🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Dầu Mỏ, Tiền Bạc Và Quyền Lực
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Reviews
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
LỜI GIỚI THIỆU
LỜI TỰA
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: SỰ KHỞI ĐẦU: NỖI ÁM ẢNH VỀ DẦU
CHƯƠNG 2: “KẾ HOẠCH CỦA CHÚNG TA”: JOHN D. ROCKEFELLER VÀ SỰ CẤU KẾT TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU LỬA MỸ
CHƯƠNG 3: THƯƠNG MẠI CẠNH TRANH
CHƯƠNG 4: THẾ KỶ MỚI
CHƯƠNG 5: SÁT THỦ GIẾT RỒNG
CHƯƠNG 6: NHỮNG CUỘC CHIẾN DẦU MỎ: SỰ TRỖI DẬY CỦA ROYAL DUTCH VÀ SỰ SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ NGA
CHƯƠNG 7: “NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ” Ở BA TƯ
CHƯƠNG 8: CÚ NHẢY ĐỊNH MỆNH
PHẦN II: CUỘC VẬT LỘN TOÀN CẦU - CHƯƠNG 9: HUYẾT MẠCH CỦA CHIẾN THẮNG: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ I
CHƯƠNG 10: MỞ CÁNH CỬA TRUNG ĐÔNG: CÔNG TY DẦU MỎ THỔ NHĨ KỲ
CHƯƠNG 11: TỪ THIẾU HỤT ĐẾN DƯ THỪA: THỜI ĐẠI XĂNG DẦU
CHƯƠNG 12: “ĐẤU TRANH CHO PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT MỚI”
CHƯƠNG 13: CƠN LŨ
CHƯƠNG 14: “NHỮNG NGƯỜI BẠN” – VÀ KẺ THÙ
CHƯƠNG 15: NHỮNG VỤ CHUYỂN NHƯỢNG CỦA ARẬP: THẾ
GIỚI MÀ FRANK HOLMES TẠO RA
PHẦN III - CHIẾN TRANH VÀ CHIẾN LƯỢC - CHƯƠNG 16: CON ĐƯỜNG THAM CHIẾN CỦA NHẬT BẢN
CHƯƠNG 17: CÔNG THỨC CHIẾN TRANH CỦA NGƯỜI ĐỨC CHƯƠNG 18: GÓT CHÂN ASIN CỦA NHẬT BẢN
CHƯƠNG 19: CUỘC CHIẾN CỦA QUÂN ĐỒNG MINH
PHẦN IV: KỶ NGUYÊN HYDROCARBON, DẦU MỎ, TIỀN BẠC VÀ QUYỀN LỰC - CHƯƠNG 20: TRỌNG TÂM MỚI
CHƯƠNG 21: TRẬT TỰ DẦU LỬA SAU CHIẾN TRANH CHƯƠNG 22: 50-50: THỎA THUẬN MỚI VỀ DẦU LỬA CHƯƠNG 23: “MOSSY GIÀ” VÀ CUỘC XUNG ĐỘT Ở IRAN CHƯƠNG 24: CUỘC KHỦNG HOẢNG SUEZ
CHƯƠNG 25: NHỮNG CON VOI
CHƯƠNG 26: OPEC VÀ GIẾNG DẦU SÔI SỤC
CHƯƠNG 27: CON NGƯỜI HYDROCARBON
PHẦN V: CUỘC CHIẾN GIÀNH QUYỀN BÁ CHỦ THẾ GIỚI - CHƯƠNG 28: NHỮNG NĂM THÁNG BẢN LỀ: CÁC QUỐC GIA CHỐNG LẠI CÁC CÔNG TY
CHƯƠNG 29: VŨ KHÍ DẦU LỬA
CHƯƠNG 30: “TRẢ GIÁ CHO CUỘC SỐNG”
CHƯƠNG 31: UY QUYỀN TUYỆT ĐỐI CỦA OPEC
CHƯƠNG 32: SỰ ĐIỀU CHỈNH
CHƯƠNG 33: CÚ SỐC THỨ HAI: ĐẠI KHỦNG HOẢNG CHƯƠNG 34: CHÚNG TÔI CÙNG ĐƯỜNG RỒI
CHƯƠNG 35: DẦU MỎ - MỘT LOẠI HÀNG HÓA ĐẠI TRÀ?
CHƯƠNG 36: TIẾP TỤC BƠM DẦU VÀO THỊ TRƯỜNG: GIÁ SẼ THẤP ĐẾN MỨC NÀO?
PHẦN KẾT
TẬP ĐOÀN DẦU KHÍ VIỆT NAM - PetroVietnam
TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ KỸ THUẬT DẦU KHÍ PTSC
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Dầu mỏ là một năng lượng quan trọng, không thể tái sinh. Từ khi được phát hiện đến nay, dầu mỏ đã đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, tiền bạc và quyền lực trên thế giới. Từ cuối thế kỷ XIX, hết thế kỷ XX cho đến hôm nay, dầu mỏ đều ít nhiều là tác nhân gây nên những cuộc tranh giành quyền lực, dẫn đến những cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới và cuối cùng là hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX.
Vào đầu những năm 1970, do dầu đột ngột tăng giá, kinh tế thế giới, nhất là ở những nước công nghiệp tiên tiến, đã rơi vào một cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng. Từ đó tới nay những biến động về giá dầu đã trở thành mối quan tâm hàng ngày, hàng giờ. Nhiều lúc người ta có cảm tưởng sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ và khí đốt, nguồn năng lượng mà loài người hiện chỉ còn 30 đến 35% dự trữ, tức là với tốc độ sử dụng hiện nay dầu mỏ chỉ còn được sử dụng trong khoảng 30 đến 40 năm nữa.
Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu nghiên cứu về dầu mỏ, một năng lượng có ý nghĩa thời sự nhất hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Công ty sách Alpha dịch và xuất bản cuốn: Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard. Cuốn sách gồm 36 chương, được chia thành 5 phần. Nội dung cuốn sách thuật lại chi tiết toàn cảnh lịch sử của ngành dầu mỏ, mô tả các cuộc đấu tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh ngành công nghiệp dầu mỏ, làm rung chuyển kinh tế thế giới, làm thay đổi vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc, gây ra nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu. Đây là cuốn sử thi thế giới thông qua nhân vật chính là dầu mỏ.
Cuốn sách giành giải thưởng Eccles. Mặc dù sách rất dày và đồ sộ, nhưng bạn đọc không hề thấy nhàm chán, mà ngược lại luôn bị cuốn hút vào cách đặt vấn đề và lối hành văn súc tích, có hàm lượng thông tin kiến thức cao của tác giả.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2008
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
LỜI GIỚI THIỆU
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều chịu tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn tài nguyên quý giá này.
Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7 năm 2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đô-la/thùng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo “một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn”.
Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang. Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn, mà con đường đó dường như còn xa...
Nằm trong sự ảnh hưởng chung đó, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nhận thấy tầm quan trọng của dầu mỏ trong đời sống kinh tế, chính trị quốc tế, PetroVietnam đã hợp tác với Alpha Books, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách mang tên Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX. Như cuốn sách cho thấy, đằng sau rất nhiều cuộc chiến tranh, xung đột, va chạm, liên kết, liên minh, có một nguyên nhân luôn thường trực, đó là dầu mỏ. Dầu mỏ không còn giới hạn là một thứ nhiên liệu lỏng đơn thuần mà đã trở thành một thứ vũ khí mang màu sắc chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cả tôn giáo, văn hóa…
Đây là một cuốn sách trên 1.200 trang khắc họa sâu sắc toàn cảnh lịch sử phát triển và vai trò của ngành dầu và các sản phẩm lọc hoá dầu. Tác giả của cuốn sách, Daniel Yergin là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng là đồng tác giả cuốn Energy Future (Năng lượng tương lai). Một cuốn sách được giải của ông là
Shattered Peace (Nền hòa bình bị phá bỏ) đã trở thành tác phẩm lịch sử kinh điển về những nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Cuốn The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy) của ông đã được xuất bản tại Việt Nam và được độc giả đánh giá cao.
Chúng tôi tin rằng, tác phẩm đầy giá trị này của Daniel Yergin – Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực sẽ giúp độc giả Việt Nam, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng hiểu biết sâu sắc hơn về các cuộc giao tranh quyền lực nóng bỏng, sự giàu có của các cường quốc, nguyên nhân cội rễ của các cuộc xung đột Trung Đông, vai trò của các quốc gia Vùng Vịnh trong nền kinh tế toàn cầu và những biến động chính trị trong khu vực ảnh hưởng đến toàn thế giới...
Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả.
TS. TRẦN NGỌC CẢNH
Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
LỜI TỰA
Bạn đang cầm trong tay một cuốn sách rất đặc biệt; có thể coi đây là cuốn biên niên sử hết sức lý thú của hành tinh chúng ta trong hơn một thế kỷ nay, xoay quanh một tài nguyên có tầm quan trọng sống còn đối với hầu hết các quốc gia muốn đặt chân lên con đường công nghiệp hóa và đi tới phồn vinh, đó là DẦU MỎ. Tác giả cuốn sách, DANIEL YERGIN, người đã được trao giải thưởng Pulitzer, là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng từng là giảng viên trường Đại học Harvard và trường John F. Kennedy Harvard. Một tác phẩm lớn khác của ông đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam là cuốn Những đỉnh cao chỉ huy, được độc giả đánh giá rất cao
Ngay từ đầu bạn đọc chắc chắn sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn của cuốn sách. Dù bạn là người đã từng hoặc đang làm việc trong lĩnh vực dầu khí đi nữa thì khi bắt đầu đọc cuốn sách này, bạn vẫn có thể cảm thấy hiểu biết của mình về tầm vóc và ảnh hưởng của các hoạt động dầu khí đối với xã hội loài người còn quá khiêm tốn; rằng hóa ra gần cả thế kỷ nay dầu mỏ và sau này là khí thiên nhiên (còn gọi là khí đốt) đã đóng một vai quan trọng đến mức khó hình dung nổi đối với sự phát triển của lịch sử thế giới; rằng số phận của không ít những quốc gia, dân tộc, tập đoàn kinh tế, nguyên thủ quốc gia và chính khách… lẽ ra đã khác đi nếu dầu mỏ không được dùng làm vũ khí trong các cuộc đối đầu giữa các quốc gia và các thế lực chính trị, xã hội đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại. Nhưng lịch sử đã sang trang và thế giới đang như bạn thấy chứ không phải như thế khác. Nhưng điều hết sức lý thú là tác giả cuốn sách sẽ đưa bạn trở về với những sự kiện lịch sử có thể bạn đã biết, tuy nhiên lại cung cấp cho bạn những thông tin, phân tích, đánh giá khá độc đáo và đầy sức thuyết phục để minh chứng cho vai trò quyết định của dầu mỏ đến chiều hướng phát triển của những sự kiện đó.
Trong phần mở đầu cuốn sách, tác giả viết: “Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX… Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX. Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết
định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ”. Có thể coi đó là sự mô tả khá chính xác vóc dáng và bản chất của ngành công nghiệp dầu khí.
Từ địa vị chưa mấy được chú ý vào đầu thế kỷ XX, dầu mỏ, với tư cách một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia, đã khẳng định tầm quan trọng của nó ngay trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy bay chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi của các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than. Đến giữa thế kỷ XX, rất ít người còn hoài nghi về vai trò quan trọng không thể thiếu của dầu mỏ trong cán cân năng lượng toàn cầu. Nửa cuối của thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí thống soái của dầu mỏ và khí thiên nhiên với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội, bỏ xa nhiên liệu hóa thạch truyền thống là than đá. Những năm đầu của thế kỷ XXI này đang đánh dấu sự vươn lên ngoạn mục của dầu mỏ và khí đốt khi các quốc gia giàu hai nguồn tài nguyên này dường như đang có khả năng khuynh đảo ít nhất là một phần của thế giới văn minh bằng cách đóng hay mở các giếng dầu hoặc các đường ống dẫn khí. Mấy năm nay, Iran vẫn bướng bỉnh với các nghị quyết của Liên hợp quốc và các cường quốc Âu - Mỹ về vấn đề hạt nhân chắc cũng dựa vào thế có trữ lượng dầu gần 20 tỷ tấn, chỉ đứng sau Arập Xêút. Venezuela, một trong những nước có trữ lượng dầu khổng lồ, cũng tỏ ra hết sức ngang ngạnh trong quan hệ với Mỹ. Quan hệ Nga - Ukraine, Nga - Belarus lúc ấm (thậm chí đã quyết định thành lập Liên bang với nhau), lúc lạnh cũng vì khí đốt. Rồi Trung Quốc, quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cùng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới (trong khi nguồn tài nguyên trong nước có hạn), đã có những hoạt động hết sức mạnh mẽ để đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với hầu hết các nước châu Phi có lẽ cũng nhằm vào nguồn tài nguyên dầu khí từ lục địa này.
Có thể nói, sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá. Ngay cả nguồn lương thực của chúng ta, dù là sản phẩm của ngành nông nghiệp, cũng phụ thuộc không ít vào các nguồn tài nguyên này với tư cách là nguyên liệu (ví dụ để sản xuất phân đạm từ dầu, khí và than đá) hoặc nhiên liệu cho máy móc. Theo thống kê của các tổ chức nghiên cứu năng lượng thế giới, trữ lượng dầu được xác minh của toàn thế giới (số liệu năm 2005) nằm trong khoảng từ 2.050 cho đến 2.390 tỷ thùng, tương đương từ 270 đến 323 tỷ tấn, và đến bây giờ chúng ta đã sử dụng khoảng 45 cho đến 70% trữ lượng đó. Các nước ở vùng Trung Đông chiếm khoảng một nửa trữ lượng dầu xác
minh của thế giới, trong đó riêng Saudi Arabia chiếm một phần tư. Nếu tính cả vùng Bắc Phi và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở các nước G7 khá khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá ít (trừ Canađa có trữ lượng dầu trong cát lớn, nhưng có lẽ còn lâu mới có thể khai thác hiệu quả được do giá thành khai thác cao). Cho nên, điều dễ hiểu là vùng Trung Đông, Trung Á, Bắc Phi và cả Mỹ Latinh, hiện có nhiều điểm nhạy cảm nhất, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị của thế giới. Không ai có thể dự đoán được nguy cơ mất ổn định ở những vùng này bao giờ mới có hồi kết chừng nào dầu mỏ vẫn còn là đối tượng, cũng là công cụ hết sức nhạy cảm và hữu hiệu trong các tranh chấp quốc tế dù dưới bất kỳ màu áo gì: sắc tộc, tôn giáo hay hệ tư tưởng, chế độ chính trị.
Nhưng liệu thế giới còn sử dụng dầu được bao nhiêu năm nữa? Liệu có phải thời gian để sử dụng lượng dầu dự trữ đã được xác minh có thể còn ngắn hơn 40 năm? Vậy các kịch bản có thể xảy ra với bức tranh dầu khí cũng như thế giới trong thế kỷ này sẽ như thế nào? Liệu nhân loại còn có khả năng tìm thấy dầu (và khí) nữa không? Giải pháp nào sẽ được tiến hành để bảo đảm nguồn năng lượng cho tương lai nếu dầu cạn kiệt? Đó là những câu hỏi luôn luôn làm đau đầu nhà lãnh đạo các quốc gia và gánh nặng đó lại được đặt lên vai các nhà khoa học, các nhà quản lý.
Câu hỏi đầu tiên cần trả lời là dưới lòng đất còn bao nhiêu dầu nữa? Theo đánh giá của các nhà khoa học thì trong tương lai còn có thể tìm thêm được khoảng từ 275 đến 1.469 tỷ thùng dầu nữa. Nếu lấy con số lạc quan nhất thì lượng dầu sẽ được phát hiện và xác minh sẽ bằng với trữ lượng xác minh mà chúng ta đang có trong tay. Nghĩa là kỷ nguyên dầu mỏ còn có thể kéo dài thêm 40 – 50 năm hoặc dài hơn, ngắn hơn, tùy mức sử dụng hàng năm tăng hay giảm. Tuy nhiên, triển vọng này lạc quan đến mức độ nào là điều không dễ dự báo. Song các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách trên thế giới vẫn tỏ ra tin tưởng, bởi hiện tại đang có một số khả năng chứng tỏ việc tăng trữ lượng dầu toàn cầu là điều có thể xảy ra.
Thứ nhất, đó là việc tăng hệ số thu hồi dầu ở các mỏ đang và sẽ đưa vào khai thác. Điều này đạt được là nhờ các công ty khai thác dầu đưa vào sử dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí cho việc thăm dò và khai thác dầu, làm giảm giá thành.
Thứ hai, trữ lượng dầu được công bố của các quốc gia chưa phải là trữ lượng thật sự người ta có.
Thứ ba, trữ lượng được xem xét hiện nay chưa bao gồm các dạng hóa thạch có chứa dầu như cát dầu (tar sands) và bitum (bitumen). Một tiềm năng
chưa được tính đến nữa là trữ lượng có thể có ở Nam Cực đang bị cấm thăm dò, khai thác vì mục đích bảo vệ môi trường. Nói chung, các nguồn dầu này, nếu khai thác được, sẽ cho sản lượng không nhỏ trong cán cân năng lượng hóa thạch.
Thứ tư, các vùng nước sâu, vùng gần Bắc Cực đang là thử thách cũng là cơ hội lớn đối với các công ty dầu khí thế giới. Trong những năm gần đây, nhiều mỏ dầu nước sâu ở vịnh Mexico, ở Angola và ở Đông Thái Bình Dương đã được phát hiện và đưa vào khai thác. Ở Việt Nam, bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm dầu khí ở những vùng gần bờ, các công việc chuẩn bị cho việc ra xa bờ, nhất là vùng thềm lục địa phía nam, đang được xúc tiến tích cực. Theo đánh giá của các cơ quan năng lượng quốc tế, Việt Nam đang ở trong giai đoạn tăng trưởng sản lượng dầu, trong khi Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan... đã đi qua giai đoạn đỉnh cao của sản lượng.
Triển vọng lạc quan của ngành dầu khí sẽ còn được nâng cao hơn nữa nhờ một hướng đi đang được mở ra để gia tăng nguồn nhiên liệu cho giao thông vận tải, công nghiệp và sinh hoạt. Đó là nguồn nhiên liệu sinh học, mà chủ yếu là cồn sinh học (gasohol) và diesel sinh học (biodiesel). Cồn sinh học, mà thực chất là etanol được sản xuất từ ngũ cốc, sắn, mía, củ cải, kể cả xác các loại thực vật..., đang được nhiều nước như Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines... sản xuất với quy mô không nhỏ để thay thế hoặc pha lẫn với xăng. Trong khi đó, biodiesel sản xuất từ các loại dầu thực vật, chủ yếu là dầu hạt cải (rape oil) và dầu hướng dương (sunflower oil) thì lại được nhiều nước châu Âu chú trọng. Năm 2005, EU đã sản xuất và tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn biodiesel. Và để đón đầu và tiếp cận sự “ra đi” của kỷ nguyên dầu khí có khả năng xảy ra vào nửa cuối thế kỷ này, các nhà khoa học trên thế giới còn có những kịch bản hấp dẫn và lãng mạn hơn nữa. Đó là năng lượng nhiệt hạch (năng lượng phát ra khi tổng hợp hạt nhân chứ không phải năng lượng phân rã hạt nhân như trong các nhà máy điện nguyên tử hiện nay), năng lượng mặt trời, các dạng năng lượng tái tạo khác và nhất là năng lượng hydro lấy từ nước thông qua phản ứng quang - xúc tác.
Có thể nói, dầu mỏ đã trở thành động lực phát triển của thế giới trên con đường tiến tới văn minh, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động xã hội để tàn phá nền văn minh đó. Nhưng đó là định mệnh chăng? Năng lượng nguyên tử, thậm chí lúc mới được phát hiện, chưa mang lại lợi ích gì cho nhân loại thì đã gây tai họa, nhưng rồi nó cũng phải thuần phục để phục vụ lợi ích con người. Và chúng ta hy vọng khi phải chia tay với kỷ nguyên dầu khí, thì loài người đã có trong tay những nguồn năng lượng thay thế dồi dào và sạch hơn.
Đúng như lời của tác giả cuốn sách này, dầu mỏ (và khí thiên nhiên) đã tạo nên “những thay đổi vĩ đại” trong hơn một thế kỷ nay của lịch sử nhân loại. Qua những trang sách, độc giả sẽ nhận rõ, một mặt, những “cống hiến” to lớn của dầu mỏ đối với sự phát triển thần kỳ của thế giới, mặt khác, những “tội lỗi” tày trời trong việc tiếp tay cho những kẻ tham tiền bạc và những thế lực tham quyền lực gây ra chết chóc, bất công xã hội và những cuộc tàn phá kìm hãm nền văn minh nhân loại. Đó là chưa kể “tội” của dầu mỏ đang cùng với các nhiên liệu hóa thạch khác gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường và sự nóng lên của toàn cầu. Và, khi gấp cuốn sách lại, chắc chắn độc giả sẽ đồng ý với tác giả Daniel Yergin rằng, biên niên sử mà tác giả đã trình bày hết sức sắc sảo và hấp dẫn trong cuốn sách này thật sự là “thiên sử thi về cuộc kiếm tìm dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai.
GS. TSKH. HỒ SĨ THOẢNG
Nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam – Petro Việt Nam
Thật đáng kinh ngạc… một nghiên cứu đầy thuyết phục về cách thức dầu mỏ thống trị và tạo ra các sự kiện thế giới trong thế kỷ XX.
— Jeremy Campbell, London Evening Standard
Cuốn sử thi hay chưa từng thấy về dầu mỏ… những miêu tả của Yergin [về Chiến tranh thế giới thứ hai] hết sức thuyết phục, và thật sự lôi cuốn… Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực đã giúp chúng ta hiểu rõ về thế kỷ XX – Thời đại của dầu mỏ.
— Business Week
Không thể bỏ qua... một tác phẩm khác thường… hấp dẫn và dễ tiếp nhận… Tác phẩm này buộc các chính khách và quan chức hàng đầu cũng như bất cứ ai quan tâm đến lịch sử đích thực của thế kỷ này phải tìm đọc.
— Peter Walker, cựu Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Mỹ
Đây là một cuốn sách viết về lòng tham, tham vọng và khát khao quyền lực. Cuốn sách viết về những người đã kiến tạo nên diện mạo ngành dầu mỏ – cựu Bộ trưởng dầu lửa Arập Xêút Yamani và Tổng thống George Bush đến Armand và Saddam Hussein… Yergin là một người kể chuyện tuyệt vời.
— Stephen Butler, Financial Times
Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực là cuốn sử thi về con đường để một “hàng hóa đơn thuần” đã hình thành nên hệ thống chính trị của thế kỷ XX và làm thay đổi sâu sắc lối sống của chúng ta…
— Houston Chronicle
Hấp dẫn và toàn diện… câu chuyện diễn ra như một bức tranh không ngừng biến đổi của thời đại chúng ta.
— The New Yorker
Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực vừa là một cuốn lịch sử kinh tế xã hội vừa là một cuốn truyện giải trí tuyệt vời. Yergin thật sự tài năng trong việc làm sống lại những nhân vật của ông… Dầu mỏ, với tư cách là một lực lượng lịch sử, đã trở nên quan trọng hơn cả các quốc gia hay các cá nhân.
— Far Eastern Economic Review
Không thể hiểu toàn diện về thế kỷ XX, “thời đại dầu mỏ”, nếu không đọc Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực của Daniel Yergin… Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực rất đặc biệt… đó là câu chuyện về sự tham gia của những người
sáng lập, các nhà công nghiệp, và các chính trị gia; cuốn sách đầy ắp những chi tiết lịch sử, phong phú và hấp dẫn…
— Jeff Sandefer, The National Review
Không thể không đọc… Cuốn sách mới của Daniel Yergin phải được tất cả mọi người, từ thủ tướng đến những người dân thường, tìm đọc.
— London Daily Mail
Một câu chuyện sử thi vĩ đại… Kỷ nguyên của dầu mỏ sẽ tiếp diễn trong thế kỷ XXI.
— Nihon Keizai Shimbun, The Japan Economic Journal
MỞ ĐẦU
Winston Churchill đột nhiên thay đổi quan điểm của mình. Trước mùa hè năm 1911, ngài Bộ trưởng Nội vụ trẻ trung Churchill vẫn còn là một trong những người đứng đầu phe “các nhà kinh tế học”, bao gồm những thành viên của Nội các Anh phản đối việc tăng chi phí quân sự nhằm đưa nước Anh vượt lên trong cuộc chạy đua hải quân giữa Anh và Đức. Cuộc chạy đua này là tác nhân gây nhiều hiềm khích nhất, khiến thái độ thù địch giữa hai quốc gia ngày càng trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, Churchill lúc đó lại khẳng định chắc chắn rằng khả năng xảy ra chiến tranh với Đức không phải là không tránh khỏi, và nước Đức không phải lúc nào cũng hiếu chiến. Ông nhấn mạnh nên đầu tư ngân sách vào các chương trình xã hội trong nước hơn là vào việc trang bị thêm tàu chiến mới.
Nhưng ngày 1 tháng 7 năm 1911, Hoàng đế Đức Wilhelm II bất ngờ hạ lệnh cho Báo đen, một tàu hải quân chạy bằng hơi nước của Đức, tiến vào vùng cảng Agadir nằm trên bờ Đại Tây Dương của Marốc. Mục đích của Wilhelm II là kiểm tra sức ảnh hưởng của Pháp ở châu Phi và tìm một căn cứ đóng quân cho Đức. Mặc dù Báo đen chỉ là một chiếc tàu được trang bị súng, và Agadir là một thành phố cảng không mấy quan trọng, song sự xuất hiện của con tàu này tại đây đã gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng. Việc Đức từng bước củng cố quân đội của mình vốn đã làm nảy sinh nhiều mối quan ngại cho các nước láng giềng châu Âu; nhưng tới lúc này, với khát khao đi tìm “chỗ đứng dưới bầu trời” cho mình, dường như Đức đang trực tiếp thách thức vị trí của Pháp và Anh trên trường quốc tế. Nguy cơ chiến tranh đã bóp nghẹt bầu không khí châu Âu trong nhiều tuần. Tuy nhiên, đến cuối tháng 7, tình hình căng thẳng đã dịu bớt – theo lời của Churchill thì “kẻ bắt nạt đang xuống thang”. Nhưng sự kiện trên đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của Churchill. Khác hẳn với đánh giá trước kia, giờ đây Churchill tin chắc rằng Đức đang tìm cách nắm bá quyền và sẽ sử dụng sức mạnh quân sự để giành được điều đó. Ông đi đến kết luận chiến tranh là bất khả kháng – vấn đề chỉ còn là thời gian. Churchill được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân ngay sau sự kiện Agadir. Ông tuyên bố sẽ làm tất cả để chuẩn bị về mặt quân sự cho nước Anh nhằm đối phó với ngày định mệnh đang đến, ngày mà chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra. Trách nhiệm của ông là phải bảo đảm cho Hải quân Hoàng gia Anh, biểu tượng đồng thời là đại diện cho sức mạnh đế quốc của Anh, sẵn sàng đối mặt với người Đức trên các vùng biển quốc tế. Một trong những vấn đề quan trọng và gây tranh cãi nhất mà Churchill phải đối mặt lúc đó dường như chỉ thiên về kỹ thuật, song trên thực tế nó lại có tác động sâu rộng trong thế kỷ XX: Hải quân Anh có nên
chuyển từ nguồn năng lượng than truyền thống sang sử dụng dầu không? Nhiều người cho rằng việc chuyển đổi như vậy là quá mạo hiểm, vì như thế có nghĩa là Hải quân sẽ mất đi chỗ dựa là nguồn than an toàn và ổn định của xứ Wales. Thay vào đó, họ sẽ phải trông chờ vào nguồn cung cấp dầu xa xôi và bất ổn của Ba Tư (tên cũ của Iran).
Churchill cho biết: Thật ra, việc chuyển hẳn nguồn năng lượng sử dụng trong hải quân sang dầu là “một hành động chuốc lấy vô số rắc rối”. Nhưng những lợi ích chiến lược mà dầu mang lại – tốc độ nhanh hơn và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn – đã trở nên quá rõ ràng khiến Churchill không thể chậm trễ. Ông quyết định nước Anh sẽ phải xây dựng “sức mạnh hải quân thống trị của mình dựa trên dầu mỏ” và lập tức bắt tay vào việc thực hiện mục tiêu trên với tất cả sức lực và lòng nhiệt tình mạnh mẽ.
“Quyền lực chính là chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu này” − Churchill khẳng định.
Với quan điểm đó, Churchill, trước thềm Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã nắm được một chân lý cơ bản, không chỉ đúng trong cuộc chiến nảy lửa sắp tới mà còn đúng trong nhiều thập kỷ sau đó. Bởi vì trong suốt chặng đường của thế kỷ XX, dầu mỏ đồng nghĩa với quyền lực. Và hành trình kiếm tìm quyền lực đó cũng là chủ đề của cuốn sách này.
Đầu những năm 1990 – gần 80 năm sau khi Churchill thực hiện quyết tâm chuyển sang sử dụng dầu mỏ, sau hai cuộc chiến tranh thế giới và một cuộc chiến tranh lạnh kéo dài, và trong một thời điểm được kỳ vọng là mở đầu cho một kỷ nguyên mới hòa bình hơn – một lần nữa dầu lại trở thành tâm điểm của mối mâu thuẫn toàn cầu. Ngày 2/8/1990, Saddam Hussein, Tổng thống Iraq, đưa quân xâm lược Côoét. Mục đích của Saddam Hussein không chỉ là xâm chiếm một nhà nước có chủ quyền mà còn nhằm nắm giữ nguồn tài sản quý giá của nó. Chiến lợi phẩm thu về sẽ rất lớn. Nếu thành công, Iraq sẽ trở thành cường quốc dầu lửa lớn nhất thế giới và kiểm soát cả thế giới Arập và Vịnh Ba Tư, nơi tập trung phần lớn lượng dầu dự trữ của trái đất. Sức mạnh, tài sản mới và quyền kiểm soát dầu mỏ của Iraq sẽ khiến cả thế giới phải bợ đỡ những tham vọng của Saddam Hussein. Với nguồn tài nguyên của Côoét, Iraq sẽ có thể trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân đáng sợ và thậm chí còn có thể tiến dần tới vị trí một siêu cường. Kết quả sẽ là một sự thay đổi lớn trong cán cân quyền lực quốc tế. Nói ngắn gọn, một lần nữa, quyền lực chính là chiến lợi phẩm. Tuy nhiên, do những gì sẽ mất vào tay Iraq quá lớn, nên cuộc xâm lược Côoét không được thế giới chấp nhận như một việc đã rồi như Saddam Hussein từng hy vọng. Không còn là thái độ bị động như khi Hitler tiến hành hoạt động quân sự hóa vùng Rhine phía
tây nước Đức hay khi Mussolini tấn công Ethiopia. Thay vào đó, Liên hợp quốc đã ra lệnh cấm vận đối với Iraq, và nhiều quốc gia phương Tây và Arập đã tập hợp quân đội với quy mô lớn nhằm bảo vệ nước láng giềng Arập Xêút trước cuộc tấn công của Iraq cũng như chống lại những tham vọng của Saddam Hussein. Trong lịch sử thế giới chưa từng có tiền lệ nào cho sự hợp tác giữa Mỹ và Liên Xô và cũng chưa từng có tiền lệ nào cho việc triển khai quân nhanh chóng với quy mô lớn như vậy vào khu vực này. Vài năm trước đó, quan điểm cho rằng dầu mỏ không còn “quan trọng” gần như đã được coi là hợp thời. Mùa xuân năm 1990, chỉ vài tháng trước cuộc xâm lược của Iraq, các quan chức cấp cao thuộc Bộ Chỉ huy Trung ương Mỹ, đầu não trong chiến dịch huy động quân đội của Mỹ sau này, vẫn còn được thuyết giáo đại ý rằng dầu mỏ đã mất đi tầm quan trọng chiến lược của nó. Thế nhưng, cuộc xâm lược Côoét đã phá tan quan điểm huyễn hoặc đó. Đầu năm 1991, khi các biện pháp hòa bình đều đã tỏ ra vô hiệu trước một Iraq ngoan cố, không chịu rút quân khỏi Côoét, một liên minh gồm 33 nước do Mỹ dẫn đầu đã tiêu diệt sức mạnh tấn công của Iraq sau năm tuần không chiến và 100 giờ lục chiến, đẩy Iraq ra khỏi lãnh thổ Côoét. Vào cuối thế kỷ XX, dầu mỏ vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong việc quyết định an ninh, sự thịnh vượng và bản chất của nền văn minh.
Mặc dù lịch sử hiện đại của dầu bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX, nhưng chính thế kỷ XX mới là thế kỷ bị biến đổi hoàn toàn bởi sự xuất hiện của nó. Có thể nói xung quanh câu chuyện về dầu có ba chủ đề lớn. Thứ nhất là sự trỗi dậy và phát triển của chủ nghĩa tư bản và nền thương mại hiện đại. Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Standard Oil, công ty kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ cuối thế kỷ XIX, là một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất của thế giới. Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX. Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ.
Khi nghĩ về thế kỷ XXI, chúng ta thấy rõ một điều rằng quyền lực của một con chip máy tính ngang ngửa với quyền lực của một thùng dầu. Tuy nhiên, ngành công nghiệp dầu mỏ vẫn duy trì sức ảnh hưởng to lớn của nó. Trong số 20 công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500 (danh sách 500 công ty có mức doanh thu lớn nhất của Mỹ) có đến bảy công ty dầu mỏ. Chừng nào con người còn chưa tìm được một nguồn năng lượng thay thế khác thì dầu vẫn còn tác động sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu; những thay đổi lớn về giá dầu có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hay ngược lại, dẫn đến lạm phát và suy thoái kinh tế. Ngày nay, dầu mỏ là loại hàng hóa duy nhất mà thông tin về những sự kiện và tranh cãi xung quanh nó không chỉ được đăng tải thường xuyên trên các chuyên trang về kinh doanh mà còn trên trang nhất các báo. Và, cũng như trước đây, dầu mỏ vẫn là một nguồn sinh lợi lớn đối với các cá nhân, các công ty và các quốc gia. Theo lời một nhà tài phiệt thì, “Dầu gần như đồng nghĩa với tiền.”
Chủ đề thứ hai là dầu liên quan mật thiết với các chiến lược quốc gia, tình hình chính trị toàn cầu và quyền lực. Tầm quan trọng của dầu, với tư cách là một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia đã được khẳng định trên các mặt trận của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than. Dầu là tâm điểm của các diễn biến cũng như kết quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ở cả vùng Viễn Đông và châu Âu. Người Nhật tấn công Trân Châu Cảng với mục đích bảo vệ cánh quân bên sườn của mình khi họ đang tìm cách chiếm lĩnh nguồn dự trữ dầu ở khu vực các nước Đông Ấn. Một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hitler khi xâm lược Liên bang Xô Viết là nắm giữ các mỏ dầu vùng Caucasus (Cápcadơ). Nhưng cuối cùng, Mỹ mới là nước thống trị về dầu mỏ, và khi kết thúc cuộc chiến, các thùng chứa nhiên liệu của Đức và Nhật đều rỗng không. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến giành quyền kiểm soát dầu giữa các công ty đa quốc gia và các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong phong trào đòi quyền độc lập của các dân tộc thuộc địa và của chủ nghĩa dân tộc mới nổi. Cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 – sự kiện đánh dấu con đường cùng cho các đế quốc châu Âu già nua – chủ yếu xoay quanh vấn đề dầu mỏ. “Quyền lực của dầu” đã trở nên lớn mạnh hơn rất nhiều trong những năm 1970, đưa các quốc gia trước đây vốn chỉ đứng ngoài lề các diễn đàn chính trị quốc tế lên vị trí của các nước giàu có và có ảnh hưởng, đồng thời tạo nên một cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc trong khối các nước công nghiệp vốn vẫn dựa vào dầu để phát triển kinh tế. Và dầu cũng chính là trung tâm của cuộc khủng hoảng đầu tiên thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh những năm 1990 – cuộc xâm lược Côoét của Iraq.
Tuy vậy, đôi khi dầu lại là kho vàng trong tay kẻ ngốc. Ước muốn mãnh liệt nhất của quốc vương Iran – sự giàu có nhờ dầu mỏ – đã trở thành hiện thực, nhưng cũng chính điều đó lại làm ông kiệt quệ. Dầu đã gây dựng nên nền kinh tế của Mexico, nhưng rồi lại khiến nó suy yếu dần. Liên bang Xô Viết − quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ hai thế giới – đã phung phí số doanh thu khổng lồ từ dầu trong những năm 1970 và 1980 cho một chiến dịch củng cố quân sự và một loạt các cuộc phiêu lưu quốc tế vô dụng, thậm chí nguy hại. Còn Mỹ, quốc gia từng giữ vị trí nhà sản xuất dầu lớn nhất và hiện vẫn là quốc gia tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới, phải nhập khẩu tới một nửa nguồn dầu cung ứng cho nhu cầu trong nước. Thực trạng này gây phương hại tới vị thế chiến lược tổng thể của Mỹ và làm gia tăng đáng kể gánh nặng thâm hụt mậu dịch – đây là một tình thế nguy hiểm đối với một cường quốc lớn.
Sau Chiến tranh Lạnh, một trật tự thế giới mới đang bắt đầu hình thành. Cạnh tranh kinh tế, những cuộc chiến giữa các quốc gia trong từng khu vực và những cuộc đấu tranh giữa các dân tộc, dưới sự trợ giúp và khuyến khích của việc phổ biến các loại vũ khí hiện đại, có thể sẽ thay thế hệ tư tưởng với vai trò là tâm điểm của mâu thuẫn quốc tế và quốc gia. Nhưng dù trật tự thế giới mới này có phát triển theo hình thái nào đi nữa, thì dầu vẫn sẽ là một nhân tố chiến lược đóng vai trò thiết yếu trong các chiến lược quốc gia cũng như trên chính trường quốc tế.
Chủ đề thứ ba trong lịch sử dầu mỏ lý giải vì sao xã hội của chúng ta lại trở thành một “Xã hội hydrocarbon” và chúng ta, theo ngôn ngữ của các nhà nhân loại học, lại trở thành “Con người hydrocarbon”. Trong mấy thập kỷ đầu phát triển, việc kinh doanh dầu đã mang đến cho thế giới đang trên đà công nghiệp hóa một sản phẩm mang tên “dầu lửa”. Đây được coi là “ánh sáng mới”, giúp đẩy lùi bóng tối và kéo dài ngày làm việc. Cuối thế kỷ XIX, chủ yếu nhờ buôn bán dầu lửa mà John D. Rockefeller trở thành người giàu nhất nước Mỹ. Thời đó, xăng gần như chỉ là một sản phẩm phụ vô dụng. Khó khăn lắm mới tìm được một người mua xăng với giá cao nhất là 2 xu/gallon(1); còn khi không bán được, buổi tối người ta lại lén lút đổ xăng xuống sông. Vào lúc sự xuất hiện của bóng đèn điện tưởng chừng như sắp đẩy nền công nghiệp dầu mỏ đi vào dĩ vãng thì một kỷ nguyên mới lại mở ra với sự phát triển của động cơ đốt trong dùng xăng. Ngành công nghiệp dầu mỏ đã có một thị trường mới. Và cùng với đó, một nền văn minh mới ra đời.
Trong thế kỷ XX, dầu, cùng với khí đốt tự nhiên, đã hạ bệ ngôi vị nguồn năng lượng của thế giới công nghiệp của ông vua than. Dầu cũng trở thành nền tảng của phong trào ngoại ô hóa rộng lớn thời kỳ hậu chiến, làm biến đổi cả phong cảnh đương thời và lối sống hiện đại của chúng ta. Ngày nay,
chúng ta trở nên quá phụ thuộc vào dầu, và dầu cũng gắn bó quá mật thiết với sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, đến nỗi hiếm khi chúng ta dừng lại để cảm nhận hết tầm quan trọng bao trùm của nó. Chính dầu đã biến mọi việc thành có thể – nơi chúng ta ở, cách chúng ta sinh sống, phương thức chúng ta đi làm hàng ngày hay đi du lịch, và thậm chí là nơi chúng ta có những mối quan hệ lãng mạn với người khác giới. Dầu là mạch sống của các cộng đồng khu vực ngoại ô. Dầu mỏ và khí đốt tự nhiên là các thành phần không thể thiếu trong thuốc trừ sâu − loại thuốc đang chi phối nền nông nghiệp thế giới. Dầu đã khiến việc vận chuyển lương thực tới các thành phố lớn trên thế giới, nơi hoàn toàn không có khả năng tự cung tự cấp, trở nên dễ dàng. Dầu còn được dùng để sản xuất ra nhựa và các chất hóa học – cơ sở gây dựng nên nền văn minh đương đại, một nền văn minh có nguy cơ sụp đổ nếu các giếng dầu thế giới đột nhiên cạn kiệt.
Trong phần lớn thế kỷ này, việc con người ngày càng phụ thuộc vào dầu mỏ đã được gần như cả thế giới ngợi ca là một điều tốt lành, một biểu tượng cho sự tiến bộ của nhân loại. Nhưng thời kỳ hoàng kim đó của dầu mỏ không còn nữa. Cùng với sự phát triển của phong trào môi trường, các nguyên tắc cơ bản của xã hội công nghiệp đang đứng trước những thách thức to lớn; trong đó ngành công nghiệp dầu mỏ, trên mọi khía cạnh, bị săm soi, chỉ trích và phản đối nhiều nhất. Cả thế giới đang tăng cường những nỗ lực hạn chế hoạt động đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (bao gồm dầu, than và khí đốt tự nhiên) do những hậu quả mà việc làm này gây ra: ô nhiễm không khí, mưa axit, suy thoái tầng ozone và nguy cơ thay đổi khí hậu. Dầu mỏ, mặc dù là một thành tố quan trọng của thế giới như chúng ta đều biết, hiện đang bị buộc tội là tác nhân chính khiến tình trạng suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng hơn. Và ngành công nghiệp dầu mỏ, vốn vẫn tự hào về những tiến bộ công nghệ cũng như về những đóng góp của nó cho việc hình thành thế giới hiện đại, bỗng ngơ ngác nhận thấy mình đang ở hàng ghế bị đơn với tội danh là mối đe dọa của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên, Con người hydrocarbon chưa hề có ý định sẽ từ bỏ chiếc ôtô, hay ngôi nhà ngoại ô của mình, hay những gì họ coi không chỉ là tiện nghi mà còn là thiết yếu đối với lối sống của họ. Các quốc gia đang phát triển cũng không đưa ra dấu hiệu nào chứng tỏ họ sẵn sàng hy sinh các lợi ích của một nền kinh tế phát triển nhờ dầu mỏ để đổi lại những lợi ích về môi trường. Hơn nữa, trước khi đưa ra bất kỳ ý tưởng nào về việc giảm tải lượng tiêu thụ dầu của thế giới, người ta cũng phải tính đến mức gia tăng dân số chóng mặt trong tương lai. Vào những năm 1990, dân số thế giới được dự đoán sẽ tăng thêm 1 tỷ người – tức là so với đầu thập kỷ, cuối thập kỷ dân số sẽ tăng thêm 20% – trong đó, đa phần người dân trên thế giới sẽ vẫn tiếp tục
đòi hỏi “quyền” được tiêu thụ dầu. Các chương trình nghị sự quốc tế về môi trường của thế giới công nghiệp sẽ được đem ra so sánh với quy mô phát triển dân số. Cùng lúc, trên diễn đàn quốc tế hiện đã nổi lên một trong những mâu thuẫn lớn và khó giải quyết của thập kỷ 1990 giữa một bên là sự ủng hộ việc tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường, mạnh mẽ và ngày càng cao, và một bên là quyết tâm phát triển kinh tế, các lợi ích của Xã hội hydrocarbon và những lo lắng về vấn đề an ninh năng lượng.
Trên đây là ba chủ đề mà cuốn sách này đề cập. Bối cảnh là sân khấu toàn cầu. Đây là một biên niên sử về những sự kiện vĩ đại đã và đang ảnh hưởng tới cuộc sống của tất cả chúng ta. Cuốn sách vừa nói về các thế lực kinh tế và công nghệ hùng mạnh và vô cảm, vừa nói về những chiến lược cũng như sự sắc sảo của các doanh nhân và chính khách. Các nhân vật được cuốn sách nhắc tới là các nhà tài phiệt và doanh nhân của ngành công nghiệp dầu – trong đó đương nhiên phải kể đến ông vua dầu mỏ Rockefeller, ngoài ra còn có Henri Deterding, Calouste Gulbenkian, J. Paul Getty, Armand Hammer, T. Boone Pickens, và nhiều người khác. Đóng vai trò không kém phần quan trọng là những nhân vật như Churchill, Adolf Hitler, Joseph Stalin, Ibn Saud, Mohammed Mossadegh, Dwight Eisenhower, Anthony Eden, Henry Kissinger, George Bush và Saddam Hussein.
Thế kỷ XX thật sự xứng đáng với danh hiệu “thế kỷ dầu”. Bên cạnh tất cả những mâu thuẫn và sự phức tạp của nó, vẫn luôn có một “sợi chỉ” xuyên suốt câu chuyện về dầu, một cảm giác nóng hổi hơi thở thời đại đối với cả những sự kiện đã xảy ra từ rất lâu, đồng thời, có cả những tiếng vọng mạnh mẽ của quá khứ trong các sự kiện mới xuất hiện. Bên cạnh đó, đây còn là một câu chuyện về những cá nhân riêng lẻ, các thế lực kinh tế hùng mạnh, sự thay đổi trong công nghệ, những cuộc đấu tranh chính trị, mối mâu thuẫn quốc tế và, thật ra, là về những thay đổi vĩ đại. Tác giả cuốn sách hy vọng thông qua việc nghiên cứu các hệ quả của sự phụ thuộc của thế giới vào dầu trên bình diện kinh tế, xã hội, chính trị và chiến lược, cuốn sách sẽ góp phần làm sáng tỏ quá khứ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn hiện tại và dự đoán tương lai.
CHƯƠNG 1:
SỰ KHỞI ĐẦU:
NỖI ÁM ẢNH VỀ DẦU
Sự biến mất của số tiền 526,08 đô-la là cả một vấn đề. Vào những năm 1850, đồng lương của một giáo sư chẳng lấy gì làm sung túc. Vì vậy, để có thêm thu nhập, năm 1854, Benjamin Silliman Con, con trai một nhà hóa học vĩ đại người Mỹ, đồng thời cũng là một giáo sư hóa học danh tiếng tại Đại học Yale, đã tham gia của một dự án nghiên cứu của một nhóm các nhà xúc tiến kinh doanh và doanh nhân với tổng mức thù lao là 526,08 đô-la. Nhưng mặc dù đã hoàn thành công việc, ông vẫn không nhận được số tiền thù lao đã cam kết. Tức giận, Silliman muốn biết xem số tiền đó đã biến đi đâu. Sự giận dữ của ông nhằm vào những người đứng đầu nhóm này, George Bissell, một luật sư đến từ New York, và James Townsend, chủ tịch một ngân hàng ở New Haven. Tuy nhiên, Townsend luôn né tránh vì e ngại những người gửi tiền tại ngân hàng của ông sẽ không yên tâm khi biết ông đang tham gia một hoạt động kinh doanh đầy tính đầu cơ như thế.
Bissell, Townsend và những thành viên khác trong nhóm kinh doanh này dồn hết tâm trí cho một điều vĩ đại, một tầm nhìn lớn về tương lai của thứ vật chất được biết đến với cái tên “dầu mỏ” nhằm phân biệt với các loại dầu thực vật và mỡ động vật. Họ biết rằng, dầu mỏ sủi bong bóng trên mặt các con suối hoặc thẩm thấu vào các giếng nước mặn ở khu vực xung quanh vùng Sông Dầu, một địa danh nằm giữa vùng đồi núi xa xôi ở phía tây bắc bang Pennsylvania. Tại nơi vùng đất hoang vu này, người ta tìm được một số thùng dầu bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Họ chỉ việc hớt loại vật chất tối màu và nặng mùi này trên mặt các con suối và nhánh sông hoặc vắt những miếng giẻ hoặc chăn nhúng trong nước có chứa dầu. Người ta sử dụng phần lớn lượng dầu nhỏ bé thu lượm được này để sản xuất thuốc. Nhóm các nhà đầu tư này cho rằng có thể khai thác dầu mỏ với khối lượng lớn hơn nhiều rồi chế biến thành một loại chất lỏng có thể dùng để thắp sáng. Họ chắc chắn loại dầu mới này sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh với loại nến đang chiếm lĩnh thị trường vào những năm 1850. Tóm lại, họ tin tưởng rằng nếu khai thác được dầu với khối lượng đủ lớn, họ có thể tung ra thị trường một loại dầu thắp sáng chất lượng cao, giá thành thấp mà vào giữa thế kỷ XIX loài người đang rất cần. Họ bị thuyết phục bởi ý nghĩ rằng họ có thể chiếu sáng cho các thị trấn và nông trại tại Bắc Mỹ và châu Âu. Quan trọng hơn, họ có thể sử dụng dầu mỏ để bôi trơn các bộ phận chuyển động của máy móc trong buổi bình minh của kỷ nguyên cơ khí. Và cũng giống như tất
cả những doanh nhân tin tưởng vào giấc mơ của riêng mình, họ còn tin tưởng rằng họ sẽ trở nên vô cùng giàu có nếu làm được tất cả những việc này. Không ít người nhạo báng họ. Tuy nhiên, nhờ kiên trì, những người này đã thành công trong việc đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên dầu lửa. Để “xoa dịu những phiền muộn của chúng ta”
Dự án này bắt nguồn từ những ý định tình cờ và lòng quyết tâm của George Bissell, người đi đầu trong việc sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa. Với khuôn mặt dài, nhọn và vầng trán rộng, Bissell toát ra vẻ đẹp trí tuệ đầy ấn tượng. Ông là một người sắc sảo và nhạy bén với các cơ hội kinh doanh vì đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tự lập từ năm 12 tuổi, Bissell tự trang trải cho việc học tập tại trường Cao đẳng Dartmouth bằng cách đi dạy và viết báo. Sau khi tốt nghiệp, ông từng làm giảng viên tiếng Latinh và Hy Lạp, rồi chuyển tới Washington để làm báo. Cuối cùng, Bissell định cư ở New Orleans, nơi ông trở thành hiệu trưởng của một trường trung học rồi làm giám thị của các trường công. Trong thời gian rảnh, ông học thêm để lấy bằng luật sư và tự học thêm nhiều ngôn ngữ nữa và, cuối cùng, ông thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và có thể đọc, viết bằng tiếng Do Thái cổ, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ và hiện đại, tiếng Latinh và tiếng Đức. Nhưng do sức khỏe kém Bissell buộc phải trở lại Washington. Trên đường trở về, khi đi qua Pennsylvania ông nhìn thấy một số hoạt động khai thác dầu thô sơ với các vợt hớt và giẻ thấm dầu. Không lâu sau, khi tới thăm mẹ ở Hanover, bang New Hampshire, Bissell tới trường cũ của ông, trường Dartmouth. Tại đây, ông quan sát thấy một chai chứa mẫu dầu mỏ giống như ở Pennsylvania cho một học sinh cũ của trường đang làm bác sĩ tại phía tây Pennsylvania mang đến.
Bissell biết rằng loại dầu này đang được sử dụng như những loại thuốc dân gian và cả biệt dược để chữa nhiều loại bệnh từ đau đầu, đau răng, điếc… tới rối loạn tiêu hóa, nhiễm giun sán, thấp khớp và phù, cũng như làm liền các vết thương trên lưng ngựa và la. Loại dầu này được gọi là “dầu Seneca” theo tên người da đỏ địa phương đặt để bày tỏ lòng kính trọng với thủ lĩnh Red Jacket, nhân vật được cho là đã truyền lại những bí quyết chữa lành vết thương của loại dầu này cho người da trắng. Một công ty cung cấp dầu Seneca đã quảng cáo “sức mạnh chữa bệnh kỳ diệu” của loại dầu này bằng một bài thơ như sau:
Thứ dầu tuyệt hảo đến từ dòng suối bí mật của thiên nhiên, Đem đến cho con người sự khởi sắc trong sức khỏe và cuộc sống;
Từ những đáy sâu và dòng chảy kỳ diệu của tự nhiên,
Để làm dịu những đớn đau và phiền muộn của chúng ta.
Bissell biết chất lỏng sền sệt màu đen này có thể đốt cháy được. Nhìn thấy mẫu dầu mỏ ở Dartmouth, ông lóe lên một ý tưởng loại dầu này không chỉ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà còn có thể dùng làm dầu thắp sáng. Ông có thể thoát khỏi nỗi lo lắng về tiền bạc và trở nên giàu có nhờ việc phát triển thứ nhiên liệu này. Trực giác đó trở thành kim chỉ nam và niềm tin của ông, những điều được thử thách rất nhiều trong cuộc sống đầy thất vọng của ông sáu năm sau đó.
Vị giáo sư biến mất
Nhưng liệu có thể dùng dầu mỏ làm nhiên liệu đốt? Bissell đã khuấy động mối quan tâm của các nhà đầu tư khác và cuối năm 1854, nhóm doanh nhân đã thuê giáo sư Silliman của Đại học Yale phân tích và đánh giá khả năng đốt cháy và bôi trơn của dầu. Nhưng điều chủ yếu họ muốn là có được sự tán đồng của vị giáo sư danh tiếng này dành cho dự án để bán được cổ phiếu và huy động vốn. Không ai có thể đáp ứng tốt mục đích này bằng Silliman. Với vóc người to lớn, tráng kiện và “khuôn mặt tử tế, vui vẻ”, Silliman là một trong những tên tuổi vĩ đại và đáng kính nhất trong nền khoa học thế kỷ XIX. Ông là con trai của người sáng lập ngành hóa học Mỹ và bản thân ông cũng là một trong những nhà khoa học tiêu biểu nhất thời đó. Silliman cũng là tác giả của những cuốn sách giáo khoa vật lý và hóa học hàng đầu. Yale là thủ đô khoa học của nước Mỹ giữa thế kỷ XIX và cha con nhà Silliman chính là tâm điểm của trung tâm này.
Tuy nhiên, Silliman quan tâm đến thực tiễn nhiều hơn là lý thuyết và thực tiễn đã hút ông vào lĩnh vực kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù có danh tiếng lớn và trình độ khoa học cao, ông luôn cần có thêm thu nhập. Lương làm khoa học rất thấp mà gia đình của ông lại đang phình ra. Do đó, ông thường nhận làm thêm các công việc tư vấn ở bên ngoài, cung cấp các đánh giá địa chất và hóa học cho nhiều đối tượng khách hàng. Mối quan tâm đến thực tiễn cũng thu hút ông tham gia trực tiếp vào những dự án kinh doanh mạo hiểm mà theo lời giải thích của ông, thành công của chúng sẽ đem đến cho ông “thật nhiều cơ hội… cho khoa học”. Một người em rể của ông thì tỏ ra hoài nghi hơn khi nhận xét, Benjamin Silliman “đang trên đà tụt dốc liên tục, về mặt này hay mặt khác. Thật đáng thương thay cho khoa học”.
Khi nhận việc phân tích dầu mỏ, Silliman luôn tạo cho khách hàng niềm tin mình đang có được bản báo cáo mong đợi. Silliman tuyên bố: “Tôi dám cam đoan với các ngài rằng kết quả này sẽ đáp ứng được những mong đợi
của các ngài về giá trị của thứ vật chất này”. Ba tháng sau đó, khi gần kết thúc nghiên cứu, thậm chí ông còn có thái độ nhiệt tình hơn. Ông công bố đã có “thành công ngoài dự kiến trong việc sử dụng sản phẩm chưng cất của dầu mỏ làm chất đốt”. Các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào bản báo cáo cuối cùng. Nhưng sau đó xảy ra một sự cố. Họ nợ Silliman số tiền 526,08 đô-la (tương đương khoảng 5.000 đô-la ngày nay) nên ông đã nhất quyết đòi họ phải chuyển trước 100 đô-la tiền mặt vào tài khoản của ông ở New York. Sự chậm trễ trong việc đặt cọc đã khiến vị giáo sư nổi giận. Xét cho cùng, ông không thực hiện dự án này chỉ vì lòng ham thích khám phá khoa học đơn thuần. Vì thế, ông tuyên bố sẽ giữ lại những kết quả nghiên cứu cho tới khi nào được thanh toán hết tiền. Trên thực tế, Silliman đã bí mật đưa bản báo cáo cho một người bạn cất giữ, còn ông đi xuống miền Nam, nơi người ta rất khó gặp được ông.
Các nhà đầu tư cảm thấy thất vọng. Báo cáo cuối cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút thêm vốn. Cuối cùng, một trong những đối tác của Bissell đã chịu bỏ ra số tiền này với sự bảo đảm của chính Bissell. Bản báo cáo đề ngày 14 tháng 4 năm 1855 đã được giao cho các nhà đầu tư và nhanh chóng được chuyển tới nhà in. Mặc dù vẫn phát khiếp vì khoản thù lao phải trả cho Silliman, nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư này vẫn thu được nhiều hơn số tiền họ bỏ ra. Theo nhận định của một nhà sử học, nghiên cứu của Silliman chính là “một bước ngoặt trong sự hình thành ngành dầu lửa”. Silliman đã xua tan những nghi ngờ về khả năng sử dụng dầu mỏ theo những phương thức mới.
Ông chỉ ra cho các khách hàng của mình là có thể đun sôi dầu mỏ ở các nhiệt độ khác nhau và nhờ vậy có thể chưng cất dầu thành nhiều sản phẩm có thành phần chính là carbon và hydro. Một sản phẩm quan trọng trong số đó là loại dầu thắp sáng chất lượng rất cao. Silliman viết: “Thưa các ngài, tôi hoàn toàn có cơ sở để tin công ty của các ngài sở hữu một loại vật liệu thô mà từ đó, có thể chế tạo ra những sản phẩm rất có giá trị bằng các quy trình giản đơn và không hề tốn kém. Thưa các ngài, sau những nỗ lực nghiên cứu không mệt mỏi, tôi có thể bảo đảm rằng công ty của các ngài đang sở hữu một loại tài nguyên quý giá. Với các quy trình công nghệ đơn giản và kinh tế, nó có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao”. Do những vướng mắc về tài chính đã được giải quyết, Silliman lại sẵn sàng tham gia các dự án tiếp theo.
Có bản báo cáo của Silliman trong tay, bản báo cáo giống như một lời quảng cáo có sức thuyết phục nhất dành cho vụ kinh doanh này, nhóm các nhà đầu tư trên không gặp trở ngại nào trong việc huy động các nguồn vốn cần thiết từ các nhà đầu tư khác. Bản thân Silliman cũng mua 200 cổ phiếu, khiến doanh nghiệp đã được biết tới với cái tên Công ty dầu mỏ
Pennsylvania này càng kính nể ông hơn. Tuy nhiên, thời kỳ khó khăn còn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa trước khi các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia vào bước tiến mạo hiểm tiếp theo.
Nhờ nghiên cứu của Silliman, giờ đây, họ biết rằng có thể chiết xuất một chất lỏng dùng để đốt cháy từ dầu mỏ. Nhưng lượng dầu mỏ có sẵn liệu có đủ không? Một vài người cho rằng, dầu chỉ là những “giọt nhỏ” chảy ra từ các vỉa than ngầm. Một điều chắc chắn là không thể xây dựng hoạt động kinh doanh bằng cách vớt váng dầu trên mặt sông hoặc vắt dầu từ những mảnh giẻ rách thấm nước chứa dầu. Trước khi quyết định đầu tư lớn, vấn đề sống còn mà cả công ty này cùng hướng vào là phải chứng tỏ dầu mỏ tồn tại với khối lượng đủ để khai thác được.
Giá cả và sự cải tiến
Niềm hy vọng vào những đặc tính vẫn còn bí hiểm của dầu hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thuần túy. Dân số tăng và sự phát triển kinh tế lan rộng nhờ cuộc cách mạng công nghiệp khiến nhu cầu ánh sáng nhân tạo ngày càng tăng. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, người ta hầu như chỉ dùng những chiếc bấc đèn đơn giản nhúng vào mỡ động vật hay dầu thực vật. Còn với những người có tiền, mỡ cá nhà táng đã được coi là chuẩn mực của dầu thắp sáng chất lượng cao. Tuy nhiên, những đàn cá voi ở Đại Tây Dương dần biến mất và các con tàu săn cá ngày càng phải đi xa hơn, tới khu vực xung quanh mũi Hảo Vọng và cả những vùng biển xa xôi trên Thái Bình Dương. Đối với dân săn cá voi, đây là kỷ nguyên vàng vì giá cả đang tăng lên. Nhưng với người tiêu dùng thì ngược lại, họ không muốn phải trả tới 2,50 đô-la để mua một gallon mỡ cá, và hiển nhiên, đó chưa phải là mức giá cuối cùng. Những loại dầu thắp sáng giá rẻ đã được phát triển nhưng tất cả đều kém chất lượng. Loại phổ biến nhất là camphene, một chất dẫn xuất từ nhựa thông cháy sáng nhưng nhược điểm là rất dễ cháy và tệ hơn nữa là có thể gây nổ. Một loại khác là khí đốt chưng cất từ than được vận chuyển bằng đường ống tới các ngọn đèn đường và tới các gia đình trung lưu và thượng lưu ngày càng đông đảo tại các khu vực đô thị, song nó lại quá đắt đỏ. Nhu cầu về một loại dầu thắp sáng với giá thành tương đối rẻ, an toàn vẫn ngày càng cấp bách. Bên cạnh đó, do tiến bộ trong ngành cơ khí đã cho ra đời nhiều loại máy móc, thiết bị và máy in vận hành bằng hơi nước nên nhu cầu về dầu bôi trơn thay thế cho mỡ động vật đang được sử dụng hồi đó cũng tăng lên đáng kể.
Cuối thập niên 1840, đầu thập niên 1850, giới doanh nhân đã đưa ra nhiều sáng kiến đáp ứng các nhu cầu này với dầu thắp sáng và dầu bôi trơn chiết xuất từ than và các loại hydrocarbon khác. Một số nhân vật tại Anh và Bắc Mỹ đã xúc tiến cuộc tìm kiếm dầu mỏ, xác định và phân loại thị trường và
từng bước hoàn thiện công nghệ lọc dầu, tạo nên những nền tảng cơ bản cho công nghiệp dầu lửa sau này phát triển công nghệ lọc dầu mà sau này. Thomas Cochrane, một đô đốc người Anh từng bị xử ở tòa án binh và được coi là hình mẫu cho nhân vật Don Juan của Byron, bị ám ảnh vì tiềm năng của nhựa đường và trong quá trình phát triển loại vật liệu này, ông đã trở thành chủ sở hữu một mỏ nhựa đường lớn ở Trinidad.
Có thời gian, Cochrane hợp tác với một người Canada là Tiến sĩ Abraham Gesner. Khi còn trẻ, Gesner đã thử bắt đầu việc kinh doanh xuất khẩu ngựa sang Tây Ấn nhưng sau hai lần tàu chở ngựa bị đắm, ông từ bỏ công việc này và tới nghiên cứu y học tại Bệnh viện Guy’s London. Trở lại Canada, Gesner lại chuyển sang nghiên cứu địa chất ở New Brunswich. Ông đã phát triển quy trình chiết xuất dầu từ nhựa đường hoặc các chất tương tự và tinh chế dầu này thành dầu thắp sáng chất lượng cao. Ông gọi nhiên liệu này là “kerosene” – dầu lửa – ghép từ Keros và elaion, hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là “sáp ong” và “dầu”. Ông đã thay đổi từ elaion thành ene để sản phẩm có tên gọi nghe tương tự như camphene. Năm 1854, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế của Mỹ cho việc sản xuất “một chất lỏng hydrocarbon mới mà tôi đặt tên là dầu lửa và có thể dùng thắp sáng và cho các mục đích khác”. Năm 1894, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế “Phương thức mới sản xuất chất lỏng hydrocarbon (gọi tắt là dầu lửa) và sử dụng cho quá trình thắp sáng và các mục đích khác”.
Gesner tham gia thành lập một nhà máy sản xuất dầu lửa ở thành phố New York và, đến năm 1859, nhà máy này đã sản xuất được 5.000 gallon dầu mỗi ngày. Một nhà máy tương tự cũng được xây dựng ở Boston. Nhà hóa học người Scotland, James Young đi tiên phong trong việc xây dựng một nhà máy lọc dầu sử dụng nguyên liệu là than nén ở Anh. Một nhà máy sử dụng nguyên liệu đá phiến cũng được xây dựng ở Pháp. Đến năm 1859, ước tính có khoảng 34 công ty ở Mỹ sản xuất được dầu lửa và parafin với doanh thu 5 triệu đô-la giá trị sản phẩm. Khi đó, báo chí ca ngợi sự tăng trưởng trong lĩnh vực dầu mỏ là bằng chứng “về một thứ năng lượng tuyệt diệu mà với nó, nước Mỹ sẽ tham gia bất kỳ lĩnh vực nào của ngành công nghiệp hứa hẹn lợi nhuận cao”. Dầu lửa không xa lạ gì với loài người. Tại nhiều vùng ở Trung Đông, một chất dạng bùn nhão gọi là bitum thấm ra ngoài từ các vết nứt vỡ và đã được khai thác từ xa xưa. Ở Địa Trung Hải và Trung Đông, bitum được khai thác từ năm 3.000 trước Công nguyên. Nguồn dầu lửa nổi tiếng nhất là ở Hit, trên con sông Euphrates, cách Babylon không xa (ngày nay là thành phố Baghdad). Vào thế kỷ I trước Công nguyên, sử gia Hy Lạp Diodor đã viết về ngành khai thác bitum cổ đại: “Mặc dù có những điều thần kỳ xảy ra ở đất nước Babylon nhưng không gì có thể so sánh được với khối lượng
nhựa đường khổng lồ được tìm thấy ở đây”. Ở một số nơi, lượng bitum thấm ra ngoài cùng với hơi dầu liên tục bốc cháy đã khiến người dân Trung Đông tôn sùng lửa.
Bitum là một mặt hàng được đem ra trao đổi ở Trung Đông thời cổ đại. Nó được dùng làm vữa trong xây dựng, gắn kết các bức tường của hai thành phố Jericho và Babylon. Theo phong tục thời bấy giờ, có thể cả con thuyền Noah và chiếc giỏ của Moses(1)đã được trét bằng bitum để chống thấm nước. Bitum cũng được sử dụng để làm đường và chiếu sáng. Tuy nhiên, nhìn chung, công dụng chiếu sáng của chất này rất hạn chế và không mấy hiệu quả. Ngoài ra, bitum cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh. Về giá trị dược lý, những gì nhà tự nhiên học La Mã Pliny miêu tả vào thế kỷ I cũng tương tự như những gì đang diễn ra ở nước Mỹ vào những năm 1850. Pliny viết, bitum giúp chống chảy máu, làm liền các vết thương, điều trị bệnh đục thủy tinh thể, làm dầu xoa bóp cho bệnh nhân mắc bệnh gút, chữa đau răng, làm dịu những cơn ho kinh niên, làm giảm những cơn thở gấp, chữa tiêu chảy, nối lại những đoạn cơ bị cắt lìa, làm giảm đau khớp và hạ sốt. Chất này cũng “có công dụng làm thẳng những sợi lông mi quặm gây khó chịu cho mắt”.
Dầu lửa còn có một công dụng nữa. Dầu cặn bị đốt cháy hóa ra lại đóng một vai trò lớn, đôi khi là quyết định, trong chiến tranh. Trong trường ca Iliad, Homer viết: “Quân Tơroa đốt một đống lửa cháy liên tục trên con tàu có tốc độ cao và từ con tàu phóng ra một ngọn lửa rất khó dập tắt”. Khi vua Cyrus của Ba Tư chuẩn bị đánh chiếm Babylon, ông được cảnh báo về mối nguy hiểm của các cuộc chiến đấu trên đường phố. Ông đáp lại bằng cách tuyên bố: “Chúng tôi cũng có khối dầu hắc ín và dây thừng để làm cho lửa lan ra khắp nơi, buộc những ai đang ở trên các mái nhà phải nhanh chóng bỏ chạy nếu không muốn bị tiêu diệt”. Kể từ thế kỷ VII, những người thuộc đế chế Byzantine đã sử dụng oleum incendiarum – thứ hỏa lực Hy Lạp. Đó là một hỗn hợp giữa dầu và vôi, khi tiếp xúc với độ ẩm sẽ bốc cháy. Công thức này là một bí mật quốc gia được bảo vệ chặt chẽ. Quân Byzantine chất hỗn hợp này lên các con tàu chiến, tẩm vào đầu các mũi tên và phết lên những quả lựu đạn thô sơ. Trong nhiều thế kỷ, hỗn hợp này được coi là một thứ vũ khí đáng sợ hơn cả thuốc súng.
Như vậy, việc sử dụng dầu lửa ở Trung Đông có cả một lịch sử dài và đa dạng. Tuy nhiên, một điều rất khó hiểu là những kiến thức về lĩnh vực này không được phương Tây biết đến trong nhiều thế kỷ, có thể là vì những nguồn bitum lớn và các cách sử dụng chất này nằm bên ngoài biên giới Đế quốc La Mã và những kiến thức này không được truyền bá trực tiếp tới phương Tây. Tuy vậy, ở một vài nơi tại châu Âu như Bavaria, Sicily, thung
lũng Po, Alsace, Hannover và Galicia, người ta đã theo dõi và bình luận về hiện tượng rò rỉ dầu ngay từ thời Trung Cổ. Và công nghệ lọc dầu đã được những người Arập đưa tới châu Âu. Nhưng nhìn chung, dầu vẫn chỉ được sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh đa tác dụng và điều này càng được những nghiên cứu chuyên sâu của các giáo sĩ và thầy thuốc củng cố thêm. Dầu cũng được khai thác với quy mô nhỏ ở Đông Âu, ban đầu là ở Galicia (địa danh từng là một phần của Ba Lan, Áo và Nga) rồi ở Rumani. Những người nông dân đã đào hầm mỏ bằng tay để lấy dầu thô, nhiên liệu dùng để lọc thành dầu lửa. Một dược sĩ từ Lvov, với sự giúp đỡ của một thợ ống nước, đã phát minh ra một loại đèn đốt dầu giá rẻ. Tới năm 1854, dầu là mặt hàng thương mại chính ở Viên và đến năm 1859, ngành dầu lửa đã phát triển mạnh mẽ ở Galicia với hơn 150 ngôi làng tham gia hoạt động khai thác dầu. Gộp chung lại, sản lượng dầu thô của châu Âu năm 1859 ước tính vào khoảng 36.000 thùng, chủ yếu được khai thác ở Galicia và Rumani. Điều mà ngành công nghiệp của Đông Âu này còn thiếu chính là công nghệ khoan.
Vào những năm 1850, việc phát triển dầu lửa tại Mỹ vấp phải hai rào cản lớn. Đó là chưa có một nguồn cung dầu đáng kể nào và chưa có loại đèn giá rẻ phù hợp để đốt loại dầu đó. Những loại đèn thời đó khi đốt tạo ra rất nhiều khói, và gây cay mũi. Sau đó, một đại lý bán dầu tại New York đã phát hiện ra một loại đèn có ống khói bằng thủy tinh để đốt dầu lửa đang được sản xuất tại Viên. Dựa trên thiết kế của người dược sĩ và người thợ đường ống ở Lvov, chiếc đèn đã khắc phục được các vấn đề khói và mùi. Đại lý dầu New York nhập khẩu loại đèn này và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Do liên tục được cải tiến, loại đèn xuất xứ từ Viên này đã trở thành cơ sở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đèn dầu tại nước Mỹ và sau đó được xuất khẩu trên khắp thế giới.
Như vậy, đến thời điểm Bissell khởi đầu dự án, dầu lửa loại dầu thắp sáng tốt và rẻ hơn đã được nhiều gia đình sử dụng. Những kỹ thuật cần thiết để lọc dầu thô thành dầu lửa đã được thương mại hóa với các loại parafin. Và một loại đèn giá rẻ cũng đã được phát triển để đốt dầu và đã đem lại những hiệu quả nhất định. Thật ra, những gì Bissell và các nhà đầu tư tại Công ty dầu mỏ Pennsylvania đang nỗ lực tìm kiếm là khám phá một nguồn nhiên liệu thô mới. Tựu chung, giá cả chính là vấn đề. Nếu họ có thể tìm thấy dầu mỏ đủ để đáp ứng nhu cầu, dầu sẽ được bán với giá rẻ và giành được thị phần của những sản phẩm dầu thắp sáng giá đắt hơn nhiều, hoặc không làm khách hàng hài lòng.
Việc đào lấy dầu không giải quyết được vấn đề. Nhưng có lẽ còn một giải pháp thay thế khác. Việc khoan tìm muối đã phát triển trước đó hơn 15 năm ở Trung Quốc, với các giếng muối khoan sâu tới 360 mét, chính là một gợi
ý. Vào khoảng năm 1830, phương pháp cổ truyền của người Trung Quốc du nhập sang châu Âu và được người châu Âu học tập và rồi sau đó những kinh nghiệm này đã thúc đẩy việc khoan giếng muối ở Mỹ.
Khi đang trăn trở với dự án của mình, vào một ngày nóng bức năm 1856 ở New York, George Bissell tránh nắng dưới mái hiên của một tiệm thuốc trên đại lộ Broadway và bất chợt nhìn thấy tờ quảng cáo một loại thuốc sản xuất từ dầu mỏ, trên đó có hình ảnh nhiều giàn khoan các mỏ muối. Loại dầu mỏ dùng để chế tạo loại biệt dược đó là phụ phẩm thu được trong quá trình khoan khai thác muối. Với sự tình cờ này, tiếp theo những hoạt động ông đã thấy ở tây Pennsylvania và trường Dartmouth trước đây, Bissell nảy ra ý tưởng áp dụng công nghệ khoan khai thác muối để khoan dầu.
Bissell, rồi đến các nhà đầu tư khác trong Công ty dầu mỏ Pennsylvania, đều nhận thức sâu sắc là phải áp dụng kỹ thuật khoan muối vào việc khai thác dầu. Họ sẽ khoan thay vì đào để lấy dầu mỏ. Nhiều nhà đầu tư khác ở Mỹ và Ontario, Canada cũng đang thử nghiệm kỹ thuật trên. Tuy nhiên, Bissell và cộng sự đã sẵn sàng hiện thực hóa ý tưởng này. Họ đã có báo cáo của Silliman và nhờ nó đã huy động được vốn. Tuy nhiên, ý tưởng của họ không được đánh giá nghiêm túc. Khi ông chủ nhà băng James Townsend bàn về ý tưởng khoan dầu, nhiều người ở New Haven đã nhạo báng: “Ồ, Townsend! Dầu đi ra từ lòng đất, bơm dầu lên mặt đất như ông bơm nước ư? Thật vớ vẩn! Ông điên mất rồi!” Mặc dù vậy, các nhà đầu tư vẫn quyết tâm tiến hành. Họ tin vào cơ hội và nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng liệu họ có thể giao phó dự án điên rồ này cho ai?
“Ngài Đại tá”
Ứng cử viên của họ là Edwin L. Drake, một nhân vật tình cờ được lựa chọn. Là người biết mỗi thứ một chút nhưng không giỏi thứ gì, chắc chắn Drake không có phẩm chất nổi bật hay rõ ràng nào để đảm nhiệm công việc này. Ông từng làm nhân viên đường sắt nhưng nghỉ ốm vì sức khỏe kém và khi đó đang sống với con gái tại Tontine, một khách sạn cũ kỹ ở New Haven. Tình cờ, James Townsend, chủ ngân hàng New Haven cũng ở trong khách sạn đó. Đây là loại khách sạn mà đàn ông thích tụ tập trao đổi tin tức và chơi bài, những hoạt động rất hợp với Drake, người đàn ông 38 tuổi, thân mật, vui tính, hay nói và đang rỗi rãi. Vì thế, Drake có thể bỏ ra cả buổi tối để giải trí với đám bạn hữu bằng những câu chuyện muôn màu muôn vẻ của mình. Drake có trí tưởng tượng phong phú và những câu chuyện ông kể thường đầy kịch tính, được cường điệu hóa mà trong đó, chính ông là nhân vật trung tâm, nhân vật anh hùng. Drake và Townsend thường trò chuyện về dự án dầu mỏ này. Thậm chí, Townsend còn thuyết phục Drake mua cổ phần trong
công ty. Sau đó, Townsend đã thuê Drake tham gia dự án. Drake đang thất nghiệp và muốn có việc làm. Mặt khác, là một nhân viên đường sắt đang nghỉ ốm nên Drake có vé tháng đi tàu lửa miễn phí, yếu tố có lợi nhất đối với một dự án đầu tư mạo hiểm đang gặp khó khăn tài chính. Drake còn có một lợi thế khác: Ông là người rất bền chí.
Phái Drake tới Pennsylvania, Townsend đã trao cho ông một thứ xem ra rất có giá trị. Lo ngại về tình hình ở vùng biên giới và sự cần thiết phải gây ấn tượng với “bọn rừng rú”, ông chủ nhà băng này đã gửi đi nhiều bức thư đề tên “Đại tá” E. L. Drake. Như vậy, một “Đại tá” Drake đã được tạo ra. Mưu kế này đã có tác dụng. Tháng 12 năm 1857, sau chặng hành trình mệt mỏi vượt qua vùng bùn lầy rộng lớn trên chiếc xe ngựa chở thư chạy hai chuyến mỗi tuần, “Đại tá” E. L. Drake đã đặt chân tới làng Titusville. Tại ngôi làng nhỏ, nghèo nàn với dân số 125 người, nằm lọt giữa những ngọn đồi ở phía Tây Bắc Pennsylvania, “Ngài Đại tá” đã được đón tiếp nồng hậu. Titusville là một làng nghề xẻ gỗ, nơi người dân đang ngập trong nợ nần với cửa hàng của công ty gỗ địa phương. Nhìn chung, người ta cho rằng, ngôi làng này sẽ chết khi cây cối trên những ngọn đồi xung quanh bị đốn trụi và thiên nhiên hoang dã sẽ lại phủ kín cả khu vực này.
Công việc đầu tiên của Drake đơn thuần chỉ là hoàn thiện tư cách của ông đối với vùng khai thác dầu trong tương lai, hiện đang nằm trên khu vực một nông trang. Ông nhanh chóng hoàn tất công việc này và trở về New Haven để tính toán bước tiến đầy khó khăn tiếp theo là khoan để lấy dầu. Sau này, ông nói: “Tôi đã hình dung là có thể khai thác dầu với khối lượng lớn bằng cách khoan như khai thác muối. Tôi cũng tin mình sẽ làm được nhưng rất nhiều người không đồng ý với tôi, họ cho rằng dầu chỉ chảy ra thành những giọt nhỏ từ một vỉa than lớn”.
Tuy nhiên, Drake không hề thoái chí hay lệch hướng. Mùa xuân năm 1858, ông trở lại Titusville để bắt đầu công việc. Nhóm các nhà đầu tư đã lập một công ty mới là Công ty dầu Seneca với Drake làm trưởng đại lý. Drake đặt địa điểm khai thác cách Titusville khoảng hai dặm(2), trên một nông trại có dòng suối dầu chảy qua. Hàng ngày, người ta vẫn thu thập được từ ba đến sáu gallon dầu từ dòng suối này bằng các phương pháp truyền thống. Nhiều tháng sau khi trở lại Titusville, Drake viết thư cho Townsend, nói: “Tôi sẽ không cố gắng đào để lấy dầu bằng tay nữa vì tôi tin chắc khoan là cách khai thác rẻ nhất”. Tuy nhiên, ông đề nghị ông chủ ngân hàng Haven phải lập tức gửi thêm vốn. “Muốn làm bất cứ điều gì, chúng tôi phải có tiền. Làm ơn thông báo cho tôi biết ngay. Ở đây đang rất thiếu tiền”. Sau một thời gian chậm trễ, Townsend cũng cố gửi cho Drake 1.000 đô-la. Với số tiền này, Drake thuê những “thợ khoan muối” mà ông cần để tiếp tục dự án. Do các
thợ khoan muối có tiếng là thích rượu và thường trong tình trạng say xỉn nên Drake hết sức thận trọng với những người ông thuê. Drake ra điều kiện là những người thợ này hoàn thành công việc đến đâu thì được thanh toán đến đó với mức giá là 3 đô-la cho một mét sâu khoan được. Hai người thợ khoan đầu tiên Drake thuê đã chuồn mất. Thật ra, mặc dù không dám nói thẳng với Drake, nhưng họ nghĩ ông thật ngây thơ. Drake chỉ biết rằng ông chưa làm được gì trong năm đầu tiên tới Titusville và mùa đông giá lạnh đang tới gần. Vì thế, ông dồn sức lắp ráp chiếc động cơ hơi nước để cung cấp năng lượng cho mũi khoan hoạt động. Trong khi đó, các nhà đầu tư ở New Haven chờ đợi trong lo lắng.
Cuối cùng, vào mùa xuân năm 1859, Drake đã tìm được thợ khoan. Đó là một thợ rèn có tên William A. Smith – “Bác Billy” Smith – đến cùng với hai con trai. Smith biết đôi chút về những gì cần làm vì ông từng rèn công cụ cho các công nhân khoan nước mặn. Giờ đây, nhóm bắt đầu xây dựng giàn khoan và lắp đặt các thiết bị cần thiết. Họ cho rằng sẽ phải khoan sâu vào lòng đất hàng trăm mét. Tiến độ công việc rất chậm khiến các nhà đầu tư ở New Haven ngày càng cảm thấy không yên tâm. Tuy nhiên, Drake vẫn kiên quyết giữ nguyên kế hoạch. Rốt cục, Townsend là người duy nhất trong nhóm các nhà đầu tư còn tin tưởng vào dự án. Và khi dự án hết vốn, Townsend bắt đầu dùng tiền riêng để chi trả. Trong nỗi thất vọng, ông đã gửi cho Drake khoản tiền cuối cùng và yêu cầu Drake thanh toán các hóa đơn, đóng cửa dự án và trở về New Haven. Đó là vào cuối tháng 8 năm 1859.
Vào buổi chiều thứ bảy ngày 27 tháng 8 năm 1859, khi Drake vẫn chưa nhận được thư của Townsend, trong khi khoan tới độ sâu tám mét, mũi khoan rơi vào một khe nứt và trượt tiếp 20 cm nữa. Công việc phải tạm dừng. Ngày hôm sau, khi ra ngoài để xem cái giếng, Billy nhìn chăm chú vào đường ống và thấy một lớp chất lỏng tối màu nổi lên trên mặt nước. Ông liền dùng ống thiếc để hút lấy mẫu của chất lỏng đó. Khi xem xét mẫu chất lỏng khá nặng thu được, ông vui sướng đến ngộp thở. Vào ngày thứ Hai, khi tới nơi, Drake thấy Bác Billy và mấy cậu con trai đang đứng trông nhiều xô, thùng, chậu giặt và tất cả đều chứa đầy dầu. Drake vớ lấy một chiếc bơm tay và bắt đầu làm công việc mà những người nhạo báng ông từng đem ra làm trò cười – bơm lấy dầu. Cùng ngày hôm đó, ông nhận được thư chuyển tiền và lệnh đóng cửa giàn khoan do Townsend gửi. Nếu một tuần trước, có thể ông đã làm điều đó nhưng giờ thì không. Lòng kiên trì của Drake đã được đền đáp đúng lúc. Ông đã chạm tới dầu. Những người nông dân dọc theo vùng Sông dầu đổ xô tới Titusville và hô vang: “Tay Yankee đã tìm thấy dầu”. Tin tức này lan đi nhanh chóng và người ta ồ ạt lao tới đây để khoan tìm dầu. Chẳng mấy chốc, dân số của làng Titusville bé nhỏ tăng lên gấp
nhiều lần và giá đất cũng ngay lập tức tăng vọt.
Tuy nhiên, thành công trong khoan lấy dầu không bảo đảm thành công về tài chính. Drake và Bác Billy sẽ làm gì với dòng dầu chảy ra? Họ giữ chặt mọi thùng đựng whiskey mà họ nẫng được trong vùng này và khi tất cả những thùng đó đã đựng đầy dầu, họ đóng thêm nhiều thùng và đổ dầu vào đó. Không may, một đêm, lửa từ một chiếc đèn đã làm hơi dầu bốc cháy, khiến cả khu vực chứa dầu nổ tung và biến thành một biển lửa khổng lồ. Trong lúc đó, những giếng khoan khác ở khu vực xung quanh ngày càng lấy được nhiều dầu hơn. Nguồn cung vượt xa nhu cầu và giá dầu sụt mạnh. Với việc áp dụng kỹ thuật khoan, dầu mỏ không còn thiếu. Thứ duy nhất thiếu lúc này là các thùng đựng whiskey và chẳng mấy chốc, những chiếc thùng này có giá đắt gấp đôi so với lượng dầu chứa bên trong.
“Ánh sáng của thời đại”
Không mất nhiều thời gian để dầu mỏ của Pennsylvania tìm đường đến thị trường với chất lượng của loại dầu lửa đã được lọc. Những phẩm chất của nhiên liệu này ngay lập tức được công nhận. Chưa đầy một năm sau khi Drake khoan được dầu, một tác giả Mỹ viết: “Là một nhiên liệu thắp sáng, không thể định giá dầu lửa. Đó là ánh sáng của thời đại. Những ai chưa từng nhìn thấy dầu cháy có thể tin chắc rằng ánh sáng của nó không phải là ánh sáng của mặt trăng, mà là một thứ ánh sáng gần hơn với ánh sáng trong trẻo, mạnh mẽ và lấp lánh của ban ngày, thứ ánh sáng mà thời Trung Cổ không thể có… Dầu mỏ tạo ra một thứ ánh sáng đẹp đẽ, thứ ánh sáng sáng nhất và cũng rẻ tiền nhất trên thế giới; một ánh sáng thích hợp cho các hoàng đế và hoàng gia, và không phải là không phù hợp với những người thuộc phe Dân chủ và Cộng hoà”.
George Bissell, người tiên phong trong hoạt động tìm kiếm dầu, nằm trong số những người đầu tiên đến Titusville. Không hề toan tính, ông bỏ ra hàng trăm ngàn đô-la để thuê và mua lại các trang trại xung quanh vùng Sông dầu. Trong thư gửi vợ, ông viết: “Bọn anh tìm thấy ở đây sự náo nhiệt không ở đâu có. Dân chúng ở đây gần như là điên rồ… Anh chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng nhộn nhịp nào như vậy. Toàn bộ vùng nông thôn phía Tây này đang xúm đen xúm đỏ tại đây và những mức giá được đưa ra cho đất đai ở khu vực phụ cận, nơi có khả năng tìm thấy dầu quả là hoang đường”. Phải mất tới sáu năm Bissell mới đưa ra được nhận định này và những thăng trầm trong hành trình tìm kiếm dầu khiến ông có lý do để viết ra những dòng sau: “Anh khá ổn nhưng rất mệt. Bọn anh đã trải qua một thời kỳ quá khó khăn. Triển vọng của bọn anh chắc chắn sẽ rất sáng sủa… Bọn anh có thể sẽ trở nên vô cùng giàu có”.
Quả thực, Bissell đã trở thành một người cực giàu. Một trong các khoản đóng góp từ thiện của ông là tài trợ tiền xây phòng tập thể thao cho trường Dartmouth, nơi ông đã nhìn thấy chai dầu đem lại cho ông ý tưởng kinh doanh mới. Ông nhất định yêu cầu phòng tập này phải có sáu đường chơi bowling “để nhớ về những rắc rối kỷ luật mà ông mắc phải khi còn chưa tốt nghiệp chỉ vì niềm đam mê dành cho môn thể thao này”. Về sau, người ta nói “tên tuổi và danh tiếng của ông là một “từ cửa miệng” của những người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa trên khắp lục địa này”. Tuy nhiên, ông chủ nhà băng James Townsend, người đã chấp nhận rủi ro tài chính lớn nhất, lại không có được vinh dự mà ông cho là mình xứng đáng được nhận. Sau này, ông từng viết những lời cay đắng: “Toàn bộ kế hoạch là do tôi đề xuất, và những đề xuất của tôi đã được thực hiện. Việc huy động tiền và gửi tiền đi cũng do tôi làm. Tôi không phải là một kẻ ích kỷ nhưng sự thật là nếu tôi không làm những công việc đó thì dầu đã không thể được khai thác”. Ông còn nói thêm: “Tôi sẽ không nhắc lại những lo lắng và chịu đựng mà tôi phải trải qua để cầu vận may”.
Về phần Drake, mọi chuyện diễn ra với ông cũng không hề tốt đẹp. Ông trở thành một người mua dầu, sau đó là một đối tác trong một công ty ở Phố Wall chuyên về cổ phiếu dầu lửa. Ông là người tiêu xài hoang phí, và không phải là một doanh nhân giỏi mà là một con bạc. Tới năm 1866, Drake đã mất sạch tiền và trở thành một người nửa tàn phế, bị những cơn đau hành hạ và sống trong nghèo khổ. Trong bức thư gửi một người bạn, ông viết: “Nếu anh còn chút tình nhân ái đồng loại nào dành cho tôi và gia đình tôi, làm ơn hãy gửi cho tôi một ít tiền. Tôi đang ốm và rất cần tiền”. Cuối cùng, vào năm 1873, bang Pennsylvania đã cấp cho Drake một khoản lương hưu nhỏ trọn đời vì những cống hiến của ông, giúp ông sống những năm cuối đời bớt khó khăn.
Về cuối đời, Drake muốn khẳng định vị trí của mình trong lịch sử: “Tôi tuyên bố rằng tôi đã phát minh ra ống dẫn động và điều khiển nó. Nếu không có chiếc ống đó, họ không thể khoan xuống lòng đất trong khi đất chứa đầy những nước là nước. Tôi cũng khẳng định rằng tôi đã khoan giếng dầu đầu tiên tại nước Mỹ và có thể chỉ ra giếng dầu đó”. Ông nhấn mạnh: “Nếu tôi không làm, tới ngày hôm nay việc đó sẽ không thể được thực hiện”.
Đợt bùng nổ đầu tiên
Thật ra, tất cả những yếu tố khác bao gồm công nghệ lọc dầu, kinh nghiệm về dầu lửa và loại đèn phù hợp dùng để đốt dầu đã tồn tại trước khi Drake chứng minh được sự sẵn có của nguồn cung thông qua kỹ thuật khoan, yếu tố cuối cùng phải có cho một ngành công nghiệp mới. Và với kỹ
thuật này, loài người bỗng nhiên được trao khả năng đẩy lùi bóng tối. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là sự khởi đầu. Nói vậy là vì, sau này, khám phá của Drake sẽ truyền động lực và sức mạnh cho loài người trên thế giới, đóng vai trò trung tâm trong sự thăng trầm của các quốc gia và đế chế, và trở thành yếu tố chủ đạo trong sự biến đổi của xã hội nhân loại. Và lẽ dĩ nhiên, những điều đó sẽ xảy tới.
Điều diễn ra ngay sau đó giống như một cuộc đổ xô đi tìm vàng. Người ta nhanh chóng thuê những khu vực đất thấp trong thung lũng dòng sông Dầu nhỏ hẹp, và tới tháng 11 năm 1860, tức là 15 tháng sau khi Drake khoan được dầu, đã có khoảng 75 giếng dầu hoạt động. Cùng với chúng là vô số giếng khô nằm khắp nơi trên mặt đất. Năm 1860, như một tác giả đã nhận định, Titusville “giờ đây là nơi hội tụ của những kẻ lạ mặt hăm hở tới để mạo hiểm. Họ trao đổi giá cả bằng quyền khai thác dầu và cổ phiếu; mua và bán các mỏ dầu, thông báo về độ sâu và cơ hội hoặc lợi nhuận của các giếng, v.v… Những ai rời đi ngày hôm nay thường cho những người khác biết giếng dầu mà họ nhìn thấy sản xuất 50 thùng dầu tinh mỗi ngày… Câu chuyện này lại khiến ngày mai có nhiều người tới đây hơn. Chưa bao giờ có một bầy ong tụ tập náo nhiệt và ồn ào đến như vậy”.
Xuôi xuống hạ lưu sông Dầu, nơi nó đổ vào sông Allegheny, một thành phố có tên Cornplanter, theo tên một thủ lĩnh da đỏ Seneca, đã được đổi tên thành Thành phố Dầu. Cùng với Tutisville, thành phố này trở thành trung tâm chính cho khu vực giờ đã được biết tới với cái tên Vùng đất dầu. Không mất nhiều tiền để xây những nhà máy lọc dầu biến dầu thô thành dầu lửa và, tới năm 1860, đã có ít nhất 15 nhà máy như vậy hoạt động ở Vùng đất dầu. Ở Pittsburgh còn có thêm năm nhà máy nữa. Năm 1860, chủ một nhà máy lọc dầu đã tới thăm các mỏ dầu để tận mắt chứng kiến cuộc cạnh tranh. Ông nói: “Nếu công việc kinh doanh này thành công, ngành của tôi sẽ bị phá sản”. Người đàn ông này đã đúng. Tới cuối năm 1860, các nhà máy lọc parafin không còn hoạt động và nhanh chóng tự chuyển đổi thành những nhà máy lọc dầu. Tuy nhiên, tới lúc đó, tất cả các giếng dầu đều có sản lượng khiêm tốn và người ta phải bơm lấy dầu. Tháng 4 năm 1861, điều này đã thay đổi khi các thợ khoan tìm thấy giếng dầu đầu tiên phun thành dòng, đem lại một sản lượng đáng ngạc nhiên, lên tới 3.000 thùng mỗi ngày. Khi dầu từ giếng này phun trào lên cao, có thứ gì đó làm hơi dầu bốc ra bắt lửa. Một tiếng nổ cực lớn phát ra và một bức tường lửa khổng lồ xuất hiện, thiêu chết chín người và cháy suốt ba ngày sau. Mặc dù bị lấn át bởi thông tin gây chấn động một tuần trước đó về việc phe các bang miền Nam đã khai hỏa vào pháo đài Sumter, những phát súng mở đầu cho cuộc Nội chiến Mỹ, vụ nổ trên đã công bố cho cả thế giới biết rằng ngành công nghiệp dầu lửa non
trẻ sẽ đem lại nguồn cung dồi dào.
Sản lượng dầu ở tây Pennsylvania tăng lên nhanh chóng, từ mức khoảng 450.000 thùng vào năm 1860 lên mức 3 triệu thùng vào năm 1862. Tốc độ phát triển của thị trường không thể bắt kịp mức tăng sản lượng này. Giá dầu, từ mức 10 đô-la/thùng vào tháng 1 năm 1861, đã sụt xuống còn 50 xu vào tháng 6. Tới cuối năm 1861, giá dầu chỉ còn có 10 xu/thùng. Nhiều công ty khai thác dầu không thể tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, mức giá rẻ như vậy đã đem lại cho dầu lửa của Pennsylvania một chiến thắng nhanh chóng và quyết định trên thị trường. Chẳng mấy chốc, dầu đã thu hút được người tiêu dùng và đánh bại parafin cũng như các loại nhiên liệu thắp sáng khác. Tuy nhiên, nhu cầu cũng nhanh chóng đuổi kịp nguồn cung và, đến cuối năm 1862, giá dầu tăng tới 4 đô-la/thùng. Tới tháng 9 năm 1863, giá dầu đạt mức 7,25 đô la/thùng. Dù giá dầu có biến động ra sao, câu chuyện về những con người bỗng chốc giàu lên vẫn tiếp tục khiến từng đoàn người đổ về Vùng đất dầu. Trong chưa đầy hai năm, một giếng dầu đáng được ghi nhớ đã đem lại khoản lợi nhuận 15.000 đô-la cho mỗi một đô-la tiền vốn đầu tư.
Cuộc Nội chiến Mỹ không thể cản trở sự bùng nổ dữ dội của các hoạt động khai thác ở Vùng đất dầu. Trái lại, thực tế này lại trở thành động lực lớn đối với sự phát triển của các hoạt động đó. Do chiến tranh, việc vận chuyển dầu nhựa thông từ phía Nam bị gián đoạn, dẫn đến tình trạng nhiên liệu camphene, loại chất đốt rẻ tiền làm từ dầu nhựa thông, thiếu trầm trọng. Dầu lửa lọc từ dầu thô của Pennsylvania ngay lập tức lấp đầy chỗ trống này và phát triển các thị trường ở miền Bắc với tốc độ nhanh chóng hơn bất kỳ một loại nhiên liệu nào khác. Cuộc nội chiến thậm chí còn có tác động lớn hơn. Khi các bang miền Nam ly khai, khu vực miền Bắc không còn được thu lợi từ việc xuất khẩu bông, một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Mỹ. Sự tăng trưởng nhanh chóng của xuất khẩu dầu sang châu Âu đã giúp bù đắp mất mát đó và đem lại nguồn thu nhập quan trọng từ nước ngoài. Cùng với tình trạng hỗn độn và mất trật tự, cuộc nội chiến kết thúc đã giải phóng hàng ngàn, hàng ngàn cựu chiến binh. Họ đổ tới Vùng đất dầu để làm lại cuộc đời và tìm kiếm cơ hội làm giàu trong đợt bùng nổ mới của những rủi may do mức giá dầu hấp dẫn tăng cao tới 13,75 đô-la/thùng tạo ra. Có thể cảm nhận được những tác động của cơn sục sôi vì dầu này trên khắp khu vực Bờ Đông khi mà hàng trăm công ty dầu lửa mới được thành lập. Tại khu vực trung tâm tài chính của New York, không có đủ văn phòng cho những công ty mới này thuê. Cổ phiếu của các công ty dầu lửa được mua nhanh đến nỗi, một công ty mới thành lập đã bán sạch số cổ phiếu phát hành chỉ trong vòng bốn giờ đồng hồ. Một chủ ngân hàng người Anh hết sức ngạc nhiên trước “hàng trăm ngàn người lao động khôn ngoan, những người thích lợi nhuận từ
dầu lửa hơn là những khoản tiền lãi tiết kiệm nhỏ từ tiền gửi ngân hàng”. Cũng giống như New York, thủ đô Washington cũng không tránh được sự bùng nổ mạnh mẽ này. Nghị sĩ James Garfield, một nhà đầu tư lớn đầu tư vào các mỏ dầu và sau đó là Tổng thống Mỹ, đã thông báo với một doanh nhân cho thuê mỏ dầu việc ông đã thảo luận vấn đề dầu lửa với một số thành viên khác của Quốc hội, “những người cũng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh dầu, vì ông cần phải biết rằng, cơn sốt dầu đã tấn công vào Quốc hội với mức độ không hề nhẹ nhàng chút nào”.
Cơn sốt đổ xô đi tìm dầu được thể hiện rõ nét nhất trong câu chuyện kỳ lạ về thị trấn Pithole nằm bên con sông cùng tên, cách Titusville khoảng 15 dặm. Tại đó, vào tháng 1 năm 1865, giếng dầu đầu tiên được phát hiện và, tới tháng 6 năm đó, có tất cả bốn giếng phun với sản lượng 2.000 thùng mỗi ngày, chiếm 1/3 tổng sản lượng của Vùng đất dầu và mọi người phải đi lại rất khó khăn trên những con đường chật ních xe ngựa chất đầy những thùng chứa dầu. Một du khách tới đây đã nhận xét: “Toàn bộ nơi này bốc mùi giống như những binh đoàn mắc bệnh tiêu chảy”. Giá đất thì dường như không có giới hạn nào. Một trang trại gần như vô giá trị vài tháng trước đó được bán lại với giá 1,3 triệu đô-la vào tháng 7 năm 1865, rồi hai triệu đô-la vào tháng 9 năm đó. Cùng tháng này, sản lượng dầu thô ở khu vực xung quanh sông Pithole đạt mức 6.000 thùng mỗi ngày, tương đương 2/3 sản lượng của toàn bộ Vùng đất dầu. Và, cũng tính đến tháng 9 năm 1865, vùng đất trước đây hoang vu, không ai biết tới này đã trở thành một thị trấn với 15.000 người. Tờ New York Herald đăng bài viết tổng kết những lĩnh vực làm ăn chủ yếu ở Pithole là “rượu và cho thuê”. Tờ The Nation nhận định thêm: “Có thể khẳng định rằng, số kẻ say rượu tại thị trấn này nhiều hơn bất kỳ thị trấn nào khác có cùng diện tích trên thế giới”. Tuy nhiên, Pithole đang dần được kính nể hơn với hai ngân hàng, hai trạm điện báo, một tòa báo, một nhà máy nước, một công ty cứu hoả, hàng chục tòa nhà và công ty lớn, hơn 15 khách sạn – trong đó có ít nhất ba khách sạn đạt tiêu chuẩn khách sạn sang trọng ở thành phố lớn – và một bưu điện chuyển phát hơn 5.000 bức thư mỗi ngày.
Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, dầu của Pithole đột ngột cạn kiệt, cũng nhanh chóng như khi người ta phát hiện ra nó. Đối với người dân trong vùng, đó là một thảm họa, giống như thảm họa được nhắc tới trong Kinh Thánh. Tháng 1 năm 1866, một năm sau lần đầu tiên người ta tìm thấy dầu tại đây, hàng ngàn người đã bỏ đi để tìm những niềm hy vọng và những cơ hội mới. Thị trấn vụt xuất hiện từ vùng đất hoang sơ ngày nào lại trở nên hoang vắng. Lửa thiêu rụi những tòa nhà, và những khung gỗ bị bỏ lại được dỡ xuống dùng vào việc xây dựng tại nơi khác hoặc làm củi đốt cho nông
dân sống ở những ngọn đồi quanh đó. Một mảnh đất ở Pithole được bán với giá 2 triệu đô-la vào năm 1865 lại được rao bán với giá chỉ 4,37 đô-la vào năm 1878.
Ngay cả khi thị trấn Pithole trở nên hoang tàn, cơn sốt tìm dầu vẫn bùng phát đâu đó và tấn công vào những vùng lân cận. Sản lượng dầu của Vùng đất dầu tăng vọt tới 3,6 triệu thùng vào năm 1866. Cơn ”Khát” dầu dường như không có giới hạn và dầu không chỉ là một chất đốt hay chất bôi trơn mà còn là một phần của văn hóa quần chúng. Dân Mỹ nhảy điệu ponka “Dầu Mỹ”, điệu gallop “Cơn sốt dầu” và hát những bài hát như “Những công ty dầu nổi tiếng” hay “Nỗi ám ảnh về dầu”.
Có nhiều loại dầu nổi trên mặt nước, dầu gan cá, dầu thầu dầu, dầu thơm;
Những loại dầu có thể làm người ốm khỏe lại và đi lại được.
Nhưng dầu của chúng tôi là kết quả từ một cuộc trình diễn kỳ công: Chúng tôi chỉ lấy dầu ra từ giếng,
Và khiến người ta phát điên với “Nỗi ám ảnh về dầu”.
Có anh láng giềng Smith, một thanh niên nghèo khó, chẳng có nổi một xu;
Mặc quần áo vá chằng vá đụp và luôn xoáy đồ của người khác.
Nhưng bây giờ, anh ta ăn mặc thật sang trọng, đeo kim cương, bao tay và cầm batoong;
Và anh ta thành công nhờ “Nỗi ám ảnh về dầu”.
Bùng nổ và vỡ tung
Ngay sau cuộc đua tìm dầu là cuộc đua sản xuất thứ nhiên liệu này nhanh nhất và nhiều nhất. Việc ồ ạt sản xuất để đạt “sản lượng dồi dào” luôn đe dọa các hồ chứa, khiến áp suất khí sớm bị mất đi và như vậy khả năng phục hồi thấp hơn. Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến hoạt động khai thác như vậy trở thành một thông lệ. Một là do sự thiếu hiểu biết về địa chất. Hai là những khoản lợi nhuận lớn nhanh chóng. Ba là do tính chất của các điều khoản hợp đồng cho thuê đất yêu cầu phải nộp lãi trong quá trình sản xuất ở mức nhanh nhất có thể.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành văn bản pháp quy về sản xuất dầu lửa của Mỹ và cấu trúc ban đầu của ngành công nghiệp này
từ những ngày đầu tiên là “quy tắc nắm giữ”, một đạo luật dựa trên thông luật của Anh. Nếu một con vật hoặc một con chim đang bị săn chạy hoặc bay từ một điền trang này sang một điền trang khác, người chủ của điền trang thứ hai hoàn toàn có quyền giết chết con vật hoặc con chim đó trên đất của ông ta. Tương tự như vậy, những người chủ đất có quyền lấy ra bất kỳ thứ tài sản nào nằm dưới mặt đất, theo như một quan tòa người Anh đã ra phán quyết, không một ai có thể chắc chắn là điều gì đang thật sự chuyển động “trong những mạch ngầm dưới lòng đất”.
Trong trường hợp sản xuất dầu, quy tắc nắm giữ có nghĩa là nhiều chủ sở hữu bề mặt đất cùng đứng trên một mỏ dầu chung được phép khai thác tất cả lượng dầu họ có thể khai thác, thậm chí cả khi họ làm cạn kiệt mỏ dầu đó nhiều hơn những người khác, hoặc làm giảm sản lượng và những giếng gần đó của các nhà sản xuất khác xung quanh. Do đó, chắc chắn chủ sở hữu của những giếng dầu gần nhau sẽ đua tranh quyết liệt để sản xuất nhiều dầu nhất, nhất để tránh tình trạng mỏ dầu bị kẻ khác làm cạn kiệt. Động lực thúc đẩy hoạt động khai thác dầu nhanh chóng góp phần tạo ra sự bất ổn định của sản lượng và giá cả. Quy tắc nắm giữ đã dẫn tới những tổn thất và hư hại đáng kể, ảnh hưởng tới sản lượng cuối cùng mà một mỏ dầu có thể mang lại. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận những ảnh hưởng của quy tắc này trên phương diện khác. Đó là, nó đã tạo ra cơ hội cho ngày càng nhiều người gia nhập ngành công nghiệp dầu lửa và đạt trình độ tinh thông hơn với những kỹ năng khai thác luôn được nâng cao. Và việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất nhanh hơn, cũng tạo ra một thị trường rộng lớn hơn.
Cơn sốt khai thác dầu đã tạo ra ở Vùng đất dầu một cảnh tượng hỗn độn đầy những công nhân chở dầu, những lều lán tạm bợ và những ngôi nhà gỗ dựng vội, những khách sạn với năm hay sáu chiếc đệm rơm nhồi nhét trong một phòng đơn, những giàn khoan và thùng chứa dầu, với những con người tràn đầy năng lượng vì hy vọng và những tin đồn, và mùi dầu cay xè. Ở chỗ nào cũng vậy, có một thứ không thể tránh được, đó là bùn lầy đọng quanh năm. Vào thời đó, có hai tác giả đã nhận xét: “Bùn của sông Dầu đã nổi tiếng vào những năm trước và cả sau này. Những ai từng nhìn thấy và phải lội qua thứ bùn đó sẽ nhớ mãi. Lớp bùn dày và đáng tởm tới mức những khi trời ẩm, chúng bao phủ tất cả những con đường chính và phụ. Trong khi đó, những con phố của thị trấn là những điểm vận chuyển chính, trông giống như những chiếc hồ chứa chất lỏng hay những dòng bùn”.
Một số người chứng kiến cảnh tượng đổ xô khai thác dầu, nhìn vào “những kẻ lừa đảo” đến đây vì mục đích kiếm tiền nhanh và nhớ lại những ngọn đồi và ngôi làng yên tĩnh của Pennsylvania trước khi có cuộc bùng nổ này. Họ tự hỏi điều gì đã xảy ra và tại sao con người lại có thể thay đổi và bị
hạ thấp giá trị tới mức như vậy vì nỗi ám ảnh về sự giàu có. Năm 1865, một nhà báo địa phương đã viết: “Cơn sốt dầu và đất ở khu vực này đã trở thành một dạng bệnh dịch. Bệnh dịch này đeo bám mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và mọi điều kiện sống. Con người không còn nói, nhìn hay hành động như sáu tháng trước đây. Đất đai, việc cho thuê, các hợp đồng, những lời từ chối, giấy tờ, thỏa thuận, lãi suất, và mọi thứ liên quan đến dầu mỏ là tất cả những gì họ có thể nói tới. Đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp những khuôn mặt lạ và một nửa cư dân ở đây xuất hiện ở New York hay Philadelphia nhiều hơn ở nhà… Tòa án ngừng hoạt động; vành móng ngựa mất đi giá trị đạo đức; những mối quan hệ xã hội bị phá vỡ; nhà thờ bị bỏ quên; và tất cả những thói quen, những khái niệm và hiệp hội đã tồn tại trong nửa thế kỷ của chúng ta bị đảo lộn trong cuộc chiến giành giật sự giàu có. Một số người nghèo đã trở nên giàu có; một số người giàu đã giàu hơn và một số người giàu đã mất tất cả những gì họ đầu tư”.
Tác giả này bày tỏ một suy nghĩ cuối cùng là: “Sớm muộn gì chiếc bong bóng lớn cũng vỡ tung”.
Chiếc bong bóng đó đã nổ. Đó là kết cục tất yếu của tình trạng đầu cơ và sản xuất dư thừa quá mức. Năm 1866-1867, khủng hoảng thừa đã nhấn chìm ngành công nghiệp dầu lửa, giá dầu giảm xuống còn có 2,4 đô-la/thùng. Trong khi nhiều công ty đã dừng khoan tìm dầu, một số khác vẫn tiếp tục công việc và nhiều mỏ dầu mới đã được tìm thấy ở những khu vực ngoài vùng sông Dầu. Ngoài ra, ngành công nghiệp dầu lửa đã áp dụng những cải tiến và các biện pháp tổ chức tiên tiến hơn. Ngay từ khi những mỏ dầu đầu tiên được phát hiện, những chiếc xe ngựa chất đầy các thùng dầu đã làm tắc nghẽn những con đường ở Vùng đất dầu. Không chỉ có thế, nắm thế độc quyền, những người đánh xe còn đưa ra giá cắt cổ, tới mức giá vận chuyển một thùng dầu trên quãng đường đầy bùn lầy dài vài dặm tới ga xe lửa còn cao hơn so với giá vận chuyển nó bằng xe lửa từ miền tây bang Pennsylvania tới New York. Thế độc quyền của những người đánh xe ngựa đã khiến người ta nỗ lực phát triển một phương thức vận chuyển khác để thay thế, đó là vận chuyển bằng đường ống. Trong giai đoạn 1863-1865, bất chấp lời nhạo báng của dư luận, những đường ống làm bằng gỗ đã chứng tỏ chúng có thể vận chuyển dầu hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn. Nhận thấy địa vị đang bị đe dọa, những người đánh xe ngựa phản ứng lại bằng những lời lẽ dọa nạt, những cuộc tấn công vũ trang và đốt phá. Nhưng đã quá muộn. Đến năm 1866, các đường ống đã được nối tới hầu hết các giếng dầu ở Vùng đất dầu và được nối vào một hệ thống kết nối đường ống rộng lớn hơn dẫn tới đường ray.
Các công ty lọc dầu cần phải mua được dầu và việc này cũng diễn ra trong tình trạng hỗn độn. Ban đầu, những người đi mua dầu ngồi trên lưng ngựa, đi
từ giếng dầu này tới giếng dầu khác và thu mua theo kiểu được chăng hay chớ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa, một hệ thống mua bán có trật tự hơn đã nổi lên. Những sàn giao dịch dầu mỏ không chính thức, nơi người mua và người bán có thể gặp gỡ và thỏa thuận giá cả, đã hình thành trong một khách sạn ở Titusville và tại khu vực gần đường ray xe lửa ở Thành phố Dầu. Vào đầu những năm 1870, có nhiều sàn giao dịch dầu lửa chính thức hơn xuất hiện ở Titusville, Thành phố Dầu, một số nơi khác ở Vùng đất dầu và New York. Dầu được mua bán theo ba phương thức. Mua bán trao tay là phương thức trong đó việc giao hàng và thanh toán được tiến hành ngay lập tức. Mua thường xuyên là phương thức mà giao dịch được hoàn thành trong vòng 10 ngày. Còn mua kỳ hạn là phương thức trong đó một khối lượng hàng xác định sẽ được bán ở một mức giá xác định vào một thời gian đã định trước trong tương lai. Mức giá kỳ hạn là trọng tâm cho việc đầu cơ và dầu lửa trở thành “thứ hàng hóa đầu cơ được yêu thích của thời đại”. Người mua ký hợp đồng để nhận dầu và trả mức giá theo hợp đồng hoặc trả hay nhận khoản chênh lệch giữa mức giá hợp đồng và mức giá “trung bình” ở thời điểm thực hiện hợp đồng. Do đó, người mua có thể thu được một khoản lợi nhuận hấp dẫn hoặc chịu một khoản lỗ lớn mà thậm chí không cần phải nắm giữ lượng dầu đó.
Cho đến khi Sở giao dịch dầu lửa Titusville được mở vào năm 1871, ngành dầu lửa đang trên đà trở thành một ngành công nghiệp rất lớn, một ngành công nghiệp sẽ làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của hàng triệu con người. Nói chung, thập niên 1860 ghi nhận những bước tiến chóng mặt từ vụ thử nghiệm liều lĩnh của Drake. Đây thật sự là bằng chứng dài lâu về “một thứ năng lượng tuyệt diệu mà với nó, những tư duy xuất chúng của nước Mỹ sẽ tham gia bất kỳ một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp hứa hẹn lợi nhuận cao này”. Trực giác của Bissell và phát hiện của Edwin Drake cũng như lòng kiên trì của họ đã mở ra một kỷ nguyên đầy biến động, một kỷ nguyên của tài năng và sự cách tân, của những thỏa thuận và những vụ lừa đảo, của những tài sản được tạo ra, bị mất đi và những vận may không bao giờ được tận dụng, của những công việc vô cùng nặng nhọc và nỗi thất bại cay đắng, và của sự tăng trưởng mạnh mẽ đến không ngờ.
Và người ta kỳ vọng điều gì cho tương lai của ngành công nghiệp dầu lửa? Có những người nhìn vào những gì xảy ra quá nhanh chóng ở miền tây bang Pennsylvania và nhận thấy ở phía trước những cơ hội còn lớn hơn nhiều. Họ hình dung ngành công nghiệp dầu lửa với một quy mô mà không mấy ai ở Vùng đất dầu có thể tưởng tượng ra. Tuy nhiên, cùng lúc đó, họ cũng nhận thấy những bất ổn và lộn xộn, những biến động và sự điên cuồng. Họ có những ý tưởng rất mạnh mẽ của riêng mình về ngành công nghiệp dầu lửa
nênđượctổchứcvàpháttriểnrasao,vàhọđãtiếnhànhnhữngkếhoạch riêngcủamình.
CHƯƠNG 2:
“KẾ HOẠCH CỦA CHÚNG TA”: JOHN D. ROCKEFELLER VÀ SỰ CẤU KẾT TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU LỬA MỸ
Một vụ bán đấu giá kỳ cục đã diễn ra vào một ngày tháng 1 năm 1865 tại Cleveland, bang Ohio. Thành phố ồn ào đã được lợi từ cả cuộc Nội chiến Mỹ lẫn sự bùng nổ của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ tiếp tục thịnh vượng nhờ kỷ nguyên phát triển của nền công nghiệp Mỹ. Sự bất đồng dai dẳng giữa hai nhân vật chính của một trong những công ty lọc dầu thành công nhất thành phố này, về tốc độ mở rộng công việc kinh doanh, đã nổ ra. Maurice Clark, nhân vật thận trọng hơn, đe dọa giải thể công ty và John D. Rockefeller đối thủ của Clark chấp nhận lời đe dọa này. Sau đó, Clark và Rockefeller thỏa thuận tổ chức một cuộc bán đấu giá riêng giữa hai người, ai ra giá cao nhất sẽ có được công ty. Và họ quyết định tiến hành vụ bán đấu giá ngay lập tức, ngay trong văn phòng công ty.
Mức giá ban đầu được đưa ra là 500 đô-la nhưng nhanh chóng tăng lên. Chẳng mấy chốc, Maurice Clark đã ra giá 72.000 đô-la. Rockefeller bình thản đưa ra mức 72.500 đô-la. Clark vung tay lên trời, nói: “Tôi sẽ không trả cao hơn nữa đâu, John. Công ty là của ông”. Hai người đàn ông bắt tay từ biệt nhau.
Nửa thế kỷ sau, Rockefeller nói: “Tôi mãi mãi coi đó là ngày khởi đầu cho những thành công tôi đạt được trong đời”.
Cái bắt tay đó cũng là dấu hiệu cho sự khởi đầu của ngành công nghiệp dầu lửa hiện đại, đem lại trật tự thay thế cho tình trạng hỗn loạn của sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Pennsylvania. Đó là trật tự được Công ty Standard Oil xây dựng nên. Trong quá trình đạt được sự thống trị và kiểm soát toàn bộ lĩnh vực buôn bán dầu lửa trên thế giới, Công ty Standard Oil đã phát triển thành một doanh nghiệp phức hợp có quy mô toàn cầu, kinh doanh loại chất đốt giá rẻ, thứ “ánh sáng mới”, tới những vùng xa xôi nhất trên trái đất. Mặc dù hoạt động theo những phương thức nhẫn tâm, tham vọng và không kiểm soát của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX song Standard Oil đã mở ra một kỷ nguyên mới, bởi nó đã phát triển thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất trên thế giới.
“Một người ngăn nắp đến cực đoan”
Đứng đầu Standard Oil chính là người đàn ông trẻ tuổi đã giành chiến thắng trong cuộc bán đấu giá tại Cleveland năm 1865. Khi đó, ở tuổi 26, John D. Rockefeller đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ. Cao và gầy, ông khiến người khác có cảm giác ông là một người cô độc, lầm lì, lãnh đạm và khổ hạnh. Vẻ lặng lẽ khó lay chuyển cùng đôi mắt xanh sắc lạnh trên khuôn mặt đầy góc cạnh với chiếc cằm nhọn của ông làm người ta cảm thấy không thoải mái và e dè. Dường như người ta thấy ông có thể nhìn xuyên thấu họ.
Rockefeller là nhân vật quan trọng nhất trong việc định hình ngành công nghiệp dầu lửa. Người ta cũng có thể nhận định tương tự về vai trò của ông trong lịch sử phát triển của nền công nghiệp Mỹ cũng như sự hình thành của loại hình doanh nghiệp hiện đại. Được ngưỡng mộ như một bậc kỳ tài về quản lý và tổ chức, Rockefeller đồng thời cũng là doanh nhân Mỹ bị căm ghét và nguyền rủa nhiều nhất, một phần do ông quá tàn nhẫn và một phần vì ông quá thành công. Người đời sẽ cảm nhận rõ ràng di sản trường tồn của Rockefeller, xét về ảnh hưởng mạnh mẽ của ông đối với ngành công nghiệp dầu lửa và bản thân chủ nghĩa tư bản, cũng như tác động của khoản từ thiện khổng lồ của ông. Di sản đó còn là những hình ảnh và những tỳ vết mà ông vĩnh viễn khắc vào tâm trí của công chúng.
Rockefeller sinh năm 1839 tại một vùng nông thôn ở New York và qua đời năm 1937, thọ gần 100 tuổi. Cha ông, William Rockefeller, là một nhà buôn gỗ và muối. Sau khi chuyển cả gia đình tới sống ở bang Ohio, nhà buôn này tự xưng là “bác sĩ William Rockefeller” để bán các bài thuốc thảo dược và các loại biệt dược. William Rockefeller thường vắng nhà dài ngày vì ông còn có một bà vợ khác ở Canada.
Tính cách của John D. Rockefeller đã được định hình ngay từ khi còn bé. Ông là một người sùng đạo, chuyên tâm, kiên trì, kỹ tính, hay chú ý đến tiểu tiết, có năng khiếu và niềm đam mê với những con số, đặc biệt là những con số liên quan đến tiền bạc. Lên bảy tuổi, ông đã thực hiện thành công vụ kinh doanh đầu tiên của mình – bán gà. Cha ông dạy các con các kỹ năng buôn bán từ rất sớm. Có người kể lại, William Rockefeller từng khoe rằng: “Tôi buôn bán với bọn trẻ, lừa chúng và đánh chúng bất cứ khi nào có thể. Tôi muốn mài giũa bọn chúng”. Khi còn đi học, John D. Rockefeller rất giỏi toán, đặc biệt là môn tính nhẩm.
Dự tính phải đạt được “một điều gì đó lớn lao”, khi 16 tuổi, Rockefeller đã đi làm cho một công ty vận tải hàng hóa đường biển ở Cleveland. Năm 1859, ông và Maurice Clark hợp tác mở công ty riêng để buôn bán hàng hóa. Công ty này phát đạt nhờ nhu cầu của cuộc Nội chiến Mỹ và sự mở cửa của khu
vực phía Tây. Về sau này, Maurice Clark bực mình khi nhớ lại rằng Rockefeller là người “ngăn nắp đến cực đoan”. Khi công ty của hai người phát triển, Rockefeller có thói quen “tự nói chuyện” với chính mình, tự khuyên răn mình, tự cảnh báo mình về những cạm bẫy, về đạo đức cũng như về thực tế. Công ty này buôn lúa mì của Ohio, muối của Michigan và thịt lợn của Illinois. Trong vòng hai năm sau phát hiện của “Đại tá” Drake, Clark và Rockefeller cũng đã buôn bán và kiếm được tiền từ dầu của Pennsylvania.
Dầu lửa và những câu chuyện khác về làm giàu nhanh chóng đã choáng ngợp trí tưởng tượng của các doanh nhân ở Cleveland khi một tuyến đường ray mới được xây dựng vào năm 1863, giúp khu vực này có thể cạnh tranh trong lĩnh vực buôn bán dầu. Hàng loạt nhà máy lọc được xây dựng dọc theo những tuyến đường sắt tới Cleveland. Nhiều nhà máy lọc dầu thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà máy của Rockefeller và Clark thì hoàn toàn khác. Ban đầu, Rockefeller nghĩ rằng lọc dầu chỉ là một lĩnh vực phụ so với buôn bán hàng hóa. Nhưng chỉ trong một năm, khi nhà máy lọc dầu đem lại khá nhiều lợi nhuận, ông đã thay đổi suy nghĩ. Giờ đây, vào năm 1865, sau khi thành công trong cuộc đấu giá với Clark, Rockefeller, lúc này là một người đàn ông trẻ tuổi khá giàu có, trở thành chủ nhân duy nhất của một công ty sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất trong số 30 nhà máy lọc dầu ở Cleveland.
Cuộc chơi lớn
Rockefeller giành thắng lợi đầu tiên của mình trong lĩnh vực lọc dầu vào một thời điểm hoàn hảo. Nội chiến Mỹ kết thúc năm 1865 đã mở ra cho nước Mỹ một kỷ nguyên mới của việc mở rộng các hoạt động kinh tế trên quy mô lớn và tốc độ phát triển nhanh chóng, của hoạt động đầu cơ mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt, của hiện tượng cấu kết và độc quyền. Các công ty lớn nổi lên cùng với những tiến bộ kỹ thuật trong nhiều ngành công nghiệp đa dạng như thép, sản xuất đồ hộp và giao thông. Số lượng người nhập cư lớn cùng với việc mở cửa khu vực phía Tây đã tạo ra những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao. Quả thực, trong ba thập kỷ rưỡi cuối thế kỷ XIX, các hoạt động kinh doanh ở Mỹ chuyên nghiệp hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong lịch sử của đất nước này. Và nhiệt huyết, tham vọng, trí tuệ của những con người trẻ tuổi đã bị thỏi nam châm này hút chặt. Những con người này bị cuốn vào thứ mà Rockefeller gọi là “Cuộc chơi lớn” – một cuộc chiến đấu để hoàn thành, để dựng xây và để kiếm tiền, vì chính tiền là một bằng chứng của sự thành đạt. Cuộc chơi được tiến hành với những phát minh và cách tổ chức mới này đã biến nền cộng hòa nông nghiệp vừa bị cuộc nội chiến đẫm máu tàn phá thành cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới.
Trong cơn sốt dầu lửa, Rockefeller, khi đó đang dồn hết tâm trí cho Cuộc
chơi lớn, tiếp tục đầu tư cả lợi nhuận lẫn những khoản tiền đi vay vào lĩnh vực lọc dầu. Ông xây thêm nhà máy thứ hai và cần thị trường mới tương xứng với công suất của các nhà máy này. Năm 1866, Rockefeller thành lập thêm một công ty ở New York để quản lý hoạt động buôn bán trên bờ Đại Tây Dương và xuất khẩu dầu lửa. Ông để em trai mình là William phụ trách công ty này. Năm đó, Rockefeller đạt doanh thu hơn 2 triệu đô-la.
Mặc dù thị trường dầu lửa và dầu nhờn đã phát triển, song tốc độ phát triển của nó vẫn không tương xứng với sự tăng trưởng của hoạt động lọc dầu. Có quá nhiều công ty cùng cạnh tranh để giành giật khách hàng. Không phải bỏ ra nhiều vốn hay kỹ năng để xây dựng một nhà máy lọc dầu. Sau này, Rockefeller nhớ lại: “Người người đầu tư vào lọc dầu, từ những người làm nghề giết mổ, thợ làm bánh tới thợ làm nến”.
Rockefeller làm việc hết mình để phát triển công ty, bằng cách mở rộng các cơ sở, cố gắng duy trì và nâng cao chất lượng trong khi luôn kiểm soát chi phí. Ông đã tiến những bước đầu tiên trong việc hợp nhất các khâu cung cấp và phân phối vào bên trong doanh nghiệp nhằm mục đích cách ly hoạt động kinh doanh chung khỏi sự biến động của thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty của Rockefeller đã mua những vùng đất rộng lớn trồng loại gỗ sồi trắng để sản xuất thùng chứa dầu riêng. Ngoài ra, công ty còn mua nhiều xe téc riêng và các nhà kho riêng ở New York cũng như những con thuyền riêng trên sông Hudson. Ngay từ đầu, Rockefeller cũng đặt ra một quy tắc khác mà ông sùng bái, đó là hình thành và duy trì khả năng tài chính mạnh. Cuối thập kỷ 1860, ông xây dựng được nguồn lực tài chính đủ để công ty không còn phải phụ thuộc vào các ngân hàng, các công ty tài chính và các nhà đầu cơ mà ngành đường sắt cũng như các ngành công nghiệp khác vẫn bị lệ thuộc. Tiền bạc không chỉ giúp công ty của Rockefeller tránh được tình trạng vỡ nợ và làm ăn thua lỗ đang đẩy những đối thủ cạnh tranh của ông vào chân tường mà còn tạo cơ hội lợi dụng sự thua lỗ của các đối thủ cạnh tranh để thu thêm lợi nhuận.
Có thể nhận thấy rõ một trong những năng lực lớn của Rockefeller là tầm nhìn về xu hướng của toàn bộ ngành công nghiệp dầu lửa, và kiên quyết chỉ đạo công ty vận động theo xu hướng này. Sau này, ông nói: “Tôi bắt đầu công việc kinh doanh khi còn là một thủ thư. Tôi đã học được sự tôn trọng đối với những con số và sự thật nhỏ nhất”. Rockefeller can thiệp vào mọi chi tiết và khía cạnh trong công việc kinh doanh của công ty, thậm chí cả những chi tiết chẳng dễ chịu chút nào, theo đúng nghĩa đen của từ này. Ông giữ một bộ vét cũ rích và luôn mặc bộ vét này bất cứ khi nào đi tới Vùng đất dầu, lặn lội trên những khu vực ngập bùn để tìm mua dầu. Kết quả của hoạt động kinh doanh mà Rockefeller vững chí theo đuổi là, đến nửa sau của thập kỷ
1860, ông sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất thế giới.
Năm 1867, Rockefeller chiêu nạp một nhân vật trẻ tuổi tên là Henry Flagler. Vai trò của Flagler đối với sự hình thành và phát triển của Standard Oil cũng lớn như ảnh hưởng của Rockefeller. Năm 14 tuổi, Flager là nhân viên bán hàng của một bách hóa tổng hợp và, năm 25 tuổi, ông thành công với một nhà máy nhỏ nấu rượu whiskey ở bang Ohio. Năm 1858, ông bán nhà máy rượu vì những ảnh hưởng của rượu tới mặt đạo đức con người. Sau đó, Flagler nhảy vào lĩnh vực sản xuất muối ở bang Michigan. Tuy nhiên, do cạnh tranh khốc liệt và tình trạng nguồn cung vượt quá cầu, ông lâm vào cảnh phá sản. Sự cố này thức tỉnh ông, một người ban đầu từng kiếm được tiền rất dễ dàng. Đã trưởng thành nhờ những bài học đắt giá, Flagler là một người luôn lạc quan và có quyết tâm làm lại mọi thứ. Vụ phá sản kia khiến ông có niềm tin sâu sắc vào giá trị của việc “cộng tác” giữa các nhà sản xuất cũng như ác cảm đối với điều mà ông sau này gọi là “cạnh tranh không phanh”. Ông kết luận, hợp tác và liên kết là điều cần thiết để giảm thiểu những rủi ro trong thế giới tư bản mong manh. Như sau này Flagler nói, ông còn học được một bài học khác: “Hãy tỉnh táo đánh cược vào sự phát triển của đất nước”. Flagler sẵn sàng và hăm hở muốn đặt cược vào nước Mỹ sau Nội chiến.
Flagler trở thành người đồng nghiệp gần gũi, người bạn thân thiết nhất mà Rockefeller từng có. Flagler còn có một câu châm ngôn khác về mối quan hệ giữa ông với một Rockefeller xa cách: “Tình bạn xây dựng trên nền tảng công việc kinh doanh sẽ tốt đẹp hơn là công việc kinh doanh xây dựng trên nền tảng tình bạn”. Tràn đầy năng lượng và quyết tâm, Flagler rất hợp với một người nghiêm khắc và cẩn thận như Rockefeller, vốn rất mong muốn có được một cộng sự “giàu nghị lực và hăng hái”. Tuy nhiên, có người lại coi Flagler là “một kẻ tư lợi trơ trẽn, vô liêm sỉ, vô lương tâm và dám làm bất cứ điều gì để có được thành công”. Nhiều năm sau, sau khi cùng với Rockefeller kiếm được một khối tài sản khổng lồ, Flagler lại khởi động một cuộc tìm kiếm mới, trong sự phát triển của bang Florida. Ông xây dựng các tuyến đường sắt từ bờ biển phía đông của bang này tới quần đảo Keys để mở cửa cho khu vực mà ông gọi là “vùng Riviera của nước Mỹ”, xây dựng thành phố Miami và bãi biển West Palm.
Tuy nhiên, đó là chuyện của tương lai. Còn vào lúc này, Rockefeller và Flagler đang cùng chung lưng đấu cật, ngồi cùng một văn phòng, bàn làm việc kê sát nhau. Họ chuyển qua chuyển lại cho nhau những bản nháp thư gửi khách hàng và nhà cung cấp cho tới khi những bức thư đó diễn tả đúng ý họ. Tình bằng hữu của họ là công việc kinh doanh, cái mà họ lúc nào cũng thảo luận, dù khi ở văn phòng, khi ăn trưa ở Câu lạc bộ Union, hay khi cùng
nhau đi từ văn phòng về hai ngôi nhà của họ ở cách đó không xa. Rockefeller nói: “Những lúc chúng tôi đi bộ như thế là những lúc chúng tôi đã thoát khỏi những ngắt quãng khi ở công ty. Chúng tôi cùng nhau suy nghĩ, cùng bàn thảo và cùng lên kế hoạch”.
Flagler là người lập và thực hiện các kế hoạch giao thông vận tải; những kế hoạch này quyết định thành công của Standard Oil vì nó đem lại cho công ty một sức mạnh có tính chất quyết định trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ khác trong tương lai. Bằng những dự án táo bạo trên (cũng trên cơ sở các dự án giao thông), địa vị và ưu thế vượt trội của Standard Oil đã được thiết lập. Nếu không có một Flagler tài năng và năng nổ, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có một Standard Oil như cả thế giới đã biết tới.
Sức mạnh và quy mô của Standard Oil đã giúp công ty này được hưởng khấu trừ cước vận tải đường sắt. Nhờ đó, mức phí Standard Oil phải trả thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác và đây là một lợi thế rất lớn xét về mặt định giá hàng bán và lợi nhuận. Sau đó, những khoản khấu trừ này trở thành chủ đề gây tranh cãi gay gắt. Nhiều người buộc tội Standard Oil đã buộc các công ty vận tải đường sắt khấu trừ nhằm giảm giá hàng bán, cạnh tranh bất bình đẳng với các đối thủ khác. Tuy nhiên, cuộc cạnh tranh giữa các công ty vận tải đường sắt quyết liệt đến nỗi những khoản ưu đãi và khấu trừ, ở dạng này hay dạng khác, trở thành hoạt động phổ biến trên khắp nước Mỹ, đặc biệt đối với những khách hàng lớn và thường xuyên. Được Standard Oil hậu thuẫn, Flagler luôn giành được những thỏa thuận tốt nhất.
Tuy nhiên, Standard Oil không chỉ dừng lại ở những khoản khấu trừ. Công ty này còn khôn ngoan trong việc giành lấy “những khoản hoàn thuế”. Một đối thủ cạnh tranh có thể phải trả 1 đô-la cho mỗi thùng dầu được vận chuyển bằng đường sắt tới New York, công ty vận tải sẽ trả lại 25 xu trong 1 đô-la đó nhưng không phải cho khách hàng này, mà cho Standard Oil! Dĩ nhiên, điều này đem lại cho Standard Oil, công ty vốn chỉ phải trả mức giá vận chuyển thấp hơn có thêm một lợi thế rất lớn về tài chính so với những đối thủ khác. Bản chất của hành vi này là các đối thủ của Standard Oil đã vô tình tiếp tay cho công ty này. Không một hành vi kinh doanh nào của Standard Oil lại khiến dư luận bất bình như những khoản hoàn thuế này.
“Giờ hãy thử kế hoạch của chúng ta”
Mặc dù thị trường dầu lửa đang phát triển với tốc độ phi mã, lượng dầu lửa đưa ra thị trường còn tăng nhanh hơn, khiến giá cả biến động mạnh và liên tục sụt giảm. Cuối thập niên 1860, tình trạng sản xuất dư thừa khiến giá dầu một lần nữa tụt dốc và ngành công nghiệp dầu lửa non trẻ rơi vào cảnh đình trệ. Lý do thật đơn giản – có quá nhiều giếng dầu và quá nhiều dầu. Các
công ty lọc dầu cũng chịu thiệt hại nhiều không kém các công ty khai thác. Từ năm 1865 đến năm 1870, giá bán lẻ đã giảm quá nửa. Ước tính, công suất của các nhà máy lọc dầu lớn gấp ba lần so với nhu cầu của thị trường.
Rockefeller nhận thức rõ ràng cái giá của việc sản xuất dư thừa và trong khi hầu hết các công ty lọc dầu khác thua lỗ, ông đã nỗ lực kiểm soát ngành công nghiệp dầu lửa. Rockefeller và Flagler muốn rót thêm vốn vào ngành công nghiệp này mà không đe dọa đến sự kiểm soát. Cách thức họ sử dụng là biến công ty của họ thành công ty liên doanh. Ngày 10 tháng 1 năm 1870, một nhóm năm người do Rockefeller và Flagler đứng đầu thành lập Công ty Standard Oil. Họ chọn cái tên này để khách hàng có thể tin tưởng “vào chất lượng chuẩn mực của sản phẩm”. Khi đó, trên thị trường có rất nhiều loại dầu lửa với chất lượng khác nhau. Rockefeller nắm 1/4 cổ phần trong công ty mới này, đồng thời cũng nắm quyền kiểm soát 1/10 ngành công nghiệp lọc dầu của Mỹ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu. Nhiều năm sau đó, Rockefeller thường nhìn lại những ngày đầu tiên này và tự hỏi: “Liệu ai có thể hình dung công ty lại phát triển tới mức này nhỉ?”
Mới được thành lập và được đầu tư thêm tiền, Standard Oil dựa vào lợi thế của mình để đẩy mạnh tìm kiếm những khoản khấu trừ của các công ty vận tải đường sắt nhằm giành lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh chung tiếp tục xấu đi, và tới năm 1871, ngành công nghiệp lọc dầu thật sự lâm vào khủng hoảng. Lợi nhuận hoàn toàn biến mất và phần lớn các công ty lọc dầu rơi vào cảnh thua lỗ. Ngay cả Rockefeller, là người đứng đầu của công ty mạnh nhất, cũng cảm thấy lo lắng. Đến thời điểm đó, ông là một doanh nhân hàng đầu ở Cleveland và là một trụ cột của Nhà thờ Euclid Avenue Baptist. Năm 1864, ông kết hôn với Laura Celestia Spelman. Sau khi kết hôn với Rockefeller, Laura trở thành người phụ nữ gần gũi nhất của ông, thậm chí, còn giúp ông kiểm tra những bức thư công việc quan trọng. Một lần, Rockefeller nghiêm túc hứa với vợ là nếu có lo lắng gì trong công việc, ông sẽ nói với bà đầu tiên. Giờ đây, vào năm 1872, giữa cơn nguy kịch của ngành công nghiệp lọc dầu, Rockefeller cảm thấy phải trấn an vợ mình. Ông nói: “Em biết đấy, sự giàu có của chúng ta độc lập với những khoản đầu tư vào dầu”.
Chính trong thời điểm đầy lo âu này, Rockefeller thai nghén kế hoạch táo bạo hợp nhất gần như toàn bộ ngành lọc dầu thành một tổ chức khổng lồ. Một tổ chức liên kết thật sự sẽ làm được điều mà một hiệp hội hay một nhóm nhỏ không thể làm được: Cắt giảm công suất dư thừa, ngăn chặn những cơn biến động giá mạnh và trên thực tế là cứu ngành công nghiệp này. Đó là những gì mà Rockefeller và các cộng sự của ông muốn nói tới khi họ bàn về “kế hoạch của chúng tôi”. Nhưng chính Rockefeller là người đưa ra và chỉ
đạo việc thực hiện kế hoạch này. Mãi về sau, ông nói: “Đó là ý tưởng của tôi. Ý tưởng đó được giữ vững bất chấp sự phản đối của một số người trở nên nhát gan trước quy mô của sự liên kết, vì sự liên kết này luôn dung nạp những phần lớn hơn”.
Standard Oil khởi động chiến dịch này. Công ty tăng khả năng vốn hóa để tiến hành các vụ mua lại. Tuy nhiên, các sự kiện còn diễn biến theo một chiều hướng khác nữa. Tháng 2 năm 1872, một quan chức trong ngành đường sắt ở Pennsylvania đột nhiên quyết định tăng gấp đôi giá cước vận chuyển dầu thô từ Vùng đất dầu tới New York. Có thông tin rò rỉ là việc tăng giá này là hành động của một tổ chức chưa được biết tới có tên Công ty South Improvement. Công ty bí hiểm này là ai? Người nào đứng sau nó? Sự kiện này đã đánh thức và cảnh báo các công ty khai thác và lọc dầu riêng rẽ ở Vùng đất dầu.
Công ty South Improvement là hiện thân của một kế hoạch khác nhằm ổn định ngành công nghiệp dầu lửa và sẽ trở thành biểu tượng cho nỗ lực nhằm đạt được sự kiểm soát độc quyền. Tên tuổi của Rockefeller sẽ ngày càng trở nên gần gũi với công ty này. Tuy nhiên, mặc dù ông là một trong những người thực thi chính của kế hoạch, nhưng ý tưởng này trên thực tế là của các công ty vận tải đường sắt vốn đang cố gắng tìm cách giải quyết những cuộc chiến cước phí gay gắt. Theo kế hoạch, các công ty vận tải và các công ty lọc dầu sẽ hợp thành các các-ten và phân chia thị trường. Các công ty lọc dầu sẽ không chỉ được khấu trừ cước phí vận chuyển hàng mà còn nhận được tiền hoàn thuế từ mức phí trọn vẹn mà các công ty lọc dầu không phải là thành viên các-ten phải trả. Một trong những cây bút viết tiểu sử về Rockefeller từng viết: “Trong tất cả những kế sách nhằm tiêu diệt sự cạnh tranh, đây là cách tàn bạo nhất, nguy hiểm nhất mà không phải một nhóm các nhà công nghiệp Mỹ nào cũng có thể nghĩ ra”.
Mặc dù vẫn được giữ bí mật, Công ty South Improvement đã làm Vùng đất dầu nổi giận. Một tờ báo của Pittsburgh cảnh báo rằng công ty này sẽ gây ra cảnh “chỉ có một công ty thu mua dầu trong toàn bộ khu vực”. Trong khi đó, tờ báo của Titusville thì cho rằng, đây chính là một mối đe dọa “làm Titusville cạn khô”. Cuối tháng 2, 3.000 người tức giận, đem theo băng rôn, đã tiến vào Nhà hát Titusville để tố cáo Công ty South Improvement. Đó là khởi đầu cho cuộc chiến được biết tới với cái tên Chiến tranh dầu lửa. Các công ty đường sắt, Rockefeller và các công ty lọc dầu khác chính là kẻ thù trong cuộc chiến này. Các nhà khai thác dầu đã đi khắp các thị trấn để tố cáo “con quỷ” và “40 tên cướp”. Và giờ đây, trong cuộc hợp sức chống độc quyền, họ tổ chức tẩy chay các công ty lọc dầu và các công ty vận tải đường sắt. Cuộc tẩy chay này hiệu quả đến nỗi, các công ty lọc dầu của Standard
Oil ở Cleveland, vốn thường thuê tới 1.200 công nhân, nay chỉ được nhận lượng dầu thô đủ để 70 công nhân làm việc. Nhưng Rockefeller tuyệt đối không nghi ngờ những gì mình đang làm. Trong suốt cuộc Chiến tranh dầu lửa, ông vẫn nói với vợ: “Thật dễ dàng để viết ra các bài báo nhưng chúng ta có công việc khác. Chúng ta sẽ hành động đúng và không lo lắng hay băn khoăn về những điều báo chí nói”. Một lần khác, trong bức thư gửi vợ, Rockefeller đề cập tới một trong những nguyên tắc lâu dài của ông: “Thay đổi hợp đồng là việc riêng của chúng ta chứ không phải của dư luận”.
Tuy nhiên, tới tháng 4 năm 1872, chủ các công ty đường sắt và các công ty lọc dầu, bao gồm cả Rockefeller, quyết định đã đến lúc phải từ bỏ Công ty South Improvement. Cuộc Chiến tranh dầu lửa kết thúc và chiến thắng rõ ràng thuộc về các công ty khai thác dầu. Sau đó, Rockefeller nói rằng ông luôn hy vọng Công ty South Improvement thất bại nhưng thất bại đó sẽ phục vụ cho những mục đích của ông. “Khi công ty này thất bại là lúc chúng tôi có thể nói: “Giờ hãy thử kế hoạch của chúng tôi”. Nhưng Rockefeller thậm chí còn không đợi cho tới khi South Improvement thất bại. Đến mùa xuân năm 1872, ông giành quyền kiểm soát hầu kết các nhà máy lọc dầu của Cleveland và một vài công ty lọc dầu quan trọng nhất New York. Nhờ đó, ông trở thành chủ của tập đoàn lọc dầu lớn nhất thế giới. Ông đã sẵn sàng tiếp quản toàn bộ ngành công nghiệp dầu lửa.
Trong thập niên 1870, sản lượng khai thác dầu thô không ngừng tăng. Các biện pháp hạn chế sản xuất không đem lại hiệu quả. Các thùng chứa luôn tràn đầy và trên mặt đất lúc nào cũng có một lớp váng đen phủ. Tình trạng dư thừa dầu quá mức xảy ra và giá cả thấp đến nỗi người ta cho dầu thô chảy thành dòng và đổ vào các trang trại vì không còn chỗ chứa. Có lúc, giá dầu rơi tự do xuống 40 xu/thùng, thấp hơn 3 xu so với giá nước uống ở Vùng đất dầu. Những nỗ lực liên tục để hạn chế sản lượng khai thác đều thất bại. Những máy khai thác dầu vẫn tiếp tục mở ra những mỏ dầu mới. Hơn thế nữa vì khi đó có quá nhiều nhà sản xuất nên khó có thể thỏa hiệp nhằm giảm lượng dầu khai thác. Ước tính, số lượng các công ty khai thác ở Vùng đất dầu cuối thế kỷ XIX lên tới 16.000 công ty. Đa số họ là những nhà đầu cơ, một số là nông dân, và số khác là những người có chủ nghĩa cá nhân cao, họ không có được “tầm nhìn dài hạn”, không nghĩ tới lợi ích chung, thậm chí cả khi có một kế hoạch khả thi. Với khao khát lập lại trật tự, Rockefeller đột nhiên thay đổi quan điểm đối với tình trạng lộn xộn và tranh cướp giữa các công ty sản xuất dầu lửa. Sau này, bằng một giọng khinh miệt chua cay, ông nhận định: “Vùng đất dầu là một khu trại khai mỏ”. Mục tiêu của ông là các công ty lọc dầu.
“Chiến tranh hay hòa bình”
Theo lời Rockefeller, mục tiêu của kế hoạch chiến đấu dũng cảm và táo bạo là nhằm chấm dứt “cái chính sách cắt cổ không đem lại lợi nhuận” và “làm cho ngành công nghiệp dầu lửa trở nên ổn định và tạo ra lợi nhuận” – dưới sự kiểm soát của mình. Rockefeller vừa là nhà hoạch định chiến lược, vừa là người chỉ huy tối cao, ra lệnh cho các “binh sĩ” của ông ngầm di chuyển và điệu nghệ tăng tốc. Không có gì đáng ngạc nhiên khi người em trai William của Rockefeller đã phân loại các mối quan hệ với các công ty lọc dầu khác thành “chiến tranh hay hòa bình”.
Trên mỗi khu vực, Công ty Standard Oil bắt đầu bằng cách mua lại những công ty lọc dầu hàng đầu, những doanh nghiệp có vai trò thống lĩnh. Rockefeller và các cộng sự của ông sẽ tiếp cận các mục tiêu với thái độ tôn trọng, lịch thiệp và tâng bốc. Họ sẽ chứng tỏ Standard Oil làm ăn phát đạt ra sao so với các công ty lọc dầu khác. Điều này không khó bởi đa phần các công ty đó đang phải vật lộn với khó khăn. Bản thân Rockefeller sẽ trổ tài thuyết phục sao cho việc mua lại diễn ra thật thân mật. Nếu tất cả kế hoạch này thất bại, Standard Oil sẽ đẩy đối thủ cạnh tranh cứng đầu xuống địa ngục bằng cách làm cho đối thủ đó “cảm thấy mệt mỏi” hoặc, theo cách nói của Rockefeller, bằng cách làm đối thủ đó “phải vã mồ hôi”. Standard Oil sẽ giảm giá tại khu vực đó, khiến đối thủ kia hoạt động thua lỗ. Có lúc, Standard Oil còn chỉ huy một “nạn đói thùng chứa” để gây áp lực với các công ty lọc dầu ngoan cố. Trong một cuộc chiến khác, để tiêu diệt đối thủ, Henry Flagler đã chỉ đạo: “Tôi thà mất một đống tiền lớn còn hơn là phải nhường hắn một phân vào lúc này”.
Những người trong Standard Oil bí mật hoạt động thông qua những công ty có vẻ độc lập nhưng trên thực tế đã trở thành một phần của Tập đoàn Standard. Nhiều chủ công ty lọc dầu không bao giờ biết rằng các đối thủ cạnh tranh địa phương của họ, những công ty đang cắt giảm giá bán và gây áp lực với họ, thực ra là một phần trong cái đế chế đang lớn mạnh của Rockefeller. Trong toàn bộ các giai đoạn của chiến dịch, người của Standard giao tiếp với nhau bằng mật mã – Standard Oil được gọi là “Morose”. Rockefeller không bao giờ nhân nhượng về việc bảo mật trong các hoạt động của ông. Ông từng nói: “Tất cả đều là sự thật. Nhưng tôi tự hỏi rằng có viên tướng nào của quân Đồng minh lại thông báo trước với kẻ thù ngày ông ta tấn công?”
Đến năm 1879, cuộc chiến này hầu như kết thúc. Standard Oil là người chiến thắng. Công ty này kiểm soát 90% lĩnh vực lọc dầu của nước Mỹ, đồng thời cũng thống lĩnh các đường ống và hệ thống đầu mối của Vùng đất dầu và làm chủ luôn cả hệ thống vận tải. Rockefeller vô cảm trước chiến thắng. Ông không có sự thù hằn. Thật ra, một vài đối thủ bị khuất phục đã
được đưa vào ban lãnh đạo của Standard để trở thành những đồng minh trung thành. Tuy nhiên, thậm chí cả khi Standard Oil đạt vị trí thống lĩnh vào cuối thập niên 1870 thì vẫn có những thách thức không ngờ xảy ra.
Những mối đe dọa mới
Vào cuối những năm 1870, thời điểm mà Rockefeller cho rằng mọi thứ gần như đã đi vào trật tự, các nhà sản xuất dầu của Pennsylvania vẫn nỗ lực lần cuối phá vỡ sự kiểm soát ngộp thở của Standard Oil bằng một thử nghiệm táo bạo – xây dựng một đường ống dẫn dầu tầm xa đầu tiên trên thế giới. Trước đó, chưa có tiền lệ nào cho dự án có tên Đường ống Tidewater và cũng không có gì đảm bảo dự án này khả thi về mặt kỹ thuật. Theo dự án, dầu sẽ được chuyển về phía Đông qua một quãng đường dài 110 dặm từ Vùng đất dầu tới một điểm kết nối với tuyến đường ray nối giữa Pennsylvania và Reading. Việc xây dựng đường ống Tidewater được tiến hành khẩn trương. Thậm chí, những cuộc điều tra giả mạo còn được tiến hành nhằm loại bỏ vai trò của Standard Oil. Đến phút cuối, nhiều người vẫn còn nghi ngờ về khả năng hoạt động của Tide water. Tuy nhiên, đến tháng 5 năm 1879, dầu đã chảy trong đường ống này. Đây là một thành tựu kỹ thuật lớn, có thể sánh với cây cầu Brooklyn được xây dựng năm năm trước đó. Đường ống này cũng mở ra một giai đoạn mới trong ngành công nghiệp dầu lửa và trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn của đường sắt trong lĩnh vực vận chuyển đường dài.
Thành công rõ ràng của Tidewater và cuộc cách mạng vận tải nó tạo ra không những khiến Standard phải ngạc nhiên mà còn cho thấy quyền kiểm soát của công ty này đối với ngành công nghiệp dầu lửa một lần nữa bỗng nhiên bị đe dọa. Standard hành động ngay lập tức, xây dựng bốn đường ống dẫn dầu đường dài từ Vùng đất dầu tới Cleveland, New York, Philadelphia và Buffalo. Trong vòng hai năm, Standard đã là một cổ đông nhỏ trong chính Tidewater và có kế hoạch vận tải chung cùng với công ty đường ống này để kiểm soát sự cạnh tranh, mặc dù Tidewater vẫn duy trì mức độ độc lập nhất định. Việc hợp nhất lĩnh vực lọc dầu hoàn thành cùng với sự ra đời của các đường ống dẫn dầu mới đánh dấu bước tiến lớn tiếp theo của Standard trong việc hợp nhất ngành công nghiệp dầu lửa. Rất đơn giản, trừ một phần của Tidewater, Standard đã kiểm soát hầu như toàn bộ các đường ống dẫn vào Vùng đất dầu và từ đây đi những nơi khác.
Chỉ còn một cách duy nhất để ghìm công ty khổng lồ này lại − đó là thông qua hệ thống chính trị và tòa án. Cuối thập niên 1870, các công ty khai thác dầu từ Vùng đất dầu mở hàng loạt cuộc kiện cáo ở Pennsylvania chống lại mức cước vận chuyển có tính phân biệt đối xử. Họ tố cáo “Công ty Standard
Oil kiểm soát ngành dầu lửa quá mức”, gọi công ty này là một “Tên độc tài” và “Một băng cướp”. Những nhà khai thác này cũng đưa ra một bản cáo trạng buộc tội những người đứng đầu Standard Oil có hành vi thông đồng phạm pháp. Trong khi đó, các phiên điều trần trước tòa của các công ty vận tải đường sắt ở bang New York tập trung vào vấn đề hệ thống ưu đãi cước vận chuyển. Các cuộc điều tra và các vụ kiện tại hai bang này đánh dấu việc lần đầu tiên những hoạt động của Standard Oil, phạm vi và ảnh hưởng cũng như những mánh khóe của công ty này để được ưu đãi giá cước và tiền hoàn thuế được đưa ra dư luận. Một bồi thẩm đoàn ở Pennsylvania buộc tội Rockefeller, Flagler và nhiều cộng sự khác thông đồng tạo ra tình trạng độc quyền và làm tổn hại đến các đối thủ cạnh tranh. Họ đã rất nỗ lực thuyết phục bang Pennsylvania dẫn độ Rockefeller. Quá lo lắng, Rockefeller đã yêu cầu Thống đốc New York không thông qua lệnh dẫn độ nên nỗ lực trên đã thất bại.
Tuy nhiên, ấn tượng của dư luận trước những sự việc được đưa ra ánh sáng có sức tàn phá dài lâu với Standard Oil. Công chúng vô cùng giận dữ trước những gì họ chứng kiến. Người đầu tiên đưa ra lời buộc tội chống lại Standard Oil là Henry Demarest Lloyd, thông qua loạt bài xã luận trên tờ
Chicago Tribune và tiếp đó là một bài báo có tựa đề “Câu chuyện về một công ty độc quyền lớn” đăng trên tờ Atlantic Monthly năm 1881. Vấn đề này thu hút sự chú ý và mối quan tâm lớn đến mức nó được đăng trên bảy số báo liền. Lloyd tuyên bố rằng Standard Oil đã làm đủ mọi việc với cơ quan luật pháp của bang Pennsylvania, trừ việc “lọc” cơ quan này. Tuy nhiên, bài báo trên hầu như không có tác động ngay lập tức đối với công việc kinh doanh của Standard. Những bài báo của Lloyd là những bài lớn đầu tiên vạch trần hành vi của Standard và tiếp sau đó là rất nhiều những bài báo khác nói về việc này. Nhân vật bí hiểm John D. Rockefeller không thể tiếp tục tàng hình.
Tờ-rớt
Trong khi cần phải cách ly các tòa án và dư luận, một trật tự và sự kiểm soát tài tình đã được thiết lập trong đế chế rộng lớn mà Rockefeller nắm quyền cai trị. Trước hết, không có một cơ sở pháp lý rõ ràng nào cho một tổ chức bao gồm nhiều công ty lọc dầu trên khắp nước Mỹ này. Do đó, trong một bản khai có tuyên thệ trước tòa, Rockefeller có thể nhìn thẳng và không hề lừa dối bản thân khi nói Standard Oil không sở hữu hay kiểm soát một nhóm công ty mặc dù rõ ràng là công ty đã kiểm soát. Một vị lãnh đạo trong nhóm những công ty này có thể giải thích với một ủy ban của Cơ quan lập pháp bang New York rằng mối quan hệ của khoảng 90% các nhà máy lọc dầu ở Mỹ là “thân mật” và rằng họ chỉ tình cờ hợp tác “hài hòa” với nhau. Một vị lãnh đạo khác lại có thể khẳng định, cũng với ủy ban đó, rằng công ty của ông ta không hề có mối liên hệ nào với Standard Oil và rằng mối quan hệ cá nhân của ông ta là “lý do để được chia cổ tức”. Đó là những manh mối có thật về tổ chức này. Chính các cổ đông của Standard Oil, chứ không phải bản thân công ty này, có cổ phần trong các công ty khác. Ngoài ra, bản thân các công ty không thể sở hữu cổ phiếu của các công ty khác. Các cổ phần trên không được ủy thác cho Công ty Standard Oil của Ohio mà là cho các cổ đông của nó.
Khái niệm pháp lý “tờ-rớt” được tinh lọc và chính thức hóa trong Thỏa thuận tờ-rớt Dầu lửa Standard Oil ký ngày 2 tháng 1 năm 1882. Thỏa thuận này là một lời đáp trả những đòn tấn công luật pháp và chính trị cuối thập niên 1870, đầu thập niên 1880. Ngoài ra, còn có một lý do mang tính cá nhân hơn. Rockefeller và các đối tác của ông đã bắt đầu nghĩ đến cái chết và việc để lại tài sản thừa kế. Họ cho rằng cái chết của một người trong số họ có thể dẫn tới những rối loạn và tranh cãi về giá trị, những vụ kiện tụng và cả những trục trặc trong hệ thống đang tồn tại. Một tờ-rớt sẽ làm cho quyền sở hữu có trật tự và rõ ràng, để loại bỏ những tranh chấp trong tương lai.
Trong khi chuẩn bị thành lập tờ-rớt, “mọi milimét trên đường ống dẫn dầu
được đo đếm, mọi viên gạch được tính toán”. Một ban quản trị được thành lập và các thành viên của ban này thôn tính cổ phần của tất cả các thực thể mà Standard Oil kiểm soát. Sau đó, cổ phiếu được phát hành trong tờ-rớt này. Trong tổng số 700.000 cổ phiếu, Rockefeller nắm giữ 191.700 cổ phiếu và Flagler nắm giữ 60.000 cổ phiếu. Các thành viên của ban quản trị nắm cổ phiếu trong các công ty riêng lẻ thay mặt cho 41 cổ đông của tờ-rớt Standard Oil và còn được giao nhiệm vụ “giám sát chung” đối với 14 công ty sở hữu toàn phần và 26 công ty sở hữu một phần. Trách nhiệm của họ bao gồm việc lựa chọn giám đốc và lãnh đạo trong số những ứng cử viên, có thể bao gồm cả chính họ. Đây là tờ-rớt lớn đầu tiên và là một tờ-rớt hoàn hảo về mặt luật pháp. Tuy nhiên, đây cũng chính là lý do tại sao tờ-rớt này, ban đầu là công cụ để bảo vệ những “mẹ góa con côi”, lại trở thành một đối tượng của kiện tụng và thù ghét. Trong khi đó, những tổ chức khác của Standard Oil được thành lập ở mỗi bang để điều hành các công ty ở những bang này. Thỏa thuận tờ-rớt của Standard Oil tạo điều kiện cho việc thành lập một văn phòng trung tâm để điều phối và phân bổ hoạt động của nhiều công ty khác nhau đang hoạt động – một nhiệm vụ ngày càng trở nên cấp thiết hơn trước quy mô hoạt động ngày càng lớn. Đồng thời, tờ-rớt này cũng đem lại cho Rockefeller và các cộng sự của ông “tấm khiên chắn hợp pháp và linh động về hành chính mà họ cần để điều hành hiệu quả một doanh nghiệp gần như trở thành tài sản toàn cầu”.
Thủ tục luật pháp đã ổn. Nhưng còn vấn đề thực tế trong việc quản lý các công ty mới này? Làm thế nào để tích hợp vào tờ-rớt này rất nhiều doanh nghiệp độc lập và công ty sản xuất nhiều loại sản phẩm, bao gồm dầu lửa, dầu mazut và khoảng 300 sản phẩm phụ? Giải pháp được đưa ra là một hệ thống quản lý và điều phối thông qua ủy ban. Các ủy ban được thành lập bao gồm Ủy ban thương mại nội địa, Ủy ban thương mại xuất khẩu, Ủy ban sản xuất, Ủy ban phòng ngừa và định hướng, Ủy ban đường ống, Ủy ban tranh chấp pháp lý, Ủy ban dầu nhờn và Ủy ban sản lượng. Các báo cáo trên khắp nước Mỹ được gửi về các ủy ban này. Đứng trên các ủy ban này là Ủy ban điều hành bao gồm các giám đốc cao nhất chịu trách nhiệm vạch ra chính sách và đường lối chung. Ủy ban điều hành không đưa ra các mệnh lệnh giống như yêu cầu, gợi ý hay đề xuất nhưng không ai nghi ngờ gì về quyền lực hay tầm kiểm soát của cơ quan này. Mối quan hệ giữa trụ sở và các bộ phận trực tiếp sản xuất, kinh doanh được thể hiện qua yêu cầu mà Rockefeller đưa ra trong một bức thư: “Những người làm việc trực tiếp đánh giá vấn đề tốt hơn chúng tôi, nhưng đừng để chúng tôi rơi vào những sắp đặt mà ở đó chúng tôi không thể điều hành được chính sách”.
Một chiến lược cơ bản điều hành hoạt động của Standard trong những
năm 1870 – chi phí sản xuất thấp − thậm chí còn được áp dụng quyết liệt hơn trong thập niên 1880. Chiến lược này đòi hỏi hiệu quả trong hoạt động, khả năng kiểm soát chi phí chặt chẽ, nỗ lực tăng quy mô và sản lượng, liên tục đầu tư vào công nghệ và không ngừng mở rộng thị trường. Các nhà máy lọc dầu được hợp nhất nhằm tăng hiệu quả hoạt động. Đến giữa thập niên 1880, chỉ ba nhà máy lọc dầu của Standard ở Cleveland, Philadelphia và Bayonne thuộc bang New Jersey đã chiếm tới 1/4 lượng cung dầu lửa của toàn thế giới. Standard liên tục kiểm soát hiệu quả chi phí, đôi lúc được tính toán tới con số thập phân thứ ba. Rockefeller có lần nói: “nguyên tắc kinh doanh là phải tính toán tất cả mọi thứ”. Với hệ thống liên lạc hiện đại, Standard Oil lợi dụng nghiệp vụ arbitrage – buôn bán cổ phiếu giữa các thị trường − và thu lợi từ chênh lệch giữa các mức giá cổ phiếu khác nhau ở Vùng đất dầu, Cleveland, New York, Philadelphia, cũng như Antwerp và một vài nơi ở châu Âu. Standard Oil cũng sử dụng một hệ thống gián điệp và tình báo công nghiệp đặc biệt để theo dõi thị trường và các đối thủ cạnh tranh lưu trữ hệ thống hồ sơ của tất cả các công ty mua dầu của Mỹ, các địa chỉ giao hàng của các nhà phân phối độc lập cho các điểm bán lẻ từ Maine tới California.
Nền tảng trung tâm cho cách thức quản lý của Rockefeller là: Ông tin tưởng vào dầu lửa và niềm tin đó không bao giờ lung lạc. Không bao giờ lo lắng về việc sụt gia dầu mà coi đó là cơ hội mua vào. Năm 1884, Rockefeller ra chỉ thị: “Hy vọng là nếu giá dầu có giảm lần nữa, Ủy ban điều hành của chúng ta sẽ không để bất kỳ con số thống kê hay thông tin nào cản trở mua vào. Chúng ta phải nỗ lực và không đánh mất lòng can đảm khi giá cả trên thị trường sụt xuống mức thấp nhất”. Không lâu sau đó, ông nói thêm: “Chắc chắn chúng ta sẽ phạm sai lầm lớn nếu không mua vào”.
Lãnh đạo cấp cao của Standard Oil bao gồm Rockefeller, em trai William của Rockefeller, Henry Flagler và hai người nữa kiểm soát 4/7 số cổ phần của công ty. Tuy nhiên, ban lãnh đạo này còn có khoảng 12 người nữa, hầu hết đều là những doanh nhân thành đạt, tính cách cứng rắn và quyết đoán. Ban đầu, những người này đều là đối thủ cạnh tranh của Rockefeller. Sau này, Rockefeller nói: “Việc thuyết phục những người mạnh mẽ phải đồng ý không nằm trong nhóm những nhiệm vụ dễ dàng”. Cách duy nhất để một nhóm như vậy có thể làm việc là sự đồng thuận. Các lựa chọn và quyết định được đưa ra thảo luận và tranh cãi nhưng theo yêu cầu của Rockefeller, chỉ được thực hiện khi vấn đề đã được lật đi lật lại nhiều lần, mọi bất trắc đã được lường trước và sau chót, thỏa thuận đã được hình thành theo đúng hướng. Rockefeller nhớ lại: “Tôi cho rằng, các doanh nghiệp luôn phải đặt ra câu hỏi họ nên tiến nhanh tới mức nào là sáng suốt và chúng tôi đã tiến khá
nhanh chóng vào những ngày đó. Chúng tôi xây dựng và mở rộng trên mọi hướng”. Ông nói thêm: “Chúng tôi phải liên tục đối mặt với những thách thức mới… và phải thường xuyên thảo luận về những thách thức đó. Một vài người trong chúng tôi muốn ngay lập tức chi những khoản lớn, trong khi số khác muốn chi những khoản khiêm tốn hơn. Thông thường, chúng tôi đi đến thỏa hiệp nhưng cũng có lúc nâng những con số này lên rồi giải quyết. Chúng tôi không bao giờ tiến quá nhanh như những người cấp tiến nhất mong muốn nhưng cũng không bao giờ quá thận trọng như những người bảo thủ hy vọng”. Rockefeller còn cho biết, cuối cùng họ “luôn làm cho mọi người phải bỏ phiếu nhất trí”.
Người ta thường thấy các nhà quản lý cấp cao của Standard Oil đi lại liên tục trên các chuyến tàu giữa Cleveland, New York, Pittsburgh, Buffalo, Baltimore và Philadelphia. Năm 1885, tờ-rớt này chuyển tới một trụ sở mới trong tòa nhà văn phòng cao chín tầng tại số 26 đại lộ Broadway, thuộc khu Hạ Manhattan, nơi chẳng mấy chốc đã biến thành một tòa nhà lớn. Toàn bộ tờ-rớt của Rockefeller được điều hành từ trụ sở này, bắt đầu với Ủy ban điều hành mà các thành viên dù bất cứ ai sống tại khu phố này trong thời gian đó. Hàng ngày, các giám đốc cao cấp này cùng ăn trưa trong một phòng ăn riêng trên sân thượng tòa nhà. Trong bữa ăn, họ trao đổi về những thông tin quan trọng, xem xét các ý tưởng để đi tới sự đồng thuận. Dưới sự lãnh đạo của Rockefeller, những người từng là đối thủ cạnh tranh của nhau này đã lập nên một công ty có các hoạt động và quy mô chưa từng có – một dạng tổ chức mới với tốc độ phát triển nhanh đến mức kinh ngạc. Những người có mặt tại bàn ăn trưa ở số 26 Broadway là một nhóm người phi thường. William Vanderbilt, một nhân vật thuộc Công ty đường sắt trung tâm New York nói với Nghị viện bang New York rằng: “Họ thông minh hơn tôi rất nhiều… Tôi chưa bao giờ tiếp xúc với những người thông minh và có năng lực kinh doanh như họ”.
“Con cú già thông minh”
Tuy nhiên, người thông minh nhất trong số này chắc chắn phải là John D. Rockefeller. Khi tờ-rớt được thành lập, Rockefeller bắt đầu bước sang tuổi 40 và đã nằm trong số sáu người giàu nhất nước Mỹ. Ông là đầu tàu của Standard Oil, cống hiến ý chí kiên định cho sự phát triển của công ty cũng như sự nghiệp hợp nhất. Ông chỉ trích gay gắt “sự phí phạm” trong cạnh tranh không kiểm soát và luôn cho rằng mục đích của ông là đúng đắn. Rockefeller còn là một người khó gần đến kỳ lạ và sự khó gần này hoàn toàn có chủ ý. Về sau này, ông đọc lại một bài thơ mà ông còn nhớ:
Con cú già khôn ngoan sống trong cây sồi già
Càng chứng kiến nhiều, nó càng nói ít
Càng nói ít, nó càng nghe nhiều
Tại sao chúng ta không giống như con cú già kia?
Ngay từ khi bắt đầu kinh doanh, Rockefeller đã quyết tâm “ít phô trương nhất ở mức có thể”. Ông là người có óc phân tích, có tính hoài nghi và luôn giữ khoảng cách với mọi người. Thái độ lạnh lùng, xa cách và cái nhìn chằm chằm, xuyên thấu của Rockefeller khiến người khác cảm thấy thiếu tự tin. Một lần, ông gặp gỡ một nhóm các chủ công ty lọc dầu tại Pittsburgh. Sau cuộc gặp, nhiều người trong số này đi ăn tối. Câu chuyện của họ tập trung vào người đàn ông lầm lì, không thân thiện và khiến họ thấy e dè. Một người nói: “Tôi không biết ông ta bao nhiêu tuổi nữa”. Nhiều người khác đưa ra dự đoán của họ. Cuối cùng, một người nói: “Ông ta để cho mọi người nói trong khi bản thân ngồi yên và chẳng nói gì. Nhưng có vẻ ông ta nhớ hết mọi thứ và khi thật sự bắt đầu, ông ta nói đâu vào đấy… Tôi đoán ông ta đã 140 tuổi rồi, vì khi mới ra đời, hẳn là ông ta đã 100 tuổi”.
Có người từng làm việc cho Rockefeller đã gọi ông là “người vô cảm nhất mà tôi từng biết”. Nhưng, dĩ nhiên, còn có một con người khác phía sau tấm mặt nạ này. Thập kỷ 1870 và 1880 là những năm “kế hoạch của chúng ta" đơm hoa kết trái. Tuy nhiên, những năm của sự hợp nhất và của những cuộc tấn công bất ngờ từ chính giới và báo giới đó cũng là những năm đầy gay cấn và căng thẳng. Rockefeller từng nói: “Tất cả tài sản mà tôi làm ra vẫn chưa thể bù đắp cho những lo lắng tôi phải chịu đựng trong thời kỳ đó”. Vợ ông cũng nhớ về thời kỳ đó như là “những tháng ngày của lo âu”.
Rockefeller tìm nhiều cách để thư giãn, nghỉ ngơi. Cuối ngày, trong những cuộc họp bàn về công việc kinh doanh, ông thường nằm xuống một chiếc trường kỷ và tham gia thảo luận trong khi nằm dài trên ghế. Rockefeller còn giữ một dụng cụ tập căng cơ rất thô sơ trong phòng làm việc. Và cuối ngày, ông thường cưỡi ngựa đi dạo, tiếp đó là nghỉ ngơi và ăn tối, sẽ giúp Rockefeller sảng khoái trở lại.
Tại Cleveland, ngoài công việc kinh doanh, cuộc sống của Rockefeller tập trung vào nhà thờ Baptist. Ông là giám thị của trường đạo ở đây và đã để lại ấn tượng không thể phai mờ đối với một học sinh của trường, cũng là một người bạn của các con ông. Nhiều năm sau đó, người phụ nữ này nhớ lại: “Tôi vẫn còn nhớ Rockefeller khi ông hướng dẫn các buổi thể dục ở trường dòng. Cái mũi dài, nhọn và cái cằm cũng dài, nhọn của ông giơ cao trước mặt bọn trẻ. Đôi mắt xanh xám của ông không bao giờ thay đổi cảm xúc. Rockefeller luôn nói chậm rãi đến mức như lè nhè và khiến người ta không
nghi ngờ gì về việc ông đang thích thú với vị trí của mình. Lòng mộ đạo chính là thú tiêu khiển số một của ông ấy”.
Rockefeller yêu mến điền trang Forest Hill của ông, một điền trang ở ngoại ô Cleveland, và dành nhiều thời gian để chỉnh trang nơi này – xây dựng một lò sưởi bằng loại gạch đỏ đặc biệt; trồng cây cối; mở những con đường mới xuyên qua rừng. Ông tiếp tục thú tiêu khiển quy mô lớn hơn khi chuyển tới một điền trang mới rộng lớn ở vùng đồi Pocantino, phía bắc thành phố New York. Tại đây, ông chỉ đạo việc tạo dựng cảnh quan và tự mình dùng cọc và cờ để bố trí những con đường mới. Đôi lúc, ông làm việc cho đến lúc mệt rã rời. Niềm đam mê đối với việc xây dựng cảnh quan của Rockefeller xuất phát từ chính tài năng tổ chức giúp ông trở thành nhân vật vô cùng đáng nể trong kinh doanh.
Tuy nhiên, ngay cả khi đã trở thành người giàu nhất nước Mỹ, Rockefeller vẫn duy trì tính căn cơ đến kỳ lạ. Bất chấp sự phản đối của gia đình, ông kiên quyết mặc những bộ comple cũ cho tới khi chúng sờn rách. Một trong những món ăn ông yêu thích vẫn là bánh mì và sữa. Một lần, ở Cleveland, ông mời hai vợ chồng doanh nhân nổi tiếng của địa phương đến trang trại Forest Hill nghỉ hè. Sau này, họ nhận được từ Rockefeller một hóa đơn tiền ăn 600 đô-la.
Rockefeller không phải là không có khiếu hài hước, thậm chí còn là một người khôi hài, nhưng ông chỉ thể hiện điều này với rất ít người. Vào bữa tối, ông có thể làm cả nhà vui bằng cách hát, đặt một chiếc bánh quy lên mũi rồi đưa chiếc bánh đó vào miệng, hoặc đặt một chiếc đĩa thăng bằng trên mũi. Rockefeller cũng rất thích ngồi chơi với các con và bạn bè chúng.
Ngay từ khi bắt đầu kiếm ra tiền, Rockefeller đã tài trợ những khoản tiền nhỏ cho nhà thờ. Thời gian trôi qua, số tiền tài trợ mỗi ngày một lớn và Rockefeller luôn nỗ lực ban tặng một phần lớn trong khối tài sản ông tích luỹ được. Cách xem xét tỉ mỉ và đánh giá thận trọng trong kinh doanh cũng được Rockefeller áp dụng trong hoạt động từ thiện, và cuối cùng, các khoản tài trợ của ông được dành cho khoa học, y tế và giáo dục. Tuy nhiên, ở thế kỷ XIX, phần lớn số tiền làm từ thiện của Rockefeller là dành cho nhà thờ Baptist, nơi ông trở thành con chiên có ảnh hưởng nhất.
Cuối thập niên 1880, Rockefeller quyết tâm sáng lập một trường đại học lớn ở Baptist. Thực hiện hành động nghĩa cử đó, ông đã tài trợ tiền bạc và tổ chức thành lập Đại học Chicago. Sau đó, ông tiếp tục là nhà tài trợ lớn nhất của trường đại học này. Mặc dù rất quan tâm đến sự phát triển của trường, song Rockefeller không can thiệp vào công tác dạy học, ngoại trừ việc yêu cầu trường không được chi tiêu vượt ngân sách. Ông từ chối việc đặt tên ông
cho bất kỳ tòa nhà nào và chỉ đến thăm trường hai lần trong 10 năm đầu tiên sau ngày thành lập. Chuyến thăm đầu tiên diễn ra vào năm 1896, nhân dịp kỷ niệm năm năm ngày thành lập trường. Trong cuộc gặp mặt, ông phát biểu: “Tôi tin tưởng vào việc thành lập trường đại học này. Đây là vụ đầu tư tốt nhất tôi từng thực hiện trong đời… Chúa đã cho tôi tiền bạc và làm sao tôi có thể không tài trợ cho Đại học Chicago chứ?” Một nhóm sinh viên đã hát cho ông nghe:
John D. Rockefeller, con người tuyệt vời đã cho chúng ta hết chỗ tiền lẻ để dành của mình.
Tính đến năm 1910, “chỗ tiền lẻ để dành” mà Rockefeller tài trợ cho Đại học Chicago lên tới 35 triệu đô-la. Tổng cộng, số tiền làm từ thiện của ông vào khoảng 550 triệu đô-la.
Những thói quen trong công việc cũng được Rockefeller đưa vào cuộc sống riêng. Thời kỳ đó là những thập kỷ của Kỷ nguyên vàng, thời kỳ mà “những quý tộc kẻ cướp” làm ra những khối tài sản khổng lồ và tạo ra những lối sống xa hoa, phóng túng. Ngôi nhà tại New York và điền trang Pocantico của nhà Rockefeller cũng thật sự sang trọng, nhưng ông và gia đình vẫn đứng bên ngoài sự sặc sỡ, phô trương và trần tục của thời kỳ đó. Rockefeller và vợ muốn dạy cho con cái về những giá trị của lối sống thanh bạch để tránh cho chúng bị hủy hoại bởi chính những khoản thừa kế lớn. Do đó, bọn trẻ nhà Rockefeller chỉ có duy nhất một chiếc xe ba bánh để học cách chia sẻ. Tại thành phố New York, cậu con trai John D. Rockefeller Con phải đi bộ từ nhà đến trường và từ trường về nhà trong khi những đứa trẻ con nhà giàu khác được đưa đón bằng xe và có người phục vụ đi cùng. Còn để có tiền tiêu vặt, cậu phải làm việc trên các điền trang của cha với mức lương giống như những công nhân khác.
Năm 1888, Rockefeller đưa gia đình cùng hai vị mục sư của nhà thờ Baptist tới châu Âu ba tháng. Mặc dù không biết tiếng Pháp, ông vẫn xem kỹ từng khoản trên mỗi hóa đơn. “Poulet!” ông kêu lên, rồi quay sang hỏi con trai John “Poulet là cái gì?”. Được giải thích rằng đó là món gà tây, ông lại tiếp tục xem những khoản mục khác và hỏi xem đó là gì. Sau này, John nhớ lại: “Bố tôi không bao giờ muốn thanh toán một hóa đơn khi chưa biết mọi khoản trên hóa đơn có chính xác hay không. Đối với một số người, bận tâm đến những thứ nhỏ nhặt dường như là bủn xỉn, nhưng đối với cha tôi, đó là cách thể hiện của một quy tắc sống”.
Điều kỳ diệu trước mắt
Công ty do Rockefeller thành lập và chèo lái đạt tới sự thịnh vượng vô
song tiếp tục mở rộng trong suốt thập niên 1880 và sang cả những năm 1890. Nghiên cứu khoa học cũng trở thành một lĩnh vực hoạt động của công ty này. Chất lượng sản phẩm, sự gọn gàng và ngăn nắp trong các bộ phận, từ nhà máy lọc dầu tới các nhà phân phối địa phương... rất được công ty quan tâm. Sự phát triển của hệ thống thị trường tới tận người tiêu dùng cuối cùng là một yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp của Rockefeller. Standard Oil cần thị trường tương xứng với công suất khổng lồ và điều này buộc công ty phải tìm kiếm mạnh mẽ để có được “thị trường rộng nhất ở tất cả mọi nơi,” theo lời Rockefeller. Ông nói: “Chúng ta cần sản lượng lớn”. Và sản lượng của công ty không ngừng tăng lên nhanh chóng, vì sự tăng trưởng kỳ diệu của khối lượng dầu được tiêu thụ, chủ yếu dưới dạng dầu hoả. Dầu và đèn dầu đã làm thay đổi cuộc sống của người dân Mỹ. Dù sống ở những thị trấn và thành phố phía Đông hay trên những trang trại ở vùng trung tâm phía Bắc, người tiêu dùng đều mua dầu hỏa từ các cửa hiệu tạp hóa hay hiệu thuốc, còn các cửa hiệu này lấy dầu từ các nhà bán buôn, phần lớn Công ty Standard Oil cung cấp. Đầu năm 1864, một nhà hóa học ở New York viết về ảnh hưởng của loại chất đốt mới này như sau: “Về mặt nào đó, dầu kéo dài cuộc sống cho tầng lớp nông dân. Những người vì giá cả đắt đỏ hoặc hiệu quả thấp của mỡ cá voi phải quen với việc đi ngủ sớm sau khi mặt trời lặn và dành gần như một nửa cuộc đời để ngủ, thì giờ đây có thể dành buổi tối để đọc sách và cho những thú tiêu khiển khác. Điều này càng đặc biệt đúng trong mùa đông”.
Lời khuyên thực tế về cách sử dụng dầu hỏa do Harriet Beecher Stowe đưa ra vào năm 1869 nhanh chóng được chấp nhận rộng rãi. Tác giả cuốn sách Uncle Tom’s Carbin (Túp lều bác Tom) chính là người đã hỗ trợ chị gái mình hoàn thành cuốn sách American Women’s Home or Principles of Domestic Science (Ngôi nhà của người phụ nữ Mỹ hay Những quy tắc về khoa học thường thức). Cuốn sách đưa ra lời khuyên về cách chọn mua đèn dầu: “Loại dầu hỏa tốt đem lại một thứ ánh sáng mà chúng ta khó có thể yêu cầu cao hơn”. Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo về những loại dầu chất lượng kém hoặc không tinh khiết, có thể gây ra “những vụ nổ khủng khiếp”. Giữa thập niên 1870, mỗi năm có từ 5.000 đến 6.000 người thiệt mạng trong những tai nạn như thế. Quy định về chất lượng dầu chậm được ban hành và thiếu đồng bộ. Đó chính là lý do khiến Rockefeller kiên quyết trong vấn đề bảo đảm sự nhất quán và kiểm soát chất lượng và cũng là lý do ông đặt tên công ty là Standard.
Tại những khu vực đô thị rộng lớn hơn, dầu hỏa vẫn phải cạnh tranh với loại khí hóa than hay còn gọi là khí đốt “thị trấn”. Khi đó, loại khí đốt này được sản xuất bằng cách chiết xuất từ than hoặc ligroin, một sản phẩm chưng
cất của dầu thô. Tuy nhiên, dầu hỏa vẫn có ưu thế đáng kể về mặt giá cả. Tại New York năm 1885, dầu hỏa có thể đáp ứng nhu cầu chất đốt cho một gia đình với mức giá chỉ là 10 đô-la một năm. Trong khi đó, hiếm khi hóa đơn khí đốt hàng tháng của những gia đình giàu có hơn dừng ở con số đó. Ở khu vực nông thôn không diễn ra tình trạng cạnh tranh như vậy. Một nhà nghiên cứu về các cửa hiệu ở vùng nông thôn đã viết: “Chỉ cần nhìn vào kho hàng của một cửa hiệu tốt và sinh động ở vùng nông thôn của Philadelphia năm 1876, một người dân thành thị sẽ tin ngay vào sự tiến bộ. Những ngọn đèn, bóng đèn và toàn bộ những mặt hàng được gọi là “dầu hoả” sẽ là một điều kỳ diệu trước những con mắt vốn đã phải căng ra nhìn mọi vật trong bóng tối bằng loại đèn mỡ bò”.
Dầu hỏa là sản phẩm quan trọng hơn cả, nhưng không phải là sản phẩm duy nhất, do các nhà máy lọc dầu sản xuất. Những sản phẩm khác bao gồm ligroin, xăng sử dụng làm dung môi hoặc để sản xuất thành khí đốt dùng cho các tòa nhà, dầu mazut, và dầu nhờn dùng bôi trơn cho các bộ phận chuyển động trong động cơ của tàu hỏa, máy công cụ, máy may và xe đạp. Một sản phẩm khác mang thương hiệu Vaseline được sử dụng làm thành phần chính cho các sản phẩm dược. Parafin không chỉ được sử dụng để làm nến và chất bảo quản thức ăn mà còn được dùng làm “kẹo cao su parafin”, một sản phẩm mà “phụ nữ và những người làm công việc may vá nên thường xuyên sử dụng”. Trong nỗ lực tiếp cận người tiêu dùng, Standard Oil cũng thực hiện những bước giành quyền kiểm soát lĩnh vực marketing của ngành dầu lửa. Đến giữa những năm 1880, phạm vi kiểm soát thị trường của Standard Oil gần ngang bằng với thị phần lọc dầu của công ty – tức là khoảng 80%. Để có được thị phần khổng lồ này, Standard đã áp dụng những chiến thuật nghiệt ngã. Nhân viên kinh doanh của Standard “giơ quả đấm” và đe dọa các đối thủ cạnh tranh cũng như các nhà bán lẻ độc lập dám bán những mặt hàng cạnh tranh với sản phẩm của công ty. Standard cũng thúc đẩy một loạt các sáng kiến nâng cao hiệu quả của công tác thị trường và cắt giảm chi phí. Không ít nỗ lực đã được thực hiện để giải quyết vấn đề thùng dầu to, bị rò rỉ, bất tiện và đắt đỏ. Một sáng kiến là sử dụng xe téc chở dầu chạy trên đường ray để khỏi phải chất thùng dầu lên các toa chở hàng. Standard cũng thay những thùng chứa dầu trên các đường phố nước Mỹ bằng những xe téc ngựa kéo có thể giao hàng cho những người bán lẻ với bất kỳ số lượng nào. Thùng chứa dầu bằng gỗ lúc này chỉ dùng để giao hàng cho các khu vực xa thành thị.
“Mua tất cả những gì chúng ta có thể mua”
Mặc dù vậy, Standard Oil vẫn đứng ngoài một lĩnh vực rất quan trọng của ngành công nghiệp dầu lửa, đó là khai thác dầu. Đây là lĩnh vực quá mạo
hiểm, đầy rủi ro và biến động. Không ai biết được khi nào một giếng dầu sẽ cạn? Tốt hơn cả là nên để các công ty khai thác dầu đương đầu với những rủi ro đó, còn bản thân thì kinh doanh những lĩnh vực có thể tổ chức và quản lý tốt như lọc dầu, vận tải và tiêu thụ.
Năm 1885, một thành viên của Ban Điều hành viết thư cho Rockefeller, nói rằng: “Lĩnh vực của chúng ta là sản xuất, và theo đánh giá của tôi, sẽ là một điều không may đối với bất kỳ nhà sản xuất hay thương gia nào nếu ông ta quan tâm hay tiếp xúc với những lĩnh vực mạo hiểm”.
Nhưng dường như hệ thống khổng lồ bao phủ toàn cầu của Standard không có được cơ sở vững chắc, nó luôn phải đối mặt với mối lo ngại đến lúc nào đó thế giới sẽ cạn dầu. Món quà đến từ lòng đất có thể sẽ biến mất đột ngột như khi xuất hiện. Tình trạng khai thác ồ ạt sẽ vắt kiệt các giếng dầu. Đối với lĩnh vực khai thác dầu lửa của Mỹ lúc đó, Pennsylvania là toàn bộ cuộc chơi và là cuộc chơi duy nhất. Dường như, những gì xảy ra tại các khu vực khác nhau của bang này là số phận của toàn bộ Vùng đất dầu. Sự thăng trầm của Pithole là một lời cảnh tỉnh lớn về những gì có thể xảy đến. Liệu ai có thể biết được là khi nào? Liệu ngành công nghiệp này có thể kéo dài thêm một thập kỷ nữa không? Nếu không có dầu thô, những cơ sở hạ tầng và vốn đầu tư – các nhà máy lọc dầu, đường ống dẫn, bể chứa, tàu bè và hệ thống thị trường – còn có giá trị gì? Nhiều chuyên gia lên tiếng cảnh báo rằng Vùng đất dầu rồi sẽ sớm rỗng ruột. Năm 1885, nhà địa chất học của bang Pennsylvania cảnh báo rằng “cuộc trình diễn gây ngạc nhiên của dầu” chỉ là “một hiện tượng tạm thời và đang dần biến mất và những người trẻ tuổi sẽ sống đủ lâu để chứng kiến sự kết thúc tự nhiên của nó”.
Cùng năm đó, John Archbold, một nhà quản lý hàng đầu của Standard được một chuyên gia của công ty cho biết sự suy vong của ngành khai thác dầu lửa tại Mỹ là gần như không thể tránh khỏi và cơ hội tìm thấy một mỏ dầu nữa “nhiều nhất cũng chỉ là 1%”. Những lời cảnh báo này đủ sức thuyết phục để Archbold bán đi một số cổ phiếu của ông ở Standard Oil với giá từ 75% đến 80% so với giá trị thực. Ít lâu sau, Archbold lại được thông báo về những dấu hiệu có dầu ở Oklahoma. “Ông điên à?” ông đáp lại, “Tại sao ư? Tôi sẽ uống mọi gallon dầu khai thác được ở phía tây của sông Missisippi!”
Tuy nhiên, cũng vào thời gian đó, ngành khai thác dầu lửa đột nhiên chuẩn bị rời khỏi Pennsylvania tới phía tây bắc bang Ohio, nơi những dòng khí có thể bắt lửa ở vùng lân cận Findlay đã được biết tới kể từ khi những người định cư đầu tiên đặt chân tới. Vào giữa những năm 1880, người ta phát hiện dầu lửa tại đây, tạo thành một đợt bùng nổ khai thác lớn ở khu vực biên giới với bang Indiana, mang tên khu vực mỏ dầu Lima-Indiana. Những
mỏ dầu mới tìm thấy có trữ lượng dồi dào đến nỗi, tới năm 1890, những mỏ này đã chiếm tới 1/3 sản lượng dầu của nước Mỹ.
Rockefeller sẵn sàng đưa ra quyết định chiến lược cuối cùng – tiến thẳng vào lĩnh vực khai thác dầu lửa. Ông cũng ác cảm với các công ty khai thác dầu không kém các đồng nghiệp của mình. Vâng, họ là những nhà đầu cơ, họ không đáng tin cậy, họ hành động như những thợ đào vàng tham lam trong một cuộc đổ xô đi tìm vàng. Tuy nhiên, tại đây, ở Lima, Standard Oil có cơ hội giành quyền kiểm soát đối với nguồn nguyên liệu thô trên quy mô lớn và áp dụng cách thức quản lý khai thác dầu hợp lý, đồng thời cân bằng giữa nguồn cung cấp, kho dự trữ và nhu cầu thị trường. Tóm lại, Standard sẽ có khả năng ổn định ở mức độ tương đối trước những biến động của thị trường dầu lửa, cũng như trước tình trạng hỗn độn của “trại khai mỏ”. Đó là hướng mà Rockefeller dứt khoát muốn Standar Oil hướng tới.
Những dấu hiệu cạn dầu của Pennsylvania là lời cảnh báo rằng đã đến lúc cần phải liều lĩnh và Lima chính là một bằng chứng không thể tranh cãi về việc ngành công nghiệp dầu lửa còn có tương lai bên ngoài Pennsylvania. Nhưng vẫn có hai trở ngại lớn: một là chất lượng của dầu ở Lima. Loại dầu này có những đặc tính rất khác so với dầu ở Pennsylvania, mà cụ thể là mùi lưu huỳnh của dầu giống như trứng ung, rất khó ngửi. Một số người gọi dầu thô Lima là “dầu chồn hôi”. Không có cách nào để loại bỏ mùi khó chịu đó nên thị trường dành cho loại dầu của Ohio này rất hạn hẹp. Khó khăn thứ hai nằm tại số 26 đại lộ Broadway – tính ngoan cố của những nhân vật có quan điểm thận trọng hơn trong công ty của Rockefeller. Những người này cho rằng rủi ro là quá lớn. Rockefeller lập luận rằng, ban đầu, Standard nên mua toàn bộ số dầu công ty có thể mua và dự trữ tại các bể chứa trên toàn khu vực. Dầu đang được khai thác với khối lượng khổng lồ tại Ohio đến nỗi giá dầu ở đây đã giảm từ mức 40 xu/thùng vào năm 1886 xuống còn 15 xu/thùng vào năm 1887. Tuy nhiên, nhiều đồng sự của Rockefeller kịch liệt phản đối chính sách đó vì cho rằng không đem lại ích lợi nào. “Những người anh em bảo thủ của chúng tôi trong Ban giám đốc,” theo cách gọi của Rockefeller, “giơ tay lên trong nỗi sợ hãi thần thánh và tuyệt vọng chống lại một vài người trong số chúng tôi”. Tuy nhiên, cuối cùng thì Rockefeller cũng thắng thế và Standard Oil đã đưa được hơn 40 triệu thùng dầu Lima vào kho dự trữ. Sau đó, vào năm 1888 và 1889, một nhà hóa học người Đức làm việc cho Standard Oil tên là Herman Frasch đã phát hiện ra nếu có thể loại bỏ lưu huỳnh, làm mất mùi trứng thối trong dầu thô Lima xử lý sơ bộ dầu bằng đồng ôxít và như vậy loại dầu này sẽ được thị trường chấp nhận. Ván bài Lima của Rockefeller quả là một ván bài đáng giá. Sau khám phá của Herman Frasch, giá dầu thô Lima ngay lập tức tăng gấp đôi, từ mức 15
xu/thùng lên 30 xu/thùng và còn tiếp tục tăng thêm.
Rockefeller đã đưa Standard Oil tiến tới bước cuối cùng trong việc mua lại một số lượng lớn các cơ sở khai thác dầu. Những thành viên lộn xộn, mất trật tự nhất của ngành công nghiệp dầu lửa non trẻ chính là các công ty khai thác dầu – xét cả về cách quản lý mỏ dầu cũng như các mối quan hệ làm ăn của họ. Đây là một cơ hội để áp dụng một cấu trúc trật tự và ổn định hơn. Vẫn như trước, các đồng sự của Rockefeller lưỡng lự và thậm chí phản đối kế hoạch này. Rockefeller vẫn kiên định và ông đã thắng. Mệnh lệnh của ông đối với các hợp đồng thuê mỏ dầu được rao bán đơn giản là: “Mua tất cả những gì chúng ta có thể mua”. Mặc dù gần như vắng bóng trong lĩnh vực khai thác dầu chỉ vài năm trước đó, tới năm 1891, Standard đã chiếm tới 1/4 tổng sản lượng dầu thô của toàn nước Mỹ.
Standard quyết tâm xây dựng nhà máy lọc dầu lớn nhất thế giới tại Whiting, một địa điểm nằm giữa đồi cát hoang vắng bên bờ hồ Michigan thuộc bang Indiana, để chế biến dầu thô Lima. Cũng như tại những nơi khác, nhà máy ở Whiting cũng giữ tính sùng bái bí mật của Standard Oil, một đặc điểm cuối cùng sẽ làm suy yếu toàn bộ tổ chức này. Rõ ràng là Standard đang xây một nhà máy lọc dầu. Tuy nhiên, một phóng viên của tờ Chicago Tribune không thể moi được bất kỳ thông tin nào từ ngài Marshall, vị giám đốc kín miệng của dự án xây dựng này. Phóng viên này viết: “Ông ta hoàn toàn không biết gì về những việc đang được thực hiện ở Whiting. Có thể họ đang xây dựng một nhà máy lọc dầu trị giá 5 triệu đô-la hoặc một nhà máy chế biến thịt lợn. Ông ta không nghĩ đây là một nhà máy chế biến thịt lợn, nhưng cũng không chắc chắn về điều này”.
Sau đó, giá cả đã trở thành một vấn đề. Trong nhiều năm, giá dầu phản ánh trạng thái nóng thường xuyên của hoạt động buôn bán chứng chỉ dầu tại nhiều sàn giao dịch dầu lửa ở Vùng đất dầu và New York. Trong những năm 1880, cũng giống như những công ty khác, đại diện thu mua của Standard Oil là Joseph Seep đã mua dầu trên thị trường mở bằng cách mua lại các chứng chỉ tại các sàn giao dịch này. Khi thật sự thu mua dầu trực tiếp tại nguồn, Seep tính trị số trung bình của các mức giá cao nhất và thấp nhất trong ngày từ các sàn giao dịch. Tuy nhiên, Seep ngày càng mua nhiều dầu trực tiếp từ các công ty khai thác và các hãng lọc dầu độc lập khác cũng đi theo cách làm này. Đầu những năm 1890, số lượng giao dịch trên các sàn giao dịch nhanh chóng giảm xuống.
Cuối cùng, vào tháng 1 năm 1895, Joseph Seep đã khép lại kỷ nguyên của những sàn giao dịch dầu lửa bằng một “Thông báo tới các công ty khai thác dầu lửa” có tính lịch sử. Ông tuyên bố, “thỏa thuận” trên các sàn giao dịch
“không còn là biểu thị đáng tin cậy của giá trị sản phẩm nữa”. Ông nói, kể từ đó trở đi, trong tất cả các vụ mua bán, “mức giá thanh toán sẽ ngang bằng với mức giá cân đối giữa các thị trường trên thế giới, chứ không nhất thiết phải là mức giá của chứng chỉ dầu trên sàn giao dịch”. Ông nói thêm: “Các bạn sẽ được cung cấp bảng báo giá hàng ngày từ văn phòng này”. Vì là người mua hoặc sở hữu từ 85% đến 90% lượng dầu ở Pennsylvania và Lima Indiana, nên Seep và Standard Oil giờ đây có ảnh hưởng mạnh đến giá mua vào của dầu thô sản xuất tại Mỹ, mặc dù giá cả luôn luôn chịu tác động của quan hệ cung cầu. Một đồng sự của Rockefeller nói: “Hàng ngày, chúng tôi đều có được những thông tin chính xác nhất thu thập từ mọi thị trường trên thế giới. Căn cứ vào những thông tin đó, chúng tôi có sự đồng thuận cao nhất về giá cả. Đó chính là cơ sở để chúng tôi có được mức giá hiện tại”.
Người kiến tạo
Xét trên mọi phương diện, quy mô các hoạt động sản xuất, kinh doanh của Standard Oil làm người ta phải kinh ngạc. Tuy nhiên, Standard không hoàn toàn là một công ty độc quyền, ngay cả trong lĩnh vực lọc hóa dầu. Các đối thủ của Standard vẫn chiếm khoảng từ 15% đến 20% lượng dầu được bán trên thị trường và ban giám đốc Standard sẵn sàng chấp nhận sống chung với thực tế này. Kiểm soát trên 85% thị trường đã quá đủ để Standard duy trì sự ổn định mà công ty này kỳ vọng. Khi tuổi đã cao, ngẫm về việc tạo cảnh quan và trồng cây của mình, Rockefeller nói: “Trong làm vườn cũng như những công việc khác, một quy mô lớn sẽ tự cho thấy ưu thế của nó”. Standard Oil chắc chắn giữ vị trí số một trong danh sách “những công việc khác” này. Rockefeller xây dựng nên một công ty dầu lửa hợp nhất theo chiều dọc. Nhiều năm sau, một trong những người kế nhiệm của Rockefeller tại Standard Oil ở Ohio đã nhận xét về những thành tựu vĩ đại của Rockefeller: “Bằng bản năng, ông ấy nhận ra rằng, trật tự sẽ chỉ được xây dựng trên cơ sở kiểm soát tập trung các nhà máy và tư bản được tập hợp lại trên quy mô lớn. Dòng chảy hiệu quả, kinh tế và trật tự đó chính là điều mà giờ đây, sau nhiều năm, chúng ta gọi là “sự hợp nhất theo chiều dọc”. Ông nói thêm: “Tôi không biết Rockefeller có từng sử dụng từ “hợp nhất” hay không. Tôi chỉ biết rằng, ông ấy nhận thức được ý tưởng đó”.
Một số nhà bình luận bối rối trước những thành công của Rockefeller. Báo cáo “Tài nguyên khoáng sản của Chính phủ Mỹ” công bố năm 1882 có viết: “Không thể nghi ngờ gì về việc Standard Oil đã làm được một điều vĩ đại, và thông qua những công cụ của công ty này, lĩnh vực lọc dầu đã được gói gọn trong một doanh nghiệp, công tác vận tải được đơn giản hóa đi rất nhiều. Tuy nhiên, chưa thể xác định rõ những gì xấu xa xen lẫn trong những thành tựu tốt đẹp này”.
Còn những người khác – các đối thủ cạnh tranh của Standard Oil và phần lớn công chúng – thì đưa ra lời đánh giá không thuận lợi và hoàn toàn mang tính chất tiêu cực. Đối với nhiều nhà khai thác và các hãng lọc dầu độc lập, Standard Oil là con bạch tuộc, vươn vòi xiết chặt lấy các đối thủ của nó, cả về “thể xác lẫn linh hồn”. Đối với những người trong ngành công nghiệp dầu lửa từng là nạn nhân của những mưu kế của Rockefeller – những áp lực thương mại không dứt, những lần phải “đổ mồ hôi hột,” những trò lá mặt lá trái, và những sắp đặt bí mật – ông là một con quỷ không máu, giả nhân, giả nghĩa trong khi trù tính cách phá hoại kế sinh nhai của người khác, thậm chí là cả sự sống của họ, trong cuộc tìm kiếm tiền bạc và quyền thống trị cho mình.
Vài đồng sự của Rockefeller phải khốn khổ vì những đòn chỉ trích này. Năm 1887, một người đã viết thư cho Rockefeller, nói: “Chúng ta đã gặt hái được thành công vô song trong lịch sử thương mại, tên tuổi của chúng ta được cả thế giới biết đến, còn thanh danh của chúng ta lại không phải là điều khiến người ta thèm muốn. Chúng ta bị coi là hiện thân của cái xấu, của sự vô lương tâm, áp bức, tàn bạo (chúng ta nghĩ mình bị oan), v.v… Đây không phải là những điều dễ chịu để viết ra, vì tôi từng hy vọng về một vị trí được kính trọng trong đời sống thương mại”.
Bản thân Rockefeller không phiền lòng đến thế. Ông nghĩ, mình chỉ đang hành động theo tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Thậm chí, ông còn tranh thủ được sự bảo vệ của những nhà truyền giáo đạo Tin Lành và các giáo sĩ Social Gospel dành cho Standard Oil. Ông phớt lờ hầu hết mọi sự chỉ trích và giữ vững niềm tin Standard Oil là một công cụ phát triển của xã hội loài người. Với ông, Standard Oil giúp thay thế những hỗn loạn và bất ổn bằng sự ổn định, đem đến khả năng tạo ra một tiến bộ lớn cho xã hội và đem món quà “ánh sáng mới” tới cho thế giới bóng đêm. Công ty đã cung cấp vốn, cách thức tổ chức và công nghệ cũng như gánh lấy những rủi ro lớn cần thiết để tạo ra một thị trường toàn cầu và phục vụ cho thị trường đó. Rockefeller nói với các đối tác của mình trong Ủy ban điều hành: “Hãy đem đến cho những người nghèo khổ thứ ánh sáng giá rẻ!” Đối với ông, thành công của Standard Oil là một bước tiến dũng cảm vào tương lai. Sau khi thôi trực tiếp quản lý công ty, Rockefeller nói: “Đây là thời đại của sự hợp nhất. Chủ nghĩa cá nhân đã ra đi và không bao giờ trở lại nữa”. Ông nói thêm, Standard Oil là một trong những “người dựng xây” lớn nhất, thậm chí là lớn nhất “mà chúng ta từng có trên đất nước này”.
Trong tác phẩm The Gilded Age (Kỷ nguyên vàng), Mark Twain và Charles Dudley Warner viết về đặc điểm của những thập kỷ sau Nội chiến Mỹ – là thời kỳ của “sản xuất lớn, của đầu cơ ở mọi dạng… và của ham
muốn cháy bỏng được đột nhiên trở nên giàu có”. Trên một vài phương diện, Rockefeller chính là hiện thân chân thực của thời đại đó. Standard Oil là một đối thủ cạnh tranh tàn nhẫn luôn sẵn sàng “giết” các đối thủ khác và Rockefeller trở thành người giàu có nhất. Tuy nhiên, trong khi nhiều ông trùm khác làm giàu nhờ đầu cơ, buôn cổ phiếu, các mánh khóe tài chính hoặc thẳng tay lường gạt – lừa dối các cổ đông của họ – Rockefeller tạo dựng sự giàu có của mình bằng cách tham gia vào một ngành công nghiệp non trẻ, đầy biến động, khó dự báo và không đáng tin cậy. Ông không ngừng xoay chuyển ngành công nghiệp dầu lửa theo logic riêng của mình, để biến ngành công nghiệp này thành một lĩnh vực có tổ chức chặt chẽ, độ phủ rộng lớn, làm thỏa mãn cơn đói ánh sáng trên toàn thế giới.
“Kế hoạch của chúng ta” đã thành công, thậm chí vượt xa cả tầm nhìn táo bạo của Rockefeller. Tuy nhiên, kế hoạch này rốt cục sẽ thất bại. Tại nước Mỹ, dư luận và quy trình chính trị sẽ chống lại sự hợp nhất, độc quyền, cũng như cái được xem là sự ngạo mạn không thể chấp nhận được và hành vi kinh doanh vô đạo đức. Ngoài ra, những cá nhân mới và những công ty mới – hoạt động bên ngoài tầm với của Rockefeller tại nước Mỹ và những khu vực xa xôi như Baku, Sumatra, Miến Điện và sau đó là Ba Tư – sẽ nổi lên để chứng tỏ mình là những đối thủ cạnh tranh khó chơi. Không chỉ tồn tại, một vài trong số những công ty này sẽ phát triển hưng thịnh.
CHƯƠNG 3:
THƯƠNG MẠI CẠNH TRANH
Phần còn lại của thế giới đang chờ đợi thứ “ánh sáng mới” từ Mỹ, song việc tổ chức đưa chuyến tàu chở dầu đầu tiên tới châu Âu không phải là điều dễ dàng. Các thủy thủ rất lo sợ khả năng cháy nổ xảy ra trong quá trình vận chuyển dầu lửa. Tuy nhiên, cuối cùng, năm 1861, một công ty vận tải biển tại Philadelphia đã tập trung được một đội thủy thủ bằng cách cho những thủy thủ khỏe mạnh mới vào nghề uống say mèm rồi lừa họ lên tàu. Chuyến tàu đó đã cập bến London an toàn. Cánh cửa vào thương mại thế giới đã mở ra và dầu của châu Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trên toàn thế giới. Người dân ở khắp mọi nơi bắt đầu được hưởng những lợi ích mà dầu đem lại. Như vậy, rõ ràng là ngay từ đầu, việc buôn bán dầu đã mang tính quốc tế và đã trở thành một ngành thương mại quốc tế. Ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ không đạt được mức độ phát triển và tầm quan trọng như vậy nếu sản phẩm không được xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài. Tại châu Âu, nhu cầu về các sản phẩm dầu của Mỹ tăng lên nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa cũng như sự thiếu hụt nguồn cung của các sản phẩm chất béo và dầu vốn đã từng làm châu lục này khốn đốn suốt thời gian dài. Sự phát triển của các thị trường đa dạng càng được đẩy mạnh thông qua các lãnh sự của Mỹ tại châu Âu. Những quan chức ngoại giao này rất hăng hái trong việc thúc đẩy sự phát triển của mặt hàng được gọi là “phát minh kiểu Mỹ” này. Nhiều người trong số họ thậm chí còn mua dầu bằng tiền túi rồi bán lại cho những khách hàng tiềm năng.
Hãy xem nhu cầu của thị trường thế giới có ý nghĩa như thế nào? Thứ nhiên liệu thắp sáng đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới này không phải do một quốc gia mà chính xác hơn là một bang duy nhất cung cấp, bang Pennsylvania. Sẽ không bao giờ lại có bất kỳ một vùng đất đơn lẻ nào có thể độc quyền cung cấp dầu thô như vậy nữa. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, xuất khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng đối với ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ nói riêng và nền kinh tế quốc dân của nước này nói chung. Trong những năm 1870 và 1880, Mỹ xuất khẩu tới hơn một nửa sản lượng dầu sản xuất trong nước. Dầu lửa khi đó là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ tư, và đứng hàng đầu trong số các sản phẩm được sản xuất ra. Vào thời điểm đó, châu Âu là thị trường xuất khẩu dầu lớn nhất của Mỹ.
Tính đến cuối thập kỷ 1870, ngành dầu lửa của Mỹ không chỉ do một bang thống trị, mà còn do một công ty duy nhất lũng đoạn. Đó là Standard Oil, 90% dầu lửa xuất khẩu qua tay công ty này. Standard Oil rất hài lòng với
một hệ thống mà trong đó trách nhiệm của nó chấm dứt tại một cảng biển bất kỳ nào của Mỹ. Công ty này rất tự tin vào vị trí độc tôn của mình và sẵn sàng thống trị cả thế giới từ trụ sở của công ty tại Mỹ. Trên thực tế, John D. Rockefeller đã có thể áp đặt cái gọi là “kế hoạch của chúng ta” lên toàn bộ thế giới. Vào thời gian đó, Standard Oil tỏ ra vô cùng tự hào về sản phẩm của mình. Theo Giám đốc phụ trách thị trường nước ngoài của công ty này, dầu đã “len lỏi đến mọi ngóc ngách của mọi quốc gia, kể cả phát triển và không phát triển, mạnh mẽ hơn bất kỳ thứ hàng hóa nào trong lịch sử kinh doanh”.
Tất nhiên, một mối đe dọa đã xuất hiện, đó là khả năng diễn ra cạnh tranh quốc tế. Mặc dù vậy, những người đứng đầu Standard Oil đã không tính đến khả năng này. Cạnh tranh quốc tế chỉ có thể xảy ra nếu có những nguồn dầu thô nhiều hơn và rẻ hơn. Báo cáo địa chất của bang Pennsylvania năm 1874 tự hào khẳng định lý do tại sao dầu của bang này có thể thống trị thị trường thế giới. Bản báo cáo này đã bỏ qua câu hỏi về việc thăm dò ở các quốc gia khác có thể tìm thấy dầu hay không mà chỉ cho rằng đó là một vấn đề “có thể sẽ làm ta quan tâm” mà thôi. Khi đó, các tác giả của bản báo cáo đã quá tin vào vai trò thống trị của Mỹ nên thấy không cần thiết phải tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên. Và họ đã mắc sai lầm.
“Số tiền gỗ óc chó”
Trong số những thị trường hứa hẹn nhất cho thứ “ánh sáng mới” này có đế quốc Nga bao la đang bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa và ánh sáng nhân tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước này. Thủ đô St. Petersburg ở một nơi xa xôi về phía bắc đến nỗi, vào mùa đông, thành phố này chỉ có được sáu giờ đồng hồ có ánh sáng ban ngày. Năm 1862, dầu hỏa của Mỹ đã tới được thị trường Nga. Tại St. Petersburg, chất đốt này nhanh chóng được chấp nhận và đèn dầu nhanh chóng thay thế thứ mỡ động vật mà bấy lâu nay người dân ở đây gần như phụ thuộc hoàn toàn. Tháng 12 năm 1863, viên lãnh sự Mỹ tại St. Petersburg vui mừng thông báo rằng “chắc chắn nhu cầu đối với dầu của Mỹ sẽ tăng mạnh trong những năm sắp tới”. Tuy nhiên, nhà ngoại giao này không tính đến những phát triển trong tương lai tại một vùng đất xa xôi, khó đặt chân tới của đế quốc này. Đó chính là nhân tố sẽ không chỉ giành lại thị trường Nga khỏi các công ty xuất khẩu dầu của Mỹ, mà còn báo hiệu sự thất bại của các kế hoạch toàn cầu của Rockefeller.
Trong nhiều thế kỷ, hiện tượng dầu thấm ra ngoài đã được ghi nhận ở bán đảo Aspheron khô cằn, một phần của dãy núi Caucasus kéo dài về phía biển Caspi nằm trong nội địa. Vào thế kỷ XIII, Marco Polo cho biết đã nghe
người ta nói tới một dòng suối ở Baku có dầu chảy ra. Mặc dù loại dầu này “không thể dùng trong thức ăn” nhưng “dùng để đốt thì tốt” và chữa bệnh ghẻ lở ở lạc đà rất hiệu quả. Baku là vùng đất của “những cột lửa vĩnh hằng” được những người bái hỏa giáo tôn thờ. Nói nôm na hơn, những cột lửa này chính là những cột khí đốt dễ bốc cháy, đồng hành với những lớp dầu lắng đọng, thoát ra từ các vết nứt ở những phiến đá vôi xốp.
Baku là một phần của một lãnh địa độc lập được sáp nhập vào đế quốc Nga vào những năm đầu của thế kỷ XIX. Đến khi đó, ngành công nghiệp dầu lửa sơ khai đã bắt đầu hình thành tại đây và, tới năm 1829, đã có 82 hố dầu đào bằng tay. Tuy nhiên, sản lượng thu được rất nhỏ bé. Sự phát triển của hoạt động sản xuất dầu ở vùng này bị cản trở nghiêm trọng bởi cả sự lạc hậu và xa xôi của khu vực, cũng như của chính quyền Sa hoàng thối nát, độc đoán và bất tài vốn coi ngành công nghiệp nhỏ bé này thuộc độc quyền của nhà nước. Cuối cùng, vào những năm đầu thập niên 1870, Chính phủ Nga đã bãi bỏ hệ thống độc quyền và mở cửa ngành công nghiệp dầu lửa cho các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh. Kết quả là sự bùng nổ của hoạt động sản xuất dầu. Thời đại của những hố dầu đào bằng tay chấm dứt. Vào các năm 1871, 1872 đã có những giếng dầu đầu tiên được khoan và tới năm 1873, đã có hơn 20 nhà máy lọc dầu nhỏ đi vào hoạt động.
Không lâu sau đó, một nhà hóa học có tên Robert Nobel đã đặt chân tới Baku. Ông là con trai lớn của Immanuel Nobel, nhà phát minh lớn người Thụy Điển nhập cư vào Nga năm 1937 và lực lượng quân sự tại Nga đã vui mừng áp dụng phát minh mìn dưới nước của ông. Immanuel đã xây dựng một công ty công nghiệp khá lớn và công ty này chỉ bị phá sản khi Chính phủ Nga chuyển từ mua hàng trong nước sang mua hàng từ nước ngoài. Con trai của Immanuel là Ludwig đã xây dựng một công ty vũ khí lớn trên đống gạch tàn của công ty cũ. Ngoài ra, Ludwig còn phát triển “bánh xe Nobel”, loại bánh xe duy nhất phù hợp được với những con đường tồi tệ ở nước Nga. Một người con trai khác của Immanuel là Alfred có năng khiếu cả về hóa học và tài chính. Nghe theo gợi ý của một thầy giáo ở St. Petersburg về nitroglycerine, Alfred đã tạo ra một đế chế thuốc nổ rộng lớn khắp toàn cầu nằm dưới sự điều hành của ông từ Paris. Tuy nhiên, Robert, người con trai cả của Immanuel Nobel, lại không có được may mắn lớn như các em. Ông thất bại trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau và rốt cục phải quay về St. Petersburg làm việc cho Ludwig.
Ludwig giành được một hợp đồng lớn sản xuất súng trường cho Chính phủ Nga và cần gỗ để làm báng súng. Trong quá trình tìm nguồn cung cấp loại vật liệu này, ông cử Robert đi xuống phía nam, tới dãy núi Caucasus để kiếm gỗ óc chó của Nga. Tháng 3 năm 1873, Robert tới Baku. Mặc dù đã trở
thành một địa chỉ giao thương lớn giữa Đông và Tây, nơi người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều thứ tiếng, Baku vẫn là một phần của châu Á với những ngôi tháp và nhà thờ Hồi giáo cổ kính của các ông hoàng Ba Tư và dân cư là người Tatar, Ba Tư và Armenia. Tuy nhiên, hoạt động khai thác dầu đã bắt đầu đem lại sự thay đổi lớn cho nơi này. Ngay khi tới Baku, Robert đã bị cuốn vào cơn sốt dầu ở đây. Không thèm hỏi ý kiến em trai – xét cho cùng, ông cũng là anh cả và do đó, ông có những đặc quyền nhất định – Robert dùng ngay số tiền 25.000 rúp mà Ludwig giao cho ông để mua gỗ –“số tiền gỗ óc chó” – để mua một nhà máy lọc dầu nhỏ. Nhà Nobel đã nhảy vào ngành công nghiệp dầu lửa như thế.
Sự phát triển của dầu lửa Nga
Robert nhanh chóng bắt tay vào việc hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả của nhà máy lọc dầu mà ông mua bằng tiền của Ludwig. Với nguồn vốn rót thêm từ người em trai, ông nhanh chóng phát triển nhà máy này thành nhà máy lọc dầu mạnh nhất ở Baku. Tháng 10 năm 1876, chuyến hàng dầu hỏa đầu tiên của nhà Nobel đã tới St. Petersburg. Cũng năm đó, Ludwig tới Baku để được tận mắt chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây. Lão luyện trong quan hệ làm ăn với chính quyền phong kiến, Ludwig giành được sự ủng hộ của Đại công tước là em trai Sa hoàng kiêm lãnh chúa vùng Causasus. Tuy nhiên, Ludwig Nobel cũng là một nhà lãnh đạo công nghiệp sừng sỏ, có khả năng vạch ra một kế hoạch với quy mô của Rockefeller. Ông bắt đầu phân tích từng giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa; ông học mọi thứ có thể học về kinh nghiệm trong lĩnh vực này của nước Mỹ; ông tăng cường đầu tư vào khoa học-công nghệ, đổi mới và lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả và lợi nhuận; và ông cũng dành cho toàn bộ hoạt động kinh doanh dầu lửa này sự lãnh đạo và mối quan tâm của chính cá nhân ông. Chỉ trong vài năm, ngành công nghiệp dầu lửa của Nga đã đuổi kịp và thậm chí còn vượt lên dẫn trước ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ, ít nhất là trong một thời gian. Và người đàn ông Thuỵ Điển có tên Ludwig Nobel này trở thành “Ông vua dầu lửa của Baku”.
Vận tải đường dài là một vấn đề có tính chất quyết định. Từ Baku, những thùng dầu phải vượt qua một tuyến đường dài và khó đi. Ban đầu, những con thuyền chở dầu sẽ đi 600 dặm về phía bắc, từ biển Caspi tới Astrakhan; sau đó, dầu được chuyển sang các xà lan để tiếp tục một hành trình dài ngược dòng sông Volga. Cuối cùng, dầu được đưa tới một tuyến đường sắt nào đó để tiếp tục vận chuyển tới những nơi khác. Chi phí cho việc vận chuyển dầu rất lớn và, ngay cả những thùng chứa dầu cũng rất đắt đỏ. Gỗ ở địa phương không đủ cho việc sản xuất thùng và người ta phải mua gỗ ở một khu vực xa xôi nào đó của đế quốc Nga, hoặc nhập khẩu gỗ từ Mỹ. Một cách nữa là mua
lại những thùng chứa dầu đã qua sử dụng của Mỹ ở Tây Âu. Ludwig đã hình thành trong đầu một giải pháp cho vấn đề thùng chứa và giải pháp này của ông có ảnh hưởng trên phạm vi rộng lớn. Đó là vận chuyển dầu “với khối lượng lớn” – tức là, vận chuyển dầu trong những bể chứa được xây dựng sẵn trên tàu.
Ý tưởng này của Ludwig nhận được sự tán thưởng lớn, nhưng trên thực tế, lại vấp phải những vấn đề lớn về độ an toàn. Thuyền trưởng của một con tàu đã bị đắm trong khi vận chuyển dầu trong bể chứa giải thích: “Khó khăn là ở chỗ, có vẻ như dầu chuyển động nhanh hơn nước. Trong thời tiết xấu, khi con tàu bị xô mạnh về phía trước, dầu chở trên tàu dồn xuống, tạo lực đẩy tàu lao vào những con sóng”. Ludwig đã tìm ra cách để giải quyết vấn đề dằn tàu và tàu chở dầu mang tên Zoroaster được đưa vào sử dụng năm 1878 trên biển Caspi là con tàu đầu tiên thành công với giải pháp này. Đến giữa những năm 1880, ý tưởng của Ludwig đã tạo ra một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực vận chuyển dầu lửa. Trong khi đó, Ludwig vẫn liên tục phát triển nhà máy lọc dầu của ông ở Baku thành một trong những nhà máy lọc dầu tiên tiến nhất trên thế giới. Công ty của ông là công ty đầu tiên trên giới có biên chế cho các nhà địa chất học dầu lửa chuyên nghiệp.
Công ty dầu mỏ lớn, có mức độ hợp nhất cao do Ludwig dựng nên chẳng mấy chốc thống lĩnh ngành công nghiệp dầu lửa của Nga. Có thể nhận thấy sự hiện diện của Công ty sản xuất dầu lửa nhà Nobel trên khắp đế quốc Nga, qua những giếng dầu, đường ống, các nhà máy lọc dầu, tàu chở dầu, xà lan, kho chứa, tuyến đường sắt của riêng công ty, một hệ thống phân phối bán lẻ, và một lực lượng lao động đa quốc gia được hưởng chế độ đãi ngộ tốt hơn bất kỳ tại doanh nghiệp nào ở Nga. Công nhân viên của công ty tự hào nhận mình là “Nobelites” (người nhà Nobel). Sự phát triển nhanh chóng của đế chế dầu lửa dưới sự lãnh đạo của Ludwig Nobel trong 10 năm đầu tiên sau ngày thành lập được coi là “một trong những thành tựu doanh nghiệp vĩ đại nhất của thế kỷ XIX”.
Năm 1874, sản lượng dầu thô của Nga là chưa đầy 600.000 thùng. Một thập kỷ sau đó, con số này đạt mức 10,8 triệu thùng, tương đương gần 1/3 sản lượng dầu của Mỹ. Đến đầu thập niên 1880, Nga đã có gần 200 nhà máy
lọc dầu hoạt động ở khu vực ngoại ô công nghiệp mới của Baku, nơi được biết đến với cái tên rất hợp lý là Thị trấn đen. Những nhà máy này thải ra màn khói đen dày đặc, nồng nặc mùi dầu, đến nỗi một du khách đã ví cuộc sống ở Thị trấn đen như “bị nhốt trong ống khói”. Đây chính là ngành công nghiệp đang mở rộng mà anh em nhà Nobel thống trị. Công ty của gia đình này sản xuất tới 1/2 sản lượng dầu hỏa của Nga và hân hoan cho các cổ đông biết rằng “giờ đây dầu hỏa của Mỹ đã hoàn toàn bị đánh bật khỏi thị trường Nga”.
Tuy nhiên, công ty lại phải đối mặt với chính sự bất hòa giữa các anh em trai nhà Nobel. Robert bực mình khi thấy Ludwig lấn sân sang lĩnh vực của mình và cuối cùng đã quay về Thuỵ Điển. Ludwig là một nhà xây dựng, ông liên tục tìm cách mở rộng kinh doanh và điều này đồng nghĩa với việc nhà Nobel luôn khát vốn. Vẫn nhớ rõ cha mình đã thất bại ra sao do mở rộng và cam kết thái quá trong kinh doanh, Alfred tỏ ra thận trọng hơn nhiều. Ông càu nhàu với Ludwig: “Cái đáng phàn nàn là ở chỗ anh xây mọi cái lên rồi mới đi tìm tiền”. Alfred khuyên Ludwig nên đầu cơ cổ phiếu của công ty trên thị trường chứng khoán như một cách tăng vốn. Đáp lại, Ludwig bảo Alfred: “Hãy từ bỏ việc đầu cơ trên thị trường và để dành nó cho những người thật sự không phù hợp với những công việc có ích”. Bất chấp mối bất đồng giữa hai người, Alfred vẫn tích cực hỗ trợ Ludwig. Ngoài việc bỏ tiền túi ra cho anh trai, ông còn giúp Ludwig vay được tiền từ nhiều nơi khác, bao gồm một khoản vay lớn từ Credit Lyonnais. Vụ giao dịch này đã đặt ra một tiền lệ quan trọng vì khoản vay của Credit Lyonnais có thể chính là khoản vay đầu tiên mà vật thế chấp là sản lượng dầu lửa trong tương lai.
Mặc dù anh em nhà Nobel thống trị hoạt động phân phối dầu lửa tại Nga, dầu lửa của Nga hầu như không có mặt bên ngoài biên giới đất nước này. Yếu tố địa lý không cho phép dầu lửa Nga ra khỏi quê hương của nó. Chẳng hạn, để chở dầu đến một bến cảng như Baltic đồng nghĩa với việc vượt qua quãng đường “2.000 dặm, bao gồm đường thủy và đường sắt, xuyên qua khu vực phía tây của nước Nga”. Càng tệ hơn, từ tháng 10 đến tháng 3, thời tiết mùa đông khắc nghiệt còn cản trở việc vận chuyển dầu trên biển Caspi, khiến nhiều nhà máy lọc dầu phải đóng cửa trong nửa năm. Thậm chí, dầu còn không thể tới được một số vùng ở nước Nga. Như ở thành phố Tiflis, nhập khẩu dầu hỏa từ Mỹ, một nơi cách 8.000 dặm, sẽ rẻ hơn so với mua dầu từ Baku, một nơi cách có 341 dặm về phía tây.
Ngoài ra, còn có những hạn chế trên chính thị trường Nga. Dầu thắp không phải là mặt hàng cần thiết đối với tầng lớp nông dân đông đảo ở nước này và cũng không phải là thứ mà họ có đủ tiền mua. Sản lượng dầu không ngừng tăng lên khiến các công ty khai thác dầu ở Baku thèm muốn nhìn ra
những thị trường bên ngoài biên giới nước Nga. Tìm kiếm một giải pháp thay thế cho tuyến đường phía bắc do nhà Nobel kiểm soát, hai công ty khai thác dầu khác là Bunge và Palashkovsky đã được Chính phủ Nga cho phép khởi công xây dựng một tuyến đường sắt đi về phía tây, nối giữa Baku, Caucasus và Batum, một cảng trên Biển Đen đã được sáp nhập vào Nga năm 1877 sau một cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, trong khi việc xây dựng đang được tiến hành, giá dầu giảm mạnh, cả hai công ty trên đều hết tiền và lâm vào tình cảnh tuyệt vọng.
Sự cứu viện dành cho Bunge và Palashkovsky đến từ Pháp. Đây là một gia đình từng cấp vốn xây dựng các tuyến đường sắt mới ở châu Âu cho các cuộc chiến tranh, các chính phủ và doanh nghiệp. Gia đình này sở hữu một nhà máy lọc dầu ở Fiume, bên bờ biển Adriatic, và họ quan tâm đến việc mua dầu thô giá rẻ của Nga cho nhà máy lọc dầu này. Họ đã cho Bunge và Palashkovsky vay tiền để hoàn thành tuyến đường sắt đang xây dựng dở dang và đổi lại, họ có được món cầm cố là một số cơ sở khai thác dầu ở Nga. Gia đình này cũng sắp xếp để những chuyến hàng chở dầu lửa của Nga sang châu Âu được hưởng mức giá hấp dẫn. Họ là gia đình Rothschild.
Bấy giờ là thời kỳ mà chủ nghĩa bài Do Thái dâng cao ở Nga. Năm 1882, một đạo luật của Sa hoàng đã cấm dân Do Thái sở hữu hay thuê thêm đất trên nước Nga, và nhà Rothschild chính là những người Do Thái nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhưng trong trường hợp của họ, đạo luật trên dường như chẳng có nghĩa lý gì. Dầu lửa Nga là một dự án của gia tộc Rothschild ở Paris, đặc biệt là Nam tước Alphonse và em trai ông, Nam tước Edmond. Alphonse là người đã tổ chức việc bồi thường chiến tranh của Pháp sau khi nước này bị quân Phổ đánh bại năm 1871 và được coi là người thông thái nhất và có bộ ria mép tuyệt vời nhất ở lục địa châu Âu. Còn Edmond là người đã tài trợ cho khu định cư Do Thái ở Palestine. Khoản vay của nhà Rothschild đã giúp tuyến đường sắt từ Baku hoàn thành năm 1883, và nhanh chóng biến Batum thành một trong những cảng biển vận tải dầu lửa quan trọng nhất thế giới. Năm 1886, gia đình Rothschild thành lập Công ty dầu mỏ Caspi và Biển Đen, sau này được biết đến với cái tên viết tắt theo các chữ cái đầu tiếng Nga là “Bnito”. Họ xây dựng kho chứa dầu ở Batum và công ty nhà Nobel cũng nhanh chóng học theo. Tuyến đường sắt Baku Batum đã mở ra cánh cửa sang phía Tây cho dầu lửa của Nga, đồng thời cũng mở ra một cuộc chiến gay gắt kéo dài 30 năm tìm kiếm thị trường cho dầu lửa Nga trên thế giới.
Thách thức đối với Standard Oil
Với sự xuất hiện của nhà Rothschild, anh em nhà Nobel đột nhiên phải đối
mặt với một đối thủ cạnh tranh lớn, chẳng mấy chốc sẽ trở thành tập đoàn dầu mỏ lớn thứ hai ở Nga. Mặc dù hai tập đoàn cạnh tranh này có thảo luận về vấn đề hợp nhất, song họ vẫn không thể tìm thấy điểm chung ngoài những lời bày tỏ về dự định hữu hảo kia. Và cuộc cạnh tranh giữa họ vẫn diễn ra căng thẳng. Một số công ty khác có những mục đích rõ ràng mang tính thù địch. Standard Oil không thể xem thường ngành công nghiệp dầu lửa của Nga khi dầu Nga đang cạnh tranh với dầu Mỹ tại nhiều nước ở châu Âu. Để đáp trả, Standard Oil tăng cường những nỗ lực tình báo nhằm thu thập thông tin về các thị trường nước ngoài và các đối thủ cạnh tranh mới. Các bản báo cáo từ khắp mọi nơi trên thế giới được chuyển về số 26 đại lộ Broadway, trong đó có một số báo cáo đến từ các lãnh sự Mỹ được Standard Oil trả tiền. Những thông tin tình báo khiến Standard Oil lo lắng và khó có thể tiếp tục tự mãn về vị trí thống lĩnh của mình.
Những người đứng đầu Standard Oil tính toán rằng Sa hoàng sẽ không bao giờ cho phép họ mua lại cả công ty của Ludwig Nobel. Nhưng thay vào đó, Standard Oil có thể cố gắng mua lại một phần lớn cổ phần trong công ty nhà Nobel và vẫn giữ lại một Ludwig đã không còn giá trị trong ban lãnh đạo công ty – như đã từng giữ lại những nhân vật giỏi nhất trong các công ty đối thủ đã bị Standard Oil thâu tóm ở Mỹ. Năm 1885, W. H. Libby, nhà ngoại giao doanh nghiệp hàng đầu và là đại sứ lưu động của Standard đã mở các cuộc đàm phán với nhà Nobel ở St. Petersburg. Ludwig Nobel không quan tâm đến việc này. Thay vào đó, ông tập trung vào việc tăng cường mạng lưới thị trường của công ty và xây dựng thị phần ở châu Âu. Nhưng ông không được lựa chọn. Sản lượng dầu lửa tăng mạnh của Nga buộc công ty nhà Nobel và các công ty dầu mỏ khác của nước này phải tìm kiếm các thị trường mới bên ngoài biên giới. Đặc điểm nổi bật của Baku là hàng loạt những “đài phun” dầu kỳ lạ hay những giếng dầu phun, với những cái tên như “Kormilitza” (Vú nuôi), Chợ Vàng và Chợ của Quỷ. Một giếng dầu tên là “Droozba” (Tình bạn) đã phun trào trong suốt năm tháng với lượng dầu phun ra mỗi ngày là 43.000 thùng. Phần lớn lượng dầu này bị bỏ phí. Năm 1886, đã có tới 11 giếng dầu phun và tiếp đó là hàng loạt giếng khác tại một mỏ dầu mới được đào. Từ năm 1879 đến năm 1888, sản lượng dầu lửa của Nga tăng gấp 10 lần, đạt con số 23 triệu thùng, tương đương hơn 3/4 sản lượng của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ. Khi cơn lũ dầu nhanh chóng dâng cao vào thập niên 1880, nhu cầu tìm thêm thị trường cũng tăng mạnh.
Đối mặt với chiến dịch bán hàng mới của nhà Nobel diễn ra quyết liệt ở châu Âu và được cảnh báo mạnh mẽ về sản lượng dầu tăng cao ở Baku, Standard đi đến kết luận rằng công ty sẽ thực hiện những hành động quyết liệt hơn. Tháng 11 năm 1885, Standard Oil giảm mạnh giá dầu bán ra tại thị
trường châu Âu – giống như cách công ty này làm khi tấn công một đối thủ cạnh tranh tại Mỹ. Các đại lý khu vực của Standard bắt đầu chiến dịch tung tin đồn tại nhiều nước châu Âu về chất lượng và độ an toàn của dầu hỏa Nga. Họ còn viện đến các biện pháp phá hoại ngầm và đưa hối lộ. Bất chấp sự tàn bạo của cuộc tấn công từ phía Standard, nhà Nobel và nhà Rothschild phản công quyết liệt. Các nhà lãnh đạo của Standard đã phải xuống tinh thần khi nhìn thấy khu vực mà họ gọi là “cuộc cạnh tranh của người Nga”, như một điềm xấu, mở rộng trên khắp bản đồ.
Tại số 26 Broadway, thành phố New York, một vài thành viên trong Ban giám đốc của Standard Oil đã thúc giục việc thành lập những công ty phát triển thị trường riêng ở nước ngoài, thay vì bán hàng cho các công ty địa phương độc lập, để có thể cạnh tranh mạnh hơn. Ngoài ra, sự phát triển của phương thức vận chuyển dầu với khối lượng lớn bằng tàu chở dầu đã đem đến những hiệu quả mới cho ngành dầu lửa. Năm 1885, bản thân John D. Rockefeller, nổi cáu vì sự chậm trễ trong việc ra quyết định, thậm chí còn viết một bức thư có nội dung khiển trách gửi cho Ban giám đốc của Standard Oil:
“Chúng ta chưa già, cũng không buồn ngủ, chúng ta phải là “những con người tháo vát, dám đương đầu với bất kỳ định mệnh nào”;
Phải tiến tới, phải theo đuổi, phải học cách nỗ lực và chờ đợi”.
Năm 1888, nhà Rothschild tiến một bước mới trong cuộc cạnh tranh này. Họ thành lập những công ty nhập khẩu và phân phối dầu lửa ở Anh. Công ty của anh em nhà Nobel cũng hành động như vậy. Cuối cùng, bị kích động, Standard Oil thành lập “công ty con” đầu tiên ở nước ngoài – Công ty dầu mỏ Anh - Mỹ – chỉ 24 ngày sau khi nhà Rothschild chính thức thành lập công ty mới của họ ở Anh. Standard Oil còn thành lập các công ty con mới ở đại lục châu Âu – những liên doanh đồng sở hữu với các nhà phân phối địa phương hàng đầu. Standard Oil trở thành một công ty đa quốc gia thật sự.
Nhưng Standard Oil vẫn không thể bị chặn các đối thủ cạnh tranh lại. Nhà Rothschild cho các công ty khai thác dầu nhỏ hơn của Nga vay tiền để có được quyền mua dầu với mức giá ưu đãi. Có một trở ngại lớn trên tuyến đường sắt Baku-Batum – một đoạn dài 78 dặm của tuyến đường này vượt qua một đỉnh núi cao 360 mét và khó đi đến nỗi chỉ có thể kéo được sáu toa xe một lúc. Năm 1889, công ty nhà Nobel đã xây dựng xong một đường ống dẫn dầu dài 42 dặm xuyên qua hòn núi này. Điều làm nên toàn bộ sự khác biệt đó là việc sử dụng 400 tấn thuốc nổ của Alfred. Trong kỷ nguyên mới của “cạnh tranh thương mại”, theo cách gọi của Libby, đại sứ lưu động của