🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đoán Án Kỳ Quan
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Đoán Án Kỳ Quan
nhiều tác giả
Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net
Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ.
https://thuviensach.vn
Mục lục
Lời Giới Thiệu
Tập 1 - Chương 1 (A) Chương 1 (B)
Chương 2 (A)
Chương 2 (B)
Chương 3 (A)
Chương 3 (B)
Chương 4 (A)
Chương 4 (B)
Chương 4 (C)
Chương 5 (A)
Chương 5 (B)
Chương 5 (C)
Chương 6 (A)
Chương 6 (B)
Chương 7 (A)
Chương 7 (B)
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 15 (B)
Chương 16
https://thuviensach.vn
Chương 16 (B) Chương 17
Chương 17 (B) Chương 17 (C) Chương 18
Chương 18 (B) Chương 18 (C) Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 23 (B) Chương 24
Chương 24 (B) Chương 24 (C) Chương 25
Chương 25 (B) Tập 2 - Chương 1 Chương 1 (B) Chương 2
Chương 2 (B) Chương 3
Chương 3 (B) Chương 3 (C) Chương 4
Chương 4 (B) Chương 5
Chương 5 (B) Chương 6
Chương 6 (B) Chương 6 (C)
https://thuviensach.vn
Chương 6 (D) Chương 6 (E) Chương 7
Chương 7 (B) Chương 8
Chương 8 (B) Chương 9
Chương 9 (B) Chương 10 Chương 10 (B) Chương 11
Chương 11 (B) Chương 12 Chương 12 (B) Chương 13 Chương 13 (B) Chương 14 Chương 14 (B) Chương 15 Chương 15 (B) Chương 16 Chương 16 (B) Chương 17 Chương 17 (B) Chương 18 Chương 18 (B) Chương 19 Chương 20 Chương 20 (B) Chương 21 Chương 21 (B) Chương 21 (C)
https://thuviensach.vn
Chương 22
Tập 3 - Chương 1 Chương (B)
Chương 1 (C) Chương 2
Chương 2 (B) Chương 2 (C) Chương 3
Chương 3 (B) Chương 4
Chương 4 (B) Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 9 (B) Chương 10
Chương 10 (B) Chương 10 (C) Chương 11
Chương 11 (B) Chương 11 (C) Chương 12
Chương 12 (B) Chương 12 (C) Chương 13
Chương 13 (B) Chương 14
Chương 14 (B) Chương 15
Chương 15 (B)
https://thuviensach.vn
Chương 16
Chương 16 (B) Chương 17
Chương 17 (B) Chương 18
Chương 18 (B) Chương 19
Chương 19 (B) Chương 20
Chương 20 (B) Chương 20 (C) Chương 20 (D) Chương 20 (F) Chương 21
Chương 21 (B) Chương 21 (C) Chương 21 (D) Chương 22
Chương 22 (B) Chương 23
Chương 23 (B) Chương 24
Chương 24 (B) Chương 25
Chương 25 (B) Chương 26
Chương 26 (B) Kết
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Lời Giới Thiệu
Dựa trên nhiều tài liệu xuất bản tại Trung Quốc, có tham khảo các trước tác của những tác giả văn học nổi tiếng dưới thời Minh, Thanh (Trung Quốc).
Đoán án kỳ quan là tên gọi chung một tập hợp những truyện phá án và xử án nổi tiếng nằm rải rác trong các sách cổ của Trung Quốc. nhất là ở hai triều đại Minh và Thanh. Về thể loại văn học, những truyện này được gọi là "tiểu thuyết công án".
Tiểu thuyết công án ở Trung Quốc có nguồn gốc rất xa xưa, bắt đầu từ những ghi chép ngắn trong sử, truyện về sử có từ thời Tiên Tần, Lưỡng Hán (206 - 220). Tới tiểu thuyết bút ký trước đời Đường và đời Đường (618 - 907), tác phẩm về đề tài công án đã chiếm một tỉ lệ khả quan, để rồi chín muồi hơn ở truyền kỳ đời Đường.
Sang đến đời Minh và đời Thanh. tiểu thuyết công án tăng trưởng rất mạnh về mặt số lượng. về chất lượng cũng được nâng cao rõ rệt. Tiểu thuyết công án không chỉ có trong các tập truyện ngắn nổi tiếng xưa nay như các tập Du thế minh ngôn, Cảnh thế thông ngôn, Tỉnh thế hằng ngôn (được gọi tắt là Tam ngôn), Phách án kinh kỳ, Nhị khắc phách án kinh kỳ (gọi tắt là Nhị phách). Tham hoán báo, Thập nhị lâu. v.v... mà còn có hẳn những tập truyện chuyên viết về đề tài công án như Bao Công án, Địch Công án. Long Đồ công án, v.v... Cho đến giữa đời Thanh, tiểu thuyết công án có thêm sắc thái mới, đó là hợp dòng với tiểu thuyết võ hiệp như các truyện dài ở Bành Công án, Tam hiệp ngũ nghĩa. v.v...
Sự phát triển của tiểu thuyết công án cho thấy thể loại này ngày một có địa vị đáng kể trong văn học Trung Quốc. Từ nhiều mặt của cuộc sống, tiểu
https://thuviensach.vn
thuyết công án đã phản ánh cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt giữa cái ác và cái thiện, giữa tội ác và pháp luật, cho thấy tội ác dù tinh vi, xảo trá đến mức nào thì cuối cùng bị pháp luật trừng trị. Ở đó, đạo đức truyền thống của phương Đông như chính nghĩa, công bằng, nhân hậu, thật thà... luôn được đề cao, song vì là truyện cổ nên không tránh khỏi ảnh hưởng của tư tưởng nhân quả báo ứng, một tư tưởng mà trong thời kỳ chính quyền bất lực trước tội ác, thường được người dân bị cái ác ức hiếp lấy làm chỗ bám víu, an ủi.
Khi đứng chung trong các tập truyện ngắn, tiểu thuyết công án thường bị chìm trong đề tài có tính chất bao trùm là phản ánh nhân tình thế thái, chỉ đến khi tách riêng chúng ra và tập hợp lại thành một bộ sách khác thì mới thấy loại truyện này viết ngày một lên tay, có cấu trúc hoàn chỉnh, nhiều tình tiết hấp dẫn được đan xen để dẫn tới nhiều khám phá bất ngờ thú vị. Trong truyện, trí xét đoán của con người dần dần được khẳng định và đề cao, dần dần đã thoát ra khỏi yếu tố nhờ quỷ thần, sức mạnh siêu nhiên giúp đỡ.
Tiểu thuyết công án Trung Quốc từ lâu đã được bạn đọc nước ta đón nhận. Ngay từ đầu thế kỷ XX, mười bộ truyện với tên gọi khác nhau về đề tài xử án của Bao Công đã được dịch sang tiếng Việt; đến nay, nếu còn những truyện khác về Bao Công chưa dịch mà được dịch tiếp thì có thể nói chắc vẫn được bạn đọc nhiều lứa tuổi ở nước ta hoan nghênh.
Dịch những truyện công án trong bộ sách này, chúng tôi muốn bạn đọc nước ta được thấy ngoài Bao Công án ra, tiểu thuyết công án Trung Quốc còn có nhiều truyện khác (chưa phải đã bao gồm hết) cũng ưu tú và hấp dẫn không kém. Chúng tôi bám sát lối văn tự sự của tác giả đương thời để bạn đọc nước ta còn có thể thấy lối miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết và sự kiện trong truyện cũng từ lâu đã ảnh hưởng đến lối viết của một số nhà văn đầu thế kỷ XX ở nước ta.
https://thuviensach.vn
Tập truyện do hai người dịch nên văn phong, chữ dùng khác nhau là điều khó tránh, song chúng tôi không định thống nhất vì mỗi truyện là một câu chuyện riêng rẽ, bạn đọc có thể tùy ý thưởng thức. Tuy đã cố gắng hết mức, nhưng nếu còn sai sót, xin bạn đọc chỉ giáo.
Các tác giả.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Tập 1 - Chương 1 (A)
Kẻ Buôn Vải Minh Oan Cho Bạn
Tên Giết Người Vợ Khó Bao Che
Chỉ bởi hoa cười miệng mới cười.
Hoàng oanh thánh thót hót đôi hồi
Trên quầy sẵn rượu say vài chén
Thiên hạ núi sông thay dạo chơi.
Hãy mơ mắt ra nhìn thế cuộc.
Giãi tấm lòng ta đón sự đời.
Lắng nghe câu chuyên còn tươi rói.
Khuây khoa lòng buồn cũng phải nguôi.
Tôi làm bừa mấy câu thơ, không phải khuyên người ta sống phóng đãng, nghe chuyện cười để sống qua ngày, mà khuyên người ta mở rộng tấm lòng, đừng gian ác, xảo trá. Không nên lúc nào cũng tất bật, vội vã, ngay bữa ăn cũng nhấp nha nhấp nhổm, đêm nằm nghĩ ngợi không yên giấc. Sao lại căng thẳng đến như thế? Vì họ không tin "tất cả là do mệnh, chỉ một chút do người”. Cho nên, cả đời lầm lỡ, đến khi sắp từ giã cõi đời mới biết là sai. Tôi với bạn đều là những người mắt sáng tai lành, ấy cũng là do đời trước tu nhân tích đúc. Nếu biết sống yên phận, giữ mình nghe theo lời người tốt, thì nhất định không đến nỗi đói rét. Còn một số người mù lòa tàn tật, đáng thương, phần lớn là do may rủi.
Chuyện kể rằng, thời Gia Tĩnh, thành Nam Kinh, có một người mù, ban ngày xem bói, ban đêm lại đi đánh bạc. Đã ở tuổi trung niên nhưng Dương Liễu Tiên vẫn là người chưa vợ. Anh ta thường ân hận rằng, kiếp trước do mình không tu nhân tích đức nên kiếp này phải chịu nỗi mù lòa. Anh không
https://thuviensach.vn
dám mơ tưởng tới cuộc sống giàu có, mà chỉ cam lòng sống dựa vào người cậu. Một hôm vào buổi tối, mấy người bạn kéo anh đến nhà đãi rượu, chơi tới mãi tận nửa đêm mới về. Đi được nửa chừng, ba người bạn rẽ sang lối khác, còn Liễu Tiên lọc cọc chống gậy lần đường về nhà. Anh nghĩ, hôm nay ăn quá no, đêm mình phải đánh một giấc cho đã mắt. Đang men theo đường về nhà bỗng nhiên vấp phải vật gì làm anh suýt ngã. Liễu Tiên cúi xuống sờ, thì đó là một chiếc bao. Anh ngồi lên bao đợi một lúc lâu, song vẫn không thấy tiếng người đi tới. Liễu Tiên mang chiếc bao ấy về nhà. Thằng nhỏ ra mở cửa, trời tối quáng mắt, nó chẳng nhìn thấy Liễu Tiên cầm gì. Đặt chiếc bao lên giường, Liễu Tiên cũng cởi áo đi ngủ luôn. Đến canh năm Liễu Tiên trở dậy lấy chiếc áo xanh bọc lấy bao, dùng dây buộc lại, rồi vội vàng mang ra khỏi nhà. Liễu Tiên rờ rẫm đi đến chỗ cũ, đặt bao xuống. Lúc ấy trời vẫn chưa sáng. Liễu Tiên ngồi lên chiếc bao không rời nửa bước.
Lát sau trời sáng dần, người qua lại mỗi lúc một đông. Liễu Tiên nghe thấy có tiếng kêu than: "Hôm qua, lúc chập choạng tối, tôi cùng đứa con trai mười tuổi tới đây thì trời tối mịt tôi muốn đi tiểu tiện nên bảo nó ngồi lên bao, khi nào cha đi xong thì mang bao cho cha. Ai ngờ khi đi xong tôi bảo nó: Bụng đói rồi, hãy mau mau tới cửa hàng ăn cơm . Tôi đi trước, nó đứng lên theo sau. Trời tối mịt, vì sợ lạc, nên nó vội bám theo tôi. Thấy nói đến cơm, bụng lại đói nên nó quên khuấy mất bao. Tôi cũng lú lẫn chẳng nhắc nó một câu. Mãi đến khi tới cửa hàng ăn, mới biết nó để quên, thế là mất. Tôi đánh nó. Chủ nhà khuyên tôi: ‘Đường sá Nam Kinh người đi kẻ lại nườm nượp suốt ngày đêm, chẳng may mất rồi, đánh nó cũng chẳng tìm lại được. Hãy đợi đến sáng mai ra đường kêu, may ra có người nào nhặt được thì chia cho họ một nửa, hoặc nhờ trời gặp được người tốt thì chưa biết chừng họ sẽ trả lại hết cũng nên . Trong bao của tôi có mười bảy lạng bạc, ba tấm vừa lụa vừa vải và một gói đồ trang sức. Vì con gái sắp đi lấy chồng, tôi phải vào thành mua sắm cho nó. Đây là số tiền mới bán ruộng, nay mất sạch, lại cận ngày cưới, tôi biết làm sao bây giờ”. Rồi ông kêu khóc thảm thiết. Người đi đường, kẻ nói thế này, người nói thế khác cứ ầm
https://thuviensach.vn
ĩ cả lên. Dương Liễu Tiên ngồi trên chiếc bao nghe thấy hết, rồi khẽ nói với một người bên cạnh rằng:
- Anh bảo ông ta, hãy đến đây tôi đoán giúp. Tôi không lấy tiền đâu. Người ấy vội chạy tới nói với Liễu Tiên rằng mình gặp nạn. Dương Liễu Tiên bảo mọi người lui ra, ghé vào tai người ấy nói mấy câu, rồi cầm chiếc bao đứng dậy. Người nhà quê kia theo ông về nhà. Liễu Tiên nói: - Ông ạ, bao của ông ở trong này, vừa rồi tôi không tiện trả ông, sợ người ở đây nhìn thấy, nếu kẻ xấu hiếu sự, mở ra xem tất sẽ lấy cắp. Tuy tôi không cần trả ơn, nhưng những người ấy sẽ hạch sách, đòi trả công, rất phiền toái. Tôi có nhã ý bảo ông đến nhà trả lại, ông hãy để chiếc áo xanh lại cho tôi rồi mang bao về.
Người nhà quê ấy vội giở chiếc bao ra, thấy tất cả vẫn còn nguyên vẹn, cầm bao cười hể hả, nói:
- Quả là trời có mắt, nên tôi gặp được người tốt bụng, sau này biết lấy gì đền đáp.
Ông rối rít cảm ơn, rồi ra về.
Vẫn như mọi ngày, Liễu Tiên rửa mặt, khăn áo chỉnh tề, ra cửa hàng, ngồi trang nghiêm chờ khách tới xem bói. Liễu Tiên cần mẫn hành nghề, cuộc sống cũng tạm đủ. Một hôm có người ăn mày đến cửa hàng kêu với ông rằng:
- Ông ơi! Hãy nhón tay làm phúc, cho tôi đồng tiền bát gạo. Liễu Tiên đưa cho người ăn mày ba đồng.
- Ông ơi! - Người ăn mày nói. - ông có biết, nếu thiên hạ có không thanh(1) thì chẳng còn ai mù nữa không?
- Làm gì mà có nhiều không thanh đến thế. - Liễu Tiên nói. (1) Không thanh: tên khoáng vật, sản xuất tại hang núi ích Châu, nơi có mỏ đồng, giống quả dương mai mầu xanh, bên trong rỗng, chứa một loại dung dịch chữa mắt rất hiệu nghiệm.
- Đúng, đúng lắm! - Người ăn mày cười ha hả nói. - Ta nghe nói ông là người đức hạnh, hôm nay ta có ý định đến cứu ông hãy lại đây ta bảo. Người ăn mày ghé sát vào tai Liễu Tiên nói mấy câu, rồi đưa cho ông một hạt không thanh và một bộ sách thuốc, nói:
https://thuviensach.vn
- Tôi là Y Đầu Xù.
Rồi nhẹ nhàng cất bước ra đi.
Ngày hôm sau Liễu Tiên khăn áo chỉnh tề, hướng lên trời cao cầu khẩn, tra nước không thanh vào mắt. Như lột một lớp da, mắt tự nhiên bừng sáng. Liễu Tiên mù từ lúc lên ba, nay lại nhìn thấy, nói sao xiết, như một vị tiên, mang cuốn sách thuốc đi cứu giúp người đời...
Các bạn thân mến, trong thiên hạ, dù là người sáng hay mù, nếu làm ăn lương thiện thì pháp luật không bao giờ động đến. Song, có một tiên sinh mù thông minh, linh hoạt, có chí khí lại để tiếng xấu muôn đời, làm bia miệng thế gian, ai nghe thấy cũng phải rùng mình run sợ. Hắn ta người huyện Hải Ninh, phủ Hằng Châu, năm lên sáu tuổi bị đậu mùa, hai mắt mọc hai chiếc mụn, khi mụn khỏi thì hai mắt không còn nhìn thấy. Lúc nhỏ thường gọi là A Mỗ, sau học được nghề xem bói, rồi dọn đến thành Gia Hưng mở cửa hàng, đặt tên hiệu là Lý Tâm Sở. Tuy mù nhưng Lý Tâm Sở lại biết đánh bài mạt chược, cờ tướng. Khi chơi cờ, thường thì ai cũng phải chịu thua, nếu ai dám coi thường hắn, thì người đó quả là liều lĩnh. Lý Tâm Sở không những bắt người đó phải xin lỗi và bồi thường danh dự, mà còn đến tận nhà xé rách quần áo, cắn nát ngón tay. Về sau không ai dám chơi với hắn. Đến năm ba mươi tuổi, Lý Tâm Sở tích góp được hai ba chục lạng bạc, lấy một người góa chồng và nuôi thằng ở tên là A Long. Lý Tâm Sở là người xảo trá bạc ác, có vợ hắn như hổ mọc thêm cánh. Nhũng người láng giềng qua lại, hắn không cho phép bất cứ ai nói tới chữ "mù”, nếu ai đó lỡ mồm thì hắn chửi cho tàn tệ, đến những kẻ hàng tôm, cá cũng đành chịu thua. Vô phúc có ai cất gánh lên còn làu bàu chửi "lão mù độc ác" thì hắn đuổi theo đánh không tiếc tay. Những người qua đường thấy thế xúm lại khuyên can, nhưng khi thấy hắn xử sự như thế thì họ đều khinh bỉ bỏ đi. Cứ thế trong nhiều năm, sự độc ác của hắn không sao kể xiết. Đúng là, người không mù mà độc ác cũng có, song chưa thấy người nào mù mà độc ác như hắn.
https://thuviensach.vn
Gã mù này đã gây ra cái chết oan khuất cho một người ở huyện Bình Hồ, tên là Ngụy Ngọc Phủ. Anh ta có vợ luôn ốm đau là Giang Thị và một đứa con trai lên bốn tuổi tên là Quan Thọ. Tuy là người buôn vải, song Ngọc Phủ cũng là kẻ chẳng ra gì. Một hôm mới canh năm anh ta đã trở dậy, đến phủ Gia Hưng kiện một người họ Trương là chủ hàng của anh ta để kiếm một món tiền. Hôm ấy cơm nước xong, trời vẫn còn tối, vừa bước ra cửa đã vấp ngã, nhưng anh ta không thấy đau, lồm cồm ngồi dậy, ra bến thuê thuyền đến huyện lị, trong lòng thắc thỏm lo sợ, không biết có lừa được người chủ này không. Tới huyện lị, anh ta mải miết đi. Từ xa có một tấm biển: "Lý Tâm Sở xem bói, biết được tiền vận, hậu vận", bên cạnh có đề hai dòng chữ nhỏ: "Lòng thành xem họa phúc, phải thực sự báo đền". Vừa tới cửa, anh ta sửa lại quần áo nhìn vào thấy:
Khói hương nghi ngút, nước thải tàn nhang.
Thần tượng oai nghiêm, dát vàng rục rỡ.
Mấy chiếc chõng tre, bút nghiên bày sẵn.
Giấy thơ mấy bút, đoán thật đúng thay.
Trên bài vị thờ Chu Văn, Khổng Tử.
Dưới bàn nước, ghi năm tháng ngày giờ.
Tiên sinh mù, ngồi trang nghiêm cung kính.
Tiếp đãi khách hàng, dáng bệ vệ oai nghiêm.
Cửa hàng Lý Tâm Sở, từ sáng sớm đã được quét dọn lau chùi sạch sẽ, chậu rửa tay đầy ắp nước trong. Trời thu mát mẻ, Tâm Sở mặc áo dài thâm mới cứng, đầu đội khăn vấn hình mỏ quạ. Hai mắt như hai con ốc nhồi lộn lên đảo xuống, vểnh tai nghe ngóng. Khách vào, hắn nịnh nọt một hồi, rồi mời khách xem bói. Nếu có người hỏi về bệnh tật, thì hắn bảo cúng bái các vì sao, lễ thổ thần, chiêng trống chập cheng, dặn dò thí chủ ầm ĩ một hồi. Ngẫm nghĩ trên trời dưới đất, tránh sao khỏi việc chẳng lành. Cổ nhân từng nói:
https://thuviensach.vn
Dục vọng ở đời,
Khiến lòng rối loạn.
Người không có mắt,
Sáng sáng chiều chiều,
Tối đen như mực.
Mắt chẳng thấy gì.
Lòng nghĩ lung tung.
Ta chẳng lạ lùng.
Chỉ cần nghĩ một chút, ta thấy ngay Lý Tâm Sở là người không ngay thẳng, hắn nghĩ sao được điều đúng đắn. Xem bói xong lại đánh bạc, thì chẳng vị thần nào dám vào cửa nhà hắn.
Ngụy Ngọc Phủ bước vào, đứng như chôn chân trước cửa, đã vào thì không ra được, hắn nghĩ: "Nếu xem bói thì nên hỏi việc gì cho đúng với ý định của mình". Rồi anh ta mạnh dạn bước vào nói:
- Xin nhờ tiên sinh xem cho một quẻ.
Ngọc Phủ rút ra một lá sớ, rì rầm khấn: "Họ Ngụy lòng thành dâng nhang đăng, kêu cầu một việc đó là: Vốn ta rất căm tức gã chủ họ X. nên hôm nay lên huyện kiện lão. Lão là người trung hậu nhưng vô dụng. Sau này, quan đòi gã tới xử, ta sẽ được rất nhiều tiền của. Xin thần cho một quẻ". Ngụy Ngọc Phủ khấn xong rồi vái lạy, chuyển lá sớ cho Tâm Sở. Tâm Sở cầm lấy hỏi họ tên, khấn một hồi, lắc lắc ống thẻ rồi gieo quẻ ba lần, được quẻ Nội. Sau đó lại lắc, gieo một lần nữa mới xong đó chính là quẻ Trạch thủy khốn, rồi nói:
- Xin ông anh ngồi xuống để nghe tôi nói. Đây là quẻ Trạch thủy khốn. Có làm việc gì tốt không?
- Đòi chủ được nhiều tiền của, - Ngọc Phủ nói, - không biết có được không? Tiên sinh cứ nói thẳng.
- Quẻ này rất tốt. - Lý Tâm Sở nói. - Tên là quẻ Khốn, ngươi cầu tài không phải vất vả, ở nhà cũng có người đưa của đến. Vả lại hào thứ sáu động lung tung, ấy là điềm báo tiền của chảy vào nhà như nước. Hôm nay là ngày
https://thuviensach.vn
Trấn Huyền Vũ trông coi, giờ Thất Sát, Hoàng Phan canh giữ, lại có báo đuôi kéo thương, có rắn biết bay bày binh bố trận. Những loài đó sẽ đuổi hết tiền tài đến với ngài. Nhìn kĩ lại thấy sao Bắc Đẩu lấp đường, ngũ quỷ phá cầu, cóc nhái bò đầy đường. Những vị thần hung tợn nhỏ máu xin chúc mừng ngài tiền của đến như nước chảy.
Ngụy Ngọc Phủ là một kẻ tham tài lại ngu muội, sao biết được nghĩa lí trong Kinh Dịch. Nghe Lý Tâm Sở nói, Ngụy Ngọc Phủ cười tít mắt, tưởng mình đang ngồi trên đống của. Ngụy Ngọc Phủ rút ra một gói bạc, nhón lấy bảy tám đồng gói vào giấy đưa cho tiên sinh, gọi là chút thù lao, rồi cúi đầu đi ngay. Hắn ta nghĩ: "Nếu lần này thắng kiện, được bạc, ta sẽ tậu ruộng vườn, lợn, cừu và ba cô gái đẹp để nâng khăn sửa túi".
Nhận được gói bạc của Ngụy Ngọc Phủ, Lý Tâm Sở sờ sờ nắn nắn, hắn sung sướng vứt ngay giấy cho tiền vào mồm nếm, biết là bạc tốt, hắn gọi ngay A Long tới bảo:
- A Long, mày hãy đuổi theo người vừa xem bói, bảo hắn quay lại ngay, tiên sinh còn có điều muốn nói thêm.
A Long, người tai mắt của Tâm Sở, kẻ ra người vào nó đều để ý. Thường là khi gặp phải bạc xấu hoặc giả cần phải đổi, nó đều đuổi theo như thế. Ngụy Ngọc Phủ vừa đi khỏi quán được mấy bước thì A Long túm áo, nói: - Xin ngài quay lại, tiên sinh còn điều gì quan trọng muốn nói với ngài. Thấy thế Ngọc Phủ vui mừng quay lại ngay. Lý Tâm Sở đã bàn trước với vợ. Quả là:
Không thực thi kế sâu vạn trượng
Sao bắt được rồng ngậm ngọc châu.
Ngụy Ngọc Phủ theo A Long quay lại, vừa tới cửa, Tâm Sở bước ra nói: - Ngài Ngụy quay lại rồi đấy ư? Quẻ của ngài có mười hai phần tài lộc, tiểu đệ xin chúc mừng. Lần này gia đình ngài giàu có phát tài gấp bội. Đây là cuộc đổi đời, chẳng khác nào thay đổi xương cốt, thịt da. Tiểu đệ học được
https://thuviensach.vn
cách xem tướng, vì khách đông nên không dám xem, chỉ xem bói mà thôi. Nay gặp ngài, thuộc tướng giàu có nên tôi quyết định xem cho ngài thật kĩ. Ngài yên tâm, tôi không lấy tiền đâu, sau này giàu có, lúc đó ngài đến tạ ơn tôi là được.
Ngụy Ngọc Phủ đầu óc ngu tối, mê muội, tưởng mình sẽ thành ông chủ giàu có thật, đưa tay cho Tâm Sở xem. Tâm Sở nói:
- Nơi này người xem bói thường lui tới đông. Tôi sẽ tiếp ngài tại phòng nhỏ phía sau, ở đó tôi sẽ xem cho ông tỉ mỉ kĩ càng hơn.
A Long đã mở sẵn cửa ngách. Tâm Sở mời Ngọc Phủ đi trước rồi thong thả bước theo sau. Cũng lúc đó vợ hắn bảo A Long đóng cổng, hạ biển, chỉ để Ngụy Ngọc Phủ và Lý Tâm Sở ở phòng trong. Lão mù đứng, Ngọc Phủ ngồi, hai người quay mặt vào nhau. Tâm Sở nói:
- Phải sờ thì mới biết được.
Lý Tâm Sở vòng ra sau, sờ vào sống lưng, bên hông, thấy chiếc túi cồm cộm bên trong. Lý Tâm Sở lại sờ lên đầu và mặt, vừa sờ vừa nói, tốt, tốt lắm, rồi lại bảo Ngọc Phủ ngẩng đầu lên. Ngọc Phủ ngẩng đầu. Lý Tâm Sở sờ vào yết hầu, ngủi ngửi. Mùi hôi từ người Ngọc Phủ thộc vào mũi gã. Gã mù đột ngột cúi đầu ngoạm chặt lấy yết hầu Ngọc Phủ. Lão Ngụy đau quá không sao chịu nổi, giằng ra, vợ gã mù lẻn vào trói tay Ngụy Ngọc Phủ. Gã mù cắn vào yết hầu quá mạnh, ngập cả hàm răng như cắn vào đu đủ, đứt một miếng to bằng quả đào, nhổ toẹt xuống đất như một chiếc tổ ong đẫm máu. Ngọc Phủ ngất xỉu ngã vật xuống, cổ hầu máu tuôn ra như suối. Chân tay run lẩy bẩy không kêu lên được nữa. Chưa đầy nửa giờ, Ngọc Phủ không giãy giụa được nữa rồi chết hẳn. Đúng là:
Kiếp trước từng gây nên oan nghiệp.
Kiếp này lại gặp kẻ gian manh.
Ngụy Ngọc Phủ chết, hai vợ chồng gã mù vội vã bảo A Long đóng cổng thật chặt, lột quần áo, lấy hết của cải. Tâm Sở loạng quạng cầm cuốc, đào vội chiếc hố, chỗ đất trống sau nhà. A Long và Trâu Thịcũng cùng hắn ra
https://thuviensach.vn
sức đào, được hơn hai giờ thì hố sâu khoảng ba thước, chúng hất Ngọc Phủ xuống hố rồi lấp đất. Ba đứa vẫn cười nói như thường, không chút sợ hãi, hình như từ lâu chúng đã quen với ngón nghề này. Gã mù sờ vào gói bạc, mỉm cười, còn vợ hắn dọn sạch những vết máu trên đất. Suốt ngày hôm đó chúng không mở cửa hàng, đến tối ba đứa ăn uống phè phỡn, rồi cười ha hả với nhau. Hôm sau Lý Tâm Sở lại mở cửa hàng như thường lệ. Ngày thứ ba chúng không mở cửa hàng, lại mua thịt cá về ăn uống. Cứ như thế đến nửa tháng, không ai hay biết.
Thương thay, vợ Ngọc Phủ, là sản phụ, lại mắc bệnh bại liệt chỉ ăn mà không làm được việc gì. Con trai mới lên bốn tuổi, còn thơ dại. Mẹ con ở nhà mong ngóng, nghĩ: "Đã bỏ đi đâu lâu ngày như thế, không thiết đến nhà cửa, chắc rằng không về nữa". Chỉ có một người gọi là Lão Tô, đã hơn bảy mươi tuổi, hằng ngày đến bế đứa trẻ đi lang thang khắp nơi, hỏi han tin tức Nhà vốn thu mua vải vụn, ngày ngày có người mang đến bán, song những người đó đều không hay biết gì về Ngọc Phủ. Vợ Ngọc Phủ mòn mỏi ngóng đợi tin chồng, cảnh ngộ thật là thê lương.
Ai ngờ đâu đống xương Vô Định,
Vẫn còn trong mộng gái phòng khuê.
Các bạn thử nghĩ xem, sự việc độc ác ấy bao giờ mới đưa ra ánh sáng, nỗi oan ấy bao giờ mới được báo thù. Cổ nhân có câu:
Chủ định trồng hoa, hoa không mọc
Chẳng màng cắm liễu, liễu xanh tươi.
May mà trước đây Ngụy Ngọc Phủ kết nghĩa anh em với Phó Tứ Quan, anh cũng là người thu mua vải vụn, vì tuổi ít hơn nên làm em. Một hôm anh mang bốn năm mươi tấm vải đến thành Gia Hưng bán. Đi khắp thành mà chỉ bán được sáu bảy tấm. Vừa tất tả đi qua cửa hàng Lý Tâm Sở thì thấy một người đàn bà xinh đẹp, đậm đà, ăn mặc gọn gàng, gọi mua vải. Phó Tứ Quan đưa vải tới, người đàn bà xem xong mua năm tấm. Phó Tứ Quan đòi
https://thuviensach.vn
lạng rưỡi bạc. Người ấy trả một lạng hai nhăm. Phó Tứ Quan nói: - Cứ cân bạc xem đã, nếu là bạc hoa thì thiếu chút ít cũng được. Người đàn bà quay vào cân bạc, rồi đưa ra, nói:
- Đây toàn là bạc hoa.
Phó Tứ Quan vốn là người thông minh, xem bạc xong, anh ta chột dạ: “Kỳ lạ thật, tại sao số bạc này lại ở đây?", rồi đòi trả thêm mới bán. Khi ra khỏi cửa, anh nhìn đi nhìn lại tấm biển, suốt dọc đường cứ nghĩ miên man: "Số bạc hoa này là tiền vải của lão Ngảnh họ Chu trả cho Ngụy Ngọc Phủ. Nửa tháng trước đây chính tay anh cân, nặng chín hoa bảy li rưỡi. Xem đi xem lại, rồi cân thử, thì thấy không sai một li. Sao số bạc ấy lại ở cửa hàng gã xem bói này?". Câu hỏi ấy cứ bám riết lấy anh: "Nếu như không chi dùng ở đây, thì vì sao người đàn bà này lại có số bạc đó". Mấy người này Ngọc Phủ cũng không hề quen biết, đi đã hơn nửa tháng nay vẫn chưa về, mọi người đều mong mỏi. Hôm kia ta đến nhà trọ hỏi, Ngọc Phủ không hề tới đây. Thăm dò trong dinh quan huyện cũng không thấy ngọc Phủ đệ đơn kiện. Quả là trong đó có duyên cớ gì đây! Anh đặt bao vải xuống, lấy bạc ra xem đi xem lại, rồi cân thử một lần nữa, đưa quả cân tới chỗ chín hoa bảy li rưỡi, cán cân ngang bằng như mặt nước. Điều ấy khiến Phó Từ Quan càng thêm nghi ngờ.
Mấy hôm sau bán hết vải, trở về Bình Hồ, Phó Tứ Quan tới ngay nhà Ngụy Ngọc Phủ. Thấy vợ Ngụy Ngọc Phủ khóc than thảm thiết, còn đứa con trai cũng rầu rĩ. Anh nói:
- Đã lâu rồi mà anh Ngụy Ngọc Phủ vẫn chưa về. Tôi đã đến huyện hỏi dò, không thấy anh đưa đơn kiện, lại đến nhà trọ người ta bảo anh ấy không tới đây. Anh cũng không nói là đi đâu xa, chắc là anh đã mang số bạc mua vải của lão Ngảnh họ Chu đến xem bói ở phủ lị. Tôi đã bán vải cho nhà ấy, chính tay tôi cân bạc. Số bạc đó y như bạc lão Ngảnh trả, không sai một li. Tôi thấy rất đáng nghi, nên không dùng số bạc đó mua hàng. Nếu không dò hỏi được tung tích của anh, tôi sẽ đem số bạc này đến huyện cáo giác. Quan huyện sẽ phải hỏi lão thầy bói, thì chắc chắn sẽ biết được. Chừng nào anh ấy chưa về thì vẫn phải tiếp tục điều tra, nhất định sẽ tìm thấy!
https://thuviensach.vn
Vợ Ngọc Phủ đau đớn, nghẹn ngào nói:
- Chú nói có lí. Tôi ngày đêm lo lắng, nhưng cũng chẳng biết làm gì, con thì còn nhỏ, tôi lại đau ốm, không ai lên huyện lo việc, tôi biết làm thế nào đây?
Phó Tứ Quan nói:
- Tôi đi làm chứng, còn chị hãy bảo lão Tô bế cháu Thọđem số bạc đệ lên huyện cáo giác, việc này phải làm cho ra nhẽ.
- Không có người làm đơn kiện thì làm sao đây? - Vợ Ngụy Ngọc Phủ nói. - Tôi sẽ đi mua giấy, - Phó Tứ Quan nói. - Cứ viết thẳng ra là được. Phó Tứ Quan vội vàng đi mua giấy về, viết:
"Người làm đơn này là Ngụy Quan Thọ. Thưa về việc tìm cha. Cha tôi vào thành buôn bán đã hai mươi ngày rồi mà không thấy về. Tôi biết cha tôi đã mang bạc tới xem bói nhà Lý Tâm Sở. Vìcha tôi có người chú kết nghĩa anh em tên là Phó Tứ Quan đã bán vải cho nhà ông ta, và phát hiện ra số bạc người ta mua vải là của cha tôi. Nay đem số bạc trình lên ngài, khẩn thiết xin ngài điều tra tận gốc số bạc ấy từ đâu ra, lúc đó sẽ biết được cha tôi ở đâu. Mẹ con tôi vô cùng cực khổ. Xin dâng đơn lên ngài".
Phó Tứ Quan đưa lá đơn không hợp quy cách, chỗ thì viết chân phương, chỗ thì viết ngoáy, cho vợ Ngụy Ngọc Phủ, rồi nói:
- Sáng sớm mai, chị bảo lão Tô bế Quan Thọ, cùng đi cáo giác, còn số bạc này hãy để ở nhà chị.
Sáng sớm hôm sau, Phó Tứ Quan đến, cùng lão Tô cõng Quan Thọ, mang số bạc tới huyện Bình Hồ. Quan huyện Thẩm Dao Chương là quan thanh liêm chính trực. Ông khoảng ba mươi tuổi, người phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông. Cha ông là một ông đồ, tuổi cao mới sinh được mình ông. Ngay từ khi còn nhỏ, Thẩm Dao Chương sống trong cảnh khổ cục, nghèo túng, nếm đủ mùi cay đắng, nên khi được làm quan ông luôn theo lời răn dạy của cha, làm tốt mọi công việc, xét xử công bằng, thưởng phạt nghiêm minh. Chính vì thế mà bọn nha lại rất sợ, không dám làm bậy, còn nhân dân coi ông như một vị Thành Hoàng. Hôm ấy, công đường vừa mở, Phó Tứ Quan, lão Tô bế Quan Thọ theo đám đông vào cáo giác. Vị Thành Hoàng nhận tất cả đơn từ xem xét tỉ mỉ từng lá một, và phê những ý kiến vào đó. Xem đến lá đơn
https://thuviensach.vn
của Ngụy Quan Thọ, ông gật gật đầu cười rồi phê vào hai chữ "truy nã". Đến trưa thì ông xem xong tám mươi lá đơn, trong đó có đơn của Ngụy Quan Thọ. Hôm ấy chỉ có ba lá đơn tố giác, ông lần lượt gọi vào xét hỏi. Đến Ngụy Quan Thọ, thấy lão Tô bế Quan Thọ vào, miệng chỉ nói "bác bác", dáng vẻ sợ hãi đáng thương. Sau đó ông gọi Phó Tứ Quan lại hỏi:
- Số bạc này ngươi lấy ở đâu ra?
Phó Tứ Quan khai rõ ràng, từ đầu tới cuối. Hỏi xong lần sơ thẩm về ba vụ án, ông kết thúc phiên tòa.
Thẩm Công trở về tư dinh hỏi người hầu rằng:
- Ta cần sai một người giáp thủ(1) thật thà chất phác, làm tốt công việc này, ngươi có thể cử giúp ta được không?
(l) Giáp thủ: người đứng đầu năm binh sĩ.
Người hầu không dám làm bậy, nghĩ ngay tới Tào Thăng, là người thật thà chất phác, không bao giờ dám nhận tiền đút lót để ăn uống rượu chè, rồi nói với Thẩm Công:
- Chỉ Tào Thăng mới làm được việc này.
Thẩm Công viết một tờ trát, sai Tào Thăng mang đi và dặn rằng: - Ngươi hãy đi, nói với Lý Tâm Sở, người hành nghề thầy bói trong huyện, rằng chiều mai ta có việc phải hỏi ông ta, không được nói một câu nào khác, không được đòi ăn uống, nếu hắn tới ta sẽ thưởng cho bữa rượu. Tào Thăng lĩnh trát, cúi chào rồi đi ngay.
Vào khoảng canh năm, Tào Thăng tới phủ lị, hỏi đến nhà Lý Tâm Sở, ôn tồn lễ phép đưa trát cho ông ta. Lý Tâm Sở rờ rờ tờ trát, chẳng chút kinh sợ, nói:
- Gọi ta về việc gì thế?
- Tôi không biết, - Tào Thăng nói. - Chưa biết chừng muốn nhờ ông tới xem bói cũng nên. Phải lập tức đi ngay, tiên sinh không nên chần chừ. - Thưa ông, - Tâm Sở nói, - ông có biết trong huyện đường của ngài có ai sao không?
- Tôi cũng không biết nữa, - Tào Thăng nói. - Tiên sinh cứ đi hỏi ngài sẽ biết.
- Ông hãy ngồi nán lại, - Lý Tâm Sở nói. - Uống một chén rượu đã.
https://thuviensach.vn
- Tôi không dám uống rượu, lấy tiền của ông. - Tào Thăng nói. - Không còn thời gian nữa, xin ông lên đường ngay.
Tâm Sở đành vào nhà trong, ăn vội bát cơm, giắt theo mấy lạng bạc. Sợ lên huyện Bình Hồ phải xem bói, nên ông ta mang theo cả ống thẻ. Ra tới cửa ông ta còn quay lại nói với vợ:
- Tôi đi rồi sẽ về ngay thôi.
Hai người ra khỏi cửa, ra bến sông gọi thuyền tới huyện Bình Hồ. Tào Thăng dẫn Tâm Sở đến tư dinh hầu quan. Trời sắp tối thấy trong tư dinh đèn nến sáng choang. Thẩm Công đang ngồi trên ghế công đường, hỏi:
- Tào Thăng, hãy dẫn hắn vào.
Tào Thăng dẫn lão mù vào. Thẩm Công lấy từ trong tay áo ra một gói giấy, rồi nói:
- Tào Thăng, ngươi làm việc công thận trọng, ta thưởng cho năm đồng mua rượu.
Tào Thăng cúi đầu cảm ơn, rồi ra ngoài đang đợi. Lão mù quỳ trước bàn. Thẩm Công hỏi:
- Lý Tâm Sở, ngươi là một tên mù, làm được việc tốt! Chỉ thương thằng bé nhỏ dại ấy.
Nói xong ông giận dữ đập bàn. Gã mù kinh sợ nói:
- Thưa ngài, không liên can gì đến con, thằng nhỏ ấy vốn là một thằng trộm cắp, việc đã xảy ra ra lâu rồi, ngài hỏi con làm gì?
- Hãy khai lại từ đầu, một thằng bé khờ dại như thế thì trộm cắp sao được? - Thưa ngài, - lão mù nói, - nó lấy trộm đồ trang sức bằng bạc, quần áo và các đồ đồng của nhà chủ, nó vốn không phải là người tốt, nên lần này con phải đuổi nó đi.
- Ngươi đuổi nó đi từ bao giờ?
Tháng tư năm ngoái, - lão mù nói, - thằng nhỏ ấy lấy trộm rất nhiều đồ vật gửi ở nhà con, rồi sau đó đến lấy đi. Vợ con trách mắng nó, lừa nó vào cửa, đánh nó một trận ngã dụi xuống, rồi dùng dây thắt cổ cho đến chết. Quả thực mắt con mù, việc làm ấy đều do vợ con gây ra.
- Thếlà mất một mạng người, - Thẩm Công nói. - Thằng nhỏ ấy là con ai?
https://thuviensach.vn
Tên gì?
- Thằng nhỏ ấy tên là Ô Tam, - gã mù nói. - Con ông gù Từ Lang Trung. - Xác chết hiện ở đâu? - Thẩm Công hỏi.
- Ở sân sau, - gã mù nói.
- Hãy kẹp nó cho ta, - Thẩm Công nói.
Những người xung quanh lập tức kẹp ngay cái ấy của tên vô lại rồi hỏi tỉ mỉ. Gã tù nhân mù độc ác như hổ, chuyên hãm hại người tại nhà, đâu có biết phép vua như lò lửa, và sự ghê gớm của cửa quan, nên đến nay mới ra nông nỗi này, quả đúng là:
Phạm pháp mất hết quyền
Vận đen thi nhau đến.
Tên mù Lý Tâm Sở bị kẹp, hồn bay phách lạc, trời đất tối sầm lại. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa từng nếm mùi vị này, ngất đi lại tỉnh. Thẩm Công không giận dữ, không nóng vội, ông thong thả hỏi:
- Số bạc của người khách họ Ngụy, người dùng cũng khá đấy, đến nay thì nó đang ở chỗ ta, hãy trả lại người ấy cho ta!
- Thưa ngài, thưa ngài! - Gã tù nhân mù nói,-xác của người khách họ Ngụy cũng chôn tại chỗ Ô Tam.
- Người tham của giết người, - Thẩm Công lại hỏi, - phải khai rõ từ đầu đến cuối, ta sẽ tha chết cho người.
- Ngày mười chín tháng tám, - tên mù nói, - ông ấy đến xem bói, và trả công rất hậu. Con bèn bàn với vợ, vợ con nói: "Không thể buông tha được, vì ông ấy là người buôn bán giàu có. Phải gọi ông ấy lại giết đi, lấy bạc". Con quả thực đáng tội chết. Con không biết giết người. Vợ con không biết dùng dao, giả vờ xem tướng, rồi nhè chỗ yết hầu cắn, làm ông ấy không kêu được. Con nói với vợ con, nếu làm không được con sẽ đến giúp và còn nói, nếu cổ cắn không chặt, tôi sẽ đánh nhừ đòn. Người xưa nói "mèo mù vồ gà, chết cũng không buông", con dặn đi dặn lại vợ con mới dám ra tay. Chỉ lấy được tám chín lạng bạc, một bộ quần áo. Cầu mong ngài ra ân trời bể, tha cho chiếc thân tàn tật này, chỉ bắt vợ con và thằng A Long đền mạng.
- Ngươi là một tên độc ác, mất hết tính người. - Thẩm Công nói.
https://thuviensach.vn
Sau đó ông gọi tay chân đánh cho bốn mươi tay thước. Gã mù quằn quại đau đớn, khóc không thành tiếng. Thẩm Công gọi người tống hắn vào ngục, rồi ông viết trát, sai Tào Thăng ngày mai tới bắt Trâu Thị và A Long về xét xử, định tội. Tào Thăng nhận lệnh, Thẩm Công rời khỏi công đường.
Ngày hôm sau, Tào Thăng dậy từ canh năm tới nhà lão mù, hỏi: - Có người trong nhà không?
- Ông Tào đấy à, - người đàn bà cười hi hí nói, - ông nhà tôi bao giờ về? - Chưa được về! - Tào Thăng nói. - Ngài quan huyện cho gọi ngươi và A Long tới huyện.
- Tiên sinh biết xem bói thì quan mới gọi. Còn chúng tôi biết gì đâu mà quan gọi. - Người đàn bà nói.
- Hãy chuẩn bị lên huyện ngay.
- Thật sao? - Người đàn bà nói.
- Không thật thì đùa à? - Tào Thăng nói. - A Long đâu, phải đi cả hai người.
Người đàn bà vẫn cứ đứng đó. Tào Thăng lại nói:
- Ngài quan huyện gọi cả hai người. Chồng ngươi có việc cần bàn, không có thời gian về, đang mong mỏi các ngươi. Không được trì hoãn, nếu chậm sẽ liên lụy đến ta.
Người đàn bà nghe thấy nói có việc cần kíp, lúc ấy mới sắp cơm cho Tào Thăng ăn. Còn mình và A Long cũng ăn vội mấy bát, rồi chải đầu rửa mặt, mặc áo, mang theo bạc và tiền đồng. Nói khó với hai nhà bên: - Nhờ ông bà trông nhà giúp, nếu ông ngoại tôi có đến thì nói giúp rằng, chúng tôi lên huyện Bình Hồ.
Sau đó khóa cửa, mặc chiếc áo xanh lên đường. Một người đàn ông lớn tuổi thốt lên:
Khuôn mặt xinh tươi
Mắt sáng long lanh
Tai to mũi nhọn
Lưỡng quyền nhô cao
Mi mắt cũng cao.
Người đàn bà này nói năng hoạt bát, vừa đi vừa nói luôn mồm. Tào Thăng
https://thuviensach.vn
chẳng nói chẳng rằng, đi một mạch đến Bình Hồ. Tới huyện đường, Tào Thăng vào thưa với Thẩm Công rằng:
- Vợ Lý Tâm Sở và A Long đã tới.
Thẩm Công ra lệnh tống giam, ngày mai xét hỏi.
Gã mù giam tại phòng giam nam, còn vợ giam tại phòng giam nữ, chúng không hề biết gì về nhau. Trong ngục, người đàn bà nghĩ, không biết đã xảy ra chuyện gì. Không có kẻ thù, lại chẳng thấy ai nói gì cả. Chưa biết chừng do bói sai mà nên cơ sự này. Hay là chồng mình bị liên lụy, hoặc do cậu mình mà xảy ra việc này. Trong nhà có hai việc, song chẳng ai nói ra. Suốt đêm lo lắng, trằn trọc, nước mắt rơi lã chã. Đó chẳng phải là:
Nhà tù lạnh lẽo, ma quỷ hiện,
Mơ thấy đường về thăm thẳm xa.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 1 (B)
Kẻ Buôn Vải Minh Oan Cho Bạn
Tên Giết Người Vợ Khó Bao Che
Giữa lúc người đàn bà đang lo lắng, bỗng thấy có người điệu lên xét hỏi. Mấy hôm trong tù, lão mù như một con chó, mặt tái nhợt cắt không còn giọt máu. Người đàn bà thấy dữ nhiều lành ít không dám nói thẳng với chồng, nước mắt lưng tròng. Liếc nhìn người quỳ cạnh mình, nhận ra Phó Tứ Quan, người bán vải dạo nọ, thị giật mình, nhưng vẫn không biết duyên cớ gì. Chẳng lẽ số vải ấy là do hắn ăn cắp bán cho mình, bây giờ lại kiện vì bán rẻ chăng? Thịnghĩ bụng: "Thôi cứ để nhìn thấy vải hãy hay”.
Thẩm Công nói:
- Mụ kia, hãy khai rõ từ khi lớn lên và đi lấy chồng tới nay. - Con là Trâu Thị, - người đàn bà nói, - chồng trước chết, sau đó về làm dâu nhà họ Lý.
- Ngươi chủ mưu giết người, - Thẩm Công nói, - hãy khai ngay, bạc mua vải hãy còn đây.
Người đàn bà ấp úng, nói quanh co. Thẩm Công gọi người giúp việc kẹp mụ lại. Người đàn bà bị kẹp, vừa khóc vừa nói:
- Không phải con chủ mưu, từ nhỏ con được cha dạy bảo. - Nói bậy. - Thẩm Công nói.
Thế rồi ông lệnh kẹp chặt hơn, người đàn bà đau đớn, nói: - Không phải do con, mà là cậu con dạy con.
- Mày tham của, giết người chôn tại nhà, - Thẩm Công giận dữ nói. - Còn đổ tội bừa cho người thân thích, còn gì hãy nói mau.
- Bẩm quan, - mụ đàn bà nói, - cậu con và cha con không biết lấy bao nhiêu của, giết bao nhiêu nhân mạng. Xin quan hãy truy nã họ. Con chỉ là đàn bà, vì yêu quý người thân con mới làm như thế, xin ngài tha cho.
https://thuviensach.vn
- Cha ngươi là ai, - Thẩm Công hỏi.
- Cha con là Trâu Đoản Hồ, - người đàn bà nói, - là tướng cướp nổi tiếng. Cậu con là Vưu Bảo Quan cũng là kẻ cầm đầu một bọn cướp khác. Hai toán cướp này đêm đêm thường tụ tập thành một toán để đi cướp, trong đó còn có một số tên trộm vặt không biết cướp của giết người. Xin ngài hãy tháo kẹp ra con xin khai rõ ràng, tỉ mỉ.
Gã tù nhân mù, thấy vợ nói thế rất mừng, không kìm nổi, chỉ chửi thầm: - Đồ lừa dối xấu xa, nói in ít chứ, không khéo mà tuôn ra hết! Thẩm Công nói:
- Hãy nới kẹp ra.
Rồi ông quát lớn :
- Chỉ còn thiếu một người, ngươi còn giấu ta, hãy đánh chết nó đi ! Nói xong ông cầm bút viết. Người đàn bà nói:
- Con xin khai hết sự thật, chỉ mong ngài tha đánh. Thưa ngài, cha con tên là Trâu Đoàn Hồ, chuyên giết người. Năm nay cuộc sống khó khăn, giết được mười sáu người. Ngươi giết trước đó thì không sao tính xuể. Nay đã năm mươi tám tuổi, trú tại chiếc lều phía bắc làng Hương Bích. Bọn tay chân gồm có: Dương Lạp Lê, Hồ Hỏa chuyên cầm gậy đi đầu, vào nhà cướp bóc, được bao nhiêu họ chia đôi; Bì Họa Mi, giỏi đào tường khoét ngạch, trước tiên bắt trộm chó, rồi sau mới ra tay trộm của cải. Hắn luôn giả chết để đánh lừa người. Lục Cửu Bá, có sức khỏe nâng ngàn cân, chuyên đốt nhà, buôn bán phụ nữ. Đào Tiểu Ngữ biết bay lên hiên, vọt qua tường, ngày đêm chỉ uống rượu; Cường Tao Ôn chuyên tụ tập cướp bóc; Man Đầu Lục đánh người không để lại dấu vết; Lạn Thoái Đinh chuyên đi cướp vàng bạc, không để sống sót một người nào; Võng Câu Quỷ, chuyên thiêu người, đánh đai sắt vào đầu; Quang Đả Quang, vốn là một hòa thượng, giỏi leo thang dây; Miết Kỳ Tôn, chột mắt, giỏi khoét gạch; Du Ngũ, người đen xạm, giả vờ đi bán dầu, chuyên dò la tin tức, cũng cần phải bắt. Ngoài ra còn có một số tên trộm vặt như Thố Toán, Vương Tam chuyên cắt túi người đi đường. Chương Hà Quải chuyên bắt trộm gà. Lại còn có Chu Thư Phu, Lý Thân Gia, Hồ Lục Quan, Giả Biểu Thúc phần lớn là anh em với cậu con. Cậu còn có bốn năm người hầu lúc nào cũng bên
https://thuviensach.vn
cạnh như Tào Giả Ty, Kê Nhi Hoàng, Nồng Bão, A Dậu, Thúc Hỏa Đồng. Những người này rất giỏi, đêm đêm lần mò giết người cướp của, không biết bao nhiêu mà kể.
Thẩm Công ghi xong, đọc đi đọc lại, đối chiếu từng dòng, lấy bút đánh dấu từng tên một. Quả nhiên không sai một chữ. Rồi hỏi:
- Ngươi làm sao mà nhớ được những tên này?
- Từ hồi nhỏ, - mụ đàn bà nói, - con ởnhà. Những lúc rỗi rãi, thường cùng mẹ đếm chơi, không thể nào quên được.
Sau đó gọi A Long tới hỏi:
- Người khách họ Ngụy bị giết như thế nào?
- Con ở ngoài canh cửa, - A Long khai, - không biết họ giết chết thế nào, con có giúp họ đào hố chôn người.
Thếrồi Thẩm Công cho tay chân lột hết quần áo đánh mỗi đứa bốn mươi gậy, giam vào ngục. Kiểm kê toàn bộ gia sản của tên mù, giao toàn bộ cho Ngụy Quan Thọ.
Thẩm Công rút ra một tờ trát, đưa cho Tào Thăng. Ngày hôm sau dẫn khổ chủ Ngụy Quan Thọ đến nhà Lý Tâm Sở đào xác. Xác Ngụy Ngọc Phủ vẫn còn nhận được mặt. Phó Tứ Quan khóc rống lên, rồi mua quan tài khâm liệm, chôn cất cúng bái.
Thẩm Công thương Quan Thọ còn bé, không thể xa mẹ, nên không cưỡng ép nó. Phó Tứ Quan rửa nỗi oan ức cho bạn, được quan trên ban thưởng. Gã mù họ Lý, Trâu Thị bị kết tội. A Long còn ít tuổi, nghe theo lệnh chủ, nên được ThẩmCông tha tội. Mặt khác lại cho người báo cho Từ Lang Trung đến nhận thi thể Ô Tam. Những tên cướp mà Trâu Thịkhai ra, Thẩm Công sai tay chân chiếu theo danh sách bắt cho bằng hết, tra hỏi từng tên, rồi giải lên cấp trên. Thời ấy nạn trộm cắp bị quét sạch, dân chúng vô cùng cảm động. Có thơ rằng:
Nước an, lòng trời thuận.
https://thuviensach.vn
Quan tốt, dân không oan. Xin chớ làm điều ác. Hãy ngẩng nhìn trời xanh.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 2 (A)
Sa Nhĩ Trừng Vô Cớ Giết Người
Sương Tam Bát Quên Mình Vì Nghĩa
Mười năm mài lưỡi kiếm,
Kiếm sắc chưa dám thử.
Hôm nay hiến dâng ngài,
Diệt trừ bọn hung dữ.
Thật nực cười, con người ngày nay, cứ động một tí là nổi ùng lên như gió cuốn. Mượn tiếng công phẫn để gây ra biết bao tai họa. Lớn thì làm lung lay triều đình, bé thì làm nghiêng ngả xóm thôn. Sự công phẫn sao có thể đùa giỡn được. Ta cho rằng phẫn nộ mà không công bằng chỉ là dựa vào sức mạnh; công bằng mà không phẫn nộ thì có khác gì lũ đàn bà son phấn. Nếu như công phẫn chân chính, thì sẽ được nêu tên trong sử sách, đời đời ghi nhớ.
Khi biết người đời kiêu căng rởm,
Một khi gặp sự, gió nổi lên.
Hãy nhớ cho rằng, thân đáng quý,
Dạ sắt gan vàng tiếng ngàn thu.
Điều mà thiên hạ xưa nay vô cùng căm giận là bọn tiểu nhân thi hành công vụ, cậy quyền thế, tác oai tác quái, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết. Quả là gần lửa rát mặt. Luôn luôn có một bọn nịnh hót, bợ đỡ, đó chính là cáo mượn oai hùm. Bọn tiểu nhân này sát khí đằng đằng, không sao ngăn nổi, nếu là người chân chính thì phải thận trọng, giữ mình trong sạch, làm theo đạo lí. Tôi cũng không hùa theo thói đời, cũng không bới
https://thuviensach.vn
lông tìm vết. Chẳng hạn việc Dương Hóa muốn gặp Khổng Tử. Ngài Chu Văn đã chú thích rất hay: quân tử đối với tiểu nhân không ghét mà nghiêm khắc, e rằng ghét người quá đáng thì sẽ xảy ra việc bất ngờ. Nói thế có nghĩa là, ai muốn hài hòa thì đi theo cái hài hòa, ai muốn thanh cao thì tu dưỡng cái thanh cao. Rốt cục không thể nghe theo bọn tiểu nhân làm loạn thiên hạ. Khi lâm sự, thành đấng trượng phu oanh liệt, tỏ rõ chí khí nam nhi. Tuy nhiên, đây là việc vô cùng khó phụng sự cương thường, thực thi khí tiết, sao mà thực hiện rộng khắp thiên hạ được. Lợi hại không thể chuyển dời, sinh tử không làm lay động, coi thường cái chết, đem hết sức lực sống mái một phen. Huống hồ là bọn tiểu nhân bách tính không ra gì, cương thường khí tiết rất xa lạ với họ. Đúng là:
Chiến trường hết thảy đấng nam nhi,
Phút chốc trở thành người thiếu phụ.
Nói thì như thế, nhưng rốt cục ai mà chẳng có tính khí.
Vào năm Thiên Khải, Ngụy Yêm nổi loạn. Thếlực lớn mạnh khó mà chống lại. Những bậc quan lại, không những không ra sức cứu chính trừ tà, mà ngược lại còn làm tay sai cho chúng, bị người đời mai mỉa. Sau đó bị vạch tội, hạ bệ. Sáng oai nghiêm, vênh vang áo mão, chiều thì sĩ khí văn chương, tất cả đều biến mất. Văn võ, quan lại chủ chốt trong triều, phần đông đều vứt bỏ nhân cách, cúi đầu xin thương xót. Lúc ấy họ tạo ra chiếu chỉ giả, bọn hiệu úy(1) hoành hành ngang ngược. Kể cả quan phủ đương chức cũng bị chúng sát hại. Bọn mang danh sĩ phu bên dưới, lập tức gây sự khắp nơi, bôi nhọ thanh danh, khiến cho mọi người không lúc nào yên giấc.
(l) Hiệu úy: chức quan võ.
Một hôm mấy viên hiệu úy tới Tô Châu bắt người. Khi đọc chiếu chỉ của vua, quan chức ở đạo phủ, huyện nghiến răng căm giận, còn người xem đông nghịt. Quả thật:
Ban ngày chẳng làm việc gì xấu
https://thuviensach.vn
Nửa đêm gõ cửa cũng kinh hoàng.
Không ngờ đọc chiếu chỉ xong, gào thét truyền lệnh bắt người, thì lập tức có hai ba người đúng ra kêu oan cho người ấy. Quả thật đạo lí vẫn còn. Nghe tiếng kêu, những người hào kiệt xông ra. Lúc ấy trời đổ mưa, người thì cầm gạch, cầm guốc gỗ; kẻ thì dùng giày đinh đấm đá loạn xạ. Có người còn cầm cán ô, gậy gộc đánh túi bụi vào tên hiệu úy. Các quan chức phủ huyện thấy dân nổi loạn, kêu gào cốt để cứu sống bản quan, nên không dám ngăn cản. Chỉ thấy những người ấy:
Lông mày dựng ngược, người người liều mạng xông lên
Mắt mở trừng trừng, lớp lớp bỏ mình vì nghĩa.
Khác nào công chiến
Để trả thù riêng
Đấm rồi lại đấm, nhiều lúc đứt hơi không nghỉ
Đá rồi lại đá, tưởng đã chết rồi vẫn đá thêm.
Thương thay mấy tên hiệu úy, chưa đầy nửa giờ, xác nát như tương. Phủ quan hoảng sợ, lập tức vỗ yên trăm họ, chỉ bảo điều tra người cầm đầu, xử lí hậu quả, không được bắt bừa. Trong phủ quan có bao nhiêu kẻ chỉ vì thanh thế của Ngụy Yêm mà phút chốc đã biến thành chó săn cho hắn. Thấy dân nổi loạn, sợ rằng sấm chớp gió bão nổi lên, phút chốc xảy ra điều bất trắc. Thế mà những kẻ có "bầu máu nóng” ấy cũng không dám nói nửa lời. Huống hồ ngay cả mệnh lệnh của nhà vua, các quan cũng chỉ im lặng nhìn nhau, chẳng dám làm gì. Chỉ thấy trong đám hỗn loạn, có tiếng gào thét: "Tôi đánh chết đấy! Tôi đánh chết đấy". Sau đó có năm người rẽ đám đông bước vào, quỳ trước mặt phủ quan. Trong đó có một đứa con ở đầu tóc lở loét khoảng mười bốn mười lăm tuổi. Phủ quan nói rằng chỉ cần một người. Cả năm người đều phẫn nộ tranh nhau xin nhận cầm đầu. Tất cả đều trình hung khí và khẩu cung. Bọn Nhan Bội Vĩ lập tức khóa tay họ tống vào nhà tù. Viên hiệu úy mang chiếu chỉ, giữ chức trưởng quan một đạo, là bạn đồng khoa, thấy Chu Thuận Xương bị bắt giải về kinh cũng không dám ra
https://thuviensach.vn
mặt thương xót. Nhưng những người dân bình thường, chẳng có quan hệ gì với ông lại tỏ ra oai phong lẫm liệt. Ngay cả khi bị xử tội, họ vẫn cười nói tự nhiên. Sự việc ấy làm chấn động cả thiên hạ, làm cho biết bao đấng trượng phu mũ cao áo dài phải toát mồ hôi. Hành động cao cả như thế, vậy mà không ai dám cầm bút viết nửa chữ, để giành lại vinh quang cho họ. Quả thật là:
Quan cao không gánh việc cương thường
Phó mặc Tề dân một gánh mang.
Thời ấy Ngụy Yêm reo rắc tội ác, ai ai cũng ngấm ngầm nghiến răng căm giận. Sao họ không dám dũng cảm làm như thế. Vậy mà họ vẫn nói: "Nhìn thấy trái phải đảo điên, trắng đen lẫn lộn, một khi sôi máu, mắt nhìn bốc lửa, liều thân chẳng tiếc, làm nên kì tích lưu danh thiên cổ". Tới nay vẫn còn những chuyện mới lạ hiếm thấy. Đó là sau khi Ngụy Yêm chết được ba bốn năm. Từ trong cuộc chơi đùa bình thường, trong đống tro tàn lại cháy bùng lên một hòn than. Ai ngờ rằng trong đó còn có rất nhiều thay đổi âm thầm, nhiều nguyên nhân ngoắt ngoéo. Chẳng khác nào:
Gương cũ còn bám bụi,
Nhân tài chưa hiện ra
Ông già lau mòn kính,
Viết truyền ghi sử xanh.
Vua băng hà, Sùng Trinh lên ngôi hoàng đế. Lấp bằng chiếc hố chôn người đen ngòm vô duyên cớ trước đây. Trong triều ngoài nội cũng phải đội ơn Sùng Trinh. Một thời dân chúng sống yên lành, no đủ. Song chẳng biết vì sao, lụt lội hạn hán xảy ra liên tiếp, khiến dân chúng phải tha hương cầu thực, mười người chết chín. Một số người nhờ nghề mọn tài hèn, lang thang khắp nơi, mới kiếm được miếng ăn. Đúng là:
Không trải đời cay đắng
https://thuviensach.vn
Sao kiếm được miếng ăn.
Chuyện kể rằng trong thành Nam Kinh có một vị Thái học, tên là Tưởng Hữu Quân, hiệu là Kỳ Tu. Hơn ba mươi tuổi, có đứa con trai lên mười. Ông nội Kỳ Tu đỗ giáp khoa. Anh em trong họ cũng nhiều người đỗ đạt. Theo lệ cũ, anh em muốn ông phải tiến lên theo con đường ngắn nhất, để giảm được những kì thi lặt vặt. Hơn nữa ông vốn thông minh đĩnh ngộ, lại chịu khó học tập, hai chữ khoa bảng luôn luôn khắc sâu trong trái tim ông. Song chỉ vì việc nhà bề bộn, lại giữ chức lí trưởng, giao tiếp nhiều, nhất là hằng năm vào dịp thuế khóa và sai dịch, buộc ông phải làm tròn trách nhiệm. Việc học hành tất phải thiệt thòi. Bởi thế công không thành, danh không toại, ông thường ngao du khắp đó đây, kết thân với những người có chí khí khác thường. Thuở còn để chỏm đi học, ông kết nghĩa anh em với Sa Nguyên, tự là Nhĩ Trừng. Ông tổ của Nhĩ Trừng là người Hồi Giáo. Cha là Sa Tượng Khôn, một tấm gương mẫu mực trong làng, làm trọn bổn phận, hết lòng theo đạo. Lúc nhỏ, Nhĩ Trừng học với Kỳ Tu, hai người cùng chí hướng, chung đèn sách. Thế là:
Vùi đầu kinh sử ba năm chẵn,
Chẳng thấy ai cầm gậy thanh lê(1)
(1) Thanh lê: gậy làm bằng cây thanh lê. Tương truyền Lưu Hướng đời Hán một hôm đang đêm thấy một cụ già mặc áo vàng, chống gậy thanh lê bước vào. Cụ thổi cho chiếc gậy bùng cháy, rồi truyền cho Lưu Hướng một học thuyết sâu sắc. Xem Từ điển điển cố, NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2002.
Kỳ Tu vì duyên nợ ràng buộc, không được tận hưởng thú giao du. Nhĩ Trừng không đạt được sự nghiệp văn chương, một thân một mình lưu lạc bôn ba khắp nơi, được Tu Kỳ đón về nhà. Đã ba mươi tuổi, không được vào trường Thái học, cảnh nhà khó khăn, Nhĩ trừng cảm thấy xấu hổ, muốn bỏ đi, nhưng Kỳ Tu cứ giữ lại, dứt ra không được. Nhĩ Trừng mắc chứng bệnh bẩm sinh là tính hiệp sĩ, chẳng chú ý đến ăn mặc. Mỗi khi gặp kẻ cậy thế
https://thuviensach.vn
coi thường, đè nén người lương thiện, không tiếc thân mình, bất bình nổi giận. Ngay cả khi đọc những chuyện oan ức trong sử sách, bèn đập bàn đứng dậy. Oán hận đến mức bán hết ruộng vườn, ngửa mặt cả cười, uống rượu giải sầu thoải mái hát ca. Thằng nhỏ hầu hạ bảo anh là con mọt sách mất trí, khó mà thay đổi được tính tình. Gia chủ lại đối đãi rất chu đáo. Bởi thế Nhĩ Trừng hạch sách đủ điều, chẳng khác gì hô gió gọi mây, không dám mảy may sai trái.
Đúng là:
Trong nhà luôn chìu chuộng
Ngoài hiên vẫn ân cần.
Năm gian lầu chứa sách tại vườn sau nhà họ Tưởng, tầng trên tầng dưới có hàng vạn ống tăm ngà, hàng ngàn hộp đựng sách bằng gấm, màu đã ngả vàng. Ngoài việc đọc sách, họ còn đọc báo nói về thời sự hàng ngày trong triều. Chiều chiều, Kỳ Tu thân thiết uống chút rượu với Nhĩ Trừng, nghe anh nói về thời cuộc.
Thời ấy đang là thời của Ngụy Yêm. Trong ngoài triều đình, Ngụy Yêm đã gây ra biết bao tội ác. Mười tờ báo thì có chín tờ đăng tin xử tội quan thanh liêm, tra khảo các danh sĩ. Khi nói chuyện với Kỳ Tu, không phải chỉ một lần Nhĩ Trừng nghiến răng căm giận, uất ức trào lên tận cổ. Song thời ấy, thói đời xu nịnh, nói năng phải giữ mồm giữ miệng, nếu không dễ bị tai bay vạ gió. Huống hồ nhà họ Tưởng có mấy mạng người làm sao mà không sợ. Hơn nữa thành Nam Kinh, lính của phủ quan tuần tra giăng lưới bắt người dày đặc. Kỳ Tu là một chàng trai có chí khí nên chuyện trò rất hợp nhau. Sợ rằng Nhĩ Trừng không chịu nổi sẽ gây chuyện rắc rối, nên người nhà bảo Kỳ Tu đuổi Nhĩ Trừng ra khỏi nhà để tránh tai họa, song Kỳ Tu không nghe. Ngày tháng thoi đưa như bóng câu qua cửa. Hy Miếu băng hà, Nghị Tông lên ngôi. Bọn Ngụy Yêm ác độc sụp đổ. Khi ấy, Nhĩ Trừng như người nối dõi đứng ra báo thù nhà, nhảy lên gào thét điên cuồng, mừng vui khôn tả. Bỗng một hôm, Nhĩ Trừng nói với Kỳ Tu:
https://thuviensach.vn
- Trước đây chông gai khắp bốn phương bậc chí sĩ đóng cửa ở nhà. Nay đã tạm yên, tôi muốn thả sức rong chơi, giải tỏa nỗi u uất trong lòng. - Được đấy, được đấy! - Kỳ Tu nói.
Trước đây, nhà họ Tưởng muốn đuổi anh đi, chỉ riêng có Kỳ Tu không muốn. Bởi Nhĩ Trừng là người nóng tính, hay nổi giận, không kìm được uất ức. Sợ anh ra đi không đúng lúc tính mạng khó bảo toàn. Nay đã khác trước, bởi thế nghe Nhĩ Trừng nói, Kỳ Tu bằng lòng ngay.
Kỳ Tu nói:
- Tôi có một người bác họ, tên là Trương Tuyết Nga, tên húy là Hằng Giả. Hiện đang giữ chức Binh bộ Phương ty. Năm nay tôi phải đến huyện Thượng Nguyên nộp thuế. Tiện đường sẽ ghé vào thăm ông, nhờ ông giúp đỡ. Nếu anh muốn đi với tôi thì càng tốt. Song đi lần này phải có lễ vật quý hiếm. Ở Đông Tây kinh người ta rất ưa thích những vật phẩm sản xuất tại Bình Hồ. Vậy phiền anh tới đó mua giúp tôi ít quà tặng. Mọi việc đã có người làm thay, anh hoàn toàn không phải vất vả gì.
Nhĩ Trừng bằng lòng ngay. Kỳ Tu bèn giao cho nhĩ Trừng bản ghi những thứ cần mua sắm, đó là vải, bút Hồ và một trăm tám mươi lạng bạc. Ngoài ra còn đưa cho anh hai mươi lạng làm tiền lộ phí, và một số giày làm quà tặng. Rồi Kỳ Tu nói:
- Anh hãy tới thôn Trung Minh, huyện Đức Thanh, phủ Hồ Nam, hỏi thăm tới nhà Thái Bình Tuyền. Thái Bình Tuyền là người thường xuyên trông coi lương thực của nhà tôi, hãy nhờ ông ấy lo liệu, xong việc rồi cùng về một thể. Tôi muốn nhờ ông ấy áp tải hàng hóa. Mùa đông năm ngoái, tôi đã gửi thư hẹn ông ấy rồi.
Dặn dò xong, hai người uống mấy chén rượu chia tay. Tưởng Kỳ Tu bảo Nhĩ Trừng:
- Tính anh ngang tàng, lại không chú ý ăn mặc. Chất lượng bạc không biết phân biệt rõ ràng, sợ gặp kẻ xấu anh không kìm nổi, nên tôi khuyên anh nên cố gắng kìm nén. Tôi chờ anh về, rồi cùng đi. Tháng giêng năm thứ hai đã sắp hết rồi.
https://thuviensach.vn
Nhĩ Trừng vâng dạ, tỏ ra là người chín chắn, đến thẳng Thủy Tây Môn, xuống thuyền đi Hồ Châu. Phong cảnh trên đường thật là:
Gió xuân lành lạnh cỏ mướt xanh,
Tiếng trống tàn đêm đã điểm canh
Chân trời du khách tràn thi hứng,
Cầu uốn qua sông núi chập chùng
Thôn Bách Ma gần huyện Thượng Ngu, phủ Thiệu Hưng Triết Giang, có người tên thường gọi là Sương Tam Bát, tên thật là Cát Kiệm. Trước đây làm Vệ quân Kim Sơn. Cha là thầy giáo trường tư thục, do đó Tam Bát cũng biết chữ. Năm hai mươi tuổi học được nghề khâu giày. Thấy việc gì bất bình, anh không tiếc thân mình ra tay cứu giúp. Vào năm Sùng Trinh thứ nhất, Thượng Ngu đại hạn, mùa màng mất trắng, cháo cũng không có mà ăn. Tam Bát một thân một mình, may nhờ vào nghề này cũng kiếm được bữa no bữa đói. Anh tính rằng: "Ôm lấy mảnh đất này, quả thực cũng chẳng hay ho gì. Nay cả vùng mất mùa, mọi người cháo cũng không có ăn, mà đã đói thì đầu gối phải bò". Thếrồi Tam Bát vội vàng thu xếp hành lí, phần lớn là đồ nghề dùng để kiếm cơm. Anh nghĩ, bến cảng thành Hàng Châu rất cần người, ta hãy đến đó. Rồi anh quẩy hành lí đáp thuyền đến Tiêu Sơn.
Bến Tây Hưng thuyền ta lướt sóng,
Theo dòng sông chở đến tỉnh thành,
Mất mùa đói kém đi quẩn quanh.
Gia tài một quẩy thật đáng thương.
Ai ơi chớ hỏi nhà đâu tá,
Nghề mọn một thân khó đổi dời.
Góp được mấy đồng, Tam Bát lên thuyền, khi đó đã là cuối đông. Ngày mồng hai thuyền tới Hàng Châu. Đây là nơi đô hội, hiệu giày nhiều vô kể, mà Tam Bát lại chỉ có ít mảnh da vụn. Len lỏi qua nhiều phố xá, nhà nào cũng thấy người lớn trẻ con, kẻ giày vải, người giày lụa, đều còn rất mới.
https://thuviensach.vn
Tam Bát bực mình vì nghề vá giày của anh đã lỗi thời và chính mình cũng không biết thời thế, chân rát bỏng vội vã rảo bước. Ngày mồng năm tháng giêng, Tam Bát tới thành Hàng Châu. Chỉ mong ai cũng đi chân đất đứng chờ anh thợ da tới. Anh gánh hành lí tới nhà Phùng Tước Khê phố Kim Chất, bên cạnh cầu Thuần Hựu. Lão Phùng là đồng hương, lại là người thân quen. Anh đặt gánh xuống tán gẫu mấy câu, rồi sắp xếp lại mấy thứ đồ nghề, chuẩn bị đi tiếp.
Phố Tân Chính không có một anh thợ da nào, Tam Bát mừng thầm, kẽo kẹt gánh hàng rảo bước, và cuối cùng cũng có hai người thuê anh vá giày. Tam Bát kiếm được mười hai đồng, bụng nghĩ thầm: "Có lẽ mình chưa cúng". Chẳng nghĩ ngợi gì, anh bước thấp bước cao, ngẩng đầu lên đã thấy một ngôi miếu thờ Ngũ Thánh, mọi người đang lũ lượt tới dâng hương. Tam Bát đặt gánh hàng xuống bày lễ thắp hương, hỏi xem việc làm ăn trước mắt thế nào. Anh lắc ống thẻ tới ba lần, vẫn là quẻ âm; thơ trong quẻ như sau:
Giang hồ, nghe tiếng chuông,
Vất vả vẫn hoàn không.
Gặp nhau ngoài ý muốn,
Có cuối chẳng có đầu.
Anh ra về, cứ ngẫm nghĩ về quẻ thẻ ấy, đại khái là cũng có chút hi vọng. Trời tối, anh quẩy hàng về, những người hàng thịt bên cầu Thuần Hựu giày rách nát nhờ anh khâu. Đặt gánh xuống, thấy họ là những người nhà quê, vùng Hạ Chung Minh, huyện Đức Thanh, Hồ Châu, Tam Bát thân mật hỏi: - Nhà bác có đông người không? Bác làm nghề này có đủ ăn không?
Thấy Tam Bát ăn nói dễ nghe, người khách đáp:
- Cũng chẳng ăn thua gì. Mùa xuân năm ngoái mưa nhiều, mùa màng thất bát. Nhà nào cũng túng thiếu, ai có nghề phụ đều bỏ nhà đi làm ăn xa. Vụ đông năm ngoái lúa mùa bội thu, bước sang tháng giêng vẫn còn nhàn hạ, nhà nào cũng muốn khâu giày. Ngày ngày bận rộn việc làm ăn, khi nào đóng cửa buồng tằm mới được nghỉ ngơi.
https://thuviensach.vn
Tam Bát đọc lại bốn câu thơ trong quẻ thẻ, lại thấy trong đó có hai chữ "chung minh”. Rồi anh quyết định đến Chung Minh làm ăn. Tam Bát hỏi thăm đường đi, rồi hỏi họ tên, địa chỉ người khách hàng, mong anh giúp đỡ. Người khách ấy vui vẻ nhận lời. Khâu xong giày, Tam Bát không lấy tiền công.
Đúng là:
Long đong chân trời khách,
Thương nhau kiếp bọt bèo.
Người hàng thịt họ Mục tên là Kính Huyên. Vì thương Tam Bát, nên anh vui vẻ rủ Tam Bát cùng về. Anh nói:
- Đi thuyền rất tiện, ngày mồng tám ta cùng về nhé!
Hai người đi thuyền về tới Chung Minh, Tam Bát tạm ở nhờ nhà Kính Huyên. Sáng sớm đi làm, tối mịt mới về. Công việc bề bộn, đến cơm trưa cũng chẳng kịp ăn.
Lại nói tới Sa Nhĩ Trừng, khởi hành từ Nam Kinh, đi mất chín ngày mới tới Chung Minh. Làng này không lớn lắm, nhân dân đều trồng dâu, gai. Chỉ thấy:
Bờ ruộng quanh co,
Sông ngòi lượn khúc,
Tre trúc uốn cong, mái tranh thấp thoáng,
Đậu mạch trổ hoa, trắng xóa cánh cò,
Lão ông phưỡn bụng, miệng lẩm nhẩm, lượng mưa tính nắng. Lão bà tóc rối, tay bận rộn kéo kén chăn tằm.
Giống như canh Võng Xuyên, dâu đồng rợp bóng,
Chẳng khác suối Đào Hoa, tùng bách chen nhau.
Mây gió nơi đây, khiến Tiêu Lý cũng phải ngẩn ngơ
Ánh chiều bến cũ, đến Đại Si thôi đành gác bút.
Nhĩ Trừng tay xách hành lí, đưa mắt nhìn phong cảnh làng quê mang dáng
https://thuviensach.vn
dấp cổ xưa. Anh chợt thấy một ngôi chùa nhỏ, trên đề bốn chữ “Bạn nhược thượng nhân!", xung quanh thanh u tĩnh mịch. Nhĩ Trừng đừng lại nghỉ chân, một vị sư gầy đét xanh xao bước ra. Nhĩ Trừng hỏi: - Thưa thầy, thầy có biết đường về nhà ngài Thái Bình Tuyền không? - Biết, - sư cụ nói, - thí chủ của bản tự hằng năm thường tới Nam Kinh, trú tại Cảng Tây, bảo rằng sau khi lễ Phật xong cũng tới đó.
Nghe thấy vậy, Nhĩ Trừng bèn gửi tạm hành lí tại chùa, chỉ lấy ra một phong thư và hai đôi giày, đi tìm lão Thái.
Sa Nhĩ trừng quả là một gã hồ đồ. Anh ta để hết hành lí và tiền bạc tại chùa, rồi một mình ra đi. Cũng may anh ăn mặc xuề xoà nên chẳng ai để ý. Chỉ thấy anh:
Khăn thì đen nhẻm, áo nát như dua,
Tất xỏ tả tơi
Giày đi há mõm,
Râu vểnh vàng khè, tâm sự trong lòng chất chứa
Giương đôi mắt trắng, cô đơn cất bước mặc ai.
Thấy anh lấy ra hai đôi giày sản vật địa phương đến tặng chủ nhà, vị sư già đoán rằng đây là một thầy đồ. Sa Nhĩ Trừng hỏi thăm đến nhà họ Thái, mang thư và giày đến. Một lúc lâu thấy một bà già đi ra nói: - Ông là người từ chỗ Tưởng tướng công đến, xin mời ông ở lại xơi bữa cơmthường, ông hãy đưa hành lí vào đây.
- Ngài Bình Tuyền có nhà không?
- Mùa đông năm ngoái, - bà lão nói, - Tưởng tướng công gửi thư mời, đến mười tám tháng giêng này sẽ đi, hôm nay, ngài đến dinh quan huyện họ Lí thúc thuế, ngày mai mới về.
- Nếu thế thì ngày mai tôi sẽ lại. - Nhĩ Trừng nói.
- Anh trở lại chùa, thấy vị sư già ra chào, anh nói rõ họ tên. Nhĩ Trừng nghĩ: “Mình lạ lẫm, không quen đường, trời lại sắp tối đành phải nghỉ tạm ở đây". Rồi anh nói với vị sư già xin ở nhờ. Vị sư già tuy sống ở thôn quê, song vẫn có thói khinh người. Thấy Sa Nhĩ Trừng sống có vẻ bừa bãi,
https://thuviensach.vn
không muốn cho ở, bèn đọc cho anh nghe tờ trát của quan trên ra lệnh không cho phép chùa chiền chứa chấp người lạ mặt khả nghi. Song lại ngại Thái Bình Tuyền là thí chủ của bản tự, hơn nữa anh lại nói rằng anh không ở lâu, nên đành miễn cưỡng nhận lời.
Hằng năm vào ngày mười bốn tháng hai là ngày sinh nhật Thành Hoàng huyện Đức Thanh. Các làng thu tiền gạo, hoặc để cúng Phật hoặc diễn kịch góp vui. Vùng Hạ Chung Minh có mười hai đội kịch, đều diễn tại sân khấu trước miếu thổ thần, cao không đầy bốn thước. Khu đất trống xung quanh miếu đều dựng lều quán, hoặc đặt ghế, trải chiếu cho khách tới xem, thưởng trà uống rượu. Nhĩ Trừng nghỉ trong chùa, sáng dậy vội vàng đến nhà họ Thái xin thư, thấy mọi người đang dọn dẹp, biết đây là tục lệ làng quê.
Tới nhà họ Thái, vẫn thấy bà lão hôm qua bước ra chào, nói: - Đêm qua quan lớn về, đã đọc thư. Song thóc lúa trong huyện hẹn đến ngày mười lăm mới chuyển xuống thuyền. Việc nói trong thư của tướng công đến ngày hai mươi ngài mới làm được. Xin tướng công hãy lưu lại đây. Còn đây là lá thư của ngài Thái Bình Tuyền gửi cho ông. Trong thư viết:
Kính gửi ông Nhĩ Trừng,
Hai đôi giày tôi đã nhận đủ, nếu có loại to mua thêm một đôi, tôi sẽ gửi tiền trả ông chu tất, xin báo để ông biết. Cảm ơn ông.
(Không đề tên)
Xem xong thư, Nhĩ Trừng rất buồn cười. Việc chính khôngthấy ông ta nhắc tới, chỉ viết mua thêm một đôi giày. Các bạnạ, ở nông thôn thật hiếm có người tài. Người đọc thông viết thạo như ông Thái có là bao. Trong thư Kỳ Tu gửi cho ông, nói Sa Nhĩ Trừng tới Hồ mua sắm hàng, không biết vì cớ gì ông không nhắc tới chuyện ấy, chỉ viết lèo tèo có mấy chữ, ngay cả tên mình cũng quên không ghi. Hơn nữa người nhà thấy thế cũng không hỏi,
https://thuviensach.vn
ngay cả bà già cũng chỉ nhìn thấy chiếc khăn bẹp của Nhĩ Trừng, rồi gọi là tướng công. Nhĩ Trừng nói:
- Quan đang bận việc, thì ngày hai mươi tôi sẽ đến.
Bà già cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Nhĩ Trừng cầm thư đi ngay. Anh nghĩ "Không có việc gì, chi bằng đến chen lấn vào đám đông xem diễn kịch". Tới nơi, thấy già trẻ, gái trai, nam thanh nữ tú đông nghịt, cảnh tượng chẳng khác nào:
Lũ kiến tha xương cá, ruồi xanh bâu bọc mủ
Bọn thần chết xuất đầu lộ diện
Quỷ đen đầu múa mép khua môi
Mặt hoa da phấn, lướt thuyền hái hoa sen
Hàm râu tua tủa, trùm vai che lá cọ
Lung gù, như vượn cõng con
Bụng ôm, như Bà La bế cháu.
Thấy vẫn còn sớm, Nhĩ Trừng trở về chùa, lấy ra năm đồng và một ít tiền lẻ gói lại đưa cho vị sư già nói:
- Tôi còn ở đây, phiền nhà chùa ba bốn hôm nữa, xin giao trước cho nhà chùa chút tiền ăn, mong cụ nhận cho, xin cảm ơn cụ.
- Xin ông đừng bận tâm. - Nhà sư cười nói.
Vị sư già cầm tiền, đếm cẩn thận rồi xuống bếp lo cơm nước. Một lúc sau bưng lên sáu bát thức ăn chay ngon lành. Nhĩ Trừng cảm thấy hơi sốt ruột, muốn ăn sớm để đi chơi. Hòa Thượng quá nhiệt tình, cứ mời Nhĩ Trừng ăn thêm, cơm nước xong thì mặt trời đã ngả chiều. Nhĩ Trừng từ biệt vị sư già ra khỏi chùa. Chưa tới miếu thổ thần, đã nghe thấy tiếng trống, tiếng thanh la inh ỏi. Đêm diễn đã được ba màn kịch nói về Ngụy Thái Giám, đây là vở Phi long kí. Người đóng vai Ngụy Giám là một nghệ nhân xuất sắc, tên là Thu Tam. Sa Nhĩ Trừng tới nơi thì người xem đông nghịt. Lượn quanh một vòng, chỗ nào người ngồi cũng chật ních, chỉ thấy bên cạnh anh khâu giày có một chỗ trống, bởi anh dọn hàng khâu giày ở đó nên người ta đã chừa ra cho anh một ít. Sa Nhĩ Trừng thấy đang diễn tới chỗ Dương Liên, Ngụy
https://thuviensach.vn
Yêm, Khách Thịlần lượt chuẩn bị xử án. Tam Bát cũng chẳng ngó ngàng tới, vừa khâu giày, anh vừa làu bàu chửi. Nghe thấy Ngụy Giám ra sân khấu, nói the thé tiếng đàn bà, anh bèn buột miệng chửi: "Giết mẹ nó đi loại ấy chẳng tốt đâu!". Sa Nhĩ Trừng vẫn tiếp tục xem, vốn đã tức sẵn, anh tự nhiên nổi giận. Đang lúc uất ức, lại thấy anh thợ khâu giày phẫn nộ, Nhĩ Trừng cảm phục anh là người can trường. Không ngờ thấy sân khấu, Ngụy Giám sợ rằng các quan Dương, Tả, Chu, Ngụy không cung khai nhận tội, hắn bảo bọn tay chân dùng kiểu đánh đập tàn khốc mà chúng gọi là "Năm bông hoa lớn". Đó là:
Rồng vàng uốn khúc, là con rắn đồng cuốn vào người tưới dầu sôi đốt. Thiện Tài cúng Quan âm, là trói chặt hai tay rồi dội hắc ín sôi vào hai bàn tay.
Đánh gẫy trâm ngọc, là dùng chùy sắt đập gẫy răng, làm cho phạm nhân nói phều phào.
Dây tương tư, là dùng thép nhọn xuyên qua xương bả vai. Cùng một lưỡi dao, là dùng chiếc chàng sắt rộng bản và sắc, cùng một lúc chặt đứt năm ngón chân.
Trên sân khấu chỉ thấy người đóng vai Ngụy Giám, vạch trời chỉ đất, dáng vẻ tàn ác. Sa Nhĩ Trừng nhìn thấy cảnh ấy, máu sôi lên, nghiến răng nghiến lợi, quát tháo: "Không thể chịu được!" Rồi anh lấy con dao của anh thợ khâu giày xông lên sân khấu, đè Ngụy Giám xuống cắt đầu, máu phọt ra, đầu lìa khỏi cổ. Những người diễn kịch thấy tên hung thủ nhảy lên giết người, chạy ùa vào buồng hóa trang ẩn nấp, còn người xem không biết cơ sự gì đã xảy ra. Tất cả đều dẫm đạp lên nhau, kêu khóc bỏ chạy. Sợ mất dao, Tam Bát vội vã nhảy lên sân khấu tìm, tay cầm dao mà vẫn không nhìn thấy xác chết. Sa Nhĩ Trừng lẳng lặng vứt dao, nhảy khỏi sân khấu, trà trộn vào đám đông, gào thét rồi chạy thục mạng. Chỉ còn mấy ông già không sợ xúm lại, quát to: "Không được chạy lung tung, hãy tìm bắt ngay tên hung thủ”. Tức khắc bảy tám người xông lên, thấy Sương Tam Bát đang cầm dao, đứng trơ lại đó than vãn: "Anh ấy giết người nhanh như chớp”. Mọi
https://thuviensach.vn
người vây lấy anh nói:
- Không phải tìm nữa, hung thủ đây rồi?
Chính lúc mọi người sợ anh hành hung, nên những người đứng sau anh dùng thừng trói chặt lại. Tam Bát vẫn cứ bình thảng như thường, đến khi mọi người túm vào đấm đá hỏi: ”Vì sao lại giết người?", thì lúc ấy Tam Bát mới ngớ người ra.
Mọi người quây lấy hỏi:
- Anh ấy với mày có oán thù gì, mà mày lại giết anh ấy?
Rồi đội kịch lôi Tam Bát đến chỗ xác chết, vừa đánh chửi, vừa hỏi tên. Anh không nói. Người ta chỉ nhặt được mẩu giấy trong đó viết:
Kính gửi ông Nhĩ Trừng,
Hai đôi giày tôi đã nhận đủ, nếu có loại to mua thêm một đôi, tôi sẽ gửi tiền trả ông chu tất, xin báo để ông biết. Cảm ơn ông.
(Không đề tên)
Mọi người thấy thế nói:
- Đây là tang vật của kẻ sát nhân! Trong đó nói tới giày, chẳng phải liên quan đến nghề của nó ư? Thếra tên nó là Sa Nhĩ Trừng.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 2 (B)
Tam Bát thấy mọi người hỏi họ tên, khăng khăng không nói. Đến khi thấy họ ghép cho mình là Sa Nhĩ Trừng, anh mới khai là Sương Tam Bát. Mọi người cũng không biết phân giải thế nào, đành giải lên quan. Khi bỏ con dao đẫm máu vào gánh đồ nghề, người ta thấy một gói lá sen, mở ra thì trong đó là thịt trâu. Mọi người kêu ầm lên, không cần phải hỏi nữa, đúng là nó giết người rồi. Lá thư bên cạnh xác chết nói tới việc mua giày thì chưa chắc là của người khâu giày. Nhưng Sa là họ người Hồi, trong gánh lại có thịt trâu mà người Hồi thường ăn. Con dao cắt da còn đẫm máu trên tay. Thếthì đây đích thị là hung thủ, không còn nghi ngờ gì nữa.
Ngay đêm ấy, người ta giải Tam Bát và gánh đồ nghề lên huyện. Trình lên quan rằng đã bắt được tên Sa Nhĩ Trừng (Sương Tam Bát) giết người. Còn hai nhà Thái Bình Tuyền và Mục Kính Huyên thì trốn biệt tăm. Sa Nhĩ Trừng chạy như bay về chùa mới hoàn hồn. Anh thấy việc kì lạ ấy như một giấc mộng. Anh nhớ rõ hình ảnh người thợ giày cầm dao, nhưng mình thì chạy thoát. Không biết sau đó người ta nhặt được bức thư, tìm thấy thịt trâu, và khai tên là Sương Tam Bát, không chịu nhận là Sa Nhĩ trừng. Anh tự nghĩ rằng: "Giết người là trọng tội. Mình lại là người giết người. Hơn nữa nhà họ Thái lại biết mình họ Sa, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, thì chạy trốn là tốt nhất". Rồi anh nói với nhà chùa rằng:
- Tôi đã gặp nhà họ Thái rồi, xin cảm ơn nhà chùa, tôi về.
Nhà chùa rất buồn. Sa Nhĩ Trừng lủi ra bến đò, lên thuyền. Sợ liên lụy đến Tưởng Kỳ Tu, nên không về Nam Kinh. Anh lo lắng, cuối cùng đổi thành họ Hải, tự là X.X. trốn tới Trường An. Thật là:
Cá thoát khỏi lưỡi câu
https://thuviensach.vn
Vẫy đuôi không trở lại
Lại nói về đoàn người Hạ Chung Minh, tới huyện thì trời đã tối nhưng vẫn đánh trống bẩm quan. Quan huyện nghe thấy, không hỏi han gì, tống giam tất cả, chờ xét xử sau. Ngay đêm ấy ra lệnh cho làng chôn cất thi thể. Hôm sau cho Sương Tam Bát và những người địa phương lên công đường hầu tòa. Mọi người khai rõ đầu đuôi.
Quan tòa là Sầm Đài, tên khắc trên dấu là Đức Thanh. Xuất thân tư cống sinh, người huyện Tự Phố, phủ Thần Châu, Hồ Quảng. Vì yêu mến sông núi Tây Hồ, nên đã dốc tiền của học hành. Ông gần bốn mươi tuổi, thông thạo việc quan. Ông là người xét xử vụ án. Nghe người cung khai sự việc xảy ra, ông lạnh lùng nhìn Sương Tam Bát. Thấy Sương Tam Bát khi thì mỉm cười đắc ý, khi thì phẫn nộ bất bình. Tri huyện Sầm nghĩ rằng đây là một người thế tội cho hiệp khách. Nhưng vì sao lại giết một diễn viên, thật là khó hiểu. Lại càng không hiểu được vì thù hận Ngụy Giám mà đi giết người đóng giả Ngụy Giám. Đến khi gọi tên Sa Nhĩ Trừng thì Tam Bát lại chẳng nói chẳng rằng. Quan huyện hỏi mọi người:
- Có phải hung thủ này câm không?
Chỉ thấy mọi người nhao nhao nói, huyện đường ồn ào như vỡ chợ, không nghe rõ họ nói gì. Tri huyện Sầm thét lên:
- Án giết người phải tôn trọng sự thật, lấy cung xong sẽ xử theo luật pháp, không thể thiếu đối phương, chỉ cần một người địa phương có hiểu biết lên khai.
Mọi người thấy vậy co vòi lại, phủ đường phút chốc im phăng phắc. Sau đó Sương Tam Bát bình thản đáp:
- Tên con là Sương Tam Bát.
Quan huyện giật mình. Trước tiên Sương Tam Bát nói quê quán lai lịch, sau đó bẩm:
- Quê con mất mùa, đến Hàng Châu, rồi lại tới Hồ Châu kiếm sống. Hôm ấy con ngồi khâu giày bên sân khấu, người khác giết, con đi lấy lại dao. Nếu như đổ cho con giết người, thì con cũng là người căm ghét Ngụy Giám, anh ta giết cũng như con giết. Nếu đổ cho con là người Hồi Sa Nhĩ
https://thuviensach.vn
Trừng thì con có chết cũng không nhận. Con sao có thể xứng đáng chịu tội và con cũng không thể mang danh một người để nhận lấy một việc làm tốt đẹp, chỉ vì bất bình mà giết gian tặc. Tri huyện nghe xong trợn mắt nhìn Tam Bát, ông nghĩ: "Thiên hạ xưa nay chưa có người nào thật thà, rành mạch như thế". Rồi ông gọi người đứng đầu đội kịch lên khai báo. Tỉ Luật Lũng khai:
- Xét thấy Sa Nhĩ Trừng tức là Sương Tam Bát đã có mối thù với diễn viên Thu Tam từ trước. Đúng lúc Thu Tam biểu diễn, hắn đã giả làm người khâu giày, rồi dùng dao giết Thu Tam. Thật đau đớn thay! Bị bất ngờ Thu Tam không chống cự nổi nên chỉ phân trần, đến nỗi những người xung quanh không cứu được Còn vì sao hai bên thù nhau thì không ai biết được. Trước huyện đường thẩm vấn, thì Sa Bát nói rằng, đã có mối thù từ lâu với Ngụy Yêm, do phẫn nộ mà giết thì quả là vụ án có thể có(1). Hắn khai quanh co, lẩn trốn đến cùng, đúng là đùa giỡn với mạng người. Bản huyện nên căn cứ vào năm chứng cứ mà địa phương nhìn thấy sau đây: hung khí giết người là con dao đóng giày; tờ giấy rơi bên cạnh thi thể là kích thước giày; tên người nhận thư là Sa Nhĩ Trừng, họ Sa không phải là họ của người Hoa mà là họ của người Hồi. Hơn nữa lúc ấy hắn đang cầm con dao còn dính máu! Cho nên Sương Tam Bát đích xác là tên lúc nhỏ của Sa Nhĩ Trừng, là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
(1) Triều Tống chống Kim, danh tướng Nhạc Phi bị hạ ngục do Tần Cối vu cáo. Hàn Thế Trung phẫn uất vặn hỏi, Tần Cối nói: việc Nhạc Phi làm phản e rằng có thể có. Xem Từ điển điển cố Trung Hoa, NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2002.
Tam Bát cung khai từng ở trong quân ngũ, theo luật Vệ quân phải tử hình, theo lệ của quân lính hãy tống giam chờ quyết định sau.
Ngay tại công đường, quan huyện xem xét lại hồ sơ thẩm vấn. Sau đó gọi các làng lại dặn dò, cấm từ nay về sau không được diễn kịch, làm phiền nhiễu dân chúng. Mọi người ra về.
https://thuviensach.vn
Lại nói Thái Bình Tuyền đến nhà họ Tưởng, Kỳ Tu mới biết Nhĩ Trừng không gặp Thái Bình Tuyền: Kỳ Tu bực tức tới huyện Thượng Nguyên xin được chuyển đổi lương thực thành bạc và chỉ cần một người giúp việc áp tải bao bạc đến Thiên Tân giao nộp. Kỳ Tu đuổi Bình Tuyền đi, ở nhà chờ Nhĩ Trừng. Ai ngờ qua tết Đoan Ngọ mà vẫn không nhận được thư. Không thể kiên nhẫn chờ đợi được nữa, Kỳ Tu thấy cô đơn buồn tẻ, nên đã cùng bạn bè mang hơn năm trăm tấm lụa tới kinh đô bán, lại mang thêm hai ngàn lạng bạc, vàng và hạt châu khâu vào chiếc mũ da cũ đựng trong chiếc hộp để đi lại thuận tiện. Kỳ Tu ăn mặc theo kiểu một viên quan thông phán rời khỏi kinh đô. Suốt dọc đường bình yên vô sự, nhung đến vùng Túc Thiên, đột nhiên gặp người của Đại Vương cướp hết của cải. Cộng tất cả số tiền của người cùng đi lên tới hàng vạn đồng. Chán nản và buồn bã nên mỗi người bỏ đi một ngả. Song chỉ có Kỳ Tu liều lĩnh đòi gặp kẻ cầm đầu xin lại chiếc hộp mũ cũ. Bọn cướp thấy Kỳ Tu cứ nằng nặc bám theo, nói rằng thằng ngốc này muốn nộp mạng đây. Trên đường đi Kỳ Tu chẳng thấy một bóng người, chỉ thấy núi cao chập chùng, cây cối ngút ngàn, âm u. Đi được ba bốn dặm thì chúng dừng lại, nhìn về phía Tây thấy một chiếc đầm lớn, đó là sào huyệt của chúng. Đinh Dực là tên cầm đầu toán cướp, người Tứ Châu, hiệu là Đinh Trương phi. Hắn là một tên liều lĩnh, chỉ vì đói quá mà trở thành cướp:
Lông mày dựng ngược, khắp mình bắp thịt nổi cục như nắm tay. Mắt cú râu tôm, gân nổi cuồn cuộn
Không phải La Sát(1) ba đầu mà quỷ nhìn mất vía
Chẳng là Na Tra(2) tám tay, mà thần cũng kinh hồn.
(1) La Sát (tiếng Phạn): La Sát Bà, tên một loại quỷ.
(2) Na Tra: tên một nhân vật trong thần thoại.
Gã Đại Vương ngồi chễm chệ, của cải chúng mới cướp được bày ra la liệt trên mặt đất. Chiếc hộp da còn khóa, vẫn nằm đó. Mồm hắn quát tháo, nhưng tay hắn lại thu dọn tất cả những thứ vừa bày ra. Hắn thấy Tưởng Kỳ Tu là người lạ; khăn áo lại chỉnh tề, liền hỏi bọn tay chân:
https://thuviensach.vn
- Anh này cần gì?
- Tôi vốn là học trò, - Kỳ Tu nói, - không ham của cải danh lợi. Vì có người thân tại kinh thành, nên đáp thuyền đi thăm. Tất cả gấm đoạn đều xin hiến dâng hết tho các ông. Song cái hộp da đựng khăn, trong đó có thư từ, khẩn thiết xin ông hoàn lại.
- Chúng tôi đều có gia đình. - Tên tướng cướp nói. - Vùng Sơn Đông bị Bạch Liên giáo quấy nhiễu, bọn tham quan ô lại vơ vét của cải, khiến cho người dân no đủ bị vạ lây. Vả lại mất mùa đói kém, cha con li tán mỗi người một ngả, buộc chúng tôi phải đi vào con đường này. Tôi thấy anh dáng vẻ yếu đuối, nhút nhát, hẳn là đến kinh thành mưu tính việc làm quan. Song làm quan thì phải ác độc, không có âm đức phù trợ. Tôi khuyên anh đừng đi nữa, ở đây ta có lương thực mà không quân, có quân lại không có tướng. Muốn làm những việc ra trò mà không được. Chúng tôi cung kính mời đấng hiền giả ở lại đây làm chủ hội.
Nói xong gã tướng cướp cúi đầu vái lạy, Tưởng Kỳ Tu cuống lên, rối rít đáp lễ. Kỳ Tu nghĩ: "Tuy là kẻ lục lâm, song ăn nói nhã nhặn, đứng đắn. Nếu ta bỏ đi thì chiếc hộp da sẽ mất, chi bằng cứ ở lại tìm cơ hội khác". Thế rồi anh khai rõ họ tên. Kỳ Tu nói:
- Đã nhận nhau, thì phải làm lễ ăn thề.
Sau đó họ thắp hương nến, bẻ tên bái lạy, thề trước mọi người rằng: “Đàn bà không được lên núi, trẻ mồ côi phải thả, thuế thương nghiệp tăng ba lần. Khi chiêu hàng thì giải tán".
- Tuyệt, tuyệt lắm, - Đinh Dực cười nói, - câu cuối cùng rất hợp ý ta. Những tang vật trước đây đều phải ghi chép lại hết.
Mọi người cười rộ lên. Chỉ có Kỳ Tu ngồi im một chỗ, bởi anh không thể quên được người thân.
Sa Nhĩ Trừng tới Bắc Kinh, tìm chỗ ở. Vừa đặt hành lí xuống, anh lập tức đi khắc một chiếc bài vị thờ, trên đó ghi:
"Người thợ giày nghĩa sĩ", đặt lên bàn thờ, rót rượu thắp hương thề rằng,
https://thuviensach.vn
suốt đời không quên ơn người đã chết thay mình. Sau khi làm việc động trời ấy, trên đường bỏ chạy Nhĩ Trừng kết thân với một số người, tới Bắc Kinh nghe thấy Trương Công . giữ chức Phượng tư Bộ Binh đang tuyển người, Nhĩ Trừng mua sắm lễ vật nhờ Vãn Sinh đưa danh thiếp, được Trương Công gọi vào gặp. Trương Công nói:
- Ông hạ cố tới đây, tôi cũng quên mất quan huyện thân thiết thế nào, ông từ xa tới chắc có điều gì chỉ bảo?
Thấy Trương Công bao dung, Sa Như Trừng mới nhẹ nhàng thưa: - Tôi là bạn học của Tưởng Kỳ Tu, là anh em đằng cô của Vãn Sinh. Nghe thấy đại nhân nạp nhân tài, ngay cả những người tài hèn đức mọn cũng không bỏ sót. Tôi rất may mắn được anh họ là Vãn Sinh dẫn tới gặp ngài, thành thực hiến dâng chút tài nhỏ mọn, xin ngài rộng lượng.
Trương Công thấy anh nói năng nhã nhặn, mặt mũi sáng sủa tươi tỉnh, bèn nói:
- Ông tài cao lại còn trẻ khỏe, nếu muốn làm quan, tôi xin sẵn sàng tiếp nhận.
Rồi Trương Công vui vẻ mời Nhĩ Trừng dùng trà. Sau đó lại tiễn chân ra tận cửa. Nhĩ Trừng vội vàng biếu ông túi lễ vật, gồm hai đôi giày thêu, hai tấm the Hồ.
Đến ngày mồng một tháng chín, Trương Công tuyển Sa Nhĩ Trừng (lúc này đổi họ tên thành Hải Nguyên) làm Đồn bô tổng ti trấn Kế Châu, trị sở tại Kế Môn. Đây là vùng có quân lính tinh nhuệ, lương thực đầy đủ, bảo vệ cho kinh sư, tương đương với chức Tư đạo. Chuyên xét xử những đơn từ của dân chúng, có súng và cờ, trông rất oai vệ. Vì cách kinh thành không xa, nên ngay hôm ấy Nhĩ rùng trở về kinh thành lĩnh giấy tờ đích thân tạ ơn. Trương Công nói:
- Nếu có cơ hội, sẽ thăng chức.
Nhĩ Trừng vô cùng biết ơn Trương Công, trở về nhiệm sở. Thật là:
Trượng phu, thời vận nay đã gặp
Thương người khổ sở chốn Tần Quan.
https://thuviensach.vn
Lại nói về vụ án Sương Tam Bát. Sau khi đã định tội xong, anh không hề bị đánh đập, mà lại được khâu giày trong nhà tù. Trong tù mọi người gọi anh là nghĩa sĩ oan khuất, và lại còn được mọi nơi mời cơm rượu, được ăn uống thỏa thích. Sầm Công định tội xong tường trình lên cấp trên, được trên phê y án. Song ông lại đề phòng một quan huyện khác đến thay sẽ bác bỏ quyết án này. Bởi thế ông điều tới đồn quân ở trấn Bảo Định. Do tai bay vạ gió, lại khảng khái nhận tội, nên Sa Bát được Sầm Công cảm mến. Ông dặn dò hai người lính áp giải cẩn thận, và thưởng cho mỗi người mười lạng bạc lộ phí, ngay cả Sương Tam Bát cũng được thưởng năm lạng. Sương Tam Bát tới huyện đường khóc lóc thảm thiết, thề rằng nhất định anh sẽ đền đáp công ơn trời biển của Sầm Công. Do quen biết nhau nên hai người áp giải đã tháo cùm chân tay cho Sương Tam Bát, cất văn thư sai anh đi làm lính vào túi. Rồi mỗi người mang một túi hành lí, đáp thuyền tới Tô Châu. Thuyền chở khách buôn về Bắc Kinh đầy ắp, ba người thương lượng với chủ thuyền, cuối cùng họ phải ngồi vào khoang bếp. Đi mất nhiều ngày, thuyền vừa tới vùng Túc Thiên, thì từ xa thấy có người giơ tay ra hiệu. Khách hàng hiểu ngay, nói là hàng miền Nam . về Bắc Kinh, theo lệ chỉ nộp một đồng. Thuyền áp sát, một bọn người, mặt mũi hung ác dữ tợn, đội mũ nhọn đi ủng nhảy lên thuyền, xét nét lục soát từng khoang. Sau đó đến khoang lái, thấy ba người nói tiếng miền Nam, chúng hỏi đây là hàng gì. Chủ thuyền không rõ, nên chỉ nói lơ mơ rằng: "Tôi tưởng là không có hàng". Cho rằng đây là hàng lậu đưa về Bắc Kinh, nên chúng nhắc thử những bao hành lý. Thấy có một bao rất nặng. Họ đâu biết rằng, trong đó là đồ nghề và chiếc cùm của anh thợ giày Tam Bát, rồi kêu toáng lên: "Bọn này lậu thuế”. Mặc cho ba người phân trần, họ cứ lôi xềnh xệch lên bờ.
Ba người bị bắt đưa tới trại. Đinh Dực và Tưởng Kỳ Tu quát thét đưa ra xét xử. Tám tên đàn em mở hành lí ra xem, thấy một phong thư, đệ lên Tưởng Kỳ Tu. Tưởng Kỳ Tu bóc ra xem, vô cùng kinh ngạc nói: - Sa Nhĩ Trừng đâu, xin mời lên gặp ngay!
Sương Tam Bát nghe thấy thế, phủi quần áo đứng dậy nói:
https://thuviensach.vn
- Thưa ngài, phạm nhân đây ạ.
- Nói láo. - Tưởng Kỳ Tu nói. - Sa Nhĩ Trừng là bạn học của ta, anh ấy mang tiền đến Hồ, nay không thấy tin tức gì, hóa ra là tên này giết người rồi mạo danh.
Hai người áp giải cuống lên, song Sương Tam Bát bỗng vỡ lẽ, lần lượt thưa lại tỉ mỉ sự việc xảy ra. Sương Tam Bát nói:
- Chỉ vì thế mà con bị khép tội, bắt sung vào lính. Giấy tờ phán xét có thể xác minh những điều con nói là sự thật.
Tưởng Kỳ Tu xem đi xem lại, nói:
- Người ấy rõ ràng bị Sa Nhĩ Trừng giết, nhưng lại giết người đóng giả Ngụy Giám.
Đinh Dực thấy thế rất thương Sương Tam Bát, bèn khuyên Tưởng Kỳ Tu giết hai người áp giải, rồi thả Sương Tam Bát. Tam Bát nghe xong khấu đầu xin tha chết cho hai người này. Tưởng Kỳ Tu nói:
- Lẽ nào lại làm như thế?
Sau đó gọi Tam Bát ra sau nhà dặn rằng:
- Ta hiểu ra rồi, nếu ta tha anh, thì cũng thật là khó xử, thấy anh là người nghĩa khí, không muốn hại người áp giải. Thôi thì anh hãy tới đó, tìm cơ hội khác. Tên tôi là Tưởng Kỳ Tu, giám sinh Nam Kinh, quê ở Thượng Nguyên.
Kỳ Tu nói lại nhiều lần, Tam Bát nhớ như in. Rồi sai người dọn cơm rượu cho ba người ăn, thu xếp hành lý, cử người đi theo hộ tống một đoạn đường.
Ba người được tha, đi suốt đêm tới Bảo Định. Vệ quan ở Bảo Định tiếp nhận văn thư, thấy văn thư đã bóc, sợ rằng bị đánh tráo, kiên quyết không nhận. Ba người thưa rằng:
- Giữa đường gặp bọn cướp, chúng đã bóc ra kiểm tra.
Vệ quan biết đây là bọn Đinh Trương Phi, thế rồi họ mới nhận. Ở quân doanh, Tam Bát chịu khó làm tròn phận sự. Khi rỗi rãi lại khâu giày, nên cũng có miếng ăn. Một hôm, Cục ti đồn Bảo Định gửi văn thư xuống đồn ti Ký Châu về việc khai khẩn đất để đảm bảo lương thực cho quân lính. Tam Bát lĩnh văn thư ra đi, ba ngày ba đêm tới Ký Môn, đó là
https://thuviensach.vn
dinh thự của Sa Nhĩ Trừng. Trước hết anh báo tên, sau đó chờ dinh thự bắn ba phát súng thị uy, rồi quát tay chân mở cửa mới vào. Lúc sắp kết thúc, Sa Nhĩ Trừng mới gọi đến Tam Bát. Sa Nhĩ Trừng bảo anh quỳ xuống, chờ lĩnh văn thư mang về. Sa Nhĩ Trừng đăm đăm nhìn anh một lúc lâu, nghĩ bụng: "Làm sao mà anh ta lại đến đây?”. Rồi hỏi rằng:
- Anh tên gì?
- Sa Nhĩ Trừng. - Tam Bát trả lời.
Thấy lạ, Sa Nhĩ Trừng toát hết mồ hôi, gật đầu lia lịa, rồi lập tức sai đóng cửa.
Hai người ra nhà sau, Nhĩ Trừng hỏi:
- Anh không phải là Sa Nhĩ Trừng, làm sao anh lại đến đây? Tam Bát thuật lại tỉ mỉ việc người khác giết người, song anh lại phải chịu tội cho Sa Nhĩ Trừng nghe, rồi lấy từ trong túi ra một tờ giấy quan huyện luận tội đã nhầu nát. Sa Nhĩ Trừng xem xong, bước tới quỳ xuống lạy rồi thốt lên:
- Nghĩa sĩ! Nghĩa sĩ!
Tam Bát hết sức kinh ngạc, không hiểu vì sao. Nhĩ Trừnglệnh tay chân dọn rượu cho hai người ngồi uống. Tam Bát không dám ngồi. Nhĩ Trừng nói: - Nghĩa sĩ cứ ngồi xuống, tôi sẽ kể rõ cho nghĩa sĩ nghe.
Thế rồi anh kể lại chuyện Tưởng Kỳ Tu ở Nam Kinh nhờ tới Hạ Chung Minh, Thanh Đức, Hồ Châu mua sắm lễ vật. Hôm ấy khi xem kịch, tôi bỗng nổi giận giết Ngụy Yêm, rồi chạy trốn về Bắc Kinh, đổi họ là Hải. Ngài là người nghĩa sĩ, lúc nào tôi cũng nghĩ tới việc đền ơn. Trong nhà vẫn đặt bài vị cúng ngài, đề Nghĩa sĩ thợ giày, để ghi nhớ ơn ngài.
Tam Bát bỗng nhiên nghe nói tới Tưởng Kỳ Tu, rất lấy làm lạ hỏi: - Có phải Tưởng công là giám sinh ở Thượng Nguyên không? - Đúng đấy, - Nhĩ Trừng đáp, - sao ngài biết?
Tam Bát thuật lại tỉ mỉ chuyện ở Túc Thiên cho Nhĩ Trừng nghe, và bảo rằng trước khi ra đi, Tưởng Kỳ Tu nói rằng: "Tôi là Tưởng Kỳ Tu, giám sinh Nam Kinh, người Thượng Nguyên" và nói đi nói lại rằng: “Hình như ông ngẫu nhiên vào rừng làm cướp”. Nhĩ Trừng thở dài nói:
- Phải lập tức đi cứu ngay.
https://thuviensach.vn
Sau đó Nhĩ Trừng giao văn thư cho Tam Bát mang về, anh còn viết một bức thư riêng cho Vệ quan. Trong đó gói mười hai lạng bạc, cho Vệ quan thuê quân canh giữ thay cho Tam Bát để trở về Ký Môn. Vệ quan xem thư, lập tức mang bạc đi thuê người trực thay, để Tam Bát lên đường đến trị sở Ký Môn. Nhĩ Trừng lại viết một bức thư, sai người đến Trương Công. Trong thư có ghi: Tưởng Kỳ Tu mang tiền tới kinh đô, bị bức làm cướp, hơn nữa Túc Thiên là bến đò hiểm yếu, phải lập tức gọi bọn cướp ra đầu hàng, để tránh tai họa, chấm dứt việc ách tắc giao thông Nam - Bắc. Trương Công biết được, lập tức cấp giấy cất nhắc Nhĩ Trừng làm Thao Bổ ti Dương Châu, lại viết thư riêng cho Nhĩ Trừng, tiện đường về nhiệm sở cứu Kỳ Tu khỏi tay bọn cướp. Nếu gọi họ ra hàng, không nên viết Kỳ Tu là tướng cướp vào tờ chiêu dụ, vì rằng như thế sẽ làm cho ông và con cháu chịu nhục suốt đời. Nhận được thư, Nhĩ Trừng than rằng:
- Quân Tử thương người, tấm lòng của văn nhân sao mà chu đáo đến như thế.
Thếrồi ông vội vã thu xếp lên đường. Gần tới địa phận Túc Thiên, thấy những tên cướp đứng đợi. Đinh Trương Phi dặn dò tay chân rằng, nếu có thuyền quan qua lại, không theo lệ cũ, mà hô là "Xin thuyền quan ép vào bờ để thưa chuyện". Tam Bát cuống lên, vội vàng nói:
- Đúng, chúng tôi đang muốn gặp ngài Đinh Dực, các ông không cần phải vất vả.
Sa Nhĩ Trừng thấy thế, mặc thường phục ra khỏi khoang thuyền nói: - Thủy thủ hãy ép thuyền vào bờ, tôi đi thăm một người rồi sẽ trở lại. Những tên cướp thấy trong lời nói của ông đã hé mở ra một điều gì đó, chúng không dương oai giễu võ nữa. Vào tới sơn trại, Kỳ Tu và Đinh Dực bước ra. Thấy Kỳ Tu, Nhĩ Trừng ôm đầu khóc rống lên. Trước đây hai người đã được Tam Bát kể lại, nên ít nhiều biết được chuyện của nhau. Thế rồi, lúc đó Tưởng Kỳ Tu mới kể lại tỉ mỉ chuyện mình vì sao phải sa vào sơn trại cho Nhĩ Trường nghe.
Đinh Dực biết, hiện nay Sa Nhĩ Trừng đang nhậm chúc ở phủ quan, lại đối xử chu đáo với mình, tự nhiên nước mắt trào ra, rồi nói:
- Tuy núi non cách trở, nhưng hai ông đã được gặp lại nhau, còn tôi thì
https://thuviensach.vn
không có một người thân đến.
Mọi người an ủi Đinh Dực, rồi mở tiệc ăn mừng. Nhĩ Trừng còn khuyên Đinh Dực tốt hơn hết nên nghe theo lời dụ hàng của triều đình. Thấy ý của Nhĩ Trừng như thế, Đinh Dực nói:
- Tôi xin nghe theo triều đình, và nguyện sẽ đi nấu cơm cho các quan. Vả lại, ra trình diện tuy nói là tự sửa đổi mình, song đã mang tiếng là một tướng cướp, thì cuối cùng vẫn bị khinh thường.
- Trương Công cũng có ý cho sai quan đến chiêu hàng. - Sa Nhĩ Trừng nói. - Tôi cũng thấy được nguyện vọng của ông rất hợp với ý kiến của Trương Công. Hiện nay Bộ Binh đang cần sai quan, nếu ông đảm nhận được việc này thì tôi sẽ giúp.
Đinh Dực rất mừng, nói với Tưởng Kỳ Tu:
- Được rồi, ta nghe theo sự sắp đặt của ngài Sa Nhĩ Trừng, thật khó có được một người tri kỉ đến thế. Cuối cùng nhất định chúng ta sẽ được dùng. Nhĩ Trừng lại nói ngay:
- Hiện nay chỗ ông có bao nhiêu người ngựa và của cải phải khai thật rõ. Ngày hôm sau, Nhĩ Trừng cùng với Đinh Dực và Tưởng Kỳ Tu thương lượng. Tưởng Kỳ Tu nói:
- Hiện có hai ngàn người, của cải còn rất nhiều. Có thể phân phát cho các hào kiệt.
Rồi lập tức cho gọi mọi người đến nghe mệnh lệnh:
“Chúng ta là anh em kết nghĩa. Tuy khác họ, nhưng còn thân thiết hơn tình ruột thịt. Lúc đầu vì Bạch Liên giáo ác độc, phủ quan tham ô, đã bức bách chúng ta phải đến đây. Nay được phủ quan thương xót, song không thể nào khác được, triều đình cho phép chúng ta tự sửa mình, chúng ta không nên theo con đường này nữa, tất cả hãy trở về quê làm ăn lương thiện. Của cải mà bấy lâu nay tích lũy được, ta chia hết cho mọi người. Ai bảo ta là một tướng cướp tham lam, vô liêm sỉ, tất phải chết trước gươm giáo".
Tất cả đều rơi nước mắt, nguyện sẽ theo đúng lời thề ước. Rồi giết trâu mổ lợn, cùng nhau ăn uống. Hôm sau mọi người gói hành lí hợp nhau thành từng tốp, đi về các ngả tìm đường sống.
Mấy người thân thiết của Đinh Dực thu dọn của riêng, thiêu hủy đồn trại,
https://thuviensach.vn
rồi lên thuyền cùng Sa Nhĩ Trừng trở về nhiệm sở. Về tới Dương Châu thì chưa đầy một ngày, đã thấy thuộc quan ra đón tiếp. Tam Bát, tên chính là Cát Kiệm được bổ làm Trung quân. Đinh Dực đổi tên thành Can Dực làm Bả Tổng. Còn Kỳ Tu từ biệt Sa Nhĩ Trừng và mọi người lên thuyền trở về gia đình. Cả nhà thấy Kỳ Tu trở về vô cùng mừng rỡ, rồi anh kể cho mọi người nghe chuyện đã xảy ra như thế nào. Nghĩ Nhĩ Trừng và Tam Bát là ân nhân cứu mạng mình, không quên được ơn này, Kỳ Tu đã viết ngày sinh của Sa Nhĩ Trừng, Tam Bát đặt ở một nơi trang trọng và cứ những ngày đó cả nhà thắp nến hương bái tạ.
Các bạn thân mến, Cát Kiệm là một người thợ giày, chỉ vì coi trọng nghĩa khí mà phải vất vả gian truân, để rồi mang vạ vào thân. Dám chết thay cho Sa Nhĩ Trừng, bảo toàn tính mạng cho Tưởng Kỳ Tu, lại cứu Đinh Dực ra khỏi cuộc đời tướng cướp, khai thông con đường giao thông huyết mạch. Đó là một con người kì lạ xưa nay, làm nên những chuyện kì lạ mà cổ kim hiếm thấy. Tôi chỉ xấu hổ, ngòi bút của mình vụng về không ghi hết được sự kì lạ trong cuộc đời của ông. Thơ rằng:
Khí phách sáng rục tựa cầu vồng,
Kì tích lẫy lừng lưu vạn cổ.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 3 (A)
Thanh Liêm, Dân Chúng Không Kiện Tụng
Trung Dũng, Quản Chi Đóng Vai Hầu
Tiên quan triều Hán bao giờ lại,
Hiểm nguy đường Thục vén khói mây.
Ngàn dặm tiếng đàn bay mất hạc,
Trời xanh guốc gỗ ngóng chim bay.
Mây giăng đường đá nghiêng nghiêng gác,
Rừng cây sông chảy nước quanh co.
Giấu dao mới biết anh hùng chí,
Thông minh mới biết cổ nhân tài.
Bài thơ do Lô Luân đời Đường sáng tác, khi ông tiễn bạn tới làm quan ở Tân Đô. Lô Luân đã ca ngợi bạn mình là quan thanh liêm, giỏi giải quyết công việc, đáng được người đời tin cậy. Nhân đó ông nghĩ tới cuộc sống xưa nay không lúc nào yên ổn. Vì sao thế? Vì quan cai trị không thanh liêm và không có tài trị dân, khiến cho dân không yên tâm làm ăn, mà cứ phải kiện cáo nhau. Các bạn thân mến, mọi việc trên đời này đều dựa vào những bậc trưởng giả đội mũ the đen. Trong đó lại có nhiều người không đủ tiêu chuẩn: người có đức lại không có tài; người có tài lại không có đức. Bởi thế xã hội ngày càng rối bời như canh hẹ. Những viên quan này, trừ bọn tham lam, tàn ác, ngu xuẩn, bất lương ra, vẫn còn một số người thông minh học vấn uyên thâm. Song đến khi xử án thì chẳng ích lợi gì. Chỉ có người biết lặng lẽ suy tư, chân thành, đối xử công bằng không thiên vị, không dựa vào học vấn, sự thông. minh, mới có được những quyết đoán thông minh và thỏa đáng. Nếu như đầu óc không thông minh, quyết đoán chỉ dựa vào sự vô tư, thì dễ nổi nóng, cuối cùng dẫn đến nhiều điều oan khuất. Người dân
https://thuviensach.vn
gặp phải tính khí ấy của họ, sẽ chịu không ít rủi ro. Thật là:
Quan nổi lôi đình khi xử kiện,
Dân đen oan ức biết kêu ai.
Quan lớn khoe rằng tiền chẳng lấy,
Hình phạt răn đe tội kiếp người.
Xem ra, làm quan quả thực là rất khó. Xưa nay bậc đế vương trị thiên hạ chỉ thích nói câu “quan là cha mẹ dân". Song thực ra phủ quan ngày nay ai chịu coi dân là con cái.
Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ dưới đây để các bạn nghe. Vào thời Thành Hóa(1) trong phủ Kiến Ninh, Phúc Kiến, có một nhà giàu chuyên tích trữ hổ phách, tê giác, trầm hương, và coi trọng của cải. Ông ta là Bình Tất Dụng, thông gia với một cử nhân tên Tất Vinh. Tất Vinh lại là người tham lam, thấy đồ vật của người, bất kể là tốt hay xấu, bằng giá nào cũng phải xem cho bằng được. Một hôm tuyết rơi rất dày, Bình Tất Dụng đội một chiếc khăn nhung. Vì là một thứ trang phục quý, nên bên trên ông ta lại đội thêm một chiếc mũ lông chồn trắng như tuyết, lông dài khoảng hai tấc. Không ngờ Tất Vinh nhìn thấy hỏi:
- Ông Bình! Cái mũ này rất quý, không biết ông mua bao nhiêu, tôi cũng muốn mua một chiếc.
(1) Thành Hóa: niên hiệu Hiếu Tông thời Minh.
- Đây là mũ của người khách bán nhân sâm Liêu Đông mang tới. - Lão Bình nói. - Tôi phải mua mất bốn trăm lạng.
- Loại mũ này là của những vương hầu phò mã đội, - Tất Vinh nói, - khó mà mua được. Quả thực tôi rất quý.
Ngày hôm sau, Tất Vinh gói tám mươi lạng bạc, số bạc này một nửa lẫn đồng và sắt, sai người mang đến cho lão Bình, đòi mua lại chiếc mũ, nếu
https://thuviensach.vn
không đủ sẽ đưa thêm. Lão Bình xem xong cười nhạt nói: - Đây là một chiếc mũ đặc biệt, tôi rất quý. Đội nó gió thu không thể lọt qua, tôi sẽ dùng nó suốt đời. Nếu như bán cho Tất Vinh thì sao tôi lại phải chịu lỗ ba trăm hai mươi lạng bạc. Thôi thì, anh hãy mang bạc về.
Người nhà trở về nói lại với Tất Vinh, Tất Vinh lại đưa thêm mươi hai lạng nữa. Cứ thế đi lại rất nhiều lần, cho tới khi tăng tới một trăm mười bảy lạng ba, thậm chí phải bỏ hết cả trâm, đinh hương, ngà voi, vòng nhẫn, lão Bình vẫn khăng khăng đòi đúng bốn trăm lạng, không thiếu một li.
Tham lam nhưng không được, Tất Vinh rất buồn. Tất Vinh có một người cháu ngoại, tên là Tuyên Anh được cử trông coi việc lễ. Thấy lão Bình cứ một mục khăng khăng như thế, Tuyên Anh chẳng nghĩ gì đến tình thân, bàn với Tất Vinh chờ sang năm.
Tới mùa đông năm sau, trời rét buốt, lão Tất nói với Tuyên Anh: - Ngày mai ta đến nhà thông gia cúng, cháu hãy mượn giúp ta chiếc mũ ấy. Lão Bình đành phải cho mượn. Quả nhiên chiều hôm sau lại mang tới trả. Ai ngờ, Tuyên Anh là một tên xỏ lá. Cách đó nửa năm hắn đã đệ đơn lên huyện, khai mất chiếc mũ. Sử Bi là quan xử kiện, người Quảng Tây, xuất thân từ tiến sĩ. Sử Bi cũng là một tên tham của. Trước tiên ông ta cho phép Tuyên Anh đi tìm. Một hôm lão Bình đội chiếc mũ đi nghênh ngang ngoài phố, Tuyên Anh nhìn thấy túm lấy áo, kêu toáng lên:
- Cướp cướp làng nước ơi, cướp, cướp!
Hai người cãi nhau, giằng co mãi, rồi đưa nhau lên huyện. Lão Bình cứ kêu oan. Quan huyện thét.
- Bắt lấy, đưa vào đây!
Hai người quỳ trước huyện đường. Tuyên Anh bẩm rằng: - Năm ngoái tôi bị mất mũ, đã từng đệ đơn kêu lên huyện. Chiếc mũ ấy làm bằng da lông chồn trắng. Song vẫn chưa tìm thấy. Nay, lưới trời lồng lộng, lại thấy tên trộm này đội.
- Con là Bình Tất Dụng, - lão Bình thưa, - là người dân lương thiện, trong
https://thuviensach.vn
sạch. Chiếc mũ này do chính con mua.
Quan huyện hỏi, hiện thiếc mũ ấy đâu. Lão Bình lấy trong tay áo ra đệ lên quan. Quan huyện xem xong kinh ngạc nói:
- Từ khi tôi làm quan đến giờ, chưa từng thấy chiếc mũ nào như thế. Đây là một thứ cực kì xa xỉ.
Quan huyện cũng thèm muốn chiếc mũ ấy, bèn nói:
- Ăn cắp là trọng tội, đơn kêu mất cắp không phải chỉ một thứ. Nếu vụ này điều tra ra sự thực, thì các vụ khác cũng đúng là ngươi lấy. Anh có nhớ chiếc mũ này có đặc điểm gì không?
- Toàn là màu trắng. - Lão Bình nói. - Không lẫn một loại lông nào. Bên trong có lần vải lĩnh hoa trắng, chỗ che-tai bên trái có dính một vết máu, đó là do tai con bị xước gây ra.
- Dấu vết ấy ai cũng nhìn thấy, - Tuyên Anh nói, - ai chả nói được! Mũ của con đánh dấu vào một chỗ kín, đó là một dấu hình vuông, nét chữ mầu đỏ, ghi là "Tuyên Anh chi ấn" ở phía trong vải lĩnh, chỗ giáp lai, xé đường chỉ ra thì sẽ thấy.
Quan huyện sai người xé đường chỉ ra, quả đúng như thế. Quan huyện kêu to:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Đúng là có một dấu tên hình vuông, ghi là "Tuyên Anh chi ấn".
Lão Bình cứng họng, không sao nói được, đành chờ phúc thẩm. Đúng là:
Dân chúng đáng phải khổ
Có quan chẳng có ngày.
Quan Kính là quan sát viện, người Triết Giang, hiệu là Thiết Sơn. Ông là người nghiêm minh chính trực và tài giỏi. Đúng vào hôm xét xử vụ kiện Bình Tất Dụng, thì hôm đó Quan Kính tới theo dõi. Khi xét hỏi việc này, ông nhìn kĩ thần thái của hai người. Thấy lời lẽ của lão Bình không giống giọng nói của trộm cướp, lẽ nào chính hắn đi ăn trộm, lại công khai đội chiếc mũ mình đã ăn trộm!
https://thuviensach.vn
Trở về nha môn, ông suy nghĩ rất kỹ, rồi lẩm bẩm một mình: "Có manh mối rồi! Tìm ra manh mối rồi!". Ngày hôm sau, cửa công đường mở từ rất sớm. Ông viết giấy gọi phạm nhân Bình Tất Dụng, quan huyện Kiến Ninh, đồng thời bắt nguyên cáo Tuyên Anh, lập tức tới tòa xét hỏi. Tri huyện cuống lên, hồn bay phách lạc, mang chiếc mũ lên Sát viện để điều tra.
Quan Kính sai người mang chiếc mũ đặt lên bàn, gang tay đo thấy dài chín tấc. Sau đó nhìn kỹ đầu hai người, xem to nhỏ thế nào. Rồi lại xem dấu tên ở mặt trong, đúng là có đóng dấu kiềm thật. Sau đó hỏi Tuyên Anh: - Chiếc mũ này ở đâu ra?
- Do bố vợ con làm quân môn tại Thẩm Dương mang về cho. - Tuyên Anh trả lời.
- Anh đã đội chiếc mũ này chưa?
- Khi còn đi học con thường đội, nên đã đóng dấu vào đó để ghi nhớ. Quan Sát viện lại hỏi Tất Dụng:
- Chiếc mũ này ở đâu ra?
- Con mua của người khách bán nhân sâm, - Tất Dụng trả lời - mất bốn trăm lạng bạc.
- Các anh hãy mang mũ áo mặc hàng ngày vào đây. - Quan Sát viện nói. - Bất kể là vuông hay tròn hoặc màu sắc nào cũng được.
Hai người ra ngoài, bảo người nhà lấy mũ áo. Quan Sát viên gọi hai người vào rồi lệnh cho họ mặc áo đội mũ trước mặt ông. Lão Bình mặc áo nhung, đội mũ nhung. Còn Tuyên Anh đội mũ the, mặc áo the màu xanh da trời. Quan Kiểm sát viện nghĩ: "Mặc áo đơn, chít khăn thì không phải là loại hàng cùng bộ". Sau đó ông gọi Bình Tất Dụng, đưa mũ cho lão Bình đội, thấy ông đội rất vừa. Tiếp đó ông lại đưa mũ cho Tuyên Anh đội. Thật đáng thương, đầu Tuyên Anh nhỏ khăn thấp, mũ quá rộng, trùm xuống tận mắt. Quan Sát viện cười rộ lên nói:
- Chiếc mũ này không phải của anh.
- Hiện còn dấu vết bên trong. - Tuyên Anh nói. - Quả là Bình Tất Dụng lấy cắp rồi về nới rộng ra.
https://thuviensach.vn
Quan Sát viện cầm mũ xem đi xem lại, thấy đường may vẫn còn nguyên vẹn, con dấu thì đóng trùm lên trên đường may. Ông đùng đùng nổi giận quát:
- Hãy mang kẹp ra đây ngay!
Tuyên Anh bị kẹp, không chịu nổi kêu lên:
- Ngài tha tội! Con xin khai thật, không phải con can phạm. Vốn là cậu con muốn mua chiếc mũ ấy, song Tất Dụng không bán, cậu con đành phải giả vờ mượn mũ đi phúng viếng đám ma, con đã xé bên trong, đóng dấu tên con vào đó, rồi viết đơn thưa lên quan, vu tội cho ông ấy.
Quan Sát viện gọi người đánh cho năm mươi roi, giải lên phủ Thụ giám định tội. Sau đó hỏi cậu hắn ta là ai. Tuyên Anh nói:
- Đó là cử nhân Tất Vinh.
Rồi ông trả lại mũ, thả Tất Dụng về. Quan Sát viện lập tức sai người gọi cử nhân tri huyện vào mắng: "Ngươi là đồ ngu dốt vô liêm sỉ". Chửi cho hả giận, rồi ông viết tờ hạch tội tri huyện Sử Bi, là người tính tình nóng vội bộp chộp; cử nhân Tất Vinh là kẻ tham lam. Tuyên Anh bị tống giam, rồi chết trong nhà tù.
Kìa xem những kẻ thường gian dối
Quan vốn thanh liêm trị thẳng tay.
Các bạn thân mến, làm quan quả là chẳng dễ chút nào! Tri huyện Sử Bi thấy có đóng dấu, đã cho ngay là sự thực. Còn quan Sát viện là một vị cứu tinh, đã gỡ cho lão Bình khỏi mang tiếng oan là một tên trộm cướp. Thiết Kính là một vị quan thanh liêm chính trực, ông đã làm sáng tỏ nhiều vụ án, mà những chứng cứ giả dối như một sự thực khó bác bỏ.
Tới đây, lại nói thêm về một ông quan thanh liêm khác. Cát Ngu một tiến sĩ tài giỏi ở Giang Tây, hiệu là Thủy Nguyên, đỗ tiến sĩ năm Tiến Đức. Mẹ chết sớm, cha là tú tài nghèo, tên là Cát Thánh Tường, hiệu là Đạo Phù,
https://thuviensach.vn
suốt đời thật thà ngay thẳng, gìn giữ nếp xưa. Khi dạy dỗ con cái ông thường khuyên con đừng bôi nhọ lương tâm, sang hèn đều do số mệnh. Nếu gặp vận may, được trị dân, thì không những phải trong sạch, có tiết tháo nghiêm khắc nhưng lại phải ôn hòa thận trọng, vừa nhã nhặn phải vừa thật thà chất phác. Thủy Nguyên luôn luôn ghi nhớ lời cha dạy. Năm ông hơn ba mươi tuổi thì cha qua đời, rồi sau đó vợ chết. Hoàn cảnh ông rất khó khăn, nhưng rất may ông được nhập học. Ông cố gắng học hành chẳng quản nắng mưa, rét mướt. Trên tường ông đã dán bốn điều để răn mình đó là:
Không dạy học, không uống rượu
Không gặp quan, không kết bạn.
Cát Thủy Nguyên, một thân một mình đóng cửa tuyệt giao, ăn đói mặc rét, đọc sách suốt ngày. Thời gian trôi đi rất nhanh, mới thoáng qua mà ông đã hơn bốn mươi, cuộc sống vẫn nghèo túng. Người ta khuyên ông hãy xé bốn điều răn mình, thích ứng với cuộc đời thì sẽ không bị thiệt thòi. Song ông vẫn không thay đổi, và nói rằng giữ mình như thế mới thực là có ích. Người ta lại hỏi ông có ích ở chỗ nào? Thuỷ Nguyên nói:
- Thầy nghiêm, đạo được tôn trọng, thì mình mới giữ được thể diện. Tôi thấy những tiên sinh ngày nay theo đòi đèn sách đều vị kỉ. Kẻ chơi bời dâm đãng, lại tự cho mình là người thầy hướng dẫn người. Họ đều là những người lòng dạ xấu xa, đạo đức hư hỏng. Tôi một đời nghiêm túc chăm chỉ học hành, sao lại kết bè kết đảng với họ được! Còn như ăn uống tiệc tùng, mới nghe thấy tôi đã chán ngán. Trên đời, việc này ai ai cũng mong muốn, song đối với tôi, nó chẳng có chút hứng thú nào, bởi vì những người không hiểu biết rất đông, đến đó có ích lợi gì đâu! Những người đang làm việc ở phủ quan, đều xuất thân từ tú tài. Đến khi được làm quan thì ăn uống bê tha, họ thấy tú tài như chiếc gai trước mắt. Tôi vô cùng khinh bỉ loại quan như thế, hạng người như thế có đáng gặp hay không? Nếu nói, nay kết bè mai kết bạn, thì đây là một việc hết sức vô bổ. Người xưa nói: "Tú tài như cô gái trinh tiết". Gái trinh không thể thân quen với người này, người khác.
https://thuviensach.vn
Kết thân bạn bè có phải trên đầu lưỡi thôi đâu. Bởi thế cho dù tôi nghèo túng thế nào chăng nữa, tôi cũng không thể vứt bỏ nhũng điều tôi gìn giữ, để dấn thân vào thói xấu của tú tài.
Mọi người thấy Thủy Nguyên nói thế, than rằng: "Quả thực đây là một người vô cùng trong sạch và đạo đức". Đúng là:
Chẳng thể luyện được vàng,
Kẻ sĩ thường nghèo túng.
Sách vở chất đầy nhà,
Ra ngoài không có bạn.
Cát Thủy Nguyên nghèo đến mức khó mà sống nổi, người ta khuyên anh nên làm một việc gì đấy. Anh nói:
- Là nho sinh mà thay đổi nghề nghiệp, quả thực tôi rất lo sợ. Giảng giải kinh dịch, bàn luận về số mệnh, ấy là duy trì đạo giữa trời và người của bậc Thánh nhân. Số phận của ta là trong sạch. May mà sang năm ta được thi, nhưng sang năm cũng cần ăn cần mặc, cần phải có tiền đến trường thi, nhưng kiếm đâu ra tiền, thôi thì ta thử làm xem sao?
Thế rồi anh tìm một tờ giấy dán vào tấm gỗ viết: "Gia cư sĩ đoán số mệnh".
Dựa tấm biển vào trước cửa nhà, Thủy Nguyên ngồi chờ người đến xem. Mọi người lần lượt đến nhờ ông đoán số mệnh. Thủy Nguyên cứ theo lí nói thẳng, chẳng khác nào như đuổi khách đi. Thấm thoát thế mà anh đã đoán số mệnh được bốn năm tháng.
Một hôm bỗng có một người dáng vẻ tu hành đắc đạo, tên là Mễ Niên, đầu đội mũ kiểu thời Đường, mặc áo thụng, lắc được quẻ Cấn. Thủy Nguyên hỏi:
- Ông cần gì?
- Tôi cần lấy vợ. - Mễ Niên trả lời. - ông xem người ấy có phúc, có duyên, có thuận hòa với kẻ trên người dưới không?
- Nếu không phải là vợ cả thì đều tốt. - Thủy Nguyên nói: - Cấu có nghĩa là
https://thuviensach.vn
gặp, năm dương mà gặp một âm, chứng tỏ âm vượng, dương chầu. Vả lại hôm nay là Thanh long dẹp đường, chim chu tước im tiếng hót, chim loan đỏ trông coi việc, sao khiên ngưu ngủ gật, hẳn là người vợ cả phẩm hạnh kém, mà lại có biểu hiện vô cùng tốt, chỉ có điều về mặt trinh tiết kém một chút.
Cát Thủy Nguyên nói thế, Mễ Niên vô cùng sung sướng, nghĩ bụng: "Quẻ này nói rất đúng" rồi lại nói ngày sinh tháng đẻ của mình để xem số phận của cả đời. Mệnh thuộc long, sinh vào giờ Giáp Tí, ngày Kỉ Mão, tháng Bính Dần, năm Giáp Thìn.
Thủy Nguyên viết tám chữ ấy theo hàng, xem xong rồi nhìn Mễ Niên nói: - Tám chữ tạo nên sự kì lạ khó mà nói hết, tám chữ bổ sung cho nhau, sánh bên nhau, sự thịnh vượng cứ như ùa cả đến. Hiêu thần, Niết thần ra sức giúp đỡ việc ăn uống, Tử Vi không mời mà tự đến. Mệnh thuộc loại hèn kém không thể tính hết được. Nhưng vận phú quý chẳng gì cao hơn thế. Ông là người quê ở đâu thế?
- Xin cảm ơn ngài đã có con mắt tinh tường. - Mễ Niên nói. - Nhất định sẽ có ngày đền đáp công ơn.
Mễ Niên nhét quẻ thẻ vào tay áo, cảm ơn Thủy Nguyên, rồi ra đi. Đúng là:
Bế tắc, thông suốt đều do mệnh
Suy đoán sau này sẽ biết thôi.
Hôm sau Thủy Nguyên cất biển đi. Nghĩ rằng: "Mệnh đoán hôm qua là mệnh hết sức thấp hèn, mà cái vận thì vô cùng kì lạ quả thực đoán không ra, khiến người ta chê cười. Chi bằng hãy gắng công học tập, chuẩn bị kì thi cho tốt”.
Thi hương xong, yết bảng đề danh, anh xếp thứ hai trong số bảy người. Người trong làng ai cũng kinh ngạc nói: "Cát Tiên sinh đã đỗ rồi! : Họ đến chúc mừng, song ông vẫn tiếp đãi lạnh nhạt như cũ. Mấy ngày sau, những
https://thuviensach.vn
người tôn ông làm thầy, cũng chưa đưa chút lễ vật nào, bạn đồng khoa cũng không ai muốn gặp. Ông khăn gói lên đường tới kinh đô. Đúng là:
Đô thành mưa tạnh buồn vô hạn,
Quán trọ đèn tàn khách mộng mơ.
Không ngờ thi Hội xong, Thủy Nguyên lại đỗ tiến sĩ. Mặc dù là người đỗ cao trong kì thi Hội, song ông vẫn lo âu buồn bã. Ông thấy triều đình rối ren, quan lại ở địa vị cao đều hùa theo thế tục, coi việc nước như trò đùa. Họ bày cỗ linh đình, cúng tế trời đất tổ tông, viết hai câu thề nguyền, nhưng lại không hề thực hiện. Họ làm thế, là muốn tô vẽ thêm cho mình. Hai câu ấy như sau:
Nguyện dốc sức mình cho đất nước,
Tuân theo phép tắc phục vụ dân.
Thủy Nguyên ở lại kinh đô, lấy người vợ kế là Thị Cầm, và được bổ làm Tri huyện Tức Mặc, Sơn Đông. Khi tới nhậm chức, ông mở mang trường lớp, nâng đỡ việc học tập, trừ phi thừa hành lệnh cấp trên ra, ông thường không dùng hình phạt nặng. Khi thừa hành chức trách, không bao giờ ông nhận lễ vật. Đúng là quan thanh liêm chỉ uống nước lã. Ông là người ôn hòa, tài năng mẫn tiệp. Bằng tài năng ấy, ông đã tìm ra nhiều sự việc rắc rối liên quan đến trộm cướp, và số phận con người. Tôi sẽ kể lại một vài câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian mà chính sử không ghi chép, để chúng ta thấy được sự tinh vi thận trọng trong cuộc đời làm quan của ông.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 3 (B)
Một người nhà quê mang một con ngỗng còn sống đi thăm người thân. Anh ta để ngỗng xuống vệ đường đi tiểu tiện. Tên trộm đi tới xách lấy con ngỗng, rồi đem cân. Khi người nhà quê đuổi kịp, hai bên giằng co đánh chửi nhau. Vừa lúc ấy quan Bổ sảnh Hồ Bá Liên đi tới. Mọi người đều thưa lên quan, quan Tổng bổ Hồ nói:
- Ngỗng không nói được, các anh hãy khai xem nó nặng bao nhiêu? - Bẩm quan, - anh nhà quê nói, - cách đây nửa tháng con cân được bốn cân bảy lạng.
- Bẩm quan, - tên trộm nói, - con ngỗng của con là năm cân ba lạng.
Hồ Bá Liên lấy cân cân thử. Đầu tiên ông đặt quả cân vào chỗ bốn cân bảy lạng, cán cân vọt lên. Ông nhích quả cân đến chỗ năm cân ba lạng, cán cân ngang bằng như mặt nước. Thế là ông ta quở trách người nhà quê nọ, trả ngỗng cho tên trộm. Xử xong ông bỏ đi. Nhưng anh nhà quê quyết không chịu mất ngỗng. Hai bên vẫn giằng co. Đúng lúc đó Cát Công đi tới, hai người ngăn ông lại, quỳ xuống bẩm. Tên trộm bẩm lại quyết án của quan Bổ sảnh, còn người nhà quê chỉ biết khóc lóc kêu xin thảm thiết. Cát Công nghĩ rằng: "Một người thì vô cùng giảo hoạt, một người thì chất phác thật thà. Nếu không phải ngỗng của mình thì tại sao anh ta lại cố công giành lại bằng được như thế?”. Cát Công nói với tên trộm rằng:
- Anh nói đúng trọng lượng con ngỗng thì đương nhiên con ngỗng ấy là của anh rồi. Con ngỗng của anh ăn gì mà béo thế?
- Nó ăn cám. - Tên trộm nói.
- Ngỗng của anh ta rồi. - Cát Công bảo với anh nhà quê. - Nhưng anh thử đoán xem con ngỗng ăn gì.
- Nó ăn thóc. - Anh nhà quê nói.
Cát Công sai người lấy dao mổ diều ngỗng, chỉ thấy diều toàn thóc lép. Cát
https://thuviensach.vn
Công hỏi tên trộm:
- Vì sao trong diều ngỗng chẳng thấy chút cám nào?
Tên trộm khấu đầu nhận tội. Ông sai người đánh cho hắn ba mươi tay thước, cùm một tháng. Hóa ra hắn là Mao Giáp Thủ, một tên trộm nổi tiếng, song không che được mắt Cát Công.
Lại có một lần, tên trộm lọc lõi Hàn Lâm Quỷ, dò la biết được một nhà giàu cưới vợ. Nhân lúc đông người hắn lẻn vào buồng cô dâu, nấp dưới gầm giường. Tối đến, đôi vợ chồng mới cưới đóng cửa đi ngủ. Ở dưới gầm giường, hắn nghe hết cả những chuyện riêng tư thầm kín của đôi vợ chồng. Một lát sau, anh chồng ngủ, ngáy gỗ vang nhà. Tên trộm thấy yên ắng, bèn khẽ sột soạt đánh động thăm dò. Cô dâu mới vẫn còn tỉnh, thấy lạ lại sợ xấu hổ không dám gọi chồng. Tiếng động mỗi lúc một rõ hơn, cô mới lay người chồng dậy, nói:
- Dưới gầm giường có tiếng động.
Tên trộm im thin thít không dám cựa quậy. Anh chồng nói: - Có thấy gì đâu?
- Hay là đốt đèn soi xem. - Cô vợ nói.
Thế rồi họ gọi người ở đốt đèn. Quả nhiên thấy có người nấp dưới gầm giường, họ gọi người nhà lôi ra, lấy thừng trói lại. Bị đánh túi bụi, tên trộm nghĩ ra một kế, nói:
- Các vị đừng đánh nữa, không phải tôi vô cớ mà đến đây. Chính người vợ mới cưới của anh ấy bảo tôi đến. Cô này ở nhà đã từng ăn nằm với tôi, hẹn tôi đúng vào ngày cưới đến phòng để tiếp tục thú vui xưa và hứa tặng đồ nữ trang cho tôi.
Mọi người nghe xong, toát mồ hôi, hết sức kinh ngạc, bán tín bán nghi, muốn bịt mồm hắn lại, nhưng không được. Trong buồng, cô dâu nghe thấy mặt đỏ bừng, không sao thanh minh được, phải treo cổ tự tử. May mà người chồng cứu được, rồi anh an ủi rằng:
- Em không phải là loại người như thế, nếu chết đi sẽ không rõ trắng đen, em tự vẫn khiến người ta nghĩ, do xấu hổ mà làm thế. Nếu quả là tên trộm
https://thuviensach.vn
ngậm máu phun người, thì nhất định em sẽ được minh oan, qua sự việc vừa rồi anh biết, em là người vô tội.
Cô dâu nghe thấy chồng nói thế, đành nhẫn nhục không tự vẫn nữa. Tuy cả nhà đều cho là tên trộm vu tội, nhưng ngay người ngu đần nhất cũng không thể không ngờ vục: "Không có lửa thì sao có khói. Nếu không chuyện, thì hắn chỉ nhận là ăn cắp. Còn đặt điều cho cô dâu, thì tội càng nặng, gỡ sao nổi". Mọi người thấy thế càng nghi hoặc. Đúng là:
Mẹ Tăng nghe thấy ba lần nói,
Lầm tưởng Tăng Sâm giết chết người.
Hôm sau người ta giải tên trộm lên quan xét xử. Cát Công chưa hỏi, tên trộm đã khai như hắn nói tối qua. Cát Công quát:
- Đêm tối vào nhà người ta không gian dâm thì là đạo tặc, đó là luật pháp đã định. Ngươi đã nhận là gian dâm, thì không phải là tội nặng. Chờ bắt người đàn bà kia tới, sẽ định tội.
Rồi ông cho hắn vào nhà giam. Cát Công rời khỏi công đường. Đến canh hai, ông bí mật gọi một người lính lệ thì thầm với anh ta một hồi... rồi ông lập tức ra sau nhà gọi một cô gái ăn mặc thật đẹp, giao cho viên lính lệ. Thếrồi ông lên công đường bắt tên phạm nhân quỳ trước mặt, và cho gọi cô gái vào, cũng bắt quỳ xuống. Cát Công nói:
- Việc gian dâm chưa có chứng cớ, nay đã bắt người đàn bà này tới, hai người phải nói thẳng ra với nhau, thì sẽ miễn tội.
Người đàn bà tỏ vẻ xấu hổ, ấp a ấp úng, hồi lâu mới nói:
- Con là phận gái luôn giữ mình, làm gì có việc đó, song chỉ thương cho con oan khuất mà không sao minh oan được!
Tên trộm len lén nhìn qua ánh đèn, thấy một người con gái dáng vẻ lả lướt, bèn dùng những câu thô bỉ nói xấu cô:
- Tôi đã ăn nằm với cô mấy lần, chính mồm cô bảo tôi rằng, đến hôm cưới, thừa lúc đông người, trốn vào gầm giường trong buồng, rồi cô sẽ tặng cho những đồ trang sức bằng vàng, sao bây giờ cô lại chối phắt đi như thế?
https://thuviensach.vn
- Tội gian dâm đã quá rõ ràng. - Cát Công nói.
Ông bảo tên trộm quỳ xuống bên cạnh cô gái, để trực tiếp đối chất Tên trộm quỳ sát vào cô gái nói:
- Cô với tôi gắn bó khăng khít, đã thông dâm với nhau nhiều lần. Cô đã bảo tôi như thế, vậy mà bây giờ cô lại không chịu nhận, cô đã hại tôi, bắt tôi phải nhận là tên ăn trộm, tôi dù có chết cũng không tha cô. Người con gái một mực kêu oan. Cát Công bảo tên trộm rằng: - Nhất định anh đã thông dâm với người khác rồi, còn cô gái này chắc là vô can.
- Bẩm quan, - tên trộm nói, - quả là cô ta thông dâm với con từ lâu rồi. Con thông thuộc tiếng nói và nét mặt của cô ta, đúng là cô ta chứ không phải ai. - Có thật đúng như thế không? - Cát Công hỏi.
- Đúng, đúng, đúng ạ, bẩm quan đèn trời soi xét. - Tên trộm nói. Cát Công sai người kẹp tên trộm lại, tên trộm vẫn không chịu nhận. Cát Công cười ha hả nói:
- Ngươi có còn nói ngươi đã thông dâm với người ấy nữa không? Đây chính là người gái hầu trong nha môn của ta.
Ông bảo cô gái hầu đứng dậy, cô gái khúc khích cười rồi đi vào nhà trong. Cát Công nói:
- Ta đã biết ngay mày là tên trộm.
Lúc đó ông lại gọi năm người đầy tớ, dùng gậy đánh chết. Chưa đầy một giờ đồng hồ, tên trộm tắt thở. Đúng là:
Phép quan ba tấc kiếm,
Biển oan rửa sạch làu.
Cha mẹ cô dâu thấy mối nhân duyên lỡ dở, ngay hôm sau đến huyện đường nghe ngóng. Thấy việc chưa giải quyết xong, họ vô cùng buồn bã. Họ không ngờ Cát Công đã vạch trần sự gian dối và xử tử tên trộm. Hai nhà mừng rỡ, chờ khi Cát Công mở cửa công đường, họ đội lễ, thắp hương vào bái tạ.
Các bạn thân mến, tên trộm ấy quả là ghê gớm. Hắn tức giận vì cô dâu ấy đã gọi chồng dậy, nên nảy ra kế hiểm, hại cô. Hắn tưởng rằng sẽ không mang tiếng là đứa ăn trộm, mà lại trả thù được cô dâu. Làm cho hai nhà
https://thuviensach.vn
lâm vào vụ án lớn, khiến cô dâu phải quyên sinh. Song không ngờ, hắn gặp phải Cát Công, mưu trí tài giỏi. Ông không phí đến một tờ giấy, không cần gọi người của hai nhà, mà cô dâu được giải oan. Nếu như gặp một viên quan huyện ngu tối, gọi cô dâu tới công đường thì không biết sự thể sẽ ra sao. Thấy ông trí tuệ khôn lường, chỉ trong phút chốc sự việc được giải quyết, nhân dân cả huyện đều khâm phục sự thông minh sáng suốt của ông. Quả là:
Đục ngầu ta ngỡ mè là chép.
Trong veo, thấy chúng khác hẳn nhau.
Thời gian trôi đi rất nhanh, mới thoáng cái mà đã năm năm. Cát Công nhận được giấy gọi về kinh đô. Đúng hẹn, ông cùng vợ con lên đường. Khi kiệu tới bến đò, thấy một tốp thư sinh nhảy bừa lên thuyền, người chủ thuyền ra sức kêu oan. Vừa lúc đó Cát Công đi tới, ngồi trong kiệu hỏi:
- Có việc gì thế?
- Chúng tôi đi thi, - bọn tú tài nhao nhao nói, - bị chủ thuyền lấy cắp, không liên can gì đến thân hào.
- Ta là Cát Thủy Nguyên, các anh có nhận ra người thân hào này không? Mọi người thấy đó là Cát Công, cảm thấy nhờn nhợn, mặt nhăn nhó như khỉ ăn gừng. Cát Công gọi chủ thuyền và bọn tú tài tới ngay dịch trạm xét hỏi. Cát Công vừa ngồi xuống, năm anh tú tài thưa:
- Chúng con là khóa sinh đến phủ dự thi, đã thuê chiếc thuyền này để ăn nghỉ. Thừa lúc chúng con đi thi, chủ thuyền lấy trộm hết quần áo tư trang. - Năm ông này thuê thuyền của con, - chủ thuyền nói. - Họ nói thuê trong một tháng, trả mười lạng bạc. Tính đến nay đã được hai mươi bảy ngày, thế mà các ông ấy bớt của con mất ba lạng.
- Các anh này ở thuyền của anh, - Cát Công nói, - thì anh phải có trách nhiệm coi giữ, nếu để mất thì anh thoái thác sao được. Anh phải hiểu rằng ở thuyền thì một chiếc kim cũng chẳng thể nào lọt được.
- Các ông ấy còn cử hai người ở lại trông coi. - Chủ thuyền nói. Cát Công không nghe, gọi tay chân cùm chủ thuyền lại. Cát Công lại hỏi
https://thuviensach.vn
những tú tài:
- Các anh có làm đơn kiện không?
- Có. - Bọn tú tài đồng thanh trả lời.
Cát Công bảo họ mang đơn tới, thấy trong đơn liệt kê tất cả quần áo, lò hương, và một chiếc nghiên mực. Cát Công gật gật đầu nói: - Đã là tú tài thì ta sẽ dạy các anh một bài học.
Lập tức ông gọi dịch phu mang năm chiếc ghế đặt cách xa nhau, và mang nghiên, bút giấy phát cho cả năm người. Ông đuổi hết mọi người ra, rồi ngồi vào giữa. Những tú tài cứ tưởng là làm văn thật, rất muốn trổ tài, lặng lẽ chờ ông ra đề. Cát Công lấy một tờ giấy viết: "Các anh hãy vẽ chiếc nghiên đã mất, không cần phải viết văn cho mệt nhọc". Năm anh tú tài ngồi cách nhau quá xa, không biết vẽ thế nào. Ngồi một lúc lâu, đành phải tự vẽ. Thấy mỗi người vẽ một khác, Cát Công cười phá lên, nói:
- Làm tú tài trước hết phải rèn luyện bản thân, đừng làm trò vô liêm sỉ, táng tận lương tâm. Nếu để bọn các anh chăn dân, thì các anh là lũ tham quan ô lại, bòn rút của dân. Để các anh chấp chính thì sẽ trở thành kẻ phản nghịch lật đổ triều đình. Cớ sao một chiếc nghiên mực mất mà mỗi người vẽ một khác? Ba lạng bạc tiền thuê thuyền chẳng đáng là bao, song thật đáng tiếc, các anh đã làm băng hoại đạo đức.
Năm gã tú tài cứng họng, đưa mắt nhìn nhau, đứa nào mặt cũng vàng như nghệ, không dám ho he. Cát Công bèn cho gọi hai tên gia nhân của bọn tú tài tới bảo:
- Chủ các anh mỗi người đáng chịu mười cái tát, còn các anh, tôi mượn cái mông đít.
Hai người kia ra sức kêu gào xin tha tội, song chẳng ai thương. Họ vẫn phải nhận đủ hai mươi lăm gậy. Năm gã tú tài kia phải khai rõ họ tên, báo lên quan Đề học(1) xử lí. Từ đó tiếng tăm Thủy Nguyên lại càng lan truyền khắp trong triều ngoài nội. Sau vụ xử đó ông lại tiếp tục lên đường về kinh, vừa đúng hạn. Thật là:
Xe loan dừng tại đô đình,
Mà ông vẫn kịp về kinh đúng ngày.
https://thuviensach.vn
(1) Đề học: quan trông coi việc học hành tại phủ huyện.
Tri huyện Cát trở về kinh đô được thăng lên Lại khoa Cấp sự. Thời ấy hoàng đế Chính Đức rất ngu ngốc. Ông ta làm đủ điều hoang dâm thất đức. Cát Thủy Nguyên dâng sớ thẳng thắn can gián, song vẫn như đá ném ao bèo. Ông nghĩ: "Làm sao gặp được hoàng đế, để nói hết những sai lầm của ông cho hả dạ, xử tử hết những kẻ xu nịnh hoàng thượng, thì dù cho mình thịt nát xương tan cũng cam lòng!".
Một hôm người ta thấy Cát Thủy Nguyên mặc thường phục, đi lang thang trên đường phố. Đang đi ông nhìn thấy một người đội mũ vuông, mặc áo hoa đi ô cầm một tấm thảm, ông lững thững theo sau, thì thấy đó là Mễ Niên người đã từng được ông xem tướng trước đây. Dáng vẻ sang trọng, giống như một người rất đắc ý. Cát Nguyên cứ theo, cho đến khi ông ta vào một kĩ viện. Đây là kĩ viện nổi tiếng nhất thời bấy giờ, gọi là Tiêu Lang viện. Đường vào kĩ viện rất vắng vẻ và ngoắt ngoéo, bên trong thoáng đãng và cực kì tráng lệ. Cát Thủy hỏi thăm rất tỉ mỉ. Thấy người chủ kĩ viện là một cô gái phấn son, tên là Tiết Phượng Nhi. Hoàng đế Chính Đức thường lui tới đây ân ái với nàng và lại biết Mễ Niên là một Giáo phường ti, quyền uy lẫy lùng, miệng thét ra lửa. Trở về nhà, Cát Thủy Nguyên nói với vợ là Thị Cầm rằng:
- Tôi phải đi thăm một người bạn cũ, mấy ngày mới về. Phủ quan có tới, thì bảo là tôi ốm chưa khỏi, không thể tiếp kiến được.
Hôm sau ông sai cấp dưới đến cáo bệnh xin nghỉ. Tối đến ông đội mũ, mặc áo xanh tới Tiêu Lang viện. Tới nơi, ông hỏi:
- Ngài Mễ Niên có ở đây không, nói với ông là có người bạn cũ tới thăm. Người đó trở vào, lúc sau thấy Mễ Niên cầm hai cây nến đỏ bước ra, vái chào Cát Công rồi hỏi:
- Ngài ở đâu tới, xin ngài cho biết tính danh.
- Trước đây sáu năm, - Thủy Nguyên trả lời, - tôi từng xem tướng cho ngài. Nay ngài vô cùng giàu sang, đã quên tôi rồi ư?
https://thuviensach.vn
Mễ Niên dơ ngọn nến nhìn kĩ, nói:
- Đúng rồi! Ngài là Cát Tiên sinh ở Giang Tây phải không? Đúng là tôi tốt số. Chẳng giấu gì tiên sinh, từ khi lấy người đàn bà ấy, quả là tôi đã gặp được vận may hiếm có.
Rồi Mễ Niên lại ghé vào tai Cát Công nói:
- Đúng là tôi phải đền đáp lại công ơn của ông, ông đến thật là đúng lúc, thật tuyệt diệu. Tại sao tiên sinh không ở đây hành đạo?
- Chẳng giấu gì ngài, - Cát Công nói, - tôi đang bị người ta kiện, nên trốn tới đây, không tiện xuất đầu lộ diện, muốn giấu mình tại quý viện để lánh nạn. Được nghe hoàng thượng thường tới nhà ông, sao không để tôi nhìn một chút xem ngài như thế nào, đó chính là niềm may mắn của đời người.
- Điều đó có khó gì, - Mễ Niên nói. - Hoàng đế thường cùng với chúng tôi chơi trò phạt rượu(1). Hôm nay là ngày mười ba tháng chín, ngày rằm nếu như có trăng, thế nào hoàng thượng cũng đến. Muốn tới gần, chỉ cần ngài chịu nhận làm người hầu chải đầu sửa móng chân là được.
- Chỉ cốt được gần hoàng đế, thì bất kể làm gì cũng được. - Cát Công nói. (1) Phạt rượu: một loại trò chơi mua vui khi uống rượu.
Bàn bạc xong, bèn lưu Cát Công ở lại, tạm thời gọi Cát Công là Phúc Man.
Quả nhiên, ngày mười rằm trăng rất sáng, trong kĩ viện nơi nào cũng treo đèn, các loại hương liệu quý hiếm đốt lên thơm lừng. Đêm càng trở nên tĩnh mịch, một đoàn người trong hoàng cung, tiền hô hậu ủng quanh một chiếc xe có rèm, mui xe làm bằng the màu tía đi thẳng vào sảnh đường. Thiên tử từ trong xe bước ra, dáng vẻ oai nghiêm như rồng, như hổ. Hai đứa hầu cầm đèn soi, còn thiên tử một mình đi sau. Mễ Niên quỳ dưới đất, đón vào. Cát Công đứng đằng sau khe cửa nhìn thấy hết, ông nghĩ: "Hoàng đế thật chẳng đúng đắn chút nào, tại sao lại đến mức như thế?". Một lát sau, Mễ Niên tới bảo Cát Công rằng:
- Ngài có thấy hoàng đế không?
- Nhìn rất rõ. - Cát Công nói.
- Ngài có thể tới đứng bên cạnh Lộ đài, phía vườn sau, - Mễ Niên nói, - có
https://thuviensach.vn
cơ hội tôi sẽ gọi vào.
Theo lời Mễ Niên, Cát Công tới Lộ đài, ở đó chỉ có một đôi đèn lồng. Đang chờ ở đó, chợt Cát Công thấy hoàng đế Chính Đức dặn kĩ nữ Tiết Phương Nhi đến. Nàng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng như tiên nữ, tới Lộ đài ngắm trăng.
Nhẹ tựa mây vờn lồng bóng nguyệt,
Thường Nga dáng vẻ luống mơ màng.
Trên Lộ đài bày chiếc ghế khảm trai rất rộng, một chiếc bàn bằng gỗ tử đàn, một chiếc đôn sứ. Trên bàn bày lư hương, hộp hương liệu, ấm trà và khay chén. Mễ Niên theo sau, quỳ xuống nói:
- Giáo phường ti Mễ Niên có việc bẩm với hoàng thượng. Thầnmới thu nhận được một thằng hầu chải tóc, sửa móng chân, tên là Phúc Man, xin được cho vào hầu hạ.
Phúc Man bước tới cúi đầu, rồi đứng sang một bên. Ngài Chính Đức dặn dò Mễ Niên rằng:
- Sau này phải dặn những người trong viện không được tiết lộ những chuyện hoàng đế đã đến đây chơi, bọn quan lại lắm mồm lại can gián trẫm. Hôm trước có một viên Lại khoa cấp sự tên là Cát Ngu, dâng lên một bản tấu sớ cứ làu bà làu bàu nói trẫm như Kiệt Trụ, can hệ đến xã tắc. Nói về việc trẫm đến hạnh viện, ngay cả Kiệt Trụ cũng không đến mức như thế! Quả là hắn to gan lớn mật, khiến ta vô cùng tức giận. Trẫm phải xử tội hắn. Song các quan trong triều nói rằng hắn là một viên quan thanh liêm bậc nhất, gọi hắn là Cát Chiếu Đản, mọi người ai cũng sợ hắn. Trẫm đành phải tha tội chết cho hắn. Ngày mai trẫm phải đích thân hỏi hắn, rằng hắn thấy trẫm đã hạnh viện ở đâu, để bịt mồm hắn lại.
Cát Thủy Nguyên nghe thấy kinh sợ, lạnh toát mồ hôi. Ông nghĩ: "Ai ngờ rằng hôm nay Cát Nguyên được may mắn, đều do ân đức cao dày của hoàng thượng!”. Ông vô cùng cảm kích, muốn làm việc gì đó, đưa thiên tử khỏi chốn chơi bời, để báo đền công ơn. Đúng là:
https://thuviensach.vn
Thánh thượng khoan dung người cương trực,
Sao ta dám tiếc vạn ngôn thư.
Một lát sau, đêm khuya, trăng lạnh, ông cầm đèn đưa hoàng thượng về lầu sưởi ấm. Tấm lòng trung nghĩa của Cát Thủy Nguyên bỗng chốc trổi dậy, rồi nhanh chóng nghĩ ra mưu kế. Chờ đêm yên ắng tĩnh mịch, ông tới nhà bếp phóng hỏa. Hôm ấy gió thu đang thổi mạnh, ngọn lửa ngùn ngụt bốc cháy. Cát Thủy Nguyên xông vào phòng sưởi ấm, kêu thất thanh:
- Cháy nhà! Cháy nhà! Nguy cấp! Nguy cấp! Hoàng thượng ngự tại đâu? Chỉ thấy a hoàn chạy ra khỏi cửa nói:
- Đây! Ở đây!
Cát Thủy Nguyên nhận ra, vội vã cõng vua vượt qua ngọn lửa chạy vọt ra ngoài. Mễ Niên thấy ông cõng hoàng thượng nói:
- Ngài hãy hầu hạ hoàng thượng chu đáo.
Cát Thủy Nguyên vâng dạ. Mọi người vội vàng dập tắt ngọn lửa.
Dặm xa đường thẳm hay ngựa quý,
Năm tháng dài lâu biết lòng người.
Các bạn thân mến, tấm lòng trung nghĩa của Thủy Nguyên, phải nhờ vào tình thế khẩn cấp. Ông cõng hoàng đế Chính Đức về nhà, gọi người mở cửa, mời hoàng đế ngồi vào ghế chính giữa. Một mặt đuổi những người chạy theo về Tiêu Lang viện, báo cho người đến đón hoàng thượng. Chính Đức nói:
- Ngươi là Phúc Man của nhà Mễ Niên ư?
- Thần đội ơn thánh thượng. - Cát Thủy Nguyên cúi đầu nói. - Thần đỗ hoàng giáp tiến sĩ, rồi được bổ làm Lại khoa Cấp sự Thần là Cát Ngu, đội ơn hoàng thượng, đã có tấm lòng nhân từ tha tội chết.
Chính Đức kinh sợ nói:
- Trẫm hỏi ngươi, làm sao mà ngươi lại ở nhà Mễ Niên? - Thầntừng nghe, - Cát Nguyên đáp, - hổ không thể xa rời núi, rồng không thể xa rời biển.
https://thuviensach.vn
Thánh thượng là đấng chí tôn, lại hạ mình chơi bời, lửa cháy còn là việc nhỏ, nếu chẳng may xảy ra điều bất trắc, thì ai là người dám chết để bảo vệ bệ hạ? Quả thực thần lo thay cho bệ hạ, nên không sợ mình chịu nhục, vào giáo phòng, thay đổi họ tên để bảo vệ hoàng thượng. Việc xảy ra hôm nay quả thật là một bài học lớn.
Cát Ngu quỳ dưới đất, ra sức can gián, rồi khóc nức nở. Chính Đức bỗng thấy được lòng trung thành của ông, nói:
- Trẫm đã biết được nỗi khổ tâm của ngươi, từ nay về sau trẫm sẽ sửa chữa.
Nói xong, người trong hoàng cung đã tới đón. Hoàng thượng lên chiếc xe rèm tía về cung thì lúc đó đã vào canh năm.
Ngày hôm sau, Chính Đức cất nhắc Cát Ngu lên nhậm chức Đô sát viện. Từ đó về sau, những người có việc làm sai trái, nghe nói đến ông đều phải sợ hãi. Họ nói với người xung quanh rằng: "Nhất thiết đừng để cho Cát Chiếu Đản biết”.
Các bạn thân mến, khi Cát Thủy Nguyên còn làm tú tài, ông luôn giữ tiết tháo thanh cao, khi thi đỗ ông thề rằng: "Nguyện dốc lòng với triều đình, không thể bẻ cong luật pháp". Thờvua trị dân, rốt cục vẫn không xa rời hai câu ấy. Đó là kẻ sĩ không đánh mất lương tâm. Vợ ông là Thị Cầm sinh được một người con trai, thời trẻ đỗ đầu khoa, làm quan tới chức thượng thư, trở thành một gia đình quan lại thanh liêm ở Dự Chương. Chuyện được ghi lai trong cuốn Cô song thanh dạ lục của Trương Lăng Nhai. Thơrằng:
Xưa nay vốn vô sự,
Suy Vưu(1) chế ra cung.
Làm quan cần nhân ái.
Phò vua phải hết lòng.
Trời rét hay tùng bách.
Thanh cao biết gỗ đồng.
Tú tài trong thiên hạ.
https://thuviensach.vn
Chẳng kể cùng hay thông.
(1) Suy Vưu: nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc.
https://thuviensach.vn
nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 4 (A)
Kết Nghĩa Thật, Triệu Tương Gửi Mẹ Và Gửi Vợ
Giả Can Trường, Tưởng Vân Cửa Phật Trộm Phấn Son
Thơ rằng:
Ai bảo kết giao dễ,
Kết giao thật khó thay.
Kết vàng hơn kết ngãi,
Kết mặt khó kết lòng.
Dương Tá không xuất hiện,
Phạm Trương chẳng thấy đâu.
Thường thì rượu thịt, tối mắt lại,
Hễ thấy tiền bạc lòng nhuốc nhơ.
Luôn luôn lật lọng như sóng vỗ,
Biết bao bè bạn thành kẻ thù.
Xin anh hãy rót cho tràn chén,
Lắng nghe tôi kể chuyện đời nay.
Bài thơ này nói về lòng dạ người đời thật khó lường. Việc kết giao bè bạn khó vô cùng. Tình bằng hữu là một trong năm mối quan hệ của con người. Sĩ, nông, công, thương là căn cứ vào sự giống nhau mà xếp ra từng loại. Song bản thân những người cùng loại ấy rất hiếm khi trở thành bạn bè thân thiết. Chỉ thấy đạo của người xưa ngày càng suy vi, nhân tình ngày càng kiêu bạc. Những người trọng nghĩa khinh tài, hào hiệp cứu giúp người hoạn nạn quá ít. Những người dựa vào tiền của nhiều hay ít mà thân thiết hay lạnh nhạt lại nhiều. Bởi thế, mối giao lưu giữa nhũng người giàu sang với nhau thì lâu bền, còn mối tình giữa những người giàu sang với người nghèo thì đứt đoạn. Trước cao sang, sau nghèo hèn cũng đứt đoạn. Khi họ thành đạt và giàu có ngang nhau thì họ thân thiết hòa hợp, nhận nhau như ruột
https://thuviensach.vn