong đám lá vây quanh người. Anh Hùng đã lại leo lên buộc dây cho chặng thứ hai. Lúc này không thể dừng lại được. Vách núi gần như dựng đứng. Chúng tôi phải tựa lưng vào thân cây, tay níu cành cây trước mặt để chờ.
Cứ như thế, từng người thay nhau nắm lấy sợi dây dù trơn tuột, nóng ran trong lòng bàn tay mà leo lên dưới cái nắng thiêu đốt. Mồ hôi trên người tôi vã ra như tắm rồi nhanh chóng bốc hơi, chiếc mũ vải và bộ quần áo khô rộp lên.
Chặng thứ ba...
Chặng thứ tư! Vẫn vách núi dựng ngược nhưng cây mọc thưa thớt. Lác đác mấy tảng đá đen xám chênh vênh nóng đến khét nồng. Bây giờ hầu như không ai nói gì. Mọi người lặng lẽ thực
hiện từng động tác lặp lại lần trước, cố gắng không có cử động nào thừa.
Chặng thứ năm!
Tôi ôm một thân cây, choãi người tựa hẳn vào nó thở gấp, ngẩng đầu nhìn. Anh Hùng đang dán người vào vách núi bám từng mẩu rễ leo lên, đất đá rào rào dưới chân. "Chỉ một cái tuột tay...", tôi rùng mình không dám nghĩ tiếp. Ở xung quanh cây cối đang nghiêng ngả, mấy thân cây gầy guộc vươn những chiếc rễ ngoằn ngoèo cố bám vào vách núi như để khỏi bị rơi xuống. Hình như gốc cây tôi ôm đang lung lay... “Mình bị chóng mặt..." Tôi cố không nhìn lại đoạn dốc vừa leo qua, nhưng càng cố gượng càng có cái gì đó bắt tôi phải nhìn lui... Tôi co cứng cánh tay ôm chặt thân cây. Ánh nắng chói chang. Những quầng xanh quầng đỏ vụt qua trước mặt loang loáng, loang loáng... Gió rít ù ù bên tai. Cảm nhận về cái vách núi sâu hun hút bên dưới làm người tôi rợn lên, sống lưng lạnh buốt...
Bất chợt, một cánh tay choàng qua vai tôi. Anh Đằng lần tới từ lúc nào, vòng tay ôm lấy cả tôi và gốc cây. “Cố lên Hải, sắp tới nơi rồi...", tiếng anh thoảng trong hơi thở. Một tay anh cầm bi đông nước kề vào miệng tôi: "Uống một ngụm, cậu sẽ thấy khỏe ngay..." Tôi hớp ngụm nước và hít mấy hơi thở sâu, thấy người tỉnh táo hơn. Lát sau tiếng mạch đập thình thịch trong đầu dịu đi, cảm giác rờn rợn dưới chân cũng tan dần, mắt không hoa nữa. Đúng lúc đó, một tiếng reo chợt vỡ òa bên trên: “Đến nơi rồi, các cậu ơi, đến đỉnh núi rồi...". Tôi nhìn lên. Anh Hùng đang đạp chân trên gốc cây mọc nghiêng, một tay níu vào bờ dốc rướn người nhìn về phía trước, tay còn lại vẫy rối rít. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nghỉ một lúc, chúng tôi leo lên lần cuối. Chặng này ngắn hơn, đoạn dây còn lại dưới chân anh Đằng có đến năm mét. Lần này anh Sơn lên trước. Đến lượt, tôi bám dây định leo thì anh Đằng giữ lại: "Cậu bỏ ba lô ra, lát sẽ kéo lên" Tôi ngần ngừ nhưng rồi cũng tuột ba lô đặt xuống gốc cây. Anh nói đúng, tôi đã lừ cả người.
Không có chiếc ba lô trên vai nên người như nhẹ bổng, tôi leo khá nhanh. Lúc sắp tới đỉnh, anh Hùng vươn người túm tay tôi kéo tuột lên. "Đến nơi rồi...", tôi reo thầm, chùng người lăn ra bãi cỏ. Một làn gió thổi tới mát rượi. Mặt đất dưới lưng không nghiêng nữa và trời xanh lồng lộng trên cao. Nắng vẫn gay gắt nhưng có gió nên không nóng như lúc nãy. Tôi nhoài người nhìn xuống, thấy anh Đằng đang buộc dây vào ba lô để kéo lên.
Đợi anh lên đến nơi, chúng tôi tháo dây rồi xếch ba lô và súng chạy vào bóng cây gần đó. Tôi ngồi bệt xuống cỏ, vặn nắp bi đông dốc nốt ngựa nước cuối cùng vào miệng.
Đến lúc này tôi mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Chúng tôi đã gặp may khi leo đúng vào chỗ trũng hình yên ngựa của một dãy núi, hai bên là hai mỏm núi cao cây phủ xanh rì . Nơi chúng tôi đang ngồi tương đối bằng phẳng, chỉ có vài bóng cây thưa thớt trên vạt cỏ ngả màu vàng úa.
Nghỉ một lúc đỡ mệt, tôi mượn anh Đằng chiếc ống nhòm, bước đến sát vách núi để nhìn phong cảnh bên dưới. Trước mắt tôi, một màu xanh mênh mông phủ lên những dãy núi uốn lượn mềm mại nhấp nhô như lớp lớp sóng dồn. Màu xanh của rừng Lào trải ra xa ngút ngàn cho đến lúc hòa lẫn vào vùng mây xám đen lô xô ở phía chân trời. Phía ấy đang mưa.
Từ trên cao nhìn xuống, rừng im hai như đang ngủ say dưới ánh nắng chói chang. Nhưng tôi biết dưới tấm thảm xanh được kết bởi triệu triệu tán lá cây rừng kia, cuộc sống vẫn diễn ra sôi động như vốn có từ thuở xa xưa. Tôi rê ống nhòm tìm mỏm núi có những bộ xương voi nhưng không thấy, chắc nó bị khuất sau ngọn núi nào đó. Cũng không nhìn ra lối rừng nào chúng tôi đã đi qua. Tất cả như đã chìm trong cõi mông lung vô tận.
Tôi trở về chỗ gốc cây, thấy anh Sơn đang trải bản đồ trên cỏ. Mọi người xúm lại. Anh lấy kính lúp ra soi rồi đặt thước đo. Loại bản đồ này dựng bằng kỹ thuật không ảnh, chắc ta thu được của địch vì lề bên dưới có dòng chữ "Quân lực Việt Nam cộng hòa".
Anh Sơn chỉ vào một điểm trên bản đồ, nói:
– Ta đang ở chỗ này! Như vậy đoạn đường đi trong mấy ngày qua là gần năm mươi cây số theo đường chim bay. Điểm anh chỉ nằm giáp biên giới Lào - Việt , ở phía bắc phần đất nhô về hướng tây của tỉnh Quảng Nam. Trên bản đồ, vùng này chi chít những vệt nâu không đồng màu, thể hiện các dãy núi cao thấp khác nhau. Ngọn núi chúng tôi đang đứng có độ cao trên hai ngàn mét.
Anh Đằng vươn vai đứng dậy:
– Gần tám ngày đi được nam chục cây, thế cũng tốt rồi! Giờ ta tìm nơi nào có nước nghỉ hẳn buổi chiều hôm nay, lấy sức mai đi tiếp.
Nói xong, anh ngẩng đầu nhìn ngọn cây để ước lượng rồi khoác ống nhòm vào cổ bám thân cây leo lên. Tôi nhìn về hướng đông, nhưng tầm mắt bị chắn bởi dãy đồi mọc toàn cỏ tranh nên chẳng thấy được gì ngoài màu cỏ vàng sém trong nắng.
Lúc tụt xuống, anh Đằng nói:
– Dưới kia có vạt cây xanh, chắc có suối. Ta đến đó xem sao. Chúng tôi khoác ba lô lên vai, xách súng đi về hướng anh chỉ. Cỏ dày quá, phải dùng chân giẫm rạp xuống mới đi được. Mọi người nối nhau lội trong cỏ rậm, thỉnh thoảng lại ngóng cổ nhìn qua ngọn cỏ để nhắm hướng.
Hơn nửa giờ sau, chúng tôi gặp một con suối khá lớn đổ xuống từ rặng núi phía bắc, nước trong veo chảy xiết cuộn ào ào qua những tảng đá chắn giữa dòng.
Không ngờ ở trên cao này lại có con suối tuyệt vời đến thế. Khi bước vào bóng râm của tán rừng rậm rạp, tôi cảm thấy mát rượi như không hề có mặt trời đang đổ lửa trên cao. Cái mát lạnh tỏa ra từ dòng nước, từ những tảng đá lô nhô hai bên bờ, từ bụi nước bắn tung trên ghềnh đá, tạo nên một ốc đảo khí hậu riêng biệt trái ngược với cái nóng gay gắt ngoài đồi cỏ. Tôi tụt ba lô,
khoan khoái ngả người trên một thớt đá to như tấm phản. Mát lạnh đến rùng mình.
Sau khi nghỉ ráo mồ hôi, chúng tôi xuống suối tắm giặt. Tôi phát hiện ra ở khúc suối phía dưới có một vũng nước rộng sâu ngập đầu, được tạo bởi nước xói khi dòng suối uốn quanh. Mọi người dìm mình trong nước mát, gột sạch bụi bặm của chặng đường dài và vùng vẫy bơi lội thỏa thuê. Những hạt nước tung lên gặp nắng loé sáng như những hạt thủy tinh.
Lúc tôi phơi xong mớ đồ vừa giặt, quay vào đã thấy anh Hùng chặt về một bó cọc. Chúng tôi xúm lại đóng cọc căng mấy tấm tăng dựng lều. Anh Sơn ra mé đồi cắt mấy ôm cỏ tranh về rải trong lều để nằm cho êm.
Việc tiếp theo là chuẩn bị bữa ăn. Sau khi tắm xong, tôi đã thấy đói cồn cào vì lúc trưa chỉ ăn mỗi một miếng lương khô. Khi anh Đằng và anh Sơn đi lấy củi, anh Hùng rủ tôi:
– Này Hải, ta đi câu đi?
– Đi câu? Đi câu cá?
– Ở đây có cá à?
Anh Hùng cười:
– Sao lại không? Ở đâu có nước là có cá! Cứ đi theo tớ khắc biết!
Anh móc trong túi cóc ba lô ra cuộn dây cước có buộc lưỡi câu, kéo tôi đi xuống vũng suối.
Mặt trời đã xế ngọn cây, nắng chiều vàng rực ngoài đồi cỏ tranh. Vũng suối phẳng lặng. Những tia nắng xuyên qua tán lá lấp lánh trên mặt nước. Anh Hùng chặt một nhánh cây buộc sợi cước vào rồi cầm hai đầu dây tuốt qua đầu gối cho thẳng. Hai chúng tôi ngồi xuống tảng đá bên mép nước. Tôi hỏi:
– Thế mồi đâu anh?
– Mồi ở quanh đây chứ đâu? Anh đáp, đưa tay véo một cục đất mềm bên dưới tảng đá Khi anh xòe tay ra, đã có mấy chú giun con ngọ nguậy trên chỗ đất vừa bị bóp vỡ. Anh túm một con
móc vào lưỡi câu rồi thòng xuống nước. "Lạ quá, câu cá mà chẳng có phao...", tôi thầm thắc mắc, mắt chăm chú nhìn đoạn dây cước rung rung gần mặt nước.
Gần mười phút trôi qua mà chưa thấy gì. Tôi bắt đầu sốt ruột nhưng anh Hùng vẫn ung dung như một người nhàn rỗi đi câu cốt để tiêu khiển. Có tiếng động trên vòm lá. Tôi ngước lên, bắt gặp hai chú sóc đang đuổi nhau trên cây. Chúng chuyền nhanh thoăn thoắt, đuôi xù lên như hai túm bông lau màu nâu.
Chợt anh Hùng vung tay, một con cá nhỏ đang vùng vẫy đầu sợi cước. Tôi tròn mắt nhìn anh gỡ cá ra khỏi lưỡi câu "Bẻ cái nhánh cây, xâu vào?", anh giúi con cá vào tay tôi, tay kia đã lại véo đất tìm con mồi khác. Tôi cắt đoạn dây leo xỏ vào mang cá. Nó chỉ to bằng ngón tay cái, thân tròn và có những chiếc vảy nhỏ lốm đốm đen.
– Cá bống phải không anh?
– Gọi cá bống cũng được. Muốn chắc ăn thì gọi là "bống núi". - Anh cười - Tên con vật là do con người đặt ra mà! Lúc này cá cắn câu liên tiếp. Chỉ lát sau xâu cá đã được hơn chục con. Anh Hùng bảo:
– Cá này nấu canh chua ngon chẳng chê vào đâu được. Chừng này đủ rồi, ta chuyển sang món khác.
Anh lấy từ túi áo ngực ra một cục chì nhỏ, buộc vào sợi cước ở phía trên lưỡi câu, móc mồi thả xuống nước. Tôi hồi hộp dán mắt vào sợi dây chờ kết quả. Chưa biết anh định câu con gì, nhưng tôi không hỏi. Càng bất ngờ càng thú vị.
Bỗng sợi cước bị giật mạnh, rồi căng ra chạy xé nước. Anh Hùng đứng bật dậy, vung tay giật theo hướng chạy của sợi dây. Một chú cá đen trũi bật lên khỏi mặt nước vùng vẫy dữ dội. Anh kéo dây hất nó lên bờ. Tôi chồm tới giữ chặt con cá băng cả hai tay, mặc cho một vật gì sắc nhọn đảm vào tay đau nhói. Khi gỡ lưỡi câu ra, tôi mới nhìn rõ nó: con cá to gần bằng cổ tay, thân dài và trơn nhẫy, hàng vi trên lưng có những chiếc gai nhọn.
– Cá gì vậy anh? - Tôi lấy dây xỏ vào mang cá và hỏi. – Cá lầu đấy? Ngoài mình gọi là "lầu gai” vì ví lưng nó có gai. Cũng họ hàng với cá chình, thật ngon lắm!
– Thế sao lúc nãy mình không câu được con nào? – Con này chỉ ăn mồi sát đáy. Ở đây nước sâu, nếu không có chì, lưỡi câu không chìm tới được.
Sau khi giật thêm hai con nữa, anh đưa cần câu cho tôi: – Cậu câu nhé! Mình chạy đi kiếm ít rau nấu canh. Bước được mấy bước, anh ngoái lại dặn: "Chú ý lúc cá cắn câu, xem sợi cước rung là biết!"
Tôi hồi hộp móc mồi thả xuống nước. Sau hai lần giật hụt, tôi cũng vớ được một con to hơn hẳn mấy con trước. Níu đoạn dây câu giật giật nặng trĩu trên tay mà tôi sướng run người, y như hồi nhỏ đi câu ở ao làng lần đầu giật được con rô cụ to bằng bàn tay...
Chiều hôm ấy, anh Hùng làm món cá nướng theo cách riêng như đã hứa hôm trước. Anh lấy dao đào một cái hố vuông vắn, mỗi bề chừng bốn tấc và sâu cỡ gang tay, rồi chất củi lên nhóm lửa. Tôi được giao đi kiếm cái bẹ chuối và chặt mấy tàu lá. Ở đoạn bờ suối phía dưới mọc vô khối những cây chuối rừng cao ngồng.
Lúc về tới nơi, thấy mớ cá đã được làm sạch sẽ. Anh Hùng nhặt bốn con cá lầu đặt lên tấm lá chuối, dùng dao khía mấy đường ở hai bên lườn, bốc một nhúm muối xát đều lên rồi gói chúng lại trong nhiều lớp lá chuối, lấy bẹ chuối ốp bên ngoài như kiểu người ta ốp mo cơm. Lúc này đống củi đã cháy rừng rực bắn ra những tia lửa lách tách. Anh dỡ mấy thanh củi đang cháy, gạt tro nóng và than hồng gần đầy miệng hố, đặt gói cá xuống, lại phủ lên một lớp tro dày rồi xếp thêm củi cho lửa tiếp tục cháy. Tôi treo hai chiếc gô lên nấu cơm và bắc xoong nấu món canh cá với mớ lá anh hái về lúc nãy.
Khi cơm canh vừa chín tới, anh Hùng gạt lửa moi gói cá lên. Mới mở lớp lá chuối cháy sém bọc ngoài, mùi cá nướng đã bốc lên thơm lừng khiến ai cũng phải nuốt nước bọt. Bữa cơm tối được bày ra trên mấy tấm lá chuối. Món canh chua có thêm vị hơi đắng, rất ngon. Còn món cá nướng thì khỏi chê: thịt cá dai chứ không bở, và ngọt lừ trong miệng. Riêng lớp da cá dày cháy vàng lại béo ngậy và thơm phức.
Đã nhá nhem tối. Những tia nắng cuối cùng xòe nan quạt trên nền trời phía tây. Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện vui vẻ câu chuyện xoay quanh các món ăn ở rừng. Anh Hùng nói:
– Không chỉ cá đâu nhé, mà các món thịt rừng nướng theo kiểu này đều ngon hết ý, ăn thơm và không bị mất nước ngọt trong thịt. Chỉ tiếc ở đây không có đủ gia vị. Này, Hải ăn thịt rắn bao giờ chưa?
– Chưa! Em chỉ đọc trong sách, thấy kể trong Nam Bộ người ta làm nhiều món thịt rắn ngon lắm. Em thì chỉ nhìn con rắn đã phát khiếp. - Tôi nhớ tới con rắn hổ mang hôm trước.
Anh Sơn nói:
– Ngoài Bắc, có những làng chuyên làm nghề bắt rắn. Họ chế biến thành những món đặc sản, bán rất đắt. Ai nhiều tiền mới ăn được.
– Đó là ăn kiểu vương giả, kể gì? - Anh Hùng nói - Đây mình làm theo cách ở rừng. Này nhé! Con rắn bắt được, mình lột da bỏ ruột bỏ đầu, dùng lá chuối khô lau sạch. Xong, anh lấy dao vằm nhỏ, bỏ vào soong. Đào lấy một củ chuối rừng gọt thành cái chày, rồi cứ thế mà giã. Cho đến khi xương rắn cắm hết vào củ chuối thì thịt nó cũng vừa nhuyễn. Anh cho tiêu, mì chính, hành khô xắt nhỏ vào; bỏ thêm tí muối, tí đường, tí ớt bột, vắt thêm chút nước củ riềng. Anh trộn đều tất cả, giã thêm một lúc nữa rồi viên lại thành viên, thả vào chảo mỡ sôi mà rán. Nhớ đừng rán cháy quá chỉ vàng cạnh là được. Còn nếu không thích rán thì cứ bọc lá chuối mà nướng hạ thổ như lúc nãy. Bảo đảm cứ là thơm phức,
béo ngậy, giòn tan, mùi vị không món nào sánh được ăn một miếng nhớ cả đời.
– Nhưng... - Tôi ngần ngừ - ở đây lấy đâu ra từng ấy gia vị? – Nếu thế thì thôi vậy nhé! Lúc nào có đủ, mình sẽ làm cho cậu ăn. - Anh Hùng nháy mắt với tôi.
Mọi người cùng cười phá lên. Đang ăn, nhìn anh Sơn nghiêng soong múc canh, tôi chợt nhớ ra điều mấy hôm nay vẫn thắc mắc trong đầu, liền hỏi:
– Anh Sơn này? Nếu có vỉa quặng thì mình cần gì đãi mà mang cái soong to vậy anh?
Anh cười:
– Cứ cho là có vỉa quặng, nhưng giữa rừng mênh mông, dù mình đến đúng tọa độ cũng dễ gì tìm thấy ngay được? Lúc đó tìm nó còn khó hơn tìm cái kim rơi trên bãi cỏ. Mình phải đãi đất cát ở các lòng khe, con suối, xác định hướng mà tìm chứ!
Tôi vẫn chưa hiểu, nên băn khoăn một lúc, lại hỏi:
– Thế anh xác định bằng cách nào? - Tính tôi vốn vậy! Việc gì cũng muốn biết tới cùng, nếu không cứ ấm ức mãi. Chắc cũng thông cảm với sự tò mò của tôi, nên anh Sơn ngẫm nghĩ rồi trả lời:
– Mình giải thích sơ qua thôi nhé, chứ cặn kẽ thì nhiều việc lắm. Ở những nơi có quặng vàng nằm lộ thiên, mưa gió lâu ngày xói mòn làm trôi đi những hạt vàng cám nhỏ li ti, và tất nhiên nó trôi xuống chỗ thấp hơn. Nếu một bãi trũng hoặc đoạn suối nào đó ta đãi có những hạt vàng thì có thể lần theo hướng chảy của nó để tìm. Cách làm đó thô sơ nhưng đơn giản nên dễ áp dụng. Tuy vậy, cũng cần có những hiểu biết nhất định về địa chất, ví như các dạng cấu trúc địa tầng, lịch sử hình thành của vùng đất... Để lúc này bắt tay vào việc, mình sẽ nói thêm cho Hải biết.
Tôi chưa thỏa mãn lắm, nhưng hiểu rằng lúc này chưa thể hỏi để biết hết mọi việc được. Không lo! Còn đi với anh, còn được hỏi
nhiều. Miễn là tìm đến đúng nơi, sau đó sẽ tha hồ vừa làm vừa học...
Tôi mường tượng trong đầu một vỉa đá khổng lồ có những mạch vàng sáng lấp lánh, như có lần được xem trong một bộ phim nào đó chiếu cảnh một người đi lạc vào hang đá có vàng. Hình như phim thần thoại thì phải...
Chương V
Chúng tôi thức dậy khi trời còn tối mờ. "Đã nghe chim hót báo sáng lâu rồi, sao lại tối thế này nhỉ?..." Tôi xách súng vén mép tăng bước ra. Cả khe suối âm u mù mịt. Mây! Tôi quờ tay, những hạt bụi nước li ti đọng ướt lòng bàn tay.
Đợi đến khi mây tản bớt có thể nhìn rõ đường, chúng tôi mới đi được. Chặng đường hôm nay bắt đầu bằng việc băng qua đồi cỏ tranh. Phải dùng cả hai tay để rẽ những đám cỏ sũng nước lấy lối đi. Nhiều lúc chân chúng tôi bước sụp trong lớp cỏ khô mục rụi xuống lâu ngày kết thành từng mảng dày bốc mùi ấm mốc.
Khi mặt trời nhô ra khỏi các đám mây, chúng tôi cũng vừa lên tới đỉnh đồi. Bên dưới là một biển mây màu trắng màu hồng trải mênh mông như vô cùng vô tận. Những đỉnh núi cao vượt trên mây lô nhô như những hòn đảo. Không nhìn rõ chặng đường trước mặt. Anh Sơn rút địa bàn nhắm hướng, chúng tôi rẽ cỏ tranh luồn trong đám bụi nước đi xuống.
Nắng càng lúc càng gay gắt. Mây tan dần, chỉ còn mấy dải trắng là là trong các khe núi. Trên trời lác đác vài vệt mây mỏng tang, trông giống những mảnh lụa ai xé gió thổi tít lên cao. Cảnh vật hiện ra rõ mồn một. Núi non nhấp nhô điệp trùng với những đường nét sắc nhọn, gãy góc.
Đang bước, anh Hùng nhìn trời tặc lưỡi:
– Trời này nắng phải biết! Ta không mang thêm nước là sai lầm.
– Mình cũng vừa nghĩ thế! - Anh Đằng nói - đúng là đi rừng già nửa đời rồi mà còn dại. Thôi lỡ rồi, đành tìm cách khắc phục sau vậy.
Đến quá trưa, chúng tôi vẫn lội trong đám cỏ tranh cao ngập đầu. Mỗi khi gió thổi, ngọn cỏ nối nhau rạp xuống rập rờn như sóng. Dưới ánh mặt trời chói chang, dùng đồi cỏ bạt ngàn càng
vắng vẻ hoang vu. Không một cánh chim, không một bóng thú. Thảng hoặc mới có vài bóng cây xanh đứng im lìm trơ trọi như lạc lõng giữa màu cỏ vàng úa.
Tôi mệt nhọc bước đi trong cái nắng cháy bỏng da thịt. Nhưng vết lá cỏ tranh cứa trên cổ, trên mu bàn tay thấm mồ hôi rát buốt. Dù đã khát khô cổ họng nhưng tôi cố nhịn, chỉ thỉnh thoảng mới mở nắp bi đông nhấp một hớp nhỏ cho nước bọt khỏi khô đặc trong miệng. Tình thế này chưa biết khi nào mới gặp nguồn nước, vì vậy có tiếng nước óc ách trong bi đông vẫn yên lòng hơn. Mọi người đều mệt lử nhưng ai cũng gắng bước bởi nghỉ lại giữa đồi cỏ khô cháy này càng mau kiệt sức. Chiếc ba lô trên lưng anh Đằng chập chờn trước mặt lúc gần lúc xa, tất cả như mờ ảo trong mắt tôi...
Mãi xế chiều lúc bóng nắng đã ngả dài trước mặt, chúng tôi mới thoát khỏi vùng cỏ tranh. Mọi người ngồi phịch dưới một tán cây thấp, trút ba lô, mở phanh cúc áo cho hơi nóng trên người tản bớt đi.
Tôi cầm bi đông lắc lắc, nước còn ít lắm. Kề bi đông lên miệng, tôi hớp một hớp nhỏ, ngậm một lúc cho đỡ khô miệng rồi mới nuốt. Ngần ngừ một lát, tôi hớp thêm hớp nữa và kiên quyết vặn nắp lại.
Anh Đằng đưa tay nhìn đồng hồ, bảo:
– Ta nghỉ một lúc rồi tranh thủ đi tiếp may ra tìm thấy nước, chứ ở đây thì chịu chết.
Anh Hùng không nói gì, với tay gỡ chiếc ống nhòm trên cổ anh Đằng, níu cành cây trên đầu đu người lên. Chúng tôi im lặng chờ đợi. Lát sau, anh lẳng lặng tụt xuống. Tôi hỏi:
– Thấy gì không, anh Hùng?
– Chẳng nơi nào có vẻ có nước. Mà sao vùng này lạ quá - Anh quay sang anh Sơn, băn khoăn hỏi - Này Sơn, cậu nhìn kỹ xung quanh, xem có thấy nơi nào như thế này chưa?
Chúng tôi cùng đứng cả dậy, đưa mắt nhìn quanh. đúng là có cái gì khác lạ mà nãy giờ vì mệt nên không ai để ý. Tôi chăm chú nhìn, bỗng nhận ra rừng ở đây không giống như không nơi khác. Xung quanh toàn cây thấp cằn cỗi và mọc không theo một phương nào cả. Những thân cây gầy guộc dáng nghiêng ngả như đang vội vã chống đỡ lại một sức mạnh vô hình nào đó. Trên những nhánh cây cong queo, mấy chiếc lá nhỏ mọc thưa thớt, đầu lá sém nắng. Dưới gốc cây mặt đất khô bụi lác đác mấy búi cỏ thấp lè tè.
Tôi vớ cái ống nhòm từ tay anh Hùng, chọn một cây cao nhất trèo lên. Nhìn từ trên cao, cả cánh rừng rộng trong tầm mắt như đang quằn quại. Những ngọn cây ngã rạp, xoắn lại theo vòng xoáy trôn ốc. Bao phủ khắp rừng là một màu xanh khô khan cạn kiệt sức sống ánh nắng cuối chiều nhuốm lên rừng một màu vàng hiu hắt, làm cho nó càng có vẻ ma quái, ảm đạm. Tôi cảm thấy rờn rợn...
Tôi ôm thân cây tuột xuống, trong đầu cứ vương vướng điều gì đó. Đến khi đặt chân lên đất mới chợt nghĩ ra: ở đây không có tiếng chim hót, tiếng côn trùng rền ri quen thuộc như các nơi khác.
Nghe tôi nói lại những điều nhìn thấy anh Sơn suy nghĩ một lúc rồi thò tay vào túi áo ngực lấy địa bàn ra mở nắp nhìn: kim địa bàn quay loạn xạ. Anh nói ngay:
– Phải đi khỏi đây thôi, càng nhanh càng tốt. - Anh vớ ba lô khoác lên vai.
Mọi người vội vã làm theo. Không kịp hỏi, nhưng ai cũng đoán được là có mối nguy hiểm nào quanh đây. Anh Đằng ngoái hỏi tôi: – Hải thấy vùng xoáy rộng bao nhiêu?
– Khoảng bốn, năm cây số - Tôi đáp.
Anh Hùng gật đầu: "Chỉ chừng đó thôi!" Anh Đằng nhìn anh Sơn:
– Ta băng qua chứ?
– Băng thôi! Rừng thưa, có thể đi nhanh được.
Không còn cách nào khác. Quay lại đồi cỏ tranh coi như thất bại. Đi vòng thì xa và chắc gì không nguy hiểm.
Chúng tôi hối hả đi nhanh. Lúc này trời vẫn sáng nhưng không có sắc vàng của nắng, khí trời ong ong nặng nề. Khu rừng này lạ lắm? Càng đi sâu vào càng thấy bồn chồn khó chịu. Mươi phút sau như có linh tính, mọi người cùng bứt lên chạy, mặc cho cành lá quật vào người rào rào. Những cành cây khẳng khiu tướt vùn vụt qua mặt. Tôi không ngờ mình còn chạy được nhanh đến thế.
Hơn nửa giờ sau, chúng tôi qua hết quãng rừng im lìm đáng sợ đó và bước xuống một bãi đất trống chỉ lơ thơ những ngọn cỏ mọc quanh mấy tảng đá màu xám đen.
Đang đi chậm lại, bỗng nghe sau lưng có ngọn gió thổi tới. Lúc đầu tôi không để ý, nhưng lát sau gió thổi mạnh hơn, lá cây bay ào ào. Tôi quay đầu lại nhìn và chợt ngớ ra vì kinh ngạc: một cơn lốc lớn đang cuộn thành vòi rồng ở trên cánh rừng chúng tôi vừa đi qua. Cây cột cát bụi khổng lồ cuồn cuộn dâng lên mỗi lúc một cao, cuốn theo tất cả những gì nó gặp và lừng lững tiến lại ngày càng gần. Tôi nhìn rõ những thân cây to và những vật gì đen đen quay tít mù trong vòng xoáy mờ mịt.
Tiếng anh Đằng thét giật giọng: "Chạy đi, nhanh lên?" Chúng tôi chúi đầu chạy thục mạng về hướng khu rừng trước mặt. Tôi vấp chân vào một hòn đá suýt ngã giập xuống, may gượng lại được lảo đảo chạy tiếp, mặc cho ngón chân tóe máu đau nhói.
Trên trời mây đen kịt, không gian tối sầm lại. Gió càng lúc càng giật mạnh hơn, đất cát tung mù mịt, mấy hòn sỏi văng vào người đau rát. Cũng may khoang trống chỉ rộng hơn trăm mét, chúng tôi đâm vào rừng tiếp tục chạy. Tiếng gió hú ầm ầm trên đầu, tiếng cây gãy răng rác. Những cành cây quật lên quật xuống làm lấ rụng tơi tả. Đến một cái khe cạn, anh Đằng đứng lại thét bảo chúng tôi chạy theo lòng khe.
Phải mươi phút sau gió mới dịu lại. Tiếng rít của vòi rồng nghe xa dần, chắc nó đã cuộn sang hướng khác.
Chúng tôi nhìn nhau. Ai nấy đều phủ bụi cát đen nhẻrn, chỉ còn lại đôi lượt. Tôi mở nắp bi đông uống nốt những giọt nước cuối cùng. Anh Đằng lên tiếng:
– May mình vừa đi khỏi đám rừng ấy thì nó tới. Nếu gặp lúc đang qua, hẳn giờ này đã lên tới trời rồi.
– Tôi cũng nhiều lần gặp vòi rồng, nhưng chưa khi nào thấy dữ dội như vậy. - Anh Sơn nói - Lúc nãy mình ở ngoài vòng cuốn cua nó mà gió còn đẩy chúi người. Nếu gần hơn chắc không chạy nổi.
Mọi người lục tục kéo ra khỏi lòng khe, tìm chỗ nghỉ đêm. Mặt trời sắp lặn, nắng chỉ còn le lói trên ngọn cây. Những con chim sau cơn hốt hoảng nay mới kêu nháo nhác, hối hả bay về tổ.
Chúng tôi men theo cái khe cạn đi xuống phía thấp hơn, nhưng không tìm thấy giọt nước nào. Tất cả đã bốc hơi khô kiệt đi từ lâu. Trời sắp tối, anh Đằng quyết định dừng lại nghỉ. Mọi người đặt ba lô xuống, vội vã dựng lều rồi đi kéo củi. Khi ngọn lửa cháy lên bập bùng thì trời cũng tối hẳn.
Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, duỗi chân ra. Mệt rã rời. Bụng đói cồn cào nhưng miệng đắng chát không muốn ăn, chỉ thấy khát. Cả một ngày như vậy mà chỉ đổ vào người có lít nước, mới đủ phần nhỏ lượng mồ hôi toát ra. Các bắp thịt như nhão đi, lớp da đọng muối từ mồ hôi và bụi bám khô quắt lại. Tôi nghĩ tới dòng suối đầy ắp nước trong veo, mới chiều qua chứ đâu! Giá lúc này mà được cúi xuống một dòng suối như thế để uống cho đã, rồi nhào xuống vùng vẫy cho nước tẩy hết lớp bụi đất rợp ráp trên người, cho từng giọt nước thấm vào lỗ chân lông làm da mềm lại...
Ngón chân cái bên trái giật giật đau nhức và nóng ran làm tôi nhớ đến chỗ vấp lúc chiều. Tôi co chân nhìn. Đầu ngón chân toé máu phủ bụi đen sạm, gần nửa cái móng bị bong ra. Tôi mở ba lô lấy cuộn băng cá nhân.
– Hải làm sao thết - Anh Sơn nhìn thấy hỏi.
– Em bị vấp ở đầu ngón chân, không sao đâu!
Anh Hùng bước tới, nâng bàn chân tôi tới gần ngọn lửa: – Bị tróc móng, không khéo là nhiễm trùng như chơi. Nhưng chưa cần băng vội, cậu đợi đấy!
Anh nói rồi cầm đèn pin lủi vào rừng, lát sau đã quay lại với mấy ngọn lá trên tay.
– Đưa chân đây. - Anh nói như ra lệnh. Tôi ngoan ngoãn chìa chân ra. Anh lấy lá cây lau sạch bụi rui bỏ mấy chiếc lá còn lại vào mồm nhai, lấy bã đắp lên đầu ngón chân bị đau.
– Cậu lấy đoạn băng buộc lại. Không sợ nhiễm trùng đâu, thuốc kháng sinh đấy. Một ngày sau sẽ lành.
Tôi làm theo lời anh, lát sau thấy đầu ngón chân dịu lại, không nhức nữa.
Bữa tối, chúng tôi phải ăn lương khô vì không có nước nấu cơm. Tôi nhai như nhai trấu, chẳng thấy ngon lành gì nhưng cũng cố nuốt vào bụng. Mẩu lương khô thấm hết nước bọt làm cổ họng nghẹn lại. Đang ăn, chợt anh Đằng bảo:
– Các cậu đem bi đông ra đây?
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng đưa bi đông cho anh. Anh mở nắp từng chiếc, nghiêng miệng thận trọng róc vào bidông của mình, cố dốc hết từng giọt nước. Xong anh cầm lên lắc lắc: "Còn đến nửa bi đông đấy, các cậu ạ!"
Với chừng ấy nước chia đều cho mỗi người, tôi ăn hết phong lương khô. Ít ra cũng bù đắp được phần lớn lượng calo tiêu tốn trong ngày. Cả ba anh đều còn nước để dành, chứ trong bi đông của tôi may ra chỉ có vài giọt, nhưng các anh không muốn tôi mặc cảm với sự “hoang phí” của mình.
Trước khi đi ngủ, chúng tôi đem mấy tấm nilon đi mưa buộc căng vào các nhánh cây, hy vọng sẽ hứng được những giọt sương đọng lại.
Anh Đằng kéo mấy khúc củi to chất thêm vào đống lửa để nó cháy được suốt đêm. Ngoài tê giác ra, các con thú ở rừng đều sợ lửa. Tê giác có tư chất của người bảo vệ rừng, nó ghét lửa như bò tót ghét màu đỏ vậy. Nhưng ở trên cao này khó có thể gặp được loài thú quý vốn đã rất hiếm ấy.
Chúng tôi khoan khoái duỗi tấm thân mỏi nhừ trên lớp lá lót trong lều. Lúc này anh Đáng mới hỏi:
– Sơn này, sao lúc chiều cậu biết là sắp có vòi rồng! Anh Sơn cười trả lời:
– Em không biết chính xác, chỉ linh cảm thấy điều khác thường khi nhìn rừng cây. Lại nữa thấy xung quanh chim thú trốn biệt đâu cả. Các loài vật ở rừng thường biết trước mối nguy hiểm. Anh Hùng nói:
– Đó không phải là linh cảm, mà là hiểu biết và kinh nghiệm tích lũy được trong đầu. Đến lúc cần thiết, bộ óc phản ứng, tự động ráp nối các sự kiện và bật ra lời giải.
– Đúng vậy! - Anh Sơn nói tiếp - Em chưa nhìn thấy bao giờ, nhưng đã có đọc về hiện tượng rừng cây nghiêng ngả khác thường. Người ta phán đoán nhiều nguyên nhân khác nhau như tác động của phóng xạ, từ trường hoặc một chất gì đó có trong nền đất hay ở xung quanh. Cũng có khi do đất trượt. Rừng mọc trên một thềm đất trượt theo chu kỳ đều đặn so với khối nền bên dưới nó. Cây lớn lên ở đó luôn hướng về nơi có nhiều ánh sáng. Lâu ngày cả rừng cây phát triển thành dáng quái lạ khó hiểu, nhưng thực ra nó không nằm ngoài những quy luật của thiên nhiên.
– Có phải vùng rừng lúc chiều luôn có vòi rồng phải không anh? - Tôi hỏi.
– Có thể nói từ rất lâu ở đây đã có những cơn lốc xoáy thành vòi rồng, nhưng không phải lúc nào cũng có, ngày nào cũng có. Nếu vậy cây cối làm sao sống nổi? Nó chỉ xây ra nhiều vào mùa nắng nóng.
Tôi vẫn thắc mắc:
– Nhưng tại sao chỉ có trên vùng rừng ấy? Ở xung quanh em thấy vẫn bình thường...
– Đó là điều mình đang suy nghĩ... - Anh ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp - Trên miền núi cao nhiệt đới thường có các ổ không khí loãng. Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt và tùy theo địa hình, vùng không khí đó có thể biến đổi thành áp thấp cục bộ. Máy bay bay qua những nơi này rất dễ gặp tai nạn. Có điều... ở đây vòi rồng chỉ xoáy quanh một vùng không rộng lắm... Có thể nơi đây là giao điểm của hai luồng gió: gió nóng tây nam và gió mát từ biển thổi vào, nên mùa này thường xây ra những luồng khí xoáy cực mạnh.
– Thế vì sao kim địa bàn không chỉ hướng được?
Anh Sơn cười:
– Đúng là chẳng có gì qua được mắt cậu. Mình cũng muốn làm rõ điều này mà chưa có dịp. Cố lẽ ở đây còn có một địa từ trường lạ được tạo bởi lý do nào đó. Lúc đi trong vùng rừng ấy mình cảm thấy rất căng thẳng... Hồi chiều qua bãi đá mình định bửa lấy mẫu, nhưng chưa kịp rút búa ra thì đã bị rồng đuổi chạy tơi bời rồi.
– Thiên nhiên chưa muốn cậu xâm phạm vào bí mật của nó. - Anh Hùng nói - Phải đợi dịp khác thôi! Cậu cứ chấm vào bản đồ đi, khi nào hòa bình anh em ta quay lại đây một lần nữa.
– Nhất trí ngay! Nhưng phải đủ cả bốn người tớ mới đi đấy nhé! Còn bây giờ ngủ thôi, các cậu!
Đêm đó còn có hai đợt gió nữa, chắc lại gió xoáy trên vùng rừng lúc chiều. Khi gió nổi lần thứ hai, tôi ngồi dậy rồi không sao ngủ lại được. Bên ngoài đống lửa vẫn cháy lép bép, thỉnh thoảng lại bùng lên rừng rực lúc gió thổi tới. Ánh lửa chập chờn trên những bụi cây tối om xung quanh, làm cho rừng càng trở nên bí ẩn.
Đến sáng, chúng tôi nhặt hết lá rụng trên mấy tấm nilon và gom được góc bi đông nước. Thế cũng tốt lắm rồi. Tôi thè lưỡi liếm những chiếc lá đọng sương cho đỡ khô miệng. Nước hứng được phải dành cho cả ngày.
Anh Đằng bắc soong lên đống lửa rang nửa bao gạo sấy. Chúng tôi chia nhau bỏ vào túi quần vừa đi vừa nhai. Đó là bữa sáng khá tiện lợi, tuy gạo sấy rang cũng khó nuốt vì khô quá. Ăn xong mỗi người được chia hai nắp bi đông nước. Ít ỏi, nhưng có còn hơn không.
Anh Đằng bàn với chúng tôi:
– Xem chừng cả ngày hôm nay cũng không có nước. Các cậu nghĩ xem có cách gì khắc phục không? Và nhớ để mắt tìm con thú nào vừa ăn bắn lấy một con. Phải đổi món, ăn lấy sức mà đi. Dành lương khô khi nào kẹt lắm mới dùng.
Chúng tôi đều gật đầu nhất trí. Gì chứ thú rừng không thiếu. Nước thì gay đấy! Xưa nay tôi chỉ biết là có thể vắt lấy nước trong nõn cây chuối rừng, hơi chát nhưng uống chút ít cũng đỡ khát. Hoặc tìm cây tre có lỗ sâu đục chặt lấy nước trong ống tre. Nhưng cả hai thứ ấy ở vùng khô cằn này đào đâu ra?
Đoạn đường hôm nay dễ đi vì cây thưa. Mùa này rừng khô, lá cây ngả màu héo hon. Những thân cây cổ thụ vần sừng sững như muốn thách thức với nắng gió khắc nghiệt. Trên mấy cây dây leo lủng lẳng những chùm quả vàng vàng đỏ đỏ, trông đẹp mắt chứ không ăn được, chỉ có mấy con ong vo ve quanh quẩn cố tìm chút mật ngọt trong lớp vỏ.
Chúng tôi đi qua nhiều cái khe, nhưng tất cả đều cạn khô. Đó chỉ là những chỗ trũng ven sườn đồi sườn núi, mùa mưa mới có nước. Lúc cả tổ dừng lại nghỉ, tôi men theo một cái khe trông còn ẩm ướt, đi mãi vẫn chỉ thấy lòng khe đầy đá tảng và đá cuội. Những giọt nước quý báu đã trôi hết về nơi thấp hơn, hoặc thấm xuống lòng đất, hoặc bốc hơi trong cái nóng hừng hực tỏa ra từ nguồn lửa khổng lồ vô tận của mặt trời.
Lúc quay lại, thấy anh Hùng kiếm đâu về một mớ dâu rừng bọc trong vạt áo. Những chùm dâu chi chít quả, mới trông đã ứa nước bọt. Dâu rừng hạt to và chua kinh khủng. Cả lớp vỏ màu trắng hơi phớt hồng cũng chứa đầy thứ nước chua mà khi vừa cắn ngập răng, bên hàm đã buốt lên vì nước bọt tứa ra không kịp. Chúng tôi nhấm nháp mấy quả dâu, thấy cũng dễ chịu.
Gần trưa, cả tổ bước vào một vạt rừng mọc toàn dẻ gai. Những cây dẻ to lớn có lớp vỏ sần sùi nứt nẻ, trên tán lá sum sê lấp ló những chùm qua mọc đầy gai như quả chôm chôm nhưng nhỏ hơn, gai cũng nhọn và cứng hơn. Loại dẻ gai này ăn được. Khi quả khô rụng xuống, lớp vỏ bên ngoài nứt ra còn lại hạt tròn to hơn hạt lạc được bọc một lớp vỏ cứng màu nâu nhạt. Hạt dẻ đem rang lên, tách vỏ cứng, ăn bùi và thơm. Nhưng lúc này chưa tới mùa quả rụng. Mặt đất phủ đầy lá khô và những mảnh vỏ gai của mùa dẻ năm trước. Trên cành cây, mấy con sóc đang chuyền tíu tít, chúng biết ở đâu có những quả dẻ đầu mùa đã nứt vỏ.
Đang đi, tôi chợt khựng lại khi gặp một bầy nai. Có ba con, hai con lớn và một con mới bằng con bê. Chúng bước đủng đỉnh, lúc lúc lại chúi mõm xuống đất như đang tìm gì đó. Khi thấy tôi, đàn nai đứng lại, mắt ngơ ngác nhìn nửa tò mò nửa sợ sệt, những cẳng chân thon dài ngập ngừng trên lớp ỉa khô như muốn bỏ chạy. Lát sau chúng rẽ sang lối khác, thong thả bước khuất dần sau những thân cây. Tiếng anh Đằng nói ngay sau lưng tôi:
– Sao không bắn mà cứ đứng ngây người ra thế!
– Đẹp quá anh ạ! Em không nỡ bắn? Cả nhà nai, mình bắn đi một con, thấy tồi tội thế nào ấy?
Anh Đằng cười:
– Ừ, bắn làm gì! Có hạ một con cũng không ăn hết. Để rồi kiếm con thú khác.
Mươi phút sau, khi vòng qua một gốc dẻ to, chúng tôi gặp con chồn đang chúi đầu dũi đất, chỉ cách dăm mét. Nghe động, nó quay vụt lại bám thân cây thoăn thoắt leo lên. Tôi chưa kịp tuột súng khỏi vai thì anh Đằng đã rút dao găm chùng chân xuống,
rướn người vung tay phóng. Lưỡi dao cắm phập đúng cổ con vật, găm nó vào gốc cây. Tôi reo lên, chạy tới gỡ lưỡi dao cùng con thú.
Anh Sơn trầm trồ:
– Chịu tài anh đấy? Đúng là cánh đặc công các anh "danh bất hư truyền".
Anh Hùng tủm tỉm:
– Đi với anh Đằng rồi các cậu còn biết! Tài nghệ chưa thi thố hết đâu nhé.
Tôi nhìn con chồn nặng trĩu trên tay, thầm nghĩ: “Thế nào cũng nhờ anh ấy dạy cho ngón phóng dao. Còn hơn cả làm xiếc!" Bên cạnh các anh, tôi thấy mình nhỏ bé lại. Đúng là càng đi nhiều càng biết được nhiều điều, và càng biết nhiều càng thấy mình kém cỏi.
Trưa hôm đó chúng tôi ăn thịt nướng trừ bữa và tráng miệng bằng quả dâu rừng. Anh Đằng dốc hết số nước hứng được lúc sáng chia đều cho mọi người. Tôi bưng chỗ nước ít ỏi nhấp từng hớp nhỏ, trịnh trọng như các cụ uống rượu.
Ăn xong bữa, chúng tôi tiếp tục đi sau khi đã cẩn thận dập tắt đống lửa. Khô nóng thế này, chỉ cần một tia lửa cũng đủ gây cháy rừng.
Qua hết rừng dẻ gai thì tới một triền núi cây mọc lúp xúp chen với cỏ lau. Nắng chang chang trên đầu. Mọi người nói nhau băng qua rừng lau vàng cháy. Lá lau khô sắc như dao cứa vào những chỗ da thịt không có lớp vải che chở, những vết cứa không nhìn thấy ngay được, chỉ khi mồ hôi ngấm vào ta mới biết.
Lúc này cổ họng tôi đắng nghét, nước bọt dính dẻo trong miệng. ánh nắng nhảy múa trước mắt như những quầng lửa. Tôi thò tay vào túi quần lấy một quả dâu cho vào miệng cắn, chợt bật kêu lên vì cảm giác đau buốt hai bên má. Cố không nghĩ đến cơn khát, tôi loạng choạng đạp trên những thân lau khô giòn đuổi theo những người đi trước.
Quá nửa chiều mới xuống đến chân núi. Cả tổ dừng nghỉ dưới bóng một khóm lau. Mấy bông lau trắng khô xác phất phơ trong gió như muốn báo rằng không thể tìm thấy nước ở vùng này. Nghỉ được vài phút, anh Hùng lại cầm dao xách súng lủi đi. Lát sau nghe tiếng anh gọi vang, cách đấy chừng trăm mét: "Lên đây các cậu ơi! Có nước rồi!" Chúng tôi nhỏm dậy, xách theo chiếc ba lô của anh vội vã bươn tới. Leo qua đoạn dốc ngắn, thấy anh đang đứng bên một gốc cây to lá mọc thưa thớt, có những chạc dây leo bám lòng thòng vào nhánh cây. Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Nước đâu anh?
– Nước đây chứ đâu! - Anh Hùng mỉm cười, tay cầm dao chỉ vào mấy cây dây leo.
Đợi mọi người lên đủ, anh vung tay vung dao phạt ngang những thân dây leo, giúi vào tay mỗi người một gốc: "Uống đi, nước máy đây?" Tôi ngỡ ngàng đưa đầu thân cây vào miệng, cảm thấy nước rịn ra từ vết chém thấm mát đầu lưỡi. Nước không nhiều nhưng rất ngọt và cũng làm cơn khát dịu đi. Tôi nhìn đoạn dây leo xù xì, tự hỏi không biết rễ của loài cây này đâm sâu tận đâu trong lòng đất mới hút được nước lên nuôi những chiếc lá trên cao kia?
Khi đỡ khát, chúng tôi tiếp tục băng qua triền núi trọc. Mãi lúc trời chạng vạng tối mới tới được một cánh rừng có màu lá xanh đậm. Dựng xong lều và đốt lên đống lửa thì bóng đêm đã đen ngòm trên vòm cây. Mấy ngôi sao hiện ra nhấp nháy qua kẽ lá. Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, ai nấy đều mỏi mệt. Thiếu nước nên sức người mau kiệt. Chút nước từ cây dây leo chỉ làm dịu cơn khát chứ không cung cấp đủ lượng nước cơ thể đòi hỏi. Tuy vậy tôi cũng gắng ăn hết nửa phong lương khô. Nếu không ăn, sẽ khó lòng đi tiếp được.
Anh Đằng lấy trong ba lô ra một lọ viên C mà không biết anh mang theo tự lúc nào, chia cho mỗi người mười viên. Tôi ngậm những viên thuốc trong miệng cho nó tan dần. Vị chua dìu dịu thấm trên đầu lưỡi làm người tỉnh táo hơn.
Trời tối mịt. Tôi cùng anh Hùng ra ngoài căng mấy tấm nilon để hứng sương, lúc quay vào thấy hai anh đang rọi đèn xem bản đồ. Anh Sơn nói:
– Ta vẫn đi đúng hướng, nhưng sắp tới địa hình khá phức tạp. Đây này, - Anh chỉ trên bản đồ - vùng này có nhiều ngọn núi san sát, nhiều khe sâu. Phải chú ý sao cho khỏi chệch hướng, nhất là khi đi vòng tránh những chỗ khó. Tôi hỏi:
– Còn xa không anh? - Theo đường thẳng chỉ bốn chục cây, nhưng sẽ phải đi quãng đường dài hơn nhiều lần đấy? – Thế anh đi rừng có bị lạc khi nào không?
– Có chứ! Lạc rừng là chuyện cơm bữa. Kể cả khi có bản đồ, địa bàn trong tay mà phải băng rừng nhiều ngày, không cẩn thận cũng rất dễ chệch hướng. Sai một ly, đi nhiều dặm là chuyện thường.
Anh Hùng cười:
– Lạc đường là một khái niệm do con người đặt ra. Đúng ra phải nói: đi chưa đúng với dự tính lúc đầu. Nếu anh quen với rừng, sống được giữa rừng thì chuyện đó chẳng là cái gì cả chỉ cần đừng có hốt hoảng quá.
– Vậy theo anh, ở rừng sợ nhất chuyện gì?
Anh Hùng thoáng nhăn mặt:
– Một câu hỏi khó trả lời đấy! Bởi theo mình thì chẳng có gì đáng sợ cả, làm sao có "sợ nhất" được? Sống trong rừng đúng là có thể gặp nhiều rủi ro, ví như rắn độc, thú dữ, sốt rét, lũ cuốn..., nhưng khi anh sống giữa cuộc sống đời thường, những rủi ro cũng đâu có thiếu? Suy cho cùng, những nguy hiểm trong rừng ta có thể biết trước, và cũng có cách đề phòng, có cách vượt qua. Từ xa xưa loài người chẳng đã sống dựa vào thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên là gì?
Anh Đằng cười:
– Cậu muốn con người quay lại rừng sống như thời tiền sử chắc?
Anh Hùng chẳng hề lúng túng:
– Hoàn toàn không phải như vậy. Ngay từ thời tiền sử rừng không chỉ nuôi sống con người mà còn dạy cho họ biết lao động dể tồn tại và phát triển. Nhờ rừng mà con người biết chăn nuôi trồng trọt. Hạt lúa củ khoái, con gà con trâu... bây giờ cũng từ rừng mà có. Dòng suối dạy con người làm cối giã gạo, con sông ngọn thác dạy làm thủy điện. Nghe nói cái thác Bờ quê tôi, tức quê vợ tôi ấy mà, sau này làm thủy điện là nhất! Rừng có lúc khắc nghiệt thật, nhưng không ác độc bao giờ. Khi sống với rừng, con người trở nên nhân nghĩa hơn. Đời xưa, các cụ ẩn dật thường vào sống ở chốn non xanh núi thẳm, vui chơi nơi khe suối thác nước, tháng ngày bầu bạn với cỏ cây muông thú, cũng chính vì thế.
Anh Sơn chêm vào:
– Các cụ ẩn dật nhưng cơm nước có đệ tử lo, đi câu cá có tiểu đồng theo hầu rượu, gạt bỏ mọi vướng víu toan tính trong cuộc sống cho người khác lo hộ, chẳng lẽ như thế lại mẫu mực ư? Anh Hùng ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:
– Tôi không nói đó là cách sống hoàn hảo. Người ẩn dật không màng danh lợi, kiềm chế được tham vọng là điều tốt, nhưng chỉ về mặt tu tâm dưỡng tính thôi, chứ quay lưng với đời thì chưa hẳn đã hay. Chuyện này bàn dài lắm. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến tác động của thiên nhiên đối với con người. Rừng biết cách làm dịu nỗi đau khi con người gặp bất hạnh. Những lúc căng thẳng lo âu, anh hãy vào rừng nghe tiếng gió lùa trong lá, tiếng chim líu lo vô tư, tiếng suối róc rách triền miên... Anh ngả lưng lên đám cỏ xanh dưới gốc cây hay bước đi trên lớp lá khô xào xạc và ngửi mùi hoa dại... Lúc đó sẽ thấy lòng dịu lại, nhẹ nhõm và thanh thản hơn. Con người biết tìm đến với rừng như một bản năng trở về với cội nguồn của mình. Đứng trước vẻ đẹp hùng vĩ và sự giàu có vô tận của rừng cũng như những bí ẩn kỳ thú cùng những thử thách khắc nghiệt của nó, thì mọi suy tính nhỏ nhen ích kỷ, mọi
bon chen vụn vặt trong cuộc sống thường ngày đều trở nên vô nghĩa...
Nghe đến đây, anh Đằng vỗ tay cười ha hả:
– Đấy? Các cậu biết lính trinh sát chưa? Triết lý không kém các bậc thâm nho uyên bác đâu nhé?
Lần này anh Hùng lúng túng thật sự. Anh gãi đầu ngượng nghịu:
– Triết lý gì đâu! Chẳng qua tôi nghĩ sao nói vậy thôi... Tôi biết anh nói thực lòng. Những điều anh vừa tâm sự là những suy nghĩ, nghiền ngẫm qua nhiều năm tháng của cuộc đời. Nhưng phải là người yêu rừng đến độ say mê, gắn bó với rừng bằng cả tâm hồn và máu thịt mới nghĩ được, nói được như vậy. Lúc trời sáng rõ, tôi mới nhận ra đêm qua mình nghỉ lại trong một rừng lim. Và suốt buổi sáng hôm ấy, chúng tôi vẫn đi dưới những tán lim. Những cây lim cổ thụ dễ phải đến hàng trăm năm tuổi xòe cành lá rườm rà xúm xuê che rợp khắp rừng. Rất ít loài cây khác mọc lẫn vào. Trên nền đất phủ dày lá khô, những quả lim rụng xuống nứt ra vô số hạt màu đỏ tròn nhỏ xinh xinh như những viên thuốc bổ. Anh Hùng đập tay vào lớp vỏ nứt nẻ của một gốc lim to cỡ bốn chúng tôi ôm không xuể trầm trồ: – Cây lim xanh đấy! Loại này đứng đầu hàng thiết mộc. Các cụ có gỗ này làm đình thì sướng phải biết! Cứ gọi là hàng trăm năm không mục, không mối mọt.
Còn tôi nhìn màu xanh tươi mát của rừng lim mà hy vọng sẽ tìm thấy nước. Số nước hứng được hôm qua chỉ đủ mỗi người một ngụm nhỏ uống sau khi ăn lương khô buổi sáng. Đi trong rừng mát đỡ ra mồ hôi, nhưng cái khát không vì thế mà giảm đi.
Rừng lim mọc trên một triền dốc, càng đi càng xuống thấp. Đến gần trưa chúng tôi gặp được một con suối nhỏ, rộng chưa đầy hai mét, nhưng khá sâu. Tôi nhảy cẫng lên mừng rỡ. Dòng nước mới trong mát làm sao! Cứ như là trong mơ? Chưa chi tôi
đã cảm thấy vị ngọt mát trôi qua cổ, thấm dần vào từng mạch máu, từng thớ thịt.
Mắt sáng lên, tôi bước gấp mấy bước đến bên bờ suối định nhảy ùm xuống. Chợt anh Hùng thét giật giọng:
– Khoan, đừng xuống! - Anh chạy tới túm tay tôi kéo giật trở lại.
Tôi ngơ ngác nhìn, chẳng hiểu gì cả. Anh Đằng lặng lẽ đứng quan sát dòng nước, lát sau mới bảo:
– Các cậu lên đây! Ta ngồi nghỉ một lúc.
Anh bước đến bên một gốc lim, cởi ba lô ngồi xuống. Chúng tôi làm theo.
– Nước ở đây không uống được - Anh nói chậm rãi. Tôi sửng sốt kêu lên:
– Sao lại không uống được?
– Nước độc đấy? Con suối này chảy giữa rừng lim, mà cây lim rất độc. Nhựa cây ngấm ra từ rễ và từ lá rụng ngâm trong nước, uống nó rất nguy hiểm. Tôi ấm ức:
– Chẳng lẽ nơi nào có cây lim thì nước đều không dùng được à?
– Cũng không hẳn như vậy! - Anh Đằng giải thích - Khi nước chảy qua những nơi cây lim mọc chen với các loài cây khác, chắc không sao. Nhất là nếu con suối chảy xiết, cuốn lá cây trôi nhanh. Còn ở đây, cậu nhìn kỹ xem!
Quả thật dòng suối này chảy lờ đờ, dưới đáy đầy lá rụng và cành cây đã mục ải. Có lẽ vì thế mà nước suối có sắc đen, mặc dù vẫn trong veo. Không thấy những con vật sống dưới nước như thường có ở các con suối khác. Ngay cả những tảng đá dầm chân dưới suối cũng đọng màu xám đen chứ không có lớp rêu xanh. Con suối này đã ngâm lá lim hàng trăm năm nay rồi.
Chúng tôi bàn bạc, cuối cùng quyết định sẽ đi ngược dòng suối cho đến khi tìm ra một khe nước có thể uống được. Như vậy
sẽ phải đi vòng khá xa, nhưng đành chấp nhận vì không thể liều mạng băng qua rừng lim trong tình trạng này.
Tôi khoác ba lô lên vai, tiếc rẻ nhìn dòng nước đầy ắp bên cạnh. Đã đến lúc ăn trưa, nhưng chẳng ai ăn nổi vì vừa khát vừa mệt. Cảm giác đó càng nặng nề thêm bởi sự thất vọng trước dòng suối mà tôi ngỡ sẽ được uống được tắm thỏa thích.
Hơn một giờ sau, chúng tôi vẫn đi trong rừng lim xanh âm u. Dòng suối bên cạnh lúc lúc lại reo róc rách trêu ngươi, mặt nước lóng lánh nắng như mời mọc khêu gợi. Tôi lê từng bước nặng nhọc, hơi thở lùng bùng trong tai, chân tay như muốn rời ra. Lưỡi phồng rộp, cổ họng đau rát, tôi cố nuốt nước bọt nhưng chỉ có cảm giác đau tức chạy từ họng xuống ngực rồi tràn ra hai lá phổi...
Phía trước có tiếng anh Đằng nói với lại: “Sắp hết rừng lim rồi..." Tôi ngẩng nhìn. Tán lá trên đầu thưa hơn và ánh mặt trời chói lòa qua các khoảng trống. Mắt sáng lên, tôi bước hối hả eho kịp anh Đằng. Những cây lim cổ thụ thưa dần, nhiều bụi cây mọc lúp xúp dọc bờ suối. Ra khỏi rừng lim nước sẽ uống được.
Nhưng đi thêm chừng nửa cây số thì sự hăm hở trong tôi cũng nguội dần. Phía bên kia suối, rừng lim vẫn xanh rì như chẳng bao giờ hết. Chắc hiểu rõ tâm trạng của tôi, anh Sơn nói bằng giọng khản đặc:
– Không sao đâu! Thế nào mình cũng gặp được khe nước ở phía bên này. Phải có khe mới hợp thành suối được chứ! – Anh gặp rừng lim nào như thế này chưa? - Tôi hỏi, cốt để quên đi con suối độc ác đang chảy bên cạnh.
– Cũng có gặp, nhưng không như ở đây. Này, Hải đã dọc Tam Quốc chưa?
– Em đọc rồi! Sao không anh?
– Cậu còn nhớ đoạn Khổng Minh dẫn quân đi đánh Mạnh Hoạch không?
– Em nhớ Khổng Minh đánh bảy lần mới chinh phục được. Anh muốn nói là...
– Vậy cậu có nhớ lúc quân Khổng Minh lội qua suối nước độc chứ? Chỉ lội xuống thôi mà chết hàng ngàn người ngựa. Các cụ xưa viết thế không phải là bịa đâu nhé, có cơ sở cả đấy? Có thể con suối đó chảy qua rừng cây có nhựa độc nên mới như vậy. Trong rừng thiếu gì cây độc! Ngay ở dưới xuôi ta, cây xoan cũng rất độc. Chỗ nào có lá xoan rụng xuống lâu ngày hoặc rễ nó bò tới, đố trồng được cây gì nên hồn...
Đúng lúc đó, một tiếng thét lạc giọng vang lên từ phía sau. Tôi quay ngoắt lại. Điều trông thấy trước mắt thật khủng khiếp: một con trăn to tướng da đen mốc loang lổ đang quấn cả anh Hùng lẫn chiếc ba lô trong những vòng thân cuồn cuộn lởm chởm vảy. Cái đầu tam giác của nó đung đưa, miệng ngoác ra đỏ lòm. Anh Hùng giơ hai tay trước ngực, gồng người chống đỡ với những vòng cuốn như thép đang siết lại.
Tôi kinh hoàng ngã ngồi xuống đất, người run bắn. Như cái máy, tôi lập cập giương súng hướng nòng lên trời, ngón tay tự động bịt khóa an toàn và bóp cò. Loạt đạn nổ vang, nòng súng phụt khói trắng nẩy bần bật. Bên cạnh, anh Sơn cũng nâng súng lên nhưng chần chừ chưa dám bắn.
"Đừng bắn". Anh Đằng thét lớn và lao vụt đến như tia chớp, tay vung dao phạt ngang cái đầu con trăn đang phóng tới. Nó rụt lại tránh được. Anh thụp người sát đất tránh cú mổ tiếp theo rồi nhào ra phía sau, chém phập một nhát vào khúc đuôi đang ngoe nguẩy trên đầu anh Hùng.
Bị đòn chí tử, con trăn bung mạnh cả cái thân dài thòng quật anh Đằng ngã lăn xuống đất, lưỡi dao trên tay văng ra xa. Nhưng địch thủ của anh không còn làm gì được nữa, nó lao vút vào bụi rậm kéo lê theo cái chót đuôi bết máu.
Tôi chạy tới đỡ anh Hùng dậy. Người anh nhũn ra vì phải dùng hết sức trong những giây vừa qua. Chúng tôi dìu anh đến ngồi tựa vào gốc cây gần đó.
– Có sao không Hùng? - Anh Đằng hỏi trong hơi thở hổn hển. – Không... không sao? May mà tôi... gồng tay đỡ được trước ngực, sau lưng... có cái ba lô... - Anh Hùng mỉm cười yếu ớt. Nhờ soạt súng Hải bắn nên con trăn giật mình không quấn tiếp được... Nó mà quấn vào cổ là nguy rồi...
Tôi sờ nắn khắp người anh. Chưa bị gãy chiếc xương nào, chỉ trên bắp tay trái chỗ bị trăn cắn máu đang nhỏ giọt. – Nghe soạt một cái, mới quay lại nhìn đã thấy nó lao tới. Tôi vung tay đỡ, nó táp ngay vào tay. - Anh Hùng kể, co tay nhìn vết thương.
Tôi cùng anh Sơn cố nặn hết những giọt máu bầm. Con trăn không có nọc độc, nhưng hàm răng của nó chẳng sạch sẽ gì, vết cắn rất dễ nhiễm trùng. Chúng tôi lấy cồn lau sạch vết thương và băng lại. Anh Hùng bảo cứ băng tạm, để rồi anh kiếm lá đắp vào. Một lát sau, anh giục đi tiếp vì trời đã chiều.
Chúng tôi men theo con suối đi lên một sườn dốc thoai thoải. Không hiểu sao tôi thấy mình không còn mệt mỏi như lúc nãy. Sự việc vừa qua đã đẩy cơn khát xuống hàng thứ yếu.
Đi thêm nửa giờ thì gặp một cái khe nhỏ chảy từ trong sườn núi ra. Dòng nước chỉ lắp xắp bàn tay nhưng vẫn là cứu tinh của chúng tôi. Tôi để nguyên ba lô trên dưng nằm sấptrên cỏ, vục mặt xuống nước uống đến căng bụng. Chưa bao giờ có thứ nước nào ngon ngọt đến thế. Nước mát lạnh, uống vào đến đâu biết đến đó. Từng thớ thịt trong người mềm ra, hơi thở nhẹ lại, đầu óc sáng láng tỉnh táo hẳn.
Uống xong nước, anh Đằng dặn chúng tôi nấu cơm rồi xách súng lủi đi. Mươi phút sau, một phát súng vang lên ở mé trên khe nước, tiếng nổ vọng vào vách núi rền như tiếng sấm. Lát sau anh quay về, tay xách con cheo nặng chửng bảy kí, trông giống lợn rừng nhưng chân thấp mõm ngắn và nhỏ con hơn nhiều.
Tôi dùng dao găm đào một cái hố bằng miệng thúng ngay giữa đòng khe. Nước chảy vào đầy hố cuốn đất bùn trôi đi tạo thành
cái giếng nhỏ nước trọng vắt.
Trời còn sớm nên chúng tôi thong thả đun nước làm thịt con cheo và thay nhau tắm giặt.
Một ngày nắng gắt trôi qua khi mặt trời khuất sau ngọn núi. Ráng chiều đỏ ửng cả góc trời phía tây. Chúng tôi ngồi bên đống lửa, ăn bữa cơm ngon lành sau ba ngày đói khát. Thực đơn khá thịnh soạn: thịt nướng, thịt luộc bóp muối, canh rau rừng nấu với lòng cheo, lại còn món thịt kho mặn để dành cho ngày mai.
Trong bữa ăn, câu chuyện vẫn xoay quanh vụ con trăn. Tôi nói với anh Hùng:
– Khi đó em cuống lên, chẳng còn biết mình bắn như thế nào nữa. May có anh Đằng chứ không thì... - Tôi bỏ lửng câu nói, không dám nghĩ tới cảnh chúng tôi cầm súng trong tay mà chịu đứng nhìn con vật bò sát kinh tởm đó quấn chết anh.
Anh Hùng bảo:
– Con trăn mạnh nhờ xương sống, nhưng chót đuôi là chỗ nhạy cảm nhất của nó. Đánh được vào đó coi như điểm trúng huyệt, nắm chắc phần thắng trong tay.
Tôi buột miệng:
– Đấy anh cứ khen mãi đi! Em thấy rừng chẳng hiền lành chút nào...
Anh Hùng ngắt lời tôi:
– Khi đã vào rừng, dù muốn hay không, anh cũng phải tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt. Lúc sống trong thế giới hiện đại, con người cũng thường xuyên bị nguy hiểm rình rập đấy thôi! Có khi còn ở mức độ cao hơn ấy chứ! - Anh nháy mắt với tôi - Cậu cứ coi như vừa rồi mình đi trên đường phố bị tai nạn ô tô thôi...
Mọi người bật cười. Biết anh nói có lý, nhưng thực lòng tôi chẳng hề ưa "chiếc ô tô" của anh chút nào.
Chương VI
Ngày thứ mười hai. Chúng tôi qua khỏi rừng lim lúc cuối chiều và dừng lại nghỉ trên một mỏm núi nhỏ. Cũng như hôm qua, ráng chiều lại đỏ rực khi hoàng hôn xuống, nhuốm lên cánh rừng lim đại ngàn một màu lửa dữ dội. Anh Đằng chép miệng: "Kiểu này là sắp có mưa to? À này, các cậu nhớ uống thuốc phòng sốt rét, bắt buộc đấy! Không thể chủ quan được đâu?"
Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh. Những trận mưa rừng dầm dề thường thổi bùng lên cơn sốt rét tiềm ẩn trong cơ thể của người sống nhiều ngày trong rừng. Chúng tôi đang lọt thỏm giữa núi cao rừng rậm, một người ốm lúc này sẽ là trở ngại rất lớn cho chuyến đi. Rất may từ đầu tới giờ chưa có sự cố nghiêm trọng nào xây ra. Cái móng chân của tôi sau vài lần đắp lá thuốc đã lành lẳn, còn vết trăn cắn trên tay anh Hùng cũng khô dần, không bị nhiễm trùng. Nhưng chặng đường sắp tới sẽ rất gian khổ, chỉ nhìn trên bản đồ cũng thấy địa hình phức tạp hơn nhiều.
Hôm nay không phải đi tìm nước vì lúc sáng mỗi người đã đem theo khoảng năm lít nước đựng trong túi phao bồi. Trong lúc mọi người dựng lều, anh Hùng xách súng đi vào rừng bắn được một con nhím khá lớn. Chúng tôi dốc hết số gạo còn lại, dủ nấu bữa cơm cuối cùng. Như vậy lương thực dự trữ chỉ còn lương khô, gạo sấy. Nhưng cái ăn không đáng ngại, điều lo nhất lúc này là làm sao đi cho đúng hướng. Càng đến gần tọa độ tìm kiếm, mọi người càng thấy sốt ruột và hồi hộp. Giữa mênh mông rừng núi, việc tìm ra cánh đồng cỏ chỉ rộng chừng ba, bốn cây số được nhận biết qua bức ảnh chụp từ rất cao, là điều không đơn giản chút nào. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", ở chốn hoang sơ biết bao điều rủi ro có thể xảy ra. Chúng tôi tin vào kinh nghiệm và bản lĩnh của chính mình, nhưng chẳng ai dám nói lường trước được mọi việc. Số phận của chúng tôi không chỉ là cuộc sống của
từng cá nhân, nó gắn liền với nhiệm vụ được giao, với lòng tin của nhiều người. Nghĩ vậy nên ai cũng lo lắng đến nôn nao... Tối đến, chúng tôi đốt hai đống lửa ở hai bên lều để có hơi ấm. Mấy hôm nay trời nửa đêm về sáng rất lạnh, cái lạnh trên miền núi cao buốt như kim châm làm tôi trăn trở mãi, dù bao giờ cũng được ưu tiên nằm giữa. Trong lúc này, giấc ngủ sau một ngày mệt nhọc cũng quan trọng chẳng kém gì thức ăn nước uống. Đêm đó trên đỉnh dốc, tôi ngủ được một giấc thật say, chỉ tỉnh dậy khi nghe tiếng chim ríu rít hót vang rừng.
Chúng tôi ra khỏi lều. Trời hãy còn tối mờ, sương giăng khắp rừng và mây quấn bên sườn núi. Hai đống lửa đã gần tàn, chỉ còn lại vài sợi khói bay lên từ đống than hồng phủ lớp tro cháy trắng. Ở phương nam, nền trời màu xanh đen chuyển dần sang xanh nhạt rồi vàng cam. Đến lúc đó, mặt trời mới tử từ nhô lên, to như cái mâm lửa đỏ rực.
Anh Đằng vun những cục than đang cháy nướng chỗ thịt nhím hôm qua còn lại để ăn sáng. Khi nắng xua hết sương, chúng tôi mới khoác ba lô ra đi.
Chặng đường hôm nay là leo lên quả núi xanh đậm trước mặt. Sườn núi không dốc nhưng khó đi vì cây rậm quá. Dưới những tán cây cổ thụ là vô số loài cây thấp um tùm. Dương xỉ mọc chen với cỏ và dây leo phủ kín mọi khoảng đất trống. Dù đang mùa nắng, nhưng cây cối ở đây xanh tươi hơn nhiều so với những cánh rừng gần biên giới. Chúng tôi phải hai người thay phiên nhau đi trước vung dao mở lối, quá trưa mới đến đỉnh, lại thấy ngay quả núi khác sừng sững chắn ngang trước mặt.
Khoảng hai giờ chiều, lúc mới xuống lưng chừng sườn núi thì trời lặng gió hẳn. Cây cối đứng im phăng phắc. ánh nắng phả hơi nóng hầm hập làm không khí trở nên ngột ngạt, nặng nề.
Mươi phút sau gió bắt đầu nổi lên, thoạt đầu chỉ hơi rao rao mát, nhưng lát sau đã cuốn ào ào kéo theo từng đám mây đen đặc nhanh chóng phủ kín bầu trời. Cả khu rừng thoáng chốc tối sầm lại, cành cây vật vã rung lá rụng tơi tả. Mấy tia chớp loằng