🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đấu Trường Sinh Tử - Suzanne Collins
Ebooks
Nhóm Zalo
Giới thiệu tác phẩm:
Một thế giới tàn nhẫn trong tương lai...
Đó là khi Bắc Mỹ đang dần khôi phục lại sau nhiều năm chìm trong nội chiến. Sau khi nhà nước Panem trấn áp được cuộc nổi dậy của mười ba quận, phá hủy Quận 13, những người đứng đầu bộ máy cai trị đặt ra một hình phạt tàn nhẫn cho mười hai quận còn lại. Mỗi năm từ mỗi quận một nam và một nữ bị chọn làm vật tế, bị gom lại trên một chiến trường, phải tiêu diệt lẫn nhau cho đến khi chỉ còn một người duy nhất sống sót.
Trong một lần xả thân cứu em gái, Katniss sa chân vào đấu trường sinh tử. Cô và Peeta trở thành một cặp đồng hành, cùng phiêu lưu vào thế giới đầy chết chóc, nơi mà đường vào có 24 lối dành cho 24 con người nhưng đường ra thì chỉ có 1. Katniss sẽ phải làm gì, khi các đối thủ của cô là một chàng trai có tình cảm với cô và một người cô coi như em gái?
Bí ẩn, gai góc nhưng mãnh liệt đầy chất thơ, làm người đọc hồi hộp đến từng thớ chữ, không phải ngẫu nhiên khi Đấu Trường Sinh Tử lọt vào danh sách sách bán chạy nhất của tờ The New York Times trong suốt 60 tuần, và mang lại vinh danh từ tạp chí Time cho tác giả Suzanne Collins như một trong những người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2010.
Nhận định về tác phẩm:
“Là nơi tụ họp của các nhân vật đa chiều, cuốn sách ẩn chứa một chuyến phiêu lưu hành động tuyệt vời, xen lẫn chính trị và chủ nghĩa lãng mạn.”
–– Booklist, STARRED REVIEW
“Cốt truyện tuyệt vời, kết cấu hoàn hảo…”
–– The New York Times, John Green
“Collins đã viết một cuốn sách thú vị, sâu sắc, đầy suy cảm và có thể làm người đọc đứng tim, Đấu Trường Sinh Tử đã leo tới đỉnh cao của thể loại khoa học viễn tưởng, và tác giả xứng đáng được nhiều người biết tới. Một trong những tác phẩm hay nhất năm 2008.”
–– School Library Journal, Elizabeth Bird
Mục Lục
PHẦN 1 1
2
3
4
5
6
7
8
9
PHẦN 2 10
11
12
13
14
15
16
17
18
PHẦN 3 19
20
21
22
23
24
25
26
27
Suzanne Collins, sinh năm 1963 tại Connecticut - Mỹ, hiện đang là một trong những nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi có ảnh hưởng nhất trong làng văn thế giới. Bà khởi nghiệp với tư cách biên kịch cho các chương trình truyền hình thiếu nhi, và bắt đầu công việc như một tay viết hạng trung làng nhàng trong nhiều năm. Có thể nói, sự nghiệp văn chương của bà chỉ thực sự bắt đầu khi Suzanne bước vào lĩnh vực văn học thiếu nhi.
Trong một lần nghĩ về câu chuyện Alice in Wonderland (Alice ở xứ sở thần tiên), Suzanne đã cho ra đời Gregor the Overlander, cuốn đầu tiên trong series tiểu thuyết 5 tập Underland Chronicles (tạm dịch: Biên niên ký thế giới ngầm). Cuốn sách được xuất bản năm 2003, lập tức tạo thành một hiện tượng. Suzanne đều đặn sáng tác mỗi năm một tập truyện, và đến năm 2007 thì cuốn thứ 5 Gregor the Code of Claw kết thúc, biến Biên niên ký thế giới ngầm thành series ăn khách bậc nhất, được ghi danh trên bảng vàng Best seller của New York Times.
Đến năm 2008, Suzanne xuất bản Đấu trường Sinh tử, tập đầu trong series bộ tam Đấu trường Sinh tử. Cuốn sách lập tức trở thành cơn sốt, lọt vào danh sách New York Times Bestseller suốt 60 tuần liền và chỉ trong 14 tháng đầu đã bán được 175 triệu bản chỉ tính riêng khu vực Bắc Mỹ. Bản thân Suzanne cũng lọt vào top 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2010 do tạp chí Time bình chọn.
PHẦN 1 “VẬT TẾ”
1
Khi tôi tỉnh dậy, phía bên kia giường thật lạnh lẽo. Tôi duỗi các ngón tay, tìm kiếm hơi ấm của Prim nhưng chỉ chạm phải bề mặt thô ráp của tấm ga nệm bằng vải bố. Hẳn con bé đã gặp ác mộng và tót sang ngủ với mẹ. Cũng phải thôi. Nó hẳn đã mơ về ngày chiêu quân.
Tôi chống cùi chỏ nhỏm dậy. Phòng ngủ đủ sáng để tôi có thể nhìn thấy họ. Em gái tôi, Prim, đang cuộn tròn và rúc vào người mẹ, má hai người áp vào nhau. Trong khi ngủ, mẹ tôi trông trẻ hơn, tuy vẫn xanh xao nhưng không tiều tụy lắm. Gương mặt Prim tươi tắn như hạt mưa, đáng yêu như chính cái tên của nó, loài hoa anh thảo. Mẹ tôi cũng một thời đẹp lắm. Ít ra, người ta đã kể với tôi như thế.
Ngồi sát đầu gối Prim và canh chừng cho con bé là con mèo xấu nhất quả đất. Mũi bẹt, một bên tai sứt phân nửa, còn mắt thì có màu vàng ủng như quả bí thối. Prim đặt tên cho nó là Hũ Bơ và khăng khăng rằng bộ lông vàng xỉn của nó giống hệt màu hoa Hũ Bơ[1]rực rỡ. Nó ghét tôi lắm. Hoặc ít nhất cũng là dè chừng tôi. Dù chuyện xảy ra cách đây đã nhiều năm, chắc nó vẫn còn nhớ rằng tôi đã cố dìm nó vào cái xô như thế nào sau khi được Prim mang về nhà. Con mèo con ốm đói, bụng trương lên vì sán, người thì lúc nhúc rận. Điều duy nhất tôi bận tâm là phải tốn thêm một miệng ăn nữa. Nhưng Prim nài nỉ dữ quá, còn khóc nữa, vậy nên tôi đành cho nó ở lại. Con mèo xem chừng cũng ngoan. Mẹ tôi bắt hết rận cho nó và Hũ Bơ quả có tài bắt chuột bẩm sinh. Đôi khi nó còn bắt được cả chuột cống. Thỉnh thoảng, khi tôi dọn một bãi chuột chết, tôi cho Hũ Bơ bộ lòng. Nó thôi gầm gừ với tôi.
Bộ lòng. Thôi gầm gừ. Đấy là cái ngưỡng tình thương cao nhất mà chúng tôi từng có được.
Tôi phóng ra khỏi giường và đặt tọt hai chân vào đôi ủng đi săn. Chiếc ủng da mềm mại khít khịt chân tôi. Tôi mặc quần dài, áo thun, nhét bím tóc dài sẫm màu vào trong mũ và túm lấy túi đựng cỏ. Trên bàn, mẩu pho mát dê ngon tuyệt gói trong lá húng quế được đậy dưới chiếc bát gỗ, tránh lũ mèo chuột háu ăn. Đây là món quà của Prim cho tôi trong ngày chiêu quân. Tôi cẩn thận bỏ mẩu pho mát vào túi rồi lẻn ra ngoài.
Khu Vỉa than, biệt danh được đặt cho khu vực chúng tôi sống trong Quận 12, tầm giờ này lúc nào cũng chật kín thợ mỏ bước vào ca sáng. Các ông các bà ai cũng vai u thịt bắp, nhiều người từ lâu đã không buồn cạy lớp bụi than khỏi những cái móng tay dập gãy hay chùi những vệt đen trên khuôn mặt heo hóp của họ. Thế nhưng hôm nay khu phố than đen vắng ngắt. Cửa sập của những căn nhà màu xám nhếch nhác đóng kín mít. Đến hai giờ chiều buổi chiêu quân bắt đầu. Giờ này vẫn còn ngủ tốt. Nếu bạn có thể ngủ được.
Nhà tôi ở rìa khu Vỉa than. Tôi chỉ cần đi qua vài cái cổng là đến được cánh đồng dơ dáy tên là Đồng cỏ. Ngăn cách Đồng cỏ với khu rừng, mà thực chất là bao quanh toàn bộ Quận 12, là hàng rào mắt cáo cao ngật ngưỡng, trên cùng là những vòng thép gai. Đáng lẽ người ta giăng điện liên tục 24/24 nhằm ngăn thú dữ trong rừng - những nỗi sợ hãi từng bao trùm cả khu phố. Nhưng may mắn thay, chúng tôi chỉ có điện trong hai hoặc ba tiếng vào buổi tối, vậy nên đụng vào hàng rào luôn an toàn. Tuy nhiên lúc nào tôi cũng lắng nghe một lúc, có tiếng vo vo nghĩa là hàng rào có điện. Giờ thì nó im phăng phắc. Núp trong một bụi rậm, tôi nằm sấp và trườn vào dưới một khe hở dài một mét đã bung từ lâu. Còn một vài khe hở khác trên hàng rào, nhưng tôi toàn chui vào chỗ này do gần nhà.
Ngay khi lọt vào một đám cây, tôi lấy cung và bao tên từ một thân cây rỗng.
Dù có điện hay không, hàng rào cũng đã làm tốt việc bảo vệ Quận 12 khỏi lũ động vật ăn thịt. Nhưng trong rừng, ngoài lũ thú hoang ra,
còn có những mối nguy khác như rắn độc, thú mang bệnh dại và hiểm họa lạc lối. Tuy nhiên, nếu biết cách thì cũng sẽ tìm được thức ăn. Cha rất rõ điều đó, và ông đã chỉ tôi những cách tìm thức ăn trước khi bị thổi banh xác trong vụ nổ hầm mỏ. Thậm chí chẳng còn gì để mà chôn nữa. Năm đó tôi mười một tuổi. Năm năm sau, thỉnh thoảng tôi vẫn giật mình tỉnh giấc và kêu thúc cha tôi chạy thoát.
Dù vào rừng là trái luật và việc săn trộm có thể dẫn đến hình phạt nghiêm trọng nhất, nhiều người vẫn cả gan vào rừng nếu họ có vũ khí. Tuy nhiên hầu hết không dám băng rừng chỉ với con dao trong tay. Cây cung của tôi là của hiếm, được cha tôi với vài người khác làm thủ công, và tôi giấu kỹ nó trong rừng, gói lại cẩn thận bằng tấm bọc không thấm nước. Cha tôi đã có thể kiếm bộn tiền từ việc bán cung, nhưng nếu để lũ quan chức biết, ông sẽ bị xử tử vì việc bán cung, vì tội kích động chống đối. Hầu hết những người trong Đội Trị an đều làm lơ cho một số chúng tôi đi săn vì họ cũng đói thịt tươi như bao người khác. Thật ra họ mới là những khách hàng béo bở nhất của chúng tôi. Có điều, ý tưởng người nào đó sắm sửa vũ khí ở khu Vỉa than sẽ không bao giờ được chấp nhận.
Mùa thu, vẫn có vài kẻ bạo gan lẻn vào rừng hái táo. Tuy nhiên họ thường đứng vừa tầm với Đồng cỏ, luôn đủ gần để có thể chạy về khu vực an toàn của Quận 12 nếu có chuyện chẳng lành. “Quận 12. Nơi chúng ta có chết đói cũng vẫn an toàn,” tôi lẩm bẩm. Rồi đưa mắt nhìn về phía sau. Ngay cả ở đây, giữa chốn hoang vu này, tôi vẫn lo có ai đó nghe lén.
Khi còn nhỏ, tôi từng dọa mẹ tôi xanh mặt mỗi lần lỡ lời về Quận 12, về Panem, đám người điều hành đất nước từ một thành phố xa xôi tên là Capitol[2]. Cuối cùng tôi hiểu rằng việc phàn nàn này sẽ chỉ gieo rắc thêm rắc rối. Bởi vậy tôi học cách giữ miệng, và giữ vẻ mặt trong một chiếc mặt nạ vô cảm để không ai đọc được suy nghĩ của mình. Ở trường tôi chẳng nói chẳng rằng. Ngoài chợ thì làm vài cuộc nói chuyện xã giao. Còn tại Hob, khu chợ đen nơi tôi kiếm được phần lớn thu nhập, thì hầu như không nói gì khác ngoài những
thỏa thuận bán mua. Ngay cả ở nhà, nơi không cần quá ý tứ, tôi cũng tránh đụng đến những chủ đề nhạy cảm. Như chuyện chiêu quân, chuyện thiếu ăn, hay cái Đấu trường Sinh tử. Nếu Prim sẽ lặp lại lời tôi ở đâu đó thì chúng tôi sẽ ra sao?
Trong rừng có người đang đợi tôi, người duy nhất mà khi ở bên cạnh, tôi có thể là chính mình. Gale. Tôi có thể cảm thấy cơ mặt mình dãn ra, rồi đôi chân tôi leo đồi nhanh hơn để đến địa điểm chung, một gờ đá mà từ đó có thể nhìn bao quát cả thung lũng. Một bụi dâu rậm rạp che nó khỏi cặp mắt người lạ. Nhìn thấy anh đang đợi, tôi chợt mỉm cười. Gale nói tôi chỉ cười khi vào rừng.
“Này, Catnip,” Gale nói. Tên thật của tôi là Katniss, nhưng lần đầu nói cho anh nghe, tôi bỏ qua âm gió. Vậy nên anh nghe là Catnip. Rồi từ khi có một con mèo rừng quái đản lẽo đẽo theo tôi khắp khu rừng để tìm ăn, tôi chính thức có biệt danh đó. Cuối cùng tôi phải bắn chết con mèo rừng vì nó làm kinh động đến những con mồi của tôi[3]. Tôi cũng tiếc lắm vì nó không phải là một bạn đồng hành tồi. Nhưng bù lại tôi đi săn dễ dàng hơn kể từ khi thiếu nó.
“Xem anh bắn được gì này.” Gale cầm ổ bánh mì bị mũi tên găm vào làm tôi bật cười. Đó là bánh mì nướng lò, chứ không phải thứ bánh mì dẹt đặc ruột được chúng tôi làm từ bột mì. Tôi cầm nó lên, rút mũi tên ra, đưa lỗ thủng của chiếc bánh mình lên mũi, hít hà cái mùi phưng phức đang làm nước bọt tôi trào ra. Bánh ngon thế này được tôi dành cho những dịp đặc biệt.
“Ừm, vẫn còn nóng,” tôi nói. Chắc anh phải đợi ở tiệm bánh mì từ tờ mờ sáng mới mua được. “Anh đổi cái gì để lấy nó thế?”
“Chỉ một con sóc mà thôi. Em biết không, ông già ở tiệm bánh sáng nay bỗng tỏ ra đa cảm,” Gale nói. “Ông ấy còn chúc anh may mắn nữa.”
“Ừ, hôm nay ai cũng có vẻ thân thiện hơn thì phải?” Tôi nói, thậm chí không buồn liếc mắt. “Prim dành cho chúng ta một miếng pho mát.” Tôi lấy nó ra.
Anh tươi cười trước lời mời mọc. “Cảm ơn em, Prim. Chúng ta sẽ có một bữa thịnh soạn.” Bất chợt anh đổi sang giọng Capitol, bắt chước Effie Trinket, cái bà bốc đồng thái quá năm nào cũng đến đây để công bố kết quả chiêu quân. “Suýt nữa tôi quên! Chúc mừng Đấu trường Sinh tử nào!” Anh hái vài chùm dâu đen bụi xung quanh. “Và mong là may mắn…” Anh thảy một quả dâu sang phía tôi.
Tôi bắt lấy nó bằng miệng và cắn lớp vỏ mỏng. Vị chua ngòn ngọt chạy dọc lưỡi tôi. “… luôn đứng về phía các bạn!” Tôi tiếp lời Gale trong hưng phấn. Chúng tôi phải pha trò như vậy vì nếu không mọi người sẽ sợ đến chết mất. Với lại giọng vùng Capitol khá ép phê, hầu như cái gì nói bằng giọng ấy cũng đều mắc cười.
Tôi nhìn Gale lấy dao rồi cắt lát ổ bánh mì. Anh có thể làm anh trai tôi lắm chứ. Tóc đen mượt, da màu ô liu; chúng tôi còn giống nhau đôi mắt xám. Nhưng hai đứa không có họ hàng với nhau, ít ra là không phải họ hàng gần. Hầu hết những người có gia đình làm ở khu mỏ đều từa tựa nhau như thế.
Nhờ đó mà mẹ tôi và Prim, với da sáng và mắt xanh, luôn trở nên nổi bật. Và đúng như thế thật. Ông bà ngoại tôi thuộc tầng lớp thương gia ít ỏi làm ăn với giới công chức, Đội Trị an và thỉnh thoảng của có khách hàng của khu Vỉa than. Họ quản lý một cửa hàng bào chế thuốc ở vị trí đắc địa trong Quận 12. Bởi hầu như không ai đủ tiền mời bác sĩ, dược sĩ trở thành người chữa bệnh cho chúng tôi. Cha tôi biết mẹ tôi vì thỉnh thoảng ông hái thảo dược trong những chuyến đi săn và bán cho cửa hàng mẹ tôi. Hẳn là bà đã yêu ông nhiều lắm khi rời nhà mình để đến khu Vỉa than. Tôi cố nhớ lại chuyện cũ bởi bây giờ tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là một người phụ nữ ngồi đó, trống rỗng và vô cảm, trong khi đàn con đói ăn đến độ da bọc xương. Vì cha, tôi cố tha thứ cho bà. Nhưng thật lòng mà nói, tôi không phải loại người dễ cho qua.
Gale phết một lớp pho mát dê mỏng dính lên những lát bánh mì, cẩn thận đặt từng lá húng quế lên từng cái trong khi tôi vặt quả dâu[4]. Chúng tôi trở lại ngồi vào một cái hốc trên bãi đá. Ở đây, chúng tôi vừa không bị ai nhìn thấy, vừa có thể bao quát cả thung lũng đang rộn ràng nhịp sống mùa hè của những bãi rau xanh mướt tới ngày thu hoạch, đám củ quả chờ được đào, và lũ cá lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Một ngày rực rỡ với trời xanh và gió nhẹ. Thức ăn ngon tuyệt vời với bánh mì nóng ngấm pho mát cùng những quả dâu lịm ngọt. Mọi thứ hẳn sẽ hoàn hảo nếu đây thực sự là một kỳ nghỉ, và nguyên cả ngày nghỉ tôi được đi lang thang trên núi với Gale, săn bắn cho bữa khuya. Nhưng thay vào đó, chúng tôi phải có mặt ở bãi đất trống lúc hai giờ để chờ xem ai được gọi tên.
“Chúng ta có thể làm được, em biết mà,” Gale nói khẽ. “Làm gì cơ?” Tôi hỏi.
“Rời khỏi quận này. Bỏ trốn. Vào rừng sống. Em và anh, chúng ta có thể làm được.” Gale nói. Tôi không biết trả lời thế nào. Ý nghĩ này quá khùng điên.
“Nhưng chúng ta có nhiều trẻ con quá,” anh vội thêm vào.
Tất nhiên chúng không phải đàn con của bọn tôi. Không phải nhưng lại phải. Gale có hai em trai và một em gái. Rồi Prim. Ngoài ra có thể tính cả mẹ bọn tôi nữa, vì làm sao họ có thể sống thiếu chúng tôi? Ai sẽ chăm sóc những miệng ăn lúc nào cũng thiếu đói? Ngày nào cả hai cũng đi săn, vậy mà có những tối chúng tôi phải đổi con mồi săn được để lấy ít mỡ lợn, dây giày hay vài cuộn len, vẫn có những tối chúng tôi phải lên giường với cái dạ dày sôi ùng ục.
“Em chưa từng muốn có con,” tôi nói.
“Anh thì muốn. Nếu như anh không sống ở đây,” Gale nói.
“Nhưng anh đang ở đây đấy thôi,” tôi cáu tiết.
“Thôi bỏ đi,” anh đáp.
Cuộc nói chuyện có vẻ hoàn toàn lạc đề rồi. Bỏ trốn ư? Làm sao tôi có thể rời bỏ Prim, người duy nhất tôi yêu thương trên cõi đời này? Còn Gale thì phải phục vụ gia đình anh ấy. Chúng tôi không thể ra đi, vậy nói về chuyện đó để làm gì? Mà ngay cả nếu có… ngay cả nếu có… thì liên quan gì đến chuyện có bọn trẻ? Chưa hề có điều gì lãng mạn giữa Gale và tôi. Khi bọn tôi gặp nhau, tôi là một cô bé mười hai tuổi gầy nhom, còn anh, mặc dù chỉ lớn hơn tôi hai tuổi, trông đã như một người đàn ông. Thậm chí phải mất một thời gian dài chúng tôi mới có thể trở thành bạn bè, có thể thôi cãi vã trong mỗi lần đổi chác và chuyển sang giúp đỡ lẫn nhau.
Với lại, nếu Gale muốn có con thì sẽ chẳng khó gì để tìm một người vợ. Anh ưa nhìn, đủ khỏe mạnh để đảm đương công việc trong mỏ và biết săn bắn. Tôi biết được điều đó qua cách bọn con gái bàn tán về anh, rằng chúng muốn có Gale mỗi khi anh rảo bước trong trường. Điều đó khiến tôi ghen tị, nhưng không phải vì lý do mọi người thường nghĩ, mà bởi vì anh là bạn săn xuất sắc không dễ gì tìm được.
“Mình làm gì đây?” tôi hỏi. Chúng tôi có thể săn thú, câu cá hay hái lượm.
“Ra hồ câu cá đi. Chúng ta sẽ để cần ở đó và vào rừng hái lượm. Kiếm thứ gì ngon lành cho tối nay,” anh nói.
Tối nay. Sau ngày chiêu quân, có lẽ nhà nào cũng ăn mừng. Nhiều người làm vậy để bày tỏ sự nhẹ nhõm khi con cái họ được ở nhà thêm một năm nữa. Nhưng sẽ có ít nhất hai gia đình đóng cửa gài then, tìm cách vượt qua những tuần lễ đau khổ sắp tới của mình.
Chúng tôi thu được kha khá. Hôm nay bọn thú ăn thịt để mặc chúng tôi với một lô những con mồi dễ tóm, dễ xơi. Cuối buổi sáng, bọn tôi đã có một tá cá, một túi rau rừng và, tuyệt vời hơn cả, là một đống dâu tây. Tôi tìm thấy bụi dâu này từ vài năm trước, nhưng chính Gale mới là người đưa ra ý tưởng giăng lưới xung quanh để tránh thú rừng.
Trên đường về, chúng tôi tạt qua Hob, khu chợ đen hoạt động trong một nhà kho bỏ hoang, trước đây dùng làm kho chứa than. Khi người ta tìm ra cách khác hiệu quả hơn để đưa than trực tiếp từ khu mỏ lên xe lửa, nơi này dần bị chợ Hob chiếm chỗ. Vào ngày chiêu quân, hầu hết hoạt động mua bán đều đã kết thúc, nhưng chợ đen vẫn khá nhộn nhịp. Chúng tôi dễ dàng đổi sáu con cá lấy một ổ bánh mì ngon, hai con khác đổi lấy muối. Greasy Sae, một bà già khẳng khiu vẫn bán những tô xúp nóng hổi rót từ một cái ấm lớn, thì đổi vài thỏi nến lấy nửa số rau rừng. Dù có thể kiếm hơn chút đỉnh ở nơi khác, chúng tôi vẫn cố gắng giữa mối quan hệ tốt với bà Greasy Sae. Bà ấy là người duy nhất lúc nào cũng đồng ý mua chó hoang. Chẳng ai muốn săn chúng cả, nhưng nếu bị tấn công thì kiểu gì cũng phải bắn chết một vài con, và rồi, thịt gì chẳng là thịt. “Một khi cho nó vào nồi xúp, ta sẽ nói là xúp thịt bò,” Greasy Sae nháy mắt. Không ai trong khu Vỉa than có thể cưỡng lại miếng thịt đùi thơm ngon của một con chó hoang, trừ những người trong Đội Trị an khá dư dả nên thường kén chọn.
Khi đã xong việc ở chợ, chúng tôi đi đến cửa sau nhà ngài thị trưởng để bán một nửa số dâu tây vì biết ông ta đặc biệt thích chúng và chịu mua với giá do hai đứa định sẵn. Madge, con gái ngài thị trưởng ra mở cửa. Nó là bạn cùng khóa với tôi ở trường. Nhiều người nghĩ con gái một ngài thị trưởng hẳn là hợm hĩnh lắm, nhưng con nhỏ chơi cũng được. Nó chỉ hơi khép kín. Giống tôi. Vì cả hai đều không chơi với nhóm nào nên ở trường chúng tôi có vẻ khá thân. Ăn trưa, ngồi cạnh nhau trong những hội nhóm, bắt cặp nhau trong các trò thể thao. Chúng tôi ít khi trò chuyện vì đều thấy như thế là ổn.
Hôm nay nó không mặc bộ đồ đi học nhếch nhác mà thay bằng bộ đồ đắt tiền màu trắng, buộc mái tóc vàng bằng chiếc ruy băng hồng. Quần áo cho ngày chiêu quân.
“Váy đẹp đấy,” Gale nói.
Madge ném một cái nhìn vào anh, cố nhận biết xem đấy là lời khen thật lòng hay chỉ là lời mỉa mai. Chiếc váy đẹp thật, nhưng nó chưa bao giờ mặc trong dịp thường. Con nhỏ mím môi và mỉm cười: “Ừ thì, nếu bị đưa đến Capitol thì em cũng muốn mình tươm tất chứ, đúng không?”
Bây giờ đến lượt Gale bối rối. Có phải ý nó là như thế? Hay là nó đang nói móc anh? Tôi đoán là vế sau.
“Em sẽ không đến Capitol đâu,” Gale lạnh lùng nói. Mắt anh dừng ở cái ghim tròn nhỏ đính trên váy con nhỏ. Bằng vàng thật. Được làm thủ công đến mức tinh xảo. Nó có thể nuôi sống cả gia đình hàng tháng trời. “Em thì làm được gì nào? Đăng ký năm lần chưa? Năm mười hai tuổi anh đã được ghi tên sáu lần rồi đấy!”
“Có phải lỗi của nó đâu,” tôi nói.
“Không, không phải lỗi của ai cả. Mọi thứ vốn đã là vậy rồi,” Gale nói.
Mặt Madge tối sầm lại. Con nhỏ đặt tiền mua dâu vào tay tôi, “Chúc may mắn, Katniss.”
“Cậu cũng thế,” tôi nói, và cánh cửa đóng lại.
Chúng tôi đi bộ về khu Vỉa than trong im lặng. Tôi không thích cách Gale nói khích Madge, nhưng rõ ràng là anh ấy nói đúng. Cách chọn quân cũng không công bằng, khi người nghèo luôn chịu thiệt thòi nhất. Bạn đủ điều kiện để đăng ký chiêu quân khi mười hai tuổi. Mười ba tuổi, lần hai. Và cứ thế, cứ thế cho đến khi bạn mười tám,
tuổi cuối cùng đủ tiêu chuẩn, bạn có tên trong danh sách lần thứ bảy. Mọi cư dân ở mười hai quận trên toàn đất nước Panem đều như thế.
Nhưng vấn đề là thế này. Giả sử nhà bạn nghèo và lúc nào cũng thiếu ăn như chúng tôi. Bạn có thể đăng ký nhiều lần để đổi lấy nhiều tê-ra[5] hơn. Mỗi tê-ra tương đương với khoản trợ cấp ngũ cốc và dầu ăn ít ỏi cho một người trong một năm. Bạn có thể đăng ký bằng tên những thành viên trong gia đình. Vì thế, năm mười hai tuổi tôi đã ghi tên mình bốn lần. Một lần vì bắt buộc, và ba khác để lấy tê-ra đổi ngũ cốc và dầu cho tôi, Prim và mẹ. Thật ra, năm nào tôi cũng phải làm thế. Và số lần đăng ký cũng tăng dần. Vậy nên bây giờ, ở tuổi mười sáu, tên tôi đã xuất hiện trong danh sách hai mươi lần. Gale, mười tám tuổi với bảy năm phụ giúp và một tay nuôi sống gia đình năm miệng ăn, sắp đăng ký lần thứ bốn mươi hai.
Có thể hiểu tại sao những người chưa bao giờ phải mạo hiểm để lấy một tê-ra nào như Madge lại làm anh có thái độ như vậy. Khả năng tên cô ấy được bốc trúng thấp hơn nhiều so với chúng tôi, những người sống ở khu Vỉa than. Không phải là không thể, nhưng rất thấp. Và mặc dù luật lệ là do Capitol đặt ra chứ không phải các quận, dĩ nhiên càng không phải gia đình Madge, người ta vẫn thấy tức tối những không phải đăng ký để lấy tê-ra.
Gale hiểu sự nóng giận của anh với Madge là vô cớ. Nhiều lần ở sâu trong rừng, tôi đã nghe anh nói oang oang về việc tê-ra chỉ là một thứ công cụ gây bất hòa trong quận chúng tôi như thế nào. Đó là cách để gieo rắc sự ghen ghét giữa đám thợ đói kém vùng Vỉa than và đám người có được bữa ăn đầy đủ hơn, để đảm bảo rằng chúng tôi sẽ không bao giờ tin tưởng lẫn nhau. “Capitol sẽ có lợi khi chia rẽ chúng ta,” anh sẽ nói thế nếu chỉ có tôi đang nghe. Nếu hôm nay không phải gặp ngày chiêu quân. Nếu cô gái có chiếc ghim vàng và chưa ký tê-ra lần nào kia chưa đưa ra lời bình luận mà tôi chắc cô ta nghĩ là vô hại ấy.
Vừa đi, tôi vừa liếc nhìn Gale lúc ấy vẫn còn vẻ lạnh lùng khó chịu. Cơn giận dữ của anh dường như chẳng có nghĩa lý gì với tôi, dù tôi chưa bao giờ nói vậy. Không phải tôi không đồng ý với anh. Tôi đồng ý. Nhưng liệu có ích gì khi chửi đổng Capitol giữa rừng? Chẳng thay đổi được gì cả. Chẳng làm mọi thứ công bằng hơn. Chẳng làm dạ dày chúng tôi đỡ đói. Thật ra nó còn làm kinh động lũ thú mồi xung quanh. Dù vậy, tôi vẫn để anh chửi đổng. Anh làm vậy trong rừng còn hơn là trong phố.
Gale và tôi chia chiến lợi phẩm, mỗi người hai con cá, vài khoanh bánh mì ngon, rau cỏ, vài nắm dâu, một ít muối, nến, và một ít tiền.
“Hẹn gặp anh ở bãi đất trống,” tôi nói.
“Mặc đồ đẹp vào đấy,” anh nói tỉnh bơ.
Về đến nhà, tôi thấy mẹ và em đã chuẩn bị xong. Mẹ mặc bộ đồ từ thời còn làm ở cửa hàng bào chế thuốc. Prim mặc bộ của tôi trong ngày chiêu quân đầu tiên, một chiếc váy và áo cánh có diềm cổ xếp nếp. Hơi rộng so với nó, nhưng mẹ đã lấy ghim kẹp lại. Mặc dù vậy, nó vẫn phải vất vả mới giữa được ngay ngắn chỗ sơ vin ở phía sau.
Bồn nước ấm đang đợi tôi. Tôi kỳ cọ vết bẩn và mồ hôi khi ở trong rừng rồi gội đầu. Tôi ngạc nhiên khi mẹ đã sửa soạn một bộ đầm duyên dáng của bà cho tôi mặc. Bộ đồ màu xanh lơ kèm đôi giày cùng tông.
“Mẹ có chắc cho con mặc bộ này không?” tôi hỏi. Tôi cố gắng tránh nhận sự trợ giúp từ mẹ. Có một dạo, tôi điên tới mức không thể để mẹ làm bất cứ điều gì cho mình. Nhưng đây là một ngoại lệ đặc biệt. Bà rất quý bộ đồ ngày xưa này.
“Tất nhiên rồi. Búi tóc của con lên nữa,” mẹ nói. Tôi để mẹ lấy khăn lau khô và búi tóc cho tôi. Tôi gần như không nhận ra mình trong chiếc gương nứt tựa vào tường.
“Chị trông đẹp quá!” Prim thì thầm.
“Và trông chẳng giống chị chút nào,” tôi nói. Tôi ôm Prim, vì biết nó sẽ sợ hãi trước những giờ sắp tới; sẽ thật sự khủng khiếp với nó. Ngày chiêu quân đầu tiên. Tôi bảo vệ nó hết mức có thể, để nó chỉ ghi tên một lần. Tôi sẽ không cho phép nó đăng ký thêm lần nào nữa để đổi lấy tê-ra. Nhưng nó lo lắng cho tôi. Rằng biết đâu điều không nghĩ đến lại xảy ra.
Lúc nào cũng che chở cho Prim bằng mọi cách, nhưng tôi không thể làm gì trong ngày chiêu quân. Sự đau đớn tôi cảm nhận được mỗi lần con bé gặp chuyện giờ lại nhói lên trong tim, chực toác ra trên gương mặt tôi. Để ý thấy áo cánh của nó lại sút khỏi váy, tôi cố trấn an mình. “Nhét cái đuôi vào kìa, vịt con,” tôi nói, sửa cái áo vào đúng chỗ.
Prim cười khúc khích, nó khẽ kêu, “Quác quàng quạc.”
“Quác em ấy,” tôi cười nhẹ. Chỉ có Prim mới làm tôi bật cười như thế. “Nào, chúng ta ăn thôi,” tôi nói và hôn vội lên đỉnh đầu nó.
Có món hầm gồm cá và rau rừng, nhưng đó là của bữa khuya. Dâu và bánh mì nướng đã được thống nhất để dành cho bữa ăn tối, cho đặc biệt hơn, chúng tôi nói với nhau như thế. Thay vào đó, chúng tôi uống sữa của Lady, nàng dê Prim nuôi, và ăn bánh mì khô làm từ phần bột mì đổi bằng tê-ra. Dù vậy, cũng không ai thiết ăn uống.
Một giờ, chúng tôi ra bãi đất trống. Ai cũng phải có mặt, trừ khi đang hấp hối. Đến tối, hội giám sát sẽ đi vòng quanh để kiểm tra. Ai trốn sẽ bị bỏ tù.
Thật không thể tệ hơn khi buổi chiêu quân được tổ chức tại bãi đất trống, một trong số ít các địa điểm đẹp ở Quận 12. Xung quanh bãi đất trống là những cửa hàng, và trong những ngày khu chợ mở
cửa, đặc biệt khi thời tiết tốt, đến đây có cảm giác như đi hội. Nhưng hôm nay, mặc dù biểu ngữ giăng sặc sỡ trên các tòa nhà, không khí ở đây vẫn thật nặng nề. Các đoàn quay phim vờn quanh như bầy ó trên nóc nhà, chỉ càng làm tăng thêm cảm giác nặng nề đó.
Người ta xếp hàng trong im lặng và ký tên. Ngày chiêu quân cũng là một dịp tốt cho Capitol điều tra dân số. Những đứa trẻ từ mười hai đến mười tám được quây lại trong những khu vực chăng dây chia theo độ tuổi; lớn nhất đứng trước, nhỏ nhất, như Prim, đứng về phía sau. Những người thân trong gia đình xếp hàng xung quanh, nắm chặt tay nhau. Nhưng cũng có những người khác không có người thân trong số bọn trẻ, tổ chức đánh cược tên hai đứa trẻ sẽ được chọn. Tỷ lệ cược phụ thuộc vào độ tuổi, vào việc bọn trẻ thuộc khu Vỉa than hay con nhà lái thương, hay vào việc chúng có ngã quỵ và khóc lóc hay không. Hầu hết mọi người đều từ chối cá cược với những kẻ làm tiền phi pháp đó, nhưng đừng vội vàng. Những kẻ này thường cũng chính là nguồn tin tay trong, và ai lại chưa từng phá luật cơ chứ? Ngày nào tôi cũng có thể bị xử bắn vì tội đi săn, nhưng khi đó lũ quan chức thèm thịt thú vẫn có thể bảo vệ tôi. Tuy nhiên, không phải ai cũng như thế.
Dù sao, cả Gale và tôi đều đồng ý rằng giữa chết vì đói và vì một viên đạn găm vào đầu, cái chết thứ hai đến nhanh hơn nhiều.
Không gian càng lúc càng chật chội và bức bối khi dòng người ùn ùn kéo tới. Bãi đất rộng mênh mông, nhưng không đủ để chứa hết tám nghìn người của Quận 12. Những người đến trễ đứng ở giữa con đường xung quanh, nơi họ có thể xem qua màn hình vì sự kiện này được chính quyền truyền hình trực tiếp.
Tôi đứng trong nhóm những đứa từ mười sáu tuổi đến từ khu Vỉa than. Chúng tôi khẽ gật đầu chào nhau rồi tập trung mọi ánh nhìn lên sân khấu vừa được dựng lên trước Tòa Tư pháp. Trên đó có ba chiếc ghế, một chiếc bục, và hai lồng cầu thủy tinh lớn để bốc thăm, một cho con trai và một cho con gái.. Hai mươi mảnh giấy trong số đó được viết cẩn thận cái tên Katniss Everdeen.
Hai trong ba chiếc ghế trên sân khấu đã có người ngồi. Một là Madge, Thị trưởng Undersee, một người đàn ông cao, trán hói và bà Effie Trinket, giám sát viên Quận 12, đến từ Capitol với nụ cười trắng nhởn đáng sợ, mái tóc hồng và bộ đồ màu xanh mầm. Họ thì thầm với nhau rồi nhìn chiếc ghế trống một cách ái ngại.
Ngay khi chiếc đồng hồ của thị trấn điểm hai giờ, ngài thị trưởng đứng trên bục bắt đầu đọc diễn văn. Năm nào cũng như năm nào. Ông kể về lịch sử của Panem, đất nước đứng lên từ đống đổ nát từng có tên là Bắc Mỹ. Ông liệt kê những thảm họa, những đợt hạn hán, bão lụt, hỏa hoạn, nước biển xâm thực nhấn chìm nhiều vùng đất, những chiến ác liệt khiến hầu hết phương tiện sống bị tàn phá. Sau cùng Panem được sinh ra, với Capitol chói lọi được bao quanh bởi mười ba quận, bảo đảm hòa bình và thịnh vượng cho công dân của mình. Tiếp theo là Kỳ Đen tối, thời điểm các quận nổi loạn chống lại Capitol. Mười hai quận bị đánh bại, quận thứ mười ba bị xóa sổ. Hiệp ước Phản trắc mang đến những điều luật mới nhằm giữ vững hòa bình, đồng thời là lời nhắc nhở chúng tôi hàng năm rằng Kỳ Đen tối sẽ không bao giờ được lặp lại, khi đưa chúng tôi đến với Đấu trường Sinh tử.
Luật lệ của Đấu trường Sinh tử khá đơn giản. Để trừng phạt việc nổi loạn, mỗi quận phải chọn ra một trai và một gái, gọi là vật tế. Hai mươi bốn người chơi sẽ bị giam cầm trong một trường đấu ngoài trời rộng lớn, nơi có thể tồn tại mọi thứ, từ sa mạc nóng bỏng cho đến vùng hoang vu lạnh giá. Vật tế sống sót cuối cùng sẽ thắng.
Chọn những đứa trẻ từ các quận, bắt chúng tàn sát lẫn nhau còn những người còn lại theo dõi, đó là cách Capitol nhắc nhở chúng tôi rằng số phận của tất cả bị họ định đoạt như thế nào, và cơ hội sống sót của mọi người ít ỏi ra sao nếu dám nổi loạn một lần nữa. Dù họ có nói gì đi nữa, thông điệp chính vẫn rõ ràng. “Hãy nhìn xem, chúng ta lấy những đứa trẻ rồi đem chúng hiến tế trong khi các người bất lực đến mức nào. Chỉ cần các ngươi động một ngón tay, bọn ta sẽ tiêu diệt cho đến đứa cuối cùng. Như cách bọn ta làm với Quận 13.”
Để hạ nhục và tra tấn bọn tôi, Capitol buộc tất cả phải xem Đấu trường Sinh tử như một ngày hội, một cuộc thượng đài giữa các quận với nhau. Người chơi sống sót cuối cùng sẽ được hưởng cuộc sống sung túc khi trở về, và quận của họ sẽ nhận cơ man là phần thưởng, chủ yếu là thức ăn. Trong vòng một năm, Capitol sẽ trao cho quận chiến thắng ngũ cốc, dầu ăn và thậm chí thứ đáng giá hơn như đường trong khi các quận còn lại vật lộn với đói khát.
“Đây là thời điểm của sự hối lỗi cùng lòng biết ơn,” ngài thị trưởng nhấn mạnh.
Sau đó ông đọc danh sách những người chiến thắng của Quận 12 trong quá khứ. Trong bảy mươi tư năm, chính xác thì chúng tôi có hai người. Chỉ một là còn sống. Haymitch Abernathy, một lão trung niên bụng phệ, lúc này mới xuất hiện, gào lên cái gì đấy khó hiểu rồi lảo đảo bước lên sân khấu, cuối cùng ngồi phịch xuống chiếc ghế thứ ba. Lão say. Say tí bỉ. Đám đông đám lại bằng một tràng tán dương chiếu lệ khiến lão tưởng thật và cố trao cho Effie Trinket một cái ôm nồng ấm mà bà đã kịp tránh đi.
Ngài thị trưởng tỏ vẻ lo lắng. Bởi vì tất cả đều được truyền hình lại nên ngay lúc này Quận 12 đang là trò cười cho Panem, và ông hiểu điều đó. Madge nhanh chóng kéo sự chú ý trở lại ngày chiêu quân bằng cách giới thiệu bà Effie Trinket.
Tươi tắn và hớn hở hơn bao giờ hết, Effie Trinket tất tả bước lên bục và cất lên câu nói quen thuộc: “Chào mừng đến với Đấu trường Sinh tử! Và chúc cho may mắn sẽ mỉm cười với các bạn!” Mái tóc hồng của bà hẳn là tóc giả vì những lọn tóc quăn bị lệch một chút sau khi bà né Haymitch. Bà nói mình vinh dự được đứng ở đây, mặc dù ai cũng hiểu rằng bà chỉ muốn được đẩy sang một quận khác tốt hơn, nơi có những người chiến thắng xứng đáng, chứ không phải như gã say rượu vừa quấy nhiễu bà trước bàn dân thiên hạ.
Qua đám đông, tôi nhận ra Gale đang nhìn tôi với nụ cười thấp thoáng. Trong ngày chiêu quân, điều đó ít ra cũng mang lại cho cho tôi chút cảm giác nhẹ nhõm. Nhưng bất chợt tôi nghĩ về Gale với bốn mươi hai mảnh giấy có tên anh trong lồng cầu thủy tinh kia và xác suất anh không bị bốc trúng. Việc còn hàng nghìn đứa con trai khác không quan trọng. Có lẽ anh cũng đang nghĩ điều tương tự về tôi, bởi gương mặt Gale tối sầm lại và quay đi chỗ khác. “Nhưng có đến hàng nghìn mảnh giấy cơ mà,” ước gì tôi có thể nói khẽ với anh ấy.
Đã đến giờ bốc thăm. Effie Trinket nói như mọi lần, “Phụ nữ trước!” và đến chỗ lồng cầu thủy tinh chứa tên con gái. Bà lại gần, thọc tay sâu vào lồng lấy ra một mảnh giấy. Đám đông đồng loạt nín thở đến độ tưởng như có thể nghe tiếng ngay cả một chiếc ghim rơi xuống đất, tôi cảm thấy thắt ruột và hy vọng nhen nhóm rằng đó không phải là tôi, đó không phải là tôi, đó không phải là tôi.
Effie Trinket quay trở lại chiếc bục, vuốt mảnh giấy cho thẳng và xướng tên bằng một giọng dõng dạc. Không phải tôi.
Đó là Primrose Everdeen.
2
Một lần, khi đang nấp trên cây, bất động ngồi chờ con mồi lảng vảng đi qua, tôi ngủ gật và rơi từ độ cao ba mét, lưng đập xuống đất. Cú va chạm như thể xốc từng đọi không khí trong phổi tôi lên, khiến tôi nằm đó và không thể hít vào, thở ra, hay làm bất cứ thứ gì.
Lúc này tôi cũng vậy, cố gắng nhớ lại cách lấy dưỡng khí vào phổi, miệng không thốt nổi một từ và hoàn toàn choáng váng trong khi cái tên Prim cứ lởn vởn trong đầu. Một cậu từ khu Vỉa than nắm chặt cánh tay tôi, và tôi đồ rằng rất có thể cậu đã đỡ tôi khi thấy tôi lả đi.
Chắc chắn phải có sai sót. Điều đó không thể xảy ra. Chỉ có một cái Prim trong số hàng nghìn mảnh giấy! Khả năng bị bốc trúng của nó ít đến nỗi tôi thậm chí không buồn lo lắng cho nó. Chẳng phải tôi đã làm tất cả sao? Giành lấy tê-ra, không cho nó bước đi trên con đường của tôi? Một mảnh giấy. Một trong số hàng nghìn mảnh. Nó thực sự may mắn hơn người khác. Nhưng điều ấy không còn nghĩa lý nữa.
Tôi nghe thấy ở đâu đó đám đông xì xào không vừa ý, như họ vẫn luôn làm thế khi một đứa bé mười hai tuổi được chọn, bởi không ai nghĩ như vậy là công bằng. Và rồi tôi thấy con bé, mặt trắng bệch, hai tay nắm chặt hai bên gấu áo, khó nhọc tiến lên sân khấu, bước qua mặt tôi, trong khi chiếu áo cánh lại bị sút ra sau lưng. Chính chi tiết đó, chi tiết chiếc áo cánh sút khỏi cạp váy như đuôi vịt con, đã đưa tôi trở lại thực tế.
“Prim!” tôi gào lên nghẹn ngào và bắt đầu di chuyển. “Prim!” Tôi không cần phải lấn tới vào đám đông. Những đứa trẻ khác ngay lập tức dạt ra, tạo thành lối cho tôi đi thẳng lên sân khấu. Tôi túm lấy
con bé ngay khi nó chuẩn bị bước lên. Tôi khoát tay đẩy nó ra sau lưng.
“Cháu tình nguyện!” tôi hổn hển. “Cháu muốn tình nguyện làm vật tế!”
Có chút gì lúng túng trên sân khấu. Hàng chục năm nay ở Quận 12 chưa từng có ai tự nguyện và điều này bị người ta lãng quên. Nguyên tắc là khi tên người chơi được xướng lên, một người khác trong danh sách, tất nhiên là nếu cùng giới, có thể bước lên thế chỗ. Ở một số quận, nơi mà việc trúng tuyển trong ngày chiêu quân là một vinh dự lớn khiến người ta mạo hiểm mạng sống của mình, việc chọn người tình nguyện cũng khá rối rắm. Nhưng ở Quận 12, khi vật tế đồng nghĩa với chết chắc, tình nguyện là điều không thể xảy ra.
“Tuyệt vời!” Effie Trinket nói. “Nhưng tôi nghĩ có một vấn đề nhỏ là nên giới thiệu người trúng tuyển trước rồi sau đó mới hỏi việc người tình nguyện, và nếu có ai đó xung phong thì chúng ta mới, ừm…” Bà khựng lại, không chắc mình định nói gì.
“Chuyện đấy có hề gì?” ngài thị trưởng nói. Ông Madge buồn bã nhìn tôi. Không hẳn biết tôi, nhưng ông cũng mang máng nhận ra. Tôi là cô bé bán dâu. Cô bé mà con gái ông chắc có đôi lần nhắc đến. Cô bé mà năm năm trước đã đứng với mẹ và em gái, khi ông trao cho nó, người con cả, chiếc huy chương dũng cảm. Huy chương cho cha cô bé, người đã chết mất xác trong hầm mỏ. Liệu ông có nhớ không? “Chuyện đấy có hề gì?” Ông cộc lốc nhắc lại. “Cứ cho cô bé lên đây.”
Prim đang gào lên điên loạn sau lưng tôi. Nó ép chặt hai cánh tay gầy guộc quanh người tôi như một chiếc kẹp. “Không, Katniss! Không! Chị không thể đi!”
“Prim, đi,” tôi gằn giọng, bởi bản thân đang vô cùng bối rối nhưng lại chẳng muốn khóc chút nào. Khi buổi chiêu quân được phát lại vào tối nay, mọi người sẽ để ý thấy tôi khóc, và tôi sẽ bị xem là một
đấu thủ dễ xơi. Một kẻ yếu đuối. Tôi không muốn ai có được sự hả hê đó. “Đi ngay!”
Ai đó đang kéo nó lại từ sau lưng tôi. Tôi quay lại và thấy Gale đang bế Prim lên, trong khi nó đang giãy giụa trong cánh tay anh. “Em lên đi, Catnip,” anh nói, giọng cố tỏ ra điềm tĩnh, rồi bế Prim trở lại với mẹ tôi. Tôi lấy hết can đảm bước lên bậc tam cấp.
“Tốt lắm, hoan hô cháu!” Effie Trinket tuôn một tràng. “Tinh thần của Đấu trường phải như thế!” Bà hài lòng vì cuối cùng cũng có một quận không khiến bà phải nhọc công. “Tên cháu là gì?”
Cổ họng tôi nghẹn lại, “Katniss Everdeen,” tôi nói.
“Ta dám cá kia là em cháu. Không muốn cô bé giành hết vinh quanh, đúng không nào? Nào mọi người! Xin dành một tràng pháo tay cho đấu thủ năm nay của chúng ta!” giọng Effie Trinket rung lên.
Với niềm tin vĩnh cửu của mình, không một ai trong số dân Quận 12 vỗ tay. Ngay cả đám đang tổ chức cá cược, những kẻ chẳng bao giờ quan tâm đến ai. Có lẽ do họ biết tôi từ chợ Hob, hoặc biết cha tôi, hoặc đã từng tiếp xúc với Prim, đứa trẻ mà không một ai không thương mến. Bởi vậy, thay vì nhận sự tán thưởng, tôi đứng đó bất động khi mọi người bày tỏ sự bất đồng, bằng thái độ cứng rắn nhất mà họ có thể có. Im lặng. Ý nói rằng chúng tôi không đồng tình. Chúng tôi không thỏa hiệp. Tất cả mọi thứ đều sai trái.
Rồi một điều không ngờ xảy ra. Ít nhất là tôi không ngờ đến, bởi tôi không nghĩ Quận 12 là nơi tôi nhận được nhiều sự quan tâm. Vừa rồi người ta đã dạt ra khi tôi đi lên thế chỗ Prim, và bây giờ dường như tôi trở thành một ai đó đáng được trân trọng. Ban đầu là một người, rồi một người khác, và cuối cùng hầu như tất cả mọi người trong đám đông đều đặt ba ngón giữa tay trái lên môi hướng về phía tôi. Động tác này bắt nguồn từ quận chúng tôi, lâu đời và hiếm khi được dùng, chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở lễ tang. Nó nghĩa
là sự cảm ơn, là sự ngưỡng mộ, là lời từ biệt với một người mà bạn thương yêu.
Lúc này, khi tôi sắp bật khóc thực sự, thì may mắn thay Haymitch lảo đảo bước lên sân khấu và chúc mừng tôi. “Hãy nhìn cô bé. Hãy nhìn người này đây!” ông ta gào lên, khoác vai tôi. So với thể trạng yếu ớt vốn có, tự dưng ông ta trông khỏe hơn nhiều. “Tôi thích cô bé!” Hơi thở Haymitch nồng nặc mùi rượu và đã lâu rồi ông ta không tắm. “Tràn đầy sự…” Ông ta nghĩ mãi không được từ nào. “Gan dạ!” ông ta nói đắc thắng. “Hơn các người!” Ông buông tôi ra và nói trước sân khấu. “Hơn cả các người!” ông hét thẳng vào máy quay.
Liệu ông ta muốn nói đến khán giả hay muốn chế giễu Capitol, và ông ta có say thật không? Tôi sẽ không thể biết được vì ngay khi mở miệng định nói tiếp, Haymitch ngã từ trên sân khấu xuống rồi bất tỉnh.
Haymitch tởm thật, nhưng tôi thấy biết ơn ông ta. Nhờ các máy quay vội vã lia về phía ông, tôi đã kịp buông những cục nghẹn trong cổ họng và tự trấn tĩnh. Tôi chắp tay ra sau lưng và nhìn ra xa. Tôi nhìn thấy những quả đồi mà tôi trèo cùng với Gale vào sáng nay. Bất chợt, tôi ao ước một điều… rằng chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này… tự tạo lập cuộc sống riêng ở trong rừng… nhưng tôi biết tôi đã đúng khi không bỏ trốn. Bởi vì ai sẽ tình nguyện thế chỗ cho Prim?
Haymitch bị đưa đi bằng cáng còn Effie Trinket đang trở lại quay lồng cầu. “Một ngày thật hào hứng!” bà ta réo lên khi đang cố chỉnh lại bộ tóc giả vốn đã lệch hẳn sang bên phải. “Nhưng vẫn còn hào hứng phía trước! Đây là lúc chọn ra vật tế nam!” Rõ ràng chỉ muốn cố định bộ tóc sắp rớt, bà ta đặt một tay lên đầu còn tay kia đút vào lồng cầu chứa tên con trai và bốc mảnh giấy đầu tiên mà bà chạm phải. Bà ta đi nhanh về bục, và tôi thậm chí còn kịp cầu cho Gale bình an vô sự thì bà ta đã xướng tên. “Peeta Mellark.”
Peeta Mellark.
Ồ không, tôi nghĩ. Không phải cậu ta chứ. Bởi tôi nhận ra cái tên này, mặc dù tôi chưa bao giờ nói chuyện trực tiếp với người đó. Peeta Mellark.
Không, hôm nay không phải là ngày may mắn của tôi.
Tôi nhìn Peeta khi cậu bước lên sân khấu. Cao tầm tầm, vóc người chắc khỏe, mái tóc vàng xám quăn quăn phía trước trán. Sự choáng váng hiện rõ trên khuôn mặt cậu, và mặc dù cố lắm mới có thể làm ra vẻ bình thản, đôi mắt xanh của Peeta vẫn hiện nỗi sợ hãi mà tôi vẫn thường thấy ở một con mồi. Tuy vậy, cậu vẫn vững vàng trèo lên sân khấu và đứng vào chỗ của mình.
Effie Trinket hỏi xem có ai tình nguyện, nhưng không một người nào bước lên. Tôi biết Peeta có hai anh trai. Tôi đã thấy họ ở tiệm bánh, nhưng một người có lẽ đã quá tuổi để tình nguyện còn người kia thì không thấy động tĩnh gì. Điều này cũng bình thường. Đối với hầu hết mọi người, sự hy sinh cho gia đình là hơi quá trong ngày chiêu quân. Chỉ có tôi là ngoại lệ.
Ngài thị trưởng bắt đầu đọc Hiệp ước Phản trắc vừa dài dòng vừa vớ vẩn mà năm nào cũng phải đọc - đó là bắt buộc - nhưng tôi không nghe một từ nào.
Tại sao lại là cậu ta? Tôi nghĩ. Rồi tôi cố thuyết phục mình rằng điều này cũng chẳng đáng quan tâm. Peeta Mellark và tôi không phải bạn bè. Thậm chí hàng xóm cũng không. Chúng tôi không nói chuyện. Lần tiếp xúc duy nhất của chúng tôi cách đây đã nhiều năm. Có lẽ cậu ta đã quên rồi. Nhưng tôi không hề quên và sẽ không bao giờ quên…
Đó là vào khoảng thời gian tồi tệ nhất trong đời tôi. Cha tôi mất trong tai nạn hầm mỏ trước đó ba tháng, trong một ngày tháng Giêng đau đớn hơn tất thảy mọi điều. Nỗi nghẹn ngào vì mất bố trong tôi đã nguôi đi, nhưng nỗi đau có thể chạm vào tôi bất cứ lúc nào, xâu xé, giày xéo cơ thể tôi bằng những tiếng thổn thức. Cha ơi
cha ở đâu? trái tim tôi nức nở. Cha đi đâu rồi? Dĩ nhiên, không bao giờ có câu trả lời.
Quận đã cho chúng tôi một số tiền nhỏ như đền bù cho cái chết của cha, đủ để trang trải một tháng ma chay, cũng là thời gian đủ dài cho mẹ tôi đi tìm việc. Nhưng bà không làm thế. Bà không làm gì cả trừ việc ngồi dựa lưng vào ghế hay thường xuyên hơn là nằm rúc dưới tấm chăn nệm giường, mắt nhìn vào khoảng không vô hạn. Thỉnh thoảng bà cử động, bật dậy như thể phải làm gấp điều gì đó, rồi lại ngồi phịch trở lại trong tĩnh lặng. Không một lời van nài nào của Prim làm bà mảy may để tâm.
Tôi đã sợ. Có thể mẹ tôi đang bị giam trong thế giới u ám của sự buồn bã, nhưng vào lúc đó, tất cả những gì tôi nghĩ đến là mình đã không những mất cha mà mất cả mẹ nữa. Năm mười một tuổi, khi ấy Prim bảy tuổi, tôi trở thành lao động chính trong gia đình. Không có sự lựa chọn nào khác. Tôi mua thức ăn ở chợ cho cả nhà nấu, nấu thật ngon, cố giữ cho Prim và tôi trông đầy đặn. Bởi vì nếu người ta biết rằng mẹ tôi không thể săn sóc bọn tôi được nữa, quận sẽ lấy chúng tôi khỏi vòng tay bà để đưa vào nhà tập thể. Ở trường tôi đã thấy những đứa trẻ như vậy. Nỗi buồn chán, những vết cào xước phẫn uất trên mặt, sự vô vọng khiến vai chúng khom xuống. Tôi sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra với Prim. Prim bé bỏng dịu dàng vẫn khóc mỗi khi tôi khóc ngay cả khi nó biết lý do, vẫn chải đầu và thắt bím cho mẹ trước mỗi lần chúng tôi đi học và đánh bóng chiếc gương cạo râu của cha tôi mỗi tối bởi ông vốn ghét lớp bụi đen phủ lên mọi thứ ở khu Vỉa than. Nhà tập thể sẽ đày đọa nó như một con rệp. Bởi vậy tôi giữ kín gia cảnh của mình.
Nhưng tiền bạc ngày một túng thiếu và chúng tôi dần rơi vào cảnh đói kém. Hết cách. Tôi cứ tự nhủ rằng chỉ cần cố cầm cự đến tháng Năm, chỉ ngày 8 tháng Năm thôi, tôi sẽ đủ mười hai tuổi và có thể ký tên lấy tê-ra đổi ngũ cốc và dầu ăn quý giá để nuôi sống gia đình. Từ giờ cho đến lúc đấy sẽ chỉ còn vài tuần nữa thôi. Mà có khi trước đó chúng tôi đã chết đói.
Thiếu ăn không phải là cảnh hiếm thấy ở Quận 12. Có ai mà chưa từng thấy người chết đói? Những người già không thể mưu sinh. Những đứa trẻ trong một gia đình có quá nhiều miệng ăn. Những người thợ mỏ tàn phế. Họ sống lay lắt ngoài đường. Và một ngày, bạn phát hiện ra họ đang ngồi dựa bất động vào tường hay nằm trên Đồng cỏ, bạn nghe thấy tiếng than khóc từ một ngôi nhà nào đó, rồi Đội Trị an được gọi đến để mang thi thể của họ đi. Trên giấy tờ sẽ không bao giờ ghi nguyên nhân là chết vì đói, mà luôn là chết vì cúm, vì phơi sương hay viêm phổi. Nhưng điều đó không đánh lừa được ai.
Trong buổi chiều mà tôi chạm mặt Peeta Mellark, mưa rơi giá lạnh không ngớt. Lúc đó tôi ở thị trấn, cố bán những bộ đồ sơ sinh cũ rách của Prim ngoài chợ nhưng không ai mua. Mặc dù đã tới Hob vài lần với cha, tôi vẫn thấy sợ khi bước chân vào chốn ồn ã đầy sỏi sạn như thế này một mình. Nước mưa ngấm qua chiếc áo khoác đi săn của cha mà tôi đang mặc, lạnh buốt đến tận xương tủy. Suốt ba ngày chúng tôi chẳng có gì ăn ngoài nước đun sôi với vài chiếc lá bạc hà hong khô đã lâu mà tôi tìm thấy phía sau chạn bát. Lúc chợ đóng cửa, tôi run đến nỗi đánh rơi bọc quần áo con nít xuống một vũng bùn. Tôi không nhặt lên vì sợ mình sẽ bổ nhào xuống và không thể nhấc chân lên trở lại. Với lại, cũng chẳng ai cần những bộ đồ đó.
Tôi không thể về nhà. Bởi cứ về nhà là tôi lại thấy mẹ với đôi mắt vô hồn, thấy em gái với hai má lõm sâu và đôi môi nứt nẻ. Tôi không thể bước vào căn phòng có đống lửa đầy khói đốt bằng những cành cây ẩm ướt mà tôi nhặt được ở bìa rừng sau khi nhà hết than, vì trên tay tôi không mang theo một niềm hy vọng gì.
Tôi bước lảo đảo giữa lòng đường lấm bùn đằng sau dãy cửa hàng phục vụ những người giàu nhất thị trấn. Hội nhà buôn sống ở tầng trên của cửa hàng, tức là tôi đang ở phía vườn sau nhà họ. Tôi nhớ là những luống đất trong vườn vẫn chưa được trồng gì cho mùa xuân, một hay hai con dê được quây vào một chỗ, một con chó ướt sũng bị cột vào cây cọc, úp lưng xuống bãi lầy.
Ăn trộm các kiểu ở Quận 12 đều bị cấm. Có thể bị khép vào tội chết. Nhưng một ý nghĩ lướt qua đầu tôi, bảo rằng trong thùng rác có thể có thứ gì đó, và lục thùng rác đâu phải là tội. Biết đâu có một mẩu xương ở tiệm thịt hay một mớ rau úa ở tiệm tạp phẩm, chẳng là gì với người khác nhưng với gia đình tôi thì đã là quá đủ. Thật không may, các thùng rác cũng trống rỗng.
Khi đi ngang tiệm bánh, mùi bánh mì mới ra lò hấp dẫn đến mức làm tôi hoa cả mắt. Màu vàng rực của lò bánh phía sau hắt ra từ cánh cửa bếp đang mở. Tôi đứng đấy, ngất ngây bởi hơi nóng và mùi thơm phưng phức cho đến khi cơn mưa làm đứt quãng, vuốt bàn tay giá lạnh dọc sống lưng tôi, đưa tôi trở về thực tại. Tôi mở nắp thùng rác của tiệm bánh mì và thấy nó rỗng tuếch một cách tàn nhẫn.
Bỗng nhiên có tiếng ai đó quát tháo. Nhìn lên, tôi thấy bà vợ của ông chủ tiệm bánh đang ra sức xua đuổi. Bà dọa sẽ gọi Đội Trị an đến và rằng bà cảm thấy chướng mắt như thế nào khi có những đứa trẻ bụi đời từ khu Vỉa than đến bới thùng rác nhà mình. Bà chửi thật thậm tệ, nhưng tôi cũng không có ý phản kháng. Khi đậy chiếc nắp trở lại gọn ghẽ và quay đi, tôi để ý thấy cậu, một cậu trai với mái tóc vàng đang nhìn chăm chú từ sau lưng bà mẹ lúc nãy. Tôi đã thấy cậu ở trường. Cậu cùng khóa với tôi nhưng tôi không biết tên. Cậu chơi chung với đám trẻ trị trấn cơ mà, làm sao tôi quen được? Mẹ cậu quay trở lại tiệm bánh, miệng vẫn càu nhàu, nhưng cậu hẳn vẫn dõi theo khi tôi đi đến cạnh chuồng heo nhà họ và đứng dựa lưng vào cây táo già. Sự thật là tôi vẫn chưa có gì để mang về nhà. Hai đầu gối chùng xuống, tôi trượt dọc theo thân cây và ngồi bệt xuống gốc. Tôi không thể chịu được nữa. Tôi đã kiệt sức vì mệt mỏi, ôi, quá mệt mỏi. Hãy để họ gọi Đội Trị an đến và đưa chúng tôi đến nhà tập thể, tôi nghĩ. Hay là tốt hơn hãy để tôi chết ngay tại đây dưới cơn mưa.
Có tiếng loảng xoảng trong tiệm bánh, tôi nghe người đàn bà gào lên lần nữa rồi một tiếng đập vang lên, làm tôi mông lung tự hỏi chuyện gì đang diễn ra. Tiếng bước chân bì bõm trên bùn hướng về
phía tôi khiến tôi nghĩ, Đó là bà ta. Bà ta cầm gậy đến đuổi mình đi. Nhưng không phải. Đó là cậu con trai. Cậu ôm hai ổ bánh mì lớn chắc đã rớt vào lửa bởi cùi bị cháy đen.
Mẹ cậu hét lên, “Đem cho lũ lợn ăn ấy, mày có phải đồ ngớ ngẩn không? Không phải ư? Chẳng ai tử tế lại đi mua bánh mì cháy!”
Cậu ngắt những mẩu cháy của ổ bánh mì ném vào máng. Khi chuông phía trước cửa tiệm bánh reo lên, bà mẹ quay vào để giúp khách hàng.
Cậu còn chẳng hề liếc về phía tôi, nhưng tôi vẫn dõi theo cậu. Bởi vì ổ bánh mì, bởi vì vết thâm tím trên gò má cậu. Bà ta đánh cậu bằng cái gì nhỉ? Cha mẹ chưa bao giờ đánh chúng tôi. Thậm chí tôi còn không tưởng tượng ra điều đó. Cậu đưa mắt trở lại tiệm bánh để chắc chắn không có ai nhìn theo rồi quay về phía chuồng heo, ném một ổ bánh mì về phía tôi. Ổ thứ hai tới ngay sau đó, rồi cậu lội bì bõm về tiệm bánh, đóng chặt cửa bếp lại.
Tôi săm soi những ổ bánh mì, trong lòng đầy nghi hoặc. Chúng ngon đấy, chắc chắn rồi, ngoài những chỗ bị cháy. Có phải cậu ấy định cho tôi? Hẳn là thế rồi. Bởi chúng nằm ngay chân tôi. Trước khi có ai đó kịp chứng kiến, tôi nhét những ổ bánh mì vào trong áo, siết tấm áo khoác đi săn vào người và bước vội. Sức nóng của ổ bánh mì đốt cháy da tôi, nhưng tôi càng giữ chúng chặt hơn, như bám lấy sự sống.
Khi tôi về đến nhà, mặc dù những ổ bánh đã nguội bớt nhưng bên trong vẫn nóng. Lúc tôi đặt chúng xuống bàn, Prim với tay ngắt lấy một miếng, tôi bảo nó ngồi xuống, bắt mẹ cùng ngồi vào bàn rồi pha tách trà nóng. Tôi ngắt phần cháy sém và cắt bánh mì thành từng lát. Chúng tôi ăn hết cả ổ, từng lát từng lát một. Một bữa bánh mì thật sự ấm cúng với nho khô và quả hạch.
Tôi hong khô quần áo trước đống lửa, trườn lên giường và đánh một giấc thật sâu. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi mới chợt nhận ra
rằng có thể ổ bánh mì bị cháy là do cố ý. Chẳng hạn như cậu ấy đã làm rơi ổ bánh mì vào lửa, dù biết rằng như thế sẽ bị chửi, rồi đem chúng cho tôi. Nhưng tôi đã xua tan ý nghĩ đó. Có thể đấy chỉ là vô tình thôi. Cậu ấy làm thế để làm gì, khi thậm chí còn không biết tôi? Dù sao, chỉ riêng việc ném cho tôi ổ bánh mì cũng là quá cao cả rồi, chắc chắn sẽ mang lại một trận đòn nếu bị phát hiện. Tôi không thể lý giải hành động của cậu.
Chúng tôi ăn những lát bánh mì cho bữa sáng và đến trường. Mùa xuân như thể đã đến sau một đêm. Không khí ấm áp trong trẻo. Những đám mây thật mịn màng. Ở trường, tôi bắt gặp cậu ở sảnh lớn, với cái má sưng húp và đôi mắt bầm tím. Cậu đi cùng với đám bạn, không hề nhận ra tôi. Nhưng đến buổi chiều khi tôi đón Prim và chuẩn bị về nhà, tôi thấy cậu đang nhìn trộm tôi từ phía bên kia sân trường. Hai ánh mắt chạm nhau chỉ trong khoảnh khắc, rồi cậu ngoảnh mặt đi. Tôi hướng ánh mắt về hướng khác, ngượng ngùng, và chợt nhìn thấy nó. Bông hoa bồ công anh đầu tiên của năm đã xuất hiện. Một tiếng chuông báo hiệu vang lên trong tâm trí tôi. Tôi nhớ về khoảng thời gian đi rừng cùng cha, hiểu rằng mình sẽ phải làm gì để tồn tại.
Suốt ngày hôm đó, tôi luôn nghĩ về mối liên hệ giữa cái cậu Peeta Mellark ấy và ổ bánh mì đã mang cho tôi hy vọng, về bông hoa bồ công anh đã nhắc nhở rằng tôi chưa đến mức bần cùng. Hơn một lần tôi quay sang sảnh lớn của trường và bắt gặp ánh mắt cậu, để rồi sau đó lại là một cái quay đi vội vã. Tôi cảm giác như mang nợ một thứ gì đó, nhưng tôi ghét mắc nợ người khác. Nếu có thể cám ơn cậu bằng cách nào đấy, hẳn tôi sẽ cảm thấy bớt áy náy hơn. Đôi lúc tôi nghĩ đến chuyện đền đáp, nhưng cơ hội dường như không chịu đến. Và bây giờ thì nó sẽ không bao giờ đến. Bởi vì chúng tôi sắp bị ném vào một đấu trường để đấu với nhau đến chết. Làm sao tôi có thể chiến đấu ở nơi đó với tâm trạng mang ơn như thế này? Tôi chẳng thể tưởng tượng nổi chính mình đang cố gắng cắt cổ ân nhân nữa.
Ngài thị trưởng kết thúc bài Hiệp ước Phản trắc buồn tẻ và ra hiệu cho Peeta và tôi bắt tay. Bàn tay cậu dày và ấm như những ổ bánh mì. Peeta nhìn thẳng rồi bắt tay tôi, một cái siết động viên. Cũng có thể chỉ là một sự co thắt cơ do lo lắng.
Chúng tôi quay về đám đông khi quốc ca Panem vang lên.
Ồ, cũng tốt thôi, tôi nghĩ. Chúng tôi có hai-mươi-bốn người cơ mà. Biết đâu ai đó sẽ lấy mạng cậu ta trước tôi.
Dĩ nhiên, may mắn không phải lúc nào cũng xảy ra.
3
Khi quốc ca kết thúc, chúng tôi bị đưa đi canh giữ. Chúng tôi không bị còng tay hay gì khác, nhưng có một nhóm của Đội Trị an hộ tống chúng tôi đến trước cửa Tòa Tư pháp. Có thể là trong quá khứ có vật tế đã tìm cách bỏ trốn. Dù vậy, tôi chưa từng thấy điều đó xảy ra.
Vào bên trong, tôi được người ta sắp xếp cho một mình một phòng. Đó là nơi nguy nga nhất tôi từng thấy, với những tấm thảm dày và rộng, ghế cùng một chiếc đi văng bọc nhung. Tôi biết đó là nhung bởi mẹ tôi có mặc một chiếc đầm với cổ áo làm bằng chất liệu ấy. Ngồi lên đi văng, tôi không ngừng vuốt ve mặt vải. Điều đó giúp tôi bình tĩnh lại trước khi chuẩn bị cho giờ phút tiếp theo để nói lời từ biệt với người thân. Tôi không thể tỏ ra bối rối, rời khỏi căn phòng này với đôi mắt sưng húp và chiếc mũi đỏ lựng. Tôi không được khóc. Ở ga xe lửa sẽ còn nhiều máy quay hơn.
Mẹ và em tôi đến trước. Tôi dang tay về phía Prim và nó ôm chầm lấy tôi, tay quàng quanh cổ tôi, đầu tựa lên vai tôi, như cách nó vẫn làm khi còn là đứa trẻ tập đi. Mẹ ngồi cạnh tôi và khoác tay lên vai hai đứa. Chúng tôi im lặng trong vài phút. Rồi tôi bắt đầu nhắc hai người tất cả những thứ phải lưu ý vì giờ đây tôi sẽ không còn ở nhà để lo cho gia đình nữa.
Prim sẽ không đi lấy bất cứ một tê-ra nào nữa. Cả gia đình có thể kiếm sống bằng cách bán sữa và pho mát từ chú dê của Prim và bằng công việc bào chế dược phẩm mà mẹ tôi hiện làm cho những người ở khu Vỉa than. Gale sẽ đi hái những loài thảo dược mà mẹ không tự trồng được, nhưng bà phải rất cẩn thận khi mô tả chúng vì anh không biết nhiều về lá thuốc như tôi. Anh cũng sẽ mang thú săn về cho họ - anh và tôi đã giao kèo về điều này khoảng một năm về
trước - và tuy có lẽ Gale sẽ không đòi hỏi gì nhưng họ nên cám ơn anh bằng cách biếu lại vài thứ, như sữa hay thuốc.
Tôi không định bắt Prim học săn bắn. Tôi đã thử dạy nó một vài lần và thật thảm hại. Rừng cây làm nó sợ, và mỗi khi tôi bắn con thú nào đấy, nó lại khóc mà bảo liệu chúng tôi có thể đưa nó về nhà kịp để chạy chữa không. Có điều Prim lại nuôi dê khá thuần thục, vậy nên tôi không nghĩ nhiều nữa.
Sau khi đã nhắc mọi người về việc dùng chất đốt, việc buôn bán và chuyện ở trường, tôi quay sang mẹ, nắm lấy tay bà, siết chặt. “Hãy lắng nghe con. Mẹ có nghe con nói không?” Cảm nhận được cái siết tay của tôi, bà gật đầu. Bà hẳn phải biết chuyện gì đang xảy ra. “Mẹ không thể dửng dưng với bọn con một lần nữa,” tôi nói.
Mẹ tôi đưa mắt xuống nền nhà. “Mẹ biết. Mẹ sẽ không như thế. Lúc đó mẹ đã không chịu đựng được việc…”
“Mẹ à, lần này thì mẹ phải chịu đựng được. Mẹ không thể làm ngơ và để Prim một mình. Bây giờ sẽ không có con để nuôi sống hai người nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra không quan trọng. Việc mẹ nhìn thấy gì trên màn hình không quan trọng. Mẹ phải hứa với con mẹ sẽ cố gắng hết sức để vượt qua!” Giọng tôi gằn lên như quát. Ẩn bên trong đó là tất cả giận dữ và sợ hãi đã nung nấu trong tôi khi bà bỏ mặc hai đứa.
Mẹ rụt tay lại, lúc này chính bà tỏ ra giận dữ. “Mẹ bị bệnh. Mẹ đã có thể tự chạy chữa nếu có những thứ thuốc như bây giờ.”
Việc bà bị bệnh có thể là đúng. Tôi từng thấy bà trả lại những bệnh nhân mắc chứng trầm cảm bại liệt. Có lẽ đó là một căn bệnh, nhưng chúng tôi không thể chạy chữa.
“Tùy mẹ thôi. Nhưng mẹ hãy chăm sóc em!” tôi nói.
“Em sẽ ổn thôi mà, chị Katniss,” Prim nói, áp tay vào má tôi. “Nhưng chị cũng phải cẩn thận đấy. Chị nhanh nhẹn và dũng cảm. Chị có thể thắng.”
Tôi không thể thắng. Prim hẳn biết điều đó từ đáy lòng. Cuộc chiến này quá khả năng của tôi. Bọn trẻ từ những quận giàu có nhất, nơi chiến thắng là một vinh dự lớn lao, đã được huấn luyện cả đời cho những cuộc đấu như thế này. Những đứa con trai to gấp hai ba lần tôi. Những đứa con gái biết hai chục cách khác nhau để giết người bằng một con dao. Phải, cũng sẽ có những đứa giống như tôi, những đứa bị loại ngay từ trước khi cuộc vui bắt đầu.
“Có thể,” tôi nói, bởi tôi khó có thể khuyên mẹ cố gắng khi mà bản thân mình ngay từ đầu đã đầu hàng. Hơn nữa, bỏ cuộc trước khi ra trận không phải là tính cách của tôi, ngay cả khi mọi chuyện dường như không thể vượt qua. “Rồi chúng ta sẽ giàu có như Haymitch.”
“Em không cần chúng ta giàu có. Em chỉ muốn chị trở về nhà. Chị sẽ gắng chứ, đúng không? Cố gắng, cố gắng hết sức nhé?” Prim hỏi.
“Cố gắng, cố gắng hết sức. Chị hứa,” tôi nói. Và tôi biết, vì Prim, tôi sẽ cố gắng hết sức.
Đội Trị an đứng trước cửa, ra dấu cho chúng tôi là thời gian đã hết. Chúng tôi ôm siết lấy nhau và, tất cả những gì tôi nói chỉ là “Con yêu mọi người. Con yêu mẹ và em.” Cả hai đều nói yêu tôi, cho đến khi Đội Trị an yêu cầu họ ra ngoài và đóng cửa lại. Tôi vùi đầu xuống cái gối nhung như thể làm như vậy có thể phủi đi tất cả mọi thứ.
Ai đó bước vào phòng và khi ngước lên, tôi ngạc nhiên khi thấy đó là chủ tiệm bánh mì, cha của Peeta Mellark. Không thể tin được là ông đến thăm tôi. Trước sau gì tôi cũng sẽ tìm cách giết con trai ông. Nhưng chúng tôi có biết nhau một chút, hơn nữa ông còn biết Prim rõ hơn. Khi nó bán pho mát dê ở chợ Hob, nó đưa cho ông hai miếng pho mát và ông trả lại mấy ổ bánh mì đầy hào phóng. Chúng
tôi luôn đợi để bán hàng cho ông khi bà vợ không ở bên cạnh vì ông dễ mến hơn nhiều. Tôi chắc chắn là ông sẽ không bao giờ đánh con trai mình vì ổ bánh mì cháy như bà vợ đã làm. Nhưng tại sao ông lại đến gặp tôi?
Ông chủ tiệm bánh mì lúng túng ngồi xuống mép một chiếc ghế nhung. Đó là một người đàn ông to lớn, vai rộng với những vết sẹo bỏng sau nhiều năm làm ở lò bánh. Hẳn là ông vừa nói lời chia tay với đứa con trai.
Ông ta lấy một gói bọc giấy trắng từ túi áo khoác ra đưa cho tôi. Tôi mở ra và thấy những chiếc bánh quy. Một thứ thức ăn xa xỉ mà nhà tôi chưa bao giờ có tiền mua.
“Cám ơn bác,” tôi nói. Vào những lúc bình thường nhất, ông chủ tiệm bánh đã vốn không phải là người nói nhiều, nhưng hôm nay thì ông chẳng nói gì cả. “Sáng nay cháu có ăn mấy ổ bánh mì của bác. Gale bạn cháu đổi cho bác một con sóc.” Ông gật đầu, như thể nhớ về con sóc. “Không phải vụ trao đổi hời nhất của bác,” tôi nói. Ông nhún vai như thể không màng đến chuyện đó.
Rồi tôi không thể nghĩ ra chuyện gì khác nữa, chúng tôi ngồi trong im lặng cho đến khi một người trong Đội Trị an gọi ông ra. Ông đứng dậy và hắng giọng: “Bác sẽ để mắt đến em cháu. Đảm bảo cho cô bé có đủ cái ăn.”
Tôi cảm thấy lồng ngực mình nhẹ đi khi nghe ông nói vậy. Mọi người bán chác với tôi, nhưng Prim thì ai cũng thật lòng yêu mến. Có lẽ nó sẽ có đủ tình thương để giúp nó sống sót.
Vị khách tiếp theo của tôi cũng ngoài dự kiến. Madge bước thẳng đến chỗ tôi. Nó không khóc hay tránh mặt tôi. Thay vào đó, giọng nài nỉ của con nhỏ làm tôi ngạc nhiên. “Cậu sẽ được mang đến đấu trường một thứ từ quận chúng ta, một thứ sẽ giúp cậu nhớ về quê nhà. Cậu sẽ mang nó chứ?” Nó đưa cho tôi chiếc ghim tròn bằng
vàng trên áo của nó trước đó. Lúc nãy thì không để ý lắm, nhưng bây giờ tôi thấy ghim có hình một con chim nhỏ đang bay.
“Chiếc ghim của cậu à?” tôi nói. Tôi nghĩ đến việc sẽ mang một thứ biểu tượng của quận mình.
“Mình gắn nó vào áo cậu được chứ?” Madge không đợi câu trả lời, cúi người gắn nó vào áo tôi. “Hãy hứa rằng cậu sẽ mang nó đến đấu trường nhé, Katniss?” Nó hỏi. “Hứa nhé?”
“Tớ hứa,” tôi nói. Những cái bánh quy. Chiếc ghim băng. Tôi đã nhận được đủ thứ quà trong ngày hôm nay. Madge lại mang đến cho tôi một thứ nữa. Một chiếc hôn lên má. Khi Madge đi khỏi, tôi chợt nghĩ rằng có lẽ trước giờ nó đã thực sự là bạn tôi.
Cuối cùng là Gale, và có lẽ cũng chẳng có gì lãng mạn giữa chúng tôi, nhưng khi anh dang tay tôi không ngại ngần ngả vào lòng anh. Cơ thể anh đã trở nên quen thuộc với tôi - từ cách di chuyển, cơ thể ám mùi cây rừng đến cả nhịp tim đập của anh mà tôi để ý trong những khoảng lặng của chuyến đi săn - nhưng đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được một điều, đó là cơ thể tuy gầy nhưng chắc nịch của anh khi ôm tôi.
“Nghe này,” anh nói. “Kiếm một con dao thì dễ thôi, nhưng em phải có trong tay một cây cung. Đó là cơ hội tốt nhất của em.”
“Không phải lúc nào họ cũng có cung,” tôi nói, nghĩ về cái năm người ta chỉ đưa những cây chùy gai cho các đấu thủ để các vật tế nện nhau đến chết.
“Vậy thì hãy làm một cái,” Gale nói. “Một cây cung yếu còn hơn là không có cái nào.”
Tôi đã thử làm lại những cây cung của cha nhưng không thành. Không dễ chút nào. Thậm chí thỉnh thoảng cha tôi còn không làm được.
“Em thậm chí còn không biết liệu có rừng cây ở đó không?” tôi nói. Một năm khác, họ tống tất cả vào một nơi chẳng có gì ngoài đá cuội, đất cát và những bụi cây lếch thếch. Tôi đặc biệt ghét cái năm đó. Nhiều đấu thủ bị rắn độc cắn hoặc phát điên vì khát.
“Chắc chắn phải có một vài khúc cây,” Gale nói. “Bởi năm đó một nửa số họ đã chết vì lạnh. Như thế thì chẳng có gì hào hứng.”
Đúng vậy. Năm đó chúng tôi chứng kiến nhiều đấu thủ chết cóng vào ban đêm. Rất khó nhìn ra họ bởi tất cả chỉ nằm cuộn tròn trong khi chẳng có củi đốt hay đuốc hay bất kỳ thứ gì. Lần đó cực kỳ gây thất vọng ở Capitol, với những cái chết lặng lẽ và tê dại. Kể từ đó, năm nào cũng phải có củi để nhóm lửa.
“Chính xác, sẽ luôn phải có củi,” tôi nói.
“Katniss à, chỉ là một cuộc đi săn thôi. Em là thợ săn giỏi nhất mà anh biết,” Gale nói.
“Đó không chỉ là đi săn. Tất cả đều có chuẩn bị. Tất cả đều biết suy tính,” tôi nói.
“Vậy thì em cũng thế. Hơn nữa em được tập luyện nhiều hơn. Tập luyện thật sự,” anh nói. “Em biết cách lấy mạng con mồi.”
“Nhưng không phải mạng người,” tôi nói.
“Có gì khác nhau chứ?” Gale nói dứt khoát.
Thật đáng sợ bởi nếu tôi quên đó là mạng người thì đúng là không có gì khác nhau cả.
Đội Trị an quay trở lại quá sớm trong khi Gale muốn có thêm thời gian, nhưng họ đưa anh đi và tôi bắt đầu sợ hãi. “Đừng để mẹ và Prim phải đói!” Tôi gào lên, níu lấy tay anh.
“Không đâu. Em biết anh sẽ không để như thế mà! Katniss, nhớ là anh…” anh nói, nhưng họ giằng chúng tôi khỏi nhau, đóng sập cửa lại. Tôi sẽ không bao giờ được biết anh muốn tôi ghi nhớ điều gì.
Quãng đường từ Tòa Tư pháp đến trạm xe lửa khá ngắn. Tôi chưa bao giờ ngồi lên xe hơi trước đó. Rất hiếm khi được ngồi lên xe ngựa. Ở khu Vỉa than, chúng tôi chỉ đi bộ.
Tôi đã đúng khi không khóc. Nhà ga đông nghẹt phóng viên với những chiếc máy quay nhỏ xíu chĩa thẳng vào mặt tôi. Nhưng tôi đã nhiều lần tập cho mình có một gương mặt vô cảm và bây giờ tôi đang làm thế. Thoáng thấy mình trên màn hình ti vi trên tường đang tường thuật trực tiếp, tôi thấy hài lòng vì mình không có gì nổi bật.
Peeta Mellark thì ngược lại. Rõ là cậu đã khóc, hơn nữa cậu cũng không có vẻ gì là muốn che đậy. Ngay lập tức tôi tự hỏi liệu đây có phải là chiến thuật của cậu không. Xuất hiện với vẻ yếu đuối và sợ hãi để những đấu thủ khác cho rằng cậu không muốn tranh đua rồi lờ đi. Cách đó tỏ ra hiệu quả với một cô gái Quận 7, Johanna Mason, cách đây vài năm. Cô ta trông khờ khạo, yếu đuối và nhút nhát khiến không ai để tâm cho đến khi chỉ còn lại vài đấu thủ. Lúc đó người ta mới biết cô ta giết người thật hiểm độc. Rất khôn ngoan, đó là cách chơi của cô ta. Nhưng chiến thuật này có vẻ kỳ quặc với Peeta Mellark, con trai một chủ tiệm bánh. Ngần ấy năm ăn uống đầy đủ và lôi khay bánh mì khỏi lò khiến cậu ta có đôi vai rộng và chắc nịch. Rõ là tốn nước bọt nếu muốn thuyết phục ai đó xem thường cậu ta.
Sau khi đứng chờ vài phút trước chiếc xe lửa để người ta chụp ảnh lia lịa, chúng tôi được phép vào trong, bỏ lại cánh cửa từ từ đóng sau lưng. Con tàu bắt đầu lăn bánh.
Ban đầu tốc độ của con tàu làm tôi nín thở. Tất nhiên tôi chưa bao giờ ngồi trên xe lửa, vì việc qua lại giữa các quận bị cấm, ngoại trừ những việc công cán được phê chuẩn. Với chúng tôi, tàu chủ yếu là
để chở than. Nhưng con tàu này không dành để chở than. Nó là một trong những tàu cao tốc của Capitol với tốc độ trung bình 250 dặm một giờ. Hành trình của chúng tôi đến Capitol sẽ kéo dài chưa đến một ngày.
Ở trường chúng tôi được dạy rằng Capitol được xây dựng ở một nơi gọi là Rookies. Quận 12 ở một vùng có tên là Appalachia. Thậm chí hàng trăm năm trước, người ta đã khai thác than ở đây. Điều đó giải thích tại sao bây giờ thợ mỏ của chúng tôi phải đào sâu đến thế.
Ở trường học, có nói gì người ta cũng quay về than. Bên cạnh môn đọc hiểu và toán căn bản, hầu hết bài học của chúng tôi liên quan đến than. Ngoại trừ giờ học hàng tuần trên giảng đường về lịch sử của Panem, hầu như toàn là một mớ giáo điều về những gì chúng tôi nợ Capitol. Tôi biết phải có điều gì hơn thế, sự thật về cuộc nổi loạn chẳng hạn. Nhưng tôi chẳng dại tốn thời gian nghĩ về chuyện đó. Dù sự thật là thế nào, tôi cũng không thấy nó có ích gì trong việc kiếm thêm thức ăn.
Con tàu chở vật tế còn lộng lẫy hơn cả phòng ốc trong Tòa Tư pháp. Chúng tôi ở mỗi người một khoang, có phòng ngủ, phòng thay đồ và một phòng tắm riêng với vòi nóng lạnh. Ở nhà chúng tôi không có vòi nước nóng mà phải đun nước sôi.
Các ngăn kéo chất đầy quần áo đẹp, và Effie Trinket nói tôi có thể làm bất cứ gì tôi muốn, mặc bất cứ gì tôi thích, mọi thứ tùy ý. Chỉ cần sẵn sàng cho bữa ăn khuya trong một tiếng nữa. Tôi cởi bộ đồ xanh của mẹ và tắm nước nóng. Tôi chưa từng tắm vòi hoa sen bao giờ. Nó giống như tắm dưới cơn mưa mùa hè, chỉ khác là ấm hơn. Tắm xong, tôi mặc áo màu xanh đậm và quần dài.
Bất chợt tôi nhớ đến chiếc ghim nhỏ bằng vàng của Madge. Lần đầu tiên tôi nhìn kỹ nó. Cứ như thể có ai đó nặn một con chim nhỏ bằng vàng và làm một chiếc vòng bao quanh vậy. Con chim được
gắn vào chiếc vòng chỉ bằng mấu nối ở cánh. Tôi chợt nhận ra nó. Một con chim húng nhại[6].
Ngoài việc là loài chim ngộ nghĩnh, có vẻ chúng còn là một cái tát vào mặt đám người Capitol. Trong cuộc nổi loạn, Capitol đã tạo ra một loạt những con vật biến đổi gien như một thứ vũ khí. Người ta gọi chung chúng là mút-tai-to[7], hay gọi ngắn gọn là bọn mút[8]. Trong số đó có một loài đặc biệt là con chim húng nhây[9], có khả năng ghi nhớ và lặp lại toàn bộ cuộc đối thoại của con người. Chúng là loài chim đưa tin, chỉ có giống đực, được thả đến những vùng mà kẻ thù của Capitol đang ẩn náu. Sau khi những con chim này thu được tiếng, chúng bay trở lại trung tâm để được ghi âm lại. Phải một thời gian sau người ta mới nhận ra điều gì đang thực sự diễn ra ở các quận, và phiến quân đã truyền tin bí mật như thế nào. Và tất nhiên, những gì phiến quân dành cho Capitol chỉ là nói gạt, và người ta lấy chuyện này ra làm trò đùa. Kết quả, những trung tâm đó bị đóng cửa và loài chim này bị bỏ rơi cho đến chết ở nơi hoang vu.
Nhưng chúng không chết. Thay vào đó, loài húng nhây này kết bạn với chim nhại mái[10], sinh ra một loài mới có thể nhại cả tiếng chim hót lẫn tiếng người. Chúng mất đi khả năng phát âm từng từ nhưng vẫn có thể nhại các giọng khác nhau của con người, từ giọng cao thánh thót của trẻ con đến giọng trầm của đàn ông. Chúng còn có thể hát lại những bài hát. Không chỉ một vài nốt mà là cả bài với những đoạn điệp khúc, nếu bạn đủ kiên nhẫn hát cho chúng nghe và chúng thích giọng hát của bạn.
Cha tôi đặc biệt thích loài chim húng nhại ấy. Khi chúng tôi đi săn, ông thường huýt gió hoặc hát cho chúng nghe những bài dài để rồi sau khi ngưng một lúc, chúng luôn hót đáp lại. Không phải ai cũng nhận được sự ưu ái đó. Bất cứ khi nào cha tôi hát, tất cả chim ở đó đều im bặt và lắng nghe. Giọng ông thật ngọt ngào, cao vút, trong veo đầy sức sống khiến người ta cảm thấy xốn xang khôn tả. Sau khi cha mất, tôi chưa bao giờ thử tập hát lại. Tuy nhiên, loài chim
này vẫn mang lại cho tôi chút gì đó an ủi. Nó như mang theo sợi dây liên lạc giữa cha và tôi, bảo vệ tôi. Tôi cài chiếc ghim vào áo, và trên nền vải xanh đậm, con chim trông như đang bay qua lùm cây.
Effie Trinket đến đưa tôi đi ăn khuya. Tôi đi theo bà qua một hành lang hẹp trên toa tàu lắc lư, vào phòng ăn với những bức tường ốp sáng sủa. Bàn ăn bày bát đĩa bóng loáng. Peeta Mellart ngồi đợi chúng tôi đến, chiếc ghế bên cạnh không ai ngồi.
“Ông Haymitch đâu rồi nhỉ?” Effie Trinket hào hứng hỏi.
“Lần cuối cùng cháu thấy, ông ấy nói định chợp mắt một lát,” Peeta nói.
“Ừ, đúng là một ngày mệt đứ đừ,” Effie Trinket nói. Tôi nghĩ bà đang nhẹ người bởi sự vắng mặt của Haymitch, mà cũng đúng thôi.
Mọi người ăn vào bữa khuya. Xúp cà rốt sền sệt, xa lát, sườn cừu và khoai tây chiên, pho mát và trái cây, thêm một chiếc bánh sô cô la. Suốt bữa, Effie Trinket luôn miệng nhắc chúng tôi cứ từ từ thôi, bởi thức ăn sẽ còn ra nhiều nữa. Nhưng tôi ngấu nghiến thật lực bởi chưa bao giờ được thưởng thức những món thế này, quá nhiều và quá ngon, và bởi dường như điều tốt nhất tôi có thể làm từ giờ tới khi bước vào Cuộc đấu là tăng thêm vài cân.
“Ít nhất hai đứa cũng phải tỏ ra đúng mực một chút,” Effie nói khi chúng tôi ăn xong bữa chính. “Cặp đấu năm ngoái ăn hùng hục như hai con hổ đói. Thật không thể nào chịu được.”
Đến từ khu Vỉa than, hai đứa trẻ được chọn năm ngoái chưa một ngày nào trong đời có được bữa ăn no. Khi có đồ ăn, trong đầu chúng chỉ nghĩ đến việc đánh chén. Peeta là con trai chủ tiệm bánh. Tôi và Prim thì đã được mẹ dạy ăn uống phải từ tốn, vậy nên tôi còn biết dùng cả dao và nĩa nữa. Nhưng do thậm ghét câu xét nét của Effie Trinket, tôi cố ý ăn bốc cho đến khi bữa ăn kết thúc. Rồi tôi lau tay vào khăn trải bàn. Thấy thế, bà mím chặt môi.
Cuối bữa, tôi cố gắng ngăn cơn buồn nôn. Tôi ngó qua Peeta, thấy cậu cũng đang ngồi xả hơi. Chưa đứa nào được ăn một bữa no nê thế này. Nhưng vì đã từng chịu đựng được món ăn tự chế của bà Greasy Sea gồm thịt chuột, lòng heo và vỏ cây - đặc sản của mùa đông - lần này tôi quyết tâm kìm lại.
Chúng tôi sang một gian phòng khác để xem tổng hợp buổi chiêu quân trên khắp Panem. Họ sắp xếp các buổi chiêu quân xen kẽ trong ngày để một người có thể xem trực tiếp ở các quận khác, nhưng thật ra chỉ có người ở Capitol mới xem được vì không ai trong số họ phải tham dự các cuộc chiêu quân.
Chúng tôi xem lần lượt ở các quận khác, cũng những cái tên được xướng lên, cũng những người tình nguyện bước lên phía trước nhưng thường thì không. Chúng tôi nhìn mặt những người sẽ là đối thủ của mình. Một số làm tôi ấn tượng. Một gã khổng lồ nhào lên tình nguyện ở Quận 2. Một con bé có khuôn mặt cáo và mái tóc đỏ mượt đến từ Quận 5. Thằng bé có chân bị tật ở Quận 10. Ám ảnh tôi nhất là con bé mười hai tuổi ở Quận 11. Con bé có làn da và đôi mắt màu nâu thẫm, nhưng hơn cả là vóc dáng và điệu bộ của nó rất giống Prim.
Cuối cùng, họ chiếu Quận 12. Prim được gọi tên, tôi xung phong làm người tình nguyện. Không thể không nhận ra sự tuyệt vọng trong giọng nói của tôi khi đẩy Prim ra đằng sau, như thể tôi sợ không ai nghe thấy và họ sẽ mang Prim đi mất. Nhưng tất nhiên là họ nghe. Tôi thấy Gale kéo nó ra khỏi tôi và nhìn tôi bước lên sân khấu.
Đám người bình luận trên truyền hình không biết phải nói gì khi đám đông từ chối hoan hô. Họ chào mừng bằng im lặng. Một người nói rằng tuy Quận 12 luôn kém hơn một chút, nhưng cái thông lệ địa phương này thật đáng mến. Oạch một cái, Haymitch ngã khỏi sân khấu và khán giả xuýt xoa một cách mỉa mai. Tên Peeta được bốc,
và cậu lặng lẽ tiến lên chỗ của mình. Chúng tôi bắt tay. Họ lại cắt đến đoạn hát quốc ca, chương trình kết thúc.
Effie Trinket rất bực mình về mái tóc giả của bà. “Người hướng dẫn[11] của các cháu còn phải học nhiều về cách xuất hiện đấy. Học nhiều về cách ứng xử khi lên truyền hình.”
Peeta bật cười. “Ông ta say mà,” Peeta nói. “Năm nào ông ta cũng say.”
“Hàng ngày ấy chứ,” tôi thêm vào. Tôi cũng không thể không cười được. Effie Trinket làm như thể chỉ cần vài lời khuyên nho nhỏ của bà là có thể sửa được mớ hành động lỗ mãng của Haymitch không bằng.
“Vậy à,” Effie Trinket rít lên. “Làm thế nào hai đứa lại thấy chuyện này đáng cười được. Các cháu nên biết người hướng dẫn soi đường chỉ lối cho các cháu đến Đấu trường. Là người khuyên răn các cháu, kêu gọi nhà tài trợ và chuyển quà tài trợ đến các cháu. Haymitch có thể quyết định sự sống và cái chết của các cháu.”
Ngay sau đó Haymitch lảo đảo bước vào phòng. “Tôi bỏ lỡ bữa ăn khuya rồi à?” ông ta khề khà. Rồi ông ta nôn lên khắp tấm thảm đắt tiền và ngã xuống đống bầy nhầy.
“Cứ cười tiếp đi!” Effie Trinket nói. Bà nhảy qua bãi mửa với đôi giày nhọn hoắt và bước ra khỏi phòng.
4
Một lúc sau, Peeta và tôi chứng kiến cảnh người hướng dẫn của mình cố gượng khỏi đống bầy nhầy vừa nôn. Mùi tanh tởm của bãi mửa và hơi rượu suýt làm tôi trào cả bữa tối ra ngoài. Chúng tôi liếc nhau. Rõ ràng Haymitch không giúp được gì nhiều, nhưng Effie Trinket cũng có lý khi nói: một khi chúng tôi ra đấu trường, ông ấy là tất cả những gì chúng tôi có. Cứ như đã ngầm đồng ý từ trước, Peeta và tôi mỗi người khoác một tay Haymitch giúp ông ta đứng dậy.
“Tôi bị vấp à?” Haymitch hỏi. “Mùi kinh quá.” Ông ta đưa tay lau mũi, quệt cả vết bẩn lúc nãy lên mặt.
“Để chúng cháu đưa ông về phòng,” Peeta nói. “Rửa ráy một chút cho ông.”
Chúng tôi nửa dìu, nửa bế Haymitch về phòng. Do không thể để ông ta nằm lên tấm trải giường thêu ren sạch sẽ, chúng tôi lôi Haymitch vào bồn tắm và bật vòi sen lên. Ông ta hầu như không biết gì.
“Được rồi,” Peeta nói với tôi. “Bây giờ để đấy cho tớ.”
Lòng tôi dâng lên chút cảm giác biết ơn, bởi tôi đang định cởi quần áo Haymitch, lau sạch những vết ói trên ngực ông ta và lôi ông ta lên giường. Có thể Peeta đang tìm cách gây ấn tượng tốt, để trở thành trò cưng của ông ấy khi Cuộc đấu bắt đầu. Nhưng với tình hình này thì chắc ngày mai ông ấy chẳng nhớ gì đâu.
“Tốt thôi,” tôi nói. “Để tớ gọi một người của Capitol đến giúp cậu.” Có vài người đang ở trên tàu. Nấu ăn cho chúng tôi. Đợi chúng tôi.
Bảo vệ chúng tôi. Nhiệm vụ của họ là chăm sóc chúng tôi. “Thôi khỏi. Tớ không cần đến họ,” Peeta nói.
Tôi gật đầu và đi về phòng. Tôi hiểu cảm giác của Peeta. Bản thân tôi cũng khó chịu khi nhìn thấy họ. Nhưng để Haymitch cho họ lo liệu có thể là một cách trả thù. Tôi tự hỏi tại sao cậu lại khăng khăng đòi chăm sóc Haymitch, để rồi đột nhiên nảy ra ý nghĩ, Bởi cậu ấy là người tốt. Như khi cậu ấy đưa tôi ổ bánh mì.
Suy nghĩ này làm tôi chột dạ. Một Peeta Mellark xấu xa. Ấn tượng về những người tốt thường đọng lại và khắc sâu trong tâm trí tôi. Tôi không thể để điều đó xảy ra với Peeta. Ít nhất là khi nghĩ về cái nơi chúng tôi sắp đến. Vậy nên, từ bây giờ, tôi quyết định tiếp xúc với con trai của chủ tiệm bánh mì càng ít càng tốt.
Khi tôi về đến phòng, xe lửa tạm dừng ở một nhà ga để tiếp nhiên liệu. Tôi nhanh tay mở cửa sổ, ném những chiếc bánh quy mà cha của Peeta đã đưa cho tôi ra khỏi xe lửa và đóng sập cửa kính xuống. Tôi không cần. Không cần thêm gì ở cả hai người bọn họ.
Không may, gói bánh quy rơi xuống đất và bung ra trên bãi cỏ bồ công anh mọc cạnh đường ray. Tôi chỉ thấy trong giây lát bởi con tàu đã lăn bánh trở lại, nhưng như thế là đủ. Đủ để nhắc tôi về những bông hoa bồ công anh trên sân trường vài năm về trước…
Ngay khi quay đi khỏi gương mặt thâm tím của Peeta Mellark, tôi thấy những bông hoa bồ công anh và biết rằng hy vọng không hề tắt. Tôi cẩn thận hái hoa và bước vội về nhà. Tôi túm lấy một cái sọt, dắt Prim đến Đồng cỏ và y như rằng, nơi đây đã được điểm tô bằng những nhánh cỏ dại trổ hoa óng ả. Hái xong chỗ này, chúng tôi lại tiếp tục sục sạo dọc theo bờ rào khoảng một dặm cho đến khi trong sọt đầy lá, thân và hoa bồ công anh. Tối hôm đó, chúng tôi ăn ngấu nghiến món xa lát bồ công anh và phần bánh mì còn lại.
“Còn gì nữa không chị?” Prim hỏi tôi. “Mình còn kiếm được thứ gì ăn nữa không?”
“Chúng ta có thể kiếm được mọi thứ,” tôi hứa với nó. “Chị vừa nhớ ra thứ này.”
Mẹ tôi có cuốn sách bà luôn mang theo từ cửa hàng bào chế thuốc. Những trang sách làm bằng giấy da sờn cũ chi chít hình vẽ những loài cây cỏ. Những dòng chữ ngay ngắn mô tả tên loài cây, nơi hái chúng, khi nào thì nở hoa và tác dụng làm thuốc. Nhưng cha tôi còn thêm vào cuốn sách những mục khác. Những loài để ăn, không phải để chữa bệnh. Bồ công anh, thương lục, hành dại, thông. Prim và tôi dành cả tối để nghiền ngẫm những trang sách ấy.
Ngày hôm sau chúng tôi nghỉ học. Tôi dạo quanh ngoài rìa khu Đồng cỏ một lúc, cuối cùng lấy can đảm tiến về phía hàng rào. Đó là lần đầu tiên tôi ra ngoài một mình mà không có cha mang theo vũ khí bảo vệ. Tôi lấy ra cây cung nhỏ và những mũi tên cha tôi làm từ phần trong một thân cây rỗng. Ngày hôm đó hình như tôi không vào sâu trong rừng quá hai mươi mét. Phần lớn thời gian tôi nằm phục trên một nhánh cây sồi già, chờ con mồi đến. Sau vài giờ, tôi may mắn giết được một con thỏ. Tôi từng săn được vài con thỏ dưới sự hướng dẫn của cha. Nhưng đây là con đầu tiên tôi tự mình săn được.
Chúng tôi không có thịt để ăn đã nhiều tháng nay. Con thỏ như làm gợn lên điều gì đó trong mẹ tôi. Bà đứng dậy, đi lột da thỏ và làm món thịt hầm với ít rau mà Prim hái được. Sau đó bà bỗng trở nên bối rối và quay trở lại giường, nhưng khi xong món thịt hầm, chúng tôi mang cho bà một tô.
Cánh rừng trở thành cứu tinh của chúng tôi, càng ngày tôi càng lấn sâu vào đó. Tuy ban đầu còn dè dặt nhưng tôi đã quyết tìm thức ăn nuôi cả nhà. Tôi nhặt trộm trứng ở tổ chim, bắt cá bằng lưới, thỉnh thoảng tìm cách bắn một con sóc hay thỏ về nấu thịt hầm, hái rau cỏ dại sinh sôi nảy nở dưới chân. Cây cỏ cũng phức tạp. Nhiều
thứ có thể ăn được, nhưng chỉ một lần lỡ miệng là bạn đi đời. Tôi xem xét và so sánh một lần nữa những cây mình hái được với hình ảnh cha tôi đã về. Tôi đã cứu sống cả nhà.
Lúc mới bước vào nghề săn bắn, ngay khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào như một tiếng hú từ xa hay một tiếng cành cây gãy bất thường, tôi đều phóng nhanh về phía hàng rào. Sau đó tôi bắt đầu mạo hiểm trèo lên cây để trốn thoát những con chó hoang. Chúng nhanh chóng nhận ra không có gì và bỏ đi. Gấu và mèo rừng sống ở sâu hơn trong rừng, có lẽ vì chúng không thích bụi than đen của quận chúng tôi.
Ngày 8 tháng Năm, tôi đến Tòa Tư pháp, ký lấy tê-ra, mang về nhà phần ngũ cốc và dầu ăn đầu tiên đựng trong chiếc xe đầy đồ chơi của Prim. Vào ngày mùng tám hàng tháng tôi đều được lãnh như vậy. Tất nhiên tôi không thể dừng công việc săn bắn và hái lượm. Ngũ cốc không đủ để nuôi sống chúng tôi, và cũng còn những thứ khác cần mua, như xà phòng, sữa và chỉ may. Với những món không thiết yếu lắm, tôi bắt đầu mang đến trao đổi ở chợ Hob. Tôi thấy sợ khi đến nơi ấy mà không có cha bên cạnh, nhưng người ta cũng tôn trọng cha tôi nên để tôi buôn bán ở đó. Thịt gì thì thịt, ai săn được cũng vậy thôi. Tôi cũng đến bán ở cửa sau nhà những khác hàng giàu có hơn trong thị trấn, cố gắng nhớ những gì cha tôi đã dặn, ngoài ra cũng học được một vài mánh khóe mới. Chủ hàng thịt sẽ mua thỏ chứ không mua sóc. Chủ tiệm bánh thích sóc nhưng chỉ mua một con nếu vợ ông ta không có ở đó. Trưởng Đội Trị an thích gà rừng. Ngài thị trưởng lại khoái ăn dâu.
Vào cuối mùa hè, khi đang rửa ráy cạnh ao thì tôi chú ý tới một loài cây mọc xung quanh. Lá của nó vươn cao như đầu mũi tên. Hoa nở với ba cánh màu trắng. Tôi quỳ gối xuống nước, bới tay xuống lớp bùn mịn và lôi lên một vốc rễ củ. Những củ nhỏ màu xanh lợt trông không giống khoai tây lắm nhưng đem luộc hoặc nướng thì ngon không kém. “Cây Cát nhĩ[12],” tôi nói lớn. Loài cây mà tôi được đặt tên theo. Và tôi nghe thấy tiếng cha nói đùa, “Chỉ cần con tìm
thấy mình, con sẽ không bao giờ đói.” Suốt hàng giờ liền, tôi dùng ngón chân và một que củi khuấy dưới đáy ao và nhặt những củ nổi lên mặt nước. Đó là lần đầu tiên trong nhiều tháng chúng tôi được một bữa căng bụng.
Mẹ từ từ trở lại với chúng tôi. Bà bắt đầu lau dọn, nấu nướng và bảo quản một số thức ăn tôi mang về cho mùa đông. Người ta cũng trao đổi thứ gì đó hoặc trả tiền cho chúng tôi khi nhận thuốc của bà. Một ngày nọ, tôi nghe bà hát.
Prim run lên vì xúc động khi thấy mẹ trở lại bình thường, nhưng tôi vẫn quan sát, chờ đợi đến khi bà bỏ mặc chúng tôi lần nữa. Tôi không tin tưởng bà. Ở đâu đó trong tâm khảm tôi vẫn ghét bà vì bệnh tật, vì sự buông lơi, vì những tháng ngày bà để chúng tôi phải trải qua. Prim đã tha thứ cho mẹ, nhưng tôi vẫn do dự trước bà, dựng lên một rào cản để bảo vệ mình khỏi sự thèm khát tình mẫu tử, và mọi thứ giữa chúng tôi không thể trở lại như cũ được nữa.
Còn bây giờ thì tôi sẽ chết mà chẳng thể chứng kiến mọi chuyện tốt đẹp hơn. Hôm nay tôi đã muốn gào lên thật to với mẹ ở Tòa Tư pháp. Dù sao, tôi cũng đã nói mình yêu bà. Có lẽ mọi thứ sẽ trở lại bình thường.
Tôi đứng nhìn qua cửa sổ xe lửa một lúc, ước rằng mình có thể mở lại nó lần nữa, nhưng không chắc điều gì sẽ xảy ra ở độ cao thế này. Tôi thấy ánh sáng của những quận khác ở đằng xa. Quận 7 ư? Quận 10 ư? Tôi không biết. Tôi nghĩ về những người đang ở trong nhà họ và chuẩn bị lên giường. Tôi nghĩ đến nhà mình, về mành chớp khép kín. Mẹ và Prim bây giờ đang làm gì? Liệu hai người có ăn được bữa tối không? Với món cá hầm và dâu chứ? Hay là chúng vẫn còn nguyên trên đĩa? Liệu họ có xem chương trình tổng hợp những sự kiện trong ngày từ chiếc ti vi cũ kỹ mòn vẹt nằm trên cái bàn kê sát tường? Hẳn là họ đã khóc nhiều hơn. Liệu mẹ tôi có đứng dậy nổi và vững vàng bên Prim? Hay là bà đã lánh đi, để lại gánh nặng của cuộc đời đè lên đôi vai yếu ớt của nó?
Chắc chắn Prim sẽ ngủ với mẹ tối nay. Nghĩ đến việc con mèo Hũ Bơ già sẽ leo lên giường và canh chừng Prim, lòng tôi dịu lại. Nếu nó khóc, con mèo sẽ rúc mũi vào cánh tay nó và quấn quít ở đó cho đến khi nó nín và thiếp đi. Tôi mừng là mình đã không dìm chết con mèo.
Hình dung về gia đình làm lòng tôi tràn ngập nỗi cô đơn. Một ngày dài vô tận. Liệu có phải Gale và tôi chỉ mới ăn những quả dâu vào sáng nay? Điều đó như xảy ra cách đây lâu lắm rồi. Như một giấc mơ dài bị cơn ác mộng đè bẹp. Rất có thể sau khi chìm vào giấc ngủ, khi tỉnh dậy tôi sẽ lại được trở về Quận 12, nơi tôi vốn thuộc về.
Trong ngăn kéo chắc có nhiều đồ ngủ, nhưng tôi chỉ cởi áo và quần dài rồi leo lên giường với đồ lót. Mặt giường làm bằng vải mềm và mịn. Mặt bông dày phủ lông tơ ngay lập tức giữ ấm cho tôi.
Bây giờ thì tôi có quyền khóc. Đến mai tôi vẫn có thể lau sạch dấu vết trên mặt. Nhưng không có giọt nước mắt nào nữa. Tôi không còn hơi sức để khóc. Bây giờ tôi chỉ muốn được sống trong một nơi khác. Tôi mặc cho xe lửa dập dình đưa mình vào quên lãng.
Khi tôi bị đánh thức bởi tiếng động lạ, một thứ ánh sáng lờ mờ đang lách qua mành cửa. Tôi nghe thấy Effie Trinket gọi. “Dậy, dậy, dậy. Hôm nay sẽ là một ngày quan trọng, cực kỳ quan trọng!” Tôi gượng dậy và trong một thoáng tự hỏi liệu trong đầu người phụ nữ này đang có những gì. Ban ngày bà nghĩ gì? Ban đêm bà mơ thấy gì? Tôi không biết.
Tôi mặc lại bộ đồ màu xanh vì nó cũng không bẩn lắm, chỉ là hơi nhàu do tôi để cả đêm dưới sàn. Tôi chạm ngón tay vào vòng tròn bao quanh con húng nhại bé xíu bằng vàng; tôi nghĩ về khu rừng, về cha tôi, về mẹ cùng Prim khi họ thức dậy, phải tiếp tục với cuộc mưu sinh. Trong khi ngủ, tôi giữ nguyên mái tóc đã được mẹ tết cẩn thận trong ngày chiêu quân, bây giờ nhìn nó cũng không tệ lắm nên tôi vẫn để như vậy. Mà chuyện đó chẳng còn quan trọng. Giờ đây chúng tôi không còn cách Capitol bao xa nữa. Một khi đến thành
phố, người tạo mẫu sẽ quyết định trang phục cho tôi trong lễ khai mạc tối nay. Chỉ hy vọng người đó không thích mẫu khỏa thân.
Khi tôi vào toa ăn, Effie Trinket đi ngang qua tôi với tách cà phê đen trên tay. Bà lầm bầm những lời thóa mạ trong họng. Haymitch, với khuôn mặt sưng húp và ửng đỏ sau cơn say ngày hôm trước, trông khoái trá ra mặt. Peeta cầm một ổ bánh và trông có vẻ bối rối.
“Ngồi xuống! Ngồi xuống!” Haymitch nói, vẫy tôi lại. Vừa ngồi xuống ghế, tôi được phục vụ ngay một đĩa thức ăn to khủng. Trứng, giăm bông cùng một vốc khoai tây chiên. Liễn trái cây được ủ đá để giữ hoa quả tươi. Rổ bánh mì trước mặt có thể nuôi sống gia đình tôi trong một tuần. Cạnh đó là ly cam ép xinh xắn. Ít ra là trong suy nghĩ của tôi. Tôi từng được nếm thử cam vỏn vẹn một lần, vào ngày Tân niên khi được cha mua tặng một quả như một món quà đặc biệt. Một tách cà phê. Mẹ tôi vẫn ao ước cà phê lắm, thứ mà nhà tôi khó có thể mua, nhưng tôi chỉ thấy nó đắng và nhạt. Một tách màu nâu sẫm đựng thứ gì đó tôi chưa thấy bao giờ.
“Người ta gọi nó là sô cô la nóng,” Peeta nói. “Ngon phết.”
Tôi hớp thử một ngụm thứ nước ấm nóng, ngọt và đặc quánh rồi rùng mình. Dù còn nhiều món khác bày trước mặt, tôi vẫn không màng cho tới khi hạ tách sô cô la xuống. Rồi tôi bắt đầu ăn thả phanh, ngoạm từng miếng thật lớn, cố gắng để không bị nghẹn. Mẹ từng nói tôi luôn ăn như thể sẽ không bao giờ được ăn lần nữa. Và tôi đáp, “Con không mang về thì lấy đâu mà ăn.” Nghe đến thế mẹ tôi im re.
Khi dạ dày tưởng như sắp nứt toác, tôi ngả ra sau, nhìn mọi người một lượt. Peeta vẫn còn ăn, cậu đang bẻ bánh nhúng vào sô cô la nóng. Haymitch không để ý lắm đến đĩa thức ăn của mình, nhưng ông nốc hết cốc nước ép màu đỏ pha loãng bằng một thứ chất lỏng trong suốt từ một cái chai. Nghe mùi thì chắc là cồn. Tôi không quen Haymitch, nhưng vẫn thường thấy ông ta ở chợ Hob,
ném những nắm đồng xu vào khay tiền của bà bán rượu đế. Rồi ông ta sẽ lại lè nhè khi chúng tôi đến Capitol thôi.
Tôi nhận ra mình thậm ghét Haymitch. Chẳng trách Quận 12 chưa bao giờ có cơ hội. Đó không chỉ vì chúng tôi không đủ ăn và thiếu luyện tập. Một số đấu thủ ở quận tôi vẫn thừa khỏe mạnh để tham dự. Nhưng hiếm khi nào chúng tôi tìm được tài trợ và lão ta là một nguyên nhân đáng kể. Những tay nhà giàu tài trợ cho thí sinh - vì họ đang đặt cược vào thí sinh ấy hay đơn giản là muốn mình có cái quyền khoe khoang khi cược người thắng cuộc - đều chờ đợi một ai đó nghiêm chỉnh hơn Haymitch để bàn bạc.
“Vậy ông sẽ cho chúng cháu lời khuyên chứ,” tôi nói với Haymitch.
“Đây là lời khuyên. Hãy giữ mạng sống,” Haymitch nói và phá lên cười. Tôi đưa mắt nhìn Peeta trước khi nhớ ra là mình cũng không biết nói thêm gì. Tôi ngạc nhiên khi thấy nét khắc khổ trong đôi mắt ông. Nhìn bề ngoài ông cũng có vẻ đôn hậu.
“Buồn cười thật đấy,” Peeta nói. Đột nhiên cậu hất văng chiếc cốc trong tay Haymitch. Chiếc cốc vỡ toang dưới nền nhà làm một dòng nước đỏ như máu chảy lan về đuôi toa tàu. “Nhưng không buồn cười với bọn cháu chút nào.”
Haymitch im lặng một thoáng, rồi đấm vào quai hàm Peeta khiến cậu ngã ngửa. Khi Haymitch quay lại định rót ly rượu khác, tôi chặt con dao xuống bàn vào khoảng giữa tay ông với chai rượu, suýt nữa hớt mất mấy ngón tay ông. Tôi co người để tránh ông đánh trả, nhưng ông không có ý định đó. Thay vào đó, Haymitch ngồi xuống và liếc bọn tôi.
“Ái chà, chuyện gì thế này?” Haymitch nói. “Cuối cùng thì năm nay tôi cũng có hai chiến binh thực sự rồi sao?”
Peeta gượng dậy từ dưới sàn và vốc lấy nắm đá trong liễn trái cây. Cậu ấy bắt đầu đắp đá lên phần máu bầm dưới cằm.
“Đừng,” Haymitch ngăn cậu lại. “Để nguyên vết bầm ở đấy. Khán giả sẽ nghĩ cậu vừa gây sự với một đấu thủ khác trước cả khi cậu làm thế ở đấu trường.”
“Như vậy là trái luật,” Peeta nói.
“Chỉ khi nào người ta bắt quả tang cậu. Vết bầm sẽ chứng tỏ cậu đã đánh nhau, mà cậu lại không bị tóm, như vậy tốt hơn,” Haymitch nói. Ông ta quay sang tôi. “Cháu có làm được gì với con dao trên bàn không?”
Sở trường của tôi là bắn tên. Nhưng tôi cũng dành ít thời gian tập phóng dao. Thỉnh thoảng khi bắn bị thương một con thú, tôi thường phóng thêm mũi dao trước khi đến tóm cổ nó. Tôi nhận ra nếu muốn gây chú ý với Haymitch thì bây giờ chính là lúc. Tôi rút dao ra khỏi bàn, kẹp chặt lưỡi dao và phóng vào bức tường phía bên kia. Thực ra tôi chỉ hy vọng nó sẽ cắm chặt vào tường, nhưng nó lại rút vào khe hở giữa hai ô tường, khiến tôi có vẻ xuất sắc hơn khả năng vốn có.
“Đứng lại đây nào. Cả hai đứa,” Haymitch nói, hướng đầu về phía giữa phòng. Chúng tôi nghe theo và ông đi vòng quanh cả hai, thỉnh thoảng lại thúc vào người chúng tôi như xem xét những con thú, kiểm tra cơ bắp, quan sát mặt mũi của bọn tôi. “Ừ, hai cháu không hoàn toàn vô tích sự đâu. Trông săn chắc đấy. Sau khi làm việc với người tạo mẫu, các cháu sẽ trở nên lôi cuốn.”
Peeta và tôi không thắc mắc gì về chuyện đó. Đấu trường tuy không phải cuộc thi sắc đẹp, những những đấu thủ ưa nhìn nhất có vẻ lôi cuốn được nhiều nhà tài trợ hơn.
“Thôi được, ta và các cháu sẽ có một thỏa thuận. Đừng can thiệp vào rượu của ta, và ta sẽ cố giữ tỉnh táo để giúp các cháu.” Haymitch nói. “Nhưng các cháu phải làm đúng những gì ta đã dặn dò.”
Việc này không có gì to tát, nhưng nó là bước tiến đáng kể so với việc mười phút trước đó chúng tôi không có ai chỉ dẫn cả.
“Tốt thôi,” Peeta nói.
“Vậy theo ông,” tôi nói, “khi bọn cháu vào đấu trường, chiến thuật nào là tốt nhất ở Cornucopia[13] để một người…”
“Bây giờ chỉ cần nhớ điều này. Ít phút nữa, chúng ta sẽ tiến vào nhà ga. Các cháu sẽ được giao cho những người tạo mẫu của mình. Có thể các cháu sẽ không thích cách họ làm. Nhưng dù thế nào đi nữa, đừng phản đối,” Haymitch nói.
“Nhưng mà…” tôi dùng dằng.
“Không nhưng gì hết. Đừng phản đối,” Haymitch nói. Ông cầm lấy chai rượu trên bàn và ra khỏi toa tàu. Khi cánh cửa khép lại sau lưng ông, toa tối dần. Bên trong vẫn còn một chút ánh sáng nhưng ở bên ngoài có vẻ như màn đêm đã lại buông xuống. Tôi nhận ra chúng tôi đang ở trong đường hầm đi xuyên qua núi tiến vào Capitol. Dãy núi tạo thành một rào chắn tự nhiên giữa Capitol và những quận ở phía Đông mà không phải băng qua hầm. Lợi thế địa hình này là một nguyên nhân chính khiến cuộc nổi dậy thất bại, dẫn đến việc hôm nay tôi trở thành một đấu thủ. Vì buộc phải vượt qua ngọn núi này nên phiến quân đã biến thành miếng mồi ngon cho không lực Capitol.
Peeta Mellark và tôi đứng trong im lặng trong lúc tàu chạy. Đường hầm kéo dài ngun ngút làm tôi nghĩ đến hàng tấn đá đang chia cách tôi với bầu trời, rồi lồng ngực tôi thóp lại. Tôi ghét bị ép mình trong đá theo cách này. Nó khiến tôi lại nhớ đến hầm mỏ và cha tôi, bị kẹt, bất lực tìm kiếm ánh mặt trời rồi bị vùi trong bóng tối mãi mãi.
Cuối cùng con tàu cũng đi chậm lại và ánh sáng đột ngột tràn ngập căn phòng. Chúng tôi không thể đừng được. Cả Peeta và tôi chạy đến cửa sổ để xem những gì chỉ được thấy trên ti vi; đó là Capitol, thành phố cai quản Panem. Những thước phim không hề bịa đặt về sự hào nhoáng của nó. Nếu có, chỉ là chúng đã không quay hết sự lộng lẫy của những tòa nhà lấp lánh dưới ánh cầu vồng rực rỡ, sừng sững trong không trung, những chiếc xe hơi bóng loáng lăn bánh trên đường phố rộng thênh thang, những đám người chưng diện phá cách với mái tóc quái dị và khuôn mặt hồng hào chưa bao giờ biết đến cái đói. Những màu sắc đó đều có vẻ giả tạo, màu hồng quá sẫm, màu xanh lá quá sáng, màu vàng quá chói mắt, giống như những chiếc đĩa tròn dẹt đựng kẹo đường sặc sỡ mà tôi chưa bao giờ mua nổi nằm trong một tiệm đồ ngọt nhỏ xíu ở Quận 12.
Người ta bắt đầu chỉ trỏ chúng tôi đầy phấn khích khi nhận ra con tàu chở những đấu thủ đang lăn bánh vào thành phố. Tôi lùi ra khỏi cửa sổ, cảm thấy buồn nôn bởi sự hào hứng của họ, bởi sự hào hứng được xem chúng tôi bước vào chỗ chết. Nhưng Peeta vẫn đứng yên đó, đúng hơn là đang vẫy tay và tươi cười trước đám đông mắt chữ O mồm chữ A. Cậu chỉ ngừng lại khi con tàu tiến vào ga, tách chúng tôi khỏi tầm nhìn của họ.
Thấy tôi nhìn săm soi, Peeta nhún vai: “Ai biết được?” cậu nói. “Trong số đó biết đâu có ai giàu có thì sao.”
Tôi đã đánh giá sai Peeta. Tôi nhớ lại những cử chỉ của cậu kể từ ngày chiêu quân. Cái siết tay thân thiện với tôi. Cha cậu xuất hiện với những chiếc bánh quy và hứa sẽ chăm nuôi Prim… liệu có phải Peeta đã bảo ông ấy làm vậy? Những giọt nước mắt của cậu ở ga. Tình nguyện lau người cho Haymitch nhưng sáng nay lại thách thức ông khi chiến thuật lấy lòng có vẻ không thành. Và bây giờ thì lại vẫy tay trước cửa sổ, tìm cách ghi điểm với đám đông.
Tất cả những mảnh ghép vẫn ăn khớp với nhau, bỗng nhiên tôi có cảm giác Peeta đã có sẵn một kế hoạch. Cậu không chấp nhận cái
chết. Cậu đã bắt đầu chiến đấu để sống sót. Điều đó cũng có nghĩa là Peeta Mellark, chàng trai đã cứu sống tôi bằng ổ bánh mì ngày nào, giờ đang cố gắng chiến đấu để tôi phải chết.
5
R-i-i-i-p! Tôi nghiến chặt răng khi Venia, một người đàn bà có mái tóc xanh dương và hình xăm vàng chóe trên lông mày giật miếng vải khỏi chân tôi, kéo theo mớ lông bên dưới. “Xin lỗi nhé!” bà ta the thé thứ giọng Capitol quái gở. “Tại chân cô bé nhiều lông quá!”
Tại sao những người này lại nói giọng cao thế nhỉ? Tại sao họ hầu như không há quai hàm khi nói? Tại sao họ lại lên giọng vào cuối câu như đang hỏi người khác? Những nguyên âm kỳ lạ, những chữ bị nuốt, và lúc nào cũng xì xì khi phát ra âm s… thảo nào người ta không thể bắt chước họ.
Venia tỏ vẻ mặt thông cảm. “Thôi nào, tin tốt đây. Đây là cú chót. Sẵn sàng chưa?” Tôi nắm chặt tay vào cạnh bàn và gật đầu. Mảng lông chân cuối cùng bị nhổ phăng sau một cú giật đau điếng.
Tôi đã ở Trung tâm Làm đẹp ba giờ đồng hồ mà vẫn chưa được gặp người tạo mẫu. Có vẻ anh ta không có hứng thú gặp tôi trước khi Venia và những người khác trong đội chuẩn bị xử lý xong các khâu cơ bản. Họ kỳ cọ thân thể tôi bằng một miếng bọt biển xù xì, gột đi không chỉ lớp ghét bẩn mà cả ba lớp da; họ giũa móng tay móng chân của tôi thành cùng một hình thù; và chủ yếu họ làm sạch lông trên người tôi. Chân, tay, thân, nách và hay bên lông mày của tôi bị lột sạch bong, biến tôi thành một con chim bị vặt trụi để đem quay. Tôi không thích thế. Làm da của tôi tấy đỏ, ngứa ngáy và bị xây xát nặng. Nhưng tôi vẫn giữ giao kèo với Haymitch, không hé ra một lời phản đối nào.
“Em làm tốt lắm,” một anh chàng tên là Flavius nói. Anh ta lắc mái tóc xoắn ốc màu cam của mình rồi thoa một lớp son môi bóng nhẫy
màu tím lên miệng. “Có một thứ mà bọn anh không thể chịu được, đó là loại người hay rên rỉ. Thoa dầu lên người cô bé!”
Venia cùng với Octavia, một bà béo ịch mà cả người được nhuộm một màu tai tái của đậu que, thoa kem dưỡng da khắp người tôi, mới đầu thì hơi buốt nhưng sau đó làn da thô ráp của tôi láng mịn hẳn. Rồi họ kéo tôi xuống bàn, cởi cả chiếc áo choàng mỏng mà trước đó tôi được phép mặc. Tôi đứng đó, trần như nhộng khi cả ba người đứng quanh tôi thành vòng tròn, dùng những chiếc nhíp nhổ những sợi lông cuối cùng sót lại. Đáng lẽ tôi phải thấy bối rối, nhưng họ khác người thường đến mức tôi chỉ hơi ngượng như thể có ba con két quái gở sặc sỡ đang mổ dưới chân mà thôi.
Cả ba bước lùi lại và chiêm ngưỡng thành quả. “Tuyệt vời! Giờ thì em không còn giống người rừng nữa!” Flavius nói, và họ cùng cười.
Tôi cố nở nụ cười để tỏ ra cảm kích. “Cám ơn,” tôi nói ngọt ngào. “Ở Quận 12 bọn em không có nhiều lý do để chưng diện.”
Tôi hoàn toàn thuyết phục họ. “Dĩ nhiên là không cần rồi, cháu gái tội nghiệp của ta!” Octavia nói, hai tay nắm lại bày tỏ sự thương hại.
“Nhưng cháu đừng lo,” Venia nói. “Đến tay Cinna, chắc chắn cháu sẽ trở nên lộng lẫy!”
“Bọn ta hứa đấy! Em biết không, sau khi chúng ta tẩy sạch lông và vết bẩn, trông em hết kinh dị rồi!” Flavius khích lệ. “Đi gọi Cinna thôi!”
Họ chạy tót ra khỏi phòng. Thật khó để ghét cái đội chuẩn bị này. Tuy họ là những kẻ ngớ ngẩn toàn diện nhưng, bằng một cách quái đản, tôi biết họ đang cố gắng giúp tôi thật lòng.
Tôi nhìn lên những bức tường và sàn nhà trắng lạnh lẽo, kìm nén cơn thôi thúc được nhặt áo choàng lên. Cái gã Cinna đó, nhà tạo mẫu của tôi, chắc chắn sẽ lại bắt tôi cởi ra ngay lập tức. Tôi đưa tay
lên mái tóc. Đội chuẩn bị đã được dặn dò là giữ nguyên mái tóc như vậy. Tôi vuốt nhẹ vào những bím tóc mượt mà mẹ đã tết cẩn thận. Ôi mẹ tôi. Tôi đã để quên bộ đầm màu xanh và đôi giày của bà trên sàn tàu, chưa từng nghĩ đến việc nhặt chúng lên hay tìm cách giữ lấy chúng như giữ hồi ức về bà, về gia đình. Ước gì tôi đã làm thế.
Cửa mở và một chàng trai trẻ, hẳn là Cinna, bước vào. Tôi ngỡ ngàng khi thấy anh ta bình thường quá. Hầu hết những nhà tạo mẫu khi được phỏng vấn trên ti vi trông đều kiểu cách, màu mè và được chỉnh sửa bởi dao kéo đến độ kệch cỡm. Nhưng mái tóc hớt cao của Cinna lại có màu nâu tự nhiên. Anh ta vận áo sơ mi đen và quần thụng đơn giản. Sự chỉnh sửa duy nhất của anh, có lẽ là đường viền mắt được kẻ nhẹ nhàng màu vàng kim. Nó tạo thành những đốm vàng quanh đôi mắt xanh của anh. Và, mặc dù ghê tởm Capitol và kiểu cách ăn mặc gớm ghiếc của họ, tôi vẫn thấy đôi mắt đó thật cuốn hút.
“Chào Katniss. Anh là Cinna, nhà tạo mẫu của em,” anh nói bằng một giọng nhỏ nhẹ, không hề tỏ ra màu mè như người Capitol.
“Xin chào,” tôi đánh bạo.
“Đợi anh chút xíu, được chứ?” anh hỏi. Cinna bước xung quanh tấm thân trần truồng của tôi, không chạm lấy một cái nhưng vẫn dán mắt vào từng xăng ti mét một. Tôi kìm lại cái thôi thúc đưa hai tay che ngực. “Ai đã làm tóc cho em?”
“Mẹ em,” tôi nói.
“Đẹp đấy. Kiểu cổ điển. Và gần như cân xứng hoàn hảo với khuôn mặt của em. Mẹ em rất khéo tay,” anh nói.
Tôi đã đoán sẽ gặp một gã lòe loẹt, một lão khọm già khú nhưng lại cố cưa sừng làm nghé, một ai đó xem tôi như một miếng thịt bày trên đĩa. Cinna không giống như bất kỳ suy đoán nào của tôi.
“Anh là người mới phải không? Em chưa từng thấy anh,” tôi nói. Đa số những nhà tạo mẫu đều quen thuộc và đội ngũ này không thay đổi so với thành phần những đấu thủ. Một số nhà tạo mẫu tôi đã thấy từ bé đến giờ.
“Ừ, đây là năm đầu tiên của anh ở Đấu trường,” Cinna nói.
“Nên họ mới giao cho anh Quận 12,” tôi nói. Những người mới thường phụ trách chúng tôi, quận ít được ưu ái nhất.
“Anh yêu cầu Quận 12,” anh nói mà không giải thích gì thêm. “Sao em không mặc áo choàng vào và chúng ta cùng trò chuyện.”
Khoác áo lên người, tôi đi theo anh qua một cánh cửa vào phòng khách. Hai chiếc đi văng màu đỏ nằm đối diện nhau qua một chiếc bàn thấp. Ba bức tường trống không; bức thứ tư hoàn toàn bằng kính, tạo thành một cửa sổ nhìn vào thành phố. Nhìn ánh sáng, tôi có thể đoán được bây giờ là vào tầm trưa, dù bầu trời đã bị mây che khuất. Cinna mời tôi ngồi xuống một chiếc đi văng còn anh ngồi đối diện. Anh nhấn vào chiếc nút ở cạnh bàn. Mặt trên bàn mở ra và chiếc bàn thứ hai đặt bữa trưa của chúng tôi từ dưới nhô lên. Thịt gà và cam tươi nấu cùng nước sốt kem phủ trên mặt gạo trắng lột, đậu hạt và hành tây, bánh cuộn được xếp thành những cánh hoa và phần tráng miệng là một chiếc bánh pút đinh màu mật ong.
Tôi thử so sánh nó với bữa ăn ở nhà. Gà thường thì quá đắt, nhưng tôi có thể thay thế bằng thịt gà tây hoang. Tôi cần săn thêm một con nữa để đổi lấy cam. Sữa dê dùng để thay thế kem. Chúng tôi có thể trồng thêm đậu trong vườn. Tôi sẽ phải vào rừng hái hành dại. Tôi không biết thứ gạo trắng ấy là gì, khẩu phần ngũ cốc từ tê-ra của nhà tôi chỉ nấu được thứ cháo màu nâu kém hấp dẫn. Thêm mấy miếng bánh cuộn ngon lành nghĩa là phải trao đổi thêm với người chủ tiệm bánh, có lẽ hai hoặc ba con sóc. Còn với bánh pút đinh, tôi thậm chí còn không biết nó làm từ thứ gì. Tôi phải mất bao nhiêu ngày đi săn và hái lượm mới có được bữa ăn như thế này, dù là còn xa mới giống như của Capitol.
Tôi tự hỏi cuộc sống sẽ như thế nào ở một nơi mà thức ăn xuất hiện chỉ bằng một cái bấm nút? Tôi còn phải mất hàng giờ vào rừng mưu sinh để làm gì nếu cuộc sống trở nên quá dễ dàng? Họ, những cư dân ở Capitol, sẽ làm gì cả ngày ngoài việc tô điểm cho thân thể mình và chờ một lớp đấu thủ mới sẽ đến và chiến đấu đến chết để giải khuây cho họ?
Tôi nhìn lên và thấy đôi mắt của Cinna đang dán vào tôi. “Hẳn em thấy chúng tôi đáng khinh lắm,” anh nói.
Liệu anh có đoán được suy nghĩ của tôi dựa trên nét mặt hay bằng một cách nào đó? Dù sao anh cũng nói đúng. Phần đông mục ruỗng của họ thật đáng khinh.
“Không sao cả,” Cinna nói. “Thế này, Katniss, về quần áo của em trong lễ khai mạc. Cộng sự của anh, Portia, sẽ là người tạo mẫu cho bạn em, Peeta. Bọn anh đang nghĩ đến việc sẽ để các em mặc những trang phục phối hợp nhau,” Cinna nói. “Như em biết đấy, theo thông lệ thì các đấu thủ phải mặc trang phục phản ánh đặc điểm của quận họ.”
Trong lễ khai mạc, chúng tôi phải mặc thứ gì đó nói lên ngành nghề của quận mình. Quận 11 làm nông nghiệp. Quận 4 làm đánh cá. Quận 3 là khu nhà máy. Điều đó nghĩa là tôi và Peeta, đến từ Quận 12, sẽ mang phong cách của người thợ mỏ. Do bộ áo liền quần lùng thùng của người thợ mỏ không phù hợp, những vật tế của quận chúng tôi lúc nào cũng mặc trang phục sơ sài và đội những chiếc nón có đèn. Có năm họ còn phải trần như nhộng và được bôi một lớp bụi đen nhằm thể hiện bụi than. Luôn xấu thảm hại và không chiếm nổi một chút cảm tình của số đông. Tôi chuẩn bị cho mình tình huống xấu nhất.
“Vậy là, em sẽ mặc bộ đồ của thợ mỏ?” tôi hỏi, hy vọng mình không khiếm nhã.
“Không hẳn. Em thấy đấy, Portia và anh nghĩ rằng phong cách thợ mỏ đã quá nhàm. Sẽ không ai nhớ đến bọn em với bộ đồ đó. Bọn anh đều thấy việc của mình là phải làm cho những đấu thủ của Quận 12 thật khó quên,” Cinna nói.
Chắc chắn mình phải cởi truồng, tôi nghĩ.
“Bởi vậy thay vì trọng tâm vào việc đào mỏ, chúng ta sẽ hướng trọng tâm vào than,” Cinna nói.
Cởi truồng và được phủ bởi lớp bụi đen, tôi nghĩ.
“Và chúng ta làm gì với than? Chúng ta sẽ đốt nó,” Cinna nói. “Em không sợ lửa chứ, Katniss?” Anh thấy nét mặt của tôi và cười sảng khoái.
Vài giờ sau, tôi khoác trên người một thứ hoặc sẽ gây xúc động nhất hoặc sẽ tệ hại nhất trong lễ khai mạc. Tôi mặc một bộ áo liền quần đơn giản kéo từ mắt cá chân lên đến cổ. Chiếc ủng bóng loáng túm tới đầu gối. Nhưng chính chiếc áo choàng rực rỡ với những sọc màu cam, vàng và đỏ và chiếc mũ đội đầu mới là tâm điểm của bộ trang phục. Cinna định sẽ làm chúng bốc lửa ngay khi cỗ xe của chúng tôi lăn bánh xuống đường.
“Tất nhiên đó không phải là lửa thật, chỉ là anh và Portia nghĩ đến việc dùng một chút lửa nhân tạo. Em sẽ an toàn tuyệt đối,” anh nói. Nhưng tôi không chắc là trước khi vào được trung tâm thành phố tôi có trở thành món thịt nướng hay không.
Mặt tôi không trang điểm gì, chỉ tô một số chỗ. Mái tóc của tôi được chải mượt và tết dọc sống lưng như thường lệ. “Anh muốn khán giả phải lưu lại hình ảnh của em khi em vào đấu trường,” Cinna nói mơ màng. “Katniss, Cô gái Lửa.”
Tôi chợt nghĩ có khi nào sự điềm tĩnh và thái độ hết sức bình thường của Cinna là vỏ bọc của một người hoàn toàn mất trí không.
Mặc dù có những phát hiện không hay về tính cách của Peeta trong sáng nay, tôi thật sự thở phào khi cậu xuất hiện trong một trang phục giống tôi. Là con trai chủ tiệm bánh, chắc cậu phải rành về lửa. Portia, người tạo mẫu cho cậu ấy và đội của cô ta cùng những người khác đều hoàn toàn ngây ngất trước sự rực rỡ của chúng tôi. Ngoại trừ Cinna. Anh có vẻ mệt mỏi khi nhận những lời chúc tụng.
Chúng tôi lướt nhanh xuống tầng dưới cùng của Trung tâm Làm đẹp, nơi trông hệt như một cái chuồng khổng lồ. Lễ khai mạc chuẩn bị bắt đầu. Từng cặp vật tế được đưa lên cỗ xe, được kéo bởi tốp ngựa bốn con. Đàn ngựa của chúng tôi có màu đen than. Chúng được huấn luyện kĩ càng đến mức không cần người giữ dây cương. Cinna và Portia dẫn chúng tôi lên xe, cẩn thận sắp xếp tư thế cho bọn tôi, xếp nếp lại chiếc áo choàng, trước khi quay sang nhau hỏi ý kiến.
“Cậu nghĩ thế nào?” Tôi thì thầm với Peeta. “Về ngọn lửa?”
“Tớ sẽ cứu cậu khỏi ngọn lửa nếu cậu cứu tớ trước,” cậu nghiến răng.
“Thỏa thuận nhé,” tôi nói. Có lẽ nếu cởi ra kịp chúng tôi sẽ tránh được cái chết cháy tồi tệ nhất. Dù sao thì việc này cũng thật tệ. Họ sẽ lại ném chúng tôi vào đấu trường bất kể tình trạng chúng tôi thế nào. “Tớ biết là chúng ta đã hứa với Haymitch là sẽ làm đúng những gì họ nói, nhưng tớ không nghĩ ông ấy đã lường trước điều này.”
“Mà Haymitch đâu rồi nhỉ? Không phải ông ấy sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những chuyện này sao?” Peeta nói.
“Tọng vào ngần ấy rượu, có lẽ ông ấy không nên có mặt trong màn khói lửa khai mạc đâu,” tôi nói.
Rồi bất chợt cả hai cùng cười. Có lẽ chúng tôi đều quá căng thẳng về Đấu trường và điều tối quan trọng là, nỗi lo sợ trước việc sẽ trở thành ngọn đuốc sống khiến chúng tôi hành động hơi cứng nhắc.
Nhạc dạo bắt đầu. Tiếng nhạc vang vọng khắp Capitol, ở đâu cũng nghe thấy. Hai cánh cửa khổng lồ mở ra từ từ, và trước mắt chúng tôi là đám đông xếp hàng dài trên những dãy phố. Cuộc diễu hành kéo dài khoảng hai mươi phút và dừng lại ở Vòng tròn Trung tâm, nơi họ sẽ chào đón chúng tôi, cử hành quốc ca và hộ tống chúng tôi vào Trung tâm Huấn luyện, nơi sẽ là nhà, hay nhà tù, của bọn tôi cho đến khi Đấu trường bắt đầu.
Những đấu thủ đến từ Quận 1 diễn hành trên cỗ xe kéo bởi những con bạch mã. Trông họ thật xinh đẹp trong lớp sơn phun màu bạc cùng trang phục bắt mắt lấp lánh trang sức. Quận 1 chế tác những món đồ đắt giá cho Capitol. Bạn có thể nghe tiếng hò hét của đám đông. Những đấu thủ này luôn giành được sự mến mộ.
Theo sau họ, Quận 2 tiến vào vị trí. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tiến vào cửa và tôi có thể thấy giữa những khoảng trời u ám và màn đêm đang buông xuống, màn sáng đang xám dần. Khi Cinna xuất hiện với một cây đuốc đang bốc cháy thì cỗ xe của những đấu thủ từ Quận 11 cũng vừa đi khỏi. “Đến lượt chúng ta rồi,” anh nói, và trước khi chúng tôi kịp phản ứng, anh châm lửa vào chiếc áo choàng của bọn tôi. Tôi thở gấp, chờ đợi cái nóng nhưng chỉ thấy nhồn nhột. Cinna leo lên trước mặt chúng tôi và châm lửa vào chiếc mũ. Anh thở phào. “Tốt rồi,” Rồi tay anh nhẹ nhàng nâng cằm tôi lên. “Nhớ nhé, đầu phải ngẩng cao. Miệng cười. Họ sẽ yêu mến em!”
Cinna nhảy khỏi cỗ xe và nảy ra ý tưởng cuối cùng. Anh hét lên thứ gì đó về phía chúng tôi, nhưng tiếng nhạc át đi. Anh hét lại lần nữa và dùng cử chỉ cho tôi thấy.
“Anh ta nói gì vậy?” Tôi hỏi Peeta. Lần đầu tiên tôi nhìn sang cậu và nhận ra với ngọn lửa giả rừng rực, cậu đang phát sáng. Chắc là tôi cũng thế.
“Tớ nghĩ anh ta nói chúng ta nắm tay nhau đi,” Peeta nói. Tay trái cậu ta nắm lấy tay phải tôi, và chúng tôi nhìn vào Cinna để xác nhận. Anh gật đầu và giơ ngón tay cái lên, đó là điều cuối cùng tôi thấy trước khi tiến vào thành phố.
Sự ngỡ ngàng ban đầu của đám đông khi nhìn thấy chúng tôi nhanh chóng chuyển thành tiếng hoan hô và la hét “Quận 12!” Mọi ánh mắt đều quay về phía chúng tôi, rời sự chú ý khỏi ba cỗ xe đi trước. Ban đầu tôi đứng như trời trồng nhưng sau khi thấy chúng tôi xuất hiện trên màn hình lớn, tôi ngạc nhiên trước sự xuất hiện ấn tượng của mình. Dưới ánh chiều chạng vạng đang dần xế, ngọn lửa làm bừng sáng khuôn mặt chúng tôi. Chúng tôi như để lại vết lửa sau chiếc áo choàng tung bay. Cinna nói đúng về việc trang điểm càng ít càng tốt, cả hai chúng tôi trông cuốn hút và vô cùng ấn tượng.
Nhớ lấy, đầu ngẩng cao. Miệng cười. Họ sẽ yêu mến em! Tiếng của Cinna văng vẳng trong đầu tôi. Tôi ngước cằm lên một chút, nở nụ cười chiến thắng và vẫy bàn tay còn lại. Tôi thấy mừng vì lúc này đã có Peeta giữ thăng bằng; cậu ấy quá vững vàng, rắn rỏi như một tảng đá. Khi đã lấy lại tự tin, thậm chí tôi còn trao một vài nụ hôn gió cho đám đông. Những người ở Capitol trở nên cuồng nhiệt, tung hoa chào đón chúng tôi, gào tên họ chúng tôi mà họ phải khó khăn lắm mới tìm được trong chương trình khai mạc.
Tiếng nhạc rộn ràng, tiếng hoan hô và sự ngưỡng mộ của đám đông len lỏi vào máu thịt tôi và tôi không thể nén lại niềm hân hoan. Cinna đã tạo cho tôi một lợi thế to lớn. Họ sẽ không quên tôi, không quên vẻ bề ngoài hay tên tôi. Katniss, Cô gái Lửa.
Lần đầu tiên, trong lòng tôi nhen nhóm chút hy vọng. Chắc chắn sẽ có một nhà tài trợ đến tìm tôi! Và với một chút hỗ trợ, chút thức ăn và có thứ vũ khí mình cần, tại sao tôi không thể đặt niềm tin vào chính mình trong Đấu trường chứ?
Ai đó tung cho tôi một bông hồng thắm. Tôi nhặt lấy nó, khẽ ngửi và gửi trả lại một chiếc hôn gió về hướng người đó. Hàng trăm cánh tay đưa lên tóm lấy chiếc hôn của tôi, như thể nụ hôn có thật và có thể cầm nắm được.
“Katniss! Katniss!” Tôi có thể nghe thấy tên mình được gọi lên ở khắp mọi phía. Tất cả đều muốn nhận lấy nụ hôn của tôi.
Mãi đến khi vào đến Vòng tròn Trung tâm tôi mới nhận ra là suốt cuộc diễu hành, tôi đã tay trong tay với Peeta. Tôi nắm tay cậu mới chặt làm sao. Tôi nhìn xuống nơi những ngón tay của bọn tôi đan vào nhau và nới lỏng ra, nhưng cậu vẫn nắm chặt. “Không, đừng rời khỏi tớ,” cậu nói. Một ánh lửa lập lòe trong đôi mắt xanh của cậu. “Làm ơn. Tớ không đứng vững đâu.”
“OK,” tôi nói. Tôi vẫn nắm tay cậu nhưng không thể không có cảm giác lạ lùng về cái cách mà Cinna đã kết hợp hai đứa tôi. Việc giới thiệu chúng tôi như một đội và buộc chúng tôi phải tàn sát nhau trong trường đấu không thật công bằng.
Mười hai cỗ xe dạo một vòng quanh Vòng tròn Trung tâm. Đứng chật kín bên cửa sổ của những tòa nhà xung quanh Vòng xoay là những người có thanh thế nhất của Capitol. Đoàn ngựa kéo cỗ xe chúng tôi đến trước dinh thự của tổng thống Snow rồi dừng lại. Tiếng nhạc kết thúc bằng một hồi kèn.
Từ ban công phía trên chúng tôi, ngài tổng thống, một người đàn ông nhỏ con, mảnh khảnh với mái đầu trắng xóa, gửi đến mọi người lời chào mừng chính thức. Theo thông lệ thì trong suốt bài diễn văn, đám máy quay sẽ quay mặt các vật tế. Nhưng theo tôi thấy trên màn hình thì chúng tôi được quay nhiều hơn cả. Trời càng tối, người ta càng khó rời sự chú ý khỏi ánh sáng rực rỡ của bọn tôi. Khi quốc ca được cử lên, họ cố gắng quay một lượt cùng từng cặp đấu thủ, nhưng camera vẫn dán vào cỗ xe của Quận 12 trong lúc chúng tôi diễu hành qua vòng xoay lần cuối và mất hút vào Trung tâm Huấn luyện.
Khi những cánh cửa đóng lại sau lưng cũng là lúc chúng tôi bị nhấn chìm trong những đội chuẩn bị, lũ người đang xì xồ những lời tán dương thiếu suy nghĩ. Liếc quanh, tôi nhận thấy nhiều vật tế khác đang bắn những ánh mắt ganh tị về phía chúng tôi, điều càng làm cho phán đoán của tôi chính xác hơn, thực sự là chúng tôi đã làm lu mờ tất cả bọn họ. Rồi Cinna và Portia tiến tới, giúp chúng tôi xuống xe, cẩn thận tháo chiếc áo choàng và mũ đội đầu đang bốc lửa khỏi người chúng tôi. Portia dập lửa bằng một chiếc bình phun ra thứ gì đó như sương mù.
Tôi nhận ra mình vẫn nắm tay Peeta và cố mở những ngón tay tê cứng của mình. Bọn tôi tranh thủ xoa bóp tay.
“Cám ơn đã nắm tay tớ. Lúc nãy tớ hơi run,” Peeta nói.
“Người ta không thấy đâu,” tôi nói với cậu. “Tớ dám chắc là không ai để ý.”
“Tớ chắc là không ai để ý đến điều gì khác ngoài cậu. Cậu nên mặc bộ đồ lửa này nhiều hơn,” cậu nói. “Chúng hợp với cậu đấy.” Rồi Peeta nở một nụ cười rất tươi pha chút ngượng ngùng, làm tôi bất giác cảm thấy như có một luồng hơi ấm đang chạy qua người.
Trong đầu tôi reo lên tiếng chuông cảnh báo. Đừng quá ngớ ngẩn như thế. Peeta đang tính toán làm thế nào để giết mình đây, tôi nhắc nhở mình. Cậu ta đang thả thính để biến mình thành một con mồi ngon. Càng đáng mến bao nhiêu, cậu ta càng gian xảo bấy nhiêu.
Nhưng vì trò đấu trí không của riêng ai, tôi kiễng chân và hôn vào má Peeta. Ngay vết bầm của cậu.
6
Trung tâm Huấn luyện có một tòa tháp được thiết kế dành riêng cho những vật tế và đội của họ. Đây sẽ là ngôi nhà của chúng tôi cho đến khi Đấu trường thực sự bắt đầu. Mỗi quận một tầng. Bạn chỉ cần bước vào thang máy và nhấn số quận của mình. Rất dễ nhớ.
Tôi đã từng đi thang máy vài lần ở Tòa Tư pháp khi còn ở Quận 12. Một lần đến để nhận huân chương vinh danh cho sự hy sinh của cha tôi và lần cuối là vào hôm qua khi nói lời tạm biệt với bạn bè và gia đình. Nhưng đó là một chiếc thang máy tối tăm và kêu cọt kẹt, di chuyển chậm như sên và có mùi sữa lên men. Còn thang máy này được làm bằng pha lê và bạn có thể thấy những người ở dưới tầng trệt thu nhỏ thành bầy kiến trong khi đang lao vút lên không trung. Cảm giác đó thật háo hức, đến nỗi tôi định hỏi Effie Trinket liệu chúng tôi có thể đi lại lần nữa không, nhưng như thế có vẻ hơi trẻ con.
Rõ ràng trách nhiệm của Effie Trinket vẫn chưa hết khi đoàn tàu vào ga. Bà và Haymitch sẽ còn phải giám sát chúng tôi ngay trong trường đấu. Dù sao như vậy cũng có lợi, bởi ít nhất vẫn có người dẫn chúng tôi đến nơi cần đến đúng giờ, trong khi chúng tôi chưa hề thấy Haymitch kể từ khi ông nhận lời giúp chúng tôi trên xe lửa. Có lẽ ông ấy đang vất vưởng đâu đây. Trái lại, Effie Trinket có vẻ như đang trên mây. Chúng tôi là đội đầu tiên do bà kèm cặp có một màn ra mắt hoành tráng như thế ở lễ khai mạc. Bà khen ngợi không chỉ trang phục mà cả cách chúng tôi thể hiện. Theo lời Effie thì bà biết hết những người ở Capitol đang bàn tán về chúng tôi suốt cả ngày, và họ đang tranh nhau làm nhà tài trợ cho chúng tôi.
“Mặc dù vậy ta vẫn thấy rất mù mờ,” bà nói, hai mắt nheo lại. “Bởi Haymitch tất nhiên không thèm nói với ta về chiến thuật của các cháu. Nhưng ta đã làm cho hai cháu bằng hết sức có thể, Katniss đã hy sinh thay em mình ra sao. Hai cháu đã vượt qua sự mọi rợ của quận mình ra sao.”
Mọi rợ ư? Lời mỉa mai ấy được thốt ra từ miệng người đàn bà đang cố sức chuẩn bị cho chúng tôi, để chúng tôi bước vào lò sát sinh. Và bà nói chúng tôi vượt qua là vượt qua cái gì? Qua cái cách chúng tôi thể hiện trên bàn ăn sao?
“Lẽ tự nhiên, ai cũng có một nơi thuộc về. Các cháu đến từ quận than đá. Nhưng cũng như một câu rất thông minh mà ta đã từng nói đấy, ta nói rằng ‘Đấy, cứ kiên trì và bền bỉ thì than đá cũng hóa ngọc trai!’ ” bà cười hớn hở khiến chúng tôi chỉ còn cách tỏ ra vui lây với sự thông minh của bà ấy, mặc dù điều đó sai lè.
Than đá không thể hóa ngọc trai. Chúng hình thành từ vỏ của các sinh vật. Có lẽ ý bà là than đá hóa thành kim cương, nhưng điều ấy cũng không đúng nốt. Tôi từng nghe nói ở Quận 1 người ta có loại máy có thể biến than chì thành kim cương. Nhưng chúng tôi không đào ra than chì ở Quận 12. Đó là phần việc của Quận 13 trước khi họ bị xóa sổ.
Tôi tự hỏi những người được bà tâng bốc về chúng tôi có biết hay quan tâm đến điều ấy hay không.
“Không may, việc của ta không phải là tìm những hợp đồng tài trợ cho các cháu. Chỉ Haymitch là có thể làm việc đó,” Effie nói tỉnh bơ. “Nhưng đừng lo, ta sẽ chĩa súng vào ông ta nếu cần.”
Mặc dù tính tình nham nhở, Effie Trinket vẫn khiến tôi khâm phục ở sự cương quyết.
Gian phòng tôi ở còn lớn hơn chính nhà mình ở Quận 12. Chúng lộng lẫy như khoang xe lửa, nhưng lại còn có rất nhiều điều khiển tự
động mà tôi không chắc mình có đủ thời gian để mò mẫm toàn bộ nút bấm hay không. Chỉ riêng vòi hoa sen đã có một bảng điều khiển với hơn một trăm lựa chọn, chỉ điều chỉnh nhiệt độ nước, áp suất, xà bông, dầu gội đầu, nước hoa, dầu tắm và miếng xốp mát xa. Chỉ cần bước ra thảm, hơi nóng sẽ thổi khô cơ thể. Thay vì hì hục rẽ những mớ tóc rối, tôi chỉ cần đơn giản cầm lấy một chiếc hộp để nó thổi hơi vào da đầu, rẽ mái và sấy tóc khô gần như ngay lập tức. Mái tóc xõa xuống vai tôi như một bức màn óng ả.
Tôi lập trình tủ quần áo để chọn ra bộ đồ phù hợp với mình. Ô cửa sổ có thể phóng to và thu nhỏ từng khu vực trong thành phố theo mệnh lệnh của tôi. Bạn chỉ cần nói tên món ăn từ thực đơn với hằng hà sa số món vào chiếc míc ở miệng là chưa đầy một phút sau chúng sẽ xuất hiện nóng hổi ngay trước mặt bạn. Tôi vừa đi quanh phòng vừa ăn gan ngỗng và bánh mì ổ cho đến khi có tiếng gõ cửa. Effie gọi tôi đi ăn tối.
Tốt thôi. Tôi đang đói chết đi được.
Khi chúng tôi vào phòng ăn thì Peeta, Cinna và Portia đang đứng trên ban công nhìn xuống Capitol. Tôi vui mừng khi thấy hai nhà tạo mẫu ở đây, đặc biệt sau khi nghe rằng Haymitch sẽ ăn tối cùng. Bữa ăn mà chỉ có Effie và Haymitch làm chủ trì có khi sẽ là một đại họa. Hơn nữa, buổi tối không chỉ dành để ăn uống, mà còn để bàn về chiến thuật của bọn tôi. Cinna và Portia đã chứng minh cho mọi người thấy giá trị của họ.
Một chàng trai mặc bộ tunic trắng lẳng lặng rót rượu cho chúng tôi vào những chiếc ly có chân đế. Tôi định từ chối, nhưng lại nghĩ mình chưa uống rượu bao giờ, trừ thứ rượu ở nhà mẹ tôi vẫn dùng để trị ho, và liệu đến khi nào tôi mới có dịp uống thử lần nữa? Tôi hớp một ngụm thứ chất lỏng cay nồng, khô thé vào cổ họng và nghĩ bụng giá như có thêm vài thìa mật ong có lẽ sẽ ngon hơn.
Khi bữa tối được bày ra thì Haymitch mới xuất hiện. Ông trông sạch sẽ, chỉn chu như thể có nhà tạo mẫu riêng và không hề say
rượu như tôi vẫn thấy. Haymitch không từ chối lời mời rượu, nhưng khi ông bắt đầu bằng món xúp, tôi mới nhận ra đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ăn. Biết đâu ông sẽ thực sự tỉnh táo lâu đủ để giúp chúng tôi.
Cinna và Portia dường như đang tạo một hiệu ứng mang tính khai hóa lên Haymitch và Effie. Ít ra là họ cũng tỏ ra thái độ đúng mực với nhau. Và cả hai đều luôn miệng ca ngợi những nhà tạo mẫu về màn khai mạc. Trong lúc họ tán gẫu, tôi chú tâm vào bữa ăn. Xúp nấm, rau đắng với cà chua xắt nhỏ bằng hạt đậu, thịt bò thui tái được cắt lát mỏng như tờ giấy, mì sợi với nước sốt màu xanh, bơ tan chảy cùng với nho xanh lơ ngọt lịm. Những người phục vụ đều trẻ măng, mặc áo tunic trắng như anh chàng rót rượu lúc nãy, cứ lặng lẽ đến rồi đi, làm đầy những đĩa thức ăn và rót đầy những ly rượu.
Uống được khoảng nửa ly, tôi bắt đầu lâng lâng nên chuyển sang uống nước. Tôi không thích cái cảm giác này và hy vọng nó sẽ qua nhanh. Việc Haymitch có thể đi lại trong trạng thái lúc nào cũng như thế này quả là thần kỳ.
Tôi cố để tâm vào cuộc nói chuyện, hiện đang bàn về trang phục của chúng tôi trong buổi phỏng vấn sắp tới, thì một cô gái đặt một chiếc bánh ngon tuyệt lên bàn và khéo léo châm lửa. Chiếc bánh bốc cháy và rồi ngọn lửa liếm xung quanh chiếc bánh một lúc cho đến khi tắt hẳn. Tôi không tin vào mắt mình. “Cái gì khiến nó cháy? Rượu cồn chăng?” Tôi nhìn vào cô gái và nói. “Tớ chỉ nghĩ là… Ô! Tớ biết cậu!”
Tôi không nhớ ra đã gặp cô ta ở đâu và khi nào. Nhưng tôi chắc chắn là đã gặp. Mái tóc đỏ sẫm, gương mặt có nét và làn da trắng như men. Nhưng ngay khi thốt ra những lời đó, tôi thấy lòng mình quặn lại bởi cảm giác âu lo và tội lỗi khi đối diện với cô, và trong khi không thể giải thích được điều này, tôi chỉ biết cô gắn với những ký ức không vui trong tôi. Gương mặt cô bỗng tỏ ra sợ hãi càng khiến tôi thêm bối rối và không yên. Cô ta lắc đầu nguầy nguậy và vội vã rời khỏi bàn.
Khi tôi nhìn về sau, bốn người lớn đang nhìn tôi săm soi.
“Đừng lố bịch như thế chứ, Katniss. Làm sao cháu có thể quen một Avox?” Effie nhanh nhảu. “Bác hỏi thật đấy.”
“Một Avox là sao ạ?” Tôi ngờ nghệch hỏi.
“Là ai đó đã từng phạm tội. Bị cắt lưỡi nên cô ấy không thể nói được,” Haymitch nói. “Cô ta đại loại là một kẻ phản bội. Không lý nào cháu lại biết cô ta.”
“Và ngay cả nếu cháu biết, cháu cũng không thể nói chuyện với họ, trừ khi cháu ra lệnh cho họ.” Effie nói. “Mà dĩ nhiên là cháu không biết cô ấy đâu.”
Nhưng tôi có biết. Giờ đây khi Haymitch nhắc đến từ phản bội, tôi mới nhớ ra. Nhưng họ phản ứng dữ quá khiến tôi không thể thú nhận. “Không đâu, cháu đoán là không, cháu chỉ…” tôi nói lắp bắp, và rượu không giúp được gì.
Peeta bật ngón tay. “Delly Cartwright. Chính là cô ta. Tớ cũng đang nghĩ trông cô ta quen quá. Và rồi tớ nhận ra cô nàng đích thị là Delly.”
Delly Cartwright là cô gái có khuôn mặt nhợt nhạt và mái tóc vàng hoe, và như thế thì khác người phục vụ của chúng tôi một trời một vực. Cô ấy còn là người thân thiện nhất quả đất - cô cười luôn miệng với mọi người trong trường, kể cả tôi. Còn cô tóc đỏ kia thì tôi chưa bao giờ thấy cười. Nhưng tôi hiểu ý và bắt lấy lời Peeta đầy biết ơn. “Chính xác, đó chính là người tớ nghĩ đến. Đúng là mái tóc đó,” tôi nói.
“Và đôi mắt cũng hơi giông giống nữa,” Peeta nói.
Không khí trên bàn ăn lắng xuống. “Ừ, đúng rồi. Đúng là như thế,” Cinna nói. “Đúng là trong chiếc bánh có rượu, nhưng toàn bộ lượng cồn đã cháy hết rồi. Tôi chọn món này nhằm ca ngợi màn ra mắt bốc lửa của em.”
Chúng tôi ăn bánh và vào phòng khách để xem buổi chiếu lại lễ khai mạc. Một vài cặp khác cũng có bề ngoài ấn tượng, nhưng không ai có thể cháy như ngọn đuốc giống chúng tôi. Ngay cả những người trong nhóm chúng tôi cũng thốt lên. “Oa!” khi đến cảnh chúng tôi bước ra khỏi Trung tâm Làm đẹp.
“Ai nghĩ ra việc nắm tay nhau vậy?” Haymitch hỏi.
“Cinna,” Portia nói.
“Một sự gợi ý hoàn hảo về cuộc nổi dậy,” Haymitch nói. “Rất đẹp mắt.”
Cuộc nổi dậy? Tôi buộc phải nghĩ về điều này trong thoáng chốc. Nhưng khi tôi nhớ lại những cặp khác, đứng rời nhau một cách gượng ép, không hề nắm tay chào hỏi người bên cạnh, như thể người cùng chơi với họ như thể chưa hề tồn tại, như thể Cuộc đấu đã bắt đầu, tôi hiểu ra ý của Haymitch. Việc xuất hiện như hai đồng đội chứ không phải hai kẻ địch cũng tạo sự khác biệt cho chúng tôi như bộ trang phục bốc lửa vậy.
“Sáng mai là buổi luyện tập đầu tiên. Gặp ta vào bữa sáng, ta sẽ nói chính xác là muốn các cháu phải thể hiện thế nào,” Haymitch nói với Peeta và tôi. “Giờ thì đi ngủ đi để người lớn nói chuyện.”
Peeta đi cùng tôi dọc hành lang về phòng. Khi đến cửa phòng tôi, cậu dựa vào khung cửa, không phải là chặn lối vào của tôi và bắt tôi phải chú ý mình. “Giờ là về Delly Cartwright. Chẳng có Delly nào ở đây cả.”
Peeta đang muốn một lời giải thích, còn tôi cũng định giải thích cho cậu. Cả hai đều biết là cậu đã giải nguy cho tôi. Tôi lại nợ cậu một lần nữa. Nếu kể cho Peeta sự thật về cô gái, có thể tôi sẽ bớt được chút áy náy. Việc này có gây ảnh hưởng gì không? Dù cậu có kể lại với người khác, tôi cũng chẳng làm sao cả. Đó chỉ là cảnh mà tôi đã chứng kiến. Mà chính cậu cũng bịa chuyện về Delly Cartwright đó thôi.
Tôi chợt muốn kể cho ai đó chuyện cô gái. Ai đó có thể giúp tôi giải đáp khúc mắc trong câu chuyện. Gale sẽ là lựa chọn đầu tiên, nhưng có lẽ tôi sẽ không gặp lại Gale nữa. Tôi đang cố tìm xem liệu việc kể cho Peeta có giúp cậu có lợi thế gì hơn tôi hay không, nhưng không thấy. Có thể việc chia sẻ một điều thầm kín sẽ khiến Peeta tin rằng tôi xem cậu như một người bạn.
Hơn nữa, cái ý nghĩ về cô gái bị cắt lưỡi khiến tôi sợ hãi. Cô làm tôi nhớ lại tại sao tôi lại ở đây. Không phải để làm dáng với những trang phục sặc sỡ hay để hưởng thụ cao lương mỹ vị, mà để nhận cái chết thảm trong khi đám đông cổ vũ cho kẻ sát nhân.
Kể hay là không? Đầu óc tôi vẫn còn ì ra sau ly rượu. Tôi nhìn chằm chặp vào hành lang không người như thể ở đó có câu trả lời.
Peeta nhận ra sự do dự của tôi. “Cậu đã bao giờ leo lên mái chưa?” Tôi lắc đầu. “Cinna đã chỉ cho tớ. Cậu có thể nhìn thấy toàn thành phố. Mặc dù gió hơi to.”
Tôi hiểu ý cậu ta là “Sẽ không ai nghe lỏm được chúng ta ở đó”. Tại đây bạn luôn có cảm giác mình đang bị theo dõi. “Chúng ta leo lên chứ?”
“Tất nhiên, đi thôi,” Peeta nói. Tôi đi theo cậu ta đến một cầu thang dẫn lên mái. Một căn phòng nhỏ hình vòm với cánh cửa mở ra bên ngoài. Khi chúng tôi bước ra, không khí buổi tối lạnh và đầy gió, tôi thấy cả hơi thở mình phía trước. Capitol lấp lánh như một cánh đồng khổng lồ đầy đom đóm. Ở Quận 12, điện có rồi tại tắt; chúng
tôi chỉ có điện vài giờ mỗi ngày. Buổi tối thường chỉ có ánh nến. Chúng tôi chỉ chắc chắn có điện khi người ta truyền hình Đấu trường hay phát những thông điệp quan trọng của nhà nước mà ai cũng buộc phải xem. Còn ở đây thì không có chuyện mất điện. Không bao giờ.
Peeta và tôi bước đến một hàng rào ở mép mái. Tôi nhìn thẳng xuống bên hông tòa nhà, xuống con đường bên dưới huyên náo tiếng người. Tôi nghe thấy tiếng xe hơi, một tiếng la đâu đó, và tiếng kim khí leng keng lạ lẫm. Ở Quận 12, vào giờ này chúng tôi chỉ nghĩ đến việc đi ngủ.
“Tớ đã hỏi Cinna tại sao họ lại để chúng ta lên đây. Chẳng lẽ họ không sợ một số người chơi sẽ nhảy sang phía bên kia?” Peeta nói.
“Anh ấy nói sao?” tôi hỏi.
“Cậu không thể làm thế,” Peeta nói. Cậu vươn tay về một khoảng có vẻ trống không phía trước. Một tiếng xoẹt vang lên và tay cậu giật lại. “Như có điện trường đẩy cậu lại mái nhà.”
“Họ luôn quan tâm đến sự an toàn của chúng ta,” tôi nói. Dù Cinna đã chỉ cho Peeta về cái mái này, tôi tự hỏi liệu chúng tôi có được phép lên đây, một mình giữa đêm khuya thế này không. Tôi chưa từng thấy đấu thủ nào leo lên mái Trung tâm Huấn luyện. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không bị ghi hình. “Cậu có nghĩ là họ đang theo dõi chúng ta không?”
“Có thể,” cậu thừa nhận. “Đi lối này để xem khu vườn.”
Phía bên kia mái vòm, người ta xây một khu vườn với những thảm hoa và chậu cây. Hàng trăm chiếc chuông gió được treo trên cành, tạo ra tiếng leng keng tôi đã nghe thấy. Khu vườn này, giữa màn đêm đầy gió, đủ làm loãng cuộc trò chuyện của hai chúng tôi. Peeta nhìn tôi chờ đợi.
Tôi giả vờ đang ngửi một bông hoa. “Ngày trước chúng tớ thường đi săn trong rừng. Náu mình, đợi con mồi đến,” tôi thì thầm.
“Cậu và bố cậu?” cậu thì thầm lại.
“Không, với Gale bạn tớ. Bất chợt tất cả chim đều ngưng bặt cùng lúc. Trừ một con. Như thể nó đang cất tiếng gọi cảnh báo. Và rồi bọn tớ thấy cô ta. Tớ chắc chắn là cô gái ấy. Một chàng trai chạy cùng với cô. Quần áo họ rách rưới. Mắt họ thâm quầng do mất ngủ. Họ chạy như thể tử thần đang đuổi ở sau lưng,” tôi nói.
Tôi im lặng một lúc, nhớ lại bóng dáng của hai người lạ đó, rõ ràng không phải từ Quận 12, đang chạy trốn qua khu rừng khiến chúng tôi như đông thành đá như thế nào. Sau đó thì chúng tôi tự hỏi liệu có giúp gì cho họ không. Có thể bọn tôi sẽ làm được. Giấu họ đi. Nhưng phải di chuyển thật nhanh. Chúng tôi gặp tình huống quá bất ngờ, đúng là thế, nhưng cả hai đều là thợ săn. Chúng tôi biết những con mồi trông như thế nào khi bước vào đường cùng. Ngay khi thấy họ, chúng tôi đã biết hai người này đang gặp nguy hiểm. Nhưng cả hai chỉ nhìn họ.
“Chiếc tàu bay không biết từ đâu xuất hiện,” tôi kể tiếp cho Peeta. “Ý tớ là, bầu trời đột nhiên trống hoác và nó xuất hiện. Nó không gây tiếng động, nhưng họ thấy nó. Một chiếc lưới buông xuống cô gái và kéo cô ta lên; nhanh, nhanh lắm, như thang máy ấy. Họ bắn một thứ như ngọn giáo vào người cậu ta. Nó gắn với một sợi cáp và lôi cả cậu ta lên. Nhưng tớ chắc là cậu ta đã chết. Bọn tớ nghe cô ta hét lên một tiếng. Tớ nghĩ là tên cậu ta. Rồi nó đi mất, chiếc tàu bay ấy. Mất hút vào khoảng không. Những con chim lại hót trở lại như chưa có gì xảy ra.”
“Họ có thấy cậu không?” Peeta hỏi.
“Tớ chẳng biết. Bọn tớ nấp dưới một phiến đá,” tôi trả lời. Nhưng tôi biết là có. Vào một khoảnh khắc, sau tiếng chim loan báo và trước khi chiếc tàu bay tới, cô ta có thấy chúng tôi. Cô đưa mắt về