🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điện Biên Phủ Cuộc Đối Đầu Lịch Sử Mà Nước Mỹ Muốn Quên Đi
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
SƠ ĐỒ CỨ ĐIỂM ĐIỆN BIÊN PHỦ
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
LỜI NÓI ĐẦU
Trận đánh Điện Biên Phủ, trong đó cộng sản lãnh đạo các lực lượng Việt Minh đã đè bẹp các đơn vị của quân đội thuộc địa Pháp ở Đông Dương, sánh vai với các trận Agincourt, Waterloo và Gettysburg là một trong những trận giao tranh quân sự vĩ đại trong lịch sử. Điều đó đồng nghĩa với việc kết thúc chế độ thực dân đổ nát của Pháp ở châu Á và cũng là khi không ai thấy trước được khả năng dọn đường cho sự can thiệp của quân Mỹ vào khu vực này nhiều năm sau đó. Vì thế đó là một giai đoạn quan trọng gián tiếp mở màn cho một tiến trình đã gây ra cho Mỹ những hậu quả sâu sắc và kéo dài. Cho tới ngày nay, kinh nghiệm bi đát về Việt Nam vẫn còn ám ảnh người Mỹ khi họ dự tính tới các ưu thế toàn cầu của quốc gia.
Không người Mỹ nào có phẩm chất tốt hơn Howard R. Simpson để nói về câu chuyện Điện Biên Phủ và ý nghĩa của nó. Anh ta không chỉ tới thăm chiến trường lúc đó mà còn là một thành viên của phái đoàn ngoại giao Mỹ ở Đông Dương, chứng kiến tình trạng rối ren của các sự kiện đã dẫn tới cuộc đụng độ này. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, vì những quan sát đầu tiên chưa đủ, anh đã quay lại Pháp và Việt Nam để nghiên cứu thêm qua các cuộc phỏng vấn và các tài liệu sẵn có. Ngoài ra, đây còn được coi là khả năng tự thuật của anh ta. Kết qủa là một cuốn sách đáng tin cậy cũng như đáng để đọc và chắc chắn là một tác phẩm kinh điển về đề tài này đã ra đời.
Như Simpson khẳng định, lẽ ra Pháp không thất bại ở Điện Biên Phủ nhưng vì cuộc đấu tranh chống lại Việt Minh đã kéo dài 8 năm và người Pháp đã suy yếu trước những nỗ lực không hiệu quả nên đã đầu độc xã hội và chia rẽ chính phủ của họ. Chỉ huy Pháp, Tướng Henri Navarre đã tính toán sai lầm. Ông gạt bỏ các báo cáo tình báo không phù hợp với những phán đoán của ông, như một bản nghiên cứu về cuộc chiến tranh của Pháp của một trường đại học cho biết mọi việc đều được thực hiện trên cơ sở những ý
https://thuviensach.vn
kiến đã có sẵn của ông. Ông không tin vào đối thủ của mình, Tướng Võ Nguyên Giáp với khả năng tập hợp hỏa lực cần thiết để tấn công quân đồn trú của Pháp, lại có thể thực hiện hành động một cách chính xác đến như vậy.
Tướng Giáp đã chuẩn bị cho đợt thử sức cuối cùng hàng tháng trời. Giống như những đàn kiến, Việt Minh đi bộ, đẩy xe thồ qua các khu rừng để tới nơi đóng quân, chất lên xe mọi thứ từ vũ khí, đạn dược tới những bao gạo khổng lồ phải được đưa vào trong những vùng hẻo lánh. Với sức mạnh siêu nhân, họ đã đẩy được những khẩu đại bác lên các sườn núi, tới các đỉnh cao có thể quan sát được quân Pháp – những người đã ngốc nghếch tự triển khai quân trong một vùng thung lũng rộng lớn với lý lẽ rằng, họ phải bảo vệ tuyến đường sang Lào. Tướng Giáp trả lời tôi khi ông nói về trận đánh trong một cuộc phỏng vấn ở Hà Nội tháng 3 năm 1990: “Thật là khó, rất khó, chỉ có động viên khích lệ binh lính mà có thể thực hiện đuợc một sự nghiệp vĩ đại đến như vậy”.
Cả Pháp và Việt Minh đang chạy đua chống lại một điểm chết (giới hạn không được vượt qua). Một cuộc họp quốc tế ở Geneve đã bắt đầu sớm hơn, có kế hoạch giải quyết vấn đề Đông Dương vào ngày 7 tháng 5 và mọi người đều biết, là Trưởng đoàn đại biểu Mỹ, Tướng Walter Bedell Smith nhận xét: “Các ngài không giành được trên bàn đàm phán những gì các ngài đã đánh mất ngoài chiến trường”.
Mặc dù chạy theo thời gian, song Tướng Giáp vẫn thận trọng. Không tán thành đề nghị của các cố vấn Trung Quốc, những người luôn thúc giục ông tiến hành một cuộc tấn công vào chính diện, ông ra lệnh cho binh lính đào các đường hầm tới các vị trí của Pháp. Họ đào trong 8 tuần tới tận trưa ngày 13 tháng 3. Bị các pháo lớn của Việt Minh tấn công, mục tiêu đầu tiên của Pháp sụp đổ nhanh chóng, ngày hôm sau là mục tiêu khác. Trước đó, Đại tá Charles Piroth, chỉ huy lục lượng pháo binh của Pháp đã hứa với Navarre rằng, anh ta có thể dễ dàng làm câm họng pháo của đối phương. Nhưng giờ
https://thuviensach.vn
đây, anh ta bị hạ nhục. Rạng sáng ngày 15 tháng 3, anh ta rút chốt an toàn của một qủa lựu đạn và tự sát. Anh ta nói đêm hôm trước rằng: “Tôi hoàn toàn mất hết danh dự”.
Nước Pháp đã không có những công dân la hét đòi hoà bình. Người ta thường quên rằng sau thắng lợi, những người Cộng sản Việt Nam có thể công bố với toàn thể người dân Việt Nam là không có Liên Xô hay Trung Quốc gây áp lực buộc họ phải chấp nhận một sự chia cắt trong lúc chờ các cuộc bầu cử vì những lý do riêng của họ. Nhưng được sự tán thành của chính quyền Eisenhower, chính quyền miền Nam Việt Nam đã cự tuyệt tổng tuyển cử thì cả Moscow và Bắc Kinh đều phản đối - một dấu hiệu cho thấy cả hai đều hi vọng cải thiện mối quan hệ của họ với phương Tây.
Hà Nội không từ bỏ hi vọng thống nhất Việt Nam. Vì thế một cuộc chiến tranh mới bắt đầu được tăng tốc và cuối cùng nó đã nhấn chìm nước Mỹ.
Không có trận đánh nào trong cuộc chiến tranh của Mỹ có thể sánh ngang được với Điện Biên Phủ cho dù Tổng thống Lyndon B.Johnson, Tướng Westmoreland, và những người khác đã nhận thức sai lầm về sự tái diễn của trận đánh ở Khe Sanh đầu năm 1968. Trận đánh này là một trận nghi binh của Tướng Giáp nhằm lôi kéo quân Mỹ ra xa các thành phố ven biển để có thể tiến hành cuộc tổng tấn công Tết. Tướng Giáp biết rằng người Mỹ và người Pháp hoàn toàn khác nhau, rằng ông ta không đủ mạch để có thể thách thức với sức mạnh ồ ạt của quân Mỹ trong một trận đối đầu trục tiếp.
Lần này, Tướng Giáp đã theo đuổi một chiến lược không giống với chiến lược đã dùng để chống lại người Pháp. Ông tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao và tin rằng dần dần sẽ làm suy sụp được ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ. Mối quan tâm chính của ông là thắng lợi và ít thương vong. Tôi đã hỏi ông trong cuộc nói chuyện ở Hà Nội: “Ngài sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại Mỹ trong bao lâu?”. Ông trả lời không chút do dự: “20 năm nữa, có thể hàng trăm năm miễn là giành được thắng lợi và ít tổn thất”.
https://thuviensach.vn
Vì thế, Mỹ cũng như Pháp phải chống lại một kẻ thù mà luôn coi sự nghiệp đấu tranh của họ là thiêng liêng và sẵn sàng hi sinh để giành được mục tiêu. Cần rút ra bài học đó trước khi quá muộn.
STANLEY KARNOW (1)
https://thuviensach.vn
GIỚI THIỆU
Chiến tranh Đông Dương (1946-1954) là một cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu. bằng việc đưa một quân đội thử nghiệm cửa thực dân Pháp vào đọ sức với Việt Minh, một quân đội nhân dân của Cộng sản luôn tận trung với việc
giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của Pháp. Trận đánh quyết định là trận đánh năm 1954 ở Điện Biên Phủ, một làng miền núi nhỏ thuộc đất đai của người Thái ở phía Tây Bắc Việt Nam.
Điện Biên Phủ không phải là một cuộc giao chiến lớn theo các điều khoản quy ước nhưng đó là một cuộc đấu trí quân sự quan trọng và là một thế giới vĩ mô của những va chạm chính trị - quân sự quốc tế nổi lên sau Thế chiến II. Đó còn là nơi thể hiện lòng dũng cảm, sự đánh giá sai lầm, sự ngoan cố
và thất bại. Điều đó đã được báo trước cho quân đồn trú từ trước khi trận tấn công cuối cùng diễn ra. Khói bụi của chiến trường che lấp đi những sai lầm về chiến thuật cũng góp một phần không nhỏ vào sự thất bại này. Cuộc giao tranh quân sự đã làm thay đổi bộ mặt của Đông Nam Á và được coi như một điềm báo đối với những trận đánh tốn kém mà lực lượng Mỹ sau này sẽ thực hiện ở các khu rừng và cánh đồng lúa của miền Nam Việt Nam.
Lần đầu tiên tôi tới Điện Biên Phủ vào cuối tháng 11 năm 1953 trên chiếc máy bay vận tải “Dakota” C-47 của không quân Pháp hạ cánh xuống đường băng mới sửa chữa sau khi bị đóng cửa trong một chiến dịch không quân ngày 20 tháng 11. Ba tiểu đoàn dù của Pháp đã bảo vệ khu làng và đường băng cho dù có sự kháng cự mạnh của một đơn vị đồn trú Việt Minh được tăng cường. Tôi đã theo dõi cuộc xung đột Đông Dương từ tháng 2 năm 1952 khi là phóng viên chiến tranh thuộc một Hãng Thông tin của Mỹ (USIA) và đã biết một số sĩ quan, binh lính ở Điện Biên Phủ từ các chiến dịch trước ở Bắc Việt và Lào. Trong thời gian ở Điện Biên Phủ, tôi quan sát được công việc xây dựng căn cứ và sự có mặt của quân tăng cường, tới
https://thuviensach.vn
thăm các vị trí công sự của các tiểu đoàn thu thập thông tin từ các sĩ quan cao cấp ở bốt chỉ huy cùng với Thiếu tá Marcel Bigeard và tiểu đoàn dù số 6 đi tuần tra thăm dò các đơn vị Việt Minh ở các khu đồi xung quanh. Vào giữa tháng 12, các lực lượng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải nằm im trong công sự không dám liều mạng ra xa thung lũng nếu không liên lạc được với quân chính quy Việt Minh. Trước khi tôi rời Điện Biên Phủ, một sĩ quan viễn chinh khẳng định: “Lần này Việt Minh sẽ vào đông, đó sẽ là một cuộc chiến thực sự”. Tôi đang trên đường từ San Francisco về nhà ngày 7 tháng 5 năm 1954 thì được tin Điện Biên Phủ bị thất bại sau một trận bao vây 57 ngày. Dẫu sao những người am hiểu tình hình vẫn rất khó khăn khi đánh giá về phạm vi thắng lợi của Cộng sản.
Hiệp định Geneve tháng 7 năm 1954 đã chấm dứt cuộc chiến tranh và người Pháp đang chuẩn bị rời Đông Dương thì tôi quay trở lại Sài Gòn. Nhiều bạn bè bị bắt ở Điện Biên Phủ đã được Việt Minh phóng thích. Nhiều người khác đã chết trên đường hành quân dài ngày hoặc trong các trại tù. Những người sống sót kể lại sự thật về trận đánh.
Tôi rời Việt Nam năm 1955, được giao nhiệm vụ quay lại Sài Gòn năm 1964 làm cố vấn cho Thủ tướng và đã thăm lại đất nước này trong chuyến công tác ngắn ngày năm 1971. Năm 1991 tôi trở lại Việt Nam, với tư cách là một nhà báo, được phép thực hiện một cuộc phỏng vấn dài với Đại tướng Giáp và thảo luận về chiến tranh Đông Dương, về Điện Biên Phủ với các cựu chiến binh Việt Minh. Gần đây hơn, tôi được tiếp cận với những tài liệu về Điện Biên Phủ trong các kho lưu trữ của Quân đội Pháp. Sở chỉ huy quân Viễn chinh nước ngoài ở Aubagne cho phép tôi sao chụp những thống kê cá nhân về trận đánh này của các lính Lê dương sau khi bị bắt trở về.
Đáng giá nhất là các cuộc phỏng vấn những người sống sót sau trận Điện Biên Phủ. Mặc dù nhiều năm đã trôi qua, cuộc chiến vẫn khắc sâu vào ký ức của những người tham chiến. Một số đã chết trong thời gian đó hoặc không thể tiếp cận được. Tuy nhiên, nhờ vào những cuộc tiếp xúc riêng, tôi
https://thuviensach.vn
đã gặp được một bộ phận tiêu biểu những người đã phải chịu đựng cảnh bao vây. Những người khác hợp tác bằng cách điền vào mẫu câu hỏi trắc nghiệm để giải thích phần việc của họ trong cuộc chiến này.
Mùa xuân năm 1992, tôi đang ăn trưa ở Montparnasse với Đại tá Bùi Tín, một cựu chiến binh Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Ông nhớ lại các trận đánh trước đây. Và nói với tôi: “Điện Biên Phủ là sự tái diễn hoàn hảo cuộc chiến tranh của Việt Nam với người Mỹ. Tất cả chỉ huy của các quân đoàn, sư đoàn trong cuộc chiến với Mỹ đều đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ”.
Nếu Điện Biên Phủ đã dạy cho Việt Minh - những người tiên phong của quân đội Bắc Việt và Việt Cộng - những bài học có giá trị, thì những nhà vạch kế hoạch quân sự Mỹ lại không thể có được.
Mỹ đã ủng hộ cho nỗ lực của Pháp bằng những vũ khí, trang thiết bị và nguồn tài chính khổng lồ nhằm cản trở sự thống trị của Cộng sản ở Đông Nam Á. Các nhà ngoại giao sĩ quan quân sự Mỹ đã và đang theo dõi cuộc chiến tranh Đông Dương, Nhóm trợ lý cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) đã và đang gián tiếp tham gia như những cố vấn không tham chiến. Khi cuộc chiến ở Điện Biên Phủ mở rộng, các sĩ quan Mỹ đã tới thăm các pháo đài trên núi như những nhà quan sát, những chỉ huy cao cấp của Mỹ từ Hawaii và Tokyo đã tới Sài Gòn và Hà Nội để bàn về khả năng can thiệp trực tiếp của Mỹ dưới sự ủng hộ của Pháp. Tiếp theo sự thất bại của Pháp và mặc cho chính quyền Mỹ đã ngay lập tức can thiệp trực tiếp vào Việt Nam thì các nhà vạch kế hoạch và chiến lược Mỹ đã làm ngơ trước những kinh nghiệm của Pháp. Pháp đã thua. Chúng tôi với sức mạnh công nghệ vượt trội sẽ thắng. Tinh thần hăng hái và triết lý khảng khái của chúng tôi đã che lấp đi những bài học của lịch sử.
Tháng 1 năm 1968, 40.000 quân chính quy Bắc Việt đã bao vây đơn vị quân đồn trú gồm 6.000 quân thuộc quân đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh. Các cứ điểm trên đồi gần biên giới Lào và phía dưới khu phi quân sự chia cách miền Bắc và miền Nam Việt Nam cũng đáng lo ngại giống như
https://thuviensach.vn
Điện Biên Phủ. Chiến dịch bao vây căn cứ của Mỹ ở Khe Sanh 2 tháng rưỡi là sự thất bại bao trùm lên Pháp, gây ra nỗi buồn phiền cho Tổng thống Johnson và làm nảy sinh các vấn đề phức tạp trong tiến trình chiến tranh của Tướng Westmoreland. Cuối cùng, pháo binh, máy bay B-52 và sự ngoan cường của lính thủy đánh bộ đã phá vỡ được vòng vây. Gần 500 lính thủy đánh bộ bị chết ở Khe Sanh, quân đội Bắc Việt ước tính hy sinh gần 10.000 người. Lực lượng của Tướng Giáp bị thiệt hại nặng, các sĩ quan tình báo quân sự Mỹ công bố thắng lợi nhưng thực tế tình hình ở Khe Sanh thường xuyên gây bất lợi cho phía Mỹ. Mãi tới sau này mới có sự quan tâm trở lại với Điện Biên Phủ và với cuộc chiến tranh Đông Dương nhưng sự quan tâm đó cũng dần bị mờ đi như chính cuộc chiến tranh tiêu hao của chúng tôi.
Những bài học có giá trị liên quan tới kinh nghiệm riêng của chúng tôi về Việt Nam mà chúng tôi đã cố tình lờ đi là gì? Tôi đã liệt kê ra một số bài học được coi là quan trọng nhất.
1. Đánh giá thấp các đơn vị không chính quy hoặc lực lượng du kích và lực lượng chính quy là một sai lầm cơ bản.
Tư lệnh Pháp và nhiều sĩ quan tham mưu ở các sở chỉ huy khác nhau không thừa nhận giá trị thực của các sư đoàn chính quy, quân địa phương, quân tự vệ làng xã có mặt ở mọi nơi. Quân Viễn chinh Pháp được đào tạo và điều hành theo các chuẩn mực của châu Âu. Chỉ có các chỉ huy chiến trường, các sĩ quan tiểu đoàn - đại đội phổ thông, những người lính có kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm ở Đông Dương, nếu miễn cưỡng mới bày tỏ mối quan tâm thường xuyên tới Việt Minh.
Điện Biên Phủ là một ví dụ điển hình về việc làm thế nào mà một giấc mơ quân sự có thể vượt qua được thực tế bằng những kết quả bi đát. Người ta nói khả năng pháo binh của Việt Minh là hạn chế. Tư lệnh Pháp không thể
ngờ rằng liệu Tướng Giáp có thể vận chuyển được các loại súng ống qua các cánh rừng. Nếu ông ta làm việc này thì Việt Minh có thể bị tiêu diệt bởi
https://thuviensach.vn
hoả lực phản pháo và tấn công bằng không quân của Pháp trước khi họ có thể gây ra bất cứ sự thiệt hại nào. Nhưng pháo binh của Tướng Giáp chẳng hề bị hạn chế. Ông ta đã chuyển súng ống qua rừng, hoả lực phản pháo kích và các đợt tấn công bằng không quân của Pháp bị thất bại thảm hại. Hơn nữa Pháp còn đánh giá thấp khả năng hậu cần của đối phương, khả năng chịu đựng về mặt tinh thần cũng như sự ngoan cường của binh lính, và chuyên môn cao về chiến lược, chiến thuật của phòng tham mưu Việt Minh. Thái độ tương tự đối với Bắc Việt, Việt Cộng và những khác nhau tương tự về quan điểm giữa những người vạch kế hoạch và những người chỉ huy chiến đấu thường được tái diễn vào cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Nhưng lần này, những người điều hành là người Mỹ.
2. Qúa phụ thuộc vào sự hỗ trợ của không quân có thể dẫn tới thảm hoạ trước một chiến dịch kiểu du kích trong địa hình phức tạp hoặc trong những điều kiện bất lợi.
Bất chấp những cảnh báo từ phía các tướng lĩnh thuộc lực lượng không quân, Tư lệnh Pháp vẫn tiến hành bố trí một pháo đài lớn trong một vùng núi tách biệt mà sẽ buộc phải cung cấp lương thực và tăng cường quân bằng không quân trên những đoạn đường khá xa. Có lần pháo binh của đối phương đã làm vô hiệu hoá đường băng và tất cả nguồn cung cấp phải phân phát bằng dù và dưới làn hỏa lực chống tăng dày đặc của đối phương. Việt Minh có đồng minh thường trực là thời tiết. Những đợt mưa phùn, mưa rào lớn, sương mù dày đặc ở miền Bắc đã phá hủy và cản trở các đợt cung cấp và các đợt không kích của Pháp. Núi rừng yểm hộ các sư đoàn và các ụ súng khỏi sự quan sát của các máy bay ném bom. Những cam kết của lực lượng không quân Pháp không bao giờ cho ra những kết quả như mong đợi. Ngược lại, thực tế này đã tạo ra một tác động tâm lý tiêu cực tới lực lượng bộ binh, những người đã phải học để dựa vào sự ủng hộ có hiệu quả của không quan ở vùng đồng bằng và rộng hơn ra cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Xác định mục tiêu ở các vùng núi là rất khó khăn vì vậy quyết định chớp
https://thuviensach.vn
nhoáng của phi công xem liệu một khu làng là bạn, là thù hay là vùng đối phương tạm chiếm có thể sẽ dẫn tới bi kịch.
Rõ ràng khả năng không quân của Pháp ở Đông Dương là hạn chế so với việc triển khai ồ ạt máy bay của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Những lại một lần nữa cho dù tốn nhiều bom đạn và vũ khí nhưng kết quả hạn chế và tổn thất lớn. Trong một cuộc chiến tranh mà thắng hay thua ở các làng, xóm của miền Nam Việt Nam, nơi lòng trung thành và sự hợp tác của những người nông dân là điều cơ bản để dẫn tới sự thành công, thì bom đạn lại làm cho người dân phải xa lánh và đi tới chỗ tăng cường ủng hộ cho Việt Cộng mặc dù Mỹ có ưu thế hoàn toàn về không quân. Đường mòn Hồ Chí Minh cũng làm theo mẫu các tuyến đường của Việt Minh tới Điện Biên Phủ, vẫn tiếp tục vận chuyển quân chính quy Bắc Việt, vũ khí, lương thực và thậm chí xe tăng vào miền Nam Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh.
3. Trận đánh này là sự thể hiện rõ ràng tính linh hoạt của một đối phương là du kích và khả năng thay đổi các biện pháp cho phù hợp với tình hình chiến thuật cụ thể của họ.
Tướng Giáp coi “cuộc chiến tranh nhân dân của ông như một sự kết hợp, trong đó quân chính quy, quân địa phương và tự vệ hoạt động riêng rẽ hoặc kết hợp để giành một mục tiêu chung”. Trong một cuộc phỏng vấn tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1991, Tướng Giáp nói với tôi rằng: “Chiến tranh nhân dân” không chỉ có nghĩa là các hoạt động của du kích mà hơn thế nữa còn bao quát mọi việc từ hành động của một đơn vị nhỏ tới hành động của toàn quân”. Ông phản đối sự biện minh của tôi nhằm tách các sư đoàn chính quy khỏi các lực lượng du kích và nói: “Lính chính quy đều chiến đấu tốt như những người du kích, thích ứng với những thay đổi khi được chuyển vào các đơn vị du kích”.
Tính linh hoạt tương tự nêu ra trong đoạn trích được thể hiện rất sớm trong trận bao vây Điện Biên Phủ khi Tướng Giáp huỷ bỏ một cuộc tấn công lớn. Pháo binh và bộ binh đã vào vị trí, tinh thần binh lính đã chuẩn bị sẵn sàng
https://thuviensach.vn
cho một đợt tấn công lớn thì nhận được lệnh rút ra. Một cựu giáo viên phổ thông, giờ là nhà chiến thuật đã tính toán tới những thương vong mà anh ta phải chịu đựng trong các cuộc tấn công vào chính diện, sức mạnh của quân đồn trú được tăng cường của Pháp và việc mở rộng các pháo đài mới trước
khi quyết định rằng sự mạo hiểm này là quá lớn. Thay vào đó anh ta huy động hàng nghìn chiếc xẻng, và Việt Minh bắt đầu đào những giao thông hào chằng chịt dẫn tới vành đai phía ngoài của các khu căn cứ của Pháp.
4. Cảnh giác trước sự khắc nghiệt của môi trường nhiệt đới.
Người ta nói rằng rừng là trung hoà. Thực tế, nó vẫn có sự thiên lệch. Những khu rừng núi quanh Điện Biên Phủ đều khó khăn với cả hai phía lực lượng Việt Minh và lực lượng Pháp. Nhưng lính trẻ của Việt Minh luôn là những người sống sót. Dù cho người thành phố đã phải chịu đựng những căn bệnh địa phương, những gian khổ đôi khi còn có tình trạng kém dinh dưỡng chung ở khu vực miền Bắc, Việt Minh bị bệnh dịch vì những căn bệnh ở vùng nhiệt đới như sốt rét rừng nhưng tình trạng suy nhược của họ cũng không thể so sánh với những gì mà người châu Âu đang phục vụ trong quân đội Viễn chinh của Pháp phải chịu đựng. Binh lính hành quân qua rừng đã phải chịu say nắng, mệt mỏi và tình trạng xuống súc. Bệnh lỵ và sốt rét là phổ biến, những vết cắt nhỏ nếu không chữa trị có thể bị nhiễm trùng và nhanh chóng trở thành nguy hiểm. Quân đội Việt Minh điều động từ Lào về tháng 12 năm 1953 đã bị ốm yếu mệt mỏi và gầy mòn nhưng chứng tỏ rằng vẫn có thể đi bộ tới pháo đài và có mặt tại điểm hẹn gần Điện Biên Phủ.
Các mũi tên màu vạch ra tiến trình hoạt động của một đơn vị trên tấm bản đồ ở sở chỉ huy đã không chỉ rõ những khó khăn cần phải đối mặt trên chiến trường. Mệt mỏi, ốm yếu, thiếu nước, núi cao, thung lũng sâu, rừng rậm, dòng chảy xiết chưa được đánh dấu. Nhưng những trận phục kích chết người đã kết hợp để tạo nên một lễ rửa tội thực sự với những người lính.
https://thuviensach.vn
Một số chỉ huy có kinh nghiệm đều hiểu được những hạn chế của quân lính viễn chinh trong môi trường nhiệt đới.
Khả năng không quân của Mỹ và đặc biệt là trực thăng đã tạo ra một sự khác biệt lớn trong cuộn chiến tranh Việt Nam. Sơ tán nhanh những người bị thương đã cứu được nhiều mạng sống, những chiếc máy bay lên thẳng đã kéo pháo từ vị trí này sang vị trí khác và bộ binh được phân tán tới các vùng hạ cánh gần các mục tiêu của họ. Bắc Việt bị gây ấn tượng bởi khả năng vận chuyển bằng đường không của Mỹ, thậm chí tới nước cũng được vận chuyển bằng máy bay. Nhưng đối với lính Mỹ, những người không thể qua nổi khu rừng rậm hay qua vùng châu thổ sình lầy thì môi trường vẫn còn là một kẻ thù tiềm ẩn.
5. Quá nhiều ảnh hưởng của phương Tây có thể gây tai hoạ cho một quân đội gồm binh lính vốn là người ở các nước thuộc thế giới thứ ba, tạo ra những áp lực tâm lý tiêu cực, làm xói mòn đạo đức, giảm tính chiến đấu và gây ra những rạn nứt trong các đội quân đồng minh.
Quân đội Viễn chinh Pháp của những năm 50 có thể là một cỗ máy chiến đấu nhà nghề có hiệu quả. Nhưng vào năm 1953 nó nhanh chóng trở thành một cỗ máy sai niên đại. Như một trong những quân đội thực dân cuối cùng còn tồn tại, nó đang chỉ ra những căng thẳng và rạn nứt do những khuynh hướng mới trên thế giới sau chiến tranh tạo ra. Sự thay đổi chính trị đang chống lại tư tưởng của đám tân binh và chủ nghĩa gia trưởng đang trở thành lạc hậu. Binh lính Bắc Phi và Tây Phi, những người đã chiến đấu cho Pháp trong Thế chiến II vẫn đang làm tốt nhiệm vụ ở Đông Dương, nhờ vào phẩm chất của các sĩ quan Pháp và các sĩ quan cựu chiến binh không tham chiến. Nhưng, cuộc chiến tranh dường như không bao giờ kết thúc ở một vùng đất xa xôi và chiến dịch tuyên truyền của Việt Minh đang gây ra những tổn thất lớn. Những lá truyền đơn, những lời kêu gọi của loa phóng thanh với các bốt bị cô lập và các chiến dịch tuyên truyền bằng miệng trong các quán bar tồi tàn gần các trại quân sự thường đưa ra các câu hỏi: “Bạn
https://thuviensach.vn
đang làm gì ở đây? Tại sao bạn lại tới đây để chết? Tại sao bạn lại đánh chúng tôi khi đáng ra bạn nên ở lại trong nước để giải phóng cho đất nước của bạn?” Nhiều binh lính thực dân đã bắt đầu suy nghĩ tới những câu trả lời, đặc biệt khi những lời đồn gây sự lo lắng và sự chống đối lại chế độ thống trị của Pháp trong nước đã lan tới Đông Dương.
Mặc dù các quân đội thực dân giờ chỉ còn là một vấn đề của quá khứ, nhưng di chứng của chúng còn kéo dài. Quân đội Việt Nam cộng hoà không bao giờ có thể tỏa sáng bản chất của nó như một lực lượng quân Viễn chinh châu Âu đã được đào tạo. Khi các cố vấn Mỹ thay thế vai trò của Pháp thì sự pha trộn chủ nghĩa thực dân còn tồn tại tạo ra một đề tài liên tiếp đối với những người tuyên truyền cho Việt cộng, những người luôn coi Quân đội Việt Nam cộng hoà là một “con rối”. Ngày nay, là một siêu cường trên thế giới, Mỹ đứng trước những trách nhiệm không tính trước và sự can thiệp vào các cuộc chiến có tính chất địa phương cũng như các cuộc xung đột căng thẳng. Với chúng tôi, “chủ nghĩa thực dân” là một cái mác lịch sử. Với nhiều nước của thế giới thứ ba, nó vẫn còn là một biểu tượng có giá trị tiêu cực.
6. Tính hiệu quả và đạo đức của một lực lượng quân sự có liên quan trực tiếp tới sự ủng hộ của chính phủ và nhân dân của quốc gia có liên quan.
Cuộc chiến đấu trường kỳ và khốc liệt của quân đồn trú Pháp ở Điện Biên Phủ là một hiện tượng. Rõ ràng, có nhiều binh lính nhà nghề với những nguyên tắc truyền thống và sự hy sinh riêng. Họ biết rằng họ đang chiến đấu trong một cuộc chiến, ở một nước khác, mà trong nước ít biết đến. Thực tế đó ban đầu đã làm tăng lên tinh thần đoàn kết trong họ và tạo ra một ước nguyện giành chiến thắng để biện minh cho nỗ lực của họ ở Đông Dương. Nhưng bánh xe lịch sử vẫn quay và họ vẫn đang đi trên con đường đó. Pháp đang muốn tìm ra một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh này khi họ tham gia vào trận đánh và sự ủng hộ của chính phủ với nỗ lực chiến tranh lại đang giao động. Thêm vào đó, bất cứ cơ hội can thiệp nào của
https://thuviensach.vn
đồng minh Mỹ đều sôi lên rồi vụt tắt như ngòi nổ bị ướt. Những người tham chiến ở Điện Biên Phủ đang trong một tình thế quân sự hoàn toàn bi đát.
Mặt khác, những chiến sĩ của Việt Minh biết rằng sau họ toàn dân tộc đã được cổ vũ động viên bằng một cuộc chiến tranh nhân dân giành độc lập. Với chúng tôi, những lời lẽ ngôn ngữ bản địa của Cộng sản và lời lẽ tuyên truyền đều vô tác dụng nhưng với họ những khẩu hiệu định ra các mục tiêu cho họ chiến đấu.
Có một ví dụ được nhắc tới nhiều trong thời kỳ Johnson. Việt Cộng, với sự ủng hộ của Bắc Việt, cũng có lòng quyết tâm theo đuổi mục tiêu của mình như cha ông họ. Binh lính của chúng tôi, không rõ mục đích của chiến tranh và thiếu sự ủng hộ của công chúng trong nước cũng đã chiến đấu giỏi nhưng với nhiều người mục tiêu chính là phải sống cho qua trách nhiệm. Những thất bại trong cuộc chiến đơn lẻ đã dẫn họ tới chỗ nghiện ma túy, xung đột sắc tộc và suy đồi đạo đức.
Khó có thể tưởng tượng lại có sự lặp lại của Điện Biên Phủ ngày nay nhưng dù sao vẫn có cảnh báo. Bất cứ quân đội hiện đại nào tham gia chiến đấu ở nước ngoài trong đó cá nhân chiến sĩ đặc biệt là lính mới đều có những nghi ngờ về mục đích tham chiến của anh ta là không có lợi. Sự bất lợi này không có ở đối phương là những người có lòng tin kiên định vào sự nghiệp của họ. Nó có thể trở nên rõ ràng hơn khi phải đối mặt với những tổn thất nặng nề, những khẩu phần ăn đạm bạc và sự gian khổ kéo dài.
https://thuviensach.vn
NHẢY ĐI! NHẢY ĐI! NHẢY!
“Giá như ngày hôm đó trời mưa!”
Thiếu tá Marcel Bigeard, Chỉ huy Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, từ sáng sớm sương mù đã che phủ kín bầu trời Hà Nội. Tia nắng đầu tiên làm lộ ra những chiếc máy bay C-47 của lực lượng không quân Pháp đứng xếp thành hàng trên sân bay quân sự Bạch Mai. Những chiếc xe tải, xe jeep đi giữa những chiếc máy bay để chuyển quân, chuyển những bức điện tín và xếp những vũ khí nặng lên máy bay. Tiếng mở cửa đuôi máy bay đánh “rầm”, tiếng băng tải hàng kêu ken két, tiếng bước chân đi ủng lạo xạo và thỉnh thoảng lại có tiếng quát ra lệnh bị nhoà đi nhanh chóng, bị méo mó đi do đập vào những thân máy bay sơn màu bạc. Những đoàn lính dù đội mũ sắt trong tư thế sẵn sàng chiến đấu loạng choạng bước lên các máy bay C-47 trông giống như những người thợ lặn biển sâu, chất nặng trên lưng với những chiếc dù, vũ khí và trang thiết bị. Quang cảnh tương tự cũng lặp lại ở Gia Lâm, sân bay dân sự của Hà Nội.
Lính dù tham gia vào chiến tích nhảy dù lớn nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương là đội quân tinh nhuệ của đội quân Viễn chinh Pháp. Các đơn vị mũi nhọn, Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của Thiếu tá Marcel Bigeard và Tiểu đoàn 2 Trung đoàn dù tiêm kích số 1 của Thiếu tá Jean Bréchignac là các đơn vị đã được thử thách trong chiến đấu do các sĩ quan có kinh nghiệm đánh ở Việt Nam chỉ huy. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 của Thiếu tá Jean Souquet dự tính nhảy dù đợt 2 trong cùng ngày cũng nổi tiếng có trình độ chuyên nghiệp cao tương tự. Sở chỉ huy của nhóm dù chiến đấu số 1 của Trung tá Fourcade - một trong những người thành lập ra đội Biệt kích Đông Dương dự tính nhảy dù cùng với tiểu đoàn của Souquet cho dù bản thân
https://thuviensach.vn
Fourcade đã chọn nhảy sớm hơn cùng với Bréchignac. Các công binh dù, các đại đội trọng pháo và các đội phẫu thuật cũng sẽ tham gia vào chiến dịch. Những lính dù này - hay còn gọi là “lính chữa cháy” chiến tranh Đông Dương - thường chạy từ điểm nóng này tới điểm nóng khác nhảy từ từ trên trời xuống giải vây cho các cứ điểm bị đối phương cô lập và tấn công, hỗ trợ các đơn vị bộ binh trong các cuộc càn quét trên mặt đất và thực hiện các cuộc đột kích và các nhiệm vụ tình báo cho Tư lệnh tối cao Pháp.
Những người lính đang được các nhân viên phi hành đoàn giúp đỡ bước qua những cái cửa chật hẹp của máy bay C-47, họ chỉ biết lờ mờ về những gì chờ đợi họ ở cuối chuyến bay. Nhưng sự tăng cường chiến dịch với số lượng máy bay tham gia và thông báo tin tức giờ chót trước khi lên đường đã khiến những người lính này hiểu rằng họ đang sắp sửa tham gia vào một trận đánh mà họ từng được huấn luyện từ trước đó là một cuộc tập kích dù.
Cứ 25 người trên một chiếc máy bay như những tổ kén vỏ kim loại mỏng phục vụ vận tải, các lính dù tán gẫu với nhau và với đám nhân viên hàng không để thoát thỏi tình trạng căng thẳng và chật chội. Kẻ ngồi tựa vào những túi hàng trên lưng để ngủ bù, một số nhai kẹo cao su, người thì ngồi lặng lẽ, cô đơn theo đuổi những suy nghĩ riêng của mình. Những người từng trải hiểu rõ chuyến bay cao và xa sẽ lạnh giá thế nào đã tán tỉnh các xếp phi hành đoàn để được đắp chung chiếc chăn nhỏ.
Đây là một đội quân hỗn hợp về nguồn gốc và chủng tộc: những thanh niên từ các vùng ngoại ô của Paris và Lyon: những chàng trai Breton lạnh lùng, những binh lính từ mọi miền của Pháp từ Artois tới Provence và từ Poitou tới Savoy. Nhiều người trong số lính dù là người Việt Nam thấp bé ít nói hoặc người Campuchia da đen được lựa chọn tham gia cùng các đơn vị thuộc địa. Khi công việc kiểm tra quân số và trang bị xong, các lính dù đành phải chờ đợi chung với tất cả các đội quân.
Khoảng 300 km về phía Tây Bắc Hà Nội, một chiếc C-47 đã bay hết một chặng đường dài, giờ đây bắt đầu lượn vòng, vượt qua dãy núi hình vòng
https://thuviensach.vn
nhẫn để tiến vào thung lũng Mường Thanh. Với sự hăng hái của người Pháp và dường như bất chấp nguy hiểm, chiếc máy bay này chở một chuyến hàng đặc biệt, đó là những người ra quyết định: Trung tướng không quân Pierre Bodet (Phó tư lệnh ở Đông Dương), Chuẩn tướng Jean Dechaux (chỉ huy Nhóm không quân chiến thuật miền Bắc) và Chuẩn tướng Jean Gilles (chỉ huy các lực lượng dù ở Đông Dương) cùng với một nhóm phi công dù dẫn đường và các thiết bị radio chuyên dụng. Tất cả điều đó đã biến chiếc máy bay C-47 thành một chỉ huy sở bay. Quyết định mà họ phải đưa ra phụ thuộc vào thời tiết. Nếu có mưa trên các vùng núi hoặc nếu sương mù còn trên thung lũng thì cuộc hành quân Castor (Beaver) sẽ phải huỷ bỏ.
Khu rừng phía dưới lúc ẩn lúc hiện sau những dải sương mù. Những núi đá lởm chởm nhô lên khỏi đám lá dày đặc giống như những chiếc răng bị gẫy, còn những đỉnh cao đang vươn tới dấu hiệu đầu tiên của buổi hoàng hôn. Máy bay 2 động cơ gầm lên khi nó bay vòng quanh thung lũng dài 16km, rộng 9km. Sương tan để lộ ra dòng sông Nậm Rốm lấp lánh ánh bạc chạy ngoằn ngoèo trong thung lũng. Những túp lều mái cao rải rác, hai bên bờ sông là bản Mường Thanh của dân tộc Thái. Trên tấm bản đồ trải rộng trước mặt các tướng lĩnh, một vùng mang tên Việt Nam Điện Biên Phủ, hay còn gọi là tiền đồn chính.
Một cơn gió bấc làm tan những đám mây và bóc lớp sương ra khỏi những vách đá khi chiếc C-47 đã bắt đầu lượn vòng tốc độ chậm lần nữa. Các bản làng khác đang hiện ra, người ta có thể nhìn thấy những làn khói bếp mỏng bay lên. Trung tướng Bodet rút điếu thuốc lá và liếc nhìn đồng hồ. Mặc dù chiếc C-47 có thùng nhiên liệu phụ nhưng đã đến lúc phải có một quyết định trước khi máy bay hết nhiên liệu. Chuẩn tướng Gilles, kéo chiếc mũ nồi lính dù sụp xuống trán, tiếp tục quan sát quang cảnh. Ngay cả lúc thuận lợi nhất, Gilles cũng không phải là người hay nói và giờ dường như ông ta đang suy ngẫm. Ông biết rằng 1.500 lính dù trong chuyến nhảy dù đầu tiên của ông đều đã sẵn sàng. Tình báo còn cho biết rằng đơn vị ông có thể đụng phải sự phản kháng mạnh mẽ dưới mặt đất.
https://thuviensach.vn
Được biết hai đại đội của tiểu đoàn 920 thuộc trung đoàn 148 Việt Minh đã đóng quân ở Điện Biên Phủ để bảo vệ sở chỉ huy của họ. Ngoài ra, một đại đội trọng pháo của Sư đoàn 351 được trang bị cối 120 ly đã tới thung lũng. Nhưng không ai trên chiếc máy bay chỉ huy hoặc ở sở chỉ huy Pháp tại Hà
Nội biết rằng các đơn vị của tiểu đoàn 920 được lệnh thực hiện các bài tập chiến thuật vào sáng ngày hôm đó trên vùng đất được gọi là “Natasha”, chính là khu vực nhảy dù đã được giao cho tiểu đoàn của Thiếu tá Bigeard.
Những tia nắng đầu tiên bỗng sáng rực lên xuyên qua những đám mây. Dechaux cùng với Bodet và Gilles đi xem xét địa hình. Có một chút nghi ngờ - sương đang tan và bầu trời càng hiện rõ. Lúc 6 giờ 52, các tướng lĩnh gửi một bức điện mật mã tới sở chỉ huy của Thiếu tướng Cogny - chỉ huy các lực lượng mặt đất ở Bắc Bộ: “Sương đang tan ở Điện Biên Phủ”. Lúc 8 giờ 15, những chiếc C-47 đầu tiên của phi đội 65 lăn bánh trên đường băng của sân bay Bạch Mai và Gia Lâm rồi cất cánh, bay qua sông Hồng và các vùng ngoại thành Hà Nội tiến thẳng về Tây Bắc.
Thật may cho tinh thần của họ, những lính dù không biết rằng 2 vị tướng trên chiếc máy bay chỉ huy, Gilles và Dechaux cũng như Chuẩn tướng René Masson, người được uỷ quyền của Tướng Cogny ở Hà Nội đã bị công khai dẫn lời là những người phản đối cuộc hành quân Castor. Đoạn trích ngắn gọn từ bản báo cáo mật về cuộc họp ngày 17 tháng 11 ở Hà Nội do Tướng Navarre, Tổng tư lệnh ở Đông Dương chủ trì đã nhấn mạnh sự phản đối của họ.
“…Trong cuộc họp này Tướng Navarre hỏi Tướng Masson, Dechaux và Gilles xem họ có phản đối gì với việc thực thi chiến dịch nhảy dù vào Điện Biên Phủ mang tên Castor.
Tất cả đều khuyên là không nên tiến hành cuộc hành quân đó và đưa ra những lý do phản đối về chiến thuật.
https://thuviensach.vn
Đặc biệt, Tướng Dechaux chỉ ra rằng việc duy trì căn cứ dù mới này sẽ tạo ra một gánh nặng lên khả năng làm việc của máy bay vận tải vì thời tiết ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và trên lòng chảo Điện Biên Phủ thường khác biệt nhau, nên chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn trong việc đảm bảo đủ nguồn tiếp viện cho căn cứ.
Tướng Navarre vẫn giữ quyết định của ông là tiến hành cuộc hành quân Castor bằng cách đưa ra lý do:
- Về chiến lược: bảo vệ Lào
- Về kinh tế: tịch thu gạo, đặc biệt là ở thung lũng Điện Biên Phủ”.
Trước đó 13 ngày một báo cáo chuẩn bị cho Tư lệnh tối cao của Đại tá Dominique Bastiani, một cựu sĩ quan dù và là một nhà chiến thuật chín chắn phục vụ như một tham mưu cho Cogny, đã nêu ra các kẽ hở trong cuộc hành quân Castor. Bastiani chỉ ra rằng Lai Châu, thủ đô của người Thái gần biên giới Trung Quốc, chắc chắn rơi vào tay Việt Minh. Quan trọng hơn, ông ta thách thức lý do của Tư lệnh tối cao là sự có mặt của Pháp ở Điện Biên Phủ sẽ ngăn chặn Việt Minh sang Lào bằng việc giải thích rằng: “Ở nước này, người ta không thể ngăn chặn được đối phương chỉ bằng một hướng. Việt Minh đi qua khắp nơi như chúng ta thường thấy ở đồng bằng”. Đại tá còn cho biết vụ mùa của Điện Biên Phủ sẽ cung cấp lương thực cho Việt Minh trong 3 tháng vì thế sẽ thuận lợi cho một cuộc xâm lấn Lào và cảnh báo Điện Biên Phủ có thể trở thành một cái hố không đáy thu hút các tiểu đoàn của Pháp và chỉ cần một trung đoàn Việt Minh là có thể đóng được miệng hố. Ông nói: đối phó với một nguy cơ gia tăng ở vùng đồng bằng, Tư lệnh tối cao Pháp phải cố thủ 3 nhóm cơ động cách Hà Nội khoảng 300 km để chống lại một nguy cơ mang tính giả thuyết sang Lào. Bastiani kết luận hậu quả của một quyết định như vậy có thể rất nghiêm trọng. (Trong cuốnĐông Dương hấp hối 1953-1954xuất bản 3 năm sau ở Paris, Tướng Navarre nói: “Trái ngược với những gì đã từng nói, quan điểm
https://thuviensach.vn
của mọi người trước trận đánh đều phù hợp với vị trí chiến thuật của Điện Biên Phủ”.)
Mặc cho có những cảnh báo từ các chỉ huy chiến trường có kinh nghiệm, phòng tham mưu của Tướng Navarre ở Sài Gòn đã đi thẳng tới kế hoạch cho cuộc hành quân Castor. Cách xa với thực tế của cuộc chiến tranh trong sở chỉ huy có điều hoà, họ đã di chuyển các đơn vị và các mũi tên trên chiếc bản đồ treo tường như thể không còn tồn tại các dãy núi nguy hiểm, các vùng đầm lầy, rừng rậm, mưa, gió mùa, sương mù nặng và cái nắng cháy da ở đó.
Tướng Masson, Dechaux và Gilles đang thực hiện các mệnh lệnh của Tướng Navarre với những lo ngại nên khó có được không khí thuận lợi khi thực hiện một chiến dịch quyết định tới hậu quả của cuộc chiến.
Tướng Navarre tới Sài Gòn ngày 19 tháng 5 năm 1953, người đã gánh vác trách nhiệm của đội quân Viễn chinh Pháp từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh Đông Dương vào cuối năm 1946. Nghiệp quân sự của Navarre - năm 55 tuổi - đã từng bị căng thẳng và rất đa dạng. Là một sinh viên tốt nghiệp khoa quân sự của trường võ bị Pháp, giống như các sĩ quan cao cấp khác phục vụ ở Đông Dương, ông đã chiến đấu như một kỵ binh trong Thế chiến I và trong các chiến dịch Bắc Phi trong chiến tranh của Pháp. Trong Thế chiến II, sau khi hoạt động bí mật trong mạng lưới tình báo chống Đức ở Pháp ông đã chỉ huy một trung đội thiết giáp của các lực lượng tự do Pháp cho tới khi người Đức đầu hàng. Đi theo cuộc chiến tranh, Navarre giữ nhiều các vị trí tham mưu và đã chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp số 5 của Pháp. Khi tới Đông Dương ông là tham mưu trưởng cho Thống chế lục quân Alphonse Juin tại trụ sở của NATO.
Navarre nổi tiếng là có một tư duy quân sự chính xác. Ông có mái tóc hoa râm và luôn chỉnh tề trong bộ quân phục đẹp. Tính cách lạnh lùng của ông thường tạo ra một khoảng cách với người cấp dưới.
https://thuviensach.vn
Vị Tổng tư lệnh mới tới Đông Dương sau một chỉ thị vừa hư vừa thực của Chính phủ, nhằm tạo ra các điều kiện quân sự cho một “giải pháp chính trị danh dự”. Cụm từ “chiến thắng” biến mất khỏi đám từ vựng của Chính phủ. Navarre đang hành động mà không hề có sự ủng hộ thực sự của một cơ sở nào ở Paris. Chính phủ của Thủ tướng René Mayer, người đã cử Navarre tới Đông Dương, bị sụp đổ. Nước Pháp kiệt quệ vì cuộc chiến tranh tiêu hao dường như không kết thúc, làm hủy hoại toàn bộ các tiểu đoàn của Pháp, đã yêu cầu các đợt tăng cường quân, gây ra những tổn thất nạng nề cho đội ngũ sĩ quan và phá hoại cả một sự nghiệp quân sự. Chiến tranh chưa làm chết nhiều chính trị gia của Pháp nhưng cũng đủ để dập tắt những sáng kiến táo bạo và làm cho nhiều người phải thận trọng khi nhận vai trò giải quyết vấn đề Đông Dương.
Chiến tranh Đông Dương đã thay đổi đáng kể từ khi Navarre tới. Lực lượng du kích Việt Minh của Cụ Hồ Chí Minh từng tấn công các đơn vị của Pháp năm 1946 chỉ bằng những súng trường bị bỏ đi và những quả lựu đạn tự tạo nay đã phát triển thành một quân đội có kỷ luật có thể làm chủ các sư đoàn
chính quy có pháo binh và trọng pháo yểm trợ. Thắng lợi của cộng sản Trung Quốc cuối năm 1949 đã mở đường biên giới Trung Quốc cho phép Việt Minh tiếp cận trực tiếp với các vũ khí, cố vấn và các phương tiện huấn luyện của Trung Quốc. Tổng tư lệnh Việt Minh, Tướng Võ Nguyên Giáp, một cựu giáo viên lịch sử, từng nghiên cứu các chiến dịch của Napoleon và Kutuzov cũng như của những người anh hùng Việt Nam như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Huệ, đã đánh cho Pháp thất bại dọc theo biên giới Trung Quốc ở Đông Khê, Cao Bằng và Lạng Sơn năm 1950.
Sự có mặt của Thống chế Jean De Lattre de Tassigny cùng năm đó đã lấy lại tinh thần cho Tập đoàn Viễn chinh Pháp khi họ đang mệt mỏi vì những thất bại. “Roy Jean” đã xây dựng niềm tin mới cho đám binh lính và đánh bại đối phương vào đầu năm 1951. Ông còn có ấn tượng với chính quyền
Truman trong một chuyến thăm Washington để tìm thêm nguồn viện trợ quân sự của Mỹ. Chiến tranh Triều Tiên xoá sạch đi những nuối tiếc của
https://thuviensach.vn
Mỹ về việc giúp đỡ Pháp. Đông Dương không còn là một cuộc chiến tranh thuộc địa giản đơn. Người Pháp giờ đang chiến đấu chống lại sự phát triển của cộng sản ở châu Á. Năm 1951, viện trợ quân sự của Mỹ đã lên tới 50 triệu đôla và nhóm vận động của De Lattre ở Washington đã đạt được viện trợ lên tới 60 triệu đôla năm 1952. Bệnh ung thư chết người đã làm cho De Lattre phải kết thúc quyền lực của mình ở Đông Dương cùng năm ấy.
Tướng Raoul Salan, Tư lệnh tiếp theo được uỷ quyền của De Lattre. Ông là một người đã ở Đông Dương, từng trải ở Tây Bắc Việt Nam và là một chuyên gia trong lĩnh vực tình báo. Vào cuối mùa mưa tháng 8 năm 1952, Salan buộc phải tin rằng Tướng Giáp đang lên kế hoạch cho một đợt tấn công khác vào các vùng núi Tây Bắc Việt Nam. Cuối năm 1952, Salan thành lập một Tập đoàn cứ điểm có căn cứ không quân ở thung lũng Nà Sản để bảo vệ Lào và khu vực của người Thái. Ông còn thấy thung lũng có các dãy núi bao quanh là điểm hẹn lý tưởng cho các đơn vị Pháp buộc phải từ bỏ các căn cứ ngoài biên giới. Với việc xây dựng căn cứ Nà Sản bằng đường hàng không - 50 phút bay từ Hà Nội - ông hy vọng lôi kéo Tướng Giáp vào một cái bẫy nơi các cuộc tấn công trực diện của Tướng Giáp sẽ bị pháo binh và máy bay của Pháp đè bẹp. Salan đã lựa chọn một sĩ quan dù một mắt Jean Gilles sau đó là đại tá để chỉ huy Nà Sản.
Ở một chừng mực nào đó thì Nà Sản đã là một thành công. Cầu hàng không từ Hà Nội đã thực hiện chức năng các pháo đài đã được xây dựng đúng tiến độ, sự có mặt hùng hậu của người Pháp đã đảm bảo cho quân đồng minh người dân tộc và quân đồn trú của Salan được phục hồi. Sư đoàn 308 và 312 Việt Minh đã tấn công các khu phòng thủ vào ngày 30 tháng 11 và ngày 1 tháng 12. Sáng ngày 2 tháng 12, một hồi còi đã báo hiệu sự rút lui của Việt Minh. Xung quanh hàng rào phòng ngự của Pháp là trên 500 xác chết. Ở Hà Nội, vui mừng trước thắng lợi của Nà Sản nên Pháp đã không thấy được thực tế rằng đám quân đồn trú ở Điện Biên Phủ phải sơ tán vì áp lực từ các đợt tấn công vào Nà Sản của Tướng Giáp.
https://thuviensach.vn
Những mặt tiêu cực của Nà Sản đã không được cụ thể, xác thực như việc đếm xác mà chỉ như là thực tế. Cho dù việc tiếp viện bằng đường không của khu phòng thủ “con nhím” là ổn thoả nhưng chiến dịch từng ngày một của nó đã lộ ra những yếu kém về khả năng của lực lượng không quân. Những chuyến bay tiếp viện đều đặn từ Hà Nội đã vắt kiệt sức của đám nhân viên và máy bay nếu phải thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong vùng đồng bằng Bắc Bộ trọng yếu. Sự rút lui của Việt Minh cho thấy những cản trở của Nà Sản với các hoạt động của Việt Minh thực tế chỉ là con số không. Binh lính của Tướng Giáp xuyên qua các khu rừng như dòng thuỷ ngân có điều khiển, chọn ra những đường mòn của riêng họ, tránh hoặc đi đường vòng qua Nà Sản.
Việt Minh có lẽ “đã làm gãy chiếc răng của mình” ở các khu phòng thủ của Nà Sản, vì thế mà Đại tá Gilles được thăng quân hàm Chuẩn tướng, con người tham gia chiến dịch kỳ cựu vẫn còn chưa được ghi dấu ấn. Đối với ông một thực tế phiền phức là đối phương đã chiếm một trong các vị trí pháo đài trên đồi trong một cuộc tấn công vào ban đêm và duy trì trong 12 tiếng đồng hồ dưới làn hoả lực của pháo binh và cuộc tấn công bằng bom napan đã yêu cầu xem xét lại giá trị thực của các cứ điểm được tiếp viện bằng đường hàng không.
Chỉ huy của Nà Sản không phải chỉ có một mình đưa ra các kết luận thích đáng từ trận đánh. Tướng Giáp cũng rút ra được một số bài học có giá trị. Sau này ông cho biết Nà Sản đã giúp ông hiểu rằng không thể chiếm được một cứ điểm được tiếp viện bằng đường hàng không nếu không dùng hoả lúc pháo binh tấn công đường băng.
Trước khi Tướng Navarre tới, các sư đoàn Việt Minh đã đánh đòn nghi binh sang Lào, buộc Salan phải thiết lập một đầu cầu hàng không phòng thủ ở Cánh Đồng Chum, một vùng cao nguyên ở Bắc Lào và đưa quân tăng cường tới Luang Prabang. Sau khi phá hủy một số đồn bị cô lập của Pháp ở Lào, lực lượng chính quy của Tướng Giáp đã kéo về Tây Bắc Việt Nam. Nỗ
https://thuviensach.vn
lực của họ không hoàn toàn bị uổng phí. Việt Minh đã tuyển thêm lính mới là người địa phương, hợp tác với quân Pathét Lào thân Cộng và rút ra những bài học quý trong việc di chuyển và tiếp tế cho các sư đoàn trên những đoạn đường dài. Họ còn thu hoạch vụ mùa thuốc phiện của người địa phương, một mặt hàng tạo ra tiền mặt để mua bán vũ khí, thuốc men ngoài chợ đen ở Hồng Kông, Băng Cốc và Manila.
Phản ứng với sự thay đổi đột ngột của Tướng Giáp, Tướng Salan sau đó đã chuẩn bị bàn giao quyền chỉ huy cho Tướng Navarre. Trong đám hồ sơ báo cáo để lại cho người kế nhiệm có một bản nhận xét chi tiết rằng một công sự vững chắc sẽ được hình thành ở Điện Biên Phủ, Salan coi đó như một điểm chính để bảo đảm sự an toàn cho Luang Prabang. Tướng Navarre đang vạch ra những nét chính của một chiến lược quân sự ở Đông Dương. Ông ta cho rằng phải giành cho được thế chủ động từ Việt Minh, một mực đòi tăng thêm quân từ Pháp và phát triển các đội quân quốc gia ở Việt Nam, Lào và Campuchia để thay thế các lực lượng Pháp ở các vị trí cố định. Giống như những người đi trước, ông ta buộc phải quan tâm tới việc bảo vệ Lào, nước liên kết chống cộng và trung thành nhất ở Đông Dương (Việt Nam, Campuchia và Lào). Lào còn được coi là tuyến đường thích hợp nhất cho Việt Minh tiến dọc theo phía nam của sông Mê Kông vào miền Nam Việt Nam và Campuchia. Đánh giá của Salan về Điện Biên Phủ hợp với những gì sớm được biết là “Kế hoạch Navarre”.
Navarre chỉ ra kế hoạch của mình cho đội quân Viễn chinh Pháp trong lá thư đầu tiên. Ông tuyên bố: “Người ta chỉ có thể chiến thắng bằng cách tấn công”. Washington đã nhận được lời kêu gọi thúc giục hành động này và chính quyền Eisenhower đang xem xét tới chi phí viện trợ quân sự cho Đông Dương đi ngược với các kết quả và lo rằng liệu việc làm của chỉ huy Pháp có ngang bằng được với việc làm của De Lattre.
Ngày 17 tháng 7 năm 1953, 3 tiểu đoàn dù của Pháp đã nhảy dù xuống một huyện biên giới của tỉnh Lạng Sơn, do Việt Minh chiếm giữ một trung tâm
https://thuviensach.vn
tiếp nhận hàng tiếp viện chính từ Trung Quốc. Lính dù đã rút lui sau khi phá hủy một kho vũ khí đạn dược lớn. Lạng Sơn đã từng là một ví dụ thực tiễn về việc đẩy chiến tranh về phía đối phương, làm tổn thương đối phương nhưng không có ý định chiếm giữ một khu cơ sở hạ tầng vô dụng. Thành công đó được xem như một ví dụ hoàn hảo khi thực hiện kế hoạch Navarre và thậm chí những kẻ hoài nghi cũng tạm thời bớt lời chỉ trích. Tướng Navarre ra lệnh sơ tán khỏi Nà Sản vào tháng 8. Cứ điểm này đang ở vào tình trạng trì trệ kể từ sau các đợt tấn công của Việt Minh tháng 11 và 12 năm 1952, một biểu tượng quyền lực trống rỗng mà đối phương không nhận ra. Đối với một chỉ huy quý trọng từng đơn vị, từng máy bay chiến đấu thì việc sơ tán này có một ý nghĩa thực tế. Nhưng nó cũng đã loại bỏ lời khuyến cáo của Tướng Salan rằng Nà Sản và Điện Biên Phủ được coi là hai căn cứ hỗ trợ cho nhau.
Phi đội C-47 vẫn tiếp tục các chuyến bay 3 cái một lên xuống trong luồng khí gổ ghề phía trên bàn cờ màu xanh xám của những cánh đồng lúa. Những ngọn núi đầu tiên nơi người Thái sinh sống sớm hiện ra, vách núi cao dựng đứng không theo quy tắc nào, bên dưới là thung lũng sâu thẳm được bao phủ bằng những đám mây bay chậm. Thiếu tá Bigeard thấy một số lính của ông mặt tái xanh, một số khác bị say. Quan sát cảnh đẹp của nùi rừng từ trên máy bay, ông thấy cuộc sống sẽ thật yên ả làm sao nếu đám lính dù của ông cứ luôn ở mãi trên cao. Nhưng ông không có cảm giác về những gì đang chờ đợi họ phía dưới. Trung tướng Bodet nói với Bigeard và Bréchignac rằng họ phải kéo sang Lào với những tổn thất tối thiểu nếu mọi việc không diễn ra thuận lợi trên mặt đất. Quyết định sẽ phải là ở họ. Những năm sau này, đánh giá về kết quả của cuộc hành quân Castor, Bigeard nói: “Giá như hôm đó trời mưa?”
Bigeard 37 tuổi được coi là biểu tượng linh hồn của lính dù ở Đông Dương. Anh ta cao lớn, có cái mũi diều hâu, là người không quan tâm tới sự nguy hiểm và là một món quà trời phú cho ban lãnh đạo. Anh ta vào quân đội Pháp năm 1939, là một hạ sĩ quan và chiến đấu trong trận đánh chống lại sự
https://thuviensach.vn
xâm chiếm của người Đức năm 1940. Anh bị bắt và sau vài lần bỏ trốn anh đã thoát khỏi nhà tù năm 1941. Năm sau anh lại vào quân đội Pháp ở châu Phi. Năm 1944, sau khi được người Anh huấn luyện nhảy dù anh đã tham gia nhảy dù xuống Ariège với chức danh tạm thời là chỉ huy tiểu đoàn đứng đầu một tổ chức kháng chiến địa phương. Ở Đông Dương từ năm 1945, Bigeard đã tận dụng thời gian làm việc lâu dài trong khu vực của người Thái để trở thành chuyên gia trong cuộc chiến tranh đòi hỏi phải có mưu kế để tồn tại và giành thắng lợi trong vùng rừng núi. Anh còn nghiên cứu các chiến thuật của đối phương và rút ra một số phương pháp để làm hoàn hảo cho phương pháp riêng của mình. Hiện tại, sau 8 năm kinh nghiệm chiến đấu liên tiếp, Thiếu tá Bigeard nổi tiếng với biệt danh “Bruno” và đã trở thành một huyền thoại sống. Đám lính dù theo anh lao vào những tình huống khó khăn nhất không một chút do dự, luôn nhận thức rằng Bruno sẽ không bao giờ đòi hỏi người khác hơn những gì chính anh ta đã làm.
Sáng ngày 20 tháng 11, ngoại trừ những buổi tập quân sự cách khá xa làng bản, Điện Biên Phủ là một bức tranh đồng quê yên tĩnh. Đường băng, chìa khoá cho các mục tiêu của cuộc hành quân Castor bị Việt Minh cố tình làm
hỏng. Người dân đang làm công việc của họ trong không khí mát mẻ của núi rừng, trên những cánh đồng lúa lấy nước vào những cái ống bương từ sông Nậm Rốm, cho lợn, gà ăn dưới những túp lều. Những ông già mặc bộ quần áo màu đen khuy bấm bạc, đội mũ sẫm màu ngồi dưới gốc cây hút thuốc. Phụ nữ Thái trong chiếc áo tối màu bó sát người, váy dài và khăn đội đầu vấn chặt cùng nhau ra bờ sông để giặt quần áo và tán gẫu trong khi đám trẻ con chơi gần đó. Một số người dân thấy chiếc máy bay kêu ù ù trên cao. Nhưng con chim bạc này chẳng có gì là kỳ lạ với họ. Dù sao những chuyến bay hiếm thấy như vậy thường ở xa và vô hại mà họ đã quen sống với qua nhiều năm nay. Với bộ đội Việt Minh hoặc lính bộ binh đang diễn tập trong đám cỏ cao, dùng tay điều khiển các loại vũ khí vào vị trí thì một chiếc C 47 bay cao đã trở thành một trò tiêu khiển trong chốc lát. Các sĩ quan của họ thì quan tâm hơn. Sau khi đảm bảo rằng đó không phải là một máy bay ném bom, họ không cần đề phòng.
https://thuviensach.vn
Phi đội C-47 đầu tiên đã tới Điện Biên Phủ lúc 10 giờ 30. Đám lính dù giờ đã đứng cả lên, những chiếc mũ sắt buộc chặt dưới cằm. Họ lắc lư và cố giữ thăng bằng khi máy bay đổi hướng và chao đảo. Mệnh lệnh được phát ra “hook up”. Một số lính kiểm tra lại các khẩu tiêu liên MAT-49; một số khác chỉnh lại những túi đạn và lựu đạn nặng trĩu. Một cơn gió mạnh gầm rú ngoài cửa khoang hàng để ngỏ như kêu gọi những tay dù vào vị trí. Mỗi người đều cảnh giác và chờ đợi. 10 giờ 35, tiếng ù ù của tín hiệu nhảy đã cắt qua tiếng rít của gió và các động cơ.
“Xuống đi!” Lính dù đầu tiên rời cửa khoang hàng và rơi vào không trung. “Nhảy đi! Nhảy đi! Nhảy!” Người cuối cùng nhảy theo lao vào khoảng không: một luồng gió, một cú lao xuống và cái giật mạnh làm dù mở ra; sau đó là một phút giây yên lặng bất ngờ và một cơn gió cuốn nhanh về phía khu vực thả dù.
Mọi hoạt động trong thung lũng dường như đứng sững lại trong giây lát. Những người dân tộc nhìn cảnh dù mở khi chiếc máy bay đổ ra không ngớt những tốp người. Một số chiếc dù đã xuống tới gần mặt đất. Việt Minh chỉ bị giật mình nhưng kỷ luật và sự huấn luyện của họ đã làm giảm đi cú sốc. Mệnh lệnh được truyền đi qua các cánh đồng lúa khi quân chính quy của Tướng Giáp thi nhau chạy đua để bảo vệ sở chỉ huy của họ. Hoả lực của vũ khí tự động kêu lách cách, những viên đạn bay vút lên trời chọc thủng những chiếc dù và đốt cháy những lính dù đang rơi xuống. Trong vài phút hầu hết người dân ở Điện Biên Phủ đang chạy trốn vào những quả đồi hoặc các làng lân cận, đồ đạc treo vào 2 đòn gánh trên vai hoặc chất lên lưng những chú ngựa.
Vào thời điểm này, luật lệ tuỳ tiện của trận đánh cho thấy sự mong manh của những kế hoạch được sắp đặt kỹ lưỡng. Tiểu đoàn của Thiếu tá Bréchignac đang được thả xuống đoạn đèo cách khu vực nhảy dù “Simone” 4 km về phía nam. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng để chặn đường rút lui của đối phương. Tới khi Bréchignac rơi vào khu vực nhảy dù
https://thuviensach.vn
anh ta mới biết rằng tốc độ của máy bay và thời gian cần thiết để lính dù nhảy xuống đã kết hợp lại làm phân tán việc chỉ huy của anh trên một khu vực quá rộng lớn.
Lính của Bigeard cũng bị phân tán nhưng ít ra phần lớn số họ đều rơi xuống vùng thả dù hoặc gần đó. Ở đây “sương mù của trận đánh” đã trở thành một bức rèm dày kín. Một số nơi cỏ cao che khuất tầm nhìn tới vài feet. Tiếng nổ lốp bốp của hỏa lực từ đằng xa mà đám lính dù nghe thấy khi rơi xuống đất giờ là một mối đe dọa lớn. Những viên đạn làm cháy xém cả cỏ cây kêu lách cách sát đầu họ. Các loạt trọng pháo nổ làm tung lên cột khói đen xám. Những mảnh kim loại sắc lởm chởm nóng bỏng văng vào không khí. Binh lính đang bắn pháo, ngã xuống và cố gắng thoát ra khỏi đám hỗn độn. Một số lính dù bị rơi vào phòng tuyến của đối phương. Trước khi họ có thể xác định được hướng hoặc tìm thấy các đồng đội của mình thì họ đã phải tham gia vào một cuộc chiến đấu giáp lá cà ác liệt.
Thiếu tá Bigeard cùng với cái radio đi về phía làng, đang cố gắng thoát ra khỏi những gì mà sau này anh mô tả như một “mớ hỗn độn”. Súng không giật DKZ-57 của Việt Minh, trọng pháo và hoả lực tiểu liên tập trung vào một đơn vị của anh và các báo cáo thương vong ngắn gọn mà anh nhận
được không có gì lấy làm bảo đảm. Phục hồi lại các khẩu cối 81 ly và đạn dược được máy bay thả xuống là điều rất khó khăn. Kế hoạch chính xác của trận đánh giờ đã bị huỷ hoại. Tình hình đòi hỏi sự ứng biến nhanh và hành động xông xáo. Bigeard là người từng trải với biến cố trên chiến trường và tiểu đoàn được huấn luyện tốt của ông cũng là một cỗ máy chiến đấu đầy kinh nghiệm.
11 giờ 30, Bigeard thành lập bốt chỉ huy cách làng 250 mét. Hiện ông đang làm việc với 4 chiếc đài phát mới có được. Với sự giúp đỡ của một máy bay phát hiện mục tiêu ông yêu cầu các máy bay B-26 tấn công vào những tay lính canh phòng cứng đầu, cố gắng liên lạc với Bréchignac hoặc nhóm chỉ huy đã nhảy dù cùng ông. Ông ta mất liên lạc với Chuẩn tướng Gilles,
https://thuviensach.vn
người đang bay vòng quanh thung lũng nhưng vẫn giữ được liên lạc với Hà Nội. 13 giờ 30, một số pháo hỏng đã kịp thời được phục hồi để bắn chặn vào làng trước đợt tấn công. Những chiếc B-26 bay thấp gầm rú để bắn phá các đơn vị đối phương đã bắt đầu rút về phía Nam. Trận đánh giữ làng quả là một cuộc chiến đấu dữ dội chống lại một đội quân ở phía sau có lòng quyết tâm cao. Khi trận đánh kết thúc, nhiều túp lều còn đang cháy, những thanh tre khô kêu lách tách như những phát bắn tỉa của súng trường.
Trung tá Fourcade chỉ huy nhóm dù chiến đấu số 1, người nhảy dù cùng với Bréchignac không thể giữ được bình tĩnh, đã đi theo tiếng súng nổ, tới khu làng khi Tiểu đoàn số 6 đang tiến hành càn quét. Bigeard tức giận vì Bréchignac không đến đúng giờ để cắt đường rút quân của đối phương nên đã trút giận lên người bạn và người sĩ quan cấp trên của ông ta. Ông nói với Fourcade rằng tốt hơn là anh ta nên thực hiện chức năng chỉ huy của mình bằng cách luôn ngồi cạnh chiếc radio.
Lúc 15 giờ, Tiểu đoàn dù Thuộc địa số 1 của Thiếu tá Souquet nhảy dù xuống khu vực thả dù Natasha giờ đã được an toàn. Bréchignac và lính của ông ta phải có mặt để liên kết với các tiểu đoàn khác. Ông tức giận vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Đợt nhảy dù diễn ra tồi tệ, vì địa hình gồ ghề và trách nhiệm bảo vệ nhóm chỉ huy đã làm chậm bước tiến của ông ta. Các lính dù của Bigeard bắt đầu một nhiệm vụ đau thương là thu thập xác chết và chăm sóc thương binh. Trong cuộc hành quân Castor, Pháp chết 11 người và 52 người bị thương. Việt Minh nằm lại trên chiến trường 115 người và 4 người bị thương.
Khi màn đêm buông xuống, một vành đai phòng thủ được dựng lên để bảo vệ các hướng tới khu làng bị bỏ hoang. Nhiệt độ ở thung lũng hạ thấp, một trận mưa bắt đầu đổ xuống. Những lính dù đào công sự tự phải bằng lòng với những khẩu phần ăn nguội lạnh. Tiếng loẹt xoẹt của radio và thỉnh thoảng có tiếng súng nổ đã phá tan sự im lặng đáng sợ. Các tổ tuần tra đi lại thận trọng trong đêm tối đề phòng những người thâm nhập hoặc đi lang
https://thuviensach.vn
thang phía đối phương. Xác chết được gói trong những chiếc dù sẵn sàng đem chôn vào ngày hôm sau. Những thương binh nặng được sơ tán về Lai Châu bằng trực thăng.
Sáng hôm sau Chuẩn tướng Gilles bay tới Điện Biên Phủ. Ông ta cùng nhảy dù với nhóm dù chiến đấu số 2 do Trung tá Pierre Chales Langlais chỉ huy. Langlais từng là sĩ quan ở sa mạc Sahara, tính tình nhanh nhẹn và hết mực thương yêu binh lính.
Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 do Thiếu tá Maurice Guiraud chỉ huy cũng có kế hoạch nhảy dù vào buổi sáng. Tiểu đoàn này nổi danh là một đơn vị bất kham ở Đông Dương gồm nhiều người Đức, những người đã lựa chọn kỷ luật sắt đá của lính Lê dương thay vào cuộc sống bấp bênh của họ ở nước Đức sau chiến tranh, một số là cựu chiến binh của Thế chiến II.
Đội quân Lê dương của Pháp do Sắc lệnh hoàng gia của Vua Louis Philippe thành lập năm 1831, yêu cầu hình thành “một đội Lê dương gồm toàn bộ những người nước ngoài” từ nhiều quốc gia, nhiều chủng tộc. Từ khi thành lập, đội quân Lê dương đã chiến đấu trong các cuộc chiến tranh của Pháp và của nước ngoài bao gồm các cuộc chiến tranh thế giới I và II, Đông Dương, Algeria và Zaire. Gần đây hơn, các đơn vị Lê dương đã ngăn chặn các nỗ lực xâm chiếm Chad của người Libi, tham gia vào cuộc tấn công của quân đồng minh chống lại các lực lượng của Saddam Hussein trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh và cùng tham gia vào Lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp quốc ở Bosnia, Campuchia và Somalia. Đội ngũ chiến binh tinh nhuệ này đã cung cấp cho nước Pháp một lực lượng tình nguyện đáng tin cậy trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương một lực lượng mà sự hi sinh của họ gần như không gây ra sự xôn xao trong nước cũng như các cuộc tấn công của công chúng và các chính trị gia vào chính sách của Chính phủ.
Cũng có nhiều lính dù người Việt trong Tiểu đoàn dù Lê dương số 1. Những tân binh người địa phương này được quyền đội mũ nồi xanh của lính Lê
https://thuviensach.vn
dương chứ không phải mũ képi màu trắng truyền thống, dù sao đi nữa họ vẫn coi họ là lính Lê dương và rất tự hào với nét độc đáo này.
Chuẩn tướng Gilles rất lo lắng cho việc tập hợp binh lính của ông trên mặt đất. Có nhiều việc phải làm trong khoảng thời gian rất ngắn nhưng sửa chữa đường băng phải được ưu tiên hàng đầu. Đường băng càng xong sớm thì đám lính dù của ông sẽ được vào vị trí và rời thung lũng lòng chảo càng sớm. Việc hình thành hệ thống phòng ngự vững chắc cũng quan trọng không kém. Gilles biết đối phương có thể di chuyển nhanh thế nào và ông ta muốn sẵn sàng chờ đón họ nếu một lúc nào đó họ xuất hiện trước các vị trí của ông.
Vị tướng này còn có nhiều mối bận tâm khác. Những gián đoạn trên hệ thống phát thanh của Việt Minh cho thấy Sư đoàn 316 Việt Minh đang di chuyển về hướng Lai Châu cách Điện Biên Phủ 70km về phía Bắc. Thủ phủ của Liên bộ tộc người Thái ẩn mình dưới một thung lũng sâu trên hai bờ sông Đà, xung quanh là những dãy núi cao. Máy bay sử dụng đường băng phải bay qua một hành lang chật hẹp giữa các đỉnh núi, với những điều kiện như vậy thì các khẩu tiểu liên của đối phương cũng có thể trở thành vũ khí phòng không hiệu quả.
Trước cuộc hành quân Castor, Gilles đã nhận được 2 chỉ thị tối mật. Chỉ thị thứ nhất vạch ra những hoạt động chính trị và hành chính được thực hiện ở Điện Biên Phủ liên quan tới các đồng minh của Pháp là người Thái trắng và
Thái đen. (Danh pháp này gồm ca người Thái đỏ, bắt nguồn chính từ màu sắc quần áo của phụ nữ dân tộc). Liên bộ tộc người Thái dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Đèo Văn Long, vẫn trung thành với người Pháp, cung cấp binh lính cho Pháp để chiến đấu với Việt Minh. Chỉ thị đề cập tới thái độ trung thành của người Thái với Pháp, nhấn mạnh nhu cầu cần đối xử tốt với những người dân tộc và chu ý tới quyền hành quan trọng của Đèo Văn Long trong khu vực. Chỉ thị còn yêu cầu tuyển thêm lực lượng người dân tộc và cho rằng người Thái sẽ hoạt động như quân du kích tự trị và cơ động,
https://thuviensach.vn
nằm yên trong vùng lãnh thổ quen thuộc của họ. Chỉ thị thứ hai cho riêng Gilles, thông báo với ông ta rằng trong trường hợp Lai Châu phải sơ tán, ông ta phải nhận trách nhiệm chỉ huy các lực lượng trong Khu vực tác chiến Tây Bắc bao gồm cả các đơn vị người Thái. Cho dù có tầm quan trọng về chính trị song đều có sự thống nhất chung ở cả Hà Nội và Sài Gòn rằng sẽ phải từ bỏ vì không thể bảo vệ được Lai Châu. Phần lớn người Thái, những người cảm thấy phấn chấn trước sự xuất hiện đột ngột của người Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn còn không quan tâm tới số phận đã được định sẵn cho thủ phủ của họ.
Tướng Gilles vẫn còn bị đeo đuổi bởi việc triển khai quân trên địa hình khó khăn của vùng Tây Bắc Việt Nam. Địa hình này rất thuận lợi cho tham mưu của Navarre khi tính tới các cuộc càn quét bắt đầu từ Điện Biên Phủ nhưng
thực tế là rất ít các đơn vị của Pháp có khả năng chịu đựng và những kỹ năng chiến đấu trong rừng để đáp ứng cho những chiến dịch như vậy. Trong báo cáo về một chiến dịch trước do Navarre ký, Gilles dự đoán rằng nếu bộ binh Pháp vượt quá phạm vi yểm trợ của hoả lực pháo binh 10km sẽ bị Việt Minh đánh bại. Gilles có một lòng tin đúng mực vào đám lính dù của ông nhưng vẫn còn một chút hoài nghi rằng sự tổn thất nặng nề, sự huấn luyện vội vàng cho những binh lính thay thế ở Pháp, thiếu thời gian huấn luyện trước trận đánh sẽ làm tác động tới hiệu quả tổng thể của một số tiểu đoàn dù.
Gần 8 giờ, chiếc máy bay đã sẵn sàng cho đợt thả quân, Gilles bỏ cặp kính và cất cẩn thận vào túi áo. Lẽ ra ông ta có thể bố trí một chuyến trực thăng để bay tới thung lũng nhưng vị tướng 49 tuổi này lại quyết định nhảy dù cùng với đám lính của ông.
https://thuviensach.vn
THẮT CHẶT CÁC NGẢ ĐƯỜNG
“Các ngả đường bừng tỉnh và chuyển động!”
Robert Blondeau GCMA
Tướng Gilles nhảy xuống tới mặt đất, gấp lại chiếc dù, nhét vào ba lô và đi bộ vào làng, chiếc ba lô đung đưa trên vai, ông còn cất cả kính và thay mũ nhảy dù bằng một chiếc mũ nồi của lính dù. Le Patron đã theo cuộc chiến
giành lại khu vực thả dù “Natsha”, nhưng cho tới giờ ông ta mới có thể thực sự đánh giá được công việc chỉ huy của mình và có được cảm giác về vùng đất này. Ông có thể thấy được mức độ căng thẳng của công việc sửa chữa đường và chuẩn bị các khu phòng thủ đầu tiên của lính dù. Gilles biết rằng họ chán ghét những công việc như vậy. Giống như những lính xung kích, họ thích các hoạt động trong phạm vi tự do hoặc các cuộc xung kích bất ngờ và coi công việc đào bới không xứng với vị trí đồng minh của họ.
Ông nhìn thấy lá cờ nhỏ 3 màu trên một cái sào dài cắm trên nghĩa trang tạm thời nơi xác chết đầu tiên được chôn cất. Tiếng nổ xa của những khối bộc phá, những lớp khói đen trùm lên đã xác định được vị trí của các máy bay B-26 trực tiếp chống lại các ổ Việt Minh còn lại dưới chân đồi. Những chiếc C-119 đang đổ dây thép gai trông như thác bạc xuống khu vực thả dù và các đại đội của Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 vẫn đang nhảy xuống khu vực thả dù Natasha. Trung tá Fourcade ra đón Gilles bằng một chiếc mô tô bánh nhỏ của Mỹ và đưa ông ta tới bốt chỉ huy tác chiến xây dựng phía dưới chiếc nhà sàn của người Thái. Trung tá Langlais đã ở trong đám thương vong khi nhảy dù. Nguyền rủa vận may của mình, vì ông ta sẽ phải quay về Hà Nội ngày hôm sau với một mắt cá chân bị dập.
Bầu trời Điện Biên Phủ trở thành cơn ác mộng cho những người điều khiển chuyến bay. Những thùng hàng tiếp tế tiếp tục được thả xuống khi những
https://thuviensach.vn
chiếc C-47 thả hết Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 và quay về Hà Nội. Cho tới khi nào đường băng đi vào hoạt động, mọi thứ vẫn phải tới bằng đường thả dù hoặc rơi tự do. Dây thép gai, đạn dược, các vũ khí hạng nặng, máy phát điện, bếp ga, bộc phá, chăn màn, bao cát rỗng, bình lọc nước, thịt, rau quả
tươi, nước mắm rượu, bia… mọi thứ đều được đổ dồn từ máy bay xuống đất. Trưa hôm đó một chiếc xe ủi nhỏ dành cho các công binh sửa đường băng được đưa xuống từ phía cửa sau của chiếc C-119. Nó rơi tự do xuống đất bị chệch hướng và hư hỏng. Thay vào đó là một chiếc máy đủ độ an toàn hơn được đưa đến sau 48 giờ. Những chiếc dù của Tiểu đoàn dù xung kích số 8 của Thiếu tá Pierre Tourret và của một đại đội trọng pháo lính dù Lê dương cũng đã mở tung trên khắp thung lũng trưa ngày hôm đó.
Trưa hôm sau chờ cho mưa ngớt, Tiểu đoàn dù ngụy số 5 của Quân đội quốc gia Việt Nam hay Bawouan (cái tên người Pháp đặt cho Tiểu đoàn này) cùng với các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp do Thiếu tá Leclerc chỉ huy đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Bawouan - gồm các cựu chiến binh của bộ binh thuộc địa, một số cựu Việt Minh, một số tân binh - đã chứng tỏ sự lộn xộn và mâu thuẫn trong chính quyền người Việt chống cộng do Pháp điều khiển. Đêm 22 tháng 11 năm 1953 đội quân đồn trú mới thành lập có 4.560 tên.
Ngày hôm sau 2 chiếc “Beaver” cánh cao, trục đơn hạ cánh xuống đường băng hỏng do đám công binh dù bỏ lại. Những chiếc máy bay này do người Canada chế tạo rất phù hợp cho việc cất cánh và hạ cánh xuống những đường băng ngắn và gồ ghề ở Đông Dương. Chiếc Beaver đầu tiên chở toàn xe đạp, chiếc thứ 2 chở Thiếu tướng Cogny - Tư lệnh lực lượng mặt đất Bắc Bộ, tới thanh sát Điện Biên Phủ lần đầu tiên.
Cogny 49 tuổi là một lính pháo binh, cao to và dễ gây ấn tượng, sau khi trốn khỏi nhà tù của Đức năm 1941, ông tham gia kháng chiến. Ông bị Gestpo (Cảnh sát mật của Đức Quốc Xã - ND) bắt năm 1943 và đưa tới các trại giam Buchenwald và Dora. Năm 1945 ông được tự do. Ông tới Đông
https://thuviensach.vn
Dương năm 1950 với vai trò là một thành viên tham mưu của De Lattre, sau đó là chỉ huy một sư đoàn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời gian làm việc ở vùng đồng bằng đã cho ông thấy đồng bằng với mật độ dân số đông, sản xuất chủ yếu là lúa lại gần với Hà Nội, nên là vùng trọng yếu của chiến tranh. Ông cảnh báo với Tướng Navarre về những nguy hiểm khi chuyển các đơn vị từ đồng bằng tới chiến đấu ở một nơi khác. Thái độ của Cogny đối với cuộc hành quân Castor hoàn toàn khác. Cho dù Đại tá Bastiani phản ứng với chiến dịch này nhưng Cogny vẫn thúc giục tái chiếm Điện Biên Phủ để làm điểm tập kết các “đơn vị du kích” chống Việt Minh trong vùng. Song việc tập kết quá nhiều quân về phía Tây Bắc - đặc biệt là lính dù mà ông coi là một lực lượng dự bị cơ động đáng tin cậy - đã trở thành một mối lo thường trực. Hình ảnh của Cogny gắn liền với một cái roi tre và điếu thuốc luôn trên miệng. Navarre, người mà Cogny coi là vị tướng dung hoà không khí, lại là hai kẻ trái ngược nhau không bao giờ nhìn mặt nhau, sự kiện tạo ra sự bất hoà giữa họ sẽ tiếp diễn còn dài sau chiến tranh.
Những tin tức về cuộc tấn công của Pháp vào Điện Biên Phủ sớm đến được sở chỉ huy của Tướng Giáp ở vùng núi hiểm trở Bắc Cạn, nơi có núi đá vôi yểm trợ và tạo ra chỗ trú ẩn thuận lợi. Trung tâm tác chiến này cách Điện Biên Phủ 600 km về phía Đông Bắc, là một điểm tập trung các hoạt động của Ban tham mưu của Tướng Giáp khi theo dõi cuộc hành quân của Sư đoàn 316 tiến về Lai Châu và chuẩn bị mở 2 Sư đoàn khác sang hướng Lào. Các thành viên của Uỷ ban Trung ương Việt Minh, trong đó Tướng Giáp là một thành viên, gần đây đã tập trung ở một căn hàm nhỏ trong núi để thực hiện những chỉ thị của Hồ Chí Minh và kế hoạch chiến lược cho chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Uỷ ban được lệnh giải phóng Lai Châu và toàn bộ khu vực Tây Bắc: mở cuộc tấn công vào Trung Lào, ém kín một phần lực lượng chính quy và sẵn sàng chiến đấu tăng cường các cuộc tấn công du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắt đầu một cuộc tấn công vào Nam Trung Bộ để bảo vệ các vùng vừa giải phóng ở các địa bàn thuộc quyền kiểm soát của chính quyền bù nhìn Sài gòn.
https://thuviensach.vn
Dự tính trước sự phản ứng của Tướng Navarre với các cuộc hành quân tới Lai Châu và Lào, Tướng Giáp đã phải giải quyết vấn đề về biên chế tổ chức lực lượng. Ông trực tiếp chỉ huy quân chủ lực đề phòng nguy cơ một cuộc tấn công của Pháp từ phía bắc vùng đồng bằng vào hậu cứ của Việt Minh. Phương án này đồng nghĩa với một cuộc đụng độ với đối phương ở vùng đồng bằng, nơi pháo binh, xe tăng và máy bay của quân Pháp có thể phát huy được tính năng và tác dụng. Phương án thứ hai là chọn một địa hình thích hợp hơn nơi có ít quân Pháp vì thế chúng sẽ phải tăng cường sức mạnh bằng cách rút các đơn vị từ vùng đồng bằng. Các vùng lãnh thổ Tây Bắc là một chiến trường lý tưởng cho các hoạt động thuộc phương án thứ 2 này. Ở đó bản làng trong rừng sâu sẽ làm giảm tính cơ động của đối phương, tạo ra khó khăn trong việc tiếp tế và làm giảm hiệu quả của đạn pháo và máy bay. Rừng rậm sẽ có tác dụng che chở cho các sư đoàn của Tướng Giáp khi các cuộc tấn công du kích tập trung vào các điểm yếu của đối phương ở đồng bằng Bắc Bộ. Tướng Giáp, Ban tham mưu và các cố vấn Trung Quốc đã chọn phương án thứ 2.
Năm 1950, theo lời đề nghị của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông đồng ý cho một nhóm cố vấn quân sự người Trung Quốc sang miền Bắc Việt Nam. Lãnh đạo cộng sản Trung Quốc cảnh báo với Hồ Chí Minh rằng các sĩ quan ông ta gửi sang toàn là gia đình nông dân, ít học hành do vậy có thể cản trở tới yêu cầu của Việt Minh là cần những người hướng dẫn có kinh nghiệm. Tướng Vi Quốc Thanh, người tỉnh Quảng Tây là một cựu chiến binh của Vạn lý Trường chinh vượt qua biên giới vào miền Bắc Việt Nam ngày 12 tháng 8 năm 1950 với 79 sĩ quan và 250 lính. Sáng kiến tối mật này là sự khởi đầu của một chương trình gửi các trung đoàn Việt Minh sang Trung Quốc để đào tạo và tái võ trang, đưa các cố vấn người Trung Quốc vào các sở chỉ huy của các trung đoàn và tiểu đoàn Việt Minh, tiếp nhận các chuyên gia Trung Quốc như nhân viên phòng không, chuyên gia pháo binh và công binh phục vụ cho một số đơn vị Việt Minh.
https://thuviensach.vn
Quy mô bao vây Điện Biên Phủ của quân Pháp cho Tướng Giáp thấy đây chính là những gì mà ông đang chờ đợi. Nó có thể xảy ra sớm hơn dự tính và các vấn đề còn sơ sài, tuy nhiên có tới 6 tiểu đoàn nhảy dù chứng tỏ một đợt chuyển quân chiến thuật lớn. Dù sao vẫn có một số vấn đề nảy sinh và còn tồn tại: ý đồ của đối phương là gì? Đối phương có kế hoạch ở lại không? Đối phương sẽ bảo vệ Lai Châu, sẽ đưa quân tăng cường tới hay sẽ thực hiện kế hoạch một Nà Sản khác ở Điện Biên Phủ? Chính vì thế mà một quyết định khẩn cấp phải được phê chuẩn. Tướng Giáp ra lệnh Sư đoàn 316 tấn công Lai Châu ngay, cản đường rút lui về phía Nam của quân đồn trú và ngăn chặn bất kể đội quân nào tới từ Điện Biên Phủ. Cùng lúc 3 sư đoàn khác là 308, 312 và 351 đang chuẩn bị tiến về Điện Biên Phủ. Giải thích phản ứng của mình với cuộc hành quân Castor, Tướng Giáp sau này viết: “Với chúng tôi, việc nhảy dù vào Điện Biên Phủ vẫn còn là một thời cơ thuận lợi”.
Ngày 23 tháng 11, lính dù của Gilles đẩy các đội tuần tra cấp tiểu đoàn từ Điện Biên Phủ xuống phía Bắc và phía Nam. Những đợt xuất kích vào vùng đất thù địch tỏ ra rất nguy hiểm và mệt mỏi. Lính dù phải hành quân vất vả qua vùng đất cằn cỗi, lội qua những dòng nước chảy xiết, xuyên qua khu rừng nhiệt đới um tùm, lục soát các bản làng bị bỏ không và chạy nước rút qua các vùng đất luôn thay đổi. Rừng vẫn tiềm ẩn những bí mật của nó và phục kích là mối nguy hiểm thực sự. Những con bướm trắng bay trong bóng tối, những con vắt ngo ngoe chui vào ủng tìm chỗ để hút máu. Đám lính dù luôn cảm nhận thấy mình rất dễ bị tấn công. Chỉ có những âm thanh - tiếng kêu của dụng cụ, tiếng loẹt xoẹt của đài phát thanh và tiếng nện gót của ủng - là phá tan đi sự yên lặng xung quanh. Các máy bay lượn trên đầu đám lính tuần tra như những đàn muỗi sẵn sàng hợp tác với hoả lực pháo binh và hỏa lực của máy bay B-26 để tấn công bất cứ khi nào đối phương phản ứng. Các máy bay hạng nhẹ vẫn bảo đảm nhưng lính tuần tra biết rằng sự có mặt của họ chỉ là để thí mạng.
https://thuviensach.vn
Báo cáo từ các đội tuần tra đưa về không mấy khả quan. Tiểu đoàn của Bréchignac theo tuyến đường mòn - tuyến đường thuộc địa cũ nối cứ điểm tới Lai Châu đã vào tới vùng kháng chiến của đối phương cách không xa Điện Biên Phủ. Đây là tuyến đường được quân đồn trú ở Lai Châu và những người Thái sử dụng cho chiến dịch Pollux, mật danh của đợt rút quân sắp tới về Điện Biên Phủ. Sự áp đảo và hiếu chiến của quân chính quy Việt Minh ở phía Bắc thung lũng là một dấu hiệu chỉ rõ rằng đối phương cho dù bị thất bại trong cuộc hành quân Castor nhưng vẫn không hoảng sợ. Ngày 25 tháng 11, đã phát hiện thấy Trung đoàn 148 Việt Minh và các đơn vị của Sư đoàn 316 đang trên đường tới các đồi bao quanh, đây là một thông tin nghiêm trọng vì nó báo trước một đợt phát triển quân của Tướng Giáp trong những tháng tới. Thông tin này đặc biệt quan trọng với các sĩ quan và binh lính của GCMA (Nhóm biệt kích dù hỗn hợp); sau là GMI (Nhóm can thiệp hỗn hợp). Kế hoạch cho cuộc hành quân Castor yêu cầu quân du kích bộ tộc do người Pháp lãnh đạo, sử dụng Điện Biên Phủ như một căn cứ tác chiến và nơi ẩn náu. Kế hoạch này sẽ không thực hiện được nếu Việt Minh kiểm soát các ngả đường tới doanh trại có công sự.
GCMA luôn chứng tỏ khả năng hoạt động ở các vùng núi của họ. Người Mông, Mán, Dao, Lolo, Thái trắng, Thái đen và Thái đỏ hoạt động trên vùng đất riêng của họ, đã trở thành một mối đe doạ thường trực đối với sự xâm nhập của Việt Minh. Những trận oanh tạc, phục kích và thu thập tin tức tình báo buộc Tướng Giáp phải đưa vài tiểu đoàn giỏi của ông vào tăng cường cho nỗ lực truy quét. Việc sơ tán khỏi Nà Sản đã hoàn thành mà không phải giao tranh hay tổn thất nhờ phần lớn vào sự che chở của 3.500 người Mông do một Đại uý Pháp và một số hạ sĩ quan của Pháp chỉ huy. Người Mông với những khu làng cao trên núi có truyền thống đấu tranh và kiếm sống bằng việc buôn bán thuốc phiện. Việc bố trí cán bộ, không thể tìm thấy một trung sĩ hay hạ sĩ nào đang chỉ huy một đơn vị cấp tiểu đoàn trong quân đội Pháp.
https://thuviensach.vn
GCMA đang chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh kiểu đặc biệt nên yêu cầu cần phải có một đội ngũ chiến sĩ đặc biệt. Đại uý Puy Montbrun là một trong số họ, 4 lần bị thương, 19 lần nhận huân huy chương và là một chỉ huy lúc 36 tuổi. Puy-Montbrun lãnh đạo đội biệt kích hỗn hợp trong nhiều đợt tác chiến nguy hiểm phía sau chiến tuyến của đối phương. Lẻn đi vào những đêm không trăng sao với những loại vũ khí giảm thanh, ống nhòm nhìn ban đêm, súng lục và dao chiến đấu, đội biệt kích của Puy Montbrun phục kích các đội tuần tra của đối phương, bắt cóc hoặc tiêu diệt các cán bộ và sĩ quan chính trị Việt Minh, khi trở ra yểm trợ cho các đợt tác chiến điển hình hơn. Sự nguy hiểm của GCMA đã tạo ra sự bực tức thường xuyên cho Tướng Giáp và những người vạch kế hoạch của ông.
Trong các vùng núi, chỉ huy GCMA sống cùng với những người dân tộc để biết về ngôn ngữ, văn hoá cũng như nhiều điều khác. Họ sống nhờ vào đồ ăn của dân địa phương gồm chủ yếu là cơm nếp, đôi khi có thịt lợn hoặc thịt gà. Trong các chuyến đi dài ngày vào lãnh thổ của đối phương, rắn, khỉ, lợn rừng hoặc hươu rừng góp phần làm cho bữa ăn của họ thêm phong phú, còn đài bán dẫn nối với thế giới bên ngoài chỉ mang lại cho họ rất ít đồ tiếp viện.
Một số sĩ quan và hạ sĩ quan GCMA ở nhiều năm trong rừng, dạy cho người dân tộc các chiến thuật nhỏ và làm thế nào để sử dụng đài phát thanh và các loại vũ khí hiện đại. Họ học các kỹ thuật chiến tranh du kích cổ truyền từ những người dân tộc. Lấy phụ nữ dân tộc làm vợ (đặc biệt là con gái của một tộc trưởng) thì mối quan hệ với quân đồng minh càng được tăng cường. Binh lính của GCMA sống ở một khu tách biệt nên sốt rét, sốt dịch và bệnh lỵ là điều thường xuyên. Những vết cắt, vết xước thường bị mưng mủ nhanh hơn khi ở trong rừng, hơn nữa chăm sóc y tế không có sẵn nên những vết thương đôi khi còn gây nguy hiểm tới cả tính mạng.
Hạ sĩ Blondeau – Trưởng nhóm GCMA, nhân viên điều khiển đài phát thanh cùng với 3 chỉ huy đại đội người Thái ở khu vực Lai Châu nhắc lại
https://thuviensach.vn
người đội trưởng một cách say sưa.
Trung uý David có mối quan hệ rất tốt với Đèo Văn Long, ông là người ưa mạo hiểm, uống rượu giỏi, hút 2, 3 tẩu thuốc phiện một ngày nhưng là một người lãnh đạo thực sự được binh lính kính trọng. Ông nói được tiếng Thái
và 3 tiếng dân tộc khác, không đeo quân hàm, mặc quần sóc và thường đi chân đất. Ông thường đội mũ nồi đỏ của lính dù và đó là quân trang duy nhất mà người ta có thể nhận ra chất lính ở ông.
Có lần Tướng Cogny triệu tập một cuộc họp với một số sĩ quan người Anh từ Malaysia tới thăm. David ra chào họ trong chiếc quần soóc kẻ sọc ở thắt lưng và đi chân đất. Người Anh nhìn chằm chằm vào ông ta với vẻ không tin và cuối cùng một trong số họ hỏi: “Giầy của anh đâu?”…
Đơn vị do Blondeau chỉ huy, tác chiến trên phạm vi rộng vì thế cho phép họ có điều kiện thích hợp để ứng biến.
Nhiệm vụ của chúng tôi là đưa đám người Thái trở lại Lai Châu và thành lập đội biệt kích chống Việt Minh. Tôi ở trong vùng núi 2 năm rưỡi, đó là một cuộc sống mạo hiểm, chúng tôi cảm thấy mình đang làm một điều gì đó đáng giá và có mối quan hệ rất tốt với tộc người Thái. Các mệnh lệnh đến từ sở chỉ huy Cogny ở Hà Nội và từ Đèo Văn Long, không ngày nào giống ngày nào. Chúng tôi luôn trong trạng thái động và không bao giờ ở lại đâu quá 15 ngày. Chúng tôi có nhận lương thực tiếp viện nhưng phần lớn sống như người Thái. Muối và thuốc phiện trao đổi như tiền, người Thái được trả lương bằng muối thả dù xuống.
Đó là một cuộc chiến không ranh giới. Việt Minh gọi các thành viên của GCMA là “hải tặc”. Nếu bị bắt, điều tốt nhất họ có thể mong chờ là một cái chết nhanh chóng sau cuộc chất vấn thô bạo, nhưng sự công bằng ở trong rừng lại không phải tất cả ở một phía.
https://thuviensach.vn
Đầu năm 1953, Blondeau đóng quân ở phía Tây Bắc Điện Biên Phủ cùng với một đội biệt kích người Mông.
Chúng tôi bị tấn công, Việt Minh đã bắt mẹ của một tù nhân người Mông. Trưa hôm đó, người Mông bỏ tất cả vũ khí. Khi tôi hỏi họ tại sao họ nói: “Chúng tôi không muốn để mất vũ khí của Pháp khi giải quyết một vấn đề riêng”. Đêm hôm đó, họ ngồi quanh đống lửa, mài sắc dao, tiếng mài dao đã làm tôi thức dậy. Họ đi trước khi trời sáng, vài ngày sau trở về với 5 cái đầu của Việt Minh gói trong một mảnh vải đầy máu.
Sự trừng phạt ở các vùng núi thật nhanh chóng và không có sự trì hoãn. Blondeau giải thích: “Chúng tôi bắt được 2 tù binh Việt Minh người địa phương”, “2 đứa trẻ chừng 10 và 12 tuổi mang cơm cho họ đựng vào trong một cái túi, chúng tôi lục soát túi thấy có 1 quả lựu đạn, rồi cả 4 đều bị bắn chết tại chỗ”.
Những vụ việc như vậy rất khó tới được sở chỉ huy yên bình của Navarre ở Sài Gòn. Những người theo truyền thống quân sự với sự hiểu biết về các đợt tác chiến đặc biệt nắm giữ các vị trí trọng yếu trong quân đội Viễn chinh Pháp, còn các sĩ quan GCMA thường phải tự duy trì và tự ứng biến. Trong một lần Đại uý Puy-Montbrun thu hồi được một số súng tiểu liên Sten, vì mục đích của GCMA nên anh ta cần các bộ phận giảm thanh cho các khẩu Sten. Những bộ phận không chính quy như vậy thường không có sẵn nên Puy nói vấn đề của mình với một người bạn là M.Perier, trưởng ty cảnh sát Sài Gòn. Bộ phận giảm thanh được sản xuất tại phân xưởng sản xuất vũ khí của cảnh sát và tiếng ồn của các khẩu Sten được giảm đáng kể. Binh lính của Puy có lúc phải luồn lách nên phải sử dụng cả những chiếc nỏ. Puy nhớ lại: “Hãy tưởng tượng nếu tôi nói với sở chỉ huy tác chiến sư đoàn về điều đó!”. Puy, sau này được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó của một đơn vị trực thăng mới, cho rằng các máy bay trực thăng có vũ trang mang lại hiệu quả tốt. Nhưng người ta nói với anh ta rằng bắn từ trực thăng là
https://thuviensach.vn
không thể được và không thực tế. Puy nói: “Không một ai trong Bộ Tư lệnh tối cao của Pháp có thể nhìn xa hơn cái bút chì của tôi”.
Cũng như nhiều kế hoạch chiến đấu khác, các mệnh lệnh cụ thể cho cuộc hành quân Pollux thể hiện rõ nỗ lực tốt nhất của sở chỉ huy. Đợt rút lui 3 giai đoạn từ Lai Châu được thực hiện từ sớm ngay 15 tháng 11, khi một phân đội người Thái bắt đầu cuộc hành quân 80 km về phía Nam dọc theo tuyến đường mòn về Điện Biên Phủ ngày 24 tháng 11. Ngày hôm sau chiếc máy bay C-47 đầu tiên hạ cánh xuống đường băng khai trương tuyến đường vận tải hàng không đều đặn từ Lai Châu tới Điện Biên Phủ. Toán người Thái đi phía sau có kế hoạch thoát ra ngoài bằng đường bộ nhưng đã không may mắn. Việt Minh đã tới Lai Châu sớm hơn nhiều so với dự tính trong kế hoạch cuộc hành quân Pollux. Họ cũng có trinh sát người Thái trung thành dẫn đường qua rừng núi và một số quân chính quy của đối phương được tuyển dụng từ các bộ tộc trong rừng.
Những người theo toán quân đi sau ra khỏi Lai Châu theo từng tốp nhỏ qua vùng đất có nhiều đối phương bám trụ. Cuộc hành quân dài ngày về phía Nm là một thử thách gay go, một trò chơi trốn tìm nguy hiểm dọc theo các đường rừng chật hẹp, nơi một tiếng động của cành cây có thể phá vỡ sự yên lặng ngột ngạt và bóng tối luôn làm hiện lên những mối đe doạ bất ngờ. Còn những mối đe doạ thường xuyên là tiếng nổ khi bị phục kích hoặc tiếng kêu của những thanh đỡ khi pháo bắn đi. GCMA nhận được lệnh yểm trợ cho những người theo toán quân đi sau rút lui, nhưng họ cũng đã trở thành người bị săn tìm. Sư đoàn 316 Việt Minh đuổi theo để chặn các đường rút.
Robert Blondeau bị bắt trong một cuộc tấn công của Việt Minh, nhưng sau đó anh ta cố trốn với 2 người bị thương khác. Blondeau nhớ lại: “Chúng tôi trốn khỏi tổ tuần tra Việt Minh chừng 12 tiếng. Khi đối phương đang đuổi theo quân đồn trú Lai Châu ở hướng Nam, tôi quyết định đi thẳng về hướng Bắc. 3 người vượt rừng trong ngày không hề có nước uống và gần như chết vì khát”.
https://thuviensach.vn
Một buổi sáng, khi Blondeau nghỉ tạm dưới một tán cây cuối đường 41, anh ta phát hiện thấy một số hoạt động ngoài mong đợi. “Toàn bộ con đường bừng tỉnh và chuyển động”. Anh ta mò mẫm tới chỗ một tiểu đoàn Việt Minh được ngụy trang rất kỹ. Tim đập mạnh, anh ta thấy bộ đội được trang bị nặng trĩu đã hết giờ nghỉ và tiếp tục hành quân về hướng Điện Biên Phủ. Mệt mỏi, đói và khát đang cào cấu 3 kẻ bỏ trốn. Họ mất nhiều nước vì bị sốt và mê sảng. Blondeau tỉnh lại vào giữa đêm và tự thấy mình đang la hét ú ớ. Cuối cùng họ tới một trạm gác của Pháp nhưng không có cờ cũng chẳng có dấu hiệu của sự sống. Họ không biết liệu trạm gác này đã bị đối phương chiếm chưa, cho tới khi một chiếc máy bay quan sát xuất hiện và thả xuống một bức thông điệp. Phấn chấn vì trạm gác này vẫn trong tay người Pháp, Blondeau dẫn những người bị thương ra khỏi rừng chạy dưới làn hoả lực của quân đồn trú đang hoang mang. Thật may, một trong 3 người bị thương là người da đen. Sự có mặt của một người châu Phi trong nhóm 3 người đã làm cho chỉ huy trạm gác nhận ra rằng anh ta đang đối mặt với các thành viên của Tập đoàn Viễn chinh Pháp và ra lệnh ngừng bắn.
Một chiếc trực thăng hạ xuống phía trên các ngọn cây để sơ tán những người bị thương tới Điện Biên Phủ, nhưng thử thách của Blondeau còn chưa kết thúc. Chiếc trực thăng rời đi để lại một vệt sáng trên bầu trời.
Không muốn từ bỏ các vị trí của mình, Việt Minh cho phép những kẻ bỏ trốn chạy qua phòng tuyến và trực thăng tới lui trước khi tiến hành một đợt tấn công cỡ 2 tiểu đoàn vào trạm gác. Quân đồn trú, gồm cả Blondeau, cố thoát ra, bỏ lại trạm gác và bắt đầu chuyến đi dài ngày về phía Nam theo dấu chân của những người Việt.
May mắn cho quân đồn trú, một hạ sĩ quan người Thái, trưởng nhóm biệt kích đã ở đó để dẫn họ qua rừng. Lương Văn Ùi, sĩ quan quản trị tiểu đoàn được huấn luyện như một lính dù, một lính điều khiển phát thanh và một bác sĩ, anh ta là cựu chiến binh của nhiều phái đoàn đặc biệt ở Tây Bắc Việt Nam. Người lính nhỏ bé, rắn rỏi này rất tự tin và khiêm tốn với sự sống còn của mình. Việc bỏ trốn của một đội quân giờ phụ thuộc vào các khả năng
https://thuviensach.vn
theo dấu vết và khả năng đoán trước đối phương. Anh ta đã dẫn phân đội hỗn hợp này qua rừng trong 7 ngày không ăn uống. Lương Văn Ùi giải thích: “Chúng tôi sắp chết đói”.
Lúc 11 giờ vào một buổi sáng 1 chiếc C-47 (Dokota) xuất hiện và thả hàng tiếp tế xuống cho chúng tôi. Việt Minh ở đồi cao bên cạnh thấy hàng thả xuống, họ cũng không được ăn trong nhiều ngày, và thế là một cuộc chạy đua tới khu vực thả hàng đã diễn ra và chúng tôi đã tới cùng một lúc. Chúng tôi đánh nhau để giành lấy đồ ăn, kéo, giật các thùng hàng, đấm đá nhau. Mọi người vì quá mệt và đói nên quên cả việc dùng vũ khí. Cuối cùng họ bỏ đi. Chúng tôi ăn và ngủ cả đêm hôm đó. Họ tấn công chúng tôi vào sáng hôm sau. Đó là trận phục kích đầu tiên trong 11 trận. Lương Văn Ùi lắc đầu nhớ lại cuộc ẩu đả để giành đồ ăn trên khu vực thả dù: “Tôi nói câu chuyện đó với mọi người nhưng họ không tin”.
Khi Lương Văn Ùi dẫn quân tiến về phía Nam, họ nhận thêm những người Pháp, Marốc, Algeri lang thang từ các đơn vị bị bại trận, họ đi cả ngày lẫn đêm, chống chọi với những đợt tấn công liên tiếp của đối phương. Thảm kịch tương tự cũng đang diễn ra trên các tuyến đường mòn khác nơi cũng có những đội quân đang cố gắng tới Điện Biên Phủ. Những ngày gian khổ thiếu thốn và cái chết đang chờ họ phía trước.
Ở Điện Biên Phủ, cứ điểm quân sự có phòng vệ như một con nhím đang dựng đứng những chiếc lông. Cầu hàng không từ Hà Nội đang làm nhiệm vụ. Những chiếc C-47, máy bay chở hàng Bristol 170, máy bay dân sự được trưng dụng đang nối đuôi nhau hạ cánh xuống đường băng theo sự điều khiển của radio trên một cái tháp tạm thời ở góc đường băng. Các nhân viên hàng không dùng tay kéo các thùng hàng trên các xe tải đang chờ ở đó, đưa vào máy bay để chuẩn bị cất cánh. Mặc dù không thích công việc cuốc xẻng nhưng thật đáng khen các lính dù khi họ đào và đặt thêm hàng rào thép gai. Các sĩ quan công binh giám sát công việc và thực hiện kế hoạch một cách chu đáo hơn như đào boong ke, nơi trú ẩn, các bệ hỏa lực và các hào giao
https://thuviensach.vn
thông. Họ luôn quan tâm tới số lượng gỗ để xây dựng và thời gian nhận các cung cấp vật liệu xây dựng từ Hà Nội. Các khẩu đội pháo binh thuộc địa đã tới để đặt các khẩu đại bác 105 ly vào vị trí các bao cát cách không xa đường băng.
Ngày 8 tháng 12, 3 tiểu đoàn dù của Chuẩn tướng Gilles là Tiểu đoàn dù Thuộc địa số 1, số 6 và Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn Lê dương 1 bắt đầu lên máy bay ra khỏi thung lũng. Bawouan 5 dự định khởi hành sau. Gilles không bằng lòng khi phải để lại Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 và Tiểu đoàn dù xung kích số 8 phía sau nhưng cuối cùng ông vẫn phải rời Điện Biên Phủ và trao nhiệm vụ chỉ huy cho người thay thế mình. Đại tá De Castries được Tướng Navarre lựa chọn tới chỉ huy cứ điểm này. Cũng như Navarre, De Castries là một sĩ quan kỵ binh, ông chiến đấu xuất sắc trong Đại chiến Thế giới II, bị quân Đức bắt và đã trốn thoát. Sau này ông chỉ huy các đơn vị pháo theo lệnh của Navarre ở Pháp và Đức. Sự bổ nhiệm đầu tiên của ông tới Đông Dương năm 1946 và 1951 đã làm ông nổi danh hơn với nghị lực và lòng dũng cảm. Các vết thương chiến đấu và các huân huy chương chứng tỏ rằng ông không phải là một nhà quân sự công tử bột. Trước khi được bổ nhiệm tới Điện Biên Phủ, De Castries đã chỉ huy một nhóm cơ động tại một khu vực nóng bỏng của vùng đồng bằng.
Đại tá De Castries tới thung lũng mang theo một cây gậy ghế, một khăn lụa mỏng và một mũ vải đỏ của trung đoàn kỵ binh Bắc Phi trước đây. Sau bài phát biểu ngắn gọn ở bốt chỉ huy, Tướng Gilles dẫn De Castries đi thăm cơ sở chỉ huy mới, chỉ cho ông ta biết địa hình, vị trí công sự và các kho chứa
hàng tiếp viện. Họ không có nhiều điểm chung nhưng có một điểm chung đó là đều không thích một cuộc chiến đấu phòng ngự. Navarre chọn De Castries để thực hiện kế hoạch của mình là tấn công Việt Minh, dùng Điện Biên Phủ làm căn cứ. Ông ta còn hứa với De Castries sẽ gửi xe tăng tới làm mũi nhọn tấn công trong các đợt tác chiến cơ động. Thực tế, lính dù đang phải đổ máu (kể cả trong các cuộc tuần tra thường ngày) bên ngoài vành đai phòng thủ cho thấy sự kém hiệu lực của các kế hoạch phù phiếm. Nỗ lực
https://thuviensach.vn
lớn để cứu một đơn vị người Thái đang rút khỏi Lai Châu đã sớm có những dấu hiệu nguy hiểm.
Đại tá Langlais trở lại Điện Biên Phủ ngày 8 tháng 12 với De Castries để chỉ huy các tiểu đoàn dù chiến đấu còn lại. Ông vẫn còn bị vướng với cái mắt cá chân bị dập nhưng ông đã đề nghị các bác sĩ điều trị theo cách riêng của mình. Mặc dù đã cố gắng che dấu sự đau đớn nhưng đám nhân viên vẫn buộc ông phải trú trong núi để giảm bớt các hoạt động. Hai ngày sau khi tới Điện Biên Phủ, Langlais được lệnh tiến về phía Bắc cùng với 3 tiểu đoàn dù để cứu một đại đội người Thái bị bao vây ở Mường Pồn, cách Điện Biên Phủ 18 km về phía Bắc.
Sáng hôm sau, khi Tiểu đoàn xung kích số 8 quyết tâm thực hiện một chuyến vào rừng, chuyến đi này sẽ đưa họ tới hậu cứ của đối phương, thì Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 và Bawouan 5 bắt đầu cuộc hành quân dọc theo tuyến đường mòn. Việt Minh đang chờ sẵn ở vị trì cách trạm quan sát của Pháp khoảng 300 mét. Trung uý Roux, trung đội trưởng chưa hề nghe về một trận hoả chiến lớn đến như vậy.
Họ có nhiều súng tiểu liên như chúng tôi, hơn nữa tôi nghĩ súng của họ là loại Skodas hiệu quả cao hơn. Không có dấu hiệu của việc diễn tập. Trung đội đã đẩy lùi được Việt Minh. Chúng tôi nằm sấp xuống đất chờ trên đường mòn, tầm nhìn không quá 10 mét. Chúng tôi không biết đâu là bạn, đâu là Việt Minh. Lúc đó không thể bắn cũng không thể làm được gì. Tôi phải trấn tĩnh một số lính dù người Việt đã lên cò súng và bắn mấy phát vào bụi rậm xung quanh để lấy lại tinh thần.
Khi Việt Minh rút lui, Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 sơ tán những người bị thương và tiếp tục tiến về Mường Pồn. Sự xuất hiện của đối phương buộc tiểu đoàn phải ra khỏi tuyến đường và Langlais quyết định tiến dọc theo các ngọn núi. Đám lính dù bắt đầu một cuộc đua chống lại thời gian để cứu lấy đại đội bị bao vây. Khi Trung đội của Trung uý Roux đang vật lộn ở một sườn đồi dốc thì một nhóm nhỏ lính dù Pháp đi tuần tra trở về, họ thông
https://thuviensach.vn
báo: “Việt Minh ở ngay sau chúng ta, hãy tự bảo vệ mình”. Lại một lần nữa chứng tỏ họ là một kẻ thù ngoan cố. Tình hình khó khăn đan xen nhau, cây đổ, cỏ rậm um tùm và những rừng tre dầy đặc làm chậm thêm bước tiến của
họ, nhưng Langlais vẫn tiếp tục cho lính phát rừng bằng dao rựa và các dụng cụ đào hầm để tiến lên.
Sáng 13 tháng 12, Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 tới gần Mường Pồn thì đã mệt nhoài. Khi lính dù vào làng, họ thấy làng trống không, những túp lều đang cháy âm ỉ, Việt Minh đã kéo đi, đem theo cả các xác chết, những người bị thương và các tù nhân. Ngày 14 tháng 12, Tiểu đoàn dù xung kích số 8 tới để sát nhập với tiểu đoàn này. Langlais và binh lính của ông quá thất vọng, cho tới giờ họ mới đến nơi cố gắng hết sức mà không hoàn thành nhiệm vụ.
Giờ đây, các tiểu đoàn bị cô lập phải đối mặt với một chuyến đi quay về Điện Biên Phủ. Việt Minh nhận thức rõ sự có mặt của lực lượng giải vây ở Mường Pồn, ngay lập tức tiến hành các cuộc tấn công nhằm đánh tan đội quân này. Vách đá, hẻm núi vang lên tiếng hoả lực chói tai khi lính dù chiến đấu để mở đường về phía Nam. Bawouan 5 gần như bị đánh úp. Một trận đánh giáp lá cà kết hợp với người Việt chống lại Việt Minh diễn ra ác liệt. Langlais cố gắng nhắc lại yêu cầu tới tuyệt vọng viện trợ của không quân qua chiếc trực thăng quan trắc đang bay lượn phía trên và một chuyến bay ném bom đang gầm rú phía trên những ngọn cây để rải một lớp bom napan màu vàng úa lên những kẻ tấn công. Cuộc đụng độ giữa đám lính dù người Việt và Việt Minh sát nhau tới mức Bawouan số 5 đã bị hy sinh mất mấy người trong trận ném bom rải thảm này.
Sau khi đánh mở đường lên tới đỉnh đồi Trung đội của Trung uý Roux thuộc Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 phát hiện thấy chính họ đang phải đối mặt với một đại đội mới tăng cường của đối phương. Roux báo cáo có nghe thấy tiếng chặt tre, có thể đối phương đang làm cáng để chở những người bị thương. Mặc dù anh ta muốn tin vào nhận định này nhưng Trung uý vẫn
https://thuviensach.vn
yêu cầu pháo binh phóng hoả lực vào các vị trí của đối phương. Pháo gần như nằm ngoài phạm vi trận oanh tạc theo yêu cầu bị xoá bỏ. Khi trung đội của Roux rời đồi, Việt Minh đã rời khỏi chỗ ẩn nấp cách đồi khoảng 500 mét và truy đuổi ráo riết. Tiếng chặt tre mà anh ta nghe thấy là công việc chuẩn bị cho cuộc tấn công. Roux dùng tiểu liên bắn thẳng vào làn sóng những kẻ tấn công. Anh ta nói: “Chúng tôi không phải ngắm, mỗi phát súng đều trúng mục tiêu”. Các tiểu đoàn lính dù cắt phiên nhau trông nom căn cứ và đám quân đi phía sau, cố gắng giữ cho đợt rút lui có trật tự và làm cho đối phương phải trả giá đắt cho mỗi đợt tấn công. Hai khẩu đội đại bác 105 ly hỗ trợ cho chiến dịch quay nòng về phía sau đám quân đi phía sau và nã đạn vào rừng và những quả đồi xung quanh đường mòn.
Trong giờ tạm nghỉ vị linh mục cầu nguyện vội cho những người chết mới chôn của Tiểu đoàn dù Lê dương số 1, Trung uý Roux và lính của anh ta phát hiện thấy một nhóm tù binh Lê dương ở quả đồi đối diện, họ đang bị Việt Minh dẫn đi, hai tay buộc ra sau. Đi vào ban đêm với đám quân đi phía sau qua một rừng tre, nên Roux bị mất liên lạc với sĩ quan chỉ huy phía trước anh ta. “Tôi bị ám ảnh bởi luôn nghĩ rằng chính mình sẽ chạm trán với Việt Minh khi chờ đợi ở quả đồi tiếp theo”. Vượt qua một hẻm núi cao, đám lính dù bẻ cây phát huỳnh quang thành nhiều đoạn rồi giắt chúng vào sau các gói đồ vì thế mọi người có thể nối theo nhau. Vào tới thung lũng Mường Thanh, họ dừng lại bên bờ sông để lấy mũ sắt uống nước, sau đó vượt qua 2km cánh đồng lúa và vào tới vành đai phòng thủ của Điện Biên Phủ. Sau khi được đón chào bằng rượu và bít tết, Roux trải giường gấp và lăn ra ngủ. Roux nói: “Trong giấc ngủ tôi thấy mình vẫn đang hành quân. Chuyến đi dài đêm hôm đó thực sự mệt mỏi. Trong ít giờ chúng tôi quay lại đúng chỗ mà chúng tôi đã lẩn trốn trong 2 ngày và cứ như thế hành quân tới tận khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau”.
Đại tá Langlais tập tễnh bước về Điện Biên Phủ với nét mặt tái nhợt và tức giận, và phải thừa nhận rằng lính dù của ông đã tiến quá gần tới thảm hoạ. Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 bị chết và mất tích 28 người, 24 người bị
https://thuviensach.vn
thương. Một người mà không được đào tạo trong trường quân sự ra thì đều thấy kế hoạch của Navarre là lạc quan, nhưng Tư lệnh tối cao Pháp dường như không thấy được điều đó. Những chiếc xe tăng của Đại tá De Castries
đang được chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới chứng tỏ rằng cứ điểm Điện Biên Phủ chưa bị cô lập.
Những người sống sót của đám quân đi phía sau từ Lai Châu sẽ tới thung lũng trong ít tuần tới. Ba sĩ quan Pháp, 34 hạ sĩ quan và trên 2000 người theo đám quân đi sau bắt đầu cuộc hành quân. Một sĩ quan Pháp, 9 hạ sĩ quan và 175 người theo đám quân đi sau đã tới Điện Biên Phủ an toàn. Những người còn lại của các tiểu đoàn chính quy người Thái và những người đi theo rất thất vọng. Mặc dù có những cam kết trước đây của Pháp nhưng họ vẫn buộc phải rời bỏ đất đai của mình. Một số người sống phụ thuộc phải chịu đựng cuộc hành quân khủng khiếp này nhưng toàn bộ gia đình của họ lại bị bỏ lại phía sau trong những ngôi làng không còn người bảo vệ. Nhiều người bộ tộc được báo là mất tích đã quyết định quay về rừng để cố bảo vệ vợ và con họ. Những người trốn theo Lương Văn Ùi tới tận ngày 1 tháng 1 năm 1954 mới tới được Điện Biên Phủ.
Việc xiết chặt vòng vây quanh Điện Biên Phủ của Tướng Giáp càng khẳng định thêm sự phụ thuộc của cứ điểm này vào nguồn cung cấp bằng đường không. Từ ngày 8 tháng 12, 4 máy bay chiến đấu F8F “Bearcat” đã có mặt
trên đường băng cùng với 1 trực thăng và 6 máy bay quan sát khác. Các máy bay này đã góp phần vào sự sống còn của đám lính dù của Trung tá Langlais và sự có mặt của chúng đã làm cho mọi người có cảm giác thêm an toàn. Một số máy bay “Bearcat” khác sẽ sớm nhập vào căn cứ không quân 195. Các chỉ huy không quân ở Việt Nam không nhiệt tình với cuộc hành quân Castor ngay từ đầu, lại không được tái bảo đảm. Việc thiếu các báo cáo về thời tiết từ vùng lục địa của Trung Quốc và các bản đồ khu vực đề ngày không chính xác đã làm giảm hiệu quả tác chiến. Các đợt mưa phùn vùng Bắc Bộ thường làm chậm các chuyến bay cất cánh tới tận trưa hoặc muộn hơn nữa đã trở thành mối lo ngại. Lực lượng không quân báo
https://thuviensach.vn
cáo: “Điều kiện khí hậu ở sườn đồi bên nay của dãy núi Trường Sơn An Nam không bao giờ giống với sườn đồi phía đối diện. Hiếm khi cả hai vùng cất cánh và vùng tác chiến đều có được thời tiết tốt”. Sự thực đơn giản này cũng đủ nghiêm trọng đối với các phi cơ vận tải, nhưng nếu không có chuyến bay nào thì có thể gây ra những hậu quả bi đát hơn. Nếu các máy bay ném bom và chiến đấu không cất cánh được cần phải nhờ tới sự cứu trợ của không quân ngay.
Việc tăng cường khả năng phòng không của đối phương trở nên phiền phức hơn: Trong một báo cáo tác chiến bí mật gửi tới Paris hồi tháng 12, Tướng Henri Charles Lauzin, Tư lệnh trưởng lực lượng không quân Pháp ở Viễn Đông cho biết: “Theo dự đoán vào cuối tháng 10, số vũ khí AA của đối phương tăng lên đáng kể, vẫn giới hạn ở loại súng 20 ly, loại AA này đặc biệt chủ động và chính xác”. Một báo cáo tương tự cho biết đối phương đã đưa tới 24 máy bay chiến đấu, 4 máy bay ném bom, 16 máy bay vận tải và 9 máy bay quan sát. Lauzin chỉ ra rằng những sửa chữa theo yêu cầu đã làm mất 470 giờ bay. Tổ bay chiến thuật miền Bắc của Tướng Dechaux vốn đã bị căng ra lại còn phải đáp ứng yêu cầu cung cấp không quân ở Điện Biên Phủ, ở Bắc Lào, ở đồng bằng Bắc Bộ và phía Bắc Hà Nội. Các máy bay chiến đấu và máy bay ném bom B-26 của không quân được tăng viện là của hải quân từ hàng không mẫu hạm Arromanches đang hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ.
Nhu cầu can thiệp vào hoạt động của Việt Minh, cắt các nguồn hàng tới Điện Biên Phủ và tấn công các đoàn công binh, dân công hoặc các phân đội lao động dân thường đang làm việc trên các tuyến đường 13 và 41 giờ đã là quá sức đối với khả năng không quân của hải quân và của lực lượng không quân Pháp. Pháp chính thức đưa tới 173 máy bay chiến đấu và gần 80 máy bay vận tải. Thực tế, hỏng hóc về cơ khí hoạt động của đối phương, sửa chữa thông thường tổn thất về người ốm đau đã làm giảm quân số lính dù tới gần một nửa. Các bác sĩ luôn trong tình trạng khẩn cấp, các nhân viên kỹ thuật có quá nhiều việc. Các phi công không phải bám đuổi nhau hoặc bay
https://thuviensach.vn
lượn trên trời thì số phận của họ còn ở phía sau. Một khu rừng rậm, đầy thách thức, với tán lá xanh xám kéo dài tới tận chân trời đã che dấu hết các mục tiêu và các khẩu đội pháo phòng không của đối phương.
Cuối tháng 12, Tư lệnh tối cao Pháp thực hiện nỗ lực cuối cùng để chứng tỏ rằng Điện Biên Phủ vẫn có thể tới được bằng đường bộ. Ngày 21 tháng 12, Trung tá Langlais và đám lính dù được lệnh chuyển về phía Tây Nam Điện
Biên Phủ, qua biên giới Lào để sát nhập với một đội quân Franco - Lào ở làng Sốp Nào. Cuộc hành quân của Langlais được gọi là “Régate” và cuộc hành quân của lực lượng khác về phía bắc gọi là “Ardèche”. Ngày 23 tháng 12, người Lào, Marốc và lính Lê dương của cuộc hành quân Ardèche và lính dù của cuộc hành quân Régate gặp nhau ở Sốp Nào. Một nhóm nhà báo đặc biệt được đi theo và đưa tin về sự sát nhập của họ. Đại tá De Castries cũng có mặt, hạ cánh ngày hôm trước trên một chuyến đi ngắn ngày ra khỏi khu rừng để kịp giúp cho máy bay liên lạc được. Chiếc camera lách cách và kêu vù vù nhưng sự thật của buổi lễ ngắn gọn thì không thể che dấu nổi.
Chuyến đi 200 km của đội quân trong cuộc hành quân Ardèche trở thành một thử thách gay go. Bị bộ đội Pathet Lào quấy nhiễu nên họ buộc phải chiến đấu trong một trận đánh quyết liệt với một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 148 Việt Minh để giành lại bản làng quan trọng Mường Khoa, những binh lính bị mệt mỏi trông giống như những người còn sống sót hơn là những người chiến thắng. Nhiều người bị sốt, thương hàn, bệnh lỵ. Brigitte Friang, một phóng viên chiến tranh trong chính phủ Pháp, một cựu thành viên kháng chiến đã nhảy dù xuống và nhập với đội quân. Thực tế, sự ốm yếu, gầy rạc của binh lính đã gợi lại cho cô về hình ảnh những người tù ở các trại tập trung Nazi trong Thế chiến II.
Mặc dù con đường chỉ có 50 km nhưng lính dù của Langlais nhận thấy cuộc hành quân qua rừng thậc khó khăn vất vả. Khi buổi lễ kết thúc, De Castries và các nhà báo bỏ đi, hai đội quân tách ra. Lính dù theo một tuyến đường khác trở về Điện Biên Phủ và liên tiếp bị đối phương theo sát. Dixie Reese,
https://thuviensach.vn
một nhà nhiếp ảnh của Phái đoàn viện trợ Mỹ ở Sài Gòn, người luôn muốn thử sức làm một phóng viên chiến tranh, đã nhập vào đội lính dù ở Sốp Nào. Xuống từ một máy bay y tế, anh ta vào rừng với bộ trang phục bảnh bao có nơ thắt cổ và đôi giầy bóng nhoáng, mang 2 chiếc camera với một cái túi đầy dụng cụ chụp ảnh và một chai rượu wisky. Cuộc hành quân 2 ngày trở về với đám lính dù buộc Reese tin rằng phải có cách gì đó dễ hơn để quan sát cuộc chiến. Đội quân phải lê bước qua hàng rào thép gai phòng thủ quanh Điện Biên Phủ vào ngày sau lễ giáng sinh.
Các sĩ quan thông tin quân đội ở Sài Gòn và Hà Nội thông báo về sự phối hợp nhịp nhàng của binh lính, giá như cuộc diễn tập này là một thắng lợi. Nhưng không một bài diễn thuyết nào khẳng định với những người lính đã từng tham gia trong cuộc hành quân Régate và Ardèche rằng sự cố gắng của họ là xứng đáng. Từ giờ trở đi, lính dù sẽ phải chiến đấu trong thung lũng của Điện Biên Phủ có các đồi bao quanh.
https://thuviensach.vn
HOẠT ĐỘNG Ở CÁC VÙNG NÚI
“Chúng ta có thể chọn thời điểm đánh hoặc nghỉ ngơi trong khi đối phương vẫn còn phái đào nơi trú ẩn, sống trong nỗi sợ hãi bị tấn công và chịu sự khổ sở trong vòng vây”
Tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn Điện Biên Phủ
Tướng Giáp cho rằng mọi sự điều động quân của Pháp đã khẳng định ý đồ trụ lại ở Điện Biên Phủ của Navarre và đây là cơ hội để ta tiêu diệt một số tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của đối phương bằng một tình thế chiến thuật phù
hợp. Những con đường mòn bỗng nhiên tràn ngập các hoạt động. Âm thanh của tiếng bước chân bằng dép cao su, tiếng leng keng của kim loại va chạm vào nhau; những đoàn người phu rồng rắn qua những hẻm núi, những túp lều kiểm soát mới được dựng lên. Một số người áo quấn ngang thắt lưng, mồ hôi nhễ nhại trên cổ, những bao hàng nặng đè lên miếng đệm cao su lót tạm trên vai, các cơ bắp chân phồng lên rồi xẹp xuống theo bước đi của họ. Họ đi một mình và đi thành đoàn 2 hoặc 4 người. Một người thì vác một tấm lót pháo trên vai; 2 người thì khiêng một bánh xe, bùn lầy tới mắt cá chân… Những túp lều kiểm soát sụt xuống ướt sũng, mái tranh lợp tả tơi rủ xuống các lối vào không có cửa. Người thay phiên ngồi xổm cạnh đó, ăn cơm nắm và chờ lệnh để vác hàng. Các sĩ quan công binh Việt Minh trong bộ đồng phục bạc màu, đội mũ cối, đứng cạnh đường mòn với các cán bộ chính trị mặc bộ đồ đen của nông dân và chiếc khăn rằn quấn cổ. Những nòng đại bác 75 ly hoặc ống pháo được đặt trên những chiếc xe trượt bằng gỗ do các chú ngựa kéo đi. Những đoàn xe đạp dài, mỗi xe chở tới 200 kg gạo, rồi xe thồ chất mọi thứ từ đài phát thanh tới rau quả được đẩy dọc theo các tuyến đường mòn quanh co.
https://thuviensach.vn
Đây là một cuộc tổng động viên và vận động theo câu nói cổ xưa của người Việt: “Khi có giặc ngoại xâm đe doạ thì bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ đều sẽ trở thành những chiến sĩ”. Đợt tiếp tế cho cuộc hành quân vào Điện Biên Phủ đã tới phía Tây Bắc Việt Nam. Gạo của vùng đồng bằng được chuyển tới bằng thuyền 3 lá, thuốc y tế được trao đổi trên thị trường đen ở Hồng Kông và Băng Cốc rồi chuyển vào Việt Nam qua các đường biên giới và đường biển, thậm chí cả các tuyến mòn bị bom đánh phá vừa sửa chữa lại. Một vị tướng người Pháp không rõ tên, viết một bản báo cáo mật về Đông Dương theo yêu cầu của Tư lệnh tối cao Viễn Đông (chịu trách nhiệm về các lực lượng Pháp ở châu Á), cho biết: “Việt Minh đã sử dụng các xe cút kít do người phu chạy bộ đẩy, ngoài ra Việt Minh còn dùng ngựa, thuyền 3 lá, xe bò và xe đạp”.
Tuyến đường cung cấp chính bắt đầu từ biên giới Trung Quốc, chạy dọc Đường 13 tới sông Hồng và có tuyến rẽ vào Đường 41 tới kho cung cấp chính của Việt Minh ở Tuần Giáo, cách Điện Biên Phủ 80 km về phía Đông Bắc. Các đường mòn nhỏ hơn cũng được sử dụng để đưa người, trang thiết bị và vật chất vào Điện Biên Phủ. Các bộ phận của Sư đoàn 308 đã chuyển về phía Nam, Sư đoàn 312 và 351 có pháo binh và công binh đi theo đang hành quân với tốc độ 30 km một ngày và nhanh hơn vào ban đêm. Khi hành quân, quân chính quy của Tướng Giáp sử dụng những đôi giầy và dép cao su rẻ tiền, đội mũ lưới và ngụy trang bằng những cành cây nhỏ. Họ mang theo các loại vũ khí cá nhân: súng tiểu liên thu được của Pháp và Trung Quốc, súng cabin của Trung Quốc hoặc của Liên Xô và các loại súng trường tự động hiện đại của Séc; những ngăn nhỏ trên ba lô hở miệng để lộ ra những trái lựu đạn dính của Trung Quốc; những túi vải gạo dài hình xúc xích đung đưa trên vai; những bi đông nước đeo ngang hông và những chiếc ca tráng men trang trí bằng cờ đỏ của Trung Quốc và của Liên Xô. Việt Minh rất chú ý tới hàng hoá của họ. Tuổi trung bình của bộ đội từ 18 đến 20. Phần lớn các sĩ quan ở vào độ tuổi giữa hoặc cuối 20. Trong giờ nghỉ giải lao, binh lính ra khỏi đường mòn đi tìm những lá cây còn xanh để ngụy trang. Bộ binh Việt Minh cũng rất chú ý tới khả năng huỷ diệt của
https://thuviensach.vn
máy bay tuần tra Pháp, họ cúi thấp đầu, chỉ để hở mỗi cái chóp mũ có ngụy trang. Nghệ thuật ngụy trang của Việt Minh đã phát triển tới trình độ cao và có phương pháp. Một sĩ quan Pháp viết trong báo cáo: “Gần tới khu vực nguy hiểm, mỗi bộ đội lại nhặt những chiếc lá cùng màu và giắt chúng vào ba lô của người đi trước”. Một sĩ quan không quân cũng phải thừa nhận kỹ năng ngụy trang tài tình của đối phương. “Trong đời làm phi công, tôi đã từng bay trên bầu trời của Marốc, Ý, Đức thậm chí là Anh, nhưng tôi chưa hề có cảm giác bay trên một vùng đất nào trống trải như bay trên vùng đất của Việt Minh đến vậy”.
Mặc dù số binh lính của Tướng Giáp là cựu chiến binh của cuộc chiến tranh rừng núi hoặc xuất thân từ các vùng núi nhưng cũng có nhiều người tới từ các thành phố hoặc vùng đồng bằng. Họ cũng phải đối mặt với những khó khăn gian khổ trong rừng nhiệt đới như những binh lính của Pháp. Trên đường hành quân, các trạm kiểm soát có cung cấp thuốc men nhưng rất chậm, sốt rét, thương hàn, bệnh lỵ và những trận sốt rừng làm sự mệt mỏi của họ nhân đôi và đã gây tổn thất nặng nề cho những người thành phố. Các sĩ quan chính trị liên tục phải kiểm tra tinh thần của binh lính, nhắc đi nhắc lại tầm quan trọng của nhiệm vụ cao cả, nhắc nhở họ về mục tiêu chính và hướng dẫn họ hát những khúc quân hành: “Trời mưa, quần áo ướt sũng nhưng không làm chúng ta nản lòng”.
Để đề phòng đến mức tối đa, Tướng Giáp đề ra các mệnh lệnh đặc biệt về vệ sinh phòng dịch rồi phân tới các đơn vị: Uống nước đun sôi, phải sử dụng tất sạch sau khi rửa chân bằng nước muối ấm. Họ sẽ được ăn cơm nóng cùng với thịt và rau ít nhất một ngày một bữa và ngủ ít nhất 6 tiếng một đêm. Tướng Giáp còn ra lệnh phải cắt tóc ngắn, móng tay cắt ngắn và quân phục thay 2 tới 3 ngày/1 lần.
Nếu nỗ lực tiếp tế của Pháp dựa chủ yếu vào lực lượng không quân thì những chuẩn bị tấn công của Tướng Giáp phụ thuộc vào các phân đội công binh Việt Minh các đơn vị dân công lao động và một lượng lớn những
https://thuviensach.vn
người phu khuân vác. Một trong những nhiệm vụ chính của các sĩ quan công binh là lập kế hoạch và tiến hành mở rộng đường, và mở thêm nhiều tuyến đường phục vụ xe tải kéo pháo và đạn lên. Tướng Giáp chỉ huy gần 600 xe tải Molotova của Liên Xô trọng tải 2 tấn rưỡi, nhiều xe tải của Mỹ mà Trung Quốc thu được ở Triều Tiên và một số xe kéo lớn. Xe tải thu được của Mỹ không phải là trang bị duy nhất có trong tay Việt Minh vì rất nhiều pháo có nguồn gốc từ Mỹ. Nhiều đại bác 75 ly thu của quân đội quốc gia Tưởng Giới Thạch được chuyển qua cho Việt Minh từ khi mở cửa đường biên giới. Những vũ khí này đã được dùng để chống lại Pháp từ cuối năm 1950. Đại bác 105 ly thu được của Mỹ ở Triều Tiên sẽ tạo thêm sức mạnh cho hoả lực của Việt Minh.
Công binh còn có nhiệm vụ nâng cấp những chiếc cầu cũ và xây dựng những chiếc mới. Những chiếc cầu gỗ bắc qua suối che chở cho họ khỏi máy bay của Pháp. Ngọn cây được buộc với nhau bằng dây và cáp để phủ kín các tuyến đường đường mòn và cầu. Xe tải được phủ bằng cành cây, lá mới cắt. Đường rãnh của bánh xe được lấp đầy bằng lá dừa khi có xe tải đi qua. Các vị trí pháo phòng không có ngụy trang được đào vào sâu vào trong để lấp đi những chỗ khó của tuyến đường gồm những đoạn đèo chật hẹp và những đoạn có suối chảy qua. Một hệ thống cảnh báo trên không có hiệu quả nhưng còn thô sơ vì chỉ đặt các máy quan trắc lên trên cây hoặc trên các mũi đất cao. Tín hiệu có thể tràn ngập các đường mòn bằng tiếng kêu leng keng của kẻng báo động hoặc bằng những tiếng sáo lanh lảnh. Những tuyến đường chính được phân thành nhiều đoạn, mỗi đoạn được phân từ 30 đến 40 xe tải. Tuỳ thuộc vào nhiệm vụ mà người phu được cử tới các đoạn đường này như: đội khuân vác, đội sửa đường, đội cửu vạn đặc biệt, lấp các đoạn đường bị phá hỏng cho xe tải đi qua.
Các cuộc không kích của quân Pháp là mối nguy hiểm thường xuyên. Khi các chuyến bay trinh sát hoặc các tổ tuần tra GCMA báo cáo tình hình, lực lượng không quân và máy bay hải quân dùng bộc phá công suất cao, mìn sát thương, bom napan tấn công liên hồi vào các mục tiêu. Các phi công
https://thuviensach.vn
nhằm vào những đoạn đường khó sửa chữa, đặc biệt dọc theo các sườn đồi, nơi chỉ cần một hoặc hai quả bom thả xuống là có thể làm sụt lở hết đất cát. Một phái đoàn trinh sát đi chụp ảnh 2, 3 ngày sau đó, thường báo cáo là những đoạn sụt lở đã được sửa chữa đã làm cho họ hết sức bất ngờ và thất vọng. Các phi công thấy rõ sự tiến bộ vững chắc về khả năng phòng không của Việt Minh và các báo cáo vắn tắt cũng đề cập tới sự leo thang của hoả lực đối phương. Pháo phòng không 37 ly được tăng cường cho đại liên của Liên Xô thường tạo ra nhiều nguy hiểm đáng kể. Một số phi công khẳng định rằng họ bị khống chế bằng hoả lực của loại vũ khí 40 ly, vũ khí tự động và hỏa lực súng trường. Việt Minh được huấn luyện cách hướng hoả lực vào máy bay bay ở tầm thấp, học cách ngắm các mục tiêu cho phù hợp với tốc độ. Cho dù, không hiệu quả ở độ bay bình thường, song chiến thuật này cũng có thể tạo ra nguy hiểm ở những đợt ném bom và tàn phá. Nhiều đoạn đường bị tấn công liên tiếp nên thương vong trong đám dân công thường rất cao. Tuy thiếu bác sĩ lành nghề trên các đường mòn nhưng các sinh viên y khoa và những người phục vụ cũng cố gắng hết sức mình, làm việc với trang thiết bị phẫu thuật tối thiểu và lượng thuốc men rất hạn chế để lấp đầy chỗ trống.
Cán bộ chính trị tăng cường chiến dịch tuyên truyền để duy trì tinh thần binh lính. Tướng Giáp rất cẩn trọng khi nhắc tới cả lực lượng dân công trong các bức thông điệp của ông gửi tới binh lính. Mỗi dân công bị chết trong khi làm nhiệm vụ đều được ca ngợi như những người anh hùng cách mạng. Nhiều người bộ tộc không có may mắn được tham gia vào đội tiến quân của Tướng Giáp cũng được ghi tên vào cuộc chiến tranh nhân dân như những công nhân làm đường hay dân phu. Từ 35.000 dân phu hồi đầu chiến dịch đã tăng lên trên 70.000 trước khi trận đánh kết thúc, còn tính cả các đơn vị vận tải, hậu cần thì lên tới gần 300.000. Nhiệm vụ của họ là phải hoàn thành công việc tiếp tế cho lực lượng tấn công gần 47.500 người của Tướng Giáp trong chiến dịch 6 tháng trên địa hình hiểm trở vào loại nhất thế giới và dưới sự quấy nhiễu thường xuyên của đối phương. Họ đã hoàn thành việc bí mật chuyển 144 bộ phận của pháo, 36 pháo phòng không,
https://thuviensach.vn
nhiều bệ phóng 12 nòng Kachusa và đạn dược vào rừng. Tư lệnh tối cao Pháp từng tuyên bố Việt Minh không thể vận chuyển được như thế vì lý do địa hình rừng núi, thiếu đường qua lại và hậu cần đơn giản. Còn nếu điều kỳ diệu đó xảy ra thì Pháp tin rằng bất cứ pháo nào của Việt Minh xuất hiện ở Điện Biên Phủ đều sẽ bị vô hiệu hoá nhanh chóng bằng hoả lực pháo và các cuộc không kích của họ.
Từ giữa tháng 12, Việt Minh cùng với những người quan sát và lính trinh sát, nấp trong bãi cỏ cao và rừng tre trên đồi, liên tiếp giám sát vùng thung lũng. Họ thấy cầu hàng không chuyển quân tăng cường và pháo binh tới nhiều hơn, điều đó đã khẳng định ý đồ duy trì Điện Biên Phủ của Navarre. Họ còn thấy công việc phát quang đang diễn ra trên thung lũng khi quân đồn trú cắt cây và bụi rậm xung quanh các vị trí công sự. Đối với người Pháp, đó là quá trình chuẩn hoá quân sự để mở rộng phạm vi bắn và cản tầm quan sát gần của đối phương. Đối với Việt Minh, nó có nghĩa là người Pháp đang tự mò mẫm, bỏ qua sự bí mật và để lộ ra những chùm ăng ten radio cao giúp cho Việt Minh dễ dàng xác định được chính xác vị trí các đồn chỉ huy trọng yếu.
Ở thung lũng phía dưới, Đại tá De Castries tập trung vào công việc phát quang. Nhận xét của một sĩ quan trong Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn súng trường Algeri số 7 cho thấy không phải tất cả mọi người đều đồng ý với mệnh lệnh phát quang: “De Castries trong chuyến đi thăm cứ nằng nặc cho rằng mọi tán cây bụi rậm đều phải được phát quang ngay lập tức vì ở khoảng cách gần 2 km Việt Minh sẽ dễ quan sát được vị trí của toàn bộ cứ điểm và xác định được vị trí các bốt chỉ huy của tiểu đoàn, đại đội và các vị trí vũ khí của ta”. Anh ta còn đưa ra quan điểm riêng của mình về vụ việc này: “Sự lựa chọn một lính kỵ binh để bảo vệ một nhóm đào hào là không chính đáng, những ngày của mệnh lệnh đã qua rồi”.
Cuối tháng 12, 3 chiếc xe tăng M-24 đầu tiên của Mỹ được chở tới Điện Biên Phủ bằng cầu hàng không để sẵn sàng chiến đấu. Chúng được tháo rời
https://thuviensach.vn
thành 2 phần - khung gầm và tháp pháo. Một tiểu đội gồm 10 chiếc M-24 sớm được hình thành. Đại tá De Castries đã có được những gì mà cấp trên hứa cho, mặc dù phần đất tác chiến của ông giờ đang bị co lại từng ngày.
Điện Biên Phủ đang dần trở thành một thành phố quân sự với những đặc điểm nguyên tắc và thủ tục riêng của nó. Đó là một công trường xây dựng khổng lồ khi các cứ điểm có tầm quan trọng xung yếu được bố trí và hình thành. Phần lớn các cứ điểm này nằm ở các đồi thấp trong thung lũng. Khi thời tiết tốt, các hoạt động trên công trường tạo ra những lớp bụi sạn lửng lơ trong không trung, khi gió to sẽ đẩy những bụi sạn đó vào các trang thiết bị cơ khí và làm tắc các phần động cơ. Những trận mưa bất chợt tràn xuống toàn đất sét, tạo thành bùn nhoét và biến những đường đi thành đường trượt, làm nhốn nháo các hoạt động và gây ra sự lo lắng cho các chỉ huy về các trận mưa của tháng 2 và 3. Các công binh tập trung vào những việc được ưu tiên rõ ràng như bốt chỉ huy trung tâm, bệnh viện, trung tâm thông tin liên lạc và đơn vị lọc nước được xây dựng ngầm trong các hầm chống bằng gỗ và các bao cát đắp xung quanh. Mỗi tiểu đoàn bộ binh làm việc trong các hầm hào đều do công binh hướng dẫn và ủng hộ, nhiều công việc khó dành cho Việt Minh bị bắt (gọi là PIM) đảm nhiệm. PIM, chủ yếu là những người bị bắt từ các chiến dịch truớc, cho dù họ thuộc về lực lượng lao động tập trung hay lực lượng dư thừa của đơn vị đã bắt họ, đều thể hiện một sự thống nhất về mối quan hệ con người trong thời chiến. Họ xuất hiện để xoá bỏ học thuyết biện chứng của các cán bộ cộng sản đó là chấp nhận bản sắc của riêng họ và một nguyện vọng được sống. Công việc thường lâu dài và nguy hiểm nhưng PIM vẫn tồn tại. Một số phân đội PIM sống lâu cùng với một đơn vị Pháp nên gần như đã trở thành một phần quân của Pháp. Nhiều người được biết đến với cái tên của các sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp qua những cuộc hành quân dài ngày và những cuộc đụng độ đẫm máu. Một số bộ đội Việt Minh trước đây được giao quyền hạn không chính thức trong cộng đồng PIM, một cộng đồng có vai trò quan trọng trong trận đánh sắp tới.
https://thuviensach.vn
Các sĩ quan công binh phải nín thở mỗi khi các đội tuần tra và các chuyến bay đưa binh lính chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ ra ngoài, điều này đã làm chậm trễ công việc xây dựng đang cấp bách. Vật liệu xây dựng tới chậm và còn thiếu nhiều so với nhu cầu của quân đồn trú. Một số đơn vị vừa không có kỹ thuật lại vừa không có kinh nghiệm vẫn phải trưng dụng. Hầu hết các binh lính này từ lâu đã có được sự ưu tiên của hoả lực và sự yểm trợ của không quân trong những vụ đụng độ với Việt Minh nên rất ít trận bị lộ. Công việc triển khai vũ khí và các đơn vị chiến đấu ở Điện Biên Phủ có xu hướng tạo ra một cảm giác giả về sự an toàn.
Pierre Schoendoerffer, một nhà quay phim quân đội trẻ, người đã tới Điện Biên Phủ hồi đầu tháng 12 bị choáng ngợp bởi quang cảnh của những công sự. Anh ta tự nói: “Thật không thể tưởng tượng Việt Minh lại có thể tiến đánh ở một nơi như thế này”. Nhưng một số cựu chiến binh ngay lập tức lại gạt bỏ ý tưởng lạc quan của anh ta, chỉ ra những yếu điểm trong các khu phòng thủ và mô tả Điện Biên Phủ như một sự sắp đặt không ngẫu nhiên. Sau này, Schoendoerffer viết: “Chúng tôi phải phát quang mặt đất, đào hố, đào rồi lại đào. Chắc chắn rất mệt mỏi: Chúng tôi đã đào rất nhiều ở Hoà Bình năm 1951, ở Nà Sản, Sầm Nưa, Lai Châu năm 1952 và giờ đây chúng tôi lại phải tiếp tục đào”.
Còn những chiến sĩ già lại chẳng có những lo lắng như vậy. Trung sĩ Bleyer của đội Lê dương được lệnh làm lễ rửa tội cho trung đội của anh ta ở cứ điểm Béatrice trên một dãy đồi phía đông bắc của Điện Biên Phủ.
Chúng tôi đi làm ngay, phát bụi rậm, chặt cây và dụng lán, mỗi trung đội đều tích cực tranh đua với nhau, đặc biệt là với lính Lê dương. Tôi chỉ có thể động viên binh lính của mình và với chút ít kinh nghiệm trong chiến dịch của người Nga, tôi biết pháo có thể gây ra nhiều thiệt hại. Lính Lê dương của tôi cũng nhận thức rất rõ về những mạo hiểm mà chúng tôi đang làm.
https://thuviensach.vn
Một số đơn vị Lê dương sử dụng súng phun lửa để đốt bụi rậm làm mùi dầu cháy bay vào các công sự. Khi các hầm trú ẩn được đào xong, công việc lao động lại tiếp tục. Những hàng rào thép gai mở rộng được dựng lên để bẻ gãy các đợt tấn công và dồn những kẻ tấn công vào các vùng hoả lực đã chuẩn bị trước. Mìn, bẫy sát thương được cài đặt trước, bom napan vào vị trí sẵn sàng phát nổ khi đối phương tấn công.
Ngày 20 tháng 12, Tổ cơ động số 9 (GM-9) tới Điện Biên Phủ. GM-9 gồm 2 tiểu đoàn thuộc Bán lữ đoàn Lê dương số 13 (Tiểu đoàn 1 và 3) và một tiểu đoàn từ Trung đoàn Algeri số 3. Sự có mặt của Bán lữ đoàn Lê dương số 13 là một sự kiện giống với sự có mặt của đội quân Napoleon trên chiến trường trước đây. Cho dù, lính dù của Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 vẫn trong thung lũng, thì sự có mặt của Bán lữ đoàn 13 này cũng khẳng định lại sự vững chắc của pháo đài ở vùng rừng núi. Quân Lê dương đã trở thành một phần của lịch sử quân sự Đông Dương kể từ cuối những năm 1800. Quân Lê dương tập trung chủ yếu vào cuộc chinh phục thuộc địa Đông Dương của Pháp và tham gia vào các chiến dịch thời kỳ đầu chống lại nạn hải tặc ở Bắc Bộ. Trong đó có chiến dịch bao vây Tuyên Quang năm 1884, khi 2 đại đội Lê dương cầm cự trong 4 tháng chống lại một lực lượng tấn công khoảng 20.000 người Trung Quốc. Danh tiếng gần đây hơn của Bán lũ đoàn 13 là các trận đánh trong Thế chiến II của Narvik ở Na Uy và Bir Hakeim ở sa mạc Libi và ở Đông Dương cũng rất tốt. Những người Algeri thuộc Trung đoàn súng trường số 3 cũng là những binh lính đáng tin cậy với một bề dày thành tích chiến đấu.
Trung tá Jules Gaucher - 48 tuổi, sĩ quan Lê dương chỉ huy GM-9 là một huyền thoại về sự ngay thẳng, một sinh viên tốt nghiệp đại học ở Đông Dương từ năm 1940, Gaucher đã chiến đấu với quân Nhật, Việt Minh, bọn cướp biển và một lực lượng cướp bóc của binh lính quốc gia Trung Quốc. Anh ta không còn lạ gì Điện Biên Phủ, và đã thực hiện một trận chặn đánh ở đó năm 1945 chống lại quân Nhật trước khi dẫn quân vượt qua biên giới Trung Quốc an toàn. Nhân viên của ông ta có tiếng là hiếu chiến trong các
https://thuviensach.vn
cuộc ẩu đả ở các quán bar và các sàn nhẩy của Hà Nội và Sài Gòn trong những lúc rảnh.
Mỗi ngày quân lại được tăng cường thêm tới Điện Biên Phủ: lính Lê dương, Algeri và các tiểu đoàn bộ binh Marốc, các khẩu đội pháo thuộc địa với nhiều tay súng da đen người châu Phi; các đơn vị công binh, thông tin, hậu cần, các đoàn phẫu thuật; các phân chi đội lực lượng không quân và các đơn vị tình báo, thậm chí còn có cả các đội hiến binh tập trung ở sở chỉ huy trung tâm. Vào đêm Giáng sinh có 10.910 quân liên hiệp Pháp trong thung lũng. Tất cả số binh lính này ăn nghỉ trong hệ thống phòng ngự 8 cứ điểm mới thiết lập được nối với nhau bằng radio và điện thoại. Gabrielle (Đồi Độc Lập) ở phía bắc là nơi xa nhất khu dân làng và đường băng; Anne Marie (Đồi Bản Kéo) nằm phía Tây Bắc của đường băng; Béatrice (Đồi Him Lam) nằm phía Đông Bắc đường băng, phía góc của khu rừng nơi có tuyến đường 41 đi qua; Huguette (2)nằm phía Tây đường băng và Dominique (3) phía Đông. Claudine, bốt chỉ huy trung tâm được đặt trong làng phía Tây Nam đường băng và Eliane (4) phía Đông ở giữa là đường 41. Isabelle (Phân khu Hồng Cúm) và một sân bay nhỏ dùng trong trường hợp khẩn cấp được xây dựng tách biệt với các công sự khác cách 6 km về phía nam. Cứ điểm Francoise (Cứ điểm 311 còn gọi là Căng Na), phía Tây của Claudine (5); các vị trí thứ yếu như Opéra và Junon sẽ được hình thành theo yêu cầu của trận đánh. Mặc dù các cứ điểm yểm trợ lẫn nhau nhưng theo hình ảnh thông lệ thì chúng không tạo nên một vành đai phòng thủ vững chắc quanh Điện Biên Phủ. Nguồn gốc của những cái tên con gái vẫn còn là một bí ẩn. Có người cho rằng Đại tá De Castries có tiếng về những cuộc phiêu lưu ái tình nên đã coi trọng những cái tên nữ giới. Có người cho rằng sở chỉ huy của De Castries, muốn thay đổi cách sắp xếp theo bảng chữ cái nên đã dùng các ký hiệu đó để dễ phân biệt hơn và độc đáo hơn. Cho dù lý do nào đi nữa thì khi tới thăm sở chỉ huy, các sĩ quan Mỹ và Anh đều nhận thấy sự thú vị trong cách đặt tên như vậy.
https://thuviensach.vn
Tuy nhiên, thực sự cũng có một phụ nữ xuất hiện ở Điện Biên Phủ đó là Pauline Bourgeode, thư ký của De Castries. Một số thành viên của đoàn diễn viên ba lê hoàng gia Thái từ Lai Châu không may bị nhỡ chuyến bay tới Hà Nội đã ở chung trại với các phân đội người Thái. Vợ và con của các điệp viên tình báo người Mông và Thái được ở trong căn cứ của GCMA. Lính Lê dương đã chở rất nhiều gái điếm người Algeri, người Việt và các thành viên của 2 nhà chứa cơ động (BMC). Tình trạng này xuất hiện trong những đợt phục vụ lâu dài của quân Viễn chinh ở những pháo đài và công sự bị cô lập ngoài sa mạc Bắc Phi nơi nỗi buồn tạo ra sự cô đơn, chán nản, thất vọng và dẫn tới bạo loạn hoặc điên loạn. Từ đó BMC trở thành niềm vui của đám lính Lê dương. Phụ nữ ở BMC cũng như PIM bị buộc phải ở lại Điện Biên Phủ trong suốt chiến dịch.
Tướng Navarre quyết định đi thăm quân đồn trú ở Điện Biên Phủ vào mùa Giáng sinh. Mỗi tiểu đoàn đều tổ chức lễ đón riêng quanh cây thông Noel tạm bợ được trang trí bằng giấy màu, bông và bất cứ thứ gì có thể để gây ấn tượng. Thông báo về sự có mặt của Navarre đã lan truyền từ cứ điểm này sang cứ điểm khác, một số binh lính rất hài lòng với cử chỉ này của vị tổng chỉ huy, còn một số lại không mấy nhiệt tình. Navarre xuất hiện vẫn với vẻ lạnh nhạt xa cách và bận rộn như xưa. Bài phát biểu ngắn gọn của ông trước những sĩ quan và binh lính tiêu biểu không hề gây cảm hứng. Pierre Schoendoerffer, người quay phim chuyến thăm đó, phải luồn lách để vào được phòng họp báo ở sở chỉ huy của De Castries. Trước khi bị các sĩ quan tham mưu đuổi ra ngoài, anh ta đã nghe thấy Đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh của De Castries khẳng định với Tướng Navarre rằng: “Không khẩu pháo nào của Việt Minh có khả năng bắn 3 loạt mà không bị phát hiện”. Navarre vẫn còn nghi ngờ và bày tỏ mối lo ngại của ông ta về số lượng xe tải chở hàng tiếp viện của Việt Minh trên các tuyến đường theo như báo cáo. Ông nói: “Chúng ta không thể cắt đứt được các tuyến đường mòn”, nhưng nhiều sĩ quan đã không đồng tình với ý kiến đó.
https://thuviensach.vn
Người ta hơi nghi ngờ vì Navarre đã đưa ra quá nhiều ý kiến. Các chiến dịch Régate và Ardèche chứng tỏ khả năng không thể duy trì một tuyến đường bộ nối với Điện Biên Phủ, lời kêu gọi Paris cho quân tăng cường và tăng tiếp viện vẫn chưa được trả lời, các báo cáo tình báo đang vẽ ra một bức tranh chuẩn bị u ám và những khả năng của đối phương. 4 ngày sau chuyến thăm Điện Biên Phủ, Navarre lệnh cho Thiếu tướng Cogny chuẩn bị các kế hoạch tối mật cho khả năng sơ tán khỏi Điện Biên Phủ. Navarre nêu ra hai tình huống có thể buộc phải sơ tán: sự sụp đổ của các khu phòng thủ trước những đợt tấn công lớn của đối phương hoặc sự nghẹt thở của các cứ điểm do hoả lực phòng không và pháo binh của đối phương thâm nhập vào đường băng. Navarre nhấn mạnh trong cả hai trường hợp, Điện Biên Phủ sẽ không được sơ tán cho tới phút chót. Hai kế hoạch - chiến dịch Ariane nhằm cứu quân đồn trú đang rút lui và chiến dịch Xenophon nhằm đưa quân đồn trú về phía Nam - không được tiết lộ cho các chỉ huy ở Điện Biên Phủ. Cùng lúc Navarre nhận được một bức điện mật từ Thiếu tướng Cogny thông báo các đơn vị của Sư đoàn 308 và 316 Việt Minh đã lập các chòi quan sát và các vị trí phòng ngự để ngăn cản bất cứ đợt rút quân nào của Pháp từ Điên Biên Phủ và chống lại các chuyến bay tuần tra trinh sát thâm nhập vào sâu bên trong. Rõ rằng sự thành lập các vị trí mới của đối phương là rất nghiêm trọng. Các đơn vị Việt Minh gồm “4 tiểu đoàn bộ binh và 2 đại đội phòng không hướng về phía đông”. Một bức điện khác tới sở chỉ huy Hà Nội hồi đầu tháng một yêu cầu hỗ trợ của không quân đã để lộ sự tăng cường các hoạt động tiếp cận công sự của đối phương.
Từ: Tổ tác chiến phía Tây Bắc Tới: Các lực lượng mặt đất miền Bắc Việt Nam Mật Cho các sư đoàn tác chiến Yêu cầu ngày 12 tháng 1 năm 1954: ngay khi thời tiết thích hợp, ném bom ồ ạt có lợi cho G.O.N.O (Tổ tác chiến phía Bắc). 2000 Việt Minh đóng quân và đào hào ở khu vực trồng rừng cách bản Tấu 3 km về phía Tây Bắc.
Trong chuyến thăm các sĩ quan cao cấp từ sở chỉ huy pháo binh ở Hà Nội, các quan chức dân sự và một số phóng viên chiến tranh dày dạn kinh
https://thuviensach.vn
nghiệm đã tỏ ra lo lắng về việc thiếu pháo ở Điện Biên Phủ. Chỉ huy pháo binh Đại tá Charles Piroth đã trả lời hết sức lạc quan. Piroth, 48 tuổi là một xạ thủ nhiều kinh nghiệm, bị mất cánh tay trong một trận đánh ở Italy nhưng đã hồi phục và có thể chỉ huy một trung đoàn pháo binh trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Anh ta là một sĩ quan vui tính, anh ta có mặt ở đâu là làm cho không khí ở đó tăng thêm phần sinh động. Mặc dù, các nơi pháo vẫn chưa tới vị trí nhưng Piroth đã sớm có 25 khẩu đại bác 105 ly, 4 khẩu 155 ly và 16 cối 120 ly theo lời đề nghị.
Các báo cáo vẫn đưa thêm tin về sự lạc quan của Piroth trong việc vận chuyển pháo và các thùng đạn lớn vào vị trí. Các vị trí pháo, các hầm để ngỏ cao tới ngang vai, các đồn nhỏ xếp bằng bao cát có tác dụng cho các chiến dịch thuộc địa cũ chống lại sự nổi loạn của các bộ tộc có vũ trang tốt hơn là để chống lại một lực lượng của đối phương được trang bị pháo binh và được huấn luyện kỹ. Hoả lực phản pháo của Piroth có hiệu quả hay không đều phụ thuộc vào sự vững chắc của các đài quan sát và 6 máy bay quan sát đứng trên đường băng. Vì thế, một sĩ quan cao cấp đóng vai trò quan trọng trong công sự phòng thủ của Pháp tới sẽ không thấy được những yếu điểm của một kịch bản tồi. Khả năng các đài quan sát có thể bị tàn phá và đường băng trát vữa không thể sự dụng được dường như không có trong suy nghĩ của anh ta. Mà nếu có suy nghĩ như thế thì anh ta vẫn thẳng tiến mà không hề có ý biến đổi tình hình. Dù sao đi nữa, đánh giá thấp đối phương không phải là lỗi của một mình Piroth mà là lỗi chung của nhiều người.
Đại tá De Castries và đám tham mưu cảm thấy đã bỏ quá nhiều thời gian quý giá vào các cuộc thanh tra và các chuyến viếng thăm VIP. Các quan khách quân sự và dân sự sẽ bay tới Điện Biên Phủ vào buổi sáng để họp báo và thăm quan các cứ điểm sau đó ăn trưa nhanh chóng trước khi bay trở về Hà Nội trong đó có Trung tướng John O’daniel, Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, sau đó phụ trách phái đoàn MAAG của Mỹ ở Sài Gòn.
https://thuviensach.vn
Ông ta tạo cho công chúng tin tưởng vào công việc xây dựng căn cứ của Pháp nhưng lại tự lắc đầu không tin vào các công sự trong thung lũng.
Điện Biên Phủ trở thành điểm tập trung chú ý của thế giới như một cuộc kháng chiến của “thế giới tự do” chống lại sự xâm lược của Cộng sản. Chính phủ Pháp, đang đối mặt với một phong trào chống chiến tranh lan rộng trong nước lại đang phải uốn nắn tin tức báo chí cho phù hợp và quân đội đang làm hết sức mình để tiến những bước chắc. Thật may cho các sĩ quan thông tin quân đội, hầu hết các chuyến thăm của giới nhà báo tới Điện Biên Phủ đều ngắn và tương đối đơn giản. Nhiều nhà báo phương Tây lần đầu tiên tới thăm Đông Dương, những người cũ không dễ gì có được ấn tượng. Một số với kinh nghiệm ở Triều Tiên cũng như Việt Nam cho biết nguyên tắc của cuộc chiến tranh Triều Tiên là “chiếm lĩnh các vùng đất cao” đã bị lờ đi ở Điện Biên Phủ. Họ cho rằng các cứ điểm được đặt trên các đỉnh đồi nên Việt Minh sẽ phải tấn công các vị trí của Pháp từ dưới chân thung lũng. Lý luận này đã không thuyết phục được các phóng viên chiến tranh dày dạn kinh nghiệm, những người luôn coi những dãy núi bao quanh thực sự là mối đe doạ. Với tất cả những điều nói trên, họ nêu ra vấn đề lô gíc trong việc thực hiện một chiến dịch tấn công chống lại Việt Minh bằng cách đào vào các vị trí phòng thủ. Để tránh sự kiểm soát của quân đội Pháp, nhiều phóng viên Anh và Mỹ đã đệ trình những báo cáo ngắn gọn sau khi rời Đông Dương.
Một nhóm nhà báo, nhà văn, nhiếp ảnh và quay phim mặc đồng phục như những thành viên của Trung tâm báo chí và thông tin quân đội trong đó có nhà quay phim André Lebon và nhà nhiếp ảnh Daniel Camus đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ cùng với một lực lượng tấn công. Pierre Schoendoerffer, Jean Péraud và Jean Martinoff còn rất trẻ và ưa mạo hiểm, sau này cùng tham gia với họ. Họ ghi lại cuộc chiến tranh ngay tại các mặt trận. Những hình ảnh sinh động của Điện Biên Phủ vẫn còn là những thông tin quân sự hấp dẫn và gây cảm động nhất kể từ Thế chiến II.
https://thuviensach.vn
Việc chăm sóc ăn uống cho tất cả quân đồn trú ở Điện Biên Phủ và các chuyến viếng thăm VIP cũng như các nhà báo đều phải dựa vào những đầu bếp chăm chỉ của quân đội. Từ khi bắt đầu, cuộc chiến ở Đông Dương đã bộc lộ một số vấn đề về hậu cần cũng như đầu bếp. Sự đa dạng về sắc tộc và tôn giáo trong lực lượng Liên hiệp Pháp đòi hỏi phải có sự nhận và phân phát cụ thể. Nhiệm vụ này khó có thể hoàn thành bằng phương tiện vận chuyên đường không. Lính súng trường Bắc Phi có thói quen ăn thịt cừu nên họ cần ngũ cốc, nước chấm cay và tiền để mua trà. Binh lính từ Tây Phi lại ăn củ mài, lạc và hồ tiêu cay. Ngươi Việt của quân đội quốc gia và những người đang phục vụ các đơn vị của Pháp thích ăn thịt lợn, cơm, mì và nước mắm. Các đầu bếp của lính Lê dương rất vất vả trong công việc nấu nướng nhưng vẫn cố cung cấp cho lính Lê dương nguồn dinh dưỡng đa dạng và ổn định. Các vấn đề trở nên phức tạp khi có nhiều các ngày lễ tôn giáo hoặc lễ quân sự truyền thống đòi hỏi những thực đơn đặc biệt. Lính Lê dương yêu cầu được ăn loại xúc xích trong lễ kỷ niệm hàng năm có tên Camerone - một trận đánh nổi tiếng của lính Lê dương ở Mexico năm 1863. Lính Bắc Phi trông chờ vào một loại thịt cừu nướng vào bữa cuối của tháng ăn chay Ramadan của người đạo Hồi.
Quân Viễn chinh Pháp là một đội quân nghiện rượu, một chút rượu khai vị là chuyện bình thường trước bữa ăn, rượu và bia thường uống trong khi ăn. Rượu cô-nhắc, rum, vang thường sẵn có trong các bữa ăn của sĩ quan. Mặc dù, chỗ ăn uống ở Điện Biên Phủ rất giản đơn và hành động không cho
phép quá thỏa mãn nhưng cầu hàng không tới Hà Nội vẫn giữ được truyền thống và đặt rượu trên bàn.
Lính dù của Đại tá Langlais vẫn tiếp tục công việc thăm dò phía ngoài vành đai phòng ngủ. Ngụy trang và kỷ luật trên đường mòn của Việt Minh làm cho tầm quan sát của De Castries và máy bay quan trắc gần như không thấy gì. Để xác định được Việt Minh đánh giá sức mạnh của họ và tìm kiếm dấu hiệu của một cuộc tấn công sắp tới, bộ binh phải theo dấu đối phương, đụng độ và bắt tù binh. Đoạn trích từ một bản báo cáo của tổ tuần tra trinh sát
https://thuviensach.vn
ngày 12 tháng 1 năm 1954 của một sĩ quan thuộc Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 miêu tả trò chơi trốn tìm chết người này.
Isabelle bị đối phương quấy nhiễu, trinh sát của ta khống chế khu vực phía Tây của Isabelle, một tuyến đường mở tới chỗ của Việt Minh. Chúng tôi rời Điện Biên Phủ lúc 4 giờ để vào vị trí lúc rạng đông. 9 giờ sáng Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 di chuyển vào tới bản Phủ. 10 giờ tiểu đoàn này tới bản Cò Hèn và 11 giờ tới bản Lung Con. Không thấy người dân nào. Bản làng bỏ hoang bị phá huỷ, đốt cháy và không có dấu hiệu của sự giao tranh. Vùng đồng bằng giữa Điện Biên Phủ và Isabelle Việt Minh không kiểm soát ít ra là cho tới sáng.
Lúc 13 giờ 30, đại đội 3 tới bản Huoi Phuc, bản này cũng bị bỏ lại như các làng bản khác, Trung uý Brando cho quân tạm nghỉ và cầm la bàn định phương hướng. Một đầu đạn sượt qua la bàn làm trung uý bị thương vào tay và phá hỏng cả chiếc nhẫn cưới. Việt Minh phóng hoả lực làm một lính Lê dương là Bruck bị tllương vào cánh tay… Việt Minh bố trí một đơn vị nhỏ đóng quân ở gần cánh đồng lúc được một đại đội yểm trợ bám sát các sườn đồi cách 400 mét về phía trước. Súng không giật 57 ly tập trung vào mục tiêu phía xa trong khi các đại đội 2 và 3 đi càn quét cánh đồng lúa. Cùng lúc Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 bị trúng hỏa lực cối 81 và bị thiệt hại nặng. Khi một qủa pháo nổ cách đó gần 2 mét, Thiếu tá Verguet biến mất trong đám khói, sau đó người ta tìm thấy anh bị đen nhẻm, đứng như trời trồng, nhưng không bị thương. Cách đó 30 mét, những mảnh đạn tung ra đã giết chết Thiếu úy Nenert và làm bị thương Thiếu úy Thibout.
Danh sách thương vong do hỏa lực pháo cối lần này cho ta hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của Tiểu đoàn dù Lê dương số 1.
Trung đội 2 Đại đội 4: sĩ quan giúp việc cho Martin, Thượng sĩ Zivkovic, Hạ sĩ Đỗ Văn Kính, lính Lê dương Larensac, Mlekusch, Ahlgrin; lính tình nguyện Việt Nam Nguyễn Văn Mùi, Đỗ Văn Phòng, Trần Văn Thay, Nguyễn
https://thuviensach.vn
Văn Ngải bị thương; Đại đội 1 lính Lê dương Pittak chết, lính tình nguyện Thân Trọng Phong và Phạm Văn Vinh bị thương.
Trực thăng sơ tán những người bị thương nặng và tiểu đoàn này bắt đầu cuộc hành quân quay trở lại. Trinh sát thấy nghi ngờ có các hoạt động phía trước nên đã ra hiệu cảnh báo. Bất ngờ, một đội tuần tra người Thái trắng xuất hiện trên đường mòn, họ rời các vị trí ở Điện Biên Phủ mà không thông báo cho sở chỉ huy biết. Từ khi lính dù được biết không có lực lượng đồng minh nào trong khu vực thì sự bất cẩn của người Thái gần như bị xoá sạch.
Gần Điện Biên Phủ, tiểu đoàn này bị trúng hoả lúc súng trường tự động, một viên đạn nhỏ làm rách miệng một lính Lê dương và sượt qua gáy. “Mặc dù vậy nhưng anh ta cũng không bị thương nghiêm trọng”. 2 trung uý và 1 hạ sĩ cũng bị trúng đạn. Việt Minh rút lui để lại một người bị thương phía sau. Rõ ràng họ đã chuẩn bị phục kích người Thái trên đường trở về Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 trở về vành đai phòng ngự an toàn lúc 23 giờ 40. Trung uý nhớ lại: “Đại tá Langlais tiếp nhận chúng tôi một cách lạnh nhạt, anh ta coi sự trở về của chúng tôi là quá ồn ào”. Đội tuần tra khẳng định Việt Minh đã có mặt ở phía tây Isabelle. Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 bị chết 5 người (trong đó có 1 sĩ quan), 33 người bị thương (trong đó có 5 sĩ quan). Việt Minh chết 16 người, 1 bị thương và 1 tù binh. Theo biệt ngữ quân sự thì Pháp phải chịu thương vong nhẹ nhưng sự tiêu hao dần các đơn vị chóp bu sẽ làm mất đi tính hiệu quả tổng thể làm tác động tới tinh thần của binh lính.
Khi lực lượng chính quy tới sát Điện Biên Phủ và nguồn tiếp viện cho một đợt tấn công lớn vẫn tiếp tục, Tướng Giáp đã di chuyển quân để đẩy Pháp vào thế bấp bênh và vắt kiệt các nguồn quân sự của chúng. 7 tiểu đoàn từ các Sư đoàn 304 và 325 Việt Minh chuyển hướng sang Trung Lào, liên kết với quân đồng minh Pathet Lào. Như vậy, đã xuất hiện một nỗ lực lớn chia đôi Lào tại điểm hẹp nhất. Với những người tập trung vào Điện Biên Phủ
https://thuviensach.vn
thì việc di chuyển quân này đã làm cho Pháp bất ngờ và phải sơ tán tỉnh Thà Khẹt. Tướng Gilles và lực lượng dù của ông được đưa sang Lào và bắt đầu công việc sục sạo tại căn cứ của Pháp ở Sênô cách không xa Savanakhẹt. Thiếu tá Bigeard và Bréchignac ngay lập tức dẫn các tiểu đoàn vào rừng để truy tìm đối phương. Họ phát hiện đối phương ở bản Som Hong ngày 5 tháng 1. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, Việt Minh chết 400 người, lính dù quay trở lại căn cứ. Không lâu sau, cuộc tấn công của Tướng Giáp bị suy yếu nhưng ông cố gắng giải phóng các khu vực ở Lào và kéo quân Pháp ra khỏi vùng châu thổ.
Tướng Giáp không phải là vị tướng duy nhất đưa ra kế hoạch hành động tấn công. Vào giữa tháng 12, mặc dù có những dấu hiệu ban đầu về việc chú trọng của Việt Minh vào Điện Biên Phủ, Navarre vẫn đưa ra các lệnh thực hiện chiến dịch Atlante. Cuộc tấn công vào vùng lãnh thổ miền Trung và Nam Việt Nam do Việt Minh cai quản bao gồm một đợt đổ bộ lên bờ biển ở Tuy Hoà ngày 20 tháng 1 và một đợt càn quét của hơn 30 tiểu đoàn bộ binh với sự yểm trợ của pháo binh và thiết giáp qua vùng Liên khu V. Mục tiêu là gây thương vong cho 30.000 quân Việt Minh đang bảo vệ khu vực này, đảm bảo an toàn cho vùng thuộc miền Trung cao nguyên và cho phép các tiểu đoàn mới thành lập của Quân đội quốc gia Việt Nam được thử nghiệm chiến đấu. Chiến dịch Atlante lại một lần nữa chứng minh sự thiếu khả năng của Tư lệnh tối cao Pháp trong việc hiểu và giải quyết cuộc chiến tranh du kích. Sau một vài va chạm nhẹ, Việt Minh tuân theo giáo lý cơ sở của các chiến thuật du kích và giấu mình trong các quả đồi, đặt mìn, bẫy để tiêu diệt đối phương. Chiến dịch Atlante trở thành một buổi dạo chơi dài và khát khô họng dưới ánh nắng chói trang của bầu trời. Cuối cùng Việt Minh sẽ phản công vào vùng cao nguyên, phục kích và quét sạch toàn bộ tổ cơ động. Navarre thậm chí buộc phải cắt giảm lực lượng lính dù dự bị của Điện Biên Phủ để ngăn chặn đường tiến của đối phương.
Thiếu tướng Cogny, người có kế hoạch tấn công các kho chứa hàng và các tuyến đường cung cấp phía tây bắc vùng châu thổ của Việt Minh bị Navarre
https://thuviensach.vn
từ chối, đã phản đối mạnh mẽ chiến dịch Atlante. Hai ngày trước khi binh lính đầu tiên của Pháp cập cảng ở Tuy Hoà, Cogny đã gửi một bức điện khẩn cho Navarre yêu cầu tiếp sức cho các đợt chặn đánh mới đây nhất của Việt Minh. Vấn đề đầu tiên đề cập tới 2000 quả pháo 105 ly và 3000 cối 82 ly trên đường tới trung tâm tiếp tế của Việt Minh ở Tuần Giáo phía đông bắc Điện Biên Phủ. Bức điện sau thậm chí chứa đựng cả những tin tức báo trước điềm gở.
Khẩn cấp Cogny gửi cho Navarre. Về vấn đề hậu cần, chuyến vận tải chở 130.000 đầu đạn có kế hoạch tới Tuần Giáo. Cho đến giờ, từ 13 tháng 1, 7000 cối 82 ly (gồm cả 3000 quả nói trong bức điện truớc), 3000 viên đạn cho pháo phòng không 37 ly và 9 tấn thuốc nổ vẫn đang trên đường tới. Sư đoàn 316 Việt Minh yêu cầu trung đoàn 98 gửi cho họ những số liệu cụ thể trước ngày 20 tháng 1. Chắc chắn rằng điều này đã đề cập tới báo cáo phân tích bản nghiên cứu các căn cứ của ta ở Điện Biên Phủ được yêu cầu trước ngày 18 tháng 1.
https://thuviensach.vn
MỘT ĐỒNG MINH CẨN TRỌNG
“Navarre nói cho dù mất Diện Biên Phủ hay mất mười tiểu đoàn chiến đấu đi chăng nữa thì cũng sẽ không ngăn cản ông ta đi tới thắng lợi cuối cùng”
Đại sứ Mỹ Donald Heath,trong bức điện mật gửi cho Bộ Ngoại giao ngày 3 tháng 1 năm 1954
Nếu thế giới đang dõi theo công cuộc chuẩn bị cho cuộc chiến ở Điện Biên Phủ với những mức độ quan tâm khác nhau thì Chính phủ Mỹ đang từng ngày phân tích tình hình bằng mọi phương tiện. Chính quyền Eisenhower có được một lợi ích chính trị và quân sự trực tiếp từ kết quả cuối cùng của trận đánh. Điện Biên Phủ đang nổi lên như một cuộc thử nghiệm quan trọng về khả năng duy trì Đông Dương của Pháp và né tránh cuộc tấn công chính của Cộng sản vào Đông Nam Á. Thành công hay thất bại ở Đông Dương sẽ phá giải được một phán quyết về chính sách viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ trong suốt thời gian 4 năm (ở mức 80% chi phí cho chiến tranh) để ủng hộ những nỗ lực của Pháp. Tác động nhẹ của cuộc chiến tranh Đông Dương khích lệ trực tiếp chính sách ngoại giao của Mỹ ở châu Âu, nơi chiến tranh lạnh giờ đây đã nguội dần. Washington coi tư cách thành viên của Pháp trong đồng minh NATO là điều cơ bản cho sự sống còn của Tây Âu nên đã theo dõi chính quyền Pháp đang cố gắng giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nước Pháp mệt mỏi với vai trò là người phòng thủ chống lại chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Dưới những áp lực chính trị và công chúng trong nước, chính sách của Pháp đang tiến tới một giải pháp đàm phán không thể tránh khỏi. Các nhà hoạch định chính sách ở Washington, đang cân nhắc tới một hậu quả không mong đợi và nguy hiểm vẫn tiếp tục hy vọng cho một giải pháp quân sự phù hợp và đang làm hết sức mình để bảo đảm rằng người Pháp sẽ nhận được bất cứ thứ gì mà họ cần ở Điện Biên Phủ và bất cứ đâu ở Đông Dương.
https://thuviensach.vn
Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và CIA yêu cầu báo cáo chính xác, kịp thời và đánh giá thực tế từ chiến trường để dựa vào đó làm cơ sở cho các chính sách và kế hoạch. Đại sứ quán, Cố vấn, Phái đoàn viện trợ Mỹ và cơ quan CIA ở Sài Gòn, toà lãnh sự ở Hà Nội là những nhà cung cấp thông tin chính này. Trước sự phát triển của truyền thông vệ tinh, diễn tiến của chiến dịch ngoại giao con thoi của các tổng thống, các ngoại trưởng, chính phủ Mỹ đã dựa chủ yếu vào các báo cáo tin cẩn của các chuyên gia ở nước ngoài. Thông tin khẩn cấp và quan trọng chuyển đi bằng mật mã. Các bản thảo chi tiết hơn và kém sự cấp bách hơn đã tới bằng đường của người đưa tin ngoại giao hay bằng đường hàng không tới Washington.
Doald Heath là đại sứ ở Sài gòn, với danh nghĩa là trưởng phái đoàn ngoại giao Mỹ yêu cầu ngừng mọi cuộc truyền thông. Ngài đại sứ cùng nhóm chính trị của ông ta và Paul Sturm - lãnh sự của Mỹ ở Hà Nội cung cấp cho Ngoại trưởng J.F.Dulles một loạt các thông tin chính xác về Điện Biên Phủ. Trưởng ban CIA bổ sung vào báo cáo này bằng các bức thông điệp riêng cho cấp trên của ông ta, Allen Dulles. Một số sĩ quan tình báo mật, chạy đua với các vị tiền bối ở Đông Dương cũng đang tiến gần tới hành động.
Sau đây là các đoạn trích từ bức điện tín của đại sứ quán, lưu hành trong tháng 1 năm 1954 thể hiện rõ mức độ báo cáo chính thức của Mỹ lúc đó.
Ngày 5 tháng 1, một bức điện mật tới Bộ Ngoại giao báo cáo về cuộc nói chuyện của đại sứ Heath với Maurice Dejean Cao uỷ Pháp ở Sài Gòn về Điện Biên Phủ. “Về tình hình ở miền Bắc, Dejean vừa trở về sau chuyến thăm Điện Biên Phủ nơi ông ta cho là mạnh hơn nhiều lần so với Nà Sản đã
từng dưới sự chỉ huy của Đại tá De Castries - người ông ta coi là một trong những sĩ quan giỏi nhất trong toàn quân đội Pháp”. Sau khi dự tính những tổn thất nặng nề của Việt Minh trong một trận tấn công và thảo luận về khả
năng xâm nhập của Việt Minh sang Lào, Dejean kết luận: “Để tiến nhanh tới thắng lợi phải tăng quân Lê dương lên 6 trung đoàn mới lấy từ Dức”. Dejean nói với Heath: “Phải có các nguồn tài chính để chi trả cho các đơn
https://thuviensach.vn
vị Lê dương mới và cơ sở vật chất để trang bị cho họ và sẽ hoàn toàn không khó khăn gì trong việc tuyển chọn các sư đoàn Lê dương mới nếu Adenauer nhìn theo cách khác”. Sau đó, Dejean nói tiếp ông ta sẽ thực hiện ý đồ này
trước cả Navarre, người luôn cho rằng điều này cũng thú vị nhưng vẫn muốn để cân nhắc thêm”.
Ngày 8 tháng 1, một bức điện mật (không gửi) từ Heath cho Ngoại trưởng đề cập tới một yêu cầu thăm dò của Pháp về Thiếu tướng Thomas Trapnell (cựu chiến binh của Bataan sau đó là trưởng phái đoàn MAAG Mỹ). Người
Pháp đang tính tới việc yêu cầu các phi công Mỹ lái 12 máy bay C-119 thực thi nhiệm vụ cung cấp”. Bức điện cho rằng “đúng vào lúc này, Mỹ đã cho Pháp mượn 17 chiếc C-119” và thông báo với Washington rằng Dejean đã mời một vị tướng không quân Mỹ từ Tokyo tới thăm Đông Dương vào cuối tháng.
Ngày 15 tháng 1, một bức điện mật từ Hà Nội gửi cho ngoại trưởng và đại sứ quán ở Sài Gòn nêu chi tiết cuộc nói chuyện giữa lãnh sự Paul Sturm với Thiếu tướng Cogny về Điện Biên Phủ. Cogny nói với Sturm rằng ông ta hy vọng Việt Minh sẽ không tấn công cho tới tận cuối tháng 1 và giải thích về tình hình chiến thuật.
Các tổ tuần tra cho thấy Điện Biên Phủ bị các lực lượng đối phương nằm ngay ngoài phạm vi pháo binh bao vây mọi phía. Trinh sát bất cứ hướng nào đều đụng phải phản ứng dữ dội của đối phương. Cogny nói chắc chắn Sư đoàn 308 và 316 đã vào các vùng lân cận cứ điểm, có những dấu hiệu rõ ràng nhưng không có bằng chúng về sự có mặt của Sư đoàn 312 trong khu vực và về pháo phòng không của Việt Minh, và các phi công báo cáo rằng các loạt đạn bắn vào họ có thể là pháo 37 hoặc 40 ly.
Cuộc thảo luận giữa vị tướng của Pháp và nhà ngoại giao của Mỹ tập trung vào vấn đề cung cấp cho Điện Biên Phủ (60 DC-4, 20 chuyến hàng, hàng ngày), sự có mặt của xe tăng và pháo binh Pháp, các kế hoạch của Việt Minh ở Lào và việc thiếu quân dự bị đã làm cho Cogny tiếp tục đánh sâu
https://thuviensach.vn
vào các pháo đài của đối phương ở quanh Yên Bái và Thái Nguyên. Sturm kết luận rõ ràng: Cogny tỏ ra thiếu tự tin trong cuộc nói chuyện có liên quan tới hậu quả cuả cuộc tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ, và cố ý hạn chế lời tuyên bố của mình bằng những câu như “ít ra là tôi nghĩ như vậy”… Rõ ràng nếu các sư đoàn của đối phương được pháo binh và pháo phòng không hỗ trợ thì tình thế của cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ rất nguy kịch.
Ngày 21 tháng 1, một bức điện mật gửi tới Ngoại trưởng thông báo lại thực tế của cuộc gặp giữa Đại sứ Heath và Marc Jacquet – Ngoại trưởng các nước Liên hiệp Đông Dương.
Hôm qua Jacquet nói với tôi rằng, theo quan điểm của ông ta thì Navarre cần phải giành được một số thắng lợi trong ít tháng tới hoặc tranh thủ áp lực của phe đối lập trong Quốc hội Pháp để tiếp tục các nỗ lực của Pháp ở Đông Dương, điều này sẽ buộc bất cứ một chính phủ có quyền lực nào cũng phải đi đến chỗ khởi xướng các cuộc đàm phán với Hồ Chí Minh… Jacquet nói, điều tốt nhất xảy ra sẽ có lợi cho Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ trong lúc họ đang mong đợi đồng thời giáng cho Pháp một đòn thất bại nặng nề, và điều đó cũng sẽ làm giảm vị thế của Pháp trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Sau đó Jacquet nói về sự tham gia cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến
…Ông ta cho rằng nếu không có sự can thiệp của Mỹ, sự hình thành quân Lê dương với những chuyên gia lái máy bay, chuyên gia cơ khí, kỹ thuật chiến tranh của Mỹ… thì Việt Minh không thể thất bại. Chính phủ Pháp rất coi trọng việc thành lập cái gọi là “quân Lê dương” của Chính phủ Mỹ mà từ trước tới nay họ bị hạn chế bởi một lý do cho rằng làm như thế sẽ gây ra những khó khăn cho Chính phủ Mỹ và ngược lại.
Bên cạnh những cuộc nói chuyện cấp cao đại sứ quán, lãnh sự quán USIA và các sĩ quan phái đoàn viện trợ Mỹ đang đi du lịch Việt Nam, Campuchia và Lào đã thu thập các tin tức từ sản lượng mùa màng tới các quan điểm của
https://thuviensach.vn
sĩ quan Pháp, của chính trị gia Đông Dương và của các biên tập viên báo chí. Là một phóng viên chiến tranh của USIA, tôi đã chứng kiến 7 chiến dịch quân sự chính, tôi đã ở Điện Biên Phủ trong cuộc hành quân Castor và cũng đã quan sát chiến dịch Atlante và sự đánh trả của Pháp trước sự xâm nhập vào Trung Lào của Tướng Giáp. Các sĩ quan từ đoàn MAAG của Mỹ ở Sài Gòn đang thực thi nhiệm vụ thăm các đơn vị người Pháp và người Việt trên chiến trường với mục đích kiểm tra việc sử dụng các trang thiết bị của Mỹ cung cấp. Họ còn báo cáo về tinh thần sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị này. Các chuyên gia quân sự và các chuyên viên tình báo từ Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ có những chuyến thăm thường xuyên tới Đông Dương. Một số sĩ quan quân đội Mỹ dành thời gian ở Điện Biên Phủ như những nhà quan sát, và đưa ra lời khuyên khi cần thiết. Họ phải rời đi một cách kín đáo khi trận đánh thực sự diễn ra. Theo gợi ý của một trong những du khách tới Điện Biên Phủ, thì cần có một khẩu đội pháo phòng không Mỹ (4 súng máy cỡ 50). Sau một vài vụ cãi lộn về việc sử dụng các loại vũ khí phòng không cho cuộc chiến mặt đất, Navarre đồng ý chấp thuận. Những khẩu pháo cỡ 50 thực sự có hiệu quả khi chống lại các đợt tấn công trên bộ của Việt Minh giống như khi chúng chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc ở Triều Tiên.
Ngay từ đầu tháng 1 các cứ điểm ở Điện Biên Phủ đã được bố trí dày kín: Tiểu đoàn ngụy Thái số 3 và một đại đội pháo Lê dương ở “Anne-Marie”; Tiểu đoàn 3 Bán lữ đoàn Lê dương số 13 ở Béatrice; Tiểu đoàn 1 Bán lữ đoàn Lê dương số 13, Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 và Tiểu đoàn dù xung kích số 8, pháo binh, hai trung đội tăng, một đại đội trọng pháo Lê dương, các đơn vị an ninh, tình báo, y tế, hậu cần của sở chỉ huy ở Claudine; Tiểu đoàn 3 trung đoàn Algeri số 3, pháo binh và pháo phòng không cỡ 50 ở “Dominique”; Tiểu đoàn 5 trung đoàn Algeri số 7 và một đại đội pháo Lê dương ở Gabrielle; Tiểu đoàn 1 trung đoàn Marốc số 4 ở Eliane; Các đơn vị của Tiểu đoàn ngụy Thái số 2 và nhóm biệt kích người Thái số 1 ở Francoise; Tiểu đoàn 1 trung đoàn Lê dương số 2 và pháo phòng không cỡ 50 ở Huguette; Tiểu đoàn 3 trung đoàn Lê dương số 3, Tiểu đoàn 2 trung
https://thuviensach.vn