🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Danh Sĩ Kim Cổ Thế Giới Ebooks Nhóm Zalo DANH SĨ KIM CỔ THẾ GIỚI Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com MỤC LỤC CÙNG BẠN ĐỌC 1. NGUỒN GỐC TẤU HÀI ? 2. CÂU ĐỐ HÀI KỊCH ? 3. HÀI KỊCH CÓ TỪ BAO GIỜ ? 4. ĐIỆU “NHỊ HOÀNG” GỐC Ở ĐÂU ? 5. VÌ SAO “LÊ VIÊN” GỌI LÀ HÍ KHÚC ? 6. NGUỒN GỐC TÔ KỊCH ? 7. NHÂN VẬT TÔ TAM CÓ THẬT KHÔNG ? 8. VỞ “HÁN CUNG THU” MUỐN NÓI GÌ ? 9. “MỤC DƯƠNG KÝ” CÓ PHẢI LÀ TÁC PHẨM CỦA Mà CHÍ VIỄN HAY KHÔNG ? 10. BI KỊCH CỔ CÓ TỪ THỜI NÀO ? 11. TẠP KỊCH ĐỜI NGUYÊN VÌ SAO TIÊU VONG ? 12. HÍ KHÚC (Ca kịch vui) CỔ ĐẠI CÓ TỪ ĐỜI NÀO ? 13. NGUỒN GỐC ĐIỆU CAO ? 14. KỊCH BẢN “MINH PHƯỢNG KÝ” CỦA AI ? 15. “MẪU ĐƠN ĐÌNH” RA ĐỜI Ở ĐÂU ? 16. TÁC GIẢ “CA ĐẠI KHIẾU” LÀ AI ? 17. “HOÀNG MAI HÍ” RA ĐỜI THỜI NÀO ? Ở ĐÂU ? 18. “NGUYÊN KHÚC TỨ ĐẠI GIA” ? 19 . CÔN XOANG RA ĐỜI VÀO LÚC NÀO ? 20. “THIẾU NỮ LY HỒN” ? 21. DANH HỌA “PHÚ XUÂN SƠN CƯ ĐỒ” ? 22. “NGUYÊN TỨ GIA” LÀ AI ? 23. DANH HỌA “THANH MINH THƯỢNG HÀ ĐỒ” ? 24. HỘI HỌA TRUNG QUỐC ? 25. “QUẮC QUỐC PHU NHÂN DU XUÂN ĐỒ” ? 26. “NGŨ NGƯU ĐỒ” ? 27. AI LÀ TỔ SƯ TRANH MẶC TRÚC ? 28. “DƯƠNG CHÂU BÁT QUÁI” LÀ TÁM NGƯỜI NÀO ? 29. TÁC GIẢ “CỔ ĐẾ VƯƠNG ĐỒ” ? 30. TÀO THÁO “TRÓC ĐAO” ? 31. “TRÂM HOA SĨ NỮ ĐỒ” ? 32. ÂM GIAI NGŨ THANH ? 33. BÍCH HỌA “KHÁCH SỨ ĐỒ” ? 34. “KIM SƠN THẮNG TÍCH ĐỒ” ? 35. “ĐÔN HOÀNG KHÚC PHỔ” KỲ BÍ ? 36. ĐÀN CẦM CÓ VÀO THỜI NÀO ? 37. KHÚC NHẠC “QUẢNG LĂNG TÁN” ? 38. AI VIẾT KHÚC NHẠC “THẬP DIỆN MAI PHỤC” ? 39. VŨ KHÚC “NGHÊ THƯỜNG” LÀ GÌ ? 40. “DƯƠNG QUAN TAM ĐIỆP” ? 41 . GỐC “NHỊ HỒ” Ở ĐÂU ? 42. LAI LỊCH VỀ TRÚC ĐỊCH ? 43. CA XƯỚNG CÓ TỪ THỜI NÀO? 44. ÂM NHẠC CẢI CÁCH ĐỜI THƯỜNG ? 45. DỰC DƯƠNG XOANG GỐC Ở ĐÂU ? 46. “NHỊ TUYỀN ÁNH NGUYỆT” ? 47. VŨ ĐIỆU TRUNG QUỐC ? 48. ĐÀN TRANH LÀ CỦA MÔNG ĐIỀM CHĂNG ? 49. THƯ PHÁP LAN ĐÌNH TỰ ? 50. “NAN ĐẮC HỒ ĐỒ” ? 51. TIỂU TRIỆN CỦA LÝ TƯ CHĂNG ? 52. BIA VŨ BI DO AI KHẮC ? 53. BIA ĐÁ “XUẤT SƯ BIỂU” ? 54. NÉT CHỮ BÍ ẨN ? 55. CON DẤU CÓ VÀO THỜI NÀO ? 56. HANG KINH THẠCH THÁI SƠN ? 57. ĐẠI GIA THƯ PHÁP CÓ CHƠI DẠI KHÔNG ? 58. PICASSO MỘT ĐỜI TÀI HOA ? 59. NHẠC SƯ TCHAIKOVSKI CHẾT BỆNH ? 60. ĐẠO DIỄN WILLIAM TAYLER ? 61. THI HÀO BYRON PHIÊU BẠT THA HƯƠNG 62. CÁI CHẾT BÍ ẨN CỦA NỮ THẦN SẾCH XY ? 63. VAN GOGH TỰ SÁT VÌ ĐÂU ? 64. VỢ KỊCH SĨ MOLIÈRE ? 65. BẠN CÓ YÊU NHẠC BRAHMS ? 66. BẢN GIAO HƯỞNG TỬ VONG ? 67. “NGƯỜI YÊU VĨNH CỬU” CỦA BEETHOVEN ? 68. CÁI CHẾT CỦA ĐIỆN ẢNH GIA PAUL BOURNE ? 69. NHẠC SƯ HANDEL ? 70. CÁI CHẾT CỦA THIÊN TÀI ÂM NHẠC ? 71. NHẠC SĨ ĐỘC THÂN ? 72. CÁI CHẾT CỦA NỮ DANH CA ? 73. THẦN TƯỢNG ĐIỆN ẢNH VÀ BỆNH AIDS ? 74. BÊU XẤU HAY SỰ THỰC ? 75. ĐƯỜNG CÙNG CỦA MỘT MINH TINH ĐIỆN ẢNH ? 76. JOHN LENNON CÓ BỊ MƯU SÁT ? 77. “MẶT TRỜI CỦA TÔI” ? 78. NHẠC SĨ LASSUS ? 79. HAI THIÊN TÀI MỘT THỜI ĐẠI ? 80. “HOÀNG GIA RICHATD IV” ? 81. “NỤ CƯỜI NÀNG MONA LISA” 82. MAJA LÀ AI ? 83. “NÀNG KIỀU NỮ FORNARINA” ? 84. BỨC “TIN MỪNG” THẬT HAY GIẢ ? 85. TƯỢNG CỔ HY LẠP ? 86. “AJAX” NGƯỜI HÙNG HY LẠP ? 87. KIẾN TRÚC VÒM ? 88. “THẦN MẶT TRỜI” RHODES ? 89. TƯỢNG ĐÁ TRÊN “ĐẢO PÂQUES” ? 90. HỌA SĨ QUÁI KIỆT ? 91. CÂU ĐỐ VỀ “CÁI CHẾT CỦA MARAT” ? 92. “NGƯỜI ĐÀN BÀ LẠ MẶT” ? 93. HÌNH DẠNG TRÊN ĐẤT NOSCA ? 94. BÍCH HỌA Ở ĐIỆN HORAFSAR ? 95. TRANH ĐÁ CỔ Ở CHÂU PHI ? 96. “BÍCH HỌA SA MẠC” ? 97. “IVAN LÔI ĐẾ GIẾT CON” ? 98. MOZART VÀ “KHÚC OAN HỒN” ? 99. BẢN GIAO HƯỞNG SỐ MƯỜI ? 100. ĐẠO ISLAM CẤM VẼ NGƯỜI ? CÙNG BẠN ĐỌC Cuốn sách này tập hợp một trăm vấn đề nan giải, và đề ra các quan điểm “giải thích có lý do” theo tầm mức của những người có uy tín trong từng môn nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, sân khấu trên thế giới… một cách lý thú, vừa trao dồi thêm kiến thức, lại vừa học tập cách suy luận trái ngược! Nếu bạn có thể tự rút ra một quan điểm trung dung giữa các ý kiến đối lập thì vui biết bao ! Có nhiều câu đố nan giải giới thuật học “nghĩ nát óc” mà chưa ổn thỏa, bạn có thể đứng ra hoà giải, mở thêm ra quan điểm mới nào chăng? Trong sách còn nhiều tư liệu thú vị, có nhân vật đối đáp… hoặc đào sâu vấn đề, hay ít ra cũng mang lại sự bổ ích, thoải mái, vui vẻ cho độc giả… Ban biên soạn 1. NGUỒN GỐC TẤU HÀI ? Tương thanh là một kiểu tấu hài của Trung Quốc, là hình thức nghệ thuật được mọi người yêu thích nhất. Nó là một nghệ thuật đấu khẩu, dường như cãi nhau nhưng lý lẽ thật khôi hài. Cái vui thích nó mang lại cho người ta thật là sảng khoái mà các hình thức nghệ thuật khác khó mà so sánh, rất nhiều người thích môn tấu hài này. Khi chúng ta bị tấu hài chọc cho cười ra nước mắt hoặc “cười đến vỡ bụng” vì không ai nhịn cười được! Có ai nghĩ đến nghệ thuật “cười” ra ấy đời như thế nào không ? Nghệ thuật tấu hài ở Trung Quốc có thể nói là lịch sử lâu đời, những tư liệu để tra cứu quả thật không tìm ra! Nhiều học giả để tâm nghiên cứu, tìm tòi nguồn ngốc của nó đã bắt đầu hình thành nhận thức từng bước một : Một quan điểm cho rằng, tấu hài hiện giờ là do “Tham quân hí” đời Đường mà phát huy ra. “Tham quân hí” do hai người biễu diễn, một người gọi là “tham quân” trong vai ngu si; một người là “thương cốt” (một loại chim cổ màu xanh) trong vai phản ứng nhanh nhạy. Hai người biểu diễn, một tung một hứng gây cười, một trang nghiêm, một khôi hài thật là thú vị. Có người nói tấu hài ở triều đại Khang Hy là hình thái đầu tiên của tấu hài bây giờ. “Khôi hài” thời đó, kỳ thực là khẩu kỹ (võ miệng). Khi biễu diễn một người hoặc nhiều người có thể dùng tiếng chó, gà, ếch nhái kêu réo làm mọi người phục lăn và vui cười thoả thích. Cũng có người nói, tấu hài ban đầu kỳ thực là chỉ vè “tướng mạo”, “nghĩa lý” của “âm thanh”. Dựa theo tên mà định nghĩa, là tướng mạo và âm thanh kết hợp làm một, dùng âm thanh và tình cảm để thố lộ, dùng cử chỉ và giọng điệu đả kích những cái “dởm đời” dùng trào lộng và khôi hài khiến mọi người vui thích, quên “nỗi sầu đời”. Nguồn gốc của tấu hài còn nhiều cách nhìn khác, tất cả đều vào sự phân tích chủ quan, rất khó kết luận.Việc sau này có thể thống nhất cách nhìn hay không còn “hạ hồi phân giải”, ta phải tạm gác lại… 2. CÂU ĐỐ HÀI KỊCH ? Những tên gọi như' “SINH” “ĐÁN” “TỊNH” “MẠT” “SỬU” có nghĩa gì ? Trong hài kịch truyền thống Trung Quốc, căn cứ vào loại hình nhân vật đóng, ta chia diễn diên vào các vai “Sinh” (kép)”, “Đán” (đào), “Tịnh”(gan dạ, dữ tợn), “mạt”(vai đệm), “Sửu” (vai hề) v.v… Những vai ấy tại sao gọi như thế? Chúng có ý nghĩa gì? Về câu hỏi đó một số danh nhân hài kịch đời Minh đã từng thảo luận sôi nổi, tốn nhiều thời giờ, bút mực… Nhà hài kịch Chu Quyền trong Thái hòa chính âm phổ đã giải thích như : Cô gái múa hát trên sân khấu gọi là “đán”. Chữ đán có bộ khuyển là con cái loài vượn … mà gọi “đán”, là sai. Chu Kỳ đời Minh trong Kịch thuyết cho rằng: không chỉ “đán” là vượn cái, các vai khác cũng đều là thú vật. Như “sinh” là “tinh” (chữ Sinh có bộ khuyển) tức là đười ươi. “Tịnh” là “ninh” (chữ ninh có bộ khuyển) là con báo, một sừng năm đuôi, lại có người nói là giống như con cáo có cánh. “Sửu” là “nứu” (chữ sữu có bộ khuyển) như chó, tính kiêu. “Gọi người đóng trò giống như bốn loài giống kia!” Nhưng, Từ Vị người nghiên cứu sâu về hài kịch trong Nam từ tự lục, nói: “Sinh là tên gọi người nam, trong kịch sử sân khấu có Đổng sinh, Lỗ sinh. Diễn viên nữ đời Tống ra sân khấu, đều bỏ nhạc khí vào giỏ, gánh (chữ đảm ghép với chữ đán với bộ thủ) ra, gọi là hoa đán, nay ở Thiểm Tây vẫn còn gọi như vậy, sau bớt chữ đi gọi là “đán”. Sửu thì lấy mực bôi mặt, hình dung xấu xí (sửu) nay bớt chữ đi gọi là sửu. “Tịnh”, chữ này không thể giải nghĩa, ý tôi đó là hai chữ “tham quân” đời xưa hợp lại rồi viết sai đi. Mạt là vai không quan trọng của vài diễn viên phụ, cho nên ở vào vị trí cuối cùng là “mạt hạng”. Quan điểm của Từ Vị được nhiều nhà nghiên cứu đời sau tán đồng, đương nhiên cũng có người bác bỏ, không biết câu đố về tên các vai đến bao giờ mới được làm sáng tỏ! 3. HÀI KỊCH CÓ TỪ BAO GIỜ ? Trong đời sống thường có vui buồn, khóc cười hỉ nộ ai lạc, trong hài khúc đương nhiên cũng hình thành bi kịch, hài kịch, chính kịch …. Hài kịch Trung Quốc, có người bàn nó có từ thời thượng cổ. Người nêu quan điểm này cho rằng, khi người ta vui mừng thắng lợi, hoặc đuổi quỷ trừ tà, do một vai khoác da gấu, một tay cầm mộc, một tay múa giáo, những người còn lại hoặc đóng vai mười một ác thần, hoặc vai anh hùng đuổi quỷ. Có nghi thức reo hò, nhảy nhót, hát lớn tế ca, được gọi là “Na tế” (lễ tống tiễn quan ôn). Thứ “Na tế” này cũng được coi là mầm sống của hài kịch trung quốc Có người cho rằng, hài kịch là từ “bài ưu” vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lại biến dẫn cho đến nay. Cái gọi là “bài ưu”, là chỉ những diễn viên biểu diễn hoạt kê, chuyên mua vui cho quốc vương quí tộc. Theo “Sử ký, Hoạt kê liệt truyện” ghi chép, “Ưu Mạnh y quan” là giai đoạn đầu của hài kịch Trung Quốc. Nhưng một số học giả chuyên nghiệp, cho rằng sự xuất hiện sớm nhất của hài kịch Trung Quốc bắt đầu thời Tống –Nguyên, từ thế kỷ 17 đến 14. Căn cứ chính của quan điểm này là, “bài ưu” trước công nguyên và “na tế” có từ thời thượng cổ, bất luận là nội dung hay hình thức, đều không được là hài kịch, mà chỉ có đến thời kỳ Tống – Nguyên. Hiện tượng hài kịch mới được coi là dùng hình thức hài kịch mô tả đời sống, hình thức biểu diễn ngụ ý trang nghiêm trong hài, mới là hài kịch đích thực. Hài kịch thời Tống – Nguyên tương đối nhiều, trong đó không thiếu tiết mục ưu tú.Thí dụ như U khuê ký, Ngọc trâm ký, Cứu phong trần v.v… đều dùng cách biểu diễn trào lộng, khôi hài, châm biếm đã kích mạnh mẽ bọn xấu xa hèn hạ, dùng thủ pháp pha trương, tô điểm, khen ngợi và ca ngợi nhân vật chính diện. Rất nhiều vở hài kịch còn hình thành một kiểu biểu diễn cố định, cái đó có thể là đặc trưng của hài kịch chăng ? Thế thì, hài kịch thực ra, xuất hiện từ bao giờ ? Cho đến nay, vẫn chưa có giả thiết ổn thoả ! 4. ĐIỆU “NHỊ HOÀNG” GỐC Ở ĐÂU ? Trong các vở “Kinh kịch”, có một điệu chính được gọi là “Nhị hoàng”. Đó là điều mà những người yêu thích Kinh kịch đều biết rõ. Còn như điệu “Nhị hoàng”, tên gọi chính xác và nguồn gốc của nó thế nào, trước sau vẫn là nghi vấn trong việc nghiên cứu điệu hát hài khúc, đã được tranh luận không ngớt. Một số chuyên gia hài khúc thời trước ở Trung Quốc, phần lớn đều cho rằng điệu “Nhị hoàng” bắt đầu ở Hoàng Lăng, Hoàng Cương Hồ Bắc, là điệu hát từ địa danh biến hoá ra. Nhưng Phạm Tử Đông trong cuốn Nhạc học thông luận của ông, lại cho rằng: “Nhị hoàng” bắt nguồn từ Thiểm Tây, với âm nhạc Lê viên đời Đường không phải không có quan hệ. Trong sách viết, âm nhạc Lê viên có hai giọng hát chính, một loại khảng khái hùng hồn, một loại uyển chuyển du dương. Cái trước gốc từ Tần xoang, cái sau từ một người tên Hoàng Phan Xước, và gồm thâu cả âm nhạc Đạo gia thổ “Hoàng quan” (mũ vàng), cho nên gọi là “Nhị hoàng”. Lại có một quan điểm khác nữa… Theo Mã Ngạn Tường khảo chứng, từ năm 1970 về trước, Bắc kinh đã có Kinh xoang và Tây Tần xoang thịnh hành. Sau đó “Huy ban” (ban hát ở An Huy) vào kinh, muốn phân biệt với Kinh xoang, Tần xoang, cho nên đem bộ phận đặc sắc nhất trong điệu Huy, gọi là “Nhị hoàng”. Còn như lấy tên “Nhị hoàng” là trong số nhạc khí diễn tấu, hải địch (sáo biển) và tiêu nột (còi) đều có hai cái lưỡi gà (hoàng). Diễn Thành Hồ cầm thác xoang, là việc từ đó đến sau … Cũng có người nêu ra cách nhìn không hoàn toàn giống với quan điểm Mã Ngạn Tường, bởi vì từ kịch thoại của Lý Điều Nguyên khắc in từ năm Càn Long thứ 49 (1784) đã ghi chép rõ ràng : “Hồ cầm xoang khởi từ Giang tả (mé tả sông Trường Giang), đời nay âm điệu ấy thịnh hành, chuyên lấy Hồ cầm làm tiết tấu… lại có tên là Nhị hoàng xoang”. Giang tả tức là tỉnh Quảng Tây hiện nay. Nhưng, cái đó vẫn không vạch rõ ra được vì sao có cái tên gọi “Nhị hoàng”? Như vậy, tuy các nhà bình luận đều có lý lẽ, nhưng vẫn chưa đủ sức thuyết phục mọi người. Thân thế của “Nhị hoàng” vẫn còn được nghiên cứu để làm sáng tỏ…! 5. VÌ SAO “LÊ VIÊN” GỌI LÀ HÍ KHÚC ? Từ sau thời Sơ Đường, “Lê viên” đã kết mối duyên gắn bó với nghệ thuật hí khúc Trung Quốc, người ta gọi nó là ban hát mà kịch đoàn là “Lê viên”, gọi diễn viên là “Lê viên đệ tử” (con em vườn lê); những gia đình đời đời theo đuổi nghệ thuật hí khúc là “Lê viên thế gia”; gọi giới hí khúc là “Lê viên giới”. “Lê viên” và “Hí uyển” xét về chủ nghĩa thì không liên can với nhau, vậy chúng có tương quan với nhau thế nào? Trước nay đã có nhiều thuyết… Thông thường người ta cho rằng, “Lê viên” là một địa danh ở Trường An đời Đường, sau vì Đường Huyền Tông dạy diễn xuất cho nghệ nhân ở đó, liên kết nó với nghệ thuật hí khúc, thành một tên gọi của ban hát. Quan điểm này có sử liệu chứng minh rõ ràng. Bộ “Cựu Đường thư –Trung Tông bản kỷ” có nhắc đến, trong hoàng cung có một “Lê viên”, có quảng trường có thể bơi qua sông, đá cầu… “Cựu Đường thư – Huyền Tông bản kỷ” chép: Huyền Tông rảnh việc nước đã dạy con em nhạc công Thái thường diễn tri, sáo đàn đệm theo gọi là Hoàng đế đệ tử, lại gọi là Lê viên đệ tử. Đặt ở trong viện thuộc Lê viên, gần cấm uyển. Một thuyết khác trình bày về mối quan hệ giữa “Lê viên” và Hí uyển. Có ghi trong “Ngô quân Lảo Lang miếu chi ký” của Tôn Tinh Diễn, nhà kinh tế đời Thanh : “Tương truyền đời Đường Huyền Tông, con của Cảnh Lệnh Công là Quang, giỏi múa điệu “Nghê thường vũ khúc”, được vua cho giữ họ Lý, nuôi ở trong cung, để dạy cho con em. Quang tính thích lê, cho nên trồng lê khắp nơi, nhân đó gọi là “Lê viên”. Đời sau tôn là tổ sư của giới học nhạc. Những thuyết kể trên, cái nào đúng cái nào sai, còn chờ một bước thăm dò nghiên cứu có chứng cứ. 6. NGUỒN GỐC TÔ KỊCH ? Tô kịch là một thứ âm nhạc thuyết xướng (hát xen nói như cải lương ở Việt Nam) lưu truyền trong dân gian Tô kịch thời kỳ đầu gọi là “Than hoàng”. Tô kịch có từ lúc nào? Đối với vấn đề này, mỗi người nói một khác. Có người nói Tô kịch xuất hiện vào thời Văn Thiện Tướng cuối triều Tống. Thời đó đã có Than hoàng Hàng Châu lưu hành ở Giang Chiết. Sau đó, khu vực đó nối nhau xuất hiện phong trào say mê Than Hoàng, mà tên cũng phân biệt theo khu vực, gọi là Than hoàng Ninh Ba,Than hoàng Vô Tích, Than hoàng Phố Đông v.v … bộ môn “hát nói” Than hoàng này, là nét ban đầu của Tô kịch. Có người cho rằng Tô kịch bắt đầu có từ niên hiệu Càn Long, cái đó có khoảng cách với đời Tống rất xa. Thời Càn Long, có Càn Long thọ khúc, Nghê thường tục phổ v.v… đã phổ biến từ điệu Than Hoàng. Sau đó một số lớn vở Than Hoàng như suyết bạch cừu, văn tinh bản truyền kỳ đã từng nổi tiếng ở Giang Chiết. Nhưng có một số người lại cho rằng, Tô kịch không nảy sinh vào đời Tống, cũng không vào niên hiệu Càn Long cách nay 150 năm. Học giả thời truớc là Từ Phó Lâm trong một cuốn chuyên luận của ông về Than Hoàng nói : “Thời kỳ toàn thịnh của triều Thanh rất thịnh hành Côn hí, không biết hoàng đế nào chết, mà trong thời kỳ quốc tang ba năm, giới hí khúc bị cấm đánh thanh la. Do đó, ở Tô Châu quê hương của Côn hí có một người họ Tiền nghĩ ra biện pháp đem côn khúc bỏ thanh la, trống và sáo, mà toàn dùng đàn dây để hoà với giọng hát, đem Côn khúc đổi thành cách hát đơn giản mà gọi là Than Hoàng.” Vị nhân sĩ họ Tiền này, có người nói ông là nghệ nhân Tiền Khôn Nguyên, cũng có người nói là cống sĩ Tiền Minh Thụ, là ai thì không ai chịu giả thiết của ai ! Còn Tô kịch có bắt đầu vào lúc nào ? Điều đó vẫn còn là một ẩn số! 7. NHÂN VẬT TÔ TAM CÓ THẬT KHÔNG ? Tô Tam nói ở đây là vai nữ phạm nhân bị xét xử trong vở Kinh kịch Ngọc Đường Xuân. Về nữ phạm Tô Tam, sở dĩ mọi nhà đều biết từ xưa đến nay, nghe người ta nói là có liên quan đến việc có người thật, việc thật. Sau mười năm loạn lạc không lâu, có tin từ Sơn Tây nói là huyện Hồng Đồng đã tu bổ lại nhà giam Hổ Đầu năm xưa đây là nhà lao từng giam cầm Tô Tam, đã thành nơi người du lịch, tham quan đến xem. Học giả Vương Diệu Linh trong cuốn Lịch sử đại vũ đài của ông kể: “Có người tìm ra Vương Tam công tử (là Vương Kim Long) và Ngọc Đường Xuân là người có thật. Lại có người còn được xem bản án của Ngọc Đường Xuân ở huyện Hồng Đồng, tỉnh Sơn Tây. Trước mười năm loạn lạc, Tỉnh uỷ Sơn Tây Đảng Cộng sản Trung Quốc từng được cấp trên chỉ thị tìm kiếm bản án của Tô Tam. Theo người giữ quán văn sử tỉnh Sơn Tây, Thượng Đức nhớ lại thì ông từng đem việc này hỏi nhân viên quản lý hồ sơ bản án, người này nói trong kho hồ sơ nha huyện Hồng Đồng, không có bản án của Tô Tam. Kho hồ sơ bản án đời Minh không có bản án của Tô Tam, nên cũng không thể đoán chắc có người ấy hay không, vì lịch sử lâu đời qua nhiều năm chiến loạn, có nhiều bản án thất lạc. Những “Hồng Đồng huyện chí” ghi chép lịch sử; cũng không có bất kỳ ghi chép nào về vụ án Tô Tam và cũng không có chữ nào nhắc đến bản án đó. Điều đó không thể không khiến người ta nghi ngờ nhân vật Tô Tam là do người viết kịch dựng lên… Căn cứ vào sử liệu ghi chép thì giữa triều đình nhà Minh, đã từng có vụ án rất giống với chuyện Tô Tam trong vở Ngọc Đường Xuân, mà họ tên nhân vật trong đó không giống nhau. Ngọc Đường Xuân có phải là do đó diễn biến mà ra hay không? Những chuyện được mọi người thích thú trong truyền thuyết dân gian, hoặc trong sáng tác văn học được đời lưu truyền mà tồn tại lâu dài xem ra không mấy quan hệ với việc có người thật việc thật hay không? Bởi nữ phạm nhân Tô Tam được truyền tụng rộng rãi Tô Tam có đúng là người như vậy hay không, đến nay vẫn chưa sáng tỏ. 8. VỞ “HÁN CUNG THU” MUỐN NÓI GÌ ? Vở kịch “Hán cung thu” là một tác phẩm hàng đầu trong số Cống Hồ được người đời yêu thích, thương cảm. Chiêu Quân ra quan ải, lấy người Hung Nô, có thể gọi là một hành động hy sinh cao cả trong lịch sử Trung Quốc. Văn sĩ đời Nguyên, Mã Chí Viễn dùng hí kịch “Hán cung thu” để dựng lại giai đoạn lịch sử đặc biệt đó. Như vậy chủ đề trong “Hán cung thu” phản ánh tư tưởng gì? Những người từng xem vở này phần lớn đều có cách nhìn của mình. Có người nói “Hán cung thu” nhằm mô tả câu chuyện tình giữa Hán Nguyên đế và mỹ nhân Vương Chiêu Quân. Hán Nguyên đế và Vương Chiêu Quân yêu nhau, có thể thấy “Hán cung thu” mang biết bao ý tình sâu đậm? Có nhà bình luận nói rằng : “Hán cung thu” không tả nhiều về cái tình của Hán Nguyên đế và Vương Chiêu Quân, mà nhằm đề cao việc Chiêu Quân đứng ra, đem tấm thân yếu đuối chống trời, dùng sắc đẹp nghiêng thành ra để cứu nước, hết sức ca ngợi nàng cứu dân trong cơn nguy biến, đặc biệt mô tả rất kỹ về việc Chiêu Quân quên mình vì nước. Nhìn từ điểm đó thì vở “Hán cung thu” diễn đạt rất công phu nêu gương hy sinh cao cả của mỹ nhân. Cũng có người cho rằng cái mà “Hán cung thu” diễn đạt, là sự mâu thuẫn nội bộ của tập đoàn thống trị và xung đột của hai dân tộc Hồ Hán (Hung Nô). Thời Hung Nô xâm lấn Trung Hoa, là lúc trong cung điện nhà Hán sống dâm loạn, thế nước suy đồi, “Hán cung thu” đánh trúng vào thói tệ thời đó.Vậy người dựng vở “Hán cung thu” nhấn mạnh vào điểm nào? Có lẽ là tất cả những gì chúng ta đã xem qua… Văn chương thi phú kịch nghệ đều gặp nhau ở tưởng xây dựng xã hội lành mạnh, tẩy chay những gì chống lại tình nước, lòng dân! 9.“MỤC DƯƠNG KÝ” CÓ PHẢI LÀ TÁC PHẨM CỦA Mà CHÍ VIỄN HAY KHÔNG ? Mã Chí Viễn là tác gia tạp kịch xuất sắc, là nhà soạn tán khúc tự thành một phái… rất nổi tiếng đầu đời Nguyên. Tiểu lệnh “Thu tứ” trong “Việt điệu – Thiên tranh sa” của ông được khen gợi là “Tổ của tứ thu”; tạp kịch “Hán cung thu” được coi là bi kịch cổ điển ưu tú nhưng mối quan hệ với Nam hí (tuồng Nam) đến nay vẫn chưa làm rõ đựơc. Nam hí “Mục Dương Ký” (Chuyện chăn dê) có phải là tác phẩm của Mã Chí Viễn hay không đến nay vẫn là một lời hỏi chưa có lời giải đáp. “Mục dương ký” lấy đề tài từ Sử ký –Tô Vũ truyện : Vở tuồng này kể chuyện Tô Vũ người thời Tây Hán phụng mệnh đến Hung Nô bị bắt, sau bị dời đến Bắc hải (nay là hồ Bai – Can) chăn dê. Ca tụng Tô Vũ bất chấp sự uy hiếp dụ dỗ của quí tộc Hung Nô, khát uống tuyết, đói nuốt nệm lông, mười chín năm giữ bền cờ tiết nhà Hán không thay đổi tinh thần bất khuất. Đối với Lý Lăng bất đắc dĩ phải đầu hàng, vừa phê phán vừa thương xót, cái đó có chỗ gần gũi với tình cảm dân tộc biểu lộ ra trong “Hán cung thu”. Nhà lý luận hí khúc cuối đời Minh Lã Thiên Thành trong Khúc lã nói: Mã Chí Viễn có kịch bản “Mục Dương Ký”. Từ cú của kịch bản cổ kính chất phác khiến người thích thú, nhớ đến khí tiết của Tô Tử Khanh (Tô Vũ). Ban hát diễn vở tuồng này, tính sân khấu rất mạnh. Đến đời Thanh, những cuốn như “Cổ nhân truyền kỳ tổng mục”, “Truyền ký hối khảo tiêu mục” v.v… đều qui “Mục Dương Ký” vào dưới tên Mã Chí Viễn. Trương Đại Phục trong “Hàn sơn đường tân đính cửu cung thập tam nhiếp Nam khúc phổ” nói, không những “Mục Dương Ký” là tác phẩm của Mã Chí Viễn ngay cả “Phong Lưu Lý Miễn tam phu tâm ký” và “Tiêu Thục Trân tế phần trùng hội nhân duyên ký” cũng là Mã Chí Viễn hợp tác với người khác hoàn thành. Nhưng nhà văn học đời Minh Từ Vị, trong “Nam từ tự lục”, đem “Mục Dương Ký” quy vào “vở cũ đời Tống Nguyên”, không nêu rõ tác giả chứng tỏ Từ Vị giữ thái độ hoài nghi hoặc phủ định đối với thuyết đó. Học trò của Từ Vị, Vương Ký Đức trong Khúc tuyến trực tiếp chỉ ra: “Mục Dương Ký” quê kệch dung tục, quyết không phải là một tác gia tạp kịch nổi tiếng nào đó viết. Điều đáng chú ý hơn cả là thuyết về “Mục Dương Ký” xuất từ thủ bút của Mã Chí Viễn, hơn hai trăm năm sau khi Mã Chí Viễn chết mới xuất hiện. 10. BI KỊCH CỔ CÓ TỪ THỜI NÀO ? Nói đến bi kịch cổ điển Trung Quốc, làm ta nhớ ngay đến vở “Đậu Nga oan” ở đời Nguyên.Vở kịch đã vạch trần hành vi tội ác của giai cấp thống trị áp bức nhân dân, đã kích nền chính trị thoái nát của xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch điển hình xuất sắc thâm trầm nhất trong lịch sử hí khúc Trung Quốc Vở “Đậu Nga oan” bảy tám trăm năm xưa, chắc chắn là vở bi kịch cổ điển tương đối sớm. Nhưng nếu bảo bi kịch cổ điển bắt đầu từ vở “Đậu Nga oan” thì có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có học giả cho rằng, vào thế kỷ thứ 12, theo với hí kịch chính thức hình thành trên cơ sở Nam hí, tạp kịch Bắc thì bi kịch cổ điển liền theo đó mà nảy sinh. Trong một số hí kịch nổi tiếng đương thời nhụ vở “Vương Khôi”, Quế Anh chết cũng không loại bỏ ý định trừng phạt kẽ phụ bạc Vương Khôi ; trong “Bạch thỏ ký”. Lý Tam Nương rơi lệ tố cáo anh vàchị dâu, “Triệu Trinh Nữ” đã kích bọn văn nhân vô ơn bạc nghĩa là những vở có sắc thái bi kịch sâu đậm. Có chuyên gia học giả đề ra, bi kịch cổ điển Trung Quốc bắt nguồn từ cuối thế kỷ thứ 6, sang đầu thế kỷ thứ 7. Lúc bấy giờ, phía Bắc Trung Quốc, lưu hành nội bộ ca vũ kịch có qui mô lớn “Đạp dao nương”. Bộ ca vũ kịch này ai oán như khóc như than, lời ca của nó bi hùng rắn rỏi, từ hình thức đến nội dung đều phù hợp với yếu tố bi kịch cần có. Bởi vậy có người coi “Đạp dao nương” là hình thái mở đầu bi kịch cổ điển Trung Quốc. Nhưng có học giả cho rằng bi kịch cổ điển Trung Quốc bắt đầu từ ca vũ kịch, mở đầu là “Cửu Ca”. Không ai nghi ngờ sức truyền cảm nghệ thuật của bộ ca vũ kịch “Cửu Ca”, nó toát ra tình cảm bi tráng khiến người xem khó mà quên được. Nhưng đó là đúng là khởi đầu bi kịch cổ điển Trung Quốc không? Đối với vấn đề này, các chuyên gia uy tín trong giới học thuật Trung Quốc còn đang thăm dò, tìm hiểu. 11. TẠP KỊCH ĐỜI NGUYÊN VÌ SAO TIÊU VONG ? Tạp kịch đời Nguyên là một môn nghệ thuật hí khúc phát triển trên cơ sở tạp kịch đời Tống và viện bản đời kim. Tạp kịch nguyên theo dòng lịch sử cũng đã từng có một thuở huy hoàng. Nó cùng thơ Đường, từ Tống, tiểu thuyết Minh Thanh, chiếm một địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nghệ thuật Trung Quốc. Nhưng thơ Đường, từ Tống, tiểu thuyết Minh Thanh, dùng sức sống bất hủ của nó lưu truyền đến nay cùng làm tăng màu sắc cho nền văn học nghệ thuật đương đại. Nhưng đáng tiết là, chỉ riêng tạp kịch đời nguyên giữa đường, đã chết non im tiếng. Vì sao Tạp kịch đời Nguyên sớm suy tàn? Có người cho rằng kinh tế xã hội cuối đời Nguyên suy sụp nghiêm trọng chính là nguyên nhân dẫn đến mai một của nó. Giống như sự hưng thịnh ban đầu của tạp kịch, nó hình thành trong nền phát triển kinh tế phồn vinh đời Nguyên. Theo đà phát triển xã hội đã kích thích nhu cầu nghệ thuật hí khúc của giới quí tộc, nhất là bình dân. Cái đó khiến tạp kịch Nguyên có cơ sở rộng rãi. Khi triều đại Nguyên suy sụp nghiêm trọng, giới quí tộc thu thế nặng bóc lột vơ vét tàn bạo, lại thêm sự đói rét mất mùa, thiên tai nhân họa cùng ập đến, nên tạp kịch cũng theo đó mà tàn lụi. Có học giả chỉ ra, sự suy vong của tạp kịch, là vì khuynh hướng sáng tác ngược dòng xã hội mà tự chuốc lấy hậu quả tệ hại. Đời Nguyên từng có bài văn “Tống Tống thị tự” nhằm khen tạp kịch Nguyên có nội dung sáng tác rộng rãi, đề tài đa dạng mà: “Trên là sự hay dở của vua tôi, dưới là sự phân ly của cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn, nơi thành thị thôn quê… không một sự việc nào không thể hiện được cái tình, không tả hết được dáng vẻ”. Chính bởi trăm họ cũng được ca tụng trong tạp kịch, nên nó càng đi vào lòng người. Nhưng thời kỳ sau nó lại vứt bỏ dân chúng mà chỉ nhằm vào ẩn sĩ , kỹ nữ, thần tiên và một mực ca tụng công đức của vua quan phong kiến. Vì thế tạp kịch đã tách rời quần chúng nên cũng mất hết sự ủng hộ của quần chúng, và không còn cách nào tồn tại với thời gian. Cũng có chuyên gia, học giả vạch ra sự suy sụp của tạp kịch Nguyên, cho rằng, nó không phải không liên quan với những tệ nạn về thế chế âm nhạc, kết cấu kịch bản, hình thức biểu diễn của nó. Vậy cái gì mới thực là nguyên nhân số một ? Hoặc nói gộp luôn cả các nguyên nhân kể trên? 12. HÍ KHÚC (Ca kịch vui) CỔ ĐẠI CÓ TỪ ĐỜI NÀO ? Vào khoảng thế kỷ 12, 13 Trung Quốc đã xuất hiện hai loại hí khúc là: Nam hí và Bắc (tạp) kịch. Thông thường người ta cho rằng hai loại đó là hình thức hí khúc cổ đại Trung Quốc. Muốn biết rõ Nam hí và Bắc (tạp) kịch hình thành vào đời nào, giới học thuật ở Trung Quốc có cách nhìn không giống nhau từ xưa đến nay. Khoảng giữa triều Minh, Chúc Doãn Minh đề xuất: “Nam hí ra đời sau niên hiệu Tuyên Hoà (1119-1125) vào lúc nhà Tống chạy xuống miền Nam” . Có người ở thời Gia Tĩnh triều Minh là Từ Vị, cho rằng: “Nam hí bắt đầu từ triều Tống Quang Tông” (1188-1194). Thuyết sau so với thuyết trước cách nhau gần một trăm năm. Từ Vị tuy nói: “Nam hí bắt đầu từ triều Tống Quang Tông”, đồng thời ông còn nói thêm: “Hoặc ra đời khoảng niên hiệu Tuyên Hoà thịnh hành từ khi chuyển xuống miền nam”. Có thể thấy Từ Vị đầu đuôi không ăn khớp. Nhưng Tiền Nam Dương trong bài “Hí văn khái luận” của ông lại có cái nhìn khác. Ông cho rằng, Nam hí vào triều Tống Quang Tông đã có vở hí khúc hoàn chỉnh như “Vương Khôi” v.v… xuất hiện, thời gian hình thành của nó phải có trước niên hiệu Tuyên hào. Sau đó có người tổng hợp quan điểm của các nhà bình luận, cho rằng Nam hí ra đời vào cuối triều Nam Tống. Về thời gian hình thành Bắc (tạp) kịch, cũng có những ý kiến khác nhau. Một số người cho rằng, Bắc kịch có từ đầu đời Nguyên. Cố Triệu Luân trong cuốn “Nguyên đại tạp kịch”, đã trình bày: hai đời Tống Kim tuy đã có tạp kịch xuất hiện, nhưng nó vẫn chưa được coi là hài kịch thần tuý, chỉ đến đầu đời Nguyên, nó mới thật sự hình thành. Một số người khác lại cho rằng có lẽ vào cuối đời Kim đã xuất hiện tạp kịch dù đến đời Nguyên mới hoàn toàn chín mùi, nhưng cũng không vì thế mà nhận định theo Quan Hán Khanh: “là mở đầu của tạp kịch”. Bởi khi kịch bản của Hán Khanh thành thục, nó đã là thời kỳ cao điểm của tạp kịch Nguyên. Vì lịch sử rất hiếm tư liệu ghi chép về hí khúc, cho nên đối với thời gian hình thành hí khúc cổ đại Trung Quốc, mỗi người vẫn giữ ý kiến của mình… Còn lúc nào có thể có quả quyết, đó lại là sự việc sau này! 13. NGUỒN GỐC ĐIỆU CAO ? Xuyên kịch mang tính địa phương, song tương đối có ảnh hưởng trong nghệ thuật hí kịch. Xuyên kịch lưu hành ở vùng Ba Thục, trên cao nguyên Vân Quí, được nhân dân Tây Nam Trung Quốc yêu thích. Điệu cao (cao xoang) của Xuyên kịch có giọng hát cao, giai điệu hùng hồ nên được khen ngợi. Điệu cao của Xuyên kịch rất nhiều, nghệ thuật có phong cách riêng. Nhưng âm nhạc của nó có nguồn ngốc từ đâu, đến nay cách nhìn vẫn không giống nhau. Có thuyết nói điệu cao của Xuyên kịch từ Hồ Nam nhập vào Tứ Xuyên. Khi côn khúc còn chưa xuất hiện thì điệu cao đã lưu hành rộng rãi miền Hồ Nam. Hồ Nam tiếp giáp Tứ Xuyên. Cuối Minh, đầu Thanh đã có rất đông người Hồ Nam di dân đến Tứ Xuyên từ Tương Tây vào Tứ Xuyên, các địa phương dọc đường đều có điệu cao. Đồng thời điệu cao Tứ Xuyên tương đối gần gũi với điệu cao Hồ Nam, và điệu cao Hồ Nam lại có sớm hơn điệu cao Tứ Xuyên. Ta có thể thấy điệu cao của Xuyên kịch từ Hồ Nam truyền vào. Có thuyết nói điệu cao của xuyên kịch từ Giang Tây mà ra. Niên hiệu Càn Long nhà Thanh, Xuyên Lý Điều Nguyện viết sách nói: “Dực xoang bắt đầu từ Dực Dương, tức điệu cao ngày nay và đầu hát Nam khúc… Dực dương không có khúc phổ, chỉ theo thói tục địa phương, chỉ một người hát mà nhiều người hoạ”. Hình thức “một người hát, mà nhiều người họa” này cũng giống với hình thức bang xoang của Xuyên kịch. Có thể thấy điệu cao của Xuyên kịch có quan hệ đặc biệt với Dực dương xoang. Có thuyết nói điệu cao của Xuyên kịch từ điệu cao Kinh kịch. Niên hiệu Càn Long, Ngụy Trường Sinh đi Bắc Kinh diễn trò, lúc đó “ở kinh đô Dực xoang thịnh hành”. Sau đó Trường Sinh trở về Xuyên, mang theo “Dực xoang ở kinh thành hoặc gọi là điệu cao Kinh kịch”. Căn cứ vào bình luận của nhân sĩ trong nghề, âm nhạc Kinh kịch không giống như điệu cao. Còn âm điệu cao Xuyên kịch đa dạng giàu tính đàn hồi, vượt xa âm nhạc kinh kịch. Vậy có thể nói rằng điệu cao Xuyên kịch, phát triển nhờ điệu cao Kinh kịch hay không? Với ba cách nhìn khác nhau, mỗi cái đều nói về nguồn ngốc của điệu cao Xuyên kịch. 14. KỊCH BẢN “MINH PHƯỢNG KÝ” CỦA AI ? “Minh phượng ký” là một kịch bản truyền kỳ, mang màu sắc chính trị rõ ràng, và miêu tả sinh động của nó để đả phá khuôn sáo truyền thống lấy buồn vui ly hợp của nam nữ làm cốt, xác lập địa vị quan trọng của nó trong lịch sử văn học và sân khấu Trung Quốc, có ngưòi ca ngợi nó là tác phẩm đầu của dòng “kịch hiện đại”. “Minh phượng ký” kể câu chuyện như sau: Vào niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh, hoàng đế say mê Đạo Lão bỏ bê việc nước. Nội các học sĩ Nghiêm Tung nắm luôn triều chính, tham nhũng làm trái pháp luật, tàn hại người lương thiện, tám gian thần bọn Dương Kế Thịnh âm thầm đấu tranh, người trước ngã, người sau tiếp với cha con họ Nghiêm, cuối cùng họ giành được thắng lợi. Nghiêm Tung bị bãi quan Nghiêm Thế Phiên bị chém đầu. Nhân vật chính và các sự kiện quan trọng trong kịch đều có thật, vào thời bấy giờ ảnh hưởng rất lớn. Kịch bản ra đời trước khi cha con họ Nghiêm sụp đổ, ít nhất nó cũng tham dự vào việc quét sạch dư đảng họ Nghiêm. Tác giả vở kịch ưu tú này là ai? Nhà lý luận hí khúc đời Minh, Lã Thiên Thành trong khúc phẩm ghi rõ “Vương Phượng Châu viết” là hiệu của Vương Thế Trinh, bút hiệu khác là Yêm Châu sơn nhân, nhà văn học nổi tiếng giữa đời Minh, nhân cha ông bị Nghiêm Tung hại, là người từng viết bài thơ “Thái bảo ca” vạch trần tội ác của cha con họ Nghiêm. Các sách như “Cổ nhân truyền kỳ tổng mục”, “Truyền kỳ hối khảo tiêu mục” của Vô danh thị, “Khúc thoại” của Lương Đình Hữu, “Khúc mục tân biên” của Vi Phong Nghi, “Kim nhạc khảo chứng” của Diêu Biến đời Thanh… cũng đều cho rằng “Minh phượng ký” là tác phẩm của Vương Thế Trinh. Ngay cả Hoàng Văn Dương người phụng chỉ sửa chữa từ khúc cổ kim, đem những vở kịch đã thấy vì sau khi trải qua khảo chứng nhiều mặt về tác giả của chúng, biên soạn thành cuốn “Trùng đính khúc hải tổng mục”, vẫn cho rằng “Minh Phượng Ký” là do tay Vương Thế Trinh viết ra. Mặt khác, nhà lý luận kiêm hí khúc, toán học đời Thanh là Tiêu Tuần, trong kịch thuyết lại viết: “Truyền kỳ minh phượng” là do học trò của Vương Thế Trinh soạn. Chỉ có lớp pháp trường, là Vương Thế Trinh tự đặt lời hát. Nhưng, người học trò ấy tên gọi là gì, Tiêu Tuần mà lại không nói ra được. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu hí khúc đối với bản quyền “Minh Phượng Ký”thuộc về ai, vẫn chưa được kết luận rõ ràng. 15.“MẪU ĐƠN ĐÌNH” RA ĐỜI Ở ĐÂU ? Kịch bản truyền kỳ “Mẫu đơn đình” có một tên nữa là “Hoàn hồn ký” cùng “Tử thoa ký”, “Nam kha ký”, Hàm nói nó được soạn ở trọ trên đường. Giang Hi trong “Tảo quĩ nhàn đàm” nói: “Thầy của Thang Hiển Tổ là Văn Túc Công, Vương Tích Tước nghe nói Thang Hiển Tổ đến phía đông huyện Lâu nơi ông ở, mãi mãi không thấy đến bái yết, liền tự đi thăm dò hư thực ra sao, Tích Tước trong lòng lấy làm lạ liền ngầm mua chuộc tùy tùng của Thang Hiển Tổ, xem ông ta đang làm gì thì ra Thang vừa đi đường, vừa biên soạn “Mẫu đơn đình” tuỳ tùng của ông hàng ngày đem bản thảo ông lén đưa cho Tước xem. Đến khi Thang Hiển Tổ soạn xong bỏ trong ống tay áo mang cho Tước xem. Vương nói: “Tôi đã xem trước rồi!” Hiển Tổ trong lòng hổ thẹn nói: Tôi muốn viết “Tứ mộng ký”, đây chỉ là một vở trong số đó, còn ba vở kia chưa viết xong. Tích Tước đòi xem gấp, Hiển Tổ liền phóng bút một ngày viết xong ba kịch bản kia. Lời kể trên, chưa nói “dọc đường kia đâu”. Nhưng ở phần “Đệ trạch – Viên Lâm quyển thứ 13 Côn, Tân lưỡng huyện tục tu hợp chí” lại có một đoạn ghi chép rất quan trọng: Trong truyện Côn Sơn có phủ của một quan Thái Sứ, là nơi Thái bộc thiếu khanh Từ Ứng Sinh ở, địa chỉ ở phường Phiền Ngọc, trong phường có hiến Phất Thạch. Từ Ứng Sinh và Thang Hiển Tổ đỗ tiến sĩ đồng khoa năm vạn lịch thứ 11 (1983) mà Thang Hiển Tổ từng là khách ở trong hiến Phất Thạch để sáng tác kịch bản “Mẫu đơn đình”. Vậy địa điểm sáng tác “Mẫu đơn đình” của Thang Hiển Tổ Lâm xuyên hay là Côn Sơn, điều này cần được học giả chuyên gia tiếp tục khảo cứu. 16. TÁC GIẢ “CA ĐẠI KHIẾU” LÀ AI ? “Ca đại khiếu” (hát thay lời kêu than) tà tác phẩm tiêu biểu của tạp kịch đời Minh. Nó là một vở kịch vui mang tính châm biếm. Trong suốt vở kịch, lấy hai hòa thượng làm vai chính, dựa theo bốn câu chuyện, lấy ý từ câu “giận cá chém thớt”, “mẹ vợ đay nghiến chàng rể”, “râu ông nọ, cắm cằm bà kia”, “chỉ đường cho hươu chạy” . Cấm dân thắp đèn “xâu lại với nhau”, tình tiết các vở ly kỳ, ngôn ngữ sâu cay, hài hước mang không khí dân dã đậm đà, nhằm châm biến sự tham lam, thối nát của quan lại. Viên Hoằng Đạo – nhà văn học đời Minh đánh giá rất cao kịch bản này, khen mức độ của nó không thua sút kịch bản của Quan Hán Khanh, Vương Thực Phủ… là những tay viết kịch đại gia. Tác giả “Ca đại khiếu” là ai? Nghi vấn này nảy sinh đi đôi với tác phẩm. Niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, nhà văn học sáng lập phái Công An, Viên Hoằng Đạo đến Chiết Giang làm quan, ở nhà của Biên tu Đào Vọng Linh, phát hiện một số sách rất hiếm, có cả “Ca đại khiếu” trong đó.Viên rất hứng thú với kịch bản này, ông liền nhờ người khắc in. Không biết vào khoảng nào sau hai trăm năm kịch bản này không nghe ai nói đến, đến niên hiệu Đạo Quang đời Thanh, mới được họ Thẩm ở Sơn Âm sưu tập. Năm 1939, Thư viện Quốc gia Nam Kinh đem bản sao chép cẩn thận của Thẩm Thị Minh in để phổ biến trong nhân dân . Về tác giả kịch bản này, Viên Hoằng Đạo viết: “Có người nói cho tôi biết, bảo là do Văn Trường (Từ Vị)”. Vì thế, suy luận của Hoằng Đạo không lấy gì làm chắc chắn . Ở quyển đầu bản sao ghi rõ Sơn Âm, Từ Văn Trường soạn , “Công An Viên Thạch Công hiệu đính”, thái độ hết sức khẳng định. Dưới quyển đầu, có bảy quyển Phàm Lệ ký tên là “Hổ Lâm Xung hòa cư sĩ”. Xét về nội dung là của tác giả đích thân soạn Xung hoà cư sĩ này là ai? Có người nói là bút danh của Từ Vị, nhưng thiếu chứng cứ. Có người lại bảo không phải là của Từ Vị, mà là người biên soạn các bộ hí khúc, “Triền đầu bách luyện” dưới thời Minh Sùng Trinh, mà tên họ không truy cứu được. Nhưng sự thật là:Viên Hoằng Đạo chết năm 1610, cách Sùng Trinh (1627) 17 năm.Vậy ông ta làm sao có thể còn viết gì sau khi ông đã chết ? Xem ra để giải câu đố về tác giả, “Ca đại khiếu” còn cần thêm thời gian. 17.“HOÀNG MAI HÍ” RA ĐỜI THỜI NÀO ? Ở ĐÂU ? Hoàng mai hí còn gọi là Hoàng mai điệu, là một loại kịch vui của địa phương, lưu hành ở các vùng An Huy, Giang Tây, Giang Tô, Hồ Bắc, Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Tây v.v… nội dung của nó phổ thông, hình thức linh hoạt, phong cách tươi tắn khúc điệu du dương uyển chuyển. Vào những năm 1960 trong thế kỷ 20, loại kịch theo thể loại này như “Thiên tiên phối” đã được quay thành phim, gây tiếng vang rất lớn ở khắp Trung Quốc, ngay cả các nơi như Hồng Công, Đài Loan cũng nổi lên phong trào say mê Hoàng mai. Trước thời Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa “Hoàng mai hí” đã bị bọn thống trị liệt vào loại hình gọi là “trò đồi phong bại tục” ra lệnh cấm diễn . Để duy trì nguồn sống, nghệ nhân Hoàng mai không thể không ngầm diễn ở nông thôn. Do đời sống khó khăn, đa số nghệ nhân ít được học hành nên sự hình thành và phát triển của giọng hát và kinh nghiệm sân khấu của họ đều dựa vào truyền khẩu, còn nguồn gốc của Hoàng mai chỉ có thể theo hình thức truyền thuyết. Về thời gian và địa điểm nẩy sinh “Hoàng Mai Hí”, cách nói phổ biến nhất là điệu hát hái chè ở huyện Hoàng Mai ở tỉnh Hồ Bắc là hình thái ban đầu của kịch bản này. Tiểu điệu ấy, trong quá trình hình thành, dung hợp với những điệu như Giang Tây, Phương Dương hoa cổ ở gần đó và không ngừng hoàn thiện. Sau niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, truyền vào một dải An Huy, Giang Tây, lại chịu ảnh hưởng của Thanh Dương Xoang và kết hợp với ca vũ dân gian âm nhạc, ca hát trong địa phương cuối cùng đã hình thành “Hoàng Mai Hí” và bắt rễ suốt một dải An Huy – An Khánh. Truyền thuyết thứ hai nói “nhạc nhân” trong quân đội của Trương Hiếu Trung tản mác ở một dải Hoàng mai cuối đời Minh là “thủy tổ” của Hoàng mai hí. Tương truyền quân khởi nghĩa của Trương Hiến Trung sau khi tàn lụi ở Hồ Bắc, họ lấy nghề biểu diễn ca vũ mà sống. Được trăm họ ở nơi đó thích nghe, mê xem, có người còn học tập theo, do đó một dải Hoàng mai hình thành một loại hí kịch vui mới gọi là “Hoàng mai hí”. Truyền thuyết thứ ba thì nói: Lễ hội đón thần ở miền An Huy, An Khánh là cái nơi nảy sinh ra nó. Trước đây mỗi đầu mùa hạ, quả mai chín vàng, nước lớn thường dâng cao, gây thành tai họa, dân chúng cầu khấn được mùa liền cử lễ hội “nghênh thần”, vừa ca vừa vũ để mua vui cho thần linh. Sau đó trên cơ sở biễu diễn ca vũ này đã nẩy sinh kịch vui có liên quan đến mùa hoàng mai, nhân đó gọi là “Hoàng mai hí”. Những truyền thuyết nào, cái nào gần với sự thật hơn cả, còn đợi một bước khảo chứng, đột phá ngoạn mục. 18.“NGUYÊN KHÚC TỨ ĐẠI GIA” ? “Nguyên khúc” là tên gọi chung của tạp kịch và tán khúc đời Nguyên, tạp kịch thời đó là một hình thức vui ca, dùng giai điệu Bắc đã diễn ca hát xướng, tác gia tạp kịch nguyên có chép hơn trăm người, bốn tác giả nổi bật trong số đó được tôn là “Nguyên khúc tứ đại gia”. Thuyết “tứ đại”sớm nhất thấy chép là “Trung nguyên âm vận” của Chu Đức Thanh, nhà âm vận học đời Nguyên. Chu lấy kịch bản tồn tại ở đời với tác gia đã biết làm nền tảng, từ góc độ âm vận học, đề ra cái thuyết Quan, Trịnh, Bạch, Mã là Nguyên tứ gia. Quan tức Quan Hán Khanh, Trịnh là Trịnh Quan Tổ, Bạch là Bạch Phát, Mã là Mã Chí Viễn. Thuyết này vẫn được các nhà khúc luận đời sau như Vương Quốc Duy… tin tưởng. Nhìn tổng quát sự sáng tác của Quan, Trịnh, Bạch, Mã có thể thấy bốn người này thật là cự phách. Quan Hán Khanh viết hơn 60 vở, được ca ngợi là “vua tạp kịch”. Trịnh Quang Tổ là “văn chương hoa mỹ đầy bụng”, “danh thơm toả mọi nhà”. Vở “Tưởng đầu mã khương”, Ngô đồng vũ của Bạch Phác. “Hán cung thu” của Mã Chí Viễn, ngày nay vẫn có giá trị nghệ thuật khá cao. Đến đời Minh, có người tên Hà Lương Tuấn trong cuốn “Khúc luận” của ông, từ góc độ bình phẩm từ chương để lập ra thuyết: “Nhạc phủ ở đời Nguyên gọi Mã Đông Ly, Trịnh Đức Huy, Quan Hán Khanh, Bạch Nhân Phủ làm tứ đại gia. Tiến một bước nữa luận chứng nói: “Từ” của Mã già dặn hùng mạnh như “lệnh”, điệu hát thì uỷ mị (từ của Quan hùng hồn nhưng thiếu chiều sâu, Bạch rất giản dị nhưng thiếu lời hay nên lấy Trịnh làm đầu”. Điều khiển người ta khó hiểu là: Vương Thực Phủ “sáng tác từ chương phong vận đẹp, những bậc kỳ sĩ đều bái phục, tạp kịch mới, truyền kỳ cũ lấy “Tây sương ký” là đầu trong thiên hạ (lời Giả Trọng Minh) nhưng bị gạt ngoài “tứ đại gia”. Có người nói, cái đó có thể liên quan đến những người bảo vệ đạo đức phong kiến cho “Tây sương ký” là tối tăm, dâm ô. Mãi đến Minh Gia Tĩnh về sau mới có người bênh vực cho “Dưới Mái Tây”, tác giả là Vương Thực Phủ. Sách viết về lịch sử hí khúc phổ thông đương đại đều xếp Quan Hán Khanh lên hàng đầu các nhà Nguyên khúc, Vương Thực Phủ hạng nhì. Nhưng gần đây lại có người đề xuất trong nghiên cứu từ năm 1949 đến nay là vấn đề đánh giá Vương Thực Phủ còn thiếu sót, cho nên đối với “Nguyên khúc tứ đại gia” cần phải tiến thêm một bước nữa để làm rõ trắng – đen. 19 . CÔN XOANG RA ĐỜI VÀO LÚC NÀO ? Căn cứ vào sử liệu đời Minh, Thanh thì vào khoảng niên hiệu Gia Tĩnh (đời Minh) Ngụy Lương Phụ nhà ở Thái thương, trên nền tảng tiểu xướng Côn Sơn chắt lọc mà viết thành Côn Xoang. Chu Di Tôn đời Thanh trong “Tĩnh chí cư thi thoại” đã viết: Ngụy Lương Phụ bắt đầu cải biến điệu Đức dương dải diêm làm muối biển)… thành Côn Xoang”. Trịnh Chấn Đạc cũng đồng ý quan điểm này, ông viết: “Nhà âm nhạc vĩ đại này (chỉ Ngụy Lương Phụ) là một nhà sáng tác Côn Xoang”. Nhưng báo kịch nghệ hai kỳ thứ 7, 8 năm 1961, đăng bài của Lộ Công lần đầu tham khảo về ông trong “Chân tích nhật lục” đời Minh phát hiện một bản thảo đề là “Lâu giang Thượng truyền Ngụy Lương Phụ nam từ dẫn chính”, trong đó có một đoạn viết như sau: “… chỉ có Côn Sơn là chính thanh (thanh điệu chính) do Hoàng Phan Xước đời Đường Huyền Tông truyền lại. Triều Nguyên có Cố Kiên tuy ở cách núi Côn Luân ba mươi dặm nhưng tinh thông về Nam từ… giỏi phát huy những ảo điệu của” Nam khúc, cho nên đầu đời Minh có tên là Côn Sơn xoang. Bài này vừa xuất hiện đã lập tức mở ra cuộc tranh luận sôi nổi, xưa vốn là của Ngụy Lương Phụ sáng lập Côn Sơn xoang, bây giờ lại biến thành việc của Cố Kiên triều Nguyên làm. Mà vẫn do Hoàng Phan Xước truyền lại. Lại thêm trước đó đã có người đề xuất, Ngụy Lương Phụ vốn là người ở Giang Tây, sau dời đến Thái Thương, làm sao ông làm ra tiểu xướng Côn Sơn? Quan điểm mới này có thể lật đổ luận điểm cũ không ? Cũng có người nảy sinh nghi ngờ đối với luận điểm mới bởi vì tìm khắp các tư liệu đời Nguyên có liên quan đến hí khúc, đều chưa từng thấy có ai tên Cố Kiên. Nếu vào thời bấy giờ Cố Kiên thuộc loại vô danh tiểu tốt, không có tên trong kinh truyện thì sao có thể “phát huy những ảo diệu của Nam khúc” để sáng lập ra Côn xoang lừng lẫy một thời? Xem ra cái ngôi vị người sáng lập Côn xoang của Ngụy Lương Phụ không có nền móng vững chắc, Cố Kiên muốn thay thế xem ra chứng cứ vẫn chưa rõ ràng, đầy đủ… Nhưng bất luận thế nào, họ đều là các bậc đại công thần trong việc phát huy nghệ thuật Côn xoang. 20.“THIẾU NỮ LY HỒN” ? Tạp kịch Nguyên “Thiếu nữ ly hồn” (Mã Thanh tỏa “Thiếu nữ ly hồn”), tác giả là kịch tác gia rất nổi tiếng cuối đời Nguyên Trịnh Quang Tổ. “Thiếu nữ ly hồn” là một vở kịch thơ lãng mạn được người đời say mê, mô tả Trương Thiếu Nữ và Vương Văn Cử yêu nhau nhưng mẹ Trương ngại chàng Vương không có công danh, tìm mọi cách ngăn cản, Văn Cử buộc phải vào kinh thi, Trương Thiếu Nữ vì nhớ nhung Văn Cử mà hồn lìa thể xác, đuổi theo Văn Cử, kết làm vợ chồng và cùng nhau vào kinh. Tình huống ngọn nguồn của “Thiếu nữ ly hồn” giới học thuật có rất nhiều giả thuyết khác nhau. Một ý kiến bắt nguồn từ tiểu thuyết thần kỳ quái thời kỳ Lưu Nam Tống Triều. Người giữ quan điểm này là học giả đời Minh, Từ Ưng Thư. Trong quyển 6 “Ngũ chi đương đàm hội” nói: Tình tiết chuyện “Thiếu nữ ly hồn”, xuất phát từ ba cái, cái thứ nhất là “U minh lục” ở đời Nam Tống, Lưu Nghĩa Khánh; cái thứ hai là “Lưu Hờn ký” ở đời Đường, Trần Huyền Hựu; cái cuối cùng “Linh quái lục” đại khái thành sách vào cuối đời Đường trở về sau, ba bộ trứ tác kể trên đều có chuyện thiếu nữ lìa hồn. Cốt truyện “U minh lục” kể một thiếu nữ họ Thạch ở Cự Lộc mến mộ dung mạo một chàng trai ở cùng quận tên Bàng A, liền bí mật hẹn hò. Sau bị vợ Bàng A phát giác, hai lần sai người trói thiếu nữ áp giải đến nhà họ Thạch cô gái bị trói hai lần hoá thân biến mất, mà xác vẫn còn ở trong nhà,… thì ra cái bị bắt là hồn phách của cô ta. Một ý kiến khác lần đầu thấy ở tiểu thuyết đời Đường. Người giữ quan điểm này có học giả hiện đại Vương Quý Tư làm đại biểu. Họ cho rằng câu chuyện về “Thiếu nữ ly hồn” sớm nhất thấy trong “Ly hồn ký” tiểu thuyết của Trần Huyền Hựu đời Đường. Bởi cái mà tiểu thuyết này viết là Thiến Nương và Vương Trụ đã đính hôn từ nhỏ, lớn lên yêu nhau nhưng nàng Thiến Nương lại bị cha đem gả cho người khác nên Thiến Nương xuất hồn, nửa đêm đuổi theo người yêu. Những tình tiết này rất gần gũi với “Thiếu nữ ly hồn” của Trịnh Quang Tổ. Còn một ý kiến cho rằng tạp kịch “Thiếu nữ ly hồn” là kế thừa tác phẩm văn học có cùng đề tài của người đời Kim mà mô phỏng theo những vở kịch tình yêu nổi tiếng như “Tây sương ký”, “Tường đầu mã thượng” v.v… đã gây ấn tượng sâu đậm với các tác giả đời sau. Câu chuyện “Thiếu nữ ly hồn” quả thật đã chịu ảnh hưởng lớn của các tác phẩm cùng thể loại cùng tên ở thời nào còn đợi giới học thuật tiếp tục thảo luận và minh định. 21. DANH HỌA “PHÚ XUÂN SƠN CƯ ĐỒ” ? Họa sĩ đại gia đời Nguyên là Hoàng Công Vọng (hiệu Tự Cửu), năm 78 tuổi vẽ một cuộn tranh sơn thủy “Phú xuân sơn cư đồ” (nhà dưới núi Phú Xuân). Cuộn tranh này miêu tả cảnh sắc tuyệt đẹp trên bờ sông Phú Xuân. Trong khoảng đó, cây cối xanh rờn, núi non trùng điệp: thôn xá đình đài xen kẽ hài hoà, thuyền chài, cầu nhỏ nước chảy cuồn cuộn … vô cùng linh động. “Phú xuân sơn cư đồ” là tác phẩm được ca ngợi hết lời trong lịch sử hội họa Trung Quốc. Cuộn tranh này ban đầu do họa sư đời Minh, Thẩm Thạch Điền cất giữ sau truyền đến tay Đổng Kỳ Xương. Đổng còn đề lời bạt trên cuộn tranh. Trải qua nhiều lần đổi chủ, tranh được Ngô Chi Cự truyền lại cho ông là Ngô Hồng Dụ. Không bao lâu, quân Thanh vượt ải quan. Trong cơn chiến loạn, bức họa lưu lạc thất tán trong dân gian, không biết ở đâu. Đến niên hiệu Khang Hy đời Thanh, nội phủ hoàng cung ngẫu nhiên vớ được “Sơn cư đồ” của Hoàng Tử Cửu liền nâng niu trong nội cung. Khoảng niên hiệu Càn Long, một hôm Càn Long kiểm duyệt tranh quý trong nội cung thấy có “Sơn cư đồ” của Hoàng Tử Cửu, rất mừng, xác định đó là tranh thật, tuy (vua xem) tên tranh thiếu mất hai chữ “Phú Xuân” và còn đóng bảo ấn “Ngự lãm” trên tranh. Không ngờ cách đó không lâu, lại có người khác tiến dâng một bức “Phú Xuân sơn cư đồ”nữa, Càn Long sau khi xem không hài lòng cho rằng cuộn tranh này không phải là tranh thật của Hoàng Tử Cửu. Càn Long còn sai thượng thư bộ lại viết trên cuộn tranh lời chê bai khi giám định thật giả. Hoàng đế Càn Long đã phán như thế. Nhưng, nhân sĩ uy thế trong nghề lại có ý kiến khác về vấn đề đó. Hoàng Tân Hồng nói với Phan Thiên Thọ: “Phú Xuân sơn cư đồ” tiến dâng lúc sau, đúng là tranh thật của Tử Cửu, Càn Long muốn giữ thể diện , cố ý làm sai sự thật! (xem cuốn “Nguyên đại”, “Tứ đại họa gia” của Phan Thiên Thọ,Vương Bá Mẫn). “Phú Xuân sơn cư đồ” là thật hay giả, còn cần có người đầy đủ uy tín đưa ra lý luận để có thể giả quyết nghi vấn một cách rốt ráo. 22.“NGUYÊN TỨ GIA” LÀ AI ? Trong lịch sử Trung Quốc có danh hiệu “Nguyên tứ gia”. Về nghệ thuật học theo kỹ thuật hội họa của Đổng Nguyên, Cự Nhiên, các tác phẩm phần nhiều miêu tả sơn thủy thiên nhiên biểu đạt tư tưởng ẩn dật của sĩ phu. Tác phẩm của họ tổng hợp thi, thư, họa mà đưa vào tác phẩm nảy sinh ảnh hưởng sâu xa trong nền hội họa Minh Thanh và bao đời sau. Người đầu tiên đề xuất danh hiệu “Nguyên tứ gia” là nhà văn học đời Minh, Vương Thế Trinh. Trong “Nghệ uyển kỳ ngôn” ông Triệu Mạnh Phủ, Ngô Trấn, Hoàng Công Vọng, Vương Mông là “Nguyên tứ đại gia”. Sau đó, Đồ Long, Trương Sửu đều nghe theo quyết này. Sau Vương Thế Trinh 29 năm, nhà thư họa cuối đời Minh – Đổng Kỳ Xương trong cuốn “Họa giả” đề xuất “Nguyên tứ đại gia” là: Hoàng Công Vọng, Vương Mông, Nghê Toản, Ngô Trấn. Nguyên Đổng Kỳ Xương ở vào địa vị lãnh tụ hội họa thời bấy giờ, phong cánh thư họa và quan điểm lý luận của ông ảnh hưởng rất rộng, cho nên đời sau nhiều người chiều theo luận điểm đó của họ Đổng. Tranh của Nghê Toản, về kỹ thuật ban đầu theo Đổng Nguyên, Cự Nhiên , sau đó tham chiếu lối vẽ của Kinh Hạo. Quang Đồng, đầu tiên dùng “nếp chiết đái” (dải đứt) để tả sơn thuỷ, về cây cối lại học theo Lý Thành. Phong cách trong giản dị mà hỗn tạp, tựa như non nớt mà rất mực cứng cáp, mang lại sự phát triển mới cho tranh sơn thủy, thủy mặc của văn nhân thi họa. Giới sĩ bậc thầy thời đó rất kính mến ông, họ gọi ông là “cao sĩ”. Triệu Mạnh Phủ thi, thư, họa, ấn đều tinh thông. Phong cách thơ văn của ông hòa dịu uyển chuyển, thư pháp tròn trịa mạnh mẽ, người ta gọi là “Triệu thể”. Trong lịch sử thư phápTrung Quốc, ông đứng ngang hàng với những đại gia như Tô Hoàng, Mễ, Thái, hội họa lấy nét mực nhạt làm chủ, điểm chút màu xanh lục, tạo hình và nét bút cổ kính chất phát, có ý sáng tạo cái mới, dùng kỹ xảo thư pháp tả cây cổ, trúc đá do ông trực tiếp kế thừa và phát huy kỹ xảo đề tài của họa sư văn nhân Tô Thức,Văn Đồng đến nay. Còn như khắc chữ triện (ấn) là thủy tổ của kiểu “viên chư văn” đều lấy Triệu làm tổ sư. Đem so sánh thành tựu nghệ thuật của Nghê, Triệu ta dễ phát hiện, còn luận về toàn tài, bất kỳ một họa sư đời Nguyên nào đều không sánh kịp Triệu Mạnh Phủ, Đổng Kỳ Xương, nếu gạt ông ra ngoài “Nguyên tứ đại gia” thì khó thuyết phục mọi người; luận về nghệ thuật hội họa Nghê Toản được người đời sau phổ biến tôn sùng, Vương Thế Trinh không xếp ông vào hàng ngũ “Nguyên đại tứ gia” là không công bằng. 23. DANH HỌA “THANH MINH THƯỢNG HÀ ĐỒ” ? Bức họa “Thanh minh thượng hà đồ” (Tiết Thanh minh trên sông ) trải qua nghìn năm lưu truyền danh thơm cho đời sau. Là bức tranh cổ đại nổi tiếng ai ai cũng biết, xứng đáng là tác phẩm hàng đầu trong di sản mỹ thuật cổ đại. “Thanh minh thượng hà đồ” của Trương Trạch Đoan đời Tống vẽ, đời sau được người ta coi là bức tranh mô tả tiết thanh minh. Đến những năm 80 trong thế kỷ 20, học giả hiện đại Trung Quốc, Khổng Hiến Dị đã nghiên cứu tỉ mỉ về phong tục dân gian vẽ trong “Thanh minh thượng hà đồ”. Viết trong bài “Nghi vấn và thanh minh của bức Thanh minh thượng hà đồ”, đối với thuyết từ xưa đến nay nhận định nó miêu tả “tiết thanh minh”, điều này ông không tán thành. Khổng Hiến Dị thấy rằng “nay nhìn các hiện tượng trong tranh, bảo nó là mùa thu thì hợp với thực tế hơn”. Xem ngắm kỹ những cảnh vẽ trong “Thanh minh thượng hà đồ”, có đứa trẻ cởi trần, nhiều người phe phẩy quạt lá bồ, từng chiếc mũ cỏ, nón trúc, bên sông, trên cầu bày dưa hấu đã bổ, và rau quả trong vườn đang đợi thu họach, cảnh ấy dường như rất xa với Tiết Thanh minh. Căn cứ vào “Đông kinh mộng hoa lục” đời Tống ghi chép: “Trước tiết Trung thu, các quán đều bán rượu mới”. Mà trên lá cờ của quán rượu trong tranh, chính là hai chữ “tân tửu” (rượu mới). Đó phải chăng tác giả cố ý chỉ rõ, bấy giờ là gần đến tiết Trung thu ? Sau đó còn có người đề xuất “Thanh minh” trong “Thanh minh thượng hà đồ” vừa không phải là thời tiết vừa không phải là địa giới, hai chữ “Thanh minh” là niềm hi vọng của tác giả đối với cuộc đời. Tác giả lấy cái đó để tả lại phong cảnh quê cũ đáng yêu, gởi gấm hi vọng vào đời thịnh vượng mai sau. Cái ý gọi là “Thanh minh” (trong sáng) là chủ đề rõ ràng của nó, không phải là không mang sắc thái châm biếm! Đối với kết luận “Thanh minh thượng hà đồ” miêu tả là “Tiết Thanh minh”, ngày nay đã bị chỉ trích. Tự thân bức tranh chứng tỏ quan điểm đã được mấy trăm năm noi theo không phải là không thể biến đổi. Đương nhiên, cuối cùng muốn có nhận thức thống nhất, ta còn phải “chờ xem”. 24. HỘI HỌA TRUNG QUỐC ? Trung Quốc họa gọi tắt là “quốc họa”. Nó bắt đầu vào lúc nào, do ai khai sáng, trong các sách cổ không có sự thống nhất. Người đời nay lại có luận thuyết mới, quan điểm như sau: Một, bắt nguồn từ thuỷ tổ của loài người là Phục Hi. Ngài và Nữ Oa lấy nhau, đẻ ra loài người. Phục Hi sáng tạo ra “bát quái” là hình thái ban đầu của hội họa Trung Quốc. Hai, bắt đầu từ thời Hoàng đế nảy sinh hội họa ý kiến giống nhau, nhưng câu hỏi ai là thủy tổ của hội họa còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng, Hoàng đế là thủy tổ của hội họa. Theo truyền thuyết Hoàng đế là tổ tiên chung của các dân tộc Trung nguyên, ông từng đem hai người Thần Trà và Uất Lũy giỏi về trừng trị ác quỷ, vẽ trên tấm gỗ đào treo ngoài cửa để phòng quỷ quái (xem Phong tục diễn nghĩa –Từ điển). Một số văn nhân đời sau căn cứ vào cái đó cho rằng, tranh chân dung thể loại như “thần giữ cửa” là hội họa sớm nhất của Trung Quốc. Các ý kiến khác cho rằng, Sử Hoàng là người khai sáng hội họa. Trong “Vân cập thất thiêm” nói “Hoàng đế có bầy tôi là Sử Hoàng và ông ta bắt đầu vẽ tranh”. Cũng có người cho rằng Thương Hiệt là tổ hội họa. Thời xưa lưu truyền Thương Hiệt là sử quan của Hoàng đế, người sáng tạo chữ Hán. Học giả Trung Quốc phần nhiều tin theo thuyết “thư họa đồng nguyên” (chữ viết và họa cùng một nguồn gốc). Như người đời Đường Trương Ngạn Viễn trong “Lịch đại danh họa ký” đề xuất thuyết “thư họa tuy khác tên mở cùng một thể”, “cùng nguồn mà dòng khác” … Còn có người nói Thương Hiệt, Sử Hoàng cùng sáng tạo văn tự và hội họa. Tương truyền Hoàng đế từng được rùa thần ở sông Lạc dâng bức họa hoa văn màu đỏ, Hoàng đế bèn ra lệnh cho Sử Hoàng và Thương Hiệt mô phỏng hình trong bức đó là văn tự và hội họa sớm nhất (xem những sách như “Lịch đại danh họa ký” v.v…). Ba, nảy sinh vào đời vua Thuấn thống trị. Theo truyền thuyết, vua Thuấn là thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Thuấn có em gái tên Luy. Luy là thủy tổ của hội họa, cho nên lại gọi “Họa Luy” (xem “Họa sử hội yếu”). Bốn, bắt đầu vào thời kỳ văn hoá Ngưỡng thiều. Một số học giả hiện đại cho rằng, căn cứ vào các tư liệu hiện có thì sự phát triển của hội họa Trung Quốc, bắt nguồn từ gốm vẽ màu, đào được ở Ngưỡng thiều. Các quan điểm kể trên, mỗi người nói một khác. Có thể thấy hội họa Trung Quốc đến nay vẫn còn là một dấu hỏi lớn. 25.“QUẮC QUỐC PHU NHÂN DU XUÂN ĐỒ” ? Năm thiên bảo thứ 11, Dương Quốc Trung làm thừa tướng tập đoàn họ Dương dựa vào Dương Quí Phi được vua sủng ái, tiếng tâm hiển hách, quyền nghiêng thiên hạ. Chị của Dương Quí Phi là Quắc quốc phu nhân, thường cùng Dương Quốc Trung ngồi xe ngựa ra vào trong triều ngoài nội, sự uy nghiêm của họ khiến trên dưới trong cung đình, thần dân trăm họ không thể coi thường. Họa sư cung đình Trương Huyên vẽ bức “Quắc quốc phu nhân du xuân đồ” miêu tả một cảnh sinh họat xa hoa của chị em họ Dương. Nhưng ai đã từng xem “Quắc quốc phu nhân du xuân đồ” thì đối với nhân vật trong tranh, ai là Quắc quốc phu nhân, trước sau không thấy rõ cho lắm. “Quắc quốc phu nhân du xuân đồ”của Trương Hiên, trên tranh có tám người cưỡi ngựa. Trước tiên có ba người cưỡi ngựa ruổi về phía trước, hai người trong đó mặc nam trang. Tiếp theo là hai người cưỡi ngựa song song, trên ngựa là hai phụ nữ ăn mặc đẹp. Ngoài ra, ba người cưỡi ngựa dàn hàng chữ nhất, trong đó người cởi ngựa ở giữa ôm một đứa trẻ, một người khác cũng mặt nam trang. Bức tranh “du xuân đồ” không phức tạp, nhưng muốn làm rõ trong đó ai là Quắc quốc phu nhân không phải dễ dàng. Có học giả cho rằng, Quắc quốc phu nhân là một trong trong ba người cưỡi ngựa ở đằng sau. Lý do rất đơn giản, ba người đi trước mở đường không nghi ngờ gì nữa, hai người cưỡi ngựa ở giữa dù y phục không diễm lệ, nhưng không phân biệt ra được ai chủ và người hầu, cũng không có nhân vật chính ở đó. Trong ba người cưỡi ngựa đi sau, hai bên trái, phải một người mặc áo dài đỏ, một người mặc hồng bào là hai thị tòng và người ở giữa ung dung sang trọng, khí thế khác thường, rõ ra là nhân vật chính trong tranh Quắc quốc phu nhân . Có học giả cho rằng, dựa theo cách xếp hàng xuất hành, trong một hàng ba người cưỡi ngựa đằng trước là mở đường, ba người ở sau là đoạn hậu, họ đều là vai phụ, chỉ có hai người cưỡi ngựa ở giữa mới có thể là vai chín. Quắc quốc phu nhân là một trong hai người này. Có người cho rằng, người mặc nam trang ở trên cùng là Quắc quốc phu nhân. Bởi vì trong khoảng năm Thiên Bảo, phụ nữ quí phái ở địa vị cao thích mặc nam trang. Nhưng ở bức tranh này, trong ba người cưỡi ngựa sau cùng cũng có một người phụ nữ mặc nam trang cái đó không dễ giải thích. Vậy Quắc quốc phu nhân là ai trong số đó? Xem ra vẫn chưa có ý kiến nào tối ưu!! 26.“NGŨ NGƯU ĐỒ” ? “Ngũ ngưu đồ” là tác phẩm nghệ thuật quí vẽ năm con bò, hiện lưu giữ ở Viện Bảo tàng cố cung, tác giả là họa sư thời Trung Đường, Hàn Hoàng. Năm con bò trong cuộn tranh “Ngũ ngưu đồ” dàn hàng chữ nhất từ trái sang phải, mỗi con có mỗi nét. Con bò – thứ nhất bên tay phải, cúi đầu, đang thảnh thơi nhai cỏ bên đường, con thứ hai, đứng ngang nhìn về phía trước rảo bước tới, con thứ ba đứng ở giữa mõm hơi há ra, đầu hơi nghểnh, tựa như kêu như gọi; con thứ tư thè lưỡi liếm môi, thở hổn hển do dự, quay đầu nhìn quanh, trù trừ cất bước; con bò thứ năm mũi lồng vòng sắt, đầu đeo dải đỏ, thần sắc trang trọng, bước chậm rãi đến vùng trời đất ngoài xa… Đó là năm con bò đã được nhân cách hóa. Vậy họa sư muốn nói lên điều gì? Nhà thư họa nổi tiếng đời Nguyên Triệu Mạnh Phủ cho rằng, bức vẽ này là điển cổ Đào Hoằng Cảnh từ tạ lời mời của Lương Vũ đế. Điển cố này nói: Ngày trước Lương Vũ đế định dùng Đào Hoằng Cảnh làm quan (Đào Hoằng Cảnh vẽ hai con bò) một con bị cái lồng vàng trói buộc, một con tự do tự tại thả rong bên bãi cỏ. Lương Vũ đế xem xong, cảm thán tiết tháo thanh cao của Đào Hoằng Cảnh mà không ép ông. Đối với ý đồ sáng tác của Hàn Hoàng, hoàng đế Càn Long nhà Thanh lại có suy đoán khác. Ông đề thơ trên tranh rằng: “Một con cuốn đầu giữ bốn con. Trong tưởng tượng chứa tâm tình cao thượng của Đào Hoằng Cảnh. Nó liếm cắn chứ nào có giống vẻ khoan khoái. Muốn hỏi vì sao nó thở mệt, biết được cảnh gian nan của dân”? Câu hỏi “Vì sao mà thở” đại ý nói, mùa xuân năm đó, tể tướng thời Hán Tuyên đế, tên Bính Cát ra ngoài, giữa đường gặp một đám người đánh nhau bị tử thương, sau đó gặp một nông phu xua một con bò nóng nực đang thở hổn hển, ông vội sai người đến hỏi bò đã đi mấy dặm đường rồi? Thuộc hạ không hiểu, ông bèn giải thích: Việc nhỏ như đánh nhau, có quan địa phương lo, nếu bò chưa đi được bao nhiêu đường đất đã nóng nực đến nỗi thở hổn hển như vậy, chứng tỏ thời tiết không điều hòa, đó mới là việc lớn mà tể tướng nên lo lắng. Triệu Mạnh Phủ là tôn thất nhà Tống ra làm quan với nhà Nguyên, luôn có ý lui về ở ẩn; hoàng đế Càn Long là vị vua có lòng, đương nhiên hy vọng có nhân tài ra giúp đời, giúp mình. Mỗi ngươì nhìn theo riêng của mình, đó là lẽ tất nhiên. Cho tới nay động cơ sáng tác ở “Ngũ ngưu đồ” vẫn chưa có bất kì tài liệu nào do tác giả hay người bên cạnh chứng minh. 27. AI LÀ TỔ SƯ TRANH MẶC TRÚC ? Trong lịch sử hội họa Trung Quốc, có một nghệ thuật độc đáo là vẽ trúc. Trong khoa vẽ trúc lại chia ra: sắc trúc (vẽ bằng màu) chu trúc (vẽ bằng son) mặc trúc (vẽ bằng mực), trong đó mặc trúc tạo ảnh hưởng lớn nhất. Người đầu tiên vẽ mặc trúc là ai? Từ trước đến nay chưa hề có tiếng nói thống nhất. Một thuyết cho là Ngô Đạo Tử đời Đường, Vương Khái trong “Giới tử viên hoa truyện” viết: “Sơn cốc nói, Ngô Đạo Tử vẽ trúc, không tô màu, mà rất giống về hình có lẽ mặc trúc bắt đầu từ Đạo Tử. “Sơn Cốc” là hiệu của Hoàng Đình Kiên đời Bắc Tống. Điều đáng tiếc là, trong những tranh của Ngô Đạo Tử lưu lại, không thấy vẽ mặc trúc, có người căn cứ vào đó mà nghi ngờ thuyết này. Một thuyết kể Vương Duy đời Đường. Chư Thăng ở đời Thanh trong “Thanh thạch đường trúc phổ” đề xuất : “Tương truyền mặc trúc bắt đầu từ Ma Cật (Vương Duy)”. Thuyết này chứng cứ không đủ. Chỉ trong rừng bia Tây An còn một tảng đá bia trúc viễn, nét để trong giữa do người đời sau mô phỏng tranh của Vương Duy như đá bia đã lu mờ, nguyên tắc là viền nét để trong giữa (song câu) hay vẽ bằng mực (thuỷ mặc) thì không có cách nào nhắc tới để làm sáng tỏ. Một thuyết khác là Đường Minh Hoàng, Lý Long Cơ, nhà vẽ trúc nổi tiếng đời Nguyên – Trương Thoái Công trong “Mặc trúc ký” viết: “Mặc trúc bắt đầu từ Minh Hoàng, sau truyền cho Tiếu Duyệt”. Đường Minh Hoàng có phải là người đầu tiên không, còn đợi khảo chứng, nhưng Tiếu Duyệt thì đúng là có người đó, ông vẽ trúc nổi tiếng ở đời Đường. Còn có một thuyết bắt đầu từ Lý Thị, vợ Quách Sùng Thao đời Ngũ đại. Hạ Văn Ngạn đời Nguyên trong “Hội đồ bảo giám” có chép. Đại ý nói: Lý Thị khi trời gần tối hay ngồi trước cửa sổ phía nam, thấy bóng trúc thướt tha trên giấy bồi cửa sổ, bỗng nổi nhã hứng mài mực cầm bút vẽ trên giấy bồi cửa sổ mô phỏng bóng trúc, ban ngày nhìn có thần khí. Họa pháp này dần dần truyền ra, do đó có mặc trúc. Trong lịch sử đúng là có nhân vật Lý Thị, nhưng lại chưa ai thấy tác phẩm mặc trúc của bà truyền lại. Những thuyết kể trên, cái nào đúng, cái nào sai, còn đợi các chuyên gia khảo chứng. 28.“DƯƠNG CHÂU BÁT QUÁI” LÀ TÁM NGƯỜI NÀO ? “Dương châu bát quái” là một nhóm thư họa có tinh thần sáng tạo họat động của Dương châu khoảng niên hiệu Càn Long đời Thanh, là đại biểu chính của họa phái Dương châu. Về phong cách sáng tác và thủ pháp biểu hiện đều có tính cách nhất định, tác phẩm táo bạo dữ dội, đột phá ra ngoài sự trói buộc của hình thức, không bắt chước cổ “mô phỏng cổ”, quan tâm hết sức với đời sống xã hội. Cái đó so với họa phái cung đình học theo phép cổ, chiếm địa vị thống trị trong giới họa đầu đời Thanh, có cái thế phản, sức phản nghịch rất lớn. Nhân đó mà đương thời coi họ là “quái họa”. Trên thực tế, chính họ đã dám phá vỡ hàng rào hình thức gò bó, lại có thể kế thừa, phát triển truyền thống dung hợp thi, thư, ấn, họa vào một nghệ thuật “hội họa”, xác lập được địa vị của họ trong lịch sử hội họa, được người đời sau coi là một họa phái phi thường. Danh hiệu “bát quái” sớm nhất thấy trong “Âu bát la thư họa quá mục khảo” thành sách năm Quang Tự thứ 23 đời Thanh (1897), tác giả Lý Ngọc Phần kể “Bát quái” là Uông Sĩ Thận, Hoàng Thận, Kim Nông, Cao Tường, Lý Thiện, Trịnh Biến, Lý Phương Ưng, La Sinh. Sau đó một thời, Uông Quân trong “Dương châu họa uyển lục” căn cứ vào các thuyết khác nhau trong giới học thuật, kể ra hai nhóm “Bát quái”. Một nhóm là: Hoàng Thận, Kim Nông , Lý Thiện, Trịnh Biến, Lý Phương Ưng, Cao Phong Hàn, Biên Thọ Dân, Dương Pháp. Một nhóm nữa là: Uông Sĩ Thận, Hoàng Thận, Kim Nông, Cao Phong Hàn, Lý Thiện, Mân Trinh, Trịnh Biến, La Sính. Trần Hành Khác trong “Trung Quốc hội họa sử” cho “Bát quái” là: Kim Nông, La Sính, Trịnh Biến, Mân Trinh, Lý Phương Ưng, Uông Sĩ Thận, Hoàng Thận, Lý Thiện. Ngoài ra, Hoa Nham cũng từng được trong số “Bát quái”. Do đó có thể thấy tiêu chuẩn lấy, bỏ của học giả, trải qua các đời không giống nhau. “Bát quái” có nhiều tính tổ hợp, các nhà thư họa mà tên họ liệt vào “Bát quái” tăng trên mười người, trong số đó người được các nhà bình luận công nhận chỉ có: Hoàng Thận, Kim Nông, Lý Thiện, Trịnh Biến. Do đó những năm gần đây có người đề xuất “Dương Châu Bát quái” nên đổi là “Dương Châu Bát quái họa phát”, cũng có người đề nghị nên gọi là “Dương Châu Bát quái họa gia quần”, đó là một cách nói trung dung. Vậy thuyết nào gần với sự thật nhất: xem ra khó phân biệt đích xác! 29. TÁC GIẢ “CỔ ĐẾ VƯƠNG ĐỒ” ? “Cổ đế vương đồ” lại gọi “Lịch đại đế vương đồ” là tác phẩm hội họa quí giá của Trung Quốc, hiện còn bày ở viện bảo tàng Boston, Mỹ. Đó là một cuộn tranh màu vẽ trên lụa, trong tranh vẽ chân dung 13 vị đế vương từ Lưỡng Hán đến đời Tùy. Họa gia đối với thời đại cuộc đời và cá tính của mỗi nhân vật đều nắm vững đối với minh quân và bạo chúa đều có khen chê phân minh như vẽ vua khai quốc, có khí sắc hiên ngang; vẽ vua vong quốc thành kẻ suy sụp tinh thần. Họa sư đó là ai? Từ xưa đến nay, họa sư đầu đời Đường, Diêm Lập Bản vẫn được coi là tác giả “Cổ đế vương đồ”. Các sách xuất bản những năm gần đây, như “Trung Quốc hội họa tử” của Vương Bá Mẫn, “Trung Quốc mỹ thuật sử” của Trương Quang Phúc biên soạn, đều theo thuyết đó. Nhưng có nhiều học giả lại giữ thái độ hoài nghi. Như Từ Bang Đạt trong “Trung Quốc hội họa sử đồ lục” chỉ nói: “Tương truyền là tác phẩm của Diêm Lập Bản”. Mà trong “Trung Quốc lịch đại hội họa đồ lục” của Lâm Thụ Trung, Chu Tích Dần biên soạn, chỉ nói là tranh đời Đường, không ghi rõ tên tác giả. Nhà mỹ thuật sử Kim Duy Nặc đã trình bày quan điểm của mình, ông viết: “Cổ đế vương đồ” hiện nay ở viện bảo tàng Boston Mỹ là bản mô phỏng đời Tống, ngay nguyên bản cũng không phải Diêm Lập Bản vẽ. Lập luận của ông dựa trên hai điều: Thứ nhất là lời trình bày có liên quan của nhà sưu tầm và nhà giám định nổi tiếng Bắc Kinh, Mễ Phế. Mễ Phế trong sách “Họa sử” đã hai lần nhắc đến “Cổ đế vương đồ”. Đoạn thứ nhất là một người tên Vương Cầu có một bức chân dung đế vương thời cổ vẽ từ Lưỡng Hán đến triều Tùy, hình dạng hết sức quái dị, tiếc rằng tôi chưa được nhìn thấy. Đoạn thứ hai đại ý là: Sau khi nghe nói nhà Vương Cầu có bức “Cổ đế vương đồ”, tôi đến chỗ Tôn Trung Tuân nhìn thấy “Cổ đế vương đồ” vẽ trên giấy gai trắng, không tô màu. Theo Tôn Trung Tuân nói, Dương Bao từng mượn bức này nhờ người vẽ lại “Cổ đế vương đồ” mà Vương Cần mua được là bản mô phỏng, trên tranh còn có dấu ấn “Tử Mỹ” tên tự của Dương Bao. Thứ hai, Diêm Lập Bản là cháu ngoại của Bắc Chu Vũ đế Vũ Văn Ưng, thì sao ông có thể đem ông ngoại của mình vẽ thành kẻ thô bạo ngang ngược, và trong chữ đề trên tranh ghi là “vô đạo?” Có thể đoán chắc tranh gốc không do tay Diêm vẽ ra. 30. TÀO THÁO “TRÓC ĐAO” ? Từ “tróc đao” nghĩa là cầm đao. Có một điển cố nói: Ngụy Vương Tào Tháo cho rằng mình dung mạo xấu, không thể dùng oai trấn áp ngoại bang liền bảo Thôi Diễm đóng giả Ngụy Vương tiếp sứ Hung Nô, tự mình cầm đao, đứng hộ vệ. Sau các văn sĩ gọi là “tróc đao”, ý nói Tào Tháo nhờ người khác đóng thay mình. Tống Huy Tông, tên Triệu Cật, hoàng đế Bắc Tống, là một nhà thư họa. Ông là một vị vua vong quốc, đối nội thì tham lam táo bạo, đối ngoại thì nhu nhược bất lự, nhưng về nghệ thuật thì ông kiệt xuất. Về hội họa Triệu Cật có công khai phá đóng góp chiếm một vị trí lớn trong lịch sử hội họa. Tranh của ông được xem là kỹ càng xác thực, giỏi về hoa điểu, tương truyền là dùng sơn sống điểm mắt chim, rất sinh động. Theo thống kê, tranh Triệu Cật còn lại trên 20 bức nhưng trong những tác phẩm đó, quả thật có bao nhiêu tranh đúng là của Triệu Cật, giới học thuật trước nay có cái nhìn không giống nhau! Thái Thao, Đặng Xuân trong sách của họ viết “Thuyết vi sơn từng đàm” và “Họa giám” đều chỉ ra rõ ràng một số tác phẩm của Triệu Cật phần nhiều đều được họa sĩ trong họa viện này vẽ thay. Một số học giả hiện đại, kế thừa thành quả nghiên cứu của người trước đối với tranh Triệu Cật còn lại để tiến hành sự phân tích khảo đính rất sâu sắc, tỉ mỉ… kết luận rút ra được đã khiến mọi người kinh ngạc. Tranh của Tống Huy Tông ngày nay có đến tám, chín phần là do cao thủ trong họa viện vẽ thay, chỉ có số ít tác phẩm như “Tuyết giang quy trạo đồ” (Tranh sông tuyết quay chèo về). “Ngự ưng đồ” (Tranh chim ưng của vua) thì chưa có ai phản bác. Người ta còn muốn hỏi: Người là bậc thầy hội họa, một đời khoẻ mạnh (Huy Tông từ 18 đến 43 tuổi còn ở ngôi) tại sao phải dựa vào công sức của ngươì khác mà đóng ấn “Tuyên hòa ngự chế”, “Tuyên hoà điện ngự chế tịnh thư”, hoặc sai người viết thay những chữ như “Ngự chế ngự họa tịnh thư” (tranh vua vẽ và đề chữ). Đó quả là một câu đó khiến mọi người còn hồ nghi. 31.“TRÂM HOA SĨ NỮ ĐỒ” ? “Trâm hoa sĩ nữ đồ” (tranh phụ nữ quí tộc cài trâm giắt hoa) là một cuộn tranh lụa có trục, hiện tàng trữ ở Viện bảo tàng ở tỉnh Liêu Ninh. Cuộn tranh miêu tả năm phụ nữ quí tộc, ăn mặc đẹp, búi tóc cao, đầu giắt bông hoa mình mặc áo the. Từ xưa đến nay, tác phẩm kiệt xuất “Trâm hoa sĩ nữ đồ” vẫn được coi là Chu Phảng đời Đường vẽ. Chu Phảng là một họa sư nổi tiếng cuối thời Trung Đường, sau đời Ngô Đạo Tử, xuất thân quí tộc, từng làm quan ở Tuyên Châu, sở trường vẽ phụ nữ. Nhân vật ông vẽ toát ra sức khỏe, đơn giản, hình thể đầy đặn, sắc thái dịu, đẹp đẽ. Sau đời Tôn Trung Sơn, một số chuyên gia học giả như Thẩm Tòng Văn, sau khi đi sâu, nghiên cứu lịch sử mỹ thuật và phục sắc thời cổ lại rút ra được kết luận phủ định. Do khảo chứng nhiều mặt, từ góc độ như trang phục, vật trang sức, kiểu tóc của nhân vật cho đến phong cách nghệ thuật, toàn thể bức tranh đều có cái nhìn khác nhau! Một số ý kiến cho rằng theo trang sức của nhân vật trong tranh, thì các tác phẩm đã được người đời Đường trở về sau, mô phỏng. Một số ý kiến cho rằng, kiểu trang phục tay áo dài quét đất, có vào cuối đời Đường, bức tranh này có thể là tác phẩm thời kỳ đó. Có một số ý kiến khác lại cho rằng, xét từ phong cách nghệ thuật, nội dung miêu tả, tính tự và không khí đời sống thì nó phải là tác phẩm thời Nam Đường. Lục Du trong ghi chép về quốc chủ nam Đường Lý Rực, sau nhà Đại Chu “sáng chế kiểu búi tóc cao, xiêm nhỏ, đầu giắt bông hoa vểnh trên mái tóc, người ta đều bắt chước” trong “Nam Đường thư” là một chứng cứ có sức thuyết phục. Những ý kiến kể trên có một điểm nhất trí về cách ăn mặc, trang sức của nhân vật trong tranh, không thuộc thời Trung Đường. Nhân đó mà “Trâm hoa sĩ nữ đồ” không có thể là tác phẩm của Chu Phảng. Thế thì nó là của ai? Mà tất cả những người nêu luận điểm còn để trống. Do đó vẫn còn nhiều học giả tin vào thuyết do Chu Phảng vẽ. 32. ÂM GIAI NGŨ THANH ? Âm giai là một nhóm âm xếp hàng theo thứ tự cao thấp của âm lên bổng hoặc xuống trầm, lấy cung điệu làm tiêu chuẩn. Dựa theo số lượng âm chứa trong cung mà gọi là “âm giai ngũ thanh”, “âm giai thất thanh”… Ngũ thanh, cũng gọi là Ngũ âm, là năm bậc trong cổ nhạc Trung Quốc: cung, thương, giốc, chủy, vũ tương đương với 1, 2, 3, 5, 6 trên âm phổ hiện hành. Âm giai ngũ thanh trong lịch sử âm nhạc có đơn vị cực kỳ quan trọng, còn như thời gian ra đời của nó, có nhiều thuyết v.v… Theo truyền thống, ngũ thanh có trước thời đại Quản Trọng. Ông sống vào đầu thời Xuân Thu, năm sinh, năm mất vào khoảng 725 – 645 trước công nguyên. Thuyết này dựa vào nội dung ở thiên Địa viên trong sách Quản Tử mà duy vào thời Quản Trọng tác giả sách này sống thì âm giai ngũ thanh đã lưu hành, nên sự hình thành của nó đã có trước thời đó, bởi trong thiên đó đã chép phép lấy số ngũ âm. Nhưng người thời nay sau khi khảo sát tỉ mỉ, đều cho rằng, sách Quản Tử làm vào thời Chiến Quốc Tần Hán giả danh không đủ làm bằng. Rất nhiều học giả căn cứ vào kết quả đo lường âm thanh của nhạc khí mới đào lên trong những năm gần đây nên đã có vài lập luận mới. Có người căn cứ vào kết quả đo lường âm thanh của biên chung (dãy chuông), biên khánh (dãy khánh), huân như kên, sáo văn vật đào dưới đất lên mà suy đoán: “Vào đời Thương, thế hệ của âm giai nguyên thủy vừa mới hình thành, ngũ thanh và thất thanh gần như đồng thời phát triển, thất thanh có thể vào đầu đời Thương; ngũ thanh có thể vào đầu đời Thương, thế kỷ thứ 15 trước công nguyên đã hình thành”. Nhạc sĩ sáng tác Lã Ký qua phân tích đo lường âm của các huân bằng gốm có hai lỗ âm đào được ở các nơi như thôn Bán Pha Tây An, thôn Kinh huyện Vạn Vinh Sơn Tây và ở Hà Nam, đã đem âm thanh của hai loại huân, hợp lại với nhau, vừa khéo hoàn thành âm giai ngũ thanh tương đồng với ngũ thanh chúng ta đang dùng ngày nay. Bởi vậy, ông cho rằng, vào cuối thời mẫu hệ, tổ tiên người Hoa đã có một số hình thái âm giai… Có thể suy luận, âm giai ngũ thanh vào cuối thời mẫu hệ đã hình thành. Những thuyết kể trên, cái nào đúng cái nào sai, còn đợi khai quật thêm các di chỉ có luận chứng thuyết phục. 33. BÍCH HỌA “KHÁCH SỨ ĐỒ” ? Bích họa “Khách sứ đồ” bàn ở đây, là một trong rất nhiều bức ở mộ của Chương Hoài – thái tử Lý Hiền đời Đường. Bức này vẽ ba sứ nước Phiên, người thứ nhất đội mũ da, mặc bào xám cổ tròn, chân đi hia vàng; người thứ hai, mặc bào tía cổ bẻ, đi hia đen; người thứ ba, đội mũ lông vũ chỏm nhọn, mặc bào trắng cổ đỏ, đi hia vàng. Ba sứ giả nước ngoài này được ba quan chức nhà Đường hướng dẫn. Bức bích họa này, từ thần thái, cách ăn mặc của nhân vật đến lễ nghi có phong thái cung đình và nét vẽ tinh xảo của nó đều xứng đáng là tác phẩm hàng đầu trong những bích họa ở lăng tẩm nhà Đường. Nhưng nội dung của bức “Khách sứ đồ” lại có hai ý kiến hoàn toàn khác nhau!! Một ý kiến cho rằng cái mà “Khách sứ đồ” mô tả là cảnh đến chia buồn khi sứ giả nước phiên điếu tang thái tử Lý Hiền. Vương triều lý Đường thời đó các lễ hôn, tang, giá thú của thái tử, công chúa đều mời sứ giả nước ngoài đến dự. Những khách mời được coi là thượng khách ngồi cùng hàng với dòng tôn thất, văn võ bá quan. Ba vị sứ giả trong bức “Khách sứ đồ” xét về hàng ngũ, vị trí của họ đều giống với nghi thức thăm viếng chia buồn. Do đó ta có thể đoán “Khách sứ đồ”là tác phẩm ghi lại nghi thức tang lễ Lý Hiền. Một quan điểm khác cho rằng cái mà “Khách sứ đồ” mô tả là cảnh chia buồn, không hợp với thực tế khách quan. Bởi lẽ trong điển chương đời Đường, đối với các nhân vật cũng gồm cả sứ giả nước ngoài trong lễ nghi cung đình, về trang phục của họ đều được qui định nghiêm ngặt. Trong đại lễ tống táng, đế vương và quan chức đều phải mặc màu tang trắng, dù là khách mời cũng không có ngoại lệ. Vậy thì, ba sứ giả trong “Khách sứ đồ” mặc tang phục đẹp đẽ không thể nào hợp với không khí chia buồn. Hơn nữa, ba quan chức nhà Đường, dẫn đường cho khách, không tỏ vẻ đau buồn mà giống như vào triều bái kiến vậy. Hai quan điểm trên mỗi cái đều có lý lẽ, nhưng cả hai đều không thuyết phục nhau. Không biết cuộc tranh luận này còn kéo dài đến bao giờ? 34.“KIM SƠN THẮNG TÍCH ĐỒ” ? Đầu thế kỷ 20 vào đời Quang Tự nhà Thanh. Thái hậu Từ Hi đã qua đời, Long Dụ được thăng làm Thái hậu, muốn lôi kéo các người trong đảng phái cách mạng, để gở cái thế nguy ngập của giang sơn Đại Thanh. Một hôm Long Dụ có Túc Thân Vương hầu bên, cho mời Uông Tinh Vệ đang giữ chức vụ quan trọng. Thái hậu Long Dụ chính tay đem bức “Kim sơn thắng tích đồ” của Đường Bá Hổ tặng cho Uông Tinh Vệ, ông ta không dám tin vào sự việc xảy ra trước mắt, thầm biết “Kim sơn thắng tích đồ” vô cùng giá trị, là cái mà hoàng đế Càn Long xuống Giang Nam mua được ở Tô Châu. Vui mừng quá độ, Uông Tinh Vệ cầm bức tranh không biết xoay sở ra sao. Nguyên vợ ông ta, Trần Bích Quân người đàn bà xảo trá, tham lợi và rất mưu cơ. Bà ta đem bức tranh thủ bút của Đường Bá Hổ, giấu kín trong mật thất tại một ngôi chùa ở ngoại ô Thiên Tân. Trần Bích Quân tự thấy, việc này thần không biết quỷ không hay, nhưng bà ta vẫn luôn đứng ngồi bất an, tâm thần bất ổn. Mãi đến năm 1940, tình hình trong và ngoài nước ngày càng khẩn cấp. Trần Bích Quân sợ tranh giấu trong mật thất bị suy xuyển, bèn chuyển bức tranh đi nơi khác lần nữa. Sáng ngày 26 tháng 1 năm 1940, một chiếc du thuyền ở vịnh Bột Hải đột nhiên bị một bọn cướp biển đánh phá, chúng hóa trang là người của mật vụ Nhật Bản phái đến, là vì bức tranh quí giá trong tay Trần Bích Quân. Đến khi chúng lục tung cả du thuyền thì không có bức tranh quí giá nào và cũng không có bóng dáng của Trần Bích Quân đâu cả! Thì ra Trần Bích Quân đột nhiên thay đổi chủ ý, bà ta đổi đáp một chiết tàu hàng từ Đường Cô, lén về Nam Kinh. Trần Bích Quân chưa ngớt lo sợ, lại đem bức tranh quí đến hầm nhà Chu Phật Hải. Vì thấy hầm xi măng cốt sắt là nơi tốt nhất để giấu bức tranh! Bỗng một hôm, nhà của Chu Hải bốc khối cuồn cuộn, lưỡi lửa liếm thấu trời, trong khoảnh khắc, cả tòa nhà sang trọng và hầm sắt đã biến thành một đống đổ nát hoang tàn! Thì ra, đó cũng do đặc vụ Nhật Bản. Chúng đã cướp mất bức “Kim sơn thắng tích đồ” dưới hầm, sau đó cho một mồi lửa thiêu hủy toà nhà. Vài ngày sau, bức tranh đó đã đến Tokyo trong khi những tên trộm kia mừng liên hoan, thưởng thức bức tranh, thì một chuyên gia Nhật Bản cho rằng đó là tranh giả. Nghe lời truyền ra, tên đầu sỏ cơ quan đặc vụ đã nhảy xuống biển tự sát vì thua “mưu trí đàn bà”! Vậy bức tranh thật “Kim sơn thắng tích đồ” bây giờ ở đâu? 35.“ĐÔN HOÀNG KHÚC PHỔ” KỲ BÍ ? Ngày 26 tháng 5 năm 1900, trong một động chứa kinh sách trong hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, người ta phát hiện năm vạn đồ vật chôn giấu gần nghìn năm. Trong đó gọi là “Đôn Hoàng khúc phổ”. Báu vật hiếm có trên đời ấy, tám năm sau bị người pháp Behier cướp mang về nước, hiện lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Pháp. Ngoài ra, có hai quyển sao lục hai mươi tự phổ, chỉ pháp, và nhạc khúc “Hoãn khê sa”. Gần trăm năm nay, học giả Trung Quốc và nước ngoài đã nghiên cứu hai quyển còn lại, tuy thu được thành quả đáng mừng, nhưng ghi vấn đặt ra cũng nhiều… Thứ nhất, gọi “Đôn hoàng khúc phổ” thế nào mới đúng? Các học giả, mỗi người một ý, kể ra tên gọi rất nhiều: “Khúc tử công xích phổ”, “Đôn hoàng tỷ bà phổ”, “Đôn hoàng Đường nhân đại khúc phổ”, “Đôn hoàng Đường nhân nhạc phổ”, “Đôn hoàng khúc phổ”, “Đôn hoàng quyển” v.v… các loại tên gọi có đến hơn mười thứ. Ngày nay, người ta thích tên gọi “Đôn hoàng khúc phổ” hơn. Thứ hai, “Đôn hoàng khúc phổ” sao chép năm nào? Không ai thấy niên đại sao chép mà chỉ thấy lưng bìa có chữ “Trường hưng tứ niên Trung hưng điện hậu thánh tiết giảng kinh văn”. Trường hưng năm thứ tư tức năm 993. Phần lớn học giả căn cứ vào đó cho là sao chép năm 993 sau Công Nguyên. Đến năm 1984, Hà Xương Lâm căn sứ vào bút tích khác cuối kinh văn, viết hơn mười bài xướng từ và câu thơ đoán là “Đôn hoàng khúc phổ” sao chép vào tháng giêng nhuận, năm 934. Thứ ba “Đôn hoàng khúc phổ” là khúc gì? “Đôn hoàng khúc phổ” chỉ là loại nhạc khí đã xác định, không còn ghi ngờ gì nữa, nhưng nó thuộc loại khúc phổ có nội dung gì, thì mỗi người một ý. Diệp Đống cho rằng: “Đôn hoàng khúc phổ” là do một loạt phân khúc tổ hợp thành Đường đại khúc. Triệu Hiểu Sinh nói: “Đôn hoàng khúc phổ” là nhạc phổ từ điệu xưa nhất, nay còn truyền lại. Tịch Trăn Quán nói: “Đôn hoàng khúc phổ” là một bản tấu, có hình thức vũ nhạc hoàng chỉnh . Quan Dã Duy Thản Trần : “Đôn hoàng khúc phổ” soạn cho một loại sáo vũ nhạc mang tính địa phương ở cuối đời Đường đến Ngũ Đại, có thể gọi là “khúc của Sa Châu”. 36. ĐÀN CẦM CÓ VÀO THỜI NÀO ? Một khúc “cao sơn lưu thủy” nghe xong khiến tâm hồn lâng lâng thư thái. Khúc nhạc cổ hay như thế, do đàn cầm gảy nên, khiến người ta đối với cổ cầm càng thêm phần tôn kính! Nghe đồn lịch sử của đàn (cổ) cầm, ra đời khoảng trên dưới ba nghìn năm. Mà thời gian cụ thể còn có nhiều ý kiến bất đồng. Lịch sử ghi có người phát minh nông tang Phục Hi Thần Nông, từng “đẽo gỗ đồng làm đàn, chằng sợi tơ làm dây”, từ đó mà sáng tạo ra đàn cầm. Nhưng, Phục Hi vốn là nhân vật trong truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc, nói ông sáng tạo đàn cầm, thật khó có ai tin . Có học giả lý giải, đàn cầm trải qua một thời gian từ công cụ sản xuất chuyển sang đàn cầm mà hình thành. Sự xuất hiện ban đầu của nó vào thời còn chế độ nô lệ ở Trung Quốc. Thời kỳ đó từng là một giai đoạn lịch sử rất dài. Cho tới nay, chứng cớ có văn tự ghi chép hoặc có di vật khảo cổ chứng minh cổ cầm Trung Quốc có thể xuất hiện vào thời Tây Chu đến Xuân Thu. Theo sử sách đàn cầm có vào thời Tây Chu, đã lưu hành rộng rãi trong xã hội, nó luôn luôn hòa tấu với đàn. Trong Kinh Thi, cái gọi là “gia huyền hộ tụng” (từng nhà đàn, tụng), “Cầm sắt hữu chi” (cầm sắt bầu bạn với nhau), là nói về hai thứ đàn đó. Trong số những đàn cầm, đàn sắt đào được ở Trung Quốc, cái cổ nhất làm từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Một số sử gia cho rằng, cổ cầm xuất hiện vào thời Xuân Thu trở về trước, vẫn còn ở vào giai đoạn nguyệt thủy, chưa thành thục. Nên vẫn chưa thể thích ứng với việc hòa tấu nhạc khúc. Mãi đến thời kỳ Tần Hán, đàn cầm về tạo hình đã có cải tiến quan trọng, kỹ xảo diễn tấu cũng theo đó mà nâng cao, hình thành âm sắc độc đáo của nó. Đó mới là đàn (cổ) cầm mang ý nghĩa đích thực. Không biết cách nhìn nhận này có được công nhận chăng? 37. KHÚC NHẠC “QUẢNG LĂNG TÁN” ? Khúc nhạc đàn cầm “Quảng lăng tán” là một khúc cổ đại nổi tiếng. Nó có kết cấu đồ sộ, hùng hồn, âm giai phong phú, được ca ngợi là “đàn anh các nhạc khúc”. Ghi chép về “Quảng lăng tán” trong tư liệu lịch sử không ít, nhưng bên trong lại không vạch ra được nội dung của khúc nhạc mô tả điều gì? Có học giả bàn rằng, cầm khúc “Quảng lăng tán” miêu tả chuyện Nhiếp Chính thời Chiến quốc lo báo thù cho cha, tìm cách giết Hán Vương. Vào thế kỷ thứ 2 Công Nguyên, Thái Ung đời Hán viết cuốn “Cầm tháo”, tức “Nhiếp Chính thích Hàn vương khúc”, sách này miêu tả tình tiết Nhiếp Chính báo thù cho cha đâm chết Hàn vương, Nhiếp Chính tự hủy dung mạo mà chết, mẹ ông không chịu nhục đã cùng chết với con. Nhưng từ đời Hán về sau, “Nhiếp Chính thích Hàn Vương Khúc” không còn ai nhắc đến mà gọi là “Quảng lăng tán”. Theo suy đoán, có thể là tên đó đã đụng chạm đến sự tôn nghiêm của giai cấp thống trị, nên cần né tránh. Nhưng căn cứ với ghi chép trong những sách như “Sử ký”, “Chiến Quốc sách”, câu chuyện mà “Quảng lăng tán” miêu tả không giống với “Nhiếp Chính thích Hàn Vương Khúc” nguyên bản là chuyện Nhiếp Chính được Nghiêm Trọng Tử dùng để giết Hiệp Lũy. So với “Sử ký” Tư Mã Thiên, độ tin cậy của cuốn sách “Cầm tháo” mà Thái Ung viết, rất đáng ngờ. Tư Mã Thiên nghiêm cẩn về học thuật là điều mọi người đều công nhận. Cổ cầm khúc “Quảng lăng tán” trải qua ngàn năm lưu truyền đến nay càng tăng thêm sự trong sáng trong lịch sử âm nhạc Trung Quốc. Tuy nhiên, vấn đề nhạc khúc đó căn cứ vào nội dung nào mà sáng tác, đến nay có cái nhìn chưa thống nhất, nhưng vẫn không ảnh hưởng chút nào đến sức quyến rũ của nó! 38. AI VIẾT KHÚC NHẠC “THẬP DIỆN MAI PHỤC” ? Khúc nhạc cổ cho đàn tỳ bà “Thập diện mai phục” lại có tên “Hoài Âm bình Sở”, thời Hán Sở. Lấy trận chiến ở Cai Hạ của Lưu Bang, Hạng Vũ làm chủ đề, vận dụng kỹ xảo riêng của tỳ bà khiến vô số tâm linh của quân binh chấn động, ngày nay đã trở thành khúc nhạc nổi tiếng trên thế giới. Điều đáng tiếc là kiệt tác đó không biết ai là tác giả đích thực. Ghi chép bằng văn tự có liên quan đến đại khúc tỳ bà này, thấy trong “Tứ chiếu Đường tập Thang tỳ bà truyện” của Vương Du Định đời Minh. Trong truyện đã ghi chép tường tận về Thang Ưng Tăng (khoảng 1585-1652) được người đời gọi là “Thang tỳ bà đàn khúc tỳ bà Hán Sở”, họ Thang đàn hơn 110 bản… mà hay nhất là khúc “Hán Sở”. Giữa lúc đôi bên quyết chiến, tiếng xô sát long trời lở đất, ngói trên mái nhà dường như rung rinh; lại có tiếng vang, tiếng trống, tiếng cung kiếm, tiếng người ngựa gào thét; lâu lâu có nỗi oan khó giải bày là tiếng Sở ca thê lương mà hùng tráng, là tiếng Hạng Vương bi ca khẳng khái, lúc từ biệt nàng Ngu Cơ bị vây hãm; ở đầm lớn có tiếng quân kỵ đuổi theo; đến Ô Giang có tiếng Hạng Vương tự vẫn, tiếng gió ngựa giày đạp của quân kỵ tranh xác Hạng Vương, khiến người nghe hưng phấn rồi kinh hoàng, cuối cùng bật khóc mà bàng hoàng, sự cảm động lòng người của nó đến độ như vậy”. Có người đem giai điệu của đoạn đầu “Thập diện mai phục” so với khúc thứ năm lớp thứ bảy “Ca khúc cổ điển” ở biên giới phía Bắc của sắc tộc Duy Ngô Nhĩ, phát hiện âm điệu cốt lõi, dấu lặng và khí vị của hai cái hết sức giống nhau, nhân đó mà cho rằng “Thập diện mai phục” hấp thu được tinh hoa âm nhạc của sắc tộc thiểu số Tây Bắc. Thang Ưng Tăng đúng là đã từng đến chiến trường Tây Bắc như Gia cốc quan, Trương dịch, Tửu tuyền v.v… có đủ điều kiện để sáng lập “Thập diện mai phục”. Nhưng, Vương Du Định, người giao du thân mật và kết làm tri kỷ với Thang Ưng Tăng, trong “Thang tỳ bà truyện” lại chưa nói Thang sáng tác “Thập diện mai phục”, mà đem nó liệt vào loại “cổ khúc”. Nhiều người cho rằng các cổ khúc tỳ bà đều phát sinh từ dân gian, rồi trải qua diễn xuất luyện tập của mấy đời nghệ nhân nên ngày càng chín chắn, hoặc đến cao độ thuần phục, là kết tinh của trí tụê tập thể “Thập diện mai phục” có thể cũng lại như vậy chăng? Xem ra, câu đố về tác giả “Thập diện mai phục” chưa thể sáng tỏ! 39. VŨ KHÚC “NGHÊ THƯỜNG” LÀ GÌ ? “Nghê thường vũ y khúc” gọi tắt là “Nghê thường” là vũ nhạc cung đình dưới thời Đường, thuộc điệu “Thương”. Toàn khúc phân làm ba phần: tán, trung và khúc phá. Tán tự là diễn tấu nhạc khí, không vũ không ca, trung tự bắt đầu có nhịp phách, vừa ca vừa vũ: khúc phá là cao trào của toàn khúc, nhiều âm nhịp gấp, thanh điệu sang sảng, lúc kết thúc thì chuyển chậm, chỉ vũ mà không ca. “Nghê thường vũ y vũ” phối hợp với nó, người vũ nửa trên trang sức lông vũ nhiều màu, nửa dưới mặc váy trắng, hoa văn lấp lánh, thế múa nhẹ nhàng, trang nhã, giống như tiên nữ trên mây. Tóm lại, múa nhạc và y phục của nó điều ra sức miêu tả tiên cảnh vô hư chập chờn với hình ảnh tiên nữ. Quá trình sáng tác vũ khúc này, có truyền thuyết thần thoại về: Đường Huyền Tông, Lý Long Cơ từng theo chân một đạo sĩ tên La Công Viễn du Nguyệt Điện. Trên cung Trăng, Huyền Tông thấy vài trăm tiên nữ mặc xiêm y trắng múa theo tiên nhạc ở quảng đình. Đường Huyền Tông vốn thông hiểu âm luật nên sau khi về đến nhân gian, dựa vào ký ức viết ra nửa phần trước là “Nghê thường”, nửa phần sau không nhớ được nữa. Giữa lúc buồn không biết xoay xở cách nào, Huyền Tông bỗng nghe báo có tiết độ sứ Tây Lương, Dương Kính Thuật vào triều, và dâng một bài “Bà la môn khúc” âm điệu của nó hết sức phù hợp với cái ông nghe trên cung trăng. Huyền Tông cả mừng, bèn đem tiên nhạc vừa ghi được làm ca từ, lấy “Bà la môn khúc” làm nhạc chương ở phần sau và gọi là “Nghê thường vũ y khúc”. Điều đó rõ là sự bịa đặt của tiểu thuyết gia. Trong bài tựa của Nhạc phủ “Bà la môn” viết: Giai điệu Thương, trong năm Khai Nguyên, tiết độ sứ Tây Lương, Dương Kính Thuật dâng, năm Thiên bảo thứ 13 đổi là “Nghê thường vũ y”, “Điệu khúc Thương” là chỉ “Nghê thường khúc”. “Khai Nguyên” là niên hiệu của Đường Huyền Tông tức năm 713 – 741. “Thiên Bảo” cũng là niên hiệu của Đường Huyền Tông, tức năm 742 – 756. Trong “Dương thái chân ngoại truyện” nói về “Nghê thường vũ y khúc”, Đường Huyền Tông lên lầu Tam hương ngắm núi Nữ nhi mà làm ra. Cũng có người cho rằng, Huyền Tông lên lầu Tam hương ngắm núi Nữ nhi, sau về cung, chỉ làm được nửa phần đầu “Nghê thường”, mãi về sau tiếp thu “Bà la môn khúc” của Dương Kính Thuật dâng, mới có thể diễn tiếp thành toàn khúc. Tự thân “Nghê thường vũ y khúc” muốn miêu tả cảnh tiên, mà quá trình sáng tác của nó lại vàng thau lẫn lộn, khiến tác phẩm càng bao phủ một sắc thái truyền kỳ, huyễn mộng! 40.“DƯƠNG QUAN TAM ĐIỆP” ? “Dương quan tam điệp” là nhạc khúc nhạc cổ cầm, mới đầu thấy trong “Chiết âm thiết tự cầm phổ”, các phái đàn cầm đều lấy bài thơ “Dương quan tam điệp” nguyên tên “Tống Nguyên nhị sứ An Tây vị” thành khúc của Dương Duy đời Đường làm chính. Vận dụng thủ pháp hát xướng hát đi hát lại nhiều lần, nhưng cách nhìn mỗi người một khác. Có người tổng hợp giải thích của các học giả xưa nay về “tam điệp” qui kết thành hai loại: một loại cho rằng “điệp”(láy) trong phạm vi bài thơ, một loại khác lại cho rằng: “điệp” là sự mở rộng và phát triển của bài thơ. Để tiện trình bày hãy xem lại bài thơ “Dương quan tam điệp” của Dương Duy: “Vị thành triều vũ ấp khinh trần, Khách xá thanh thanh liễu sắc tân, Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất dương quan vô cố nhân” (Bụi tung thành Vị trận mưa mai, Nhà khách xanh xanh sắc liễu phơi, Anh hãy cùng tôi, ta cạn chén, Dương quan người cũ biết cùng ai?) Trước hết xin xem thí dụ nói về phép điệp (nhắc) của bài thơ: Nhà thơ đời Tống Tô Đông Pha khi bàn về phép hát “tam điệp” (ba láy) nói: “Xưa truyền lại “Dương quan” hát điệp ba lần, nhưng người hát đời nay mỗi câu láy hai lần mà thôi. Nếu lấy cả một bài mà nói, lại là điệp bốn lần, đều sai. Có người mỗi câu hát ba lần, để ứng với thuyết tam điệp, thì gọi là tạp, không còn có tiết tấu, cảm âm. Tôi ở Mật Châu, trưởng quan Văn Huân, nhân có việc đến Mật Châu, nói ông biết cách hát cổ bản “Dương quan”. Mỗi câu đều hát hai lần, mà câu thứ nhất không điệp, bèn cho cổ bản tam điệp là thế”. Lại có một loại điệp khác, tức là mở rộng và phát huy theo ý hướng bài thơ. Tập “Dương xuân bạch tuyết” viết vào đời Nguyên, hợp vào điệu Đại Thạch “Dương quan tam điệp khúc”: “Hưu phiền não: Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Chỉ khủng phạ tây xuất Dương quan, Cựu du như mộng, nhãn tiền vô cố nhân Chỉ khủng phạ tây xuất Dương quan, Nhãn tiền vô cố nhân”. (Chớ phiền não: Khuyên anh hãy cạn thêm chén nữa, Chỉ sợ ra khỏi Dương quan, Cuộc chơi xưa như mộng, Trước mắt không còn cố nhân, Chỉ sợ ra khỏi Dương quan, Trước mắt không còn cố nhân). Có người thống kê khúc phổ “Dương quan tam điệp” nay đã có hơn ba mươi bản, tổng cộng sáu loại hình. Như vậy “điệp” lấy đâu làm chuẩn, chúng ta khó mà phân hơn kém. 41 . GỐC “NHỊ HỒ” Ở ĐÂU ? “Nhị hồ” là một loại đàn Hồ cầm, thuộc loại đàn cây. Âm sắc của nó dịu hòa, réo rắt, sức biểu cảm mạnh mà tinh tế “Nhị Tuyền ánh nguyệt” là một nhạc khúc dùng đàn nhị hồ diễn tấu. Ngày nay, nhị hồ không chỉ là một viên ngọc xán lạn trong nhạc khí cổ truyền, mà được ca ngợi trong âm nhạc thế giới. Về nơi bắt nguồn của nó, học giả Trung Quốc và nước ngoài đều có tranh luận, tìm hiểu. Học giả Nhật Bản Điền Biên Thượng Hùng trong cuốn “Trung Quốc âm nhạc sử” ông viết: Hồ cầm của Trung Quốc (đặc biệt chỉ đàn nhị hồ) không phải là cái mà Trung Quốc cổ đại có, mà từ Ấn Độ du nhập. Ông luận chứng rằng hình dạng của Hồ cầm giống với loại đàn đơn giản nhất của ravastlong (đàn nhị kéo dây cổ nhất thế giới). Ravastlong tương truyền do Ravana, quốc vương Ceylan (cách nay khoảng 5000 năm trước) phát minh. Dù không phải vậy, nhưng đàn kéo cung do người Ấn Độ làm ra cũng đúng. Đàn nhị kéo dây Trung Quốc xuất hiện ở đời Đường là theo sự hưng thịnh của Phật giáo khi truyền vào Trung Quốc. Có người không đồng ý với thuyết đó, cho là ghi chép trong sử Trung Quốc như “Tân Đường thứ”, “Tống sử” v.v… có liên quan đến nước Thiên Trúc (Thân độc) và trong cuốn “Đại Đường Tây vực ký” do cao tăng nổi tiếng đời Đường là Huyền Trang viết, đều không đề cập đến việc này. Không ít chuyên gia Trung Quốc cho rằng, nguồn gốc của Nhị hồ ở khu vực của sắc tộc thiểu số Tây Bắc cổ đại Trung Quốc. Chứng cớ là: phương pháp kéo đèn bắt nguồn từ Hề cầm, mà nguồn gốc của Hề cầm lại bắt nguồn từ “Hề bộ” tức là sắc tộc thiểu số phương Bắc Trung Quốc sống ở lưu vực Nhiêu lạc thủy (nay là sông Lạp mộc, khu tự trị Nội Mông). Trong “Nhạc thư” của Trần Trăn – người đời Tống có chép khá tường tận về Hề cầm. Đời Tống để kỷ niệm nhà âm nhạc, nhà văn học, nhà tư tưởng Kê Khang đời Ngụy bị họ Tư Mã giết hại, đem “Hề cầm” đổi làm “Kê cầm”. Đồng thời Hồ cầm mã vị của dân du mục Tây Bắc cũng truyền vào nội địa. Sau đó “Hề cầm” và “Hồ cầm mã vị” dung hợp với nhau, phát triển đến đời Nguyên, trở thành hình dạng mới của “Hồ cầm” tức “Nhị hồ”. Có người dứt khác cho rằng, thủy tổ của Nhị hồ kế cầm là do Kê Khang chế tạo. Ngoài đời Tống, Trần Nguyên Tịnh trong “Sự lâm quảng ký” nhận định “Kế cầm” do Kê Khang chế, cho nên gọi là “Kế cầm”. Đúng ra “Nhị hồ” gốc từ đâu? Đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. 42. LAI LỊCH VỀ TRÚC ĐỊCH ? Trúc địch (sáo trúc) gọn nhỏ, có thể hòa tấu trong dàn nhạc một cách đa dạng phong phú, địa vị thật đặc biệt trong số nhạc khí cổ truyền Trung Quốc Tương truyền ở xã hội nguyên thủy, tổ tiên người Hoa trong đời sống hoang dã, ăn thịt hút tủy, phát hiện lòng ống xương phát ra âm thanh dễ nghe, do đó chế ra ống địch (bằng ống xương). Sáo Trúc địch có phải dựa trên đó biến dạng hay không, hiện nay còn có nhiều dư luận. Người Nhật, Lâm Mộc Khiêm Tam trong cuốn “Đông Á nhạc khí khỏe” ông viết: “Địch của Trung Quốc từ Ấn Độ hoặc Tây Vực truyền vào”. Đời Minh có người thừa nhận địch thổi ngang do Trương Khiên đi sứ Tây Vực mang về Trung Nguyên. Tây Vực trong thời Hán chỉ hạn hẹp trong tỉnh Tứ Xuyên, tỉnh đó có người Khương, giỏi thổi ống địch. Cái mà Trương Khiên mang về có phải Khương địch hay không, đến nay vẫn chưa biết chắc. Căn cứ vào sử liệu khác dưới thời Hán Vũ đế, Khâu Trọng chế súng địch. Ông ta chế tác trúc địch, hay biến cải Khương địch, văn tự không nhắc đến?! Phần đông học giả Trung Quốc cho rằng, trúc địch không phải mang từ nước ngoài về, mà đã có từ thời Hoàng đế. Sự xuất hiện của Trúc địch đã thay cho ống địch chế bằng xương trải qua thời gian dài (khoảng ba nghìn năm). Trước đây không lâu, ở mộ Tăng hầu huyện Tùy Hồ phía Hoa Bắc đã đào được hai cây địch thổi ngang bằng trúc. Căn cứ vào chuyên gia khảo chứng, địch đào có từ thời Chiến quốc (ba bốn trăm năm trước triều Hán) và được người ta quí trọng. Trúc địch trong giai đoạn đầu chỉ có hai lỗ hoặc ba lỗ đến đời Nguyên mới biến thành trúc địch sáu lỗ như hiện nay. Theo đà phát triển âm nhạc, hí khúc, trúc địch lại phân thành hai loại bang địch và khúc địch làm cho Bắc khúc Nam âm lộ rõ vẻ phong nhã. Trúc địch tuy nhỏ, nhưng lai lịch không phải tầm thường, nếu muốn nói cho tường tận, thật không phải chuyện dễ. 43. CA XƯỚNG CÓ TỪ THỜI NÀO? Ca xướng là một nghệ thuật, đồng thời cũng là một cách tận hưởng giọng hát ngọt ngào! Điều chắc chắn rằng sẽ không có ai ghét nó dù họ có biết hát hay không? Nghệ thuật ca xướng bắt đầu có vào thời nào? Điều này cần phải đi sâu và tìm hiểu. Thuyết xa xưa nói, ca xướng vào thời Cát Thiên thị là một trong tam hoàng đã bắt đầu mở màn. Theo “Lã Thị Xuân Thu thiên cổ nhạc” ghi: “Nhạc của Cát Thiên thị ngày xưa có ba người cầm đuôi bò nhịp chân mà hát bài “Bát khuyết”…” Cái gọi là Bát khuyết như ngũ cốc của dân gian, công sức của trời bao la, không gì không có. Không chỉ ca xướng mà còn kèm theo vũ nhạc đủ thấy tình cảm vui nhộn của nó. Một thuyết khác nói, ca xướng bắt đầu từ Đế Thuấn. Theo “Sử ký – Nhạc thư” ghi, vua Thuấn vốn là người con hiếu thảo, để tỏ tình nhớ mong cha mẹ, ông làm ra một cây đàn cầm năm dây, lấy nó đệm cho khúc hát nhớ cha mẹ tên là “Nam phong”. Thuấn còn cử ông Quỳ làm nhạc quan, sai phổ nhạc khúc, khuyên người đời sống ngay thẳng không áp bức người khác thái độ dễ dãi, mà không ngạo mạn, cậy mình. Ngài còn nhân hậu dạy bảo, làm thơ và dùng cái đó diễn đạt tư tưởng tình cảm, ca xướng là dùng giai điệu để bộc lộ tình cảm, nó phải phù hợp với âm luật khiến cho đẹp ý, vui tai… Ngoài ra, chúng ta còn có lời ca trong “Sơn hải kinh –Đại Hoang Tây kinh” được xem là của Trưởng Cầm cháu nội Chuyên Húc, vì mọi người mà làm ra các nhạc khúc. Ghi chép qua các thời kỳ lịch sử đều đi đến kết luận và sự ra đời của xướng ca. Nhưng quả thật cách nhìn của ai chuẩn xác hơn? Chúng ta ngày nay, tay cầm micro, hát karaoke, nhảy múa có nghĩ đến nghệ thuật ca xướng; nam nữ, trẻ già cùng thú vị có đặt ra câu hỏi về nguồn của nó không? Hay mặc nhiên xem sự hưởng thụ là trên hết? 44. ÂM NHẠC CẢI CÁCH ĐỜI THƯỜNG ? Theo sự hình thành của âm nhạc cải cách đời Đường, thì âm nhạc Trung Quốc đã tiến lên một đỉnh cao mới. Cái gọi là nhạc cải cách đời Đường là nhạc Trung nguyên và Tây Vực kết hợp với nhau và có phong cách nghệ thuật độc đáo. Cũng có thể nói là nó kế thừa truyền thống “nhạc Thanh Thương”, gồm thâu tinh tuý âm nhạc các sắc tộc Trung nguyên và Tây Vực để mở rộng ra. Thế thì, chủ thể của âm nhạc đời Đường là gì? Về vấn đề đó có hai quan điểm khác nhau. Một quan điểm cho rằng, âm nhạc đời Đường mượn nhạc của Tây Vực làm gốc. Căn cứ vào bộ “Thông điển – Nhạc điển” thì: “Từ đời Chu Tùy đến nay, tạp khúc quản huyền (đàn sáo) có đến vài trăm khúc, phần nhiều dựa vào nhạc Tây Lương (cổ vũ khúc nhạc múa tróng, phần nhiều dùng nhạc Qui Tư )”. Tây Lương ở miền Vũ Uy, Cam Túc; Qui Tư là chỉ Khố Ban Tân Cương. Bởi vậy có người suy đoán nhận định trên là đúng. Một số người có căn cứ vào bích hoạ Phật giáo Đôn Hoàng trong đầu đời Đường như “Đông phương dược sư tịnh thổ biến” mà cho rằng nhạc khí, nhạc luật Tây Vực đã thịnh hành ở Trung nguyên và chiếm địa vị độc tôn. Trái với đều đó, nhiều học giả lại cho rằng, cốt lõi của âm nhạc đời Đường là âm nhạc Trung nguyên dù ảnh hưởng của nhạc Tây Vực đã ăn sâu bén rễ lâu đời. Khu vực Trung nguyên có di sản âm nhạc dân gian phong phú, nếu không quan tâm đến âm nhạc truyền thống và âm nhạc dân gian ở địa phương mà coi âm nhạc Tây Vực độc tôn là không hợp lý. Hơn nữa, sự phát triển của âm nhạc chịu tính cách riêng trong văn hóa khu vực, điểm này đúng vì ở thời cổ sự giao thông rất khó khăn, điều này không ai có thể phủ nhận. Âm nhạc đời Đường hấp thụ phần lớn nhạc Tây Vực đó là sự thật không thể tranh cãi, nhưng nếu nói nhạc Tây Vực là lý do dẫn dắt nhạc đời Đường thì không khỏi có phần thiên lệch. Chủ thể của âm nhạc đời Đường có phải âm nhạc Trung nguyên hay không là một mối nan giải. Chúng ta cũng nên linh động trong vấn đề này. 45. DỰC DƯƠNG XOANG GỐC Ở ĐÂU ? Dực dương xoang là một loại tuồng địa phương rất đặc sắc, hình thành vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh. Là tuồng địa phương nhưng nó bắt nguồn từ địa phương nào? Vẫn có nhiều ý kiến trái ngược nảy sinh. Vấn đề xuất xứ từ hai Dực dương thì có một Dực dương ở trung du Tín Giang vùng Đông Bắc Giang Tây và một Dực dương khác ở Quán Hà, Hà Nam về phía Tây. Căn cứ vào sách “Ổi đàm” của Chúc Doãn Minh, đời Minh giới thiệu thì Dực dương xoang có thể do thanh xoang Nam khúc mà ra. Cũng là nói về sự phát triển, hình thành trên khúc Nam hí của nó. Ngoài ra, trong sách “Nam từ dẫn chính” đời Minh viết rằng: Dực dương xoang ngay từ đầu đời Minh đã lưu truyền rộng rãi ở miền Vân Quí, cũng có thể thấy Dực dương xoang bắt nguồn từ Giang Tây. Căn cứ vào những ghi chép lịch sử đó, sách “Trung Quốc hí khúc thông sử” do Trương Canh, Quách Hán Thành chủ biên, nghiêng về quan điểm Dực dương xoang bắt nguồn từ Dực dương ở Giang Tây. Đồng thời trong sách trình bày, Dực dương xoang trong hệ thống Nam hí làm thành một môn phái có phong cách địa phương độc đáo. Mà những khúc nhạc địa phương có hình thức tôn giáo biễu diễn như “Na tế”đã tạo ra, nảy sinh ảnh hưởng đối với diễn biến của Dực dương xoang. Những người có kiến giải khác đối với nguồn ngốc của Dực dương xoang cho rằng, Dực dương xoang chỉ là sự “Đổi lốt” của Cao xoang ở phương Nam mà thôi. Lý Ngư đời Thanh trong “Nhàn tình ngụ ký – Âm luật” bàn rằng “Tây sương” của Dực dương xoang dùng điệu tuy kém nhưng lời văn của hát không đổi, vẫn giữ nguyên là “Tây sương” không biến nó thành quái thai. Do đó có thể nhìn ra, khúc Dực dương xoang dựa vào tạp kịch phương Bắc, hoặc cải biên, hoặc “bê nguyên si”. Dực dương xoang quả thực ra đời ở phương Nam hay bắt nguồn từ tạp kịch phương Bắc vẫn cần tìm thêm khảo chứng có tính thuyết phục. 46.“NHỊ TUYỀN ÁNH NGUYỆT” ? Mùa hè năm 1955, nhóm âm nhạc Dương Âm Lưu ghi âm bản nhạc Nhị hồ “Nhị tuyền ánh nguyệt” của Hoa Ngạn Quân (người múa A Bính ). Sau đó Dương viết trong cuốn “A Bính khúc tập” rằng “Nhị tuyền ánh nguyệt” là bản miêu tả ánh trăng chiếu sáng suốt đáy suối Nhị tuyền. Cách đó hơn hai mươi năm. Dương Âm Lưu viết bài “A Bính” tác giả bản “Nhị tuyền ánh nguyệt” rằng “Nhạc khúc miêu tả trăng sáng in bóng dưới mé ao phía Nam đình Nhị tuyền…” Năm 1979 “A Bính khúc tập” xuất bản lần thứ hai, Dương lại sửa đổi quan điểm của mình: “Khúc này lấy cảnh ở gần đỉnh núi Nhị tuyền, Huệ tuyền Bô Tích làm đề tài, và nhấn mạnh “Tiêu đề “Nhị tuyền ánh nguyệt” là tác giả A Bính tự nói ra”. Nhưng, Chúc Thế Khuông cũng ghi âm bản “Nhị tuyền ánh nguyệt” vào năm trước trong bài “Đầu đuôi chuyện định danh “Nhị tuyền ánh nguyệt”” kể là: Khi Dương tiên sinh hỏi A Bính trên bản này là gì thì A Bính nói : “Khúc này không có tên rồi thuận miệng đặt tên, lâu ngày liền thành chết tên này”. Thẩm Hiệp thì nhìn cách khác, ông cho rằng “Nhị tuyền ánh nguyệt” theo âm hưởng trong bài, chúng ta không hề nghe bất kỳ âm thanh mô tả cảnh vật bên ngoài, càng không thể nói là có bất kỳ âm hưởng nào gợi lên “tuyền” và “nguyệt”!! Chính các người thân thân như chị dâu, cháu gái… của A Bính cũng nói: “Ông ta nhân một ngày đi làm về, nghĩ đến cuộc sống vẫn chưa yên ổn, lúc hiu quạnh một mình, bỗng lo buồn, mới tấu ra những âm điệu não nuột thê thảm đó!!” Như vậy, xem ra sự thê lương của bản đàn “Nhị tuyền ánh nguyệt” của A Bính, không thể hài hòa với cái tiêu đề trang nhã này. Một số người khi cảm thụ sâu sắc vì bản nhạc này, họ không hề lưu ý đến chuyện “nước suối gió trăng”. Vậy tiêu đề “Nhị tuyền ánh nguyệt” có giúp bạn lĩnh hội được điều gì không? 47. VŨ ĐIỆU TRUNG QUỐC ? Rất nhiều dân tộc trên thế giới đều có vũ điệu mang phong cách độc đáo của họ. Dân tộc Trung Hoa cũng không ngoại lệ. Họ đã qua mấy nghìn năm lịch sử về nguồn ngốc vũ đạo, nhưng mỗi nhà nói một khác. Một thuyết nói nói, bắt nguồn từ lao động. Người chủ trương thuyết này rất nhiều. Bộ sách có tâm cỡ, uy tin lớn là “Từ Hải” viết “Vũ điệu bắt nguồn từ lao động, kết hợp với thi ca, âm nhạc là một trong hình thức nghệ thuật sớm nhất trong lịch sử loài người”. Một số học giả cho rằng, nhân dân lao động thời cổ Trung Quốc rất phong phú, tự nhiên đã sinh ra nhu cầu diễn đạt tư tưởng tình cảm và đời sống xã hội. Tình cảm hưng phấn thì tự động sẽ giơ tay chân, khi tình cảm bi thương, hối hận thì sẽ đấm ngực, dậm chân… lâu dần liền hình thành hình thức. Vũ điệu dân gian liền theo đó mà diễn tả. Về sau có người cải cách và chắt lọc các vũ điệu dân gian, sáng tạo các hình thức vũ đạo khác như vũ điệu cung đình, cuối cùng hình thành vũ đạo chuyên nghiệp. Một thuyết khác cho là nó mô phỏng từ võ thuật. Người chủ trương thuyết này cho rằng, nguồn nguốc của võ thuật là cầm khí giới, trong săn bắn và chiến đấu giữa các bộ lạc thời xưa. Để nâng cao tài nghệ săn bắn, tăng cường thực lực chiến đấu bằng khí giới, họ cần luyện tập võ thuật. Sau khi môn võ hình thành có khuôn phép, người có tài nghệ thành thục được mời, vâng lệnh hoặc tự nguyện đứng ra biểu diễn, cho mọi người thưởng thức. Cách biểu diễn này liền trở thành bước đầu của vũ đạo Trung Quốc. Thời đại Thuấn, có một loại “múa can thích”. Người múa tay cầm mộc (can) giơ búa (thích) nhảy nhót, đã thuyết minh một cách rất hình tượng mối quan hệ giữa vũ đạo với võ thuật. Vào đời nhà Ân, võ thuật hình thành khuôn phép, bắt đầu diễn biến thành “giới”. Theo Quách Mạt Nhược khảo chứng, “giới” là vũ nhạc biễu diễn ở tôn miếu. Đến đời Chu, Chu Công Đán hấp thu tinh hoa của “can thích vũ” và “giới vũ” sáng tác ra “Đại Vũ vũ” lấy Vũ Vương Phạt Trụ làm chủ đề, đó là hình thái ban đầu của vũ điệu Trung Quốc. Có một thuyết nói vũ điệu sản sinh từ vũ thuật (thuật phù thuỷ). Người chủ trương thuyết này cho rằng, thời Xuân Thu Chiến Quốc, dân gian lưu hành một thứ “Na vũ”, thứ vũ này là phù thủy dân gian nhảy múa. Đến đời Hán, “Na vũ”, truyền đến cung đình thành vũ đạo với qui mô lớn hơn, do 130 người tham gia vào dịp tế lễ tháng chạp hàng năm. Thứ vũ đạo này mãi đến sau đời nhà Thanh ở các địa phương như Giang Tây… còn thịnh hành. Ba thuyết kể trên, mỗi thuyết đều có lý lẽ của nó, điều này khiến chúng ta không biết phải theo thuyết nào. 48. ĐÀN TRANH LÀ CỦA MÔNG ĐIỀM CHĂNG ? Đàn tranh là đàn dây, thùng đàn hình chữ nhật, trên thùng có dây, mỗi đầu có một cái trụ, có thể di động sang trái hoặc phải. Số dây trải qua diễn biến, có nhiều loại như đàn 12, 13, 16, 18, 21, 25 v.v… Đàn tranh cổ là thứ độc đáo trong số nhạc cụ của Trung Hoa, đã có trên hai nghìn năm tuổi, có tiết tấu phong phú từ lâu đã vượt khỏi ranh giới quốc gia, không chỉ nảy mầm bén rễ ở các nước Châu Á như Nhật, Hàn, Việt, Singapore, những năm gần đây lại vượt truyền đến các nước Mỹ, Ý, Úc. Về lai lịch của đàn tranh, trải qua các đời, mỗi người một ý. Đời Đông Hán, Ưng Hiệu trong “Phong tục thông” viết: Mông Điềm, tướng nước Tần thời Chiến Quốc đã phát minh ra đàn tranh. Có người tra cứu sách sử phát hiện trong “Sử ký – Mông Điềm liệt truyện” không chép việc Mông Điền làm đàn, do đó thắc mắc với cách bàn của Ưng Hiệu vì: người nghiêm cẩn về học thuật như Tư Mã Thiên tác giả “Sử ký”, sinh sau Mông Điềm, cách sáu, bảy chục năm, vậy nếu Mông Điềm có làm đàn thì Tư Mã Thiên không thể bỏ qua mà không ghi. Ở “Cựu Đường thư”, thiên âm nhạc lại càng bác bỏ thuyết Mông Điềm làm đàn: Đàn tranh, vốn là nhạc khí của nước Tần, tương truyền Mông Điền chế tạo là sai lầm. Nhưng đàn tranh thời cổ do ai tạo ra tác giả lại không nói rõ. Có người cho rằng, đàn tranh bắt nguồn từ đàn sắt, hai đàn khác nhau ở chỗ số dây của dây đàn tranh ít hơn đàn sắt. Người đời Đường là Triệu Lân trong “Nhân thoại lục” viết: Nước Tần có người tấu đàn sắt, có hai anh em nhà kia tranh giành nhau, đem đàn sắt bẻ làm đôi nhân đó lấy tên là “tranh”, hàm ý “tranh cướp”. Thuyết này đề ra, được nhiều người tiếp nhận. Không ít thư tịch thời Tống Minh, Thanh và cận đại dựa theo thuyết này, ngay cả trứ tác về lịch sử đàn tranh của Nhật cũng ngã về ý kiến đó. Trong “Tranh sử tri thức" nói: Tần Thuỷ Hoàng có hai cái cơ, vì một cây đàn sắt 25 dây tranh nhau đến mức không ai chịu ai. Thủy Hoàng sai người đem đàn sắt phân làm hai cây đàn tranh. Sau đó đàn tranh 13 dây truyền sang Nhật, đàn 12 dây truyền sang Hàn Quốc. Ngoài ra, Quách Mạc Nhược và một số học giả Nhật lại đề xuất, đàn tranh ở thời Tần, do phương Tây truyền vào, nhưng thuyết này không có chứng cớ nào đáng tin! Câu đố về nguồn gốc của đàn tranh vẫn chờ đợi sự nghiên cứu khoa học và phát hiện mới của khoa khảo cổ. 49. THƯ PHÁP LAN ĐÌNH TỰ ? “Lan Đình Tự” của Vương Hi Chi viết, là một cột mốc đánh dấu cho thư pháp Trung Quốc. Bắt đầu từ “Lan Đình Tự” thư pháp Trung Quốc sửa đổi nét chữ chất phát của thời Hán, Ngụy, sáng tạo ra nhiều nét mới lạ, đa dạng nên đã khiến thư pháp phát huy, chấn hưng mạnh mẽ. Theo sử liệu ghi chép nguyên bản của “Lan đình Tự” do Đường Thái Tông sở hữu, vật báu này được ông ta rất yêu thích, mãi đến khi chết còn chôn theo. May mắn, khi Thái Tông còn sống, ông để bạn Triệu Mô, Gia Cát Trinh v.v… viết lại rất nhiều bản. Nhưng cũng vì thế mà dẫn tới nhiều điều phiền phức. Từ đó về sau, các bản phỏng theo “Lan Đình tự” lưu hành trên đời có đến vài trăm loại, nội dung của chúng rất khác nhau, khó phân thật giả. Năm 1965 Quách Mạc Nhược viết một bài bàn: “Lan Đình Tự” không chỉ nói về thư pháp mà cả về văn chương cũng có vấn đề. Vài năm sau, Quách Mạc Nhược lại bàn đến: “Vấn đề mà bảy tám năm trước đã từng tranh luận sôi nổi, theo tôi thì nó được giải quyết rồi. Không chỉ bút thiếp là ngụy tạo, mà cả tư văn tự cũng giả mạo”. Quan điểm của Quách Mạc Nhược rất rõ ràng “Lan Đình Tự” không riêng bút thiếp là ngụy tạo mà còn không phải do tay Vương Hi Chi viết. Một số học giả như Cao Tam Thích, Chương Sĩ Chiêu … đã dày công khảo chứng, họ công nhận “Lan Đình Tự” chính là tác phẩm của Vương Hi Chi một trăm phần trăm. Còn như về sau có những tên như “Lâm Hà tự”, “Khúc thủy tự” là vì Vương Hi Chi khi viết bài văn này, chưa ghi tiêu đề, nên những tên này do người đời sau tùy ý thêm vào. Vấn đề “Lan Đình Tự” có phải chính do Vương Hi Chi viết hay không, không như Quách Mạc Nhược nói, “đã giải quyết rồi”. Trong giới thư pháp, học thuật, sử học đều cần nghiên cứu và làm rõ vấn đề này. Kết quả thế nào, chưa thể vội phán quyết… 50.“NAN ĐẮC HỒ ĐỒ” ? Chỉ một câu “Nan đắc hồ đồ” (hồ đồ khó được) khiến người trong nước rất khâm phục Trịnh Bản Kiều. Trải qua hai trăm năm, bốn chữ ấy ai ai cũng biết, nhất là những người trong giới sĩ phu, thường gọi là bài minh treo bên trái chỗ ngồi để suy ngẫm. Ngày nay người ta nói “Nan đắc hồ đồ”phần nhiều để an ủi, hoặc răn đời hoặc tự an ủi. Như vậy Trịnh Bản Kiều lúc đầu viết ra câu đó, tâm trạng của ông ra sao? Có người cho rằng, vào tuổi sáu mươi, Trịnh Bản Kiều tự thấy suốt đời vất vả, không kể gì đến được mất của mình, nửa đời không cầu công danh lợi lộc, tâm thần nhờ đó mà yên ổn lâng lâng tự tại. Trịnh Bản Kiều tin vào: “chịu thiệt là phúc” nên làm việc gì ông không mong đền đáp, đối với người không cần tranh giành hơn thua với đời, sẽ được an nhàn. Nhưng nhiều người lại cho rằng Trịnh Bản Kiều viết “Nan đắc hồ đồ” là lên tiếng bày tỏ nổi bất bình đối với đời, là lời than thở mà tỏ ra tuyệt đối không hề khinh thế ngạo vật, không phân phải trái. Trịnh Bản Kiều cả đời ngay thẳng, không a dua, thấy việc nghĩa dám làm không khom lưng trước kẻ quyền quí, cũng không ra oai với mọi người. Với ông giàu sang không đổi lòng, uy vũ không khuất phục, được người đời sau ca ngợi, quý trọng. Khi Trịnh Bản Kiều viết bốn chữ “Nan đắc hồ đồ”, lại chính là lúc gặp tai nạn lớn, trăm năm chưa từng có. Khâm sai của nhà vua bất kể dân chúng khổ sơ,û sống chết ra sao, đã không mở kho phát chẩn, mà còn đòi hỏi thư họa của Trịnh Bản Kiều. Ông ta phẫn nộ không nén nổi đã vẽ một bức tranh quỷ đưa ra chọc giận khâm sai, khiến y còn ra oai hơn với con dân bội phần. Trịnh Bản Kiều tuy không đủ sức xoay chuyển thời cuộc, nhưng vẫn không tiếc công sức giúp đỡ công chúng ở trong vùng. Sau đó ông tự chú thích cho câu “Nan đắc hồ đồ”: “Thông minh khó, hồ đồ khó, từ thông minh chuyển sang hồ đồ càng khó, buông tay ra, lùi một bước, lòng yên ổn, sau này không mông sự đền đáp”. Tâm hồn Trịnh Bản Kiều sáng như gương, đối với nỗi bất bình của dân, ông vờ hồ đồ như không nhìn thấy, theo ông thì giả hồ đồ khiến lòng càng thêm khổ, nên đã lớn tiếng kêu để phát tiết nỗi buồn bực trong lòng! Khi Trịnh Bản Kiều viết “Nan đắc hồ đồ” quả thực đã dồn vào thế tiêu cực, tâm trạng của ông chỉ có thể dò đoán, nên câu danh ngôn ông viết, đã được người đời vô cùng trân trọng. 51. TIỂU TRIỆN CỦA LÝ TƯ CHĂNG ? Tiểu triện là một thể chữ được coi là cột mốc đặc biệt trong quá trình phát triển chữ Hán. Là dấu lặng của văn tự cổ, có tác dụng rất lớn đối với quy phạm hoá chữ Hán. Hàng nghìn năm nay có thuyết ban truyền tể tướng triều Tần, Lý Tư sau khi Tần thống nhất đem lối chữ đại triện giản hóa, làm tiểu triện, lưu hành rất rộng, các sách thông dụng không có cuốn nào là không theo thuyết này. Nhưng, có một số học giả khác cho rằng, thuyết này lập luận không vững, lý luận của họ là: Thuyết tiểu triện làvăn tự đời Tần không có sử liệu. Ghi chép về việc Tần thống nhất, trong “Sử ký” chỉ có hai câu “viết cùng một lối chữ”, nhà Chu đổ, nhà Tần bỏ lối chữ viết cổ mà không hề có ý nói Lý Tư sáng chế tiểu triện. “Sử ký – Lý Tư truyện” ghi chép tường tận những chuyện lặt vặt trong đời Lý Tư, nhưng không nhắc đến việc Lý Tư sáng chế tiểu triện. Bởi vậy có thể khẳng định tiểu triện hình thành trước khi Tần thống nhất. Tần Thủy Hoàng chẳng qua chỉ đem nó quy định cho toàn quốc thống nhất văn tự mà thôi, không phải là sáng chế mới. Nhưng tiểu triện hình thành vào lúc nào trước khi Tần thống nhất, cách nói không có sự đồng nhất. Một ý kiến cực lực phủ định chuyện Lý Tư sáng chế tiểu triện, còn tiểu triện sáng chế vào thời gian nào thì không rõ. Như trong lời “Bạt Thư Sớ văn” của Phạm Thành Đại đời Nam Tống, chỉ có câu “Tiểu triện không phải xuất từ Lý Tư”. Viện trưởng Viện Bảo tàng Cố cung thời Dân quốc Mã Tư Bình trong bài “Sự biến thiên của văn tự Trung Quốc” cũng nói: “Tiểu triện là chữ nước Tần, Lý Tư muốn bỏ lối chữ dị hình của Lục quốc, nên dùng chữ của nước Tần để thống nhất văn tự, cho nên Tần không phải là nước sáng chế ra tiểu triện”. Một ý kiến khác thì căn cứ vào văn tự ghi trên văn vật nước Tần thời Chiến Quốc và thư pháp của người thời đó phủ định tiểu triện do Lý Tư sáng tác sau khi Tần thống nhất, để tiến tới kết luận tiểu triện là lối chữ thời chiến quốc. Một học giả đời Thanh có trình độ rất sâu về văn tự cổ đại Vương Quốc Duy trong “Sử lựu thiên sở chứng tự” là theo cách nhìn này. Các nhà luận thuyết khác mỗi người giữ ý kiến của họ, cái nào đúng, cái nào sai, chưa thể phân định, ta hãy chờ xem… 52. BIA VŨ BI DO AI KHẮC ? Trên ngọn câu lũ phong, ngọn núi chính của Nam nhạc Hành sơn trong địa phận Hồ Nam, có một bia đá, chữ trên bia quái dị, khó nhận, tương truyền là khi Đại Vũ trị thủy đã khắc. Qua hàng nghìn năm, bản rập văn bia lưu truyền khắp nơi rải khắp các chốn danh lam thắng cảnh! Đều khiến người ta suy nghĩ là, Vũ Bi “thanh danh hiển hách” như vậy, trong văn hiến từ đời Đường trở về trước mà một chữ cũng không thấy. Người đầu tiên nhắc đến Vũ Bi là Hàn Dũ, nhà văn học kiêm triết học đời Đường. Trong bài thơ “Câu lũ sơn” ông ghi lại lời đồn Vũ Bi “chữ xanh, đá đỏ hình kiểu lạ, đạo sĩ một mình ngẫu nhiên thấy”, tả hình dạng chữ trên bia. “Chữ” khoa đẩu (như con nòng nọc) bằng nắm tay bị cây cỏ che lấp, vừa giống như hổ, ly, bộc lộ nỗi cảm khái mình lên núi mà than thở rơi nước mắt. Do Hàn Vũ đã thần thánh hoá Vũ Bi, mãi về sau không ai nhắc đến bia Vũ Bi nữa. Năm Gia Định thứ năm đời Nam Tống (1212) tức là sau khi Hàn Vũ qua đời hơn 380 năm, có một người tên Hà Chí đi chơi Hành sơn, chính mắt người đó được thấy Vũ Bi, ông bèn viết phỏng theo, sau lại phỏng theo, khắc đá ở thư viện Nhạc Ly. Năm Gia Tĩnh thứ 11 đời Minh (1532) nhà văn nổi tiếng Dương Thận có bản rập Vũ Bi nên hết sức phấn khởi, bỏ công ra nghiên cứu, phiên dịch toàn văn bia. Người nêu thắc mắc sớm nhất với bia Vũ Bi là Vương Sương học giả đời Thanh. Trong “Kim Thạch tuy biên” ông viết: Vũ Bi bắt đầu từ đời Nam Tống. Bởi vậy nhà chép sử Âu Dương Tu, nhà kim thạch Triệu Minh Thành đời Bắc Tống đều chưa chép nó vào sách của họ mà các học giả như Dương Thận, Đương Thời, Kiều An, Như Sơn, Lang Anh v.v… hết sức tin vào tính chân thực của bia Vũ Bi, một số người khác lại vạch rõ Vũ Bi là vật ngụy tạo. Khảo cứ của Vương Sương khiến một số học giả chú ý, số người tán đồng quan điểm đó có nhiều. Bộ sách uy tín “Từ Hải”nói: “Người đời sau dựa dẫm, nói khi Hạ Vũ trị thủy khắc “Bộ Từ nguyên” thì chỉ ra rõ ràng là người đời sau ngụy tạo”. Như vậy, bia Vũ Bi thực ra có từ thời nào? Ai ngụy tạo? Đến nay vẫn chưa học giả nào có giả thuyết ổn thoả. 53. BIA ĐÁ “XUẤT SƯ BIỂU” ? Trước mộ danh tướng Nam Tống chống Kim, Nhạc Phi, có một tấm đá khắc “Tiền hậu xuất – Sư Biểu” của Gia Cát Lượng. Thư pháp của nó cứng cáp, khí vận sinh động, là tác phẩm vô giá của nghệ thuật khắc bia. Các địa phương như Nam Dương, Thanh Aâm, Hạng Thành ở Hà Nam, Hàng Châu ở Chiết Giang, Từ Châu ở Giang Tô, Tế Nam ở Sơn Đông, Thành Đô ở Tứ Xuyên, Kỳ Sơn ở Thiểm Tây, Hoàng Cương ở Hồ Bắc v.v… đều có bản khắc mô phỏng theo. Về tác giả của thư pháp đa số người cho là Nhạc Phi, nhưng cũng có người bác bỏ thuyết này. Người cho Nhạc Phi viết dựa theo chứng cớ là, lời bạt trên bản khắc phỏng theo ở đền Vũ hầu tại Nam Dương, miếu Nhạc Phi ở Thanh Âm. Trong lời bạt viết “Tháng tám, mùa thu năm Thiệu Hưng Mậu Ngọ (1138) qua Nam Dương thăm đền Vũ hầu, gặp mưa đã ngủ lại trong đền. Canh khuya cầm đuốc, xem kỹ văn tự, thi phú ca ngợi tiên sinh của các bậc hiền đời trước trên vách và bản khắc đá hai bài biểu trước đền, bất giác lệ rỏ như mưa. Đêm ấy, không sao ngủ được nên ngồi đợi sáng. Khi Đạo sĩ trong đền dâng trà xong, đưa giấy ra xin chữ, ta gạt lệ cầm bút viết nhanh, không thể khéo vụng, cốt thư giãn cho qua nổi ưu uất trong lòng… Lạc khoản ghi là: “Nhạc Phi tinh thức”. Chữ “thức” giống như chữ “chí” ý là dùng văn tự, phù hiệu để ghi. Người giữ ý kiến bác bỏ, gồm những người như Bùi Cảnh Phúc, Aâu Dương Phụ… nay có thêm Dương Chấn Phương, Bàng Hoài Thanh, Từ Sâm Ngọc… Bùi Cảnh Phúc trong “Tráng các thư họa lục” quyển năm, sao lục “cuộn thơ thất tuyệt thủ bút” của Nhạc Trung Vũ đời Tống nói: “Xuất sư biểu” của Gia Cát Lượng viết, chia ra “Tiền xuất sư biểu” và “Hậu xuất sư biểu”, tôi nhìn thấy ba cuộn có trục, tương truyền do Nhạc Phi viết, nội dung giống nhau, không chia ra “Tiền – hậu”, đúng là ngụy tạo chưa từng bàn đã rõ ! Âu Dương Phụ, trong “Tập cổ cầu chân”, thì cho là Bạch Lân ngụy tạo nó vào khoảng niên hiệu Thành Hóa, Hoằng Trị đời Minh (1465-1505). Học giả hiện đại giữ luận điểm bác bỏ chia làm hai phái: một phái đồng ý với quan điểm của Âu Dương Phụ, một phái còn nghi ngờ, chờ hạ hồi phân giải! Như vậy, bài văn nổi tiếng truyền đời “Xuất sư biểu” tác giả thư pháp thật ra là ai, đây có thể là một câu đố muôn năm khó giải! 54. NÉT CHỮ BÍ ẨN ? Nếu đã đến Dương Sóc, không ai có thể quên được nét chữ rắn rỏi thần bí, phiêu dật thanh thoát, khắc trên núi Bích Liên phong Dương Sóc. Đó là chữ gì? Trăm năm nay, đã từng thu hút vô số du khách dừng chân dưới núi, ngắm nghía suy xét. Tuy nhiên có nhiều tao nhân mặc khách đặt ra giả thiết dò đoán, trong đó không thiếu những giải đáp tinh tế. Có người cho rằng, đó là chữ “đúi” (dải), lấy ý trong thơ Hàn Dũ: “Giang tác thanh la đái,