🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Định Lý Cuối Cùng Của Fermat Ebooks Nhóm Zalo FERMAT’S ENIGMA Copyright © 1998 by Simon Singh All rights reserved Bản tiếng Việt © Nhà xuất bản Trẻ, 2010 Phạm Văn Thiều - Phạm Việt Hưng dịchTái bản lần thứ 2 Mục lục giới thiệu 5 lời tựa 14 I. “Có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây...” 17 II. tác giả của những câu đố 59 III. Sự tủi hổ của toán học 103 IV. đi vào trừu tượng 163 V. Chứng minh bằng phản chứng 231 VI. Những tính toán bí mật 269 VII. Một bài toán nhỏ 327 VIII. toán học thống nhất 354 Phụ lục 388 4 định lý cuối cùng của fermat lời giới thiệu Cuối cùng chúng tôi cũng đã cùng có mặt trong căn phòng, không đông người, nhưng đủ rộng để chứa toàn bộ Khoa Toán của trường Đại học Princeton trong những dịp lễ lạt lớn. Vào buổi chiều đặc biệt đó, xung quanh không nhiều người lắm, nhưng đủ để tôi khó xác định được người nào là Andrew Wiles. Sau một lát, tôi nhận ra một người trông có vẻ rụt rè, đang lắng nghe xung quanh chuyện trò, nhấm nháp ly trà, và thả mình trong những tư tưởng mà các nhà toán học trên khắp thế giới đang chú ý theo dõi sẽ diễn ra vào khoảng bốn giờ chiều nay. Ông ta dễ dàng đoán được tôi là ai. Đó là thời điểm kết thúc một tuần lễ phi thường. Tôi đã gặp gỡ một số nhà toán học tuyệt vời nhất đang còn sống, và bắt đầu cố gắng xâm nhập vào bên trong thế giới của họ. Nhưng bất chấp mọi ý đồ tiếp cận với Andrew Wiles, để nói chuyện với ông, và để thuyết phục ông tham gia vào một cuốn phim tài liệu trong chương trình Horizon của đài BBC về thành tựu của ông, đây là cuộc gặp mặt đầu tiên của chúng tôi. Đó là người mới đây đã thông báo rằng ông ta đã tìm thấy Chiếc Chén Thánh1 của toán học; người tuyên bố đã chứng minh được Định lý cuối cùng của Fermat. Như tôi đã nói, Wiles có một vẻ lơ đãng rụt rè, và mặc dù rất lịch sự và thân ái, nhưng rõ ràng là ông muốn tôi càng tránh xa ông càng tốt. Ông giải thích rất đơn giản rằng ông không thể tập trung vào bất cứ việc gì lúc này ngoài công việc đang vào chặng quyết định, nhưng có thể sau này, khi áp lực hiện thời được giải tỏa, ông sẽ vui lòng tham gia. Tôi biết, và ông cũng biết tôi biết, rằng ông đang phải đối 1. Chiếc Chén Thánh là chiếc ly Chúa Giêsu đã dùng trong bữa tiệc ly - bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ trước khi Chúa bị hành hình. Đây là một thuật ngữ ví von thường hay được dùng trong nền văn hóa Tây phương để nhấn mạnh vai trò quan trọng và cốt yếu của cái được ví. Trong trường hợp này đó là chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat (ND). 5 phần đầu mặt với sự sụp đổ hoài bão của đời ông, và rằng Chiếc Cốc Thánh mà ông đang cầm trong tay bây giờ đang bị phát giác ra rằng chẳng phải là đẹp đẽ, giá trị gì lắm, mà chỉ là một chiếc cốc uống nước thông thường mà thôi. Bởi vì ông đã thấy một sai lầm trong chứng minh đã công bố. Câu chuyện về Định lý cuối cùng của Fermat là một câu chuyện độc nhất vô nhị. Cho tới lúc gặp Andrew Wiles, tôi đã biết rằng đó thật sự là một trong những trang sử vĩ đại nhất của những nỗ lực khoa học và học thuật. Mùa hè năm 1993, tôi đã nhìn thấy những tiêu đề lớn đưa toán học lên trang nhất của những tờ báo tầm cỡ quốc gia trên khắp thế giới, loan báo việc chứng minh định lý này. Vào thời điểm ấy, tôi chỉ có một hồi ức lờ mờ về Định lý cuối cùng của Fermat, nhưng đã thấy ngay rằng đó là một cái gì rất đặc biệt, rất hợp với một cuốn phim trong chương trình Horizon. Tôi đã dành thì giờ trong những tuần lễ tiếp theo để nói chuyện với nhiều nhà toán học: những người có liên hệ gần gũi với câu chuyện này, hoặc gần gũi Andrew, hoặc những người chỉ đơn giản là đã chia sẻ sự xúc động khi chứng kiến một thời điểm vĩ đại trong lĩnh vực hoạt động của họ. Tất cả đã rộng lượng chia sẻ những hiểu biết sâu sắc của họ về lịch sử toán học, và kiên nhẫn nói chuyện với tôi mặc dù kiến thức về toán học của tôi quá kém cỏi so với những khái niệm về những vấn đề có liên quan. Vấn đề nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng đây có lẽ là một đề tài mà trên thế giới chỉ có khoảng 5, 6 người có thể hiểu được một cách thấu đáo và đầy đủ. Trong một thời gian, tôi đã băn khoăn không biết mình có điên rồ khi định làm một cuốn phim về đề tài này. Nhưng từ những nhà toán học mà tôi trò chuyện, tôi đã hiểu được lịch sử phong phú và ý nghĩa sâu sắc hơn của định lý Fermat đối với toán học cũng như đối với những người làm toán, và cuối cùng tôi cũng nhận được ra câu chuyện thật sự nằm ở đâu. Tôi đã nắm được nguồn gốc cổ Hy Lạp của bài toán, và hiểu rằng Định lý cuối cùng của Fermat là đỉnh Himalaya của lý thuyết số. Tôi được dẫn dắt vào cái đẹp đầy quyến rũ của toán học, và bắt đầu đánh giá được vì sao toán học được mô tả như là ngôn ngữ của tự nhiên. 6 định lý cuối cùng của fermat Thông qua những người cùng thời với Wiles, tôi đã biết rõ rằng bản chất công việc của ông đòi hỏi một tư duy mạnh mẽ kinh khủng đến chừng nào trong việc tập hợp tất cả những kỹ thuật tân tiến nhất của lý thuyết số với nhau nhằm áp dụng cho chứng minh của ông. Từ những người bạn của ông ở Đại học Princeton, tôi đã nghe nói về sự tiến triển rất phức tạp của những năm nghiên cứu biệt lập của Andrew. Tôi dựng nên một hình ảnh phi thường xung quanh Andrew Wiles và bài toán thách đố ngự trị cuộc đời ông, nhưng dường như tôi chưa bao giờ có ý định tìm gặp chính bản thân ông. Mặc dù nội dung toán học liên quan đến chứng minh của Wiles nằm trong số những vấn đề khó nhất của toán học, nhưng tôi nhận thấy vẻ đẹp của Định lý cuối cùng của Fermat nằm ngay trong sự cực kỳ đơn giản và dễ hiểu của bản thân bài toán đó. Đúng là một câu đố vì nó được phát biểu bằng những ngôn từ quen thuộc với mọi học sinh phổ thông. Pierre de Fermat là một con người thuộc truyền thống Phục hưng, sống giữa trào lưu tái khám phá kho trí tuệ cổ Hy Lạp, nhưng ông đã đặt ra một câu hỏi mà người Hy Lạp không hề nghĩ ra để hỏi; và khi làm như vậy, ông đã đặt ra một bài toán khó nhất trên thế gian để cho những người khác phải giải. Và như muốn trêu ngươi, ông để lại cho hậu thế mấy dòng ghi chú trong đó thông báo rằng ông đã tìm ra một lời giải, nhưng không cho biết lời giải đó ra sao. Đó là phút khởi đầu cho một cuộc săn đuổi kéo dài tới ba thế kỷ. Độ dài thời gian đó đã nói lên ý nghĩa đặc biệt của câu đố này. Thật khó mà hình dung được một bài toán nào, trong bất kỳ một lĩnh vực khoa học nào, được phát biểu đơn giản và rõ ràng đến như thế mà lại có thể chống chọi được với sự công phá của trí tuệ lâu dài đến thế. Chúng ta nhớ lại những bước nhảy vọt trong nhận thức vật lý, hóa học, sinh học, y học và công nghệ đã xảy ra từ thế kỷ 17. Từ “các thể dịch”1 trong y học, chúng ta đã tiến tới ghép nối được các gene, đã nhận dạng được 1. Xưa kia người ta quan niệm rằng các thể dịch này là những yếu tố quyết định sức khỏe và tâm trạng của sinh vật. (ND) 7 phần đầu các hạt cơ bản trong nguyên tử, và đã đưa được con người lên Mặt trăng; nhưng trong lý thuyết số Định lý cuối cùng của Fermat vẫn không thể nào vượt qua được. Trong khi tìm hiểu, đôi khi tôi muốn biết lý do tại sao Định lý cuối cùng không gây được sự chú ý đối với mọi người mà chỉ đặc biệt đối với các nhà toán học, và tại sao nó quan trọng đến nỗi tạo ra cả một chương trình nghiên cứu về nó như thế. Toán học có hằng hà sa số ứng dụng thực tiễn, nhưng trong trường hợp lý thuyết số, những ứng dụng hấp dẫn nhất mà tôi được biết là trong khoa học mật mã, trong việc thiết kế các bộ tiêu âm, và trong việc liên lạc từ những con tàu vũ trụ xa xôi. Nhưng chẳng có cái nào trong những ứng dụng đó có sự hấp dẫn đặc biệt đối với công chúng. Điều hấp dẫn chúng ta nhiều hơn chính là bản thân các nhà toán học, và cái cảm xúc say sưa mà tất cả bọn họ đều biểu lộ ra khi nói về bài toán Fermat. Toán học là một trong các dạng thuần khiết nhất của tư duy, và đối với người ngoài ngành toán, các nhà toán học hầu hết đều có vẻ như những người ở thế giới khác. Điều gây ấn tượng mạnh đối với tôi trong mọi cuộc thảo luận giữa tôi với họ là tính chính xác khác thường trong câu chuyện trao đổi của họ. Một câu hỏi hiếm khi được trả lời ngay tức khắc, tôi thường phải chờ đợi trong khi cấu trúc chính xác của câu trả lời được định hình trong đầu họ; nhưng khi nó được nói ra, thì đúng là một lời phát biểu rành mạch rõ ràng và thận trọng mà bản thân tôi rất muốn có được. Khi tôi nói với Peter Sarnak, một người bạn của Andrew Wiles, về điều này, ông đã giải thích rằng đơn giản vì các nhà toán học không thích tạo ra một mệnh đề sai. Tất nhiên, họ cũng vận dụng trực giác và ngẫu hứng, nhưng những lập luận hình thức phải là tuyệt đối. Chứng minh là cái nằm trong trái tim của toán học, và là cái đánh dấu phân biệt nó với các khoa học khác. Các khoa học khác có những giả thuyết được kiểm chứng bằng thực nghiệm cho tới khi chúng bị bác bỏ và được thay thế bởi những giả thuyết mới. Trong toán học, chứng minh tuyệt đối là mục tiêu, và khi một cái gì đó được chứng minh, nó 8 định lý cuối cùng của fermat sẽ được khẳng định mãi mãi, không có chỗ để cho nó thay đổi. Trong Định lý cuối cùng, các nhà toán học phải đối mặt với một sự thách thức lớn nhất về chứng minh, và người tìm ra câu trả lời sẽ nhận được sự ngưỡng mộ của toàn bộ giới toán học. Những giải thưởng đã được đặt ra, và sự đua tài bùng phát. Định lý cuối cùng có một lịch sử hết sức phong phú dính dáng tới cả cái chết và sự lường gạt, nhưng nó cũng đã thúc đẩy sự phát triển của toán học. Như nhà toán học Barry Mazur đã nói, Fermat đã thổi “hồn” vào các lĩnh vực toán học đã từng gắn liền với những ý đồ đầu tiên chứng minh định lý đó. Do sự trớ trêu của số phận, hóa ra một trong những lĩnh vực toán học như thế lại chiếm vị trí trung tâm trong chứng minh cuối cùng của Wiles. Nhặt nhạnh dần dần những hiểu biết về một lĩnh vực không quen thuộc, tôi đã đi tới chỗ đánh giá Định lý cuối cùng của Fermat như là trung tâm, và thậm chí có lịch sử song song với lịch sử phát triển của chính toán học. Fermat là cha đẻ của lý thuyết số hiện đại, và từ thời ông các nhà toán học đã phát triển, thúc đẩy và đa dạng hóa nó thành nhiều lĩnh vực chuyên sâu, ở đó các kỹ thuật mới lại đẻ ra những lĩnh vực mới của toán học, rồi trở thành những ngành toán học độc lập. Nhiều thế kỷ trôi qua, Định lý cuối cùng dường như ngày càng ít có liên quan với những nghiên cứu toán học thuộc thế hệ trước, và càng ngày càng trở thành một thứ của lạ. Nhưng bây giờ rõ ràng là vai trò trung tâm của nó đối với toán học thực ra chưa bao giờ thuyên giảm. Những bài toán về số, như bài toán mà Fermat đã đặt ra chẳng hạn, rất giống với những trò chơi thách đố, mà các nhà toán học vốn lại thích giải các câu đố. Đối với Andrew Wiles, đây là một thách đố rất đặc biệt, và chẳng có gì khác hơn, đó chính là hoài bão của đời ông. Ba mươi năm trước, sau khi bất ngờ gặp Định lý cuối cùng của Fermat trong một thư viện công cộng, cậu bé Wiles đã say mê nó. Giấc mơ tuổi thơ và tuổi trưởng thành của Wiles là giải được bài toán đó, và khi ông công bố chứng minh đầu tiên của mình vào mùa hè năm 1993, thì đó 9 phần đầu là thời điểm kết thúc của một chặng đường bảy năm làm việc hết mình cho bài toán, với một mức độ tập trung và quyết tâm khó có thể tưởng tượng được. Khi mới bắt tay vào công việc, nhiều kỹ thuật mà ông sử dụng sau đó còn chưa được sáng tạo. Ông cũng kết hợp các công trình của nhiều nhà toán học xuất sắc với nhau, kết nối các ý tưởng và sáng tạo ra những khái niệm mà những người khác đã sợ không dám làm. Theo một nghĩa nào đó, như Barry Mazur nhớ lại, hóa ra là mọi người đều đã làm việc cho bài toán Fermat, nhưng biệt lập với nhau và không coi nó là mục tiêu, vì chứng minh này đòi hỏi phải huy động toàn bộ sức mạnh của toán học hiện đại mới tìm ta lời giải cho nó. Cái mà Wiles đã làm được là một lần nữa kết nối các lĩnh vực toán học tưởng như xa rời nhau lại với nhau. Do đó công trình của ông dường như là một sự biện hộ cho quá trình đa dạng hóa đã diễn ra trong toán học kể từ khi bài toán Fermat được nêu ra. Tại điểm mấu chốt trong chứng minh bài toán Fermat, Andrew đã chứng minh một ý tưởng được gọi là giả thuyết Taniyama - Shimura, giả thuyết tạo nên chiếc cầu mới bắc giữa các thế giới toán học vốn khác xa nhau. Đối với nhiều người, việc tiến tới một toán học thống nhất là mục tiêu tối cao, và giả thuyết Taniyama - Shimura chính là sự thoáng hiện của một lý thuyết thống nhất như thế. Vì vậy khi chứng minh bài toán Fermat, Andrew Wiles đã củng cố một số phần quan trọng nhất của lý thuyết số thời hậu chiến, và đã xây dựng nên nền móng vững chắc cho tòa tháp của những giả thuyết xây trên nền móng đó. Do đó, chứng minh của Wiles không đơn thuần chỉ là giải một bài toán thách đố tồn đọng lâu dài nhất nữa, mà nó còn mở rộng biên giới của bản thân toán học. Điều đó cũng có nghĩa là nếu bài toán đơn giản của Fermat đã ra đời vào lúc toán học còn ấu trĩ thì nó cần phải chờ đợi đến thời điểm này. Câu chuyện về Fermat đã kết thúc theo một kiểu cách hết sức ngoạn mục. Đối với Andrew Wiles, đó là sự kết thúc của kiểu làm việc cô lập vốn xa lạ với toán học, một hoạt động thường đòi hỏi sự hợp tác. Giờ uống trà buổi chiều theo thông lệ tại các Viện hoặc các Khoa toán của 10 định lý cuối cùng của fermat các trường đại học trên khắp thế giới là thời gian để các ý tưởng gặp nhau, và chia sẻ những hiểu biết thấu đáo trước khi việc công bố trở thành chính thức. Ken Ribet, một nhà toán học mà bản thân ông cũng có những đóng góp quan trọng trong chứng minh Định lý Fermat, đã gợi ý nửa đùa nửa thật với tôi rằng chính sự không chắc chắn và an toàn của các nhà toán học đã đòi hỏi một cấu trúc hỗ trợ từ phía các đồng nghiệp của mình. Tuy nhiên, Andrew Wiles đã tránh tất cả những cái đó, và giữ kín công việc của mình chỉ cho riêng bản thân mình trong toàn bộ tiến trình, trừ những bước cuối cùng. Đó cũng là một thước đo tầm quan trọng của bài toán Fermat. Wiles có niềm đam mê thực sự mạnh mẽ được là người duy nhất giải trọn vẹn bài toán này, một niềm đam mê đủ mạnh để dâng hiến bảy năm trời của cuộc đời cho nó và để giữ được mục tiêu đó cho chính mình. Ông biết rằng dù bài toán có vẻ không liên quan mấy đến những nghiên cứu hiện đại, nhưng cuộc chạy đua đối với bài toán Fermat không bao giờ lơi lỏng, vì thế ông chẳng bao giờ dám đánh liều để lộ những gì mà mình đang làm. Sau nhiều tuần lễ tìm hiểu vấn đề này, tôi liền tới Đại học Princeton. Đối với các nhà toán học, mức độ hồi hộp lúc này đã lên tới mức căng thẳng. Tôi đã khám phá ra ở đó một câu chuyện về sự ganh đua, thành bại, về sự cô lập, tài năng, chiến thắng, ghen tị, áp lực căng thẳng, mất mát và thậm chí cả bi kịch nữa. Ngay trong lòng giả thuyết Taniyama - Shimura, một giả thuyết cực kỳ quan trọng trong tiến trình chứng minh của Wiles, là cuộc sống hậu chiến bi thảm ở Nhật Bản của Yukita Taniyama, câu chuyện mà tôi được đặc ân nghe kể từ Goro Shimura, người bạn thân của ông. Từ Shimura tôi cũng học được khái niệm “cái thiện” trong toán học, nơi mà mọi thứ đều được cảm thấy đơn giản là đúng vì chúng đều là “thiện”. Không biết làm sao mà cảm giác về cái thiện tỏa khắp bầu không khí toán học vào mùa hè năm đó. Tất cả đều say sưa trong một thời khắc vinh quang. Với tất cả những điều vừa nói ở trên, sẽ chẳng có gì phải ngạc nhiên về gánh nặng của trách nhiệm mà Andrew cảm thấy khi một sai lầm 11 phần đầu đã dần dần lộ ra qua mùa thu năm 1993. Với những con mắt của thế giới đổ dồn vào ông, và việc các đồng nghiệp của ông kêu gọi công bố chứng minh một cách công khai, có lẽ chỉ có ông biết tại sao mình đã không bị gục ngã. Ông đã phải chuyển từ việc làm toán biệt lập, một mình theo tốc độ riêng của mình đến chỗ bỗng nhiên phải làm việc với công chúng. Andrew là một người rất kín đáo, ông đã phải đấu tranh một cách khó khăn để giữ cho gia đình mình tồn tại vượt qua bão tố nổ ra xung quanh ông. Trong suốt tuần lễ ở Princeton, tôi gọi điện thoại, rồi để lại giấy nhắn tin tại nơi làm việc của ông, trên bậc cửa ra vào nhà ông, và thông qua bạn bè ông; thậm chí tôi còn gửi quà tặng cho ông, một hộp trà Anh và một chiếc nồi bằng gốm để nấu súp. Nhưng ông tránh mọi lời mời chào thân ái của tôi, mãi cho đến cuộc gặp mặt vào hôm tôi phải lên đường. Một cuộc nói chuyện tĩnh lặng, căng thẳng kéo dài vừa đủ mười lăm phút thì kết thúc. Khi chia tay chiều hôm đó, giữa chúng tôi đã có một sự cảm thông. Nếu Andrew tìm được cách sửa chữa chứng minh thì ông sẽ đến gặp tôi để thảo luận về cuốn phim; còn tôi sẽ chuẩn bị để chờ đợi. Nhưng khi bay về nhà ở London đêm đó thì dường như, đối với tôi, chương trình truyền hình dự định coi như đã chết. Trong suốt ba thế kỷ, chưa từng có ai sửa chữa nổi lỗ hổng trong nhiều chứng minh với ý định giải bài toán Fermat. Lịch sử đầy rẫy những chứng minh sai lầm, và mặc dù tôi rất mong ông là một ngoại lệ, nhưng thật khó mà tưởng tượng được rằng Andrew tuyệt nhiên không phải là một tấm bia khác trong cái nghĩa địa toán học ấy. Một năm sau tôi nhận được một cú điện thoại. Sau một sự xoay chuyển toán học phi thường, và một chớp sáng của trực giác và cảm hứng, Andrew đã đi tới chứng minh kết thúc bài toán Fermat trong cuộc đời nghề nghiệp của ông. Một năm sau nữa, chúng tôi sắp xếp được thời gian cho ông để tập trung làm phim. Vào thời gian đó tôi cũng đã mời Simon Singh cùng với tôi làm phim, và cùng dành thì giờ với Andrew, để lắng nghe từ bản thân con người này toàn bộ câu chuyện về bảy năm 12 định lý cuối cùng của fermat nghiên cứu biệt lập và một năm đau khổ tiếp theo đó của ông. Khi quay phim, Andrew nói với chúng tôi những cảm xúc sâu kín nhất của ông về những gì ông đã làm mà trước đó ông chưa hề nói với ai; rằng trong suốt ba mươi năm ông đã đeo đẳng giấc mơ thuở thiếu thời ra sao; rằng rất nhiều phần toán học mà ông đã phải nghiên cứu, do không có sự hiểu biết thấu đáo ở thời kỳ đó, thực sự là để tập hợp các công cụ cần thiết nhằm giải quyết sự thách thức của định lý Fermat, một thách thức đã thống trị sự nghiệp của đời ông; về cảm xúc mất mát của ông đối với bài toán mà nó sẽ không còn là người bạn đường của ông nữa; và về cảm xúc trào dâng của sự giải thoát mà giờ đây ông đang cảm thấy. Đối với một lĩnh vực mà thực chất nội dung của nó quá khó về mặt kỹ thuật để một khán giả không chuyên có thể hiểu được như ta có thể hình dung, thì mức độ xúc cảm trong cuộc nói chuyện của chúng tôi lớn hơn bất kỳ một thứ gì khác mà tôi đã từng trải nghiệm trong nghề làm phim khoa học của mình. Đối với Andrew, đó là sự kết thúc một chương trong cuộc đời của ông. Đối với tôi, đó là một đặc ân để được gần gũi với nó. Cuốn phim đã được phát trên Đài truyền hình BBC với tiêu đề Horizon: Định Lý cuối cùng của Fermat. Giờ đây, trong cuốn sách này, Simon Singh đã phát triển những ý tưởng và những cuộc nói chuyện thân mật đó, cùng với những chi tiết hết sức phong phú trong câu chuyện về Fermat cũng như trong lịch sử và toán học tạo nên bối cảnh của câu chuyện này. Cuốn sách đã mô tả một cách đầy đủ và sáng rõ một trong những câu chuyện vĩ đại nhất trong tư duy nhân loại. John Lynch Giám đốc Chương trình Horizon của Đài truyền hình BBC Tháng 3 năm 1997 13 phần đầu Lời tựa Câu chuyện về Định lý cuối cùng của Fermat gắn bó một cách khăng khít với lịch sử toán học, nó đụng chạm đến tất cả những chủ đề chủ yếu của lý thuyết số. Nó cho ta một cái nhìn thấu đáo về vấn đề dẫn dắt toán học, và có lẽ quan trọng hơn, là cái đã truyền cảm hứng cho các nhà toán học. Định lý cuối cùng nằm trong phần cốt lõi của một huyền thoại đầy hấp dẫn về lòng can đảm, sự lừa bịp, xảo quyệt và bi kịch, có dính dáng đến tất cả những nhân vật vĩ đại nhất của toán học. Định lý cuối cùng của Fermat có nguồn gốc từ trong toán học cổ Hy Lạp, hai ngàn năm trước khi Pierre de Fermat dựng nên bài toán dưới dạng chúng ta biết hôm nay. Vì thế, nó kết nối những nền tảng của toán học được sáng tạo bởi Pythagore với những tư tưởng tinh vi nhất của toán học hiện đại. Để viết cuốn sách này, tôi lựa chọn một cấu trúc biên niên sử là chủ yếu, bắt đầu bằng việc mô tả đặc tính cách mạng của trường phái Pythagore, và kết thúc với câu chuyện về cá nhân của Andrew Wiles trong cuộc đấu tranh của ông tìm cách chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat. Chương 1 nói về câu chuyện của Pythagore, và mô tả định lý Pythagore như là tổ tiên trực tiếp của Định lý cuối cùng ra sao. Chương này cũng thảo luận một vài khái niệm cơ bản của toán học sẽ được nhắc đến trong suốt quyển sách. Chương 2 kể câu chuyện từ cổ Hy Lạp đến nước Pháp thế kỷ 17, nơi Pierre de Fermat đã sáng tạo ra một câu đố sâu sắc nhất trong lịch sử toán học. Để trình bày tính cách phi thường của Fermat và những đóng góp của ông đối với toán học, những đóng 14 định lý cuối cùng của fermat góp vượt xa ra ngoài Định lý cuối cùng, tôi đã dành một số trang để mô tả cuộc sống của ông, và một số trong những khám phá sáng chói khác của ông. Chương 3 và 4 mô tả một số ý đồ chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat trong thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Mặc dù những cố gắng này kết thúc thất bại nhưng chúng đã tạo ra một kho khổng lồ các kỹ thuật và công cụ toán học mà một số trong chúng đã được sử dụng trong những ý đồ chứng minh Định lý cuối cùng gần đây nhất. Bên cạnh việc mô tả toán học, tôi cũng đã dành phần lớn những chương này cho các nhà toán học, những người đã bị ám ảnh bởi di sản của Fermat. Những câu chuyện của họ cho thấy các nhà toán học đã được chuẩn bị ra sao để hy sinh mọi thứ trong cuộc tìm kiếm chân lý, và toán học đã tiến triển như thế nào qua các thế kỷ đó. Những chương còn lại của quyển sách ghi chép những sự kiện phi thường trong bốn mươi năm gần đây đã tạo nên những thay đổi cách mạng trong việc nghiên cứu Định lý cuối cùng của Fermat. Đặc biệt là chương 6 và chương 7 tập trung vào công trình của Andrew Wiles, mà những đột phá của nó trong thập kỷ vừa qua đã làm cộng đồng toán học phải kinh ngạc. Những chương sau dựa trên các cuộc phỏng vấn mở rộng đối với Wiles. Đây là cơ hội duy nhất đối với tôi, trước hết để được nghe một trong những cuộc hành trình trí tuệ phi thường nhất của thế kỷ 20 và tôi hy vọng rằng tôi đã có thể truyền đạt được tính sáng tạo và chủ nghĩa anh hùng cần phải có trong suốt mười năm thử thách của Wiles đến độc giả. Trong khi kể lại câu chuyện về Pierre de Fermat và câu đố hóc búa của ông, tôi đã cố gắng mô tả những khái niệm toán học mà không dùng đến các phương trình, nhưng thỉnh thoảng cũng không thể tránh để cho mấy chữ x, y, z chẳng thú vị gì xuất hiện. Khi các phương trình xuất hiện trong từng vấn đề, tôi đã cố gắng cung cấp một sự giải thích để sao cho thậm chí độc giả không có kiến thức về toán học vẫn có thể hiểu được ý 15 phần đầu nghĩa của chúng. Đối với những độc giả có kiến thức về chủ đề này sâu hơn một chút, tôi đã cung cấp một loạt các Phụ lục nhằm mở rộng các ý tưởng toán học được trình bày trong vấn đề chính. Cuốn sách này sẽ không thể ra mắt nếu không có sự giúp đỡ và tham gia của nhiều người. Đặc biệt tôi muốn cảm ơn Andrew Wiles vì đã phải từ bỏ nếp sống bình thường để trả lời những cuộc phỏng vấn dài dòng và chi tiết trong thời gian phải chịu những áp lực căng thẳng. Trong suốt bảy năm trời làm một nhà báo khoa học, tôi chưa bao giờ gặp người nào có một nỗi say đắm và tinh thần dâng hiến cho mục tiêu của mình lớn hơn thế, và tôi mãi mãi biết ơn giáo sư Wiles vì sự sẵn sàng chia sẻ câu chuyện của ông với tôi. Tôi cũng muốn cảm ơn các nhà toán học khác đã giúp đỡ tôi viết cuốn sách này và đã cho phép tôi phỏng vấn một thời gian dài. Một số trong các nhà toán học đó đã dính dáng sâu sắc đến việc giải quyết Định lý cuối cùng của Fermat, trong khi một số khác là những nhân chứng đối với những sự kiện lịch sử trong bốn chục năm vừa qua. Thì giờ tôi dành để lục vấn và tán chuyện với họ thật vô cùng thú vị và tôi đánh giá cao sự kiên trì và nhiệt tình của họ trong việc giải thích rất nhiều khái niệm toán học đẹp đẽ cho tôi. Simon Singh Thakari, Phagwara 1997 16 định lý cuối cùng của fermat I “Có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây...” Người ta sẽ còn nhớ tới Archimede trong khi có thể sẽ lãng quên Eschyle, bởi vì các ngôn ngữ rồi sẽ chết, nhưng các tư tưởng toán học thì sẽ còn mãi. “Bất tử” là một từ trống rỗng, nhưng một nhà toán học có nhiều khả năng được hưởng hương vị của nó hơn bất cứ một ai khác. G. H. Hard Cambridge, ngày 23 tháng 6 năm 1993 Đó là một hội nghị toán học quan trọng nhất thế kỷ. Có tới hai trăm nhà toán học tham dự. Có lẽ chỉ một phần tư trong số họ hiểu được một cách đầy đủ mấy chiếc bảng dày đặc những tính toán đại số và các ký hiệu Hy Lạp. Số còn lại ngồi đó cốt được chứng kiến điều mà họ hy vọng sẽ là một sự kiện lịch sử thực sự. Những lời đồn đại đã được loan truyền từ hôm trước. Qua thư từ điện tử trao đổi trên Internet, người ta phong thanh đoán được rằng hội nghị này sẽ đạt tới điểm kết thúc trong việc chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat, một bài toán nổi tiếng nhất thế giới. Nhưng những loại tin đồn kiểu như thế này không hiếm. Đề tài về định lý Fermat vốn thường xuyên xuất hiện vào những giờ giải lao uống trà và các nhà toán học say sưa đưa ra những phỏng đoán này nọ về ai đó trong số họ đã làm được điều này điều kia. Đôi khi, ngay 17 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây trong phòng họp cổ kính này, những cuộc trao đổi nghề nghiệp kín đáo cũng lại biến thành những lời đồn đại về một đột phá nào đó, nhưng rồi cuối cùng cũng chẳng đi đến đâu. Nhưng lần này, tin đồn khác hẳn. Một nhà nghiên cứu trẻ ở Cambridge đã tin chắc đến mức sẵn sàng đặt 10 bảng Anh cho người ghi sổ đánh cược về lời giải bài toán đó sẽ được đưa ra trong tuần này. Tuy nhiên, người ghi đánh cuộc đã đánh hơi thấy nguy hiểm nên từ chối không nhận số tiền đặt cược đó. Đây là nghiên cứu sinh thứ năm đặt cược cùng một số tiền như thế trong ngày. Mặc dù thực tế là những bộ óc vĩ đại nhất của hành tinh đã phải nhức đầu vì bài toán Fermat trong suốt ba thế kỷ nay, nhưng giờ đây ngay cả người ghi đánh cuộc cũng bắt đầu ngờ rằng lần này không phải như vậy nữa. Ba chiếc bảng đen đã được viết kín đặc những tính toán và người trình bày dừng lại để chiếc bảng thứ nhất được lau đi, rồi lại tiếp tục. Mỗi một dòng tính toán dường như lại thêm một bước nhỏ nữa tiến gần tới lời giải, nhưng sau ba mươi phút rồi mà diễn giả vẫn chưa hề tuyên bố định lý đã được chứng minh. Các giáo sư chen chúc ngồi ở hàng ghế đầu nôn nóng chờ lời kết luận. Số đông nghiên cứu sinh và sinh viên đứng ở phía sau nhìn các bậc đàn anh một cách dò xét với hy vọng từ nét mặt hoặc thái độ của họ có thể đoán được ra điều mà diễn giả sẽ kết luận. Liệu phiên họp đang diễn ra có đi tới một chứng minh hoàn chỉnh của Định lý cuối cùng không hay là diễn giả mới chỉ phác ra một sơ đồ chứng minh còn chưa hoàn chỉnh? Diễn giả đây là Andrew Wiles, một người Anh kín đáo, đã định cư ở Mỹ từ những năm 1980 và hiện là giáo sư toán ở đại học 18 định lý cuối cùng của fermat Princeton. Tại đây ông đã nổi tiếng là một trong số những nhà toán học xuất sắc nhất của thế hệ mình. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây ông đã biến mất trong những hội nghị và các seminar thường niên, khiến cho các đồng nghiệp đã bắt đầu nghĩ rằng sự nghiệp của Wiles đã kết thúc. Việc tinh hoa của những bộ óc trẻ tuổi và xuất sắc phát tiết hết quá sớm cũng là chuyện thường tình, như nhà toán học Alfred Adler đã từng nói: “Cuộc đời toán học của một nhà toán học rất ngắn ngủi. Sức làm việc khó mà tốt hơn được sau hai mươi lăm hoặc ba mươi tuổi. Trước thời gian đó mà chưa làm được điều gì thật đáng kể thì sau đó sẽ không thể có được nữa”. “Những người trẻ tuổi phải chứng minh các định lý, còn những ông già thì nên ngồi viết sách” - đó là lời nhận xét của nhà toán học G. H. Hardy trong cuốn sách Lời xin lỗi của một nhà toán học. “Đừng bao giờ có nhà toán học nào được quên rằng toán học hơn bất cứ một bộ môn nghệ thuật hay khoa học nào khác là sân chơi của những người trẻ tuổi. Một minh họa đơn giản là tuổi bình quân của những người được bầu vào Hội Hoàng gia Luân Đôn thấp nhất là trong lĩnh vực toán học”. Chính một học trò xuất sắc nhất của Hardy là Srinivasa Ramanujan đã được bầu vào Hội Hoàng gia chỉ mới ở tuổi 31, sau khi đã thực hiện được một loạt những đột phá quan trọng ở tuổi thanh niên. Mặc dù thời niên thiếu ở làng Kumbakonam quê hương ông (phía Nam Ấn Độ), Ramanujan không được học tập đến nơi đến chốn, nhưng ông đã phát minh ra những định lý và những lời giải mà các nhà toán học phương Tây không biết. Trong toán học, kinh nghiệm có được cùng với tuổi tác dường như không quan trọng bằng trực giác và sự táo bạo của tuổi trẻ. Khi Ramanujan gửi những kết quả của mình cho Hardy, 19 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây vị giáo sư đại học Cambridge này đã khâm phục tới mức mời anh hãy bỏ ngay công việc của một viên chức hạng bét ở Nam Ấn Độ để tới học ở trường Trinity College (một trường đại học nổi tiếng của Anh quốc), nơi anh có điều kiện được tiếp xúc với những nhà lý thuyết số hàng đầu thế giới. Thật đáng buồn thay, khí hậu mùa đông ở miền Đông nước Anh quá khắc nghiệt đối với Ramanujan, khiến anh mắc bệnh lao và mất ở tuổi 33. Nhiều nhà toán học khác cũng xuất sắc không kém, nhưng sự nghiệp cũng thật ngắn ngủi. Nhà toán học Na Uy thế kỷ XIX, Niels Henrik Abel, cũng đã có những đóng góp vĩ đại nhất của ông cho toán học ở tuổi 19 và chỉ tám năm sau đã qua đời trong nghèo khổ, cũng do bệnh lao phổi. Một người cùng thời và cũng xuất sắc không kém Abel là Evarist Galois, ông đã có những đột phá quan trọng khi tuổi đời còn chưa tới 20 và cũng chết một cách bi thảm ở tuổi 21. Nêu ra những ví dụ này không phải để chứng tỏ rằng các nhà toán học đều chết sớm và chết một cách bi thảm, mà thực tế cốt là để cho thấy những ý tưởng xuất sắc nhất của họ thường nảy sinh khi họ còn trẻ và như Hardy có lần đã nói: “Tôi chưa hề biết một tiến bộ toán học quan trọng nào lại được thực hiện bởi một người đã ở tuổi ngoại ngũ tuần”. Các nhà toán học đã đứng tuổi thường hòa lẫn nhạt nhòa vào cái nền chung, họ sống phần đời còn lại của mình chủ yếu làm công tác giảng dạy hoặc quản lý hơn là nghiên cứu, nhưng đó không phải là trường hợp của Wiles. Mặc dù đã ở tuổi tứ tuần đáng kính, nhưng ông đã dành cả bảy năm trời làm việc một cách hoàn toàn bí mật nhằm giải bài toán vĩ đại nhất của toán học. Trong khi một số người ngờ rằng nguồn sáng tạo của ông đã khô kiệt, Wiles đã đạt được những bước tiến thần kỳ, đã phát minh ra nhiều kỹ thuật và công cụ mà giờ đây ông sắp sửa hé lộ. Quyết 20 định lý cuối cùng của fermat định làm việc hoàn toàn đơn độc của Wiles là một chiến lược có độ rủi ro rất cao, chưa hề có tiền lệ trong thế giới toán học. Khoa toán của các trường đại học có lẽ là nơi ít có những bí mật nhất: thực tế nó không hề có những phát minh được cấp bằng sáng chế. Cộng đồng của khoa thường tự hào về sự trao đổi tự do, cởi mở và giờ giải lao uống trà đã trở thành tục lệ hàng ngày, ở đó người ta chia sẻ, phân tích những khái niệm bên những cốc trà đen và bánh biscuit. Kết quả là người ta thấy ngày càng có nhiều bài báo được công bố ký tên của nhiều đồng tác giả hoặc cả một nhóm các nhà toán học và do đó vinh quang sẽ được chia đều cho tất cả. Tuy nhiên, nếu như giáo sư Wiles thực sự đã chứng minh được một cách hoàn chỉnh Định lý cuối cùng của Fermat, thì cái giải thưởng toán học được mơ ước nhất sẽ chỉ thuộc về ông, một mình ông mà thôi. Nhưng ông sẽ phải trả giá cho điều đó, bởi vì trước đấy những ý tưởng của ông không được thảo luận và phán xét bởi cộng đồng các nhà toán học, nên rất có nguy cơ phạm một sai lầm cơ bản nào đó. Wiles cũng muốn dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra lại toàn bộ bản thảo cuối cùng của mình, nhưng cơ hội hiếm hoi được công bố phát minh của mình tại Viện Isaac Newton ở Cambridge khiến ông đành phải từ bỏ sự thận trọng đó. Mục tiêu duy nhất của Viện này là tập hợp những bộ óc xuất sắc nhất thế giới trong một vài tuần lễ để họ tổ chức các seminar về những đề tài mũi nhọn nhất theo sự lựa chọn của họ. Tọa lạc ở góc xa của khuôn viên trường đại học, xa sinh viên và những nơi ồn ào, tòa nhà của Viện được thiết kế đặc biệt nhằm tạo cho các học giả có điều kiện tập trung vào việc trao đổi và tranh luận. Ở đây không có những hành lang kín đáo để ẩn mình, tất cả các phòng làm việc đều nhìn ra một hội trường 21 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây trung tâm. Các nhà toán học được khuyến khích dành nhiều thời gian ở hội trường này chứ không giam mình kín mít trong phòng làm việc. Sự hợp tác ngay khi đi lại trong Viện cũng được khuyến khích, ngay trong thang máy lên xuống chỉ có ba tầng cũng treo sẵn một chiếc bảng đen. Thực ra tất cả các phòng trong Viện này, kể cả phòng tắm, cũng đều có treo bảng cả. Lần này, seminar ở Viện Newton được thông báo có tiêu đề: “Về các hàm -L và Số học”. Rất nhiều nhà lý thuyết hàng đầu trên khắp thế giới đã tụ hội về đây để thảo luận về một lĩnh vực chuyên môn rất cao siêu của toán học thuần túy, nhưng chỉ có Wiles là biết được rằng chính các hàm này nắm giữ chiếc chìa khóa để chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat. Mặc dù được trình bày công trình của mình trước những cử tọa xuất sắc như thế này là một cơ hội rất hấp dẫn, nhưng nguyên nhân chính để Wiles chọn Viện Newton để làm việc là bởi Cambridge là thành phố quê hương ông. Chính đây là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, nơi đã hình thành và phát triển niềm đam mê của ông đối với các con số, và cũng là nơi ông phát hiện ra bài toán mà ông đã đeo đẳng suốt phần còn lại của cuộc đời mình. Bài toán cuối cùng Năm 1963, lúc mới lên 10 tuổi, Wiles đã rất mê toán. “Tôi rất ham làm các bài tập toán ở trường, tôi mang cả về nhà và còn sáng tạo ra những bài toán của riêng tôi. Nhưng bài toán hay nhất mà tôi đã phát hiện ra đó là bài toán tôi tìm thấy trong thư viện thành phố”. Một lần, trên đường từ trường về nhà, Wiles quyết định ghé vào thư viện thành phố nằm trên phố Milton Road. So với thư viện của các trường đại học thì đây là một thư viện khá nghèo nàn, nhưng 22 định lý cuối cùng của fermat Andrew Wiles ở tuổi lên mười khi lần đầu tiên bắt gặp Định lý Fermat 23 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây ở đây cũng có một bộ sách về các câu đố khá phong phú, đó là một đề tài mà Wiles thường rất quan tâm. Những cuốn sách đó chứa đủ loại những vấn đề khó của khoa học và những câu đố về toán học mà lời giải thường cho sẵn ở cuối sách. Nhưng lần này Andrew lại vớ được cuốn sách chỉ có một bài toán mà lại không có lời giải. Đó là cuốn Bài toán cuối cùng của tác giả Eric Temple Bell. Cuốn sách viết về lịch sử một bài toán có nguồn gốc từ thời cổ Hy Lạp nhưng chỉ đạt tới sự chín muồi của nó vào thế kỷ XVII, khi mà nhà toán học vĩ đại người Pháp tên là Pierre de Fermat lặng lẽ tung ra như một lời thách thức với toàn thế giới. Hết nhà toán học vĩ đại này đến nhà toán học vĩ đại khác đều thất bại trước di sản ấy của Fermat, và trong gần ba thế kỷ không ai giải được bài toán đó. Tất nhiên, trong toán học có nhiều bài toán còn chưa giải được, nhưng bài toán của Fermat trở nên đặc biệt như vậy là do vẻ bề ngoài đơn giản nhưng đầy lừa dối của nó. Ba mươi năm sau lần đầu tiên đọc cuốn sách của Bell, Wiles đã kể lại với tôi cảm giác của ông ở thời điểm làm quen với Định lý cuối cùng của Fermat như sau: “Nó nhìn khá đơn giản thế mà tất cả các nhà toán học vĩ đại trong lịch sử đều không giải được. Đây là một bài toán mà tôi, một cậu bé 10 tuổi, còn hiểu được, và tôi biết rằng từ thời điểm đó tôi sẽ không để cho nó bị sổng mất. Tôi sẽ phải giải được nó”. Sở dĩ bài toán nhìn có vẻ “ngon lành” như vậy là do nó dựa trên một định lý toán học mà hầu hết chúng ta ai cũng biết - định lý Pythagore: Trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. 24 định lý cuối cùng của fermat Với cách phát biểu như câu hát ngắn đó, định lý này đã in đậm trong óc hàng triệu, nếu không muốn nói là hàng tỷ con người. Đây là một định lý cơ bản mà bất cứ một cậu học trò nào cũng buộc phải học. Tuy nhiên, mặc dù ngay cả một cậu bé 10 tuổi cũng có thể hiểu được định lý đó, nhưng sáng tạo của Pythagore đã là cảm hứng để dẫn đến một bài toán đã từng thách thức những bộ óc toán học vĩ đại nhất trong lịch sử. Pythagore xứ Samos là một trong số những nhân vật có nhiều ảnh hưởng và còn nhiều bí ẩn nhất trong toán học. Do không có những thông tin chuẩn về cuộc đời và các công trình của ông, nên bao quanh nhân vật này là cả một bức màn huyền thoại và truyền thuyết, khiến cho các nhà lịch sử khó mà phân biệt được đâu là sự thật, đâu là hư cấu. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là Pythagore đã phát triển ý tưởng về logic số và là người đã tạo ra thời kỳ hoàng kim đầu tiên trong toán học. Chính nhờ thiên tài của ông mà các con số không còn đơn thuần chỉ dùng để đếm và tính toán mà còn có giá trị nội tại riêng của chúng nữa. Ông đã nghiên cứu tính chất của những con số đặc biệt, những mối quan hệ giữa chúng và những hình mẫu do chúng tạo nên. Pythagore đã nhận thấy các con số tồn tại độc lập với thế giới, sờ mó được và do đó sự nghiên cứu chúng sẽ giúp ta tránh được sự thiếu chính xác của cảm giác. Điều này nghĩa là ông có thể phát hiện ra những chân lý độc lập với những quan niệm hoặc định kiến và do đó những chân lý ấy có tính tuyệt đối hơn so với bất kỳ tri thức nào đã biết trước đó. Sống ở thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, Pythagore đã lĩnh hội được nhiều tri thức toán học thông qua những chuyến chu du trong khắp thế giới cổ đại. Người ta kể rằng ông đã tới tận Ấn Độ và xứ 25 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Bretagne, nhưng điều chắn chắn hơn là ông đã thu thập được nhiều kỹ thuật và công cụ toán học từ những người Ai Cập và Babilon. Cả hai dân tộc cổ xưa này đều đã vượt ra ngoài giới hạn của sự đo đếm thuần túy, họ đã thực hiện những phép tính phức tạp cho phép tạo ra được các hệ đếm tinh xảo và xây dựng nên những công trình đồ sộ. Thật ra, họ coi toán học thuần túy chỉ là công cụ để giải quyết những bài toán thực tế, động cơ phía sau việc phát minh ra một số quy tắc hình học là để họ dựng lại được ranh giới những mảnh ruộng đã bị xóa sạch bởi nạn lụt hằng năm của sông Nil. Chính bản thân chữ “geometry” (hình học) có nghĩa là “đạc điền”. Pythagore đã quan sát thấy rằng những người Ai Cập và Babilon tiến hành mỗi tính toán đều theo một “công thức” mà người ta áp dụng nó một cách mù quáng. Những “công thức” như vậy được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và luôn luôn cho đáp số đúng, nên không ai bận tâm kiểm tra lại hoặc phân tích logic đằng sau những phương trình đó. Điều quan trọng đối với các nền văn minh này là những tính toán đó phải cho kết quả đúng, còn lý do tại sao lại như vậy thì họ không mấy quan tâm. Sau khoảng hai mươi năm chu du thiên hạ, Pythagore đã nắm được hầu như tất cả những quy tắc toán học của thế giới mà ông biết. Ông trở về quê hương Samos của mình, một hòn đảo ở biển Aege, với ý định thành lập một trường chuyên nghiên cứu triết học và đặc biệt là nghiên cứu những quy tắc toán học mà ông mới lĩnh hội được. Ông muốn tìm hiểu các con số chứ không đơn thuần chỉ sử dụng chúng. Ông hy vọng sẽ tìm được nhiều thanh niên với tư tưởng tự do giúp được ông phát triển những triết lý mới và cấp tiến. Nhưng trong thời gian ông xa quê hương, tên bạo chúa Polycrates 26 định lý cuối cùng của fermat đã biến Samos vốn từng là hòn đảo tự do thành một xã hội bảo thủ và cố chấp. Polycrates đã mời Pythagore tới cung đình của mình, nhà triết học hiểu ngay rằng đó chẳng qua chỉ là thủ đoạn nhằm bịt miệng ông và ông đã từ chối vinh dự đó. Ông bỏ thành phố quê hương tới sống trong một hang đá ở một nơi hoang vắng trên đảo, nơi ông có thể tự do suy tư mà không bị quấy rầy. Sự đơn độc đè nặng lên cuộc sống của Pythagore và cuối cùng ông đã phải bỏ tiền cho một chú bé để nó đồng ý là học trò của mình. Mặc dù nhân thân của người học trò đầu tiên này còn nhiều điều đáng ngờ, theo một số nhà lịch sử thì tên cậu ta cũng là Pythagore và sau này cũng được nổi tiếng, là người đầu tiên cho rằng các vận động viên điền kinh cần phải ăn thịt để tăng cường thể chất của mình. Pythagore-thầy đã phải trả cho Pythagore-trò mỗi buổi học ba “oboli” và chỉ sau vài tuần ông thầy nhận thấy rằng sự ngại học ban đầu của trò đã chuyển thành niềm ham mê hiểu biết thực sự. Để đo lường mức độ thành công của mình, Pythagore giả vờ nói rằng ông không thể trả tiền cho học sinh được nữa và đành phải dừng lại không thể dạy tiếp. Nghe thấy vậy, cậu học sinh bèn đề nghị sẽ trả tiền thầy chứ không chịu ngừng học. Bây giờ cậu học trò đã trở thành một môn đồ thực sự. Thật không may đó là sự chuyển đổi duy nhất mà Pythagore thực hiện được ở Samos. Cũng đã có một trường được biết tới dưới cái tên Hemicycle Pythagore, tuy nhiên những quan niệm của ông về cải cách xã hội không được chấp nhận, cuối cùng nhà triết học đành phải cùng với mẹ và một môn đồ duy nhất khăn gói ra đi. Pythagore lên thuyền đi tới miền Nam Italia, hồi đó còn thuộc Hy Lạp. Ông dừng chân ở Croton, tại đây ông đã may mắn tìm được 27 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây một người bảo trợ lý tưởng, đó là Milo, một cự phú ở Croton và cũng là một trong số những người khỏe nhất trong lịch sử. Mặc dù tiếng tăm của Pythagore đã lan truyền khắp Hy Lạp như một nhà thông thái của Samos, nhưng tiếng tăm của Milo còn nổi hơn nhiều. Ông này là người có thân hình như Hercule và đã từng mười hai lần đoạt chức vô địch trong các cuộc thi đấu Olympic và Pythic. Ngoài điền kinh ra, Milo còn rất trân trọng và nghiên cứu cả triết học và toán học, ông đã dành một phần ngôi nhà của mình để Pythagore đủ chỗ lập một trường học. Đây chính là hiện thân của sự kết hợp giữa một bộ óc sáng tạo nhất với một cơ thể cường tráng nhất. Sau khi an cư trong ngôi nhà mới, Pythagore đã lập nên Hội ái hữu, gồm tới sáu trăm môn đồ, những người không chỉ có khả năng hiểu được những điều do ông giảng dạy mà còn làm phong phú thêm bằng những ý tưởng và chứng minh mới. Khi gia nhập Hội, mỗi môn đồ phải hiến toàn bộ tài sản của mình cho một quỹ chung và nếu có ai đó muốn rời Hội, thì họ sẽ nhận được số tài sản lớn gấp đôi so với số tài sản đóng góp lúc ban đầu và sẽ được dựng một tấm bia đá để tưởng nhớ. Hội ái hữu là một tổ chức bình đẳng, có cả một số phụ nữ. Một đồ đệ yêu của Pythagore chính là cô con gái của Milo, cô Theano xinh đẹp, mặc dù chênh lệch về tuổi tác, cuối cùng họ cũng đã cưới nhau. Ít lâu sau khi thành lập Hội ái hữu, Pythagore đã phát minh ra từ “philosopher”, nghĩa là triết gia đồng thời cũng là mục đích của Hội. Trong thời gian dự các cuộc thi đấu Olympic, Leon - Hoàng tử xứ Phlius - có hỏi Pythagore: “ông tự định nghĩa mình là người như thế nào?”. Pythagore đáp: “Tôi là một triết gia”, nhưng Leon chưa bao giờ nghe thấy từ đó nên đề nghị Pythagore giải thích. 28 định lý cuối cùng của fermat “Thưa Hoàng tử, cuộc sống cũng có thể được so sánh với những cuộc thi đấu đang diễn ra kia, bởi vì trong đám đông bạt ngàn tụ tập ở đây, có những người đến để kiếm lợi, có những người đến với hy vọng được nổi tiếng và vinh quang nhưng cũng có một số ít người tới để quan sát và tìm hiểu tất cả những gì đang diễn ra ở đây. Cuộc sống cũng như vậy. Một số người được dẫn dắt bởi ham muốn của cải, một số khác lại được dẫn dắt một cách mù quáng bởi sự thèm khát điên cuồng đối với quyền lực và sự thống trị, nhưng người cao thượng nhất là người hiến dâng mình cho sự nghiệp tìm ra ý nghĩa và mục đích của chính cuộc sống, là người tìm cách phát hiện ra những bí mật của tự nhiên. Tôi gọi người đó là triết gia, bởi vì mặc dù không có ai thông thái trên mọi phương diện, nhưng người đó có thể yêu sự thông thái như là chìa khóa mở ra mọi bí mật của tự nhiên.” Có nhiều người biết những khát vọng của Pythagore, nhưng những người ở ngoài Hội thì không thể biết được quy mô cũng như các chi tiết trong những thành công của ông. Mỗi một thành viên của trường phải tuyên thệ không được để lộ ra ngoài bất kỳ một phát minh toán học nào. Sau khi Pythagore qua đời, một thành viên của Hội đã bị dìm chết vì không giữ được lời thề: anh ta đã tiết lộ phát minh của Hội về một khối đa diện đều mới, đó là khối tạo bởi 12 ngũ giác đều. Tính bí mật rất cao của Hội ái hữu là một phần của nguyên nhân dẫn tới những huyền thoại xung quanh những nghi lễ lạ lùng mà có thể Hội này đã tiến hành, và điều này cũng giải thích tại sao có rất ít những bằng chứng về các thành tựu toán học mà Hội đã đạt được. Điều mà người ta biết chắc chắn, đó là Pythagore đã thiết lập được một đạo lý làm thay đổi đường hướng 29 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây phát triển của toán học. Có thể nói Hội ái hữu là một cộng đồng mang tính chất tôn giáo, mà một trong những thần tượng mà nó tôn thờ là Con số. Những thành viên của Hội cho rằng thông qua việc tìm hiểu những mối quan hệ giữa các con số, họ sẽ phát hiện ra những bí mật tâm linh của Vũ trụ và tiến gần hơn tới các thần. Hội đặc biệt quan tâm nghiên cứu những số đếm (1, 2, 3...) và các phân số. Những số đếm này cũng còn được gọi là các số nguyên dương hay số tự nhiên, và cùng với các phân số (tức tỷ số của hai số nguyên), theo thuật ngữ chuyên môn, được gọi là các số hữu tỷ. Trong vô hạn các con số, Hội ái hữu tìm kiếm các số có tầm quan trọng đặc biệt đối với họ, trong đó đặc biệt nhất là các số được gọi là “hoàn hảo”. Theo Pythagore, sự hoàn hảo của các con số phụ thuộc vào các ước số của nó (tức là những số mà số đó chia hết). Ví dụ, số 12 có các ước số là 1, 2, 3, 4 và 6. Khi tổng các ước số của một số lớn hơn chính số đó thì nó được gọi là số “dôi”. Số 12 là một số dôi vì tổng các ước số của nó là 16. Trái lại, khi tổng các ước số của một số nhỏ hơn chính số đó thì nó được gọi là số “khuyết”. Ví dụ, 10 là số khuyết bởi vì tổng các ước số của nó (là 1, 2 và 5) chỉ bằng 8. Các số có ý nghĩa nhất và cũng hiếm hoi nhất là những số có tổng các ước số bằng chính số đó và đấy là những “số hoàn hảo”. Số 6 có các ước số là 1, 2 và 3, do đó nó là số hoàn hảo bởi vì 1+ 2 + 3 = 6. Số hoàn hảo tiếp theo là 28, bởi vì 1 + 2 + 4 + 7 + 14 = 28. Ngoài ý nghĩa toán học đối với Hội ái hữu, sự hoàn hảo của các con số 6 và 28 cũng đã được thừa nhận bởi các nền văn hóa khác, trong đó người ta quan sát thấy rằng Mặt trăng quay một vòng xung quanh Trái đất hết 28 ngày hay cho rằng Chúa đã tạo ra thế giới 30 định lý cuối cùng của fermat trong 6 ngày. Trong cuốn Thành phố của Chúa, thánh Augustine khẳng định rằng mặc dù Chúa thừa sức tạo ra thế giới trong chớp mắt, nhưng Người đã quyết định làm trong 6 ngày để phản ánh sự hoàn hảo của Vũ trụ. Ngoài ra, ông còn cho rằng con số 6 là hoàn hảo không phải do Chúa đã chọn nó mà bởi vì sự hoàn hảo là một thuộc tính cố hữu của con số đó: “Số 6 tự nó đã là hoàn hảo chứ không phải Chúa đã tạo ra vạn vật trong 6 ngày; thực ra thì ngược lại mới đúng, Chúa tạo ra vạn vật trong 6 ngày bởi vì đó là con số hoàn hảo và nó vẫn cứ là hoàn hảo thậm chí nếu như chuyện đó không xảy ra.” Các số nguyên dương càng lớn thì các số hoàn hảo càng trở nên khó tìm hơn. Số hoàn hảo thứ ba người ta tìm được là số 496, số thứ tư là 8.128, số thứ năm là 33.550.336 và số thứ sáu là 8.589.869.056. Pythagore còn nhận thấy rằng các số hoàn hảo ngoài tính chất cũng là tổng của các ước số, chúng còn có nhiều tính chất khác cũng rất lý thú. Ví dụ, các số hoàn hảo luôn bằng tổng của dãy các số nguyên dương. Chẳng hạn, ta có: 6 = 1 + 2 + 3, 28 = 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7, 496 = 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9 + ...+ 30 + 31, 8.128 = 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9 + ...+ 126 + 127. Pythagore rất đam mê các con số hoàn hảo, nhưng ông không hài lòng chỉ gói gọn ở mức độ thu thập các con số đó, mà còn muốn phát hiện ra những ý nghĩa sâu xa của chúng. Một trong số những phát hiện của ông là sự hoàn hảo gắn liền với “tính nhị phân”. Các con số 4 = 2⋅2, 8 = 2⋅2⋅2, 16 = 2⋅2⋅2⋅2, v.v., như ta đã biết, đều được biểu diễn qua các lũy thừa của 2 và có thể được viết dưới dạng 2n, 31 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây với n con số 2 nhân với nhau. Tất cả những lũy thừa của 2 này chỉ suýt soát là số hoàn hảo vì tổng các ước số của chúng chỉ nhỏ hơn chính số đó có một đơn vị, nghĩa là các số này là những số chỉ hơi khuyết: 22 = 2⋅2 = 4 Các ước số: 1, 2 Tổng = 3, 23 = 2⋅2⋅2 = 8 Các ước số: 1, 2, 4 Tổng = 7, 24 = 2⋅2⋅2⋅2 = 16 Các ước số: 1, 2, 4, 8 Tổng = 15, 25 = 2⋅2⋅2⋅2⋅2 = 32 Các ước số: 1, 2, 4, 8, 16 Tổng = 31. Hai thế kỷ sau Euclid đã “tinh luyện” thêm mối quan hệ giữa “tính nhị phân” và “tính hoàn hảo”. Ông đã phát hiện ra rằng các số hoàn hảo luôn bằng tích của hai số, trong đó một số là lũy thừa của 2 và số kia là lũy thừa tiếp sau của 2 trừ đi 1. Cụ thể là: 6 = 21 (22 - 1) 28 = 22 (23 - 1) 496 = 24 (25 - 1) 8.128 = 26 (27 - 1) Các máy tính hiện nay vẫn tiếp tục săn tìm các số hoàn hảo và nó đã tìm được một số cực lớn có dạng: 2216090 (2216091 - 1), đây là con số có hơn 130.000 chữ số và tuân theo đúng qui tắc của Euclid. Pythagore mê đắm cấu trúc và những tính chất phong phú của các số hoàn hảo cũng như khâm phục trước sự tinh tế và kì diệu của chúng. Thoạt nhìn, tính hoàn hảo là một khái niệm tương đối dễ dàng nắm bắt, thế mà những người cổ Hy Lạp vẫn không thể phát hiện ra một số điểm cơ bản của nó. Chẳng hạn như có rất nhiều các số có tổng các ước số chỉ nhỏ hơn chính các số đó một đơn vị, tức là chỉ hơi khuyết một chút thôi, nhưng dường như lại không tồn tại các số chỉ hơi 32 định lý cuối cùng của fermat dôi. Những người cổ Hy Lạp không thể tìm được số nào có tổng các ước số lớn hơn chính số đó một đơn vị, mà họ cũng không giải thích được tại sao lại như vậy. Một điều hết sức thất vọng là mặc dù họ không phát hiện được các số hơi dôi, nhưng họ cũng không chứng minh được các số đó là không tồn tại. Biết được tại sao không tồn tại những số hơi dôi, tất nhiên, chẳng có một ý nghĩa thực tế nào, nhưng đó là vấn đề có thể soi sáng bản chất của các con số và do đó đáng để ta nghiên cứu. Những câu đố kiểu như vậy rất hấp dẫn Hội ái hữu của Pythagore và trong suốt hơn hai ngàn rưỡi năm sau, các nhà toán học vẫn chưa thể chứng minh được những con số hơi dôi là không tồn tại. Tất cả đều là con số Ngoài việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các con số, Pythagore cũng rất quan tâm tới mối liên hệ giữa các con số và tự nhiên. Ông nhận thấy rằng các hiện tượng tự nhiên được chi phối bởi các qui luật và các qui luật này đều có thể được diễn tả bởi các phương trình toán học. Một trong số những mối liên hệ mà Pythagore đã phát hiện ra là mối quan hệ cơ bản giữa sự hài hòa của âm nhạc và sự hài hòa của các con số. Nhạc cụ quan trọng nhất thời cổ Hy Lạp là cây đàn lyre bốn dây. Trước Pythagore, một số nhạc sĩ đã biết rằng một số nốt nhạc khi hòa với nhau sẽ tạo ra một hiệu quả âm thanh thú vị và họ thường chỉnh đàn sao cho khi bật hai dây cùng một lúc sẽ tạo được một sự hòa âm như vậy. Tuy nhiên, họ không hiểu được tại sao một số nốt lại hài hòa với nhau và do đó không có được một hệ thống khách quan để chỉnh các nhạc cụ của họ. Họ chỉ chỉnh theo đôi tai của họ 33 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây cho đến khi cảm thấy nghe đã êm tai - một quá trình mà Platon gọi là “sự hành hạ các nút chỉnh nhạc”. Iamblichus, một học giả ở thế kỷ IV đã viết chín cuốn sách về giáo phái Pythagore, đã mô tả về quá trình Pythagore phát hiện ra những nguyên lý nằm sau các nhạc cụ như sau: Một lần Pythagore nảy ra ý định chế tạo một dụng cụ bổ trợ cho thính giác, sao cho vừa hiệu quả vừa chính xác. Dụng cụ này có thể sánh với la bàn, thước kẻ và các dụng cụ quang học bổ trợ cho thị giác. Tương tự, xúc giác cũng có sự cân đo của nó. Do một sự tình cờ may mắn, ông đi qua gần một xưởng lò rèn và nghe thấy tiếng những chiếc búa đập xuống sắt tạo ra trong đó sự hài hòa rất phong phú của những tiếng dội, trừ duy nhất một tổ hợp âm thanh. Theo Iamblichus, Pythagore chạy ngay vào xưởng rèn để nghiên cứu sự hòa âm của những chiếc búa. Ông nhận thấy rằng phần lớn những chiếc búa đập đồng thời đều tạo ra những âm thanh hài hòa, trong khi đó một tổ hợp có chứa một chiếc búa đặc biệt lại luôn luôn cho những âm thanh nghe rất chói tai. Ông phân tích những chiếc búa và phát hiện ra rằng những chiếc búa cho âm thanh hài hòa với nhau có một quan hệ toán học rất đơn giản: khối lượng của chúng bằng một phân số đơn của nhau. Cụ thể là những chiếc búa này có khối lượng bằng 1/2, 2/3 hay 3/4 khối lượng của một chiếc búa nào đó trong nhóm. Trái lại, chiếc búa khi đập cùng những chiếc búa khác gây ra những âm thanh chối tai là chiếc búa có khối lượng không thỏa mãn hệ thức nói trên so với những chiếc búa khác trong nhóm. Như vậy Pythagore đã phát hiện ra rằng chính những tỷ số đơn giản trên đã tạo ra sự hài hòa trong âm nhạc. Một số nhà khoa học 34 định lý cuối cùng của fermat không tin lắm vào câu chuyện trên của Iamblichus, nhưng chắc chắn cách thức mà Pythagore đã áp dụng lý thuyết mới của mình về các tỷ số âm nhạc cho cây đàn lyre là bằng cách xem xét những tính chất của một dây riêng rẽ. Chỉ đơn giản gảy dây đó lên là phát ra một nốt chuẩn hay một tone, âm này do toàn bộ chiều dài của dây rung động tạo ra. Bằng cách giữ chặt dây đàn ở những điểm cụ thể nào đó dọc theo chiều dài của dây là có thể tạo ra những dao động và nốt nhạc khác như minh họa trên Hình 1. Điều cực kỳ quan trọng là những nốt đó chỉ hài hòa ở những điểm rất xác định. Ví dụ, bằng cách cố định dây đàn tại điểm ở chính giữa của nó, khi gảy lên, ta sẽ nhận được một nốt cao hơn một quãng tám và nốt này hài hòa với nốt ban đầu. Tương tự, nếu ta cố định dây đàn tại điểm ở đúng một phần ba, một phần tư hay một phần năm chiều dài của nó, thì sẽ nhận được những nốt hài hòa khác. Nhưng nếu cố định dây đàn không ở đúng những điểm có tính chất đó thì nốt nhạc tạo ra sẽ không hài hòa với những nốt khác. Pythagore cũng là người đầu tiên phát hiện ra quy tắc toán học chi phối các hiện tượng vật lý và chứng minh được rằng có một mối quan hệ cơ bản giữa toán học và khoa học. Từ khi có phát minh đó, các nhà khoa học đã lao vào tìm kiếm những quy tắc toán học chi phối từng quá trình vật lý và nhận thấy rằng các con số đã xuất hiện trong tất cả các hiện tượng tự nhiên theo đủ mọi cách. Ví dụ, có một con số đặc biệt đã xuất hiện và giữ vai trò quyết định trong việc đo chiều dài của rất nhiều con sông. Giáo sư Hans-Henrik Stlum, nhà khoa học về Trái đất thuộc trường đại học Cambridge đã tiến hành tính toán tỷ số giữa chiều dài thực của các con sông, từ nguồn đến cửa sông, và độ dài tính theo đường chim bay của 35 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây chúng. Mặc dù tỷ số này có giá trị khác nhau đối với các con sông khác nhau, nhưng tính trung bình thì nó chỉ lớn hơn 3 một chút, tức là có thể nói rằng chiều dài thực của các con sông chỉ lớn hơn chiều dài theo đường chim bay của chúng gần ba lần. Thực ra, tỷ số này xấp xỉ bằng 3,14, rất gần với số π, tức là tỷ số giữa chu vi và đường kính của hình tròn. Số π ban đầu được dẫn ra từ hình học của các vòng tròn, nhưng nó xuất hiện lại nhiều lần trong các bối cảnh khoa học rất khác nhau. Trong trường hợp tỷ số chiều dài của các con sông, sự xuất hiện của số π là do sự cạnh tranh giữa trật tự và hỗn độn. Einstein là người đầu tiên nêu ra ý tưởng cho rằng các con sông ngày càng có xu hướng đi theo một đường vòng khép kín, bởi vì một độ cong dù nhỏ cũng sẽ làm cho dòng chảy của nó trở nên mạnh hơn ở phía ngoài, tạo ra sự xói lở mạnh hơn và con sông trở nên uốn cong nhiều hơn. Sự uốn cong càng nhiều thì dòng chảy ở phía ngoài lại càng mạnh, sự xói lở càng gia tăng và con sông lại càng bị uốn cong hơn nữa... Nhưng trong thực tế, có một hiện tượng tự nhiên kiềm chế sự hỗn độn đó: sự tăng độ uốn cong của các con sông cuối cùng sẽ làm cho chúng quanh trở lại và chập vào chính nó. Con sông sẽ trở nên thẳng hơn khi để lại một vòng khép kín của nó sang một bên dưới dạng một cái hồ hình sừng bò. Sự cân bằng giữa hai nhân tố đối nghịch nhau này dẫn tới tỷ số trung bình giữa chiều dài thực và chiều dài theo đường chim bay của các con sông gần bằng số π. Tỷ số này thường được tìm thấy đối với các con sông chảy hiền hòa trong vùng bình nguyên thoai thoải ở Braxin hay vùng Siberi. Pythagore đã nhận thấy rằng các con số ẩn giấu trong vạn vật, từ những hòa âm trong âm nhạc cho tới quỹ đạo của các hành tinh, 36 định lý cuối cùng của fermat Hình 1. Một dây đàn dao động tự do sẽ phát ra một âm cơ bản. Bằng cách tạo một nút ở chính giữa chiều dài của nó (tức cố định không cho dây dao động tại điểm đó), nốt được tạo ra sẽ cao hơn nốt cơ bản một quãng tám. Nếu ta di chuyển điểm nút này tới những điểm ứng với chiều dài là phân số đơn (ví dụ như bằng một phần ba, một phần tư hay một phần năm, chẳng hạn) của chiều dài dây đàn thì ta sẽ nhận được các hợp âm khác. 37 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây và điều đó khiến ông phải tuyên bố rằng: “Tất cả đều là Con số”. Thông qua sự khám phá ý nghĩa của toán học, Pythagore đã phát triển được một ngôn ngữ cho phép ông và những người khác mô tả được bản chất của Vũ trụ. Từ đó, mỗi một đột phá trong toán học lại cung cấp cho các nhà khoa học từ vựng mà họ cần để giải thích tốt hơn những hiện tượng diễn ra xung quanh. Thực tế, những phát triển trong toán học còn kích thích những cuộc cách mạng trong khoa học. Khi phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn, Newton đã là một nhà toán học kiệt xuất. Đóng góp vĩ đại nhất của ông cho toán học là phát triển phép tính vi tích phân, và trong những năm sau đó, các nhà vật lý đã dùng ngôn ngữ của phép tính này để mô tả tốt hơn các định luật về hấp dẫn và giải các bài toán về hấp dẫn. Lý thuyết cổ điển của Newton về hấp dẫn đã tồn tại hàng thế kỷ cho tới khi bị thuyết tương đối rộng của Einstein thay thế lý thuyết mới này đưa ra một cách giải thích khác, chi tiết hơn về hấp dẫn. Những ý tưởng riêng của Einstein chỉ có thể thực hiện được là do đã có các khái niệm toán học mới, cung cấp cho ông một ngôn ngữ tinh xảo hơn, phù hợp với những ý tưởng khoa học phức tạp hơn của ông. Ngày nay, sự giải thích hấp dẫn lại một lần nữa chịu ảnh hưởng của những đột phát trong toán học. Những lý thuyết lượng tử mới nhất về hấp dẫn gắn liền với sự phát triển của các dây toán học, đây là một lý thuyết trong đó các tính chất hình học và tôpô của các ống dường như có thể giải thích tốt nhất các lực trong tự nhiên. Trong số tất cả các mối liên hệ giữa các con số và tự nhiên được Hội ái hữu của Pythagore nghiên cứu, quan trọng nhất có lẽ là hệ thức mang tên người sáng lập ra nó. Định lí Pythagore cho ta một 38 định lý cuối cùng của fermat phương trình đúng đối với tất cả các tam giác vuông và do đó nó cũng là phương trình định nghĩa chính các tam giác đó. Mà góc vuông lại xác định đường vuông góc, tức là quan hệ giữa đường thẳng đứng và đường nằm ngang và xét cho đến cùng cũng là quan hệ của ba chiều trong Vũ trụ quen thuộc của chúng ta. Như vậy, toán học thông qua các góc vuông xác định chính cấu trúc của không gian chúng ta đang sống. Đây là một nhận thức rất sâu sắc, nhưng kiến thức toán học cần thiết để lĩnh hội định lý này lại tương đối đơn giản. Để hiểu được nó ta chỉ cần bắt đầu bằng việc đo chiều dài hai cạnh góc vuông (x và y), sau đó bình phương các số đo được (x2 và y2) rồi cộng lại (x2 + y2) ta sẽ tìm được con số cuối cùng. Nếu bạn tìm con số đó cho tam giác vuông trên hình 2, thì đáp số là 25. Bây giờ bạn hãy tiến hành đo cạnh huyền (z), rồi bình phương con số đo được. Bạn sẽ nhận thấy kết quả thật lý thú: số z2 đúng bằng con số bạn vừa tính được ở trên, tức là 52 = 25. Điều này có nghĩa là: Trong một tam giác vuông, bình phương của cạnh huyền đúng bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Nói một cách khác: x2 + y2 = z2 Điều này rõ ràng là đúng đối với tam giác trên hình 2, nhưng tuyệt vời ở chỗ định lý Pythagore đúng với bất kỳ một tam giác vuông nào mà bạn có thể tưởng tượng ra. Đây là một quy luật phổ quát của toán học và bạn có thể dựa vào nó bất cứ khi nào bạn gặp một tam giác có góc vuông. Ngược lại, nếu bạn có một tam giác 39 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây x = 3, y = 4, z = 5 x2 + y2 = z2 32 + 42=52 Hình 2. Tất cả các tam giác vuông đều tuân theo định lý Pythagore. tuân theo định lý Pythagore, thì bạn có thể tuyệt đối tin tưởng rằng đó là một tam giác vuông. ở đây cũng cần phải nói rõ rằng mặc dù định lý này luôn luôn gắn liền với tên tuổi của Pythagore, nhưng thực ra nó đã được người Trung Hoa và người Babylon sử dụng từ hơn 1.000 năm trước đó. Tuy nhiên, các nền văn hóa này lại không biết được rằng định lý đó đúng với mọi tam giác vuông. Chắc chắn là nó đúng đối với tất cả các tam giác vuông mà họ đã kiểm tra, nhưng họ không có cách nào chứng tỏ được rằng nó cũng đúng với cả những tam giác vuông mà họ chưa kiểm tra. Lý do để khẳng định nó trở thành một định lý là ở chỗ Pythagore là người đầu tiên chứng minh được nó là một chân lý phổ biến. Nhưng làm thế nào mà Pythagore biết được rằng định lý của ông đúng với mọi tam giác vuông? Tất nhiên, ông không thể hy vọng kiểm tra được hết một số vô hạn các tam giác vuông và do đó chưa thể tin chắc một trăm phần trăm định lý của mình là tuyệt đối đúng. Lý do để Pythagore tin tưởng vào sự đúng đắn của mình nằm trong khái niệm chứng minh toán học. Sự tìm tòi một chứng minh toán học cũng chính là sự tìm tòi một tri thức có tính tuyệt đối hơn tri thức đã được tích lũy bởi bất cứ một bộ môn nào khác. Khát vọng tìm kiếm chân lý tối hậu thông qua phương pháp chứng minh chính là động lực thôi thúc các nhà toán học trong suốt 2.500 năm qua. 40 định lý cuối cùng của fermat Chứng minh tuyệt đối Câu chuyện về định lý cuối cùng của Fermat xoay quanh việc tìm kiếm một chứng minh đã thất lạc. Chứng minh toán học có công hiệu và chặt chẽ hơn rất nhiều so với khái niệm chứng minh mà chúng ta đôi khi vẫn dùng trong ngôn ngữ hằng ngày, hoặc thậm chí khái niệm chứng minh như các nhà vật lý và hóa học vẫn hiểu. Sự khác nhau giữa chứng minh trong khoa học nói chung và trong toán học là điều khá tinh tế và sâu sắc, đồng thời cũng là điều hết sức quan trọng để hiểu được công việc của tất cả các nhà toán học kể từ thời Pythagore. ý tưởng về một chứng minh toán học kinh điển được bắt đầu từ một loạt các tiên đề, tức là các mệnh đề được coi là đúng hoặc là một sự thật hiển nhiên. Sau đó bằng những suy luận logic, từng bước một, người ta đi tới một kết luận. Nếu những tiên đề là đúng và quá trình suy luận logic không có sai sót thì kết luận rút ra là không thể phủ nhận được. Và kết luận đó chính là một định lý. Những chứng minh toán học dựa trên quá trình suy luận logic này và một khi đã được xác lập, chúng sẽ còn đúng mãi mãi. Những chứng minh toán học là tuyệt đối. Để đánh giá hết ý nghĩa của những chứng minh toán học ta hãy so sánh nó với người họ hàng “bình dân” hơn, đó là những chứng minh trong khoa học. Trong khoa học, người ta đưa ra một giả thuyết để giải thích một hiện tượng vật lý. Nếu những quan sát về hiện tượng phù hợp tốt với giả thuyết nêu ra, thì đó là một bằng chứng có lợi cho giả thuyết đó. Hơn thế nữa, giả thuyết này có thể không chỉ đơn thuần mô tả được hiện tượng đang xét mà còn tiên đoán được các hiện tượng khác. Khi đó người ta sẽ tiến hành những thực nghiệm nhằm kiểm 41 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây tra sức mạnh tiên đoán của giả thuyết và nếu như vẫn tiếp tục thành công thì lại có thêm những bằng chứng mới hậu thuẫn cho nó. Cuối cùng, nếu như những bằng chứng trở nên áp đảo, thì giả thuyết đó sẽ được thừa nhận là một lý thuyết khoa học. Lý thuyết khoa học không bao giờ được chứng minh ở mức tuyệt đối như một định lý toán học: nó đơn thuần chỉ được xem là có tính hợp lý cao trên cơ sở những bằng chứng hiện có. Chứng minh khoa học dựa trên quan sát và cảm thức, mà cả hai cái đó đều có thể sai lầm và chỉ cho ta sự mô tả gần đúng của chân lý. Như Bertrand Russell đã chỉ ra: “Mặc dù điều này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng toàn bộ khoa học chính xác đều được ngự trị bởi ý tưởng gần đúng”. Ngay cả những “chứng minh” khoa học được chấp nhận rộng rãi nhất đi nữa cũng luôn lảng vảng đâu đó một tí chút nghi ngờ. Đôi khi sự nghi ngờ này thu nhỏ dần, mặc dù không bao giờ biến mất hoàn toàn, nhưng trong nhiều trường hợp khác sự chứng minh đó cuối cùng hóa ra lại là sai. Chính những điểm yếu này của các chứng minh khoa học thường dẫn tới những cuộc cách mạng trong khoa học, trong đó một lý thuyết đã từng được xem là đúng đắn được thay thế bằng một lý thuyết khác, có thể chỉ đơn thuần là sự hoàn thiện hơn lý thuyết cũ, nhưng cũng có thể là hoàn toàn mâu thuẫn với lý thuyết cũ. Ví dụ, công cuộc tìm kiếm các hạt cơ bản của vật chất thuộc mỗi thế hệ các nhà vật lý có thể làm đảo lộn hoặc ít nhất cũng làm hoàn thiện thêm lý thuyết của các bậc tiền bối. Cuộc săn tìm này về thực chất bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX khi mà hàng loạt thực nghiệm đã dẫn John Dalton đi tới giả thuyết rằng mọi vật đều được cấu thành từ các nguyên tử gián đoạn và các nguyên tử chính là các hạt cơ bản. 42 định lý cuối cùng của fermat Tới cuối thế kỷ đó, J.J. Thomson đã phát hiện ra electron, đây là hạt nội nguyên tử đầu tiên được biết tới, và do đó nguyên tử không còn là hạt cơ bản nữa. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà vật lý đã xây dựng được một bức tranh “hoàn chỉnh” về nguyên tử: nó gồm một hạt nhân cấu tạo bởi các proton và neutron, và có các electron quay xung quanh. Khi này proton, neutron và electron được kiêu hãnh xem là những thành phần hoàn chỉnh của Vũ trụ. Nhưng sau đó những thực nghiệm với tia vũ trụ lại phát hiện ra sự tồn tại của nhiều hạt cơ bản khác, như pion và muon. Và một cuộc cách mạng lớn hơn đã nổ ra sau khi người ta phát hiện ra phản vật chất vào năm 1932, đó là sự phát hiện ra phản-electron (hay positron) và sau đó là phản-proton, phản-neutron, v.v.. Vào thời đó các nhà vật lý hạt không chắc là còn tồn tại bao nhiêu hạt khác nữa, nhưng ít nhất thì họ cũng tin chắc rằng những hạt mà họ vừa tìm được thực sự là cơ bản. Điều này kéo dài cho đến tận những năm 1960, khi khái niệm về các hạt quark ra đời. Người ta thấy rằng bản thân proton dường như lại được cấu tạo từ các hạt quark có điện tích phân số; và các hạt neutron, pion và muon cũng như vậy. Bài học “luân lý” rút ra từ câu chuyện này là các nhà vật lý luôn luôn thay đổi bức tranh của mình về Vũ trụ, nếu không muốn nói là xoá sạch nó và làm tất cả lại từ đầu. Trong thập niên tiếp sau, chính quan niệm coi các hạt như những điểm toán học thậm chí có thể được thay thế bằng quan niệm coi các hạt như các dây - chính là các dây đã cho giải thích tốt nhất về hấp dẫn mà ta đã nói tới ở trên. Theo lý thuyết mới này, các dây có chiều dài chỉ cỡ một phần tỷ tỷ tỷ (10-27) mét (nhỏ tới mức chúng dường như là các điểm) có thể dao động 43 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây theo những cách khác nhau và mỗi dao động đó làm xuất hiện một hạt1. Điều này tương tự với phát hiện của Pythagore thấy rằng một dây đàn có thể tạo ra các nốt khác nhau tùy thuộc vào việc nó dao động như thế nào. Nhà văn khoa học viễn tưởng và cũng là nhà tương lai học Arthur C. Clarke đã viết rằng nếu một giáo sư xuất chúng nào đó tuyên bố một điều gì đó là chắc chắn đúng thì rất có thể ngày hôm sau nó lại được chứng minh là sai. Chứng minh khoa học là không mấy vững chắc và dễ đổ vỡ. Trái lại, chứng minh toán học là tuyệt đối và nằm ngoài mọi nghi ngờ. Pythagore chết với niềm tin sâu sắc rằng định lý của ông, một định lý đúng vào năm 500 trước Công nguyên, vẫn sẽ còn đúng mãi mãi. Khoa học vận hành tựa như hệ thống tòa án. Một lý thuyết được coi là đúng nếu nó có đủ bằng chứng chứng tỏ rằng “nó nằm ngoài mọi sự nghi ngờ hợp lý nào”. Trái lại, toán học không dựa trên những bằng chứng rút ra từ thực nghiệm vốn dễ mắc sai sót mà dựa trên logic chặt chẽ. Điều này được minh họa bằng bài toán bàn cờ bị cắt góc dưới đây (xem H.3). Ta có một bàn cờ bị cắt đi hai góc đối diện, khiến cho nó chỉ còn lại 62 ô. Bây giờ ta lấy 31 quân đôminô có kích thước sao cho mỗi quân đặt vừa khít hai ô bàn cờ. Bài toán đặt ra là có thể dùng 31 quân đôminô nói trên phủ kín toàn bộ 62 ô của bàn cờ bị cắt hai góc hay không? 1. Bạn đọc muốn biết thêm về lý thuyết này có thể xem cuốn Giai điệu dây và bản giao hưởng Vũ trụ, một cuốn sách phổ biến rất thành công của nhà vật lý xuất sắc người Mỹ mới 37 tuổi, Brian Greene, bản dịch tiếng Việt của Phạm Văn Thiều do Tạp chí Tia Sáng và Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành tháng 3 năm 2003. (ND) 44 định lý cuối cùng của fermat Có hai cách tiếp cận bài toán này. (1) Cách tiếp cận kiểu khoa học Nhà khoa học chắc hẳn sẽ thử giải bài toán trên bằng con đường thực nghiệm, và sau khi mày mò khoảng vài ba chục cách xếp, anh ta phát hiện ra rằng không thể xếp được. Cuối cùng, nhà khoa học tin là đã có đủ bằng chứng để nói rằng không thể phủ kín bàn cờ bằng 31 quân đôminô. Tuy nhiên, nhà khoa học không bao giờ có thể đảm bảo chắc chắn rằng điều đó là đúng, bởi vì biết đâu có một cách xếp nào đó mà anh ta chưa thử lại phủ kín được bàn cờ thì sao. Thực tế, có hàng triệu cách sắp xếp mà ta chỉ có thể khảo sát được Hình 3. Bài toán bàn cờ bị cắt góc 45 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây một phần rất nhỏ trong đó mà thôi. Kết luận rằng nhiệm vụ đặt ra không thể thực hiện được là một lý thuyết dựa trên thực nghiệm, và nhà khoa học đành phải sống với nỗi phấp phỏng rằng một ngày nào đó lý thuyết này có thể sẽ bị lật đổ. (2) Cách tiếp cận toán học Nhà toán học sẽ thử trả lời câu hỏi đặt ra bằng cách phát triển những lập luận logic để dẫn tới một kết luận đúng đắn không thể bác bỏ và sẽ còn đúng mãi mãi. Một trong những cách lập luận đó như sau: - Hai góc bị cắt của bàn cờ đều là hai ô trắng. Như vậy còn lại 32 ô đen và chỉ có 30 ô trắng. - Mỗi quân đôminô phủ kín hai ô cạnh nhau mà các ô cạnh nhau lại luôn luôn có màu khác nhau, một trắng và một đen. - Như vậy, bất kể cách sắp xếp là như thế nào, 30 quân đôminô đầu tiên được đặt trên bàn cờ sẽ phủ kín 30 ô trắng và 30 ô đen. - Do đó, dù xếp thế nào thì cuối cùng cũng sẽ còn lại một quân đôminô và hai ô đen. - Nhưng cần nhớ rằng tất cả các quân đôminô đều phủ kín hai ô cạnh nhau và các ô cạnh nhau đều khác màu. Tuy nhiên, vì hai ô còn lại đều cùng màu, nên chúng không thể được phủ kín chỉ bởi một quân đôminô. Do đó việc phủ kín bàn cờ bị cắt góc bằng các quân đôminô là không thể làm được. Chứng minh trên cho thấy rằng mọi cách sắp xếp các quân đôminô đều không thể phủ kín bàn cờ bị cắt góc. Tương tự, Pythagore đã xây dựng được một phương pháp chứng minh cho thấy mọi tam giác vuông đều phải tuân theo định lý của ông. Đối 46 định lý cuối cùng của fermat với Pythagore, khái niệm chứng minh toán học là điều gì đó rất thiêng liêng và cũng chính phép chứng minh đã cho phép Hội ái hữu của ông phát minh ra rất nhiều điều. Những chứng minh toán học hiện đại cực kỳ phức tạp và theo một logic mà người bình thường không thể hiểu nổi; nhưng may mắn thay, trong trường hợp định lý Pythagore, đó là những suy luận tương đối dễ hiểu và chỉ dựa trên những kiến thức toán học ở trường trung học. Chứng minh này được trình bày ngắn gọn trong Phụ lục I ở cuối sách. Chứng minh của Pythagore là không thể bác bỏ được. Nó chứng tỏ rằng định lý của ông đúng với mọi tam giác vuông trong Vũ trụ. Phát minh này đã gây xúc động tới mức cả một trăm con bò đã phải hiến sinh để tỏ lòng biết ơn đối với các vị thần. Chứng minh của Pythagore là một cột mốc trong toán học và cũng là một trong những đột phá quan trọng nhất trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Tầm quan trọng của nó nằm ở hai khía cạnh. Thứ nhất, nó đã đưa ra được ý tưởng về sự chứng minh toán học. Một kết quả toán học được chứng minh mang tính chân lý sâu sắc hơn bất cứ kết quả nào khác vì nó được rút ra theo logic diễn dịch. Mặc dù nhà triết học Thales cũng đã phát minh ra một số chứng minh hình học thô sơ, nhưng Pythagore mới là người đưa ý tưởng đó đi xa hơn nhiều và chứng minh được những mệnh đề toán học tài tình hơn rất nhiều. Hệ quả thứ hai của định lý Pythagore là ở chỗ nó gắn phương pháp toán học trừu tượng với một cái gì đó cụ thể hơn. Nghĩa là Pythagore đã cho thấy rằng chân lý toán học có thể áp dụng cho thế giới khoa học và cung cấp cho nó một nền tảng logic. Toán học cho khoa học một sự khởi đầu chặt chẽ và trên cái nền tảng vững chắc đó, các nhà khoa học thêm vào các phép đo và những quan sát không hoàn toàn chính xác. 47 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Vô số các bộ ba Với sự sốt sắng tìm kiếm chân lý thông qua chứng minh, Hội ái hữu của Pythagore đã thổi vào toán học một sức sống mới. Tin tức về những thành công của họ lan đi rất xa nhưng những chi tiết về các phát minh của họ thì vẫn còn là những bí mật được giữ kín. Nhiều người xin được nhận vào thánh đường tri thức đó, nhưng chỉ những bộ óc xuất sắc nhất mới được chấp nhận. Một trong số những người nhận được phiếu chống nhiều nhất có tên là Cyclon. Coi việc không được chấp nhận là một sự sỉ nhục lớn, hai mươi năm sau Cyclon đã quyết định trả thù. Trong thời gian thi đấu Olympic lần thứ sáu mươi bảy (năm 510 trước Công nguyên) đã xảy ra một cuộc nổi loạn ở thành phố Sybaris bên cạnh. Telys - người lãnh đạo thành công vụ nổi loạn - đã bắt đầu một chiến dịch đàn áp man rợ những người đã từng ủng hộ chính phủ trước đó. Điều này khiến cho nhiều người tìm tới thánh đường tri thức ở Croton. Telys yêu cầu tất cả những kẻ phản bội phải quay trở về Sybaris để chịu hình phạt, nhưng Milo và Pythagore đã thuyết phục các công dân Croton đứng dậy chống tên bạo chúa và bảo vệ những người di tản. Telys nổi giận và ngay lập tức tập hợp một đội quân gồm 300.000 người hành tiến tới Croton, nơi mà Milo tổ chức phòng thủ thành phố với 100.000 công dân có vũ trang. Sau bảy mươi ngày chiến đấu ác liệt dưới sự lãnh đạo tối cao của Milo, những người phòng thủ đã chiến thắng và để trả thù, họ đã nắn lại dòng chảy của sông Crathis làm cho thành phố Sybaris bị ngập lụt và tàn phá. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nhưng thành phố Croton vẫn còn nhốn nháo về việc phân chia chiến lợi phẩm. Sợ rằng đất đai sẽ về 48 định lý cuối cùng của fermat tay nhóm những người ưu tú của Pythagore, dân chúng ở Croton bắt đầu tỏ ra bất bình. Họ ngày càng mất cảm tình với Hội ái hữu vì Hội vẫn giữ kín những phát minh của mình, nhưng thực tế vẫn chưa có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra cho tới khi Cyclon công khai đứng ra như tiếng nói đại diện của dân chúng. Cyclon đã kích thích nỗi sợ hãi, chứng hoang tưởng, lòng ghen tỵ của đám đông và lôi kéo họ tới phá tan ngôi trường toán học xuất sắc nhất mà loài người đã từng thấy. Ngôi nhà của Milo và ngôi trường kế bên bị bao vây, tất cả các cửa ra vào bị khóa và chèn chặt để không cho ai chạy thoát ra ngoài, rồi sau đó họ châm lửa đốt. Milo tìm đủ mọi cách thoát ra được khỏi ngọn lửa địa ngục này, nhưng Pythagore cùng với nhiều môn đệ của ông đã bị thiêu chết trong đó. Toán học thế là đã mất đi người anh hùng vĩ đại đầu tiên của mình, nhưng tinh thần của Pythagore thì còn sống mãi. Những con số và các chân lý về chúng sẽ là bất tử. Pythagore đã chứng minh được rằng, hơn bất cứ một bộ môn nào khác, toán học hoàn toàn không mang dấu ấn chủ quan. Các học trò của Pythagore không cần phải có thầy của mình cũng có thể quyết định được một lý thuyết cụ thể nào đó là đúng hay sai. Sự đúng đắn của một lý thuyết không phụ thuộc vào quan điểm nào. Thay vì thế, việc xây dựng logic toán học đã trở thành người trọng tài quyết định chân lý. Đây là đóng góp to lớn nhất của Pythagore cho văn minh nhân loại - nó cho ta con đường đạt tới chân lý nằm ngoài lý trí hay sai sót của con người. Sau cuộc tấn công của Cyclon và cái chết của người thầy, Hội ái hữu rời Croton tới nhiều thành phố khác của Hy Lạp, nhưng sự truy nã vẫn tiếp tục khiến cho nhiều người trong số họ phải sinh 49 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây 32 + 42 = 52, 9 + 16 = 25 Hình 4. Việc tìm các nghiệm nguyên của phương trình Pythagore có thể thay bằng việc tìm hai hình vuông cộng lại tạo nên hình vuông thứ ba. Ví dụ, hình vuông gồm 9 ô có thể cộng với hình vuông 16 ô tạo thành hình vuông 25 ô. sống ở nước ngoài. Sự di trú bắt buộc này đã khuyến khích các học trò của Pythagore truyền bá rộng rãi những bí mật toán học thiêng liêng của họ ra khắp thế giới cổ đại. Họ lập ra các trường học mới và dạy cho học sinh của họ phương pháp chứng minh logic. Ngoài chứng minh định lý Pythagore, họ còn giải thích cho mọi người rõ bí mật của việc tìm ra bộ ba số Pythagore. Bộ ba số Pythagore là tổ hợp của ba số nguyên thỏa mãn phương trình Pythagore: x2 + y2 = z2. Ví dụ, phương trình Pythagore được nghiệm đúng nếu lấy x = 3, y = 4 và z = 5: 32 + 42 = 52, 9 + 16 = 25 Một cách khác để tìm bộ ba số Pythagore là tìm tòi thông qua việc sắp xếp lại các hình vuông. Nếu ta có một hình vuông 3⋅3, gồm 9 ô và một hình vuông 4⋅4 gồm 16 ô, thì sau đó tất cả các ô có thể được sắp xếp lại để tạo thành một hình vuông 5⋅5 gồm 25 ô, như được minh họa trên Hình 4. 50 định lý cuối cùng của fermat Các học trò của Pythagore muốn tìm những bộ ba số Pythagore khác, những hình vuông khác mà khi cộng lại tạo nên hình vuông thứ ba, lớn hơn. Ví dụ như bộ ba: x = 5, y = 12 và z =13: 52 + 122 = 132 , 25 + 144 = 169 Một bộ ba số Pythagore lớn hơn nữa là x = 99, y = 4.900 và z = 4.901. Khi các số lớn dần lên, các bộ ba số Pythagore trở nên hiếm hoi hơn, và do đó việc tìm chúng càng trở nên khó khăn hơn. Để tìm ra ra nhiều bộ ba số Pythagore nhất có thể được, những người trong Hội của Pythagore đã phát minh ra một cách rất có hệ thống để tìm kiếm chúng và khi làm như thế họ đã chứng minh được rằng có một số vô hạn các bộ ba số Pythagore. Từ định lý Pythagore đến Định lý Cuối cùng của Fermat Định lý Pythagore và vô số các bộ ba số của nó đã được thảo luận trong cuốn Bài toán cuối cùng của tác giả E.T. Bell, cuốn sách trong thư viện thành phố đã thu hút sự chú ý của Andrew Wiles. Mặc dù Hội ái hữu đã đạt được sự hiểu biết gần như đầy đủ về các bộ ba số Pythagore, nhưng Wiles đã nhanh chóng phát hiện ra rằng phương trình x2 + y2 = z2 bề ngoài trong trắng như thế nhưng cũng có mặt tối của nó. Và thực tế quyển sách của Bell đã mô tả sự tồn tại của một con quỷ toán học. Trong phương trình của Pythagore, ba con số x, y và z đều được bình phương: x2 + y2 = z2 51 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Tuy nhiên, quyển sách cũng đề cập tới một phương trình chị em với nó, trong đó các số x, y và z đều được lập phương, nghĩa là lũy thừa của các số đó không phải là bậc 2 nữa mà là bậc 3: x3 + y3 = z3 Tìm các nghiệm là số nguyên, tức là các bộ ba số Pythagore, của phương trình ban đầu tương đối dễ dàng, nhưng khi thay lũy thừa từ “2” lên “3” (tức là từ bình phương sang lập phương) thì việc tìm nghiệm trở nên không thể làm được. Nhiều thế hệ các nhà toán học đã từng nháp mòn bút mà không tìm được bộ số nguyên nào thỏa mãn phương trình đó. Với phương trình “bình phương” gốc, sự thách thức là ở chỗ sắp xếp lại các ô trong hai hình vuông để tạo thành hình vuông thứ ba, lớn hơn. Trong trường hợp “lập phương”, đó là sự sắp xếp 63 + 83 = 93 - 1 216 + 512 = 729 - 1 Hình 5. Liệu có thể cộng những khối vuông nhỏ từ một hình lập phương này vào một hình lập phương khác để tạo thành hình lập phương thứ ba không? Trong trường hợp hình trên, khối lập phương 6⋅6⋅6 cộng với khối lập phương 8⋅8⋅8 chưa đủ các khối vuông nhỏ để tạo thành khối lập phương 9⋅9⋅9. Cụ thể là có 216 (63) khối vuông nhỏ trong hình lập phương thứ nhất và 512 (83) khối vuông nhỏ trong hình lập phương thứ hai. Như vậy, có tổng cộng 728 khối vuông nhỏ, còn thiếu 1 khối nữa mới đủ 93. 52 định lý cuối cùng của fermat lại các khối vuông nhỏ trong hai hình lập phương để tạo thành một hình lập phương thứ ba, lớn hơn. Người ta thấy dường như cho dù ta có chọn hai khối lập phương ban đầu thế nào đi nữa thì khi tổ hợp lại sẽ nhận được một khối lập phương với một số khối vuông nhỏ còn dư ra hoặc là nhận được một khối lập phương khuyết. Trường hợp gần với nghiệm nhất là khi khối lập phương thứ ba nhận được còn dư hoặc khuyết một khối vuông nhỏ. Ví dụ nếu chúng ta bắt đầu với các khối lập phương 63 (x3) và 83 (y3) rồi sắp xếp lại các khối vuông nhỏ, chúng ta sẽ nhận được một hình chỉ thiếu một khối vuông nhỏ nữa là thành khối lập phương 9⋅9⋅9 hoàn chỉnh. Việc tìm bộ ba số thỏa mãn phương trình lập phương dường như là không thể làm được. Hay có thể nói, phương trình: x3 + y3 = z3 dường như không có các nghiệm là những số nguyên. Hơn thế nữa, nếu ta thay lũy thừa từ 3 (lập phương) lên một số n bất kỳ cao hơn (chẳng hạn như 4, 5, 6, ...) thì việc tìm nghiệm cũng vẫn dường như là không thể. Nghĩa là dường như phương trình: xn + yn = zn với n là số nguyên lớn hơn 2 (n ∈ Z, n ≥ 2) không có nghiệm là các số nguyên. Như vậy bằng cách đơn giản thay số 2 trong phương trình Pythagore bằng một số nguyên bất kỳ lớn hơn, việc tìm các nghiệm nguyên từ tương đối dễ dàng trở thành một bài toán vô cùng hóc búa. Thực tế, nhà toán học vĩ đại người Pháp, Pierre de Fermat ngay ở thế kỷ XVII đã đưa ra một tuyên bố gây sững sờ nói rằng sở dĩ không ai tìm được các nghiệm đó là bởi vì chúng không hề tồn tại. 53 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Fermat là một trong số những nhà toán học xuất sắc nhất và cũng nhiều bí ẩn nhất trong lịch sử. Tất nhiên, ông không thể kiểm tra hết một số vô hạn các con số, nhưng ông tuyệt đối tin chắc rằng không tồn tại một bộ ba số nguyên nào thỏa mãn phương trình trên, bởi vì lời tuyên bố của ông dựa trên một chứng minh chặt chẽ. Cũng giống như Pythagore, người không cần phải kiểm tra hết mọi tam giác vuông mới chứng tỏ được định lý của mình là đúng đắn, Fermat cũng không cần phải kiểm tra mọi con số mới chứng minh được sự đúng đắn của định lý mà ngày nay người ta gọi là Định lý cuối cùng của Fermat. Như đã biết, định lý này được phát biểu như sau: Phương trình xn + yn = zn, với n là số nguyên lớn hơn 2, không có nghiệm là các số nguyên Khi đọc ngốn ngấu hết chương này đến chương khác trong cuốn sách của Bell, Wiles hiểu được rằng Fermat đã đam mê những công trình của Pythagore đến mức nào và cuối cùng ông đã bắt tay nghiên cứu dạng hóc búa của phương trình Pythagore ra sao. Sau đó Wiles đọc tới đoạn Fermat tuyên bố rằng ngay cả khi tất cả các nhà toán học trên khắp thế giới có bỏ công suốt đời tìm kiếm nghiệm của phương trình đó thì họ cũng không bao giờ tìm thấy. Chắc hẳn đến đây Wiles đã rất nôn nóng lật giở các trang sách với hy vọng nhanh chóng được xem cách chứng minh định lý cuối cùng của Fermat. Nhưng trong sách không hề có chứng minh đó. Và nó cũng chẳng có ở đâu hết. Bell kết thúc cuốn sách với thông báo rằng chứng minh đã bị thất lạc từ rất lâu. Không có một gợi ý là chứng minh đó phải như thế nào, cũng như không có đầu mối nào về cách 54 định lý cuối cùng của fermat xây dựng hay cách rút ra chứng minh đó. Wiles cảm thấy bứt rứt, bực bội và càng trở nên hiếu kỳ hơn, nhưng không chỉ mình cậu mới cảm thấy như thế. Trong suốt hơn ba trăm năm sau, nhiều nhà toán học vĩ đại đã thử phát minh lại chứng minh đã mất của Fermat, nhưng họ đều đã thất bại. Khi mỗi một thế hệ bị thất bại, thế hệ sau lại càng không thỏa mãn và trở nên quyết tâm hơn. Năm 1742, gần một thế kỷ sau khi Fermat qua đời, nhà toán học Thụy Sĩ, Leonhard Euler đã đề nghị bạn mình là Clêrot tới tìm kiếm trong ngôi nhà của Fermat xem may ra có còn lưu giữ được chút giấy tờ quan trọng gì không. Nhưng Clêrot đã không tìm thấy dấu vết gì có liên quan tới chứng minh của Fermat cả. Trong Chương 2, chúng ta sẽ nói kỹ hơn về nhà toán học đầy bí ẩn này và về chuyện định lý của ông đã bị thất lạc như thế nào, còn lúc này chúng ta chỉ cần biết rằng định lý cuối cùng của Fermat, một bài toán đã từng hấp dẫn các nhà toán học trong nhiều thế kỷ, thì giờ đây cũng đã hút mất hồn cậu bé Andrew Wiles. Ngồi trong thư viện phố Milton là cậu bé mới 10 tuổi đầu như bị thôi miên bởi bài toán nổi tiếng nhất của toán học. Thường thì một nửa khó khăn của một bài toán là hiểu được vấn đề của nó, nhưng trong trường hợp này bài toán thật dễ hiểu: Andrew không hề nản lòng khi biết rằng những bộ óc xuất sắc nhất hành tinh đã không phát minh lại được chứng minh đó. Cậu liền bắt tay vận dụng tất cả những kỹ thuật đã biết trong sách giáo khoa, thử sáng tạo lại chứng minh đã mất. Biết đâu cậu sẽ tìm lại được một điều gì đó mà mọi người, trừ Fermat, đã không nhận ra cũng nên. Cậu mơ ước sẽ làm cho cả thế giới phải kinh ngạc. 55 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Ngày 23 tháng 6 năm 1993, Wiles đã đọc báo cáo tại Viện Isaac New ton. Bức ảnh này chụp ngay sau thời điểm Wiles công bố chứng minh Định lý Fermat của ông. Cùng với mọi người trong hội trường, ông không hề có một ý niệm gì về cơn ác mộng đang ở phía trước. Ba mươi năm sau, giờ đây Andrew Wiles đã sẵn sàng. Đứng trong giảng đường của Viện Isaac Newon, ông đã viết kín mít mấy chiếc bảng, rồi sau đó, cố kìm nén sự hân hoan của mình, ông chăm chú nhìn xuống cử tọa. Bài giảng đã đạt đến đỉnh điểm của nó và cả hội trường cũng đều biết như vậy. Có mấy người tới dự đã bí mật mang theo máy ảnh vào hội trường và giờ đây đèn flash bật lia lịa chụp những dòng kết luận của Wiles. Với mẩu phấn trong tay, Wiles quay lại phía bảng lần cuối. Một ít dòng suy luận cuối cùng hoàn tất chứng minh. Thế là lần đầu tiên trong suốt hơn ba trăm năm, thách thức của Fermat đã được đáp lại. Mấy chiếc máy ảnh nữa lại chớp đèn ghi lại khoảnh khắc lịch sử này. Wiles viết lại phát biểu định lý cuối cùng của Fermat rồi quay xuống phía cử tọa nói một cách khiêm tốn: “Có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây”. 56 định lý cuối cùng của fermat Hai trăm nhà toán học vỗ tay và hoan hô chúc mừng. Ngay cả những người đã đoán trước được kết quả cũng cười sung sướng vì không thể tin nổi. Sau ba mươi năm, giờ đây Andrew Wiles tin tưởng rằng ông đã thực hiện được ước mơ thời thơ ấu và sau bảy năm làm việc đơn độc, ông đã có thể công bố những tính toán của mình. Tuy nhiên, trong khi niềm hân hoan đang tràn ngập Viện Newton, thì tấn bi kịch đang chuẩn bị giáng xuống. Và ở thời điểm khi Wiles đang hưởng niềm sung sướng tột đỉnh, thì ông, cùng với mọi người trong phòng lúc đó không thể ngờ rằng nỗi kinh hoàng sắp sửa ập tới. 57 có lẽ tôi xin phép được dừng ở đây Pierre de Fermat 58 định lý cuối cùng của fermat II. tác giả của những câu đố “Ngươi có biết” - Con Quỷ tâm sự - “ngay cả những nhà toán học giỏi nhất trên các hành tinh khác, họ còn uyên bác hơn những nhà toán học của các ngươi nhiều, cũng không giải nổi câu đố đó không? Thì đấy, một gã trên sao Thổ nhìn giống như một cây nấm trên cây cà kheo, gã có thể giải nhẩm các phương trình vi phân đạo hàm riêng, mà cũng phải đầu hàng đó thôi”. Arthur Poges, Con Quỷ và Simon Flagg Pierre Fermat sinh ngày 20 tháng 8 năm 1601 ở Beaumont-de Lomagne thuộc vùng Tây Nam nước Pháp. Cụ thân sinh Fermat, ông Dominique Fermat, là một thương nhân buôn bán da giàu có, đủ khả năng cho Fermat được hưởng một nền giáo dục ưu đãi tại tu viện dòng Francisco ở Grandselve, rồi sau đó chuyển qua học tại trường Đại học Tổng hợp Toulouse. Không một chứng tích nào cho thấy chàng Fermat trẻ tuổi này có biểu hiện đặc biệt đối với toán học. áp lực của gia đình hướng ông vào làm việc ở các cơ quan hành chính và vào năm 1631, ông đã được bổ nhiệm vào Pháp viện Toulouse, tại đây ông đã trở thành luật sư của Phòng Thỉnh cầu. Nếu người dân địa phương muốn thỉnh cầu điều gì đó với Đức Vua thì trước hết họ phải thuyết phục được Fermat hoặc một cộng sự của ông về tầm quan trọng của lời thỉnh cầu đó. Các luật 59 tác giả của những câu đố sư ở Phòng này thực hiện mối liên lạc giữa tỉnh và Paris. Họ cũng là người đảm bảo cho các đạo luật được ban hành ở thủ đô được thực hiện ở các địa phương. Fermat là một viên chức làm việc rất có hiệu quả, ông đã hết lòng thực hiện phận sự của mình một cách chu đáo và đầy cảm thông. Ngoài ra, Fermat còn có nhiệm vụ ở cơ quan tòa án và với kinh nghiệm lâu năm ông thường phải xử lý những vụ gai góc nhất. Nhà toán học người Anh, Sir Kenelm Digby có cho chúng ta biết phần nào về công việc của Fermat. Degby có đề nghị được gặp Fermat, nhưng trong một bức thư gửi một đồng nghiệp chung của hai người là John Wallis, Degby đã tiết lộ rằng ông bạn người Pháp này quá bận bịu với những công việc gấp rút ở tòa án nên không thể nào gặp được: Quả thật tôi lại chọn đúng vào ngày thuyên chuyển các thẩm phán từ Castres đến Toulouse, nơi mà ông ta (Fermat) làm chánh án tòa án tối cao của Pháp viện; từ khi đó ông ta bận bịu suốt ngày với các vụ trọng án và kết thúc ông ta đã tuyên một án gây rất nhiều ầm ĩ. Đó là bản án kết tội một mục sư lạm dụng quyền lực phải bị thiêu trên giàn lửa. Vụ này cũng vừa mới kết thúc và việc hành quyết đã được thực hiện ngay sau đó. Fermat trao đổi thư từ khá đều đặn với Degby và Wallis. Dưới đây chúng ta sẽ thấy rằng những bức thư thường không phải là thân thiết lắm, nhưng chúng cho chúng ta một ý niệm về cuộc sống hàng ngày của Fermat, kể cả công việc khoa học của ông. Fermat thăng tiến rất nhanh trên con đường công danh và đã trở thành một thành viên của giới thượng lưu với chữ de gắn liền tên. Sự thăng quan tiến chức này không phải là do tham vọng của 60 định lý cuối cùng của fermat ông mà có lẽ là do vấn đề sức khỏe. Hồi đó có một nạn dịch hoành hành khắp châu Âu và những người sống sót đều được thăng chức để thay thế cho những người bị chết. Ngay cả Fermat cũng bị dính trận dịch năm 1652 và bị nặng tới mức Bernard Medon, bạn ông, đã thông báo với một số đồng nghiệp của ông rằng ông đã chết. Ngay sau đó, Medon đã phải cải chính trong bức thư gửi cho một người Hà Lan tên là Nicholas Heinsius: Trước kia tôi đã báo cho ông về cái chết của Fermat. Nhưng hiện thời ông ta vẫn sống và chúng ta không phải lo gì cho sức khỏe của ông ta nữa, thậm chí mặc dù mới đây thôi chúng tôi đã liệt ông ta vào số những người đã chết. Cơn dịch không còn cướp ai đi trong số chúng tôi nữa. Ngoài những nguy cơ về sức khỏe ở nước Pháp thế kỷ XVII, Fermat cũng còn phải vượt qua trước những nguy hiểm về chính trị. Sự bổ nhiệm ông vào Pháp viện Toulouse xảy ra chỉ ba năm sau khi Hồng y giáo chủ Richelieu được thăng chức thủ tướng của nước Pháp. Đây là thời kỳ của những âm mưu và thủ đoạn. Bất kỳ ai tham gia vào việc điều hành nhà nước, ngay cả ở các cấp chính quyền địa phương cũng đều hết sức thận trọng để không bị cuốn vào những mưu mô của Richelieu. Fermat chấp nhận một chiến lược làm tốt phận sự nhưng không để ai chú ý tới mình. Ông không có những tham vọng chính trị lớn và ông cố gắng hết sức để tránh những chuyện lôi thôi và xáo trộn ở Pháp viện. Ông dành toàn bộ phần năng lượng còn dư thừa của mình cho toán học và khi không phải kết án các linh mục bị thiêu trên giàn lửa, Fermat dành toàn bộ thời gian cho sở thích đó của mình. Fermat là một học giả nghiệp dư đích thực. Ông cũng là người mà E.T. Bell gọi là “ông Hoàng 61 tác giả của những câu đố của những người nghiệp dư”. Tuy nhiên, do tài năng của ông quá ư vĩ đại, nên khi Julian Coolidge viết cuốn Toán học của những người nghiệp dư vĩ đại, ông ta đã loại Fermat ra ngoài, với lý do Fermat “thực sự vĩ đại, nên phải xem ông là một người chuyên nghiệp”. Vào đầu thế kỷ XVII, toán học vừa mới phục hồi sau những đêm trường Trung cổ, và vẫn còn chưa được coi trọng. Các nhà toán học cũng không hơn gì: đa số họ đều phải tự tổ chức lấy việc nghiên cứu của mình. Ví dụ, Galileo không thể nghiên cứu toán học tại Đại học Pisa và buộc phải tìm kiếm công việc dạy tư. Thực tế, hồi đó ở châu Âu chỉ có một nơi khuyến khích các nhà toán học là Đại học Oxford và chính trường đại học này đã lập một chức giáo sư về hình học vào năm 1619. Của đáng tội, sẽ là không sai nếu nói rằng phần lớn các nhà toán học thế kỷ XVII đều là nghiệp dư, nhưng Fermat là một trường hợp rất đặc biệt. Sống ở xa Paris, ông hoàn toàn cách biệt với cộng đồng các nhà toán học đã tồn tại trước đó, bao gồm các tên tuổi như Pascal, Gassendi, Roberval, Beaugrand và đáng kể nhất là Cha Marin Mersenne. Cha Mersenne chỉ có đóng góp nhỏ cho lý thuyết số, nhưng vai trò của ông trong toán học thế kỷ XVII là quan trọng hơn rất nhiều bất kỳ một đồng nghiệp được đánh giá cao nào của ông. Sau khi gia nhập dòng thánh Minim vào năm 1611, Mersenne đã nghiên cứu toán học và dạy lại môn học này cho các tu sĩ khác tại tu viện Minim ở Nevers. Tám năm sau ông chuyển tới Paris nhập vào dòng Minim de l’ Annociade ở gần Place Royal, một nơi tập trung giới trí thức của thời đó. Tất nhiên, Mersenne không tránh khỏi gặp gỡ các nhà toán học ở Paris, nhưng ông rất buồn vì họ từ chối không nói chuyện với ông và nói chuyện với nhau. 62 định lý cuối cùng của fermat Bản chất ưa bí mật của các nhà toán học Paris đã có truyền thống từ thời những người cossit ở thế kỷ XVI. Cossit là những chuyên gia tính toán đủ các loại, họ được các thương nhân và các nhà doanh nghiệp thuê để giải quyết những vấn đề kế toán phức tạp. Cái tên cossit bắt nguồn từ chữ cosa, tiếng Italia có nghĩa là “vật”, bởi vì họ dùng các ký hiệu để biểu diễn một đại lượng chưa biết, tương tự như cách các nhà toán học dùng chữ x hiện nay. Tất cả những ông thợ giải toán chuyên nghiệp đó đã phát minh ra những phương pháp thông minh riêng của mình để tính toán và họ làm mọi cách để giữ bí mật những phương pháp ấy và duy trì tiếng tăm của mình như một người độc nhất vô nhị giải được một bài toán đặc biệt nào đó. Một trường hợp ngoại lệ là Niccolo Tartaglia, người đã tìm ra phương pháp giải nhanh phương trình bậc ba. Ông này đã tiết lộ phát minh của mình cho Girolamo Cardano và bắt ông kia phải thề là tuyệt đối giữ kín bí mật đó. Mười năm sau, Cardano thất hứa, đã công bố phương pháp của Tartaglia trong cuốn Ars Magna của mình, một hành động mà Tartaglia không bao giờ tha thứ. ông đã cắt đứt mọi quan hệ với Cardano và sau đó một cuộc tranh cãi công khai gay gắt đã xảy ra, càng làm cho các nhà toán học giữ kín các bí mật của họ. Bản tính ưa giữ bí mật của các nhà toán học cứ tiếp tục như thế cho tới tận cuối thế kỷ XIX, và như chúng ta sẽ thấy ngay cả ở thế kỷ XX mà vẫn có những thiên tài làm việc trong bí mật. Khi linh mục Mersenne tới Paris, ông quyết định sẽ chiến đấu chống lại cái bản tính thích giữ bí mật và cố gắng khuyến khích các nhà toán học trao đổi những ý tưởng của họ với nhau và sử dụng các công trình của nhau. Ông đã tổ chức các cuộc gặp gỡ thường kỳ và nhóm của ông sau này chính là nòng cốt của Viện Hàn lâm Pháp. 63 tác giả của những câu đố Khi có ai đó từ chối tham dự, Mersenne bèn chuyển cho nhóm tất cả tài liệu và thư từ của người vắng mặt mà ông có trong tay, thậm chí nếu chúng được gửi chỉ riêng cho ông thôi. Đó là một hành động không mấy đạo đức đối với một người mặc áo thầy tu, nhưng ông biện hộ rằng đó là vì lợi ích của toán học và của loài người. Những hành động tiết lộ bí mật như thế tất nhiên đã gây ra những cuộc cãi cọ gay gắt giữa viên linh mục và những tài năng ưa im lặng mà ông đã phản bội, và cuối cùng đã dẫn tới sự cắt đứt quan hệ giữa ông và Descartes, một mối quan hệ kéo dài từ khi hai người cùng học trường Jesuit College ở La Flèche. Mersenne đã tiết lộ những bản thảo triết học của Descartes mang nội dung chống lại Nhà thờ, mà Descartes đã tin cẩn giao cho ông, người đã bảo vệ Descartes trước những cuộc tấn công của các nhà thần học, hệt như trước kia ông đã từng làm đối với Galileo. Trong một thời đại bị tôn giáo và ma thuật thống trị, Mersenne đã dám đứng lên bảo vệ tư tưởng duy lý. Những cuộc chu du khắp nước Pháp và xa hơn nữa đã giúp cho Mersenne phổ biến rộng rãi những tin tức về các phát minh mới nhất. Trong những chuyến đi như thế ông thường hẹn gặp Fermat và thực tế, có lẽ đó cũng là đầu mối tiếp xúc duy nhất của Fermat với các nhà toán học khác. ảnh hưởng của Mersenne đối với ông Hoàng Nghiệp dư chắc chỉ đứng sau cuốn Arithmetica (Số học), một chuyên luận toán học được truyền tay từ thời cổ Hy Lạp và là người bạn thường xuyên bên mình của Fermat. Ngay cả khi không thể đi chu du thiên hạ được nữa, Mersenne cũng vẫn giữ quan hệ thư từ rất thường xuyên với Fermat và những người khác. Sau khi ông qua đời, người ta lục thấy trong phòng ông rất nhiều thư từ của bảy mươi tám người khác nhau. 64 định lý cuối cùng của fermat Mặc dù có sự khuyến khích của linh mục Mersenne, nhưng Fermat vẫn nhất định không chịu tiết lộ những chứng minh của mình. Sự công bố và thừa nhận chẳng có ý nghĩa gì đối với ông và ông thỏa mãn với niềm vui đơn giản là đã tạo ra được những định lý mới mà không bị ai làm phiền. Tuy nhiên, vị thiên tài ẩn dật này lại khá tinh quái, nhất là khi điều này lại kết hợp với tính ưa bí mật của ông. Vì vậy đôi khi ông liên lạc với các nhà toán học khác chỉ cốt để trêu chọc họ mà thôi. Ông viết cho họ những bức thư phát biểu định lý mới nhất của mình, nhưng không gửi kèm theo chứng minh. Rồi ông thách thức họ tìm ra chứng minh đó. Việc ông không bao giờ tiết lộ những chứng minh của mình đã làm cho nhiều người rất bực mình. René Descartes đã gọi Fermat là “thằng cha khoác lác”, còn John Wallis thì gọi ông là “gã người Pháp chết tiệt”. Thật không may đối với Wallis là Fermat đặc biệt khoái chí mỗi khi trêu chọc người anh em họ của mình ở bên kia eo biển Manche. Ngoài sự thỏa mãn khi được trêu tức các đồng nghiệp, thói quen thông báo các bài toán nhưng lại giấu đi lời giải còn có những nguyên nhân thực tiễn hơn. Trước hết, điều đó có nghĩa là không phải mất thời giờ để mô tả chi tiết các phương pháp của mình; thay vì thế, ông có thể nhanh chóng chuyển sang công cuộc chinh phục tiếp theo. Sau nữa, ông sẽ không phải chịu những lời bình luận đầy tính máy móc. Một khi đã được công bố, những chứng minh sẽ được săm soi, và bất cứ ai biết đôi chút về vấn đề đó cũng có thể lý sự được. Khi Blaise Pascal ép ông công bố một số công trình, nhà ẩn dật đáp: “Bất cứ công trình nào của tôi cũng xứng đáng được công bố, nhưng tôi không muốn tên tôi xuất hiện ở đó”. Fermat là một thiên tài ưa bí mật, ông sẵn sàng hy sinh danh tiếng của mình 65 tác giả của những câu đố miễn là không bị quấy rầy bởi những câu hỏi vụn vặt của những người phê bình. Những cuộc trao đổi thư từ với Pascal, một cơ hội duy nhất để Fermat thảo luận những ý tưởng của mình với một ai đó khác, ngoài Mersenne, có liên quan tới sự sáng tạo ra cả một lĩnh vực mới của toán học - đó là lý thuyết xác suất. Thực ra đề tài này là do Pascal giới thiệu với nhà ẩn sĩ toán học, nên mặc dù muốn biệt lập, Fermat cũng cảm thấy có nghĩa vụ phải duy trì đối thoại. Fermat cùng với Pascal đã phát minh ra những chứng minh đầu tiên và những điều tuyệt đối chắc chắn trong lý thuyết xác suất, một lĩnh vực vốn dĩ đã là bất định. Mối quan tâm của Pascal đối với đề tài này được một tay đánh bạc chuyên nghiệp tên là Antoine Gombaud, Hiệp sĩ Méré, ở Paris khơi gợi. Anh ta đặt ra bài toán có liên quan với một trò chơi may rủi có tên là tính điểm. Như tên của nó đã cho thấy, trò chơi này đơn giản chỉ là tính điểm khi gieo con xúc sắc, người đầu tiên đạt tới một số điểm nhất định sẽ là người thắng cuộc. Một lần, Gombaud đang chơi trò tính điểm với một con bạc khác thì cả hai buộc phải bỏ dở giữa chừng do có việc cấp bách phải làm. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào với số tiền đặt? Giải pháp đơn giản là đưa toàn bộ số tiền đó cho người đang có số điểm cao hơn, nhưng Gombaud đề nghị Pascal thử xem có cách nào chia tiền “đẹp” hơn không. Và Pascal được đề nghị hãy tính xác suất thắng của mỗi người nếu như trò chơi vẫn được tiếp tục cho tới khi kết thúc với giả thiết rằng cơ may kiếm các điểm tiếp sau của hai người chơi là như nhau. Số tiền đặt khi đó sẽ được chia theo xác suất tính được. 66 định lý cuối cùng của fermat Trước thế kỷ VII, các định luật xác suất được xác định bằng trực giác và kinh nghiệm của những tay cờ bạc, nhưng Pascal tham gia việc trao đổi thư từ với Fermat với mục đích phát minh ra những quy tắc toán học mô tả chính xác hơn những quy luật của may rủi. Ba thế kỷ sau, Bertrand Russel đã bình luận về cái vẻ nghịch lý bề ngoài đó: “Làm sao chúng ta dám nói về những định luật của may rủi? Lẽ nào may rủi không phải là những phản đề của tất cả các quy luật?” Hai người Pháp đã phân tích bài toán mà Gombaud đặt ra cho họ và chẳng bao lâu sau họ đã nhận thấy rằng đây chỉ là một bài toán tương đối tầm thường, có thể giải được dễ dàng bằng cách xác định một cách chặt chẽ tất cả những kết cục tiềm tàng của trò chơi và gán cho mỗi kết cục đó một xác suất riêng biệt. Cả Pascal lẫn Fermat đều có khả năng giải bài toán của Gombaud một cách độc lập nhau, nhưng sự cộng tác của họ đã đẩy nhanh tiến độ tìm ra lời giải và dẫn họ tiến tới khám phá sâu hơn những vấn đề khác tinh tế hơn, phức tạp hơn có liên quan với xác suất. Các bài toán xác suất đôi khi gây ra những cuộc tranh cãi bởi vì những đáp số toán học, mà là những đáp số đúng, lại thường trái với những gì mà trực giác mách bảo. Sự thất bại của trực giác này hẳn cũng đáng ngạc nhiên bởi lẽ “sự sống sót của sinh vật thích nghi nhất” phải tạo được một áp lực tiến hóa mạnh có lợi cho bộ não, khiến nó tự nhiên phải có khả năng phân tích được các bài toán về xác suất. Bạn hãy hình dung tổ tiên chúng ta khi lén theo sát một con nai tơ và phải cân nhắc có nên tấn công nó hay không? Liệu sẽ có nguy cơ nào xảy ra nếu như con nai đực ở gần đó tấn công những người đi săn để bảo vệ đứa con của mình? Trái lại, 67 tác giả của những câu đố nếu trường hợp này được đánh giá là quá ư mạo hiểm, thì liệu cơ may có được một cơ hội kiếm ăn tốt hơn là bao nhiêu? Khả năng phân tích xác suất chắc hẳn phải là một phần trong cấu thành di truyền của chúng ta, nhưng trực giác lại thường dẫn dắt chúng ta đi lạc đường. Một trong những bài toán xác suất trái với trực giác nhất có liên quan tới khả năng trùng ngày sinh. Hãy hình dung trên sân bóng đá có 23 người, 22 cầu thủ và một trọng tài. Với 23 người và 365 ngày trong năm, dường như rất ít có khả năng để ai đó có ngày sinh trùng nhau. Nếu được hỏi hãy thử cho một con số đánh giá thì phần lớn chắc sẽ đoán một xác suất cỡ 10%. Thực tế câu trả lời đúng là hơn 50% một chút, nghĩa là cơ may tìm thấy hai người trên sân bóng có cùng ngày sinh lớn hơn là khả năng không tìm được ai. Nguyên nhân có xác suất cao như vậy là do số cách mà người ta ghép đôi quan trọng hơn là bản thân số người. Khi chúng ta tìm hai người có ngày sinh trùng nhau thì cái mà chúng ta quan tâm là số cặp người, chứ không phải là từng người riêng rẽ. Như vậy, trong khi ta chỉ có 23 người trên sân bóng, thì lại có tới 253 cách ghép đôi hai người với nhau. Chẳng hạn, người thứ nhất có thể ghép đôi với 22 người, do đó ta có 22 cặp. Sau đó, người thứ hai có thể ghép đôi với 21 người còn lại (chúng ta đã tính người thứ hai ghép đôi với người thứ nhất trong trường hợp trước, nên số cặp bây giờ phải bớt đi một), do vậy bây giờ chỉ có thêm 21 cặp mới. Tiếp theo, người thứ ba có thể ghép đôi với 20 người còn lại (trừ người thứ nhất và người thứ hai - ND), nên có thêm 20 cặp nữa, và cứ tiếp tục như thế cho tới khi ta nhận đủ tổng cộng 253 cặp. 68 định lý cuối cùng của fermat Xác suất để trong số 23 người có hai người trùng ngày sinh hơi lớn hơn 50% là điều có vẻ như trái với trực giác chúng ta, nhưng về mặt toán học thì không thể phủ nhận được. Những xác suất lạ lùng như thế thường được những gã ghi cá cược và những tay đánh bạc chuyên sử dụng để bẫy những tay chơi nghiệp dư ngớ ngẩn. Lần tới nếu bạn có tham gia một cuộc hội họp gì đấy có hơn 23 người thì bạn có thể hãy thử đánh cuộc rằng ở đó có hai người trùng ngày sinh. Cũng cần lưu ý rằng với một nhóm chỉ có 23 người thì xác suất đó chỉ hơi lớn hơn 50% một chút, nhưng xác suất ấy sẽ tăng rất nhanh, nếu số người đông hơn. Do đó, với một cuộc họp có 30 người thì bạn rất đáng đánh cuộc rằng sẽ có hai người trùng ngày sinh. Fermat và Pascal đã xây dựng được những quy tắc căn bản chi phối các trò chơi may rủi và những tay đánh bạc chuyên nghiệp có thể sử dụng những quy tắc đó để định ra những chiến lược chơi hoặc đánh cược. Hơn thế nữa, những luật xác suất này còn được ứng dụng trong hàng loạt những tình huống, từ sự đầu cơ trên thị trường chứng khoán cho tới việc đánh giá xác suất xảy ra các sự cố hạt nhân. Pascal thậm chí còn khẳng định rằng ông có thể dùng lý thuyết của mình để biện hộ cho đức tin vào Chúa. Ông cho rằng: “Cảm hứng mà một tay cờ bạc cảm thấy khi đánh cuộc bằng tích của số tiền có thể được nhân với xác suất thắng cuộc”. Sau đó ông lập luận rằng cái phần thưởng khả dĩ của một hạnh phúc vĩnh hằng có giá trị vô hạn, còn xác suất để được lên thiên đường do đã sống một cuộc sống đức hạnh, bất kể là nhỏ đến mức nào, nhưng vẫn là hữu hạn. Do đó, theo định nghĩa của Pascal, tôn giáo là một trò chơi của niềm xúc cảm vô hạn và đáng 69 tác giả của những câu đố để chơi, bởi vì nhân một phần thưởng vô hạn với một xác suất hữu hạn thì vẫn là vô hạn. Ngoài việc cùng chia sẻ với Pascal quyền là cha đẻ của lý thuyết xác suất, Fermat còn tham gia rất sâu vào việc xây dựng nên một lĩnh vực khác của toán học: đó là toán giải tích. Toán giải tích cho phép ta tính được tốc độ biến thiên, được biết là đạo hàm của một đại lượng này đối với một đại lượng khác. Ví dụ, tốc độ biến thiên của quãng đường đối với thời gian, không gì khác chính là vận tốc chuyển động. Đối với các nhà toán học, các đại lượng luôn có xu hướng được trừu tượng hóa và không còn mang một ý nghĩa cụ thể nữa, nhưng những hệ quả của các công trình của Fermat đã dẫn tới những cuộc cách mạng trong khoa học. Toán học của Fermat cho phép các nhà khoa học hiểu rõ hơn khái niệm vận tốc và mối quan hệ của nó với các đại lượng cơ bản khác, chẳng hạn như gia tốc - đó là tốc độ biến thiên của vận tốc theo thời gian. Kinh tế học cũng là môn học chịu ảnh hưởng mạnh của giải tích toán. Chẳng hạn, lạm phát là tốc độ biến thiên của giá cả, hay được biết là đạo hàm của giá cả; và hơn thế nữa, các nhà kinh tế cũng còn quan tâm tới cả tốc độ lạm phát, tức là đạo hàm cấp hai của giá cả. Những thuật ngữ này cũng hay được các nhà chính trị sử dụng và nhà toán học Hugo Rossi một lần đã phát hiện ra điều sau: “Vào mùa thu năm 1972, Tổng thống Nixon đã tuyên bố rằng tốc độ tăng của lạm phát đang giảm. Đây là lần đầu tiên một Tổng thống đương nhiệm dùng tới đạo hàm cấp ba để hỗ trợ cho sự tái đắc cử của mình”. Trong nhiều thế kỷ, Isaac Newton được xem là người đã phát minh ra giải tích toán một cách độc lập và không biết gì đến các 70 định lý cuối cùng của fermat công trình của Fermat. Nhưng vào năm 1934, Louis Trenchard Moore đã phát hiện được một bản ghi chép, qua đó xác nhận một cách chắc chắn công lao của Fermat và trả lại cho ông vinh dự mà ông xứng đáng được hưởng. Trong bản ghi chép đó, Newton đã viết rằng ông phát triển giải tích toán của mình dựa vào “phương pháp vẽ tiếp tuyến của ông Fermat”. Và ngay từ thế kỷ XVII, toán giải tích đã được sử dụng để mô tả định luật hấp dẫn của Newton cùng với các định luật cơ học của ông, những định luật phụ thuộc vào khoảng cách, vận tốc và gia tốc. Riêng phát minh ra giải tích toán và lý thuyết xác suất có lẽ đã là quá đủ để Fermat có một vị trí xứng đáng trong ngôi đền tôn vinh các nhà toán học, nhưng thành tựu lớn nhất của ông lại thuộc một lĩnh vực khác nữa của toán học. Trong khi toán giải tích đã được sử dụng để phóng các con tàu vũ trụ lên Mặt trăng, còn lý thuyết xác suất thì được sử dụng để đánh giá rủi ro trong các công ty bảo hiểm, thì tình yêu vĩ đại nhất của Fermat lại dành cho một đề tài quá ư vô dụng, đó là lý thuyết số. Fermat bị ám ảnh bởi nhu cầu tìm hiểu tính chất và những mối liên hệ giữa các con số. Đó là dạng thuần túy, cổ xưa nhất của toán học và Fermat bắt tay xây dựng trên khối kiến thức được truyền lại từ thời Pythagore. Sự phát triển của lý thuyết số Sau khi Pythagore qua đời, khái niệm chứng minh toán học đã được truyền bá rộng rãi trên khắp thế giới văn minh; và hai thế kỷ sau khi ngôi trường của ông bị đốt cháy thành bình địa, trung tâm nghiên cứu toán học đã chuyển từ Croton tới thành phố Alexandria. 71 tác giả của những câu đố Năm 332 trước Công nguyên, sau khi đã chinh phục được Hy Lạp, Tiểu Á và Ai Cập, Alexander Đại đế đã quyết định xây dựng một kinh đô tráng lệ nhất thế giới. Thực tế, Alexandria đã là một đô thị tuyệt đẹp nhưng chưa thể ngay lập tức trở thành một trung tâm tri thức được. Chỉ sau khi Alexander qua đời và Ptolemy, một người thân tín của ông ta, lên ngôi ở Ai Cập, thì Alexandria mới thực sự là nơi có trường Đại học Tổng hợp đầu tiên trên thế giới. Các nhà toán học và các nhà trí thức khác lũ lượt kéo về thành phố văn hóa của Ptolemy, và mặc dù chắc hẳn họ bị thu hút bởi sự nổi tiếng của trường Đại học, nhưng sức hấp dẫn chính lại là Thư viện Alexandria. Thư viện này là ý tưởng của Demetrius Phalareus, một nhà hùng biện không mấy nổi tiếng, người đã buộc phải rời Athens và cuối cùng đã tìm được nơi cư trú ở Alexandria. Ông ta khuyên Ptolemy nên thu thập tất cả những cuốn sách nổi tiếng và đảm bảo với Ptolemy rằng nếu làm được như thế thì nhất định sẽ thu hút được những trí tuệ lớn. Một khi các sách ở Ai Cập và Hy Lạp đã được thu thập hết, người ta tung nhân viên đi tìm kiếm các sách khác ở khắp châu Âu và vùng Tiểu Á. Thậm chí ngay cả du khách tới Alexandria cũng không thoát khỏi là nạn nhân của cơn thèm khát sách của Thư viện. Khi đặt chân lên thành phố, sách vở của họ đều bị tạm giữ và giao cho các viên thư lại sao chép. Cuối cùng bản gốc sẽ được tặng cho Thư viện còn một bản sao được hào phóng trả lại cho chủ nhân cuốn sách. Hệ thống sao chép chu đáo như thế khiến các nhà lịch sử ngày nay hy vọng rằng biết đâu, một ngày nào đó, người ta sẽ phát hiện thấy ở đâu đó bản sao của những cuốn sách nổi tiếng đã bị thất lạc. Chẳng hạn, năm 1906, một người tên là J.L. 72 định lý cuối cùng của fermat Heiberg đã phát hiện thấy ở Constantinople một bản thảo như thế, đó là bản sao cuốn Phương pháp, trong đó có chứa một số văn bản gốc của chính Archimede. Ước mơ xây dựng một kho tàng tri thức của Ptolemy vẫn sống ngay cả khi ông ta mất, và vào thời một số thế hệ sau của dòng họ Ptolemy lên ngôi thì Thư viện đã có tới 600.000 cuốn sách. Các nhà toán học tới nghiên cứu ở Alexandria có thể học được mọi thứ của thế giới đã biết, và ở đây họ được học với những học giả nổi tiếng nhất. Người đầu tiên đứng đầu khoa toán ở Alexandria, không ai khác, chính là Euclid. Euclid sinh khoảng năm 330 trước Công nguyên. Giống như Pythagore, Euclid tin vào việc tìm kiếm các chân lý toán học cho chính bản thân nó, chứ không đi tìm ứng dụng cho những công trình của mình. Người ta kể lại rằng trong một giờ học, có một sinh viên hỏi Euclid về việc sử dụng những kiến thức toán học mà anh ta đã học được. Sau khi giảng xong, Euclid quay về phía người nô lệ của mình và bảo: “Hãy đưa cho cậu ta một xu, vì cậu ta muốn kiếm lợi từ những thứ mà cậu ta học được”. Và sau đó cậu sinh viên kia đã bị đuổi học. Euclid đã dành phần lớn cuộc đời của mình để viết tác phẩm Cơ sở, một bộ sách giáo khoa thành công nhất trong lịch sử. Cho đến ngày nay, đây vẫn là cuốn sách bán chạy thứ hai sau cuốn Kinh thánh. Bộ Cơ sở gồm 13 cuốn, một số cuốn dành cho các công trình của chính Euclid, các tập còn lại ông biên soạn dựa trên toàn bộ tri thức toán học ở thời đó, trong đó có hai cuốn dành hoàn toàn cho các công trình của Hội ái hữu của Pythagore. Trong nhiều thế kỷ kể từ thời Pythagore, các nhà toán học đã phát minh ra nhiều kỹ thuật 73 tác giả của những câu đố suy luận logic, có thể áp dụng cho những hoàn cảnh khác nhau, và Euclid đã biết sử dụng nhuần nhuyễn tất cả những kỹ thuật đó trong bộ Cơ sở. Đặc biệt Euclid đã khai thác triệt để một vũ khí logic được biết dưới cái tên là “reductio ad absurdum”, tức là cách chứng minh bằng phản chứng. Phương pháp chứng minh này được tiến hành như sau: để chứng minh một định lý là đúng, ban đầu ta hãy giả thiết nó là sai. Sau đó, từ giả thiết định lý sai này, ta rút ra những hệ quả logic của nó. Và rồi tại một điểm nào đó trong chuỗi những suy luận logic ấy, ta phát hiện ra có mâu thuẫn (chẳng hạn như 2 + 2 = 5). Nhưng toán học lại không chấp nhận mâu thuẫn, do đó định lý ban đầu không thể sai, tức nó phải đúng. Trong cuốn sách Lời xin lỗi của một nhà toán học, nhà toán học người Anh G.H. Hardy đã gói ghém tinh thần của phép chứng minh bằng phản chứng bằng mấy lời sau: “Phép chứng minh bằng phản chứng mà Euclid vô cùng yêu quý là một trong số những công cụ tinh tế nhất của nhà toán học. Nó là sự khai cuộc tinh tế hơn rất nhiều bất cứ một lối chơi cờ nào: một kỳ thủ có thể tạo điều kiện để thí quân tốt hoặc thậm chí bất kỳ quân nào khác, nhưng nhà toán học thì tạo điều kiện cho chính trò chơi của mình”. Một trong những chứng minh bằng phản chứng nổi tiếng nhất của Euclid đã xác lập sự tồn tại của số vô tỷ. Người ta ngờ rằng các số vô tỷ thực ra đã được phát minh đầu tiên bởi Hội ái hữu của Pythagore từ nhiều thế kỷ trước, nhưng khái niệm này bị Pythagore căm ghét tới mức ông đã phủ nhận sự tồn tại của nó. Khi Pythagore tuyên bố rằng Vũ trụ được chi phối bởi các con số là ông muốn nói tới các số nguyên và tỷ số của các số đó (phân số), những số này được gọi chung là số hữu tỷ. Một số vô tỷ không 74 định lý cuối cùng của fermat phải là số nguyên cũng không phải là một phân số, và nó là cái đã làm cho Pythagore vô cùng hoảng sợ. Thực tế, các số vô tỷ lạ lùng tới mức chúng không thể được viết dưới dạng thập phân dù là thập phân có chu kỳ. Một số thập phân có chu kỳ, chẳng hạn như 0,111111..., thực ra khá đơn giản, nó tương đương với phân số 1/9. Thực tế, số 1 được lặp lại mãi mãi có nghĩa là số thập phân này có một cấu trúc khá đơn giản và đều đặn. Tính đều đặn đó, mặc dù kéo dài tới vô hạn, có nghĩa là số thập phân đang xét có thể viết lại dưới dạng một phân số. Tuy nhiên, nếu bạn định biểu diễn một số vô tỷ như một số thập phân, thì bạn sẽ được một số thập phân kéo dài mãi mãi với một cấu trúc không đều đặn hoặc không nhất quán. Khái niệm số vô tỷ là một đột phá vĩ đại. Với phát minh, hay có thể nói là sáng chế ra các con số mới này, các nhà toán học đã mở rộng tầm mắt ra ngoài giới hạn của các số nguyên và các phân số xung quanh họ. Nhà toán học thế kỷ XIX Leopold Kronecker đã nói: “Chúa đã tạo ra các số nguyên, tất cả các số còn lại là tác phẩm của con người”. Số vô tỷ nổi tiếng nhất là số π. Trong nhà trường, số này được cho xấp xỉ bằng 22/7 hay 3,14; tuy nhiên, giá trị gần đúng nhất của π bằng 3,14159265358979323846, nhưng ngay cả số đó cũng chỉ là gần đúng mà thôi. Thực tế, π không bao giờ có thể viết chính xác được bởi vì các vị trí thập phân cứ kéo dài mãi mà không có một cấu trúc đều đặn nào. Một nét đẹp của cấu trúc mang tính ngẫu nhiên này là nó có thể tính được nhờ một phương trình cực kỳ chính quy: 75 tác giả của những câu đố Bằng cách tính một số ít số hạng đầu tiên, bạn có thể nhận được một giá trị rất thô của π, nhưng nếu tính càng nhiều số hạng hơn, bạn sẽ nhận được các giá trị có độ chính xác càng cao hơn. Mặc dù chỉ cần biết số π chính xác tới 39 chữ số thập phân là đã đủ tính được chu vi Vũ trụ chính xác tới cỡ bán kính của nguyên tử hiđrô, nhưng điều này cũng không ngăn cản nổi các nhà khoa học máy tính tính số π tới nhiều chữ số thập phân nhất có thể được. Người giữ kỷ lục hiện nay là Yasumasa Kanada thuộc trường Đại học Tokyo, ông đã tính được số π chính xác tới 6 tỷ chữ số thập phân vào năm 1996. Hiện nay có tin đồn rằng anh em nhà Chudnovsky (người Nga) ở New York đã tính được số π với 8 tỷ chữ số thập phân. Giả thử Kanada hay anh em nhà Chudnovsky có thực hiện việc tính số π cho tới khi máy tính của họ sử dụng hết mọi nguồn năng lượng trong Vũ trụ đi nữa thì họ cũng không bao giờ tìm được giá trị chính xác của số π. Điều này khiến ta dễ dàng hiểu được tại sao Pythagore lại âm mưu che giấu sự tồn tại của những con quỷ toán học đó. 76 định lý cuối cùng của fermat Giá trị của π chính xác tới 1500 chữ số thập phân 77 tác giả của những câu đố Khi Euclid dám đối mặt với vấn đề số vô tỷ trong tập thứ mười của bộ sách Cơ sở, thì mục đích chủ yếu là để chứng minh có tồn tại một số không thể được viết dưới dạng phân số. Thay vì chứng minh số π là một số vô tỷ, ông đã xét căn bậc hai của số 2, tức 2 , một số mà khi nhân với chính nó cho kết quả bằng 2. Để chứng minh 2 không thể viết dưới dạng phân số, Euclid dùng phép chứng minh bằng phản chứng, bằng cách bắt đầu từ giả thiết ngược lại, tức là cho rằng nó có thể viết được dưới dạng phân số. Nhưng khi đó ông chứng minh được rằng phân số này luôn luôn giản ước được. Ví dụ, phân số 8/12 được giản ước thành 4/6 bằng cách cùng chia tử số và mẫu số cho 2. Sau đó phân số 4/6 lại được giản ước thành 2/3 và phân số này không thể giản ước được, và do đó được gọi là phân số tối giản. Tuy nhiên, Euclid đã chứng minh được rằng phân số mà ông giả thiết là biểu diễn của 2 lại có thể giản ước một số vô hạn lần mà vẫn không qui được nó về dạng tối giản. Điều này là vô lý bởi vì tất cả các phân số cuối cùng đều phải được qui về phân số tối giản và vì vậy phân số giả thiết lúc đầu là không tồn tại. Như vậy, 2 không thể viết được dưới dạng phân số, do đó nó là một số hữu tỷ. Chứng minh này của Euclid được trình bày ngắn gọn trong Phụ lục 2. Như vậy, bằng cách dùng chứng minh bằng phản chứng, Euclid đã chứng minh được sự tồn tại của các số vô tỷ. Lần đầu tiên các số đã có được một phẩm chất mới, trừu tượng hơn. Cho tới thời điểm này trong lịch sử, tất cả các con số đều được biểu diễn như các số nguyên hoặc phân số, nhưng các số vô tỷ của Euclid đã thách thức sự biểu diễn theo cách truyền thống. Ngoài cách viết là 2 ra, không có một cách nào khác để biểu diễn một số bằng căn 78 định lý cuối cùng của fermat