🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dạy Trẻ Phương Pháp Tư Duy Ebooks Nhóm Zalo DẠY TRẺ PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY (Nguyên tác: Teach Your Child how to Think Xuất bản bởi: Penguin Group (USA) Incorparated, 1994) Tác giả: Tiến sỹ EDWARD DE BONO Người dịch: Tuấn Anh Nhà xuất bản: Văn Hóa Thông Tin MỤC LỤC ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM PHẦN I – LỜI TỰA LỜI GIỚI THIỆU TẠI SAO CHÚNG TA CẦN SUY NGHĨ MỚI VỀ CÁCH TƯ DUY Thông tin và suy nghĩ Trí thông minh và suy nghĩ. Sự thông minh và sự hiểu biết. Liệu tư duy có phải là một việc khó khăn? Thế nào là một người tri thức? Tác động phản hồi và những suy nghĩ tiên phong. Từ “sự thực hiện” Lối suy nghĩ phê phán Hệ thống đối đầu Sự đòi hỏi và sự phản đối Nhu cầu khẳng định mình là đúng Sự phân tích và sự thiết kế Lối suy nghĩ sáng tạo Logic và nhận thức Cảm xúc, cảm giác và khả năng trực giác Tóm lược SỬ DỤNG CUỐN SÁCH NÀY NHƯ THẾ NÀO Độ tuổi Những điều được dạy từ cuốn sách này Động lực Sở thích hoặc thể thao Cách dạy tư duy Sự thực hành không theo thông lệ Các bài tập Sự thể hiện Chức năng của cuốn sách ĐỘ TUỔI VÀ KHẢ NĂNG Sự giản đơn hóa Phân nhóm Những cách áp dụng khác và những cách áp dụng lặp lại HÀNH VI TƯ DUY Thông lệ và khác thường Trọng tâm, tình huống và nhiệm vụ Sự đổi số Tư duy thực hành Sự tự động và sự thận trọng Tóm tắt CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA SUY NGHĨ Khả năng tự nhiên của trí óc Tự tổ chức Chúng ta có thể làm gì Công cụ định hướng sự chú ý Sự huấn luyện Tóm lược PHẦN II NGƯỜI THỢ MỘC VÀ NGƯỜI TƯ DUY Những thao tác cơ bản Công cụ Cấu trúc Quan điểm Nguyên lý Thói quen Tóm lược QUAN ĐIỂM Quan điểm không đúng đắn Những quan điểm tốt Những bài luyện tập quan điểm tư duy SÁU CHIẾC MŨ TƯ DUY Tại sao lại là những chiếc mũ? Đảm nhiệm vai trò Thể hiện vai trò theo mỗi chiếc mũ giúp chúng ta tách biệt cái tôi ra khỏi lối suy nghĩ Sử dụng những chiếc mũ Sử dụng sáu chiếc mũ tư duy Định hướng sự chú ý Những bài luyện tập phương pháp tư duy sáu chiếc mũ CHIẾC MŨ TRẮNG VÀ CHIẾC MŨ ĐỎ Mũ trắng Mũ đỏ Tóm lược Những bài tập về chiếc mũ đỏ và chiếc mũ trắng MŨ ĐEN VÀ MŨ VÀNG Mũ đen Chiếc mũ vàng Tóm lược Những bài luyện tập mũ vàng và mũ đen. MŨ XANH LÁ CÂY VÀ MŨ XANH DA TRỜI Mũ xanh lá cây Mũ xanh da trời Tóm lược Những bài luyện tập mũ xanh lá cây và mũ xanh da trời SỬ DỤNG XÂU CHUỖI SÁU CHIẾC MŨ Sử dụng riêng lẻ Sử dụng theo hệ thống Sử dụng theo chuỗi Tìm kiếm một ý tưởng Phản hồi ý tưởng hiện thời Chuỗi ngắn gọn Tóm lược KẾT QUẢ VÀ KẾT LUẬN Có được tấm bản đồ hoàn tất hơn Chỉ ra điều cần thiết Câu trả lời cụ thể Tóm lược Kế hoạch tư duy năm phút Bài tập luyện chương trình tư duy năm phút TIẾN LÊN HAY ĐỒNG THUẬN LOGIC VÀ NHẬN THỨC CAF: CÂN NHẮC MỌI YẾU TỐ Những bài tập luyện CAF APC: SỰ THAY THẾ KHẢ NĂNG VÀ LỰA CHỌN Những bài tập về APC GIÁ TRỊ Những bài tập về giá trị. OPV: QUAN ĐIỂM CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÁC Hai phía của một cuộc tranh luận. Bài luyện tập OPV C&S: KẾT QUẢ VÀ ẢNH HƯỞNG Quy mô thời gian Rủi ro Bài tập luyện C và S PMI – ƯU THẾ, YẾU ĐỂM VÀ SỰ CHÚ Ý Sự chú ý Sự chăm chú Những bài tập luyện PMI TRỌNG TÂM VÀ MỤC ĐÍCH Những câu hỏi quan trọng Đặt ra trọng tâm Kiểu tư duy Bài tập luyện trọng tâm và mục đích AGO - CHỦ ĐÍCH, MỤC TIÊU VÀ MỤC ĐÍCH Những cách xác định mục tiêu thay thế Bán mục tiêu Bài tập luyện AGO FIP – NHỮNG ƯU TIÊN HÀNG ĐẦU Bao gồm và không bao gồm Có bao nhiêu ưu tiên Bài luyện tập FIP NHÌN LẠI PHẦN 2 Công cụ và thói quen Những thói quen tư duy Sáu chiếc mũ tư duy Tóm lược Những công cụ tư duy Sử dụng các công cụ Thói quen và công cụ Tóm lược Bài tập ôn luyện PHẦN III – KHÁI QUÁT VÀ CHI TIẾT Tạo nên những sự thay thế Rút ra ý tưởng chung Khái niệm và chức năng. Tóm lược Bài tập luyện tổng quát và chi tiết NHỮNG HÀNH ĐỘNG TƯ DUY CƠ BẢN Mô hình người thợ mộc Hành động cắt Hành động dán. Hành động định hình Tóm tắt Bài tập luyện các hành động tư duy cơ bản SỰ THẬT, LOGIC VÀ TƯ DUY PHÊ PHÁN Thói quen tư duy Logic Logic, thông tin và sự sáng tạo Tư duy phê phán Tóm lược Bài tập luyện sự thực, logic và tư duy phê phán TRONG HOÀN CẢNH NÀO? Thói quen tư duy Bài tập luyện về tình huống GIẢ THUYẾT, TIÊN ĐOÁN VÀ KHIÊU KHÍCH Nhảy lên phía trước Các cấp độ suy đoán. Hành động và thay đổi Quan điểm sáng tạo Tư duy khoa học Tư duy kinh doanh Tóm lược Bài tập TƯ DUY KHÁC LẠ Sự hình thành Sử dụng tư duy khác lạ Định nghĩa Tổng quát và cụ thể Khuôn mẫu Sự hài hước Sự nhìn nhận sau ý tưởng SỰ KHIÊU KHÍCH VÀ PO Sự chuyển động Tạo nên sự khiêu khích Tóm tắt Bài tập SỰ CHUYỂN ĐỘNG Những cách để có được sự chuyển động Tóm tắt Bài tập TỪ NGẪU NHIÊN Tìm từ ngẫu nhiên Danh sách các từ ngẫu nhiên. Tại sao nó hoạt động Sử dụng kỹ thuật từ ngẫu nhiên Tóm tắt Bài tập NHÌN LẠI PHẦN III Sự thực và sự sáng tạo Tư duy phê phán Tư duy sáng tạo Tư duy khác lạ Hoạt động cơ bản Một vài thói quen tư duy Tổng quát và chi tiết Tóm tắt Bài tập CÁC NGUYÊN TẮC TƯ DUY Tóm tắt Bài tập PHẦN IV CẤU TRÚC VÀ TÌNH HUỐNG Cấu trúc Tình huống Tóm tắt TO/LOPOSO/GO TO: LO: PO: SO. GO: Sự tác động qua lại Tóm tắt Bài tập TRANH LUẬN VÀ KHÔNG TÁN THÀNH Cảm xúc và tình cảm Từ ngữ Sự nhận thức Giá trị Logic Cấu trúc cụ thể Sự đam mê tranh luận Tóm tắt Bài tập VẤN ĐỀ VÀ NHIỆM VỤ Phỏng đoán và ước chừng Phương pháp liên kết vấn đề Lựa chọn các phương án Hành động Vấn đề hoặc nhiệm vụ mới Tóm tắt Bài tập QUYẾT ĐỊNH VÀ LỰA CHỌN Cảm xúc Những quyết định thứ yếu và những lựa chọn Lựa chọn Bốn lựa chọn Kiến thiết Đình chỉ việc phân tích Tóm tắt Bài tập XEM LẠI PHẦN IV Lập luận và bất đồng Vấn đề và nhiệm vụ. Quyết định và lựa chọn. Tóm tắt Bài tập TRÒ CHƠI TƯ DUY MƯỜI PHÚT Ví dụ: Tóm tắt PHƯƠNG PHÁP HÌNH VẼ Từ ngữ và hình ảnh Sự thực hiện. Thảo luận. Tóm tắt. Bài tập. NHỮNG LỜI KẾT CÁC CÂU LẠC BỘ TƯ DUY Mục đích của câu lạc bộ tư duy Các hoạt động của câu lạc bộ tư duy. Nguyên tắc. Các vấn đề được đem ra thực hành. Các tài liệu. Luyện tập. Tóm tắt. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Tiến sĩ Edward de bono sinh năm 1933 tại Malta, trong thế chiến thứ II ông đã học ở cao đẳng St Edward và sau đó tiếp tục vào đại học Malta. Tại đây ông nhận được các bằng cấp về tâm lý học, sinh lý học và sau cùng nhận học hàm tiến sĩ y khoa. Sau đó, ông còn nhận thêm một học vị tiến sĩ khác ở Cambridge và tốt nghiệp bác sĩ ở đại học Malta. Ông là giáo sư ở các đại học Oxford, Cambridge, Harvard, và cũng là giáo sư thỉnh giảng ở hơn 52 quốc gia khác nhau. Ông cũng cộng tác với các công ty lớn ở nhiều nơi trong đó có IBM, Du POnt, Prudential, AT&T, British Airways, British Coal, NTT(nhật), Ericsson (Thụy điển), Total(pháp), Siemens, và Microsoft. Tại các hãng này, ông hoặc trực tiếp giảng dạy cho người làm hoặc hướng dẫn các nhóm quản lý đầu não. Edward de Bono có nhiều tác phẩm, chuyên khảo về tư duy đặc biệt là các phương pháp tư duy định hướng. Rất nhiều sách trong đó đã được dịch ra khoảng 34 ngôn ngữ. Ông từng nhận giải Capire tại Madrid do cống hiến quan trọng cho nhân loại năm 1988, và huân chương "Order of Merit" do chính phủ Malta trao tặng năm 1995. Trong cuốn sách quan trọng "The Mechanism of Mind" (cơ chế của tư tưởng) xuất bản năm 1969, ông đã chỉ cho thấy làm thế nào mạng lưới thần kinh tạo nên các dạng thức không đối xứng đóng vai cơ sở cho nhận thức. Nhà vật lý học tiên phong, giáo sư Murray Gell Mann đã đánh giá rằng tác phẩm của Bono đã đi trước các nhà toán học trong 10 năm trong việc tìm hiểu các lý thuyết hỗn độn (chaos theory), các hệ thống phi tuyến tính, và các hệ thống tự quản (self-organising systems). Ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm "tư duy định hướng" mà ngày nay được dùng rộng rãi để chỉ các phương pháp tư duy sáng tạo. Lối tư duy truyền thống dùng đến các phần tích, cân nhắc, và bàn cãi. Trong một thế giới ổn định thì các cách thức đó là đủ thích hợp để nhận diện ra các tình huống chuẩn và để áp dụng các giải pháp chuẩn. Tuy nhiên, điều này không còn hiệu nghiệm nữa trong một thế giới biến đổi mà ở đó các lời giải chuẩn mực có thể không hiệu lực nữa. Do đó, việc chuẩn bị khả năng sáng tạo, cấu trúc, và thiết kế từ trước để đáp ứng sự đổi thay nhanh chóng của thế giới đã trở thành một nhu cầu khổng lồ của toàn thế giới. Edward de Bono là một trong những nhà tiền phong thâm nhập vào các lĩnh vực này. Ông cung cấp các phương thức và công cụ cho lề lối tư duy mới: tư duy sáng tạo và cấu trúc. Ông đã chi tiết hóa một loạt các "phương pháp giải phóng tư duy" - đây là các ứng dụng nhấn mạnh tư duy như là một hoạt động để khai phóng hơn là một hành động phản ứng. Với việc sử dụng cách viết thực tế, rõ ràng và tránh né các khái niệm có tính hàn lâm, ông đã vận dụng các hiểu biết về tâm lí học qua việc biến các lý thuyết về sự sáng tạo và nhận thức của con người thành các công cụ thực sự khả dụng[1] Trong số khoảng 65 tác phẩm của Edward de Bono, đã có một số tác phẩm đã được dịch ra tiếng việt như Tư Duy Là Tồn Tại, Sáu Chiếc Nón Tư Duy, Để Có Một Tâm Hồn Đẹp Và Dạy Trẻ Phương Pháp Tư Duy. Trong dạy trẻ phương pháp tư duy, tác giả đưa ra những cách thức đơn giản và thực tiễn để những bậc cha mẹ làm thế nào có thể giúp trẻ phát triển được kỹ năng tư duy. Hiện nay, nhiều người cho rằng, nhà trường chưa xem trọng việc dạy cách tư duy cho học sinh, do vậy cuốn sách này rất hữu ích trong việc giúp trẻ phát triển trí năng, óc sáng tạo và nhờ vậy, trẻ sẽ tự tin hơn và sẽ dễ thành công trong cuộc sống hơn.[2] PHẦN I – LỜI TỰA Một trong những tham vọng của tôi khi viết cuốn sách này là trên thế giới sẽ ngày càng có nhiều người trẻ tuổi tự khẳng định rằng” tôi sẽ là một người biết tư duy”. Và tuyệt vời hơn nữa nếu họ tự tin khẳng định rằng “tôi là một người biết tư duy - và tôi biết tư duy”. Cuốn sách này phù hợp với những bậc làm cha mẹ và cả với những em thiếu niên đọc để học cách tư duy. Tư duy không phải là một điều khó khăn. Tư duy càng không phải là một điều tẻ nhạt. Bạn không cần phải là thiên tài thì mới có thể trở thành một người tư duy giỏi. Bạn muốn theo kịp xu hướng phát triển của xã hội, bạn cần phải là một người giỏi tư duy. Những tình huống trong cuộc sống của mỗi cá nhân cũng luôn đòi hỏi chúng ta phải là một người suy nghĩ tốt, và trong tương lai cùng với sự gia tăng độ phức tạp của nhu cầu cũng như các cơ hội, đòi hỏi này càng tăng lên. Trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống đời thường, giỏi suy nghĩ đóng vai trò thiết yếu cho sự tồn tại, cho thành công và trong cạnh tranh. Cuốn sách này không dành cho bạn nếu: 1- Bạn tin rằng chỉ cần thông minh là đủ. Nếu bạn tin rằng một người rất thông minh dĩ nhiên sẽ là một người giỏi tư duy, và một người kém thông minh hơn thì tư duy sẽ tồi hơn, thì cuốn sách này cũng không dành cho bạn. Dựa trên kinh nghiệm, tôi rút ra rằng những người thông minh không phải luôn là những người giỏi tư duy. Rất nhiều người thông minh lại rơi vào “chiếc bẫy của sự thông minh” và biến mình thành một người tư duy tồi. Thông minh là một khả năng. Suy nghĩ là kỹ năng để vận dụng khả năng đó. Trong những trang tiếp theo tôi sẽ trình bày kỹ hơn vấn đề này. 2- Bạn tin rằng bạn đã được học các kỹ năng suy nghĩ ở trường học. Nếu bạn tin rằng trường học là nơi phù hợp để bạn học cách suy nghĩ và trường học đã dạy bạn điều này đủ rồi, thì bạn cũng không nên đọc cuốn sách này. Theo kinh nghiệm của tôi thì hầu hết các trường học không dạy cho học sinh cách tư duy. Một vài trường học chỉ dạy học sinh những kỹ năng tư duy rất giới hạn, bao gồm phân loại thông tin và phân tích. Gần đây, dấy lên phong trào dạy tư duy cho học sinh. Một số trường đã bắt đầu dạy học sinh “lối tư duy phê phán”. Điều này là đáng làm, nhưng nếu chỉ dạy học sinh “lối tư duy phê phán” thì chưa đầy đủ, thậm chí rất nguy hiểm (tôi sẽ giải thích điều này sau). Tôi đã xây dựng chương trình giảng dạy tư duy, chương trình cort. Chương trình này hiện đang được hàng triệu sinh viên ở các quốc gia khác nhau áp dụng. Mặc dầu vậy, dường như ở trường học, họ vẫn chưa áp dụng chương trình này để dạy cho học sinh. 3- Bạn tin rằng không thể dạy các kỹ năng tư duy một cách trực tiếp. Nếu bạn cho rằng kỹ năng tư duy chỉ có thể phát triển thông qua những vấn đề cụ thể hoặc khi ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, cuốn sách này cũng không phù hợp với bạn. Hầu hết chúng ta khi đi học đều được dạy và tin rằng tư duy không thể được dạy trực tiếp. Hiện nay, mọi người đã bắt đầu thay đổi quan điểm này khi thực tế và cả những nghiên cứu chỉ ra rằng những kỹ năng này có thể học trực tiếp. Bởi vì chúng ta tốn quá nhiều thời gian suy nghĩ những điều mà bản thân nó không cải thiện được kỹ năng tư duy của chúng ta. Một nhà báo quen với lối đánh máy gõ hai ngón sẽ vẫn sử dụng lối đánh máy này cho đến tận tuổi 60. Điều này không phải vì ông ta không được thực hành nhiều. Nếu ông ta chỉ luyện tập đánh máy với cách đánh chỉ sử dụng hai ngón tay, ông ta chỉ có thể trở thành một người đánh máy hai ngón giỏi. Nhưng nếu khi chúng ta còn trẻ và được tham gia một khóa học đánh máy, có thể chỉ cần một khóa ngắn hạn, thì về sau này, chúng ta luôn là những người đánh máy tốt. Điều tương tự như vậy cũng xảy ra với cách suy nghĩ. Thực hành thôi là chưa đủ. Edward de Bono LỜI GIỚI THIỆU TẠI SAO CHÚNG TA CẦN SUY NGHĨ MỚI VỀ CÁCH TƯ DUY Thông tin và suy nghĩ Thông tin rất quan trọng. Thông tin cũng dễ dạy. Thông tin cũng dễ kiểm tra. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta đến trường và được dạy rất nhiều điều liên quan đến thông tin. Suy nghĩ không thay thế cho thông tin nhưng thông tin có thể là một trong những thứ thay thế của suy nghĩ. Các định nghĩa thần học đều cho rằng chúa trời là đấng tối cao có kiến thức tuyệt đối và hoàn hảo. Khi ai đó có kiến thức tuyệt đối và hoàn hảo, người đó chắc chắn không cần phải suy nghĩ gì nữa. Trong một tầm hiểu biết nào đó, chúng ta có thể là những người tích lũy đầy đủ thông tin, và đó là những vấn đề mà khi gặp phải chúng ta sẽ không cần phải suy nghĩ. Trong tương lại, ta sẽ để cho máy tính giải quyết những việc như vậy. Trừ khi chúng ta có đầy đủ thông tin, chúng ta cần suy nghĩ để có cách sử dụng tốt nhất những thông tin chúng ta có. Khi máy tính và công nghệ thông tin ngày càng cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin, chúng ta cần suy nghĩ để tránh bị ngập vào sự rối rắm bởi tất cả những thông tin đó. Khi chúng ta xem xét sự việc diễn ra trong tương lai, chúng ta cần suy nghĩ bởi vì chúng ta sẽ không thể có đầy đủ thông tin về tương lai. Để sáng tạo, thiết kế, làm kinh doanh hay làm bất cứ điều gì mới, chúng ta đều cần suy nghĩ. Chúng ta suy nghĩ để sử dụng thông tin tốt hơn khiến cho chúng ta cạnh tranh tốt hơn. Như vậy, chỉ có thông tin không là chưa đủ. Chúng ta cần có cả suy nghĩ. Nhưng thật không dễ gì để thực hiện điều này. Tất cả thông tin đều có giá trị. Thông tin mới càng có giá trị bởi vì nó giúp chúng ta có thêm kiến thức. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể khuyến khích mọi người giảm thời gian dạy thông tin và dành thời gian dạy các kỹ năng suy nghĩ giúp sử dụng thông tin một cách tốt nhất? Chúng ta cần cân bằng giữa thông tin và kỹ năng suy nghĩ. Trí thông minh và suy nghĩ. Niềm tin rằng sự thông minh và sự tư duy là giống nhau đã dẫn đến hai kết luận không phù hợp sau trong việc dạy học: 1- Đối với những học sinh rất thông minh thì chẳng cần dạy chúng phải suy nghĩ như thế nào vì mặc nhiên chúng cũng sẽ là những học sinh giỏi suy nghĩ. 2- Đối với những học sinh không thông minh thì chẳng thể dạy chúng cách suy nghĩ thế nào cho tốt vì dạy thế nào thì chúng cũng không thể suy nghĩ tốt được. Mối liên hệ giữa sự thông minh và cách suy nghĩ cũng giống như mối liên hệ giữa chiếc ô tô và người lái ô tô. Một chiếc ô tô động cơ tối tân có thể bị một người lái tồi. Trong khi một chiếc ô tô động cơ kém hơn nhưng có thể có một người điều khiển rất tốt. Động cơ của một chiếc ô tô chính là tiềm năng của chiếc ô tô chũng giống như thông minh là tiềm năng của trí óc. Kỹ năng của người lái xe quyết định làm thế nào để sử dụng hết tiềm năng của ô tô. Kỹ năng của người tư duy quyết định xem sẽ phát huy sự thông minh đó như thế nào. Tôi thường định nghĩa tư duy là “sự ứng dụng tài năng một cách tài tình dựa theo kinh nghiệm”. Có nhiều người rất thông minh thường chọn một cái nhìn về một sự việC và Sử dụng sự thông minh của họ để bảo vệ cho cái nhìn đó. Và bởi vì họ làm điều này rất giỏi nên họ sẽ chẳng bao giờ thấy cần phải khám phá sự việc hoặc lắng nghe những quan điểm khác. Đây là một cách suy nghĩ tồi và nó chính là “chiếc bẫy của sự thông minh”. Quan sát biểu đồ 1 ở trang bên, một người nhìn tình huống và ngày lập tức xét đoán nó. Trong khi đó, biểu đồ 2, một người xem xét tình huống rồi sau đó tiếp tục khám phá tình huống. Một người rất thông minh có thể thực hiện quá trình nhìn và quá trình xét đoán rất tốt, nhưng nếu thiếu đi quá trình khám phá thì đó vẫn là một quá trình tư duy tồi. Những người rất thông minh thường là những người rất giỏi trong việc giải đố hoặc giải quyết các vấn đề khi tất cả các dữ liệu đã có. Nhưng họ không phải là những người xuất sắc trong những tình huống đòi hỏi họ phải đi tìm thêm dữ liệu và đánh giá những dữ liệu đó. Và điều cuối cùng là những người rất thông minh lại thường là những người bảo vệ cái tôi của riêng mình. Họ thích được nhìn nhận rằng họ luôn là những người phải. Điều này có nghĩa là họ sẵn sàng dùng nhiều thời gian vào việc công kích và chỉ trích quan điểm của những người khác, bởi vì đó là cách dễ dàng để chứng minh người khác sai. Điều này cũng có nghĩa là những người rất thông minh không phải là những người sẵn sàng chấp nhận những rủi ro trong lối suy đoán bởi nếu thế họ không thể luôn dám chắc là họ đúng. Và tất nhiên, chẳng có điều gì ngăn cản một người rất thông minh trở thành một người suy nghĩ tài giỏi nhưng điều này không tự nó đến. Chúng ta cần phải học để phát triển kỹ năng suy nghĩ. Sự thông minh và sự hiểu biết. Tại trường học, trong trò chơi giải đố, trong những kỳ kiểm tra hoặc kỳ thi, nói chung là trong hệ thống đánh giá của chúng ta, chúng ta luôn coi trọng sự thông minh. Một chàng trai thông minh có thể kiếm được rất nhiều tiền tại thị trường chứng khoán phố wall, trong khi cuộc sống riêng tư của anh ta lại rối như tơ vò. Sự thông minh được ví như tiêu cự của ống kính máy quay phim, trong khi sự hiểu biết lại được xem như bề rộng của ống kính. Lý do chúng ta không chú ý nhiều đến sự hiểu biết bởi vì chúng ta cho rằng sự hiểu biết có được cùng với tuổi tác và kinh nghiệm và chẳng ai có thể dạy ta được sự hiểu biết. Đây là một cách hiểu sai lầm. Ai cũng có thể học để có được sự hiểu biết. Và nội dung chính của cuốn sách này là chỉ cho bạn để bạn học được điều đó. Sự hiểu biết phụ thuộc chặt chẽ vào sự nhận thức. Bạn sẽ phải học về cách nhận thức, chứ không phải học về sự logic. Liệu tư duy có phải là một việc khó khăn? Chúng ta luôn cố gắng phát triển kỹ năng tư duy của mọi người bằng cách đưa ra những công việc quá khó để họ làm? Tất nhiên, nếu suy nghĩ là một việc dễ dàng, thì đó cũng chẳng có gì để cố gắng, để đạt được, và để học hỏi. Trong hầu hết các lĩnh vực phát triển kỹ năng (tennis, trượt tuyết, âm nhạc, nấu ăn) chúng ta ứng dụng những nhiệm vụ tương đối khó khăn. Nói theo cách khác, chúng ta chỉ có thể làm tốt những lĩnh vực trên chỉ khi chúng ta luyện tập thành thục những kỹ năng để thực hiện chúng. Điều này tạo dựng nên sự tư tin và sự thành thục trong kỹ năng. Chúng ta muốn làm những công việc mà không làm mất đi sự tự tin của chúng ta. Đó chính là lý do tại sao có nhiều người lại từ bỏ việc tư duy. Họ nhận thấy đó là một việc nhàm chán bởi vì nó quá khó khăn. Bạn sẽ chẳng thích thú thể hiện điều gì khi mà bạn không có khả năng để thể hiện chúng. Tôi không tin rằng những vấn đề quá phức tạp, những trò giải đố, những trò chơi mang tính chất toán học là những cách tốt để dạy cách tư duy. Đó cũng chính là lý do tại sao những nhiệm vụ tư duy và những bài tập ứng dụng trong cuốn sách này là những điều không quá khó khăn. Hơn nữa, kinh nghiệm của mọi người cũng chỉ ra rằng không phải bạn cứ làm được những điều vô cùng khó khăn thì khi gặp những việc ít khó khăn hơn bạn cũng sẽ giải quyết trôi chảy. Nhiều người có khả năng tư duy những công việc to tát nhưng khi gặp những việc đơn giản hơn họ lại thể hiện sự tư duy kém cỏi hơn. Thế nào là một người tri thức? Quy luật đầu tiên của những người quá đam mê công việc trí óc là “nếu bạn không có nhiều điều để nói, bạn hãy cố gắng trình bày nó theo cách phức tạp nhất mà bạn có thể”. Một người tư duy phức tạp sợ hãi sự giản đơn cũng như người nông dân sợ khô hạn. Nếu không có gì phức tạp, liệu họ sẽ có gì để làm hoặc để viết về nó? . Tôi đã có bài nói chuyện với những nhà sư phạm, những người ít nhiều cũng làm cho tôi hiểu rằng họ muốn bài nói chuyện của tôi thật ấn tượng đối với họ, nhưng lại quá khó để họ không thể thực hành được. Mọi người cũng thường phức tạp hóa vấn đề ngay cả trong việc mô tả. Nếu bạn muốn, bạn có thể phân chia một chiếc bút chì thành mười phần khác nhau và sau đó bạn bắt đầu quá trình mô tả mối liên hệ của mười phần đó với nhau. Và khi bạn chỉ có một chút kiến thức ít ỏi về biên đạo múa, bạn cũng muốn biên đạo những điệu múa phức tạp. Cũng như khi chơi trò chơi đố ô chữ, bạn chẳng hề bị giới hạn về từ ngữ và bạn tha hồ chọn từ mà bạn thích. Bạn thường bình luận về sự phức tạp của những người khác và ngay cả nhận xét của các nhà phê bình. Và mặc nhiên nó là một quá trình phát triển trong tư duy của bạn. Những nhận xét sẽ nhanh chóng trở thành lựa chọn của bạn hơn là những hành động cụ thể, và như vậy, chúng ta coi điều này như “ học bổng quý giá chúng ta nhận được”. Cũng có những người xem quá trình này không lôi cuốn và không cần thiết. Điều này đặc biệt đúng với những người chú trọng đến kết quả thực tế. Họ đặt ngang hàng sự “tư duy phức tạp” với “sự suy nghĩ” và kết quả là họ từ bỏ việc suy nghĩ. Cách nhìn nhận này thật đáng tiếc. Bạn có thể trở thành một người tư duy mà không cần phải là một người có suy nghĩ quá phức tạp. Trong thực tế, nhiều người trí thức không hẳn đã là những người tư duy tốt. Tác động phản hồi và những suy nghĩ tiên phong. Trong trường học, chúng ta thường đặt giấy, sách, bảng đen trước mặt học sinh. Học sinh sau đó được yêu cầu đưa ra hành động dựa trên những gì các em nhìn thấy. Đây cũng chính là lý do tại sao ở trường học, trẻ em được dạy lối tư duy phản hồi. “đây là một sự việc, em nghĩ gì về sự việc này?”. Bạn không thể dễ dàng yêu cầu các em học sinh hãy dời trường và tổ chức một doanh nghiệp. Bạn cũng không dễ dàng yêu cầu học sinh đưa ra cách giải quyết về những vấn đề xảy ra thực tế hoặc đảm nhận một dự án thực tế. Bởi đơn giản ở trường học không đặt ra mục tiêu là công việc thực tế. Điều này cũng xảy ra đối với lối suy nghĩ phản hồi hành động phù hợp với truyền thống tư duy phức tạp hóa vấn đề của các học giả: “ chúng ta hành động thế nào đối với những sự việc đang tồn tại?”. Nhưng trường họC và Sự giáo dục không phải là một trò chơi. Những tình huống sống thực tế liên quan chặt chẽ đến lối suy nghĩ tiên phong. Điều này đồng nghĩa với yêu cầu mọi người hãy ra ngoài và bắt tay làm việc. Bạn phải tự đi tìm thông tin, không phải tất cả mọi thông tin đã nằm ở đó và chờ bạn. Nếu bạn chỉ ngồi yên trên ghế của bạn thì sẽ chẳng có việc gì xảy ra. Thật là dễ để đến nhà hàng ngồi ăn với những món ăn đã được dọn sẵn trên bàn ăn. Nhưng việc đi chợ mua đồ ăn (hoặc tự trồng và nuôi dưỡng chúng) và sau đó chế biến chúng lại là một việc hoàn toàn khác. Việc không coi trọng lối suy nghĩ tiên phong hơn lối suy nghĩ phản hồi không phải là lỗi của hệ thống giáo dục hiện thời của chúng ta, bởi tư duy tiên phong không giản đơn như tư duy phản hồi. Nhưng sai lầm của họ ở đây chính là đã ủng hộ và coi lối tư duy phản hồi là lối tư duy phù hợp. Từ “sự thực hiện” Tất cả mọi người biết sự biết đọc, biết viết, những con số có ý nghĩa gì. Tôi đã phát minh ra từ “sự thực hiện” vài năm trước đây để chỉ toàn bộ các kỹ năng hành động. Sẽ là một điều hoang tưởng khi chúng ta cho rằng những điều chúng ta được học đã là đủ. Nếu bạn có kiến thức đầy đủ thì việc thực hiện hành động thật đơn giản và dễ dàng. Nếu bạn có được một tấm bản đồ chi tiết, mọi việc sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thế giới thực tại lại khác việc học rất nhiều. Với kinh nghiệm tích lũy sau nhiều năm làm kinh doanh cũng như công việc hành chính nhà nước đã chỉ cho tôi thấy rằng hành động không bao giờ là dễ dàng. Hành động bao giờ cũng đòi hỏi sự suy nghĩ lớn lao. Cảm giác chịu đựng và những suy nghĩ theo bản năng đã không còn là lối suy nghĩ phù hợp. Chúng ta có những người phải bàn chuyện, có những quyết định cần được đưa ra, có những chiến lược cần được thiết kế và giám sát. Và có những kế hoạch cần được đưa ra và thực hiện. Chúng ta còn có cả những mâu thuẫn, thương lượng, đàm phán và tiến bộ. Có những điều cần phải cân nhắc về mặt giá trị, và cần đến cả sự cân bằng các yếu tố để đạt được sự thỏa hiệp. Tất cả những điều này đều đòi hỏi một cấp độ thực hiện cao. Trong một thế giới cạnh tranh, những quốc gia công nghiệp hóa thì “sự thực hiện” luôn là người bạn đồng hành. Đối với mỗi cá nhân, với mỗi thanh niên, những người chưa có được những kỹ năng thực hiện nên đặt đó là một mục tiêu cho việc học tập. Sự thực hiện bao gồm nhiều khía cạnh của suy nghĩ như: cái nhìn của những người khác, ưu thế, mục tiêu, sự phối hợp, kết quả, sự suy đoán, quyết định, xung đột, giải pháp, hành động và nhiều khía cạnh khác trong lối suy nghĩ ứng dụng trong việc phân tích thông tin. Tất cả những điều này là những bộ phận của lối suy nghĩ tiên phong, chứ không phải lối suy nghĩ phản hồi quen thuộc. Lối suy nghĩ phê phán Lối suy nghĩ truyền thống phương tây thường rất coi trọng lối suy nghĩ phê phán. Điều này một phần là do ảnh hưởng của lối suy nghĩ của những người hy lạp cổ, sau này được áp dụng trong thời kỳ phục hưng, một phần xuất phát từ nhu cầu của các giáo sỹ thời trung cổ cần một lối tư duy để phản bác lại dị giáo. Lối suy nghĩ phê phán chỉ phát huy giá trị cao trong hai hệ thống xã hội. Một là trong một xã hội vô cùng ổn định (như thời hy lạp cổ đại và thời trung cổ). Và bất kỳ một ý tưởng mới hoặc một sự xâm phạm nào làm nảy sinh sự thay đổi cần bị phê phán. Chế độ xã hội thứ hai là một xã hội tràn ngập những tư tưởng kiến thiết và hành động và lối tư duy phê phán cần thiết để chọn lựa những giá trị đúng đắn ra khỏi những ý tưởng không xác thực. Nhưng xã hội chúng ta đang sống lại không phải là một trong hai thể chế xã hội trên. Có rất nhiều điều cần thay đổi và còn thiếu rất nhiều những ý tưởng mới và những động lực sáng tạo. Hãy tưởng tượng ra một đội dự án gồm sáu nhà phê bình lỗi lạc ngồi bàn bạc giải pháp cho tình hình ô nhiễm trong khu vực. Chẳng ai trong số họ có thể sử dụng năng lực trí óc được đào tạo cao siêu của họ cho đến tận khi có ai đó đưa ra một gợi ý thực tế. Điều khó khăn ở đây là lối tư duy phê phán chính là lối tư duy phản hồi. Trước hết, phải có cái gì đó thì mới có thể phê phán được. Nhưng liệu ý tưởng đó từ đâu đến? Những đề xuất, những gợi ý là kết quả của lối tư duy xây dựng, sáng tạo và nảy sinh. Nếu chúng ta đào tạo một người để tránh cho họ tất cả các lỗi trong suy nghĩ, liệu đó có phải là một người giỏi tư duy. Hoàn toàn không phải như vậy. Nếu chúng ta huấn luyện một lái xe tránh tất cả các lỗi lầm trong việc lái xe, liệu đó có phải là một người lái xe tuyệt vời? Chắc chắn là không phải như vậy bởi vì người này sẽ cất ngay xe vào gara để tránh được mọi lỗi lầm có thể xảy ra. Việc tránh được những sai lầm của lái xe một cách tốt nhất chính là cách để anh ta lái xe đi đâu đó. Tương tự như vậy, lối suy nghĩ phê phán chỉ có giá trị nếu chúng ta có được một suy nghĩ xây dựng và sáng tạo. Liệu có ích gì nếu bạn có được bộ yên cương nhưng bạn lại không có ngựa để thắng. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng bởi vì ở nhiều trường học hiện nay tin rằng việc dạy cho học sinh lối tư duy phê phán là phù hợp. Họ thực hiện lối giáo dục như vậy bởi nó phù hợp với việc coi trọng lối tư duy phản hồi và cũng bởi đó là lối suy nghĩ truyền thống. Lối tư duy phê phán là lối tư duy quan trọng và có giá trị nhất định trong hệ thống tư duy. Nhưng đó chỉ là một bộ phận của hệ thống tư duy. Và để trở thành một người giỏi suy nghĩ, chúng ta phải có lối tư duy toàn diện. Lối tư duy phê phán tạo ra rất nhiều rào cản nguy hiểm trong suy nghĩ. Ngay cả những người được coi là thông minh nhất cũng có thể bị mắc kẹt trong lối suy nghĩ phê phán và không thế phát triển được các kỹ năng tư duy xây dựng và sáng tạo. Tại trường học, học sinh không được cho thời gian cũng như yêu cầu sự cố gắng để học các khía cạnh của suy nghĩ xây dựng và sáng tạo bởi các nhà giáo dục cho rằng họ đã dạy học sinh sự suy nghĩ rồi. Mối nguy hiểm khác nữa của lối suy nghĩ phê phán là làm nảy sinh tính kiêu ngạo, bởi vì lối suy nghĩ phê phán luôn cho rằng mình đúng, ngay cả khi họ thiếu thông tin hoặc nhận thức sai lầm, làm nảy sinh sự kiêu ngạo. Tôi sẽ bàn cụ thể vấn đề này ở phần sau). Những kỹ năng của lối suy nghĩ phê phán không thích hợp với những kỹ năng của lối suy nghĩ sáng tạo và xây dựng bởi vì suy nghĩ xây dựng và sáng tạo đòi hỏi sự suy nghĩ để làm nảy sinh những ý tưởng mới. Sự phê phán bao giờ cũng đơn giản hơn rất nhiều so với sự sáng tạo. Hệ thống đối đầu Tại nước mỹ, cứ 350 người dân thì có một luật sư, trong khi đó con số này ở nhật bản là 9000 người dân. Sở dĩ có sự khác biệt lớn như vậy là do ở mỹ mọi người vẫn suy nghĩ theo lối suy nghĩ truyền thống phương tây, đó chính là hệ thống đối đầu. Lối tư duy này nảy sinh trực tiếp từ thói quen suy nghĩ phê phán và tìm ra sự thật thông qua đối thoại đối đầu. Theo lối tư duy này thì tranh luận và cãi vã được xem như một cách chính xác để khám phá sự việc bởi vì cả hai bên đều có động cơ rõ rệt. Nhưng bởi vì nảy sinh từ những động cơ cụ thể, nên lối suy nghĩ này lại bỏ qua sự khám phá. Liệu, một bên có sẵn sàng đưa ra những ý kiến và quan điểm mà có lợi cho phía bên kia? Hệ thống đối đầu chính là lối suy nghĩ theo kiểu tôi đúng thì anh sai. Hệ thống đối đầu thường chính là nền tảng của thể chế chính trị, luật pháp, khoa học (trong một số phạm vi) và trong cả cuộc sống hàng ngày. Nhưng nó là một hệ thống rất hạn chế và là một hệ thống có nhiều thiếu sót (các bạn sẽ hiểu điều này kỹ hơn khi nghiên cứu cuốn sách tôi đúng thì anh sai của tôi). Sự đối ngược, sự khiêu khích và sự xung đột thường chỉ gia tăng khi sử dụng hệ thống đối đầu. Xung đột thường đòi hỏi một kết luận được thiết lập hơn là một thử nghiệm về sức mạnh của sự đối đầu. Sự đòi hỏi và sự phản đối “tại sao tôi lại phải thức dậy vào buổi sáng?” “tại sao tôi lại phải mang ca ra vat" “tại sao tôi lại phải đi đến trường học?” Đối với nhiều người, ý tưởng về sự suy nghĩ được coi như sự đòi hỏi, sự phản đối và sự tranh luận. Đây chính là lý do tại sao mà nhiều chính phủ, cơ quan giáo dục, các nhà chức trách và cả các bậc phụ huynh thường phản đối ý tưởng dạy lối suy nghĩ. Họ xem việc suy nghĩ chính là nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ, sự phản đối và sự tranh luận không có chiều chấm dứt. Thực chất thì những khả năng trên chỉ xảy ra khi lối tư duy phản đối theo mẫu cũ chiếm ưu thế trong xã hội. Nhưng chương trình dạy tư duy cort hiện nay được nhiều nền văn hóa và nhiều hệ tư tưởng áp dụng (từ những người thiên chúa giáo, những người theo đạo tin lành, những người theo chủ nghĩa mac, những người hồi giáo, những người trung hoa). Bởi vì chương trình cort trình bày lối suy nghĩ xây dựng, lối suy nghĩ khác biệt nhiều so với lối suy nghĩ yêu cầu và phản đối. Trên thực tế, một số chính phủ đã xem việc dạy lối tư duy xây dựng như là một cách bảo vệ tốt nhất để chống lại sự tràn lan của lối tư duy phản đối mà những người trẻ tuổi không được học cách suy nghĩ thường đem áp dụng. Lối tư duy đòi hỏi có mối liên hệ khá chặt chẽ đối với lối suy nghĩ phê phán và lối suy nghĩ đối đầu. Lối suy nghĩ này xuất phát từ quan niệm cho rằng sự phản đối hoặc sự đòi hỏi là cần thiết và phía bên kia ( hoặc các nhà chức trách) sẽ bằng cách này hay cách khác làm cho mọi việc trở nên đúng đắn. Đây là lối suy nghĩ thường gặp ở con trẻ khi đòi hỏi bố mẹ chúng làm những điều mà chúng cho là đúng. Lối tư duy phản đối chỉ mang lại lợi ích tốt nhất trong một số khía cạnh cuộc sống, đó là những vấn đề liên quan đến sinh thái học; sự tạm ngừng việc săn bắt cá voi, quyền phụ nữ, quyền cho những người thiểu số, an toàn giao thông…sự phản đối có vai trò xóa bỏ sự bất công và làm tăng nhận thức của mọi người về vấn đề đang được quan tâm. Khi những lỗi lầm đã được xóa bỏ, sự phản đối cần được dừng lại ở đó. Lúc này, sự việc cần được xem xét bằng lối tư duy sáng tạo và xây dựng, lối tư duy phản đối không còn phù hợp nữa. Lối tư duy đòi hỏi cũng có những mặt tích cực nhất định. Nếu không có sự đòi hỏi, chúng ta sẽ không thoát ra khỏi được những ý tưởng cũ để phát triển những ý tưởng mới tốt hơn. Xét về mặt này, đòi hỏi chính là một phần của tư duy sáng tạo. Mặt tiêu cực của lối tư duy đòi hỏi là chúng ta đã sử dụng lối tư duy này để đối lập với những ý tưởng hiện có và đòi hỏi phía bên kia phải đưa ra những quan điểm bảo vệ ý tưởng của họ hoặc cải tiến chúng. Những điều mà chúng ta thu được từ mặt tích cực của lối tư duy đòi hỏi chính là việc chúng ta biết được giá trị của những ý tưởng đang tồn tại, sau đó chúng ta sẽ tạo ra một ý tưởng mới và đặt nó song song với ý tưởng đó. Bằng cách này, chúng ta nhận ra được những giá trị và ích lợi của ý tưởng mới. Những cuộc cách mạng truyền thống luôn mang ý nghĩa tiêu cực: xác định kẻ thù và chiến đấu để đánh bại hoàn toàn kẻ thù. Nay đã đến lúc chúng ta thiết kế theo hướng phát triển những cuộc cách mạng mang ý nghĩa tích cực, ở đó, sẽ chẳng có ai là kẻ thù mà chỉ có sự kiến thiết làm cho mọi thứ tốt đẹp hơn. Nhu cầu khẳng định mình là đúng Nếu bạn đang phải giải quyết một vấn đề tính toán, mọi việc kết thúc khi bạn có được đáp số đúng, bạn sẽ ngừng suy nghĩ ở đó. Bạn không thể nào làm đúng hơn được nữa. Nhưng cuộc sống thực tế lại không giống như vậy. Khi có một câu trả lời dường như là “đúng” nhưng bạn vẫn phải tiếp tục suy nghĩ. Bạn phải tiếp tục nghĩ bởi vì thường có những câu trả lời khác tốt hơn cái bạn đang có (xét về mặt giá trị, giảm độ ô nhiễm, nhân quyền, lợi thế cạnh tranh…). Cái tôi của chúng ta liên quan chặt chẽ đến nhu cầu khẳng định mình là đúng. Đối với nền văn hóa phương tây, họ thể hiện nhu cầu đó thông qua hệ thống tranh luận và hệ thống đối đầu. Chúng ta thường chẳng mấy khi thẳng thắn nhận mình là kẻ thất bại bởi vì vấn đề về cái tôi của mỗi cá nhân. Và kết quả là suy nghĩ của chúng ta đầy khiêu khích và mang tính tự vệ hơn là suy nghĩ xây dựng. Xét về mặt lý thuyết thì chúng ta nên cảm thấy vui vẻ khi thất bại trong một cuộc tranh luận bởi vì đó là cách để bạn kết thúc với ý tưởng bạn có ban đầu. Trong một cuộc họp, ai cũng muốn ý tưởng của mình chiếm ưu thế, cho dù đó không phải là ý tưởng tối ưu chỉ vì muốn khẳng định cái tôi của bản thân. Và bởi vì vấn đề khẳng định cái tôi là một đòi hỏi nghiêm túc nên một trong những khía cạnh cần học khi bạn học cách suy nghĩ chính là học các kỹ năng phát triển để tách biệt suy nghĩ khỏi cái tôi cá nhân. Tôi sẽ trình bày những kỹ năng đó trong những phần tiếp theo của cuốn sách này. Sự phân tích và sự thiết kế Phân tích từ trước đến nay vẫn được xem là một thói quen trong nếp suy nghĩ của chúng ta. Khi chúng ta học cấp ba hay trung cấp, tất cả những điều chúng ta được học đều chú trọng đến kỹ năng phân tích. Không có điều gì phải nghi ngờ khi coi phân tích là một phần quan trọng của tư duy. Thông qua phân tích, chúng ta phân chia tình huống phức tạp thành những tình huống cụ thể mà chúng ta có thể giải quyết từng phần. Cũng thông qua phân tích, chúng ta tìm ra nguyên nhân của một vấn đề và tìm cách tháo gỡ nguyên nhân đó. Với lối tư duy phê phán thì phân tích không chỉ nhằm tìm ra giá trị mà còn chỉ ra tính đầy đủ của vấn đề. Nếu bạn vô tình ngồi trên một vật nhọn, một sự phân tích chớp nhoáng sẽ cho phép bạn tìm ra nguyên nhân gây ra sự không thoải mái của bạn và giúp bạn giải quyết vấn đề. Có rất nhiều vấn đề được giải quyết bằng cách tìm ra nguyên nhân và tháo gỡ những nguyên nhân đó. Nhưng có rất nhiều vấn đề mà chúng ta không thể tìm ra nguyên nhân, hoặc có quá nhiều nguyên nhân liên quan đến nhau, hoặc cũng có khi chúng ta tìm ra nguyên nhân (ví dụ do tính tham lam của con người) nhưng chúng ta không đủ khả năng để giải quyết. Đó chính là lý do tại sao chúng ta lại gặp rất nhiều khó khăn khi phải giải quyết những vấn đề như lạm dụng ma túy, nợ nần của những nước thuộc thế giới thứ ba, tắc nghẽn giao thông…để giải quyết những vấn đề như vậy, chỉ có phân tích không là chưa đủ. Nhưng tất cả những người đảm nhận trọng trách giải quyết vấn đề trong chính phủ chỉ chú trọng đào tạo lối tư duy phân tích. Có rất nhiều vấn đề đòi hỏi sự thiết kế hơn là sự phân tích. Thông qua sự thiết kế, chúng ta xây dựng và tạo ra các giải pháp. Lối suy nghĩ thiết kế cho phép chúng ta sắp đặt mọi thứ cùng nhau để đạt được kết quả mà chúng ta mong muốn. Đó không chỉ là vấn đề tháo gỡ nguyên nhân của vấn đề mà chính là một giải pháp mang tính xây dựng. Nhưng trong hệ thống giáo dục hiện nay của chúng ta, chúng ta không chú trọng nhiều đến việc giáo dục lối tư duy thiết kế và lối tư duy xây dựng và sáng tạo. Thiết kế vẫn được mọi người quan niệm rằng đó là lĩnh vực của các nhà kiến trúc, họa sỹ đồ họa hoặc các nhà thiết kế thời trang. Thực chất thiết kế là một phần không thể thiếu của hệ thống tư duy. Ít nhất thì thiết kế cũng có vai trò quan trọng như phân tích. Thiết kế bao gồm tất cả những khía cạnh tư duy liên quan đến việc sắp đặt mọi thứ cùng nhau để đạt được một kết quả. Bởi vì cách tư duy truyền thống phương tây liên quan đến lối suy nghĩ phản hồi, đến sự phân tích, đến lối suy nghĩ phê phán, đến sự tranh luận, đến sự thắng thua nên hầu như một người đã bỏ quan tất cả những khía cạnh cơ bản của lối tư duy thiết kế. Lối suy nghĩ sáng tạo Trong bất cứ một hệ thống tự tổ chức nào, sáng tạo là một sự cần thiết bắt buộc. Tất cả những bằng chứng chúng ta có chỉ cho chúng ta thấy rằng trí óc của chúng ta chính là một hệ thống thần kinh tự tổ chức. Vậy tại sao chúng ta không chú trọng đến lối suy nghĩ sáng tạo khi chính lối suy nghĩ này là một phần mấu chốt của hệ thống tư duy (cần thiết cho sự cải tiến, sự thiết kế, giải quyết vấn đề, sự thay đổi, tìm kỉếm những ý tưởng mới…). Có hai lý do chúng ta đã bỏ qua lối suy nghĩ sáng tạo. Lý do đầu tiên là việc chúng ta quan niệm rằng chúng ta chẳng thể làm gì để có được lối tư duy sáng tạo. Chúng ta coi tư duy sáng tạo là một món quà thần bí mà chỉ có một số người có được. Và chúng ta chẳng thể làm gì ngoại trừ việc nuôi dưỡng món quà sáng tạo mà một số trong chúng ta được may mắn ban tặng. Lý do thứ hai để chúng ta bỏ qua lối suy nghĩ sáng tạo lại là một lý do rất đáng lưu tâm. Chúng ta cho rằng tất cả những ý tưởng sáng tạo có giá trị phải là kết quả của một sự lập luận logic (sau khi có những ý tưởng được đưa ra). Nếu một ý tưởng mới không xuất phát từ tư duy logic, chúng ta sẽ không bao giờ coi đó là một ý tưởng có giá trị. Vì thế chúng ta chỉ có thể nhận ra những ý tưởng sáng tạo dựa trên tư duy logic đi kèm. Những ý tưởng khác được chúng ta xem là những ý tưởng không thực tế. Có thể chúng ta sẽ xem xét một trong số những ý tưởng không thực tế đó sau này, hoặc chúng ta bỏ qua chúng. Sau đó chúng ta lại giả định rằng nếu một ý tưởng sáng tạo được khởi nguồn từ những tư duy logic, thì chúng ta sẽ luôn có được những ý tưởng như vậy khi chúng ta thực hành những bài học về logic, và do đó, chúng ta không cần thiết phải sáng tạo, mà chỉ cần tư duy logic tốt hơn. Đây là một giả định hoàn toàn sai lầm. Tuy nhiên, chỉ vài năm trở lại đây chúng ta (thật ra là chỉ một số ít nhiều làm việc liên quan đến lĩnh vực này) đã nhận ra rằng trong một hệ thống thông tin tự tổ chức một ý tưởng có thể sau này là hệ quả của lập luận logic, nhưng có thể ban đầu mọi người không thể thấy được điều đó. Nhận thức này có được nhờ vào những phần bất đối xứng tự nhiên. Bởi vì những hệ thống tư duy truyền thống của chúng ta chỉ xem xét những hệ thống thông tin bên ngoài (đưa ra những dấu hiệu dựa trên các quy luật logic) cho nên chúng ta không thể nhận biết được điều này. Ngay cả những người được xem là ủng hộ chủ trương sáng tạo cũng quan niệm lầm lẫn về vấn đề này. Họ cho rằng những người sáng tạo vừa là những người sáng tạo tự nhiên vừa là do gượng gạo. Sự gượng gạo đó bắt nguồn từ nhu cầu chỉ đưa ra những câu trả lời đúng ở trường học. Sự gượng gạo này nảy sinh từ việc sợ mắc lỗi hoặc bị xem là ngớ ngẩn trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống riêng tư. Vì vậy, nếu chúng ta có thể khiến mọi người xóa bỏ những sự gượng gạo trên, chúng ta có thể giải phóng được sự sáng tạo tự nhiên. Đây là một phương pháp vận dung trí tuệ cơ bản và được xem là một trong những quá trình giúp giải phóng mọi người khỏi sự gượng gạo trong tư duy. Thật không may là sự sáng tạo không phải là phản xạ tự nhiên của trí óc. Mục đích của tư duy chính là cho phép kinh nghiệm tự tổ chức những khuôn mẫu và sau đó ứng dụng chúng trong những khuôn mẫu hiện thời. Vì vậy nếu chúng ta giúp mọi người tự do suy nghĩ theo cách riêng của họ cũng chỉ khiến họ có thêm chút ít sự sáng tạo bởi do họ không bị ép buộc mà thôi. Còn nếu chúng ta muốn chúng ta là một người sáng tạo hơn nữa, chúng ta phải phát triển một số kỹ thuật suy nghĩ đặc biệt. Những kỹ thuật này tạo nên một phần của lối tư duy được gọi là tư duy khác lạ, tôi sẽ nói ở phần sau của cuốn sách này. Những kỹ thuật này không phải là tự nhiên mà có và bao gồm các phương pháp kích động được xem như hầu như không có logic. Trên thực tế thì những phương pháp như vậy lại là những hệ thống khuôn mẫu logic hoàn hảo. Sáng tạo không phải là một món quà thần bí. Có rất nhiều kỹ thuật để có lối suy nghĩ sáng tạo mà tôi sẽ miêu tả chúng trong cuốn sách này. Tôi sẽ nói cho các bạn biết sự cẩn trọng trong việc sử dụng những kỹ thuật của lối tư duy khác lạ đã góp phần cứu sống thế vận hội olympic như thế nào khi nó có nguy cơ bị sụp đổ vào cuối những năm 1984. Logic và nhận thức Tất cả chúng ta đều biết rằng logic là nền tảng để có được một suy nghĩ tốt. Nhưng nó là gì? Những logic bất hợp lý dẫn đến những suy nghĩ bất hợp lý. Điều này là rõ ràng. Nhưng liệu những logic phù hợp có mang lại một suy nghĩ phù hợp? Thật không may là không xảy ra điều này. Ngay cả những nhà logic học sơ cấp đều biết rằng logic không thể tốt hơn những giả thuyết hoặc nhận thức. Tất cả các nhà logic học đều học điều này, nhưng sau đó họ cũng mau chóng quên đi nó. Nếu có một sai sót đối với máy tính của bạn, thì cho dù bạn có nhập dữ liệu đầu vào là gì thì kết quả cũng chỉ là vô giá trị. Khi lỗi đó được sửa chữa, máy tính của bạn lại hoạt động một cách hoàn hảo. Nếu bạn nhập vào dữ liệu chính xác, bạn sẽ có một câu trả lời chính xác. Nếu bạn nhập vào những dữ liệu sai, câu trả lời của bạn sẽ sai (mặc dù bạn không biết điều này). Điều tương tự xảy ra với logic học. Giống như máy tính, logic là cơ chế phục vụ để phục vụ các dữ liệu và nhận thức và chúng ta sử dụng. Chúng ta có thể nhanh chóng chỉ ra những logic bất hợp lý nhưng phải mất rất lâu để chấp nhận một kết luận của một logic phù hợp, bởi vì sự nhận thức của chúng ta có thể không chính xác. Tôi muốn nói rằng có đến 85% suy nghĩ thường ngày là những vấn đề của sự nhận thức. Hầu hết những lỗi lầm trong suy nghĩ là những lỗi về mặt nhận thức (tầm nhìn hạn chế…) và không phải là những lỗi về logic. Sự nhận thức chính là nền tảng của sự hiểu biết. Logic chỉ có vai trò quan trọng trong những vấn đề tư duy liên quan nhiều đến toán học. Và bởi vì sự nhận thức là một phần vô cùng quan trọng của tư duy, cho nên thật là ngạc nhiên khi cho đến tận nay chúng ta vẫn khăng khăng cho rằng logic mới là nền tảng của tư duy. Điều này nảy sinh từ thói quen suy nghĩ phản hồi của chúng ta. Chúng ta đặt những vật đã được xác định và những thông tin rõ ràng trước mắt học sinh và yêu cầu chúng phản hồi lại. Rõ ràng, logic là quan trọng chỉ khi sự nhận thức đã được hình thành. Trong những tình huống của cuộc sống thực tế, chúng ta phải tự hình thành nên sự nhận thức của chúng ta. Cả logic và nhận thức đều quan trọng đối với hệ thống tư duy. Nhưng nếu buộc tôi phải chọn lựa giữa logic và nhận thức tôi sẽ chọn nhận thức. Bởi vì phần lớn những suy nghĩ thông thường đều phụ thuộc vào nhận thức. Và bởi vì nếu bạn thật sự nhận thức hoàn hảo bạn sẽ làm được rất nhiều điều (tôi sẽ giải thích điều này cụ thể sau), trong khi đó, nếu bạn có những kỹ năng lập luận tốt và có một sự hiểu biết hạn chế thì đó có thể lại là một điều nguy hiểm. Trong thực tế, logic và nhận thức có mối liên hệ khăng khít với nhau. Trong cuốn sách này, tôi chú trọng đến việc trình bày về sự nhận thức bởi vì đây chính là nền tảng của sự hiểu biết và cũng bởi vì đây chính là phần bị mọi người thường bỏ qua trong hệ thống tư duy. Cảm xúc, cảm giác và khả năng trực giác Đối ngược với những gì mọi người thường quan niệm, cảm xúc, cảm giác và khả năng trực giác giữ một vai trò quan trọng trong suy nghĩ. Mục đích của suy nghĩ là để tổ chức thế giới (tất nhiên trong suy nghĩ của chúng ta) để chúng ta có thể ứng dụng cảm xúc một cách hiệu quả. Và chính cảm xúc là thứ quyết định những sự lựa chọn và những quyết định. Câu hỏi mấu chốt đặt ra ở đây là khi nào chúng ta sử dụng cảm xúc và tình cảm? Có những người luôn cảm thấy rằng cảm giác chính xác duy nhất dẫn tới hành động chính là cảm giác can đảm. Những người như vậy nghi ngờ vào logic và những trò chơi ô chữ bởi vì họ cảm nhận rằng logic có thể được sử dụng để chứng minh bất cứ điều gì (điều này có thể đúng nếu bạn lựa chọn cách nhận thức và giá trị một cách cẩn thận). Đối với những người như vậy, họ cho rằng cảm giác thực sự trở thành một ân huệ của chúa trời. Quan niệm này hết sức nguy hiểm bởi vì cảm giác thực sự có thể là những cảm giác xấu xa và không đầy đủ. Có rất nhiều người đã hành động một cách vô nhân đạo chỉ vì họ hành động theo cảm giác thực sự nhất thời. Nhưng chúng ta có thể phát triển trước về mặt nhận thức, bao gồm cả những cái nhìn kết hợp khác nhau về sự việc. Chúng ta có thể ứng dụng những giá trị và cả những cảm giác để có được một kết quả tốt hơn. Logic và tranh luận không thể thay đổi cảm giác nhưng sự nhận thức có thể làm được điều này. Bạn đột nhiên gặp một người lạ trong ngày nghỉ và bạn có cảm giác rằng anh ta là người luôn sẵn lòng giúp đỡ. Sau đó có một người khác nói với bạn rằng anh ta là một kẻ bịp bợm. Nếu bạn nhìn nhận anh ta theo nhận thức mới này có thể dẫn đến sự thay đổi cảm giác của bạn đối với anh ta. Thay vì dạy cách loại trừ cảm xúc ra khỏi suy nghĩ như hiện nay chúng ta thường làm, chúng ta phải tìm ra những cách cho phép cảm xúc và tình cảm giữ một vai trò quan trọng trong suy nghĩ của mình. Trong cuốn sách này tôi sẽ mô tả các phương pháp như vậy, ví dụ việc sử dụng “ chiếc mũ đỏ” trong kỹ thuật sáu chiếc mũ tư duy. Khả năng trực giác cũng giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống tư duy. Nếu bạn ngồi đó và tham gia một cuộc họp nhưng bạn vẫn chưa biết bắt đầu từ đâu thì trực giác sẽ giúp bạn làm điều này. Nhiều khi trực giác cũng là người dẫn đường sai lầm, ví dụ trong trường hợp bạn đang xem xét các vấn đề mang tính xác suất. Nhưng cũng giống như cảm xúc và tình cảm, trực giác có vai trò quan trọng trong tư duy. Có hai ảnh hưởng chính đối với những người trẻ tuổi. Ảnh hưởng đầu tiên là áp lực ngang hàng của những người bạn của họ, của những người cùng nhóm, cùng độ tuổi và cùng thu nhập. Điều này tạo nên sự nhận thức và những giá trị. Một người trẻ tuổi chỉ có thể tự suy nghĩ khi người này tự xếp mình theo một nhóm nào đó. Nguyên nhân ảnh hưởng thứ hai đó chính là ảnh hưởng từ âm nhạc của nền văn hóa trẻ, với chủ đạo là những cảm xúc thời thanh niên. Giống như một cánh đồng lúa mì xào xạc theo tiếng gió, tâm trí của bạn cũng bị hướng theo những giai điệu “anh ấy yêu tôi, anh ấy không yêu tôi…” với nhiều sắc thái khác nhau. Nhạc POp luôn ảnh hưởng trung gian tới suy nghĩ giá trị cái nhìn và thậm chí là cả cách tư duy. Nhưng nói chung, những tình cảm ủy mị, sầu khổ không giúp đỡ gì nhiều những người trẻ tuổi trong cách suy nghĩ của họ. Tóm lược Trong phần này tôi đã trình bày những điều cần phải nhận thức lại cho đúng trong lối tư duy của mỗi chúng ta. Chúng ta cần thông tin nhưng chúng ta cũng cần sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ không chỉ là vấn đề của sự thông minh hoặc những vấn đề khó khăn hơn. Sự hiểu biết còn quan trọng hơn nhiều so với sự thông minh. Lối tư duy truyền thống đặt sự chú trọng đặc biệt tới lối tư duy phê phán, tranh luận, phân tích và lập luận logic. Tất cả những khía cạnh này đều rất quan trọng và tôi hy vọng rằng những điều tôi viết không làm mọi người nghĩ khác về điều này. Nhưng tất cả những khía cạnh trên cũng chỉ là một bộ phận của tư duy và sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta chỉ dựa trên những khía cạnh trên để suy nghĩ và cho rằng thế là đủ. Ngoài lối suy nghĩ phê phán, chúng ta cần suy nghĩ xây dựng và sáng tạo. Ngoài suy nghĩ tranh luận, chúng ta cần khám phá vấn đề. Bên cạnh sự phân tích, chúng ta cần có những kỹ năng để kiến tạo ý tưởng. Và bên cạnh tư duy logic, chúng ta còn cần đến sự nhận thức. Lối tư duy truyền thống của chúng ta chính là lối tư duy phản hồi: bạn phản ứng lại trước những gì mà bạn thấy. Nhưng còn toàn bộ một mặt khác của hệ thống tư duy. Đó là phần tư duy trước hành động bao gồm việc tìm ra và thực hiện để sự việc có thể xảy ra. Điều này đòi hỏi “sự thực hiện” hoặc các kỹ năng thực hiện hành động. Nó yêu cầu chúng ta phải suy nghĩ theo hướng xây dựng, sáng tạo và nảy sinh. Có rất nhiều phần của lối suy nghĩ mang màu sắc tiêu cực: sự đòi hỏi, sự công kích, chỉ trích, tranh luận, chứng minh là sai…liệu đó có phải là cách để xử lý vấn đề? Và liệu chúng ta có thu được hiệu quả tương tự nếu chúng ta suy nghĩ một cách xây dựng? Tôi tin là chúng ta có thể làm được điều này. Suy nghĩ sáng tạo là một phần suy nghĩ rất quan trọng. Chúng ta có thể bắt đầu xem chúng ta có thể sử dụng lối suy nghĩ sáng tạo một cách có cân nhắc như thế nào thay vì việc chúng ta ngồi đợi có người truyền cảm hứng cho chúng ta. Cảm xúc, tình cảm cũng giữ một phần quan trọng trong hệ thống tư duy. Chúng ta không nên tìm cách loại trừ cảm xúc ra khỏi hệ thống tư duy mà nên tìm cách xem trong tình huống nào chúng ta sử dụng chúng để xem xét vấn đề. Cuối cùng, sự thông minh là một tiềm năng và tiềm năng đó có thể được sử dụng một cách toàn diện để phát triển các kỹ năng tư duy. Không có những kỹ năng tư duy, tiềm năng này không được sử dụng triệt để. SỬ DỤNG CUỐN SÁCH NÀY NHƯ THẾ NÀO Độ tuổi Mặc dầu cuốn sách này nhằm mục đích giáo dục cho bọn trẻ, nó cũng phù hợp để những người ở độ tuổi lớn hơn sử dụng. Những phương pháp và những kỹ thuật cũng phù hợp với những người lớn tuổi, cũng như với những đứa trẻ. Trên thực tế, rất nhiều phương pháp tư duy trình bày trong cuốn sách này đã được dạy cho các nhà kinh doanh cấp cao và họ đã thường xuyên sử dụng chúng. Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Các phương pháp toán học cơ bản luôn được giảng dạy một cách giống nhau đối với học viên ở mọi lứa tuổi. Các phương pháp tư duy cơ bản cũng vậy. Với những đứa trẻ lớn hơn, đòi hỏi cũng cao hơn. Những kỹ thuật cũng nên được sử dụng chính xác hơn. Câu trả lời cũng nên phức tạp hơn. Và nếu có thể chúng ta nên sử dụng kết hợp các kỹ thuật. Những đề mục thực hành cũng nên được sử dụng phức tạp hơn. Tuy nhiên, cách tiếp cận cơ bản là giống nhau. Độ tuổi giới hạn dưới của hầu hết các phương pháp trình bày trong cuốn sách này là 9 tuổi. Độ tuổi giới hạn này có thể giới hạn ở 6 tuổi với những bậc cha mẹ có tính kiên nhẫn và với những phương pháp đơn giản. Tùy thuộc vào tầm nhận thức của đứa trẻ mà chúng ta sẽ xác định độ tuổi giới hạn đối tượng tham gia các phương pháp này. Ở phần tiếp theo đây, tôi sẽ liệt kê một danh sách bao gồm những mục trong cuốn sách này phù hợp với những em ít tuổi. Ví dụ, phương pháp hình vẽ có thể đem dạy cho những em bốn tuổi. Những điều được dạy từ cuốn sách này Có ba cách có thể dạy các phương pháp tư duy dựa trên cuốn sách này. 1. Cùng với những người lớn hơn, những đứa trẻ hiểu biết hơn và những người yêu thích việc suy nghĩ, đứa trẻ có thể đọc toàn bộ cuốn sách cùng với cha mẹ chúng. Những điểm cơ bản và các phương pháp sau đó nên được đem ra bàn bạc. Những bài tập thực hành cũng nên được đem thực hành cùng nhau. Theo cách học như vậy, sẽ thuận lợi hơn nếu chúng ta có thêm một bản sao cuốn sách để đứa trẻ và cha mẹ chúng có sách để bàn bạc. 2. Với những đứa trẻ và những người không thích việc đọc từ đầu đến cuối cuốn sách, những bậc cha mẹ nên đọc cuốn sách và liệt kê tất cả những thông tin quan trọng, sau đó dạy cho đứa trẻ. Một vài những dữ liệu có thể được lược bớt hoặc làm đơn giản hơn. Những phần mô tả các quá trình thực tế, cha mẹ nên đọc trực tiếp cho bọn trẻ nghe. 3. Với những đứa trẻ và những người ít có khả năng nghe bố mẹ đọc toàn bộ cuốn sách mà muốn chọn lựa một số phần của cuốn sách. Cuốn sách này được xem như một cách tóm lược đối với những đứa trẻ thuộc lứa tuổi này và sau đó để chúng nhìn lại đầy đủ cuốn sách khi chúng trở nên lớn tuổi hơn. Ba cách tiếp cận trên được trình bày theo sơ đồ ở trang sau. Động lực Động lực chính là mấu chốt. Nếu không có động lực, sẽ rất khó để dạy bất cứ một cách suy nghĩ nào. Thật không may, nếu ta nói với một đứa trẻ rằng “sự tư duy” sẽ giúp chúng rất nhiều trong việc học ở trưởng hoặc trong những tình huống ngoài giờ học, thì hầu hết với các đứa trẻ, chúng ta chẳng khiến cho chúng có động lực nào để học cách suy nghĩ. Việc suy nghĩ nên được dạy như một trò chơi, sống động, hài hước, được yêu thích. Kinh nghiệm của tôi đã chỉ ra rằng trẻ em yêu thích suy nghĩ. Chúng yêu thích việc sử dụng trí óc của chúng để có những ý tưởng. Nhưng chúng cũng yêu thích sự thể hiện. Đặt một đứa trẻ trước một vấn đề không thể giải quyết chính là cách đi ngược với động lực. Nếu một bài tập hoặc bài thực hành dường như khó và nhàm chán, hãy bỏ qua chúng và xem xét các mục khác. Quá trình suy nghĩ mới là việc quan trọng chứ không phải là từng mục cụ thể. Những trẻ em ở độ tuổi từ 9 đến 11 là lứa tuổi yêu thích việc suy nghĩ nhất. Sau độ tuổi đó, những đứa trẻ có xu hướng trở nên bảo thủ và chỉ muốn câu trả lời của chúng là đúng. Lứa tuổi thanh thiếu niên có xu hướng vừa mang tính tự vệ và thiển cận mà tự mãn về suy nghĩ của chúng, bởi vì cảm giác sợ mình là người sai. Suy nghĩ là một sự thể hiện. Có những lúc bạn thể hiện tốt nhưng cũng có lúc bạn thể hiện không được tốt, trong những tình huống đòi hỏi quá nhiều kỹ năng. Bạn có thể là một người chơi tennis dưới khả năng tốt nhất của bạn, nhưng bạn vẫn chơi tennis. Một cách để duy trì và khơi nguồn động lực chính là nhờ sự lựa chọn các mục để thực hành hoặc những bài tập. Những bài tập này nên chứa đựng sự hài hước và có thể suy đoán. Thật là sai lầm nếu bạn chỉ chú trọng đến những mục khó khăn và quan trọng. Mục đích của cuốn sách này là giúp đỡ để dạy các kỹ năng suy nghĩ, chứ không phải chỉ ra một cách trực tiếp cho các bậc cha mẹ có thể bảo bọn trẻ phải làm gì và không được làm gì. Động lực phụ thuộc vào cảm giác thành tích. Và bởi vì không phải chỉ có một câu trả lời đúng hoặc một câu trả lời duy nhất. Nên thành tích đạt được theo những cách khác nhau. Liệu bạn có bao nhiêu phương án phối hợp? Những ý tưởng của bạn so sánh với những ý tưởng của tôi như thế nào? Liệu chúng ta có thể cộng thêm điều gì vào danh sách đó. Với những ý tưởng mà trước đó bạn chưa từng có, bạn sẽ thấy rất ngạc nhiên khi nó mang lại động lực thúc đẩy lớn lao. Động lực cũng được tạo ra nhờ sự so sánh và sự cạnh tranh. Cuối cùng, đó là động lực của sự trôi chảy. Khi bạn có thể trượt tuyết, bạn yêu thích trượt tuyết. Khi bạn có thể thực hiện một phương pháp suy nghĩ, bạn cũng sẽ yêu thích nó. Thực hiện một nhiệm vụ tư duy với sự tự tin và hiệu quả, tự bản thân nó đã là một sự thúc đẩy lớn lao. Sở thích hoặc thể thao Tôi thấy chẳng có lý do gì để cản trở “tư duy” được trở thành sở thích hoặc môn thể thao. Bọn trẻ có thể gặp nhau để cùng thực hành và cùng yêu thích sử dụng trí óc. Điều này vừa mang lại giá trị xã hội, giá trị phô trương bản thân và sự yêu thích phát triển kỹ năng tốt hơn. Cấu trúc của các phương pháp tư duy cho phép tư duy thoát khỏi những tranh luận và sự bảo thủ thường thấy. Những phương pháp này trở thành nền tảng cho sự phát triển tư duy giống như một sở thích. Sự yêu thích kỹ năng tư duy có thể đem đến sự hình thành một câu lạc bộ tư duy. Những phác họa và cơ cấu tổ chức, cũng như quá trình hoạt động của một câu lạc bộ như vậy bạn có thể tìm thấy ở phần sau. Câu lạc bộ tư duy, hoặc những buổi gặp gỡ bàn về tư duy có thể được giới hạn trong phạm vi gia đình, bạn bè, hoặc nhóm những người hàng xóm. Cách dạy tư duy Bảo đảm tính đơn giản Tránh sự nhầm lẫn. Bạn cần phải nhận thức rõ ràng điều mà bạn đang làm lúc này là gì. Thực hành là một phương pháp nên được làm theo nhiều mục thực hành khác nhau. Cách dạy tư duy không khác nhiều so với cách dạy kỹ năng các môn thể thao hoặc duy trì một lớp học giáo dục thể chất. Một người giáo viên phải biết rõ rằng mình muốn gì và hiểu chắc chắn rằng học sinh có thể hiểu điều đó. Hãy sử dụng thật nhiều ví dụ để minh họa những gì bạn đang tìm kiếm. Một điều quan trọng là việc “dạy hướng vào trọng tâm”. Điều này có nghĩa là cần sử dụng những ví dụ rõ ràng. Khi bạn vô tình nhầm lẫn, ví dụ “đây là cái gì hoặc đó là cái gì” cách tốt nhất để tiếp tục là chuyển sang ví dụ khác hơn là việc tranh luận mang tính triết lý. Bạn phải luôn biết rõ rằng bạn đang cố gắng đạt được điều gì. Có thể bạn không thành công, nhưng ít nhất bạn cũng cố gắng hết sức để làm điều đó. Trong mọi trường hợp, sự đơn giản và mang tính thực tiễn phù hợp hơn việc đi tìm sự hoàn hảo và sự toàn diện. Bạn cũng đừng bao giờ dành quá nhiều thời gian chỉ để thực hành một mục hoặc một bài tập, ngay cả khi việc suy nghĩ về mục đó là rất thú vị. Khi bạn ứng dụng một phương pháp hoặc một công cụ tư duy với nhiều mục khác nhau, bạn sẽ dần hình thành nên được kỹ năng của phương pháp tư duy đó. Luôn nhớ rằng mục đích là dạy các kỹ năng tư duy, chứ không phải chỉ là có một cuộc thảo luận thú vị xem tư duy sẽ diễn ra theo hướng nào. Những nguyên tắc Nguyên tắc là một trong những yếu tố quan trọng của việc giảng dạy tư duy. Nếu không có những nguyên tắc, bạn sẽ dễ sa vào lối suy nghĩ dông dài và dễ bị thay đổi và không hiểu mình sẽ đạt được điều gì. Nguyên tắc đầu tiên chính là thời gian. Thời gian dành cho mỗi bài tập tư duy nên trong một khoảng ngắn. Đây là một việc làm có chủ ý. Khi lần đầu tiên chúng tôi áp dụng phương pháp cort trong trường học, cả giáo viên và học sinh đều phàn nàn rằng họ không thể suy nghĩ về một chủ đề chỉ trong có 3 phút. Sau đó chính bản thân họ khám phá ra rằng họ có thể có được nhiều suy nghĩ đáng kinh ngạc chỉ trong khoảng thời gian đó, và khi họ biết được điều này họ sẵn sàng làm theo nó. Một khoảng thời gian ngắn điều đó có nghĩa rằng thời gian đó chỉ dành để cho mọi người suy nghĩ chứ không phải để mọi người tranh luận và hạ thấp nhau. Nguyên tắc về thời gian không chỉ được áp dụng trong những bài tập tư duy mà còn được áp dụng trong những bài học, những cuộc họp. Đào tạo bất cứ một kỹ năng nào cũng cần phải có những nguyên tắc, và bất kỳ một huấn luyện viên thể thao nào cũng biết được điều này. Nguyên tắc thứ hai chính là sự trọng tâm. Chủ đề mà tôi đang nghĩ bây giờ là gì? Phương pháp mà tôi đang cố gắng áp dụng bây giờ là gì? Sự suy nghĩ có thể trở thành không có hệ thống. Khi một người được hỏi xem xét một vấn đề này có thể lại tư duy sang vấn đề khác. Trong một cuộc họp bàn về chủ đề bảo tồn, có thể chúng ta lại lạc sang một chủ đề hoàn toàn khác. Cũng chính vì lý do này mà cuộc họp trở thành kém hiệu quả. Nhưng suy nghĩ nên tự do, không bị giới hạn và bỏ ngỏ. Điều này hoàn toàn đúng. Nếu chúng ta có một sườn để suy nghĩ càng chặt chẽ, thì chúng ta càng tự do suy nghĩ trong sườn đó. Một người thợ mộc cần những dụng cụ tốt và cần có tay nghề để sử dụng dụng cụ đó. Người thợ mộc được tự do sử dụng dụng cụ đó theo bất cứ mục đích gì. Nhưng vào bất cứ thời điểm nào anh ta cũng biết rằng anh ta đang sử dụng công cụ đó để làm gì. Cấu trúc chiếc vòng cổ Tôi cũng có thể viết cuốn sách này theo một chuỗi logic, tức là phần này nối tiếp phần sau. Tôi cũng có thể trình bày cuốn sách này một cách có trật tự, có tổ chức theo cách nêu ra tất cả các công cụ tư duy ở từng phần, phần tiếp theo nêu ra tất cả những hướng dẫn. Và tất cả các thói quen được chỉ ra ở một phần khác. Nhưng nếu cuốn sách này của tôi được viết và trình bày như vậy, chắc chắn nó sẽ không thể là cuốn sách để giảng dạy tư duy. Cuốn sách này được cấu trúC và Sắp xếp theo một thứ tự đặc biệt, cho phép bạn, những bậc cha mẹ sử dụng chúng để dạy con bạn cách tư duy. Bạn hãy nghĩ đến chuỗi vòng cổ, bên biểu đồ trang bên. Mỗi một hạt vòng là một chỉnh thể độc lập, nhưng tất cả tập hợp lại tạo nên chuỗi vòng cổ. Theo cách tương tự, mỗi một phương pháp trong cuốn sách này là một phương pháp độc lập. Nó có thể được trích lọc và áp dụng riêng lẻ. Cách tiếp cận này khác hẳn so với cách tiếp cận sự việc theo thứ bậc, theo cách đó, bạn không thể chuyển sang phần thứ hai, trừ khi bạn đã nắm vững phần đầu, và phần đầu cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu bạn không có phần thứ hai. Cách tiếp cận chuỗi vòng cổ cũng có khi được tôi gọi là cách tiếp cận song song. Điều này có nghĩa là nếu một giáo viên dạy năm công cụ tư duy và một học sinh không hiểu rõ một trong số những công cụ đó, học sinh này lại vắng mặt khi cô giáo dạy những công cụ tiếp theo, và lại quên mất không nhớ công cụ tư duy thứ ba đã được dạy và không biết cách sử dụng công cụ thứ tư, em này hoàn toàn vẫn có thể sử dụng hữu ích công cụ thứ năm. Điều này cũng giống như việc em này vẫn còn phương tiện dự trữ. Mỗi một công cụ đều có giá trị riêng của nó. Sự nối tiếp Giả sử một quá trình tư duy đơn giản bao gồm 3 bước sau đây: 1- Trọng tâm. 2- Sử dụng một công cụ tư duy. 3- Kết quả. Liệu bạn có chắc chắn rằng đó là một sự nối tiếp có ý nghĩa khi trước tiên bạn chỉ cho bé biết trọng tâm là gì, tiếp đó là đưa ra cho bé công cụ và hẳn nhiên sẽ nhận được một kết quả? Đó hoàn toàn không phải như vậy. Thứ tự từng bước của quá trình tư duy khi đem áp dụng vào thực tế không giống với thứ tự mà chúng ta được dạy. Có rất nhiều lý do phù hợp để dạy tư duy theo kiểu giật lùi, bởi vì bạn luôn luôn có trước mặt bạn những điều mà bạn đã biết, nhưng những điều đó vẫn không vừa đủ để bạn có thể giải quyết vấn đề. Việc chỉ dạy trước kết quả là một việc làm có ý nghĩa vì nó giúp người tư duy có được cảm giác về điều mình đạt được trong khi hình thành các kỹ năng tư duy. Do đó, sau khi cân nhắc kỹ đến nhiều khía cạnh bao gồm cả động lực thúc đẩy, cuốn sách này được trình bày theo sự nối tiếp về mặt thực hành. Cuốn sách này không phải là một luận án triết học về tư duy mà là một cuốn sách thực hành để dạy các kỹ năng tư duy. Sự thực hành thông thường Giả sử rằng bạn chưa bao giờ được xem người ta chơi môn tennis. Bạn đứng bên cạnh một sân chơi tennis và sau 15 phút bạn cảm thấy rằng bạn có thể hiểu môn tennis sẽ được chơi như thế nào. Liệu điều này có giúp bạn trở thành một động viên tennis. Tương tự với việc tư duy. Hầu như tất cả mọi điều trong cuốn sách này đều dễ hiểu. Bạn có thể đọc hết nó và hiểu hết mỗi hoạt động hoặc mỗi phương pháp trong vòng năm phút. Điều này không có nghĩa là bạn đã trở thành một người tư duy tốt hơn. Chỉ có áp dụng những điều học được vào thực tế mới giúp bạn trở thành một người tư duy tốt hơn. Và không chỉ thực hành tư duy, bạn phải thực hành chúng với một công cụ hoặc một phương pháp tư duy cụ thể. Một người thợ mộc có thể giơ lên một cái cưa và miêu tả xem nó hoạt động như thế nào. Nhưng thực hành chính là việc sử dụng cái cưa đó để tạo nên sự khéo léo của người thợ mộc. Đôi khi, sự thực hành không cần phải diễn ra theo cách thông thường, có cân nhắc kỹ lưỡng và theo nguyên tắc. Hãy nhớ rằng cũng giống như trong đào tạo các môn thể thao, bạn phải đặt ra thời gian và bắt đầu luyện tập. Bạn cần đặt ra thời gian để luyện tập tư duy một cách chính thống. Có thể gọi đó là một bài học tư duy, hoặc một buổi học tư duy hoặc một từ nào phù hợp. Thời gian cho một bài học thông thường không nên ít hơn 20 phút và không nên quá 45 phút. Và hãy tuân thủ thời gian này. Đây là thời gian để giảng dạy một khuôn mẫu tư duy cho một đứa trẻ. Nếu có thêm nhiều trẻ em cùng tham gia, thời gian nên được nới rộng, tức là tối thiểu có thể là 30 phút và tối đa là một giờ. Những bài học có thể diễn ra vào những giờ nhất định trong mỗi tuần, hoặc mỗi ngày cụ thể và nên đặt ra trước thời gian cho buổi học tiếp theo. Trừ khi những đứa trẻ có động cơ thúc đẩy cao, tôi cho rằng mỗi tuần chúng ta chỉ nên dành môt buổi để dạy tư duy. Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện, chúng ta có thể tăng lên một tuần 2 buổi. Nếu trong khi cả gia đình đang đi nghỉ, nếu con bạn thích thú, bạn có thể dạy mỗi ngày một bài. Câu hỏi đặt ra ở đây là mỗi buổi học nên học những gì? Theo quy luật chung thì mỗi bài học, chúng ta nên chỉ cho bọn trẻ chỉ một mục mới mà thôi. Theo thực tế, tôi khuyên rằng mỗi mục bạn nên dạy cho con trong hai buổi học. Trong một buổi học, ngoài một mục mới, bạn có thể cùng đứa trẻ thực hành lại những mục đã được học trước đó. Bạn cũng có thể tạo ra một buổi học tư duy như một trò chơi về tư duy. Luôn nhớ rằng mỗi buổi học tư duy phải là mỗi buổi học sống động và vui vẻ. Tránh để những buổi học sa lầy trở thành những bài học buồn bã và nhạt nhẽo. Sự thực hành không theo thông lệ Ngoài những buổi học thực hành thông thường, những công cụ tư duy, những thói quen, những phương pháp và những quan điểm tư duy có thể được thực hành theo những cách không theo thông lệ vào bất cứ lúc nào. Cha mẹ có thể làm cho con trẻ nhớ lại một quan điểm hoặc một thói quen tư duy cụ thể. Cha mẹ cũng có thể yêu cầu đứa trẻ áp dụng một công cụ cụ thể vào một tình huống đã được thảo luận trước đó. Với mỗi phương pháp tư duy cụ thể, cha mẹ nên chỉ ra một số điều như ví dụ điển hình. Vào bất cứ thời điểm nào, cha mẹ cũng có thể dạy con trẻ theo cách học tư duy như một trò chơi. Mỗi trò chỉ nên kéo dài vài phút. Những bài thực hành không theo thông lệ là rất quan trọng bởi vì đó là cách để các kỹ năng tư duy trở thành phù hợp trong những tình huống cuộc sống đời thực, thay vì chỉ là những trò chơi đặc biệt trong những buổi học đặc biệt. Nhưng cũng không nên lạm dụng sự thực hành không theo thông lệ tới mức gây nên sự khó chịu. Các kỹ năng tư duy ít nhất cần được biểu hiện ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là cấp độ sử dụng các phương pháp và công cụ tư duy theo đúng thông lệ, rõ ràng và cân nhắc cẩn trọng. Ví dụ, một người có thể nói: “hãy áp dụng một PMI (một trong những công cụ tư duy) lúc này”. Cấp độ thứ hai là cấp độ ngầm hiểu hoặc cấp độ che giấu, theo cách này một thói quen hoặc một nguyên tắc tư duy được sử dụng mà không có sự thừa nhận thông thường. Ví dụ, nếu ai đó tiến lại chỗ bạn và nói với bạn rằng chỉ có hai cách để làm một việc gì đó, bản thân bạn có thể tự nói “có lẽ anh ta đúng. Có lẽ chỉ có hai cách có thể. Nhưng tôi sẽ dành vài giây để xem xem liệu có phải là không còn cách nào khác nữa không?”. Bạn đừng ngại khi được yêu cầu sử dụng những công cụ và những phương pháp tư duy một cách chính thống và rõ ràng. Những công cụ tư duy có hiệu quả nhất khi chúng được sử dụng một cách rõ ràng. Mới ban đầu, việc áp dụng chúng còn vụng về, nhưng cùng với thời gian, bạn sẽ sử dụng chúng một cách thật tự nhiên. Bạn đừng mắc lỗi lầm (điều mà nhiều giáo viên thường mắc phải) là tin rằng quan điểm và thói quen ẩn sau mỗi công cụ tư duy chính thống có thể được dạy và sử dụng mà không cần thực sự phải đề cập đến công cụ đó. Kinh nghiệm thực tế nhiều năm đã chỉ ra rằng điều này làm giảm hiệu quả tư duy. Trí óc cần những sự vận hành chính thống để điều khiển sự chú ý của chúng ta. Quan điểm là phù hợp nhưng chưa đầy đủ. Các bài tập Trong cuốn sách này, các bài tập được nêu ra theo nhiều dạng và nhiều mục khác nhau. Và bạn nên sử dụng tất cả những bài tập này. Bạn cũng có thể tự mình đặt ra thêm những bài tập phù hợp với các mục khác nhau. Nhưng bạn cần cẩn thận khi làm điều này, bạn đừng tham lam giới thiệu mục chính và khó quá. Việc xây dựng các kỹ năng tư duy nên được thiết kế một cách hài hước. Một khi các kỹ năng được sử dụng phù hợp, chúng có thể được ứng dụng vào nhiều tình huống khác nhau. Thường có bốn kiểu của các mục thực hành: 1- Những mục hài hước: những tình huống luyện tập kỹ năng trong mục này nên tạo sự tưởng tượng hình ảnh, khôi hài, có thể dự đoán được và không quá nghiêm túc. Cho dù chủ đề không phải quá nghiêm túc, thì những nguyên tắc, chức năng và hành động đều hoàn toàn thực tiễn (giống như cách thể hiện ẩn dụ). “điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng ta đều có cánh tay thứ ba ở chính giữa ngực?”, “liệu có phải là ý kiến hay nếu tất cả trẻ em ở độ tuổi trên mười phải dành mười giờ mỗi tuần để làm những công việc được trả lương?”, “nếu loài chó có thể nói được, mọi việc sẽ thay đổi như thế nào?”. 2- Những mục xa xôi; có những mục mang tính thực tế và có thể xét đoán được nhưng nó lại nằm ngoài tầm hiểu biết và nhu cầu của những đứa trẻ đang thực hành những bài tập tư duy. Đó có thể là những mục liên quan đến việc kinh doanh, điều hành chính phủ, hoặc những việc chung chung xảy ra trong cuộc sống của những người trưởng thành. “bạn sẽ cân nhắc những vấn đề gì để chọn địa điểm đặt một cửa hàng bán đồ ăn nhanh?”, “bạn sẽ giải quyết những vấn đề về tắc nghẽn giao thông tại các thành phố như thế nào?”, “chúng ta nên làm gì với những người tổ chức trò bài bạc?, “ có rất nhiều hành vi ăn cắp tại cửa hàng của bạn, bạn sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào?”. 3- Những mục nội bộ: có những mục liên quan trực tiếp tới độ tuổi, những người ngang hàng, môi trường địa phương và sở thích của những người trẻ tuổi, những người đang học các kỹ năng tư duy. Người bạn tốt nhất của bạn dường như đang lảng tránh bạn và bạn không biết lý do tại sao, bạn sẽ làm gì?, “nếu bạn có quyền chọn lựa ba thứ trong kỳ nghỉ, bạn sẽ chọn lựa như thế nào?”, “bạn sẽ tổ chức tiệc dành cho những người bạn của bạn như thế nào?”. 4- Những mục quan trọng: đó là những vấn đề liên quan tới cuộc sống của những người trẻ tuổi đang học cách suy nghĩ. Độ tuổi, sở thích và hoàn cảnh của những người trẻ tuổi sẽ có ảnh hưởng tới sự lựa chọn mục của họ. Những mục mới có thể được giới thiệu nảy sinh từ những vấn đề và khó khăn thực tế của cuộc sống. Những mục này nên được áp dụng một cách cẩn trọng. Điều quan trọng nhất là những mục quan trọng này không nên được sử dụng để các bậc cha mẹ thuyết giáo con cái của mình. Cũng giống như các mục khác, những mục quan trọng này cần phải được xem xét theo một cách suy nghĩ có chủ đích. “những bạn trẻ có nên hút thuốc không?”, “bạn mong muốn được tự do về nhà trễ nhưng cha mẹ bạn muốn bạn về nhà sớm, bạn sẽ làm gì?, “bạn biết một người bạn của bạn đang thử sử dụng chất gây nghiện, làm thế nào bạn có thể thuyết phục bạn ấy từ bỏ nó?”, bạn không thể sắp xếp được thời gian để học bài, bạn sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào?”, “làm thế nào để bạn có thể kết bạn được với những người hàng xóm?”. Cũng nên có những mục kết hợp. Những mục hài hước rất quan trọng trọng việc tạo động lựC và Sự yêu thích. Những mục này cũng quan trọng trong việc xây dựng những kỹ năng tư duy mà trong quá trình tư duy không bị ảnh hưởng của cảm xúc, sự thành kiến và kinh nghiệm. Những mục xa xôi cung cấp cho những đứa trẻ thử trải nghiệm những tình huống cuộc sống thực tế mà người trưởng thành cần suy nghĩ. Ngoài ra, chúng còn cung cấp một nền tảng tư duy mà sẽ rất hữu ích khi những đứa trẻ này bước vào đời. Suy nghĩ về những vấn đề như vậy khiến đứa trẻ có thêm nhận thức về những vấn đề, tin tức được nêu ra trên báo chí, đài, ti vi (trên thực tế những mục tin tức có thể đem áp dụng thành những mục thực hành). Thật là sai lầm nếu tin rằng những đứa trẻ chỉ quan tâm đến những vấn đề của lứa tuổi chúng. Những vấn đề như vậy rất hữu ích để chỉ ra xem việc tư duy có thể đem ứng dụng vào những vấn đề hàng ngày của bọn trẻ như thế nào. Thật không dễ dàng để cung cấp những mục tổng quát mà có thể áp dụng cho những đứa trẻ ở nhiều độ tuổi khác nhau trong những môi trường khác nhau, vì vậy những bậc cha mẹ nên tích lũy thật nhiều mục liên quan trực tiếp đến những vấn đề liên quan đến từng đứa trẻ. Mục đích chính của những mục quan trọng là chỉ ra rằng những kỹ năng tư duy không chỉ là một trò chơi mà chúng có thể đem áp dụng cho những vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng khi giải quyết những vấn đề quan trọng này, chúng ta không thực hành được nhiều các kỹ năng tư duy, bởi chúng ta phải chú trọng đến nội dung sự việc. Nếu yêu cầu tôi phải liệt kê ra một tỷ lệ phần trăm của những mục kết hợp, tỷ lệ phù hợp mà tôi đưa ra như sau: Trong giai đoạn xây dựng các kỹ năng tư duy: - 40% dành cho những mục hài hước. - 30% dành cho những mục xa xôi. - 20% dành cho những mục nội bộ. - 10% dành cho những mục quan trọng. Tại giai đoạn ứng dụng các kỹ năng tư duy, tỷ lệ là: - 20% dành cho những mục hài hước. - 30% dành cho những mục xa xôi. - 30% dành cho những mục nội bộ. - 20% dành cho những mục quan trọng. Sự thể hiện Những bài tập/bài thực hành tư duy nên được làm như thế nào? Sự thể hiện: bạn, với vai trò là bậc cha mẹ hoặc giáo viên nên đọc lần lượt toàn bộ một mục thực hành để biết xem mục đó sử dụng phương pháp thực hành hoặc công cụ tư duy nào. Cũng có thể bạn muốn chuẩn bị trước mục đó. Nhưng bạn cũng nên vận dụng khả năng xử lý mục đó mà không cần chuẩn bị trước, bởi vì đây cũng chính là điều mà bạn đòi hỏi ở con bạn. Sự phối hợp: cả bố mẹ và con cái cùng lần lượt xem xét mục thực hành. Mỗi người đưa ra những gợi ý. Và cha mẹ nên để con cái là người đưa ra gợi ý trước. Khi mọi việc diễn ra thuận lợi, cha mẹ hãy đưa ra gợi ý của mình để xem xét những gợi ý của đứa trẻ liệu có thể chấp nhận được. Sự thể hiện phối hợp không có nghĩa là sự tranh luận hay sự thảo luận dông dài, nó cũng giống như sự cùng hoạt động của những chiếc xi lanh trong động cơ ô tô. Sự đòi hỏi: đòi hỏi là một trong những cách thông thường để dạy tư duy. Bạn yêu cầu đứa trẻ làm một bài tập tư duy. Trong một số trường hợp bạn có thể yêu cầu con bạn làm ngay lập tức, nhưng bạn cũng có thể cho phép bé suy nghĩ một vài phút trước khi làm bài. Đứa trẻ có thể tận dụng thời gian đó để phác thảo ra những chú ý cơ bản trước khi đưa ra câu trả lời. Sự đồng thuận: theo cách này, cả bố mẹ và con cái cùng thực hiện riêng rẽ bài tập tư duy. Mọi người có thể thực hiện chúng bằng cách nên ra những chú ý hoặc viết chúng ra. Khi thời gian kết thúc, hai bên so sánh kết quả với nhau. Đây là một cách thúc đẩy mạnh mẽ động lực tư duy của những đứa trẻ bởi vì chúng thấy rằng sự thể hiện của chúng đủ tốt để được chấp nhận (có lẽ còn tốt hơn cả cha mẹ chúng). Tuy nhiên, cách này không phù hợp với những đứa trẻ khả năng tư duy còn kém. Theo nhóm: một nhóm gồm từ hai đứa trẻ trở nên cùng thực hành các bài tập tư duy. Cha mẹ sẽ đặt ra nhiệm vụ và sau đó yêu cầu cả nhóm cùng làm việc. Khi thời gian quy định kết thúc, người đại diện của nhóm sẽ thông báo kết quả đạt được. Bằng cách viết ra: nói chung, tất cả các bài tập tư duy có thể được làm bằng miệng. Việc viết chúng lại cũng rất hữu ích. Thỉnh thoảng, bạn hãy đặt ra một nhiệm vụ tư duy và yêu cầu con bạn viết ra lời giải. Và với những phương pháp tư duy bao gồm cả những biểu đồ, thì biểu đồ được giới thiệu như gợi ý của bài tập. Chức năng của cuốn sách Cuốn sách này không nhằm mục đích bao gồm toàn diện tất cả mọi khía cạnh tư duy, cũng không nhằm mục đích trở thành một cuốn sách triết lý về tư duy. Cuốn sách này được viết nhằm mục đích được đem ứng dụng rộng rãi. Tùy vào khả năng của từng người mà những hành động, quan điểm, thói quen, công cụ và cấu trúc tư duy hữu ích được trình bày trong cuốn sách này có thể được đem áp dụng theo một hệ thống nguyên tắc hoặc đem trích lọc để áp dụng và luôn phát huy hiệu quả trong việc giảng dạy tư duy. Một vài vấn đề được đề cập trong cuốn sách này sẽ được tôi trình bày chi tiết hơn và sâu hơn trong những cuốn sách tiếp theo. ĐỘ TUỔI VÀ KHẢ NĂNG Tôi sẽ trình bày một số gợi ý cho các bậc cha mẹ, thầy cô giáo áp dụng cuốn sách này để giảng dạy cho những đứa trẻ có độ tuổi và năng lực khác nhau. Đây chỉ là những gợi ý và các bậc cha mẹ hoàn toàn tự do khám phá những khả năng mà họ thấy là phù hợp. Theo kinh nghiệm của tôi, thầy cô giáo và cha mẹ thường đánh giá thấp khả năng tư duy của trẻ. Họ cũng đánh giá thấp khả năng trẻ có thể suy nghĩ về nhiều chủ đề khác nhau. Tôi thường nghe các thầy cô giáo nói rằng: “các học sinh trong lớp tôi quá trẻ để xử lý vấn đề này”. Và khi tôi gợi ý cho các học sinh thử làm, họ đã làm vậy và khả năng tư duy của bọn trẻ làm họ ngạc nhiên. Sự giản đơn hóa Quy tắc cơ bản là “sự giản đơn”. Khi bạn có ý định bỏ qua hẳn một phần, thì tốt hơn hết là bạn hãy đọc hết phần đó, sau đó giản đơn hóa quá trình. Tất nhiên là không thể quá giản đơn mọi tình huống. Có nhiều phần trong cuốn sách này được trình bày chi tiết hơn những phần khác bởi vì nó phù hợp để những đứa trẻ ở độ tuổi lớn và có khả năng xem xét, nhưng ngay cả những phần này, bạn cũng có thể xử lý chúng theo cách giản đơn hóa. Bạn hãy nói với bản thân “cách đơn giản nhất tôi có thể nêu ra vấn đề này là gì?”. Bạn đừng sợ rằng mình sẽ bỏ qua điều gì đó quan trọng. Đừng tìm kiếm những gì mà bạn bỏ lại mà hãy quan tâm đển những gì bạn trình bày. Những thứ đơn giản được sử dụng có hiệu quả sẽ tạo ra sự khác biệt trong việc thực hành các kỹ năng tư duy. Và điều quan trọng nhất là tránh sự nhầm lẫn. Nếu bạn cảm thấy có điều gì nhầm lẫn, hãy làm lại từ đầu. Bạn hãy yêu cầu con bạn nhắc lại những điều mà bạn đã dạy bé. Đây là cách kiểm tra tốt nhất xem bé đã hiểu vấn đề đến đâu. Những bài thực hành và ví dụ nên được trình bày rõ ràng. Nó là sự rèn luyện kỹ năng, chứ không phải là việc dạy triết lý. Phân nhóm Tôi sẽ chia nhóm đối tượng của cuốn sách này thành ba nhóm. Nhóm trẻ: bao gồm những đứa trẻ dưới 9 tuổi. Nhóm giữa: bao gồm những trẻ trong độ tuổi từ 9 đến 14. Nhóm lớn hơn: bao gồm những đứa trẻ quá 14 tuổi. Nhưng sự bất thường của trẻ trong độ tuổi có thể làm thay đổi khả năng tư duy. Ví dụ, một đứa trẻ thuộc nhóm trẻ nhưng khả năng tư duy của nó có thể được xếp vào nhóm giữa. Và một đứa trẻ thuộc nhóm lớn hơn nhưng khả năng tư duy kém hơn có thể lại được xếp vào khả năng tư duy của nhóm giữa. Sự kiên nhẫn của các bậc cha mẹ cũng làm thay đổi khả năng chia nhóm của trẻ. Những bậc cha mẹ chuẩn bị được nhiều thời gian nghiên cứu cuốn sách và đơn giản hóa các quá trình tư duy được trình bày có thể sử dụng những phần được áp dụng cho trẻ thuộc nhóm giữa cho những trẻ thuộc nhóm trẻ, hoặc áp dụng phần cho trẻ thuộc nhóm lớn hơn cho những trẻ thuộc nhóm giữa. Nhóm trẻ Phương pháp hình vẽ là một phương pháp rất quan trọng đối với những trẻ thuộc nhóm này, và có thể được sử dụng cho những trẻ từ độ tuổi 4 đến 5 tuổi. Mặc dầu phương pháp này được miên tả ở phần cuối cuốn sách, nhưng nó nên được áp dụng luôn. Cha mẹ nên tự đọc phần một của cuốn sách này và không cần phải dạy trẻ những điều trong phần này. Hầu hết những điều viết trong phần hai có thể sử dụng trực tiếp để dạy. Mô hình của người thợ mộc là một mô hình quan trọng cơ bản. Những quan điểm có thể được trình bày một cách tổng quát. Phương pháp sáu chiếc mũ nên được áp dụng để giảng dạy cho những trẻ ở độ tuổi từ sáu trở lên. Với những em ở độ tuổi nhỏ này, những mẫu đưa ra nên được giản đơn hóa. Nên hướng dẫn trẻ học riêng rẽ từng chiếc mũ tư duy. Đừng cố dạy trẻ một hệ thống áp dụng những chiếc mũ, trừ với những đứa trẻ có đủ khả năng. “kết quả và kết luận” có thể đem giảng dạy cho trẻ theo một cách giản đơn nhưng cô đọng những điều quan trọng. “tiến lên hay đồng thuận” cũng nên được giản đơn hóa trước khi dạy cho trẻ. Phần “logiC và Sự nhận thức” nên được lược bỏ. Tất cả những công cụ liên quan đến sự chú ý nên được đem áp dụng để dạy cho trẻ: CAF, apc, OPV, c&s, PMI, AGO và FIP. Kinh nghiệm có được từ các trường học (những trường mà mỗi giáo viên phải phụ trách nhiều hơn một học sinh) đã chỉ ra rằng những công cụ này có thể được đem dạy cho những trẻ sáu tuổi. Những công cụ này nên được dạy theo mẫu cơ bản bao gồm nhiều bài thực hành và nhiều ví dụ mà cô giáo và cha mẹ có thể tự đặt ra. Với những trẻ không có được óc liên tưởng tốt tới trọng tâm hoặc tính xâu chuỗi, việc áp dụng công cụ c&s và AGO có thể gặp phải khó khăn. Giá trị của mỗi phần là rất quan trọng và nên được tổng kết lại. Phần “trọng tâm và mục đích” có thể được lược bỏ. Phần ba nên được đơn giản hóa nhiều. Phần “tổng quan và chi tiết” rất quan trọng nhưng lại khó giảng dạy với những em quá nhỏ. Chỉ nên có được ý kiến tổng quát sơ bộ về phần này. Phần “những hoạt động tư duy cơ bản” có thể được chỉ dẫn mà không cần đến sự chi tiết hóa. Không cần phải giảng dạy tất cả các hoạt động tư duy với mỗi kiểu hoạt động cơ bản. Những bài tập nên hữu ích và hài hước. Phần “giả thuyết, suy đoán và khiêu khích” rất dễ dạy cho những em nhỏ tuổi bởi vì đây chính là những gì mà trẻ vẫn thường suy nghĩ. Hãy trình bày những phần này cô đọng và đơn giản, đừng cố bắt trẻ phân biệt sự khác nhau giữa giả thuyết, suy đoán và khiêu khích. Phần tư duy khác lạ có thể được lược bỏ. Phần khiêu khích và hành động quá khiêu khích và phần sự tiến triển nên được giảng dạy theo cách đơn giản, bao gồm nhiều bài tập và ví dụ. Trẻ con có thể rút ra những ý tưởng từ những ví dụ thực tế, chứ không phải là từ sự giải thích lý thuyết. Kỹ năng từ ngẫu nhiên có thể được đem giảng dạy với trẻ ở mọi lứa tuổi. Tất cả đều yêu thích việc khám phá ra những ý tưởng mới bằng việc sử dụng những từ ngẫu nhiên. Phần này nên được giảng dạy dưới dạng bài tập. Phần bốn của cuốn sách không phù hợp để dạy cho những em ở độ tuổi nhỏ. Phương pháp to/loPOso/go có thể được đem giảng dạy theo cách chung chung. Tất cả đều không phải là những khái niệm phức tạp. Nhìn chung, cha mẹ phải tùy vào từng giai đoạn mà giảng dạy từng chút cho trẻ. Ở phần cuối của phần 4, tôi trích dẫn một cách trình bày đơn giản phương pháp tranh luận và bất đồng quan điểm. Mục đích là để xem xem trong mỗi bên thường nghĩ gì trong khi xử lý các thình huống. Nhóm giữa Đối với phần i, cha mẹ có thể tự đọc và không cần dạy cho trẻ. Phần ii, cha mẹ có thể giảng dạy toàn bộ cho trẻ. Tất cả những phần được trình bày trong phần ba có thể sử dụng nhưng cần đơn giản bớt ba phần cơ bản: sự thật, logiC và Suy nghĩ phê phán, giả thuyết, sự tiên đoán và sự khiêu khích và phần tư duy khác lạ. Phần bốn cũng có thể được áp dụng hoàn toàn, nhưng phần này chi tiết hơn các phần khác và do đó nên được đơn giản bớt. Cha mẹ chỉ cần giải thích những điều cơ bản của mỗi phần và cố gắng đưa ra càng nhiều bài tập thực hành càng tốt. Hãy bắt đầu bằng những nguyên tắc đơn giản và cô đọng, sau đó trình bày cụ thể sau. Tất cả phần năm đều có thể đem áp dụng . Nhóm lớn hơn Với nhóm lớn hơn, toàn bộ cuốn sách này có thể đem áp dụng giảng dạy cho chúng. Trên thực tế, mỗi đứa trẻ ở độ tuổi này có thể trang bị cho chúng một phiên bản của cuốn sách này và tự đọc nó. Ví dụ, các em có thể tự nhận thức những vấn đề được trình bày ở phần i. Việc các em tự đọc sách và sau đó thảo luận với người dạy đem lại kết quả rất lớn. Những cuộc thảo luận như vậy không phải là dựa trên nền tảng “ với sự việc này, cái gì đúng, cái gì sai?”, bởi vì cách quan niệm như vậy ngay lập tức dẫn các em tới việc nghĩ đến những mặt tốt, mặt xấu và những yếu điểm trong việc phát triển kỹ năng tư duy. Quan điểm của buổi thảo luận nên được nhìn nhận theo cách: điều mà tác giả cố gắng trình bày ở đây là gì? Chúng ta có thể vận dụng nó như thế nào?. Một vài đứa trẻ có thể có suy nghĩ rằng chúng đã suy nghĩ được tốt lắm rồi và không cần phải đọc những điều viết trong phần ii vì tất cả những điều này chúng đều làm rồi. Kinh nghiệm chỉ ra rằng những suy nghĩ của trẻ như vậy là không đúng. Mọi người thường tuyên bố họ có thể làm được nhiều điều mà thực ra học không thể. Những công cụ ở phần này đã được đem áp dụng với những người trưởng thành và những đứa trẻ tài năng (có chỉ số iq lớn hơn 150). Nếu những công cụ đó quá dễ dàng, cha mẹ nên khuyến khích con trẻ sử dụng chúng một cách hiệu quả và đầy đủ. Hiểu được mỗi công cụ là một điều dễ dàng, nhưng vận dụng các công cụ đó một cách hiệu quả lại là một chuyện khác. Phần ba nên được giới thiệu dưới dạng thảo luận chi tiết về những mục như sự thật, logic và tư duy phê phán, giả thuyết, suy đoán và sự khiêu khích và tư duy khác lạ. Phần bốn đặc biệt thích hợp với những em thuộc nhóm lớn hơn bởi vì nó bao gồm những tình huống tư duy đầy đủ mà các em thường muốn tham gia. Phần này cũng nên được giảng dạy theo nhóm. Trong phần bốn, nguyên tắc quan trọng nhất là nên tuân thủ theo mọi bước theo cấu trúc. Những em thuộc nhóm lớn hơn và có khả năng khi áp dụng phần này thường dễ dàng đưa ra một cảm nhận chúng về một tình huống và tin rằng chỉ cần tư duy đến đó là đủ. Nhưng chúng ta phải luyện tập cho các em thói quen suy nghĩ toàn bộ tình huống. Tất cả những điều được trình bày trong phần 5 đều có thể được áp dụng. Những bài tập tin tức và trò chơi tư duy mười phút rất thích hợp để áp dụng dạy cho các em ở lứa tuổi này. Những cách áp dụng khác và những cách áp dụng lặp lại Nếu con bạn nằm trong nhóm trẻ, thì có những phần trong cuốn sách này không phù hợp ngay lập tức để giảng dạy cho bé. Nhưng cùng với thời gian, bé sẽ lớn khôn và thuộc nhóm giữa và nhóm lớn hơn, lúc này, những điều bạn đã bỏ qua không dạy cho bé lại phát huy tác dụng. Cuốn sách này không phải là cuốn sách mà bạn chỉ đọc toàn bộ một lần rồi bỏ qua nó. Bạn phải xem lại cuốn sách nhiều lần. Bạn cũng có thể chú trọng vào những phần khác nhau của cuốn sách (ví dụ, những kỹ thuật tư duy khác lạ). Bạn cũng có thể muốn lặp lại phần “quyết định và lựa chọn” khi bạn đứng trước quá nhiều sự lựa chọn. Bạn cũng có thể muốn xem lại phần “sau chiếc mũ” để sử dụng phương pháp này như một quy tắc cho những cuộc thảo luận gia đình. HÀNH VI TƯ DUY Thường thì chỉ có hai kiểu hành vi tư duy: Bạn muốn tư duy. Bạn phải tư duy. Bạn muốn tư duy: bạn đã có cách để giải quyết một vấn đề nào đó, bạn không gặp phải vấn đề gì và bạn có thể tiến hành mọi việc theo đúng cách đó, nhưng bạn muốn xem xem liệu còn có cách nào tốt hơn không. Liệu có cách nào để làm nhanh hơn, đơn giản hơn, tốn ít chi phí hơn, ít lỗi lầm hơn, ít lãng phí hơn, ít gây ô nhiễm hơn, ít nguy hiểm hơn…?. Đây là những câu hỏi mấu chốt cần được hỏi trong bất kỳ một bài tập trau dồi nào. Kiểu suy nghĩ này đặc biệt quan trọng trong kinh doanh, trong lĩnh vực cơ khí, trong việc điều hành chính phủ, khi mà mọi quyết định được đưa ra đều chú trọng đến hiệu suất, hiệu quả và cắt giảm chi phí. Trong đời sống của mỗi cá nhân, chúng ta cũng đều cần cân nhắc những điều tương tự. Khó khăn ở chỗ bạn không bắt buộc phải suy nghĩ theo kiểu này, nhưng bạn cần phải muốn làm điều đó. Bạn đang phải đưa ra một quyết định hoặc một sự lựa chọn. Bạn đang tổ chức một việc gì đó hoặc đang đưa ra một kế hoạch. Bạn đang phải thiết kế gì đó. Bạn có thể làm được tất cả điều này. Bạn không hề đang bị mắc kẹt. Nhưng bạn cảm thấy rằng nếu bạn suy nghĩ thêm một chút nữa thì những sự lựa chọn, những quyết định, sự tổ chức, kế hoạch và sự thiết kế sẽ tốt hơn so với những gì mà bạn không định dành thời gian để suy nghĩ. Cho nên bạn muốn đầu tư thời gian để suy nghĩ thấu đáo mọi việc. Một quyết định được suy nghĩ kỹ càng tất nhiên là tốt hơn so với một quyết định hấp tấp. Một thiết kế cẩn thận dĩ nhiên là tốt hơn so với ý tưởng ban đầu nảy sinh trong đầu bạn. Vì tất cả điều đó, bạn muốn suy nghĩ. Nếu bạn nhận thức được vai trò của các công cụ tư duy và cấu trúc tư duy, bạn sẽ có thêm động lực để suy nghĩ về những vấn đề này. Không có sự trợ giúp của những công cụ như vậy, bạn có thể suốt ngày chỉ lặp lại một cách nghĩ. Trong trường hợp này, việc học tư duy cũng chính là một động lực thúc đẩy bạn. Bạn cũng phải dành thêm nhiều thời gian để suy nghĩ bởi vì bạn sẽ yêu thích việc suy nghĩ. Điều này xảy đến với bạn khi tư duy trở thành một sở thích, một môn thể thao, một kỹ năng mà bạn yêu thích. Bạn phải tư duy: có một vấn đề mà bạn không thể giải quyết được. Bạn rơi vào tình trạng khó xử và rất khó để đưa ra quyết định. Có sự mâu thuẫn và làm sự việc trở nên xấu đi. Có sự cần thiết phải đưa ra một ý tưởng mới và bạn không thể làm điều này. Bạn cần tìm một cơ hội nhưng bạn không thể làm vậy. Nói tóm lại, bạn bị bế tắc. Bạn không thể tiến lên phía trước. Bạn không có sự lựa chọn. Bạn buộc phải suy nghĩ. Không có một cách quen thuộc nào để bạn xử lý tình huống này. Cách suy nghĩ thường lệ chẳng giúp được gì cho bạn. Bạn phải suy nghĩ kỹ càng hơn, sâu hơn. Rõ ràng là có sự khác biệt giữa nhu cầu của bạn và điều mà chúng ta gọi là “ sự tham lam của bạn”. Có những khi bạn bắt buộc phải suy nghĩ bởi vì bạn lâm vào tình huống nguy hiểm hoặc bạn thực sự có vấn đề cần phải giải quyết ngay lập tức. Nếu bạn đang lái xe ô tô và xe của bạn bị bẹp lốp, bạn sẽ phải giải quyết ngay vấn đề đó. Trong những tình huống do sự tham lam, bạn cũng muốn tiến lên phía trước, bạn muốn có thêm tiền để mua ô tô tốt hơn. Bạn muốn có một nơi thú vị hơn để đi nghỉ. Bạn muốn bắt đầu một công việc kinh doanh. Bạn muốn có thêm bạn bè. Bạn không thực sự phải làm điều gì, nhưng bạn muốn làm chúng. Và nếu bạn muốn làm, nhưng chúng lại không dễ để làm, bạn sẽ phải suy nghĩ thực sự. Ngay cả bản thân bạn, bạn cũng nên tạo dựng cho mình sự cần thiết phải suy nghĩ, bởi vì bạn luôn có nhiều điều cần quan tâm. Rõ ràng rằng, bạn càng suy nghĩ tốt hơn, bạn càng ít vướng vào tình trạng bế tắc. Và dần dần trong bạn hình thành thói quen thích tư duy, những việc buộc phải nghĩ giờ đây chuyển thành muốn nghĩ. Thông lệ và khác thường Có thể nói mục đích của tư duy là chấm dứt nhu cầu cần suy nghĩ. Nếu thông qua suy nghĩ chúng ta có thể đưa tất cả mọi tình huống trở lại phản hồi thường lệ, chúng ta chẳng cần suy nghĩ làm gì. Nếu chúng ta làm như vậy, chúng ta đang cố gắng đưa tư duy trở thành một công cụ y như một chiếc máy tính. Chúng ta tìm cách để thiết lập những hệ thống chuyên môn và khi tình huống được giới thiệu với máy tính, máy tính sẽ thông qua tất cả các thông lệ thường làm để đưa ra xét đoán và có câu trả lời. Điều này khiến chúng ta chẳng có việc gì phải suy nghĩ. Hoặc, chúng ta có thể tự do sử dụng những kỹ năng tư duy theo những hướng khác. Một điều luôn luôn đúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào là việc chúng ta vận dụng suy nghĩ để hỏi và làm cho những thông lệ đang tồn tại trở nên tốt hơn, cũng giống như một vận động viên chơi golf luôn cố gắng để cải thiện những đường đánh bóng lượn. Nói chung, chúng ta không cần phải suy nghĩ về những vấn đề thường lệ. Trong thực hành, hầu hết tât cả những hành vi tư duy của chúng ta đều bị hướng tới việc tìm những thông lệ để sử dụng. Một đứa trẻ được đưa tới bác sỹ với những nốt nổi mụn đỏ trên da. Vị bác sỹ này sẽ phải quyết định xem liệu đó là chứng lên sởi, bỏng nắng, dị ứng hoặc một vài chứng bệnh di ứng da khác. Khi người bác sỹ đã tiến hành những chẩn đoán như vậy, anh ta sẽ quay lại những cách điều trị thông thường. Trong chuẩn đoán, cũng như trong phân tích, chúng ta tìm cách thay đổi những tình huống chưa biết sang những tình huống tương tự mà thường chúng ta vẫn gặp để giải quyết. Một trong những chiến lược chủ chốt trong toán học là cố gắng để thay đổi một vấn đề khó trở thành một kiểu vấn đề khác bao gồm những bước thông thường. Nhưng cũng có những tình huống mà chúng ta thực sự cần một tư duy mới. Đó có thể bao gồm những ý tưởng mới, phát minh mới, giải pháp mới đối với những vấn đề hết sức khó khăn. Những suy nghĩ thông thường không thể đem ra áp dụng được, những nhận định đơn giản về tình huống là không đầy đủ. Và rốt cuộc là tư duy của chúng ta cần thoát ra khỏi những lối thông thường, đặt cạnh những suy nghĩ bán thông thường để có được giải pháp cho sự việc. Cũng có những thông lệ trong tư duy. Ví dụ, chúng ta có thể xây dựng một thói quen suy nghĩ sáng tạo để trong những tình hống đòi hỏi những ý tưởng mới, chúng ta có thể sử dụng thông lệ sáng tạo trong tư duy. Và khi nghiên cứu kỹ hết cuốn sách này, mỗi học sinh có thể tự hình thành cho mình thông lệ tư duy như thế. Trọng tâm, tình huống và nhiệm vụ Mối liên hệ giữa tình huống đòi hỏi chúng ta phải tư duy và khả năng sử dụng những kỹ năng, những phương pháp và những thông lệ trong tư duy được hình thành bởi khả năng xác định nhu cầu tư duy. Tình huống ở đây là nếu muốn được hưởng quyền lợi giảm giá tiền gửi đồ, chúng ta cần có mười người tham gia chuyến đi này. Nhưng john đã quyết định không đi và chúng ta chỉ còn chín người. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là thuyết phục john quay lại hoặc tìm một ai khác, hoặc yêu cầu john phải trả khoản tiền không được hưởng đó. Trước hết, hãy chú trọng vào việc tìm ra một ai khác. Tôi sẽ trình bày chi tiết về trọng tâm, nhiệm vụ và tình huống ở phần tiếp theo. Trong rất nhiều tình huống tư duy, chúng ta chỉ có được ý tưởng rất chung chung về tình huống, trọng tâm và nhiệm vụ. Thường thì chúng ta không xác định cụ thể, hoặc nêu chúng lên bởi vì chúng ta luôn cho rằng tất cả mọi người đều biết chủ đề là gì và mục đích của việc suy nghĩ là gì. Tuy nhiên, việc nêu cụ thể tình huống, trọng tâm và nhiệm vụ là những điều cần được nêu ra một cách rõ ràng bởi vì rất nhiều lý do. Có thể là do có nhiều cách nhìn phù hợp về tình huống. Có thể do có nhiều trọng tâm được lưu ý. Hoặc có thể do mỗi người đặt ra một nhiệm vụ tư duy khác nhau. Và khi mọi điều được nêu ra, chúng ta có thể thực hiện chỉ một nhiệm vụ tại một thời điểm. Tình huống: tình huống ở đây là gì? Đây là loại tình huống gì? Nhiệm vụ: chúng ta đang cố gắng làm điều gì? Nhiệm vụ của mỗi người chúng ta là gì? Trọng tâm: chúng ta đang chú trọng đến điều gì? Chúng ta đang tìm kiếm điều gì? Sự đổi số Nhiều người đã hỏi tôi rằng liệu có một kiểu tư duy lý tưởng có thể đem áp dụng trong mọi trường hợp. Câu trả lời của tôi là không có. Một vận động viên golf luôn có một vài cây gậy trong túi. Mỗi một cây gậy chơi golf phù hợp với một mục đích cụ thể. Bạn cũng không thể sử dụng một người chuyên đi đặt lỗ golf trở thành một người lái xe hoặc ngược lại. Một chiếc ô tô với cần đổi số bằng tay luôn có một vài mức số để phù hợp với những tình huống khác nhau. Và ngay cả với một chiếc ô tô tự động, cũng có những sự dịch chuyển số thuận và nghịch. Nhưng bạn không thể cùng lúc kết hợp những ưu điểm của cả hệ thống số thuận và nghịch. Đôi khi, trong tư duy, chúng ta cũng muốn hành động theo những cách đối nghịch trong những tình huống khác nhau. Ví dụ, chúng ta muốn sử dụng sự xét đoán quyết liệt của chúng ta để chỉ ra tại sao điều gì đó không thể thực hiện được. Tại thời điểm khác, chúng ta muốn sử dụng sự cải tiến, đó là một cách tiến lên phía trước từ một ý tưởng (không cần biết ý tưởng đó có thể đúng hay sai) để tìm ra một ý tưởng mới. Đôi lúc, chúng ta lại muốn hành động trong một khuôn mẫu nhất định. Nhưng cũng có khi chúng ta muốn nhận diện lại khuôn mẫu và thoát ra khỏi nó. Các công cụ tư duy và phương pháp tư duy tùy từng hoàn cảnh mà dường như có sự đối ngược nhau. Điều này bởi vì nó được thiết kế dành cho một mục đích cụ thể. Một chiếc cưa được thiết kế để cắt gỗ. Keo được thiết kế để dán những miếng gỗ lại với nhau. Đây là hai chức năng trái ngược nhau, nhưng cả hai đều phát huy công dụng nếu sử dụng đúng chỗ của nó. Hành vi tư duy thường đòi hỏi khả năng chuyển đổi phương pháp cho phù hợp với tình huống. Tư duy thực hành Chúng ta có thể xem xét ba cấp độ thực hành tư duy: tự nhiên, thảo luận và ứng dụng. Tự nhiên: đó là những suy nghĩ xảy đến trong cuộc sống hàng ngày. Nói chuyện với mọi người. Xử lý với những vấn đề thường thấy. Giải quyết những vấn đề nhỏ. Đọc báo hoặc xem tivi. Mua sắm, sử dụng các phương tiên giao thông, ấn định các cuộc gặp gỡ… Cấp độ tư duy tự nhiên được sử dụng với nhứng quan điểm, nguyên tắc và thói quen tư duy cơ bản sẽ được trình bày trong cuốn sách này. Cấp độ tư duy này không đòi hỏi những công cụ và những cấu trúc. Đôi khi, một người có thể “ngừng suy nghĩ” và có thể sử dụng cụ thể một công cụ. Trong giao tiếp với những người khác, công cụ có thể là một quy ước chuẩn để hướng mọi người cùng suy nghĩ theo một cách nhất định, nhưng tất cả cần được biết quy ước đó là gì. Sự thảo luận: đây là tình huống khi mọi người gặp gỡ nhau với mục đích cùng suy nghĩ về một sự việc nào đó. Đây là một sự khám phá, cân nhắc, thảo luận và đôi lúc có cả tranh luận. Mọi người biết rằng họ gặp gỡ nhau về vấn đề gì, để trao đổi các ý tưởng và cảm giác để có được những ý tưởng mới. Và nếu trong cuộc họp, tại thời điểm mà mọi người không thể có cùng quan điểm, nguyên tắc và thói quen tư duy tốt, đó là lúc cần sử dụng một cách rõ ràng và có cân nhắc cẩn trọng một vài công cụ tư duy (chẳng hạn công cụ sáu chiếc mũ). Tư duy tự nhiên không phải là lối tư duy hữu ích. Tranh luận không phải là cách tốt nhất để khám phá vấn đề. Trong một cuộc họp, hầu hết mọi người đều không sử dụng một cấu trúc tư duy nào cả, ngoài việc lên chương trình và tiến hành tóm tắt nội dung cuộc họp. Nhưng nếu mọi người gặp gỡ nhau với mục đích tư duy cụ thể, họ nên sử dụng hiệu quả những phương pháp tư duy. Tất nhiên, đôi khi những cuộc gặp gỡ chỉ là để trò chuyện chứ không phải để suy nghĩ. Sự áp dụng: ở đây, có một nhu cầu tư duy cụ thể: sự lựa chọn, quyết định, kế hoạch, chiến lược, khởi xướng, cơ hội, vấn đề, nhiệm vụ, xung đột…tình huống cần được xác định cụ thể và nhu cầu tư duy cần được nêu ra. Vấn đề cần quan tâm ở đây là xem xét tình huống đó là việc “phải suy nghĩ” hay “muốn suy nghĩ”. Thảo luận chung chung ở đây là chưa đủ. Mọi người cần áp dụng một vài công cụ hoặc cấu trúc tư duy cụ thể để trợ giúp trong một số tình huống cụ thể (ví dụ để đưa ra quyết định hoặc nhu cầu sáng tạo). Sự tự động và sự thận trọng Cùng với thời gian, những quan điểm, nguyên tắc, thói quen và một vài thao tác cơ bản của lối tư duy đúng đắn sẽ trở thành tự động: chúng trở thành một phần cơ bản trong bất cứ suy nghĩ nào của bạn khi xem xét sự việc. Một vài quan điểm liên quan đến những công cụ hướng tới sự chú ý sẽ trở thành bản lĩnh thứ hai. Sự áp dụng một vài công cụ có thể trở thành thường lệ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần sử dụng một vài công cụ (đặc biệt là những công cụ tư duy sáng tạo) và cấu trúc một cách có nguyên tắc và thận trọng. Nhiều người có tư duy sáng tạo cao đã sử dụng những kỹ thuật tư duy khác lạ mà tôi đưa ra trong lĩnh vực của họ và trong kinh doanh trong nhiều năm, và họ nói với tôi rằng họ luôn có được kết quả tốt nhất khi họ đặt ra việc sử dụng những kỹ thuật đó theo cách có cân nhắc: từng bước từng bước một. Tóm tắt Một vài kỹ năng tư duy được trình bày trong cuốn sách này sẽ trở thành một phần tự nhiên của bất cứ hành vi tư duy nào. Một số khác luôn cần được sử dụng một cách nguyên tắc và cẩn trọng. Có những tình huống tư duy không đòi hỏi người nghĩ thực hiện một nỗ lực đặc biệt nào (duy tự nhiên). Có những tình huống mà bạn muốn áp dụng khả năng tư duy tốt nhất của bạn. Có những tình huống bạn bị bế tắc và phải sử dụng khả năng tư duy tốt nhất của bạn. CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA SUY NGHĨ Tôi luôn cho rằng phát minh ra xe đạp là một trong những phát minh đáng chú ý của con người. Bởi vì chiếc xe đạp là một công cụ cho phép chúng ta sử dụng năng lượng, cơ bắp và cấu trúc xương của chúng ta một cách hiệu quả hơn. Ngồi trên một chiếc xe đạp, nhờ vào chính năng lượng nội tại của mình, một mình có thể đi nhanh hơn và xa hơn. Thử tưởng tượng chúng ta yêu cầu một vài người đứng thành hàng và yêu cầu họ cùng thi chạy. Sẽ có người về đích đầu tiên, thứ hai và sau cùng. Điều này là do khả năng tự nhiên về chạy của mỗi người. Nếu bây giờ chúng ta thiết kế một chiếc xe đạp và huấn luyện mọi người đi xe đạp, kết quả cuộc thi sẽ khác rất nhiều. Tất cả mọi người đều có thể đi nhanh và đi xa hơn trước. Điều tương tự xảy ra với sự suy nghĩ. Chúng ta có thể sử dụng khả năng tư duy tự nhiên của chúng ta để giải quyết vấn đề. Nhưng nếu chúng ta phát triển cấu trúc, phương pháp và ký hiệu, chúng ta có thể làm tốt hơn. Toán học là một ví dụ hoàn hảo. Chúng ta phát triển các ký hiệu và hệ thống cho phép chúng ta có thể thực hiện những công việc tính toán đồ sộ. Và chúng ta không thể ngồi và nói rằng khả năng toán học tự nhiên của mỗi chúng ta đã là đủ. Cũng giống như một chiếc xe đạp và với toán học, chúng ta có thể bắt đầu phát triển các phương pháp tư duy có thể khiến chúng ta làm tốt hơn mọi việc. Khả năng tự nhiên của trí óc Trong kỳ nghỉ ở vùng ca ri bê, bạn chỉ có ba loại đồ mặc vào mỗi buổi sáng: áo sơ mi, quần cộc và giầy. Liệu bạn có bao nhiêu cách để kết hợp chúng? Đầu tiên, bạn có ba sự lựa chọn. Sau khi bạn đã lựa chọn cách đó, bạn chỉ còn lại hai sự lựa chọn. Và cuối cùng bạn còn sự lựa chọn duy nhất. Vì thế, các cách kết hợp mà bạn có thể kết hợp ở đây là 6. Một phép tính toán đơn giản: 3* 2*1 = 6. Nếu bạn có 11 loại đồ để mặc thì sự lựa chọn của bạn ở đây là bao nhiêu? Đầu tiên, chúng ta có 11, sau đó 10…và cứ như vậy. Phép toán được thực hiện để tìm ra những sự kết hợp là: 11*10*9*8*7*6*5*4*3*2*1 = 39.916.800. Trên thực tế, không phải tất cả những sự kết hợp trên đều có thể thực hiện được, ví dụ, chúng ta không thể đi giầy trước khi đi tất. Cho nên, có chừng 5000 sự lựa chọn là khả thi. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu chúng ta xem xét tất cả những sự lựa chọn để mặc đồ, mỗi sáng chúng ta sẽ mất vài tiếng để chọn lựa. Nếu chúng ta luyện cho trí óc chúng ta tư duy những vấn đề trở thành thông lệ, chúng ta chỉ cần theo những mẫu thông lệ để làm. Một bộ óc được thiết kế hoàn hảo sẽ đặt ra những mẫu thông lệ dựa trên tất cả kinh nghiệm tích lũy được. Bởi vì, trí óc là một hệ thống tự tổ chức. Tự tổ chức Hãy xem xét một bàn cờ. Người chơi cờ dịch chuyển những quân cờ xung quanh bàn cờ theo luật của trò chơi. Những quân cờ và bàn cờ là những vật thụ động. Chính người chơi cờ là người đưa ra hành động. Hệ thống thông tin của chúng ta cũng là những dạng như vậy. Chúng ta dự trữ những biểu tượng, từ, số liệu và sắp xếp chúng tuân theo những quy định của trò chơi. Những quy định đó có thể là những quy định của toán học, ngôn ngữ học hoặc logic học. Giờ chúng ta hãy xem xét một loại hệ thống khác. Mưa đổ xuống một vùng đất hoang sơ, tự nhiên. Lâu dần, mưa tạo nên những dòng chảy, những nhánh nước và những dòng sông. Sự hình thành này được gọi là hệ thống tự tổ chức bởi vì mưa và mảnh đất tự chúng hình thành nên khuôn mẫu của dòng chảy. Hệ thống tự tổ chức càng ngày càng thu hút được sự quan tâm của mọi người. Vào năm 1969, trong cuốn sách “cơ chế của trí óc”, tôi đã chỉ ra rằng mạng lưới thần kinh của não bộ được tổ chức đơn giản sẽ tạo nên sức mạnh của hệ thống tự tổ chức. Kể từ đó, có nhiều người đã phát triển ý tưởng này. Trong một cuốn sách khác, cuốn “tôi đúng còn anh sai”, tôi cũng mô tả lại cơ chế này và chỉ ra việc cần áp dụng cẩn trọng mọi hệ thống thông tin như vậy trong thói quen tư duy thông thường của chúng ta. Sự hiểu biết của chúng ta về mặt nhận thức, hài hướC và Sáng tạo phụ thuộc trực tiếp vào sự hiểu biết của những hệ thống tự tổ chức. Sự hài hước là một hành vi quan trọng trong trí óc con người. Bởi vì nó nhận diện các loại hệ thống. Các nhà triết học và các nhà tâm lý học thường bỏ qua sự hài hướC và Sự sáng tạo, điều này chứng tỏ họ chỉ tìm kiếm những hệ thống thụ động, chứ không phải là một hệ thống tự tổ chức. Hệ thống tự tổ chức hình thành nên các mẫu. Một khi chúng ta là một mẫu, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, ngoài chính mẫu đó. Những khuôn mẫu là cố định tạo nên mẫu của các tình huống, nhưng khi tình huống thay đổi, những mẫu đó cũng có thể thay đổi. Một mẫu thực sự là một mẫu không cố định với một tình huống, mà có thể đem áp dụng trong một số tình huống. Chúng ta có thể làm gì Nếu bộ não hình thành nên các khuôn mẫu, chúng ta có thể làm gì? Liệu chúng ta có phải theo những mẫu đó không? Hãy tưởng tượng ra một đường dốc (biểu đồ hình bên). Bạn hãy đặt một quả bóng tại điểm cao nhất của đường dốc và quả bóng sẽ lăn xuống theo đường dốc. Quả bóng sẽ tự nó lăn xuống đường dốc, nhưng bạn chính là người phải đặt nó vào đầu trên của đường dốc. Hãy thử tưởng tượng một đường dốc thật rộng và điểm dưới đường dốc là một chiếc hộp. Nhiệm vụ của bạn là đưa bóng vào chiếc hộp. Và không thể chọn bất kỳ một vị trí nào trên đỉnh dốc. Bạn phải chọn một vị trí mà quả bóng sẽ lăn vào hộp. Tương tự như vậy, tư duy là sự kết hợp giữa trí óc và những gì chúng ta đặt ra cho nó. Hãy làm một phép tính cộng: 5+11+16. Phép tính này thật quá đơn giản. Một vài người có thể dễ dàng thực hiện phép tính nếu nó được đặt sẵn theo hàng dọc (biểu đồ). Những em bé lại thấy dễ hơn nếu đặt chúng vào những điểm chấm trên một hàng và sau đó chỉ cần đếm tất cả những điểm chấm đó. Ví dụ này cho thấy, chúng ta có thể bố trí mọi việc như thế nào đó để trí óc thực thi nhiệm vụ một cách dễ dàng nhất. Nếu bạn được hỏi hãy nói xem trong hai hình vuông hình nào là lớn hơn, bạn có lẽ sẽ đi tính toán để tìm ra sự khác biệt. Nhưng nếu bạn có khả năng để nghĩ ra việc đặt hình vuông này chồng lên hình vuông khác, bạn sẽ ngay lập tức tìm ra hình vuông nào là lớn hơn. Nếu chúng ta tổ chức tốt hơn, trí óc chúng ta sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Giả sử bạn đang ngồi trong sân thể thao (sân tennis, bóng bàn, bóng đá…) xung quanh bạn là hàng nghìn người. Bạn tự nói, tôi muốn tìm ra tất cả những người mặc đồ màu vàng. Bạn sẽ nhìn quanh sân và bạn thấy những người mặc đồ màu vàng dường như tách hẳn khỏi đám đông. Vì bạn đã chuẩn bị cho trí óc của bạn hướng đến màu vàng. Tất cả sự chú ý của bạn sẽ bị hút đến màu vàng. Công cụ định hướng sự chú ý Rất nhiều công cụ tư duy đơn giản là những công cụ định hướng sự chú ý. Sự nhận thức chính là vấn đề định hướng sự chú ý, chứ không phải để nó muốn đi đến đâu thì đến. Đôi khi, có những công cụ hoặc những cấu trúc cho phép chúng ta làm một việc tại một thời điểm, thay vì làm tất cả mọi việc cùng lúc. Cũng có khi có những cấu trúc cho phép chúng ta xem xét sự việc theo sự tiếp nối có hiệu quả nhất. Đây là một cách giống như cách người ta quy ước những ký hiệu toán học. Cho dù trí óc của mỗi người có những đặc tính riêng, chúng ta đều có thể làm những việc khiến những đặc tính đó hoạt động theo hướng mà chúng ta muốn. Chẳng có gì là đối lập giữa hành vi tự nhiên của trí óc và một suy nghĩ cẩn trọng về một ý tưởng. Sự huấn luyện Mục đích của việc huấn luyện một vận động viên điền kinh hoặc một vận động viên thể thao là để loại trừ những lỗi lầm và để hình thành những bài biểu diễn thông lệ hiệu quả nhất. Trong trường hợp này, sự thể hiện cơ bắp được kích động bởi cơ quan thần kinh. Huấn luyện tư duy cũng có những điều tương tự như vậy. Chúng ta cố gắng loại trừ lỗi hoặc ít nhất là xác định cụ thể những lỗi để khi nó xảy ra, chúng ta có thể nhận ra chúng. Chúng ta cố gắng hình thành những thông lệ hữu ích (chẳng hạn khả năng sẵn sàng tìm kiếm những sự thay thế). Tóm lược Là một hệ thống tự tổ chức, trí óc cho phép những thông tin đến tự tổ chức thành những mẫu thông lệ. Trí óc, do đó có những hành vi tự nhiên của nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể can thiệp để hành vi tự nhiên này được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, phù hợp với mục đích của chúng ta. Chúng ta có thể phát triển những công cụ và cấu trúc định hướng sự chú ý. Ngoài ra, thông qua huấn luyện, chúng ta có thể hình thành những mẫu thường lệ có hiệu quả hơn so với những mẫu tự nhiên. Tất cả những điều này tạo nên nền tảng cho việc phát triển những kỹ năng tư duy. PHẦN II NGƯỜI THỢ MỘC VÀ NGƯỜI TƯ DUY Mẫu mà tôi yêu thích là mẫu so sánh một người tư duy với một người thợ mộc. Người thợ mộc vừa làm, vừa tạo nên sản phẩm. Người thợ mộc làm từng bước, từng bước. Người thợ mộc xem xét từng chất liệu gỗ, chúng ta sẽ xem xét xem họ làm những gì. Những thao tác cơ bản Những thao tác cơ bản của một người thợ mộc không nhiều, và chúng ta có thể tóm tắt chúng thành 3 thao tác sau: 1- Cắt 2- Dán 3- Định hình. Cắt có nghĩa là tách một phần mà bạn muốn ra khỏi phần còn lại. Tôi sẽ giải thích điều này tương ứng với những phần nào của tư duy cụ thể sau: sự chắt lọc, phân tích, trọng tâm, chú ý… Dán có nghĩa là đặt những miếng cắt gắn với nhau bằng keo, đinh hoặc vít. Những thao tác suy nghĩ tương ứng là: liên kết, kết nối, chia nhóm, thiết kế, tổng hợp. Định hình có nghĩa là sắp xếp để tạo nên một màu cụ thể và so sánh với những gì bạn muốn nó trở thành. Trong tư duy, điều này tương ứng với xét đoán, so sánh, kiểm tra và làm cho phù hợp. Cho dù người thợ mộc chỉ thực hiện một vài thao tác cơ bản (tất nhiên là chúng ta còn phải tính đến cả việc khoan và đánh bóng) nhưng họ lại tạo ra những sản phẩm phức tạp và hoàn hảo. Công cụ Trong thực tế, người thợ mộc sử dụng các công cụ để tiến hành những thao tác cơ bản. Người thợ mộc không chỉ nói: “tôi muốn cắt miếng gỗ này” mà anh ta cầm lấy cái cưa và sử dụng cái cưa để làm việc đó. Những công cụ này được phát triển từ nhiều thế kỷ trước đây và được xem như một cách có hiệu quả để thực hiện những thao tác cơ bản. Những công cụ dùng để cắt là: cưa, đục, khoan và máy cắt. Những công cụ dùng để dán là: keo, búa, đinh, vít, tô vít. Những công cụ để tạo hình là: bào và các mẫu. Theo cách chính xác như vậy, chúng ta cũng có những công cụ tư duy. Một trong số những công cụ này (chẳng hạn như PMI) sẽ được trình bày trong cuốn sách này. Người thợ mộc hình thành nên các kỹ năng thông qua việc sử dụng các công cụ. Một khi người thợ mộc có được sự khéo léo trong việc sử dụng các công cụ, anh ta có thể sử dụng chúng theo nhiều cách kết hợp khác nhau để làm nhiều việc khác nhau. Cái cưa là một việc xác định. Tương tự như vậy, công cụ tư duy cũng là những công cụ xác định và cần được nhìn nhận và vận dụng theo cách này. Khi bạn sử dụng một cái cưa, bạn dùng cái cưa đó để làm việc chứ bạn không chỉ xem đó là một phương pháp cắt. Cấu trúc Có những khi người thợ mộc cần giữ những vật tại một vị trí nhất định để anh ta có thể gia công chúng. Ví dụ, người thợ mộc cần giữ chắc tấm gỗ để cưa nó. Người thợ mộc cũng cần cố định tấm gỗ để có thể khoan lỗ khi cần thiết. Vì lý do này, người thợ mộc cần đến mỏ cặp và bàn thợ. Khi người thợ mộc muốn gắp những miếng cắt lại với nhau, anh ta đặt những miếng này lên một loại khung đỡ gọi là khuôn gá đồ. Đây là một loại khung trợ giúp, cho phép người thợ mộc thực hiện tác phẩm của anh ta. Những cấu trúc tư duy được trình bày trong cuốn sách này cũng với mục đích tương tự như vậy. Đó là những cách để giữ đồ vật và cho phép ta thực hiện thao tác dễ dàng hơn. Quan điểm Một người thợ mộc thường có những quan điểm cơ bản về tác phẩm của anh ta. Quan điểm này có thể là việc luôn luôn tìm kiếm sự đơn giản. Quan điểm cũng có thể chú trọng tới độ bền. Điểm mạnh của một người thợ mộc chính là quan điểm nền tảng của anh ta. Nguyên lý Quan điểm mang tính tổng quát còn nguyên lý mang tính cụ thể. Cả hai đều có những điểm trùng lắp. Một người thợ mộc sẽ hình thành một số nguyên lý hướng dẫn cần làm theo và tránh không nên làm theo. Những nguyên tắc đó là: - Làm theo thớ gỗ. - Bố trí bề mặt dán tối đa cho tất cả những điểm nối. - Luôn luôn đo lường mọi thứ. - Chỉ sử dụng một lớp keo dán mỏng. Cũng giống như người thợ mộc, cũng có những nguyên tắc cơ bản hướng dẫn việc tư duy. Ví dụ, một suy nghĩ tốt sẽ luôn luôn cần được kiểm tra trong những tình huống cụ thể để khẳng định tính đúng đắn. Thói quen Một người thợ mộc phát triển những thói quen làm việc nhất định. Những thói quen này không phải tự nhiên mà có được và người thợ mộc phải luôn nhắc nhở bản thân về thói quen đó cho đến tận khi nó trở thành một hành động tự động. Những thói quen của người thợ mộc thường gồm: - Luôn luôn đặt công cụ vào giá ngay sau khi dùng. - Thường xuyên làm sắc các nếp cắt. - Thường xuyên kiểm tra việc tạo hình so với khuôn mẫu. Một vài thói quen bao gồm cả những ứng dụng tự động của một nguyên tắc, cho nên sự phân biệt giữa chúng không phải lúc nào cũng rõ ràng. Điều quan trọng nhất là thói quen phải là những chuỗi hành động thông lệ. Người giỏi tư duy cũng tạo dựng cho mình những thói quen thông lệ theo cách giống như vậy. Ví dụ, như một thói quen, một người giỏi suy nghĩ luôn dừng lại để xem xem liệu có phương án thay thế nào khác không. Đó có thể là những cách nhìn thay đổi về một tình huống, những cách giải thích khác nhau, những hành động khác nhau và những giá trị khác nhau. Tóm lược Mẫu của một người thợ mộc cung cấp cho chúng ta tất cả những yếu tố của một kỹ năng tư duy mà tôi sẽ miêu tả trong cuốn sách này. Quan điểm: đó là những quan điểm mà dựa vào đó chúng ta tiếp cận vấn đề. Nguyên lý: những nguyên lý hướng dẫn giúp chúng ta tư duy tốt hơn. Thói quen: những thông lệ chúng ta tìm kiếm để đưa chúng trở thành tự động. Những thao tác cơ bản: những thao tác tư duy cơ bản. Công cụ: những công cụ tư duy mà chúng ta thực hành và sử dụng một cách có cân nhắc. Cấu trúc: sự tạo hình chuẩn để nhờ đó chúng ta nắm giữ mọi vật cho thuận tiện. Luôn luôn nhắc nhở khuôn mẫu của người thợ mộc trong đầu bạn và xem xem anh ta sẽ cấu trúc mọi thứ như thế nào. QUAN ĐIỂM Quan điểm tác động tới toàn bộ cách tiếp cận suy nghĩ, cho nên tôi sẽ bắt đầu bằng cách xem xét những quan điểm của một người giỏi tư duy. Đây cũng chính là quan điểm mà toàn bộ cuốn sách này đề cập tới. Thói quen và nguyên tắc cũng sẽ được đề cập tới trong phần sau của cuốn sách này, sau khi chúng ta đã thực hành nhiều những bài tập tư duy. Đó chính là lúc thích hợp để tóm lược lại những nguyên tắc và thói quen. Quan điểm không đúng đắn Việc bắt đầu bằng cách xem xét một vài quan điểm không tốt trong tư duy sẽ dễ dàng hơn cho việc nhận biết quan điểm nào là phù hợp. - Tư duy không quan trọng. Cảm giác mới là quan trọng nhất. - Tư duy là buồn tẻ và đầy nhầm lẫn và chẳng dẫn chúng ta tới đâu cả. - Tôi nhận thấy tất cả các vấn đề đều quá khó. - Tư duy chỉ cần đến trong trường học và trong những việc vận dụng trí óc. Những người khác vẫn làm tốt mọi việc mà đâu cần suy nghĩ về chúng. Tất cả những quan điểm trên đều là những quan điểm tiêu cực hoặc chủ bại, nó hình thành từ tư duy của những người không tự tin vào khả năng tư duy của họ hoặc những người không được dạy cách suy nghĩ. Nhưng cũng có những kiểu đối lập của những quan điểm không đúng đắn khi mọi người quá kiêu ngạo về suy nghĩ của họ và có một cách nhìn nhận sai về mục đích của tư duy. - Tôi thấy tư duy là một việc dễ dàng. Bạn cần xem xét một số điều và quyết định nó ngay. - Tôi nhận thấy rằng tôi luôn là người có suy nghĩ đúng đắn. Tôi chẳng ngần ngại gì phải bảo vệ những ý tưởng của tôi. - Mục đích chính của tư duy là chứng minh cho những người không có cùng quan điểm với bạn rằng họ sai. - Nếu bạn chưa bao giờ mắc lỗi trong suy nghĩ, bạn là người hoàn toàn đúng đắn. - Luôn luôn có một câu trả lời cho mỗi sự việc và những ai không nhận ra nó là những người đần độn. Một trong số những quan điểm trên đây có thể là thái quá và mọi người thường hiếm khi viết ra chúng. Nhưng nếu bạn xem xét cách suy nghĩ của một số người, bạn sẽ rút ra kết luận rằng cách suy nghĩ của họ thực tế dựa trên những quan điểm như vậy. Những quan điểm tốt Những quan điểm này là những quan điểm thường gặp ở những người giỏi tư duy. Nhiều người giỏi tư duy đã áp dụng những quan điểm này, đã phát triển chúng trở thành một phần sự hiểu biết tự nhiên của họ. Nếu bạn đã có những quan điểm như vậy, sẽ rất có ích nếu bạn nêu chúng lên và khẳng định lại chúng. Nếu bạn chưa có được những quan điểm như vậy, bạn hãy học để có được chúng. Phải kể đến trước tiên là những quan điểm hướng tới kỹ năng tư duy. - Tất cả mọi người phải suy nghĩ, tất cả mọi người đều có thể suy nghĩ. Tư duy không phải chỉ dành cho những người rất thông minh hoặc những chuyên gia trong một số lĩnh vực. Mọi người vận dụng tư duy tại những thời điểm khác nhau. Tất cả mọi người có thể phát triển một kỹ năng thông dụng trong tư duy. - Tư duy là một kỹ năng và có thể được phát triển. Tư duy không giống như chiều cao hay giống như màu mắt của bạn. Những điều mà bạn chẳng thể làm được gì. Tư duy là một kỹ năng giống như những kỹ năng trượt tuyết, bơi hay đi xe đạp. Bạn có thể luyện tập để có được kỹ năng tư duy. - Tôi là một nhà tư duy. Đây chính là cái nhìn quan trọng nhất. Không quan trọng hiện nay bạn là một người có khả năng suy nghĩ như thế nào, chỉ cần bạn tin rằng bạn là một người tư duy, thế là đủ. - Tôi luôn có khả năng tư duy tốt hơn. Điều này vô cùng quan trọng. Ngay cả một người giỏi tư duy nhất cũng có thể tư duy tốt hơn. Quan điểm này tạo nên nỗ lực cải thiện kỹ năng tư duy. - Tư duy có thể đòi hỏi một sự cố gắng có chủ ý. Thật là thiếu sót khi cho rằng trở thành một người tư duy tốt đã là đủ và nhờ đó mọi suy nghĩ đều phù hợp. Có những sự tư duy đòi hỏi một sự nỗ lực có chủ ý. Tất nhiên là nhờ vào việc sử dụng những công cụ hoặc cấu trúc tư duy. Tư duy không phải luôn luôn tự động đến. - Sự việc mới ban đầu có thể rất phức tạp nhưng khi đã được xem xét chúng trở nên dễ dàng hơn. Đừng bao giờ từ bỏ vấn đề chỉ bởi vấn đề được nêu ra quá phức tạp. Hãy luôn sẵn sàng để giải quyết chúng. Sự việc khi đem xem xét có thể đơn giản hơn ban đầu, nếu không, bạn cũng chẳng có hại gì khi cố gắng giải quyết chúng. - Hãy làm từng bước tại một thời điểm. Nếu bạn làm từng bước tại một thời điểm và cứ tiếp tục như vậy, bạn có thể giải quyết hầu hết mọi việc. Hãy xác định xem bạn muốn gì ở bước này và hãy thực hiện theo nó. - Tách biệt cái tôi của bạn ra khỏi lối tư duy của bạn. Hãy xem xét tư duy của bạn một cách có chủ đích. Đây là một điều rất khó nhưng cần phải làm nếu bạn muốn trở thành một người tư duy tốt. Bạn và suy nghĩ của bạn là hai vấn đề tách biệt nhau. - Mục đích của tư duy không phải là luôn cần khẳng định điều đó là phải. Mục đích của tư duy là có được những ý tưởng tốt hơn và có cách suy nghĩ tốt hơn. Nếu bạn luôn cần là một người phải, bạn chỉ có thể kết thúc tại điểm mà bạn đã bắt đầu. - Lắng nghe và học hỏi là phần mấu chốt của tư duy. Tư duy không chỉ là việc bạn đưa ra ý kiến như thế nào mà là việc những người khác cũng đưa ra ý kiến như thế nào. - Luôn luôn khiêm tốn. Sự kiêu ngạo chính là mặt nạ ngụy trang của những người có tư duy nghèo nàn. Thật không dễ để trở thành một người khiêm tốn trong khi xung quanh bạn là những người đầy định kiến, mê muội, kiến thức hạn chế và có cái nhìn hoàn toàn sai. Nhưng bạn nên cố gắng kiểm tra trong chính cách nghĩ của riêng bạn. Bạn hãy xem xem suy nghĩ của bản thân bạn có thể sai lầm hoặc không hoàn hảo, hoặc chỉ là cái nhìn về một phía hay không. Những quan điểm nêu trên nhằm hình thành những kỹ năng tư duy và ứng dụng chúng. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét một vài quan điểm về khả năng tư duy tự nhiên của bạn. - Tư duy nên mang tính xây dựng, không nên mang tính tiêu cực. Nếu bạn chỉ chăm chăm vào việc công kích và chứng minh phía khác là sai, điều đó là chưa đầy đủ. Kiểu tư duy tiêu cực này là kiểu tư duy quá phổ biến. Cũng có những khi nó mang lại một giá trị nào đó, nhưng giá trị đó quá hạn chế. Hãy bắt đầu luyện cho bạn có lối tư duy xây dựng và đưa mọi việc đi xa hơn. - Khám phá một sự việc thay vì tranh luận về nó. Nếu mục đích của tranh luận là khám phá sự việc, bạn có thể tham gia khám phá sự việc một cách hiệu quả hơn bằng cách lựa chọn sự khám phá hơn là sự tranh luận. - Những người tranh luận cùng bạn luôn đưa ra một số điều hữu ích và mang tính xây dựng,và bạn hãy nỗ lực để chắt lọc chúng. Thay vì xem xét quan điểm của người khác như những quan điểm công kích, bạn hãy cố nhận biết giá trị từ những quan điểm đối nghịch đó. - Mọi người với những cái nhìn khác nhau đều là những người đúng theo cách nhận thức đặc biệt của riêng họ. Thay vì xem quan điểm của người khác là một điều gì đó ngu ngốc, bạn hãy cố xem xem cách nhìn nhận của họ là gì và tại sao họ lại dựa trên cái nhìn đó. - Hoàn toàn có thể có những suy nghĩ sáng tạo và những ý tưởng mới. Sáng tạo không phải là món quà đặc biệt chỉ dành cho một số người. Bạn có thể nỗ lực để có được những ý tưởng mới (bạn có thể sử dụng một vài kỹ thuật đặc biệt để trợ giúp). - Đừng e ngại khi thử nêu ra ý tưởng. Bạn không phải lúc nào cũng trở thành người đúng đắn. Bạn có thể cố gắng để đưa ra những ý tưởng thăm dò. Bạn thậm chí có thể sử dụng sự khiêu khích một cách thận trọng, bạn hãy đưa ra những dấu hiệu để chỉ ra rằng đó là một sự khiêu khích. - Tại bất kỳ thời điểm nào trong lúc tư duy, luôn có những phương án kết hợp nhưng có thể bạn chưa nghĩ ra. Đừng bao giờ tin rằng bạn đã đủ khả năng để tư duy về tất cả mọi phương án có thể xảy ra. Đôi lúc, điều này là đúng, nhưng thường thì luôn có những khả năng khác mà bạn chưa nghĩ ra. - Tránh lối tư duy võ đoán khi bạn cảm thấy rằng bạn đúng. Nếu chỉ cần ý tưởng của bạn là đủ, bạn không cần phải tư duy võ đoán. Nếu ý tưởng của bạn chưa đầy đủ, sự võ đoán đang được đặt nhầm chỗ. Hãy luôn bắt đầu bằng cách nói : “từ những thông tin mà tôi có, tôi thấy rằng….”. Danh sách những quan điểm này không phải bao gồm toàn diện mọi quan điểm. Tự bạn có thể đưa thêm những quan điểm phù hợp vào danh sách. Những quan điểm được nêu ra biểu hiện cho những cách nhìn khác nhau. Có những điều có thể được xem như một quan điểm tư duy, ví dụ “tư duy một cách chậm rãi” hay “luôn xem xem giá trị kèm theo ở đây là gì” được tôi đưa vào phần nguyên lý và thói quen. Tất nhiên là có những sự chồng chéo. Theo sau những quan điểm, tôi cố gắng đưa ra những cách tiếp cận tư duy tổng quát thay vì những hướng dẫn cụ thể. Những bài luyện tập quan điểm tư duy 1- Giải thích và thảo luận các khái niệm của quan điểm. Nó có thể bao gồm quan điểm đối với thể thao, âm nhạc, với bạn bè, nhà trường… 2- Đọc kỹ danh sách những quan điểm không phù hợp. Liệu bạn có biết người bạn nào của bạn có những quan điểm như vậy? Thảo luận xem tại sao một số người lại có những quan điểm như vậy. Bàn bạc xem tại sao đó lại là những quan điểm không phù hợp. 3- Hãy xem xem liệu bạn có thể cộng thêm quan điểm tư duy không phù hợp nào khác vào danh sách đó. Bạn cũng có thể tự phân chia danh sách những quan điểm đó thành những phần khác nhau. 4- Đọc kỹ toàn bộ những quan điểm tốt, lần lượt từng quan điểm một và thảo luận xem tại sao chúng lại tốt. Bạn có thể gợi ý những tình huống cụ thể mà theo đó quan điểm tư duy trở thành không tốt, nhưng nên tránh làm điều này vì có thể gây ra sự nhầm lẫn. Nếu quan điểm đó xét chung là một quan điểm tốt, thế là đủ. 5- Hãy đặt ra nhiệm vụ là chọn ra 5 quan điểm hữu ích nhất. Mục đích của nhiệm vụ này thực ra không phải là lựa chọn 5 quan điểm hữu ích nhất mà là một sự kiểm tra về tất cả các quan điểm (trong quá trình lựa chọn, chúng ta cần thiết phải làm điều này). 6- Nếu bạn phải kết hợp những quan điểm tốt trở thành một số ít hơn những quan điểm phù hợp, bạn phải làm thế nào? (bài tập này thích hợp cho những trẻ ở độ tuổi lớn hơn hoặc có khả năng hơn). 7- Nếu bạn phải cộng thêm vào danh sách quan điểm tốt, bạn sẽ cộng vào đó những gì? (bài tập này có thể thực hành bằng việc thảo luận hoặc viết ra giấy). (chú ý: tất cả những bài tập này đòi hỏi trẻ phải trực tiếp làm, như thể những bài tập đã được đặt ra trước mắt chúng).