🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Điểm Mù Ebooks Nhóm Zalo Mục lục LỜI NÓI ĐẦU Chương 1 KHOẢNG CÁCH GIỮA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC MONG MUỐN VÀ HÀNH VI THỰC TẾ Chương 2 VÌ SAO NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG KHÔNG CÒN HỮU DỤNG? Chương 3 KHI CHÚNG TA HÀNH ĐỘNG NGƯỢC LẠI VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA CHÍNH MÌNH Chương 4 TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG CÓ ĐẠO ĐỨC NHƯ MÌNH NGHĨ? Chương 5 KHI CHÚNG TA PHỚT LỜ CÁCH CƯ XỬ VÔ ĐẠO ĐỨC Chương 6 ĐẶT NHẦM HY VỌNG VÀO “TỔ CHỨC ĐẠO ĐỨC” Chương 7 VÌ SAO CHÚNG TA LẠI THẤT BẠI TRONG VIỆC SỬA ĐỔI CÁC SAI LỆCH CỦA CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC? Chương 8 RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH KẾT LỜI NÓI ĐẦU Chúng tôi đã dành hai mươi năm cho việc chiêm nghiệm và hoàn thiện cuốn sách này – một khoảng thời gian khá dài mà chính chúng tôi cũng không nhận ra. Năm 1991, Ann bắt đầu khóa học tiến sĩ tại Trường quản lý Kellogg của Đại học Northwestern và dành hầu hết thời gian của mình để thực hiện một số nghiên cứu bước đầu mang tâm lý học vào lĩnh vực đạo đức kinh doanh. Trọng tâm của nghiên cứu này là sự hợp tác giữa Ann và David Messick - một Giáo sư lỗi lạc của chương trình Kaplan về Đạo đức học tại trường Kellogg. Công trình nghiên cứu của họ khảo sát sự suy giảm đạo đức, tức là xu hướng những người có đạo đức đưa ra những quyết định thiếu đạo đức vì những yếu tố đạo đức đã dần không còn đóng vai trò quan trọng trong quyết định của họ. Max có liên hệ với Ann và Dave trong một vài phần của nghiên cứu nhưng phần lớn ông đóng vai trò người quan sát và cổ vũ cho công trình này. Năm 2000, Max tham gia cùng với một nhóm sinh viên của Đại học Harvard và bắt đầu thực hiện nghiên cứu với những người đồng sự mới là Mahzarin Banaji và Dolly Chugh về đạo đức giới hạn (bounded ethicality), hay nói cách khác là cách con người thực hiện một cách có hệ thống những hành vi thiếu đạo đức trong vô thức. Ý tưởng rút ra từ nghiên cứu này cùng với những nghiên cứu của Dave và Ann sẽ được diễn giải trong quyển sách này. Cùng khoảng thời gian này, tập đoàn năng lượng Enron sụp đổ, các tổ chức và các trường dạy kinh doanh bắt đầu bị thúc ép phải có hành động cụ thể để giải quyết sự suy thoái đạo đức đang xảy ra trong xã hội. Vì vậy, lĩnh vực đạo đức kinh doanh bắt đầu có những chuyển biến mà chúng tôi sẽ miêu tả trong quyển sách. Một trong những chuyển đổi quan trọng là sự phát triển của lĩnh vực đạo đức hành vi – tập trung vào việc tâm lý con người sẽ hoạt động như thế nào trong những tình huống đạo đức. Sự quan tâm về đạo đức hành vi đã tăng theo cấp số nhân trong khoảng 10 năm trở lại đây và sự bùng nổ này đã khơi nguồn cho chúng tôi tập hợp những quan điểm về đạo đức hành vi của mình vào cuốn sách. Các nghiên cứu về đạo đức này chịu ảnh hưởng từ những mối quan hệ và hợp tác của chúng tôi với rất nhiều học giả. Trong số đó có Modupe Akinola, Mahzarin Banaji, Iris Bohnet, Art Brief, Day- lian Cain, Eugene Caruso, Suzanne Chan-Serafin, Dolly Chugh, Luke Coffman, John Darley, David de Cremer, Tina Diekmann, Nick Epley, Francesca Gino, Josh Greene, Jennifer Jordan, Ka- rim Kassam, Rod Kramer, Marijke Leliveld, George Loewenstein, Kathleen McGinn, David Messick, Katy Milkman, Celia Moore, Don Moore, Charles Naquin, Maggie Neale, Greg Northcraft, Nee- ru Paharia, Madan Pillutla, Todd Rogers, Lisa Shu, Kristin Smith- Crowe, Phil Tetlock, Chia-Jung Tsay, Elizabeth Umphress, Erik van Dijk, Kimberly Wade Benzoni cùng với những đồng tác giả và bạn bè khác mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau đây. Trong suốt quá trình viết sách, Art Brief, Dolly Chugh, Kristina Diekmann, Francesca Gino, Josh Greene, Dave Messick, Madan Pillutla, Todd Rogers và Kristin Smith-Crowe đã đọc và cung cấp cho chúng tôi những ý kiến phản hồi thẳng thắn đóng góp cho nội dung và việc trình bày các ý tưởng trong tác phẩm này. Chúng tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình trong mảng biên tập. Katie Shonk, trợ lý nghiên cứu lâu năm của Max, đồng tác giả và là biên tập viên đã chỉnh sửa câu chữ để cuốn sách trở nên đặc sắc hơn, (nếu bạn thích viết lách, hãy tìm đọc tiểu thuyết mới của Ka- tie tên là Happy Now?)sự giúp đỡ của cô ấy là vô giá. Sarah Oliver Johnson đã đem đến những hình minh họa tuyệt vời cho trường hợp chiếc xe đẩy và cây cầu vượt trong cuốn sách. Ranjan Ahuja đã đọc lại, sửa lỗi sai và hiệu chỉnh toàn bộ cuốn sách. Những biên tập viên của chúng tôi tại Nhà xuất bản Đại học Princeton là Eric Schwar , Beth Clevenger và Janie Chan đã cung cấp những chỉ dẫn tổng thể tuyệt vời và rất có giá trị. Cuối cùng, chúng tôi muốn gửi lời cám ơn đến gia đình mình, là Marla - vợ của Max; Dante - chồng của Ann; những người con của cô ấy- Dante, Lina, và Michel cùng cha của cô ấy – bác Don vì sự ủng hộ của họ trong khi chúng tôi viết quyển sách này. Chương 1 KHOẢNG CÁCH GIỮA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC MONG MUỐN VÀ HÀNH VI THỰC TẾ “Vì lí do nào đó không thể giải thích, tôi biết thánh Peter sẽ không gọi tên tôi” _“Viva La Vida”, Coldplay_ Nếu đặt trong thế so sánh với những độc giả khác của cuốn sách này, bạn nghĩ mức độ cư xử đạo đức của mình như thế nào? Thang điểm được xét là từ 0 - 100. Nếu bạn tin rằng mình là người có đạo đức nhất trong nhóm này, hãy tự cho mình 100 điểm. Còn nếu nghĩ rằng mình là người có đạo đức kém nhất trong nhóm, hãy tự cho mình điểm 0. Và 50 là mức điểm trung bình. Bây giờ, nếu bạn là một thành viên trong một tổ chức, hãy đánh giá tổ chức của bạn như sau: Dựa vào thang điểm từ 0 đến 100, tổ chức của bạn ở mức độ nào khi đặt trong tương quan so sánh với các tổ chức khác? Bạn và tổ chức của bạn đã làm việc thế nào? Nếu bạn cũng giống hầu hết những người chúng tôi đã hỏi, số điểm của bạn sẽ cao hơn 50. Nếu tính trung bình số điểm của những người đang đọc cuốn sách này, chúng tôi đoán số điểm có thể khoảng 75. Tuy nhiên đây không phải là vấn đề chính; như đã nói ở trên, số điểm trung bình có thể là 50. Vài người trong số bạn đang đánh giá chỉ số đạo đức của mình cao hơn so với những người khác.[1] Rất có thể hầu hết chúng ta đã đánh giá quá cao đạo đức của mình trên một phương diện nhất định nào đó. Trong thực tế, chúng ta chưa nhận thức được khoảng cách giữa mức độ cư xử đạo đức chúng ta nghĩ mình sẽ có được với cách hành xử của chúng ta trong thực tế. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay có mục đích cảnh báo về những điểm mù trong đạo đức để giúp bạn có thể nhận thức được sự khác biệt giữa con người bạn muốn trở thành và con người thật sự của bạn. Ngoài ra, bằng việc xóa đi những điểm mù về tổ chức và xã hội, bạn có thể thu hẹp khoảng cách giữa tổ chức bạn thực sự thuộc về và tổ chức trong lý tưởng của bạn. Những việc này sẽ lần lượt giúp tất cả chúng ta thu hẹp sự cách biệt giữa một xã hội chúng ta muốn được sống với một xã hội mà ở đó chúng ta tìm được bản thân mình. Nhờ vào sự phát triển của khái niệm đạo đức hành vi - một khái niệm mới dùng để xác định cách thức và nguyên nhân con người hành xử khi đối mặt với những tình huống tiến thoái lưỡng nan, chúng tôi sẽ giúp bạn nhận ra được những điểm mù trong đạo đức và gợi ý những phương pháp để loại bỏ chúng. Đạo đức hành vi: Một cách thức mới để hiểu biết hành vi phi đạo đức Chúng ta hãy cùng xem xét hai ý kiến liên quan đến trách nhiệm đối với cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008: Tình trạng suy thoái này không phải là hệ quả của thời kỳ suy thoái bình thường trong chu kì kinh doanh. Nó xảy ra bởi sự thiếu trách nhiệm và các quyết định yếu kém kéo dài từ Wall Street đến Washington cho đến tận Main Street[2]. _Tổng thống Barack Obama_ Đây là những sai lầm mang tính hệ thống, là sản phẩm tự nhiên của ngành ngân hàng trong một môi trường được hình thành từ lãi suất thấp và bãi bỏ quy định hơn là từ những trò hề của những kẻ lừa đảo và ngốc nghếch. _Richard Posner_ Cùng đối tượng là cuộc khủng hoảng tài chính nhưng hai công dân nổi tiếng của thành phố lại có hai cách lý giải khác nhau. Người đầu tiên đổ lỗi cho “những kẻ xấu” – những người đang hoạt động trong hệ thống tài chính của chúng ta, người thứ hai cho rằng lỗi là ở hệ thống mà “những kẻ xấu” này đang hoạt động. Ai đúng? Cả hai đều đúng nhưng thậm chí nếu kết hợp hai ý kiến lại thì vẫn không phải câu trả lời hoàn chỉnh. Phải chăng một vài cá nhân tham lam hoặc có ý đồ xấu đã góp phần vào cuộc khủng hoảng? Chắc chắn là như vậy! Như Tổng thống Obama đã nói, những người tư lợi cá nhân có dính líu đến hành vi bất hợp pháp đã gây ra cuộc khủng hoảng và những kẻ phạm tội này phải bị bắt. Phải chăng bất kỳ một hệ thống tài chính nào cũng được dự liệu sẵn là sẽ sản sinh ra hành động như vậy? Một lần nữa, điều đó là chắc chắn! Nhiều thể chế, luật lệ và những quy tắc cần được sửa đổi hơn bao giờ hết. Điều còn thiếu trong những lời phân tích này là thực tế có hàng nghìn người đang thờ ơ một cách đáng trách. Họ nghĩ rằng những việc họ làm có vẻ như vô hại, họ không ý thức được sai trái của mình: người cho vay thế chấp chỉ mơ hồ hiểu rằng khách hàng không có đủ điều kiện tài chính để chi trả cho những ngôi nhà họ mong muốn, các nhà phân tích thì tạo ra những chứng chỉ bảo lãnh mà không hiểu hết phản ứng dây chuyền của sản phẩm, các thương nhân bán chứng khoán trong khi không nắm bắt được sự phức tạp của chứng khoán, các chủ ngân hàng cho vay quá nhiều và các nhà quản lý vì chịu ảnh hưởng từ những nỗ lực vận động hành lang và đóng góp cho chiến dịch của các ngân hàng đầu tư mà đưa ra các quyết định mang tính thiên vị. Cuộc khủng hoảng cũng liên quan đến vô số người đã nhận thức được hành vi phi đạo đức của người khác tuy nhiên có rất ít hoặc không có bất kì sự phản ứng nào vì cho rằng “Ai đó thông minh hơn mình hẳn đã hiểu mọi việc diễn ra như thế nào”, như Business Week suy đoán.[3] Nhiều vụ bê bối diễn ra trong thiên niên kỉ mới đã làm sụp đổ lòng tin của chúng ta về những nhà lãnh đạo và cả việc kinh doanh. Dưới áp lực sống có đạo đức hơn, các tổ chức và các cơ quan tài chính đã cam kết những nỗ lực nhằm cải thiện và thực thi các hành vi đạo đức trong khuôn khổ của họ. Họ tiêu tốn hàng triệu đô-la vào các quy tắc ứng xử tập thể, các báo cáo nhiệm vụ dựa trên giá trị, thanh tra viên có đạo đức để đặt tên cho một vài kiểu đạo đức và chiến lược tuân thủ quản lý. Những nỗ lực khác có tính áp đặt hơn trong thực tế bao gồm cả Luật Sarbanes - Oxley được thông qua bởi Quốc hội Mỹ; những thay đổi về điều lệ để xác định Thị trường chứng khoán New York chi phối các công ty thành viên và những thay đổi trong cách thức các công ty kinh doanh tư nhân kết hợp và truyền tải tiêu chuẩn đạo đức đến cách ứng xử của nhân viên, cán bộ cũng như trừng phạt những hành vi thiếu đạo đức. Mặc dù chúng ta ra sức ủng hộ mọi nỗ lực nhằm gia tăng các quyết định mang tính đạo đức cao hơn trong một tổ chức nhưng kết quả của chuỗi nỗ lực này hiển nhiên vẫn chưa đồng nhất. Một nghiên cứu có sức thuyết phục về việc đa dạng hóa chương trình đã chỉ ra rằng việc tạo ra các chương trình đa dạng – một sự cố gắng mang tính tổ chức để hướng tới những hành động đúng đắn – có tác động tiêu cực đến sự đa dạng của các tổ chức sau này.[4] Hơn nữa, những biện pháp can thiệp như vậy không có gì mới. Trong quá khứ, nhiều thay đổi tương tự đã được thực hiện để giải quyết sự vô ý thức về đạo đức. Bất chấp việc các hình thức can thiệp này đã tiêu tốn tới hàng nghìn đô-la, các vụ bê bối đạo đức mới vẫn tiếp tục diễn ra. Tương tự, các chương trình củng cố đạo đức đã phát triển nhanh chóng tại các trường kinh doanh ở khắp nơi trên thế giới và xếp hạng của các trường kinh doanh hiện nay thường đánh giá một cách rõ ràng độ phổ biến của việc rèn luyện đạo đức trong chương trình giảng dạy. Tuy nhiên tác dụng của các khóa học về đạo đức thường không lâu dài và các quy tắc danh dự của MBA (thường là một phần của chương trình học) trong một số trường hợp đã được chứng minh là không đem lại bất kì cải thiện rõ rệt nào trong các hành vi đạo đức. Thực tế, theo một khảo sát vào năm 2008 được chỉ đạo bởi viện Aspen, các sinh viên ngành quản trị kinh doanh càng cảm thấy ít được chuẩn bị để giải quyết các giá trị xung đột nếu thời gian họ ở trong trường càng lâu.[5] Liệu việc tập hợp các cá nhân tham gia vào chương trình đào tạo đạo đức nghề nghiệp có giúp giải quyết được việc phát sinh các cuộc khủng hoảng tài chính đã và đang diễn ra hay không? Nếu chương trình đào tạo đạo đức được nhắc tới giống như những gì được dạy từ trước đến nay thì câu trả lời là không. Những nỗ lực can thiệp về đạo đức từ trước đến nay đã thất bại và sẽ tiếp tục thất bại bởi vì chúng được xây dựng trên một giả thiết sai lầm rằng mỗi cá nhân có thể nhận ra tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức khi nó xảy đến với họ. Việc rèn luyện đạo đức cho rằng nhấn mạnh tính đạo đức của các quyết định sẽ khuyến khích các nhà hành pháp chọn lựa đường lối có đạo đức. Nhưng giả định chung rằng các nhà hành pháp thi hành một cách rõ ràng việc cân bằng hai yếu tố: cư xử đạo đức và thu lợi nhuận cho tổ chức của họ lại chưa hoàn thiện. Mô hình này không nhìn nhận được những phản ứng tâm lý bẩm sinh của chúng ta khi đối mặt với một tình thế đạo đức khó xử. Những phát hiện từ lĩnh vực đạo đức hành vi – một lĩnh vực tìm hiểu thực tế cách thức con người cư xử khi đối mặt với những tình huống khó xử về đạo đức – cung cấp những hiểu biết bổ sung vào lý giải của chúng ta về lý do tại sao con người thường hành động trái ngược với những ý định đạo đức tốt nhất của mình. Hành vi đạo đức của chúng ta thường mâu thuẫn, thậm chí đôi khi được cho là đạo đức giả. Trên thực tế, con người có khả năng bẩm sinh duy trì một niềm tin trong khi hành động thì ngược lại.[6] Hành động đạo đức giả xảy ra khi con người đánh giá về sự vượt quá giới hạn đạo đức của bản thân khác biệt đáng kể với những đánh giá về những vi phạm tương tự được gây ra bởi người khác. Trong một nghiên cứu, những người tham gia được chia thành hai nhóm với cùng một điều kiện, người tham gia được yêu cầu phân phối một nguồn tài nguyên (như là thời gian hay năng lượng) cho bản thân và cho người khác và có thể phân bố một cách công bằng hoặc không công bằng. Những “người phân phối” sau đó đã được hỏi về việc đánh giá tính phù hợp với đạo đức về hành động của họ. Trong một điều kiện khác, người tham gia được xem những người khác hành động một cách không công bằng và sau đó đánh giá tính phù hợp về đạo đức của hành động này. Những cá nhân đã thực hiện sự phân phối không công bằng phản đối hành vi này ít hơn so với những người đã nhìn thấy người khác phạm phải vi phạm tương tự.[7] Tiêu chuẩn đôi phổ biến này – một quy tắc cho chính mình, quy tắc còn lại cho những người khác – phù hợp với khoảng trống thường tồn tại giữa việc chúng ta là ai và việc chúng ta nghĩ mình nên trở thành ai. Những phương pháp truyền thống tiếp cận vấn đề đạo đức và những cách thức rèn luyện truyền thống đi kèm với những phương pháp này thiếu sự hiểu biết về các khuôn mẫu đạo đức dù không chủ ý nhưng có thể đoán trước sẽ dẫn đến hành vi phi đạo đức. Ngược lại, nghiên cứu của chúng tôi về tính phù hợp với đạo đức giới hạn tập trung vào các quá trình tâm lý khiến cho những người tốt tham gia vào hành vi gây tranh cãi về đạo đức, thậm chí là những hành vi trái ngược với quan điểm đạo đức tiêu chuẩn của họ. Các giới hạn đạo đức sẽ xuất hiện khi một cá nhân đưa ra quyết định có thể gây tổn hại cho người khác hoặc khi sự tổn hại đó mâu thuẫn với niềm tin và ý thức của những người đưa ra quyết định. Nếu việc rèn luyện đạo đức là để thực sự thay đổi và cải thiện việc đưa ra quyết định có đạo đức thì cần phải kết hợp hành động này với đạo đức hành vi và đặc biệt là những phương pháp tinh vi đặt đạo đức của chúng ta nằm trong khuôn khổ. Cách tiếp cận đó đòi hỏi sự hiểu biết về những cách tâm trí chúng ta có thể tiếp cận các tình huống đạo đức khó xử và các phương thức khác nhau trong việc ra quyết định. Bằng góc nhìn cá nhân, chúng tôi không thể chắc chắn rằng liệu bạn có phải là người có đạo đức hay không nhưng mục đích của chúng tôi là cảnh báo bạn về các điểm mù ngăn chặn bạn nhìn thấy khoảng cách giữa hành vi thực tế và hành vi bạn mong muốn. Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ cung cấp những bằng chứng quan trọng cho thấy sự đánh giá đạo đức của chúng ta được dựa trên các yếu tố ngoài nhận thức. Chúng tôi nghiên cứu các quá trình tâm lý tiềm ẩn đã tạo ra khoảng trống giữa mục đích và hành động cũng như vai trò của các tổ chức và môi trường chính trị trong việc mở rộng ranh giới này. Chúng tôi cũng cung cấp công cụ giúp hỗ trợ những quyết định đạo đức quan trọng với sự phản ánh nhiều hơn và ít thiên vị hơn ở cấp độ cá nhân, cấp độ tổ chức và cấp độ xã hội. Sau đó chúng tôi đưa ra những biện pháp can thiệp hiệu quả hơn có thể cải thiện đạo đức trong việc đưa ra quyết định ở một trong ba cấp độ này. Bạn thì sao? Những ảnh hưởng của đạo đức Khoảng trống cho các cá nhân Trong một cuộc khảo sát gần đây, hầu hết các nhà báo địa phương và trung ương bày tỏ sự tin tưởng mạnh mẽ rằng đa phần các phóng viên có đạo đức tốt hơn các chính trị gia họ nhằm vào. Ngược lại, hầu hết thành viên chính phủ và các nhà lãnh đạo kinh doanh khi được khảo sát, kể cả các thành viên trong Quốc hội lại cho rằng phóng viên cũng không có đạo đức hơn những đối tượng trong câu chuyện của họ. Vậy thì ai đúng? Tuy gần như không thể đi đến một kết luận khách quan nhưng rất nhiều các tài liệu nghiên cứu cách chúng ta quan niệm về bản thân đưa ra giả thuyết rằng cả hai nhóm trên đã quá đề cao quan điểm về lý tưởng đạo đức của riêng họ. Một câu hỏi khác được đặt ra: CỰU NHÂN VIÊN tổng thống George W.Bush đã hành động một cách có đạo đức hay phi đạo đức khi ông quyết định xâm lược Iraq? Bạn đã trả lời câu hỏi này thế nào trong suốt những ngày đầu của cuộc chiến, khi sự việc trông như thể Mỹ đã “thắng”? Sự ưu tiên chính trị có thể tạo ra tính thiên vị cho câu trả lời này đến mức độ nào? Hầu hết mọi người tin rằng họ tương đối công bằng khi đánh giá hành vi của các viên chức dân cử. Tuy nhiên, ngay cả khi họ cố gắng nhớ lại quan điểm của mình vào thời điểm đưa ra quyết định, hầu hết họ đều bị ảnh hưởng bởi những điều họ đã biết về việc quyết định đã được đưa ra như thế nào. Sở thích và quan điểm của chúng ta ảnh hưởng đến cách chúng ta đánh giá các tình huống khó xử về mặt đạo đức nhưng chúng ta lại không nhận ra điều này. Ở điểm này, chúng tôi có thể đưa ra những dẫn chứng thuyết phục cho việc nhận định rằng những người khác đã quá đề cao quan điểm về lý tưởng đạo đức của riêng họ cũng như không hoàn toàn hiểu hết sự vận hành của chính tâm trí mình. Tuy vậy, bạn có thể vẫn còn hoài nghi liệu thông tin này có phù hợp với mình hay không. Thực tế, bạn có thể chắc chắn mình có đạo đức tốt như bạn vẫn luôn tin tưởng ở bản thân. Để kiểm chứng giả thiết này, hãy tưởng tượng bạn đã tình nguyện tham gia vào một thí nghiệm đòi hỏi bạn phải trả lời một số câu hỏi. Với mỗi câu trả lời đúng, bạn sẽ được thưởng một số tiền. Người thử nghiệm vô tình cho bạn biết rằng chương trình nghiên cứu có một nguồn tài trợ lớn và giải thích thêm một khi bạn hoàn thành công việc, bạn chỉ cần kiểm tra câu trả lời dựa theo một bảng đáp án, đếm số câu hỏi bạn trả lời đúng, hủy phiếu trả lời, báo cáo số câu hỏi bạn giải đáp chính xác cho người thử nghiệm và nhận lấy số tiền thưởng tương ứng với số câu trả lời bạn đã báo cáo. Bạn sẽ trung thực báo cáo đúng số lượng câu đố giải quyết được cho người thử nghiệm hay bạn sẽ báo cáo một con số cao hơn?[8] Cần lưu ý rằng người thử nghiệm không có cách nào phát hiện ra nếu bạn đã gian lận. Mặc dù chúng tôi không biết liệu cá nhân bạn có gian lận trong việc này hay không nhưng chúng tôi chắc chắn rằng rất nhiều người có vẻ đàng hoàng đều gian lận – dù chỉ một chút. So với một nhóm các cá nhân không được phép hủy câu trả lời, những người được phép hủy báo lại số câu họ trả lời được nhiều hơn đáng kể so với những người đã không hủy. Những người gian lận có thể bỏ qua những câu bị lỗi do bất cẩn và vẫn tính đó là câu trả lời đúng nếu đáp án trùng khớp với suy nghĩ của họ hoặc họ cho rằng mình có thể giải quyết tốt hơn nhiều câu hỏi đó nếu có thêm 10 giây. Và khả năng họ gian lận sẽ tỉ lệ thuận với số tiền – giả sử là có – đặt trên mặt bàn vào thời điểm đó. Nghĩa là càng thấy nhiều tiền, họ sẽ càng có động cơ gian lận.[9] Trong trường hợp này, người tham gia có thể biện minh cho việc gian lận với lý do những người thử nghiệm có lắm tiền nhiều của. Nhiều bằng chứng cho thấy những người, trên lý thuyết, tin rằng họ trung thực và không bao giờ gian lận thì thực tế đã gian lận khi được trao một cơ hội để làm việc đó dễ dàng mà không sợ bị phát hiện. Những người này không bao giờ thừa nhận sự gian lận của mình, thay vào đó, họ rời cuộc thí nghiệm mà vẫn giữ được hình ảnh trong sạch. Có ý kiến cho rằng việc chúng ta cảm nhận được khoảng cách giữa việc chúng ta là ai và chúng ta thực sự là ai có liên quan đến vấn đề giới hạn nhận thức. Giới hạn nhận thức đề cập đến xu hướng bỏ qua các thông tin quan trọng và cần thiết khi đưa ra quyết định của con người, thay vào đó là tùy tiện đặt ra các giới hạn làm rối khả năng nhận thức vấn đề của bản thân.[10] Giới hạn nhận thức dẫn đến thất bại có hệ thống trong việc xem xét thông tin liên quan đến đời sống cá nhân và trách nhiệm của chúng ta. Hãy nhìn vào bức tranh 1. Bạn nhìn thấy gì? Bây giờ hãy chú ý vào con chó đốm đang đánh hơi trên mặt đất. Hầu hết mọi người không thấy con chó đốm khi nhìn lần đầu tiên. Tuy nhiên, một khi họ biết nó ở đó, họ dễ dàng nhìn thấy nó và sự thật là họ không thể nhìn vào bức tranh mà không chú ý đến sự hiện diện của nó. Bối cảnh nền đen trắng của bức tranh làm chúng ta không chú ý đến con chó đốm cũng như môi trường làm việc tập trung vào lợi nhuận có thể ngăn cản chúng ta nhìn thấy những giá trị liên quan đến đạo đức trong hành động. Hình 1: Ảnh thuộc bản quyền của Ronald C. James Như những gì bức tranh về con chó đốm biểu hiện, chúng ta bị “giới hạn nhận thức”: nhận thức và việc đưa ra quyết định bị hạn chế theo những cách mà chúng ta không nhận ra. Ngoài việc là nạn nhân của sự giới hạn nhận thức, các nghiên cứu gần đây cho thấy chúng ta cũng bị lệ thuộc vào sự giới hạn đạo đức hoặc những hạn chế có hệ thống về đạo đức giúp chúng ta đem lại lợi ích cho bản thân từ quyền lợi của người khác. Ví dụ, một đồng nghiệp của Ann có lần nói rằng cô quyết định không tiêm ngừa cho con của mình vì nhận thấy có mối liên kết tiềm tàng giữa vắc-xin và bệnh tự kỉ. Hiểu rằng người đồng nghiệp có quyền thực hiện quyết định này, Ann chỉ gợi ý rằng người đồng nghiệp có thể đang đặt quá nặng vấn đề rủi ro của vắc-xin nếu so sánh với các nguy cơ bệnh tật nghiêm trọng khác. Ann cũng đưa ra khả năng đồng nghiệp của cô đã chưa cân nhắc kỹ ảnh hưởng từ quyết định của mình lên người khác, đặc biệt là các trẻ em khác có thể bị tổn thương miễn dịch dẫn đến tử vong nếu mắc phải một căn bệnh phổ biến như bệnh đậu mùa từ những trẻ em chưa tiêm chủng. Vài ngày sau, đồng nghiệp của Ann nói rằng cô ấy đang cân nhắc lại quyết định không tiêm chủng cho con vì từ trước đến nay cô ấy chưa bao giờ nghĩ đến việc những đứa trẻ khác có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định của mình. Nghiên cứu tâm lý về những sai lầm của trí óc giúp giải thích tại sao cha mẹ có thể đặt nặng vấn đề rủi ro khi tiêm phòng vắc- xin khi so sánh với các nguy cơ bệnh tật khác nếu là vì lợi ích của con cái họ. Hiểu rộng hơn, giới hạn đạo đức có thể giải thích vì sao các bậc phụ huynh lại xem nhẹ yếu tố đạo đức trong hành động của mình – như việc đặt những đứa trẻ khác vào nguy hiểm – mà không hề nhận ra. Chúng ta sẽ tìm hiểu bằng cách nào những xu hướng tâm lý này lại tạo ra kiểu hành vi thiếu đạo đức một cách ngẫu nhiên. Cuốn sách của triết gia Peter Singer Cứu lấy cuộc sống: Hành động bây giờ để chấm dứt đói nghèo cung cấp tài liệu phong phú về việc giới hạn nhận thức ngăn cản lòng từ thiện và thậm chí cả sự tự nguyện nghĩ về những vấn đề liên quan đến đạo đức.[11] Ông mở đầu cuốn sách bằng vấn đề sau: Trên đường đến nơi làm việc, bạn đi ngang qua một cái ao nhỏ. Thỉnh thoảng, vào những ngày nóng nực, trẻ em vẫn đến chơi ở ao vì mực nước của ao chỉ đến bắp chân chúng. Hôm nay thời tiết mát mẻ, tuy nhiên, trời vẫn còn khá sớm, vì vậy bạn ngạc nhiên khi thấy một đứa trẻ đang nghịch nước trong hồ. Khi đến gần hơn, bạn thấy đó chỉ là một đứa bé mới biết đi, đang vùng vẫy và không thể đứng thẳng hoặc bước ra khỏi hồ. Bạn tìm kiếm cha mẹ hoặc người giữ trẻ nhưng không có ai xung quanh. Cùng lúc đó đứa bé cũng không thể cố giữ đầu cao hơn mực nước được nữa. Nếu bạn không lội xuống và kéo đứa bé ra, nó rất có thể sẽ chết đuối. Lội xuống rất dễ dàng và an toàn nhưng bạn sẽ làm hỏng đôi giày mới mua vài ngày trước đó và làm cho quần áo ướt và lấm bẩn. Nếu bạn cứu đứa bé, đem nó về với người thân của nó rồi về thay quần áo, bạn sẽ bị trễ giờ làm. Bạn nên làm gì? Singer lưu ý rằng hầu hết mọi người coi đây là một vấn đề dễ giải quyết. Rõ ràng, bất cứ ai cũng nên nhảy vào và cứu đứa bé bởi nếu không làm như vậy sẽ là không có lương tâm. Sau đó Singer tiếp tục diễn tả một thử thách được một người đàn ông ở Ghana kể lại: Lấy cái chết của cậu bé sáng nay làm ví dụ. Cậu bé đã chết vì bệnh sởi. Chúng ta đều biết cậu bé có thể được chữa trị tại bệnh viện. Nhưng cha mẹ cậu bé không có tiền và vì vậy cậu bé đã phải chịu rất nhiều đau đớn và chết dần chết mòn không phải vì bệnh sởi mà là vì nghèo khổ. Hãy nghĩ đến việc một ngày có tới 270.000 trường hợp tương tự. Một số trẻ em chết vì thiếu thức ăn. Một số khác như cậu bé ở Ghana chết vì bệnh sởi, sốt rét, tiêu chảy và viêm phổi, tình trạng đó không tồn tại ở những nước phát triển hoặc nếu có, chúng cũng hầu như không bao giờ gây tử vong. Trẻ em dễ bị tổn thương bởi những căn bệnh này là do chúng không có nước sạch để uống hoặc không có nơi ở hợp vệ sinh và khi chúng mắc bệnh, cha mẹ chúng không thể chi trả cho việc điều trị y tế. UNICEF, Oxfam và nhiều tổ chức khác đang hoạt động để giảm bớt nghèo đói, cung cấp nước sạch và các chương trình chăm sóc y tế cơ bản và những nỗ lực này đang cải thiện tình hình một cách rõ rệt. Nếu các tổ chức cứu trợ có nhiều tiền hơn, họ có thể làm nhiều hơn và cứu được nhiều sinh mạng hơn. Nhiều người nói rằng không thể so sánh hai chuyện hoàn toàn khác nhau như vậy nhưng hầu hết mọi người cảm thấy không thoải mái khi đọc câu chuyện thứ hai. Thực tế, hai câu chuyện này khá giống nhau ngoại trừ một khác biệt. Trong câu chuyện thứ nhất, bạn có khả năng nhận ra khoảng cách giữa những gì bạn nên làm và những gì bạn thật sự làm: bạn nên cứu cậu bé, và nếu không làm, rõ ràng là bạn sẽ cắn rứt lương tâm. Trong ví dụ thứ hai, những điểm mù đạo đức chắc chắn xuất hiện. Hầu hết mọi người cảm thấy xấu hổ nếu họ biết họ đã thất bại trong việc cứu một mạng sống mà chỉ cần một số tiền tương đối nhỏ nhưng đa phần chúng ta đều làm đúng như vậy. Chúng tôi sẽ tìm hiểu khuynh hướng tâm lý tạo ra những điểm mù này và đề xuất những phương pháp loại bỏ chúng. Một ví dụ khác, lấy trường hợp của Bernard Madoff[12]. Trong suốt ba thập kỷ qua, kế hoạch Ponzi[13]của Madoff đã tạo ra những tổn thất to lớn: hơn 15000 yêu cầu bồi thường thiệt hại trị giá gần 300 triệu đô-la và 64,8 tỷ đô-la lợi nhuận bị xóa sổ. Madoff bán hầu hết các khoản đầu tư của mình thông qua trung chuyển vốn, trong khi các quỹ trung chuyển không làm gì khác hơn là chuyển càng nhiều tiền thu được sang Madoff. Những người trung gian thường kiếm được một khoản hậu hĩnh nhờ phần trăm trích từ những quỹ đã đầu tư cộng với 20% từ bất kì lợi nhuận đầu tư nào thu được. Vì vậy, cũng như Madoff tuyên bố về mức độ thành công của mình, các quỹ trung chuyển ngày càng giàu có. Rõ ràng Madoff là một kẻ lừa đảo và hành vi gian dối có mục đích của ông ta không liên quan đến chủ đề (hành vi thiếu đạo đức không chủ đích) của cuốn sách này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn bị thu hút bởi những hành vi gây hại của người khác trong câu chuyện - những người không có ý định làm tổn hại những nạn nhân ngẫu nhiên của Madoff. Nhiều nhà phân tích giờ đây đã kết luận rằng việc cải thiện tất cả thị trường như Madoff đã từng là không thể thống kê. Các nhà quản lý của các quỹ trung chuyển có biết rằng Madoff đang thực hiện kế hoạch Ponzi hay họ chỉ đơn giản không nhận ra rằng để việc làm của Madoff đạt được mức ban đầu và ổn định là điều không thể? Nhiều bằng chứng cho thấy nhiều quỹ trung chuyển có những dấu hiệu sai phạm nhưng nhà quản lý lại thiếu động lực để điều tra bằng chứng có sẵn. Ví dụ, Rene-Thierry Magon de la Villehuchet, một hậu duệ của giới quý tộc Châu Âu và là giám đốc điều hành của Access International Advisors và Marketers đã đầu tư tiền của mình, tiền của gia đình và tiền của các khách hàng châu Âu giàu có cho Madoff. Ông đã được cảnh báo nhiều lần về Madoff và nhận được nhiều bằng chứng cho thấy việc thu được lợi nhuận từ Madoff là không thể nhưng ông vẫn làm ngơ. Hai tuần sau Madoff đầu hàng chính quyền, để lại Villehuchet đã tự sát trong văn phòng của mình tại New York. Đây là ví dụ cuối cùng của dạng điểm mù tâm lý có ảnh hưởng đến chúng ta. Trong thí nghiệm có lẽ là nổi tiếng nhất về tâm lý học, Stanley Milgram đã chứng minh rằng con người có thể tham gia vào hành vi thiếu đạo đức để hoàn thành nghĩa vụ của mình với chính quyền. Mỗi người tham gia trong nghiên cứu của Milgram đóng vai trò là “giáo viên”, trong khi một người hợp tác nghiên cứu (đã được đào tạo bởi người thử nghiệm) đóng vai là “học trò”. Người học trò đóng vai một kế toán 47 tuổi. Giáo viên và học trò được cách ly, chẳng hạn giáo viên không thể nhìn thấy học trò. Giáo viên được nói rằng công việc của ông ta là điều chỉnh những cú sốc điện có cường độ tăng dần, dao động từ 15 vôn đến 450 vôn khi người học trò mắc sai lầm. Người học trò đã mắc sai sót trong công việc và người hợp tác cần điều chỉnh những cú sốc điện. Lên đến gần 150 vôn, những tiếng lẩm bẩm thỉnh thoảng phát ra từ phía bên kia bức tường nơi người học trò đứng (trên thực tế, người học trò không bị sốc điện, anh ta chỉ diễn như vậy). Đến 150 vôn, người học trò hét lên đau đớn và yêu cầu muốn dừng thí nghiệm lại. Nếu giáo viên từ chối tiếp tục thí nghiệm, người điều hành sẽ khăng khăng rằng phải tiến hành thí nghiệm đến phút cuối cùng. Từ 150 đến 300 vôn, giáo viên nghe người học trò cầu xin được thả ra và than phiền về tình trạng tim của mình. Ở 300 vôn, người học trò đập mạnh vào tường và yêu cầu được thả ra. Trên 300 vôn, người học trò đã hoàn toàn im lặng. Milgram đã khảo sát các nhà tâm thần học, nghiên cứu sinh, các giảng viên môn khoa học hành vi, sinh viên năm hai và những người thuộc tầng lớp trung lưu về kỳ vọng của họ trong việc những người tham gia nghiên cứu đóng vai trò là giáo viên sẽ phản ứng thế nào trong cuộc nghiên cứu. Những người trả lời khảo sát đã dự đoán rằng gần như tất cả giáo viên sẽ từ chối vượt quá mức 150 vôn và chỉ có một trong hàng nghìn người tham gia sẽ đi đến mức 450 vôn. Tuy nhiên, trong thí nghiệm thực tế, 65% số người đóng vai “giáo viên” đẩy cường độ dòng điện lên 450 vôn.[14] Những kết quả gây ấn tượng mạnh mẽ này cho thấy hành vi đạo đức thực tế của chúng ta khác biệt rõ ràng với mong đợi của chúng ta về hành vi của mình. Nhiều giáo thừa nhận rằng mặc dù họ thấy khó chịu và tức giận trong suốt quá trình nghiên cứu, họ vẫn báo cáo kết quả lên các chuyên gia của cuộc thử nghiệm. Nghiên cứu của Milgram được nhân rộng lên nhiều lần với hơn 1000 người tham gia. Mặc dù ngày nay thí nghiệm đầy đủ không được nhân rộng đã đưa đến những quy định nghiêm ngặt hơn rất nhiều về việc xử lý đối tượng thí nghiệm nhưng một bản sao gần đây cho thấy 70% những người tham gia nghiên cứu hiện thời vẫn sẵn sàng đẩy mức sốc điện lên tới 150 vôn.[15] Ngoài ra, vào năm 2010, các nhà sản xuất bộ phim tài liệu của Pháp đã mời mọi người tham gia một trò chơi thử nghiệm trên truyền hình có tên Trò chơi của cái chết – một chương trình giả tưởng. Không ai biết những người tham gia. Trước khi bắt đầu, 80 người tham gia ký kết hợp đồng đồng ý gây sốc điện lên các thí sinh khác. Với những camera ghi hình cùng sự khuyến khích của đám đông và người dẫn chương trình, 46 trong số 80 người tham gia đã gây ra những cú sốc điện nghiêm trọng đủ để một người đàn ông (thật ra là một diễn viên) trông như đã chết. Sau đó, một trong số những người tham gia thừa nhận rằng cô đã làm theo chỉ thị mặc dù ông bà của cô đã từng là nạn nhân của nạn tàn sát hàng loạt người Do Thái.[16] Một phân tích mới đây của Pat Werhane, Laura Hartman, Bud han Parmar và Dennis Moberg xem xét lại những thí nghiệm của Milgram đã sử dụng một thấu kính tương tự như cái chúng ta sử dụng trong cuốn sách này.[17] Thay vì tin rằng những người tham gia nghiên cứu đã đưa ra một quyết định có nguy cơ làm tổn hại đến người học viên chỉ vì tuân theo chỉ thị của người điều hành, nhóm nhiên cứu này lập luận rằng các giáo viên trong thí nghiệm có hệ thần kinh không bình thường. Quá tập trung làm theo các hưởng dẫn của người thử nghiệm, nhiều người tham gia nghiên cứu đã không nhận thức được đây là tình huống khó xử về mặt đạo đức. Nhằm giúp bạn khám phá ra những khoảng trống về đạo đức, chúng tôi sẽ đặt bạn vào các quy trình tâm lý tạo ra điểm mù. Quan trọng hơn, chúng tôi xác định những chiến lược hiệu quả giải thích cho các quá trình tâm lý – bao gồm những ảnh hưởng của sự thúc đẩy và học cách đánh giá cũng như rút ra bài học chính xác từ hành vi trước đó. Bằng việc loại bỏ các điểm mù thông thường, bạn có thể học cách làm những gì bạn nghĩ là đúng với sự suy xét cẩn thận hơn. Còn về tổ chức của bạn? Những ảnh hưởng của kẽ hở đạo đức đối với những tổ chức Vì những thảm họa tiềm tàng trên diện rộng, những kẽ hở đạo đức ở cấp độ cá nhân trở nên phức tạp hơn khi xem xét ở cấp độ tổ chức. Một ví dụ thuyết phục là vụ nổ năm 1986 của tàu con thoi Challenger sau khi nó được phóng ở mức nhiệt thấp nhất trong lịch sử.[18] Những phân tích postcrash trên phạm vi rộng ghi nhận vụ nổ xảy ra bởi vì một vòng đệm của một trong những tên lửa đẩy đã không được đóng kín ở nhiệt độ thấp. Ngày 27 tháng 1 năm 1986, đêm trước khi phóng tàu con thoi, các kỹ sư, quản lý của NASA và của nhà thầu sản xuất tàu con thoi Morton Thiokol đã gặp mặt để thảo luận về độ an toàn khi phóng tàu Challenger ở nhiệt độ thấp. Trong bảy trường hợp trên tổng số hai mươi bốn chương trình phóng tàu con thoi trước đây, vấn đề với vòng đệm đã được phát hiện. Giờ đây, dưới áp lực thời gian khắc nghiệt, các kỹ sư của Morton Thiokol đã khẩn trương cùng nhau lắp ráp con tàu. Họ đã khuyên cấp trên và nhân viên của NASA không được phóng tàu con thoi ở nhiệt độ thấp vì vòng đệm có vấn đề. “Nhân viên NASA đã phản đối khuyến cáo không được khởi động của chúng tôi.” Roger Boisjoly, một kỹ sư của Morton Thiokol đã tham gia cuộc họp kể lại.[19] Đáp lại thái độ phản ứng tiêu cực của NASA với lời kiến nghị không được phóng tàu, giám đốc của Morton Thiokol yêu cầu tổ chức một buổi họp kín. “Như [giám đốc NASA] Larry Mulloy đưa ra kết luận”, Boisjoly, giám đốc Morton Thiokol viết, “Joe Kilminster yêu cầu một cuộc họp kín 5 phút để đánh giá lại các dữ liệu và tổng giám đốc của chúng ta, Jerry Ma- son, nói với giọng nhẹ nhàng: “Chúng ta phải đưa ra quyết định khôn ngoan.” Trong phiên họp kín sau đó, “Không ai trong ban quản trị muốn bàn luận về sự thật”, Boisjoly nổi giận viết.[20] Theo ông, cấp trên chủ yếu tập trung vào việc làm hài lòng khách hàng, NASA vốn đã đặt Morton Thiokol vào tình thế phải chứng minh việc phóng tàu con thoi là không an toàn chứ không phải là đưa ra những lý do điển hình để không phóng tàu cho tới khi có bằng chứng rõ ràng về mức độ an toàn[21]“Các giám đốc đang nỗ lực để lập một danh sách dữ liệu để hỗ trợ quyết định vận hành”, Boisjoly viết, “nhưng không may cho họ, dữ liệu đã nghiêng về quyết định không vận hành.”[22] Chống lại sự phản đối từ các kỹ sư của mình, bốn quản lý thâm niên của Morton Thiokol hiện thời đã bỏ phiếu đề xuất vận hành. Họ đã đưa đề xuất cho NASA và nhanh chóng được chấp nhận. Có lẽ điểm đáng chú ý nhất của câu chuyện là dữ liệu mà các kỹ sư phân tích khi cố gắng xác định xem liệu nhiệt độ có liên quan đến lỗi vòng đệm hay không. Các kỹ sư của NASA và Morton Thiokol tranh cãi về vai trò của nhiệt độ dựa trên thực tế là tình trạng nhiệt độ thấp đã xảy ra nhiều lần trong bảy lần phóng khi có vấn đề về vòng đệm. Nhiều người trong số các kỹ sư của cả hai bên đều không thấy được dấu hiệu có thể quan sát rõ ràng nào liên quan đến vòng đệm. Đây là những kỹ sư giàu kinh nghiêm được đào tạo về phân tích một cách nghiêm ngặt. Họ đủ năng lực để tìm hiểu liệu nhiệt độ bên ngoài có liên quan đến việc hỏng động cơ hay không, họ nên kiểm tra mức nhiệt độ ở cả trường hợp an toàn và không an toàn. Tuy nhiên không ai ở NASA hay Morton Thiokol hỏi về nhiệt độ trong mười bảy lần phóng trước đó, những lần mà lỗi về vòng đệm không xảy ra. Một cuộc kiểm tra tất cả dữ liệu cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa nhiệt độ và lỗi vòng đệm cao su và rằng tàu Challenger có đến 99% khả năng sẽ thất bại. Nhưng vì các kỹ sư bị gượng ép trong suy nghĩ, họ chỉ nhìn vào các dữ liệu có sẵn và không hề chú ý tới mối liên quan này. Sự thất bại của các kỹ sư NASA và Morton Thiokol trong việc nhìn ra ngoài ranh giới dữ liệu trong phòng là một sai sót dẫn đến việc bảy phi hành gia phải mất mạng và gây cho chương trình không gian tổn thất nghiêm trọng. Việc những người đưa ra quyết định mắc sai lầm bởi hạn chế trong phân tích của họ - chỉ bó hẹp với các dữ liệu trong phòng hơn là yêu cầu dữ liệu nào sẽ giải đáp tốt nhất câu hỏi được đặt ra là khá phổ biến. Những người đưa ra quyết định đã mắc sai lầm phổ biến trong việc giới hạn đạo đức: tiến về phía trước quá nhanh với thông tin có sẵn hơn là ưu tiên đặt câu hỏi dữ liệu nào liên quan đến việc trả lời câu hỏi được đặt ra và cân nhắc xem liệu quyết định sẽ ảnh hưởng đến tình huống hoặc những người liên quan như thế nào. Khoảng trống đạo đức của một tổ chức không chỉ là tổng thể những khoảng trống đạo đức cá nhân của nhân viên. Làm việc theo nhóm hoặc theo liên minh các tổ chức tạo ra thêm những kẽ hở đạo đức. Tư duy tập thể - xu hướng để các nhóm liên kết tránh được một sự đánh giá thực tế về đạo đức thay vì hành động có lợi cho tập thể – có thể ngăn ngừa việc các nhóm đối mặt với những quyết định không chắc chắn như trường hợp quyết định phóng tàu Challenger của NASA.[23] Ngoài ra, ranh giới chức năng ngăn cản các cá nhân nhìn nhận vấn đề như một người có đạo đức. Các tổ chức thường phân đoạn các quyết định trong các nhóm cụ thể hoặc phân tán các khía cạnh khác nhau của một quyết định đến các bộ phận khác nhau trong tổ chức. Kết quả là tình trạng khó xử điển hình về đạo đức có xu hướng được nhìn nhận như một vấn đề về kỹ thuật, tiếp thị hoặc tài chính, ngay cả khi mối liên hệ đạo đức là hiển nhiên đối với các nhóm khác. Tổng giám đốc Morton Thiokol, Jerry Mason đã quyết định xem xét câu hỏi liệu khởi động tàu Challenger có là một “quyết định khôn khéo”. Quan điểm này cho phép ông ta và những người khác tại cuộc họp cuối cùng chuẩn bị cho việc phóng tàu và xem nhẹ các khía cạnh đạo đức của vấn đề như có thể bỏ qua việc mạng sống của con người bị đe dọa. Việc xem nhẹ này khiến nhân viên đưa ra các quyết định có vẻ vô hại không nhận ra quyết định của mình có ảnh hưởng tới người khác nhiều như thế nào. Chỉ khi ranh giới được loại bỏ, tầm quan trọng của đạo đức trong các quyết định mới trở nên rõ ràng. Trang bị hiểu biết về lý do tại sao có sự suy đồi đạo đức, nhân viên có thể khám phá những giá trị quyền lực có thể ảnh hưởng đến hành vi của bản thân và chẩn đoán hiệu quả những “hố” lương tâm trong tổ chức của họ. Còn về xã hội? Những hệ lụy của kẽ hở đạo đức đối với xã hội Quyết định chính sách có thể là tập hợp các quyết định quan trọng nhất của chúng ta trong xã hội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, những điểm mù có thể đóng vai trò chủ động, bất thường mà chính ta cũng không có nhận thức rõ ràng về chúng.[24] Ví dụ, xem xét trường hợp hiến nội tạng mà Max đã viết phỏng lại với các đồng nghiệp:[25] Bạn thích lựa chọn nào hơn? A. Nếu bạn chết trong một tai nạn, tim và những bộ phận khác của bạn sẽ được sử dụng để cứu những mạng sống khác. Ngoài ra, nếu bạn cần cấy ghép nội tạng thì sẽ có 90% cơ hội bạn nhận được nội tạng. B. Nếu bạn chết trong một tai nạn, bạn sẽ được chôn với tim và những bộ phận khác trên người bạn. Ngoài ra, nếu bạn cần cấy ghép nội tạng, bạn sẽ có 45% cơ hội nhận được nội tạng. Hầu hết chúng ta có phản xạ ưu tiên cho lựa chọn A. Đó là một lựa chọn tốt, bởi vì nếu hệ thống hiến tạng Mỹ có một lựa chọn tương tự như A thì có thể cứu đến 6000 mạng người mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ - gần gấp đôi số người thiệt mạng trong vụ tấn công 11/9. Tuy nhiên, Mỹ lại đi theo một chính sách hiến nội tạng giống lựa chọn B nhiều hơn. Tại sao lại như vậy? Ở Mỹ, nếu bạn chết trong một tai nạn và không đưa ra quyết định rõ ràng nào về thân thể của mình, bạn sẽ được chôn (hoặc hỏa táng) cùng với nội tạng còn nguyên vẹn. Con nếu bạn muốn hiến tạng, bạn cần chủ động chọn lựa tham gia một hệ thống tài trợ (điển hình khi bạn gia hạn giấy phép lái xe). Ngược lại, ở nhiều nước châu Âu, nếu bạn không có quyết định rõ ràng về việc hiến tạng, các bác sĩ có thể cắt bỏ các bộ phận còn dùng được để cấy ghép. Ở những quốc gia này, bạn cần chủ động không tham gia vào hệ thống nếu bạn muốn giữ lại nội tạng sau khi chết. Trong cả hai trường hợp, bạn đều có một lựa chọn, giả sử bạn suy nghĩ và chọn giải pháp cho phù hợp thì lựa chọn mặc định lại không giống nhau. Hệ thống lựa chọn tham gia cơ bản tạo ra lựa chọn B, trong khi hệ thống lựa chọn không tham gia cơ bản tạo ra lựa chọn A. Như hình vẽ số 2 cho thấy, lựa chọn mặc định dẫn tới những sự khác biệt to lớn và khủng khiếp trong tỉ lệ hiến tạng giữa các bang. Còn ở Mỹ? Tỉ lệ hiến tạng đạt 44%, một kết quả khá tốt cho một nước lựa chọn tham gia nhưng lại là một kết quả khủng khiếp so với những gì có thể đạt chỉ bằng một sự thay đổi đơn giản trong tâm trí. (Trong trường hợp bạn đang tự hỏi tại sao tỉ lệ cho phép hiến tạng của Thụy Điển thấp hơn so với các quốc gia không tham gia khác, đó là vì Thụy Điển đem lại cho những người thân còn sống của những người đã chết một cơ hội lớn hơn để từ chối hiến tạng). Hình 2: Tỉ lệ hiến tạng của các nước ở châu Âu. Thuộc bản quyền của E. J. Johnson và D. Goldstein (2003), “Do Defaults Save Lives?” (Tạm dịch: Sự vắng mặt của pháp luật có cứu được mạng sống hay không?). Tài liệu được công bố với sự cho phép của AAAS. Con số về mạng người có khả năng được cứu ở Mỹ - 6000 người mỗi năm – từ một thay đổi đơn giản trong luật pháp là một ví dụ sâu sắc về vai trò của xã hội trong việc tạo nên và duy trì các điểm mù. Trong khi có thể có những người sáng suốt, chân thực phản đối việc hiến tạng vì những lí do tôn giáo hoặc đạo đức, trọng tâm của chúng tôi là về số lượng lớn công dân và những nhà lãnh đạo sẽ ưu tiên lựa chọn A và họ cũng sẽ ủng hộ khi đất nước tiếp tục phải sử dụng đến lựa chọn B. Là một phần của xã hội, tất cả chúng ta muốn các cá nhân và tổ chức đại diện cho chúng ta cư xử một cách có đạo đức. Tuy nhiên những người đưa ra quyết định ảnh hưởng tới xã hội có xu hướng không nhận thức được những điểm mù ngăn cản họ làm điều đó. Hay xem xét một câu chuyện liên quan đến thẩm phán Antonin Scalia ở Tòa án tối cao. Vào tháng 3 năm 2004, Tổ chức Sierra đã đệ đơn yêu cầu Scalia không tham gia vào việc xét xử vụ Cheney v. U.S District Court với lí do Scalia đã đi săn vịt ở Louisiana với Phó Tổng thống vào tháng giêng năm 2004. Tòa án tối cao đang xét xử vụ án và buộc ông Cheney phải cung cấp thông tin về lực lượng năng lượng đặc nhiệm ông ta chỉ huy trong khi chính quyền Bush đang xây dựng chính sách về môi trường. Tổ chức Sierra đã đưa ra những bằng chứng rõ ràng rằng tình bạn giữa Scalia và Cheney có thể ảnh hưởng đến việc xét xử của Scalia. Nhưng Scalia từ chối đứng ngoài vụ việc; ông khẳng định rằng tình bạn của ông với Phó Tổng thống sẽ không bóp méo sự phán xét của mình và không vi phạm các quy định về xung đột lợi ích của Tòa án tối cao. “Nếu để người ta nghĩ rằng một thẩm phán của Tòa án tối cao có thể bị mua chuộc dễ dàng”, Scalia bình luận, “thì đất nước đang gặp rắc rối lớn hơn tôi tưởng tượng.”[26] Những bình luận của Scalia cho thấy ông từ chối hoặc không nhận thức được bằng chứng rõ ràng về các khía cạnh tâm lý của xung đột lợi ích. Thậm chí các khía cạnh này gây nhiều phiền toái hơn sự thiếu hiểu biết những quy định của Tòa án tối cao, thứ mà giống như hầu hết các nguyên tắc và luật lệ nhằm bảo vệ chống lại các xung đột lợi ích, phòng chống tham nhũng có chủ ý.[27] Tuy nhiên hầu hết các trường hợp tham nhũng và hành vi phi đạo đức nói chung là không có chủ ý - đó là một sản phẩm của giới hạn đạo đức và sự xem nhẹ khía cạnh đạo đức của vấn đề. Vì lý do này, những quy định của pháp luật về hành vi cố ý tham nhũng được sử dụng tương đối ít để bảo vệ xã hội. Giới hạn đạo đức: Những ảnh hưởng ở ba trình độ phân tích Những tác động từ sự thất bại trong việc xem xét các giới hạn đạo đức trở nên phức tạp khi chúng ta xem xét cả ba cấp độ - cá nhân, tổ chức và xã hội cùng một lúc. Hãy xem xét câu chuyện sau đây: Tưởng tượng rằng bạn 55 tuổi và vừa bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn đầu. Bạn tìm hiểu tất cả lựa chọn điều trị có sẵn, tham khảo ba bác sĩ xuất sắc trong các lĩnh vực khác nhau và nhanh chóng nhận ra rằng bạn đang phải đối mặt với quyết định quan trọng nhất của cuộc đời. Các bác sĩ phẫu thuật đề xuất bạn thực hiện phẫu thuật để loại bỏ khối u. Các chuyên gia X-quang cho rằng bạn nên tiêu trừ khối u bằng bức xạ. Bác sĩ vi lượng tin rằng bạn nên sử dụng thuốc và chờ đợi để xem căn bệnh ung thư tiến triển ra sao. Làm thế nào mà ba bác sĩ nổi tiếng lại giới thiệu những cách điều trị khác nhau như vậy? Trong hồi ký của mình, Swimming Across, Andy Grove, CỰU NHÂN VIÊN chủ tịch của Intel, đã miêu tả cách mình đối mặt với vấn đề này khi ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt vào năm 1995. Grove có các nguồn lực tài chính và các lợi thế khác để tìm cách chữa trị tốt nhất có thể. Ông bắt đầu cuộc họp với các bác sĩ hàng đầu đại diện cho một trong ba quy trình điều trị đã được khuyến cáo với mình. Mỗi bác sĩ đều khuyến cáo một cách mạnh mẽ rằng Grove nên sử dụng phương pháp điều trị mà họ đưa ra và họ sẽ cố gắng hết sức để thực hiện quy trình điều trị hoàn hảo.[28] Cốt lõi của vấn đề này là một tình trạng khó xử về đạo đức. Giả sử mỗi bác sĩ có khả năng nhìn nhận vấn đề về việc cho bệnh nhân lời khuyên về phương pháp điều trị tốt nhất có thể mà không xem xét vấn đề dưới góc nhìn đạo đức. Đồng thời, mỗi bác sĩ cũng thiên về ủng hộ kế hoạch điều trị dựa trên lĩnh vực chuyên môn của mình. Vấn đề nan giải không phải là các bác sĩ đang nói dối bệnh nhân để trục lợi cho mình. Rõ ràng, các bác sĩ có niềm tin mạnh mẽ về khuyến nghị của họ. Họ điều trị cùng một căn bệnh nhưng mỗi người lại tin rằng cách điều trị của mình tốt hơn và họ không nhận ra rằng niềm tin của họ mang tính tư lợi. Nói cách khác, họ không nhận ra rằng họ đang đối mặt với một tình huống khó xử về đạo đức: khuyến cáo cách điều trị của họ hoặc cách điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Họ không nhận ra rằng việc rèn luyện, sự ưu tiên và sở thích ngăn cản họ cung cấp những lời khuyên khách quan. Xung đột lợi ích đã thu hút được sự chú ý của cộng đồng y tế và ở Washington, Thượng nghị sĩ Charles Grassley đã lên án các trường y khoa và các tổ chức khác về việc không làm gì khác hơn để giải quyết trường hợp này. Theo hệ thống hiện nay, các bác sĩ có những động cơ về tài chính cá nhân ảnh hưởng đến việc kê đơn thuốc và đưa ra phương pháp điều trị chứ không phải vì quyền lợi tốt nhất của bệnh nhân. Tuy nhiên, những bác sĩ thông minh nhất, được đào tạo chuyên nghiệp nhất lại bối rối vì những lời chỉ trích họ vì họ tự tin về lương tâm nghề nghiệp của mình và “sự thật” là họ luôn luôn đặt quyền lợi của bệnh nhân lên đầu tiên. Bác sĩ, như những chuyên gia trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như thẩm phán Scalia, có xu hướng quan niệm xung đột lợi ích là một vấn đề tham nhũng cố ý. Nhưng những nghiên cứu đã làm rõ những khía cạnh nguy hại hơn của xung đột lợi ích: khi người ta nhìn thấy quyền lợi của mình trong một vấn đề nhất định nào đó, họ không còn khả năng khách quan. Hầu hết các bác sĩ, như hầu hết mọi người, bị ảnh hưởng bởi xung đột lợi ích nên đưa ra quyết định điều trị thành kiến không hề nhận thức về tính đạo đức trong quyết định của họ. Họ thật sự tin rằng họ đang đặt quyền lợi của bệnh nhân lên trên hết. Tại sao chúng ta, một xã hội lại tiếp tục chịu đựng xung đột lợi ích trong rất nhiều vấn đề liên quan đến sinh tử? Hầu hết mọi người muốn tìm một lời giải thích duy nhất cho một vấn đề xã hội nhất định, dù đó là tình trạng nghèo nàn, vô gia cư hay vấn đề mang thai ở tuổi vị thành niên. Giáo sư Ann McGill thuộc đại học Chicago đã minh họa sự thiên vị nhận thức này bằng ví dụ cực đoan về việc mọi người không bao giờ ngừng tranh cãi rằng tính cẩu thả của thiếu niên hay sự thiếu kiểm soát việc sinh đẻ mới dẫn đến việc có thai ở tuổi vị thành niên, trong khi câu trả lời rõ ràng là cả hai đều gây ra vấn đề. [29] Tương tự, không có lời giải thích duy nhất cho những tình huống khó xử về đạo đức, đúng hơn là những điểm mù tạo thành ở nhiều mức độ phân tích: cá nhân, tổ chức, và xã hội. Ở cấp độ cá nhân, như chúng tôi đã đề xuất, chúng ta là nạn nhân của các quá trình tâm lý thiên về quyết định của chúng ta và quan trọng hơn, chúng ta không biết chúng ta đang thiên vị. Ở cấp độ tổ chức, những nhà lãnh đạo kinh doanh thường không đánh giá cao vai trò của việc giới hạn đạo đức trong các quyết định của nhân viên. Hơn nữa, họ thường tin rằng sự liêm chính của nhân viên sẽ bảo vệ họ và tổ chức khỏi những vi phạm đạo đức. Tuy nhiên, nhiều sự vi phạm đạo đức bắt nguồn từ những phức tạp trong tâm lý con người hơn là từ sự liêm chính. Để đưa ra những hành động can thiệp sáng suốt, các nhà lãnh đạo cần xem xét cách thức mà môi trường hiện tại của họ có thể thúc đẩy hành động phi đạo đức trong tình thế người đưa ra quyết định không có nhận thức tỉnh táo. Ở cấp độ xã hội, khi các cá nhân và tổ chức không thể hoặc sẽ không giải quyết những vấn đề này, vấn đề sẽ được đệ trình lên chính phủ liên bang. Khi chính phủ không thể vật lộn với sự giới hạn đạo đức của cá nhân, tổ chức và các ngành kinh doanh, các giải pháp hiệu quả sẽ nằm ngoài tầm với. Giữa các ngành kinh doanh, những quá trình tâm lý dẫn đến việc xem nhẹ yếu tố đạo đức và giới hạn đạo đức phải được xem xét. Việc này đòi hỏi chúng ta đưa ra những thay đổi về giá trị mặc định của xã hội để làm nổi bật sự cân bằng giá trị mà chúng ta đang tạo ra và thu hút sự chú ý cho những vấn đề cần được quan tâm trong tương lai. Điều gì sắp tới Trong chương này, chúng tôi đã cố tình tránh đưa ra định nghĩa của thuật ngữ “đạo đức” hay phân biệt giữa đạo đức và đạo lý. Bạn có thể tìm thấy những định nghĩa và sự khác biệt như vậy ở những cuốn sách khác. Chúng tôi không khẳng định mình nắm giữ chìa khóa đến cội nguồn của đạo lý và chúng tôi cũng không có hứng thú trong việc thay đổi đạo đức của bạn để phù hợp với đạo đức của chúng tôi. [30] Thay vì trình bày những ý tưởng của chúng tôi về những gì tạo thành hành vi đạo lý hoặc đạo đức, chúng tôi quan tâm làm nổi bật các nguyên nhân khác nhau lý giải vì sao mọi người lại cư xử theo những cách có thể mâu thuẫn với giá trị cá nhân của họ. Chúng tôi cũng không có hứng thú với việc hạn chế lời khuyên của các bác sĩ hoặc các nhóm chuyên gia khác. Việc nhắc nhở những chuyên gia có tay nghề rằng những quyết định của họ nên dựa trên lợi ích tốt nhất của bệnh nhân, khách hàng và cử tri hơn là dựa trên những lợi ích về mặt tài chính là quá đơn giản. Mục đích chính của chúng tôi là là thuyết phục các cá nhân, bao gồm bác sĩ, giám đốc điều hành, kế toán, cố vấn viên, chính trị gia và tất cả công dân – rằng họ bị ảnh hưởng bởi những điểm mù ngăn cản họ đáp ứng những tiêu chuẩn đạo đức của mình. Đa phần các hành động của ta vẫn dựa trên nền tảng đạo đức nhất định. Vào những thời điểm khác, khi phải làm trái với lương tâm, chúng ta vẫn nhận ra. Cuốn sách này tập trung vào những trường hợp nguy hiểm hơn: những lần chúng ta vô tình cư xử thiếu đạo đức. Chương 2 sẽ kết nối quan điểm của chúng tôi với những lý thuyết hiện tại của tư tưởng đạo đức. Trong chương 3, chúng tôi sẽ cảnh báo bạn về sự giới hạn đạo đức và các giới hạn bên trong tâm trí con người đặt vào hành vi đạo đức. Trong chương 4, chúng tôi sẽ phơi bày các lắt léo về mặt tinh thần dẫn đến việc các giá trị đạo đức bị xem nhẹ. Ở chương 5, chúng tôi sẽ trình bày bằng chứng cho thấy những điểm mù về đạo đức không những ngăn cản chúng ta nhận ra những kẽ hở đạo đức của chính mình mà còn là những kẽ hở đạo đức của những người xung quanh. Trong chương 6 và 7, chúng tôi sẽ thảo luận về cách các tổ chức và chính phủ làm trầm trọng thêm hành vi phi đạo đức. Chúng tôi sẽ kết luận, trong chương 8, bằng cách đưa ra lời khuyên ở cấp độ cá nhân, tổ chức và xã hội về cách loại bỏ các điểm mù và những tình huống khó xử về đạo đức trong cuộc sống của bạn một cách rõ ràng hơn. __________________________________ Chú thích: [1] Sự sai lệch trong đánh giá có thể được gây ra bởi việc đánh giá quá cao đạo đức của bản thân và đánh giá thấp đạo đức của những người còn lại. Những bài viết dưới đây là những bằng chứng thuyết phục cho những ảnh hưởng có thể có khi tự đánh giá quá cao đạo đức: N. Epley and D. Dunning (2000) – “Feeling ‘Holier than thou’: Are Self-Serving Assess- ments Produced by Errors in Self- or Social Prediction? ” (Tạm dịch: Cảm thấy “Một người trên vạn người”: Sự tự đánh giá bản thân được tạo ra từ sai lầm của chính bản thân hay các dự báo xã hội?). [2] Trong giới truyền thông Mỹ, Wall Street tượng trưng cho những lợi ích của tầng lớp bình dân và chủ các doanh nghiệp nhỏ; Main Street tượng trưng cho những lợi ích của tầng lớp thượng lưu, chủ các tập đoàn lớn; Washington trong câu này tượng trưng cho chính trị, quyết định của chính phủ. (Biên tập chú thích) [3] B. Steverman and D. Bogoslaw (18/10/2008) “The Financial Crisis Blame Game” (Tạm dịch: “Khủng hoảng tài chính – lỗi của ai?”). [4] F. Dobbin and A. Kalev (2007), “The Architecture of Inclusion: Evi- dence from Corporate Diversity Programs” (Tạm dịch: Mô hình tổng hợp: Bằng chứng từ các dự án hợp tác trên mọi lĩnh vực). [5] http://www.aspencbe.org/documents/ExecutiveSummaryMBAS tudentA itudesReport2008.pdf. [6] C. D. Batson, J. L. Kobrynowicz, H. Dinnerstein, C. Kampf, và A. D. Wilson (1997), “In a Very Different Voice: Unmasking Moral Hypocrisy” (Tạm dịch: Một tiếng nói khác: Tháo bỏ Mặt nạ Đạo đức giả) . [7] P. Valdesolo and D. DeSteno (2007), “Moral Hypocrisy: Social Groups and the Flex- ibility of Virtue” (Tạm dịch: “Đạo đức giả: Nhóm xã hội và sự linh hoạt của đạo đức”). [8] F. Gino và L. Pierce (2009), “The Abundance Effect: Unethical Behav- ior in the Presence of Wealth” (Tạm dịch: Đa tác động: Hành vi thiếu đạo đức và sự giàu có); M. Schwei er, L. OrdÓnez, and B. Douma (2004), “Goal Se ing as a Motivator of Unethical Behavior” (Tạm dịch: Đặt ra mục tiêu là động lực thúc đẩy hành vi thiếu đạo đức). [9] Gino và Pierce 2009. [10] M. H. Bazerman và D. Chugh (2006), Bounded Awareness: Focus- ing Failures in Negotiation, in Negotiation Theory and Research, (Tạm dịch: Giới hạn nhận thức: Tập trung vào thất bại trong đàm phán, trích từ cuốn Lý thuyết và nghiên cứu đàm phán, L. L. Thompson biên tập). [11] P. Singer (2009), The Life You Can Save: Acting Now to End World Poverty (Tạm dịch: Cứu lấy sự sống: Hành động ngay bây giờ để chấm dứt đói nghèo). [12] Bernard Lawrence Madoff (sinh ngày 29 tháng 4, năm 1938) là một doanh nhân người Mỹ và là nguyên chủ tịch của sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ. Ông sáng lập hãng Bernard L. Madoff Investment Secu- rities LLC ở phố Wall vào năm 1960 và là chủ tịch hãng này đến ngày 11 tháng 12 năm 2008, khi ông bị bắt và bị buộc tội gian lận tài chính. (Chú thích của biên tập). [13] Trong tài chính doanh nghiệp, việc đi vay mới để trả nợ vay cũ gọi là tài chính Ponzi. Trong kinh tế học công cộng, mô hình Ponzi hay trò Ponzi, chỉ việc chính phủ vay tiền thông qua phát hành trái phiếu để có nguồn tài chính trả nợ gốc và lãi những khoản vay cũ cũng bằng phát hành trái phiếu. [14] S. Milgram (1963), “Behavioral Study of Obedience” (Tạm dịch: “Hành vi học: Nghiên cứu sự tuân thủ”). [15] J. M. Burger (2009), “Replicating Milgram: Would People Still Obey Today?” (Tạm dịch: Hồi sinh Milgram: Liệu ngày nay con người còn tuân thủ?”). [16] BBC World Service (13/7/2010), “Game of Death” (Tạm dịch: Trò chơi Tử thần) chương trình TV Sparks Controversy của Pháp. [17] P. Werhane, L. Hartman, B. Parmar và Dennis Moberg (sách chưa xuất bản), Social Construction, Mental Models and the Problem of Obedience. (Tạm dịch: Nền móng xã hội, các dạng tâm thần và vấn đề của việc tuân thủ) [18] Cuộc gặp D. Vaughn (1996), Vụ phóng tàu con thoi Challenger: Công nghệ, văn hóa và sự lệch lạc nguy hiểm tại NASA (Chicago: Chicago Press University), người đã phân tích tổng thể thảm họa này một cách xuất sắc. [19] Roger M. Boisjoly (15/5/2006), Telecon Meeting (Quyết định có đạo đức—Morton Thiokol và tàu con thoi Challenger). [20] Boisjoly 2006. [21] Boisjoly 2006. [22] Boisjoly 2006. [23] Irving Janis (1972), Victims of Groupthink: A Psychological Study of Foreign-Policy Decisions and Fiascoes (Tạm dịch: “Nạn nhân của suy nghĩ tập thể: Tâm lý học trong nghiên cứu quyết định và thất bại của Chính sách nước ngoài”). [24] Có những trường hợp chắc chắn những luật lệ về đạo đức sẽ dẫn tới những quyết định tốt. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào những bất lợi tiềm tàng trong các luật lệ này. [25] M. H. Bazerman, J. Baron, và K. Shonk (2001), You Can’t Enlarge the Pie: Six Barriers to Effective Government (Tạm dịch: “Bạn không thể làm chiếc bánh quyền lợi nở ra: Sáu rào chắn cho một Chính phủ có hiệu quả”). [26] M. Janofsky (19/3/2004), “Scalia Refusing to Take Himself Off Cheney Case” (Tạm dịch: Scalia từ chối rút khỏi vụ Cheney). [27] M. R. Banaji (2004), “The Opposite of a Great Truth Is Also True: Hom- age of Koan #7” in Perspectivism in Social Psychology(Tạm dịch: Mặt đối lập của Sự thật tuyệt đối cũng đúng: “Lòng tôn kính của Koan #7” trong đánh giá Tâm lý xã hội: Hai mặt âm dương của khoa học). [28] A. S. Grove (2002), Hồi ký – “Swimming Across”. [29] A. L. McGill (1989), “Context Effects in Judgments of Causation” (Tạm dịch: “Nội dung sự ảnh hưởng trong phán xét nguyên nhân”). [30] J. Greene (2011), The Moral Brain and How to Use It (Tạm dịch: “Trí óc đạo đức và cách sử dụng”). Chương 2 VÌ SAO NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG KHÔNG CÒN HỮU DỤNG? Hãy tưởng tượng bạn đang đứng trên một cây cầu vượt dành cho người đi bộ bắc qua một đường xe điện (xem hình 3). Bạn nhìn thấy một chiếc xe điện đang chạy tới và có thể đụng phải năm người đi bộ đứng trên đường ray. Đứng cạnh bạn trên chiếc cầu nằm giữa chiếc xe điện đang lao tới và năm người đó là một công nhân đường sắt đeo một chiếc ba lô lớn. Bạn nhanh chóng nhận ra cách duy nhất để cứu năm người kia là đẩy người công nhân bên cạnh rơi xuống đường ray xe điện bên dưới. Người đàn ông này sẽ chết nhưng thân thể của anh ta sẽ ngăn được chiếc xe điện đâm vào năm người kia. (Ngay lúc đó, bạn cũng hiểu rằng bạn không thể tự nhảy xuống vì bạn không mang đủ khối lượng nặng để chặn chiếc xe điện mà lại không có thời gian để cởi chiếc ba lô của người công nhân rồi tự đeo cho mình.) Bỏ qua những vấn đề về mặt pháp lý, bạn có cho rằng hành động này là có lương tâm khi cứu năm người bằng cách đẩy một người lạ đến chỗ chết? Hình 3: Song đề cầu vượt Chúng tôi vừa miêu tả một hiện tượng tâm lý rất nổi tiếng có tên là “Song đề cầu vượt”.[31] Tình huống này thường được dùng để nhấn mạnh hai cách tiếp cận đối lập nhau về mặt nguyên tắc khi đưa ra những quyết định đạo đức: cách tiếp cận hướng đến kết quả và cách tiếp cận hướng đến đạo đức. Cách tiếp cận hướng đến kết quả xác định tính đạo đức của một hành động dựa trên những kết quả sinh ra từ hành động đó. Thuyết vị lợi, một thể phổ biến của thuyết hệ quả thường được miêu tả bằng cụm từ “làm những gì tốt nhất cho một số lượng người lớn nhất”. Một trường phái đạo đức khác mà Immanuel Kant gọi là cách tiếp cận đạo đức lại đánh giá tính đạo đức của hành động dựa trên sự gắn liền của hành động với luật lệ và trách nhiệm. [32] Kant cho rằng muốn đánh giá một hành động là đúng hay sai phải dựa trên việc xem xét các quyền và nghĩa vụ trong xã hội. Theo quan điểm của Kant, hành động đẩy một người xuống cầu là vi phạm quyền của anh ta và vì thế là không đạo đức. Quả thật, khi đọc tình huống cầu vượt, hầu hết mọi người đều không tin rằng, xét về mặt đạo đức, ta có thể chấp nhận hành động đẩy người công nhân đường sắt khỏi cây cầu để cứu năm mạng người. Bằng cách tiếp cận hướng đến đạo đức, họ sẽ tự vấn liệu mình có quyền đẩy ai đó khỏi cây cầu hay không. Nếu bạn hỏi tại sao họ lại phản đối việc đẩy người công nhân khỏi cây cầu, những câu trả lời phổ biến sẽ là “Đó là giết người!”, “Kết quả không quyết định cách thức” hoặc “Mọi người đều bình đẳng!”[33]. Ngược lại, cách tiếp cận vị lợi sẽ tính đến chi phí và lợi ích của mỗi hành động và sẽ chọn phương án tối ưu nhất giữa chi phí và lợi ích cho tất cả các bên liên quan – trong trường hợp này là cứu năm người bằng cách hy sinh một người. Hãy cùng nhìn lại vấn đề được nhắc tới trước trong song đề cầu vượt, còn đây là là “song đề xe điện”: Một chiếc xe điện đang chạy về phía năm công nhân đường sắt và họ sẽ chết nếu nó tiếp tục hành trình của mình (xem hình 4). Cách duy nhất để cứu những người này là bẻ ghi tàu[34] để chiếc xe chuyển hướng sang đường ray phụ, nó vẫn sẽ chạy tiếp và khi đó chỉ làm một công nhân thiệt mạng thay vì năm người. Bỏ qua những vấn đề pháp lý, xét về mặt đạo đức, liệu ta có thể chấp nhận việc chuyển hướng xe điện bằng cách bẻ ghi tàu nhằm cứu năm người thay vì một người?[35] Hình 4: Song đề xe điện Khi xem xét song đề xe điện, hầu hết mọi người (chưa biết đến song đề cầu vượt) cho rằng về mặt đạo đức, có thể chấp nhận việc bẻ ghi tàu. Nếu bạn hỏi nguyên do, lý giải của họ có xu hướng tập trung vào niềm tin rằng năm người chết sẽ tệ hơn việc một người chết. [36] Đây là suy nghĩ vị lợi nguyên thủy vì nó tập trung vào kết quả của hành động. Khi được tiếp xúc với cả hai vấn đề này, một số người sẽ trăn trở vì sự không thống nhất gây tranh cãi (arguable inconsistency) của quyết định có gạt cần để chuyển hướng xe điện (trong song đề xe điện) đối lập với quyết định không đẩy người đàn ông khỏi chiếc cầu (trong song đề cầu vượt). Những người trăn trở với sự không kiên định này có khuynh hướng đưa ra quyết định cảm tính trong trường hợp chiếc cầu vượt; sau đó trường hợp xe điện lại dẫn họ đến những quyết định tốt hơn phù hợp với những lý do vị lợi. Khi hai câu chuyện này được đưa ra minh họa, chúng ta đôi khi sử dụng các quy tắc triết học đã được nhắc đến trước đó để đưa ra phán đoán. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng linh hoạt khi áp dụng những nguyên tắc này và chúng ta đôi khi sẽ làm khác đi những gì mình định làm nếu có thêm thời gian để suy nghĩ về câu hỏi này. Chúng tôi không có một nguyên tắc bất di bất dịch nào cho việc bạn là một người theo thuyết vị lợi hay là một nhà đạo đức hoặc việc bạn quyết định trở thành người này hay người kia sau khi đọc xong quyển sách này. Bạn hoàn toàn được tự do quyết định với ý kiến của riêng mình về việc nên làm gì trong trường hợp xe điện và cây cầu vượt. Mục đích của chúng tôi chỉ đơn giản là cảnh tỉnh người đọc về những sự không kiên định có thể có trong quyết định và hành động của họ và cụ thể là trong khoảng cách tồn tại giữa hành vi và quan niệm về hành động của họ, khoảng cách mà những cách tiếp cận đạo đức truyền thống có xu hướng bỏ qua. Các nhà đạo đức học có thể cải thiện đạo đức của chúng ta? Sau sự sụp đổ của tập đoàn Enron (một tập đoàn năng lượng hùng mạnh nhất nước Mỹ vì chính sách hoạt động nội bộ sai lầm dẫn đến phá sản) và các tổ chức khác cùng thời, nhiều trường học và tổ chức nghề nghiệp đã được mời tham dự nhiều cuộc họp nhằm nhìn nhận nghiêm túc hơn về các vấn đề đạo đức. Trong bối cảnh xã hội ngày càng yêu cầu nhiều hành động có đạo đức hơn từ các tổ chức, chúng ta nên nghiên cứu xem các phân tích đạo đức truyền thống còn có thể cung cấp các giải pháp hứa hẹn hay không. Bước đầu tiên là tìm hiểu ý kiến của các nhà đạo đức học về vấn đề này. Xét về mặt triết học, vấn đề “đạo đức” từ xưa đến nay được nghiên cứu trên góc nhìn nguyên tắc chuẩn mực. Đây là cách tiếp cận nghiên cứu về những cách thức xác định tính đúng đắn về mặt đạo đức của một hành động, tập trung vào câu hỏi “Con người nên cư xử như thế nào?” Ví dụ trong trường hợp song đề cầu vượt, các nhà triết học tìm hiểu xem cách tiếp cận đạo đức hay vị lợi là thích đáng hơn. Các nhà triết học đương đại cho rằng những suy nghĩ mang tính triết học là trung tâm của việc giáo dục đạo đức sẽ giúp chúng ta trở thành những công dân tốt hơn và sẽ cho chúng ta sự can đảm cần thiết để đứng lên bảo vệ công lý.[37] Nhưng thẩm phán Richard Posner, đồng thời là một học giả nghiên cứu pháp luật lại cho rằng không có bằng chứng thực tiễn nào tồn tại để chứng minh cho những lập luận này.[38] Thật ra, tự bản thân các nhà đạo đức cũng chỉ cung cấp những mô hình thử nghiệm hoàn hảo để kiểm tra xem cách thức đào tạo truyền thống mang tính chuẩn tắc về đạo đức liệu có giúp tăng tính đạo đức trong hành vi ứng xử hay không. Ý kiến này do Eric Schwi gebel, một giáo sư triết học tại đại học California ở Riverside ghi nhận. Vì các nhà đạo đức học đã cống hiến sự nghiệp cả đời của họ vào việc nghiên cứu và giảng dạy về đạo đức nên chúng ta có thể hy vọng rằng các nhà đạo đức học sẽ hành xử đạo đức hơn chúng ta.[39] Tuy nhiên trong nghiên cứu của mình, Schwi gebel đã chỉ ra rằng nếu đạo đức đồng nghĩa với “không ăn cắp” thì chính các nhà đạo đức học lại không ghi được nhiều điểm lắm, ít nhất là qua một số phương pháp kiểm tra cụ thể. Khảo sát 31 thư viện khoa học hàng đầu tại Mỹ và Anh, Schwi gebel đã so sánh số lượng sách viết về đạo đức bị lấy mất với số lượng những quyển sách khác không viết về đạo đức ra đời cùng thời điểm và cùng độ phổ biến như nhau. Ông thấy rằng sách đạo đức có xu hướng bị mất nhiều hơn là các loại sách khác. Kế đến, ông nghiên cứu số lượng những quyển sách triết học khá ít người biết đến mà thường chỉ có những sinh viên học chuyên sâu và giáo sư mượn. Trong số này, ông chứng minh rằng sách đạo đức sẽ có khả năng bị mất nhiều hơn 50% đến 150% so với các sách khác. Schwi gebel cũng đã thực hiện một nghiên cứu tương tự về việc các nhà đạo đức thường có xu hướng can dự vào các hành vi tiền xã hội (prosocial) còn tranh cãi, như vấn đề bỏ phiếu và không ăn thịt. So sánh các nhà đạo đức triết học với các nhà triết học và những giáo sư trong các lĩnh vực khác, ông tìm ra rằng trong khi các nhà đạo đức có khuynh hướng lên án việc ăn thịt nhiều hơn những nhà triết học không nghiên cứu về đạo đức và các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác, thì bản thân họ lại không có vẻ gì là ăn thịt ít hơn những người này. Tìm hiểu những trường hợp khác, nhà nghiên cứu tìm thấy rất ít chứng cứ ủng hộ cho quan niệm rằng việc giáo dục đạo đức theo cách truyền thống sẽ tạo nên nhiều công dân đạo đức hơn.[40] Schwi gebel kết luận rằng nghiên cứu của ông đã giảm bớt sự phổ biến của quan niệm cho rằng tham gia vào những khóa học đạo đức sẽ cải thiện hành vi đạo đức trong tương lai của người học.[41] Thậm chí các nhà triết học lão luyện cũng có vẻ chia ra theo hành vi đạo đức của các nhà đạo đức học. Một cuộc bình chọn của các nhà triết học tại một cuộc họp tại Hiệp hội triết học Mỹ vào tháng 4 năm 2007 đã chỉ ra rằng rất ít người (đặc biệt là các nhà đạo đức học) thể hiện quan điểm rằng theo mặt bằng chung thì các nhà đạo đức học hành xử đạo đức hơn những người khác có cùng nền tảng xã hội, còn phần lớn những người được khảo sát đều cho rằng các nhà đạo đức học không hành xử tốt hơn những nhà triết học không nghiên cứu về đạo đức.[42] Bạn có thấy ngạc nhiên không? Có thể bạn không ngạc nhiên nếu bạn nghĩ về trọng tâm và quan niệm đằng sau cách tiếp cận của triết học đối với vấn đề đạo đức. Các nhà đạo đức học theo nguyên tắc truyền thống đã tập trung vào việc tìm hiểu cách mà chúng ta nên hành xử và đã có những bước tiến đáng kể trong việc trả lời những câu hỏi kiểu này. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu thực tế đem lại kết quả về vấn đề khác biệt giữa cách mà con người thật sự hành xử và cách mà các hành vi đạo đức của họ có thể được cải thiện – kiến thức cần được hiểu và cải thiện không chỉ là việc các nhà triết học hành xử như thế nào mà còn là việc các khủng hoảng kinh tế và đạo đức trong thập niên qua đã xảy ra như thế nào. Chúng ta sẽ thảo luận trong cuốn sách này về sự khác biệt giữa cách mà chúng ta suy nghĩ mình nên hành xử với cách mà chúng ta muốn hành xử. Chúng ta có thể phán đoán là mình sẽ hành xử một cách nhất quán với những mong muốn tự đặt ra cho mình. Nhưng vào những thời điểm phải ra quyết định, chúng ta thường hành xử theo cách mà mình muốn. Giới hạn của cách tiếp cận đạo đức truyền thống Một rào cản khác khiến các học giả về đạo đức học gặp khó khăn trong việc nghiên cứu đầy đủ các vấn đề về đạo đức liên quan đến việc họ đặt những khuynh hướng đạo đức của những người ra quyết định vào vai trò trung tâm. Hầu hết các cách tiếp cận đạo đức đều giả định rằng con người nhận thức một tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức vì bản chất của nó và đáp trả nó một cách chủ ý. Trái lại, những nghiên cứu về đạo đức có điều kiện (đạo đức giới hạn) nghiên cứu những hành vi trái đạo đức xảy ra một cách không chủ ý. Hãy suy xét mô hình miêu tả ảnh hưởng của J. R. Rest về việc ra quyết định đạo đức. Rest cho rằng các cá nhân đối mặt với các quyết định mang tính đạo đức phải trải qua bốn giai đoạn sau đây:[43] Nhận thức về đạo đức ⇨ Phán đoán đạo đức ⇨ Khuynh hướng/ chủ ý đạo đức ⇨ Hành động đạo đức Nhận thức, phán đoán, chủ ý và hành động đạo đức hiển nhiên là những yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định đạo đức. Tuy nhiên mô hình này chưa hoàn chỉnh và có thể đang đi sai hướng. Mô hình này cho rằng (1) nhận thức là cần thiết cho một quyết định có đạo đức, (2) lập luận của một cá nhân quyết định sự phán đoán và (3) khuynh hướng đạo đức là yếu tố cần có để hiểu được hành động đạo đức của một người. Mỗi một giả định này, vốn tiềm ẩn trong các cách tiếp cận đạo đức truyền thống và nhiều chương trình đào tạo đạo đức, đã bỏ qua các bằng chứng ngược lại. Bằng cách này, mô hình này hướng sự chú ý của chúng ta khỏi những yếu tố then chốt của việc ra quyết định và phán đoán dẫn đến những hành vi phi đạo đức. Như chúng tôi sẽ giải thích trong những phần sau, những người dạy chúng ta cách cư xử đạo đức hơn đã bỏ qua rất nhiều trường hợp mà chúng ta thật sự tìm thấy chính mình trong đó, bao gồm cả những trường hợp mà chúng ta thiếu nhận thức đạo đức, phán đoán trước khi lập luận và phán đoán sai các chủ ý đạo đức. Khi chúng ta thiếu nhận thức đạo đức Hãy tưởng tượng nghề nghiệp chính của bạn là bán hàng. Tất cả thu nhập của bạn phụ thuộc vào việc bạn bán được bao nhiêu. Bạn đã đưa ra những định mức bán hàng tham vọng và bạn tập trung vào cách thức để đạt được những mục tiêu này. Cuối năm, bạn hoàn thành chỉ tiêu và được công ty thưởng lớn. Viễn cảnh này miêu tả trường hợp mà hàng triệu người làm việc cho các tổ chức trên toàn thế giới đang đối mặt mỗi ngày. Xét hình thức, trường hợp này hoàn toàn có thể chấp nhận được. Bây giờ hãy thêm vào vài chi tiết. Vào năm 2006, người bán hàng là một nhân viên cho vay nợ xấu và chỉ tiêu của anh ta buộc anh ta phải cho các nhà đầu tư vay tiền – vốn phụ thuộc vào khả năng chi trả của họ. Hoặc tưởng tượng rằng người bán hàng làm việc cho Enron năm 1999, bán một ý tưởng mới của hãng này; hoặc bán các công ty hình thức – một cách để che giấu các khoản nợ - cho các nhà đầu tư cổ phần tư nhân như JPMorgan Chase, Citigroup, Credit Suisse First Boston và Wachovia. Trong khi một số người bán hàng ở những công ty này có thể nhận thức được hệ quả về mặt đạo đức trong những quyết định của mình thì rất nhiều người khác có thể không nhận thức được. Họ có thể chỉ xem đó như là “các quyết định làm ăn” và tin tưởng rằng họ đang làm theo những thông lệ được chấp nhận để đạt được mục tiêu kinh doanh cuối cùng. Hoặc có thể họ sẽ xem đó như là những quyết định pháp lý và sẽ chỉ đơn thuần tự hỏi rằng những chiến lược kinh doanh họ đang theo đuổi có đúng pháp luật hay không. Tuy nhiên, có vẻ như hầu hết đều không xem đó là những quyết định mang tính đạo đức. Đào tạo đạo đức kinh doanh có xu hướng phần lớn dựa vào cách tiếp cận đạo đức được miêu tả ở trên: đó là nhấn mạnh vào các yếu tố đạo đức của các quyết định với mục tiêu khuyến khích nhân viên chọn những con đường đạo đức. Nhưng giả định thông thường mà quá trình đào tạo này dựa trên là việc nhân viên sẽ chọn lựa đánh đổi giữa hành xử đạo đức và kiếm lợi nhuận về cho công ty của mình quá hẹp. Nó đã bỏ qua sự thật rằng những người ra quyết định thường không nhìn thấy “đạo đức” trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan về đạo đức có sẵn. Trong nhiều trường hợp, người ra quyết định không nhận ra nhu cầu cần thiết phải áp dụng kiểu phán xét đạo đức mà họ đã học trong các khóa huấn luyện đạo đức vào việc đưa ra quyết định của mình. Như chúng tôi đã miêu tả trong chương 1, tâm trí của chúng ta thường hướng đến đạo đức có điều kiện hay những giới hạn nhận thức có thể khiến chúng ta không ý thức được những khía cạnh đạo đức trong những quyết định của mình. Thế giới bên ngoài cũng giới hạn khả năng chúng ta nhìn thấy những khía cạnh đạo đức trong những quyết định cụ thể. Ví dụ, xét về những khía cạnh của công việc hàng ngày bao gồm các mục tiêu, lương thưởng, các hệ thống đánh giá mức độ tuân thủ (compliance systems) và những áp lực hiện hữu có thể góp phần làm suy thoái đạo đức, một quá trình mà các khía cạnh đạo đức bị loại trừ ra khỏi một quyết định.[44] Ann và đồng sự của cô ấy, Dave Messick từng cho rằng những đặc điểm phổ biến của các công ty có thể khiến chúng ta mù quáng trước những dấu hiệu đạo đức của một quyết định, ví dụ hướng chúng ta tới việc phân loại quyết định của mình là một “quyết định kinh doanh” hơn là một “quyết định đạo đức” và vì thế càng làm tăng khả năng chúng ta cư xử thiếu đạo đức. Hoạt động thực tiễn của các tổ chức góp phần vào việc làm suy giảm đạo đức có thể tinh tế (subtle) như những khác biệt trong ngôn ngữ dùng để diễn tả quyết định. Một trường hợp thực tế là Albert Speer, một trong những bộ trưởng và cố vấn tin cậy nhất của Adolf Hitler. Sau chiến tranh, Speer thừa nhận rằng bằng cách tự cho mình là “người điều hành” kế hoạch của Hitler, ông ta đã tự thuyết phục bản thân mình rằng những vấn đề liên quan đến con người không phải là công việc của mình nữa.[45]“Cái mác” này cho phép Speer phân loại lại những quyết định đạo đức thành những quyết định công việc và như thế các khía cạnh đạo đức dần bị xem nhẹ trong các quyết định. Tại sao việc phân loại quyết định của chúng ta lại quan trọng? Vì việc phân loại thường ảnh hưởng đến những quyết định đi kèm đó. Khi chúng ta không phân loại một quyết định là đạo đức, dù là do giới hạn nhận thức của mình hay vì những yếu tố tác động bên ngoài gây ra việc suy giảm đạo đức, thất bại này cũng có thể ảnh hưởng rất lớn đến việc chúng ta phân tích quyết định của mình ra sao và hướng mình về cách hành xử không đạo đức, không có dự tính. Khi chúng ta hành động trước khi cân nhắc Hãy suy xét hai câu chuyện sau: • Một phụ nữ đang dọn dẹp tủ quần áo của mình và tìm thấy lá cờ Mỹ cũ. Cô ấy không còn cần lá cờ đó nữa, vì thế cô ấy cắt ra thành từng mảnh và dùng các mảnh vải đó lau dọn nhà tắm. • Con chó của một gia đình bị xe ô tô đụng chết trước cửa nhà. Gia đình này nghe nói thịt chó ăn rất ngon, vì thế họ xẻ thịt con chó để nấu bữa tối. Khi nhà tâm lý học Jonathan Haidt và các đồng nghiệp của anh ta trình bày hai câu chuyện này cho các học viên, hầu hết họ đều ngay lập tức chỉ trích hành vi được miêu tả là sai trái, mặc dù họ không thể giải thích lý lẽ ngay lập tức về ý kiến của mình.[46] Thay vào đó, họ trả lời bằng những câu kiểu như “Tôi không biết, tôi không giải thích được, chỉ là tôi biết như vậy”.[47] Các nhà tâm lý học trực giác như Haidt cho rằng những phản ứng cảm tính như vậy thường đến trước các phán đoán đạo đức. Nói cách khác, các lập luận về đạo đức không ảnh hưởng đến những phán đoán đạo đức. Thay vào đó, nó lại xảy ra ngược lại: phán đoán đạo đức ảnh hưởng các lập luận đạo đức. Theo cách suy nghĩ này, những phản ứng cảm tính xuất hiện tức thời thường lái sự phán đoán của chúng ta và chúng ta đưa vào các lập luận đạo đức thận trọng để bào chữa cho phản ứng đầu tiên đó.[48] Những quá trình cảm tính này làm phát sinh những quyết định ban đầu của chúng ta về các vấn đề đạo đức, ví dụ như việc dùng lá cờ và ăn thịt chó. Đối lập trực tiếp với mô hình của Rest về việc đưa ra các quyết định đạo đức, chỉ sau khi đưa ra các quyết định thì chúng ta mới nghĩ đến lý do để giải thích chúng. Ảnh hưởng mạnh mẽ của các phản ứng cảm tính đến các phán đoán đạo đức được củng cố bởi các nghiên cứu cho thấy các cá nhân có các tổn thương thần kinh ở các vùng não quy định về cảm xúc sẽ bị giảm khả năng đưa ra các phán đoán và hành vi đạo đức.[49] Những phát hiện này đã đưa ra những nghi ngờ về quan niệm rằng các phán đoán luôn đi trước hành động, một tiền đề đã thống trị các cách tiếp cận đạo đức truyền thống. Khi chúng ta phán đoán sai các ý định đạo đức Các cách tiếp cận triết học truyền thống về đạo đức, đặc biệt là những séc-măng (phân khúc) của đạo nghĩa học (deontological ethics) thường đặt khuynh hướng đạo đức vào vị trí trung tâm của sự xem xét trong các phán đoán của hành vi phi đạo đức. Đó là, khi phán đoán đạo đức của một con người, những cách tiếp cận này xem xét liệu người đó có ý định cư xử một cách đạo đức hay không. Nhưng cũng cần xem xét rằng những phán đoán này có thể dựa trên những yếu tố sai lầm như phán đoán được minh họa trong ví dụ sau của giáo sư triết học Đại học Yale tên là Joshua Knobe:[50] Chủ tịch một công ty đã quyết định có nên thông qua một chương trình mới hay không. Chương trình này có thể giúp tăng lợi nhuận đồng thời cũng thân thiện với môi trường. “Tôi không quan tâm gì đến việc thân thiện với môi trường”, chủ tịch nói. “Tôi chỉ muốn tối đa hóa lợi nhuận hết mức có thể. Hãy khởi động chương trình mới.” Trong trường hợp này, bạn có cho rằng ông chủ tịch có ý định bảo vệ môi trường hay không? Bây giờ hãy xem xét một phiên bản khác của tình huống này. Vị chủ tịch đã quyết định thông qua một chương trình mới. Chương trình này sẽ giúp tăng lợi nhuận nhưng sẽ có tác động xấu đến môi trường. “Tôi không quan tâm gì đến việc thân thiện với môi trường”, chủ tịch nói.“Tôi chỉ muốn tối đa hóa lợi nhuận hết mức có thể. Hãy khởi động chương trình mới.” Bạn có cho rằng vị chủ tịch muốn làm hại môi trường không? Dù sự thật là, trong cả hai trường hợp, mục đích duy nhất của vị chủ tịch là kiếm tiền nhưng đánh giá của mọi người về mục đích của vị chủ tịch có vẻ như còn phụ thuộc vào “hiệu ứng phụ” trong quyết định của ông ta. Sau khi nghiên cứu phản ứng của những người được khảo sát về trường hợp đầu tiên, nói rằng chương trình mới sẽ giúp cải thiện môi trường, chỉ có 23% cho rằng vị chủ tịch có ý định giúp đỡ môi trường. Trái lại, sau khi những người được khảo sát đọc trường hợp thứ 2, 82% tin rằng vị chủ tịch có ý muốn gây hại cho môi trường, mặc dù vị chủ tịch đều thể hiện ý định y hệt nhau trong cả hai trường hợp. Sự không nhất quán này được điều khiển bởi các yếu tố không liên quan đến mục đích của người ra quyết định. Như vậy, xuất hiện các nghi ngờ về các phương pháp tiếp cận yếu tố mục đích của đạo đức so với hành vi phi đạo đức. Đúng là sự chủ ý có thể lái các phản hồi theo hướng hành vi đạo đức nhưng không phải đúng cho mọi trường hợp và mọi quyết định. Ann và đồng nghiệp của cô ấy, Kristin Smith-Crowe đã cho rằng: “người ‘tốt’ và ‘xấu’ đưa ra các quyết định ‘tốt’ và ‘xấu’” vì thế có thể xác định và hiểu được các quyết định đạo đức có chủ ý và không có chủ ý là rất quan trọng. Các cách tiếp cận truyền thống đã bỏ qua vế sau. Các biến số mà mô hình các quyết định đạo đức của Rest đã tóm tắt được là rất quan trọng. Nhưng một số yếu tố của mô hình này – nhận thức đạo đức, một thứ tự tập hợp các giai đoạn và sự chủ ý (có mục đích) vẫn chưa làm rõ được các yếu tố then chốt dẫn đến các hành vi phi đạo đức trong hoạt động của các tổ chức. Bằng cách bỏ qua các quyết định đạo đức xảy ra mà không có nhận thức đạo đức, mô hình này đã bỏ qua không xem xét đến một phần đáng kể các quyết định phi đạo đức và những lý do đằng sau chúng. Một nhánh của trường phái triết học mới nghiên cứu về hành vi thực tế được gọi là triết học thực nghiệm đã trả lời cho một số quan điểm phê phán của chúng tôi. Những kẻ nổi loạn (rebels) triết học, với hy vọng làm rõ hơn những vấn đề triết học truyền thống đã tiến hành các thí nghiệm nhằm thu thập thông tin về các phán xét/ phán quyết mà con người thật sự thực hiện khi đối mặt với các tình thế khó xử về đạo đức.[51] Hình thức nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ cung cấp những thông tin giá trị về cách con người hành xử trong thực tế. Tuy nhiên, vào giai đoạn này, nó chỉ đại diện cho một nhóm nhỏ các nhà triết học có phần biệt lập và công trình của họ chưa gây ảnh hưởng gì đến các cách tiếp cận truyền thống về đào tạo đạo đức. Nếu các cách tiếp cận triết học không cung cấp chìa khóa cần thiết để làm giảm các hành vi thiếu đạo đức trong các tổ chức thì cái gì sẽ cung cấp? Mở cánh cửa đến với các hành vi thiếu đạo đức yêu cầu phải có sự thấu hiểu các ảnh hưởng tinh tế lên các hành vi của chúng ta – những ảnh hưởng mà chúng ta thường không nhận thức được – và những tác động của chúng lên cách chúng ta suy nghĩ về những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức. Trong phần tiếp theo và các chương kế tiếp, chúng tôi sẽ miêu tả cách các nhà tâm lý học đang áp dụng những hiểu biết này vào lĩnh vực đạo đức hành vi. Hai hệ thống nhận thức, hai mô thức ra quyết định Lĩnh vực đạo đức hành vi nhấn mạnh nhu cầu xem xét việc các cá nhân thật sự quyết định ra sao hơn là việc họ quyết định như thế nào trong một thế giới lý tưởng. Các nghiên cứu công bố rằng trí tuệ của chúng ta có hai mô thức rõ rệt trong việc đưa ra quyết định. Bằng cách hiểu được những mô thức này, chúng ta có thể chạm tới những thấu hiểu then chốt để cải thiện đạo đức trong các quyết định của mình. Không có gì ngạc nhiên khi quá trình ra quyết định của chúng ta có khuynh hướng thỏa hiệp nhất khi tâm trí của chúng ta quá tải. Ví dụ như càng bận rộn với công việc, chúng ta càng ít chú ý hơn khi đồng nghiệp của mình phạm phải các quy tắc đạo đức hay khi chính bản thân mình đi quá giới hạn. Một khái niệm tâm lý quan trọng soi sáng lý do tại sao vấn đề này đáng được quan tâm là sự khác biệt giữa suy nghĩ của “Hệ thống 1” và “Hệ thống 2”.[52] Theo quan điểm này, lối suy nghĩ Hệ thống 1 là hệ thống trực giác của chúng ta khi xử lý thông tin: nhanh, tự động, không mất sức, tiềm tàng và xúc cảm. Hệ thống 1 cũng có hiệu quả và vì thế đóng vai trò như một công cụ thích hợp đóng góp phần lớn các quyết định mà chúng ta thực hiện hàng ngày. Trong khi đó, so với Hệ thống 1, Hệ thống suy nghĩ 2 chậm hơn, tỉnh táo, nỗ lực, thẳng thắn và lôgic hơn.[53] Khi bạn đặt lên bàn cân cái giá và lợi ích của những cách hành xử khác nhau theo một cách hệ thống và có tổ chức, bạn đang sử dụng Hệ thống suy nghĩ 2. Con người rất hay có cảm xúc, Hệ thống 1 phản ứng với những vấn đề lợi ích theo khía cạnh này. Tuy nhiên, những phản ứng này đôi khi khác biệt với những điều mà chúng ta có thể quyết định với sự cân nhắc kỹ lưỡng hơn. Hơn nữa, tầm quan trọng của những quyết định trong thực tế không bảo vệ chúng ta khỏi những giới hạn trí óc của con người. Trên thực tế, nhịp độ điên cuồng của đời sống hiện đại có thể hướng chúng ta đến việc tin tưởng vào Hệ thống suy nghĩ 1 thậm chí khi Hệ thống suy nghĩ 2 được công nhận là có hiệu quả hơn. [54] Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng những người tham gia “bận rộn về nhận thức” thường có khuynh hướng không gắn bó với một công việc hơn là những người tham gia ít áp lực hơn.[55] Tại sao lại như vậy? Vì năng lượng nhận thức cần phải đủ sức phản ánh để ngăn cản sự thôi thúc một người gian lận. Kern và Chugh đã chỉ ra rằng tác động của những ảnh hưởng bên ngoài lên các lựa chọn đạo đức của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ra quyết định.[56] Họ yêu cầu mọi người tưởng tượng chính mình đang ở trong tình huống như sau: Bạn đang cố gắng bán chiếc máy thu phát của mình để kiếm tiền cho một chuyến đi nước ngoài sắp tới. Chiếc máy thu phát còn hoạt động tốt và một người bạn có hiểu biết sâu về việc thu âm nói với bạn rằng nếu anh ta làm trong thị trường thiết bị thu phát (mà thật ra không phải) anh ta sẽ trả bạn 500 đô-la để có nó. Bạn không có nhiều thời gian trước khi khởi hành chuyến đi. Bạn của bạn cho rằng bạn có 25% cơ hội có thể bán được chiếc máy này với giá đó trước chuyến đi. [Một nhóm khác thì lại cho rằng có 75% cơ hội sẽ mất phi vụ này]. Một vài ngày sau, một vị khách tiềm năng đến xem chiếc máy và có vẻ thích thú. Vị khách hàng tiềm năng này đã hỏi bạn còn những đề nghị nào khác không. Làm thế nào bạn có thể trả lời rằng bạn còn một đề nghị khác? Như trong một nghiên cứu khác của Kern và Chugh, những người tham gia nghiên cứu sẵn sàng dùng các mánh khóe để tránh các tổn thất hơn là tích lũy lợi nhuận. Tuy nhiên, việc đặt ra chuyện thua hay được chỉ ảnh hưởng đến việc ra quyết định khi các cá nhân chịu tác động của áp lực thời gian và được yêu cầu phải phản hồi nhanh nhất có thể. Các cá nhân không phải chịu những áp lực này – tức là những người được bảo cứ thong thả trong việc phản hồi và suy nghĩ kỹ lưỡng về câu hỏi – không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố ngoại vi (không liên quan đến sự lựa chọn đạo đức) của việc có thể đạt được lợi ích hoặc có thể bị thiệt hại. Cách suy nghĩ nào tốt hơn, Hệ thống 1 hay Hệ thống 2? Có rất nhiều người hài lòng khi tác giả Malcolm Gladwell đưa ra một trường hợp tin tưởng vào trực giác của chúng ta trong quyển sách của ông tên là Blink. Ta vẫn thường tin tưởng ở trực giác của bản thân (Hệ thống 1). Hơn nữa, cách suy nghĩ của Hệ thống 1 là đủ cho hầu hết mọi quyết định; ví dụ sẽ rất mất thời gian nếu chúng ta suy nghĩ một cách lôgic mỗi khi đi mua sắm hàng tạp hóa. Tuy nhiên, tin tưởng vào trực giác của chúng ta một cách bản năng mà không sử dụng tới suy nghĩ Hệ thống 2 có thể nới rộng khoảng cách giữa việc chúng ta muốn cư xử như thế nào và việc chúng ta thật sự hành xử như thế nào. Lôgic của hệ thống 2 có thể là một phần của những quyết định quan trọng nhất của chúng ta, bao gồm cả những quyết định có tính đạo đức. Nếu những phản ứng bên trong bạn khác với quyết định bạn đưa ra sau một quá trình đắn đo suy nghĩ thì việc hòa hợp sự mâu thuẫn này là điều quan trọng. Nếu bạn để cho tiếng nói bên trong dẫn dắt, những thứ đơn giản như là quan điểm về một quyết định được xem như thua hay thắng có thể ảnh hưởng đến quyết định của bạn. Nhưng nếu bạn bỏ qua tiếng nói bên trong và hoàn toàn dựa trên quyết định từ sự tính toán thiệt hơn, bạn có thể sẽ bỏ qua những tín hiệu cảnh báo từ bên trong rằng “có gì đó không đúng”, như là bỏ quên những dấu hiệu – loại dấu hiệu mà những người đã gây nên cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nên lắng nghe. Việc để cho hai hệ thống này “nói chuyện” với nhau là rất quan trọng. Về cơ bản, khi hai hệ thống này bất đồng thì đó là gợi ý cho bạn để dùng hệ thống này “kiểm tra” hệ thống kia. Trái tim bạn có thể giúp bạn tìm ra những cảm xúc nào bạn đã bỏ qua trong sự tính toán cẩn thận của mình và những phân tích lý tính có thể giúp bạn quyết định xem những yếu tố không liên quan có ảnh hưởng đến sự phản ứng của bạn hay không. Tầm quan trọng của sự tự nhận thức về đạo đức Như đã được chứng minh bằng các kết quả nghiên cứu được trình bày trong chương này, người ta nhìn chung không nhận ra rằng những suy đoán về đạo đức của họ thường phụ thuộc vào những cách họ phê phán khi nhận thức nhiều hơn. Thật không may, những thành kiến của chúng ta có vẻ như không giúp chúng ta đưa ra được những quyết định tốt hơn. Chúng ta có khuynh hướng tin rằng trong khi những người khác có thể là nạn nhân của sự thiếu quyết đoán thì bản thân chúng ta lại miễn nhiễm với chúng. Ví dụ như, khi những người tham gia vào một nghiên cứu được yêu cầu đoán xem những động cơ kinh tế nào sẽ ảnh hưởng đến quyết định của họ và những người khác trong viêc hiến máu, hầu hết đều đánh giá quá cao ảnh hưởng của sự tư lợi lên những người khác; đồng thời, họ phủ nhận việc sự tư lợi đó ảnh hưởng đến quyết định của chính họ.[57] Hầu hết chúng ta đều đánh giá thấp mức độ mà hành vi của chúng ta bị ảnh hưởng bởi những động cơ và những yếu tố tình huống khác. Những quyết định mà chúng ta đưa ra nhân danh bản thân, tổ chức và xã hội phần nhiều có thể gây nên những tác hại lớn. Để cải thiện những phán xét đạo đức của mình, chúng ta cần hiểu và chấp nhận những giới hạn của trí óc con người. Tuy nhiên những giải pháp được đề nghị để giảm những kết quả không mong muốn của những quyết định này bao gồm cả sự bổ sung và giáo dục về pháp luật và đạo đức thường không tính đến những giới hạn này. Không có nhận thức về điểm mù, những cách tiếp cận đạo đức truyền thống sẽ không đặc biệt hữu dụng trong việc cải thiện hành vi. Nếu giống như hầu hết mọi người, bạn liên tiếp không nhận ra được những thành tố đạo đức của các quyết định, không chống lại những định kiến trong nhận thức và ngừng suy nghĩ rằng bạn cư xử không đạo đức như bạn thật sự làm, khi đó việc khuyên rằng những phán xét đạo đức nào bạn nên đưa ra có vẻ sẽ không cải thiện đạo đức của bạn. Ngược lại, những bài học về đạo đức hành vi được chứng minh là hữu dụng cho những ai mong muốn trở thành người đạo đức hơn nhưng những phán quyết của họ thường không song hành cùng những lý tưởng hay mong muốn của họ. ____________________________ Chú thích: [31] Dẫn từ P. Foot (1978), “The Problem of Abortion and the Doctrine of the Double Effect”, in Virtues and Vices (Tạm dịch: Những vấn đề nảy sinh từ việc nạo phá thai và Giáo lý ảnh hưởng Kép); J. J. Thomson (2011), “Killing, Le ing Die, and the Trolley Problem” (Tạm dịch: “Giết, Để mặc cho chết, và song đề xe điện). [32] I. Kant (1964), Groundwork of the Metaphysics of Morals, (Tạm dịch: “Nền móng của Tâm lý đạo đức học”) H. J. Paton dịch. [33] Greene 2011; F. A. Cushman (2008), “Crime and Punishment: Dis- tinguishing the Roles of Causal and Intentional Analyses in Moral Judgment” (Tạm dịch: Tội ác và hình phạt: Phân biệt vai trò của nguyên nhân và dự đoán trong phán xét đạo đức). [34] Ghi tàu là thiết bị dùng để thay đổi hướng chuyển động của tàu (Chú thích biên tập) [35] Dẫn từ Foot 1978; omson 2011; Greene 2011. [36] Greene 2011. [37] M. C. Nussbaum (1997), Cultivating Humanity: A Classical Defense of Reform in Liberal Education (Tạm dịch: Trau dồi nhân cách: cách bảo vệ cổ điển trong cải cách giáo dục tự do); M. C. Nussbaum (2007), “Liberty of Conscience: The A ack on Equal Respect” (Tạm dịch: Tự do Lương tâm: Sự tấn công vào Tôn trọng tương đương); M. Moody Adams (1997), Fieldwork in Familiar Places: Morality, Culture, and Philosophy (Tạm dịch: Nghiên cứu trong những lĩnh vực tương đồng: Đạo đức, Văn hóa và Triết học). [38] R. A. Posner (1997), “Against Ethical Criticism” (Tạm dịch: Bất đồng phê bình đạo đức). [39] E. Schwi gebel (2009), “Do Ethicists Steal More Books?” (Tạm dịch: Liệu những nhà đạo đức học có ăn cắp nhiều sách hơn không?). [40] E. Schwi gebel và J. Rust (sắp xuất bản), “Do Ethicists and Political Philosophers Vote More Often Than Other Professors?” (Tạm dịch: Liệu những nhà đạo đức học và những nhà chính trị triết học có bỏ phiếu thường xuyên hơn những chuyên gia khác?); E. Schwi gebel và J. Rust (sắp xuất bản), “The Moral Behavior of Ethicists: Peer Opinion” Mind. (Tạm dịch: Những hành vi có đạo đức của các nhà đạo đức học: Những quan điểm tương đồng). [41] E. Schwi gebel (8/8/2009), “Are Ethicists Ethical?” (Tạm dịch: “Những nhà đạo đức học liệu có đạo đức không?”). [42] Schwitzgebel 2009. [43] J. R. Rest (1986), Moral Development: Advances in Research and The- ory (Tạm dịch: Phát triển đạo đức: Tiến bộ trong nghiên cứu và học thuyết). [44] A. E. Tenbrunsel và D. M. Messick (2004), “Ethical Fading: The Role of Self Deception in Unethical Behavior” (Tạm dịch: Suy đồi đạo đức: Vai trò của sự dối trá và các hành vi thiếu đạo đức). [45] A. Speer (1970), Bên trong the ird Reich, dịch giả: R. Winston và C. Winston. [46] J. Haidt, S. Koller và M. Dias (1993), “Affect, Culture, and Morality, or, Is It Wrong to Eat Your Dog?” (Tạm dịch: Ảnh hưởng, Văn hóa và Đạo đức hay là Liệu có sai không khi ăn thịt chó?”). [47] J. Haidt (2001), “The Emotional Dog and Its Rational Tail: A Social Intuitionist Approach to Moral Judgment” (Tạm dịch: Chú chó u buồn và câu chuyện hợp lý của nó: Khi trực giác xã hội tiếp cận những đánh giá đạo đức). [48] Haidt 2001. [49] J. Greene và J. Haidt (2002), “How (and Where) Does Moral Judgment Work?” (Bằng cách nào (và ở đâu) để đánh giá đạo đức có hiệu quả?”). [50] K. A. Appiah (9/12/2007), “The New New Philosophy,” (Tân triết học mới). [51] Appiah 2007 [52] K. E. Stanovich và R. F. West (2000), “Individual Differences in Rea-Soning: Impli- cations for the Rationality Debate” (Tạm dịch: Những khác biệt cá nhân khi đưa ra lý do: Ý nghĩa của những tranh cãi hợp lý) [53] D. Kahneman (2003), “A Perspective on Judgment and Choice: Map- ping Bounded Rationality” (Tạm dịch: Một quan điểm về đánh giá và lựa chọn: Thiết lập sơ đồ cho giới hạn hợp lý). [54] D. Chugh (2004), “Why Milliseconds Ma er: Societal and Managerial Implications of Implicit Social Cognition” (Tạm dịch: Vì sao một phần nghìn giây lại trở thành vấn đề: Ý nghĩa của xã hội và quản lý trong nhận thức xã hội ngầm). [55] N. Mead, R. F. Baumeister, F. Gino, M. Schwei er và D. Ariely (2009), “Too Tired to Tell the Truth: Self-Control Resource Depletion and Dishonesty,” (Tạm dịch: Quá mệt mỏi để nói lên sự thật: Suy giảm khả năng kiểm soát bản thân và dối trá). [56] M. Kern và D. Chugh (2009), “Bounded Ethicality: The Perils of Loss Framing” (Tạm dịch: Đạo đức giới hạn: Sự nguy hiểm của việc thiếu kết cấu). [57] T. Miller và R. K. Ratner (1998), “The Disparity between the Actual and Assumed Power of Self-Interest” (Tạm dịch: Sự chênh lệch giữa thực tế và mong muốn trong khả năng kiểm soát ý thích cá nhân). Chương 3 KHI CHÚNG TA HÀNH ĐỘNG NGƯỢC LẠI VỚI NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA CHÍNH MÌNH Vào thời điểm chúng ta nhận học vị giáo sư, chúng ta thường nhận được những cuộc điện thoại từ những người bạn đã lâu không liên lạc hay từ họ hàng của mình khi một trong những người con của họ chuẩn bị đón sinh nhật lần thứ 18. Tại sao những cuộc gọi như thế lại thường đến vào khoảng thời gian này? Hóa ra những cuộc gọi tưởng chừng ngẫu nhiên đó lại đến từ bạn bè hoặc họ hàng có con cái nộp đơn xin thi tuyển vào trường Đại học nơi bạn đang làm việc. Dĩ nhiên, bạn bè chúng ta giải thích rằng họ hoàn toàn hiểu chúng ta không có quyền để nhận con họ vào trường, họ chỉ gọi để nhờ ta gửi cho một bức thư giới thiệu hoặc một lời giới thiệu đến giám đốc tuyển sinh. Những cuộc gọi này thường khiến chúng ta bối rối. Vì chúng ta thường không biết rõ đứa bé đó và có vẻ như sự giới thiệu của chúng ta khó mà có trọng lượng với ban tuyển sinh. Trong khi đó, thật không dễ chịu khi nói với người em họ thứ hai của mình rằng những lời đề cao của họ hàng về vai trò của ta ở trường Đại học có thể là hơi quá và rằng chúng ta chỉ có thể giúp được một phần rất nhỏ mà thôi. Cho nên, nhờ vào sự quen biết trước đây với giám đốc tuyển sinh, chúng ta sẽ vượt qua được quá trình bối rối đó bằng việc sắp xếp để giới thiệu người ứng tuyển cho giám đốc. Chúng ta xếp hạng mình như thế nào về mức độ “dễ mến” khi thực hiện những lời giới thiệu đó? Còn về hành vi đạo đức thì sao? Có lẽ bạn đã từng được bạn bè nhờ vả hoặc bạn của bạn hoặc bạn bè của họ hàng người thân nhờ giúp đỡ. Có lẽ những sự giúp đỡ này liên quan đến việc phân bổ những nguồn lực khan hiếm (ví dụ như việc làm), chấp thuận vào những nhóm tuyển chọn (ví dụ như các trường đại học), một căn hộ ở một vị trí nhất định nào đó hoặc là một lời giới thiệu đến nhân viên cho vay tại một ngân hàng. Hầu hết chúng ta đều nhận được những lời đề nghị như vậy không lúc này thì lúc khác. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng ta thường cảm thấy thoải mái trong việc “ban phát ân huệ” cho những người mà chúng ta cho là có mối liên hệ với mình. Các nhà tâm lý học gọi hiện tượng này là thiên vị cùng nhóm. Cụ thể, chúng ta có khuynh hướng thiên vị những người cùng môi trường, tôn giáo, chủng tộc hoặc giới tính. Bây giờ hãy xem xét việc những nhóm thiểu số thường không có người đại diện ở những cấp cao nhất trong các công ty hoặc các khoa ở trường đại học. Điều này cho thấy rằng, trong những tình huống này, người da trắng thường gọi điện cho nhau để đưa ra những đề nghị giúp đỡ đặc biệt cho người da trắng mà gạt bỏ các nhóm thiểu số khác. Khi bạn bè hoặc họ hàng chúng ta gọi nhờ vả cho con cái họ, chúng ta không có ý định loại trừ những nhóm thiểu số không có đại diện (underrepresented minorities). Thật ra, chúng ta có thể không nghĩ gì về những nhóm thiểu số bị ảnh hưởng bởi hành động của mình, thay vào đó, chúng ta tập trung vào việc chúng ta “tử tế” như thế nào khi đưa ra những lời nói tốt đẹp với trưởng ban tuyển sinh thay mặt cho người em họ thứ ba đã rất lâu không liên lạc của mình. Nhưng khi những nguồn lực trở nên khan hiếm và chúng ta ưa thích những người tương tự như mình, kết quả cuối cùng là sự phân biệt đối xử với những người khác biệt với mình. Về bản chất, việc ưa thích những người giống chúng ta về mặt nhân học cũng tương tự như việc trừng phạt những người không cùng chia sẻ các đặc điểm với chúng ta. Dù vậy, hầu hết chúng ta đều không nhận ra sự thật này. Hãy xem xét việc khoảng hai thập niên gần đây, một phát hiện phổ biến trong ngành kinh doanh cho vay nợ xấu cho thấy rằng các ngân hàng thường từ chối cho vay nợ đối với người Mỹ gốc Phi hơn là với người da trắng, thậm chí sau khi đã điều tra thu nhập, vị trí nhà cửa, v.v... Khi điều này được công bố lần đầu tiên vào những năm 1990, giới nhà báo đã nhìn câu chuyện này như một trong những thành kiến và thái độ phân biệt chủng tộc của các ngân hàng đối với cộng đồng người Mỹ gốc Phi. Thái độ phân biệt và thành kiến công khai có thể chỉ là một phần của câu chuyện nhưng người cộng sự lâu năm của chúng tôi David Messick cho rằng nguyên nhân phổ biến nhất có vẻ như là sự thiên vị người cùng nhóm. Nghĩa là, trong khi những nhân viên cho vay phân biệt đối xử rõ rệt, một vấn đề rõ ràng hơn có thể là những nhân viên cho vay này ưa thích những người giống họ, xét về mặt chủng tộc, nền tảng, v.v... Nếu những nhân viên da trắng chiếm phần đông này sẵn sàng xuất giấy nợ cho những người nộp đơn da trắng không đủ tiêu chuẩn hơn là những người khác, kết quả cuối cùng là sẽ có ít ngân quỹ dành cho “nhóm người ngoài” và sự phân biệt đối xử tương tự xảy ra như thể những nhân viên cho vay là những người phân biệt chủng tộc rõ rệt. Quá trình này đơn giản là vì những nhân viên này đang cố gắng trở nên tử tế với những người cùng nhóm với mình. Điểm nút thắt là: sự thiên vị người cùng nhóm có thể có những tác động tương tự như sự phân biệt đối xử với người khác nhóm và nếu như không có suy nghĩ phân biệt đối xử thì anh ta chẳng làm gì sai cả! Điều này chính xác là những gì đã xảy ra tại Đại học Illinois trong nhiều năm. Vào tháng 5 năm 2009, tờ Chicago Tribune công bố một câu chuyện nói rằng hàng trăm học sinh có thành tích học tập dưới mức đạt yêu cầu đã được nhận vào trường đại học này nhờ vào sự can thiệp của các nhà làm luật của bang và thành viên ban quan trị của trường đại học.[58] Từ năm 2005 đến 2009, khoảng 800 thí sinh được nhận vào trường sau khi có được sự lưu tâm đặc biệt từ những quan chức cấp cao, theo những tài liệu mà tờ Tribune điều tra. Bằng một hệ thống ngầm được bí mật biết đến với cái tên “Loại I”, một số thí sinh không đủ điều kiện đã được nhận vào học bất chấp sự phản đối của các thành viên hội đồng tuyển sinh, trong khi những người khác thì ngầm đồng ý. Trong một ví dụ được nhiều người biết đến, một người thân của Antoin “Tony” Rezko, người đã bị kết án lạm dụng tầm ảnh hưởng của CỰU NHÂN VIÊN thống đốc bang Illinois bị thất sủng Rod Blagojevich, đã được nhận vào học sau khi Hiệu trưởng trường Illinois B. Joseph White gửi một bức thư cho Hiệu trưởng trường này giải thích rằng ngài thống đốc muốn thí sinh này được nhận vào học. Một thành viên xét tuyển, người nhận thông điệp này cho biết người nhà của Rezko có hạnh kiểm yếu và suýt bị từ chối. Nhưng quyết định đã bị đảo ngược và thí sinh này đã được nhận. Theo điều tra của tờ Tribune dựa trên những tài liệu này, những thành viên ban quản trị trường đại học và những nhà làm luật đã lót tay các chức sắc trong trường đại học.[59]“Loại I” đã tạo ra một tình huống khó xử, trong đó các nhà chức trách trường đại học thường nhận lời giúp đỡ các nhà làm luật – những “ông chủ ngầm” nắm giữ toàn bộ hệ thống trường học, tờ Tribune nhấn mạnh.[60] Hầu hết các nhà làm luật tham gia vào vụ tai tiếng này đã thực hiện lời yêu cầu thông qua hai nhà vận động hành lang giỏi nhất của trường, những người có vai trò khiến những nhà làm luật hài lòng. Ngoài ra, thông qua một nhà vận động hành lang, hai nhà làm luật đã đe dọa các chức sắc trường đại học rằng nếu những thí sinh này không được chấp nhận, họ sẽ thay đổi hệ thống xét tuyển của trường. Nổi bật là trong năm học 2008 – 2009, khoảng 77% những người nằm trong “danh sách đen” đã được nhận học, chiếm 69% tổng số thí sinh, mặc cho những người này có điểm trung bình xếp hạng và điểm kiểm tra tiêu chuẩn thấp hơn so với những thí sinh bình thường khác. Chính sách nhận những thí sinh kém chất lượng nhưng có mối quan hệ tốt có thể sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến uy tín của trường. Năm 2006, Paul Pless, trưởng phòng tuyển sinh trường Luật của Đại học Illinois cho biết ông đã phải nhận thêm hai sinh viên có thành tích cao để bù lại việc thứ hạng của trường bị ảnh hưởng tiêu cực khi nhận những thí sinh không đủ chuẩn của “Loại I”. Ông Pless nói, “Khi [các thí sinh này] đối diện với chương trình học căng thẳng của chúng tôi, chắc chắn họ sẽ không thể trông chờ gì hơn ngoài thất bại.”[61] Việc Chicago Tribune công bố sự tồn tại của “Loại I” đã khơi dậy một “cơn bão” ở Illinois. Tháng 8 năm 2009, một ban được chính Thống đốc Patrick Quinn chỉ định đã công bố một báo cáo rất gay gắt cáo buộc trường Đại học Illinois đang trải qua “một cuộc khủng hoảng chính thức do mình tự gây nên” như là kết quả của văn hóa “giễu cợt (cynicism) và chủ nghĩa cơ hội dày đặc”[62] đã tồn tại từ lâu. Những trưởng khoa và viên chức cao cấp, gồm có cả Hiệu trưởng White và người đứng đầu ban tuyển sinh của trường đại học đã bị cáo buộc bắt tay với nhau trong việc tuyển vào những thí sinh kém phẩm chất có đặc quyền, bao gồm con cháu của những nhà tài trợ hàng đầu cho trường. Báo cáo cũng kêu gọi thành viên hội đồng tuyển sinh của nhà trường từ chức. Hiệu trưởng White đã chính thức bắt tay vào việc loại bỏ hệ thống “Loại I” và tuyên bố áp dụng những đề xuất của ban, bao gồm việc xây dựng một “bức tường lửa” để bảo vệ quá trình xét tuyển tránh khỏi sự can thiệp của những viên chức cao cấp của trường, thiết lập một quy trình xét tuyển từ các nhà làm luật và những người khác và xây dựng một bộ quy tắc ứng xử cho những nhân viên xét tuyển. Nhưng đối với White, tổn hại dù gì cũng đã xảy ra; dưới những áp lực nặng nề, ông đã phải từ chức hiệu trưởng vào tháng 9 năm 2009. Dựa trên việc các nhà làm luật bang Illinois, các thành viên ban quản trị trường Đại học Illinoise và các quan chức của trường đại học không thấy ái ngại về chính sách tuyển sinh của trường mình, bạn có thể tự hỏi rằng câu chuyện buồn về đặc quyền theo nhóm này có phải là một trường hợp cố ý tham nhũng hay là một trường hợp ngầm phân biệt đối xử? Câu trả lời là cả hai. Không có gì phải nghi ngờ, trong số những người làm sai, có người biết họ đã cư xử thiếu đạo đức. Nhưng với những người khác, việc giúp đỡ những người thân thiết với mình rõ ràng khiến họ bỏ qua thực tế là trường đại học đã từ chối một cách không công bằng những người không được đỡ đầu. Khi tờ Tribune hỏi về những đề nghị giúp đỡ, một số nhà làm luật cho biết họ chỉ làm việc của mình thôi. “Những cuộc gọi ủy thác và nhờ vả người nào đó giúp lót đường hoặc thay cương ngựa hoặc giúp một đứa trẻ vào đại học, tôi cho rằng điều đó hoàn toàn thích đáng”, phát ngôn viên Hạ viện Michael Madigan nói với tờ Tribune.[63] Rất nhiều người dân Illinoise, gồm cả những em có bằng cấp tốt bị trường Đại học Illinois từ chối đã cảm thấy bị xúc phạm nhưng không mấy ngạc nhiên về quy trình xét tuyển mờ ám này. “Nếu như bạn quen biết ai đó, những điều tốt đẹp sẽ đến với bạn tại bang Illinois này ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau”, theo lời ông Tom Wethekam – cha của một học sinh bị trường từ chối nhận học theo quy trình thông thường. “Tôi nhìn nhận trường hợp này như là một sự mở rộng của sự thật này thôi.”[64] Mặc dù hệ thống “Loại I” ở Illinoise nổi bật vì quy mô tổ chức thì hầu như tất cả các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ đều không chấp nhận những yêu cầu nhận học từ những cá nhân có quen biết, bất kể thân sơ. Peter Schmidt (2007), phó tổng biên tập của tờ Chronicle of Higher Education cho rằng hình thức điển hình (lead- ing form) của hành động khẳng định tại nhiều trường đại học danh tiếng là “con ông cháu cha” là: chính sách chấp nhận những đứa trẻ kém năng lực và loại bỏ những đứa trẻ giỏi qua lời giới thiệu từ các CỰU NHÂN VIÊN sinh viên, nhà tài trợ và những cá nhân có mối quan hệ hữu hảo khác. Các chính sách dành cho “con ông cháu cha” tại những trường ưu tú đã thiên vị những thí sinh ít năng lực và kém phẩm chất từ những nhóm xã hội có đặc quyền và loại bỏ những thí sinh có đủ năng lực nhưng không có quen biết.[65] Hầu hết các trường đại học thuộc Ivy League[66] đều nhận 10 - 15% sinh viên năm nhất từ những nhóm này.[67] Thậm chí một số trường đại học hoạt động bằng tiền đóng thuế của người dân, ví dụ như đại học Virginia cũng có cách làm việc tương tự. Giới chức của một vài trường đại học phản bác rằng những sinh viên có quen biết của họ cũng giỏi giang và đủ tiêu chuẩn như những thí sinh khác. Những số liệu thống kê này khó mà kiểm chứng được nhưng một báo cáo năm 1990 của Bộ giáo dục đã kết luận rằng sinh viên có quen biết của trường đại học Harvard thì “kém năng lực hơn hẳn” so với một sinh viên bình thường không có sự “đỡ lưng” nào cả, trong tất cả các lĩnh vực trừ thể thao.[68] Trong mọi trường hợp, giới chức các trường đại học cũng tương tự như các nhân viên cho vay nợ xấu thiên vị người da trắng thường không nhận thức được những vấn đề trong chính sách của họ khi phân biệt đối xử giữa những người có quen biết và không có quen biết. Tình trạng thiên vị trong nhóm được khắc họa qua quá trình tuyển sinh tại nhiều trường đại học ở Mỹ cũng như trong quá trình quyết định của con người có thể xem là một trường hợp minh họa cho khía cạnh quan trọng nhất của giới hạn đạo đức: con người thường hành động phi đạo đức mà không hề nhận thức được điều đó. Hơn nữa, chúng tôi tin rằng hình thái hành xử phi đạo đức thường phổ biến hơn nhiều so với những trường hợp tham nhũng có chủ ý và đòi hỏi một hệ thống chiến lược hành xử đúng đắn rất khác biệt. Những nghiên cứu về đạo đức hành vi cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu hơn về cách con người thật sự đưa ra những quyết định đạo đức như thế nào so với việc họ mong muốn đưa ra những quyết định như vậy. Vượt trên cả việc phân tích những thiên vị trong nhóm, chương này sẽ làm nổi bật những hình thức của giới hạn đạo đức. Chúng tôi sẽ tập trung vào những định kiến thông thường, một người họ hàng thuộc nhóm “thiên vị theo nhóm” và sau đó mở rộng cuộc thảo luận để kết luận với hai xu hướng chính: lạm nhận quá đà và hạ giá tương lai. Những định kiến thông thường Những ví dụ về sự thiên vị trong nhóm đã minh họa cho cách mà một người tập trung vào việc trở thành một người anh em, bạn bè, hàng xóm hoặc một thành viên Do Thái tốt có thể ảnh hưởng như thế nào đến việc phân biệt chủng tộc không chủ ý - một loại của đạo đức giới hạn. Rộng hơn nữa, những nghiên cứu từ xưa đã khám phá ra một hệ thống các sự thiên vị nhất quán mà con người sở hữu nhưng không nhận thức điều này. Những khám khá thú vị trong lĩnh vực “tâm lý ngầm” đã tiết lộ rằng chúng ta có những thái độ khác nhau đối với nam và nữ, đối với người da trắng và người gia màu và nhìn chung là giữa nhóm “chúng ta” với nhóm “của họ” và những thái độ này thường không bộc lộ ra ngoài - nghĩa là, chúng hiện diện mà không có sự nhận biết của chúng ta. Công trình này đã đưa ra những dấu hiệu quan trọng cho các ngành kinh doanh, luật và y học và cho tất cả chúng ta – những ai mong muốn hành xử thật sự có đạo đức chứ không phải chỉ đơn giản là tự nhìn nhận mình là đạo đức. Nếu bạn cho rằng bạn có thể miễn nhiễm với hành vi phân biệt chủng tộc không chủ ý này, hãy xem xét câu chuyện của Ashton Briggs III (còn gọi là “Ash”), đối tác của một hãng tư vấn nổi tiếng và được trọng vọng. Mặc dù là người da trắng và xuất thân từ một gia đình giàu có, ông vẫn là một trong những thành viên ủng hộ nhiệt tình nhất việc công ty tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp MBA thuộc các nhóm thiểu số để phục vụ cho nhu cầu mở rộng thị trường đang tăng nhanh của hãng. Nền tảng quan trọng nhất của hãng trong việc tuyển dụng là các trường đào tạo MBA. Ash đã thành công trong việc thuyết phục các đồng nghiệp của ông đảm bảo rằng đại diện từ các nhóm thiểu số sẽ được trao cơ hội được mời tham gia phỏng vấn vòng hai, tức là vòng phỏng vấn do văn phòng của công ty thực hiện. Bất chấp những nỗ lực của Ash, công ty nhìn chung đã không được đánh giá là một nơi thích hợp để những người thuộc nhóm thiểu số (nhóm những người không có các mối “quen biết” cần thiết) đến làm việc, dù cho lý do vẫn còn là một ẩn số. Vào mùa xuân năm 2009, số lượng người tốt nghiệp MBA làm việc tại công ty của Ash cũng như tại rất nhiều hãng tư vấn khác ít hơn trước vì cuộc khủng hoảng tài chính làm đóng băng nền kinh tế. Tuy nhiên công ty của ông vẫn tiếp tục phỏng vấn những sinh viên tốt nghiệp MBA với mục tiêu bổ sung thêm một số nhân sự mới trong số những người đang chờ việc ở các trường đại học. Ash phụ trách việc tuyển nhân lực và nhóm của ông đã giới hạn xuống còn 2 ứng viên cho vị trí cần tuyển. Một trong hai ứng viên đã có hai năm thực tập cho công ty trước khi lấy bằng MBA. Anh này có điểm số rất cao và những lá thư giới thiệu tuyệt vời. Một trong số những lá thư đó là từ một giáo sư cũ của Ash. Trong khi đó ứng viên còn lại, trước khi lấy bằng MBA, đã dành thời gian làm trong lĩnh vực năng lượng – một ngành công nghiệp quan trọng đối với các công ty tư vấn trong những năm tới. Điểm số ở trường của cô ta tuyệt vời, cô ta là lãnh đạo câu lạc bộ năng lượng thuộc chương trình MBA đó và cô ta có lá thư giới thiệu vô cùng nhiệt tình và hoàn hảo từ một giáo sư rất nổi tiếng người Mỹ gốc Phi. Cả hai ứng viên rõ ràng đều rất có khả năng nhưng chỉ có một người được chọn. Cuối cùng, Ash và những cộng sự của mình đã quyết định dành cơ hội cho anh chàng CỰU NHÂN VIÊN thực tập sinh của công ty. Yếu tố quyết định là lòng tin của Ash vào lá thư giới thiệu của vị giáo sư cũ mà ông rất yêu mến. Mặc dù kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng của ứng viên còn lại là rất đáng giá nhưng công ty vẫn ưu ái hơn cho những gì mà hệ thống của họ đào tạo được. Mặc dù quyết định này được những người có thẩm quyền trong công ty đồng ý, Ash vẫn thấy phiền lòng. Ứng viên được chọn là một người da trắng và người còn lại là một người Mỹ gốc Phi. Trước đó Ash đã thiết lập một chính sách theo dõi các trường học, giới tính và chủng tộc của tất các các ứng viên từ các chương trình MBA, cũng như thông tin liên quan đến những lần phỏng vấn đợt 2, đề nghị và chấp thuận công việc. Khi điền vào những lá đơn này trong những năm gần đây, Ash nhận ra rằng những ứng viên thuộc nhóm thiểu số có nhiều cơ hội được mời lại phỏng vấn lần thứ hai hơn những người da trắng trong nhiều năm nhưng ít hơn những người da trắng thật sự nhận được việc. Rắc rối hơn nữa, Ash đã dừng lại những lời kiến nghị và thấy rằng trong suốt bảy năm qua, mẫu kiến nghị của ông đã khớp với quyết định của hãng. Ông vẫn nhiệt thành trước sau như một về việc mời những người thuộc nhóm thiểu số đến phỏng vấn lần hai nhưng cuối cùng ông cũng lại tiếp tục đưa ra những chọn lựa khó khăn là xét một cách tổng thể, ông lại phải từ chối những người thuộc “nhóm thiểu số”. Vì quá trình này không được công khai, Ash nhận được email từ một đồng nghiệp chia sẻ cho anh một đoạn video trên youtube, trích từ một tập trong chương trình Dateline của đài ABC (bạn có thể tìm thấy video này tại đường link www.blindspots ethics.com/ dateline). Đoạn video mô tả nghiên cứu của các Giáo sư Mahzarin Banaji và Anthony Greenwald hướng người xem đến một trang web mà hơn 10 triệu người khác đã khám phá ra sự thiên vị ẩn giấu của mình, đồng thời cũng nhận được những phản hồi về các trường hợp phân biệt đối xử tiềm tàng mà ngay chính bản thân họ cũng không nhận ra. Bị kích thích trí tò mò, Ash đã vào trang web này và được dẫn đến một nhiệm vụ được lập trình trên máy có tên gọi là Kiểm tra những liên hệ ngầm. (Chúng tôi khuyến khích các bạn vào trang web www.blindspots-ethics.com/implicit để xem loại tài liệu đã gây khó khăn cho Ash.) Trước hết nhiệm vụ yêu cầu Ash phải nhanh chóng phân biệt những khuôn mặt khác nhau của của những người gốc châu Âu và châu Phi bằng cách ấn một hoặc hai phím máy tính. Anh phải phân biệt 30 khuôn mặt này theo mức độ từ khá dễ đến dễ. Tiếp đó, anh được yêu cầu phân biệt những từ ngữ được cho là tốt hoặc xấu. “tốt”, “bình tâm” và “hân hoan” là ví dụ của những từ mang nghĩa tốt, trong khi “ích kỷ”, “giận dữ” và “ghê tởm” được cho là những từ mang nghĩa xấu. Nhiệm vụ này cũng được xem là đơn giản. Nhiệm vụ thứ ba yêu cầu Ash phải nhấn một phím khi ông nhìn thấy một khuôn mặt da đen hoặc một từ mang nghĩa xấu nhưng phải nhấn một phím khác khi ông thấy một khuôn mặt da trắng hoặc một từ mang nghĩa tốt. Nhiệm vụ này khó khăn hơn nhưng vẫn không quá gây căng thẳng cho Ash. Nhiệm vụ thứ tư cũng tương tự như nhiệm vụ thứ ba nhưng có một thay đổi nhỏ giữa các cặp. Lần này, Ash được yêu cầu nhấn một phím để quyết định gương mặt màu đen và từ mang nghĩa tốt nhưng sẽ nhấn một phím khác khi khuôn mặt là màu trắng và từ mang nghĩa xấu. Nhiệm vụ mới này nghe có vẻ tương tự như nhiệm vụ trước. Tuy nhiên, lần này nhiệm vụ đã khó hơn nhiều và Ash tự thấy mình đưa ra nhiều lần phân loại sai. Mặc dù đã chú ý tập trung nhiều hơn để đưa ra những câu trả lời đúng nhưng ông vẫn phải làm chậm hơn nhiều so với nhiệm vụ trước. Máy tính đã tính toán rằng Ash cần nhiều thời gian để phân biệt “đen-tốt” và “trắng-xấu” hơn so với các cặp “đen-xấu” và “trắng- tốt” (được đo bằng một phần nghìn giây). Dựa trên những kết quả này, máy tính cho thấy Ash thể hiện sự liên tưởng ngầm mạnh mẽ giữa đen và xấu, giữa trắng và tốt. Nói cách khách, sự liên tưởng ngầm của ông đã thể hiện sự thiên vị cho người da trắng hơn so với người da đen, mặc dù ông ta không có sự thiên vị này trong tâm thức tỉnh táo của mình. Banaji, Greenwald và những cộng sự của họ miêu tả những sự thiên vị này như là những định kiến bình thường. Họ sử dụng từ “bình thường” để nhấn mạnh rằng những quá trình suy nghĩ thông thường mà con người dùng để phân loại, nhìn nhận và đánh giá thông tin có thể dẫn đến những cảm xúc và niềm tin mang tính hệ thống – thứ có thể được coi là thành kiến hoặc rập khuôn. Những quá trình suy nghĩ đó cũng có thể được xem là “bình thường” vì chúng thậm chí có thể ảnh hưởng đến những người trung thực và thông minh nhất, bao gồm các giám đốc, những nhà điều hành và nhiều vị trí cao khác. Nghiên cứu này chính xác là về lĩnh vực đạo đức hành vi. Một vài học giả ngờ vực không biết bài Kiểm tra liên hệ ngầm (IAT) này có dự đoán chính xác được hành vi thật sự của con người hay không[69] nhưng IAT đã cho thấy một số kết quả thực nghiệm đáng kinh ngạc. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng kết quả từ IAT đã dự đoán được sự phản đối các nhóm thiểu số[70]và mức độ con người phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc trong các cuộc tuyển chọn ứng viên cho công việc. Một IAT dựa trên sắc tộc đã cho thấy sự khác biệt thực tế trong cách đối xử của các bác sĩ đối với những người Mỹ da trắng và người Mỹ gốc Phi.[71] Các nhà nghiên cứu đã khám phá ra mức độ mà những người Thụy Điển thích phỏng vấn người Thụy Điển hơn là những người Ả rập.[72] Thực tế là có nhiều bằng chứng cho thấy tất cả các nhóm đều sở hữu các thiên hướng thiên vị ngầm khác nhau. Bây giờ hãy xem xét đến cơn bão truyền thông bùng nổ vào tháng 7 năm 2009 sau khi Tổng thống Barack Obama bình luận về việc Henry Louis Gates Jr., một giáo sư người Mỹ gốc Phi của Đại học Havard bị bắt bởi James Crowley, một nhân viên cảnh sát da trắng người Cambridge. Có thể bạn sẽ nhớ lại, khi trở về nhà sau một chuyến đi nước ngoài, Gates thấy cửa trước nhà mình bị kẹt và buộc phải tìm cách khác để vào nhà với sự giúp đỡ của tài xế taxi. Một người hàng xóm đã gọi cho cảnh sát để báo rằng hình như có người đột nhập. Khi đến hiện trường, Crowley đã yêu cầu Gates bước ra khỏi nhà; Gates từ chối. Gates nói rằng ông đã cho Crowley xem thẻ làm việc tại Harvard và bằng lái xe của mình để chứng minh quyền cư trú nhưng Crowley vẫn một mực không tin đó là nhà của ông. Crowley thì nói rằng trong khi anh “được thuyết phục để tin rằng” Gates thật sự sống trong nhà đó, anh ta cảm thấy có nghĩa vụ phải bắt giữ Gates sau khi trở nên mất bình tĩnh. Tại một cuộc họp báo ngay sau đó, Obama cho rằng viên cảnh sát Camabridge đã “hành động ngu ngốc” khi bắt giữ Gates. Những cuộc tranh luận về sắc tộc nổ ra, đỉnh điểm là việc phải nhanh chóng sắp xếp một “hội nghị thượng đỉnh bia” trong Vườn Hồng của Nhà Trắng[73]. Bạn có thể (hoặc không) đồng tình với nhận định ban đầu của Obama rằng Crowley thật ngu ngốc khi bắt giữ Gates trong ngôi nhà của chính ông ta. Quan trọng hơn là quyết định bắt giữ Gates của Crowley có phải là một trường hợp phân biệt chủng tộc rõ ràng hay không? Hay là Crowley quyết định bắt giữ Gates mà không hề ghét bỏ gì những người Mỹ gốc Phi? Với rất nhiều người Mỹ, không khó để tưởng tượng một viên cảnh sát da trắng có những suy nghĩ phân biệt đối xử nhìn thấy xu hướng phạm tội trong hành xử của một người da đen vô tội và sau đó có những hành động thái quá. Nước Mỹ có một lịch sử dài và buồn với những hành động phân biệt chủng tộc và đối xử tệ với những nhóm thiểu số do tòa án và các cơ quan thực thi pháp luật thực hiện. Nhưng James Crowley không nên bị coi là một kẻ phân biệt chủng tộc. Thật ra chính anh ta đã dạy một khóa học cho các học viên cảnh sát về việc làm sao để tránh bị xem là phân biệt chủng tộc khi hành nghề. Những chứng cứ đã gợi ý rằng dù đã được huấn luyện về việc đối xử với Gates theo cách thức “mù màu”, Crowley có thể đã không chống lại được những định kiến về chủng tộc trong tiềm thức. Trong tình huống gấp gáp đó, viên cảnh sát buộc phải quyết định cách thức đối xử với Gates. Những quyết định tức thời như vậy thường đặc biệt xuất phát từ những định kiến không nhận thức; càng ít thời gian suy nghĩ, chúng ta càng có thiên hướng nghiêng về những kiểu mẫu phân biệt chủng tộc. Trong một nghiên cứu, những người tham gia vào một giả định trên máy tính được hướng dẫn bắn tội phạm xuất hiện trên màn hình nhưng không được bắn cảnh sát hoặc công dân không mang vũ khí.[74] Những người tham gia thường bắn nhầm những người da đen hơn những người da trắng.[75] Theo Giáo sư tội phạm học Lorie Fridell của Đại học Nam Florida, sự thù địch vốn đã kéo dài từ lâu giữa cảnh sát và các nhóm thiểu số ở Mỹ và sự lan rộng của các định kiến rập khuôn rằng tội phạm và bạo lực thường liên quan đến người da đen có thể khiến một số nhân viên cảnh sát ít tôn trọng hoặc có thái độ hung hãn hơn với những người da đen. Hầu hết chúng ta đều không phải đối diện với những quyết định sinh tử mà cảnh sát thường phải làm vì công việc của họ. Nhưng tất cả chúng ta đều dễ dàng đưa ra những phán đoán ác ý có sẵn đối với người khác. Nếu những thái độ ngầm của bạn, theo cách đo của IAT, không thống nhất với những quan điểm có nhận thức, ít nhất bạn nên cho rằng đó là một dấu hiệu cảnh báo về những cách thức mà bạn có thể phân biệt đối xử với người khác mà chính bản thân mình cũng không nhận ra. Banaji, người tin rằng sự phân biệt đối xử vô thức bị bỏ quên đòi hỏi những thay đổi mang tính hệ thống cũng khuyên chúng ta nên đặt câu hỏi về bức tranh phân biệt chủng tộc thường được phác họa trên truyền thông và nên xem xét những lựa chọn riêng của chúng ta trong việc kết bạn.[76] Càng ít tiếp xúc với những người khác biệt với chúng ta, dù là về sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, v.v..., chúng ta càng dễ nhìn họ với một lăng kính chật hẹp và có tính thiên vị. Xem xét trường hợp về hậu quả của hành động bắt giữ Gates, Crowley vẫn cho rằng mình đã hành xử hợp lý và từ chối xin lỗi Gates. Tuy nhiên, Crowley cũng sẵn sàng ngồi xuống uống bia với Gates (cũng như Tổng thống và phó Tổng thống ). Và khi những cơ hội xuất hiện trước công chúng qua đi, hai người đã gặp nhau tại River Gods, một quán bar ở Cam- bridge, khuất tầm mắt của công chúng. Cách thức giao tiếp cởi mở và phản ánh hợp lý này có thể hướng tới việc giảm thiểu những sai lầm chúng ta thực hiện khi nóng giận trong tương lai. Sự tự cao dẫn đến lạm nhận như thế nào Không có phương thức giáo dục khoa học nào và cũng không có bất kỳ lợi ích chung nào có thể dạy con người cách chia sẻ tài sản và đặc quyền với tất cả những người khác một cách công bằng và bình đẳng. Mọi người sẽ nghĩ phần chia mà bản thân có được quá nhỏ và họ sẽ luôn ghen tị phàn nàn và công kích người khác. _Fyodor Dostoyevsky, Anh em nhà Karamazov_ Bạn làm bao nhiêu phần trăm việc nhà? Đóng góp bao nhiêu phần trăm những ý tưởng hay cho nhóm của bạn? Đóng góp bao nhiêu phần trăm lợi nhuận lâu dài của công ty bằng những nỗ lực của bộ phận bạn làm? Trong mối quan hệ hợp tác giữa công ty bạn và công ty khác, bao nhiêu phần trăm thành công của liên minh này đến từ những đóng góp của công ty của bạn? Thật khó mà biết bạn có lạm nhận quá đà trong việc ghi nhận những đóng góp của mình (hoặc của nhóm mình) khi trả lời những câu hỏi này hay không. Nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hầu hết mọi người thường nhìn những đóng góp của họ cho nhóm, đóng góp của nhóm họ cho cả tổ chức và đóng góp của công ty họ cho một liên minh chiến lược quan trọng hơn và đáng kể hơn thực tế diễn ra. Thậm chí khi con người cố gắng tỉnh táo để đưa ra những đánh giá chính xác, họ vẫn lạm nhận quá mức công sức của mình. Điều này ít nhất một phần xuất phát từ “giới hạn đạo đức” của chúng ta. Giới học giả đã bị chỉ trích vì chịu thua trước hiện tượng này. Hãy xem xét trường hợp đồng chiến thắng giải Nobel Hòa bình năm 1923 cho việc tìm ra insulin. Một trong hai người chiến thắng, Frederick Banting cho rằng đồng sự của ông, John Macleod, trưởng phòng thí nghiệm của họ đã gây trở ngại nhiều hơn là hỗ trợ. Về phần mình, trong những bài diễn văn mô tả những nghiên cứu dẫn đến khám phá này, Macleod, theo một cách nào đó đã quên đề cập đến việc ông có một đồng sự.[77] Gần đây, Max và những cộng sự của ông là Eugene Caruso và Nick Epley đã phải yêu cầu các tác giả của bài viết đồng đứng tên cả bốn người để thừa nhận những đóng góp của họ đối với bài viết chung. Tổng số đóng góp mà bốn cá nhân nhận về mình lên tới 140%. Chúng ta không biết rằng cả bốn người đều quá lạm nhận công sức của mình hay không nhưng phải nhìn nhận rằng cả bốn người cộng lại đã vượt quá 40% tổng số công việc mà họ đáng được nhận. Kết quả của những sự lạm nhận chân thật này (chân thật là vì mỗi người đều tin rằng tính toán của mình là chính xác) là việc khiến cho tất cả hoặc hầu hết các tác giả tham gia vào công trình này cảm thấy rằng nhóm không thể đánh giá đúng những đóng góp của họ dựa trên những gì mà họ đã làm. Tệ hơn nữa, xung đột có thể nổ ra khi mỗi thành viên đều tìm kiếm một yếu tố nào đó (ví dụ như thứ tự xuất hiện tên tác giả) mà anh ta/ cô ta tin rằng mình xứng đáng. Giữa những bất đồng này, chúng ta khó mà có thể đồng tình với nhau. Tại sao lại như vậy? Vì những người khác nhau chú ý vào những dữ kiện khác nhau. Khuynh hướng tập trung vào những đóng góp của riêng mình trong nỗ lực chung thay vì chú ý đến những đóng góp của các thành viên khác trong nhóm đã phản ánh một thiên hướng mở rộng nữa liên quan đến khía cạnh đạo đức: sự tự đề cao bản thân. Bản chất của chúng ta là tự đề cao chính mình, nghĩa là đưa ra những phán đoán thiên về bản thân mình trong việc định đoạt sự đóng góp và khiển trách, một hiện tượng sẽ dẫn chúng ta đến những kết luận khác nhau về việc một giải pháp công bằng cho một vấn đề là gì. Cụ thể, chúng ta thường có khuynh hướng đánh giá đóng góp của mình đối với một kết quả nào đó dựa trên sự tư lợi rồi đánh giá những đóng góp này dựa trên sự công bằng bằng cách thay đổi tầm quan trọng của những yếu tố ảnh hưởng đến cái gọi là công bằng.[78] Thử nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu cả bị cáo và nguyên cáo trong một tranh chấp lao động đều trình bày những thông tin giống y hệt nhau. Cả hai bên xử lý thông tin khác nhau và theo cách có lợi cho quan điểm riêng của mình, các nhà nghiên cứu đã chứng minh điều này. So với bên nguyên đơn, bên bị đơn thường nhớ đến những chi tiết có lợi cho trường hợp của họ và không nhớ đến những chi tiết có lợi cho bên nguyên. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với bên nguyên đơn. Khuynh hướng nhìn nhận sự việc theo hướng có lợi cho mình ảnh hưởng đến quan điểm của các bên liên quan về việc cái gì cấu thành nên cách giải quyết công bằng; tương tự, mức độ bất đồng giữa người lao động và nhà sử dụng lao động trong những vụ tranh chấp hợp đồng về việc thế nào là công bằng có thể dự đoán được một cuộc đình công sẽ kéo dài bao lâu. Sự khác biệt trong cách xử lý thông tin không chỉ là chiến lược, nó xảy ra dù chúng ta muốn hay không. Trí óc của chúng ta thật ra chỉ tiếp nhận những thông tin có lợi cho mình và cố tình loại đi những thông tin ngược lại. Và rồi, không có gì phải băn khoăn khi hầu hết những người phải đối mặt trước tòa hoặc bị dính líu vào một buổi điều trần nào đó có khuynh hướng đánh giá cao khả năng họ sẽ thắng.[79] Dĩ nhiên là họ không thể đúng; mỗi bên không thể sở hữu 75% cơ hội chiến thắng. Nhưng dựa trên những dữ kiện mà họ chọn để tiếp nhận, cả hai bên đều tin rằng mình đúng. Vấn đề nằm ở chỗ “sự thật” mà họ tin tưởng để phỏng đoán thường thiên về những con đường dẫn đến chiến thắng và bỏ qua những dữ kiện không có lợi cho trường hợp của họ. Tương tự, trong một nghiên cứu khác, sinh viên trong một lớp học đàm phán được phát cho đủ loại tài liệu (khẩu cung, các báo cáo y khoa và báo cáo của cảnh sát, v.v...) từ một vụ kiện do va chạm giữa một xe hơi và một xe máy.[80] Sinh viên được bắt cặp và phân vai nguyên đơn – bị đơn và được hướng dẫn các cách đàm phán trong một vụ hòa giải. Họ được biết rằng nếu họ không thể đi đến một quyết định chung, bên của họ phải chịu một hình phạt đáng kể vì để vụ việc rơi vào bế tắc; ngoài ra, họ cũng được bảo rằng trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, số tiền mà bên bị đơn phải trả cho bên nguyên sẽ được định đoạt một cách công bằng bởi một thẩm phán đã có nhiều kinh nghiệm trong những vụ việc tương tự trước đó. Trước khi đàm phán, sinh viên được yêu cầu phải dự đoán được phán quyết của thẩm phán. Họ được dặn rằng những dự đoán đó không được để cho phía bên kia biết, không đóng vai trò gì trong quá trình đàm phán và sẽ không ảnh hưởng đến quyết định của thẩm phán (vốn đã được thực hiện rồi). Tuy nhiên, dự đoán của bên nguyên về số tiền phạt cao hơn gấp đôi so với dự đoán của bị đơn và mức độ khác nhau giữa hai bên là một yếu tố tuyệt vời giúp tiên đoán xem họ có thể dàn xếp được vụ việc hay không (trái với việc dựa trên phán quyết của thẩm phán). Việc mọi người thường đặt mình vào trung tâm và tự đề cao bản thân đã được quan sát trong trường hợp các vận động viên trình bày thành tích của mình đối với thành công của cả đội, trường hợp các sinh viên MBA trình bày đóng góp của mình với các dự án nhóm và các cá nhân dự đoán vai trò của mình trong những nỗ lực xin tài trợ.[81] Các cặp vợ chồng cũng cho thấy khó khăn tương tự trong việc nhìn nhận chính xác những đóng góp của mỗi bên vào việc nhà. Khi được yêu cầu dự đoán phần trăm công việc nhà mà họ làm, cả hai bên đều có khuynh hướng nói rằng họ làm hơn 50% khối lượng công việc.[82] Bạn có thể sẽ nhớ rằng bạn đã rửa chén, giặt đồ và trả tiền các hóa đơn. Nhưng bạn có thể sẽ quên, hoặc chưa bao giờ đưa vào bộ não thông tin rằng bạn đời của mình cũng phải cân đối thu chi, đổ rác và chăm sóc vườn tược. Kết quả là bạn tin rằng mình làm nhiều hơn số việc mà có thể bạn đã thực sự làm. (Với riêng chúng tôi, chúng tôi tin chắc rằng mình làm khoảng 75% công việc nhà – chúng tôi chỉ đang nói về trường hợp của các bạn!) Sự đề cao bản thân không chỉ thúc đẩy chúng ta đòi hỏi nhiều hơn những gì chúng ta thật sự làm mà còn đòi hỏi quá mức các nguồn tài nguyên.Việc đòi hỏi quá mức các nguồn tài nguyên khan hiếm là gốc rễ của những cuộc khủng hoảng môi trường gây nhiều tranh cãi nhất của xã hội, bao gồm cả sự tuyệt chủng của nhiều loài và biến đổi khí hậu. Những cuộc khủng hoảng này có thể được miêu tả như những trường hợp song đề xã hội (social dilemmas) hoặc những tình huống mà mỗi thành viên trong nhóm đề ra các sáng kiến ngắn hạn để hành động theo cách có lợi cho mình nhưng tất cả thành viên của nhóm và cả xã hội sẽ phải chịu hậu quả của hành vi tư lợi này trong một khoảng thời gian dài. Trong bài báo nổi tiếng Bi kịch của cái chung, Garre Hardin đã trình bày một ví dụ sinh động của một trường hợp song đề xã hội điển hình. Tưởng tượng rằng một nhóm người chăn gia súc đang thả gia súc của họ chung trên một đồng cỏ. Mỗi người đều muốn gia súc của mình lớn nhanh để gia tăng lợi nhuận. Nhưng nếu có quá nhiều động vật trên đồng cỏ, cuối cùng đồng cỏ sẽ chẳng còn gì. Hardin lường trước được rằng trong trường hợp này, hầu hết những người chăn gia súc sẽ “từ bỏ” lợi ích chung của cả nhóm và tập trung vào việc vỗ béo gia súc của mình, từ đó phá hủy cả đồng cỏ và như thế tất cả những người chăn gia súc đều sẽ bị giảm lợi nhuận dài hạn. Những cuộc tranh luận xung quanh vấn đề làm thế nào để đối phó với biến đổi khí hậu thường bắt nguồn từ những khác biệt trong quan điểm của các quốc gia về quyền được đòi hỏi “phần chia công bằng” các nguồn tài nguyên và quyền được phát triển. Kết quả là các nước đều đánh giá một cách khác nhau về việc họ phải chịu bao nhiêu trách nhiệm cho vấn đề này và họ phải gánh bao nhiêu trách nhiệm trong việc giải quyết hậu quả. Những quốc gia phát triển nhanh như Trung Quốc và Ấn Độ cáo buộc phương Tây vì quá trình công nghiệp hóa kéo dài từ xưa đến nay và sự tiêu thụ quá mức tài nguyên của họ. Trong khi đó, Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác có khuynh hướng đổ lỗi cho các nước đang phát triển vì đốt rừng, vì quá đông dân và sự mở rộng kinh tế không kiểm soát được. Cụ thể, Mỹ và Trung Quốc, những nước chịu trách nhiệm cho việc thải ra đến 42% lượng khí thải nhà kính có khuynh hướng chỉ trích lẫn nhau trong vấn đề này. Trong những bài diễn văn trong suốt chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 7 năm 2009, Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Steven Chu và Bộ trưởng Thương mại Gary Locke kêu gọi Trung Quốc kìm hãm tốc độ của việc thải khí thải nhà kính. Nếu Trung Quốc từ chối hành động, ông Chu cho biết, lượng khí thải nhà kính của nước này trong 30 năm tới sẽ nhiều hơn toàn bộ lượng khí thải của Mỹ trong toàn bộ lịch sử.[83]“Năm mươi năm nữa, chúng tôi không muốn thế giới cáo buộc những bước chân của Trung Quốc dẫn đến thảm họa môi trường”, ông Locke nói. Khi đưa tin về những bài phát biểu của ông Chu và ông Locke, trang thông tin chính thức của Trung Quốc – Tân Hoa Xã đã không đề cập đến trách nhiệm của Trung Quốc trong biến đổi khí hậu hay những chỉ trích từ phía Mỹ, thay vào đó tập trung vào việc ông Locke thừa nhận Mỹ đã thải khí thải nhà kính trong 150 năm. Có thể chính phủ Mỹ rất mong muốn đạt được một thỏa thuận về biến đổi khí hậu công bằng cho cả Mỹ và Trung Quốc nhưng quan điểm của Mỹ về cái gọi là công bằng có khuynh hướng thiên về phía có lợi cho mình và điều tương tự cũng diễn ra với Trung Quốc. Thật không may, việc đặt mình ở vị trí trung tâm đã khiến tất cả các quốc gia tin tưởng rằng họ thật sự chịu ít trách nhiệm trong việc kìm hãm biến đổi khí hậu hơn là tin vào một bên độc lập nào đó với những đánh giá công bằng. Vấn đề căng thẳng không phải đến từ mong muốn không công bằng của chúng ta mà đến từ việc chúng ta không có khả năng nhìn nhận thông tin một cách khách quan. Ngoài ra, biến đổi khí hậu là một vấn đề cực kỳ phức tạp mà lại thiếu các số liệu kỹ thuật và khoa học thuyết phục. Sự không chắc chắn này càng cho phép sự tự cao phát triển nhanh. Khi các số liệu rõ ràng, khả năng hoạt động của tâm trí chúng ta để tìm kiếm sự công bằng sẽ bị giới hạn nhưng dưới những điều vô cùng bất định, tính cá nhân sẽ trỗi dậy mạnh mẽ. Việc đánh bắt cá quá mức là một ví dụ khác của tình trạng song đề xã hội đang lan rộng và khó sửa chữa bắt nguồn từ tính cá nhân. Vì cá thường cư trú ở các vùng biển khơi nên dễ dàng bị đánh bắt và rất dễ bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng. Lấy trường hợp của cá ngừ vây xanh, số lượng loài này đã bị giảm đi rất nhiều do tình trạng đánh bắt cá tràn lan. Hiện đang là loài cá giá trị nhất đại dương, một con cá ngừ vây xanh trưởng thành có thể dài đến 10 feet[84]và nặng khoảng 1.500 pounds[85]. Ở Tokyo, một con cá ngừ vây xanh có thể được bán với giá lên tới 150.000 đô-la. Trở lại năm 1969, khi hàng đàn cá ngừ vây xanh lang thang khắp các khu vực biển Bắc, biển Baltic và Địa Trung Hải, một trong những tổ chức nghề cá liên chính phủ cấp khu vực đã được thành lập để giám sát sự bảo tồn cá ngừ vây xanh, đó là tổ chức: Ủy ban quốc tế về Bảo tồn cá ngừ Đại Tây Dương (ICCAT). Tuy nhiên, vài chục năm sau, số lượng những đàn cá ngừ vây xanh đã giảm sút đáng kể. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng nếu việc đánh bắt cá ngừ vây xanh bị cấm triệt để thì số lượng cá ngừ ở khu vực Địa Trung Hải và Đông Bắc Đại Tây Dương cũng vẫn có thể sẽ suy giảm tới mức báo động. Trong những năm gần đây, ICCAT đã thiết lập hạn ngạch đánh bắt cá chỉ cho phép đánh bắt khoảng 30.000 tấn cá ngừ vây xanh một năm với kế hoạch sẽ hạ mức hạn ngạch này xuống còn 25.500 trong thời gian gần nhất. Tuy nhiên sản lượng khai thác cá hợp pháp lại ít được theo dõi và hành động đánh bắt trái phép cá ngừ vây xanh lại phát triển mạnh. ICCAT đã hoạt động kém hiệu quả trong việc quản lý các đàn cá ngừ vây xanh đến mức người ta đùa rằng những ký tự viết tắt tên nhóm thật ra là “Âm mưu quốc tế đánh bắt tất cả cả ngừ”. Thật vậy, một ban đánh giá độc lập bao gồm các chuyên gia do ICCAT chỉ định đã cho rằng sự quản lý ngành đánh bắt hải sản của tổ chức này “được coi là một sự sỉ nhục mang tính quốc tế”. Tại sao IC- CAT lại hoạt động kém hiệu quả đến vậy? Vì ICCAT thiếu sự kiểm soát 64 quốc gia thành viên, tức là không kiểm soát tính cá nhân của họ.[86] Một giải pháp cho vấn đề này, ít nhất trong phần này, nằm ở chỗ nhận thức được những thành trì mà tính cá nhân ảnh hưởng lên quyết định của các thành viên ICCAT. Do không nhận thức được những tác động mạnh mẽ của sự thiên vị này, chúng ta không thể trông đợi những người đánh bắt cá riêng lẻ tình nguyện cam kết giảm hoạt động của họ dưới danh nghĩa vì cái tốt chung. Dĩ nhiên, thay đổi ở cấp độ hệ thống là cần thiết. Vào tháng 9 năm 2008, tại một cuộc gặp của Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế, hầu hết các quốc gia đã ký một nghị quyết kêu gọi cấm đánh bắt cá ngừ vây xanh, tiếp theo là cải thiện vấn đề quản lý và các biện pháp thực thi. Nhưng ngay sau khi giải pháp được thông qua, chính phủ đã đi ngược lại lời hứa của họ. Người phát ngôn cho Hiệp hội điều hành Ngư dân châu Âu đã nói rằng lệnh cấm đánh bắt cá ngừ vây xanh này là “Sự tuyệt vọng của những ngư dân Ý, Tây Ban Nha và Pháp”. Cũng dễ đồng cảm với những ngư dân này – nếu lệnh cấm thực sự được thực thi thì cuộc sống của họ sẽ gặp không ít khó khăn. Nhưng nếu ngành đánh bắt hải sản được quản lý hiệu quả trong hơn 40 năm qua, ngư dân đã có thể tiếp tục đánh bắt cá mà không phải lo sợ lệnh cấm nào cả. Hơn nữa, đối với những ngư dân đánh bắt cá ngừ vây xanh, nếu họ có bất kỳ hy vọng nào trong việc phục dựng một ngành đánh bắt hải sản phát triển bền vững cho con cháu mình, họ cần dừng việc đánh bắt cá ngừ và để cho loài này có thể sinh sôi trở lại. Nhưng những hoạt động đánh bắt cá mang tính mùa vụ vẫn tiếp tục diễn ra.[87] Quá trình tuyệt chủng dần dần của cá ngừ vây xanh chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện liên quan đến sự suy sụp và cạn kiệt của ngành đánh bắt hải sản. Khắp vùng biển khơi, có quá nhiều những chiếc thuyền công nghệ cao và tàu lưới kéo đang đuổi theo các loài cá ngày càng có nguy cơ tuyệt chủng. Ngư dân đã xóa sổ toàn bộ quần thể cá quý rồi lại chuyển sang các loài cá ít hấp dẫn hơn. Cùng chung số phận với đa số các lưu vực đánh bắt cá trên toàn thế giới, cá tuyết và cá tuyết chấm đen cũng đang dần dần bị đánh bắt quá mức ở khu vực Đông Bắc Mỹ và cá mập cũng bị đánh bắt ngoài khơi vùng đông nam nước Mỹ. Thật không may, ngư dân thường chỉ quan tâm đến việc giải quyết khủng hoảng đánh bắt cá này vào những lúc quá trễ. Cũng như những thiên lệch khác trong lĩnh vực đạo đức hành vi, việc đòi hỏi quá đáng này đã xảy ra trong khi các cá nhân không nhận thức được hành vi của họ để lại những hậu quả đạo đức. Thật ra, phần lớn vấn đề này có thể quy về những nhóm đánh bắt cá khác nhau, họ chỉ theo đuổi quyền lợi bình đẳng của mình. Nhưng những ngư dân này đang phải chịu đựng những hậu quả lâu dài từ những đòi hỏi ngắn hạn của mình. Khi Canada bị buộc phải đóng cửa ngành đánh bắt cá tuyết vào năm 1993, 40.000 lao động bị mất việc. Gần đây, 11 trên tổng số 15 khu vực đánh bắt cá chính của thế giới và khoảng 70% loài cá hấp dẫn nhất đang trên bờ vực tuyệt chủng. Bị thúc đẩy bởi thảm họa toàn cầu này, chúng tôi đã thiết lập một trường hợp giả định với Kimberly Wade-Benzoni của Đại học Duke, dựa trên khủng hoảng thực tế tồn tại trong những năm 1980 của ngành đánh bắt hải sản vùng Đông Bắc Mỹ, khi đó vẫn còn thời gian để cứu khu vực đánh bắt cá của vùng này.[88] Giả định này miêu tả một hội nghị bao gồm bốn đại diện đến từ các nhóm thương mại và tái tạo ngành đánh bắt hải sản. Những đại biểu tham gia được chia thành những nhóm 4 người và mỗi người được giao nhiệm vụ đại diện cho một trong bốn nhóm ngành đánh bắt hải sản. Bốn nhóm đánh bắt cá này có những cấp độ lợi ích khác nhau từ cuộc đàm phán nhưng tất cả họ đều nên giảm một nửa việc đánh bắt cá của mình để còn có thể tiếp tục đánh bắt cá trong tương lai. Mỗi đại biểu đọc một bản số liệu miêu tả chung về khủng hoảng của ngành đánh bắt hải sản và cùng họp với nhau thành một nhóm bốn người trong một cuộc thảo luận không ràng buộc kéo dài 30 phút. Tiếp đó, chúng tôi yêu cầu mỗi người tham dự bí mật nói với chúng tôi quan điểm của họ về sự phân chia công bằng trong việc đánh bắt cá trong số bốn nhóm tham gia và nói với chúng tôi số lượng cá mà họ sẽ đánh bắt trong năm tới. Với mỗi người tham dự, chúng tôi tính toán phần trăm sản lượng cá họ sẽ thu hoạch trong tương lai mà họ tin rằng như vậy là công bằng cho nhóm đánh bắt cá của mình. Chúng tôi thấy rằng (và những kết quả này cũng đã được kiểm tra lại nhiều lần) những cách hiểu hướng về lợi ích bản thân trong cách hiểu về sự công bằng có tồn tại: tổng số phần trăm mà bốn nhóm đòi hỏi vượt xa con số 100%. Thêm vào đó, những cách hiểu có lợi cho bản thân này là một chỉ số tuyệt vời để dự đoán việc đánh bắt cá quá đà trong giả định này. Những kết quả thực nghiệm này cho thấy rằng những khủng hoảng ngành đánh bắt hải sản trên thực tế và những đòi hỏi quá đáng khác sẽ diễn ra vì những người chân thật là những người đặt mình vào trung tâm và có những cái nhìn khác nhau một cách chân thật nhất về cái gọi là công bằng. Nếu điều này đúng, họ sẽ không nhận ra khi họ có một đòi hỏi không công bằng. Tạo dựng nhận thức về khuynh hướng tự nhiên của việc đòi hỏi nhiều hơn nhu cầu và tính cá nhân sẽ cung cấp các giải pháp hiệu quả về vấn đề khủng hoảng môi trường hiện tại. Thật ra, giáo dục các cá nhân về ảnh hưởng của tính cá nhân đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc giúp họ nhận thức được tính cá nhân của những người khác.[89] Chính vì thế, trước khi bạn cho rằng ai đó ích kỷ, hãy cố gắng đặt mình vào vị trí của họ. Tự hỏi mình rằng liệu người đó có tin rằng bản thân xứng đáng với những gì anh ta/cô ta đòi hỏi hay không. Ví dụ, những người chủ sẽ trở nên thông thái nếu dành thời gian suy nghĩ đến quan điểm của nhân viên về việc xác định giá trị của bản thân trước khi mở một cuộc thảo luận về tiền thưởng cho nhân viên. Thật không may, những hoạt động giáo dục về tính cá nhân không làm giảm ảnh hưởng của tính cá nhân lên hành vi của chính chúng ta. Trong khi chúng ta nhận ra rằng những người khác vị kỷ, chúng ta không tin rằng sự thiên lệch này cũng đang tác động lên chính mình – một cách hiểu vị kỷ về những thiên lệch mang tính vị kỷ cá nhân. Một vài lời khuyên của nhà triết học John Rawls khá thích hợp với vấn đề này. Rawls đề xuất rằng sự công bằng nên được tiếp cận dưới một “bức màn vô hình” – có nghĩa là chúng ta tốt nhất nên đánh giá một tình huống mà không biết rằng mình cũng có vai trò trong đó. Như vậy, khi phân chia một chiếc bánh, một người có thể là “người chia bánh” và người kia là người đầu tiên lấy một miếng bánh đã được chia. Quá “chiết khấu” tương lai Bạn muốn nhận được 1.000$ ngay trong hôm nay hay 1.180$ một năm từ nay trở về sau? Trong những thí nghiệm được kiểm soát, rất nhiều người đã chọn vế đầu, bất chấp cơ hội có thêm 18% một năm cho sự đầu tư của mình. Tương tự, các chủ nhà thường không hay bảo vệ nhà của họ một cách hợp lý và không mua các thiết bị tiết kiệm năng lượng và các thiết bị thắp sáng huỳnh quang, thậm chí khi họ có thể nhanh chóng hoàn vốn và tỷ suất lợi nhuận còn nhiều hơn gấp nhiều lần con số 18% nêu trên. Như những câu chuyện minh họa trên, chúng ta thường sử dụng một tỷ lệ chiết khấu rất cao từ tương lai. Chúng ta có khuynh hướng tập trung vào hoặc quá coi trọng những suy tính ngắn hạn so với những suy tính thiệt hơn lâu dài. Kết quả của lối suy nghĩ này là có quá nhiều người dành dụm quá ít cho lúc về hưu, gây nên một cuộc khủng hoảng cá nhân cho chính họ và cho gia đình của họ. Khuynh hướng làm ngơ những hệ quả tương lai từ những hành động của chúng ta đã diễn ra khá rõ nét trong cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ bắt đầu vào năm 2006 và khơi mào cho sự sụp đổ tài chính vào năm 2008 – 2009. Trong suốt giai đoạn bong bóng bất động sản, những nhà phát triển và những chủ cho vay đã thực hiện một công cuộc kinh doanh bùng nổ tham dự vào việc xây dựng ngày càng nhiều nhà và chào mời hình thức mua nhà trả góp cho nhiều người. Những công dân có thu nhập thấp trước đây chỉ dám mơ tới việc sỡ hữu một căn nhà riêng bỗng nhiên thấy mình được những tay môi giới nhà đất tiếp cận chào mời các món cho vay với lãi suất thấp và có thể điều chỉnh được (ARMs). Trong quá khứ, những người mua nhà cần phải chi trả một khoản đáng kể và cần phải chứng minh với người cho vay rằng họ có thu nhập đủ để chi trả các khoản nợ xấu hàng tháng trong vòng 15 đến 30 năm tới. Nhưng khi cơn bong bóng nhà đất mở rộng, các chủ cho vay bắt đầu hạ thấp tiêu chuẩn của họ. Những yêu cầu về thu nhập trở nên dễ dàng hơn. Cuối cùng, một số chủ cho vay ngừng yêu cầu chứng minh thu nhập. Bỗng nhiên, có vẻ như mỗi một “người vay nợ dưới định mức” đều có tiềm năng lấy một ARM để làm vốn cho ngôi nhà mơ ước của họ. Dĩ nhiên, những người nhận những khoản vay này nên tạm dừng một lúc để xem xét chuyện gì sẽ xảy ra khi ARMs của họ bùng nổ sau ba, năm hay bảy năm nữa. Nhưng có rất ít người đã làm điều này. “Chiết khấu” tương lai quá mức, họ chỉ tập trung một cách thiển cận vào những khoản chi phí thấp lúc ban đầu. Rồi bong bóng nhà đất bắt đầu vỡ tung, giá nhà đất sụt giảm, tỷ lệ lãi suất tăng và tình hình tài chính trở nên khó khăn hơn. Với những người mượn nợ dưới chuẩn không đủ khả năng chi trả tỷ lệ lãi suất mới của ARMs, kết quả không tránh khỏi là sự bùng phát của các khoản nợ trả không đúng thời hạn và tịch thu tài sản thế chấp nợ. Dĩ nhiên, những nhà cho vay vốn mờ mắt trước những khoản lợi nhuận cao ngất trời họ có thể kiếm được từ việc bán tống bán tháo và bán hạ giá các khoản nợ dưới chuẩn cũng bị buộc tội không đoán trước được hậu quả của việc giao nợ cho những người không đủ khả năng chi trả. Khuynh hướng lạm dụng “chiết khấu” tương lai không chỉ giới hạn trong phạm vi cá nhân mà các tổ chức cũng bị ảnh hưởng. Một trường đại học trong Ivy League đã hoàn thành một sự đổi mới quan trọng về cơ sở hạ tầng mà không sử dụng đến những sản phẩm tiết kiệm chi phi cho tầm nhìn dài hạn. Những nhà điều hành trường đại học biết rằng quyết định này là một sai lầm mang tính lâu dài. Nhưng vì những giới hạn về chi phí xây dựng, trường đã ngầm đặt một khoản chiết khấu lên những quyết định xây dựng này, nhấn mạnh đến việc giảm chi phí xây dựng để dành cho những khoản đầu tư lâu dài hơn liên quan đến việc điều hành trường. Trong quá trình này, trường đã cam kết rằng sẽ dành một khoản đầu tư thỏa đáng cho văn phòng tài chính. Thêm vào đó, trường đã trở nên ít thân thiện với môi trường hơn trong kế hoạch xây dựng tòa nhà tương lai như đã đề xuất. Cộng các yếu tố này lại, tỷ lệ khấu hao không nhất quán của trường đã khiến danh tiếng của những nhà điều hành bị hủy hoại dần dần. Ngược lại, là một phần của Sáng kiến khuôn viên xanh, Đại học Harvard đã lập nên một quỹ ủng hộ tài chính cho các dự án phát triển môi trường bền vững cho các trường thành viên của đại học này vốn có thể đã bị bỏ sót vì những áp lực ngân sách mang tính ngắn hạn. Dựa trên thảm họa tài chính mà trường Harvard và các trường đại học khác gặp phải vào năm 2008, những sáng kiến môi trường này trở thành một trong những khoản đầu tư đáng giá nhất mà trường thực hiện. Khi một cá nhân hay một tổ chức áp dụng tỷ lệ khấu hao cao một cách không hợp lý cho các quyết định, các nhà nghiên cứu về quyết định hành vi có khuynh hướng xem nó là sai lầm trong quyết định. Nhưng chúng tôi thì cho rằng khi những người khác phải chịu đựng hậu quả từ một sai lầm không phải do mình và các thế hệ tương lai bị buộc phải trả giá cho những sai lầm đó, vấn đề này sẽ trở thành một vấn đề liên quan đến đạo đức. “Chiết khấu” quá mức tương lai không chỉ là ngu ngốc mà còn là vô đạo đức vì nó lấy đi cơ hội và nguồn tài nguyên của các thế hệ sau này. Nhưng nhiều người, nhiều tổ chức và quốc gia vẫn mắc phải những sai lầm này mà không nhận thức được rằng hành vi của họ là sản phẩm của giới hạn đạo đức và trong nhiều trường hợp là phi đạo đức. Khi mọi người nói rằng họ muốn trân trọng Trái Đất, nhìn chung họ thường nghĩ về con cháu mình. Nhưng khi có cơ hội đầu tư cho các thế hệ tương lai bằng cách giảm chất lượng sống của chính mình, chúng ta bắt đầu nhìn các thế hệ tương lai rất mờ nhạt đến nỗi họ không còn ảnh hưởng nhiều đến những lựa chọn của chúng ta nữa. Ở cấp độ xã hội, những vấn đề gây ra do sự “chiết khấu” quá mức tương lai có thể rất nghiêm trọng. Những tỷ lệ chiết khấu cao một cách không hợp lý dẫn đến các vấn đề môi trường, bao gồm cả việc khai thác cạn kiệt đại dương mà chúng ta đã bàn luận ở trên và thất bại trong việc đầu tư những công nghệ mới để chống lại biến đổi khí hậu. Herman Daly quan sát thấy rằng chúng ta thường đưa ra những quyết định về môi trường như thể trái đất là “một doanh nghiệp cần thanh lý”. Chúng ta “chiết khấu” tương lai nhiều nhất khi là việc của tương lai xa và không chắc chắn và khi có dính líu đến sự phân chia nguồn lực giữa các thế hệ. “Chiết khấu” tương lai dẫn đến sự tuyệt chủng của các giống loài, sự tan băng ở hai cực, rò rỉ uranium và sự ô nhiễm đến từ các chất thải độc hại.[90] Những hành vi đạo đức không chủ đích ảnh hưởng từ việc “chiết khấu” quá mức tương lai không chỉ là một vấn đề môi trường. Điều này cũng giúp giải thích quy mô đồ sộ của khoản nợ quốc gia ở Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Khi thế hệ bùng nổ dân số (baby boomer) gần nghỉ hưu, nước Mỹ sẽ phải đối mặt với các chi phí liên quan đến dân quyền cao chưa từng thấy. Một dân số già, tuổi thọ dài hơn và các chi phí chăm sóc sức khỏe tăng cao sẽ kết hợp tạo nên các chi phí An ninh xã hội (Social Security), Chăm sóc y tế (Medicare) và Trợ cấp y tế tiểu bang (Medicaid) tăng cao ngất trời vào năm 2030. Cùng lúc đó, tỷ lệ người nghỉ hưu so với người đi làm dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong khoảng từ năm 2000 đến 2030. Ít người làm việc sẽ ảnh hưởng đến lượng tiền thuế dùng để chi trả các khoản phí hàng triệu USD của người già. Đảng Cộng Hòa thường phản đối các loại thuế mới và cắt giảm chi tiêu quốc phòng trong khi Đảng Dân chủ phản đối việc cắt giảm các dịch vụ xã hội. Cả hai đảng tin rằng họ đang bảo vệ cho các nguyên tắc đạo đức nhưng họ đều theo đuổi các chương trình chính trị trong khi cùng nhau bỏ qua những vấn đề phức tạp về tài chính không đạo đức mà họ để lại cho những thế hệ tương lai. Ví dụ, xem xét kế hoạch của Tổng thống George W.Bush hỗ trợ chi phí thuốc kê theo toa cho người già. Khi kế hoạch được thực hiện vào ngày 1 tháng 1 năm 2006, nó quá rắc rối đến nỗi hầu hết những người được nhận trợ cấp thuốc không biết làm cách nào để đăng ký và rất nhiều người khác không thể nhận được đơn thuốc của mình tại những điểm được giảm giá như chính phủ đã hứa. Kế hoạch này cấm chính phủ đàm phán giá thuốc với các công ty dược như đã từng xảy ra với các chương trình sức khỏe liên bang khác – đây là một “sai sót” trong bản thảo có lợi về tài chính cho các công ty bảo hiểm, tức là họ thu lợi từ tiền của người đóng thuế và người nghỉ hưu. Kế hoạch “Medicare D” nhiều tai tiếng được cho là sẽ tiêu tốn hơn 1 nghìn tỷ USD trong 10 năm đầu để đảm bảo cho sự tồn tại của nó và đóng góp đến 1.3 nghìn tỷ vào khoản thâm hụt ngân sách vào cuối thời cầm quyền của Bush. Nhưng do quyền lực của các nhóm lợi ích đặc biệt, các nhà Dân chủ chỉ làm qua loa trong việc loại bỏ kế hoạch không được nhiều chào đón này thậm chí sau khi đã giành được quyền điều khiển các nhóm hoạt động và pháp lý của chính phủ vào năm 2009. Trong chương này, chúng ta đã tìm hiểu một loạt những sai sót về vấn đề đạo đức có thể đã tạo nên đạo đức giới hạn. Đặc biệt, chúng ta nghiên cứu các tình huống trong lĩnh vực đạo đức hành vi – trong đó những người ra quyết định thường dính đến những hành vi vô đạo đức mà họ không hề nhận ra. Sau khi đã mô tả bản chất của những lỗi lầm này, trong chương tới chúng ta sẽ nói về việc tại sao những người thật thà, thông minh lại dính líu vào những hành động thiếu đạo đức và hệ quả là họ sẽ thiếu đạo đức hơn là họ vẫn nghĩ về bản thân. _____________________________ Chú thích: [58] J. S. Cohen, S. St. Clair, và T. Malone (29/5/2009), “Clout Goes to Col- lege” (Tạm dịch: “Khăn tay tới trường”). [59] Cohen, St. Clair và Malone 2009. [60] Cohen, St. Clair và Malone 2009. [61] Cohen, St. Clair và Malone 2009. [62] S. Saulny (7/8/2009), “U. of Illinois Manipulated Admissions, Panel Finds” (Tạm dịch: Khám phá quy tắc tuyển sinh tại trường Đại học ở Illinois). [63] Cohen, St. Clair và Malone 2009. [64] Cohen, St. Clair và Malone 2009. [65] P. Schmidt (6/4/2007), “Children of Alumni Are Uniquely Harmed by Admissions Preferences, Study Finds” (Tạm dịch: Theo nghiên cứu, những CỰU NHÂN VIÊN sinh viên thường bị ảnh hưởng quyền lợi bởi đặc quyền trong quá trình tuyển sinh). [66] Ivy League hay Liên đoàn Ivy là một liên đoàn thể thao bao gồm tám cơ sở giáo dục đại học ở miền Đông Bắc Mỹ. Tuy nhiên Ivy League hiện nay còn thường được dùng để chỉ nhóm tám trường đại học và viện đại học thành viên có hệ thống, triết lý giáo dục và chất lượng đào tạo lâu đời và đứng đầu của nước Mỹ (Chú thích biên tập). [67] “The Curse of Nepotism” (8/1/2004) (Tạm dịch: Lời nguyền Lạm quyền). [68] “The Curse of Nepotism” (8/1/2004) (Tạm dịch: Lời nguyền Lạm quyền). [69] P. E. Tetlock, G. Mitchell, và T. L. Murray (2008), “The Challenge of Debiasing Personnel Decisions: Avoiding Both Under and Overcorrection” (Tạm dịch: Thách thức trong việc loại bỏ sự ưu ái cá nhân trong quyết định: tránh quá sơ sài hay quá kỹ lưỡng). [70] L. A. Rudman và R. D. Ashmore (2007), “Discrimination and the Implicit Association Test” (Tạm dịch: Bài kiểm tra phân biệt đối xử và những tiềm ẩn trong tổ chức). [71] M. Bertrand, D. Chugh, và S. Mullainathan (2005), “Implicit Dis- crimination” (Tạm dịch: “Tiềm ẩn sự phân biệt đối xử”). [72] A. R. Green, D. R. Carney, D. J. Pallin, L. H. Ngo, K. L. Raymond, L. I. Lezzoni, và M. R. Banaji (2007), “Implicit Bias among Physicians and Its Prediction of Thrombolysis Decisions for Black and White Patients” (Tạm dịch: Tiềm ẩn sự kỳ thị trong các nhà tâm lý và dự đoán trong quyết định làm tan huyết khối với các bệnh nhân da đen và da trắng). [73] D. O. Rooth (2007), “Implicit Discrimination in Hiring: Real World Evidence,” (Tạm dịch: Tiềm ẩn sự phân biệt đối xử trong tuyển dụng: Bằng chứng có thực). [74] Correll, B. Park, C. M. Judd, và B. Wi enbrink (2002), “The Police Officer’s Dilemma: Using Ethnicity to Disambiguate Potentially Threatening Individuals” (Song đề Cảnh sát: Sử dụng đạo đức để loại bỏ cá nhân có khả năng đe dọa), Journal of Personality and Social Psychology 83:1314–29. [75] C. Y. Johnson (30/7/2009), “Research Shows Key Role for Unconscious Bias; A itudes Believed to Be Learned Early” (Tạm dịch: Nghiên cứu cho thấy luật tối quan trọng để giải quyết xu hướng bài xích vô thức là cần phải học cách thể hiện thái độ từ sớm). [76] Johnson 2009. [77] S. Harris (1946), Banting’s Miracle: The Story of the Discovery of In- sulin (Tạm dịch: Điều kỳ diệu của Banting: Câu chuyện về sự khám phá ra Insulin). [78] D. M. Messick và K. P. Sentis (1979), “Fairness and Preference” (Tạm dịch: Công bằng và ưu tiên). M. Messick và K. P. Sentis (1983), “Fairness, Preference, and Fairness Biases” (Tạm dịch: Công bằng, Ưu tiên và Bài xích công bằng) trong “Học thuyết công bằng”: Quan điểm Tâm lý học và Xã hội học, D. M. Messick và K. S. Cook biên tập. [79] L. Thompson và G. Loewenstein (1992), “Egocentric Interpretations of Fairness and Interpersonal Conflict” (Tạm dịch: Lý giải vị kỷ về tính công bằng và xung đột lợi ích giữa các cá nhân). [80] M. H. Bazerman và M. A. Neale (1982), “Improving Negotiation Ef- fectiveness under Final Offer Arbitration: The Role of Selection and Training” (Tạm dịch: Nâng cao hiệu quả đàm phán dưới cơ sở công bằng: Vai trò của việc lựa chọn và đào tạo). [81] L. Babcock, G. Loewenstein, S. Issacharoff và C. Camerer (1995), “Biased Judgements of Fairness in Bargaining” (Tạm dịch: Phán xử thiên vị trong Công bằng giao thương). [82] E. Caruso, N. Epley và M. H. Bazerman (2006), “The Costs and Ben- efits of Undoing Egocentric Responsibility Assessments in Groups” (Tạm dịch: Cái giá và lợi ích của việc không đánh giá ích kỷ trong trách nhiệm tập thể); L. R. Brawley (1984), “Unintentional Egocentric Biases in A ributions” (Tạm dịch: Thiên vị vị kỷ vô thức trong khen thưởng); D. R. Forsyth và B. R. Schlen- ker (1977), “A ributional Egocentrism Following Performance of a Competitive Task” (Tạm dịch: Đóng góp vị kỷ kéo theo sự thể hiện trong các công việc đòi hỏi tính cạnh tranh);A. Zander (1971), Motives and Goals in Groups (Tạm dịch: Động cơ và mục tiêu trong tập thể). [83] M. Ross và F. Sicoly (1979), “Egocentric Biases in Availability and At- tribution” (Vị kỷ thiên vị trong đóng góp và hiện hữu). [84] Đơn vị đo chiều dài của Anh – Mỹ, 1 feet=30,48cm [85] Đơn vị đo trọng lượng của Anh – Mỹ, 1 pounds=0,45359kg [86] K. Bradsher (15/7/2009), “U.S. Officials Press China on Climate” (Tạm dịch: Giới chức Mỹ gây sức ép lên Trung Quốc trong vấn đề biến đổi khí hậu). [87] “Managed to Death” (Tạm dịch: Chuẩn bị cho cái chết) (30/8/2008), The Economist biên tập. [88] “Managed to Death” 2008. [89] “Managed to Death” 2008. [90] “Managed to Death” 2008. Chương 4 TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG CÓ ĐẠO ĐỨC NHƯ MÌNH NGHĨ? Ở chương 1, chúng tôi đã yêu cầu bạn đánh giá sự đạo đức của mình so với những người khác. Chúng tôi cũng yêu cầu các nhóm người làm công tác quản lý trả lời những câu hỏi tương tự, ví dụ như là bạn kém thành thật, thành thật ngang bằng hay thành thật hơn bạn bè mình. Chắc bạn có thể đoán được, đại đa số họ tin rằng mình thành thật hơn phần lớn những người khác. Bây giờ hãy xem xét một cuộc khảo sát gần đây được tiến hành với học sinh trung học.[91] Gần hai phần ba số em được khảo sát đã gian lận trong các kỳ kiểm tra trong năm vừa rồi, hơn một phần ba thừa nhận rằng các em đã chép văn từ Internet, gần một phần ba thừa nhận ăn cắp trong các cửa hàng trong năm qua và hơn 80% nói rằng các em đã nói dối cha mẹ về những vấn đề quan trọng. Nhưng 93% số học sinh trung học này nói rằng các em hài lòng với mặt đạo đức trong con người mình. Như một nghiên cứu đạo đức hành vi có thể đoán trước, một số những vụ tai tiếng liên quan đến đạo đức đình đám trong những năm vừa rồi đều liên quan đến những người khăng khăng cho rằng mình đạo đức hơn những gì mà họ thể hiện qua hành động. Kenneth Lay, CEO của Enron, liên tục lặp đi lặp lại rằng ông ta không làm gì sai trong thời kỳ đương chức tại doanh nghiệp làm ăn thua lỗ của mình. Bill Clinton đã nói với công chúng Mỹ và có lẽ thuyết phục chính mình rằng ông không có quan hệ tình ái với Monuca Lewinsky. Và sau khi Bob Blagojevich, CỰU NHÂN VIÊN thống đốc bang Illinois bị buộc tội rao bán chiếc ghế nghị sĩ bỏ trống trong chính phủ của Brack Obama cho người trả giá cao nhất, ông ta vẫn khăng khăng rằng mình vô tội khi đối diện với những bằng chứng chất chồng. Một vài cách giải thích có thể được áp dụng cho những tuyên ngôn về đạo đức và việc chối bỏ các hành động sai trái khi đối diện với những hành vi rõ ràng là không trung thực. Đầu tiên, có thể là người đó thật sự ngây thơ; chỉ khi chúng ta đã tiếp cận tất cả thông tin về việc làm của anh ta, chúng ta có thể đồng tình với đánh giá của anh ta về mặt đạo đức của mình. Thứ hai, có thể người đó không thật sự tin rằng anh ta đã hành động hợp đạo đức nhưng vẫn nói rằng như vậy là đạo đức để tránh những tổn thất đi kèm theo các hành vi trái đạo đức của mình. Cách giải thích thứ ba và chúng tôi cũng cho là cách giải thích khả dĩ nhất và lại là cách phức tạp nhất trong việc cải thiện hành vi con người: có thể là người đó vốn dĩ đã tin vào đạo đức của riêng mình và mặc cho các bằng chứng thể hiện sự đối lập. Bạn có thể chưa bao giờ bị buộc tội tạo dựng nên những mối quan hệ kinh doanh giả để lừa tiền của các nhà đầu tư, có mối quan hệ với thực tập sinh hay rao bán chiếc ghế nghị sĩ. Nhưng bạn cũng như Lay, Clinton và Blagojevich (và như chúng tôi) tin rằng bạn đạo đức hơn con người thật sự của mình hoặc là đạo đức hơn những gì người khác đánh giá bạn. Các nghiên cứu về đạo đức hành vi cho rằng những thiên lệch trong quá trình suy nghĩ của chúng ta đã hiện thực hóa những hành động minh họa đạo đức này. Cùng với những cộng sự của chúng tôi là Kristina Diekmann và Kimberly Wade-Benzoni, chúng tôi cho rằng sự thiên vị này xảy ra tại vài giai đoạn của quá trình ra quyết định.[92] Trước khi phải đối diện với những tình huống khó xử về đạo đức, con người cho rằng họ sẽ có những quyết định đạo đức. Khi thật sự đối diện với tình thế này, họ đưa ra các chọn lựa ngược lại. Nhưng khi nhìn lại quyết định đó, họ tin rằng mình vẫn là những người đạo đức. Đỉnh điểm của các thiên lệch này dẫn đến các quan điểm tích cực một cách sai lầm về đạo đức của chính chúng ta. Tệ hơn nữa, điều này khiến chúng ta không nhìn thấy rằng mình cần phải cải thiện đạo đức của mình và quá trình này cứ lặp đi lặp lại. Trong chương này, chúng tôi tập trung vào quá trình tâm lý mà các nhà đạo đức học hành vi đã chỉ ra là ngăn cản con người đưa ra các quyết định đạo đức tại ba giai đoạn – trước, trong và sau khi một quyết định đạo đức được thực hiện. Trước khi bạn quyết định: Những dự đoán sai Tưởng tưởng rằng một nữ sinh viên đại học trẻ tuổi đang tìm kiếm một công việc làm thêm trong trường để trang trải chi phí sinh hoạt. Cô nhìn thấy một mẩu quảng cáo cần người trợ giúp cho việc nghiên cứu ở trường. Giờ làm việc và tiền lương phù hợp với những gì cô đang tìm kiếm vì thế cô nộp đơn xin việc ngay lập tức. Cô được gọi đến phỏng vấn và gặp một người đàn ông chỉ khoảng ngoài ba mươi. Trong suốt thời gian phỏng vấn, anh ta đã hỏi nhiều câu hỏi phỏng vấn quy chuẩn kèm theo ba câu hỏi sau: Bạn có bạn trai không? Bạn có nghĩ mình quyến rũ trong mắt người khác không ? Bạn có cho rằng phục nữ mặc áo ngực đi làm là phù hợp? Bạn nghĩ rằng cô gái trẻ nên làm gì trong trường hợp này? Nếu bạn cho rằng cô ấy sẽ nổi giận và đe dọa người phỏng vấn về những câu hỏi không phù hợp thì có khá nhiều người cũng nghĩ như bạn. Một nghiên cứu đã nghiên cứu chính xác về trường hợp này. [93] Khi được yêu cầu dự đoán họ có thể hành động như thế nào trong buổi phỏng vấn, 62% nữ sinh viên cho rằng họ sẽ hỏi người phỏng vấn vì sao lại đưa ra những câu hỏi như vậy hoặc nói với anh ta rằng những câu hỏi đó không phù hợp và 68% nói rằng họ sẽ từ chối trả lời những câu hỏi này. Dự đoán của những sinh viên này có thể không đáng ngạc nhiên nhưng họ không thành thật. Trong một nghiên cứu tương tự, những nhà nghiên cứu đưa các nữ sinh viên vào cùng một trường hợp phỏng vấn như được miêu tả ở trên. Một phỏng vấn viên nam ba mươi hai tuổi thật sự đã đưa ra những câu hỏi mang tính công kích. Điều gì đã xảy ra? Không một sinh viên nào từ chối trả lời các câu hỏi. Một số ít, chứ không phải đa số có hỏi phỏng vấn viên tại sao lại đặt ra những câu hỏi đó nhưng họ hỏi rất lịch sự và thường hỏi vào khi kết thúc cuộc phỏng vấn. Khuynh hướng của con người đưa ra những dự đoán không chính xác về các hành động của chính họ đã được ghi nhận lại trong các nghiên cứu về đạo đức hành vi và các nghiên cứu khác. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng chúng ta sẽ hành động theo cách này trong trường hợp định sẵn. Tuy nhiên, khi thật sự đối diện với trường hợp đó, chúng ta hành xử khác đi. Ví dụ của những “lỗi dự đoán hành vi” có rất nhiều. Chúng ta không giỏi trong việc dự đoán bao lâu thì chúng ta đi nha sĩ một lần. Chúng ta rất tệ trong việc ước tính mất bao lâu để hoàn thành một công việc tại công ty hay một dự án tại nhà. Chúng ta đánh giá thấp mức độ mà chúng ta có thể bị ảnh hưởng từ sếp hay từ đồng nghiệp. Những mục tiêu cho năm mới là ví dụ điển hình của những lỗi dự đoán hành vi. Vào đầu năm, chúng ta đặt ra những kỳ vọng cho mình về những hành động nhất định, bao gồm cả trong lĩnh vực đạo đức. Chúng ta thậm chí còn mở rộng các nguồn lực để “đảm bảo” rằng chúng ta sẽ thực hiện được các mục tiêu này. Chúng ta tham gia các câu lạc bộ sức khỏe, thuê huấn luyện viên riêng, hay mua quần áo nhỏ hơn cỡ của mình. Chúng ta thề sẽ kiên nhẫn hơn, làm tình nguyện vào vào thời gian rảnh hay tìm cách để tiết kiệm năng lượng. Chúng ta tin rằng trong năm tới, chúng ta sẽ là một con người “mới”. Đến 31 tháng 12, chúng ta phát hiện ra rằng có ít thứ thay đổi – nhưng chúng ta vẫn tiếp tục đưa ra những dự đoán tương tự cho năm kế tiếp. Bây giờ xem xét sự việc các bệnh nhân được chẩn đoán bệnh, họ đôi khi được đề xuất lựa chọn tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng được áp dụng để đánh giá hiệu quả của các phương thức điều trị cho một căn bệnh cụ thể nào đó hoặc để đánh giá độ an toàn của các loại thuốc. Bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm lâm sàng được chia thành các nhóm, mỗi nhóm nhận một cách điều trị khác nhau. Cuối đợt thử nghiệm, hiệu quả của mỗi phương pháp sẽ được đo lường, bao gồm tác động của đợt thử nghiệm đến căn bệnh và xem xét xem có các phản ứng phụ hay không. Bệnh nhân và người nhà của họ thường được đặt câu hỏi “bạn có muốn tham gia vào thử nghiệm lâm sàng không?” Quyết định tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng thường là một song đề xã hội. Như chúng tôi đã giải thích trong chương 3, song đề xã hội là những trường hợp mà lợi ích của cả nhóm xung đột với lợi ích của các cá nhân trong nhóm. Ví dụ, những người tin rằng lợi ích xã hội của việc tiết kiệm nhiên liệu lại có thể chọn lái xe hơn là đi bộ với lời biện minh rằng “khí thải xe hơi của tôi cũng không tạo ra nhiều khác biệt. Song đề xã hội nằm ở trung tâm của nhiều vấn đề khó giải quyết, bao gồm việc bảo vệ môi trường, giải trừ vũ khí hạt nhân và thậm chí là các dự án làm việc theo nhóm ở nơi làm việc. Trong các song đề xã hội, chiến lược cá nhân dễ nhất là : “mắc khuyết điểm – đánh bắt cá đến khi chúng gần tuyệt chủng, tiêu thụ nhiên liệu, duy trì các loại vũ khí hạt nhân hoặc thiếu nỗ lực hợp tác. Nhưng khi các cá nhân trong nhóm “mắc khuyết điểm” thì mục tiêu của cả nhóm – dù là trong việc bảo tồn một số loại nhất định, tạo ra những bước cải thiện cho môi trường, tạo nên một thế giới an toàn hơn hay là hoàn thành một dự án – thường không được hoàn thành. Trong những trường hợp này, mọi người chỉ cần hợp tác với nhau một chút thì họ sẽ đạt được nhiều thành quả chung của cả nhóm. Nhưng đối với các cá nhân, theo đuổi lợi ích của chính mình trở thành mục tiêu sáng suốt nhất. Quyết định có tham gia vào thử nghiệm lâm sàng cũng là một kiểu của song đề xã hội và nó yêu cầu các cá nhân hợp tác để giúp những người khác trong tương lai. Sự tham gia này không nhất thiết cải thiện được kết quả của các bệnh nhân; bệnh nhân có thể nhận sự điều trị trong một thử nghiệm lâm sàng chưa được chứng minh nhưng có thể sẽ không tốt bằng những cách chữa trị có sẵn. Rất nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng hầu hết đều có lợi cho những người sẽ nhận được các phương pháp chữa trị mới và tốt hơn trong tương lai hơn là những người đang mắc bệnh hiện tại. Hơn nữa, lợi – hại mà các bệnh nhân hiện tại nhận được thường vẫn là không rõ ràng và rất khó đánh giá. Mục đích cuối cùng của các cuộc thử nghiệm lâm sàng là cải thiện chất lượng thuốc để mọi người cuối cùng đều có thể nhận được những phương thức chữa trị tốt hơn và chẩn đoán tốt hơn. Ví dụ như khi bạn nghĩ về quyết định tham gia vào cuộc thử nghiệm lâm sáng và bạn dự đoán là mình sẽ tham dự, bạn kết luận rằng tất cả những ai đạt yêu cầu thì nên tham dự khi được yêu cầu. Bạn tin rằng lựa chọn “đúng” để đóng góp vào những điều tốt đẹp hơn nữa cho ngành y tế và mọi người, bao gồm cả chính bạn thì nên làm điều tương tự. Kết quả của suy nghĩ này là bạn dự đoán chắc chắn mình sẽ tham gia thử nghiệm lâm sàng nếu có cơ hội. Bây giờ hãy bỏ qua một số năm và tưởng tượng rằng con bạn bị chẩn đoán là gặp bệnh hiểm nghèo liên quan đến tính mạng. Tùy thuộc vào việc con bạn phản ứng lại với đợt điều trị cuối cùng này như thế nào, tỷ lệ thành công có thể giúp con bạn sống thêm 5 năm nữa là 75% và 95%. Bạn đã nghiên cứu về bệnh tình của của con mình và biết rằng cách chữa trị mới nhất được chứng minh là có thể đem đến những kết quả tích cực đáng kể. Khi đang bàn về bệnh tình của con bạn, bác sĩ hỏi bạn có đồng ý cho con bạn tham gia vào một cuộc thử nghiệm lâm sàng mà máy tính sẽ quyết định xem con bạn sẽ nhận cách chữa trị nào không. Khi bạn hỏi bác sĩ về tính hiệu quả khi so sánh hai phương thức chữa trị, bà nói rằng cách chữa trị mới vừa mới được phát triển và vì thế còn quá sớm để bà có thể đưa ra câu trả lời. Bạn có sẵn sàng từ bỏ phương thức cũ đã được biết đến và chứng minh vì một lựa chọn mạo hiểm mà bạn chưa rõ kết quả? Câu trả lời của bạn sẽ rất nhanh và chắc chắn: Không! Tất cả chúng ta có thể liên hệ đến sự thay đổi thái độ nhanh chóng này. Khi quyết định liên quan đến sức khỏe con mình thuần túy chỉ mang tính lý thuyết, bạn hẳn sẽ cân nhắc kỹ lưỡng và đưa ra những quyết định phù hợp với đạo đức của mình. Nhưng khi quyết định đó trở thành sự thật, những suy xét đạo đức của bạn liên quan đến những gì tốt hơn có xu hướng bị vứt ra ngoài cửa sổ. Bây giờ tất cả những gì bạn quan tâm là đứa con của mình và điều gì là tốt nhất cho con bé. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ giải thích vì sao những sai lầm trong dự đoán hành vi lại xảy ra. Thời điểm quyết định: điều chúng ta muốn định hướng lý trí Các nhà khoa học xã hội đã tranh cãi khá lâu rằng chúng ta thường trải qua những xung đột bên trong chính chúng ta. Loại hình xung đột phổ biến nhất thường diễn ra giữa “điều chúng ta muốn” và “điều chúng ta nên.”[94] Điều chúng ta muốn miêu tả khía cạnh tình cảm, xúc động, bốc đồng và nóng nảy. Ngược lại, điều chúng ta nên thì lý trí, nhận thức, chín chắn và bình tĩnh. Điều chúng ta nên định hướng cho những mong muốn đạo đức và niềm tin rằng chúng ta nên hành động theo những giá trị và nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Ngược lại, điều chúng ta muốn phản ánh hành vi thật sự, thường là được xây dựng nên từ những lợi ích cá nhân và những suy xét không liên quan nhiều đến khía cạnh đạo đức. Nghiên cứu của chúng tôi cho rằng điều chúng ta muốn và điều chúng ta nên – điều nào nổi trội hơn – thay đổi theo thời gian. Điều chúng ta nên sẽ nổi trội trước và sau khi chúng ta ra quyết định nhưng điều chúng ta muốn thường chiến thắng ở thời điểm ra quyết định. Vì thế, khi đi đến một quyết định, chúng ta dự đoán rằng mình sẽ quyết định được điều mà chúng ta cho rằng mình nên làm. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta nên lên án những kẻ phỏng vấn có hành vi quấy rối tình dục, vì thế, chúng ta dự đoán là mình sẽ đứng dậy bỏ về trong cuộc phỏng vấn. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ đến nha sĩ, chia sẻ công việc tại công ty và ở nhà, thoát ra khỏi các áp lực đến từ bạn bè, tập thể dục và ăn các loại thực phẩm tốt cho sức khỏe. Chúng ta nghĩ chúng ta sẽ hợp tác trong các song đề xã hội dù là cá nhân phải trả giá vì những điều tốt đẹp hơn. Tóm lại, chúng ta nghĩ mình sẽ đưa ra các “quyết định nên làm” hoặc là những quyết định dựa trên các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức của mình. Nhưng tại thời điểm, khi chúng ta thật sự đưa ra quyết định, có những điều hoàn toàn khác xảy ra.