🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đầu Tư Vào Vàng Ebooks Nhóm Zalo ĐẦU TƯ VÀO VÀNG Bản quyền tiếng Việt © Công ty Sách Alpha NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI Dự án 1.000.000 ebook cho thiết bị di động Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Tạo ebook: Tô Hải Triều Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách. Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản Lời giới thiệu Vàng đang là kênh đầu tư được chú ý nhất hiện nay tại Việt Nam và trên thế giới. Nhưng, giống như chứng khoán, lĩnh vực đầu tư vàng cũng đòi hỏi nhà đầu tư trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để không phải đầu tư theo kiểu đánh bạc đầy rủi ro. Thực tế cho thấy, các nhà đầu tư đều rất coi trọng vàng, nhưng ít người hiểu được sâu sắc vai trò của nó trong thị trường tài chính thế giới. Được xem như loại tài sản có độ “trú ẩn an toàn”, thứ kim loại quý giá này có thể gia tăng giá trị khi thị trường chứng khoán mất điểm và ngay cả khi nền kinh tế bị suy thoái. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, thị trường vàng Việt Nam đã và đang có những bước tiến mạnh mẽ và ngày càng biến động cùng nhịp hơn với thị trường thế giới. Cùng với sự tụt dốc của thị trường chứng khoán và việc “đóng băng” trên thị trường bất động sản thì chuyển hướng sang lĩnh vực kinh doanh vàng đang là lựa chọn hấp dẫn của nhà đầu tư. Tuy nhiên, phải thừa nhận một sự thật kinh doanh vàng luôn là kênh đầu tư ẩn chứa nhiều rủi ro, khó dự báo chính xác. Vì vậy, sự chuẩn bị chu đáo về kiến thức, bản lĩnh và kinh nghiệm đầu tư được xem là hành trang không thể thiếu để các nhà đầu tư tự tin tham gia vào cuộc chơi. Theo BIS (Bank of Intemational Settlement), cấu trúc thị trường tài chính toàn cầu được phân thành hai phần chênh lệch nhau khá lớn: Thương mại và đầu tư (giao dịch vật chất) chỉ chiếm 15%, trong khi Phòng ngừa rủi ro và đầu cơ (giao dịch vị thế) lại chiếm đến 85%. Do đó, kiến thức trong việc phân tích và ra quyết định đầu tư, kinh doanh vàng là điều rất cần thiết cho các nhà đầu tư. Một số liệu đáng buồn là theo thống kê trong thời gian qua, có đến 90% nhà đầu tư vàng tại Việt Nam bị thua lỗ! Nguyên nhân là đa số nhà đầu tư chủ yếu kinh doanh vàng mang tính nghiệp dư. Một lý do khách quan là chúng ta chưa có nhiều chuyên gia giỏi về đầu tư vàng cũng như có rất ít sách viết về đề tài này. Trong khi đó, nhà đầu tư vàng chuyên nghiệp đòi hỏi phải có sự am hiểu kiến thức về nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc..., hoạt động của các Ngân hàng Trung ương và các quỹ đầu cơ vàng lớn, sức mạnh của đồng USD, sự thay đổi trên thị trường chứng khoán, giá cả các nguyên liệu trên thị trường thế giới, cùng với tình hình kinh tế Việt Nam, chính sách tỷ giá .... Hiện nay, tại Việt Nam, sách viết về đầu tư vàng rất ít vì có thể do hoạt động kinh doanh vàng mới phát triển mạnh mẽ trong 3 năm trở lại đây. Vì vậy, cuốn sách Đầu tư vào vàng của tác giả Jonathan Spall thực sự rất hữu ích. Với kiến thức và kinh nghiệm hơn 25 năm của một nhà đầu tư trong ngành vàng và hiện đang là Giám Đốc Bộ Phận Kinh Doanh Hàng Hóa của Barclays Capital, Jonathan Spall đã cung cấp cho độc giả những chỉ dẫn tỉ mỉ về một trong những tài sản có giá trị nhất thế giới, từ việc khai thác, luyện vàng, kinh doanh đến xu hướng định giá của thị trường. Ngoài ra, tác giả còn chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm liên quan đến các quy trình giao dịch vàng đơn giản và phức tạp; vai trò quan trọng của các Ngân hàng Trung ương trên thị trường vàng; cách thức giao dịch vàng; các biện pháp phòng ngừa rủi ro cũng như chiến lược đầu tư vào vàng... Cuốn sách Đầu tư vào vàng đã được trang web www.egold.com bình chọn là 1 trong 10 quyển sách xuất sắc nhất trong lĩnh vực kinh doanh vàng. Tôi trân trọng giới thiệu đến độc giả quyển sách thú vị này và tin rằng nó sẽ cung cấp nhiều thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư và kinh doanh vàng. Tiến sĩ NGUYỄN TUẤN QUỲNH Phó Tổng Giám Đốc Công ty CP Vàng Bạc Đá Quý Phú Nhuận – PNJ 1. Khai thác vàng AI KHAI THÁC VÀNG? Nam Phi đồng nghĩa với vàng, và nói chung, quốc gia này từng được coi là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, hiện nay không phải như vậy nữa. Vốn là nơi chiếm giữ gần một phần ba sản lượng vàng trên thế giới và từng sản xuất 1.000 tấn vàng mỗi năm trong những năm 1970, Nam Phi giờ đây chỉ khai thác được khoảng 270 tấn/năm. Trong nửa cuối năm 2007, Nam Phi lần đầu tiên bị Trung Quốc vượt qua, và Trung Quốc giờ đây là nhà sản xuất vàng lớn nhất thế giới. Quả thực, sản lượng của Nam Phi đã sụt giảm khoảng 5,6%/năm trong thập niên vừa qua. Tương tự, Australia, từng tăng sản lượng trong những năm 1990 song hiện nay sản lượng của họ cũng sụt giảm. Tuy nhiên, vàng vẫn rất quan trọng với nền kinh tế Nam Phi. Theo số liệu của Phòng Khai mỏ Nam Phi, lĩnh vực này vẫn tạo công ăn việc làm cho khoảng 160.000 người. Về vấn đề có bao nhiêu người ngày càng phụ thuộc vào ngành khai thác vàng thì đây là một câu hỏi tương đối khó. Người ta cho rằng có khoảng 5 triệu người phụ thuộc vào 458.600 người đang làm việc trong mọi lĩnh vực khai mỏ - tỷ lệ gần 11/1. Nói chung, con số này bị các cuộc hôn nhân đa thê làm cho lẫn lộn song con số trung bình là khoảng từ 5- 12 người phụ thuộc vào một công nhân ngành mỏ. Trên thực tế, có khoảng 1.500.000 người sống nhờ vào mức lương từ ngành khai thác vàng ở Nam Phi. Không có gì ngạc nhiên khi tương tự con số sản lượng, tỷ lệ việc làm đã và đang giảm trung bình khoảng 8%/năm trong 5 năm qua. Trong thời kỳ đỉnh cao là năm 1987, tờ Vàng ở Nam Phi đưa tin có 530.622 việc làm trong ngành này. Tại Nam Phi, vàng đem lại nguồn thu lớn thứ hai từ xuất khẩu sau các kim loại nhóm bạch kim (hay “PGM” vì chúng thường được nói đến nhiều hơn). Vậy chính xác là những nước này sản xuất gì trong năm 2007? Hãy xem bảng 1-1. Bảng 1-1: Sản lượng vàng của các nước trong năm 2007 GFMS ước tính tổng sản lượng khai thác toàn cầu là 2.475,9 tấn trong năm 2007. Các công ty hàng đầu khai thác kim loại này dựa theo tiêu chí toàn cầu được liệt kê trong Bảng 1-2. Khái niệm lãng mạn về khai thác vàng là loại kim loại này được tìm thấy ở dạng cục vàng lấp lánh. Tuy nhiên, sự thực lại ít hứng thú hơn khi các công ty buộc phải loại bỏ hàng loạt hợp chất để có được loại khoáng sản này. Bảng 1-2: Các công ty khai thác vàng hàng đầu thế giới Hai dạng khai thác chính là khai thác mỏ lộ thiên và khai thác hầm lò. Loại khai thác lộ thiên phổ biến ở Bắc Mỹ và Australia còn khai thác hầm lò thì thường gặp ở Nam Phi. Tuy nhiên, một số mỏ ban đầu là khai thác lộ thiên do tương đối dễ tiếp cận nhưng sau đó phải chuyển xuống khai thác sâu trong lòng đất vì mỏ cạn dần. Vàng được khai thác cách từ đây hàng nghìn năm - với một số chứng tích cho thấy người Ai Cập đã khai thác vàng trong lòng đất từ năm 2000 TCN và các con sông bị “chiếm đoạt” để đãi vàng thậm chí còn xuất hiện sớm hơn. Trong vài nghìn năm qua, các dạng thức khai thác vàng lộ thiên và khai thác hầm lò ít có thay đổi về bản chất. KHAI THÁC HẦM LÒ Một vài năm trước, tôi may mắn được đến thăm mỏ Tau Tona (tên này có nghĩa là “sư tử lớn” ở Sesotho), do công ty AngloGold Ashanti điều hành, nằm cách Johannesburg khoảng 65 km. Thật thú vị khi đến thăm một mỏ đang hoạt động hơn là cuộc viếng thăm triển lãm dành cho yếu nhân. Sau những chỉ dẫn an toàn dài, trong đó có cả việc không sử dụng điện thoại di động, máy ảnh, v.v… mà vẫn không được đảm bảo sẽ tránh được nguy cơ gặp các vụ nổ bất ngờ, chúng tôi được đưa xuống sâu khoảng 2.000 m trong lòng đất. Mỏ này thậm chí còn sâu hơn khi quặng vàng vẫn được khai thác ở độ sâu trung bình gần hai dặm và điểm sâu nhất của mỏ vẫn đi xuống thêm khoảng 500 m nữa. Ở độ sâu hơn hai dặm, đây vẫn chưa phải là mỏ sâu nhất thế giới. Mỏ sâu nhất thế giới thuộc về Mỏ Driefontein của Gold Fields với độ sâu ở hơn 4.120 m, tiếp sau là Mỏ Kloof cũng của công ty này có độ sâu chỉ khoảng 4.020 m. Những kỷ lục này có thể không giữ được lâu khi trữ lượng vàng được xác định còn ở dưới độ sâu 5.600 m dưới lòng đất, và mặc dù công nghệ đã đủ tiên tiến để khai thác những trữ lượng này song chi phí lớn vẫn là rào cản – ít nhất là cho đến thời điểm hiện nay. Để có thể đưa người xuống làm việc trong lòng đất, một loạt thang máy siêu tốc đã được thiết kế và đưa vào sử dụng. Những thang máy này thông thường là loại ba khoang, có thể chở được tổng cộng 120 người và đi với vận tốc trung bình là 60 km/giờ. Tôi không dám chắc sẽ trông đợi được điều gì ở độ sâu dưới lòng đất 2.000 m song tôi đã nhận ra rằng các hạt vàng sáng lấp lánh là vỉa quặng chứ không phải là các khoáng sản màu vàng cổ điển (khoáng chất pyrit). Tuy nhiên, điều làm tôi ấn tượng lại là những tảng đá xám xịt vì do người ta đã khoan quá sâu xuống dưới bề mặt Trái Đất. “Vỉa mạch carbon” (Carbon Leader Reef) này có chứa vàng. Khái niệm này thực tế có nghĩa trong tảng đá màu xám này có các “đá cuội” màu trắng. “Những đá cuội” này trông giống như hạt đá cẩm thạch song thực ra lại là thạch anh có điểm chấm xung quanh. Quanh mỗi miếng thạch anh là một vòng nhỏ màu đen, nằm giữa một màu xám xịt, dày không hơn 1 mm. Và chính trong những vỉa nhỏ bé này, nằm sâu hơn một dặm dưới lòng đất, “vàng trong carbon” đã được tìm thấy. Vỉa đá có thể có độ rộng khác nhau từ 0,25 m đến hơn 3 m. Tuy nhiên, việc khai thác các vỉa có độ dày dưới 1 m là không hiệu quả. Địa chất học Công ty AngloGold Ashanti miêu tả vỉa quặng như sau: Lưu vực Witwatersand là một dải đất dày 6 km có chứa lẫn đất sét và các trầm tích, kéo dài hai bên khoảng 300 km về hướng đông bắc-tây nam và 100 km về phía tây bắc-đông nam ở Kaapval Cratan. Phần thượng nguồn lưu vực này chứa nhiều mỏ quặng, lồi lên ở đoạn phía bắc lưu vực, gần Johannesburg. Đi thêm về phía tây, nam và đông, lưu vực này được phủ bởi các lớp đá trầm tích và đá núi lửa Archean, Proterozic, và Mesozoic có độ dày lên tới 4 km. Lưu vực Witwatersand thuộc thời kỳ đá Archean cuối và được cho là có độ tuổi khoảng từ 2,7-2,8 tỷ năm. Vàng xuất hiện ở các tầng hay vỉa khối đá kết cuội thạch anh, có độ dày dưới 2 m và được nhiều người coi là đại diện cho trầm tích sông khối kết kéo dài. Carbon Leader Reef (CLR) bao gồm một đơn vị khối kết trở lên và khác nhau từ vài cm đến hơn 3 m về độ dày. Chu trình làm việc Công việc vẫn tiếp tục tại các công ty lớn này. Mỗi ca làm việc đều liên quan tới việc khoan và hỗ trợ mặt bậc khai thác trước đó (advancing stope face), là thuật ngữ của Nam Phi đối với khu vực làm việc tại mỏ. Mỗi mặt bậc khai thác được tiến hành ở mức trung bình 1 m/ngày. Nó phải sạch và sẵn sàng cho công tác khoan, đặt thuốc nổ (ở dạng dầu nhiên liệu ammonium nitrate), và sau đó được nối qua một loạt kíp nổ và ngòi nổ. Việc kích nổ được thực hiện khoảng một giờ sau khi công nhân đã rời khỏi mặt bậc này. Ca đêm kéo dài bốn giờ sau khi khói thuốc nổ được hút hết qua hệ thống thông khí, và một nhóm những người lái máy tời và vận hành đầu máy vét mặt bậc, tạo rãnh trước trong các hố để chuẩn bị cho ca ban ngày tiếp tục quy trình này. Những hố này, còn được biết đến ở dạng hình hộp, được trang bị một máng chuyền. Từ đây, quặng được chuyển lên các xe goòng ray không có nắp, còn được gọi là “phễu chứa”, sau đó được các đầu máy kéo tới khu vực giếng mỏ. Đá rơi qua một loạt các khe mở lớn hay còn gọi là “các lỗ tháo quặng” để từ đó, rơi xuống các khu vực sâu nhất của mỏ. Sau đó, đá được chất lên các thùng kíp ở giếng và được kéo lên mặt đất. Rõ ràng, vận chuyển một khối lượng lớn vật liệu thô tới nhà máy tinh luyện là một nỗ lực lớn về mặt hậu cần. Vì vậy, việc sơ chế ban đầu được thực hiện ngay tại công trường. Do đó, khi quặng lên tới mặt đất, nó được chuyển tới nhà máy bằng đường ray hay băng chuyền. Sau đó, quặng được nghiền và xử lý bằng hóa chất để tinh chế ra vàng. Mức độ tinh khiết của vàng ở thời điểm này vẫn còn thấp (khoảng 60%). Để nguyên chất hơn, dung dịch vàng được rót vào các khuôn catốt và nấu chảy trong lò để tạo ra các thanh vàng có độ nguyên chất xấp xỉ 90%. Các thanh vàng này tiếp tục được chuyển tới một lò tinh luyện chuyên dụng để tạo ra thành phẩm. Trữ lượng và tài nguyên Tuy việc miêu tả này đem lại một số ý tưởng về chu trình làm việc, song nó lại không mang đến ý tưởng về quy mô của doanh nghiệp. Một mỏ như Tau Tona có thể có tới 5.000 nhân viên và có trữ lượng khoảng 19 triệu tấn. Dĩ nhiên, đây không phải là hàng triệu tấn vàng mà đúng hơn là từ số lượng quặng này, có thể chỉ sản xuất được khoảng 6,5 triệu ounce vàng (chỉ 200 tấn), với giả thiết là vỉa quặng chất lượng đó có từ 10-11 gram vàng/tấn quặng. Phải mất xấp xỉ 3 tấn quặng để có thể khai thác được 1 ounce vàng trên cơ sở này. Đối lập với trữ lượng, vốn có nhiều khả năng bị cạn kiệt, một mỏ quy mô loại này vẫn có thêm những nguồn tài nguyên khác có tiềm năng để khai thác nếu giá vàng với sự bù đắp công nghệ là hợp lý. Những nguồn tài nguyên này có thể tăng thêm khoảng 20 triệu tấn, hoặc đại loại như vậy. Mặc dù đây là những khối lượng quặng lớn, nhưng phần lớn là không thể định lượng hết được, và điều này mới chỉ xét thuần túy từ một mỏ - vẫn có những thách thức khi khai thác ở các độ sâu khác. Những thách thức của việc khai thác hầm lò Việc khai thác hầm lò khó khăn và nguy hiểm do những yếu tố sau: • Những cơn địa chấn: Do ở sâu trong lòng đất, sự xuất hiện thường xuyên của những cơn địa chấn, thường kéo theo những vụ lở đá, tạo ra mối nguy hiểm thường trực đối với công nhân khai mỏ và thiết bị. • Nhiệt độ: Khi bạn xuống sâu hơn, nhiệt độ sẽ tăng lên. Ở mỏ Tau Tona, Công ty AngloGold Ashanti sử dụng các thiết bị làm lạnh lớn với điện áp tới 65 megawatt để hạ thấp nhiệt độ về mức có thể làm việc. Không có hệ thống làm mát này, nhiệt độ xung quanh sẽ cao hơn 122 độ F (khoảng 50 độ C). • Khí: Công nhân khai mỏ bị đe dọa thường trực bởi các khí độc tích tụ là carbon dioxide (CO2) và methane (CH4) từ than đá. Sự tích tụ này thường xuất hiện trong các mỏ vàng hẹp và sâu ở Nam Phi khiến chúng được gọi là “các mỏ dễ phát nổ”. MỎ LỘ THIÊN Mặc dù có thể lấy một công ty khác để đưa ra thảo luận về việc khai thác mỏ lộ thiên, song tôi vẫn quyết định lấy Công ty AngloGold Ashanti để đảm bảo tính liên tục. Quả thực, Công ty AngloGold Ashanti chỉ có một mỏ khai thác ở Mỹ là Cripple Creek and Victor (CVV) tại Colorado. Trái ngược với khoảng 5.000 nhân viên ở mỏ Tau Tona, mỏ lộ thiên này có ít nhân lực hơn - 400 nhân viên, song lại sản xuất tới 283.000 ounce vàng năm 2006 - khoảng 676 ounce vàng/nhân công so với 100 ounce vàng tại một khu mỏ trong lòng đất điển hình như Tau Tona. Thực ra, mức sản lượng trên đã giảm 14% so với năm trước đó do thời tiết hạn hán. Hãy xem số liệu của năm 2005, mức độ khác biệt thậm chí còn rõ ràng hơn, khi sản lượng lúc đó đạt xấp xỉ 860 ounce/nhân viên. Tuy nhiên, để lấy được 329.625 ounce vàng, cần phải xử lý hơn 20 triệu tấn quặng, kéo theo khoảng 40 triệu tấn lớp đất đá và vật liệu khác. Nói cách khác, để có một ounce vàng, cần nghiền và xử lý hơn 60 tấn quặng. Điều này chứng minh bản chất cần nhiều lao động và vốn lớn của ngành sản xuất vàng ở sâu trong lòng đất. Địa chất học Trang web của mỏ vàng Cripple Creek and Victor (www.ccvgoldmining.com) mô tả chi tiết cụ thể lịch sử khai khoáng trong lĩnh vực này. Các điểm nổi bật là: Nói chung, vàng hiện đang được khai thác ít hơn 20 micron về kích cỡ và xuất hiện ở ba dạng thức chính: vàng tự nhiên có lẫn pyrite như dạng rìa lồi lõm hoặc thay thế cùng các rìa hạt pyrite và trong một số trường hợp, xen lẫn pyrite; vàng tự nhiên có sắt ngậm nước và các ôxit mangan sau các telurua; và các telurua vàng-bạc chủ yếu ở dạng các mạch thạch anh-flourite. Quá trình ôxi hóa diễn ra mạnh nhất và sâu nhất cùng các vùng kết cấu lớn. Nhìn chung, việc ôxi hóa khoáng sản này ở độ sâu danh nghĩa là 122 m (400 feet). Chu trình làm việc Cripple Creek and Victor (CCV) ban đầu được khai thác do vỉa quặng dồi dào dưới lòng đất. Khi sự dồi dào này mất đi, người ta sẽ chuyển hướng sang vỉa quặng có sản lượng thấp hơn và ở trên mặt đất, nơi công việc khai thác diễn ra 24 giờ/ngày trong năm. Các lỗ khoan được khoan, sau đó đặt thuốc nổ ammonium nitrate và một hỗn hợp nhiên liệu. Nhiên liệu ưa dùng này được kích nổ bằng máy tăng thế. Đất đá được lấy ra khỏi khu vực công trường bằng loại xe tải 300 tấn. Cũng theo trang web của CCV, vật liệu này được chia tách thành “lớp đất đá” (vật liệu nằm trên trầm tích quặng), rồi được đưa tới khu vực chứa. Trong khi đó, “quặng được chuyển tới máy nghiền hai công đoạn để tạo ra loại sỏi thô có kích cỡ dưới 2 cm theo tỷ lệ 3.000 tấn/giờ. Hàng năm, có khoảng 60 triệu tấn vật liệu được vận chuyển”. Tại điểm này, đá vôi được trộn lẫn với sỏi cuội, có tác dụng làm tăng độ pH và cải thiện tính hiệu quả của sự ngâm chiết đại trà. Đây là một quy trình bình thường, nhờ đó mà “các kim loại phát lộ tự nhiên, trong đó có vàng và bạc, vốn phơi ra trên các bề mặt đứt gãy của quặng đã được nghiền, được hòa tan bằng dung dịch xử lý sodium cyanide loãng”. Rõ ràng, thực hiện một quy trình như vậy cần phải rất cẩn trọng vì “việc ngâm chiết vàng được hoàn tất ở ngoài trời tại một cơ sở ngâm chiết thung lũng (valley leach facility - VLF) - khu vực thung lũng có các lớp sét và chất dẻo mà ở đó quặng đã được nghiền để lấy vàng”. VLF có thể được coi là một bồn tắm không có chỗ thoát nước, thành bồn và đáy bồn là một hệ thống hai và ba lớp lót không thấm nước. Quặng đã nghiền được đặt trong các lớp dày xấp xỉ 10 m và dùng dung dịch sodium cyanide loãng, theo tỷ lệ 100 phần/triệu, sử dụng các ống nhỏ giọt kiểu dùng trong nông nghiệp được chôn trong đất để giảm thiểu sự bay hơi. Khi dung dịch này ngấm vào quặng, dung dịch xử lý hòa tan vàng và bạc trên bề mặt của quặng. Dung dịch được giữ tại điểm thấp nhất của VLF, ống thoát nước của bồn tắm, và được bơm vào khu phục hồi. Hợp chất chứa vàng này được miêu tả là dung dịch “mang quặng”. “Đã có giấy phép cho phép đặt khoảng 300 tấn quặng tại VLF này.” Từ đây, vật liệu “được bơm vào khu hấp phụ, không hấp phụ và phục hồi (ADR) để lấy lại vàng và bạc.” “Dung dịch được bơm qua các bồn chứa hạt carbon hoạt tính (than gáo dừa), hút hoặc hút bám hợp chất vàng-cyanide đã hòa tan. Dung dịch xử lý này, giờ không còn vàng hay “không quặng”, được quay vòng về VLF để bắt đầu kết thúc quy trình ngâm chiết. Dung dịch xử lý được bơm vào và ra khỏi khu ADR theo tỷ lệ 13.500 gallon/phút. “Vàng trên carbon được lấy ra, hoặc tách ra bằng cách sử dụng dung dịch kiềm nóng. Dung dịch chứa vàng sau đó theo đường ống đổ vào một ngăn khai thác sử dụng dòng điện trực tiếp để hút kim loại từ dung dịch tới một catốt sợi thép không gỉ, tạo thành một hỗn hợp chất rắn gồm vàng, bạc và các tạp chất được gọi là bùn quặng. Bùn quặng được đưa tới một lò tinh luyện và nung nóng để tách vàng và bạc ra khỏi các chất phi kim”. Như trong quá trình khai thác hầm lò, các thanh vàng thô (doré) được chuyển tới một lò tinh luyện chuyên dụng để tạo ra thành phẩm. Những thách thức trong khai thác mỏ lộ thiên Những thách thức trong khai thác mỏ lộ thiên khác biệt đáng kể so với khai thác hầm lò, vốn có mức độ rủi ro cao hơn. Thay vào đó, những khó khăn của việc khai thác mỏ lộ thiên thường là vấn đề hậu cần. Tuy nhiên, một rủi ro liên quan tới cả hai loại hình khai thác này là nguy cơ gây ô nhiễm đối với môi trường. MÔI TRƯỜNG Ngành khai mỏ chắc chắn nằm trong danh sách các ngành công nghiệp không mong muốn hàng đầu của nhiều nhà bảo vệ môi trường. Không có gì ngạc nhiên khi chỉ vài năm qua, chúng ta được thấy sự ra đời của các tổ chức như No Dirty Gold (Vàng không bẩn) và ARM (Hiệp hội khai mỏ có trách nhiệm). Trang chủ của No Dirty Gold có đoạn: “Khai thác vàng là một trong những ngành gây ô nhiễm nhất thế giới. Sản xuất ra một chiếc nhẫn vàng tạo ra 20 tấn chất thải hầm mỏ”. Chiến dịch này được tổ chức EARTHWORKS (trước đây là Trung tâm Chính sách Khoáng sản) và Oxfam America tiến hành vào tháng 2/2004 với mục đích “làm thức tỉnh ngành công nghiệp vàng và thay đổi cách thức khai thác vàng”. Từ lúc đó, họ tiếp tục cố gắng phát triển “một hệ thống xác minh độc lập việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội đối với các hoạt động khai mỏ” cũng như vận động hành lang các nhà bán lẻ tìm kiếm “vàng và kim loại quý được sản xuất từ những hoạt động đáp ứng các tiêu chí về xã hội và môi trường này”. ARM có mục tiêu khác và tự coi mình là “tổ chức có năng lực tiên phong, độc lập và nỗ lực trên quy mô toàn cầu, hình thành một tổ chức quốc tế và đa thể chế để đem lại lòng tin, sự minh bạch và tính pháp lý cho việc phát triển một khuôn khổ cho công tác khai mỏ thủ công, quy mô nhỏ có trách nhiệm”. Tổ chức này đang hướng tới việc thay đổi thói quen của người tiêu dùng bằng cách giáo dục “người tiêu dùng về quyền hạn của họ đối với việc cải thiện trực tiếp chất lượng cuộc sống của công nhân khai thác mỏ thủ công khi mua trang sức thương mại và khoáng sản minh bạch”. Khối lượng “chất bẩn” cần được loại bỏ, tác động đối với cảnh quan, việc xử lý hóa học, và kết quả cuối cùng là đồ trang sức đều có thể khiến những người ủng hộ công cuộc bảo vệ môi trường tức giận. Hơn nữa, một trong những hóa chất liên quan tới việc luyện vàng là dung dịch cyanide càng nhanh chóng làm bùng phát các cuộc tranh luận. Tuy nhiên, liệu những vấn đề này có thể giải quyết hoàn toàn? Phản ứng đầu tiên của tôi đối với câu hỏi này là mặc dù việc chỉ khai thác mỏ “thủ công” quy mô nhỏ là đáng hoan nghênh, nhưng song song với nó là những câu hỏi liên quan tới việc sản xuất quy mô nhỏ. Khai thác quy mô nhỏ đơn giản không đáp ứng đủ nhu cầu. Mặc dù vấn đề khai thác vàng không quan trọng như thực phẩm, nhưng chúng ta vẫn cố gắng tránh những dự báo thảm khốc như của Thomas Malthus; vẫn còn nhu cầu không thể thỏa mãn. Trong trường hợp đó, nhu cầu này có thể sẽ được đáp ứng bằng việc khai thác trái phép và vì thế, hậu quả đối với môi trường còn nghiêm trọng hơn khi sử dụng vô trách nhiệm nguồn vật liệu nguy hiểm. Phản ứng thứ hai là trong khi khó có thể chứng minh rằng khai thác vàng là niềm vui thuần khiết, thì điều đáng chú ý là cần phải xử lý rất nhiều quặng và đất đá để có được một ounce vàng và vấn đề này vẫn chưa đem lại bức tranh toàn cảnh. Như đã đề cập, ngành công nghiệp này sử dụng khoảng 160.000 lao động chỉ ở riêng Nam Phi; và mỗi công nhân lại còn phải hỗ trợ cho đại gia đình của mình. Nhân con số này ra toàn thế giới thì vấn đề sẽ trở nên lớn hơn. Phải thừa nhận rằng ở phần lớn khu vực Bắc Mỹ và Australia, các cơ hội công việc khác vẫn có song nó không thực sự thu hút một nền kinh tế sản xuất vàng, và hiển nhiên, nó không phải là vùng nông thôn Colorado. Ba là, các công ty khai thác mỏ nhận thấy ngành của họ cần được đảm bảo có những tiêu chuẩn cao nhất kèm theo. Điều này có thể khác nhau “theo những ràng buộc môi trường” tại những nước như Australia – yêu cầu rằng trước khi khai thác một mỏ, nhà sản xuất vàng phải có đủ năng lực tài chính để phục hồi khu vực mỏ trở lại hiện trạng ban đầu hoặc cải thiện nhằm giảm nhẹ tác động đối với môi trường và điều đó phải được đề cập trong báo cáo hàng năm của các công ty. Dưới đây là một vài ví dụ: 1. Tại mỏ Cripple Creek and Victor, “các kế hoạch đang được thực hiện để đánh giá khả năng khai thác năng lượng gió, vốn luôn được xem là nguồn tài nguyên thay thế vĩnh cửu…” 2. AngloGold Ashanti đưa ra những thay đổi “đối với các ống ngưng tụ tại tất cả các thiết bị làm lạnh”, dùng làm mát các mỏ dưới lòng đất, để ngăn chặn việc thải khí R134a (một khí gây hiệu ứng nhà kính). 3. Những dấu hiệu quan trọng trong việc thực hiện quy định về môi trường đối với Công ty AngloGold Ashanti là “việc sử dụng và quản lý hiệu quả cyanide, nước, và năng lượng cũng như việc phục hồi ‘quỹ đất đã sử dụng’ và chống ô nhiễm”. Dường như chúng ta đi quá xa khái niệm nổi tiếng của Mark Twain về một mỏ vàng, đó là “một hố trên mặt đất do một kẻ dối trá sở hữu”. Chương 2 kế tiếp, nói về phần tinh luyện. Tuy nhiên, trong Chương 3, tôi sẽ trở lại với các công ty khai mỏ để nghiên cứu về các hoạt động liên quan tới nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của họ. 2. Tinh luyện vàng Sau khi được tách quặng, vàng được chuyển thành dạng thanh doré, chủ yếu là ngay tại khu vực mỏ. Chúng là những thanh vàng có trọng lượng khác nhau và chất lượng cũng khác nhau, từ mức độ tinh khiết chưa đầy 50% đến hơn 90%. Tại thời điểm này, chúng ít được sử dụng để kinh doanh đồ trang sức hoặc được coi là phương tiện trao đổi; vì vậy, cần phải có các lò luyện chuyên dụng. Có một số lượng lớn các lò tinh luyện trên thế giới song chỉ có 58 lò đáp ứng tiêu chuẩn của London Bullion Market Association (Hiệp hội thị trường vàng Luân Đôn). Rand Refinery, ở thị trấn Germiston, là tổ hợp tinh luyện và nấu chảy lớn nhất thế giới. Về bản chất, lò này không chỉ xử lý phần lớn sản lượng của Nam Phi mà còn tinh luyện xấp xỉ 80% tổng sản lượng của lục địa này. Việc xử lý ban đầu thông qua Miller Chlorination Process (Quy trình clo hóa tại lò): “Đây là quy trình hỏa luyện kim học mà ở đó thanh vàng doré được nung chảy. Quy trình này tách vàng khỏi tạp chất có sử dụng khí clo, bổ sung vào lò khi vàng đã nóng chảy. Khí clo không phản ứng với vàng mà sẽ kết hợp với bạc và các kim loại thường khác để tạo thành clorua. Khi tạo thành clorua, chúng lơ lửng lên trên bề mặt ở dạng xỉ hay thoát ra ở dạng khí. Dung dịch tan chảy và khói chứa tạp chất được thu lại và tinh lọc tiếp để chiết xuất ra vàng và bạc. “Quy trình này có thể mất tới 90 phút và sản xuất ra được vàng nguyên chất ở mức độ ít nhất là 99,5% cùng với bạc là thành phần chính còn lại”. Kim loại nguyên chất này sau đó nói chung được đúc thành dạng thanh theo tiêu chuẩn của London Good Delivery. Tuy nhiên, một số thị trường nhất định muốn vàng có độ nguyên chất cao hơn, cụ thể là 99,99%, thường được viết là “9999”, gọi là “vàng bốn số chín”, và các thanh nhỏ hơn về kích cỡ so với các thanh 400-ounce của London Good Delivery. Để có được vàng đạt mức nguyên chất đó, kim loại đã tinh luyện được đúc thành các anốt và sau đó chuyển sang bộ phận điện phân, nơi nó được chuyển thành dạng bọt vàng. Song, trái ngược với tên của nó, bọt vàng này thực tế là kim loại ở dạng hạt, và sau đó lại được nấu chảy và đúng thành các thanh “giá trị gia tăng” nhỏ. Do tập quán và truyền thống địa phương, mức độ nguyên chất và kích cỡ các thanh vàng khác nhau theo các nước. Ví dụ, khác biệt sản xuất vàng trên thế giới theo tiêu chuẩn của Rand Refinery được thể hiện trong Bảng 2-1. Nguồn: ©Rand Refinery Ltd Như đã thấy, một phạm vi đo lường rộng đã được sử dụng, từ gram tới tola, từ lượng tới ounce. Các tola và lượng có thể hơi kỳ lạ khi các đơn vị đo lường thông dụng là gram và ounce; tuy nhiên, đó là quan niệm sai lầm. Ounce mà thị trường vàng sử dụng không phải là ounce đo lường tiêu chuẩn mà chúng ta sử dụng trong đời sống hàng ngày. Thay vào đó, đây là những ounce hệ tơrôi (hệ thống trọng lượng của Anh dùng để cân vàng), một thuật ngữ được cho là bắt nguồn từ thị trường kim loại quý ở thị trấn Troies của Pháp, vốn có từ thời trung cổ. Đó là ounce tơrôi sử dụng trong toàn bộ cuốn sách này (và trên thị trường) với cách viết đơn giản là ounce. Đây là đơn vị đo lường quan trọng nhất, với giá vàng thế giới được niêm yết rộng rãi theo giá vàng London giao ngay (loco London) cho một ounce tơrôi về vàng theo tiêu chuẩn London Good Delivery. Cụ thể hơn nữa thì chỉ gọi là “vàng trên thị trường London”, điều này được thảo luận chi tiết trong Chương 3 về kiến tạo thị trường. Tuy nhiên, khái niệm cơ bản về thanh vàng theo tiêu chuẩn London Good Delivery là phần chủ yếu của chương này. THÔNG SỐ KỸ THUẬT ĐỐI VỚI VÀNG THANH PHÙ HỢP THEO TIÊU CHUẨN CỦA LONDON GOOD DELIVERY Các thông số kỹ thuật đối với thanh vàng phù hợp theo tiêu chuẩn của London Good Delivery được Hiệp hội thị trường vàng Luân Đôn (LBMA) đăng tải trên trang website www.lbma.org.uk. LBMA tự giới thiệu tôn chỉ mục đích trên trang web của mình là “hiệp hội thương mại vận hành như nhà điều phối các hoạt động đại diện cho các thành viên của hội và những người tham gia khác trên thị trường vàng Luân Đôn. Hội này hoạt động với tư cách là địa điểm liên lạc chính giữa thị trường và những người quản lý thị trường”. Cần kiểm tra nghiêm ngặt trước khi các lò luyện vàng được phép làm đại diện vì “các lò luyện theo tiêu chuẩn của Good Delivery” phải đảm bảo tiêu chuẩn. Thật thú vị, LBMA “khuyến nghị mạnh mẽ” rằng trọng lượng không được đánh dấu trên mỗi thanh vàng lớn 400 ounce vì “khi các thanh vàng này được cân ở Luân Đôn bằng thiết bị cân được LBMA phê duyệt, trọng lượng của chúng có thể khác nhau và bất kỳ sự điều chỉnh nào về trọng lượng của một thanh vàng do việc bốc dỡ hay đóng dấu sau này sẽ cần phải có sự thay đổi về dấu hiệu”. Về cơ bản, thanh vàng theo tiêu chuẩn London Good Delivery là thanh vàng ưa thích của các nhà làm phim khi họ quay cảnh trộm cướp từ một số kho vàng của ngân hàng, như các bộ phim Italian Job hay Three Kings. Các thanh vàng theo tiêu chuẩn Good Delivery là các thanh vàng có trọng lượng xấp xỉ 400 ounce tơrôi (khoảng 12,5 kg), với hàm lượng vàng tối thiểu là 99,5% và (bình thường) có hai cạnh bên vát để cầm. Nếu bạn từng cố nhấc thanh vàng này, bạn sẽ ngạc nhiên đấy. Không chỉ có trọng lượng nằm ngoài mức tưởng tượng của bạn, thỏi kim loại này cũng rất khó cầm. LBMA thành lập khái niệm “Giao dịch vàng trên thị trường London” tuân thủ theo các thông số kỹ thuật sau: Trọng lượng • Hàm lượng vàng tối thiểu: 350 ounce tơrôi nguyên chất (xấp xỉ 10,9 kg) • Hàm lượng vàng tối đa: 430 ounce tơrôi nguyên chất (xấp xỉ 13,4 kg) • Trọng lượng của một thanh vàng nên được tính theo ounce tơrôi, theo bội số 0,025, làm tròn xuống số gần nhất 0,025 của một ounce tơrôi. Kích cỡ Những kích cỡ được khuyến nghị sau đây cho một thanh vàng theo tiêu chuẩn Good Delivery xấp xỉ như sau: • Độ dài (Trên mặt): 250 mm +/- 40 mm Độ vát: 7% đến 15% • Độ rộng (Trên mặt): 70 mm +/- 15 mm Độ vát:15% đến 30% • Chiều cao: 35 mm +/- 10mm • Tuổi tối thiểu có thể chấp nhận của vàng là “995 phần trên vàng nguyên chất 1000”. • Ngoài ra, mỗi thanh vàng phải có số sêri, tem của nhà tinh luyện, năm sản xuất, và tuổi của vàng tới bốn con số quan trọng. Tất cả điều này có thể làm nảy sinh câu hỏi tại sao tiêu chuẩn London Good Delivery Bars (LGD) lại quan trọng như vậy. Câu trả lời đơn giản là việc kiểm tra gắt gao mà các bên tinh luyện phải thực hiện trước khi các thanh vàng của họ có thể được LGD chấp nhận tạo cho bên mua lòng tin rằng độ tinh khiết là chính xác. Điều này cũng đúng với các thanh vàng nhỏ hơn và các thanh vàng có cả trọng lượng, tuổi vàng in bình thường trên thanh. Rõ ràng, các thanh vàng này không thể là tiêu chuẩn London Good Delivery vì kích cỡ của chúng song người tiêu dùng có thể yên tâm phần nào nếu chúng được một nhà tinh luyện nổi tiếng sản xuất. Quả thực, một số nước mua vàng ở châu Á và Trung Đông sẽ trả phí bảo hiểm cho các nhãn hiệu cụ thể mà họ yêu thích. CÁC THANH LỚN HAY NHỎ? Đối với các nhà tinh luyện vàng, họ nhìn chung thích sản xuất các thanh vàng nhỏ hơn nhưng có giá trị cao vì lợi nhuận cận biên của chúng lớn hơn. Nhu cầu đối với vàng tự nhiên nói chung có thể được đánh giá bằng mức phí bảo hiểm áp dụng cho những thanh vàng nhỏ hơn này. Ví dụ, nếu mức biên lợi cao, lò luyện sẽ tăng sản lượng đối với các thanh vàng nhỏ và sẽ chuyển các thanh vàng bốn số chín (độ nguyên chất là 9999 hoặc 99,99%) tới Hồng Kông. Nếu biên lợi thấp, hoặc thậm chí phải hạ giá theo thị trường London, bên tinh luyện sẽ bán sản phẩm là các thanh vàng lớn (độ nguyên chất 995 và được gọi là “hai số chín một số năm”) ra thị trường quốc tế. Thường thì điều này đơn giản nghĩa là vàng được đưa ra theo mức giá xác định ở London. 3. Những công ty khai thác vàng và nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro TẠI SAO LẠI THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO? Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro do một công ty khai mỏ Australia thực hiện lần đầu tiên. Công ty này phấn khởi khi một ngân hàng chuẩn bị mua vàng mà họ dự kiến phải sản xuất trong 5 năm với mức giá tương đương thời giá thị trường. Rõ ràng, họ đã bỏ qua một điều rằng vàng là một thị trường contango (được gọi như vậy vì đường cong có hướng đi lên). Nếu trở thành hiện thực, một thương vụ như vậy sẽ đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng liên quan. Quả thực, khái niệm về contango là phần then chốt đối với nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Vậy, contango là gì? CONTANGO Đối với nhiều loại hàng hóa, đường cong giá thông thường theo hướng đi xuống, cụ thể là đường giá dốc xuống cho thấy mức giá lần giao gần nhất cao hơn những lần giao về sau, phản ánh mức cung thuận lợi và hàng hóa vật chất sẵn có. Thường lượng hàng hóa này tích trữ cho vài ngày hoặc vài tuần, mức giá cao hơn gần đó phản ánh mức độ khan hiếm tương đối của hàng hóa. Tôi đã tìm hiểu một số lý do tại sao giá vàng thường đi lên và thấy rằng vàng trên thực tế được giao sau. Đối với tôi, giao sau (forwadation) là một từ được các cá nhân có ít kinh nghiệm về thị trường vàng bàn luận, và quả thật, tôi chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ này được sử dụng trong giao dịch. Thay vào đó, thuật ngữ contango được nhiều nhà giao dịch chấp thuận rộng rãi. Một ví dụ cụ thể hơn: nếu một công ty khai thác vàng chuẩn bị bán cho tôi vàng giao ngay (giao trong thời gian hai ngày giao dịch), tôi sẽ phải trả cho họ 975 đô-la/ounce theo mức giá thị trường hiện thời. Nếu cùng nhà sản xuất đó muốn bán vàng cho tôi song giao nó trong 10 năm, tôi sẽ phải trả hơn 1.400 đô-la/ounce. Công thức tính đơn giản, như thể hiện trong ví dụ sau: Vàng giao ngay (XAU) = 975 đô-la Tỷ giá chào bán kỳ hạn của vàng (GOFO) = 4,5% Ngày (t) = 3.652 (số ngày giữa lần giao ngay và ngày giao) Công thức tính như sau: Vàng giao trong 10 năm = XAU + (((XAU x GOFO)/360) x t) = 975 đô-la + 445,088 đô-la = 1.420,088 đô-la Bất ngờ là khi giá vàng tăng lên, quy ước thị trường sẽ sử dụng ba số thập phân cho giá. Vì vậy, đối với trì hoãn giao hàng, có khía cạnh hấp dẫn về mức phí bảo hiểm 445 đô-la so với mức giá giao ngay; vàng giao ngay được giao ở London và New York hai ngày kinh doanh sau khi thực hiện giao dịch cho phép thanh toán bằng đồng đô-la (ở New York) và vàng (ở London). Chắc chắn, điều có ý nghĩa đối với các công ty là bảo toàn rủi ro về giá ít nhất là một phần đầu ra trong những năm tiếp theo để bảo toàn luồng tiền mặt và đảm bảo sự sống còn của công ty khai mỏ? Khái niệm contango tạo ra những công cụ tài chính hấp dẫn với những người sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Điều này là vì các mô hình thành lập giá quyền chọn theo giá giao sau (bao gồm lãi suất và chi phí lưu giữ, v.v…) và việc xác định được giá giao ngay chênh lệch bao nhiêu so với giá giao sau là một cách đánh giá chi phí quyền chọn. Sử dụng ví dụ ở trên, một công ty khai mỏ có thể tin rằng giá vàng ở thời điểm hiện tại là 975 đô la, là mức giá nếu bán trong thời gian dài hơn sẽ tốt hơn. Mô hình quyền chọn cho công ty khai mỏ biết rằng chi phí bảo đảm này trong 10 năm, mua quyền chọn bán, là 95 đô-la/ounce. Liệu giá này có xứng hay không? Có thể là có, khi so với quyền chọn tại thời điểm giá giao sau là 1.420 đô-la, sẽ mất chi phí 255 đô-la/ounce. Trong nhiều trường hợp, các công ty quyết định rằng họ thà bán các quyền chọn để có phí bảo hiểm hơn là phải trả cho chúng. Vì vậy, một công ty khai mỏ có thể bán quyền chọn bán vàng trong 2 năm có giá trị 1.500 đô la để lấy 40 đô-la, lý do là mức giá đó không thể thu hồi bằng một tỷ lệ cao như thế trong 2 năm. Tuy nhiên, vẫn có khả năng phát sinh các vấn đề khi không xác định được ai là người quyết định thực hiện phương án này: người chủ của quyền chọn mua hay chọn bán – bên khai mỏ trong ví dụ đầu tiên song lại là ngân hàng trong ví dụ thứ hai. Vì vậy, mặc dù 1.500 đô-la có vẻ là mục tiêu khó đạt được trong vòng 2 năm, nhưng Long Term Capital Management (Quản lý vốn dài hạn) lại đạt được điều đó. Vì vậy, nếu sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, thì nên dùng trong tương lai gần hơn là tương lai xa. Rõ ràng, về bản chất, lập luận về nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro mang nhiều sắc thái hơn so với điều có thể nêu rõ trong cuốn sách này không chỉ do chiến lược khác nhau mà còn vì chúng rất phụ thuộc vào biến động của thị trường sau này. Nếu giá vàng phục hồi theo các mức hiện thời, những công ty gần đây mua bảo hiểm phòng ngừa rủi ro này sẽ được xem là dự báo đúng, trong khi những công ty chỉ quản lý sổ sách để giảm thiểu kết quả tồi tệ sẽ bị coi là chậm chạp. Tuy nhiên, nếu xảy ra trường hợp ngược lại, khái niệm “người hùng” và “con số không” sẽ thay đổi nhanh chóng. Tôi nghĩ rằng lập luận mạnh mẽ nhất có thể nghiêng về nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro được đưa ra tại buổi họp báo một vài năm trước, khi chủ tịch của một công ty khai mỏ lớn cố gắng làm sáng tỏ về vàng, cho rằng một nhà sản xuất vàng nên hành động theo cách tương tự như bất kỳ công ty nào khác. Để chứng minh, ông ta so sánh việc điều hành một mỏ vàng với việc sở hữu cửa hiệu giày. Để bảo vệ được luồng tiền mặt và điều hành công ty của bạn theo cách kinh doanh thông thường, chắc chắn đây là lời khuyên đúng đắn, trừ phi có nhiều nhà đầu tư mua vốn cổ phần của các công ty khai thác vàng do họ muốn tiếp cận giá vàng. Họ tin rằng các mỏ được quản lý tốt và muốn thấy giá vàng tăng. Ngược lại, dường như khó có thể tìm được ai mua cổ phần trong một nhà máy sản xuất giày trừ phi kỳ vọng về giá đối với giày tăng. Thực ra, không có sự liên kết nào giữa cách một số nhà sản xuất vàng thực sự đã làm và cách một số cổ đông muốn họ thực hiện. SỬ DỤNG NGHIỆP VỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO Trong suốt những năm 1990, thời hoàng kim của việc bán giao sau, các công ty khai thác vàng Australia là những người sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro nhiều nhất, sau đó là các công ty ở Bắc Mỹ còn các công ty ở Nam Phi phần nhiều không dùng tới nghiệp vụ này. Thậm chí tập quán của các nước cũng rất khác nhau khi một số công ty Australia dường như sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro 100% đối với sản lượng dự báo và một số thậm chí còn bán vượt mức sản lượng này khi họ tìm kiếm lợi nhuận ở thị trường xuống giá đang kìm kẹp ngành công nghiệp này. Các chiến thuật cũng khác nhau, với việc bán vượt mức các quyền bán lấy tiền ngắn hạn (hoặc mức delta thấp) trong khoảng thời gian thông thường từ một tháng trở xuống để chốt giá bán một tỷ lệ sản lượng mỏ trong nhiều năm, thậm chí trong một số trường hợp tới 15 năm. Chính các sản phẩm cũng có thể khác nhau, từ kinh doanh thông thường tới những quyền chọn đặt rào phức tạp. Đổi lại, những sản phẩm này có thể có liên quan tới các lĩnh vực nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của nhà sản xuất. Sự phụ thuộc lẫn nhau này rất có lợi cho ngân quỹ của các công ty khai mỏ nếu giá vẫn ở mức thấp, song nếu vàng tăng giá thì họ có thể không chỉ đối mặt với việc phải bán kim loại này với giá dưới giá thị trường mà còn phải trả lãi suất cao hơn cho số vàng mà họ đã vay. Khái niệm về vàng có lãi suất có thể mới mẻ với một số người song tôi sẽ quay trở lại chủ đề này trong Chương 4. Vào thời hoàng kim, như Virtual Metals Group và Haliburton Mineral Services ước tính, thị trường vàng toàn cầu bán ra trước khi vàng được khai thác là 102,8 triệu ounce (3.212,5 tấn). Vào cuối năm 2007, con số này đã giảm xuống chỉ còn 26,8 triệu ounce hay 837,5 tấn. Vậy điều gì đã thay đổi? Câu trả lời ngắn gọn là giá vàng, nhưng tại sao và lỗi của ai khiến giá vàng lại thấp như vậy lại là một vấn đề khác. Tuy nhiên, chắc chắn có một lập luận vẫn còn phải bàn cãi, đặc biệt là trong suốt những năm 1990 khi các ngân hàng trung ương và các công ty khai mỏ đổ lỗi cho nhau. 4. Dự trữ vàng NHẬN THỨC VỀ VÀNG Qua các phương tiện truyền thông, có thể thấy phần lớn mọi người đều không biết tường tận về thị trường vàng, nơi khách hàng chủ yếu là các ngân hàng trung ương. Quả thực, vàng là “đồng tiền” thứ ba sau đồng đô-la và đồng euro (EUR). Vì vậy, các ngân hàng cần thứ kim loại quý này cho kho dự trữ của mình: một phần quan trọng trong bất kỳ danh mục đầu tư nào. Lướt qua một số nhận định công tâm gần đây, càng thấy xu hướng này nổi bật: “Nếu là thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc hay Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ hoặc Ngân hàng Nhật Bản, chúng ta đều biết cái mình sẽ làm: chúng ta sẽ đưa đồng đô-la và EUR dự trữ ra chào bán một cách lặng lẽ nhưng liên tục và chúng ta cũng sẽ cố gắng kiếm vàng về một cách lặng lẽ và liên tục”. Dennis Gartman đã viết như thế trong bản tin hồi tháng 11/2005. Đây là chủ đề luôn được lặp lại của ông và nhiều nhà nhận định thị trường khác. Trong một số trường hợp, các ngân hàng trung ương cũng tham gia tranh luận. Xem xét tình huống sau: “Trung Quốc nên tăng đúng mức kho dự trữ vàng của mình và mua thêm dầu mỏ, kim loại, và các khoáng sản chiến lược khác để mở rộng các kênh đầu tư của các kho ngoại hối”. Hãng Reuters đã dẫn những bình luận này của Xiang Junbo, phó thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (Ngân hàng trung ương Trung Quốc). Người Nga có thể cảm thấy vô cùng lo lắng khi Maria Gueguina, người đứng đầu bộ phận Quản lý Dự trữ Ngoại hối của ngân hàng trung ương của nước này, tuyên bố trong bài phát biểu trước hội nghị về vàng của LBMA ở Johannesburg (tháng 11/2005) rằng “Các tính toán của Ngân hàng trung ương Nga cho thấy khoảng 10% số vàng được dự trữ sẽ dành cho các yêu cầu đặc biệt”. Qua đó, tỷ lệ dự trữ hiện thời là 2,5%, sẽ buộc người Nga phải mua thêm khoảng 1.300 tấn (41,6 triệu ounce). Mặc dù bà Gueguina sau đó giải thích rõ rằng nhận định của bà chỉ mang tính “lý thuyết” nhưng giá vàng thế giới đã phục hồi nhanh chóng. Chủ tịch ngân hàng trung ương Nga được dẫn lời nói rằng “vấn đề vàng đang được thảo luận”, và hãng Reuters cho biết: “Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cởi bỏ được gánh nặng sau ý tưởng tăng tỷ lệ vàng lưu trữ vốn đang tăng lên nhanh chóng của ngân hàng trung ương”. Tuy nhiên, số lượng vàng được lưu giữ, như Ngân hàng Trung ương Nga báo cáo với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), vẫn ổn định ở mức 438 tấn (là nước nắm giữ vàng lớn thứ bảy trên thế giới). Mặc dù các nhà phân tích không cần phải tuyên bố về việc dự báo nước nào có thể sẽ phải mua vàng, tất cả điều cần làm là nhanh chóng làm tăng các kho dự trữ ngoại hối và có thể là duy tri mối quan hệ lỏng lẻo với Mỹ. Mỹ thường được xem là một nguyên do vì người ta cho rằng những nước muốn mua vàng thường không muốn nắm giữ một lượng lớn đồng đô-la. Vì vậy, một số nước được xem là những nước mua vàng là Arap Saudi, Nga, Ấn Độ, Iran, Venezuela, Nam Phi, Brasil, v.v… NHỮNG NƯỚC NẮM GIỮ VÀNG Những nước nắm giữ vàng lớn nhất thế giới và tỷ lệ dự trữ của họ được thể hiện trong Bảng 4-1 (số liệu tính đến tháng 3/2008): Bảng 4-1: Những nước nắm giữ vàng lớn nhất thế giới Đánh giá thực tế số liệu này cho thấy những nước nắm giữ vàng lớn nhất thế giới, chắc chắn về mặt tỷ lệ, là “những nền kinh tế cũ” của phương Tây cùng Trung Quốc và Nhật Bản ở châu Á. Tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ vàng của những nước này chỉ là tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ trữ lượng vàng của họ. Hãy xem xét các nền kinh tế châu Á, đơn giản là xem một số ngân hàng trung ương của họ nắm giữ lượng vàng ít bao nhiêu cả về mặt tỷ lệ và số lượng. Trong khi các quốc gia châu Á được liệt kê trong Bảng 4-2 nói chung nắm giữ ít hơn 3% so với trữ lượng vàng của họ, con số này đối với các nước châu Âu (Bảng 4-1) là hơn 50%. Quả thực, nhìn lại số liệu thống kê đối với những động thái trong phần dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương trong 10 năm qua, có một sự vượt trội về các dấu trừ. Nói cách khác, việc kinh doanh vàng là đặc điểm chi phối trong hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường vàng. Đúng là có một số thương vụ mua sắm nhưng chúng có xu hướng tương đối khiêm tốn và thường xuất phát từ yêu cầu là các công ty khai mỏ trong nước quy mô nhỏ phải bán kim loại này cho ngân hàng trung ương và ngân hàng trung ương có thể bổ sung lượng vàng này vào kho dự trữ của mình hoặc bán ra thị trường quốc tế. Bảng 4-2: Những nước châu Á nắm giữ vàng hàng đầu Chỉ có bên mua vàng hàng đầu thực sự là Ba Lan trong những năm 1990 - được cho là mua từ một ngân hàng trung ương châu Âu khác - cũng như những tuyên bố của Trung Quốc rằng họ đã mua vàng trong năm 2002 và 2003, và cuối cùng là thông báo của Archentina năm 2004 rằng họ đã mua xấp xỉ 30 tấn vàng để mở rộng kho dự trữ của mình. Ngoài Ba Lan và Archentina, vụ mua vàng của Trung Quốc được xem là đáng kể nhất. Thông qua việc họ trước đây đã mua vàng và có thể sẽ tiếp tục làm như vậy, đặc biệt khi việc mua vàng của họ mới chỉ tạo ra 1,1% trong kho dự trữ ngoại hối đang không ngừng tăng lên của Trung Quốc. Điểm lại một chút về lịch sử: Tháng 1/2002, Trung Quốc tuyên bố tăng lượng vàng dự trữ từ 12,7 lên 16,08 triệu ounce. Con số, được báo cáo lên IMF lần đầu tiên vào những năm 1970, vẫn không thay đổi cho tới khi có thông cáo báo chí này. Việc gia tăng lượng dự trữ này đã xảy ra bất chấp có luật cho phép bán sản lượng vàng của nước này cho ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, còn gọi là PBoC). PBoC sau đó điều chỉnh giá trong nước để cho phép đưa vàng vào hay ra khỏi nước này. Gần như chính xác 1 năm sau đó, con số này tăng lên 19,29 triệu ounce hay xấp xỉ 602 tấn vàng. Nếu tuyên bố đó được đưa ra vào lúc này, có thể giá vàng sẽ nhanh chóng tăng cao do những nhà đầu tư sẽ tham gia mua nhiều hơn. Tuy nhiên, phản ứng tại thời điểm đó lại tương đối thờ ơ khi các nhà phân tích cho rằng ngoài các vụ mua vàng mới ra, thì việc gia tăng lượng vàng dự trữ mang tính cân đối nhiều hơn so với lượng được nắm giữ thực tế. Trên thực tế, những con số báo cáo lên IMF không được kiểm toán độc lập, vì vậy, vẫn còn có những tuyên bố hoặc quá mức hoặc dưới mức về lượng dự trữ của một số nước. AI MUA VÀNG? Trước khi hỏi ai mua vàng, nên kiểm tra xem tại sao các ngân hàng trung ương lại là đối tượng nắm giữ vàng ở vị trí hàng đầu như vậy. Câu hỏi này sau đó sẽ đưa đến tranh luận về việc đa dạng hóa đầu tư, vàng không phải là món nợ của ai, ấn tượng về truyền thống và tình đoàn kết: các đặc điểm tiêu chuẩn được gán cho vàng. Giả sử rằng lập luận về việc đa dạng hóa đầu tư là đáng tin cậy nhất, nhiều ngân hàng trung ương sẽ nói rõ nhiệm vụ của họ là bảo toàn các kho dự trữ bằng cách đảm bảo tính thanh khoản, một cách tiếp cận mang tính thận trọng. Các ngân hàng trung ương có xu hướng không phải là cơ quan kinh doanh mà đơn thuần có trách nhiệm duy trì hiện trạng. Về khía cạnh này, vàng đáp ứng tất các yêu cầu. Đó là một tài sản truyền thống và được phần lớn các ngân hàng trung ương nắm giữ. Lại giả định rằng Trung Quốc, Nga và Ấn Độ - những nước được cho là bên mua vàng - quyết định mua thêm thứ kim loại này để làm phong phú kho dự trữ của mình, điều này sẽ liên quan đến bao nhiêu vàng? Con số 1% vàng được dự trữ rõ ràng là quá ít để tính toán; ngân hàng trung ương lớn nhất gần đây mới được khai trương là Ngân hàng trung ương châu Âu, ngân hàng lựa chọn mức 15% mặc dù số lượng này có liên quan nhiều hơn tới việc các thành viên của ngân hàng này hầu hết là những nước nắm giữ vàng lớn ở vị trí đầu tiên, trong một số trường hợp là trên 50%. Vì vậy có lẽ, con số 10% có thể là thích hợp, đặc biệt là qua những nhận xét mang tính lý thuyết của Maria Gueguina thuộc Ngân hàng trung ương Nga. Con số này có vẻ hợp lý hơn so với mức 3-5% mà nhiều cơ quan đang tìm kiếm đầu tư vào các thị trường hàng hóa: một lớp tài sản mới ngoài sản phẩm truyền thống chủ yếu của các ngân hàng trung ương. Bảng 4-3: Các vụ mua vàng theo lý thuyết của các ngân hàng trung ương Trung Quốc, Nga và Ấn Độ Qua cách đánh giá đơn giản này, khi chỉ ba cơ quan này muốn nắm giữ 10% lượng vàng dự trữ, họ sẽ phải mua 6.646 tấn. Con số này tương đương với sản lượng khai thác vàng toàn cầu trong hơn hai năm rưỡi. Để tìm hiểu khía cạnh này, theo hợp đồng bán mà các ngân hàng trung ương châu Âu đạt được, các bên tham gia hợp đồng bị giới hạn bán 500 tấn vàng cho nhau trong năm – con số này được xem là một lượng sẽ không làm gián đoạn quá mức thị trường. Lựa chọn logich tương tự, sẽ cần phải mất hơn 13 năm cho ba cơ quan này đạt được mục đích của mình, và đến thời gian đó, kho dự trữ của họ chắc chắn sẽ tăng lên về căn bản. Nếu tỷ lệ là 3%, thì cũng sẽ vẫn là một con số lớn, song lần này, câu chuyện lại tập trung gần như hoàn toàn vào Trung Quốc, nước sẽ phải mua hơn 1.000 tấn. Nói chung, vấn đề mà các ngân hàng trung ương gặp phải với vàng chính là nét đặc trưng của nó. Nếu một ngân hàng trung ương lựa chọn tăng tỷ lệ đồng euro mà họ nắm giữ trong kho dự trữ của mình theo tỷ lệ đồng đô-la, đó sẽ là chủ đề chỉ diễn ra trong thời đoạn ngắn cho các thị trường tài chính. Năm 1999, khi Gordon Brown là Bộ trưởng Tài chính Anh, ông đã lựa chọn bán 395 tấn vàng dự trữ của nước này ở mức giá/tấn trung bình là gần 275 USD - một quyết định vẫn bị nhắc lại bất cứ khi nào phe đối lập muốn nghi ngờ khả năng quản lý tài chính của ông. Tình huống này minh họa song đề rằng vàng đại diện cho lĩnh vực dự trữ bắt buộc, nhưng vàng cũng là hình thức đầu tư bán-và-giữ. Một khi được sở hữu, vàng cực khó bị bán đi. Một phép ẩn dụ thích hợp là chiếc giỏ bắt tôm hùm - rất muốn vào nhưng vào rồi thì không thể ra. Tuy nhiên, tôi thấy hai khả năng đối với các cơ quan nhà nước muốn mua một số lượng đáng kể vàng, đầu tiên là nằm trong một nước độc quyền nơi ngân hàng trung ương được chỉ đạo tích lũy vàng. Thứ hai là thông qua các quỹ đầu tư nhà nước (SWF) mà ở đó một quốc gia sẽ đơn giản xử lý khoản đầu tư như một vụ kinh doanh không báo trước - thực ra là một sự chuyển hướng triệt để từ loại hình hoạt động mà chúng tôi đã chứng kiến ở nhiều nước trong thời gian trước đây - để vàng có thể lại được bán vào một thời gian thích hợp. Theo những ước tính hiện thời, các SWF có khoảng 3.000 tỷ đô-la đang được quản lý, và thậm chí một vài điểm % của khoản đầu tư sẽ được chuyển sang một khoản đầu tư lớn trong thị trường này – mỗi điểm % tương đương khoảng hơn 900 tấn vàng (dựa trên cơ sở mức giá là 1.000 USD/ounce). Nhiều người sẽ không đồng ý với tôi và thay vào đó, lại chỉ ra khả năng về một vụ giao dịch “ngoài thị trường” (off market). Ví dụ, tôi từng cho rằng Trung Quốc, Arap Saudi và các nước khác sẽ không mua trữ trên thị trường mà thay vào đó sẽ đơn giản tổ chức các cuộc thương lượng cấp cao với các đối tác tương đương của một ngân hàng trung ương châu Âu. Các thống đốc của hai cơ quan này sẽ đồng ý về một mức giá thị trường trung gian, sau đó vàng sẽ sang tay trên cơ sở định giá vàng, giá chuẩn được đưa ra dựa trên một ngày nhất định hoặc trên cơ sở trung bình trong một giai đoạn. Quả thực, điều này có thể là một lập luận có tính thuyết phục liên quan đến các nhu cầu của cả hai bên. Tuy nhiên, tôi vẫn hơi hoài nghi. Đối với bên bán, các ngân hàng trung ương thích tái đảm bảo với khách hàng của mình rằng họ đã giành được mức giá khả dĩ nhất. Họ cần thiết phải tránh những cáo buộc rằng họ đã bán vàng ở một mức giá không thỏa đáng hay quá rẻ, như đã đề cập trước đây, tương tự như cáo buộc dành cho Thủ tướng Anh Gordon Brown, mặc dù Anh là trường hợp hơi khác khi mà ở nước này, vàng dự trữ thuộc về chính phủ chứ không thuộc về ngân hàng trung ương. Ở những nước khác cũng phức tạp không kém. Các thống đốc ngân hàng trung ương thường không muốn chứng kiến hoặc cơ quan hoặc thể chế của mình bị chỉ trích tại cơ quan lập pháp do năng lực quản lý kinh tế kém. Vì vậy, trong phần lớn các trường hợp, vàng được bán trong một thời gian kéo dài để thể hiện một mức trung bình thỏa đáng. Về mặt lý thuyết, vẫn có khả năng Trung Quốc mua vàng của Pháp hoặc một quốc gia châu Âu khác. Tuy nhiên, bất kỳ tin tức nào cho biết một quốc gia châu Á, một nước sản xuất dầu mỏ, hay quỹ đầu tư nhà nước đã mua một số lượng đáng kể vàng sẽ gây ra mức tăng mạnh giá vàng ngay lập tức. Các tuyên bố rằng đây chỉ là một vụ mua vàng sẽ bị phớt lờ. Thay vào đó, những người kinh doanh sẽ tập trung vào cả khả năng đối tác này sẽ mua thêm vàng và các đối tác khác sẽ trông đợi tái lập vụ giao dịch này. Vì vậy, người bán ngoài thị trường không được coi là đạt được mức giá thị trường trung gian, mà họ sẽ bị đánh giá là đã bán ở một mức giá thấp hơn đáng kể so với giá thị trường. Tôi đã đề cập ở trên rằng đây là một quan điểm hoài nghi, nhưng tôi biết ít nhất một ngân hàng trung ương đúng là có tranh luận về khả năng cố tìm một bên mua hoặc bán vàng ra thị trường. Ngân hàng trung ương đã lựa chọn giải pháp thứ hai, giải pháp mang tính chính trị. Có lẽ tình hình đối với IMF có thể khác. Hiện IMF đang tranh luận về việc bán, và căn cứ vào đó, vàng về lý thuyết do nhiều quốc gia sở hữu, nên có thể đạt được một thỏa thuận. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa cảm thấy thuyết phục. Thỏa thuận bán do các ngân hàng trung ương châu Âu ký được đưa ra ở trên đã hình thành cơ sở cho phần tiếp theo của chương này. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG BÁN VÀNG Trong phần lớn những năm 1990, vàng trên thị trường xuống giá liên tục. Người ta xem đó là một khoản đầu tư không hợp thời khi vào thời điểm đó người ta đang ưa chuộng một kỷ nguyên đổi mới kỹ thuật tài chính và bùng nổ Internet. Như đã đề cập ở Chương 3, liên quan tới các hoạt động của nhà sản xuất vàng, trong nhiều trường hợp, họ sẽ bán lượng vàng mà họ chưa khai thác để bảo đảm tương lai hoạt động của mình và nhiều nhà đầu cơ đang bán khống vàng theo cách hiểu là chiến thuật “carry trade” (chiến thuật mà trong đó nhà đầu tư bán một ngoại tệ cụ thể có tỉ số lãi suất cho vay tương đối thấp và dùng số tiền thu được để mua một loại ngoại tệ khác có tỉ số lãi suất tương đối cao). Nhờ vào chiến thuật này về bản chất các quỹ đầu tư hợp tác và những quỹ khác sẽ bán vàng, vay lại với lãi suất vàng thấp, và rồi đầu tư đô-la từ các thương vụ của mình vào các công cụ mang lại lợi nhuận cao (hoặc thậm chí là vào trái phiếu kho bạc). Việc vàng xuống giá thấp hơn có nghĩa là không chỉ những nhà đầu cơ thu được lợi nhuận mà họ còn đang hưởng đồng vốn lên giá khi giá của vàng vẫn giảm. Nhiều ngân hàng trung ương không muốn ngồi nhìn vàng rớt giá và tài sản quốc gia bay hơi. Đến cuối thập kỷ này, chúng tôi chứng kiến người Bỉ, người Hà Lan và người Canada cùng với các quốc gia khác bán vàng. Và thời kỳ đen tối đã tới khi trong suốt năm 1999, một số quốc gia được cho là thích vàng đã tìm cách làm vơi bớt kho dự trữ của mình. Australia đã bán, rồi Anh và Thụy Sĩ cũng tuyên bố ý định thu hẹp xuống gần một nửa kho dự trữ của mình; Thụy Sĩ đã bán bớt 1.300 tấn so với Anh là 395 tấn. Tới một chừng mực nhất định, thị trường đã quen với ý niệm các ngân hàng trung ương bán vàng. Các nhà đầu tư không quan tâm đến quan điểm này, song nó được chấp nhận. Tuy nhiên, khi tin tức về vụ bán vàng của Australia bị vỡ lở, thì thị trường quốc tế đã hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Các công ty khai mỏ không còn sôi nổi nữa và họ chỉ ra rằng số vàng chưa được khai thác thuộc về họ hơn là về chính phủ. Tuyên bố này đã khiến giá vàng càng hạ xuống sâu hơn. Tương tự, giả sử Thụy Sĩ có ham muốn đối với vàng, đó cũng là một phần văn hóa của họ như sôcôla và ngành ngân hàng vậy. Tuy nhiên, không phải là trong trường hợp này. Theo một cách tương tự, London được xem là ngôi nhà của thị trường vàng, với phần lớn giao dịch trên thế giới liên quan đến thứ kim loại này được thực hiện ở London, nơi giá vàng tiêu chuẩn (cố định giá) được xác định, và hơn nữa, đây cũng là mái nhà của nhiều nhà làm giá lớn nhất toàn cầu và là nơi các quy định xác định tiêu chuẩn của ngành này được thiết lập như “thanh vàng theo tiêu chuẩn của London Good Delivery”. Anh là nước trữ vàng trong một thời gian dài. Theo cách tương tự như Thụy Sĩ, thị trường cũng quá thỏa mãn rồi, và Chính phủ Anh, thực tế là bên sở hữu số vàng dự trữ của Anh (không giống như ở phần lớn nước khác, vàng thuộc sở hữu của ngân hàng trung ương), thực ra lại là bên bán vàng và thích giữ đồng euro hơn. Những hành động không mong đợi của ba nước trên đã tạo cho nhiều nhà đầu tư ấn tượng rằng tất cả các ngân hàng trung ương đang xếp hàng bán vàng, rằng đó là câu hỏi “khi nào” người giữ vàng bán vàng hơn là “nếu”. Việc ba nước được xem là “bằng hữu” với vàng đều đang bán vàng đã làm gia tăng mối hoài nghi rằng triển vọng này xem ra ảm đạm đến mức các nước đang nhảy cóc qua nhau trong việc sẵn sàng bán vàng. Vàng hạ giá xuống dưới các mức thấp trong 19 năm và trong suốt năm 1999, xuống còn 252 đô-la, khi một số công ty khai mỏ cáo buộc các ngân hàng trung ương không chỉ làm biến dạng thị trường vàng do bán vàng mà còn giúp các quỹ đầu tư hợp tác, bên mượn vàng để đầu tư cho các vụ giao dịch - đẩy mức giá xuống thấp hơn. Câu trả lời có được từ khu vực này là đơn giản và đúng vấn đề; họ cho rằng đó là trách nhiện của những nhà sản xuất áp dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, rằng “đẩy mạnh bán” là kẻ phá hoại giá trị thật sự. Một phúc đáp mà chúng tôi nghe được từ một quan chức ngân hàng trung ương cấp cao thật đáng nhớ : “Ít nhất, chúng ta đang bán lượng vàng mà chúng ta có; chứ không phải là số lượng sẽ đào ra được trong 10 năm tới”. Vào ngày 26/9/1999, tình hình đã thay đổi nhanh chóng. THỎA THUẬN VÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CHÂU ÂU (EcbGA) Đề mục “Thỏa thuận vàng của ngân hàng trung ương châu Âu” có thể trông giống như một hỗn hợp kỳ lạ giữa chữ viết hoa và chữ viết thường, song thỏa thuận này bình thường được gọi là EcbGA, mặc dù đôi khi còn gọi là WAG (Thỏa thuận Washington về vàng). Những chữ lộn xộn này sẽ làm nổi bật phạm vi thỏa thuận và cũng làm rõ rằng đây không đơn giản là một tuyên bố của Ngân hàng trung ương châu Âu mà chỉ nói đến một số các ngân hàng trung ương châu Âu liên quan. Thứ Hai, ngày 27/9/1999, tôi đang làm việc ở Sydney. Do sự chênh lệch thời gian, hôm đó ở Washington là ngày Chủ nhật và một ngày trước đó Wim Duisenberg (Chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu lúc bấy giờ) đưa ra tuyên bố đại diện cho 15 ngân hàng trung ương . 15 ngân hàng này là các ngân hàng trung ương Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, và ECB, cộng với 11 nước khác trong liên minh châu Âu là Đức, Pháp, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ, Luxembourg, Phần Lan và Ailen. EcbGA - DẤU HIỆU I 1. Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu. 2. Những thể chế trên sẽ không tham gia thị trường với tư cách là bên bán, trừ những vụ bán đã được quyết định rồi. 3. Các vụ bán vàng đã quyết định rồi sẽ đạt được thông qua một chương trình bán hàng đồng bộ trong thời gian 5 năm. Doanh số bán hàng năm sẽ không vượt quá 400 tấn và tổng mức doanh số trong giai đoạn này sẽ không vượt quá 2.000 tấn. 4. Các bên tham gia ký kết thỏa thuận này nhất trí không kéo dài các khoản cho thuê vàng của mình và việc sử dụng các quyền chọn và hợp đồng vàng tương lai trong thời gian này. 5. Thỏa thuận này sẽ được xem xét lại sau 5 năm. Phản ứng ban đầu về tuyên bố này là một vấn đề cần lưu tâm. Mọi người đều biết điều đó là quan trọng, song giá vàng nên như thế nào? Giá chốt trong đêm thứ Sáu ở New York vào khoảng 267 đô-la, và từ đó, nó bắt đầu chậm chạp leo lên. Bây giờ thì có thể dường như là kỳ lạ, song sự quan tâm của thị trường ban đầu phần nhiều tập trung vào tác động đối với thị trường cho vay vàng, nơi đã có những quan ngại về sự cố Y2K cộng với tính thanh khoản khi bước sang năm mới và thiên niên kỷ mới. Tôi gọi điện cho tất cả khách hàng trong danh bạ của mình và đánh thức mọi người từ châu Âu đến Mỹ dậy. Có một vài người muốn mua song phần lớn mọi người muốn giữ “liên lạc”. Các phương tiện truyền thông, trái lại, không có sự dè dặt như vậy. Thay vào đó, báo chí tràn ngập những bài báo loan tin về việc các ngân hàng trung ương sẽ siết chặt lại, mặc dù việc tổng số 2.000 tấn vàng sẽ được bán trong 5 năm là hơn gấp đôi doanh số từ các nước này bán trong thời gian 10 năm trước đó. Kết quả là vàng đã tăng lên 338 đô-la trong vài ngày sau đó – tăng khoảng 26%. Lãi suất vàng cũng tăng lên, lãi suất một tháng đạt mức cao 10% so với 4% chỉ vài ngày trước đó. Khi giá loại kim loại này tăng, các công ty khai thác vàng bắt đầu đưa ra những tuyên bố về quyền sở hữu của mình. Một trong những công ty đầu tiên tuyên bố như vậy là Ashanti Goldfield của Ghana. Công ty này thông báo rằng họ đã cơ cấu lại 80% sổ sách đầu tư (hedge-book) của mình, chuyển “tình trạng bán giao sau sang những quyền chọn tổng hợp”. Về mặt kỹ thuật, việc cơ cấu lại sẽ khiến các công ty này mua quyền chọn mua với thỏa thuận và thời hạn tương đương như những vụ bán hiện thời. Rõ ràng, việc này xem ra là động thái khôn ngoan cho tới ngày 5/10/1999 khi họ tuyên bố rằng sổ sách đầu tư có giá trị âm khoảng 450 triệu đô-la. Sau đó, Ashanti tuyên bố họ đã ký một hợp đồng hoãn nợ với 16 đối tác ngân hàng của mình. Những ngân hàng này nhất trí không yêu cầu có thêm thông báo bổ sung các khoản báo thiếu tiền ký quỹ (margin call). Công ty rốt cuộc bị AngloGold thôn tính vào tháng 4/2004 để lập ra công ty AngloGold Ashanti. Tương tự, Công ty Cambior Inc của Canada thông báo họ đang thương thảo với các ngân hàng “để xác định… cách thức và sự phối hợp mà ở đó các trách nhiệm giao vàng của Cambior sẽ được đáp ứng”. Việc giá vàng có thể phục hồi song các công ty khai thác vàng có thể vẫn mất tiền không còn là điều từng xảy ra với các nhà đầu tư nữa mà đã thực sự xảy ra. Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau đó, phần lớn đã có những kết quả - bất chấp những dự báo ảm đạm khi thế giới sắp đến gần đêm giao thừa năm 1999 trong bối cảnh giá vàng giao ngay quay trở lại mốc 274 đô-la và các khoản ký quỹ vàng một tháng chỉ phải trả 1,5%. Các công ty sản xuất Trong khi các chính phủ và cơ quan hữu quan có thể ký thỏa thuận điều tiết nguồn cung, việc chậm trễ tương tự không thể kéo dài đối với các cá nhân hoặc các công ty điển hình. Tuy nhiên, đối với các công ty, sẽ có những cáo buộc về sự bội tín và lũng đoạn, với khả năng tiếp theo là thiệt hại to lớn từ các vụ kiện cáo. Vì vậy, không nhiều cơ hội để họ có thể phản ứng bình thường, như một tập đoàn, đối với tuyên bố của các ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, vào đầu năm 2000, có một số thông cáo báo chí do các công ty sản xuất đơn lẻ công bố. Tất cả về cơ bản đều có hàm ý là họ sẽ quay lại nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Vào tháng 2/2000, Placer Dome (sau này là công ty khai thác vàng lớn thứ ba ở Bắc Mỹ) tuyên bố: “Kể từ ngày này, công ty đã ngừng bổ sung bất kỳ tình trạng đặt rào mới nào” và “Chúng tôi tin rằng giá vàng sẽ tăng cao hơn. Thỏa thuận của các ngân hàng trung ương nhằm hạn chế việc bán ra và cho vay là một bước đi quan trọng hướng tới cải thiện tâm lý thị trường song ngành này cần phải làm phần việc của mình”. Cuối cùng, đó là tuyên bố chính thức của 15 ngân hàng trung ương và tác động của nó đối với các hoạt động của các công ty khai thác mỏ, đẩy vàng tăng giá tới mức cao ở mọi thời đại. Đơn giản là nó xóa bỏ được sự không chắc chắn và cho phép tạo ra tâm lý tích cực. EcbGA - DẤU HIỆU II Thỏa thuận ban đầu đó có tầm ảnh hưởng đến nỗi ngay lập tức xuất hiện những lời đồn đoán rằng nó sẽ bị bãi bỏ. Tiếp sau những lời đồn đoán này nhanh chóng xuất hiện phỏng đoán về khả năng thỏa thuận này sẽ được làm mới. Cả hai câu chuyện này được đăng tải rầm rộ trên các tờ báo tài chính nhưng theo quan điểm của tôi, chưa từng có câu hỏi nào rằng các ngân hàng trung ương có theo dõi chặt chẽ những chỉ trích mà bản thân họ tạo ra hay không. Bất kỳ ý kiến nào cho rằng họ đang “bẻ cong các quy tắc” sẽ rõ ràng tác động đến danh tiếng của các ngân hàng trung ương trong nhiều năm sau đó và khiến cho họ gặp khó khăn hơn trên các thị trường mà ở đó điều quan trọng là những công bố chính thức của họ được xem là giá trị danh nghĩa (ví dụ như ấn định lãi suất). Những tin đồn bị xua tan sau đó sáu tháng, khi vào ngày 8/3/2004 những tuyên bố sau xuất hiện trên trang web của ECB (www.ecb.int): Để làm rõ ý định liên quan tới số vàng nắm giữ, những cơ quan ký tên dưới đây đã đưa ra tuyên bố sau: 1. Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu. 2. Doanh số bán vàng đã được cũng như chưa được các cơ quan ký tên dưới đây quyết định sẽ được thực hiện thông qua một chương trình bán ra đồng bộ trong thời gian 5 năm, bắt đầu từ ngày 27/9/2004, chỉ sau khi kết thúc tuyên bố trước đó. Doanh số bán ra hàng năm sẽ không vượt quá 500 tấn và tổng lượng bán ra trong thời kỳ này sẽ không vượt quá 2.500 tấn. 3. Trong thời gian này, các bên ký kết thỏa thuận nhất trí toàn bộ lượng vàng cho thuê và tổng lượng sử dụng hợp của đồng tương lai và quyền chọn về vàng sẽ không vượt quá các mức thịnh hành vào ngày ký thỏa thuận trước đó. 4. Thỏa thuận này sẽ được xem xét lại sau 5 năm. Thời gian này, các bên tham gia ký kết là Ngân hàng trung ương châu Âu, Banco de Espana (Tây Ban Nha), Ngân hàng Hy Lạp, Banque de France (Pháp), Cơ quan Ngân hàng trung ương và dịch vụ tài chính Ailen, De Nederlandsche Bank (Hà Lan), Oesterreichisch (Áo), Schweitzerische Nationalbank (Thụy Sĩ), Banca d’Italia (Italia), Banco de Portugal (Bồ Đào Nha), Banque Nationale de Belgique (Bỉ), Deutsche Bundesbank (Đức), Suomen Pankki (Phần Lan), và Seriges Riksbank (Thụy Điển). Vào thời gian ký kết, các cơ quan này đã tổng hợp lượng vàng nắm giữ lên tới xấp xỉ 13.900 tấn, tương đương với khoảng 40% lượng vàng khu vực chính thức nắm giữ. Kể từ khi tuyên bố trên được đưa ra, ngoài những bên ký kết ban đầu còn có sự tham gia của các ngân hàng trung ương của Slovenia, Manta, và Ship. Ngân hàng trung ương Manta và Ship là những bên ký kết gần đây nhất, vào ngày 25/1/2008. DẤU HIỆU I VỚI DẤU HIỆU II Thay đổi đáng kể nhất là lượng bán ra trong 5 năm đã tăng từ 2.000 tấn lên tới 2.500 tấn, mức tăng được phép là 100 tấn/năm. Số lượng này được các ngân hàng trung ương đánh giá là không gây bất kỳ gián đoạn thị trường nào và được đưa ra sau buổi tham vấn không chính thức với các ngân hàng giao dịch vàng lớn nhất. Nó vẫn được coi là số lượng tối đa có thể được bán trong bất kỳ năm hạn ngạch (ngày 27/9-26/9) nào hơn là một mục tiêu. Một điều bất thành văn trong thỏa thuận này là EcbGA sẽ mang lại sự ổn định cho thị trường vàng. Quả thật, tôi biết mọi người vẫn còn tranh luận, ngay từ lúc đầu tiên và sau đó, về nguyên lý thứ nhất “Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu”; theo nhiều cách, đó là một nhận xét kỳ quặc từ các cơ quan đang xúc tiến việc bán ra song vẫn quan trọng vì là thông điệp giúp mang lại tâm lý ổn định. Vì vậy, trong khi các ngân hàng trung ương được phép đưa ra bất kỳ kỳ hạn bán vàng nào, vẫn có nỗ lực rõ ràng nhằm đảm bảo rằng ngày thanh toán các khoản giao dịch sẽ rơi vào trong năm hạn ngạch liên quan. Tương tự, các ngân hàng trung ương tham gia thị trường quyền chọn, có xu hướng bán các quyền chọn mua. Cụ thể, những quyền chọn mua nói chung được cho là 100% delta. Những quyền chọn mua này hoàn toàn mang giá trị danh nghĩa cho tới khi chúng hết hạn, bên cạnh những giá trị mà các mô hình định giá quyền chọn mua đưa ra, nhằm đảm bảo chúng tuân thủ đúng tinh thần của thỏa thuận. Trong khi cả hai thỏa thuận này ban đầu được 15 nước ký, trong Dấu hiệu II, Hy Lạp tiếp quản vị trí của Ngân hàng Anh. Lý do cơ bản mà Ngân hàng Anh không tham gia là “Chính phủ Anh không có kế hoạch bán số lượng vàng trong kho dự trữ của mình và vì thế, sẽ không tham gia Thỏa thuận về vàng mới do các Ngân hàng Trung ương châu Âu thông báo ngày hôm nay. Chính phủ vẫn cam kết chắc chắn về tính minh bạch và đảm bảo sự toàn vẹn của thị trường vàng. Do đó, sẽ có một tuyên bố nếu chính sách của Anh nếu có những thay đổi số lượng vàng bán ra trong tương lai”. Tất cả đều lôgíc hoàn hảo trừ những người hoài nghi chỉ ra rằng một số bên tham gia ký kết khác cũng rất không muốn bán vàng vì họ có đối trọng nhỏ, cụ thể là Ailen (5,5 tấn) và Luxembourg (2,3 tấn). Tuy nhiên, những quan ngại này không được quan tâm. EcbGA – DẤU HIỆU III? Nếu các ngân hàng trung ương châu Âu có xu hướng giữ vững thời gian đã định của mình thì chúng ta nên biết đến tháng 3/2009, liệu có khả năng có sự gia hạn thêm 5 năm nữa hay không. Vào đầu tháng 3/2008, một số ngân hàng trung ương đã hỏi ý kiến tôi về khả năng cần phải có một thỏa thuận khác hay không. Quan điểm của tôi là những cơ quan này, cùng với tất cả chúng ta, đều không thích bị hạn chế và sẽ rất vui sướng khi được tự do hành động. Vì thế nên sở thích của họ sẽ chỉ đơn thuần là lưu ý rằng vàng gần đây đã đạt đến các mức cao danh nghĩa của mọi thời đại và vì vậy, không cần có thêm một thỏa thuận nữa. Họ có thể cũng giải thích lý do cơ bản cho thỏa thuận ban đầu này là nhằm đem lại sự ổn định và chắc chắn cho thị trường bị vây quanh bởi tin đồn và sự bi quan – ở đó, hành động ban đầu của họ đã hoàn thành mục tiêu của thỏa thuận một cách cực tốt. Tuy nhiên, câu trả lời của tôi với các ngân hàng trung ương: vàng là thị trường hay bị tâm lý dẫn dắt. Vì vậy, trong khi thị trường hiện nay có thể xóa bỏ sự thiếu vắng của EcbGA Dấu hiệu III, không có gì đảm bảo rằng điều tương tự sẽ đúng vào một thời gian sau đó. Vì vậy, qua việc thị trường thích sự ổn định, người ta vẫn thích nếu thỏa thuận đó sẽ được làm mới trong một thời gian nữa. Việc làm mới sẽ đặc biệt quan trọng nếu IMF thành công trong việc tìm kiếm cách bán vàng. IMF VÀ VÀNG Theo hiến chương của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tổ chức này được phép nắm giữ hoặc bán vàng. Sẽ không có cơ sở trung gian như đối với phần lớn các cơ quan chính thức, vốn có thể ít nhất thu lợi qua việc cho vay vàng của mình. Vì vậy, vàng chỉ là bảng cân đối kế toán của tổ chức này và có rất ít mục đích. IMF trước đây đã bán vàng, thông qua một loạt các cuộc đấu giá thành công trong suốt những năm 1970. Những cuộc thảo luận gần đây lại thực sự bắt đầu một cách nghiêm chỉnh trong cuối những năm 1990, khi Thủ tướng Anh lúc đó là Tony Blair gợi ý rằng IMF bán vàng là nhằm hỗ trợ Các nước nghèo nợ nần chồng chất (HIPC). Trong khi việc này giành được một số ủng hộ, cũng có nhiều chỉ trích gay gắt. Những chỉ trích nói chung là: 1. Đó không phải là vàng của IMF bán ra như họ mong muốn; thay vào đó, vàng lại thuộc về các nước ban đầu đóng góp cho họ. Vì vậy, nếu IMF không sử dụng vàng thêm, tổ chức này đơn giản nên trao lại cho các nước đóng góp ban đầu. 2. IMF là một tổ chức không hiệu quả và quan liêu, và trước hết nó nên có nguồn tài chính riêng một cách hợp lệ trước khi có hành động hào phóng đó. 3. Mặc dù nghe thì rất ấn tượng, nhiều quốc gia châu Phi có ngành khai mỏ cũng lên án những đề xuất này. Họ viện dẫn lượng vàng bán ra tăng làm hủy hoại chính những quốc gia này và coi việc hủy bỏ đề xuất đó là giúp đỡ họ. Không có gì ngạc nhiên, ý tưởng trên đã bị gạt đi, mặc dù có một loạt “các thủ thuật kế toán” độc hữu cho phép IMF định giá vàng theo các mức giá thị trường. IMF đưa ra cách tính toán này trên trang web của mình: “Từ tháng 12/1999 đến tháng 4/2000, những giao dịch riêng rẽ nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau liên quan tới tổng cộng 12,9 triệu ounce vàng được thực hiện giữa IMF và hai nước thành viên (Brasil và Mexico) có trách nhiệm tài chính với IMF. Trong bước đầu tiên, IMF bán vàng cho thành viên theo giá thị trường thịnh hành, và lợi nhuận được đưa vào một quỹ đặc biệt được đầu tư đem lại lợi ích cho Sáng kiến HIPC. Trong bước thứ hai, IMF ngay lập tức chấp nhận quay trở lại, theo mức giá thị trường tương đương, số lượng vàng tương tự từ nước thành viên phải thanh toán theo các nghĩa vụ tài chính của thành viên đó. Hiệu quả cuối cùng từ những giao dịch này là không làm thay đổi sự cân bằng việc nắm giữ vàng của IMF”. (http://www.imf.org/external/np/exr/facts/gold.htm). Đối với thị trường, tình hình vẫn không thay đổi cho tới tháng 1/2007, khi xuất hiện báo cáo của “những người xuất chúng” về số lượng vàng bán ra. Thời gian này, rõ ràng IMF đã tìm cách chặn trước việc chỉ trích mà họ đã gặp phải trước đó. Hơn thế nữa, mục tiêu giúp HIPC đã gạt bỏ việc chấp thuận bán vàng để giải quyết các nhu cầu về tài chính của IMF. Báo cáo này đánh dấu một sự khởi đầu chính từ “cuộc thăm dò” chính trị mà chúng ta đã thấy trước đó. Lần này, những nỗ lực được đưa ra là nhằm giải quyết phần lớn những chỉ trích có thể nhằm vào IMF. Và điều quan trọng là những người thực sự đề tên họ vào bản báo cáo là những người tầm cỡ đủ để xua tan phần lớn nghi ngờ rằng liệu đây có phải là một đề xuất nghiêm túc. Trước hết, ủy ban này bao gồm Tito Mboweni, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Nam Phi. Nam Phi là nước chỉ trích mạnh mẽ những đề xuất ban đầu, khoảng 10 năm trước, đề nghị IMF bán vàng, lập luận rằng điều này trên thực tế sẽ làm tổn hại đến các nước nghèo nợ nần chồng chất được đề nghị giúp đỡ. Vào những dịp sau đó, Nam Phi đã dịu bớt sự chỉ trích của mình, và giờ đây chắc chắn đứng về bên bán. Quả thực, vị thống đốc này đã từ bỏ lập trường của mình tại một cuộc họp báo để nhấn mạnh rằng Nam Phi là một phần của tổ chức và rằng ủy ban “đã rất cẩn thận khi cố gắng đưa ra những đề xuất không tạo ra những mối nguy hiểm gây bất ổn trên thị trường vàng”. (Thông tin chi tiết có tại website http://www.imf.org/external/np/tr/2007/tr070131htm). Ngoài ra, xuất hiện trong ủy ban “Nhóm những người xuất chúng” còn có Jean-Claude Trichet. Với tư cách là Chủ tịch ECB, ông rõ ràng có khả năng siết chặt hạn ngạch theo EcbGA. Điều này sẽ cho phép IMF, và các ngân hàng trung ương, lập luận rằng doanh số bán ra không làm gia tăng các kỳ vọng của thị trường về nguồn cung, hàm ý rằng hạn ngạch của Đức được đưa ra dưới thời của chủ tịch Bundesbank Ernst Welteke (và có vẻ như người kế nhiệm ông là Axel Weber cũng không yêu cầu gì khác) là để dành cho IMF. Trên thực tế, nếu việc phê chuẩn nhanh chóng được đưa ra, EcbGA Dấu hiệu II sẽ gần như tác động đến mức giới hạn tổng thể là 2.500 tấn. Quả thực, họ hoàn toàn đúng - trừ việc thị trường tăng trưởng vốn chỉ quen với ý kiến cho rằng sẽ có sự sụt giảm ghê gớm do việc Đức chần chừ bán ra (một sự tranh chấp giữa ngân hàng trung ương và chính phủ trong việc khoản tiền thu về sẽ được trao cho những ai). “Phiếu ghi nợ” cho đến lúc bấy giờ ở mức tối đa 500 tấn/năm trong giai đoạn 2004-2005, giảm hơn 100 tấn trong giai đoạn 2005-2006, và giảm một lượng nhỏ xấp xỉ 13 tấn trong giai đoạn 2006-2007. Trong khi các bên tham gia ký kết không cho biết hạn ngạch của mỗi nước này trên thực tế là bao nhiêu, xuất hiện “sự phỏng đoán” từ thị trường rằng các ngân hàng trung ương khác sẵn sàng tăng cường lượng bán ra của mình, kết quả là năm cuối cùng của thỏa thuận (ngày 27/9/2008 đến ngày 26/9/2009) sẽ ở mức thấp hơn 500 tấn do Đức không bán vàng ra. Để lấp chỗ trống, Thụy Sĩ là nước đầu tiên tăng cường lượng bán ra của mình và giờ đây dường như IMF cũng đang xem xét tham gia. Nếu tình trạng giao dịch của thị trường vàng có thể duy trì một cách tích cực và nói chung có tính khuyến khích, thì các bên giao dịch có lẽ sẽ bỏ qua điều này nếu lượng bán ra được thực hiện một cách cảm tính. Thật thú vị, các thống đốc của Cơ quan Tiền tệ Arap Saudi và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng có mặt trong ủy ban này. Những nước này được các nhà phân tích nhiều lần đánh giá là hai tổ chức có thể mua vàng. Tầm quan trọng của việc này có thể được bàn luận theo hai khía cạnh: đầu tiên, thuật ngữ việc bán ngoài thị trường đã được nhất trí rồi, và rằng sự hiện diện của hai quý ông lịch lãm này là sự thừa nhận ngầm hiểu. Hai là, chúng ta trước đây từng nghe IMF tuyên bố những nỗ lực tìm kiếm người mua một phần vàng của họ đã được chứng minh là không thể. Nếu Arap Saudi hay Trung Quốc mua một lượng vàng lớn, có lẽ khái niệm về việc bán trực tiếp cho một ngân hàng trung ương có thể lại nổi lên. Việc xuất hiện khả năng rằng bất kỳ việc bán vàng nào tuân theo EcbGA đều có xu hướng làm giảm khả năng kinh doanh ngoài thị trường. Ngoài ra, theo quan điểm trước đó của tôi, giao dịch ngoài thị trường có xu hướng thiên vị bên mua. Tôi không thấy IMF có ý định đặt mình vào vị trí bị chỉ trích do sự quản lý tài chính yếu kém - một cáo buộc gần như chắc chắn sẽ dành cho tổ chức này nếu giá vàng tăng đột ngột sau một vụ giao dịch. Đề xuất trên vẫn phải được các thành viên của IMF bỏ phiếu thông qua. Theo hiến chương của tổ chức này, bất kỳ việc bán vàng nào sẽ cần phải có sự đồng thuận của 85% thành viên; qua số phiếu được đánh giá theo mức độ đóng góp của các nhà tài trợ ban đầu, Mỹ có 17% số phiếu. Nói cách khác, điều này khiến lá phiếu của Mỹ có hiệu lực nếu họ quyết định cản trở tiến trình này. Dường như chủ tịch ủy ban trên (Andrew Crokett, cựu thành viên của BIS và là Chủ tịch của JP Morgan Chase International) và “người xuất chúng” Alan Greenspan đều hiểu rõ khả năng rằng đề nghị này sẽ được Quốc hội Mỹ thông qua. Quả thực, gần như đúng một năm sau đó, vào tháng 2/2008, Thứ trưởng tài chính Mỹ phụ trách các vấn đề quốc tế David McCormick tuyên bố ông ủng hộ việc bán vàng và ông tin rằng đề nghị trên sẽ được Quốc hội Mỹ thông qua. Vào tháng 4/2008, Dominique Strauss-Kahn, giám đốc điều hành IMF, đã có thể tuyên bố rằng tổ chức này đồng ý bán 403,2 tấn vàng, vốn sẽ được sử dụng để tạo quỹ hỗ trợ: “Chúng tôi đã phải đưa ra những lựa chọn khó khăn nhưng cần thiết nhằm cắt đà sụt giảm thu nhập dự kiến và đặt nền tài chính của quỹ trên một cơ sở bền vững và cuối cùng, điều này sẽ giúp cho quỹ tập trung, hiệu quả, mang lại lợi nhuận hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của các thành viên” (xem http://www.imf.org/external/np/sec/pr/2008/pr0874.htm ). Việc bán vàng ra vẫn cần phải được tất cả 185 thành viên của IMF thông qua song dường như nó sẽ được thông qua, khi tất cả các bên đều tỏ ra thiện chí về vấn đề này. Giả sử điều đó được xúc tiến, trước hết, lợi nhuận thu được sẽ dành cho trái phiếu chính phủ, sau đó là trái phiếu công ty vào một thời gian chưa xác định trong tương lai và thậm chí là các vốn cổ phần. Trên trang web của mình, IMF nói rằng “chính sách về vàng của họ bị chi phối bởi những nguyên tắc sau: • Là một tài sản bị đánh giá thấp do IMF nắm giữ, vàng tạo ra sức mạnh cơ bản cho bảng cân đối kế toán. Bất kỳ việc huy động vàng nào của IMF nên tránh làm suy yếu vị trí tài chính tổng thể của tổ chức này. • IMF nên tiếp tục nắm giữ một số lượng vàng tương đối lớn trong số các tài sản của mình, không chỉ vì lý do thận trọng mà còn để đối phó với những bất trắc không đoán trước được. • IMF có trách nhiệm chung là tránh gây gián đoạn đối với sự hoạt động của thị trường vàng. • Lợi nhuận thu được từ các thương vụ bán vàng nên được sử dụng bất cứ khi nào khả dĩ để tạo một quỹ đầu tư mà ở đó chỉ có thu nhập được sử dụng”. Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo tại website http://www.imf.org/external/np/exr/facts/gold.htm. Trong khi IMF, ở chừng mực nào đó, là trường hợp đặc biệt - không được phép cho vay vàng, điều này là minh họa một cách tài tình cho vấn đề khó khăn đối với nhiều cơ quan có thể cho vay vàng. Thị trường đơn giản là quá nhỏ, và lợi nhuận cũng cực kỳ thấp khi vay cả quỹ dự trữ của một quốc gia, và vì thế có khoảng cách lớn giữa quy mô danh nghĩa của các quỹ ngoại hối của một ngân hàng trung ương và các quy mô thực tế có thể thu lợi nhuận. Vàng về mặt truyền thống là một quỹ dự trữ “mua và nắm giữ”, song đối với nhiều tổ chức, họ ngày càng được đánh giá cao vì sự quản lý hiệu quả đối với số lượng vàng nắm giữ của mình; vì thế, quyết định sáng suốt là giảm số vàng dự trữ và mua một tài sản sinh lời. Điều này chắc chắn gây tranh cãi về việc nắm giữ/mua một số lượng vàng lớn (xét về mặt tỷ lệ). Tôi biết một số trường hợp các ngân hàng trung ương có trách nhiệm quản lý các quỹ dự trữ của mình - lợi nhuận của quỹ trước hết được sử dụng để duy trì hoạt động của cơ quan (bao gồm cả việc trả lương) mà phần còn dư phải trả lại cho chính phủ - song do tình trạng tỷ lệ vàng được nắm giữ cao nhưng lợi nhuận lại thấp nên các ngân hàng giờ đây không thể trang trải các chi phí vận hành của mình. Kết quả là ngân hàng trung ương phải cầu viện bộ tài chính cấp nguồn quỹ để duy trì hoạt động. Về mặt chính trị, điều này không phổ biến lắm và nó nằm đằng sau quyết định bán ra của một số bên bán. BÁN RA – DUY TRÌ ĐIỂM Câu trả lời đơn giản: duy trì điểm không dễ dàng hơn so với điều mà một số nhà phân tích đang cố gắng giải thích. Thứ Ba hàng tuần, có một thông cáo báo chí từ Ngân hàng trung ương châu Âu lúc 15 giờ, tính theo giờ Frankfurt, tương đương với 14 giờ ở London và 9 giờ ở New York. Đây là báo cáo tài chính hợp nhất hàng tuần từ hệ thống toàn châu Âu về những thay đổi trong bảng cân đối kế toán tổng thể của tất cả các thành viên trong hệ thống. Vào cuối mỗi quý, dữ liệu được công bố một ngày sau đó, vào ngày thứ Tư. Vấn đề đầu tiên với thông tin này là nó không bao gồm những nước đã ký thỏa thuận về vàng song không phải là thành viên của khu vực đồng euro, Thụy Sĩ là ví dụ rõ ràng nhất. Thư hai là, tôi thấy chán ngấy với những tin tức báo chí về việc giảm lượng vàng dự trữ của các thành viên (thể hiện bằng đồng euro), dựa trên số lượng vàng đã bán trong tuần trước đó. Nó chỉ đơn thuần là sự khác biệt trong bảng cân đối kế toán: một sự thể hiện đơn giản những thay đổi về kế toán. Vì vậy, thực tế cho thấy việc bán ra được kết toán trong tuần đó. Nói cách khác, nếu ngân hàng trung ương chuẩn bị bán 10 tấn vàng và chuyển giao trong sáu tháng, giao dịch này sẽ được lưu trong dữ liệu của ECB trong thời gian sáu tháng chứ không phải là trong tuần tới. Vì vậy, trong khi phần nào được coi là một biện pháp có ích để giữ điểm, nó lại chẳng có liên quan gì, đặc biệt là trong thời điểm đầu kỳ của một “năm hạn ngạch”. Tuy nhiên, khi chúng ta sang tháng Chín (mỗi năm hạn ngạch kết thúc vào ngày 26/9), tổng mức tích lũy có liên quan nhiều hơn và thị trường nhìn chung có sự sôi động nhất định vì không thể bán vàng trong vài tháng cuối cùng. Vì vậy, điều này thường được xem là dấu hiệu lạc quan. 5. Bên cho vay và bên vay vàng AI CHO VAY VÀ AI ĐI VAY VÀNG? Chương trước đề cập đến việc các ngân hàng trung ương bổ sung và/hoặc cắt giảm lượng vàng mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, những hoạt động bình thường của các nước còn khá xa rời thực tế và ít đáng chú ý. Nhìn chung, những người quản lý tài sản của đất nước tìm cách tối đa hóa lợi nhuận từ các quỹ dự trữ của mình. Trong nhiều trường hợp, vai trò của họ là xử lý các quỹ dự trữ này một cách hiệu quả với lợi nhuận thu được để duy trì hoạt động của ngân hàng trung ương và tất cả phần còn dư sẽ được chuyển cho bộ tài chính. Tôi phải nhấn mạnh rằng việc này không đúng tí nào ở tất cả các nước song nó mang tính khái quát hợp lý. Mặc dù điệp khúc thường được nhắc lại là “vàng không mang lại lợi nhuận”, song điều này không đúng, hoặc có thể đúng nhưng là đối với những lượng dự trữ nhỏ. Trên thực tế, vàng có thị trường lợi tức giống như các công cụ tài chính khác, tuy nhỏ song nó vẫn tồn tại. Đặc điểm làm nó khác biệt là sự thiếu vắng một chính sách chỉ đạo từ chính quyền trung ương và nỗ lực ấn định các mức lãi suất. Thị trường này thuần túy được xác định bởi cung và cầu: nguồn cung áp đảo từ các ngân hàng trung ương (hơn 90%) trong khi cầu về truyền thống được xem là những công ty sản xuất vàng (khoảng 70%), hàng hóa gửi bán (khoảng 15%), và những người đầu cơ giá xuống tạo cân bằng. Trong suốt những năm 1990, khi nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của nhà sản xuất vào lúc cao điểm, người ta ước tính có khoảng 4.500 tấn vàng đã được các ngân hàng trung ương đưa ra thị trường trước khi đạt mức cao nhất là 4.940 tấn (theo ước tính từ Virtual Metals Group) vào gần cuối năm 2000, xấp xỉ một phần sáu tổng lượng vàng dự trữ. Một số nhà lý luận cho rằng số lượng vàng được đưa ra nằm trong kế hoạch nhằm giảm giá vàng có thể lên cao tới bốn lần. Điều kỳ lạ là nước Đức đã cho chính quyền của Tổng thống Clinton vay toàn bộ số vàng dự trữ của mình trong một nỗ lực bất thành nhằm giữ giá vàng ở mức thấp (xem thêm điều này ở Chương 10, “Vàng: Những chuyện thần bí và thực tế”). Vào thời gian này, khi các tỷ lệ tăng do có tin đồn các ngân hàng trung ương rút vàng khỏi thị trường đã khiến cho một số ngân hàng trữ vàng có giá trị tín dụng thấp bắt đầu lo ngại rằng sẽ không thể tìm đủ mặt hàng để bù đắp cho các khoản cho vay của mình. Trong nhiều trường hợp, mô hình được một số thể chế chấp nhận là cho các công ty khai mỏ (những công ty đang cấp vốn cho khoản đầu tư của họ) vay vàng dài hạn (tới 10 hoặc thậm chí 15 năm) trong khi lại vay vàng từ các ngân hàng trung ương hoặc thị trường, vốn chỉ sẵn sàng cho vay vàng trong thời hạn dưới sáu tháng. Tuy nhiên, đường cong lãi suất vàng sẽ dốc đến mức được xem là một rủi ro có thể chấp nhận được. ĐƯỜNG CONG LÃI SUẤT Hình dáng của đường cong lãi suất đã thay đổi chút ít trong nhiều năm, có thể xem trong Hình 5-1 khi đường kẻ đi lên trong khoảng thời gian từ năm thứ nhất đến năm thứ 10. Mặc dù vậy, điều đã thay đổi là trong một vài năm qua là toàn bộ đường cong, và vì vậy nghĩa là toàn bộ lãi suất, đã giảm mỗi năm. Vì lãi suất vàng hoàn toàn được xác định bởi nguồn cung và cầu – chứ không do chính quyền trung ương ấn định – rõ ràng một trong những động lực này đã thay đổi. Trong trường hợp cụ thể này, đó là lãi suất vay (từ các công ty khai mỏ) đã cạn kiệt. Lý do cơ bản này được giải thích chi tiết trong Chương 3 “Những công ty khai thác vàng và nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro”. Như đã đề cập ở trên, các công ty sản xuất chiếm đa số những bên vay vàng để sử dụng trong các chương trình nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Sổ sách nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro được ước tính ở mức 3.212,5 tấn (Virtual Metals Group và Haliburton Mineral Services) vào thời điểm cao nhất so với 4.940 tấn vàng bị cho vay, tác động của việc tăng bán này là điều hoàn toàn dễ hiểu và hợp lí , mặc dù con số có bị thổi phồng đôi chút. Hình 5-1: Đường cong lãi suất Do những người khai mỏ đang tìm cách tận dụng lợi thế của contango về giá vàng (contango được thảo luận ở Chương 3, nhưng về cơ bản được xác định là giá vàng đi lên trong thời gian đó) và để bảo vệ các luồng tiền mặt trong thời gian dài, mối quan tâm của họ là tham gia vào phần cuối kéo dài của đường cong, trong một số trường hợp, kéo dài tới 15 năm. Họ đầu tư vào thương vụ lãi suất vàng dễ rủi ro này bằng cách chốt lãi suất dài hạn và đưa ra một loạt lãi suất thả nổi ngắn hạn, ví dụ như ba tháng. Rõ ràng, chi phí thanh toán ban đầu nhằm tạo dựng sự ổn định cao hơn so với nguy cơ phải đối mặt với những biến động bất thường của thị trường. Do đó, những công ty khai mỏ có xu hướng chỉ cố định một tỷ lệ rất nhỏ số vàng vay trong thời gian dài hạn hơn là quản lý rủi ro của mình thông qua một loạt các khoản vay ngắn hạn – thời hạn từ một đến sáu tháng là có tính thanh khoản cao nhất. THANH TOÁN LÃI SUẤT BẰNG VÀNG HAY BẰNG ĐÔ-LA? Biểu đồ trong Hình 5-1 cho thấy lợi nhuận bằng đồng đô-la – tính theo tỷ lệ % - của một khoản gửi bằng vàng. Lãi suất trả một lần thường được thanh toán đầy đủ khi đến hạn, v v… đây là sự khác biệt chủ chốt; thực tế, vào đầu những năm 1990, một số thể chế không nhận thấy rằng có sự khác biệt đáng kể đối với các lãi suất phải thanh toán cho khoản tiền lãi bằng vàng hay đồng đô-la. Lý do cơ bản tương đối đơn giản. Nếu bên vay và bên cho vay nhất trí lãi suất sẽ được thanh toán khi đến hạn bằng đồng đô-la, giá trị của khoản ký gửi và/hoặc khoản cho vay được tính toán theo giá giao ngay. Nói cách khác, lãi suất là một lượng vàng nhân với giá giao ngay. Nếu khoản lãi suất đó sẽ được thanh toán bằng vàng, và tỷ lệ lãi suất là như nhau, khi đến hạn, bên cho vay sẽ nhận lại đầy đủ số vàng ban đầu cộng với lãi suất, cụ thể là một ounce vàng hay 975 đô-la (tương đương với giá giao ngay ban đầu) sẽ được thanh toán khi đến hạn. Nếu bên cho vay biết rằng họ sẽ nhận một ounce vàng trong thời gian 10 năm, thì thay vào đó, họ có thể bán trước. Vì vàng là một thị trường contango, họ sẽ nhận được một khoản nhiều hơn 975 đô-la - thực tế, họ sẽ nhận được 1.420 đô-la cho ounce đó. Khác biệt rõ ràng này giải thích tại sao các tỷ lệ lãi suất có thể được thanh toán bằng vàng (được biết đến dưới khái niệm “vàng bằng vàng”) lại khác so với những tỷ lệ lãi suất mà lãi suất được thanh toán bằng đồng đô-la (khái niệm “vàng bằng đô-la”). Trong môi trường lãi suất thấp hiện nay, có sự khác biệt về một số điểm cơ bản, và chỉ đối với những lãi suất dài hạn, song thời điểm trước đó sự khác biệt là một nhân tố đáng kể. Đáng lưu ý là phần lớn số vàng gửi có lãi suất thanh toán bằng đồng đô la, theo yêu cầu của bên cho vay là các ngân hàng trung ương. Phần dưới đây sẽ làm rõ chủ đề này. CÁCH TÍNH LÃI SUẤT VỀ VÀNG Những loại hình giao dịch mà các ngân hàng trung ương tham gia là tương đối bình thường, phần lớn là “những khoản cho thuê” hoặc “khoản gửi” bằng vàng. Hai thuật ngữ này không nhất thiết phải giống nhau song biệt ngữ thị trường lại sử dụng hoán đổi chúng. Một khoản cho thuê không khác gì một khoản tiền gửi trên thị trường. Nói cách khác, bên cho vay gửi vàng vào ngân hàng để được thanh toán lãi suất. Nếu một ngân hàng được cho vay vàng, điều này không có nghĩa là ngân hàng này sẽ phải bán vàng và gửi đồng đô-la thu được vào trong khoản gửi. Vàng có thị trường lãi suất của riêng nó, và vì vậy, cũng sẽ giống như việc cho rằng nếu bên cho vay gửi tiền euro, sterling, yên, v.v…, bên vay cần tham gia thị trường ngoại hối để bán mỗi loại tiền tệ và đem về đồng đô la, sau đó lại được cho vay để lấy lãi suất. Bối cảnh này rõ ràng là vô lý; tuy nhiên, khái niệm này tương đối phổ biến. Một ví dụ là khoản gửi vàng kỳ hạn 12 tháng: Bên cho vay gửi 100.000 ounce tơrôi trong 12 tháng theo 20 điểm cơ bản. Đến hạn, ngân hàng trung ương trả lại 100.000 ounce vàng cộng với lợi tức tích lũy là 202,778 ounce. Phép tính rất đơn giản: ((100.000 x 0,20%)/360) x 365 = 202,778 ounce. Quy ước tính toán thời gian theo ngày được coi là “thực tế có 360 ngày”. Phần lớn bên cho vay thích tích lũy lợi tức bằng đồng đô-la. Trong trường hợp này, giá trị tiền tệ được quy theo vàng tại thời điểm bắt đầu giao dịch, và được tính toán như sau: ((975 đô-la x 100.000 x 0,20%)/360) x 365 = 197.708,33 đô-la. Số vàng ban đầu và lãi suất được trả khi đến hạn. Để thuận tiện, tôi sử dụng tỷ lệ lãi suất giống nhau cho khoản gửi phải thanh toán bằng đồng đô la hoặc bằng vàng. Trên thị trường thực tế, lãi suất vàng chắc sẽ thấp hơn một chút như đã đề cập ở trên. Nếu vàng được cho vay trong các kỳ hạn nhiều hơn một năm, lãi suất được thanh toán hai lần một năm, dựa trên giá trị vàng vào lúc bắt đầu giao dịch. Một cách khác, vàng có thể được cho vay thông qua các hoán đổi tỷ giá cho thuê, còn được biết đến dưới tên gọi nghiệp vụ hoán đổi tỷ lệ lãi suất vàng, hay IRS. Điều này sẽ được phân tích sâu hơn trong chương tiếp theo. 6. Các ngân hàng vàng NHỮNG TRUNG TÂM GIAO DỊCH LỚN Tôi không phải là người quá say mê cụm từ “các ngân hàng vàng”, vì dường như đó là cụm từ diễn đạt vụng về, song lại đơn giản miêu tả những ngân hàng tham gia vào thị trường kim loại quý. Về truyền thống, các hoạt động giao dịch tại châu Á – Thái Bình Dương ở Sydney tạo điều kiện cho các ngân hàng này phục vụ cộng đồng khai thác vàng, cụ thể là các hoạt động đầu tư sinh lời của các nhà sản xuất Australia, với các ngân hàng có thể có các trung tâm giao dịch khác ở Hồng Kông hay Singapore để cung ứng cho ngành kinh doanh hàng hóa vật chất (vàng thanh loại nhỏ) này. Tokyo rõ ràng đã, và vẫn là trung tâm cho các sở giao dịch lớn của Nhật Bản (ngoài các ngân hàng như Sumitomo, Mitsubishi, và Mitsui). Chuyển sang châu Âu, London luôn là trung tâm lớn nhưng nó được hỗ trợ bởi các hoạt động thịnh vượng ở Zurich, Geneva, và Luxembourg. Bên kia bờ Đại Tây Dương, chỉ có một trung tâm quan trọng đó là New York. Một khi thị trường ở đó đóng cửa, không có hoạt động liên ngân hàng và/hoặc sự hiện diện của nhà làm giá đáng kể nào thì tới một ngày nào đó, châu Á sẽ phục hồi trở lại. Tuy nhiên, việc củng cố ngành công nghiệp khai mỏ Australia trong cuối những năm 1990 đã dẫn tới việc các hoạt động kho bạc đang dịch chuyển dần sang Johannesburg hay Mỹ, đồng nghĩa với việc nguồn khách hàng bị thu hẹp đi rất nhiều. Các điều kiện khác ít bộc lộ hơn đang chi phối thị trường đã chứng kiến sự hợp lý hóa trong ngành công nghiệp này, khi phần lớn các ngân hàng chỉ có một hoạt động giao dịch trong mỗi múi giờ và các ngân hàng khác giảm đi đáng kể các hoạt động tạo thị trường của mình hoặc rút hoàn toàn khỏi ngành kinh doanh này. Tương tự, có rất ít ý nghĩa đối với một tổ chức đề nghị làm giá từ London, Geneva, và Zurich, mà Credit Suisse từng làm trước khi rút khỏi ngành này gần như hoàn toàn trong năm 2001. London trở thành trung tâm vượt trội không cần phải bàn cãi đối với các giao dịch ở châu Âu. Tuy nhiên, trong các thị trường trầm lắng, vấn đề lại chuyển sang phần tiết kiệm phí tổn từ việc hợp lý hóa các hoạt động giữa châu Âu và Mỹ. Liệu điều đó có ý nghĩa khi có hai đội giao dịch hoàn thiện ở London và New York trong bối cảnh sự khác biệt về thời gian chỉ là 5 giờ? Cụ thể là khi COMEX (xem Chương 7 về những giao dịch trao đổi) đóng cửa lúc 14 giờ 30 phút và cũng là lúc đóng cửa ngày giao dịch. Đối với nhiều ngân hàng, giải pháp thật đơn giản: London nên là trung tâm cho cả hai múi giờ và có thời gian làm việc dài hơn. Rõ ràng, giờ điều này tương đối dễ dàng với New York/COMEX khi đóng cửa lúc 13 giờ 30 phút giờ địa phương, vì vậy cho phép các nhà giao dịch London rời khỏi đây vào lúc 18 giờ 30 phút theo giờ của họ. Tôi sống và làm việc ở tất cả các trung tâm giao dịch vàng lớn. Mỗi trung tâm có những quy ước, khách hàng và đôi khi là những nhà làm giá khác nhau. Tuy nhiên, cũng có nhiều nét tương đồng. Ngoài những trường hợp ngoại lệ tại mỗi quốc gia cụ thể, tôi muốn xem xét những điểm tương đồng. Về điều này, tôi chủ yếu sẽ nói đến London, không phải bởi vì đây là nơi tôi được bố trí mà vì nó nằm giữa châu Á và Mỹ, đồng thời là địa điểm mà vàng “giao hoán” (xem chi tiết hơn ở phần cuối chương này). Hiệp hội thị trường vàng London (LBMA) xác định thị trường London là “thị trường bán sỉ, nơi số lượng được các khách hàng giao dịch tối thiểu ở mức 1.000 ounce vàng và 50.000 ounce bạc. Nó là thị trường giao dịch OTC (giao dịch trực tiếp), không phải là thị trường trao đổi”. LBMA tự miêu tả là “hiệp hội thương mại hành động như nhà điều phối các hoạt động được thực hiện đại diện cho các thành viên và những người tham gia khác trên thị trường vàng London. Thông qua nhân viên và các ủy ban của mình, hiệp hội hoạt động để đảm bảo rằng London tiếp tục đáp ứng các nhu cầu tăng dần của thị trường vàng toàn cầu”. NHỮNG NHÀ KIẾN TẠO THỊ TRƯỜNG Những thành viên kiến tạo thị trường của thị trường London được LBMA công nhận là: • Ngân hàng Nova Scotia-CcotiaMocatta • Barclays Bank PLC • Bear Stearns Forex Inc. • Deutsche Bank AG • Goldman Sachs International • HSBC Bank USA NA • JP Morgan Chase Bank • Mitsui & Co. Precious Metals Inc., Chi nhánh London • Royal Bank Canada Limited • Société Générale • UBS AG Vì vậy, chỉ 11 cái tên tạo thành thành phần chủ yếu của thị trường London; danh sách còn bao gồm cả Bear Stearns mặc dù còn có chút hoài nghi rằng trường hợp này còn phải đợi lâu hơn. Con số này là sự ngạc nhiên với nhiều người, những người cho rằng thị trường vàng gần như các thị trường hối đoái và cụ thể là nó thường được đề cập cùng với đồng đô-la, euro, yen và sterling như là một phần chủ yếu của các quỹ dự trữ của ngân hàng trung ương. Một vài năm trước, khi doanh thu thấp, doanh thu hàng ngày trên thị trường vàng xấp xỉ bằng doanh thu của đồng zloty Ba Lan hay đồng đô-la Đài Loan. Giờ thì nó tương tự như đồng đô-la New Zealand hay Canada. Thời gian đã thay đổi song vàng vẫn là thị trường tương đối nhỏ. Các múi giờ châu Á và châu Mỹ có một số tương đồng về những nhà tạo lập thị trường liên ngân hàng song không có một tổ chức như LBMA để hệ thống hóa điều này. Điểm quan trọng khác trong danh sách là mặc dù LBMA xác định 11 thể chế này là những nhà kiến tạo thị trường nhưng một loạt các thể chế khác sẵn sàng tạo lập thị trường cho khách hàng của mình song là những người nhận quyền chọn giá (hoặc người sử dụng thị trường) của những ngân hàng được liệt kê ở trên. CÁCH THỨC GIAO DỊCH VÀNG GIAO NGAY? Khi một ngân hàng ở Hồng Kông giao dịch với một ngân hàng ở London, họ giao dịch trên thị trường London. Giao dịch này không có liên quan gì với nơi ngân hàng đặt trụ sở hay đơn giản là nơi kim loại này “được giao hoán”. Vì vậy, ví dụ tương tự như khi Mitsui Busan (Hồng Kông) giao dịch với Barclays Bank (Singapore), họ cũng giao dịch trên thị trường London. Trong khi tôi đi vào chi tiết làm rõ khái niệm sau, khái niệm đơn giản nhất là nơi các tài khoản được kết toán – vì thế, vàng giao dịch “trên thị trường London” cũng giống như cách mà đồng đô-la giao dịch ở “thị trường New York” và đồng yên giao dịch trên “thị trường Tokyo”. Đơn vị giao dịch là ounce tơrôi, không phải là ounce đo lường thông thường. Ounce đo lường thông thường là đơn vị đo lường mà chúng ta quen sử dụng trong cuộc sống thường nhật trong khi ounce tơrôi là đơn vị dùng cho giao dịch kim loại quý. Ounce tơrôi lớn hơn ounce đo lường thông thường xấp xỉ 10% (phép tính chính xác là một ounce tơrôi tương đương với 1,09714 ounce đo lường thông thường). Như đã đề cập ở trước, bất cứ khi nào ounce được đề cập liên quan tới vàng trong cuốn sách này, đó là ounce tơrôi. Trong khi LBMA đề cập tới số lượng tối thiểu mà khách hàng giao dịch là 1.000 ounce tơrôi vàng, số lượng tiêu chuẩn liên ngân hàng là 5.000 hoặc 10.000 ounce. Đơn vị cơ bản này được cho là thanh theo tiểu chuẩn của London Good Delivery – xác định đầy đủ trong Chương 2, nhưng nói ngắn gọn là một thanh có trọng lượng từ 350 đến 430 ounce, là vàng 0,995 (995/1.000 và nói chung được gọi là “hai số chín một số năm”). Trên thực tế, các thanh này có trọng lượng chênh lệch vài ounce, quanh mức 400 ounce, và cách gọi ngắn gọn trên thị trường cho là một thanh có trọng lượng chính xác là 400 ounce. Vì vậy, khi một nhà giao dịch giao dịch ở mức giá 975 đô-la/976 đô-la, về cơ bản, họ đang nói ở mức giá 975 đô-la, họ sẵn sàng mua vàng theo các thông số kỹ thuật mà LBMA đề ra. Tuy nhiên, 5.000 là mức không thể chia hết cho 400 và 12,5 thanh vàng là một khái niệm khó dùng. Thực tế không thể có những xe tải có người bảo vệ chở vàng lao nhanh qua những con phố ở London. Vì vậy, vàng nói chung được giao dịch “không chỉ định”, nên mức giá 975 đô-la là mức dành cho một lượng vàng nguyên chất 99,5% không được chỉ định trên thị trường London, v.v… Lưu ý rằng đó là một ounce tốt thực tế được giao dịch, vì vàng bạn mua ở mức giá 975 đô-la là hàm lượng vàng thực sự hơn là trọng lượng tổng. Nếu bạn sở hữu một số lượng vàng được chỉ định, sao kê của bạn từ người giám hộ sẽ nêu chi tiết số tham khảo của thanh vàng, độ nguyên chất và trọng lượng của nó. Giả sử được phép vào kho dự trữ, bạn có thể thấy vàng của mình trong khu vực của nó (thường là trong một cái lồng riêng). Tuy nhiên, nếu bạn sở hữu vàng không được chỉ định, bản sao kê của bạn sẽ đơn giản nêu chi tiết số lượng ounce trong tài khoản. Có lẽ, phép loại suy tốt nhất là giữa chúng có tài khoản sử dụng séc thanh toán hay tài khoản vãng lai (không được chỉ định) và một chiếc hộp lưu giữ an toàn (được chỉ định). Nếu đặt tiền đô-la vào trong một chiếc hộp đựng an toàn, bạn biết số sêri của chúng và chúng được phân biệt, nhưng nếu bạn đưa tiền vào trong tài khoản thanh toán bằng séc, đó là đống hỗn độn. Ngoại lệ đối với sự tổng quát này là các ngân hàng trung ương. Thông thường, khi các ngân hàng trung ương giao dịch (giao ngay, giao sau hay quyền chọn), họ đang giao dịch vàng được chỉ định có trong tài khoản của họ tại Ngân hàng Anh. Vì các ngân hàng trung ương và các thành viên của LBMA đều được phép có tài khoản ở đây, nên đó chỉ là một sự chuyển đổi đơn giản từ một vị trí này sang vị trí khác của các thanh vàng (đã được xác định và liệt kê). Tuy nhiên, ví dụ, ngoài mức giao dịch 10.000 ounce vàng, số lượng thực tế cần phải chính xác hơn nhiều khi nó liên quan tới hàm lượng vàng tốt của 25 thanh vàng (10.000 chia cho 400), vì thế nó có thể là 10.006,145 ounce – vàng nói chung được dùng tới ba số thập phân. Trong khi số lượng vàng liên ngân hàng bình thường có thể là 5.000 hoặc 10.000 ounce, vẫn có nhiều thuật ngữ khác có thể được các nhà kinh doanh và khách hàng sử dụng. Hiện ít phổ biến hơn, ngoài việc định giá vàng, là người nào đó giao dịch 5 hay 10 thanh vàng (4.000 ounce là 10 thanh vàng 400 ounce). Tuy nhiên, điều bình thường là giao dịch theo tấn; được cho là 32.000 ounce, hơi khác so với sự tính toán chính xác một tấn khối là 32.150,70 ounce tơrôi. Tương tự, một nhà kinh doanh có thể được yêu cầu tham gia thị trường tính theo nửa tấn, v.v… Vì thế, thuật ngữ này khác nhau rất ít giữa trọng lượng thời trung cổ, các thanh vàng và tấn khối (là 1.000 kg). Tuy nhiên, thị trường cũng thường thích sử dụng đơn vị đo lường truyền thống của Ấn Độ là “lakh” (mười vạn, nghĩa là 100.000). Bởi vậy, khi được yêu cầu “vàng tính theo lakh”, có nghĩa là ai đó đang yêu cầu một mức giá cho 100.000 ounce, tương tự như một nửa và một phần tư của mười vạn. Trong khi phiên âm chính thức là “lakh” nhưng trên thị trường, nó thường được viết là “lac”. Do đó, tùy thuộc vào hoàn cảnh, một nhà kinh doanh có thể được yêu cầu theo mức giá tính theo ounce, thanh vàng, tấn hay lac. Điều này xem ra khó sử dụng song nó nhanh chóng được lựa chọn và được chấp nhận rộng rãi. Quả thực, đối với thị trường vàng, gần như không hiểu được khi ai đó có thể yêu cầu tính giá theo “hai trăm nghìn ounce” nhưng lại là điều rất bình thường khi có yêu cầu tính theo “hai lac”. Để làm rõ một điểm đã đề cập ở trước, tôi lưu ý rằng trên các thị trường OTC, mức giá này là cho một ounce vàng nguyên chất. Về mặt lý thuyết, nếu bạn trả 975 đô-la cho một ounce vàng, trọng lượng cụ thể sẽ nhiều hơn một ounce đối với vàng tạp chất. Một cách khác để xem xét điều này là nếu mua một thanh vàng trọng lượng là 401,213 và tuổi vàng là 0,9957, trên thực tế bạn sẽ nhận 499,488 ounce vàng, và chi phí sẽ bằng khối lượng này nhân với tỷ giá giao ngay. TÍNH THANH KHOẢN Thông qua việc có 11 nhà tạo lập thị trường giao ngay ở London, mức độ tập trung lớn nhất toàn cầu, thực sự, bất kỳ yêu cầu về giá nào đối với một số lượng hơn 50.000 ounce vàng cũng trở nên quan trọng, nhà kinh doanh bù đắp rủi ro của mình bằng cách giao dịch với 10 cơ sở khác. Về hiện thực, trong môi trường giao dịch thất thường hiện nay, gần như bất kỳ một số lượng nào cũng có thể trở nên khó kiểm soát khi giá tăng nhanh. Tuy nhiên, khách hàng có thể vẫn giành được các thị trường có quy mô lớn hơn nhiều so với thị trường có tính thanh khoản tổng thể, và vì thế chiến lược giải quyết của các nhà giao dịch liên ngân hàng được tăng cường bởi những trao đổi và các nhà tạo lập thị trường có giới hạn sẽ chỉ công bố nguồn khách hàng của mình hay cho thấy nỗ lực hoặc đưa ra đề nghị thông qua các nhà môi giới. Phương pháp mà một nhà giao dịch sử dụng để bù đắp rủi ro sẽ khác nhau, tùy thuộc vào số lượng được giao dịch và môi trường thị trường. Về truyền thống, công cụ duy nhất có sẵn đối với một nhà tạo lập thị trường ở London là bán cho các nhà giao dịch khác, vì đó là thị trường OTC. Trái lại, ở New York, một nhà giao dịch sẽ có thể hạn chế phần lớn rủi ro của mình bằng cách giao dịch COMEX/NYMEX và ở châu Á, đó sẽ là sự kết hợp của một trong những thị trường giao dịch địa phương (Tokyo Commodity Exchange hay TOCOM là lớn nhất) và các giao dịch OTC trực tiếp với các nhà tạo lập thị trường khác. Gần đây hơn, việc ra đời của những sở giao dịch bằng hình ảnh ảnh toàn cầu hoạt động xấp xỉ 24 giờ đã làm mờ đi những khác biệt rõ ràng như vậy, vì thế các nhà giao dịch đều sử dụng sự kết hợp OTC và các sở giao dịch để quản lý rủi ro - hoạt động của các sở giao dịch được đề cập ở Chương 7. Nếu chỉ thông qua việc phác thảo những phương pháp này, thật khó để tổng quát dù tôi có nói rằng ai đó đang tìm cách giao dịch một “số lượng đáng kể” – cụ thể là hơn 1 tấn, hơn 32.000 ounce – cách thức đơn giản nhất và/hoặc nhanh nhất để thực hiện giao dịch này là trên thị trường OTC. Trong một số trường hợp, các cơ sở muốn giao dịch theo “giá chuẩn”, một mức giá công khai được lưu lại. Đối với thị trường vàng, luôn là London Gold Fixing (định giá vàng Luân Đôn). ĐỊNH GIÁ VÀNG TẠI LONDON Thông qua việc thực hiện định giá vàng lần đầu năm 1919, tôi có thể sử dụng điều này như một cơ hội để bắt đầu một tiếp điểm lịch sử về hoạt động khai mỏ. Tuy nhiên, như tôi đã nói trong phần giới thiệu, cuốn sách này không có xu hướng là bản ghi chép các thông lệ trước đây ngoại trừ nếu chúng tác động đến hoạt động hiện nay của thị trường. Đối với những ai muốn xem trình bày theo trật tự tuyến tính, tôi khuyến nghị nên xem trên trang web www.goldfixing.com. Lần định giá vàng lâu nhất diễn ra vào ngày 23/3/1990 do một cơ sở ở Trung Đông thực hiện khi bán ra một lượng lớn vàng và mua vào đồng sterling – giá vàng giảm hơn 20 đô-la trong khoảng thời gian kéo dài 2 giờ 26 phút, song nói chung việc định giá cũng kết thúc trong khoảng từ 5 đến 10 phút. Ngoài ra, định giá vàng được tiến hành hai lần một ngày, vào lúc 10 giờ 30 phút và 15 giờ, giờ London – không phải giờ GMT. Các thành viên bao gồm: • Ngân hàng Nova Scotia-ScotiaMocatta • Barclays Bank PLC • Deutsche Bank AG • HSBC Bank USA NA • Société Générale Trong khi các tên trên đã thay đổi theo năm tháng, vẫn luôn có năm thành viên, và tất cả đều sở hữu cổ phần bằng nhau trong công ty quản lý việc định giá, London Gold Market Fixing Ltd. Trong những năm trước đây, các đại diện đã gặp nhau tại các văn phòng N. M. Rothschild ở London, là bên truyền thống chủ trì việc định giá này. Việc này có thể đã hoạt động cực tốt trong nhiều năm trong suốt 90 năm qua song khi một quận tài chính của London mở rộng, nó trở nên bất lợi hơn cho một số tổ chức có nhân viên phải đi lại bằng tàu hỏa khi phải mất 15 phút để đưa họ từ Canary Wharf tới trụ sở của Rothschild ở gần Ngân hàng Anh. Quả thực, có một số cuộc thảo luận về khả năng chuyển sang hệ thống dựa trên máy tính hay qua điện thoại. Ở chừng mực nào đó, tiến bộ đạt được có thể chậm, song khi Rothschild rút khỏi thị trường vàng năm 2004 - viện dẫn tỷ lệ tổng thu nhập mà giao dịch hàng hóa đóng góp cho tổng lợi nhuận của họ giảm – đã có quyết định chấm dứt truyền thống tổ chức định giá tại một địa điểm cụ thể. Thay vào đó, nó được tiến hành qua điện thoại. Barclays Bank là bên mới tham gia vào việc định giá thời gian đó, đã mua lại chiếc ghế trống của Rothschild. Thay đổi này cũng chứng kiến việc chủ trì luân phiên định giá trên cơ sở hàng năm. Mặc dù cơ chế này có thể được thay đổi chút ít song thuật ngữ và phương pháp luận vẫn không thay đổi. Việc định giá giờ đây được thực hiện thông qua đường dây trao đổi chuyên dụng, với đại diện của mỗi thành viên trong số năm thành viên. Nó bắt đầu bằng việc chủ tọa đề nghị một mức giá ban đầu. Giá này sau đó được truyền đạt tới năm phòng giao dịch, và những phòng này thông báo cho khách hàng thông qua điện thoại, nhà tự doanh Reuters, thông điệp nhanh qua Bloomberg, Yahoo, và v.v…; trong nhiều trường hợp, những tổ chức thứ cấp này sẽ thông báo cho khách hàng của mình. Tại mỗi mức giá, khách hàng nào có thể mua, bán hoặc không làm gì. Tất cả thông tin này sau đó được đối chiếu trong các phòng giao dịch của năm thành viên cho tới khi nó trở thành một khối lượng đơn giản cần được mua, được bán hoặc thu được về mức không. Vì vậy, mỗi thành viên thông báo sự quan tâm của mình qua điện thoại với tư cách là bên mua, bán hoặc “không quan tâm”. Nếu có bên mua và bán, hoặc nếu chỉ hai thành viên trong số hoặc mua hoặc bán (cộng với ba “không quan tâm”), chủ tọa sẽ “gọi các con số”, còn được gọi là “thử các con số”. Mỗi thành viên trong số năm thành viên đưa ra số lượng yêu cầu của mình nhân với năm thanh (ước tính 400 ounce mỗi thanh – vàng tại thời điểm định giá không được chỉ định). Nếu có sự khác biệt 50 thanh hoặc ít hơn giữa bên mua và bên bán, giá được “xác định”. Tương tự, vàng có thể được gọi là “định giá” nếu mỗi ngân hàng trong số năm ngân hàng này tự tuyên bố là “không quan tâm” - kết luận rằng thị trường cân bằng vào thời gian đó. Về truyền thống, con số bán ra được tuyên bố trước, có lẽ là do một trong những mục đích ban đầu của việc định giá là để hỗ trợ ngành công nghiệp khai mỏ Nam Phi non trẻ. Trong khi điều thú vị này hầu như đã biến mất song qua quan sát vẫn thấy rằng thị trường luôn đưa ra con số bán trước, chính là số lượng người bán hay chính các thanh vàng. Vì vậy “ba và một” sẽ có nghĩa là có ba bên bán và một bên mua, trái lại “80 và 20” sẽ có nghĩa là 80 thanh vàng được chào nhưng chỉ có 20 thanh người ta muốn mua. Quả thực, nếu sự cân đối trong phòng là 80/20, mọi người đều tuyên bố mình quan tâm, giá kế tiếp đưa ra sẽ thấp hơn nhằm thu hút bên mua và để khuyến nghị bên bán. Rõ ràng, tình hình sẽ ngược lại nếu con số đó là 20/80. Một mẩu chuyện khác có liên quan, nếu một ngân hàng muốn thay đổi số lượng mà họ đã tuyên bố hay quả thực sẽ thay đổi vị trí của mình - từ bên mua sang bên bán hoặc tương tự như vậy – họ được cho là “vẫy cờ”. Thuật ngữ này có thể hơi kỳ lạ song về mặt lịch sử là rất chính xác mặc dù bản chất hành động hơi khác thường. Khi các mức giá được xác định tại N. M. Rothschild, mỗi ngân hàng trong số năm ngân hàng tại phòng giao dịch có một lá quốc kỳ Anh nhỏ ở một bên bàn. Nếu một thành viên muốn thay đổi tuyên bố, người đó sẽ dựng cờ thẳng lên và hành động đó được gọi là “vẫy cờ”. Vàng có thể không, và không thể, bị định giá trong khi “cờ đang dựng” hoặc “cờ đang ở vị trí”. Thuật ngữ tương tự hiện được sử dụng theo cách như vậy mặc dù lá cờ Anh hiện đơn thuần chỉ là mang tính biểu tượng. Rõ ràng là, việc định giá khi giá chuẩn là vô cùng hấp dẫn, vì nó bao hàm một thị trường đã cân đối vào thời gian đó. Chi phí giao dịch là rất hợp lý đối với bên mua và bên bán, giao dịch theo một mức phí bảo hiểm đối với giá ấn định. Mức bảo hiểm này có thể là 5 cent đối với bên bán và 25 cent đối với bên mua. Trong một số trường hợp, nó có thể không phải là 05/25 mà là 10/20, theo cách nói thị trường. Năm thành viên giao dịch “trong phòng” (nói ẩn dụ) ở mức giữa là 15 cent. GIAO DỊCH TỶ LỆ LÃI SUẤT VÀNG Trong Chương 5, tôi đã nêu chi tiết về bên vay và cho vay. Trong chương này, tôi muốn điều tra kỹ hơn xem cách thức thị trường này giao dịch. Thông thường, giao dịch sẽ chỉ là một loạt các phần gửi và cho vay được thực hiện. Một ngân hàng trung ương cho Barclays vay vàng, ngân hàng này lại cho một nhà sản xuất vàng vay, đầu tư số vàng vẫn chưa được sản xuất, v.v… Tuy nhiên, các giao dịch không chỉ được thực hiện thông qua các số lượng và kỳ hạn (bản ghi chép) chính xác từ một cơ sở này sang cơ sở khác. Không thị trường tiền tệ nào hoạt động theo cách như vậy; cũng sẽ không có một loạt số lượng gửi và/hoặc cho vay nào đáng kể. Thay vào đó, các ngân hàng trung ương có xu hướng cho vay vàng dưới hình thức một khoản gửi - rủi ro chính hoàn toàn thuộc về ngân hàng trung ương dựa vào ngân hàng vàng đó. Các ngân hàng sau đó giao dịch với nhau thông qua một loạt công cụ được sử dụng với mục đích làm giảm nhẹ rủi ro tín dụng nhằm ngăn các luồng tín dụng bị siết chặt – thông qua khả năng số lượng lớn giao dịch qua tất cả các sản phẩm được giao dịch. Đối với các giao dịch ngắn hạn, cơ chế phổ biến nhất là hoán đổi vàng, còn được gọi là vàng đặt trước. Đối với các kim loại thường, giao dịch được biết đến là giao dịch vận chuyển và trong các thị trường tiền tệ là thỏa thuận mua lại (thỏa thuận bán và mua lại). Mặc dù đây là giao dịch cho vay vàng, cơ chế này đạt được thông qua việc bán và sau đó mua lại kim loại đó. Sự khác biệt trong hai loại giá đươc tính toán bằng cách sử dụng tỷ suất hoán đổi, tự nó là mạng lý thuyết về tỷ lệ lãi suất đồng đô-la và vàng. Tôi xin đưa ra một ví dụ để là rõ hơn vấn đề này: Ngân hàng A đề nghị ngân hàng B một hoán đổi vàng kỳ hạn sáu tháng. Giá được lập là 2,35 - 2,45 %. Điều này có nghĩa là ở mức 2,35 %, ngân hàng B sẽ sẵn sàng cho vay vàng (thông qua thỏa thuận bán và mua lại) và ở mức 2,45 %, họ sẽ sẵn sàng vay vàng (qua hợp đồng mua và bán lại). Bất chấp việc sử dụng “mua” và “bán”, những loại hình giao dịch này hoàn toàn không có tác động lên giá vàng giao ngay. Giả sử ngân hàng A là bên vay 100.000 ounce và giao dịch tại mức 2,35 %: Vào ngày thứ nhất, ngân hàng B bán 100.000 ounce vàng với mức giá 975 đô-la cho ngân hàng A. Vào ngày thứ 180, ngân hàng B mua 100.000 ounce vàng ở mức giá 986,456 đô-la từ ngân hàng A. Mức giá giao sau được tính là: 975 đô-la + (((975 đô-la x 2,35%)/360) x 180) = 975 đô-la + 11,456 đô la = 986,456 đô-la Giá vàng + (((giá vàng x tỷ lệ hoán đổi vàng)/360) x ngày tính toán) Nhìn bề ngoài, ngân hàng B đã lỗ trong vụ giao dịch này là: 100.000 x 11,456 đô-la = 1.145.600 đô-la Tuy nhiên, từ giao dịch ban đầu, ngân hàng B đã có 97,5 triệu đô-la (100.000 ounce vàng bán ở mức giá 975 đô-la/ounce), ngân hàng này đưa số tiền này vào gửi trong sáu tháng với lãi suất 2,5%, và tạo ra mức lợi tức là 1.218.750 đô-la. Vì thế, mức lợi nhuận ròng của ngân hàng B trong vụ giao dịch này là 73.150 đô-la (lợi nhuận từ lãi tức 1.218.750 đô-la trừ đi khoản vốn lỗ là 1.145.600 đô-la), giả sử họ phải thanh toán mức không cho số vàng ban đầu - vốn là điều không thể nhưng tôi vẫn đưa ra để chứng minh cho khái niệm này. Một cách khác để xem xét lợi nhuận là mức 2,35 % (ở đó ngân hàng B đã vay đồng đô-la và cho vay vàng) và 2,50 % (ở đó có thể gửi tiết kiệm đồng đô-la). Khoản 15 điểm cơ bản này (0,15 %) là lợi tức cho vay vàng trong thời gian sáu tháng trong ví dụ này. Vì vậy, tỷ lệ hoán đổi vàng là mức lãi suất đồng đô-la và vàng. Đó là thị trường tỷ lệ hoán đổi vàng vốn là công cụ chính cho giao dịch vàng ngắn hạn. Đây là điều cuối cùng thúc đẩy thị trường cho thuê/gửi. Thật ngẫu nhiên, lý do cơ bản để một ngân hàng trung ương cho vay thông qua một khoản gửi (rủi ro hoàn toàn cơ bản) và một ngân hàng thương mại thông qua các hoán đổi (rủi ro được giảm) không kỳ lạ như thế. Trước hết, khối lượng giao dịch giữa hai cơ sở tạo lập thị trường này có thể là lớn, vì ngoài những vấn đề còn tồn tại, vẫn dễ hơn rất nhiều trong việc làm giảm rủi ro tín dụng ngay từ lúc khởi đầu. Hai là, nếu một ngân hàng trung ương cho vay qua các mức hoán đổi, nó sẽ đem lại đồng đô-la cho một ngân hàng vay, vì vậy tạo ra rủi ro tín dụng mà họ đã cố tránh trong trường hợp đầu tiên! Tuy nhiên, một số ngân hàng trung ương đã sử dụng các quỹ dự trữ vàng của mình như một công cụ tài chính – vàng là khoản cho vay thế chấp có hiệu quả. Thật thú vị, trong cuộc khủng hoảng tín dụng gần đây, một thị trường hai tầng đã được phát triển cho các khoản gửi vàng từ các ngân hàng trung ương. Mặc dù các ngân hàng có định suất cao này có thể trả 20 điểm cơ sở trong khoản gửi thời hạn 12 tháng từ ngân hàng trung ương, song tôi vẫn nghe nói về các trường hợp bên cho vay được một số ngân hàng vàng có giá trị tín dụng ít trả mức 45 điểm cơ sở. Sức hấp dẫn đối với bên vay, thậm chí thanh toán trên mức thị trường, là lượng vàng này có thể được hoán đổi sau đó trong thị trường liên ngân hàng, vì vậy tạo ra lượng tiền mặt tương đối rẻ cho cơ sở có thể đang trải qua những hạn chế về thanh khoản. Đối với các giao dịch dài hạn, loại giao dịch thị trường điển hình là một khoản hoán đổi tỷ lệ cho thuê, hoán đổi tỷ lệ lãi suất vàng (hoặc chỉ là một IRS). Tương tự đối với công cụ thị trường tiền tệ - từ nơi nó được bắt đầu – trong lối nói thị trường, bên vay sẽ thanh toán mức cố định và nhận mức thả nổi. Hay nói cách khác, họ sẽ vay vàng có kỳ hạn cố định và cho vay lại ngắn hạn. Điều quan trọng là vàng không trao đổi qua tay, vì thế nó ít mang tính tín dụng song thay vào đó, là các luồng tiền mặt cơ bản được thanh toán và/hoặc được tiếp nhận. Một ví dụ như sau: Ngân hàng C yêu cầu ngân hàng D cho vay IRS trong thời gian 10 năm. Giá chào ở mức 0,65/0,75. Điều này có nghĩa là ở mức 0,65 %, ngân hàng D sẽ sẵn sàng vay vàng trong 10 năm (và cho vay lại theo quý), và ở chiều ngược lại, ngân hàng D sẽ cho vay vàng trong thời gian dài hạn và vay lại theo quý. Giả sử ngân hàng C là bên cho vay vàng dài hạn, ngân hàng này sẽ giao dịch ở mức 0,65 %, cho vay vàng trong thời gian 10 năm ở mức đó và vay trở lại theo ba tháng. Ngược lại, ngân hàng D vay 100.000 ounce ở mức 0,65 % trong 10 năm và cho vay 40 kỳ hạn ba tháng. Ngày thứ 1: Ngân hàng D đồng ý trong ba tháng, họ sẽ trả cho ngân hàng C: (((Lượng vàng x tỷ lệ lãi suất cố định)/360) x ngày tính toán) (((100.000 x 0,65%)/360) x 90) = 162,50 ounce vàng. Ngân hàng C đồng ý trong ba tháng sẽ thanh toán cho ngân hàng D: (((Lượng vàng x tỷ lệ lãi suất thả nổi))/360 x ngày tính toán((100.000 x 0,16857%))/360 x 90 = 42,143 ounce vàng. Vì vậy, mức ròng mà ngân hàng D sẽ thanh toán cho ngân hàng C là 120,357 (cụ thể là 162-42,143) ounce vàng. Để có tỷ lệ lãi suất thả nổi cần có một tỷ lệ chuẩn. Không có số tỷ lệ lãi suất vàng như vậy theo cách như đối với tiền tệ. Vì vậy, quy ước là số này bắt nguồn từ LIBOR trừ đi GOFO (chính xác là thị trường tham chiếu đối với nó thế nào). LIBOR nói về tỷ lệ chuẩn đối với tỷ lệ lãi suất cho vay bằng đồng đô-la (công bố trên trang LIBOR của Reuters) và giá chuẩn cho hoán đổi/tỷ lệ giao sau của vàng – GOld FOrward viết tắt là GOFO, cũng là trang xuất hiện trên dịch vụ dữ liệu của Reuters. Vào ngày khi tôi đang viết đến đây thì: LIBOR đồng đô-la trong thời gian ba tháng là 2,71 %. GOFO ba tháng là 2,54143 %. Vì vậy, tỷ lệ (LIBOR-GOFO) là 0,16857 %. Chuẩn GOFO được tính theo cơ sở hàng ngày vào lúc 11 giờ, giờ London. Nó chấp nhận sự đóng góp của chín ngân hàng, các tỷ lệ hoán đổi cao nhất và thấp nhất được chiết khấu và con số cuối cùng được lấy từ giá trị trung bình cộng của bảy cơ sở khác. Lý do cơ bản đằng sau việc giao dịch IRS là phương pháp hiệu quả tín dụng trong giao dịch các tỷ lệ lãi suất vàng dài hạn cũng như tìm cách lợi dụng những thay đổi trong hình dạng của đường cong - cụ thể là, nếu các tỷ lệ lãi suất ngắn hạn bắt đầu thẳng đứng và di chuyển lên theo một tỷ lệ cố định (trong trường hợp một cơ sở đang thanh toán lượng lãi suất cố định và tiếp nhận lãi suất thả nổi). Khi các ngân hàng trung ương cho vay vàng dài hạn - thực tế là hơn 2 năm - họ nói chung không muốn tiếp nhận khoản tín dụng của ngân hàng thương mại trong khoảng thời gian có thể kéo dài tới 10 năm. Vì vậy, để giảm rủi ro này, họ hoặc cho vay vàng trên cơ sở thế chấp (bên vay phải đặt trái phiếu chính phủ cho bên cho vay với giá trị tương đương như vàng, được đánh giá lại theo tuần hoặc tháng), hoặc họ có thể tham gia vào một IRS. Vấn đề đối với các ngân hàng trung ương là một IRS tiêu chuẩn không liên quan tới diễn tiến của vàng, và động cơ của các ngân hàng trung ương là kiếm lợi nhuận từ số vàng của mình. Họ làm điều này bằng cách cho vay vàng dài hạn thông qua một IRS, vay lại vàng (ba tháng) theo các điều khoản của một IRS, song sau đó lại cho vay vàng riêng rẽ trong một giai đoạn ngắn (ba tháng). Điều này có thể không mấy phức tạp song thực chất, điều này có nghĩa là họ thực sự nhận được một tỷ lệ lãi suất trong 10 năm nhờ việc cho vay vàng khi tham gia vào một loạt vụ giao dịch ngắn hạn (40 x 3 tháng). THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VÀNG Thị trường quyền chọn vàng phần nhiều hoạt động giống như bất kỳ một thị trường tiền tệ nào. Quả thực, vàng thường được coi là một loại tiền tệ mặc dù có một số tranh cãi về việc liệu nó có phải là một loại tiền tệ không hay đơn giản là một loại hàng hóa. Câu trả lời an toàn nhất là nó có cả hai đặc điểm trên. Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trên thị trường quyền chọn vàng (đặc biệt là trong những năm 1990) được dẫn dắt bởi các công ty khai thác vàng. Có ba lý do. Trước tiên, nhiều công ty này là bên chỉ bán các quyền chọn mua vàng; hai là, họ là một lực lượng chủ đạo đối với những biến động về giá; và ba là, nhiều vụ giao dịch có chi phí đầu tư lớn về quy mô và vô cùng phức tạp. Lý do cơ bản khiến nhiều nhà khai mỏ bán các quyền chọn mua vàng là sự tăng gấp đôi. Họ không những thừa nhận rằng vàng trên thị trường đang xuống giá dài hạn mà còn bởi tiền lời thu được từ việc bán những quyền chọn này cũng là sự bổ sung tốt cho số vốn lưu động. Trong phần lớn các trường hợp, kỳ hạn không quá sáu tháng, và một số công ty rất tích cực trong việc bán các quyền chọn mua với mức delta thấp (khả năng thực hiện thấp) trong khoảng thời gian không quá một tháng, hầu hết coi tiền không là gì trong môi trường đang giảm giá lúc đó. Tuy nhiên, sự thỏa mãn này có nghĩa là đã có những tin đồn cho rằng một số công ty khai mỏ nhỏ kết thúc bằng việc bán nhiều quyền chọn mua hơn so với tổng sản lượng của họ trong một số thời kỳ. Quả thực, đây là tin đồn đằng sau những khó khăn mà một số công ty khai mỏ nhất định phải đối mặt khi vàng lên giá sau thỏa thuận về vàng của ngân hàng trung ương hồi tháng 9/1999: Giá các quyền chọn bỗng chốc trở nên quá đắt để mua lại, và họ không có đủ sản lượng vàng để đáp ứng các yêu cầu đang được thực hiện. Các nhà sản xuất cũng tập trung vào việc bán yêu cầu như họ đặt mua – rõ ràng là đầu tư cân bằng – vì thế đường đối xứng lệch lớn phát sinh trong sự mua không ổn định và nó đắt hơn nhiều so với các yêu cầu. Thẳng thắn mà nói, trong những ngày huy hoàng của việc sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, các nhà sản xuất Australia độc lập là những người tích cực nhất. Họ cũng là những người cực kỳ đổi mới - hoặc ít nhất là rất quan tâm tham gia các giao dịch đổi mới - sẵn sàng sử dụng những mối liên kết trên các thị trường và các cấu trúc có rủi ro cơ bản khác nhau. Thực ra, khi tôi cùng các đại diện tới một công ty khai mỏ vào cuối những năm 1990, họ không quan tâm tới bất kỳ cấu trúc nào suôn sẻ hơn song lại muốn lựa chọn đòn bẩy vay nợ nếu có thể; họ là bên bán và muốn hiện thực khoản lợi tức lớn nhất. Vấn đề là không có gì quan trọng trong cách đánh giá hiệu quả rủi ro đối với nhiều trong số những cơ sở này và trong một số hoàn cảnh nhất định, họ không, hoặc không thể, kiểm định sổ sách của mình để xem điều gì sẽ xảy ra trong các bối cảnh khác nhau. Kết quả là có sự lo lắng đáng kể khi thị trường vàng bắt đầu hồi phục, đầu tiên là thời gian cuối năm 1999 và những năm sau đó. Tôi đã từng giúp một công ty Australia đánh giá các mua bán phòng ngừa rủi ro của mình, có cấp độ kết nối cao giữa vàng giao ngay và các tỷ lệ lãi suất vàng. Ví dụ, nếu vàng tăng giá, điều này sẽ làm tăng tỷ lệ lãi suất mà họ phải thanh toán để vay vàng. Vì vậy, việc tăng giá nhanh đột ngột sẽ dẫn tới tình trạng khó khăn và khó kiểm soát đối với nhà sản xuất này. Vì vậy, họ tái cơ cấu sổ sách của mình để tránh gặp phải tình huống bất ngờ này. Họ không phải là trường hợp duy nhất trong hoạt động sổ sách đầu tư này; trong hầu hết trường hợp, các nhà sản xuất độc lập nhỏ bị các công ty hải ngoại lớn tiếp quản. Yêu cầu của các nhà sản xuất vàng tại thời điểm này đã phải chứng kiến một giai đoạn đổi mới lớn trong loại cấu trúc quyền chọn có thể được ký kết. Trước nhất, chỉ có các quyền chọn mua và bán thông thường; và sau đó sớm có thêm các quyền chọn đặt rào, các rào cản window và anniversary, các số, các lượng tử, v.v… Phần lớn những khoản này được đưa ra nhằm đáp ứng các yêu cầu trả lương của ngành công nghiệp khai mỏ, mặc dù nhiều ý kiến được du nhập từ các thị trường ngoại hối và thu nhập cố định. Rõ ràng các vấn đề bây giờ không giống như chiếc kia. Các nhà sản xuất ít có chiều hướng đầu tư; quả thật, ngành công nghiệp đó gần như hoàn toàn có cơ sở để dừng lại. Những tuyên bố của công ty khai mỏ về chủ đề này có thể là cam kết trước hành động – và trường hợp ngoại lệ duy nhất là khi các ngân hàng yêu cầu rào cản như là điều kiện tiên quyết để cho một dự án mới vay tiền - thực ra là sự bảo vệ luồng tiền mặt một cách khôn ngoan. CÁC QUỸ ĐẦU TƯ HỢP TÁC Các quỹ đầu tư hợp tác đã hoạt động tích cực trên thị trường vàng trong nhiều năm. Tuy nhiên, khối lượng tài sản được quản lý (AUM) tăng lên nhanh chóng - hiện nay ước tính khoảng 1,875 nghìn tỷ đô-la - đã chứng kiến mức độ gia tăng ảnh hưởng nhanh, thậm chí ngay cả khi tầm ảnh hưởng của các nhà sản xuất giảm. Thực ra, trong những năm 1990, các công ty khai thác vàng và các ngân hàng trung ương (với mục đích cấp kinh phí cho các quỹ đầu tư hợp tác này) rõ ràng là những khách hàng mục tiêu tích cực nhất đối với các ngân hàng vàng; giờ đây, đó là các quỹ đầu tư hợp tác. Ban đầu, hoạt động của quỹ đầu tư hợp tác về vàng bị giới hạn đối với các quỹ hàng hóa chuyên dụng có đầu vào đáng kể từ các quỹ vĩ mô có lợi ích hàng hóa lâu dài. Đối với những ai không biết một “quỹ hợp tác đầu tư vĩ mô” thực sự là gì, cơ bản là do họ không chuyên về bất kỳ một thị trường hay lĩnh vực cụ thể nào, thay vào đó, chuyên môn và bộ sản phẩm của họ được phân bổ rộng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nhanh của AUM đồng nghĩa với việc các quỹ đang ngày càng hướng về các thị trường mới sẽ đầu tư vào. Việc gia tăng nhanh chóng quyền lực của lĩnh vực cụ thể này trùng hợp với sự suy giảm của đồng đô-la đã giúp đỡ đáng kể cho giá vàng. Đối với những người quan tâm đến vàng, nếu họ là “những kẻ đam mê vàng” hoặc chỉ là những người say mê đối với mục đích của chính vàng, trong nhiều năm, vàng đã trở thành dạng thức đầu tư lỗi thời. Tại sao lại phải lo lắng khi đầu tư vào vàng như một nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro đề phòng lạm phát khi bạn có thể mua ở Quỹ đối trọng và công trái phiếu chính phủ ngừa lạm phát (TIPS)? Những người chạy trốn khỏi áp bức và chiến tranh không cần đến vàng; tất cả điều họ cần là một hệ thống ngân hàng nghiêm túc nửa vời, hoặc kết nối Internet, để chuyển tiền ra nước ngoài. Các ngân hàng trung ương chưa bao giờ có mức độ quý trọng hay tin tưởng cao vào khả năng kiềm chế được lạm phát. Vàng nói chung không đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư nhỏ lẻ, vậy thì đâu là lí do để đầu tư vào nó? Thực ra, bản chất thị trường vàng trong thời kỳ bùng nổ Internet xem ra là một bài học về tính không hiệu quả. Xu hướng này là sự diễn tả sau cùng về việc vàng bị coi là thứ yếu. Các doanh nghiệp đang tạo ra vô số của cải với một bản kế hoạch kinh doanh, thứ mà mọi người cần ở thị trường vàng cũ kỹ và trì trệ là gì? Rõ ràng, có nhiều nơi tốt hơn để đầu tư; quả thực, đối với nhiều người, giao dịch lý tưởng sẽ là vàng ngắn hạn (diễn tả sau cùng về “nền kinh tế cũ kỹ”) trong khi mua các cổ phiếu công nghệ. Thay đổi trong sự thịnh vượng của nhiều cổ phiếu ngành Internet và đồng đô-la đã là lời thức tỉnh đối với sự hấp dẫn của vàng; vì vậy, lòng tin vào các quỹ hợp tác đầu tư trên thị trường này đã chứng kiến việc chúng trở nên có tầm ảnh hưởng đáng kể. Hơn nữa, các quỹ này đang xem xét các sản phẩm tương tự như những sản phẩm họ sử dụng trên các thị trường khác tham gia vào việc tăng giá vàng. Tuy nhiên, không ai có bất kỳ ảo tưởng nào; sự quan tâm này thật hiếm trong dài hạn. Không có sự thay thế mua từ ngân hàng trung ương; thay vào đó, họ lợi dụng triển vọng của thị trường hiện tại. Một khi quan điểm này thay đổi, sẽ không có việc gán tâm lý cho vàng. Thay vào đó, có khả năng tìm ra một lối thoát được đa số mọi người sử dụng. Trong nhiều trường hợp, các quỹ hợp tác đầu tư sẽ kèm theo quan điểm thống nhất (hoặc có lẽ là tạo ra nó). Họ chắc chắn ít quan tâm tới việc trở thành bên bán các quyền chọn mua liên tục khi thị trường lên hoặc giảm giá. Thay vào đó, họ sẽ có xu hướng mua các quyền chọn mua nếu họ thấy rằng các thị trường đang tăng giá (hoặc bán các quyền mua) và ngược lại nếu thị trường xuống giá. Vì vậy, ở thị trường lên giá, có khoản lợi tức cho tính chất không ổn định của yêu cầu đối với quyền mua và ngược lại khi giá giảm. Đối với thị trường liên ngân hàng, có thể chỉ có sáu bên tham gia “phần đầu tiên” cùng với bốn bên khác ở tầng thứ hai. Chào giá liên ngân hàng tiêu chuẩn là 50 đến 100.000 ounce (một nửa lac hoặc một lac) trong một năm song khối lượng có xu hướng giảm đi sau đó. Các khách hàng lớn có thể tương đối dễ dàng đạt được các mức giá trong một lượng lớn hơn đáng kể. Quy ước tiêu chuẩn trong thị trường vàng là yêu cầu mua hoặc bán vàng, có lẽ thậm chí là “một lệnh mua vàng Australia”. Tuy nhiên, thị trường đang ngày càng chấp thuận ngôn ngữ được du nhập từ thị trường ngoại hối ví dụ như một lệnh mua vàng, bán đô-la hoặc có thể là bán vàng mua đô-la Australia, v.v…. Nói chung, các nhà tạo lập thị trường sẽ có xu hướng tạo lập thị trường bằng vàng đối với đồng đô-la Mỹ, AUD, euro, và đồng ran Nam Phi – AUD và đồng ran được lưu giữ từ những ngày sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro từ ngành công nghiệp khai mỏ. Thực tế, thị trường chọn vàng-đô-la chiếm khoảng 80% tất cả ngành kinh doanh, đồng AUD chỉ chiếm hơn 10%, còn các đồng tiền khác cũng chỉ như đồng ran. Trong khi đó, về mặt lý thuyết, không quá khó để tạo lập mức giá bằng đồng đô-la Canada, đồng franc Thụy Sĩ hay đồng yên Nhật, sự lan rộng mức chào giá không ổn định sẽ có xu hướng rộng rãi hơn nhiều và thực sự chỉ tham gia vào những ngành kinh doanh quan trọng. Cuối cùng, tất cả công việc kinh doanh, dù là giao ngay, giao sau hay lựa chọn mua, đều cần phải “đã giao hoán”. GIAO HOÁN Như đã đề cập ở trước, London là trung tâm giao hoán đối với vàng chính xác theo cách mà đồng đô-la giao hoán trên thị trường New York và đồng yên trên thị trường Tokyo. Hiệp hội thị trường vàng London (LBMA) xác định quy trình này như sau: “Thị trường vàng London dựa trên hệ thống giao hoán chuyển giao qua giấy tờ hàng ngày. Các thành viên đề nghị các dịch vụ giao hoán thỏa dụng các lượng vàng và bạc không chỉ định mà họ giữ với nhau để quyết toán các giao dịch cũng như giao dịch với bên thứ ba. Những giao dịch này được tiến hành đại diện cho khách hàng và các thành viên khác của thị trường vàng London khi quyết toán các hoạt động giao dịch vàng London của mình. Hệ thống này tránh những rủi ro và chi phí an ninh liên quan tới sự dịch chuyển tự nhiên của vàng”. Quả thật, khái niệm về dãy xe tải chất đầy vàng đi qua các con phố của thành phố London, và khu vực phụ cận, sẽ tạo ra một cơn ác mộng về vận tải và an ninh, cũng như chi phí giao dịch sẽ tăng lên đáng kể. Có thể lấy hai ví dụ ngắn đã trở thành giai thoại để minh chứng cho tình cảnh này. Một câu chuyện kể rằng một ngân hàng trung ương châu Âu tham gia vào một chương trình cho vay vàng, tất cả đều có ngày hạn giống nhau. Do vàng phải được chuyển về Ngân hàng Anh, một dãy xe tải bọc thép đã đỗ bên ngoài các hầm chứa của cơ sở đó trong khi kim loại này vẫn chưa được bốc dỡ. Và chiến lược giao dịch đặc biệt này chưa bao giờ được sử dụng trở lại. Một câu chuyện khác liên quan tới một xe bọc thép chẳng may đâm phải các cánh cửa an ninh của hầm bên giao hoán khiến cho nơi cất giữ này ngừng hoạt động trong vài ngày. Rõ ràng, từ những sự cố đã xảy ra, có thể thấy là nên tránh những sự cố đó bất cứ nơi nào có thể. Có sáu công ty chào bán dịch vụ giao hoán và họ là những chủ sở hữu chung một công ty có tên gọi là London Precious Metals Clearing Limited (LPMCL). Các thành viên đó là: • Barclays Bank PLC • Ngân hàng Nova Scotia-ScotiaMocatta • Deutsche Bank AG-Chi nhánh London • HSBC Bank USD National Association – Chi nhánh London • JP Morgan Chase Bank • UBS AG Theo truyền thống, các ngân hàng có xu hướng cung cấp các dịch vụ giao hoán miễn phí vì các kho chứa không thể lúc nào cũng chất đầy thứ kim loại quý giá này được. Điều đó có nghĩa là người làm thủ tục giao hoán có thể cho vay ngoài mức cân đối có trong kho chứa của mình (chỉ đối với vàng không chỉ định), để làm giảm chi phí. Dịch vụ này hoạt động rất tốt khi có một thị trường vay/cho vay sôi động. Tuy nhiên, khi doanh thu giảm đột ngột (việc chuyển nhượng ảo của thị trường phòng ngừa rủi ro vàng được đề cập trong Chương 4), các kho chứa bắt đầu đầy và có ít yêu cầu vay vàng. Vào thời gian đó, một dịch vụ từng miễn phí bắt đầu lại được tính phí; quả thực, các tỷ lệ lãi suất một tháng đang giao dịch ở mức - 10 điểm cơ bản (trừ 0,1%) tại một điểm, và vì vậy, việc lưu trữ vàng chỉ bị tính phí khi không có khả năng cho vay kim loại này để bù lại chi phí. Trong khi kim loại này theo lý thuyết có thể được chuyển nhượng thông qua ngày giao dịch, thực tế nó có xu hướng diễn ra chỉ trước 16 giờ giờ London, khi các giao dịch dừng lại nếu cả hai bên không đồng ý. Có một cơ sở cực kỳ quan trọng để giao hoán kim loại này nhưng không được đề cập ở trên và không phải là chủ sở hữu một phần của LPMCL; đó là Ngân hàng Anh. Các kho chứa của ngân hàng này nằm bên ngoài hệ thống giao hoán vì tất cả những chuyển dịch ở đó là có chỉ định, vì vậy mới có việc xe tải xếp hàng như đã đề cập ở trên. Nói cách khác, các thanh cụ thể được chuyển nhượng từ một lượng này sang một lượng khác. Nhóm các cơ sở lớn nhất chọn duy trì các tài khoản của mình tại Ngân hàng Anh là những ngân hàng trung ương; trái lại, tôi chỉ nghĩ về sáu quốc gia duy trì các tài khoản không phân bổ tại một bên giao hoán (và phần lớn trong số này cũng có tài khoản tại Ngân hàng Anh). DOANH THU Tại thị trường London – nơi vàng được giao hoán cho các giao dịch OTC - dữ liệu liên quan do LBMA soạn thảo. LBMA thu thập trên cơ sở thông tin hàng tháng được cung cấp từ sáu thành viên đưa ra các dịch vụ giao hoán (LPMCL). Ba biện pháp sau được thực hiện một cách riêng biệt cho mỗi kim loại: • Khối lượng: lượng kim loại được chuyển nhượng trung bình mỗi ngày được tính theo đơn vị triệu ounce tơrôi. (Xem Hình 6-1). • Giá trị: được tính bằng đồng đô-la, sử dụng giá vàng xác định theo giờ chiều London trung bình hàng tháng. (Xem Hình 6-2). • Số lần giao dịch: con số trung bình được ghi lại mỗi ngày (Xem Hình 6-3). Hình 6-1: Hàng triệu ounce tơrôi được giao dịch (cơ sở hàng ngày) Nguồn: LBM Hình 6-2: Giá trị tính theo hàng tỷ đô-la (cơ sở hàng ngày) Nguồn: LBMA Hình 6-3: Số giao dịch (cơ sở hàng ngày) Nguồn: LBMA Nên nhớ rằng vàng là thị trường nhỏ khi thanh toán bằng OTC/trên thị trường London trung bình ít hơn 15 tỷ đô-la trên cơ sở ngày, mặc dù hiện đang có mức thanh toán cao nhất từ trước đến nay là 25 tỷ đô-la (song không phải về mặt số ounce hay số lần giao dịch, một phần là do hoạt động yếu đi trên thị trường cho vay). Phải thừa nhận rằng doanh thu có thể là cấp số nhân của các ounce đã thanh toán, đặc biệt là bổ sung vào những trao đổi. Thật khó đặt ra bất kỳ con số chính xác nào, song theo kinh nghiệm, nó sẽ có ý nghĩa trong việc làm cân bằng thị trường vàng giữa các thị trường USDCAD (USD và CAD) và USDCHF (USD và đồng franc Thụy Sĩ). Thật bất ngờ, thị trường ngoại hối toàn cầu có doanh thu khoảng 3 nghìn tỷ đô-la mỗi ngày. CÁC QUY ƯỚC THỊ TRƯỜNG Tạo lập thị trường giao ngay. “Vòng siết” liên ngân hàng nói chung là 5.000 đến 10.000 ounce vàng. Tuy nhiên, đó là tiêu chuẩn cho tất cả các yêu cầu về giá có bao hàm số lượng. Vì vậy, thị trường gọi tắt là “vàng 10k” hay cụm từ diễn tả tương đương. Các nhà tạo lập thị trường không yêu cầu với nhau về các mức giá thấp hơn 5.000 ounce nếu giả sử có lý do rằng họ là những người nhận rủi ro với một lượng giao dịch thông qua sổ sách của mình và các số lượng ít hơn sẽ không mang tính chuyên nghiệp. Ngoài 11 nhà tạo lập thị trường ở London được liệt kê ở phần trước trong chương này, một số cơ sở sẵn sàng đưa ra các mức giá cho nguồn khách hàng của mình song lại không đưa cho các nhà tạo lập thị trường khác. Những người sử dụng thị trường này sẽ cố gắng và “làm môi giới” các giao dịch đối với các nhà tạo lập thị trường tạo ra sự kích thích nhỏ về giao dịch hoặc sẽ sử dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro của mình thông qua vô số trao đổi (có trong Chương 7). Tạo lập thị trường quyền chọn. Số lượng tiêu chuẩn là 50.000 tới 100.000 ounce, song sẽ phụ thuộc vào kỳ hạn, mức độ biến động, mức delta, và cặp tiền tệ. Đối với khách hàng, những bình luận tương tự được áp dụng giống như đã đề cập ở trên. Tạo lập thị trường giao sau. Một lần nữa, lượng giao dịch tiêu chuẩn là 50.000 tới 100.000 ounce song sẽ rất phụ thuộc vào kỳ hạn, khi khách hàng thường có thể thu thập mức chào giá với quy mô ngày càng tăng theo những kỳ hạn ưu đãi hơn. 7. Các sở giao dịch vàng Qua cuốn sách này, tôi có ý định tiếp cận và theo đó là bắt đầu với những trao đổi ở châu Á trước khi chuyển sang Mỹ thông qua một người tham gia mới nhất ở Đubai cũng như các thị trường tương lai trực tuyến luôn hiện hữu. Xin tạ lỗi nếu tôi bỏ sót một cơ sở đặc biệt nào đó nhưng tôi chú trọng đến những thị trường mà những người chuyên nghiệp có xu hướng tập trung vào. TOCOM (NHẬT BẢN) TOCOM là từ viết tắt cho Thị trường hàng hóa Tokyo được nhiều người biết đến và chấp nhận, tự xác định (chi tiết xin tham khảo website: www.tocom.or.jp) như sau: “TOCOM là tổ chức thành viên phi lợi nhuận theo Đạo luật trao đổi hàng hóa (1950) quy định tất cả hợp đồng hàng hóa tương lai và các quyền chọn giao dịch ở Nhật Bản”. Các đặc điểm kỹ thuật của hợp đồng được giao dịch ở đây, lại lấy từ trang web của thị trường này, được liệt kê như sau: Ngày niêm yết: 23 tháng 3 năm 1982 Loại hình giao dịch: Giao dịch hợp đồng giao hàng tương lai Tiêu chuẩn: Vàng ròng, độ nguyên chất tối thiểu 99,99 Phương thức giao dịch: Giao dịch liên tục qua hệ thống vi tính Tháng hợp đồng: Tất cả các tháng chẵn trong một năm (vào ngày bắt đầu tháng mới của hợp đồng, thậm chí sẽ có sáu tháng chẵn kể từ tháng chẵn tiếp theo sau tháng mà ngày nói trên nằm ở đó)