🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đêm Hội Long Trì
Ebooks
Nhóm Zalo
Nhà văn
NGUYỄN HUY TƯỞNG
(1912 – 1960)
Quê quán: Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội
* Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, năm 1996
Đêm hội Long Trì trong khuôn khổ một cốt truyện gọn, đã lôi cuốn được nhiều người xem. Những khung cảnh sinh hoạt tinh thần thi vị, tình yêu e ấp và thơ mộng, tội ác lộng hành, sự phẫn nộ của quần chúng, bi kịch của kẻ thủ phạm và cũng là nạn nhân, sự trừng phạt của công lý… tất cả lần lượt diễn biến qua từng trang sách với nhiều màu sắc đạo lý và thẩm mỹ.
Giáo sư Hà Minh Đức
CÙNG MỘT TÁC GIẢ
Văn xuôi:
• Đêm hội Long Trì
• An Tư
• Truyện anh Lục
• Bốn năm sau
• Sống mãi với Thủ đô
• Lá cờ thêu sáu chữ vàng
• Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng
• Những truyện hay viết cho thiếu nhi
• …
Kịch:
• Vũ Như Tô
• Cột đồng Mã Viện
• Bắc Sơn
• Những người ở lại
• Anh Sơ đầu quân
• Lũy hoa (kịch bản điện ảnh)
LỜI NÓI ĐẦU
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Năm 1942, khi tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được đăng tải trên tạp chí Tri tân thì đó có thể coi là một chứng chỉ để Nguyễn Huy Tưởng chính thức khẳng định mình trên văn đàn. Từ sự khởi đầu đầy chững chạc này, chỉ trong vòng mấy năm ông cho ra tiếp tiểu thuyết An Tư và đặc biệt, vở kịch Vũ Như Tô, tác phẩm rồi đây sẽ trở thành kiệt tác của ông.
Cũng với Đêm hội Long Trì, người đọc sớm nhận thấy ở Nguyễn Huy Tưởng một ngòi bút có khuynh hướng lịch sử không trộn lẫn. Cho đến khi ấy, tấn bi kịch trong gia đình chúa Trịnh Sâm với sự can dự của người đẹp Đặng Thị Huệ đã được nhiều tác giả khai thác, từ Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút (Chuyện cũ trong phủ chúa), Ngô gia văn phái với cả một trường đoạn nổi tiếng trong Hoàng Lê nhất thống chí, cho đến Nguyễn Triệu Luật với tiểu thuyết Bà Chúa Chè... Đến lượt mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tiếp tục khai thác đề tài này, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Nếu như các tác phẩm trước đó thường đi sâu vào chuyện riêng tư của nhà chúa, với sự đam mê nữ sắc của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, âm mưu và tham vọng của Đặng Tuyên phi, sự càn rỡ của Cậu Trời Đặng Lân... trong khuôn khổ gia đình ít vượt khỏi khuôn viên phủ chúa, thì ở Đêm hội Long Trì, quy mô đề tài cùng các tuyến nhân vật được mở rộng hơn rất nhiều. Ngay ở chương đầu tiểu thuyết, cảnh lễ hội bên hồ Long Trì đã hướng câu chuyện ra ngoài khung cảnh thiên nhiên với nhiều chất sinh hoạt đời thường: cảnh người ta đi dự hội, trai thanh gái lịch chen vai đua sắc khoe tài; cảnh người ta bất kể sang hèn, sà vào các hàng quán, mặc cả, ăn quà, với không ít lả lơi, phóng túng… Và chính trong không khí hội hè dân dã ấy, các nhân vật chính, phụ, lịch sử và hư cấu đã lần lượt xuất hiện: nhân vật lịch sử như chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ; nhân vật có thật nhưng với ít nhiều hư cấu như Quận mã Đặng Lân và Quận chúa Quỳnh Hoa, nạn nhân của gã; nhân vật hoàn toàn do tác giả sáng tạo nên, như thi sĩ Bảo Kim cùng nhóm bạn văn nhân của chàng, và đặc biệt, quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại, người được chúa tin cậy giao trọng trách giữ việc trị an kinh thành.
Dựa trên cái nền chắc chắn là chuyện bê bối trong phủ chúa mang nhiều nét bi kịch gia đình mà sử sách đã ghi lại, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã dựng lên một bức tranh xã hội thời phong kiến với nhiều vấn đề được đặt ra. Nếu như ở Hoàng Lê nhất thống chí, gã Đặng Lân vì tội hãm hiếp đàn bà con gái, làm loạn kinh thành mà bị chúa bắt đi đày, thì ở tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, gã đã bị chính tay quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại chém đầu khi đang “gây án”, bất kể gã là em trai Tuyên phi Đặng Thị Huệ, người được chúa sủng ái. Chỉ một câu đối đáp giữa Đặng Lân và Nguyễn Mại trước khi chàng võ quan vung kiếm chém cũng cho thấy tính chất quyết liệt trong sự hành xử của người thực thi pháp luật: “Ta là Cậu Trời!” - “Cậu Trời cũng chém!”
Cũng vậy, sự đam mê nữ sắc của chúa Trịnh Sâm được tác giả nhìn nhận không chỉ như một bi kịch cá nhân mà còn với những hậu quả sâu rộng hơn rất nhiều. Chúng ta biết rằng, theo sử sách, Tĩnh Đô Vương vì si mê Đặng Tuyên phi đã gả con gái yêu là nàng Ngọc Lan cho gã Đặng Lân ngỗ ngược, em trai của bà. Lại cũng để chiều lòng người đẹp, chúa đã không lập con trưởng là Trịnh Tông làm thế tử, để rồi khi ngài chết đi, Đặng Thị Huệ đã cùng vây cánh đưa Trịnh Cán, con trai bà lên ngôi chúa… Việc tranh ngôi đoạt vị đã dẫn đến kết cục là gia đình nhà chúa rồi cả ngôi vị chúa Trịnh đều tiêu vong. Ở tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, đó không còn là một tấn bi kịch gia đình, dòng họ - cho dù là nhà chúa thì vẫn mang tính riêng tư, mà quan thiết đến cả sự an nguy của kinh thành, hay rộng hơn, của đất nước. Được thể là con rể chúa, gã Đặng Lân càng lộng hành, càn rỡ, khiến người dân kinh thành lúc nào cũng nơm nớp lo bị vạ bởi tay hắn, nhà cửa nếu không bị cướp bóc thì vợ con bị hãm hiếp… Kỉ cương, phép nước không còn là gì khi chỉ một lời xin của Đặng Tuyên phi, chúa lại tha cho gã ngay cả những tội tày đình nhất. Dưới một “thể chế” như thế, tất cả chỉ trông vào sự tỉnh ngộ của chúa - điều đã không xảy ra, hoặc một nhân vật chịu xả thân vì nghĩa lớn - may mà thời ấy có quan Hộ thành binh mã xứ Nguyễn Mại, như trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được đăng báo từ cuối năm 1942, xuất bản thành sách năm 1944. Sau đó, do nhiều nguyên nhân, tác phẩm đã không được tái bản suốt một thời gian dài. Mãi đến thời kì đổi mới, Đêm hội Long Trì mới lại được “tái xuất” và trở thành một trong những cuốn sách được biết đến nhiều nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm cũng được chuyển thể thành chèo, cải lương, kể cả
điện ảnh - phim Đêm hội Long Trì được khá nhiều người yêu thích. Cắt nghĩa vì sao tác phẩm này được chọn làm phim, nhà nghiên cứu văn học Trần Quốc Huấn viết: “Những người làm phim Đêm hội Long Trì đã phát hiện ra, bằng khứu giác nghề nghiệp của mình, một thứ trầm hương kì lạ tàng ẩn trong tiểu thuyết.” Và, “đứng ở góc độ điện ảnh, cũng có thể phát hiện ra, nhìn thấy được phần cốt cách văn hóa của dân tộc”…
Thiết nghĩ, không chỉ riêng điện ảnh, mà “thứ trầm hương” và “cốt cách văn hóa” ấy cần thiết cho tất cả các tác phẩm văn nghệ để đến được với mọi người.
Xin trân trọng giới thiệu ấn phẩm này của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng!
NHÀ XUẤT BẢN KIM ĐỒNG
I
Khi bọn Bảo Kim tới Bắc Cung thì hội mới bắt đầu khai mạc. Với chúa Tĩnh Đô, hội Trung thu lại càng náo nhiệt, và năm nay hội tưng bừng hơn cả mọi năm.
Được vào đây, chỉ có những người trong hoàng gia, những người ngoài phủ chúa, những quan to, những mệnh phụ, những tiểu thư và cả những thư sinh cũng được vào. Muốn thưởng công những chiến sĩ đã chiến thắng quân Nguyễn ở Phú Xuân, Chúa đặc biệt cho cả những
quan võ được dự vào cuộc vui rất trọng thể này.
Hồ Long Trì đã thành một nơi bồng lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ rộng hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen ấu. Bên hồ, có đắp những ngọn giả sơn rất to bằng đất hoặc bằng đá. Trong hang, trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân, hoặc trước hoặc sau ẩn ẩn, hiện hiện có những chàng Tương Như, hay những gã Tiêu Lang ngồi hòa nhạc, ăn mặc ra vẻ tiên phong đạo cốt. Núi vọng ra những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng ti, tiếng trúc, nghe lả lướt du dương. Bờ hồ, trên cành hàng mấy trăm gốc phù dung, dương liễu có treo muôn thứ đèn lồng bằng gấm vóc. Những đèn ấy đều do chúa Tĩnh Đô sai cung nữ chế ra, tinh khéo tuyệt vời, mỗi chiếc đáng giá mấy lạng bạc. Xa trông như muôn vàn sao lốm đốm sáng.
Và bàng bạc khắp nơi, tô điểm thêm lên là ánh trăng rằm. Trăng không trong, hơi đục, nên cảnh sắc càng thêm mông lung phiếu diểu. Đường đi, bóng cây in xuống, khi xóa khi hằn, theo với gió thu. Trời chưa mát, nhưng cũng không nực lắm. Hai bên đường, hoặc dựa vào chân núi, hoặc nối liền hai ngọn núi, hoặc dựng trên sườn, hoặc dựng biệt lập một nơi, có những cửa hàng bán khắp đồ tạp hóa phương nam, phương bắc, cho chí thịt, quả, rượu, nem không gì là không có. Những quan nội thị đều chít khăn vuông, ăn mặc như đàn bà. Họ giữ việc bán hàng.
Nhưng họ có bán đâu? Bọn cung nữ đi đi lại lại trong chợ, tha hồ mà cướp mà mua, không hỏi giá cả gì. Họ tranh nhau lấy những tiếng hàng rau hàng cá mà nói chua nói chát lẫn nhau. Những mệnh phụ, những tiểu thư cũng bỏ thói đài các, ăn mặc trá hình, người quen
không nhận ra nhau được, đi lẫn lộn với bọn trên, hoặc mua hoặc bán, lời ăn tiếng nói cũng rất là phóng túng.
Theo ý Chúa, trong đêm duy nhất này, người ta sẽ sống thực tự do, nô đùa thực suồng sã, không biết tôn ti trật tự là gì nữa. Và sau cuộc vui hỗn hợp này, ai lại trở về bổn phận nấy, có chăng nữa chỉ còn giữ chút hương vị cuộc vui như một giấc mộng vàng.
Chúa Tĩnh Đô chưa ngự tới, nhưng người mỗi lúc một đông. Sáu người bạn Bảo Kim cảm thấy cái thú cuồng dại đi bên muôn thức bông hoa, phần nhiều đội lốt những đàn bà con gái nhà quê, nhưng vẫn không sao giấu được vẻ phong lưu quý phái.
Duy có Bảo Kim là thờ ơ hết cả. Năm ngoái chàng cũng có cái cảm giác mê ly như chúng bạn chàng, nhưng năm nay chàng khác hẳn. Mắt chàng chỉ tìm kiếm một người mà đã sáu tháng nay chàng trộm nhớ thầm yêu. Chàng chắc rằng trong đêm hội này, thế nào nàng cũng ra dự. Nhưng đi đã lâu mà chưa gặp. Chàng dừng lại bên một cây dương liễu, mơ mộng nhìn ra Long Trì xem ánh trăng đậu trên những lá ấu sen.
Các bạn vốn yêu Bảo Kim, nên cũng đứng lại theo chàng.
Lưu Sĩ Trực mải tặng một thiếu nữ đi qua một cụm hoa sen, thấy các bạn xúm quanh Bảo Kim, bèn quay lại hỏi:
- Đang vui, đứng lại là cái gì? Đêm nay một khắc là một nén vàng, bỏ qua thì thiệt lắm. Trông kìa, đi mau đến...
Vừa nói vừa lấy tay chỉ phía bên kia hồ. Chỗ ấy sáng bật hơn mọi khu, vì đèn lồng và đèn xếp rất nhiều.
Một chiếc túi thêu ném trúng ngực Bảo Kim giữa những tiếng cười của một bọn thiếu nữ ăn bận lối con gái làng Lim. Người thanh niên cúi xuống nhặt lên xem, thì là một túi đựng hai miếng trầu mùi thơm thoang thoảng. Đáng nhẽ như mọi năm thì chàng đã sấn lại trêu bọn thiếu nữ, mở túi ra lấy trầu mời mọc và bắt đầu một câu chuyện tình dứt ra không hết. Nhưng năm nay chàng bỏ qua.
Chàng cũng chẳng để ý xem ai đã vứt túi. Lãnh đạm và tàn ác, chàng tới gốc cây dương liễu, buộc túi gấm vào một đầu cành, rồi
buông cho cành là xuống mặt nước.
Trần Thành, người bộc trực nhất trong bọn, hỏi:
- Anh làm gì mà giận dữ người ta thế?
Bảo Kim cười, đáp lại:
- Coi thường hết cả.
Bọn con gái lấy làm phật ý vì thái độ ghẻ lạnh của chàng. Một người vốn mộ văn chương của Bảo Kim và đã sắm một chiếc quạt lụa, nan ngà, định xin chàng một bài tứ tuyệt, thấy cử chỉ chàng như thế, đành giấu chiếc quạt vào trong bọc.
Các bạn giục giã. Đỗ Tuấn Giao, xinh đẹp như cô con gái, gắt gỏng hỏi Bảo Kim:
- Thế nào? Bắt người ta chết đứng cả đây à? Si tình nên tính quẩn. Có đi thì mới tìm thấy bạn trăm năm, ai người ta làm cỗ sẵn cho mình?
Bảo Kim tự biết làm phiền các bạn, chàng nói:
- Các anh tha lỗi cho, tôi lãng quên mất. Vậy ta đi nào.
Họ lại rẽ sóng giai nhân, thẳng chỗ sáng nhất mà đi. Một cái vỏ chuối ném vào giữa mặt Bảo Kim, tiếp theo một tràng tiếng chua ngoa:
- Danh sĩ Bảo Kim sang năm đi thi thì trượt nhé!
Bảo Kim lấy khăn tay lau mặt, thản nhiên không nói gì.
Nhưng khi bỏ chiếc khăn tay vào túi, nhìn phía trước mặt, chàng bỗng rú lên một tiếng vui mừng. Dựa vào chân một cái giả sơn, rất cao, là một ngôi hàng rất xinh và sáng sủa, bán rượu, hoa quả và bánh trái. Trên tường treo la liệt những câu đối, những bức tứ bình; mấy cây dương liễu trước nhà, rủ xuống những dải lụa trắng bay phấp phới theo chiều gió.
Chủ hàng là một thiếu nữ kiều mỵ: Quỳnh Hoa Quận chúa, ái nữ Tĩnh Vương, người mà Bảo Kim mơ ước. Trước cửa hàng, khách đã ngồi đầy, phần nhiều là những thi nhân mặc khách. Một bọn thị nữ đang tấp nập bán hàng.
Quận chúa trạc 16, 17 tuổi, nàng hơi xanh dưới ánh trăng thu, người hơi gầy, nhưng vẻ thanh tú. Nàng bận chiếc áo vải đồng lầm, chít khăn vuông mỏ quạ. Mắt nàng chợt gặp mắt Bảo Kim. Chàng ngoảnh đi và nàng cúi gằm mặt xuống. Đỗ Tuấn Giao hóm hỉnh nói:
- Đích thị rồi, Quỳnh Hoa Quận chúa.
Hoàng Đình Nghiễm, người nhiều tuổi nhất trong bọn hỏi: - Vào chứ anh Kim?
Rồi Trần Thành, Lưu Sĩ Trực và hai người nữa là Vũ Hoành, Lê Bá Hổ cùng phá lên cười, khiến cho các cống sĩ ngồi trong hàng đều phải ngoảnh ra.
Bảo Kim còn đang lúng túng thì hai người thị nữ cũng ăn mặc quê mùa cầm đèn lồng bước lại, kính cẩn thưa:
- Xin mời liệt vị vào hàng xơi nước. Nhân gặp tiết thu, cô chúng tôi có mở một ngôi hàng nhỏ để được tiếp các văn nhân và tập đòi thi lễ. Nay trường bút chiến mới bắt đầu, mời liệt vị cùng vào dự cuộc cho thêm phần long trọng.
Cả bọn đồng thanh nói:
- Xin đa tạ lĩnh ý.
Anh em Bảo Kim theo hai người thị nữ bước qua thể môn, trên treo một cái đèn tuyệt mỹ, có đề ba chữ “Quần Anh hội”.
Bọn văn nhân ngồi trước cửa hàng có đến hai ba chục người, trước mặt người nào cũng có văn phòng tứ bảo. Thấy có khách lạ, họ đứng dậy thi lễ. Nhưng khi nhận kỹ ra là bọn Bảo Kim, người nào người ấy đều có ý gờm gờm. Một người còn lẩm bẩm:
- Chúng nó vào thì mình còn mong giật giải giật lèo làm sao được?
Trong chốn kinh thành, bọn Bảo Kim đã lừng danh hay chữ. Bảo Kim lại trội hơn cả anh em. Người kẻ chợ đã tặng cho chàng tiếng danh sĩ. Tuy còn ít tuổi, nhưng chàng đã bác lãm quần thư, nghị luận giỏi, văn chương tao nhã.
Bẩy anh em đến ngồi quanh một cái kỷ. Thị nữ bưng một cái đĩa sứ lớn đầy hoa quả, và một khay bạc đầy bánh trái. Một người lễ phép thưa:
- Xin liệt vị chiếu cố.
Bảo Kim nói:
- Trước khi nhận quà ban tặng, xin cho dự trường bút chiến đã. Chúng tôi có hai bàn tay trắng đến đây, chỉ có chút “quà” văn tự tặng chủ nhân. Xin cho dự cuộc...
Quỳnh Hoa đã tới trước mặt. Nàng tươi cười nói:
- Đây là chút lễ tiên kiến. Đối với cao sĩ, vật mọn này chỉ khiến kẻ yêu văn thêm thẹn. Liệt vị hãy chiếu cố cho. Vả liệt vị đến chậm, nên đợi cuộc thi sau. Trong trường văn phải lấy chữ công bình làm cốt.
Lời nói nhẹ như tơ, tự nó có một nhạc điệu tuyệt vời. Bảo Kim đứng ngây nhìn người mà chàng vốn hâm mộ tài sắc. Trước kia chàng mới có hân hạnh nhìn trộm nàng ở xa, không ngờ nay lại có cái diễm phúc được tới gần người ngọc. Mắt chàng ngốn cái sắc thanh kỳ kia, lòng chàng hồi hộp, chàng muốn nói mà không sao nói được.
Từ chỗ giả sơn cạnh đấy, một bài lưu thủy do một chàng tiêu nào đưa lại như lôi hồn chàng theo dòng suối thiên thai.
Hoàng Đình Nghiễm thay mặt anh em, vòng tay thưa:
- Tiểu sinh chúng tôi đến chậm, đã là một tội. Lại để lỡ một dịp ca tụng trăng thu, và sắc đẹp của nữ chủ nhân, chẳng hóa ra lại thêm một tội nữa. Xin nữ chủ nhân cho thi ngay.
Đỗ Tuấn Giao nói:
- Xin nữ chủ nhân cứ cho phép, dù làm dở bài, mang tiếng dốt
chúng tôi cũng xin chịu.
Quỳnh Hoa nghiêng mình đáp:
- Đó là quyền liệt vị, tôi đâu dám ngăn cản.
Đầu đề là “Trung thu Long Trì dạ hội phú” (thể lưu thủy). Văn phòng tứ bảo đã đem bày trên kỷ. Các bạn Bảo Kim bắt đầu cấu tứ. Chung quanh, chỉ thấy những nét mặt trầm ngâm. Vài người đã hý hoáy viết trên giấy hoa tiên.
Bài ra dễ, nhưng văn cũng dễ sinh sáo. Quỳnh Hoa đã lui đi đâu mất. Chàng còn say đắm sắc đẹp và hương thơm của giai nhân. Lòng chàng tràn ngập một mối tình bồng bột. Chàng lẳng lặng đứng dậy, bước ra khỏi hàng. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên. Duy các bạn chàng biết tính.
Chàng trèo lên một ngọn giả sơn cao, bao quát cả Long Trì, xa xa là Bắc Cung lẩn trong bóng tối. Cả cái lộng lẫy của đêm hội trung thu, trăng lồng bóng nước, đèn ẩn cành dương, giọng nói, câu cười, tiếng ca, tiếng quản, toàn thể mơ hồ như một giấc chiêm bao. Cả một cuộc tao phùng với khách giai nhân và một mối tình chân thành không bờ, không bến... Chàng chợt thấy thời khắc mong manh, lưu luyến đêm vui, và hồn thơ đột nhiên dào dạt.
Quỳnh Hoa lấy làm lạ. Nàng lo ngại cho Bảo Kim. Nàng lại tự trách có điều chi sơ suất khiến chàng phật ý. Nàng mới gặp chàng mấy lần, nhưng đã nghe tiếng chàng nhiều lắm. Đối với chàng công tử phong lưu ấy, nàng rất có nhiều thiện cảm, hơn nữa, một mối tình u uẩn. Trong ngày hội này, nàng mong gặp chàng và mong nhất được chính mình thưởng thức tài văn chương lỗi lạc của chàng. Nàng lo sợ không có cái may ấy. Nhìn một loạt những người đang múa bút làm văn, nàng chỉ thấy toàn một hạng tầm thường, khí cục ti tiểu, kém Bảo Kim xa.
Nhưng Bảo Kim đã trở vào, chàng như hiện thân của cảm hứng. Mọi người ngẩng đầu nhìn chàng, lo sợ một sự kỳ dị. Chàng về chỗ, chậm rãi mài mực, dầm ngọn bút lông, rồi say sưa như một người đánh bạc, chàng cắm đầu thảo, chỉ một loáng ba tờ hoa tiên đã đặc và bài phú đã thành. Khi chàng đề lạc khoản xong thì đã có nhiều người đem quyển nộp. Chàng nén lòng chờ các bạn cùng đem lên một thể.
Quỳnh Hoa chuyển giao hơn 30 quyển vào trong vườn sau, một nơi tịch mịch và u nhã, ở đó có hơn mười vị đại khoa đang ngồi uống trà bên khói trầm nghi ngút. Nàng vốn là một tay giỏi về thi phú, nhưng tự biết còn trẻ, ý tứ còn nông nổi, không thể thưởng thức hết được những áng văn của các danh sĩ đất thần kinh, vì thế nàng mới xin Tĩnh Vương tuyển giúp nàng những tay lão thành hay chữ để chấm văn thi. Các cụ là chân đại khoa, nên xem văn rất chóng. Chấm đã được hơn mười bài, mặt Quỳnh Hoa chợt sáng lên. Nàng thấy quan Thị lang Ngô Thời Sĩ cầm lấy quyển mà nàng biết ngay là của Bảo Kim; có lẽ chỉ duy có chàng viết thảo.
Ngô Thị lang cau mặt nói:
- Có được phép viết thảo không?
- Không được, - một cụ đáp.
- Nhưng nét bút tươi và tung hoành, xem mấy câu đầu thì thực là tài ba lỗi lạc.
Cụ bỗng cầm bút son khuyên lia khuyên lịa. Quỳnh Hoa sung sướng. Ngô Thị lang là chân Bắc đẩu trong cõi văn chương thời bấy giờ, cụ đã khuyên, chắc văn phải cứng lắm. Cụ bỗng quăng bút nói to:
- Thiên cổ kỳ tài. Bọn mình không sánh kịp. Hay lắm, hay lắm, không muốn chấm những bài khác nữa. Khí hùng kính như phú A Phòng, đài các như tự Đằng Vương các, nhẹ nhàng phiêu dật như phú Xích Bích, thực là lời gấm, lời vóc, suối ngọc, kho vàng. Tuyệt phẩm văn chương, nói không hết được.
Rồi cụ lanh lảnh ngâm bài phú của Bảo Kim cho các bạn nghe. Quỳnh Hoa cảm thấy cái thú tuyệt kỳ nghe bài văn tao nhã, sáng dịu như vầng trăng, nhẹ như gió thu, dâng muôn tiếng nhạc, khêu vạn lời tình.
Ngô Thị lang nhắp chén trà nói:
- Cả một đoạn sau cùng, sau khi tả hết cuộc vui, buông lời nhớ tiếc, tưởng bóng giai nhân, bùi ngùi cho thân thế, cảm khái nồng nàn, chí tình chí thiết, thực mà không thô, tình tứ mà không dâm, lời đẹp mà không sáo.
Quay hỏi Quỳnh Hoa:
- Chỉ tiếc bài phú này viết thảo. Chẳng hay Quận chúa nghĩ sao? Quỳnh Hoa nói:
- Văn chương là phần chính, tôi không bắt buộc viết chân phương. Xin Thị lang và các quan cứ xem văn mà đánh giá.
Thị lang nói:
- Quận chúa dạy thế là phải.
Một lúc sau, chấm xong, các quan theo Quỳnh Hoa ra ngoài hàng. Bọn văn nhân đang ngồi hỏi nhau về chữ, vặn nhau về điển, hoặc ăn bánh, hoặc uống trà, thấy các quan và Quận chúa đi ra, đều một loạt đứng dậy.
Ngô Thị lang nói:
- Xin liệt vị an tọa. Nhân đời thịnh trị, ta mới có cuộc vui tao nhã này. Chúng tôi được chấm văn anh em đây thật là một điều đặc hạnh. Chúng tôi đã lấy bài phú của Bảo Kim nhất. Đáng lẽ thì bài ấy không trúng cách, vì viết thảo. Nhưng thể theo lời nữ chủ nhân đây, chúng tôi cứ xem văn mà đánh giá. Chúng tôi sợ là có tuổi, ý kiến hồ đồ, vậy xin liệt vị chọn lấy một người có giọng tốt, ta cùng bình bài phú ấy và thưởng thức một áng văn hay trong đêm thanh gió mát này. Các vị nghĩ sao?
Mọi người thấy Ngô Thị lang thì chắc chắn là sự chấm văn không có gì nhầm lẫn. Huống chi họ vẫn phục tiếng Bảo Kim, nên thấy giải nhất về chàng, không ai lấy làm lạ.
Một người nói:
- Triều đình còn lấy những lời cụ lớn làm khuôn vàng thước ngọc, huống chi là bọn ngu muội như anh em chúng tôi. Chúng tôi biết Đỗ Tuấn Giao là người tốt giọng, xin cử anh ấy vào việc bình văn.
- Phải lắm. Phải lắm. Xin cử Đỗ Tuấn Giao.
Bảo Kim như cuồng dại. Chàng có cần chi giải nhất? Nhưng được để ý trước người đẹp mà chàng mơ ước, chàng say sưa sung sướng hơn ông tiến sĩ vinh qui. Huống chi lại được chính Quỳnh Hoa bênh vực mình, chàng thấy chạy trong thớ thịt một nguồn vui tươi sáng.
Đỗ Tuấn Giao đã tiếp lấy bài phú, và cất tiếng sang sảng bình văn. Cử tọa trước còn xôn xao, nhưng sau bị lôi cuốn bởi câu văn hay, ý tưởng cao siêu, cảnh tình như vẽ, và nhất là bởi cái nhạc điệu tuyệt luân nó khiến cho bài phú thành hẳn một bản đàn réo rắt. Quỳnh Hoa chỉ lo bài phú hết, và Bảo Kim trầm ngâm nghe bạn đọc, thỉnh thoảng lấy làm ngạc nhiên, vì nhiều câu xuất ư ý ngoại, chàng tưởng như mình không sao đạt được.
Tuấn Giao đọc xong, trong bọn cống sĩ có người thở dài nói:
- Thực là thần bút. Tô Đông Pha sống lại cũng không thể làm hay hơn được, giải nhất thực là xứng đáng, chúng tôi còn lâu mới có cái bút lực siêu phàm như thế...
Nói chưa dứt lời, chợt có tiếng kêu thất thanh và cảnh Long Trì bỗng ồn ào như chợ. Tiếng ca quản im đi. Bọn phụ nữ chạy tán loạn. Lắng tai có tiếng kêu “Cậu Trời! Cậu Trời đấy! Chị em trốn đi!”.
Quỳnh Hoa bỗng tái nhợt đi, nàng rú lên:
- Cậu Trời! Khổ quá!
Bọn cống sĩ nhiều người thất sắc. Vài người đứng dậy. Bảo Kim vội vàng đứng lên:
- Anh em định chạy đấy ư? Không thể được. Anh em hãy ngồi lại, ta đội ơn chủ nhân, không nhẽ lại bỏ đi. Người quân tử có bao giờ xử sự như thế? Cậu Trời là cái quái gì mà anh em sợ?
Tưởng như có một trận cuồng phong thổi trong đám hội, người chạy như ong. Tiếng kêu, tiếng thét, tiếng gọi nhau liên tiếp. Cả bọn còn đang ngơ ngẩn, thì một thiếu phụ đầu tóc rũ rượi chạy vào hổn hển:
- Ai cứu tôi với. Cậu Trời...
Một người chạy theo vào. Ấy là một gã trai trẻ, người tầm thước, mắt diều hâu, lông mày rậm, râu ria nhiều, nhưng cạo nhẵn, ăn mặc rất sang. Đi sau là một lũ gia nhân, thảy đều cầm dao, cầm gậy. Chỉ một bước, người trai trẻ đã nhảy tới, giậm chân lên mông người thiếu phụ, cười nói:
- Trói cổ nó đem về phủ cho ta.
Hơi rượu nồng nặc xông ra theo lời nói. Người thiếu phụ ấy cố kêu:
- Lạy Cậu Trời, con là gái có chồng.
Các quan chấm văn đã lui cả vào trong vườn, duy có Ngô Thị lang đứng đấy thấy thế quát:
- Quốc cữu không được vô lễ.
Người trai trẻ cười ngặt nghẽo:
- À! Thị lang họ Ngô, lão hủ nho. Mày không biết quan Tham tụng tao đánh giữa đường còn câm miệng như hến, thứ mày đã đáng kể gì.
Khí uất của Bảo Kim dâng lên tới cổ. Chàng bước lại, các bạn chàng theo sau, Bảo Kim quát:
- Loài súc sinh, quân vô liêm sỉ. Mau bước ra khỏi chốn này. Người trai trẻ lại cười ha hả:
- A thằng nhãi con, muốn vuốt râu hùm. Quân bay đâu, đánh chết chúng nó đi cho tao, tội vạ đâu tao chịu.
Những tiếng dạ ran, bọn gia nhân xông vào đập bọn Bảo Kim túi bụi.
Quỳnh Hoa vội chạy ra. Người trai trẻ bỗng lùi lại, bị thôi miên bởi vẻ đẹp thanh kỳ. Một tên theo hầu nói:
- Thưa cậu, đấy là Quận chúa Quỳnh Hoa.
Người trai trẻ ngạc nhiên:
- Quỳnh Hoa Quận chúa. Ta không ngờ nàng lại đẹp nhường ấy. Thực là một vưu vật.
Nhưng Quỳnh Hoa đã chạy ra, cất tiếng oanh phán:
- Cậu không biết đây là chốn nào sao? Ra ngay kẻo phụ vương đến bây giờ.
- Quận chúa đừng dọa ta, Chúa thượng đến cũng thế mà thôi.
Quỳnh Hoa giận sôi lên. Người trai trẻ vẫn nhìn nàng chòng chọc, mắt say sưa. Nàng bỗng rú lên, một tên gia nhân bổ giữa đầu Đỗ Tuấn Giao một tay thước, chàng ngã lăn xuống.
Quỳnh Hoa lúng túng không biết xử trí ra sao. Cuộc hỗn chiến mỗi lúc một dữ dội.
Bọn gia nhân giẫm cả lên người thiếu phụ một cách tàn nhẫn. Xem chừng thì bọn ấy thắng thế, và một nửa văn nhân đã ôm đầu chạy trốn.
Vừa lúc ấy, một người thanh niên đi vào, ăn vận lối võ quan, mép để ria, mình đeo gươm, trông có vẻ ngang tàng hào mại. Người ấy nói lớn:
- Xin Quận chúa yên tâm, tiểu tướng xin giúp một tay.
Nói xong, thản nhiên xông lại chỗ đánh nhau... Chỉ nháy mắt, chàng đã vít cổ người trai trẻ dúi xuống, và quát to bảo bọn gia nhân:
- Lũ kia, muốn sống thì buông tay ra, không thì tao giết chết chủ chúng bay.
Người trai trẻ kêu:
- Trời ơi! Đau quá. Thôi đừng đánh nhau nữa chúng bay. Bọn gia nhân lùi cả lại. Võ quan bảo bọn Bảo Kim:
- Các ông hãy nghỉ tay, để tôi khu xử cho.
Bảo Kim bỗng kêu:
- Anh Nguyễn Mại!
Nguyễn Mại, vì chính là người võ sĩ, nói:
- Kìa Bảo Kim. Nhưng hãy xếp cho xong câu chuyện này đã. Chàng kéo người trai trẻ đứng dậy:
- Anh dẫn bọn côn đồ bước ngay khỏi hội, nghe chưa? Còn lẩn quất ở chốn này thì đừng trách ta là ác nghiệt.
Người trai trẻ cực chẳng đã, lủi thủi dẫn bọn gia nhân đi, thỉnh thoảng còn quay lại nhìn Nguyễn Mại một cách dữ dội và nham hiểm.
Một người tự xưng là Dương Tuấn Nghiệp, chân ấm sinh, đến xin đem vợ về. Người thiếu phụ là một trang nhan sắc, nhưng mình mẩy bị thương rất nặng, chân tay không cử động được. Nàng ứa nước mắt nhìn chồng, phều phào nói:
- Em tưởng không được trông thấy mặt anh nữa. Suýt chút nữa thì em thành người thất tiết. Nhưng em xem trong mình cũng không sống được nữa đâu. Anh lấy cáng cho em về mau trông thấy hai con, em thực mang tội với chồng với con nhiều lắm.
Nàng ôm bụng nhăn mặt hoa, thổ ra huyết, rồi mê man bất tỉnh nhân sự.
Người chồng cũng khóc, vực vợ lên chiếc cáng của Quỳnh Hoa cho mượn, rồi từ biệt mọi người.
Quỳnh Hoa thở dài:
- Chỉ tại...
Nàng muốn nói: “Chỉ tại phụ vương sủng ái Đặng Tuyên phi”. Nhưng trước mặt mọi người nàng không dám nói rõ nỗi lòng. Xúc cảm và người ốm yếu, nàng rầu rầu vào trong hàng nằm nghỉ.
Buổi dạ hội cũng vì câu chuyện “Cậu Trời” mà mất vui. Người về đã vợi đi, trăng cũng nhạt, và cảnh hồ buồn tênh.
Bọn anh em Bảo Kim cũng ra về. Đỗ Tuấn Giao mặt sứt trán bươu, còn pha trò:
- Chỉ vì Kim mà tôi bị đánh. Chẳng phải đầu, phải tai.
Bảo Kim như kẻ mất hồn. Lúc ở hội Quần Anh ra, chàng còn ngập ngừng chưa muốn bước. Cảm tình chan chứa, chàng thảo trên một dải lụa ba bài tứ tuyệt đem buộc vào cành liễu rồi mới rảo bước theo anh em.
Nguyễn Mại nói:
- Bảo Kim thực là nòi tình. Bốn năm chinh chiến, tôi thấy lòng dục nguội như băng. Hiện chỉ có một hoài bão là phụng thờ Tổ quốc, đem lại nền thống nhất cho nhà Nam.
Bảo Kim đáp:
- Anh mới là chân nam tử. Bỏ văn theo võ, không ngờ anh đã trở nên một tướng tài. Trận đánh ở Phú Xuân, mưu mẹo đã cao, uy dũng lại thừa, chấn động cả miền Nam, làm rực rỡ cả Bắc Hà. Hoàng Quận công cực lực tán dương anh và Chúa thượng gọi anh là hổ tướng.
Nguyễn Mại gạt đi:
- Bỏ chuyện ấy đấy, chưa phải lúc nói. Các chú cho tôi biết cái thằng lúc nãy là ai? Tôi điên tiết lắm, và thấy các chú lúng ta lúng túng mà buồn. Bọn văn nhân thực là lũ vô ích, ngâm vịnh để làm gì? Qua cái bệnh ngâm vịnh, cái bả từ chương, nay tôi khinh thường những thứ vô dụng ấy... Thằng ấy là ai mà nó hoành hành thế? Mà xem ý dân sợ nó như cọp, cả Ngô Thị lang, cả Quỳnh Hoa Quận chúa?
Trần Thành nói:
- Nó là Đặng Lân, em Đặng Tuyên phi. Từ ngày đức Tĩnh Vương sủng ái Tuyên phi, việc triều chính mỗi ngày một nát.
Tuyên phi quả là một trang khuynh thành khuynh quốc. Tĩnh
Vương chỉ vì say đắm Tuyên phi mà làm toàn những điều bất chính; bao nhiêu lời can gián đều vô hiệu cả. Việc gì cũng nghe Tuyên phi: Chúa là người hiếu hạnh thế mà bênh Tuyên phi đến cưỡng cả lời khuyên của Thái phi.
Thậm chí Chúa biết Đặng Lân là tên vô lại mà cũng sắc phong là Quốc cữu, cho lập phủ đệ như một vị thế tử. Tên Lân ăn tiêu xa xỉ hơn một ông hoàng. Nó muốn gì cũng được, ngang ngược thế nào, ai cũng phải chịu. Ngày ngày chỉ cùng với bọn côn đồ đi hãm hiếp con gái đàn bà, cướp nhà lấy của như một lũ giặc. Người con gái hay đàn bà nào mà nó vừa ý thì nó đuổi cho kỳ được, phạm cả người nhà các quan đại thần. Quan Tham tụng Võ Tá Quyền mắng nó giữa đường, nó đánh chết ngay, Chúa thét đem chém, nhưng Tuyên phi khóc lóc xin cho, Chúa tha bổng. Từ đấy nó càng ngỗ nghịch, tự xưng là “Cậu Trời”, không còn biết kiêng nể là gì nữa.
Nguyễn Mại lắc đầu nói:
- Nếu thế thì gọi là loạn còn gì?
Bảo Kim nói:
- Những người bị nó làm nhục như bà ấm sinh lúc nãy không biết bao nhiêu mà kể, nhiều người thất tiết tự tử cho tròn giá sạch, còn thì chỉ biết ôm giận cho qua đời, chứ biết kêu đâu? Vì thế mỗi khi nó đi đâu người ta chạy tán loạn, sợ hơn sợ thiên tai, nhà nào nhà ấy đóng cửa im lìm. Vô phúc bị nó phá thì đành giương mắt ra mà nhìn. Có ông phủ Dương Chính Doãn luận tội nó, nó đem bọn côn đồ đến giết cả nhà.
Nguyễn Mại giậm chân:
- Thế thì còn ra thể thống gì nữa. Biết trước thì lúc nãy tôi đem giết nó đi cho dân thoát nạn. Nhưng sao nó lại nhũn với tôi thế?
Lưu Sĩ Trực đáp:
- Nó nham hiểm và hèn lắm. Thấy ai vào tay sừng sỏ thì nó lủi đi như con rắn để cắn trộm lúc khác; những khi ấy thì nó lại càng nguy hiểm.
Nguyễn Mại cười nói:
- Các chú cứ nhút nhát thế thì còn làm gì được. Tôi quyết trừ hại cho nhân dân.
Cả bọn đồng thanh:
- Anh không nên vọng động. Tuyên phi là một người thâm độc, có người chỉ đánh Đặng Lân một roi mà bị giết cả ba họ.
Nguyễn Mại:
- Dẫu sao cũng không thể tha được thằng giặc hung dữ ấy. Nó với tôi một sống, một chết...
Nói đến đây bỗng có tiếng ca hát gõ nhịp ở giữa hồ đưa lại. Bảo Kim nói:
- Chúa ngự ra chơi.
Cả bọn cùng nhìn ra hồ. Dưới ánh trăng một đoàn thuyền rồng đang rẽ sóng bơi đi.
Tiếng tơ gẩy, tiếng trúc thổi, tiếng người hát họa. Trong động tiếng sáo, tiếng đàn văng vẳng đưa lên, cảnh vui vẻ và mơ hồ bị “Cậu Trời” phá tan, nay trở lại. Nhường như khi đấng chúa tể non sông ra, mọi người đều yên tâm, và không còn sợ kẻ nào đến phá bậy đêm hội nữa.
Thuyền từ từ đi về phía hàng Quỳnh Hoa, mái chèo đỏ để rơi tua tủa muôn hàng ngọc sáng. Bọn Bảo Kim và mọi người đổ xô lại để xem mặt Chúa và Tuyên phi. Vì cả năm mấy ai đã được biết mặt vị phó vương, thay quyền Thiên tử ban hành phép nước?
Trước bến, Quỳnh Hoa đứng trực. Thuyền cập bến, Chúa đứng đằng mũi hỏi to:
- Con cha có chấm được bài văn nào xuất sắc không? Quỳnh Hoa đáp:
- Con còn đợi trình phụ vương xem.
Người ta lấy dây gấm buộc thuyền vào gốc dương liễu. Tĩnh Vương bước lên, theo sau là một trang tuyệt thế giai nhân, trạc 25, 26 tuổi. Nguyễn Mại đoán ngay là Đặng Tuyên phi. Bên cạnh phi thì bao nhiêu cung nữ, kể cả Quỳnh Hoa bị lu mờ, vì phi trông rực rỡ, toàn thắm, toàn tươi. Đẹp mà không nhạt nhẽo, hơi đẫy mà không thô, nồng nàn mà không lơi lả. Phi là một người đàn bà có một sắc đẹp quyến rũ yêu quái. Người phi là tiếng gọi của dục tình.
Chúa và Đặng phi bước lên. Quỳnh Hoa đón vào hàng Quần Anh. Chúa nhìn bốn phía một lát, thấy hội kém bề náo nhiệt, phán rằng:
- Ủa, sao hội Trung thu năm nay tẻ thế?
Quỳnh Hoa định tâu, nhưng bắt gặp mắt sắc của Đặng phi, nàng cúi đầu, tự biết uy quyền của mình không sao chống được với cái uy quyền chúa tể kia. Nguyễn Mại nói nhỏ với các bạn:
- Người đẹp thế kia làm gì mà chẳng gây vạ. Làm gì mà thằng Đặng Lân chẳng hoành hành.
Chúa Tĩnh Đô sau khi vào thăm hàng con gái, cùng Đặng phi xem suốt đám hội, mua hoa quả, bánh trái, ăn uống như một người thường. Chúa lấy làm khoan khoái và lân la cho mãi đến gà gáy mới trở về thuyền. Chèo quế lại khơi sóng Long Trì, trong khi nhã nhạc tấu vang lừng, xen lẫn tiếng gà kết liễu hội Trung thu.
II
Thấy Chúa đòi Nguyễn Mại, mọi người đều sửng sốt. Bấy giờ mới tinh sương. Bảo Kim cùng Trần Thành, Lưu Sĩ Trực và Nguyễn Mại đang ngồi uống trà nói chuyện bên đỉnh trầm thơm.
Nguyễn Mại thản nhiên. Chàng lẩm bẩm:
- Chắc là việc hôm kia “Cậu Trời” đã ton hót với Chúa, và Chúa đòi ta vào để hỏi tội chứ gì. Thôi cứ đi.
Bảo Kim mặt thất sắc, hỏi người thị vệ:
- Bác có biết Chúa đòi việc gì không?
Người thị vệ đáp:
- Tôi cũng không biết. Có lệnh thì tôi đi, thế thôi.
Nguyễn Mại bước xuống thềm, theo người thị vệ từ biệt Trần Thành, Lưu Sĩ Trực và Bảo Kim.
Bảo Kim nói:
- Khi nào Chúa cho ra thì anh lại ngay báo tin cho tôi biết nhé. Bực nhất là không hiểu việc gì cả.
Mại cười đáp:
- Có lẽ việc ấy thôi. Nhưng dẫu chết mà nói rõ cho Chúa những cái lộng hành của thằng Đặng Lân thì cũng hả.
Bảo Kim nói:
- Tôi mong rằng không phải vì việc náo động ở Long Trì mà Chúa gọi anh. Chứ nếu thực thì...
- Thì nguy phải không?
- Vì Tuyên phi thì quá nuông em. Đặng Lân muốn gì bà cũng xin Chúa cho bằng được. Chúa chưa từ chối bà việc gì bao giờ.
- Chú không phải lo cho tôi. Tôi tự có cách khu xử.
Trần Thành nói:
- Vả không có lẽ vì một chuyện nhỏ ấy mà Chúa làm hại anh. Công lao hãn mã để đâu?
Bảo Kim tắc lưỡi, nói:
- Anh thực thà lắm. Anh chẳng thấy chán vạn người công thần chỉ vì một tội nhỏ mà chết cả đấy ư? Vua chúa có luận công bao giờ?
Nguyễn Mại nói:
- Các chú lôi thôi lắm. Để tôi đi.
Bảo Kim dùng dằng:
- Em hầu chè mẫu thân xong cũng sang phủ chúa xem sao. Nguyễn Mại dặn:
- Đừng làm kinh động bà nhé.
Nói xong bước ra sân đi thẳng.
Nguyễn Mại với Bảo Kim là chỗ quen biết từ lâu. Hai cụ thân sinh ra hai chàng là chỗ bạn đồng khoa và hai chàng là bạn đồng song. Chẳng may Nguyễn Mại, bố mất sớm, nhà lại nghèo, nên phải thôi học. Vốn có sức hơn người, chàng khảng khái đầu quân dự cuộc Nam phạt. Mẹ chàng, vợ chàng không bằng lòng việc ấy. Mà quan Thị lang, thân phụ Bảo Kim, cũng khuyên chàng bỏ cái ý định ấy đi, và hứa sẽ cho ăn đi học. Nhưng Mại quả quyết vào Nam, và chỉ trong có mấy tháng, chàng đã lừng lẫy trong Nam ngoài Bắc. Từ chân lính trơn, chàng đã lần lượt qua hết các ngạch nhà binh, và sau bốn năm, nhảy lên hàng tướng giỏi của Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, bậc danh tướng thời bấy giờ. Chàng được chúa Trịnh rất chú ý, nhất là vì chàng còn trẻ tuổi.
Trận đánh ở Phú Xuân chàng đã lập công đầu. Sau khi kinh đô chúa Nguyễn thất thủ, Hoàng Ngũ Phúc dâng biểu báo tiệp và sai chàng đem sổ quân công về nộp luôn thể. Về tới kinh, sau khi làm trọn công việc ủy thác của chủ tướng, chàng được tòa chưởng phủ báo tin cho rằng, nhân dịp tết Trung thu, Chúa vì quá yêu tài chàng, ban cho chàng cái đặc ân được vào dự buổi dạ hội ở Long Trì. Chàng vui sướng vô cùng, vì đó là một cái ân hãn hữu.
Nhưng cái vui nhất của chàng là đã được gặp bọn Bảo Kim, tuy họ đã gặp nhau trong một trường hợp bực tức. Sau đó thì chàng về nghỉ ở nhà Bảo Kim...
Đương khi chinh chiến trong Nam ba năm trước, chàng đã được tin quan Thị lang quá cố. Chàng biết Bảo Kim là một trang phong lưu công tử, sinh trưởng ở một nhà thế tộc trâm anh, sung sướng hơn chàng nhiều. Vậy mà chàng vẫn ái ngại cho bạn, vì Bảo Kim nhu nhược, cần phải có nhiều người che chở. Khi biết tin tang biến của bạn, để an ủi và nâng đỡ Bảo Kim, tuy ở xa, mà lúc nào chàng cũng chăm chú để ý đến người bạn thân ở chốn kinh hoa.
Thư từ của Bảo Kim và các tin tức ngoài Bắc làm cho chàng rất yên tâm và vui mừng. Chàng biết Bảo Kim đã chịu khó chăm học và đã nổi tiếng văn chương. Tuy Nguyễn Mại là người trọng thực tế, không thích hư văn và những người mơ mộng, nhưng chàng rất rộng lượng về đường ấy với Bảo Kim. Chàng lấy làm sung sướng mỗi khi nhận được thư của bạn thường có kèm theo cả những bài thơ, phú, lời lẽ rất thiết tha và trang nhã. Những lúc việc binh rỗi rãi, chàng thường mời mấy bạn sang trại mình uống rượu, và khi đã ngà ngà say chàng thường đứng dậy, cầm kiếm gõ nhịp, cất tiếng hào hùng mà ngâm thơ, phú của người bạn phương xa. Những buổi ấy là những buổi vui nhất trong đời chiến sĩ của chàng, sau những buổi một mình một ngựa tung hoành phá vỡ vòng vây.
Nguyễn Thị lang phu nhân rất yêu Nguyễn Mại, tình yêu này do ở lòng thương mà ra. Thương vì chàng nghèo khổ từ thuở bé. Trong suốt thời kỳ chàng chinh chiến trong Nam, cụ lo ngay ngáy như một người mẹ. Thấy chàng trở về trông gân guốc và uy phong, cụ hớn hở vui mừng bảo chàng:
- Bác trai khi trước cứ gàn cháu, bác cũng lấy làm lo. Nếu cháu nghe bác thì đâu được đến ngày nay? Thôi, cũng bõ cho cụ nhà và chị
ấy bốn năm đằng đẵng những lo cùng sợ. Nay về kinh, Chúa thượng chưa có lệnh, hãy ở đây với bác và em may ra được về quê thăm nhà cũng không biết chừng. Thằng Dũng bây giờ lên mấy rồi nhỉ?
Mại thưa:
- Thưa bác, cháu cũng không nhớ.
Phu nhân và mọi người cười ồ lên. Cụ nói:
- Bố thế thì đem ra đánh cho chết đi. Khi cháu đi, thằng Dũng mới lên một, thì năm nay nó lên năm chứ gì. Sau này cho nó theo học võ, chứ học văn như chú Kim, trói gà không nổi thì chỉ hại cơm nước triều đình... Nhưng thôi, để bác sửa một bữa rượu mừng cháu, nhân tiện cho mời các bạn Kim đến chơi cho thật đông đủ, bõ lúc cháu một mình một bóng ở tận chân trời.
Và ngay sáng hôm sau, trong biệt thự của quan cố Nguyễn Thị lang, một bữa tiệc linh đình đã đặt để thết Nguyễn Mại. Ngoài Bảo Kim ra người ta còn nhận thấy trong bữa tiệc ấy sáu người bạn cùng đi chơi với Bảo Kim buổi dạ hội ở Long Trì...
Nguyễn Mại đi rồi thì phu nhân vừa dậy. Sau khi nghe Bảo Kim thuật rõ câu chuyện, phu nhân giậm chân nói:
- Thế có khổ cho anh ấy không? Mẹ đã bảo các con không nên dây đến đám Đặng Tuyên phi. Sao các con cứ lôi thôi!
Bảo Kim vừa pha trà hầu mẹ, vừa thưa:
- Thưa mẹ, thực ra chúng con có muốn lôi thôi đâu. Nhưng nó làm quá lắm.
- Đến quan đại thần nó còn không kiêng nể, huống chi là mình. Du côn thế mà Chúa tin được... Thấy nó thì tránh đi có được không, bây giờ thì làm thế nào?
- Thưa mẹ, chốc nữa con đi xem ra sao. Vả, thưa mẹ, đó chỉ là đoán phỏng đấy thôi, chứ đã biết Chúa đòi anh Mại vào việc gì? Nghe đâu khen anh Mại là trí dũng song toàn. Ngài vẫn muốn xem mặt anh Mại, vì anh là người trẻ nhất trong hàng tướng tá của ngài. Biết đâu
ngài lại không triệu anh Mại vào để ban khen?
- Được thế thì hay lắm, nhưng chắc gì. Chúa bao giờ lại tiếp một viên tỳ tướng. Chắc con họ Đặng nó ton hót cái gì, nên mới có lệnh đòi anh ấy chứ. Chán quá, có làm sao thì thực khổ cho bà cụ và chị Mại, nhất là đứa con thơ.
Cụ nhấp chén nước, rồi nói tiếp:
- Nghĩ mà thương hại anh ấy. Khổ từ bé, đến bây giờ chưa hết khổ hay sao? Thực là số vất vả.
Trong khi ấy thì Nguyễn Mại rảo bước theo người thị vệ cầm đèn lồng đi trước, tới cổng phủ chúa, trời đã lờ mờ sáng. Người thị vệ vào trước. Một lúc lâu một người nội giám đi ra, cúi đầu thi lễ rồi nói:
- Tướng quân theo tôi.
Nguyễn Mại lẳng lặng theo vào. Chàng có cái cảm giác như một con chim sẻ lạc vào một nơi xa lạ và vĩ đại. Chàng bỡ ngỡ trước những lâu đài tráng lệ và quy mô hùng vĩ của phủ chúa. Càng vào càng thấy huy hoàng. Trong bốn năm chinh chiến, chàng đã luyện được lòng tự chủ. Vậy mà trước cảnh uy nghiêm tôn kính này, chàng cũng thấy rợn người...
Có tiếng ở trong sang sảng truyền ra:
- Cho vào.
Chàng theo người nội giám. Bước lên thềm, qua cánh cửa chạm rồng, qua chiếc bình phong lớn, Nguyễn Mại vào một gian phòng rộng và sâu, cột cao và cùng với sàn, đều sơn đỏ tía. Câu đối nét vàng rực rỡ. Giữa nhà có treo một cây đèn rất to, lồng trong một chiếc khung bát giác sơn son thiếp vàng và có tua rủ xuống. Đèn hãy còn thắp. Trong cùng, treo trên tường một bức thêu “Tô Vũ mục dương”, trước có kê một chiếc sập lớn. Trên sập hai bên rải đệm vóc, giữa bày chiếc kỷ. Một vị ngồi trên sập, lưng tựa vào chồng gối xếp. Nguyễn Mại nhận ra ngay là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mà chàng mới biết mặt trong đêm hội Long Trì. Sát vào sập có kê một chiếc ghế lớn, một vị đại thần ngồi.
Nguyễn Mại tiến đến chỗ treo đèn, chàng phủ phục và hô: - Thiên tuế!
Và chàng nằm rạp xuống chờ lệnh. Một lúc lâu, Tĩnh Vương phán:
- Cho phép ngươi bình thân.
Chàng đứng lên. Chúa nói gì với vị đại thần, vị này nói: - Đại vương truyền cho ngươi lại gần để Ngài hỏi chuyện.
Mại tuân lệnh. Chúa chỉ một cái đôn cách sập độ sáu thước, chéo với ghế của vị đại thần và truyền:
- Cho ngồi.
Nguyễn Mại luống cuống:
- Tâu Vương gia, lệnh trên cho phép, nhưng tiểu tướng xin được đứng hầu.
Chúa cười và nói:
- Con nhà võ mà còn khách sáo. Đây là trong nhà, không phải giữ lễ chúa tôi.
Và quay hỏi vị đại thần:
- Có phải không, Quận công?
Vị đại thần cung kính đáp:
- Đại vương đãi quần thần, thực chẳng kém chi Quang Võ. Chúa và vị đại thần cùng cười, vui vẻ lắm.
Nguyễn Mại tự nhủ:
- Chắc không phải là việc “Cậu Trời”.
Chúa nhìn Nguyễn Mại, mặt ngài tươi tỉnh. Người võ tướng trẻ tuổi bỗng thoáng nhận thấy cả cái vẻ vừa đĩ, vừa thông minh trong khóe mắt, nụ cười của vị chúa đa tình nhất nhà Trịnh. Chàng thấy yêu và quyến luyến Tĩnh Vương. Chàng tự hỏi: ai cũng bảo Chúa nghiêm nghị và đa sát, nay mới biết thiên hạ đồn sai cả.
Tĩnh Vương thấy chàng vẫn đứng, mặt bỗng biến sắc, vẻ hòa nhã đổi ra vẻ nghiêm nghị:
- Ta đã cho ngồi, ngươi không phải giữ lễ. Giữ lễ quá thì mất cả thực thà.
Mại cúi đầu vái Tĩnh Vương và vị đại thần, rồi ngượng nghịu ngồi xuống đôn. Tĩnh Vương trỏ vị đại thần và giới thiệu:
- Ta quên chưa nói cho ngươi biết quan Huy Quận công, đốc trấn Nghệ An, mới về kinh, mộ tiếng nhà ngươi, muốn được biết mặt đã lâu. Tháng trước, vua nhà Thanh có đưa biếu ta mươi cân trà quý. Hôm nay nhân mời Quận công vào uống trà, ta sai triệu ngươi vào, vừa để biết mặt một tay dũng tướng, vừa để hỏi vài câu chuyện phương Nam.
Nguyễn Mại đứng lên vái Tĩnh Vương và Quận công và nói:
- Tâu Đại vương, thưa Các hạ, tiểu tướng là một kẻ ty tiện, vốn chỉ biết trọn đạo thần tử, không ngờ Đại vương và Các hạ quá yêu, tiểu tướng thực lấy làm thâm cảm vô cùng. Dẫu Đại vương bảo nhảy vào nước lửa, tiểu tướng cũng không dám từ nan.
Tĩnh Vương phán:
- Ngươi ngồi xuống.
Và gọi nội giám:
- Bay, pha trà.
Một người nội giám bưng một chiếc khay gỗ trắc, trên để một chiếc ấm và ba chiếc chén nhỏ đều một màu da lươn bóng loáng.
Huy Quận công tâu:
- Chẳng hay bộ này có phải của người khách Dương Bảo Sơn tiến năm xưa? Người kinh thành đều khen là một bộ trà quý giá vô cùng.
Tĩnh Vương phán:
- Đấy là bộ độc ẩm. Còn đây là bộ trà đức Bình An Vương để lại, quý hơn nhiều. Trước có bốn chén, ngày loạn Quý Hợi(1)vỡ mất một. Mỗi khi dùng bộ trà này, ta lại nhớ đến công đức tổ tông...
Huy Quận công và Nguyễn Mại cùng tâu:
- Hạ thần xin cúc cung tận tụy giúp Chúa công, và chúc ngôi báu được vững bền muôn đời.
Chúa vui vẻ, thân pha trà, và phán:
- Nhà Trịnh quả đức, được ngày nay là nhờ ở sự giúp đỡ của mọi người đó. Việc phương Nam vẫn là mối lo của tiên vương. Nay quân Nguyễn đã tan, chúa Nguyễn chạy trốn, thành Phú Xuân đã về tay ta, tiên vương được yên lòng dưới chín suối. Đó chẳng là một điều mừng cho ta sao? Từ nay ta có thể nghỉ việc binh đao, và cho thần dân được hưởng thái bình vạn đại. Chén trà này là ta mừng cho ta, và chén trà này ta thưởng cho tráng sĩ.
Nguyễn Mại run lên vì cảm động. Nội giám dâng trà. Chàng quỳ xuống lĩnh chén. Trà có một hương vị thanh khiết và thơm tho, chàng thấy nhẹ nhàng, và ân Chúa thấm nhuần trong cơ thể.
Tĩnh Vương nhấp chén trà, quay hỏi Nguyễn Mại:
- Trận đánh ở Phú Xuân thế nào?
Mại tâu:
- Tâu Chúa thượng, khi đại quân tới trước thành Phú Xuân, quân Nguyễn thề cố chết giữ thành. Quân ta và quân giặc trong ba tháng đánh nhau hơn trăm trận. Việp Quận công thân ra đốc thúc tướng sĩ, xông pha tên đạn, nhưng quân Nguyễn liều chết cố thủ, quân ta thiệt hại vô kể. Đại tướng phiền muộn, quân sĩ chán nản; lại thêm lương thực mỗi ngày mỗi cạn. Trong khi ấy thì quân Nguyễn tu bổ lại thành trì, tuyển thêm quân sĩ và viện binh của họ đã lục tục kéo đến tiếp
ứng. Một hôm nhân theo Đại tướng đi úy lạo quan quân, tiểu tướng xin Đại tướng cho phép đem 100 quân bản bộ vào sau lưng thành Phú Xuân, nơi sào huyệt của giặc làm nội ứng. Thấy tiểu tướng trẻ tuổi, Đại tướng ngần ngại mãi mới cho đi. Năm ngày mới tới Phú Xuân. Vốn đã học được tiếng đường trong, tiểu tướng nghĩ ra một kế đứng ra giữa chợ, hô hào dân gian ra đầu quân phá giặc, bọn anh em tiểu tướng thì giả làm những người hăng hái ra ứng mộ. Được dẫn vào ra mắt viên đốc trấn thành Phú Xuân là Tôn Thất Tiệp, tiểu tướng dâng một bài sách phá quân Trịnh.
Tĩnh Vương và Huy Quận công cùng cười:
- Thế ra ngươi là phản quốc.
Mại cũng cười và tiếp:
- Tiểu tướng được trọng dụng ngay. Được mươi hôm, giữa đêm mồng chín tháng mười năm ngoái(2), nhân lúc mưa phùn, gió bấc, tiểu tướng truyền lệnh cho 100 quân thân tùy, mỗi người ẩn một nơi, người thì được lệnh đốt kho súng, người thì đóng vai quân hoảng sợ, phao tin quân giặc đã vào... Tiểu tướng cũng phục quân Nguyễn canh phòng nghiêm ngặt, họ không hề chểnh mảng một phút nào. Sau khi xếp đặt đâu đấy và khuyên anh em nên quên thân đền nợ nước, tiểu tướng dẫn 10 người cảm tử tới kỳ đài, giết hết lũ quân canh, rồi leo lên đỉnh, nhổ hiệu cờ quân Nguyễn, cắm cờ nhà Trịnh. Kế đó tiểu tướng bắn ba ngòi pháo thăng thiên để báo hiệu cho quân nhà. Quân ta đợi sẵn, nhất tề xông sang. Quân Nguyễn biết là có biến, lên cả mặt thành phòng ngự. Nhưng cũng vừa lúc ấy, có một tiếng nổ kinh thiên động địa, kỳ đài rung chuyển như đổ đến nơi và ở kho lương lửa bốc lên ngùn ngụt. Năm mươi anh em chạy tán loạn, kêu trời khóc đất, khiến cho quân Nguyễn phải lây cái sợ. Họ bị những viên tướng Nguyễn giết đi. Lòng tiểu tướng thắt lại. Nhưng quân Nguyễn bấy giờ đã sợ quá rồi. Tiểu tướng bắc loa đứng trên kỳ đài hô: “Bớ quân tướng nhà Nguyễn, hãy trông lá cờ Trịnh phấp phới trên đầu các ngươi! Quân ta đã vào đến trong thành, thiên binh đã tới, chống cự cũng vô ích. Đứa nào hàng thì còn được toàn tính mệnh, đứa nào chấp nê chưa tỉnh, thì đừng có trách chủ tướng ta tàn ác!”
Quân ta đã đánh lên mặt thành, trông thấy anh em xả thân vì nước, tiểu tướng đứng riêng một chỗ tự lấy làm hổ thẹn. Vì thế tiểu tướng bước xuống kỳ đài. Nhưng dưới chân đài quân Nguyễn vây kín
như ong, mười người anh em của tiểu tướng bị chúng băm như cám. Phần thì thương bạn, phần thì giận giặc, phần thì cố mong muốn cho chóng thắng trận, tiểu tướng múa gươm xông vào giữa trùng vi. Quân
giặc hô to: “Chính thằng Nguyễn Mại, giết chết nó đi!” Tiểu tướng nói: “Nguyễn Mại đây, đứa nào muốn chết thì trêu vào Nguyễn Mại!” Hết lớp này đến lớp khác, tiểu tướng cố sức mãi không sao ra được.
Tới khi mở được một đường máu, mới chạy được vài bước thì bị một phát tên bắn trúng đầu gối. Tiểu tướng ngã xuống, gươm bắn đi xa, quân thù xông lại đâm chém, tiểu tướng chỉ kịp kêu lên một tiếng: “Tĩnh Vương muôn tuổi” rồi không biết gì nữa. Đến khi tỉnh dậy, tiểu tướng lấy làm ngạc nhiên thấy Việp Quận công ngồi bên, tươi cười nhìn tiểu tướng và báo cho tiểu tướng biết thành Phú Xuân đã vỡ và Trương Phúc Loan đã bị bắt.
Tĩnh Vương gật đầu nói:
- Ngươi còn trẻ mà đã thừa trí dũng, lại có lòng tận trung báo quốc, thực đáng khen lắm. Chén trước ta thưởng công, chén này ta thưởng lòng dũng cảm của ngươi.
Chúa lại rót một chén nữa đưa nội giám trao cho Nguyễn Mại. Chàng quỳ xuống lĩnh. Huy Quận công nói:
- Chúa thượng đã ban ơn, thần cũng xin một chén để riêng thưởng Nguyễn tướng quân.
Tĩnh Vương phán:
- Quận công bàn phải lắm.
Chúa rót một chén đưa cho Hoàng Đình Bảo. Quận Huy đỡ lấy, quay lại trao cho Nguyễn Mại và nói:
- Đây là chén trà mừng một trang hổ tướng. Tiền trình còn dài, ngươi không nên phụ lòng ân cần của Chúa thượng.
Mại cung kính nhận lấy và thưa:
- Tiểu tướng xin đa tạ Các hạ. Nhời Các hạ, tiểu tướng xin ghi tạc vào phế phủ.
Một phút yên lặng. Nguyễn Mại biết Tĩnh Vương đang nhìn mình, chàng không dám ngước mắt, nhưng có cảm giác rằng đôi mắt ấy sáng loáng như gương. Chúa chợt hỏi:
- Ngươi có vào Nam nữa không?
Chàng đáp:
- Tâu Chúa thượng, tiểu tướng còn chờ vương lệnh.
- Nay phương Nam đã yên, việc binh nên nghỉ. Ta đã sai quan Tham tri Lê Quý Đôn vào chỉnh đốn việc cai trị. Việp Quận công cũng sắp kéo quân về Bắc. Vậy ngươi cũng không cần vào Nam nữa. Hiện kinh thành đang khuyết một chân Hộ thành binh mã sứ để giữ gìn việc trị an. Ta muốn bổ ngươi vào chức ấy. Ngươi nghĩ sao?
- Tâu Chúa thượng, tiểu tướng có phải đi thú nơi ma thiêng nước độc cũng không quản ngại, huống chi là nhận chức trọng ấy. Chỉ hiềm tiểu tướng còn trẻ tuổi, sợ phụ lòng ủy thác của Vương gia.
- Không sao. Ta chỉ cần ngươi được việc.
- Tâu Chúa thượng, kinh kỳ ba mươi sáu phố phường, người đông việc lắm, nhỡ phạm vào những nhà quyền quý, tiểu tướng có thể thi hành phép nước được không? Tiểu tướng thiết nghĩ: muốn cho dân gian được yên nghiệp làm ăn, thì những sự nhũng lạm, những kẻ lộng quyền hiếp chế, tất phải nghiêm trị...
- Đó là công việc chính đáng. Ta cho ngươi quyền ấy. Ngày mai ta sẽ tâu Thiên tử phong chức cho. Nhưng nghĩ ngươi bốn năm chinh chiến, gian lao vất vả nhiều, ta muốn cho ngươi nghỉ ít lâu để về thăm nhà. Ta nghe nói ngươi còn mẹ già, đế vương lấy hiếu trị thiên hạ, ta không nỡ để ngươi phải nhãng đạo thần hôn. Vậy ta cho ngươi nghỉ một tháng để về sum họp gia đình, rồi sẽ nhậm chức cũng không muộn.
- Tâu Chúa thượng, tiểu tướng là một kẻ bất tài mà Chúa thượng quá ân cần, thực là muôn vàn cảm kích.
Chúa truyền nội giám đem ra một cái khay, cầm lấy một gói đỏ, sai đưa cho Nguyễn Mại và phán:
- Ta ban cho ngươi một lạng quế Thanh. Quế này rất tốt, đem về làm quà cho mẹ già.
Nguyễn Mại quỳ rạp đầu xuống đất, lĩnh lấy gói quế, nước mắt giàn giụa, và tâu rằng:
- Mẹ tiểu tướng không ngờ lại được cái vinh dự Chúa ban quà. Tiểu tướng run sợ, xin thay lời mẹ, bái tạ Vương gia và chúc ngôi chúa muôn đời.
- Thôi được cho ngươi lui.
Nguyễn Mại ở trong phủ chúa đi ra, như tỉnh, như mê, máu lộng một nguồn vui sướng. Trời thu đẹp đẽ, ánh vàng rọi xuống những mái lâu đài và dinh thự. Vài đàn chim liệng trên vòm trời xanh ngắt, nhàn hạ trong buổi thanh bình. Cảnh vật như đón mừng người tráng sĩ. Chàng thu trong bọc gói quà, và lẩm bẩm: “Mẹ ơi! Vinh hạnh biết bao! Thực bõ suốt một đời lao lực!...” Trước mặt chàng là hình ảnh thân yêu của bà mẹ già đầu bạc, hiện ra giữa khung cổng lợp rơm, cả cái bóng của người vợ hiền với đứa con trai...
Chợt có tiếng gọi khiến chàng choàng tỉnh mộng. Bọn Bảo Kim đã quây quần lấy chàng hỏi chuyện. Chàng thuật lại cảnh vừa qua. Bọn Bảo Kim nhảy lên vì vui sướng. Đỗ Tuấn Giao nói:
- Anh làm cho tôi sợ hết hồn: lúc Bảo Kim đến gọi và báo tin anh bị triệu vào phủ chúa, tôi rụng rời, chắc chỉ là việc thằng chó đểu họ Đặng, ai ngờ sự thể lại xoay ra thế được, Chúa thực là một bậc thánh minh.
Trần Thành nói:
- Ngài không có bệnh tửu sắc, thiên hạ còn lo gì mà không thịnh trị?
Hoàng Đình Nghiễm nói:
- Thấy Bảo Kim tái xanh tái tía nói chuyện về anh, tôi đã đoán già rằng không phải vì việc Cậu Trời. Chả nghe đồn Chúa vẫn mong xem mặt anh đấy ư?
Đỗ Tuấn Giao nói mỉa:
- Phải, thực là tay cao kiến!
Đình Nghiễm cãi:
- Chú không biết. Hỏi Bảo Kim xem có phải thế không? Bảo Kim vừa cười vừa nói:
- Quả có thế.
Hoàng Đình Nghiễm nói thêm:
- Thôi đừng chuyện phiếm nữa. Nay anh Nguyễn Mại đã làm cho anh em chúng ta, nhất là cho cụ bà, lo sốt vó, thì anh ấy phải tính sao cái chỗ ấy chứ? Tôi nghĩ thế này, anh em xem có ổn không? Không gì bằng anh Mại đền bọn mình một bữa chén. Nhân tiện chúng mình
mừng anh ấy một thể. Bây giờ còn anh em, ít nữa chúng mình thuộc quyền hắn, nhất tự cách trùng, lúc ấy đòi hắn đền lại không chết đòn sao?
Cả bọn đồng thanh cho là phải. Nguyễn Mại âu yếm nhìn các bạn. Họ lưu luyến chàng biết bao! Trong lúc ấy chàng càng cảm thấy cái thú nồng nàn của tình bằng hữu. Chàng nói:
- Vậy thì ta đánh chén. Tôi cũng có ý ấy. Trong khi chinh chiến thỉnh thoảng tôi uống rượu, nhưng chỉ uống cho hăng, chứ không phải cho vui. Vả uống một mình thì chán lắm. Uống rượu với các bạn mới là thần tiên. Đã lâu ta không có thú ấy, nay ta lại hưởng cái thú ấy. Mấy khi chúng ta được đông đủ như thế này. Cũng phải có lúc ta vong tình trong chén rượu chứ?
Cả bọn nói:
- Phải lắm! Không ngờ nhà võ tướng còn nhớ cả thơ Lý Bạch nữa. Bảo Kim nói:
- Anh em hãy để cho tôi nói, mẫu thân tôi lo cho anh Mại quá, cụ giục tôi đi xem sự thể ra sao. Lại nói: Nếu anh Mại không việc gì thì ta
sửa một tiệc mừng anh ấy. Ý mẫu thân tôi là thế, xin các anh cứ cho thế cho tiện.
Nguyễn Mại nói:
- Không có lý lại để cho cụ mừng tôi.
Trần Thành nói:
- Không nên câu chấp, ý cụ đã ân cần với anh, anh không nên phụ. Bây giờ hãy về để cụ mừng cho anh đã, bữa khác anh thết chúng tôi cũng được.
Cả bọn đều cho là phải. Tới nhà Bảo Kim đã thấy Nguyễn phu nhân đứng chờ ngoài cổng. Nguyễn Mại bước rảo tới quỳ xuống lạy phu nhân và thưa:
- Cháu để bác lo phiền, thực là đắc tội.
Phu nhân nâng chàng dậy:
- Bác lo cho cháu quá! Chúa triệu vào có việc gì thế?
Rồi phu nhân bảo con dẫn mọi người vào phòng khách. Nguyễn Mại thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho phu nhân, rồi tiếp:
- Cháu đội ơn Chúa ban quà cho mẹ cháu. Trộm nghĩ bác cũng như mẹ, vậy cháu xin biếu bác một nửa thanh quế này, để tỏ chút lòng kính ái.
Phu nhân nhất định từ chối. Nguyễn Mại nài thế nào cũng không được.
Một bữa tiệc lớn dọn ở Hoa Đình. Phu nhân không dự, để cho lũ trẻ được tự do, theo thói quen của phu nhân.
Rượu đã ngà ngà say, họ làm thơ tặng Nguyễn Mại. Bảo Kim vẩy bút làm một bài Hoa Đình ký để ghi buổi trùng phùng. Sau khi kể công nghiệp Nguyễn Mại, chàng tán dương tình bằng hữu, rồi tả bữa tiệc ở đình Hoa, lời văn tao nhã, ý tứ thiết tha, cử tọa đều phục là một trang tuyệt diệu.
Nguyễn Mại dốc cạn chén, đứng lên nói:
- Anh em thực là ân cần với tôi, tôi cảm kích lắm. Thơ phú không phải là nghề của tôi, đã lâu tôi bỏ từ chương. Muốn đáp lại tấm thịnh tình của các bạn, tôi xin chịu về đường văn. Nhưng về đường kiếm, tôi cũng có chút thông thạo, chi bằng tôi múa vài bài kiếm, vừa để tạ anh em, vừa để mua vui cho bữa tiệc, anh em nghĩ sao?
Cử tọa nhao nhao tán thành. Nguyễn Mại đứng lên với lấy thanh kiếm mà chàng đã treo lên trên tường trước khi vào tiệc, tuốt kiếm ra, lưỡi kiếm sáng như đèn. Mại nói:
- Đây là một bảo kiếm. Kiếm này nguyên của chúa Nguyễn ban cho Nguyễn Hữu Dật khi xưa. Việp Quận công ngày vào thành Phú Xuân, bắt được kiếm này, ban cho tôi để thưởng công. Tôi xin đem một vài miếng ra mắt anh em.
Chàng ngâm mấy câu lục bát:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên.
Từ gia lĩnh kiếm lên yên,
Sa trường đem lại một thiên anh hùng.
Bọn Bảo Kim vỗ tay khen. Bảo Kim nói:
- Anh thực là bậc phong lưu võ tướng.
Nguyễn Mại đã bước xuống thềm, ra giữa sân, trong chớp mắt chàng đã mờ trong bóng kiếm. Bọn Bảo Kim chăm chú nhìn, ngây như phỗng. Một lúc lâu, Nguyễn Mại múa xong, chàng bước lên thềm, ung dung như không nhọc mệt gì cả. Chàng tươi cười hỏi:
- Các chú nghĩ sao? Múa thế có được không?
Trần Thành nói:
- Tuyệt diệu!
Nguyễn Mại nói:
- Hỏi một anh thư sinh về đường kiếm của mình thực là gàn quá! Cả bọn nói:
- Chúng tôi sẽ đầu bút sự nhung yên như anh cả. Xem anh múa kiếm mà thèm.
Nguyễn Mại treo kiếm, lại ngồi vào bàn tiệc. Khi tiệc gần tan, Hoàng Đình Nghiễm bỗng hỏi:
- Sau khi về thăm nhà, anh ra nhận chức. Vậy anh đã có ý kiến gì chưa? Hộ thành là một chức trọng. Sự trị an ở chốn kinh kỳ là ở trong tay anh cả.
Lưu Sĩ Trực nói:
- Mấy lão già giữ chức ấy, bênh dân thì ít mà hại dân thì nhiều. Họ sợ bọn quyền quý như hùm. Anh là ông quan Hộ thành trẻ tuổi nhất từ xưa đến giờ, anh có can đảm vì dân trừ hại không?
Nguyễn Mại nói:
- Sao lại không? Đó là ý nguyện của tôi.
Lưu Sĩ Trực hỏi:
- Lỡ gặp Cậu Trời?
- Thằng ấy à? Không gặp nó tôi cũng cố gặp nó cho bằng được. Tôi đã quyết giết nó rồi, không dung thứ được.
- Trêu vào nó thì không những chức Hộ thành mất mà đầu anh cũng mất.
- Có hề gì? Tôi đã coi thường cái chết.
Bảo Kim nói:
- Nếu thế thì...
- Kiến nghĩa bất vi vô dũng giã. Thấy nó ngang ngược mà dung
túng, vì nể Tuyên phi, thì mình cũng có tội như nó còn gì?
Tiệc đã tàn. Họ cùng ngồi nói chuyện về công danh sự nghiệp và đàm luận về đạo đức văn chương.
Chiều hôm ấy, trên con đường về tỉnh Bắc, một chàng võ tướng, đeo gươm tế ngựa như bay; đó là Nguyễn Mại trở về quê thăm mẹ và vợ con. Bụi bốc mịt mù đuổi theo vó ngựa người tráng sĩ.
III
Bài phú Long Trì của Bảo Kim nổi tiếng trong xã hội văn chương thời ấy. Các danh sĩ đều thán phục là một thiên cổ kỳ bút. Gần xa ai ai cũng biết đến Bảo Kim, người ta thi nhau chép cho được bài phú Long Trì; họ đọc họ ngâm, họ phê bình. Nhiều người quá hâm mộ, còn học cả lối chữ thảo của Bảo Kim để viết bài phú ấy. Thiên hạ khen là nhà Nguyễn Thị lang có phúc; họ cho là trời đền công cho vị quan thanh liêm mà không được hưởng lộc trời, nhất là cho Nguyễn phu nhân, một bà hiền mẫu có tấm lòng trung hậu cả kinh thành đều biết. Họ đoán rằng, với cái tài của Bảo Kim, chàng sẽ không khó nhọc gì mà giật giải khôi nguyên trong kỳ thi sắp tới.
Tuy vậy, thiên hạ vẫn lo sợ nơm nớp cho Bảo Kim. Phu nhân cũng cùng chung một mối sợ. Việc Bảo Kim cùng anh em đánh lại Cậu Trời trong buổi dạ hội ở Long Trì, khắp chốn kinh kỳ đều biết. Người ta lại lấy làm lạ rằng đã sáu bảy hôm Đặng Lân không ra khỏi phủ. Thực là
một sự quái gở vì ai cũng biết em trai Tuyên phi rất hay thâm thù, không có lẽ nào lại làm ngơ cho bọn Bảo Kim. Nhiều người đồn rằng Lân sợ Nguyễn Mại; lắm kẻ cho rằng Lân đương nghĩ một mưu thâm hiểm gì để hại kẻ thù; có người mạnh đoán lại cho là Cậu Trời ốm. Lời nói này làm cho nhiều người nói:
- Thôi thì cũng lạy trời bắt nó ốm cho nó chết đi, để cho nhẹ kiếp dân kinh thành! Không biết đất Thăng Long có động ở chỗ nào mà trời sai thằng quỷ sứ ấy xuống gieo tai rắc vạ?...
Lân cùng Tuyên phi là con một ông đồ nghèo ở làng Chè. Thuở bé Lân đã ngỗ nghịch không chịu học hành. Khoảng 13, 14 tuổi đã nát rượu, ham cờ bạc, và đã dự vào những trận ăn cướp ở quanh vùng. Lớn lên, lại càng lăng loàn, đầu óc chỉ sắp đặt những mưu mô chim chuột đàn bà con gái, đã thích người nào thì kỳ cho thỏa mãn lòng dục mới thôi. Đào tường khoét vách, hãm hiếp giữa đường, Lân không từ một thủ đoạn nào, nhiều khi bị đánh gần chết mà vẫn không bỏ.
Đến khi Tuyên phi đắc thế, được chị gọi vào kinh, Lân tha hồ phóng túng, thả lỏng lòng dục, trác táng tuổi thanh niên. Óc lại giàu
tưởng tượng, Lân thường bày ra nhiều cảnh huy hoàng dâm đãng, cuộc truy hoan có khi thâu đêm suốt sáng, tiếng ca hát, tiếng cười nói chớt nhả, làm rờm tai những người xung quanh phủ, đến nỗi nhiều nhà phải dọn đi chỗ khác, thành thử phủ Lân biệt lập hẳn một nơi. Con người xa xỉ ấy chỉ sống khi có giai nhân bên cạnh, hay trên chiếu bạc, hay trước một bình rượu tốt, một mâm cơm ngon. Lân muốn tận hưởng tuổi thanh niên phong phú, biết hết các loại đàn bà, nếm hết những mùi ngon của hiếm trên đời. Vì thế Lân ở rất sang, mặc rất đẹp, ăn uống lại càng chú ý. Mỗi bữa cơm của Cậu Trời, mỗi bữa tiệc thì đúng hơn, là một buổi trưng bày rực rỡ về bảo vật, màu sắc và hương thơm...
Sau khi bị đánh ở Long Trì, Lân dẫn gia nhân lủi thủi về, nghiến răng mắm lợi giận uất lên tới cổ.
Về đến phủ, Lân nằm lăn trên sập, rên rỉ:
- Thù này không báo được thì đến chết mất mà thôi!
Ba tên hầu thân cận nhất của Lân là Bùi Đãng, Đào Văn Kiên và Hồ Trọng Vũ cầm quạt lại quạt cho chủ và ton hót:
- Thưa cậu, cậu hãy nguôi giận rồi ta sẽ nghĩ kế phục thù.
Lân truyền đem rượu ra uống. Nốc cả một bình rượu tốt, say mềm nằm lả ra. Bùi Đãng nhanh nhảu dẫn một lũ con gái vẫn bắt giam dưới nhà đem lên để đấm bóp cho Cậu Trời.
Lân đang say khướt, bỗng trừng trừng nhìn mấy người con gái, cất giọng đầy hơi rượu hỏi:
- Quỳnh Hoa đấy ư em?
- Thưa cậu, em đây mà, Quỳnh Hoa nào? Một người con gái trẻ trả lời.
- Quân chó này, ai bảo chúng bay lên? Tao có bảo không mà chúng mày dám tự tiện.
Bùi Đãng sợ hết hồn thưa:
- Thưa cậu, chúng nó lên để hầu cậu.
- Tao thèm hạ mình với lũ bần tiện ấy à?
Rồi Lân thét ầm ĩ. Chợt gọi:
- Bùi Đãng! Lấy gươm!
Đãng dạ, dâng gươm. Lân cầm lấy. Người con gái thưa lúc nãy kêu lên một tiếng hãi hùng, chạy ra sân thì Cậu Trời đã sấn lại, chém một nhát ngã gục xuống, lấy chân đá cái thây văng ra xa. Hai người con gái trong nhà chết ngất đi vì sợ.
Những sự chém giết ấy không mấy ngày không diễn ra trong phủ Đặng Lân. Con người tửu sắc dâm dật và có máu điên ấy thích cái thú quái gở là giết đàn bà con gái, sau những khi hành lạc, hay trong những lúc say rượu.
Khi đã làm xong tội ác, Đặng Lân quăng kiếm cười ha hả, chân nam đá chân chiêu, bước lên sập nằm thản nhiên như không có sự gì xảy ra. Một lát lại ngáy, thỉnh thoảng lảm nhảm gọi:
- Quỳnh Hoa Quận chúa! Quỳnh Hoa Quận chúa!
Bùi Đãng sai người quét tước và đem chôn cái thây ở bên vườn rộng đằng sau. Trời vừa sáng bạch. Đãng thì thầm bảo tên Kiên:
- Cậu mê Quận chúa rồi.
- Ăn thua gì, đời nào Chúa thuận!
- Biết đâu đấy. Có bà Tuyên phi thì không ai nói trước được.
Mãi trưa hôm ấy, Đặng Lân mới dậy. Bùi Đãng dọn tiệc lên rồi cùng bọn gia nhân chắp tay đứng hầu, trong khi một người thiếu phụ có nhan sắc đứng chuốc rượu.
Cậu Trời hỏi:
- Chúng bay có trông thấy Quận chúa Quỳnh Hoa không?
Bùi Đãng thưa:
- Thưa cậu, thực là một trang tuyệt sắc!
- Ta ngắm con gái đã nhiều, nhưng chưa bao giờ thấy một người đẹp như thế. Không ngờ Tĩnh Đô Vương lại có con gái đến bực ấy. Ta được sánh duyên với Quỳnh Hoa thực là thỏa một đời. Chúng bay bảo ta có lấy được Quỳnh Hoa không?
Đào Văn Kiên đáp:
- Thưa cậu, làm gì mà chẳng được. Tuyên phi chỉ nói một câu là mọi sự phải thành.
- Thế nhỡ Quận chúa không thuận?
Hồ Trọng Vũ sợ các bạn cướp mất lời, vội nói:
- Thưa cậu, không thuận là thế nào? Chúa thuận thì Quận chúa phải thuận. Cậu cứ nói với Tuyên phi đi, thế nào cũng được. Con cam đoan thế.
Bùi Đãng nói:
- Em bà Tuyên phi lấy con Chúa, môn đăng hộ đối, cậu còn phải nghi ngại gì nữa.
- Ta cũng hỏi chúng bay thế thôi chứ con Quỳnh Hoa đã cao quý gì mà ta không lấy được? Ta quyết lấy được nó mới thôi. Được làm chủ bông hoa ấy, mở khóa động đào, kể thực là một điều sung sướng nhất đời ta.
Nói đến đây, lấy làm khoái chí, Lân nốc luôn mấy chén rượu, rồi cầm cả cái tỏi gà gậm nhá, vứt xương tứ tung, tay bẩn chùi cả vào quần áo người thiếu phụ ôm trong tay.
Bùi Đãng chợt thưa:
- Thưa cậu, thế còn thằng Bảo Kim?
- Giết nó lúc nào chả được. Cả lũ bạn nó, cũng không tha một đứa
nào. Con mẹ nó không răn dạy nó, cũng giết nốt.
- Thưa cậu, thế còn thằng đeo kiếm?
- Chúng bay ngu nên không biết. Giá cứ để chúng bay đánh lũ Bảo Kim thì tên đeo kiếm nó đến giết tao. Nó là thằng Nguyễn Mại. Nó theo quan quân đánh chúa Nguyễn ở phương Nam. Chúa Tĩnh Đô rất yêu. Nhưng yêu, ta bảo cũng phải giết, không giết không được cho mà xem... Nó khỏe lắm đấy, tinh thông cả thập bát ban võ nghệ, quân Nguyễn sợ lắm, gọi là hổ tướng. Chúng bay trêu vào nó thì mất xác ngay. Vì thế, ta chịu nhịn nó, tránh voi chẳng xấu mặt nào. Vài hôm nữa, ta nói với chị ta, thì nó lại bị bêu đầu sớm. Hống hách với ai chứ với Cậu Trời thì chỉ có chết.
Bùi Đãng nói:
- Chúng con xin cậu nói với Tuyên phi giết cho được lũ Nguyễn Mại và Bảo Kim để rửa cái nhục ở Long Trì.
- Có khó gì!
Chiều hôm ấy, Lân sai thắng ngựa vào phủ chúa tìm Đặng Tuyên phi. Phủ chúa tuy là nơi nghiêm mật, nhưng Lân được độc quyền ra vào tự do, không ai dám cản trở.
Chúa Tĩnh Đô bận việc ở nhà Nghị sự. Trong cung, duy còn có Đặng Tuyên phi.
Hai chị em gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ...
Tuyên phi hỏi:
- Đã nửa tháng nay, chị thấy mất mặt em, chị định mai ra thăm, không ngờ em lại đến.
Lân thưa:
- Thưa chị, em độ này bận lắm.
- Bận cái gì? - Tuyên phi vừa nói vừa âu yếm nhìn em. - Chị thấy nói em độ này làm nhiều điều phi pháp lắm. Em nên liệu đấy, kẻo quá
lắm chị cũng không bênh được nữa.
- Chị dạy, em xin theo. Nhưng em có làm điều chi gọi là phi pháp? Chị đừng nghe người ta mà oan cho em. Vả em cũng không muốn lông bông nữa, em muốn định bề gia thất, chị giúp em nhé.
- Chị đã mấy lần khuyên em về việc này, em không nghe, nay em đã biết nghĩ, thực là phúc cho họ Đặng nhà ta. Mẹ mất sớm, cha đã hiếm hoi, chỉ có em là trai. Hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi đầu vẫn chưa có vợ, bao giờ cho cha có cháu ẵm?
- Thưa chị, chính vì thế mà em nghĩ đến nhân duyên. - Em đã thuận đám nào chưa?
- Đã, nhưng cũng khó lắm. Đám này, phi chị giúp cho thì không thành được.
- Ai?
- Con gái chúa Tĩnh Đô.
- Ai! Quỳnh Hoa Quận chúa?
- Vâng. Quỳnh Hoa Quận chúa.
- Em muốn lấy Quỳnh Hoa Quận chúa? - Tuyên phi trố mắt nhìn em.
- Em muốn lấy Quỳnh Hoa Quận chúa. Chị không nói giúp mà đám ấy không thành, thì em quyết không lấy ai cả.
Tuyên phi ngồi trầm ngâm nhận rõ cả nỗi khó khăn của công việc. Tuyên phi bảo Đặng Lân:
- Để chị thử xem sao.
Đặng Lân nói:
- Em không muốn chị thử. Chị phải làm cho bằng được.
- Em nên kiên nhẫn một chút. Việc gì chị xin Chúa cũng được, không biết đến việc này có xuôi không? Hình như Chúa đã định gả Quỳnh Hoa cho ai rồi, bây giờ phá kể cũng hơi khó. Vả Quỳnh Hoa là đứa cao đạo, chỉ ưa những văn nhân mặc khách...
- Xin chị cứ giúp em. Chị giúp thì còn khó gì?... Chị xin gì mà Chúa chẳng cho?
- Phải từ đồ mới được. Việc này không phải là chuyện đùa. Em để yên cho chị nghĩ mưu sắp kế, nhưng phải đợi, không nên hấp tấp. Và chị dặn điều này: muốn cho việc thành, em nên ăn ở cho ngoan ngoãn, không được vọng động, không được làm điều gì phạm pháp khiến chị khó nói, em đã nghe chưa?
- Em xin nghe chị.
- Thôi em về đi. Chúa sắp tới.
Đặng Lân dạ dạ lui ra, lòng mừng khấp khởi. Về đến phủ riêng, Lân gọi bọn Bùi Đãng bảo rằng:
- Lệnh bà hứa sẽ giúp ta. Nhưng lệnh bà cấm ta không được hoành hành như trước. Vậy bao nhiêu thù oán hãy xếp lại một nơi, không hỏi đến vội. Việc thằng Bảo Kim, thằng Nguyễn Mại, ta tạm để đấy, đợi khi ta lấy được Quỳnh Hoa rồi bấy giờ sẽ hỏi tội chúng nó cũng không muộn.
Bùi Đãng thưa:
- Thưa cậu, cậu dạy thế là phải. Kiến trong miệng chén có bò đi đâu. Chúng con chỉ mong sao cậu toại nguyện, chúng con là lũ tôi tớ cũng được thơm lây.
Tiệc rượu đã bày, khói xông nghi ngút trên bình vàng, chén ngọc, và bát đĩa sứ men đẹp, nét vẽ cầu kỳ.
***
Đặng Lân vừa ra thì chúa Tĩnh Đô vừa ngự tới Bội Lan thất. Tuyên phi ra trước thềm, quỳ dâng một lẵng hoa. Chúa nâng nàng dậy, đỡ lấy lẵng hoa phán:
- Sao ái phi lại làm thế? Đã là chỗ vợ chồng lại còn giữ lễ! Trong chốn buồng thêu, ta cũng không nên câu nệ quá!
Nàng cất tiếng êm và uyển chuyển như lời ca:
- Tâu Chúa thượng, vợ chồng tương kính như tân. Tiện thiếp chẳng qua là làm theo sách.
Nàng liếc mắt nhìn Chúa, Chúa cả cười, không uống đã say. Chúa cầm lấy bàn tay nàng trắng muốt và mịn như nhung, bật nổi một chiếc nhẫn kim cương lóng lánh. Chúa bỗng cúi xuống đặt trên mu bàn tay tuyệt mỹ một cái hôn đắm đuối.
Tuyên phi rước Chúa vào trong nhà. Tài khéo của Tuyên phi đã làm cho khu nàng ở thành một nơi mộng ảo, và chốn thâm cung thành một cái tổ thần tiên. Mà quả vậy, những cột rồng đã mất vẻ trang nghiêm, câu đối hoành phi cũng không còn nhắc những lời đạo lý khô khan nữa. Mắt vào đây được yên nghỉ, màu sắc điều hòa êm dịu, và vườn hoa, một công trình mỹ thuật vô song thoang thoảng đưa vào gió mát và hương thơm. Những màn hoa bay phấp phới, như những cờ mừng Chúa, nhưng có vẻ đầm ấm hơn là vẻ uy nghi. Đây toàn là sinh thú, toàn là ái tình. Chúa sóng vai cùng Tuyên phi, đi trên chiếc thảm gấm, thỉnh thoảng lại nhìn nàng, khuôn mặt trái xoan, làn môi tình tứ, đôi mắt đen nhánh đẹp tuyệt trần ẩn dưới đôi lông mày lá liễu, như suối chảy dục tình. Thân nàng mềm mại và uyển chuyển, vừa phong lưu, vừa quyến rũ, phảng phất như một thứ hương mê ly. Chúa nhìn nàng, như ngốn bằng đôi mắt đa tình, tất cả cái lâu đài xác thịt kia đã bao lần ngài ngắm mà không lần nào thấy chán; mỗi lần ngắm là một lần tìm thấy một vẻ đẹp khác.
Thấy Chúa nhìn mình không chớp, Tuyên phi ngượng, mặt hoa ửng hồng, uyển nhiên như trứng gà bóc.
Chúa ngồi xuống một chiếc ghế thêu, mắt Chúa không thấy gì khác ngoài vẻ đẹp vinh quang kia. Ngài say sưa, chỉ họa chăng còn thấy mơ màng chiếc giường thất bảo lộng lẫy với đôi gối thêu.
Tuyên phi vòng tay qua cổ Chúa, nâng một chén trà thơm và thưa:
- Xin Chúa thượng thưởng trà.
Chúa Tĩnh Đô nghiện trà và rất sành thưởng thức. Nội những phi tần không ai pha trà vừa ý Chúa. Duy Tuyên phi có cái nghệ thuật tuyệt vời về nghề này, Chúa chỉ có những lời bái phục.
Chúa tiếp lấy chén trà và nói:
- Ái phi cùng ta uống. Sắc đẹp của ái phi là sắc đẹp thần tiên, kẻ tục tử này đâu dám vô lễ mà uống trà trước.
Nàng quỳ xuống, nói:
- Chúa thượng tuy là rộng lượng nhưng tiện thiếp đâu dám tiếm vượt?
- Ái phi không được khách sáo.
Và Chúa đỡ nàng dậy, chính tay rót một chén trà đưa cho. Tuyên phi cung kính đỡ lấy. Chúa uống xong, nói:
- Chưa bao giờ ái phi đẹp như hôm nay, mà cũng không bao giờ trà của ái phi ngon như hôm nay.
Trên bàn có mấy giỏ hoa huệ tươi và hương thơm ngát, để trong lọ sứ Giang Tây. Chúa tươi cười nói:
- Hoa đẹp trùng với tên ái phi, ta không kịp chào, thực là thất lễ! Chúa ngắm bông hoa rồi lại nhìn Tuyên phi, lẩm bẩm:
- Huệ! Huệ! Ta tu từ kiếp nào mà được sánh cùng ngươi, hỡi Huệ!
Chúa đứng dậy ngửi bông hoa, ngây ngất. Chợt Tuyên phi quỳ xuống trước mặt Chúa. Chúa nâng nàng dậy, nàng nhất định không đứng lên, ngập ngừng như muốn nói lại thôi. Chúa lấy làm lạ hỏi:
- Ái phi có điều chi thì cứ thực mà nói ra. Ta từ trước đến giờ, kể từ ngày trời đưa ái phi lại, có từ chối ái phi việc gì đâu. Ái phi muốn gì ta cũng cho.
- Tâu Chúa thượng, tiện thiếp đội ơn Chúa thượng rất nhiều nên
mới được như thế này. Đáng nhẽ tiện thiếp phải an phận, không được làm phiền Chúa thượng mới phải.
- Ái phi không biết: cái phiền nhất của ta là thấy ái phi có điều phiền muộn. Ái phi nói đi!
Chúa cố kéo nàng dậy. Nhưng Tuyên phi vẫn quỳ, ôm lấy hai chân Chúa, nàng không nói gì, mắt mơ màng, toàn thân là một sự khẩn cầu. Lúc ấy dáng nàng lại thập phần kiều mị. Chúa động lòng thương, chỉ đợi nàng nói ra, có điều gì cũng ưng chuẩn ngay.
Tuyên phi như đã dò xét ý Tĩnh Đô, sẽ cất tiếng oanh thỏ thẻ:
- Tiện thiếp có việc này, muốn nói với Chúa thượng, chỉ sợ không được lại đèo thêm nỗi hổ thẹn, vì thế còn do dự.
Chúa nói:
- Ái phi cứ nói. Ta là chúa tể nhân gian, cầm quyền thiên hạ, chỉ trừ có trời, còn cái gì ta không cho ái phi được?
- Tiện thiếp đắn đo mãi, nay mới dám nói. Em tiện thiếp là Đặng Lân...
- Ta đã phong làm Quốc cữu, được mở phủ đệ như những vị vương hầu, thậm chí Quốc cữu giết cả đại thần, ta cũng ngơ cho, vì ái phi đó...
- Em tiện thiếp được Chúa thượng săn sóc, ơn ấy tiện thiếp xin ngậm vành kết cỏ. Còn việc đại thần, chẳng qua người ta ghen mà vu cho, chứ em tiện thiếp là con nhà nho, đời nào lại ngỗ nghịch thế?
- Vậy ái phi xin gì cho Quốc cữu?
Chúa cúi xuống, ghé vào tai nàng giục nói. Ngài thấy cả người rung động một mối tình mãnh liệt. Lâu lâu, Tuyên phi se sẽ thưa:
- Tâu Chúa thượng, Quốc cữu không biết phận hèn, lại muốn chơi trèo, nay nhờ tiện thiếp nói với Chúa thượng xin Quỳnh Hoa Quận chúa...
- Quỳnh Hoa Quận chúa!
Chúa giật bắn người lên, hoang mang như một người bị ngã. Tuyên phi ngước mắt nhìn Chúa, thấy Tĩnh Đô tái mặt đi. Thoáng một cái, nàng đã nhận thấy trong nét mặt rất dễ thay đổi kia, vẻ giận dữ, vẻ đau đớn, vẻ hoài nghi, xen với một vẻ kiêu ngạo không bờ bến. Nàng cầm lấy tay Chúa lúc nào Chúa cũng không biết. Nàng nói:
- Tâu Chúa thượng, tiện thiếp biết: chị em tiện thiếp là hạng tầm thường, thực không dám sánh với cành vàng lá ngọc. Chỉ vì em tiện thiếp khẩn khoản, chẳng nhẽ không tâu cùng Chúa thượng, nên tiện thiếp...
- Ta có luận gì quý tiện. Cốt được người.
- Em tiện thiếp, Chúa thượng xem ra sao?
- Kém ái phi nhiều lắm, tính lại nóng nảy, mà Quận chúa là một người yếu ớt, dễ xúc cảm, hơi một tí là ngất ngay đi...
- Tiện thiếp đã làm cho Chúa thượng ưu phiền. Nhưng Chúa thượng đã không ưng, tiện thiếp đâu dám ép, chỉ xin Chúa thượng tha cho tiện thiếp tội chết, thế là may mắn lắm rồi.
Nàng đứng dậy, rung chiếc chuông vàng. Một người thị nữ tiến vào trước thềm quỳ đợi lệnh. Tuyên phi truyền:
- Đốt trầm hương và bưng chiếc dương cầm cho ta.
Thị nữ dạ dạ. Một lúc đỉnh trầm ngào ngạt hương thơm đã đặt trên long kỷ. Thấy khói bốc lên hoa huệ, sợ phạm đến hoa, Chúa sẽ xê lọ sứ Giang Tây sang một bên. Tuyên phi ngồi trên thảm gấm, dưới chân chúa Tĩnh Đô, mỗi tay cầm một chiếc búa ngà nho nhỏ, cổ tay trái bật nổi một vòng ngọc thạch màu xanh nhạt. Vòng ngọc thạch không phải là vật vô tri nữa. Nó cũng có một linh hồn và một sức quyến rũ. Chúa đăm đăm nhìn vòng ngọc, ước ao được như nó luôn luôn quấn lấy cổ tay tuyệt mỹ. Dây đương so, Chúa tưởng như đàn đã thành. Chợt khúc đàn dìu dặt tấu lên, hồn Chúa trước còn lội trong bến, sau phiêu diêu bơi ra giữa dòng sông, thân đầm trong nhạc.
Tiếng đàn vừa dứt, Tuyên phi lúc ấy có một vẻ đẹp nhu mì. Chúa
ái ngại, hối hận rằng mình đã không chiều lòng người ngọc. Vừa lúc ấy, có tiếng trẻ êm đềm hỏi ở ngoài cửa nhà Bội Lan: - Phụ vương đâu?
Tĩnh Đô nhận ra ngay tiếng nói của Thế tử Trịnh Cán. Thế tử lấp ló ngoài thềm với người bảo mẫu.
Chúa nói:
- Con ta sao không vào?
Tuyên phi thưa:
- Con còn đợi lệnh.
- Sao ái phi cứ vẽ ra thế, bố con còn giữ lễ thế thì mất cả tình thân.
- Tâu Chúa thượng, trị nước phải bắt đầu nghiêm từ chốn khuê phòng.
- Ái phi khắc nghiệt hơn ta.
Thế tử đã chạy vào. Đó là đứa trẻ độ lên bốn, lên năm, mắt rất sáng, trông có vẻ thông minh đĩnh ngộ. Thế tử tới trước Tĩnh Đô, quỳ xuống hô: “Thiên tuế”. Chúa cười vui vẻ, ẵm con âu yếm. Tuyên phi đứng sau lưng Chúa, tựa vào tay ghế, đăm đăm nhìn chồng và con. Chúa bỗng quay lại nhìn nàng, vừa cười vừa nói:
- Từ lúc đẻ thằng Cán, ta mới đỡ lo cho cơ nghiệp Chúa. Tông không kham được việc lớn.
Tuyên phi quỳ xuống tâu:
- Tiện thiếp chân thành mong nghiệp chúa vững muôn thu.
Chiều hôm ấy, Chúa, Tuyên phi và Thế tử cùng ngự thiện. Sáng hôm sau, Chúa ra phủ, canh cánh bên lòng vì câu chuyện Quỳnh Hoa. Chúa rất yêu nàng, săn sóc từng li từng tí. Chúa vẫn để tâm kén rể. Triều đình, phủ liêu thiếu gì người tài giỏi, vậy mà Chúa vẫn không
ưng một đám nào. Ít lâu nay, Chúa để ý đến chàng Bảo Kim. Chàng không những là con nhà vọng tộc, lại là một người tài mạo song toàn. Ý Chúa muốn khuyến khích văn chương, đem lại cho nước Nam một thời đại rực rỡ như Hán, Đường. Vì thế Chúa rất trọng bậc văn tài. Bài phú Long Trì của Bảo Kim, Chúa không hết lời khen ngợi. Đến sau xem bài Hoa Đình ký của chàng, văn chương tao nhã, ý tứ hào hùng, Chúa lại càng thán phục.
Chưa nói ra, nhưng ngài đã có ý gả Quỳnh Hoa cho chàng. Vả lại, xem ý, Chúa đã biết con gái có chút tình thầm kín đối với con quan cố Thị lang họ Nguyễn.
Trong trạch các, công văn bộn bề, nào sớ, nào khải, nào biểu, nào án từ. Tuy lòng rối như canh hẹ mà Chúa cũng phải xem xét, châu phê cho xong. Không bao giờ việc nước lại nhiều như thời chúa Trịnh Sâm.
Chiều hôm ấy, về Bội Lan thất, Chúa vẫn thấy lòng bối rối. Phần thì nể Tuyên phi, phần thì thương con, không nhẽ ngài lại gả con gái yêu cho một kẻ ăn chơi phóng đãng. Con một vị chúa tể trong nước, lại có sắc tài, thiếu chi người rắp cung bắn sẻ?...
Nhưng khi xe đỗ trước cung Tuyên phi, ngài lại thay đổi ý định. Ngài không nỡ làm phật ý người tuyệt sắc đã cho ngài những phút đầm ấm nhất đời. Luôn ba ngày chúa Tĩnh Đô ở trong một tình trạng vô cùng khó xử.
Ngày thứ tư, Chúa thất kinh được tin nàng ốm. Chúa giậm chân nghĩ:
- Chỉ tại ta thôi. Người ngọc ấy mà có mệnh hệ nào thì ta sống làm sao được. Nàng hay lo nghĩ, hơi một tý thì se mình. Con gái thì đặt đâu phải ngồi đấy, tùy trời, tính làm sao cho hết được?
Chúa vén rèm bước vào Bội Lan thất. Tuyên phi tung chăn vùng dậy. Chúa lật đật chạy lại, đỡ nàng nằm xuống:
- Ái phi se mình, không cần phải giữ lễ.
Nàng nằm xuống, se sẽ tâu.
- Tiện thiếp tội thực đáng chết!
Mặt đỏ bừng và môi đỏ thắm, mái tóc bơ phờ, trôi trên gối đệm, hòa với dáng mỏi mệt, càng làm tăng vẻ khuynh thành.
Chúa thân hành đi đóng những cửa sổ trong phòng, kê một chiếc ghế bên giường, tay sờ trán người yêu, âu yếm hỏi:
- Ái phi cảm từ bao giờ?
- Tâu Chúa thượng, cảm đối với tiện thiếp như cơm bữa, mai lại khỏi, tiện thiếp không dám để Chúa thượng bận lòng. Chúa thượng đã bận việc nước nhiều rồi. Tiện thiếp không làm sao cả.
- Hay về việc Quỳnh Hoa?
Nàng nhoẻn miệng cười, liếc mắt nhìn Chúa:
- Tâu Chúa thượng, có phải vì thế đâu? Tiện thiếp biết phận mình, chẳng qua tiện thiếp thương em mà tâu với Chúa thượng, chứ vẫn biết trước là sự không thành.
Chúa bất nhẫn hỏi:
- Nhưng ta đã nói gì đâu?
- Tâu Chúa thượng, việc ấy ta bỏ đi. Làm cho Chúa thượng phải khó nghĩ, tiện thiếp tự biết là mang tội. Xin Chúa thượng lượng xá cho tiện thiếp.
Chúa rung chiếc chuông vàng. Một tên nội giám bước vào, Chúa truyền:
- Gọi ngự y.
Ngự y bốc thuốc. Chúa thân hành bưng thuốc cho nàng uống. Chiều hôm ấy, nàng sốt dữ, người nóng như lửa, trằn trọc mãi, mấy lần phải gọi đến ngự y.
Mãi đến quá nửa đêm, nàng mới thiếp đi. Chợt nàng nói sảng:
- Chúa thượng... Khoan dung - Thôi... em đừng mơ tưởng hão... chị cũng... khổ lắm... để chị đón cụ Lãn Ông bốc thuốc cho em. Nhà có hai chị em, em làm sao thì chị cũng chết mất.
Bỗng nàng sấp mặt vào gối, thổn thức khóc. Chúa ái ngại ôm lấy nàng. Tuyên phi tỉnh dậy, mặt nàng còn đọng một hai giọt lệ. Chúa mỉm cười hỏi:
- Ái phi có đỡ không?
- Xin cám ơn Chúa thượng, tiện thiếp thấy đỡ nhiều. Sao Chúa thượng còn thức?
- Ái phi phiền muộn về việc Quỳnh Hoa lắm phải không?
- Tâu Chúa thượng, có lẽ nào? Trong lúc mê sảng, tiện thiếp có lời chi bất kính?
- Người yếu thì hay mê sảng, ai luận tội người ốm bao giờ? Nhưng có một điều ái phi giấu ta, lại nói hở trong cơn mê. Ái phi không phải bận tâm về việc ấy nữa. Quỳnh Hoa Quận chúa, ta sẽ gả cho Quốc cữu, cho hai họ thêm thân.
Tuyên phi trấn tĩnh, cố giấu nỗi mừng. Nàng tâu:
- Hôn nhân là việc lớn, xin Chúa thượng nghĩ chín cho, kẻo tiện thiếp mang tiếng. Chúa thượng cho thì phúc cho nhà tiện thiếp, mà không cho tiện thiếp cũng vui lòng. Chúa thượng mới là quý, chị em tiện thiếp có kể làm gì?
- Ý ta đã quyết. Con gái, cha mẹ đặt đâu phải ngồi đấy. Ta sẽ gây dựng cho Quốc cữu, con ta tự khắc được sung sướng. Con vất vả hay an nhàn là ở ta chứ ai? Nhưng ái phi phải bảo Quốc cữu nên tu tỉnh mới được.
- Tâu Chúa thượng, tiện thiếp biết lấy gì báo đáp thánh ân? Nhưng em tiện thiếp có làm chi mà phải tu tỉnh? Có chăng chỉ tại thiên hạ thấy Chúa thượng cho chị em tiện thiếp được nhuần ơn mưa móc, họ sinh lòng ghen ghét, đặt để nên điều, mong hãm hại người vô tội; thói thường vẫn thế. Chị em tiện thiếp là dòng dõi nhà nho, đến tiện thiếp là phận gái còn được học đòi lễ nghĩa, huống chi em trai
tiện thiếp là kẻ phải nối dõi tông đường?
- Ái phi nên gìn vàng giữ ngọc. Thôi ta thu xếp thế là ổn thỏa chứ? Nàng ngập ngừng rồi lại nói:
- Ơn trời biển của Chúa thượng, kiếp sau tiện thiếp nguyện đầu thai làm khuyển mã để báo đền. Chỉ nghĩ em tiện thiếp hiện nay nhiều người ghét. Mỗi khi đi đâu, thường có nhiều kẻ rình ám hại. Kẻ ghét nhất em tiện thiếp là Nguyễn Mại. Người này, tiện thiếp nghe như Chúa thượng mới phong cho làm chức Hộ thành?
- Nguyễn Mại là một chính nhân quân tử, ái phi không phải quan tâm.
- Tâu Chúa thượng, người ta đã không ưa nhau thì dễ sinh ra xát cọ. Nguyễn Mại làm Hộ thành, thì em tiện thiếp, tuy làm rể Chúa thượng cũng chẳng chắc được yên.
- Một khi đã làm rể ta thì ai dám phạm đến.
- Đó là tiện thiếp lo xa cho em, vì nó chỉ có Chúa thượng che chở, mà quân thù thì khắp kinh thành, nhất là quan Hộ thành mới.
- Như ý ái phi ta nên cất chức Nguyễn Mại?
- Tâu Chúa thượng, tiện thiếp đâu có ý ấy. Chỉ xin Chúa thượng rủ lòng thương đến em tiện thiếp mà che chở cho chu đáo.
- Ý ái phi muốn thế nào? Ta không che chở cho con rể thì che chở cho ai?
- Em tiện thiếp có lệ hay xuất du. Những lúc ấy thân cô, thế cô, tiện thiếp lo cho nó lắm. Cha mẹ tiện thiếp sinh có nó là trai, có mệnh hệ nào thì là mất giống. Vậy xin Chúa thượng ban cho nó mấy chữ đề vào biển hay cờ để cho thiên hạ sợ uy Chúa thượng không dám phạm đến nó.
Chúa cười và nói:
- Ái phi sốt, nên nghĩ lảm nhảm, ái phi cứ yên tâm, ta tự đảm
nhận việc ấy.
- Trăm sự tiện thiếp nhờ Chúa thượng cả. Tiện thiếp phận ngu chỉ vì quá thương em nên mới quấy nhiễu Chúa thượng, xin Chúa thượng lượng tình cho.
IV
Đêm hội Long Trì đã hết, chỉ còn trơ nỗi tiếc mong trong lòng Quận chúa. Khi canh gà rộn rã, một hồi trống đánh kết thúc đêm vui. Quỳnh Hoa như người choàng tỉnh một giấc mộng đẹp. Nàng còn ngây ngất, chúa Tĩnh Đô hỏi nàng bằng giọng sủng chiều:
- Con ta về cung chứ?
Nàng tâu:
- Rước phụ vương xuống thuyền.
Mặt nàng bơ phờ sau một đêm không ngủ. Nàng hồi tưởng lại cảnh mơ màng trong đêm hội: những đèn muôn sắc, những trái giả sơn, những hàng quán, nàng hồi tưởng lại hình ảnh cuộc thi văn chương, vẻ phong lưu nho nhã của Bảo Kim, và như cái máy, nàng đọc mấy câu hay nhất trong bài phú Long Trì.
Chúa hỏi:
- Con còn lưu luyến cuộc vui sao?
Nàng thẹn đỏ mặt cúi gằm xuống. Chúa nói:
- Lại đợi đến sang năm.
Quỳnh Hoa giật mình. Nàng vẩn vơ có cái ý nghĩ không vui: - Sang năm tức là không bao giờ nữa!
Nàng còn luyến tiếc đêm qua, một đêm thần tiên trên trần thế. Hình ảnh chàng công tử hào hoa lại hiện rõ trong trí nàng. Rồi liên tưởng, nàng nghĩ đến cái hôm, nhân ngày nàng theo Thái phi ra chùa Trấn Quốc làm lễ. Vừa ở kiệu phượng bước xuống, nàng đã bắt gặp đôi mắt mơ màng của chàng họ Nguyễn. Và trong suốt buổi lễ, nàng có cảm tưởng như chàng thanh niên nho nhã kia vẫn chăm chú nhìn nàng.
Thuyền ngự cặp bến, cuộc vui hoàn toàn kết liễu. Quỳnh Hoa còn thẫn thờ như chưa nỡ rời chân. Chúa mắng yêu:
- Con gái cha hư quá!
E lỡ lời, làm phật ý con, vì ngài biết rằng nàng rất hay nghĩ ngợi, chúa Tĩnh Đô nói tiếp ngay:
- Con về cung nghỉ nhé, cả một đêm không ngủ hại người lắm đấy. Con vẫn uống thuốc đấy chứ?
- Tâu phụ vương, con đã nghỉ rồi, Quốc mẫu bảo con dùng cao. - Quốc mẫu rành thuốc hơn cha, vả dùng cao bổ lắm con ạ.
Chúa và Tuyên phi sắp lên xe. Nàng quỳ lạy cha và cúi chào Tuyên phi. Thấy nàng lúng túng mãi không lên được xe, Chúa bước xuống xe mình, chạy lại đỡ nàng. Nàng cảm động rưng rưng nước mắt. Chúa thân đẩy xe đi và bảo nàng:
- Con về nhé.
Nàng quay lại còn thấy cha ân cần nhìn theo. Tuyên phi cũng cố ý làm ra mặt lưu luyến.
Sinh trưởng giữa một nơi phú quý tột bực, Quỳnh Hoa là người hay buồn nhất trần gian. Có lẽ vì cơ thể nàng gầy yếu, nhưng cũng vì cảnh ngộ đời nàng. Mới đẻ ra nàng đã mồ côi mẹ, không được hưởng chút chăm sóc của từ mẫu. Cha nàng thương nàng rất mực, nhưng ngài thường bận việc nước, lại hay say đắm tửu sắc, không mấy lúc nhãng cuộc truy hoan; vì thế nàng thấy cha xa cách quá. Mỗi tháng, hoạ may mới được gặp một lần. Đột nhiên nàng lại tức giận những kẻ thế chân mẹ nàng, làm cho Chúa quên cả người quá cố. Nàng thầm oán Tuyên phi, người đã bước lên lầu thang sủng ái, và hiện nay chiếm đoạt cả linh hồn cha nàng. Người đàn bà tuyệt sắc kia lại là một con yêu tinh nham hiểm và dâm dật. Chính người ấy đã xui Chúa làm bao điều bạc đức, chính người ấy đã làm Chúa mang oán với thần dân, chính người ấy đã làm cho gia đình Chúa mất cả vẻ đầm ấm vui vầy. Tất cả lòng ghen ghét lại nổi dậy trong lòng người thiếu nữ...
Về đến cung riêng, nàng tắm rửa nước thơm, thay quần đổi áo.
Hai thị nữ mà nàng yêu nhất và đặt tên cho là Ái Thi và Ái Nhạc đến dâng quà điểm tâm. Nàng ăn qua loa rồi lên giường nằm nghỉ. Nhưng mắt nàng không sao chợp đi được, tuy người nàng mỏi rần.
Hình ảnh Bảo Kim lại hiện ra với tất cả vẻ hào hoa phong nhã. Nàng lấy bức lụa, đọc đi đọc lại bài phú Long Trì... Chợt Ái Thi quỳ bên giường, dâng nàng một bức lụa và thưa:
- Bẩm, khi Quận chúa ra về, chúng con xếp dọn đồ đạc, thấy ở cành liễu trước cửa hàng, có một bức lụa có chữ đề. Chúng con đem về trình Quận chúa.
Nàng đón lấy mảnh lụa. Thoạt nhìn nàng đã biết rõ chữ ai rồi. Nàng đưa mắt đọc, thì là bài tứ tuyệt mà chàng thanh niên thi sĩ, với một lời văn trang nhã và ý nhị, đã viết để tặng nàng. Chàng tán dương tài sắc Quận chúa và để lộ trong chín vần cả một tấm tình luyến ái thiết tha. Càng đọc càng thấy hay, châu ngọc mỗi lúc một hiện ra, như từ trong một kho tàng vô tận, trong khi bên tai nàng, trong lòng nàng, đang dạo một điệu nhạc du dương. Quận chúa chập chờn trong giấc mộng... Nàng thiếp đi, bâng khuâng trong một thế giới đầy hoa thơm cỏ đẹp, và vang lừng những tiếng sênh ca.
Chợt nàng rú lên một tiếng hãi hùng. Thị nữ đổ lại. Quận chúa mở bừng mắt ra, thở dài, trào lệ sung sướng, miệng nhoẻn cười trước một mái tóc bạc phơ. Đấy là Quốc mẫu, mẹ chúa Tĩnh Đô, bà nội nàng. Thái phi ôm lấy cháu hỏi:
- Cháu làm sao đó?
Nàng thưa:
- Bà đến lúc nào, cháu không biết. Cháu vừa có một giấc mơ sợ lắm, bà ạ.
Nàng ôm lấy Quốc mẫu, người thân nhất trong đời nàng, người đã nuôi dạy nàng, người đã tận tâm săn sóc nàng trong những lúc nàng ốm thập tử nhất sinh, người cùng nàng chung một mối giận Tuyên phi họ Đặng.
Quốc mẫu sờ ngực nàng, vuốt tay cháu gái và nói, giọng hiền từ và thấm thía:
- Cháu cứ hay suy nghĩ lẩn thẩn, cũng vì thế mà mộng với mị luôn. Bà đã bảo từ hôm qua, cháu không nên ra chơi hội Long Trì, người đã yếu, ta phải giữ gìn. Cháu không nghe bà!
- Bà đừng giận cháu nhé. Bà giận thì còn ai yêu cháu. Bà ơi! Trong hội cháu gặp thằng Đặng Lân, em Tuyên phi. Cháu vừa nằm mê thấy nó đánh cháu...
- Ai đánh được cháu bà. Bà thì dần tan xác nó ra. Đấy, bà đã bảo cháu cứ hay nghĩ nên mới mơ mộng. Nó làm gì được cháu mà sợ.
Nàng thuật lại câu chuyện Long Trì và nói tiếp:
- Nó cậy thế Tuyên phi, làm nhiều điều tàn ác, các quan đại thần cũng phải gờm nó.
- Chỉ tại cha cháu, bà can không được.
Và hai bà cháu, trong căn phòng tĩnh mịch, nói chuyện mãi về chúa Tĩnh Đô, về Tuyên phi, về Đặng Lân, sau rốt về Nguyễn Bảo Kim và Nguyễn Mại.
Quốc mẫu thở dài:
- Không trừ được chị em họ Đặng, thì loạn mất, cháu ạ. ***
Ai ngờ cái ác mộng của Quận chúa năm sáu hôm sau lại thành sự thực. Tin phụ vương nghe lời Tuyên phi, nhận gả nàng cho Đặng Lân làm cho nàng tê tái. Tất cả triều đình và phủ liêu, trừ chúa Tĩnh Đô và Tuyên phi, ai nấy đều sửng sốt. Tin quan trọng hơn những tin đắc
thắng ở phương Nam.
Quận chúa đi đi lại lại trong phòng. Nào giận cha, nào tức Tuyên phi, nào ghét Đặng Lân, nào thương Bảo Kim, nàng không sao đứng yên được một chỗ, ruột xót như bào. Các thị nữ, Ái Thi và Ái Nhạc, đều ngơ ngác không hiểu làm sao lại có sự gả bán lạ lùng này, nhất là họ biết Chúa đang để tâm kén rể cho Quận chúa. Họ nói:
- Không có lý nào. Có lẽ Ngài bị con đĩ họ Đặng cho ăn bả nên
Ngài mới có sự lầm lẫn này.
Quỳnh Hoa như một người mất hồn, lắm lúc nàng như điên như dại. Lại vừa lúc Quốc mẫu về thăm quê ngoại tận Thanh Hóa. Tìm Chúa thì không sao gặp được. Những cung tần thị nữ chỉ biết ái ngại cho nàng, nhưng không thể giúp được gì cả. Nỗi đau khổ quá lớn mà người nàng nhỏ bé, linh hồn yếu ớt. Nàng không thiết ăn uống, chỉ ngồi khóc lóc từng hồi, từng trận, khóc đến nỗi bọn thị nữ tưởng như hết cơn thì nàng sẽ chết. Họ xúm quanh nàng khuyên giải. Vì động lòng thương chủ, chúng cũng khóc theo. Cung Quận chúa thành một phòng tang không người chết.
Đến khi nguôi cơn khóc, Quận chúa rên rỉ:
- Trời ơi, sao lại có sự này? Tôi làm gì nên tội? Trời hỡi trời! Chết đi cho hết kiếp là hơn. Phụ vương ơi! Sao phụ vương lại lạ lùng đến thế? Lòng từ ái của phụ vương để đâu?
Rồi động mối thương tâm, Quỳnh Hoa lại ôm bụng khóc, mặt hoa rầu héo, người đã gầy lại càng thấy gầy thêm. Giọng nàng đã khan, nói không nên tiếng. Lâu lâu lả đi, nàng mê man không biết gì nữa.
Khi Quỳnh Hoa tỉnh dậy, nàng ngạc nhiên biết bao, khi thấy Tĩnh Vương ngồi bên giường, nét mặt như bị cày bừa vì đau khổ. Tĩnh Vương tay để trên trán nàng từ bao giờ, mắt nhìn nàng không chớp. Nàng đưa mắt ngơ ngác nhìn xung quanh rồi lại nhìn Chúa.
Chúa nhận thấy ẩn trong đôi mắt con gái biết bao oán hận và van lơn.
Ngài sẽ hỏi:
- Con gái cha có làm sao không?
Quỳnh Hoa vẫn định tâm nếu gặp cha thì hỏi cho ra nhẽ, và hơn nữa, định vượt cả bổn phận làm con, nói cha cho bõ giận. Nhưng trước mặt cha, bao nhiêu ý định của nàng đều tiêu tan đi. Nàng không dám, và cùng một lúc, nàng thấy yêu cha rất mực và thương cha vô cùng.
Nghe cha hỏi, nàng thưa:
- Phụ vương vào, con không biết.
- Con nghe trong mình có khỏe không?
- Tâu phụ vương con khỏe.
- Cha nghe tin con khóc lóc, vội chạy lại. Nhưng có việc chi mà con phải khóc? Con gái cha mà lại hèn thế ư?
- Khiến phụ vương phải vất vả vì con, con thực mang tội!
- Cha tha tội cho con. Nhưng cha thấy con có ý cưỡng mệnh, làm sôi nổi cả chốn cung thì cha giận lắm. Con gái đâu lại cưỡng lời cha? Việc này, nhân dân biết, còn ra thể thống gì nữa.
Nàng cúi gằm mặt xuống, không nói một câu gì. Chúa ái ngại: - Hay con không thuận lấy Đặng Lân, cha cũng không ép.
Đấy là ý thực của Chúa, lúc ấy nếu Quỳnh Hoa có thái độ cương quyết có lẽ Chúa cũng chiều nàng.
Nhưng Quận chúa lại tưởng là cha giận mà nói dỗi. Nàng ngước mắt nhìn cha, nàng se se trong lòng. Nàng thấy cha nàng già lắm, già quá sức nàng tưởng tượng. Mới 40 tuổi, ngài đã có vẻ nhọc mệt của người 50. Nàng hồi tưởng lại mấy năm xưa, cha nàng vẫn còn cường
tráng linh lợi, uy phong lẫm liệt, đường đường là một vị chúa tể của muôn dân. Đem so sánh với bây giờ, thực là một trời một vực. Trên mặt đã chạy những nét răn, mắt đã mất vẻ tinh anh sáng quắc, và ngôn ngữ cử chỉ nhất nhất đều để lộ vẻ suy đồi. Trong thâm tâm, nàng chán ghét người đã tàn phá một cách nhanh chóng và sâu xa cả tinh thần lẫn cơ thể người cha uy vĩ của nàng, vị chủ súy của ba quân, đấng phó vương của đất Việt.
Quỳnh Hoa càng thấy thương hại cha. Nàng biết một lời từ chối của nàng sẽ làm phiền cho Chúa, và rút tuổi thọ ngài đi. Nàng không nghĩ gì đến chính nàng nữa, nàng rưng rưng nước mắt ấp úng một hồi lâu, nàng se sẽ thưa:
- Con xin tùy ý phụ vương.
Chúa thở dài, vừa bằng lòng lại vừa hối hận. Ngài vừa thương con lại vừa giận con quá phục tùng. Nén nỗi đau, Chúa phán:
- Thế mới là con gái cha chứ.
Quỳnh Hoa muốn nói lại nhưng không tiện nữa. Chúa tiếp:
- Cha là chúa tể muôn dân, cha sẽ gây dựng cho Đặng Lân và tự khắc con sẽ được sung sướng.
Quận chúa đau xót đến con tim. Nàng nghĩ: “Phụ vương lầm lắm. Có phải chỉ có thế mà con sung sướng đâu?”
Chúa Tĩnh Đô cười một cách khó nhọc, muốn đem cái cười phá tan cảnh nặng nề và tỏ cho con gái thấy tất cả lòng thương yêu của Chúa đối với nàng. Chúa lâu lâu lại hỏi:
- Con cứ yên tâm, cha không bao giờ muốn cho con khổ, con Chúa có khổ bao giờ? Con không phải lo ngại. Con muốn xin gì, cha cũng chiều ý. Con nói đi, con muốn gì?
Quỳnh Hoa nghe cha hỏi, cực quá, không nói ra được, nàng òa khóc. Chúa Tĩnh Đô thân lấy khăn tay chùi nước mắt cho con. Mắt ngài bỗng trố ra, ngài như nhận thấy hết cả tội ác của mình: Quỳnh Hoa còn quá trẻ trung ngây dại, tay nàng mảnh khảnh và xanh xao. Nhưng cùng lúc ấy cái sắc đẹp mê hồn của Tuyên phi như đứng trấn không cho ngài lùi bước. Lòng ngài chia xẻ. Những khi việc nước khó khăn nhất ngài cũng chưa bao giờ phân vân như thế! Không biết tự bao giờ, ngài để nước mắt trào ra. Mấy giọt rỏ xuống mặt Quỳnh Hoa Quận chúa.
Thấy cha khóc, Quận chúa cố trấn tĩnh lại. Nàng nức nở thưa: - Con bất hiếu làm phiền phụ vương...
Chúa nói:
- Không... Sao con gầy thế? Phải uống thuốc mới được, con nhé.
Chúa vẫn cầm tay con, chưa bao giờ hai người được gần nhau như thế. Quỳnh Hoa càng cảm thấy chua xót khi nghĩ rằng đó là buổi
cuối cùng.
Chúa đã mấy lần định đứng dậy mà không nỡ. Ngài lấy trong bọc ra một hòn ngọc mà ngài chưa rời ra bao giờ. Ngài đặt hòn ngọc vào tay Quận chúa và nói:
- Đây là hòn Dạ quang châu, quý nhất trong các ngọc, giá không biết thế nào mà kể, cha cho con.
Quận chúa lĩnh hòn ngọc, tỏ ý rất vui vẻ. Chúa hơi yên tâm, bèn đứng dậy nói:
- Cha phải đi đây, con cứ nằm yên nhé.
Nàng vùng dậy thưa:
- Phụ vương đã đi ư?
Dáng nàng lưu luyến. Chúa dùng dằng một lúc, rồi mới quả quyết bước ra, nàng sụp xuống lạy. Ngài đỡ con đứng lên, tươi cười bảo:
- Từ bây giờ cha không bắt con lạy nữa.
Quỳnh Hoa tiễn Chúa ra khỏi cửa. Hai cha con, kẻ nhìn theo, người đoái lại, Chúa đã khuất sau một nếp tường hoa. Nếu ngài quay lại, tất thấy Quỳnh Hoa mếu máo như một đứa trẻ thơ. Bàng hoàng đứng không vững, nàng lả trong tay bầy thị nữ...
Từ đấy trở đi, thái độ Quỳnh Hoa đổi hẳn. Nàng không khóc lóc nữa, để mặc đời trôi theo định mệnh. Nàng đã tìm ra một ý nghĩ để yên ủi mình: ấy là sự báo hiếu. Những lúc đau đớn nhất, tưởng như không chịu nổi cuộc đời, nàng chỉ vì ý nghĩ ấy mà còn bám vào sự sống. Tuy vậy nàng cũng không còn cảm thấy một sinh thú gì ở đời nữa.
Cho nên nàng thờ ơ với mọi việc. Thị nữ khuyên nàng nên cho người đi tìm Quốc mẫu, nhờ Quốc mẫu can thiệp cho, nàng gạt đi một cách cương quyết, mặc dầu nàng biết nếu Quốc mẫu biết rõ chuyện thế nào cũng bắt cha nàng bãi việc hôn nhân. Quốc mẫu đã bắt thì cha nàng phải vâng theo, vì cha nàng là một người chí hiếu... Ngay sau khi biết tin gả bán, nàng có những dự định táo bạo: nàng sẽ
trốn đi tu ở một ngôi chùa nào tận rừng xanh núi đỏ, nàng tính cả đến việc quyên sinh cho thoát nợ trần. Nàng còn muốn giết cả Tuyên phi để trừ cho nước một cái họa tầy đình.
Bấy nhiêu ý định, nay nàng bỏ hết.
Nhưng có một việc mà nàng canh cánh trong lòng không sao khuây khoả được, ấy là mối tình của Bảo Kim đối với nàng và mối tình chớm nở của nàng đối với chàng thanh niên ấy.
Trước hết nàng tủi cho thân phận. Thật là kiếp vô duyên. Được một danh sĩ, học vấn uyên thâm, văn chương tao nhã nhất thời đem lòng luyến ái, nàng đã dệt trong trí cả một đời thơ mộng. Nàng đã tưởng tượng đến cả đêm đuốc hoa, đằm thắm, nàng cùng chàng bàn bạc chuyện văn chương. Con người nho nhã làm sao, khí phách hiên ngang biết bao! Nghĩ đến chàng phong lưu công tử ấy, nàng lại rùng mình ghê tởm liên tưởng tới gã Đặng Lân. Nàng nhắm mắt, cố xua đuổi trong trí cái hình thù ngỗ nghịch.
Nàng trách trời trách phận, cả lòng hờn ghét Tuyên phi lại nổi lên trong thâm tâm nàng. Nàng nghiến răng như muốn moi gan lôi ruột người đàn bà nham hiểm và uy quyền ấy...
Đám cưới đã định ngày, khốc hại và lạnh lùng. Quỳnh Hoa tưởng như quỷ sứ đã báo cho nàng giờ khảo đả. Đây là ngày cửa ngục mở để nàng tiến vào cõi âm ty.
Nàng sai thị nữ sắp vàng hương, ra mộ thân mẫu nàng để bái biệt. Nàng bày biện đồ cúng, đốt nến thắp hương, rồi quỳ xuống. Khói hương bốc theo khói thu, nàng lầm rầm khấn:
- Mẹ ơi! Mẹ có thấu cho tình cảnh con không? Từ lúc lọt lòng, con không được trông thấy bóng mẹ bao giờ, con đã chịu bao nhiêu nỗi thiệt. Nhưng không bao giờ con lại cần mẹ như ngày nay. Mẹ đã ngậm ngùi vì phải bỏ con, mẹ lại phải ân hận vì đã sinh một đứa con phận mỏng. Đời con đã sớm vô ích, cớ sao mẹ không cho con đi theo mẹ từ buổi sơ sinh? Con đi đây, ôi mẹ. Rồi đây, con không biết thân con ra sao, nhưng chắc nó không tươi đẹp chút nào. Phụ vương đã gả con cho một tên vô lại. Giá mẹ còn sống, có lẽ con không đến nỗi, sao mẹ đi vội thế? Phụ vương đã truyền, con chỉ có việc vâng theo: con đi đây lòng đau như cắt, đời con còn bị đầy đọa nhiều. Nhưng muôn việc
tránh không khỏi số, oán trách cũng chẳng ích gì. Con đi, chỉ thương mẹ từ đây sẽ bị hương lạnh khói tàn, rêu lan, cỏ mọc, không còn ai thăm viếng nữa!...
Xúc động can tràng, nàng ôm mặt khóc, tiếng khóc não nùng, như tiếng buổi tang đầu.
Sau khi ra viếng mộ về, vì cảm xúc quá, Quỳnh Hoa sốt li bì suốt mấy ngày.
Người nàng đã xanh lại càng xanh, đã gầy lại càng gầy. Tuy vậy việc hôn nhân không vì thế mà chậm lại. Quận chúa thở dài nghĩ:
- Thôi chóng lên, càng chóng càng hay, việc đã thế đợi càng thêm khổ.
Và nàng thản nhiên chờ ngày cưới. Nhưng một đêm, trước buổi vu quy hai hôm, Quỳnh Hoa bỗng thức giấc, dạ xót như bào. Nàng mộng thấy cùng Bảo Kim bơi thuyền Hồ Tây một đêm trăng thu tuyệt đẹp. Gió thổi phiêu phiêu, chàng làm một bài thơ, hai người vừa ngâm vừa gõ mạn thuyền. Giữa phút thần tiên, nàng bừng tỉnh dậy. Người còn đê mê về giấc mộng tình. Nàng bâng khuâng vừa tiếc giấc mơ vừa ngao ngán cho đời. Nàng áp mặt vào chiếc gối mà nàng đang thêu dở cảnh hội Long Trì. Nàng định thêu hai cái đợi ngày hoa chúc, đem tặng Nguyễn Bảo Kim một chiếc. Lệ nàng giàn giụa, nàng thổn thức trong đêm khuya:
- Bảo Kim chàng hỡi!
Tiếng rên đầy ai oán... Hồn thơ rạo rực, nàng lại bên án, khêu to ngọn đèn, viết thành một bài bát cú rồi lại tả một bức thư tâm tình gửi cho Bảo Kim. Cả bài phú Long Trì, ba bài tứ tuyệt của chàng danh sĩ, nàng cũng gói lại cẩn thận. Khi ấy trời vừa rạng sáng. Nàng gọi Ái Thi vào bảo:
- Mi đem gói này đến trao cho công tử Bảo Kim.
Ái Thi đến giữa lúc Bảo Kim phiền muộn nhất. Trước chàng ngỡ là câu chuyện đùa, sau thấy quả là sự thực, chàng tê tái trong lòng. Không lấy được Quỳnh Hoa, chàng không oán hận, vì tự lượng chưa xứng với nàng. Nhưng chàng không thể tưởng tượng được rằng
người ngọc kia lại về tay một gã vô lại.
Chàng đi đi lại lại trong thư phòng, khói tức bốc lên ngùn ngụt, chàng nghĩ:
- Chúa Tĩnh Đô bị con đĩ Phù Đổng làm mê hoặc quá rồi! Phải làm cho Chúa tỉnh mới được. Để thế này thì hỏng hết. Chúa hỡi, có lẽ nào Chúa lại lầm lẫn đến thế?
Các bạn Bảo Kim cũng như chàng đều ngơ ngác. Họ bỏ mặc sách vở, sao nhãng việc học, chỉ họp nhau bàn tán về chuyện Quỳnh Hoa.
Đọc thư Quận chúa, Bảo Kim bất giác rưng rưng hai hàng lệ. Nàng đã tỏ hết lòng ngưỡng mộ đối với chàng, nói rõ cảnh ngộ mình, xin vĩnh biệt cùng chàng và trả lại thơ, phú mà nàng cho là không có quyền giữ. Cuối cùng nàng khuyên chàng nên quyết chí tu thân để ra
giúp nước. Bài thơ bát cú của nàng lâm ly sâu sắc, trách duyên tủi phận, mỗi chữ là một giọt lệ, mỗi câu là một tiếng thở dài.
Bảo Kim nén nỗi đau lòng, hỏi chuyện Ái Thi. Con thị nữ kể lại hết tình cảnh Quận chúa. Chàng thương hại, thán phục đạo hiếu của nàng, nhưng lại không chịu vì chỗ nàng quá phục tùng. Tiễn Ái Thi ra cổng, chàng dặn:
- Em về thưa với Quận chúa rằng ta sẽ theo hầu để bảo vệ Quận chúa.
Trở lại thư phòng, Bảo Kim ngồi phịch xuống một chiếc ghế, thở dài:
- Chúa Tĩnh Đô thực là người cha tàn nhẫn!
Giở xem bài phú Long Trì và ba bài tứ tuyệt tặng Quỳnh Hoa, lòng chàng choán một nỗi buồn tuyệt vọng:
- Quỳnh Hoa Quận chúa! Để làm chi những bài vô dụng này? Nó còn có nghĩa lý gì ở đời nữa?
Chàng lấy lửa đốt bài phú và ba bài thơ, ngao ngán nhìn theo ngọn lửa. Một chốc chỉ còn một đám tro khét lẹt. Bảo Kim chợt nghĩ:
- Thế là hết...
Chàng lầm rầm đọc tên Quỳnh Hoa và không cầm được giọt lệ.
Lúc ấy thì các bạn chàng đến tìm. Hoàng Đình Nghiễm nghiêm sắc mặt nói:
- Người quân tử không rỏ lệ bao giờ.
Bảo Kim đứng dậy, mời các bạn vào chơi và nói:
- Tôi cảm thương Quỳnh Hoa, xúc động quá nên khóc, kể cũng là nhục cho một kiếp nam nhi, nhưng thực ra cũng chỉ vì mối tình thâm trọng quá!
Họ lặng thinh. Hồi lâu Hoàng Đình Nghiễm hỏi:
- Không có lẽ để yên cho ngâu vầy hạt ngọc.
Trần Thành:
- Can Chúa thượng.
Đình Nghiễm lắc đầu:
- Không được. Tuyên phi còn đấy, can Chúa thượng vô ích. Nghe đâu các quan cũng có dâng sớ về việc này, nhưng Chúa thượng không xét.
Đỗ Tuấn Giao:
- Tôi tính không gì bằng đánh tháo cho Quận chúa.
Trần Thành:
- Ý kiến ấy hơn cả. Chỉ tiếc Nguyễn Mại không có đây. Lưu Sĩ Trực:
- Nguyễn Mại còn sáu bảy hôm nữa mới ra nhận chức. Vả trông mong gì? Mình phải chắc ở mình mới được.
Đỗ Tuấn Giao:
- Chúng ta làm lấy là hơn cả.
Lê Bá Hổ:
- Nhưng làm cách nào? Đám cưới một bà quận chúa có phải đâu như đám cưới người thường. Không dễ đến gần cô dâu đâu. Các anh nên tính đến nước ấy. Lọt vào hàng quân lính cũng khó khăn lắm.
Hoàng Đình Nghiễm:
- Tôi tính không nên đánh tháo ngoài đường, làm loạn phép nước của Chúa thượng. Phải vào tận sào huyệt quân giặc mới được.
Cả bọn:
- Vào phủ Cậu Trời!
- Chứ sao? Các anh sợ à?
Lê Bá Hổ:
- Sợ thì không sợ, nhưng khó khăn.
- Không khó. Trong lúc cưới người ra vào tấp nập, chúng ta đi lẫn với đám đông cùng vào phủ Cậu Trời, đại náo một phen xem sao, cho nó biết tay học trò Quốc Tử Giám.
Cả bọn đáp:
- Anh Nghiễm hơn tuổi vẫn có hơn.
Vũ Hoành hỏi:
- Tôi không sợ chết. Các anh đi đâu, tôi xin theo đấy. Nhưng việc mình dự định liệu có thành không? Tôi nghe tên Đặng Lân có hàng trăm lính hầu, đứa nào cũng giỏi võ nghệ, ta có mấy người thì làm ăn gì?
Trần Thành mắng lại:
- Ai cũng do dự như anh thì việc gì xong được? Tôi nhất quyết tán thành ý kiến anh Nghiễm.
Cả bọn:
- Tán thành.
Bảo Kim cảm động vì lòng sốt sắng của các bạn. Chàng cũng biết đó là một công việc nguy hiểm, vì phủ Đặng Lân là một tòa lâu đài kiên cố, đường lối hóc hiểm, mà quân gia đầy tớ thì nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Biết thế, nhưng phần thì nóng lòng muốn cứu Quỳnh Hoa, phần thì sợ nói ra các bạn chê là nhát, Bảo Kim cứ ngồi lặng im, không tán thành mà cũng không phản đối.
Đình Nghiễm hỏi:
- Anh Kim tính thế nào?
- Tôi thì không ngại, vì đó là công việc của tôi. Tôi chỉ ngại cho các anh.
Mọi người:
- Anh không phải nói khích nữa.
- Tôi không nói khích, các anh cũng biết tính tôi. Việc ta định làm phải lắm. Nhưng tôi chỉ e chúng ta bỡ ngỡ. Ta có thể hô hào dân chúng giúp một phần, vì những người bị Cậu Trời ức hiếp nhiều không kể xiết. Họ chỉ đợi dịp là hưởng ứng ngay. Nhưng làm thế thì to chuyện quá, chúng ta sẽ mang tiếng là quân phiến loạn, đạo thần tử lẽ nào lại thế. Tôi tính thế này: cậu ấm Dương Tuấn Nghiệp biết rõ ràng đường lối trong phủ Đặng Lân. Từ hôm vợ cậu ta bị Đặng Lân đánh chết, cậu ta phiền muộn, chỉ lấy sự uống rượu làm khuây. Ta nên liên lạc với cậu ta, nhờ cậu ta làm hướng đạo, thì công việc sẽ dễ dàng hơn. Anh em tính sao?
Đỗ Tuấn Giao:
- Nên lắm. Nhưng còn việc cứu Quận chúa thì làm thế nào? Bảo Kim đáp:
- Ta sẽ dò xem nàng ở lầu nào. Rồi một người sẽ lấy dây dòng nàng từ trên lầu xuống. Bên ngoài đã có người đợi, ta thuê sẵn một chiếc xe ngựa, vực nàng lên xe, tạm lánh về nhà anh Thành ở làng Mọc, có được không?
Trần Thành:
- Sao lại không? Vậy bây giờ cắt việc. Ai vào phủ, ai ở ngoài? Anh Kim nên ở ngoài là hơn cả.
- Sao tôi lại ở ngoài? Tôi phải vào phủ với anh em. Còn ở ngoài, không ai hơn anh Trần Thành cả.
- Tôi có sức khỏe hơn anh em, lẽ nào lại giữ chức nhàn?
- Không phải chức nhàn. Quận chúa thoát hay không là ở trong tay anh. Muốn cho cẩn thận, ta cử thêm một anh nữa giúp anh Thành.
Cả bọn:
- Cử anh Vũ Hoành. Hai người cùng ở một làng.
- Vậy thì anh Thành và anh Hoành đứng ở ngoài. Hai anh sẽ đi thuê xe. Còn anh Nghiễm, anh Hổ, anh Trực, anh Giao và tôi cùng cậu ấm Nghiệp vào trong phủ.
Trần Thành hỏi:
- Nhưng cần phải có hiệu chứ.
- Không khó gì. Tôi sẽ thổi còi ra hiệu. Còn gì nữa không? Hoàng Đình Nghiễm:
- Ta nên tìm cách thông tin cho Quận chúa biết để Quận chúa yên tâm và khỏi kinh ngạc.
- Việc ấy tôi xin đảm nhận. Và trưa mai, trước khi khởi sự, xin anh em đến đây, uống vài chén rượu cho hăng.
Cả bọn đều nhận lời. Họ từ giã nhau, ai về nhà nấy, máu người nào cũng sôi nổi một nguồn say sưa phấn đấu.
V
Chúa Tĩnh Đô đi đi lại lại trong cung, lòng Chúa bị bao nhiêu tình cảm chia xé. Trông nét mặt cũng biết ngài đau khổ vô cùng. Một lúc người thái giám chí thân của Chúa là Khê Trung hầu khúm núm bước lên thềm. Tĩnh Vương ra hiệu cho vào, và hỏi ngay:
- Ta hối vô cùng, nhưng không còn cách gì nữa. Nay ta cự hôn, thì không những Tuyên phi phẫn uất, mà ta còn mang tiếng trẻ con với thần dân. Các quan dâng sớ can gián nhiều lắm, người nào cũng bàn nên hoãn việc hôn nhân, lấy cớ là Quận chúa còn nhỏ dại. Ý ngươi thế nào.
- Tâu Chúa thượng, cứ như ý ngu thần, ta nên hoãn rồi liệu cớ thoái thác, chứ đem Quận chúa mà gả cho em Tuyên phi thì làm hại cả một đời Quận chúa. Quận chúa có được như ai! Người hiền lành, mà sức thì yếu. Chỉ e Quốc cữu là một kẻ vũ phu...
Khê Trung hầu chợt đứng im không nói nữa, trán vã mồ hôi. Tuyên phi vén rèm bước ra, dáng giận dữ, vẻ đẹp kiêu kỳ.
Tĩnh Vương ngượng nghịu hỏi:
- Ái phi ra đây làm gì?
Nàng quỳ trước mặt Chúa:
- Tiện thiếp vào tự tiện, tội thực đáng chết.
Chúa nâng nàng dậy. Nàng khóc và nói tiếp:
- Xem ý thì Chúa thượng phân vân vì cuộc hôn nhân của em tiện thiếp và Quận chúa. Đó là quyền ở Chúa thượng, tiện thiếp đâu dám nài ép? Làm cho Chúa thượng ưu phiền, tiện thiếp còn sống làm gì nữa.
Chúa thấy nàng rút trong bọc ra một vật gì sáng loáng đưa lên cổ.
Nhanh tay ngài giữ lấy thì là một con dao nhọn sắc như nước. Lòng ngài tan trong tình yêu, bao nhiêu ý phân vân bay hết. Ngài đưa mắt bảo Khê Trung hầu lui ra, thân dìu Tuyên phi vào trong phòng, đặt lên một chiếc giường kê ở đó. Người nàng run run, mặt nàng xanh nhợt, nhưng đôi mắt đa tình dịu dàng nhìn Chúa. Tĩnh Vương hỏi:
- Sao ái phi lại nghĩ lẩn thẩn thế?
- Xin Chúa thượng cự hôn đi, em tiện thiếp không xứng với Quận chúa.
- Đó là các quan dâng biểu xin cự hôn, ta không có ý ấy.
- Chiều nay đã cưới, xin Chúa thượng quyết đoán ngay cho, Chúa thượng cự hôn cũng còn kịp.
- Ái phi đừng nghi ngờ. Tín vi quốc chi bảo, có lẽ nào ta lại nói sai lời, để mang tiếng với thần dân và hậu thế. Nhưng ta muốn nói với ái phi một điều...
- Xin Chúa thượng cho biết.
- Ái phi không lạ gì con ta còn bé, mới 16, 17 tuổi, chưa phải đến tuổi gả chồng. Vả Quận chúa người ốm yếu luôn, thuốc quanh năm, mà vẫn không có lực. Ái phi chắc cũng chẳng lạ gì thể chất Quỳnh Hoa. Nay ta định thế này: Cưới thì vẫn cho cưới, nhưng động phòng hoa chúc phải hoãn cho đến năm Quận chúa đầy 18 tuổi. Ý ái phi nghĩ sao?
- Tâu Chúa thượng, Chúa thượng nghĩ thế thật là chu đáo. Tình thương con của Chúa thượng không mấy người bằng. Tiện thiếp đâu dám không tuân theo? Vả việc ấy, tiện thiếp đã nghĩ đến, và đã nói rõ cho em tiện thiếp, dặn phải rất từ tốn với Quận chúa. Đạo vợ nghĩa chồng, có phải chuyện chơi đâu. Chúa thượng dạy thế, tiện thiếp hoàn toàn đồng ý...
- Ta muốn gọi Quốc cữu vào đây nói chuyện, ái phi nghĩ thế nào?
- Em tiện thiếp đang chờ ở Bội Lan thất. Xin Chúa thượng cho nội giám vời đến.
Chúa đánh chuông gọi một người nội giám và truyền: - Ngươi đến Bội Lan thất triệu Quốc cữu lại đây.
Một lúc lâu Đặng Lân tới quỳ ở ngoài thềm, hô muôn tuổi. Chúa truyền cho đứng dậy và cho vào. Lân lóp ngóp đứng lên, khúm núm đi vào, dáng quê kệch, tuy ăn bận rất sang. Ý từ hôn đã nguội trong óc Tĩnh Vương, bấy giờ lại bốc lên. Ngài nhìn Tuyên phi, nghĩ thầm:
- Sao con tạo lại oái oăm thế. Chị thì là thiên tiên, em thì là quân bần tiện.
Ngài cố nén mãi mới không để lộ vẻ khinh bỉ.
Tĩnh Vương quay lại, chợt thấy Tuyên phi nhìn mình như có ý trách móc: nàng thấu hết ẩn tình Chúa. Ngài cố nói giọng thân mật.
- Quốc cữu ngồi đấy, ta nói chuyện.
Đặng Lân dạ dạ, ngồi xuống. Tĩnh Vương chậm rãi nói:
- Quận chúa đương độ đào tơ liễu yếu. Chính ta cũng phải cưng chiều. Nay ta gả Quận chúa cho Quốc cữu, để cho hai họ thêm thân, nhưng ta dặn trước, Quốc cữu phải dè dặt buổi đầu, và đúng như ngạn ngữ nói, phải “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” mới được. Nay Quận chúa mới 16 tuổi; ta cho cưới, nhưng lễ động phòng hoa chúc phải hoãn. Trong phủ Quốc cữu, phải để riêng một lầu cho Quận chúa, từ nay đến năm Quận chúa 18 tuổi, Quốc cữu không được nhập phòng. Quốc cữu nghe ra chưa?
- Tâu Chúa thượng, hạ thần nghe ra rồi.
- Ta sẽ cử hai vị đại thần đi theo Quận chúa, để dạy Quận chúa học tập lễ nghi và trông nom thuốc men cho Quận chúa. Quốc cữu muốn nói chuyện với Quận chúa phải hỏi qua hai vị đại thần ấy. Hai vị có cho mới được. Từ 18 tuổi trở đi, Quận chúa mới hoàn toàn là vợ Quốc cữu, và những lệ luật ta bắt Quốc cữu phải theo tự nhiên ta sẽ bãi đi. Lệnh ta đã ban Quốc cữu phải tuân, nếu không ta sẽ cho đón Quận chúa về và nghiêm trị Quốc cữu.
- Dạ dạ, hạ thần xin tuân lệnh thánh.
Tĩnh Vương ngắm Đặng Lân. Chúa càng ghét, giọng thêm nghiêm nghị:
- Thôi, chỉ dặn có thế, cho lui.
Đặng Lân lạy Chúa, rồi dương dương đi ra. Tuyên phi cũng quỳ trước mặt Chúa, xin theo em ra để sửa soạn lễ nghi.
Chúa đánh chuông gọi Khê Trung hầu. Người thái giám già bước lên thềm chắp tay chờ lệnh. Chúa ra hiệu cho đến gần, và hỏi một cách rất thân mật:
- Ta có việc này, phải nhờ đến nhà ngươi. Nhà ngươi là người có tuổi, lại trải thờ hai triều, lòng trung nghĩa đã rõ. Ngươi cũng biết rằng ta bất đắc dĩ mà gả Quận chúa cho Đặng Lân.
Khê Trung hầu tâu:
- Tâu Chúa thượng, ngài nhất định gả Quận chúa cho Quốc cữu? Chỉ e Quốc cữu là người thô suất không hợp với tính đoan chính nghiêm trang của Quận chúa, rồi sẽ sinh chuyện rắc rối về sau. Huống chi Quận chúa người thì yếu, vóc thì gầy, chịu sao nổi được một kẻ phàm phu! Hôn nhân là việc trọng, xin Chúa thượng đừng hấp tấp.
Chúa không lấy làm chướng vì lời nói bộc trực của Khê Trung hầu. Chúa biết tính hầu ngay thẳng và rất trung hậu. Ngài đăm đăm nhìn hầu, và nói:
- Lễ cưới cử hành chiều hôm nay. Quân tử vô nhị ngôn, ta không thể bãi việc hôn nhân này được. Chỉ còn việc này ta chưa giải quyết xong, là chưa có người trông nom Quận chúa về nhà chồng. Ta nghĩ đến hai người là ngươi và quan Ngự sử Lương Khánh Bảo. Quan Ngự sử không có đây, chốc nữa ta sẽ cho triệu vào. Nhưng có ngươi đi thì ta mới được yên tâm. Ta biết ngươi chăm sóc Quận chúa như cha, ngươi hiểu biết tính tình Quận chúa, chính ngươi là người thuốc thang cho Quận chúa từ thuở nhỏ, đi theo Quận chúa không ai hơn ngươi được. Ngươi vốn cẩn thận, nên vì ta gánh vác việc này.
Khê Trung hầu cảm động, mắt giàn giụa ngước nhìn lên, thấy mặt Chúa buồn, hầu tâu:
- Hạ thần đội ơn cao dầy, chưa có dịp báo. Nay Chúa thượng giao cho việc này, dám đâu từ khó! Giả sử Chúa thượng không bảo, hạ thần cũng xin đi, để hầu hạ và trông nom Quận chúa. Quận chúa còn non, có người thân đi kèm, cũng đỡ phần bỡ ngỡ. Cúi xin Chúa thượng cứ tin vào hạ thần. Hạ thần xin trọn đạo thần tử.
Chúa mỉm cười, tiến lại vỗ vai Khê Trung hầu, ân cần nói: - Ngươi cố giúp ta nhé!
Ngài lại cầm tay hầu, đặt vào bàn tay người thái giám một lạng vàng và nói tiếp:
- Ta biếu riêng ngươi, ngươi đừng từ chối.
- Tâu Chúa thượng, Chúa thượng ban, hạ thần đâu dám không nhận. Chỉ nghĩ công việc chưa làm, đã nhận thưởng, đối với lương tâm, thực là xấu hổ. Vả hạ thần đội ân Chúa thượng nhiều rồi, Chúa thượng bắt nhảy vào đống lửa cũng phải nhảy, huống chi là việc nhỏ này. Nhận thưởng đã tham lại không phải đạo.
- Ngươi cứ cầm lấy, không được phụ tấm lòng ân cần của ta. Khê Trung hầu quỳ xuống lĩnh, hai giọt lệ lăn trên gò má dăn deo: - Hạ thần dẫu tan thây nát óc cũng không sao báo được thánh ân. Chúa bằng lòng phán:
- Ngươi về sắp sửa đi. Mọi sự ta giao phó cho ngươi đấy. Ta sai ngươi đi, thác ra là để dạy Quận chúa lễ nghi, nhưng thực là để kiềm chế Đặng Lân, ngươi nên lưu ý nhé.
- Hạ thần đã hiểu ý Chúa thượng, xin Chúa thượng phóng tâm.
Khê Trung hầu quỳ lạy Chúa rồi khép nép quay ra. Chúa nhìn theo người thái giám trung thành, thở dài khoan khoái, và nói một mình:
- Bây giờ lòng ta mới được thư thái một chút...
Chiều hôm ấy, một buổi chiều thu buồn rười rượi. Lễ nghênh hôn
đã sắp, mà chúa Tĩnh Đô còn lưu luyến trong tư thất với Quỳnh Hoa. Đã hai lần, lễ phiên vào tâu xin cho rước dâu, sợ qua giờ tốt Chúa đều gạt phắt đi. Ngài gắt gỏng vô cùng. Chúa nhìn con gái, như cố thu hết một lần cuối cùng hình ảnh thân yêu. Ngài nhận thấy con gái xanh xao, trông quá gầy nhỏ trong bộ quần áo cưới. Chúa bất nhẫn chia tay. Ngài đã hỏi con gái bao nhiêu lần câu: “Con có xin gì cha nữa không? Con xin gì cha cũng cho”, vậy mà Chúa vẫn hỏi. Quỳnh Hoa muốn xin một điều là bãi việc hôn nhân, nhưng nàng biết không sao được, nên mỗi khi Chúa hỏi nàng chỉ từ chối. Thái độ ấy càng làm cho Chúa thương nàng, và càng làm tăng lòng hối hận của ngài.
Lễ phiên giục giã lần thứ ba. Chúa biết không lưu luyến được nữa, đứng lên. Bao nhiêu quận chúa, phi tần, thị nữ xúm quanh Quỳnh Hoa, để đi phù dâu: Chúa như không trông thấy ai cả. Ngài đỡ Quỳnh Hoa đứng dậy, mắt không rời nàng. Cầm tay con gái, thấy lạnh, Chúa hỏi:
- Con làm sao đấy mà tay lạnh thế này? Mai về lại mặt, cha bảo ngự y bốc thuốc cho con.
Quỳnh Hoa sẽ tâu:
- Tâu phụ vương, con không làm sao cả. Con đi chỉ nhớ phụ vương, phận con gái, không báo đáp được ơn sơn hải, sinh ra thực là vô ích, xin phụ vương tha tội bất hiếu cho con.
- Con đừng nghĩ dở. Lòng hiếu của con cha đã biết.
- Con xin phụ vương ở nhà nên gìn vàng giữ ngọc, con thấy phụ vương sút đi nhiều, người trông võ vàng, con lấy làm lo ngại lắm.
- Con không phải lo cho cha. Chính con phải nên giữ gìn thân con cho cha được yên lòng.
Chúa Tĩnh Đô thân phù con ra khỏi cửa cung. Chín phát súng vang động kinh thành. Chợt Quỳnh Hoa nhìn cha, như có ý cầu khẩn. Tĩnh Vương dừng bước hỏi con:
- Con muốn xin gì cha chăng?
- Xin phụ vương tha tội cho con, con mới dám nói.
- Bao nhiêu tội của con, cha nhận hết. Con xin gì, cha cũng cho.
- Tâu phụ vương, phụ vương còn nhớ người làm ra bài phú Long Trì chứ?
Tĩnh Vương đột nhiên thấy hiện ra trong trí hình ảnh thanh tú của chàng Bảo Kim, người mà trước kia trong thâm tâm ngài đã chấm làm phò mã. Lời nói vô tâm của Quỳnh Hoa, Chúa thấy bao hàm cả bao nhiêu ý trách móc. Lòng Chúa thắt lại, phần thì thương con, phần thì hối hận. Chúa nói:
- Cha còn nhớ.
Quỳnh Hoa định quỳ xuống, Chúa giữ nàng lại và nói:
- Con không phải giữ lễ nữa. Có việc gì xin cha, con cứ nói. Cha đã bảo con rằng cha không tiếc gì con. Con nói đi, kẻo nhà trai người ta giục giã.
Quỳnh Hoa ngập ngừng một lát rồi thưa:
- Đây là chút ân tình của con. Con không thể giữ mãi trong lòng được nữa. Bảo Kim và con tuy không thề thốt nặng lời - con là gái khuê các, dám đâu làm những điều xấu hổ ấy? - nhưng con đã biết chàng là người quân tử. Cuộc thi văn đêm hội Long Trì, chàng được giải nhất, chưa nói ra, con đã...
Nói đến đây, nàng đỏ mặt, mãi không nói tiếp. Chúa Tĩnh Đô hiểu ý đỡ lời con:
- Cha đã biết.
Quỳnh Hoa nghĩ một lúc lâu rồi thưa, vẻ bẽn lẽn:
- Con chưa bẩm mệnh phụ vương, nhưng con đã muốn xin cha kén chàng làm phò mã, chỉ vì có việc này...
Nàng cảm động thổn thức khóc. Chúa cũng rơi lệ, và xung quanh, các quận chúa, các phi tần, các thị nữ và cả các nội giám người nào cũng sụt sùi, cảm thương cho thân thế nàng. Tĩnh Vương nói: