🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Danh Nhân Cách Mạng Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo NHÀ XUẤT BẢN TRẺ HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450 E-mail: [email protected] Website: http://www. nxbtre.com.vn 4 LỜI NÓI ĐẦU Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn. Khi giặc đến nhà thì toàn dân kiên quyết cầm vũ khí chống giặc, lúc chiến đấu công khai, lúc hoạt động bí mật, lớp người trước anh dũng ngã xuống, lớp người sau hăng hái tiến lên, không ai cam chịu sống cúi đầu dưới ách thống trị của ngoại bang. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước là cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua mấy ngàn năm để giành Độc lập - Tự do đã tạo nên những trang sử vẻ vang chính là do toàn dân ý thức được chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trong chiều hướng bày tỏ lòng biết ơn đối với tiền nhân, NXB Trẻ chúng tôi xuất bản tập sách Danh nhân cách mạng Việt Nam - trong bộ sách nhiều tập KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn. Trong đó, chúng tôi cố gắng nêu bật thành tích của các danh nhân như Nguyễn Cao - người có công tổ chức lực lượng đánh Pháp ngay từ lúc mới xâm lược miền Bắc lần thứ nhất (1873). Chỉ riêng cái chết hào hùng, oanh liệt của ông được người đương thời rất khâm phục và nó còn có tác dụng kích thích tinh thần của nghĩa quân đang chiến đấu. Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, chúng tôi đề cập đến các nhân vật như Phạm Văn Tráng, Nguyễn Khắc Cần - là hai liệt sĩ đã nhận trách nhiệm của tổ chức Việt Nam Quang phục Hội ném tạc đạn giết giặc Pháp và tay sai của chúng. Hành động oanh liệt này có ý nghĩa tích cực cổ động hàng triệu con dân nước Việt đang bị áp bức tin tưởng vào phong trào cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam đi đầu trong cuộc biểu tình vĩ đại chống sưu cao thuế nặng năm 1908, chúng tôi đề cập đến nhân vật Nguyễn Hàng Chi. Kế tiếp, chúng tôi đề cập đến một nhân vật lạ lùng, đó là Phan Xích Long - người của tổ chức Thiên Địa Hội ở Nam kỳ, tự xưng “hoàng đế” và đã làm nên cuộc khởi nghĩa oanh liệt năm 1913 ở Sài Gòn, mà tiếng thơm còn để lại cho đời sau. Tương tự ta còn thể kể đến nhân vật Bạch Xỉ lập căn cứ kháng chiến ở vùng núi phía nam Quảng Bình. 5 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Chúng tôi tiếp tục nêu bật thành tích của là chí sĩ Trần Cao Vân, người đã cùng với các yếu nhân của Việt Nam Quang phục Hội tại các tỉnh miền Trung vận động vua Duy Tân tham gia cuộc khởi nghĩa năm 1916. Cho dù, Trần Cao Vân cùng các đồng chí như Thái Phiên, Phan Thành Tài... bước lên đoạn đầu đài thì tinh thần yêu nước vẫn sống mãi cùng non sông đất nước. Mặc dầu cuộc khởi nghĩa năm 1916 thất bại, nhưng qua năm sau lại nổ ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do anh hùng Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn chỉ huy. Qua cuộc khởi nghĩa này, ta thấy rõ được tinh thần yêu nước của ngụy binh Việt Nam, cho dù bị cưỡng bức vào đội ngũ lính khố xanh, lính khố đỏ để đàn áp phong trào cách mạng nhưng một khi được giác ngộ về lý tưởng, lẽ phải họ sẵn sàng quay mũi súng bắn lại quân cướp nước! Trong các nhân vật hoạt động cách mạng ở hải ngoại, chúng tôi đề cập đến anh Phạm Hồng Thái đã ném tạc đạn giết Toàn quyền Merlin ở Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc); anh Lê Hùng Sơn - người đã nhận nhiệm vụ cùng liệt sĩ Phạm Hồng Thái, sau sa vào tay giặc và bị án chém. Không chỉ đánh kẻ thù bằng bom đạn, có người đánh bằng những vần thơ viết từ máu và nước mắt. Ta có thể kể đến anh Phạm Tất Đắc - từ năm 17 tuổi đã dũng cảm viết những vần thơ Chiêu hồn nước với tinh thần “Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền” đánh thức “hồn nước” của quốc dân trong ách nô lệ... Lịch sử nước nhà đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, không một lực lượng nào có thể dùng bạo lực để đàn áp tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức có mặt trên vũ đài chính trị - một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước nhà. Ta có thể kể đến gương hy sinh dũng cảm của những người cộng sản trẻ tuổi, như anh Nguyễn Phong Sắc - khi giữ chức bí thư Kỳ bộ Trung kỳ đã phát động cao trào cách mạng mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận định: “Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc khởi nghĩa vĩ đại làm chấn động nền thống trị của chế độ thực dân và phong kiến hồi năm 1930 - 1931, mở đầu phong trào cách mạng đưa đến những thắng lợi huy hoàng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân”. Trong khi đó, ở Nam kỳ hoạt động cùng thời với anh còn có anh Châu văn Liêm - là một trong những người sáng lập Đảng và hy sinh khi chỉ huy cuộc biểu tình rầm rộ ở Đức Hòa (Long An). Ở miền Trung, chúng tôi viết về anh Nguyễn Nghiêm, người bí thư chi bộ 6 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM đầu tiên của Quảng Ngãi đã phát động quần chúng hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tương tự còn là những gương hy sinh của những người cộng sản trẻ tuổi như Tô Hiệu, Lý Tự Trọng... Hẳn chúng ta chưa quên lúc con thuyền cách mạng đang lướt sóng trong phong ba bão táp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt củng cố khối đoàn kết đại dân tộc. Người kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước…”. Đây là một chủ trương lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sự nghiệp chung đấu tranh giành Độc lập - Tự do của nước nhà. Do đó, tập sách còn đề cập đến những nhân vật yêu nước khác là nhà nho Nguyễn Khắc Nhu - một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng, đã hy sinh anh dũng trong công cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930; là anh Ký Con Đoàn Trần Nghiệp - hy sinh lúc mới 23 xuân, anh đã chứng minh cho giặc Pháp biết rằng: Không thể dùng bạo lực để khuất phục tinh thần quả cảm và nhiệt huyết của những con người quyết đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc mình... Trong tập sách này, chúng tôi cũng đề cập đến những người lính Cụ Hồ có những đóng góp mà thế hệ trẻ hằng ngưỡng mộ. Đó là chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm, người đã có sáng kiến tạo ra “bếp Hoàng Cầm” độc đáo trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc - đã được ghi nhận trong Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam... Bước qua giai đoạn chống Mỹ, cứu nước chúng ta từng nghe đến con đường huyền thoại Trường Sơn nhưng ai là người đầu tiên được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam giao nhiệm vụ khảo sát để mở tuyến đường này? Đó là thiếu tướng Võ Bẩm, vị tư lệnh đầu tiên của con đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh bất tử. Và tất nhiên, chúng ta cũng không thể quên con đường Hồ Chí Minh trên biển Đông đã góp phần to lớn trong việc vận chuyển vũ khí, lương thực từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến thống nhất Tổ quốc. Lần đầu tiên, ngày 16/10/1962, vượt qua bao sóng gió trên biển, con tàu do Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Bông Văn Dĩa chỉ huy đã vào đến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn. Sự kiện này trong tập sách Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam ghi nhận: 7 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM “Chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên bằng đường biển đã thành công. Đường giao thông xuyên suốt ven biển Bắc - Nam đã mở” (NXB Quân đội Nhân dân - 1985, tr. 156). Nhân dân muôn năm ghi nhớ công lao của những người đã hy sinh, đã có nhiều cống hiến cho Tổ quốc. Tên tuổi họ sống mãi cùng hồn thiêng sông núi. Tuy nhiên, do khuôn khổ tập sách có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến các danh nhân khác trong những tập sau. Nhân đây chúng tôi xin được nhắc lại, bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc thực hiện đã phát hành các tập: Danh nhân quân sự Việt Nam, Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân Sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Những nhà cải cách Việt Nam, Danh nhân cách mạng Việt Nam, Những người Việt Nam đi tiên phong, Những nhà chính trị Việt Nam và sẽ còn phát hành các tập tiếp theo, mời các bạn tìm đọc. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên - chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để tập sách ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin bạn đọc ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 8 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM NGUYỄN CAO Còn mãi tinh thần với núi sông Trưa nắng gắt. Người đàn bà đi ngang qua ruộng mía. Gió thổi lao xao. Đang bụng mang dạ chửa, nàng bước đi chậm rãi. Bốn bề vắng lặng. Thoảng trong gió có tiếng ru hời vọng đến: Người về em những khóc thầm Bên song vạt áo ướt dầm như mưa Nàng nâng vạt áo lên lau giọt lệ đang tràn qua khóe mắt. Mới ngoài hai mươi xuân nhưng chồng đã mất. Con ra đời sẽ không thấy mặt cha. Chỉ mới nghĩ đến đó, nước mắt nàng lại tuôn ra... Đột ngột lúc ấy, có tên lý trưởng đi ngược chiều. Thoạt nhìn thấy nàng, y đã cười thầm đắc ý trong lòng. Trước đây, nàng xinh đẹp nhất trong làng, nhiều trai làng ngấp nghé, nhưng không ai lọt vào mắt xanh của nàng, kể cả y. Giống như nhiều phụ nữ khác: Không tham ruộng cả, ao điền Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ Nàng nhận lời cầu hôn của ông Nguyễn Hành. Dù vậy, sau khi chồng nàng mất, tên lý trưởng vẫn sai người tới ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng từ chối khiến y rất hậm hực. Bây giờ, tình cờ gặp nhau chốn vắng vẻ như thế này, quả là dịp may hiếm có. Không kìm chế được y chận nàng lại tính giở trò sàm sỡ... Bàn tay y đã chạm vào ngực của nàng. Biết không thể chống cự được tên dâm đãng lại có chức sắc trong làng, nàng ôn tồn nói: 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Tôi là người góa bụa, mai kia cũng tái giá. Xin ông bình tâm đợi lúc đoạn tang chồng, tôi định bề gia thất cùng ông, từ đây đến lúc ấy cũng chẳng có gì phải vội. Phải đâu loại mèo mả gà đồng mà làm trò trên bộc dưới dâu. Làng trên xóm dưới biết chuyện thì họ cười chết! Gái một con trông mòn con mắt, lại thêm giọng nói ngọt ngào, dịu dàng, đằm thắm thế kia khiến lý trưởng nguôi lòng... Y gật gù để nàng đi về. Từ đó, trong lòng nàng mang mối hận. Sau khi đã sinh con, rồi đoạn tang chồng nhưng nàng vẫn cự tuyệt lời cầu hôn của tên lý trưởng. Nàng âm thầm nuôi dạy con nên người. Lúc con mười hai tuổi nàng gửi xuống xã Liễu Ngạn, phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) để nhờ thầy Nguyễn Gia Giao - vốn là bạn tâm giao với chồng nàng- rèn cặp. Ngày kia, nhân ngày giỗ chồng, nàng làm bữa cỗ linh đình mời đông đủ họ hàng và quan viên trong làng đến dự. Riêng tên lý trưởng nhận được lời mời thì thấp thỏm mừng thầm trong bụng. Hơn mười năm qua y vẫn không ngừng đeo đuổi nàng, khi dụ dỗ, lúc cưỡng bức nhưng vẫn không đạt ý nguyện. Vậy bây giờ nàng đã đồng ý rồi chăng? Hương khói nghi ngút. Tiếng cười nói rộn rã. Lúc mọi người ăn uống no say xong, nàng thắp một tuần nhang vái trước bàn thờ chồng và dõng dạc nói với mọi người: - Khi chồng mới mất, tôi đã bị lý trưởng giở trò sàm sỡ. Nghĩ đã thất tiết với chồng nên tôi muốn về nơi chín suối, nhưng ngặt một nỗi con còn nhỏ. Bây giờ, con đã lớn, việc nhà thu xếp đã xong, tôi tự quyết định chuyện của tôi với ông lý trưởng. Vừa dứt lời, nàng vạch áo dùng dao cắt phăng bên nhũ bộ bị lý trưởng làm nhục và ném thẳng vào mặt y. Rồi tiện tay, nàng đâm dao vào cổ mình tự vẫn! Ai nấy đều khiếp đảm. Người đàn bà can đảm và tiết hạnh ấy là mẹ của Nguyễn Cao, người anh hùng chống Pháp có khí tiết lẫm liệt mà sau này khi tuẫn tiết Hiệp 10 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM thống Bắc kỳ quân vụ đại thần Nguyễn Quang Bích có thơ ca ngợi (Lê Xuân Mai dịch): Nguy nan xử trí vẫn thung dung, Chê kẻ tham sinh, giọng nói hùng. Mắng giặc người xưa tròn phận chết, Moi lòng ông cũng tỏ gan trung. Biết bao thanh giá ngoài khoa bảng, Còn mãi tinh thần với núi sông. Quân giặc đứng trông đều hoảng sợ, Mai này nước sẽ biểu dương ông. Nguyễn Cao sinh năm 1828 (có tài liệu ghi ông sinh năm 1840 hoặc 1837) tại làng Cách Bi, tục gọi là làng Gạch, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh. Nhân cách của người mẹ có ảnh hưởng rất sâu đậm vối cuộc đời của ông sau này. Ngay từ nhỏ, ông đã có trí thông minh và học giỏi hơn người. Lúc tỉnh Bắc Ninh tổ chức khảo hạch để lập danh sách thí sinh được dự khoa thi Hương năm Đinh Mão, thì Nguyễn Cao ở xa nên không về kịp. Theo quy chế ông không được vào thi. Thế nhưng, do biết tài của ông nên Bang biện tỉnh vụ Bắc Ninh là Phạm Thận Duật đích thân nói quan Đốc học Đoàn Huyên châm chước cho trường hợp này. Quan Đốc học còn ngần ngừ, chưa dám quyết thì Phạm Thận Duật nói lớn: - Nếu người này không được đi thi thì thủ khoa trường Hà Nội về ai? Nghe lời quả quyết như thế, quan Đốc học đồng ý cho Nguyễn Cao được miễn kỳ thi phúc khảo, rồi nói với tỉnh đường ghi tên ông vào danh sách thi Hương. Quả nhiên năm 1867, Nguyễn Cao đã đậu đầu trong kỳ thi Hương Đinh Mão tại Hà Nội. Quý mến tài học của thủ khoa, bấy giờ Phạm Thận Duật có tặng cho hai câu thơ (dịch): Khoa Đinh Mão tên đề số một, Người Quế Dương tài vượt tám ngàn. Dù đậu cao, nhưng sau đó, ông không ra làm quan mà trở về quê mở trường dạy học. Khi giặc Pháp tiến quân đánh Bắc kỳ lần thứ nhất, năm 1873, Nguyễn Cao mộ được hơn ngàn nghĩa quân đánh Pháp ở 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Gia Lâm, Thuận Thành. Nhưng qua năm sau, triều đình Huế ký hòa ước thỏa hiệp, ông buộc phải giải tán nghĩa quân. Sau nhân ông có công lao trong việc đánh dẹp Thanh phỉ, triều đình ép ông giữ chức tri huyện Yên Dũng, rồi thăng tri phủ Lạng Giang. Ông làm quan rất thanh liêm, trong lời tâu về triều đình, quan tỉnh xác nhận: “Trộm khiếp sợ Nguyễn Cao như thần, dân chúng thân thiết như cha”. Thời gian này, ông có công trong việc khai hoang ở biên giới nên được thăng chức Bố chánh Thái Nguyên, rồi được giao đi kinh lý việc khẩn điền ở Nhã Nam (Bắc Giang). Lúc thực dân Pháp xâm lược Bắc kỳ lần thứ hai, ông lại đem nghĩa quân ra nghênh chiến. Đội quân của ông phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy trấn giữ miền Đông Bắc, đã tiến về đánh nhiều trận ở xung quanh Hà Nội và lập được nhiều chiến công. Ngày 18/5/1883, ông bị thương nặng trong một trận đánh ở Gia Lâm. Sau khi lành vết thương, ông được cử giữ chức Tán tương quân vụ Bắc kỳ - mà trong nhân dân thường gọi là ông Tán Cách Bi. Nhưng rồi lúc Bắc Ninh, Nhã Nam thất thủ, ông lánh về làng Kim Giang (nay thuộc huyện Ứng Hòa - Hà Tây) dạy học. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương đánh Pháp, ông lặn lội lên chiến khu Bãi Sậy của chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật để đứng vào hàng ngũ của những người trực tiếp chiến đấu. Trước sức mạnh hùng hậu của đội quân xâm lược nhà nghề, nghĩa quân kháng chiến dần dần thất thế. Ngày 27/3/1887, Nguyễn Cao bị giặc bắt tại làng Kim Giang. Dùng đòn tra tấn dữ dội nhưng vẫn không khuất phục được ý chí của ông, chúng dụ dỗ ông nếu đồng ý hợp tác thì sẽ được quyền cao chức trọng, nhưng ông cũng kiên quyết từ chối. Trong khi đó, bọn Việt gian cam tâm ra làm trâu ngựa cho giặc hùa vào nói ông là kẻ bất trung, vì không nghe theo lệnh của vua bù nhìn Đồng Khánh đã ra lệnh phải bãi binh. Còn giặc thì đem dụng cụ tra tấn hiện đại nhất bày biện ra trước mặt để đe dọa ông. Thế nhưng, nét mặt vẫn điềm tĩnh không thay đổi, ông bảo: - Không cần những thứ này đâu! Tôi có cách tự xử, không phiền đến các người đâu! 12 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Ông lấy trong áo một mảnh sành đã giấu sẵn, tự rạch bụng lôi ruột ra ném trước mặt chúng và dõng dạc hỏi: - Ruột của tôi đây! Các ngươi xem đoạn nào là bất trung! Tất cả đều khiếp đảm! Vẫn khí phách ấy, Nguyễn Cao đã mắng nhiếc bọn tay sai và tố cáo tội ác của giặc bằng lời lẽ đanh thép. Giây lát sau, từ miệng ông máu ra xối xả: ông đã cắn lưỡi để tự vẫn! Trước lúc về trời, Nguyễn Cao có để lại bài thơ Tự phận ca (Bài ca biết phận) bộc lộ tâm trạng bi phẫn của một tầng lớp nho sĩ trước thời vận mất nước (Lê Xuân Giáo dịch): Ngán thay tạo vật, cho ta sống làm gì? Đã không đi được ngàn dặm như ngựa ký Lại không bay được lưng trời như chim le Đã không bằng chim cắt một vút tầng mây xanh thẳm Lại không bằng con báo từng giấu mình trong sắc rằn ri Ngán thay tạo vật cho ta sống làm gì? Phải chung sống ở trần cùng với loài dê chó Không bằng để ta chết cho non sông mà làm ngọc anh quỳnh chi Phải chung sống, khác nào u bướu nung núc hành thân khổ Không bằng chết, mà cùng trời đất bát ngát nhẹ hồn mê ... Cái chết oanh liệt của ông đã kích động sâu xa đến lòng yêu nước của sĩ phu thời bấy giờ. Nhiều người đã làm thơ thương tiếc ông. Bài thơ của danh tướng Tôn Thất Thuyết khóc ông mà nay đọc lại ta cũng ứa lệ (Trần Huy Liệu dịch): Trước đây mười năm đã từng biết, Trọn đời hẹn mình cho khí tiết. Theo tôi đánh giặc, vùng Bắc Giang, Nổi tiếng can đảm hơn đồng liệt. Quyết lòng vì nước lập kỳ công, Khá tiếc năm nay ông vội chết. Như ông xem chết nhẹ như chơi, Chí khí kịp theo các tiên triết. 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Cảnh xét xử đầu thế kỷ XX Gần đây chết nghĩa biết bao người, Tiếng ông Cách Bi trội hơn hết. Hồn thiêng nên gắng giúp non sông, Muôn thuở Đức Giang thơm sạch tuyệt. Khí tiết lẫm liệt của Nguyễn Cao đã được lưu truyền từ dòng máu kiên cường của người mẹ. 14 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM BẠCH XỈ Trăm năm tâm sự trời soi thấu Trong lịch sử Việt Nam có những nhân vật lạ lùng, dù sinh ra trong gia đình “thường thường bậc trung” nhưng họ lại tự xưng là...vua! Mà họ làm vua thật! Cũng có “bá quan văn võ”, cũng đặt “quốc hiệu”, cũng có “quốc kỳ” như một vương triều chính thống! Nhưng có điều “vương triều” này tồn tại không bao lâu, không có ảnh hưởng rộng lớn, không được chính sử nhắc đến. Đó là trường hợp của Phan Xích Long ở Nam kỳ hoặc Bạch Xỉ ở Trung kỳ... Tên tuổi họ còn sống mãi với non sông, vì đó chỉ là cớ chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Bạch Xỉ tên thật là Đoàn Chí Tuân (còn có tên Đoàn Đức Mậu), sinh năm 1855 tại làng Hòa Ninh (nay thuộc xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch - Bình Trị Thiên), con trai của cụ Đoàn Chí Thông. Lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước và nổi tiếng thần đồng, thiên hạ đặt nhiều kỳ vọng vào Bạch Xỉ. Với biệt hiệu này có người giải thích là do ông sinh ra tại chùa Bạch Xỉ, nhưng cũng có cách lý giải là ông lấy câu sấm Trạng Trình: “Bạch xỉ sinh, thiên hạ thái bình”(bao giờ răng trắng mới có thái bình). Từ nhỏ, đi học nơi nào các thầy cũng cũng khâm phục trí nhớ siêu phàm của ông. Nhưng đến năm lên mười thì Bạch Xỉ bỏ học, về nhà đóng cửa đọc sách, tự học. Năm tháng trôi qua. Lúc ông lớn lên thì nước nhà đang đứng trước nguy cơ mất vào tay giặc Pháp. Năm 1873, giặc tấn công Bắc kỳ. Năm 1883, giặc chiếm toàn bộ nước ta. Những người yêu nước đã nhìn thấy thực trạng: “Tình thế gian nguy/ Cơ đồ tan nát/ Cũng vì triều đình nhu nhược, tham sinh nên đã đầu hàng/ Để cho quân 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM giặc tung hoành, thừa thế ra tay tàn sát.”. Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Cũng như nhiều thanh niên đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, Bạch Xỉ ra đón xa giá phò vua giúp nước: Trăm năm tâm sự trời soi thấu, Sánh với người xưa đã rõ ràng. Nhưng bấy giờ, danh tướng Tôn Thất Thuyết không trọng dụng Bạch Xỉ, ông bỏ về quê chiêu mộ nghĩa binh đánh Pháp. Ông lập căn cứ ở vùng núi phía Nam Quảng Bình, cùng kháng chiến với các tướng Hoàng Phúc, Cao Thượng Chí. Lúc này, Bạch Xỉ tròn 30 xuân. Có ông thầy bói tên Dư - rất nổi tiếng ở làng Dương Phổ, hạt Hương Khê khuyên ông nếu lấy vợ trong thời gian này thì sẽ gặp người “vượng phu ích tử”, rất tốt cho đường công danh về sau. Nghe những lời “tán” ấy, Bạch Xỉ chỉ cười ha hả và buột miệng đọc: Nằm không ngủ, ăn không ngon, Khăng khăng đêm ngày dạ sắt son. Đã nghĩ một mình nên lấy vợ, Nhưng thương muôn họ thẩy là... con! Giọng thơ có khẩu khí rất... “hoàng đế” này xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác văn học của Bạch Xỉ! Rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã chiêu mộ được khá đông thanh niên trong làng tụ họp dưới ngọn cờ xướng nghĩa của ông. Cũng tương tự như “hoàng đế” Phan Xích Long, Bạch Xỉ tung tin rằng mình là người giỏi pháp thuật. Nếu nghĩa quân Phan Xích Long khi xông trận mặc quần đen, áo trắng, cổ đeo bùa, miệng đọc thần chú, tay cầm giáo mác dũng cảm đối đầu với hòn tên mũi đạn thì nghĩa quân của Bạch Xỉ chỉ lấy quạt và gậy làm vũ khí, quạt phẩy làm cho địch mê man rồi lấy gậy đập chết! Trước lúc ra trận, ông gieo quẻ âm dương, dùng Kinh dịch để phán đoán tình hình địch và quyết định giờ giấc, hướng xuất quân! Bên cạnh đó, Bạch Xỉ còn làm khá nhiều thơ để động viên tinh thần nghĩa quân với giọng khẩu khí. Chẳng hạn, chỉ là chuyện Quét nhà, nhưng ông hạ bút: Chỉ sợ muôn dân nhuốm bụi hồng, Ra tay một trận quét sạch không. 16 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Đền từ quét tước thêm vui mắt, Đài các vào ra mới thỏa lòng. Lũ kiến bất tài xua mái bắc, Đoàn trùn vô dụng gạt tường đông. Từ nhà mà nước, mà thiên hạ, Cũng có tay mình mới sạch trong. Hoặc chỉ là Bới khoai, nhưng lại là: Xâm lấn đất ta đã bấy nay, Anh hùng gặp hội quyết ra tay. Nhỏ to những mấy vơ ngang củ, Dài vắn bao nhiêu bứt cả dây. Không chỉ riêng nghĩa quân mà ngay cả Bạch Xỉ khi sống trong rừng núi với biết bao thiếu thốn, gian khổ, lại bệnh sốt rét, ghẻ lở... nên phải bôi thuốc vàng khắp người. Vậy mà, ông lại tức cảnh làm thơ cứ như là người Tiên, người Phật: Đi ra ăn khắp nước Lào - Mường, Tốt phúc trời cho được phát sang. Đội lốt phong trần, Tiên vẻ ngọc, Thêm duyên công đức, Bụt mình vàng. Rồi phong trào kháng chiến ở Quảng Bình thất bại, ông ra Hà Tĩnh hoạt động ở vùng núi rừng Vụ Quang, Đại Hàm (Hương Sơn). Sau khi vua Hàm Nghi bị giặc bắt, ông tin rằng vận số đã đến với mình nên tự xưng là Đại hoàng đế, đặt niên hiệu Văn Lượng. Trong các công văn gửi cho dân miền núi quanh vùng, ông ký tên Văn Lượng hoàng đế, còn khi viết thư riêng, ông ký tên Nhiễu Long tiều tử. Khi Bạch Xỉ đi đâu thì cũng có 28 thủ hạ đi theo - gọi là nhị thập bát tú hộ vệ sao Tử vi! Sắp xếp xong công việc của “triều đình”, Bạch Xỉ truyền hịch kêu gọi toàn dân bất kể lương hay giáo đều phải có nhiệm vụ tham gia kháng chiến. Trong suốt sáu năm trời ròng rã đánh nhau với giặc, Bạch Xỉ đã tổ chức đội ngũ của mình thành bốn vệ tiền, hậu, tả, hữu rất có thanh thế trên cùng chiến trường với nghĩa quân của cụ Phan Đình Phùng. Trong bài thơ tặng cụ Phan, ông khiêm tốn hạ mình (Cố Nhi Tân dịch): 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi, Xin theo bên ngựa đỡ dây cương. Hai nhà nghiên cứu Võ Xuân Trang và Đoàn Tiến Khứ có cho biết một vài trận khá tiêu biểu của Bạch Xỉ: “Đầu tháng 1/1891, địch tiến hành một cuộc càn lớn kéo dài 15 ngày vào huyện Hương Khê đến đèo Quy Hợp không gặp một lực lượng nào đánh trả. Nghĩa quân Bạch Xỉ tổ chức một trận phục kích khi chúng trở về tả ngạn Ngàn Sâu ngay bến đò Thanh Luyện. Nghĩa quân mai phục, núp trong các lùm cây, chờ cho phần lớn quân địch đã qua sông, số còn lại cởi súng nghỉ trên bờ chờ đò, thì bất thần dùng cung nỏ bắn tên độc vào quân địch. Một số địch bị tên độc la hét, nghĩa quân nhảy ra dùng kiếm, đoản đao giết, cướp súng. Một số nghĩa quân khác dùng súng trường bắn bọn đã qua đò toan quay lại. Quân địch chết và bị thương gần hết. Nghĩa quân đánh nhanh rút gọn làm cho bọn địch đã qua sông không quay lại kịp. Trận phục kích này, nghĩa quân thu được 9 súng và rút lui an toàn. Ngày 4/3/1891, nhân ngày phiên chợ, tên thiếu úy Pháp đưa lính ra sục sạo chợ phiên. Một cơ sở nội ứng của nghĩa quân là lính khố xanh đã rủ được khá đông quân lính địch ra chợ ăn uống no say nên số lượng trong đồn còn lại rất ít. Thế là 50 nghĩa quân giả trang ập vào đồn. Quân địch phản ứng không kịp, nghĩa quân dùng đoản dao giết giặc, cướp súng. Bên ngoài, một số nghĩa quân cũng giả trang bắn yểm hộ. Nhờ có nội ứng nên chỉ trong vòng mấy phút, nghĩa quân đã cướp được 11 khẩu súng, rút lui an toàn. Qua trận này, nghĩa quân Bạch Xỉ liền khuếch trương thắng lợi. Họ càng đề cao tài mưu lược và chỉ huy của chủ tướng - nhất là nhấn mạnh pháp thuật cao cường của ông và tài “xuất quỷ nhập thần” của nghĩa quân”(1) Nhưng phong trào Cần vương ở Hương Sơn, tiêu biểu nhất là vẫn cuộc trường kỳ kháng chiến của cụ Phan Đình Phùng. Trước sức mạnh của vũ khí tối tân của giặc, cụ ý thức phải vận dụng khoa học kỹ thuật để đúc súng hiện đại thì mới có thể chống chọi lại được với chúng. Người giúp (1) Danh nhân Bình Trị Thiên – nhiều tác giả - NXB Thuận Hóa - 1986, trang 223 - 224. 18 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM cụ thành công trong việc sáng chế ra súng trường không thua gì súng của Pháp là danh tướng Cao Thắng. Do đó, khi Bạch Xỉ tung tin mình giỏi phép thuật, dùng tà thuật mà diệt giặc thì cụ Phan ghét lắm. Cụ sợ tà thuyết làm loạn nghĩa binh và mê hoặc nhân tâm nên đã có lần, cụ sai người đi bắt Bạch Xỉ. Có lẽ do thông tin này bị lộ ra ngoài, nên Bạch Xỉ đã biết trước. Khi nghĩa quân của cụ Phan dò thám biết ông đang trú quân ở núi Đại Hàm, liền tổ chức vây bắt. Nhưng lúc vào tận nơi chỉ thấy năm gian nhà mới cất, trống trơn và vắng tanh như chùa Bà Đanh! Họ bước vào trong khu nhà lớn nhất, thấy có treo bài thơ sơn son thếp vàng: Xẻ giữa rừng xanh nổi nóc nhà, Mà cho bốn biển ngưỡng trông ta. Khoan thai rũ áo ngồi vui vẻ. Nào khác đến Nghiêu những mấy tòa. Hai bên cột còn treo hai câu đối: Vận hội nửa ngàn mây gặp đó; Công danh bốn biển kém gì đâu. Còn Bạch Xỉ đã trốn thoát tự bao giờ rồi! Vì thế mọi người càng tin ông có tài độn thổ, biết trước mọi việc! Sau đó, Bạch Xỉ bỏ núi Đại Hàm, xây dựng căn cứ kháng chiến nơi khác và tiếp tục đánh thắng nhiều trận khác. Thật ra, có được những thắng lợi đó một phần do nghĩa quân hùng hậu của cụ Phan Đình Phùng đang tập trung lực lượng đánh những cứ điểm quan trọng của giặc, khiến chúng phân tán lực lượng, không thể tập trung binh mã đối phó. Do đó, năm 1895, cụ Phan bị bệnh từ trần thì lực lượng kháng chiến của Bạch Xỉ cũng suy yếu dần. Thế nhưng dù chiến đấu không cân sức với giặc, lúc nào Bạch Xỉ cũng lạc quan như trong bài thơ Tế thế yên dân, ông viết những câu thơ sảng khoái, mạnh mẽ lạ thường: Đủng đỉnh túi kinh luân thao lược Đem quách ra mà tế thế yên dân Kéo ngân hà rửa sạch hồng trần Cho bốn bể non xanh mà nước biếc Nhất điểm trung can huyền nhật nguyệt 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Thiên thu chính khí tác sơn hà Chén đào viên ta sẽ rót cùng ta Nguyền sinh tử, tử sinh khôn biến đổi Ngoài ngàn dặm vó long câu rong ruổi Trong một nhà tôi chú anh em Danh chẳng thèm mà lợi cũng chẳng thèm Mở mặt anh hùng trong vũ trụ Thân bách niên mà danh ở vạn cổ Nức hơi thơm còn mãi mãi về sau Bấy giờ, thực dân Pháp đang tập trung binh mã quyết xóa sổ căn cứ Vụ Quang, Đại Hàm, Ngàn Trươi... của cụ Phan. Nghĩa quân kháng chiến tan tác cả. Trong bước đường cùng, Bạch Xỉ trốn xuống làng Trung Định. Do có kẻ chỉ điểm nên chúng xộc vào làng. Nghĩa quân phản kích lại dữ dội. Cuộc chiến đấu không cân sức kéo dài mấy giờ liền. Chúng Toán kî binh quân đội Pháp - từng tham gia đàn áp lực lượng của Bạch xỉ 20 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM đã bắn chết 27 tay súng thiện chiến đang bảo vệ Bạch Xỉ, 3 dân làng rồi bắt một chánh vệ, một phó vệ cùng 60 nghĩa quân và một số đông thường dân. Lúc chúng xộc vào chỗ nấp thì Bạch Xỉ đang sốt rét li bì, nằm bên nồi khoai lang bốc khói nghi ngút! Bắt được ông, chúng lập tức khiêng về giam ở nhà lao Vinh. Biết được uy tín của ông trong quần chúng nên giặc càng ra sức mua chuộc. Chúng sai Tổng đốc An Tĩnh là Hồ Lệ - vốn là bạn từng xướng họa thơ văn với ông đến thuyết phục. Nhưng mọi lời lẽ đường mật đều không lọt vào tai người yêu nước. Bất lực trước bản lĩnh của ông, Lệ mỉa mai bằng một câu đối: - Thương người răng trắng gặp hồi đen! Vế đối quả là độc ác, từng chữ trắng - đen trong câu đã đối với nhau chan chát. Đang bệnh, nghe vậy, Bạch Xỉ chồm người dậy, ông mắng ngay cũng bằng một vế đối: - Đau kẻ lòng son ôm máu đỏ. Biết khí phách ấy, Lệ tẽn tò cút mất! Ít lâu sau, giặc bí mật thủ tiêu Bạch Xỉ. Tỏ lòng thương tiếc chủ tướng từng xông ra trước hòn tên mũi đạn “Anh hùng gặp hội quyết ra tay”, một phụ tá thân tín là Nguyễn Ngọc Hiền đã đứng ra tập hợp nghĩa quân để tiếp tục kháng chiến... 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM PHẠM VĂN TRÁNG, NGUYỄN KHẮC CẦN Những tiếng bom thức tỉnh hồn nước Ngày 19/6/1924 tại khách sạn Victoria ở phía bắc thành phố Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc), anh hùng Phạm Hồng Thái đã thực hiện cuộc mưu sát mưu sát tên Toàn quyền Dương Merlin. Dù không thành công, nhưng tiếng bom vang dội ấy có ý nghĩa tích cực cổ động hàng triệu con dân nước Việt đang bị áp bức tin tưởng vào cho phong trào cách mạng Việt Nam. Họ tin tưởng rằng, dù trong đêm tối, trong giông tố nhưng một khi có một cánh én nhỏ nhoi xuất hiện, cũng là lúc mùa xuân đang đến... Hành Nguyễn Khắc Cần (1875-1913) động oanh liệt này, trước đó, ngay trong nước đã có những con người dũng cảm như Phạm Văn Tráng, Nguyễn Khắc Cần... thực hiện. Để góp phần tìm hiểu ý nghĩa của sự kiện này, thiết nghĩ chúng ta cần đọc lại “Phan Bội Châu niên biểu”. Trong đó, giai đoạn năm từ 1910, cụ Phan cho biết: “Tháng 10 năm Tân Hợi (1911) quân Cách mạng Trung Hoa đánh chiếm Vũ Xương, được toàn quốc hưởng ứng, nên chưa đầy ba tháng đã đánh đổ được ngai vàng nhà Mãn Thanh; chính phủ Dân quốc thành lập ở Nam Kinh. Tôi nghe được tin này vui mừng khôn xiết, 22 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM máu nóng phục thù sôi lên sùng sục. Tôi nghĩ đảng Cách mạng Trung Hoa thành công, thì chính phủ bây giờ không phải chính phủ thối nát như trước; nước Trung Hoa tất nhiên hùng cường không kém gì Nhật Bản, nếu hai nước Trung - Nhật đều dốc toàn lực lượng để tiêu diệt bọn xâm lược Âu châu, thì không những Việt Nam ta mà cả Ấn Độ, Phi Luật Tân cũng đồng thời độc lập... Từ sau khi sang Nhật được nghiên cứu nguyên nhân cách mạng nước ngoài và chính thể các nước thì tôi rất say sưa với lý luận của Lư Thoa (Rousseau)...”. Rõ ràng do ảnh hưởng từ thắng lợi của cách mạng tư sản Trung Quốc năm 1911 và được tiếp thu lý luận từ các cuốn Dân ước luận của Rousseau và Vạn pháp tinh lý của Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu)... - nên cụ Phan cùng các đồng chí đã quyết định cải tổ Hội Duy tân thành Việt Nam Quang phục Hội vào đầu tháng 2/1912 với mục đích: “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam”. Ít ai biết rằng, việc thành lập Hội được tổ chức tại từ đường nhà lão tướng Lưu Vĩnh Phúc ở Sa Hà (Quảng Châu). Bốn mươi năm trước, Lưu tướng quân là người chỉ huy quân Cờ Đen, từng sát cánh với quân đội triều đình nhà Nguyễn đánh Pháp, dấu ấn lớn nhất là đã góp công giết Francis Garnier ngày 21/12/1873 tại khu Cầu Giấy. Việt Nam Quang phục Hội được thành lập, Cường Để làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lý. Hội đã tổ chức một lực lượng vũ trang mang tên Quang phục binh và đặt ra Quốc kỳ (nền vàng, một chuỗi 5 ngôi sao đỏ) và Quân kỳ (nền đỏ, sao trắng). Cụ Phan giải thích: “Vàng là để biểu hiện giống người nước ta, đỏ là biểu hiện nước ta ở phương Nam thuộc về hỏa, hỏa là sắc đỏ; sắc trắng thuộc về kim, chủ việc sát phạt cho nên dùng làm sao của quân kỳ”. Ngoài ra, Hội cũng phát hành Quân dụng phiếu loại 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng và 100 đồng lưu hành ở trong nước và Quảng Châu, được in rất tinh xảo, không kém gì giấy bạc Trung Hoa lúc bấy giờ. Trên Quân dụng phiếu có chữ ký của Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu. Đặc biệt cụ Phan còn viết thêm bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ, ký tên Phan Sào Nam, những dòng như sau: “Phiếu này do lâm thời quân chính phủ của Việt Nam Quang phục phát hành, để đổi lấy thực ngân theo số tiền đã ghi trong phiếu, đợi sau này chính phủ dân quốc chính thức thành lập, sẽ 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đem thực ngân đổi lại và trả lại gấp đôi, cấm không được ai làm giả, người nào trái lệnh sẽ bị trừng phạt”. Và để khuếch trương thanh thế, trước mắt Hội đã chủ trương cần gây “những tiếng vang thiên kinh động địa” để “thức tỉnh hồn nước”. Cụ Phan cho biết cụ thể đã: “đem số tiền 1.200 đồng dự trữ để sử dụng đặc biệt giao cho những người sau đây chịu trách nhiệm: Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Trọng Thường 300 đồng và 6 quả tạc đạn theo đường Lạng Sơn về Bắc kỳ; Hà Đương Nhân và Đặng Tử Vũ 600 đồng và 4 quả tạc đạn theo đường Xiêm La vào Trung kỳ; Bùi Chính Lộ 200 đồng và 2 quả tạc đạn theo đường Xiêm La vào Nam kỳ”. Có một điều rất thú vị của kẻ sĩ Việt Nam, là trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, họ thường xướng họa thơ với nhau, không chỉ là kỷ niệm thù tạc mà qua đó còn để thăm dò tư tưởng, ý chí của người đi kẻ ở. Cụ Phan kể: “Nguyễn Hải Thần trước lúc ra đi có lưu biệt câu thơ (tạm dịch): Ba mươi tuổi bình sinh thỏa chí, Bốn ngàn năm lịch sử thêm tươi. Cái lòng hiếu danh đã lộ ở câu thơ này. Câu thơ lưu biệt của Đặng Tử Vũ như thế này: Đỉnh chung vứt lại cho ai cả, Bảo kiếm mang theo trả nợ đời. Xem câu thơ này biết tác giả không thể nào quên lợi lộc; những người trong bụng còn quý danh vọng, tham lợi lộc tất nhiên không thể hy sinh thân mình để thành việc nghĩa. Tôi tuy hiểu như thế, nhưng tiếc rằng lúc ấy ván đã đóng thuyền rồi, không làm thế nào được nữa. Nhân bài học này tôi mới nhận ra những người dám mạo hiểm để làm việc nghĩa, phải là người quang minh lỗi lạc, không nghĩ một chút gì về danh lợi, phải có khí phách cứng rắn nhẫn nại, gan dạ khác thường, thiếu một không thể làm trọn trách nhiệm, còn những người hoặc vì sự cổ động, hoặc vì chịu mệnh lệnh mà làm đều là giả dối, không bao giờ thành công”. Cụ Phan quả là người có đôi mắt tinh đời. Những suy ngẫm của cụ về những con người này về sau đã diễn ra đúng như thế. 24 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Với mục đích ném bom giết tên Toàn quyền Albert Sarraut, lúc y dự lễ xướng danh tại trường thi Nam Định, nhưng do chần chừ, thiếu quyết đoán nên Nguyễn Hải Thần đã không hoàn thành nhiệm vụ. Qua năm 1913, hai chiến sĩ của Hội đã xung phong trở về nước để thực hiện nhiệm vụ có ý nghĩa “thức tỉnh hồn nước” là Phạm Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần. Ông Phạm Văn Tráng, sinh năm 1885, bí danh Nguyễn Thế Trung, người quê Bát Tràng, nhưng thuở nhỏ sống tại phố Hàng Nâu (Nam Định) và lớn lên ông có thời gian dạy học tại làng Hành Thiện. Ông thường Nguyễn Hải Thần tâm sự với mọi người: “Người Pháp vẫn là kẻ thù của ta, những đứa nịnh Pháp hại người là kẻ thù đáng ghét hơn nữa”. Năm - không hoàn thành nhiệm vụ của Việt Nam quang phục Hội năm 1912 1907, ông hoạt động trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và sau đó, khi phong trào bị thực dân đàn áp, bắt bớ, ông trốn sang Trung Quốc và gia nhập Việt Nam Quang phục Hội. Nhân đây cũng xin cung cấp cho bạn đọc một chi tiết: Người sẽ nhận bản án tử hình là tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn! Y được thực dân Pháp thưởng huân chương Bắc đẩu bội tinh vì có công làm mật thám, bắt bớ và tra tấn tàn nhẫn các chiến sĩ trong phong trào Đông du. Nhưng ở đời cây độc sinh trái ngọt cũng là chuyện thường tình. Bởi lẽ, Nguyễn Duy Hàn lại là ông nội của một nhân vật có tiếng tăm trong lịch sử nước nhà: Nguyễn Thế Truyền! Năm 1910, phó công sứ tỉnh Thái Bình về nghỉ phép thường niên đã đem theo cậu bé mới mười, cháu đích tôn của quan tuần phủ sang Pháp lo cho ăn học. Dù vậy, Nguyễn Thế Truyền lại sớm tiếp thu tư tưởng tiến bộ và có nhiều hoạt động cách mạng trong thập niên 1920 - 1930 tại Pháp, nhưng đó là chuyện sau này. Trở về nước, rạng sáng ngày 12/4/1913, Phạm Văn Tráng cùng Phạm Đệ Quý, người Nam Định sang Thái Bình. Người đồng chí này có nhiệm vụ cảnh giới để ông thực hiện nhiệm vụ. 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lúc 11 giờ trưa, trời nắng gắt, không một gợn gió thổi đến. Trên chiếc xe tay, tuần phủ Hàn ngồi chễm chệ, mặt hất lên nhìn trời. Từ dinh công sứ về dinh của quan tuần phủ là một đoạn đường dài... Một tên lính gầy gò đang còng lưng kéo ì ạch, tiếng thở phì phò. Hai bên xe có hai tên lính bám theo, một tên ôm tráp, một tên xách điếu rảo chân bước theo. Khi chiếc xe vừa kéo đến dinh của Hàn thì đột nhiên một tiếng nổ đinh tai điếc óc! Đó là lúc Phạm Văn Tráng đã Toàn quyền Albert Sarraut - mục tiêu ám sát của các đảng cách mạng VN đầu thế kỷ XX ném quả tạc đạn! Tiếng nổ đanh như sét đánh. Khói mù mịt. Nạn nhân chết ngay tại chỗ. Thực hiện xong nhiệm vụ, Phạm Văn Tráng vẫn bình tĩnh. Trong dáng bộ tất tả bước nhanh về quán nước phía đầu làng, nét mặt của ông bình thản lạ thường. Uống một ngụm chè xanh đặc quáng và hút một hơi thuốc lào ung dung nhả khói lên trời xanh, ông bình tĩnh nghe ngóng tin tức mà thiên hạ đang xôn xao bàn tán. Sau khi biết đích xác nạn nhân đã về chín suối thì ông mới đứng dậy tẩu thoát... Trong lúc nhà cầm quyền đang chạy như đèn cù để truy tìm thủ phạm, thì chỉ hai tuần sau, ngày 26/4/1913, chúng choáng váng khi nghe một tiếng bom khác lại nổ ra ngay tại “Hà Nội khách sạn”. Tiếng bom vang dội này đã giết chết hai tên trung tá Pháp là Mongrand và Chapuis, còn lại một số tên khác chỉ trọng thương. Người đã thực hiện nhiệm vụ vẻ vang này là hai ông Nguyễn Khắc Cần và Nguyễn Văn Túy, công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm. Ông Nguyễn Khắc Cần, tên chữ là Tiểu Lâm, sinh năm 1875 tại thôn Yên Viên (nay thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội), thi Hương đậu nhị trường, nhưng sau đó chán ngán khoa cử đương thời nên ông không đi thi nữa, về nhà mở trường dạy học nên được gọi Đồ Cần. Thuở nhỏ khi xem sử 26 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Tàu đến chuyện Kinh Kha, ông bỏ sách, vỗ đùi hét lớn: “Thật đáng mặt nam nhi!”. Do ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, ông cùng ông Tráng đã trốn sang Trung Quốc và gia nhập Việt Nam Quang phục Hội. Thực dân Pháp đã giăng lưới chằng chịt khắp hàng cùng ngõ hẻm nhằm bắt cho bằng được thủ phạm. Do hai tên phản bội Đặng Kinh Luân và Đặng Vũ Hoàn không chịu nổi đòn thù đã khai báo, giặc Pháp nắm được danh sách và đường đi nước bước của các hội viên. Sau một thời gian mai phục tại Lạng Sơn, ngày 7/5/1913 chúng đã bắt được hai ông Phạm Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần, lúc họ sắp vượt qua biên giới. Lúc bị giải về Hỏa Lò (Hà Nội) biết có chối cãi cũng vô ích, Phạm Văn Tráng tự nhận mình là người đã làm những việc “kinh thiên động địa” trên. Thực dân Pháp không tin một người nho nhã, ăn nói điềm đạm, môi đỏ như son, vóc dáng nhỏ nhắn lại có thể làm được những việc động trời. Vì thế chúng bắt bà bán hàng nước lúc ông ngồi ngóng tin tức sau khi ném tạc đạn lên nhận mặt! Còn với ông Nguyễn Khắc Cần khi chúng tra hỏi thì ông quyết không hé răng nói nửa lời, mãi đến khi tay thông ngôn bước vào phiên dịch thì ông mới quát lên: - Ông cũng là người Việt Nam như tôi, sao ông lại hỏi tôi những câu như bọn mắt xanh mũi lõ? Ông cứ nói cho chúng biết hết suy nghĩ của tôi, dù tôi có chết ngay bây giờ, hay chết vào ngày hôm sau thì cũng chẳng có gì khác nhau đâu! Nếu chúng kết án tôi, muốn chặt đầu tôi thì tôi sẵn sàng rồi, đừng tra hỏi gì nữa mà vô ích. Hành động của tôi minh bạch như hai vầng nhật nguyệt, rõ ràng như nước trong khe có gì mờ ám đâu! Năm ba người bị xử tử à? Thây kệ! Những người khác sẽ noi theo gương chúng tôi mà tiếp tục hành động, chúng không giết được hết người của chúng tôi đâu! Ngày 7/5/1913, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định giao cho Hội đồng Đề hình xét xử; ngày 29/8/1913 có 97 người bị đưa ra tòa (trong đó 13 người vắng mặt và một số yếu nhân của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục); ngày 5/9/1913, Hội đồng Đề hình tuyên án tử hình 6 người: 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Phạm Văn Tráng, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Đệ Quý, Vũ Ngọc Thụy, Phạm Hoàng Quý, Phạm Hoàng Triết; ngày 24/9/1913, lúc 5 giờ 45 phút những chiến sĩ này bị thực dân Pháp đưa ra xử quyết tại cửa trại giam Hỏa Lò Hà Nội. Có một chi tiết đáng để ta suy nghĩ là trên báo Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc kỳ) số ra ngày 25/9/1913 trong bài tường thuật có cho biết, trước lúc đầu lìa khỏi cổ, Phạm Văn Tráng đã nói, ông có nguyện vọng là sau khi hồn lìa khỏi xác thì ném xác của ông xuống sông Hồng, chứ không muốn chôn trên mảnh đất đã bị quân cướp nước và bán nước giày xéo! Những cái chết oanh liệt này đã kích thích tinh thần của các chiến sĩ cách mạng trong và ngoài nước. Trong quyển Việt Nam nghĩa liệt sử (1) có thơ điếu Phạm Văn Tráng: Gươm tuốt xông trời, thù khiếp đảm, Sấm vang động đất, nước kêu hồn. ... Huyết mạch anh hùng còn mãi mãi, Nghìn thu nghĩa hiệp gốc không mòn. ... Và đánh giá sự kiện trên như sau: “Người ta ở trên đời này, thế đạo còn mờ, quần chúng còn mê, ma quỷ hoành hành, giữa ban ngày hàng trăm hàng ngàn (ma quỷ) quần tụ với nhau, hút máu người ngủ mê, nếu không có sấm điện trong lúc này đuổi ma quỷ đi, thức quần chúng dậy thì ôi thôi chúng ta cũng là quỷ mà thôi! May thay, may thay, gần đây mới có một tiếng sấm chớp bắt đầu thử nổi lên, không nghi ngờ gì nữa, đó là cái triệu chứng muốn làm cho nhân loại sống lại. Mạnh mẽ làm sao! Mạnh mẽ làm sao!”. Trần Quốc Huy (có thể là bút danh của cụ Phan Bội Châu) khóc bằng bài thơ điếu (Tôn Quang Phiệt dịch): (1) Quyển sách này viết bằng chữ Hán năm 1916, in tại Thượng Hải, ngoài bìa ghi soạn giả: Đặng Đoàn Bằng; tu đính giả: Phan Thị Hán. Trong bản dịch và chú thích của Tôn Quang Phiệt (NXB Văn Học - 1972) cho rằng: “Theo ý chúng tôi, là do nhiều người góp lại, trong đó Phan Bội Châu góp phần nhiều và Đặng Đoàn Bằng là người sắp xếp lại và bổ sung vào” (tr.7). 28 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM ... Ba xuân thức tỉnh loài rồng rắn, Một tiếng làm kinh bọn quỷ chìm. ... Bốn ngàn năm sử tô màu mới, Giọt máu tươi này chiếu cổ kim. và liễn điếu: Đọc suốt lịch sử bốn ngàn năm, nào truyện thích khách, nào truyện hiệp khách, thật ông đáng đứng đầu cuốn sách anh hùng, nên cùng mặt trời trăng sao, nêu cao tên tuổi; Nói tới đồng bào năm ngàn vạn, đây thù dân ta, đây thù nước ta, huống ngươi cũng giống quý da vàng châu Á, cần vì non sông thành quách, rửa sạch hôi tanh (Vũ Tuấn Sán dịch). Trong tập sách này cũng có thơ điếu, liễn viếng khóc ông Nguyễn Khắc Cần rất thống thiết, lại còn có cả bài cảm tác ghi nhận về chiến công oanh liệt hai ông: Trong trường mê mộng sấm vang rền, Hai chiếc đầu rơi một lúc liền. Đồng chí nỡ xem ông phải chết, Thân này sống với giặc sao yên! Máu tươi vừa rửa non sông bẩn, Lòng đỏ treo cùng nhật nguyệt trên. Hai truyện đọc xong vung kiếm dậy, Hồn người hồn nước tỉnh ngay lên. (Tôn Quang Phiệt dịch) Được biết, trong quá trình điều tra, thực dân Pháp cho rằng việc làm của các ông Phạm Văn Tráng, Nguyễn Khắc Cần đều có sự chỉ đạo của nhóm Phan Bội Châu ở hải ngoại nên trước đó, ngày 5/9/1913 Hội đồng Đề hình cũng tuyên án tử hình vắng mặt 6 người nữa, trong đó có Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Văn Túy, Hai Thạc (con trai cụ Nguyễn Thiện Thuật). Tháng 4/1915, có thêm 20 chiến sĩ của Việt Nam Quang 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM phục Hội sa vào tay giặc Pháp. Sau đó, ông Hoàng Trọng Mậu bị kết án tử hình, ông Hai Thạc bị kết án khổ sai chung thân. Dù đàn áp, khủng bố bằng bạo lực nhưng thực dân Pháp cũng không thể tiêu diệt được ý chí của người yêu nước. Xử án người yêu nước thời Pháp thuộc 30 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM NGUYỄN HÀNG CHI Máu tươi tuôn chảy với đồng bào Từ xưa, người nước ta theo phong tục Hán Đường mà để tóc, cho rằng: “Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất khả hủy thương”, nghĩa là thân thể mình và da tóc mình là của cha mẹ cho, không nên hủy hoại nếu không thì mang tội bất hiếu! Thế nhưng, từ lúc thực dân Pháp xâm lược nước ta thì quan niệm trên đã thay đổi. Từ ngày mồng 4/2/1888, tại Hà Nội, ông Querelle người Pháp đến Hà Nội mở hiệu cắt tóc đầu tiên. Hồi đó, người nước ta phần nhiều để tóc “búi tó” hay cạo trọc, do đó nghề cắt tóc không phát đạt lắm. Tuy nhiên, vẫn có những nhà nho cấp tiến do ảnh hưởng Tân thư nên quyết định cắt búi tó trên đầu. Đây là một hành động dũng cảm để đoạn tuyệt với lối học cũ đã lỗi thời. Những ai quyết định “Coiffeur” hay “Thế phát” (cắt tóc) lúc đó là những người có tư tưởng cách mạng quyết liệt - vì phải đối đầu với quan niệm từ ngàn năm đã ăn sâu trong tâm trí mọi người. Trong số những người đầu tiên tự nguyện cắt tóc có Nguyễn Hàng Chi. Để thấy đó là một hành động cách mạng trong thời điểm này, chúng ta có thể đọc lại một tư liệu nói về chuyện cắt tóc: “Trưa hôm ấy, chàng thanh niên Lê Văn Thanh về nhà thưa với cha, là ông Xã Quý, về việc cúp tóc. Ông Xã không chịu. Ông đập bàn, đập ghế la hét om sòm: - Con có cha, như cái đầu có tóc. Theo phong tục nước An Nam, con phải để tóc, ấy là để thờ cha mẹ, ấy là có hiếu. Tao theo sách Thánh hiền dạy lễ giáo từ xưa tới nay của nước An Nam như thế. Tao đây đã 50 tuổi, ông nội bà nội của mày đã quá vãng rồi, mà tao còn búi tóc, để giữ đạo 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM làm con cho trọn chữ hiếu. Huống chi ngày nay tao còn sống mà mày lại cắt cái búi tóc bỏ đi sao được! Chiều mày vô trường thưa với quan Đốc học như thế. Nói xong, ông Xã ngồi khóc ròng rã. Chàng con trai Lê Văn Thanh, cũng khóc nức nở. Bà Xã dưới bếp chạy lên nghe câu chuyện của chồng vừa nói, cũng ngồi xuống ngạch cửa, khóc hu hu. Ông Xã nói với giọng tức tối: - Làm con, có cái búi tóc ở trên đầu để thờ cha kính mẹ mà cắt bỏ đi thì còn gì là cha con, mẹ con nữa? Mày mày nghe người ta cắt bỏ cái búi tóc, tao nhảy xuống giếng tao tự tử! Ông lại khóc to lên, hu! hu! hu!”. Nhưng rồi cái búi tóc cũng phải cắt bỏ đi, nếu không thì không thể vào học trường của Pháp mới mở. Hôm cắt tóc đã diễn ra: “Trên bàn thờ ông bà, có bày một hộp trầu cau, một nải chuối chín và một con gà luộc. Một mâm gỗ lớn đựng mười chén cháo và mười đôi đũa, đặt trước bộ ván kê trước bàn thờ. Ông Xã thắp đèn hương, đứng khấn vái hồi lâu. Ông khấn: - Bữa nay, thằng con bất hiếu Lê Văn Thanh, tuân lệnh quan, phải cắt tóc để đi học trường Nhà nước, nên có lễ vật để cáo với liệt vị tiền hiền, các bậc Cao tằng, Tổ khảo với Tổ phụ, Tổ mẫu chứng giám. Xin vong linh liệt vị phù hộ cho con cháu để nó học hành tấn tới, công danh hiển đạt. Khấn xong, ông lạy ba lạy. Đến lượt Lê Văn Thanh áo dài, khăn đen với búi tóc trên đầu, cũng lạy ba lạy. Xong nghi lễ cáo với ông bà, ông Xã đưa tay vẫy gọi chú Bảy coiffeur (cốp-phơ) đứng khúm núm ngoài hè. Chú vào kéo một chiếc ghế để gần chỗ bàn thờ, bảo Lê Văn Thanh ngồi. Thanh gỡ cái khăn trên đầu ra, cung kính đặt nó trên một chiếc khay bên cạnh mâm cháo gà, vái thêm ba vái nữa rồi mới ngồi ghế. Chú Bảy bảo chàng xổ búi tóc ra. Một lọn tóc đen mướt chảy lòng thòng xuống đến nửa lưng. Chú bảy cốp-phơ tự thấy mình đang đóng một vai trò trọng đại, nên chú làm ra vẻ oai vệ lau lại hai lưỡi kéo trước khi lùa lọn tóc nằm vừa vặn trong bàn tay, rồi tay kia cầm kéo cắt sát lên đỉnh đầu. Tóc quá dài thì lụt, chú Bảy phải xắp đến bốn năm lượt búi tóc mới rơi hết xuống đất thành một đống đen ngòm. 32 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Bà Xã đứng ần đấy, òa lên khóc, thê thảm, quay lưng đủng đỉnh đi vào nhà trong. Ông Xã rưng rưng hai ngấn lệ. Trên bàn thờ, ba que nhang cùng tỏa ra một làn khói thơm nồng, cuồn cuộn lên cao. Ngọn đèn dầu phộng cháy tỏ như thể có vong hồn các đấng tiền nhân đang chứng minh nghi lễ “thế phát” của đứa con trai trưởng trong gia đình” (1). Đó là một chuyện khá tiêu biểu cho thấy việc cắt tóc lúc ấy là một việc vô cùng hệ trọng, không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận. Nhưng Nguyễn Hàng Chi thì lại khác. Vốn là một chiến sĩ tích cực của phong trào Duy Tân ở Nghệ Tĩnh, anh tự ý thức được việc phải gọt bỏ búi tóc trên đầu - như bài ca “Húi hề” không rõ cho ai sáng tác đang lan truyền rộng rãi: Tay trái cầm lược Tay phải cầm kéo Húi hề! Húi he! Thủng thẳng cho khéo Bỏ cái ngu này Bỏ cái dại này Hoặc sau này trong bài “cắt tóc”, cụ Nguyễn Quyền của trường Đông Kinh Nghĩa Thục có viết: Phen này cắt tóc đi tu Tụng kinh Độc Lập ở chùa Duy Tân Đêm ngày khấn nguyện chuyên cần Cầu cho ích nước lợi dân mới là Vào một buổi sáng đẹp trời, Nguyễn Hàng Chi xuống chợ huyện, uống một bữa rượu say rồi bảo người thợ gọt phăng cái búi tóc của mình. Không những tiên phong đi đầu trong việc cắt “búi tóc củ hành”, Nguyễn Hàng Chi còn hăng hái vận động mọi người làm theo mình. Anh đã làm bài thơ hát nói “Khuyên người cắt tóc” để cười cợt một cách lạc quan, hóm hỉnh vừa bày tỏ chí khí: Hàng Chi ơi hỡi Hàng Chi Cõi trần hồ dễ như mi trọc đầu (1) Tuấn chàng trai nước Việt - Nguyễn Vỹ - tác giả xuất bản (Sài Gòn 1969). 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Rồi ra kẻ Á người Âu Rồi ra khắp mặt hoàn cầu như nhau Ưu thắng liệt bại Bọn hủ nho còn nhai nhải khéo cùng khôn Của cha ông gìn giữ thật vuông tròn Ôi, gấm vóc giang sơn vô hạn hảo Nọ biển nọ rừng, kìa non kìa đảo Giờ về ai, ai sầu não, ai tai ương Hai mươi triệu con dân sống chết há xem thường Tiếc lề đẹp sao còn thương giấy nát... Sức hợp quần ta quyết sẽ thành công Hãy về cắt tóc đi ông.... Anh sinh năm 1885, người làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, huyện (Hà Tĩnh) trong một gia đình Nho học. Dòng họ Nguyễn Chi ở đây vốn có truyền thống học tập và truyền thống cách mạng. Anh ruột của Nguyễn Hàng Chi là Nguyễn Hiệt Chi (1780 - 1935), hiệu Mộng Thương, đậu Đầu xứ rồi đậu tú tài trường Bình Định, bổ ngạch Giáo thụ ở Phan Thiết, tham gia phong trào Duy Tân, cùng bạn đồng chí sáng lập Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh để tiếp tục hoạt động nên bị thực dân Pháp bắt giam, là nhà giáo uyên bác nổi tiếng đào tạo nhiều học trò giỏi và có nhiều đóng góp cho học thuật Việt Nam (1). Từ thuở nhỏ, Nguyễn Hàng Chi đã nổi tiếng là người hay chữ, được mọi người yêu mến gọi là cậu Đồ Nam hoặc cậu Nho Tuy. Dù học giỏi nhưng căm ghét lối văn chương “bát cổ”, anh không đi thi còn làm thơ cổ động cho việc bỏ thi: Thi cử làm chi rứa (thế) các thầy Văn chương không đánh được thằng Tây Thi không thối lỗ (đánh lùi giặc) đừng ngậm điếc Phú nỏ (chẳng) chớ học rầy (phiền) Ông tìm đọc nhiều sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tư sản phương Tây mới du nhập vào nước (1) Cụ Nguyễn Hiệt Chi là cha ruột của giáo sư Nguyễn Đổng Chi. 34 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM ta đầu thế kỷ XX- trong thư phòng của anh có treo hai câu đối bộc bạch rõ tư tưởng của mình: - Cử thế giai Hàng Chi, thùy Nã Phá Luân, thùy Hoa Thịnh Đốn; Đương kim sinh Khổng Tử, diệc Khang Hữu Vi, diệc Lương Khải Siêu. - Người đời đều như Hàng Chi, ai (sẽ) là Nã Phá Luân (Napoléon), ai là Hoa Thịnh Đốn (Washington); Thời nay nếu sinh Khổng Tử thì cũng sẽ là Khang Hữu Vi, cũng sẽ là Lương Khải Siêu. Năm 1906, lúc 21 tuổi, anh tìm đường vào Nam kết giao với các đồng chí cùng mục đích để hô hào mở mang dân trí, kêu gọi mọi người ý thức về cái nhục mất nước... Lúc đó, nghe tin mẹ mất, không thể về được anh đã làm câu đối khóc mẹ - mà vế sau để nói lên chí khí của mình: “Chúng ta lấy nước Việt Nam làm mẹ, trong lúc đồng bào đau khổ khóc than, để tang nên mặc áo Mã Nê”. Mã Nê tức Mat-di-ni nhà ái quốc người Ý Đại Lợi (Italia), để tang mẹ và Tổ quốc cho đến ngày chết. Hai mươi mốt tuổi mà viết được như thế thì tinh thần yêu nước của Nguyễn Hàng Chi cũng đáng để hậu thế chúng ta ngưỡng mộ. Sau chuyến Nam du, anh quay về quê thì gặp lúc tỉnh thành Hà Tĩnh đang tổ chức kỳ thi để miễn thuế thân cho những ai đạt loại “bình” trở lên. Nguyễn Hàng Chi rất bất bình: tại sao lại miễn thuế cho đám bạch diện thư sinh, trong khi đó hàng ngàn nông dân đang gánh chịu biết bao sưu cao thuế nặng thì sao? Thế là anh cùng với các bạn tổ chức phá kỳ thi này. Lúc các thí sinh đã tề tựu ngoan ngoãn bước vào trường thi, quan trường đang “ậm ọe miệng thét loa”, điểm danh từng người thì anh nhảy vụt ra đọc một bản cáo trạng, vạch rõ âm mưu thực dân muốn chia rẽ giữa nông dân và sĩ tử, rồi kêu gọi thí sinh bỏ thi. Bản cáo trạng như tiếng sét nổ ra giữa trời quang đãng. Ai nấy đều kinh hoàng khiếp đảm. Khi anh vừa dứt lời thì mọi người chợt như bừng tỉnh! Tấùt cả bàn tán náo loạn như ong vỡ tổ, lập tức các thí sinh reo hò hưởng ứng. Chỉ trong giây lát, họ bỏ trường thi lũ lượt kéo nhau trở về nhà. Thủ đoạn thâm độc của thực dân đã phá sản. Chưa dừng lại đó, vài ngày sau, người ta thấy trước cửa trường có treo một vế đối đanh thép: 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Thi mà chi, đỗ cũng chi, ngoảnh lại mà xem, trên dưới hai mươi triệu Lạc Hồng chỉ thấy một phường nô lệ. Tuy không biết ai là người dán câu đối ấy, nhưng khẩu khí ngang tàng như vậy chỉ có thể là của Nguyễn Hàng Chi mà thôi. Ngay cả trong gia tộc nếu thấy chuyện trái tai gai mắt anh còn lên tiếng, huống hồ gì là lên án bọn quan trường. Trong Địa chí huyện Can Lộc cho biết: “Năm 1908, phong trào biểu tình chống sưu cao thuế nặng đã nổ ra tại huyện Đại Lộc (Quảng Nam) rồi lan vào Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và dội ra cả Hà Tĩnh, Nghệ An.... Tháng 11/1907 nhiều nhà lãnh đạo Hội Duy tân lần lượt bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh, Nguyễn Hàng Chi trở thành người cầm đầu phong trào chống thuế ở Hà Tĩnh. Nhiều bài vè do anh làm đã được phổ biến rộng rải: Dân ta đói rét Cực khổ trăm bề Sưu thuế nặng nề Không gì nuôi sống Khổ, dân ta nói, Đói, dân ta kêu Giảm thuế giảm sưu Cho dân sống với... Sau đó Nguyễn Hàng Chi giả làm người bán quế đi nhiều nơi trong tỉnh liên lạc với Hội Duy tân để phân phát tờ Thông tri do ông soạn thảo (dịch): “Đáng yêu thay dân Quảng Nam Đáng kính thay dân Quảng Nam Đáng học thay dân Quảng Nam” Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngược đãi dân ta thật quá lắm. Hàng năm, nộp thuế xong rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không được ăn no, đi nơi khác tìm ăn thì khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài thì sưu thuế hẳn còn tăng mãi. Dân ta nhà thì đã có chín nhà rỗng không, khó lòng gánh chịu được Nếu cứ ngồi mà đợi chết, 36 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM chi bằng vùng dậy tìm lối sống. Hét to gọi lớn chống lại quân thù. Định ngày 18 tháng 4 năm nay (tức 17/5/1908) dân chúng các phủ huyện cùng kéo đến tỉnh xông vào tòa sứ đòi bỏ sưu thuế...”. Bản Thông tri được truyền bá rộng rãi đã dấy lên phong trào hưởng ứng sôi nổi trong toàn tỉnh. Sáng ngày 23/5/1908 Nguyễn Hàng Chi cùng Trần Ty, Phan Hiệp, Nguyễn Lương Nhân dẫn 600 người áo quần xơ xác, khoác chiếc áo tơi rách, cơm đùm cơm nắm kéo lên vây huyện lỵ Can Lộc. Tri huyện Nguyễn Doãn Văn bỏ trốn. Đoàn xin sưu ào ào kéo về tỉnh lỵ bị toán lính Pháp chặn lại xông vào khủng bố. Mặc dù bị đánh đập, dân chúng vẫn theo Nguyễn Hàng Chi lấn tới để chất vấn viên Công sứ Pháp khiến hắn hoảng hốt vấp té đứt cả ngón tay. Tuy vậy hai tay không không thể chống chọi nổi với súng đạn, cuối cùng đoàn “xin sưu cũng bị giải tán. Nguyễn Hàng Chi và một số người bị bắt. Các đoàn khác nghe tin đoàn Can Lộc đã tan nên quay về. Riêng đoàn Nghi Xuân do Trình Khắc Lập cầm đầu kéo vế đến gần huyện lỵ gặp toán lính của tên đội Tây Ba Buýt. Hắn giả vờ chấp nhận yêu sách nhưng trở mặt bắt Trịnh Khắc Lập và những người cầm đầu. Cuộc đấu tranh chống sưu thuế đã bị đàn áp khốc liệt. Tên Công sứ Pháp của Hà Tĩnh đập bàn thét lớn: - Ai xúi giục các anh chống lại chính phủ bảo hộ? Không một chút run sợ, Nguyễn Hàng Chi hiên ngang trả lời: - Tân thư! Hai tiếng “Tân thư” vang lên như tiếng búa đóng vào tai tên công sứ. Y lồng lộn cho bắt ngay những người cầm đầu. Nguyễn Hàng Chi dõng dạc nói: - Tất cả mọi việc đều do tôi khởi xướng. Không liên quan đến ai cả. Tôi chịu hết trách nhiệm. Những câu trả lời gan dạ trên lan truyền rất rộng trong giới sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Sau này viết tổng kết phong trào kháng thuế năm 1908, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có tường thuật chu đáo chuyện này. Sau đó, giặc Pháp giao Nguyễn Hàng Chi và Trịnh Khắc Lập cho tòa án Nam triều. Ngày 13/7/1908, Trịnh Khắc Lập bị đưa vè Nghi Xuân xử chém 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM giữa chợ, còn Nguyễn Hàng Chi bị chém ngay sau thành Hà Tĩnh. Trước khi chết, anh đã làm bài thơ tuyệt mệnh (giáo sư Nguyễn Đổng Chi dịch): Dân trí mở quyền mở lối thăm, Súng Hoa, đạn Mã đã lăm lăm. Trong tầm thường có phi thường đấy, Cây héo hoa tươi khéo bón chăm. Nguyễn Hàng Chi đã ngả xuống lúc mới 24 xuân, tên tuổi anh được truyền tụng mãi mãi Cổng làng xưa ở Hà Tĩnh - quê hương nhà cách mạng Nguyễn Hàng Chi khắp vùng Nghệ Tĩnh. Nhiều thơ văn, câu đối được sáng tác để điếu người liệt sĩ. Có người bí mật đặt lên mộ Nguyễn Hàng Chi bài văn truy điệu (trích): ... Miền Hoàn hải ầm ran tiếng sóng Khắp trời Nam cây cỏ đua chào Giữa Hồng Lam ngang dọc có biết đâu Niềm ái chủng thấp cao khôn bày tỏ Nghếch mỏ ngoắt đuôi chi lắm chó Hít hơi dê ghét bỏ chúa nhà đây Chí anh hào hăm hở quyết ra tay Trách con tạo trêu ngươi chi lắm thế Niên hoa kể hai mươi bốn lẻ Tháng sáu rằm gương để ngàn thu.... Làm trai nên phải học làm như ông Trung kỳ đệ nhất anh hùng! 38 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Sĩ phu xứ Nghệ đã khóc Nguyễn Hàng Chi bằng câu đối mà nay đọc lại hậu thế vẫn con rưng nước mắt: - Bút muốn viết thì viết, miệng muốn reo thì reo, phơi phới đáng yêu thay, nhân cách rèn nên từ học mới. Hỏi vợ vẫn chưa vợ, hỏi con vẫn chưa con, khăng khăng làm gì đấy, máu tươi tuôn chảy với đồng bào. Xử án người yêu nước đầu thế kỷ XX 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM PHAN XÍCH LONG Linh hồn cuộc khởi nghĩa năm 1913 tại Sài Gòn Phan Xích Long là một nhân vật lạ lùng trong lịch sử Việt Nam: tự xưng con trai vua Hàm Nghi (1884- 1885), tự lên ngôi Hoàng đế, đặt tên “vương quốc” là Đại Minh Quốc, “quốc kỳ” là lá cờ có đính bảy ngôi sao, đề ba chữ nho là Đại Minh Quốc, có “ấn” Thiên tử ngọc tỉ, có thanh gươm khắc dòng chữ: “Tiên đả hôn quân, hậu đả loạn thần” như một lời tuyên ngôn về mục Phan Xích Long (?-1913) đích khởi nghĩa. Bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục binh tướng bằng sức mạnh của bùa phép, anh tỏ ra rất am hiểu khoa học kỹ thuật khi tổ chức làm tạc đạn, hỏa lôi, rèn gươm! Bên cạnh việc thờ “Phật sống” tại Chợ Lớn để rao giảng kinh đạo, anh lại lập căn cứ trên núi làm kho chứa lương thực, vũ khí! Khi xông trận binh tướng mặc quần đen, áo trắng, cổ đeo bùa, miệng đọc thần chú, nhưng tay lại cầm mác dũng cảm đối đầu với 40 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM hòn tên mũi đạn. Bản thân Phan Xích Long thì lúc nào cũng ăn mặc như một Hoàng đế, cổ đeo khánh Đông cung thái tử, tay đeo kiềng có khắc dòng chữ “Đại Minh Quốc, Phan Xích Long Hoàng đế thống trị Trung Huế”, phía trong khắc chữ “Dân cống” (Dân dâng cho), lưng đeo đai hình rồng sặc sỡ, đầu đội vương miện, hông mang gươm lủng lẳng! Đáng chú ý là hành động nghĩa hiệp và dũng cảm của Phan Xích Long diễn tại Sài Gòn năm 1913 lúc anh mới ngoài hai mươi xuân. Cuộc khởi nghĩa này đã gây chấn động ở Nam Kỳ. Do đó, sau khi đàn áp xong, thực dân Pháp phải gấp rút cho ấn hành quyển Sách viết về vụ Phan Xích Long in năm 1913 tại Sài Gòn sách có tựa “Truyện Phan Xích Long” do Imprimerie de L’Union-157 Rue Catina in năm 1913 - nhằm trấn an dư luận “Dám khuyên dân chúng ai ai, xin phải đành an phận mạng”. Sách dày 58 trang, khổ 13cm ⋅ 16,5cm, nhưng trong đó bản cáo trạng đã chiếm đến 32 trang, bản luận tội dài 15 trang và bản kết án dài 2 trang - do Tòa đại hình Sài Gòn xét xử từ 7 giờ 30 sáng ngày 5/11/1913 đến ngày 12/11/1913. Tòa án thực dân kết luận vụ khởi nghĩa này là “Ra oai sấm vang trời rền, nổi hiệu lên xúm lại giết Tây”(trang 46) và “phải hiểu nghĩa là chúng nó lo đuổi người Đại Pháp ra khỏi Đông Dương” (trang 48), nghĩa là việc làm của Phan Xích Long có mục đích hẳn hòi, chứ không phải là “cao hứng” bồng bột của chàng thanh niên 23 xuân! Phan Xích Long sinh năm 1893, tên thật là Phan Phát Sanh, còn có tên là Lạc- con trai của ông Phan Núi làm nhân viên cảnh sát ở Chợ Lớn. Mười bảy tuổi, Lạc bỏ Nam Kỳ đi sang Xiêm, Cao Miên học gồng, bùa phép và võ nghệ. Vì vậy trên ngực Lạc có xâm hình vằn vện, trông rất 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khiếp đảm! Vào tháng 11/1911, có hai thanh niên ở làng Đa Phước (Chợ Lớn) là Nguyễn Hữu Trí (Hai Trí) và Nguyễn Văn Hiệp đi Tân Châu (Châu Đốc) mua bắp. Họ đã gặp Lạc. Qua trò chuyện, cả ba tỏ ra tâm đầu ý hợp và bàn kế hoạch lập ra “hội kín” - một hình thức hoạt động của tổ chức Thiên Địa Hội (1) - để chống Pháp. Theo phân công, Lạc đóng vai là thái tử của vua Hàm Nghi. Còn Hiệp và Hai Trí trở về Chợ Lớn rước ông già mù Nguyễn Văn Kế - nhà gần bưu điện Chợ Lớn - về nhà Hai Trí để tôn làm “Phật sống”. Ông Kế đồng ý đảm nhận vai trò này và hai con trai của ông là Ba Mùa làm nghề đánh xe ngựa trong Tòa bố tỉnh Gia Định và Tư Màng làm công nhân Ba Son cũng đồng ý gia nhập vào “ hội kín”. Đây là sách lược đầu tiên nhằm thu hút dân chúng. Nhưng chỉ thời gian ngắn, hương lý trong làng bắt Hai Trí nộp cho quan Tham biện. Về sau, không tìm ra chứng cứ gì rõ ràng nên chúng phải thả. Thấy bị động, Trí bèn đưa” Phật sống” về nhà của Tư Phát ở số 10 đường Thuận Kiều. Trong khi đó, Lạc đi chu du khắp nơi, mặc áo thầy chùa, tuyên truyền yêu nước nên bị theo dõi rất ngặt, phải trốn qua Battambang (Campuchia). Đến xứ người, Lạc làm nghề cu li và làm thuốc chữa bệnh để kiếm sống đắp đổi qua ngày. Còn “Phật sống” lúc đưa về địa điểm mới, dân chúng vẫn nườm nượp ngày đêm đến dâng cúng bạc, vàng và chiêm bái! Trong nhà nghi ngút khói hương, tiếng chuông, tiếng mõ vang rền, người sùng bái đến đông đúc như đi trẩy hội. Chẳng may, bốn tháng sau, “Phật sống” vĩnh biệt dương thế để đi về cõi âm. Chỉ chờ có vậy, Hai Trí nhanh chóng phao tin là trước khi chết, “Phật sống” có trối trăn lại là phải tôn Lạc lên ngôi Hoàng đế. (1) Thiên Địa Hội: Thời vua Khang Hy, Phương Trượng và những nhà sư chùa Thiếu Lâm (Phúc Kiến- Trung Hoa) lập công lớn trong đánh giặc ngoại xâm, được vua ban thưởng nhiều bảo vật, trong đó có một cái ấn bằng ngọc rất quý giá. Đến thời Ung Chính, Tổng đốc Phúc Kiến là Đặng Thắng vì muốn chiếm ngọc tỉ, phao vu các nhà sư dùng ấn ngọc luyện yêu thuật và tạo phản. Vua Ung Chính cho phép phóng hỏa đốt chùa, cuộc thảm sát tàn bạo làm hơn 100 nhà sư thiệt mạng, có 5 người trốn thoát là Hồ Đức Đế, Phương Đại Hồng, Thái Đức Trung, Mã Siêu Hưng và Lý Khắc Khai, trích máu ăn thề thành lập Thiên Địa Hội, tôn phò cháu nội vua Sùng Trinh là Châu Hồng Phúc làm Minh chủ, giương cờ phản Thanh phục Minh. Bị nhà Thanh đàn áp, nhiều nhóm Thiên Địa Hội phải lưu tán ra Đông Nam Á, trong đó có Nam kỳ của nước ta. Dù lưu tán núp dưới nhiều tên gọi khác nhau như hội cứu tế, ái hữu, họ vẫn duy trì chặt chẽ các luật lệ, giới cấm của bang hội. Là “hội kín” chính trị, quân sự mang màu sắc tôn giáo thần bí, về sau Thiên Địa Hội chuyển dần sang hoạt động kinh tế, dần dà có một bộ phận suy đồi trở thành những nhóm cướp, buôn lậu, “xã hội đen” (Đi tìm văn bản luật giang hồ-Anh Kiệt - Báo Pháp Luật số Xuân Canh Thìn 2000). 42 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Dân chúng rất náo nức chờ đợi ngày Hoàng đế lên ngôi. Hai Trí và Hiệp liền qua Battambang để rước Lạc về ngự. Tháng 9/1912, Lạc về ở đường Thuận Kiều. Ngày 14/10/1912, Lạc quyết định chọn ngày đăng quang tại tửu quán Nam Hiệp Hòa đường Bourdais (nay là đường Calmette). Đây là quán mà cha ông hương chủ Phước lập ra để chờ ngày trọng đại này. Hôm đó, cùng các đồng chí của mình, Lạc đã tổ chức yến tiệc rầm rộ- mà sau này trong bản cáo trạng có ghi: “nhậm lễ vật dân cống chừng 600 đồng bạc lớn” và “công việc tế nhạc làm ra mà tế lễ cho Phan Xích Long Hoàng đế thật là oai nghiêm”. Phía trong tửu quán có đặt một bàn thờ lớn, hai bên thắp đèn bạch lạp sáng rực, Lạc ngự ở đó. Dân chúng bái lạy hết sức tôn kính và họ tin rằng đó là “thiên tử” do nhà trời sai xuống để đánh đuổi giặc Tây. Sắp xếp xong mọi việc, Phan Xích Long lên Cần Vọt sát biên giới Việt - Miên để lập chùa trên núi, đặt tên là Nam Long trường sanh. Cũng theo bản cáo trạng thì thực chất đó là nơi “để cho dân An Nam tới trốn khi Nhà nước tầm bắt, lại cũng là nơi để cho nghĩa sĩ náu nương đợi thời biến và cũng là chỗ làm lễ nhạc cho chư vị lập lời thề nguyền trọn ngãi kim lan”. Với vùng đất rộng mênh mông còn hoang vu, Phan Xích Long cùng Hai Trí, Hiệp và “hội kín” của mình lập thành căn cứ kháng chiến lâu dài. Khi quay về Chợ Lớn, Phan Xích Long bắt đầu triển khai kế hoạch khởi nghĩa, ấn định vào ngày 28/3/1913. Trước tiên, những người trong “hội kín” đi rải truyền đơn khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để tuyên truyền rằng: “Sẽ có một người là chánh vị vương, tên là Phan Xích Long đánh đuổi người Lang-Sa và thắng trận, khuyên những người buôn bán ngoại quốc, cùng dân chợ phải lo trốn giặc, đem giấy bạc mà đổi lấy bạc đồng”. Ban đầu, thực dân Pháp cứ ngỡ đó là trò lừa gạt của Hoa kiều buôn bán trong Chợ Lớn, nhưng khi phát hiện ra còn có thêm cả “Mỗi trái phá nặng từ 14 đến 16 cân tây, trong đó có 6 cân thuốc súng và một cân đạn miểng” được chôn ở nhiều nơi thì chúng tăng cường cảnh giác. Theo bản cáo trạng thì Phan Xích Long rất thạo kỹ thuật chế tạo vũ khí, anh đã vẽ kiểu cùng với Tư Màng- công nhân hãng Ba Son - rồi mướn người về làm. Người nhận làm là Tám Giàu - chủ trại thợ ở làng Bình Hòa (Gia 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Định) nhận của “hội kín” số tiền là 330 đồng để chế tạo hỏa lôi. Ngoài ra, Phan Xích Long còn giao cho Hai Trí tổ chức rèn gươm v.v… Chuẩn bị xong, vào đêm 23 rạng 24/3/1913 Hai Trí sai Đặng Tấn Sao dùng thuyền bí mật chở 5 trái phá loại lớn nhất đến giấu tại cầu Ông Lãnh. Sau đó, người trong “hội kín” đến lấy đặt ở đường Kinh Lấp và các chỗ khác như đoạn gần đường xe lửa, dinh Chánh soái, dinh Thống soái Nam Kỳ, xưởng Ba Son... Và chỗ nào có dán truyền đơn thì cũng có đặt trái phá tại đó. Ngoài ra, “hội kín” còn tổ chức đặt trái phá đồng loạt ở Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng, thậm chí còn đặt ở Nam Vang (Campuchia) nữa. Rồi bốn ngày sau, đúng ngày Phan Xích Long khởi nghĩa, binh tướng được phát lá bùa, đốt uống và nghe căn dặn rằng: sau khi đã uống bùa thì đi không ai nhìn thấy; thân thể có được phép gồng, đạn bắn không xuyên qua da, gươm đâm cũng không lủng thịt (!) Những binh tướng này tin rằng, khi mình hành quân đến Sài Gòn thì sẽ được gặp Hùm thiêng Yên Thế Đề Thám (!) và Phan Xích Long Hoàng đế. Nhưng họ không ngờ rằng, trước đó, ngày 22/3/1913 trên đường đi tuyên truyền kêu gọi quần chúng “Ta hãy đứng dậy mà phục quốc” thì Phan Xích Long đã bị thực dân Pháp bắt tại Phan Thiết. Sáng hôm đó, ngày 28/3/1913 có hơn 600 người của “hội kín” tiến quân từ hướng Chợ Lớn đổ về Sài Gòn. Họ mặc y phục quần đen, áo trắng, bịt khăn xéo có thắt nút giữa trán làm mật hiệu riêng. Trời vừa rạng sáng, binh tướng của Phan Xích Long mới vừa xuất hiện ở Tòa bố, Kho bạc, dinh Thống đốc… chưa kịp áp sát mục tiêu thì giặc Pháp đã chủ động nổ súng trước. Những người hăng hái đi đầu đã ngã gục trước hòn tên mũi đạn, số sống sót còn lại chạy tán loạn nhưng cũng bị bắt gần hết. Riêng Hai Trí cùng một số đồng chí khác trốn thoát được. Họ nhanh chân chạy về căn cứ Cần Vọt, náu thân ở chùa Nam Long trường sanh. Sáng ngày 5/11/1913, Tòa đại hình đưa 104 người tham gia khởi nghĩa ra xét xử. Điều đầu tiên khiến thực dân kinh hoàng là những vũ khí mà chúng thu nhặt được. Tên quan ba Madec nhận xét: “- Quả là đồ hiểm nghèo, hễ những trái ấy nổ ra chỗ đông người thì hại to” và “thuốc súng trong hỏa lôi có trộn than nhiều, bỏ diêm ít hơn, như vậy cũng là nhậy nổ”. Trước tòa án, những người cầm đầu đã tỏ 44 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM ra cứng rắn, không một chút run sợ. Theo bản cáo trạng cho biết: “Trước mặt quan bồi thẩm, tên Hiệp nó khai một cách mạnh mẽ: lòng nó ghét Lang-Sa cai trị trong xứ này, dầu nó có bị trái hỏa lôi văng nhầm mà chết thì cũng cam tâm”. Hương quản Ngọ ngạo nghễ đọc thơ: Chẳng quản thân này còn mất, Mai nay khởi nghĩa sẵn tâm. Còn Phan Xích Long nét mặt bình tĩnh lạ thường, tự nhận mình là người viết truyền đơn, sau đó đưa cho Hai Trí sửa lại câu cú; tự nhận mình là người hướng dẫn Bùa phép của binh tướng Phan Xích Long cho binh tướng rèn gươm, chế tạo hỏa lôi. Và anh tỏ ra tiếc là những người thừa hành không liệng hỏa lôi cho banh xác Tây mà chỉ “đem đến nơi để nằm dưới đất”. Tên chưởng lý G. Michel đã kết án những người anh hùng 5 tội mà chung quy là xúi giục dân chúng đánh đổ Nhà nước Đại Pháp! Phan Xích Long cùng những người cầm đầu bị kết án chung thân, còn những người khác bị 20 năm khổ sai trở xuống. Sự kiện này đã gây chấn động trong giới giang hồ mã thượng trên đất Nam Kỳ. Đâu đâu thiên hạ cũng bàn tán râm ran và tỏ lời thán phục. Ba năm sau, năm 1916, từ Cần Vọt, Hai Trí lại dẫn binh tướng của “hội kín” tiến về Sài Gòn. Họ quyết định phá ngục tù Khám Lớn để giải cứu cho Phan Xích Long Hoàng đế! Theo kế hoạch, họ phân tán lực lượng bằng cách đi trên ghe nhỏ, bí mật tập kết dưới gầm cầu Khánh Hội. Nửa khuya ngày 16/2/1916 có khoảng 300 người mặc quần đen áo trắng đồng loạt cầm gươm, giáo, mác hùng hổ xung phong tấn công mục tiêu. Từ trong Khám Lớn, giặc điên cuồng nổ súng! Đội hình lập tức rối loạn. Súng Pháp 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khạc đạn rực trời, bắn không thương tiếc. Có đến 19 người chết tại chỗ. Rạng sáng, chúng nhanh chóng tỏa quân đi bắt hết những ai mặc quần đen áo trắng -mà chúng tình nghi là người của “hội kín”. Tòa án lại xử vụ Phan Xích Long một lần nữa. Ngày 22/2/1916 có 38 người bị xử tử tại Đồng Tập Trận (1) - đứng đầu danh sách là Phan Xích Long! Cuộc khởi nghĩa thất bại của Phan Xích Long với những màu sắc tôn giáo, thậm chí còn nặng về mê tín bùa phép “Nhưng danh thơm còn mãi trong trí óc những người yêu nước”. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với nhận định này của học giả Vương Hồng Sển. Hiện nay, tại TP. Hồ Chí Minh có con đường được vinh dự mang tên Phan Xích Long. (1) Đồng Tập Trận: Vốn là nơi luyện tập và diễu binh của quân đội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX - nay thuộc khu vực hai bên đường 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ (Q.3 và Q.10). Trong Gia Định phú (khuyết danh) có miêu tả: Đồng Tập Trận rộng cả ngàn, coi xấp xỉ bằng Thái nguyên dã, Mô Súng đắp cao trật gót, nhắm xăm xi dường vọng vân đài. 46 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM DUY TÂN, TRẦN CAO VÂN Xoay trời chuyển đất thử ra tay Chiều. Nắng nhạt. Những sợi nắng như tơ mềm còn vương víu trên ngọn cau. Hương cau thơm dịu dàng trong gió. Trong nhà của cụ Cử, lũ học trò tóc còn để chỏm đang học bài râm ran. Bỗng từ ngoài sân có tiếng chó sủa vang. Cụ Cử dừng đọc sách, ngước mắt nhìn ra thấy có người đàn bà hàng xóm đang bước vào nhà. “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” nên có mớ hành hương loại tốt, bà sang biếu thầy để làm giống. Không dám nhìn thẳng vào mặt thầy, bà khiêm tốn thưa: - Bẩm cụ, có người nói hành này còn non mà tàn sớm, e giống khổng mạnh. Mong cụ xá lỗi mà nhận giúp. Nghe người quê mùa, thất học nói thế. Cụ Cử bật cười. Bởi lẽ, khi bà ấy nói “khổng” là do cách phát âm tiếng “không” của người Quảng Nam, lại đi liền với chữ “mạnh” thành ra cứ như đang nói đến các cụ Khổng Tử, Mạnh Tử! Lúc người đàn bà ra về, cụ Cử thấy câu nói hay hay nên ra lấy làm vế đối và hứa sẽ thưởng cho cậu học trò nào đối lại được. Uống xong bát nước chè xanh Tiên Phước ngọt lịm, cụ hắng giọng đọc: Hành tàn giống khổng mạnh Cái khó của vế đối này là người nghe có thể hiểu theo hai nghĩa: “hành tàn sớm là do giống không tốt, không mạnh”; hoặc hiểu theo cách phát âm thì “hành tàn” cũng là “hành tàng”, ý muốn nói đời người lúc hành (động) hay tàng (thoái lui) đều phải theo phép đạo Khổng Mạnh. Sau khi thày dứt lời, các cậu học trò tụ ba tụ bảy bàn tán, vắt óc tìm từng chữ thích hợp... Cụ Cử ngẫm nghĩ, lần này không biết có phải đứa 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM học trò mồ côi mẹ đối lại trước nhất không? Đúng vậy, chỉ giây lát sau, cậu học trò mặt vuông, trán cao, đôi mắt sáng đã đứng dậy xin đối lại vế đối của thầy. Cậu đọc rành rõi: Cải hóa con càn khôn Vế đối lại rất thông minh, có thể hiểu theo hai nghĩa: “(rau) cải đến lúc nó “hóa”, tức nảy nở thì cây ngày càng lớn; bởi “càn khôn” còn được hiểu theo cách phát âm là “càng khôn”; hiểu theo cách thứ hai thì làm người cần phải biết thay đổi (cải hóa) để tiến hóa theo biến dịch của càn khôn, tức theo vạn vật trong vũ trụ. Nghe đối lại như thế, cụ Cử mừng lắm, biết cậu học trò này về sau sẽ là bậc phi thường trong xã hội. Dịp khác, để xem suy nghĩ của mình có đúng không, nhân một đêm trăng rằm, trong lúc các học trò đang quay quần trước sân nhà để vui cổ trung thu, cụ thách đối: Đèn treo rọi sáng bốn phương nhà; Lần này, không ngờ thầy vừa đọc xong, thì cậu học trò này đã lên tiếng: Trăng tỏ khắp soi muôn cụm núi. Tuy chưa phải là câu đối hay, và lạ nhưng khi cậu đối lại ngay tức là trong tâm hồn ấy đã nung nấu sẵn một ý chí lớn... Lại một lần khác, thầy lại ra đầu đề bài thơ “Vịnh Cối xây lúa” để xem thử các học trò mình có chí hướng như thế nào? Một lần nữa, cậu học trò thông minh ấy đã khiến thầy phải khâm phục. Bài thơ như sau: Khen ai xưa đã khéo trêu bày, Bạn cối này ra vốn để xay. Gốc “Tí” kiền khôn trồng giữa rốn, Cán “Dần” tinh đẩu vận trong tay. Nghiến răng tựa sấm ỳ ầm dậy, Mở miệng đường mưa lác đác bay. “Tứ trụ” dưới nhờ chân đế vững, Cùng trên phụ bật sẵn hai tay. 48 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Cụ Cử càng tin suy nghĩ của mình là đúng, vì bài thơ này vận dụng câu trong “Đạo thư” của Khổng Tử: “Thiên khai ư Tý, địa tịch ư Sửu, nhân sinh ư Dần”, nghĩa là gốc “Tý” chỉ ngôi trời, cán Dần chỉ người. Ý nói làm mọi việc, nếu ý trời và lòng người cùng hợp lại thì thành tựu. Còn “tứ trụ” có thể hiểu, triều đình vững là nhớ bày tôi ở dưới và bản thân mình nguyện sẵn sàng phò tá. Cậu học trò xuất sắc ấy tên là Trần Công Thọ, con trai của cụ ông Nguyễn Công Trực và cụ bà Đoàn thị, sinh năm 1866 người làng Tư Phú, tổng Hòa Đa, phủ Điện Bàn (Quảng Nam), lúc lớn lên khi đi thi lấy tên Trần Cao Đệ, lúc vào chùa lấy pháp danh là Như Ý, khi ra hoạt động cách mạng đổi tên Trần Cao Vân, biệt hiệu Hồng Việt và Chánh Minh, biệt danh Bạch Sĩ. Năm 1882, lúc vừa 17 tuổi, với biết bao hăm hở trong đời, Trần Cao Vân nao nức chờ ngày lai kinh ứng thí, ước mơ đậu cao để sau này đem tài năng ra giúp nước như biết bao kẻ sĩ thời ấy. Nhưng chẳng may, sắp đến ngày vượt đèo Hải Vân ra Huế thi thì Trần Cao Vân bị bệnh nặng, không thể lai kinh ứng thí. Trong thời gian này có một sự kiện đã làm thay đổi suy nghĩ của ông, đó là lúc các nhân sĩ Quảng Nam tổ chức trọng thể đưa thì hài Tổng đốc Hoàng Diệu từ Hà Nội về an táng tại làng Xuân Đài. Cái chết oanh liệt của ngài đã khiến bao người rơi lệ, những muốn cầm gươm mà xông ra chiến tuyến đối mặt với quân thù để rửa nhục cho Nước! Sau khi thành Hà Nội thất thủ thì tên tướng giặc Henri Rivière tiếp tục xua quân đánh chiếm thành Nam Định... Giữa lúc việc nước đang rối như canh hẹ thì vua Tự Đức băng hà, rồi việc đưa người lên kế vị cũng thay đổi chóng vánh như lật bàn tay! Đã thế, ngày 25/8/1883, triều đình Huế và thực dân Pháp lại ký Hiệp định Hòa bình gồm 27 điều khoản, trong đó Triều đình Huế thừa nhận và chấp nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp; thừa nhận và chấp nhận nền bảo hộ của Pháp tại Trung kỳ và Bắc kỳ! Rồi năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua tôi Hàm Nghi rút chạy và phát động phong trào Cần vương chống Pháp. Đứng trước những biến động lớn của thời cuộc, ai còn lòng dạ nào mà cắm mặt xuống những trang sách của thánh hiền? Nhưng phải làm gì để cứu nước? Noi gương Tổng đốc Hoàng Diệu, Trần Cao Vân quyết chí thực hiện chí lớn. Trên bước đường đi tìm người cùng hội cùng thuyền, 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Chùa Cổ Lâm (2004) nơi Trần Cao Vân hoạt động cách mạng những năm 1890 ông đã dừng chân tại chùa Cổ Lâm - một trong những ngôi chùa cổ xây dựng vào năm 1687, tại xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc (Quảng Nam). Tại đây ông đã gặp một người tâm huyết cùng chí hướng với mình là Thừa Tô - con trai của cai tổng Trưng. Một người giỏi văn, một người giỏi võ đã cùng nhau bàn bạc kế hoạch chiêu tập chiến hữu để mưu việc lớn. Để che mắt kẻ thù, ông xuống tóc đi tu, ngày thường xem quẻ bói tình duyên, gia sự hoặc hướng dẫn cho bá tánh hướng xây nhà, đặt mồ mả v.v... Thế là, ngôi chùa vốn tĩnh mịch xưa nay bỗng trở nên tấp nập khách thập phương. Nhờ thế ông và các đồng chí có dịp tiếp xúc với mọi người, qua đó gieo mầm yêu nước, giác ngộ tinh thần cách mạng cho họ. Không giống như những sĩ phu thời ấy, sẵn sàng xông vào hòn tên mũi đạn, xả thân vì nghĩa lớn theo tiếng gọi Cần vương, còn Trần Cao Vân lại chủ trương khác. Với một bản lĩnh phi thường, ông đã lao tâm khổ tứ tìm kiếm một học thuyết để cứu nước. Ông chủ trương dùng trí tuệ nhằm giải thoát dân tộc và bắt đầu nghiên cứu Kinh dịch và đề ra học thuyết “Trung thiên dịch”. Trong tác phẩm này, Trần Cao Vân xây dựng trên căn bản chữ “Trung” nhằm đề cao vai trò con người giữa Trời - Đất. Học thuyết này gây tiếng vang lớn trong dư luận thời ấy và đến tận ngày 50 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM nay, dù nó đã thất truyền, nhưng vẫn thu hút sự quan tâm của nhiều người muốn tìm hiểu. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nghiên cứu về Kinh dịch cho biết: “Ngoài những ý tưởng thấp thoáng qua một số bài thơ lưu truyền tản mạn, Trần Cao Vân có để lại một bài thơ nguyên vẹn, hàm súc một cách kỳ lạ, về mối tương quan giữa Con Người và Trời - Đất trong dòng sinh hóa của vũ trụ, Nguyên văn bài thơ như sau: VỊNH TAM TÀI Trời Đất sinh Ta có ý không? Chưa sinh Trời Đất có Ta trong. Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh, Trời Đất in ta một chữ đồng. Đất nứt Ta ra Trời chuyển động, Ta thay Trời mở Đất mênh mông. Trời che Đất chở Ta thong thả, Trời - Đất - Ta đây đủ hóa công. “Chính sức dồn nén và bùng nổ của ý tưởng quanh ba phạm trù căn bản Trời - Đất - Người trong bài thơ này đã khiến tôi nghĩ rằng, Vịnh Tam tài nếu chưa phải là bản tuyên ngôn toát yếu thì cũng là chương mở đầu trong Trung thiên dịch. “Dịch có nghĩa là biến động. Sáu mươi bốn quẻ dịch chỉ ra sáu mươi bốn thời biến động trong việc đời, Nguyễn Hiến Lê giới thiệu Kinh dịch (chủ yếu là diễn giảng Phan Bội Châu) đã nói hai điều cốt yếu về bộ kinh này. Một là, cả bộ Dịch chỉ tóm lại trong một chữ Thời. Thứ hai, mỗi quẻ của Kinh dịch đều khuyên bảo về đức này hoặc đức khác, nhưng tổng hợp lại chỉ gồm hai chữ Trung Chính. Vậy Kinh dịch dạy cho người ta phải giữ được “Trung Chính”: biết nắm vững cái bất biến để đáp ứng với vạn biến trong cõi đời. “Trong bài Vịnh Tam tài, Trần Cao Vân không nhấn mạnh về chữ “Thời”, mà dồn tất cả sự chú trọng vào nhân tố “Con Người”: Con người như một chủ thể tham dự vào sự tiến hóa bằng hành động, và hành động theo kiểu “tự cường bất tức”, bởi vì Thiên - Địa - Nhân hợp thành một chủ thể hành động gọi là “Hóa công”. Tổng hợp cả Tiên Thiên và Hậu Thiên để tạo lập cơ sở triết học hành động thúc đẩy Con Người dấn 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM thân vào giữa vùng xoáy của biến dịch (ở đây chính là lịch sử); đấy có lẽ là ý tưởng mới mẻ của Trung thiên dịch mà Trần Cao Vân tìm kiếm một cách cấp thiết, nhằm giải quyết những bức xúc của trách nhiệm kẻ sĩ trước đất nước và dân tộc... “... Xét vị trí Con Người đứng giữa Trời và Đất, tôi nghĩ rằng Trung thiên dịch chính là Nhân dịch. Dù chưa hoàn tất bản thảo, qua bài thơ Vịnh Tam tài, chúng ta vẫn nhận rõ ở Trần Cao Vân diện mạo của một nhà tư tưởng lớn, với một Kinh dịch Việt Nam mang tư tưởng nhân bản chưa từng có. Đó cũng chính là niềm ngưỡng vọng đầy đau đớn của chính cụ Huỳnh Thúc Kháng khi khóc vĩnh biệt tác giả Thiên trung dịch: Văn trước, Hy sau vẫn kinh này Riêng giữa “Trung thiên” đứng một tay Học thuyết đem nhuộm bầu tâm huyết Trời Nam dịch mới tiếc không thầy”(1) Thế nhưng, những việc làm của Trần Cao Vân và các đồng chí của ông không thể che mắt được kẻ thù mãi. Thực dân Pháp đánh hơi được và khủng bố. Tháng 7/1891, chùa Cổ Lâm bị địch ra lệnh khám xét, thanh lọc các sư ở trong chùa. Trước tình thế nguy hiểm này, để đánh lạc hướng kẻ thù, Trần Cao Vân phải từ biệt chùa Cổ Lâm trở về làng Đại Giang. Lúc bịn rịn chia tay, vì quá yêu mến nhân cách và học thức của Trần Cao Vân nên ông Thừa Tô quyết định gả em gái mình cho bạn. Đó là cô Võ Thị Quyên - mà mọi người quen gọi là cô Ba Bàn, sinh năm 1868, vốn là con một gia đình hào phú nên cha mẹ rất cưng chiều. Dù ngoài 23 tuổi, nhưng “tường đông ong bướm đi về mặc ai”, gia đình còn đợi nơi môn đăng hộ đối. Do đó, khi ông Thừa Tô đặt vấn đề sẽ gả cho Trần Cao Vân - một thư sinh không đỗ đạt gì - thì bà mẹ cương quyết cự tuyệt. Ông Thừa Tô phải hết lời năn nỉ, thuyết phục mẹ, cuối cùng mới được chấp thuận. Kết thúc năm tháng ở chùa Cổ Lâm, ông có lưu lại bài thơ: Chí quyết tan bồng vỡ bốn phương, Chõng nằm chi để ghé râu vương. Ba thù quyết trả đền ơn trọng, Một giận mong ra gỡ tiếng ương. (1) Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường - NXB Trẻ 2002 - tập 3, tr. 130. 52 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Nợ nước đã toan tròn nghĩa vụ, Tình nhà đành gác nỗi tư lương. Nam mô nguyện trả xong rồi nợ, Mối thánh đem về cõi Hạ, Thương. Cưới vợ xong, Trần Cao Vân đưa vợ về làng Đại Giang, sống bằng nghề dạy học. Tuy nhiên, do trong lòng vẫn canh cánh nên ông luôn nghĩ đến việc tìm đến một vùng rừng núi, địa thế hiểm trở, lúa gạo nhiều, hội đủ những điều kiện phát triển và tập hợp lực lượng kháng chiến. Sau nhiều ngày thăm dò ý kiến của các đồng chí, năm 1892, vợ chồng ông tìm đường vào Bình Định. Ngoài nghề dạy học, ông còn đóng vai người thầy địa lý, đi xem đất cho thiên hạ để dò xét, tìm kiếm người đồng chí hướng. Bấy giờ, tại huyện Phù Cát và các xã nam huyện Phù Mỹ (Bình Định) đang có bệnh ôn dịch. Các nhà sư trong chùa Đá Bạc ở thôn Chánh danh đã dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho dân. Tiếng lành đồn xa. Người đến xin thuốc đông như trẩy hội. Trần Cao Vân cũng tìm đến, nhưng chưa lần nào ông được gặp vị sư trù trì. Ngày nọ, nhân thấy trước trước bàn thờ Phật có cây bút lông, ông liền viết lên trên mõ năm chữ: “Tất giả chánh danh hồ?”. Câu này rút từ sách Luận ngữ của Khổng Tử, có nghĩa: (việc các ông làm) tất chính danh ư? Trong số các đệ tử tại chùa quan tâm nhất đến câu này là ông Võ Trứ, một nho sinh yêu nước, từng tham gia phong trào khởi nghĩa của anh hùng Mai Xuân Thưởng, sau khi phong trào bị đàn áp, ông vào chùa xin làm đệ tử của Hòa thượng chùa Đá Bạc. Khi được đọc câu này, ông nghĩ ngay đến Trần Cao Vân, là người bấy lâu nhân dân trong vùng đã đồn đãi về tài bói quẻ lục nhâm thái ất, xem tử vi.... Vì thế, ông sai môn đệ đi tìm cho bằng được người mà từ lâu mình đã từng ngưỡng mộ. Lúc Võ Trứ diện kiến Trần Cao Vân, cả hai gặp nhau như rồng lên mây, cá xuống nước, tâm đắc như tri kỷ vong niên, thường trò chuyện không dứt. Dần dần cả hai ông thống nhất về việc xây dựng lực lượng chống Pháp. Ý định này được các vị chân tu trong chùa ủng hộ. Tuy nhiên, về chủ trương hành động sau nhiều lần thảo luận vẫn chưa đi đến thống nhất. Ông Võ Trứ chủ trương dùng yếu tố bất ngờ tấn công địch để giành thắng lợi; còn Trần Cao Vân cho rằng thời cơ chưa đến, 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM không chỉ tập hợp tầng lớp tu sĩ mà còn phải tập hợp được đông đảo quần chúng, phải đúc khí giới, phải tìm địa hình hiểm trở xây dựng căn cứ địa nếu bị giặc đàn áp thì có chỗ thoái lui v.v... Nhưng trước mắt, theo kế hoạch đã phân công, Võ Trứ được tổ chức phái vào tỉnh Phú Yên vận động quần chúng. Phương thức tuyên truyền của ông là phát thuốc, bùa trị bệnh, xem quẻ tốt xấu... cho dân để qua đó giác ngộ tinh thần ái quốc. Với cách làm này, ông phát triển tổ chức nhanh chóng, nhưng lực lượng nghĩa quân lại được kết nạp dễ dãi, do đó, đã lộ vài sơ hở khiến mật thám Pháp ít nhiều đã đánh hơi được việc làm táo bạo này. Sau khi công việc tiến hành đã tạm ổn, ông cho mời Trần Cao Vân vào Phú Yên để trù hoạch cuộc bạo động. Nhân ngày rằm tháng bảy năm 1897, tại ngôi chùa Đá Trắng thuộc phủ Tuy An, cách sông Cầu độ hai mươi cây số, lợi dụng khách thập phương ùn ùn kéo đến chùa chiêm bái nên các lãnh tụ trong cuộc bạo động đã nhanh chóng tổ chức một cuộc họp bí mật. Sau cuộc họp này, các nghĩa quân được lệnh rèn gươm, đúc súng sẵn sàng chiến đấu... Trong đang lúc ẩn náu chờ thời cơ thuận lợi, thì tại Phú Yên lại hạn hán, mất mùa, nhân dân đói kém, thiếu tiền đóng sưu thuế nên họ bị bắt bớ đán áp dữ dội. Võ Trứ suy nghĩ: Lúc này lòng dân đang căm giận bọn phong kiến đế quốc, nếu không tiến hành cuộc bạo động thì còn chờ lúc nào nữa? Hơn nữa, nếu không ra tay sớm thì không khéo những người bị bắt không chịu nổi đòn tra tấn sẽ làm lộ ra âm mưu đang tiến hành. Thế nhưng, đường sá xa xôi làm sao thông báo kịp thời để lực lượng các nơi cùng nổi dậy? Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan đó, cuối tháng 8/1898, Võ Trứ đột ngột đơn phương quyết định khởi binh. Một đêm trăng sáng, dưới bóng cờ “Minh Trai chủ tể”, Võ Trứ ngồi trên ngựa đốc suất dân quân, dàn binh bố trận cả ba hướng đồng loạt tấn công vào tỉnh lỵ Phú Yên. Quyết định hấp tấp này, khiến dân quân các tỉnh lân cận bối rối, không kịp chuẩn bị nên không thể phối hợp như kế hoạch đã định trước, vì thế, cuộc nổi dậy tại Phú Yên trở nên đơn độc. Nghĩa quân của Võ Trứ khi ra trận ngoài vũ khí là rựa giáo mác, cung nỏ thì họ còn đeo một lá bùa hộ mệnh, vì tin rằng đạn không bắn xuyên qua người được! Việc 54 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM dùng bùa phép khi xông trận, ta thấy sau này, năm 1913, khi lãnh tụ Phan Xích Long tổ chức cuộc khởi nghĩa tại Sài Gòn cũng thực hiện tương tự. Điều này cho thấy, khi đối đầu với vũ khí hiện đại của phương Tây, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX ngoài bầu nhiệt huyết còn tin vào sự phù hộ của thần thánh! Nhưng súng đạn bất chấp bùa phép. Nghe tin có cuộc bạo loạn, công sứ Phú Yên cho quân dàn hàng ngang nã đạn như vãi thóc! Lớp đi trước trúng đạn, lớp đi sau xông lên cũng ngã xuống, chết như rạ! Nghĩa quân đâm ra hoang mang vì bùa phép không linh nghiệm, họ hoảng sợ quay lui khiến đội hình trở nên rối loạn! Chỉ trong một thời gian ngắn, dân quân quả cảm nhưng ô hợp, đã bị toán lính tập tinh nhuệ đánh tan rã, và tàn sát thảm khốc. Các nhân vật lãnh đạo, trong đó có Võ Trứ và hòa thượng Từ Quang lần lượt bị bắt giữ. Để tránh tổ chức bị phá vỡ toàn diện, các cơ sở dân quân tỉnh lân cận quyết định tự giải tán. Các nhân vật lãnh đạo phân tán khắp nơi che dấu tung tích. Trần Cao Vân được đệ tử đưa lên miền thượng du trốn trong động Bà Thiêng. Khi bị bắt, dù bị tra tấn thừa sống thiếu chết, nhưng người anh hùng Võ Trứ trước sau chỉ khai một lời: -Trứ là người giữ ấn Ngũ Công Quan Âm nên chỉ một mình Trứ là người chỉ huy. Tất cả các đồ đảng đi theo Trứ là do Trứ xúi giục! Toàn bộ giấy tờ tịch thu tại nhà Võ Trứ, giặc Pháp thu được nhiều tài liệu, phần mở đầu ghi “Chánh Minh tâm giám” và cuối có ký tên “Chánh Minh”, nhưng chúng không thể biết đây là biệt hiệu của Trần Cao Vân, vì Võ Trứ không chịu hé răng khai lấy nửa lời. Bí mật đó, được Võ Trứ mang xuống tuyền đài, khi mà ông cùng các đồng chí hiên ngang bước ra pháp trường chịu án chém! Nhờ vậy, sau khi trốn ở động Bà Thiêng quay về, Trần Cao Vân bị bắt nhưng giặc không thể tìm ra được chứng cứ gì cụ thể để kết tội ông! Sau mười một tháng tù, Trần Cao Vân tiếp tục sống bằng nghề dạy học và lại tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện học thuyết “Thiên trung dịch”. Nhân dân hai tỉnh Bình Định, Phú Yên đi theo thuyết này rất đông. Trong nhà của các môn đệ đều có treo một tờ giấy viết sáu chữ, ở giữa “Trung thiên”, trái “Tiên thiên” và phải “Hậu thiên” và họ thường kéo 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đến nhà Trần Cao Vân để nghe ông giảng giải về thuyết này. Nhà cầm quyền âu lo khi nhận ra điều bất thường này, ghép ông vào tội viết những điều xằng bậy để xúi dân làm loạn! Chúng ra lệnh tịch thu các tài liệu liên quan đến “Thiên trung dịch” và bắt giam vợ chồng Trần Cao Vân cùng các đồ đệ thân tín. Dù bị tra khảo thảm khốc tại sao lại viết “loạn thư yêu ngôn” Thiên trung dịch, nhưng trước sau như một, Trần Cao Vân chỉ nói: - Ngày nọ, tôi đến viếng Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, gặp một tiên ông đạo cốt đang thong thả dạo chơi, đi sau cụ là một thanh đồng. Trên tay của cụ, tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm ba quyển cổ thư. Tôi tò mò bén gót theo cụ, giây lát sau thấy cụ ngồi trên tảng đá, nét mặt nghiêm trang, tôi liền đến xin thọ giáo. Cụ đã đưa cho tôi ba quyển “Thiên thư”... Không khai thác được gì thêm, quan Bố chính cáu tiết, viết án tuyên tử hình gửi ra Huế xin triều đình phê chuẩn! Nhưng các đại quan nhận thấy phạm nhân chưa phải chịu đến mức án ấy, chỉ kết án ba năm tù giam khổ sai; riêng cha mẹ ở quê nhà cũng bị phạt 40 quan tiền vì không giáo dục con (!). Ông nhận bản án với nụ cười khinh bỉ và ứng khẩu đọc hai câu thơ: Một lỗ cùm xây vòng tạo hóa; Hai vai gông nặng gánh kiền khôn. Ngồi tù một năm tại Bình Định, ông bị đưa về nhà tù Quảng Nam giam thêm hai năm nữa. Gông xiềng và bạo lực không khuất phục được ý chí của bậc ái quốc. Mãn hạn tù, Trần Cao Vân trở về nhà và tiếp tục liên hệ với những người cùng chí hướng. Lúc này, công việc tổ chức lực lượng chỉ mới bước đầu, chưa vào đâu thì ngày 11/3/1908, tại huyện Đại Lộc (Quảng Nam) đã nổ ra cuộc biểu tình vĩ đại chống sưu cao thuế nặng. Ảnh hưởng của cuộc biểu tình này thật to lớn, nó đã lan vào Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và dội ra cả Hà Tỉnh, Nghệ An... Kế tiếp ngày 27/6/1908, đảng Nghĩa Hưng của lãnh tụ Đề Thám đã phối hợp với anh em bồi bếp, binh lính người Việt thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội làm nên sự kiện”Hà Thành đầu độc” rúng động trong giới cầm quyền! Hoảng sợ trước tinh thần nổi dậy của nhân dân, thực dân Pháp 56 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM đã đàn áp tàn khốc. Dù không có chứng cớ rõ rệt, nhưng thực dân Pháp vẫn biết đứng sau các vụ bạo loạn này là ai. Do đó, chúng đã bắt hàng loạt các nhà duy tân, các bậc trí thức tống giam ngoài Côn Đảo. Trần Cao Vân bị bắt lại trong trường hợp này, vì chúng nghi ngờ ông là một trong những người có nhúng tay xúi giục. Ngày tháng ở tù, có làm bài thơ nói lên khí phách phận làm trai (Lâm Quang Thự dịch): Hỏi sao ta lại đến Côn Lôn? Cửa ngục mờ trông sóng biếc dồn. Nước mất thù này trai chưa trả, Cha già còn đó hiếu không tròn. Biển đưa tin cá trao tâm huyết, Trời nổi tăm nghê tỉnh mộng hồn. Nhớ lại Lạc Hồng công dựng nước, Thề thân còn có có giang sơn. Sau sáu năm tù ở “địa ngục trần gian”, Trần Cao Vân được trả tự do. Chao ôi! Thời gian vùn vụt trôi qua. Mới ngày nào đây, vừa mới ngoài 20 xuân đưa vợ vào Bình Định, đã trải qua bao sóng gió của cuộc đời, thoáng chốc nay đã gần tuổi “tri thiên mệnh” mà chữ hiếu vẫn chưa trả xong! Ra tù, Trần Cao Vân chỉ phụng dưỡng cha già vỏn vẹn dăm ngày thì phải tiễn cha về suối vàng! Giữa lúc tình nhà đang ngổn ngang, nhưng nợ nước khiến ông không thể ngồi yên. Bấy giờ, cuộc thế chiến tranh thứ nhất đã nổ ra. Các nhà cách mạng Việt Nam hồi hộp theo dõi tình hình chiến sự. Khi hay tin quân Đức vượt qua sông Aisne, sắp tấn công vào kinh thành Paris thì họ cho rằng nước Pháp đang suy yếu. Giữa lúc chúng đang lúng túng, lo đối phó ở chính quốc thì tại sao ta không nhân cơ hội này để đánh Pháp giành lại độc lập cho nước nhà? Các lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quang phục Hội tại Trung kỳ quyết định tiến hành một cuộc khởi nghĩa. Các ông Thái Phiên, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương... là những yếu nhân của Hội tại Quảng Nam đã nhanh chóng mời Trần Cao Vân tham gia làm quân sư. 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Vào đầu tháng 9/1915 trong căn nhà ở đường Đông Ba (Huế), nhà riêng của ông Đoàn Bồng, viên thư lại bộ Hộ, các lãnh tụ Việt Nam Quang phục Hội của các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi đã có một cuộc họp quan trọng. Qua đó, mọi người quyết định: các ông Trần Cao Vân và Thái Phiên chịu trách nhiệm rước Hoàng đế Duy Tân tham gia vào công cuộc khởi nghĩa, có làm được như vậy thì mới lôi kéo được quần chúng; các ông Lê Đình Dương, Nguyễn Thụy làm công tác địch vận, tranh thủ tạo ra mối quan hệ tình cảm, thân thiện với viên thiếu tá người Đức đang chỉ huy quân đội ở đồn Mang Cá; ông Lê Ngung lo việc thảo hịch và các chương trình hành động; ông nguyễn Chính làm ủy viên kiểm soát và các tỉnh phải cấp tốc làm công tác binh vận, tập hợp lực lượng sẵn sàng khởi nghĩa... Nhưng vua Duy Tân là một người như thế nào? Như ta đã biết, vua Thành Thái có nhiều vợ, sinh được cả thảy 19 hoàng tử và 26 hoàng nữ, trong đó có Nguyễn Phước Vĩnh San, sinh ngày 19/9/1900 - con thứ 5 của ông với bà Nguyễn Thị Định. Vì có tinh thần yêu nước nên ngày 3/9/1907, vua Thành Thái bị thực dân Pháp buộc phải đốn vị để nhường ngôi cho con. Lúc chọn người kế vị, mọi người không thấy Vĩnh San đâu cả, họ nhốn nháo đi tìm thì gặp “mệ” đang chui dưới nhà kho để bắt dế! Tên Charles dẫn Vĩnh San lên trình diện với Khâm sứ Trung kỳ Lévecque. Y tỏ vẻ hài lòng vì “ngày chọn người làm vua mà bỏ đi bắt dế thì quả là ngu dốt”! Thế là y đưa Vĩnh San lên ngôi, lúc đó mới tám tuổi, đặt niên hiệu là Duy Tân. Năm tháng trôi qua. Lớn lên vua Duy Tân tỏ ra là một thanh niên khôi ngô tuấn tú, hiên ngang, lỗi lạc và cũng có tinh thần bài Pháp như vua cha Thành Thái. Một lần, trong lúc chơi ngoài bãi biển Cửa Tùng (Quảng Trị), một cận thần lấy nước cho ngài rửa tay, ngài cắc cớ hỏi: - Tay nhớp lấy nước rửa, thế Nước nhớp lấy gì mà rửa? “Nhớp” tiếng miền Trung có nghĩa là “bẩn, dơ dáy”. Câu hỏi ấy không ai trả lời, nhưng ai nấy đều nghe ngài đang nói khẽ, “Nước nhớp có lấy máu mà rửa”! Lại một lần khác, ngài và một quan thượng thư cùng lên 58 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM thuyền ra câu cá cũng ở bờ biển Cửa Tùng. Sóng nước làm cho thuyền ngự chao đảo không yên. Nhân khi lưỡi câu bị mắc, phải lần mò mãi mới gỡ ra được, ngài liên hệ với tình cảnh hiện tại của mình, đau xót tự nói với mình: “Ta tuy ngồi trên ngai vàng trông coi việc nước, mà nào có ngăn được ngoại bang đô hộ nước nhà? Nhưng đã lỡ nhận trọng trách rồi, thì cũng phải lần gỡ, tìm cách cứu dân cứu nước!”. Rồi ngài cấu tứ những ý nghĩ trên thành một vế đối, vừa để giãi bày tâm sự, vừa để thử lòng quan thượng thư: Ngồi trên nước, không ngăn được nước. Buông câu ra, đã lỡ phải lần! Vua Duy Tân và quần thần triều Nguyễn (1909) Nhưng quan thượng thư vốn là kẻ an phận, hèn yếu, đã trả lời: Sống ở đời, mà ngán cho đời. Nhắm mắt lại, đến đâu hay đó. Vua Duy Tân thêm hiểu, với bọn quần thần này, nước nhà không thể trông cậy gì được! Trước tình thế này, các ông Trần Cao Vân và Thái Phiên đã “tiếp cận” với nhà vua ở đâu và như thế nào? Trước hết, cả hai ông đem một số tiền lớn biếu người tài xế của nhà vua, đặng thương lượng y nghỉ việc nhưng phải thu xếp, giới thiệu một người khác thay thế công việc của y. Người đó Phan Hữu Khánh (có tài liệu ghi là họ Phạm), tốt nghiệp trường thương mại kỹ nghệ ở Huế, vừa nhận công việc lái xe, vừa tiếp tục thăm dò thái độ chính trị của nhà vua. Khánh tỏ ra lanh lợi, lịch thiệp nên được vua Duy Tân yêu mến, tin cậy. Hai tháng sau, Khánh dâng lên ngài bức thư của Trần Cao Vân. Đọc những dòng thư thống thiết với nét chữ như rồng bay phượng múa, 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ngài đã không cầm được nước mắt. “Kìa nước Mỹ dòng giống rợ đen, sau 50 năm còn có thể tự cường, huống dân ta con cháu nhà vua hai mươi lăm triệu lẽ nào đành hèn yếu?”, “Đức vua cha (vua Thành Thái) có tội gì mà bị tù đày? Lăng tẩm vua Dục Tôn (vua Tự Đức) cớ gì bị đào lên?” và trong thư cũng ca ngợi: “Trời sinh vua thông minh, sẵn có chí chống Pháp phục quốc. Đất sinh người tuấn kiệt có tài đuổi giặc thương dân”... Đọc xong, ngài uất hận và tỏ ý muốn gặp mặt người đã viết thư. Theo sự bố trí trước, ngày 14/4/1916, sau khi ngự xem lính tập ở bãi Trường thi, ngài sẽ đi dọc theo con sông đào. Đến một nơi dưới gốc cây bên bờ sông thì ngài Vua Duy Tân (1900-1945) sẽ gặp hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên giả làm người câu cá đang ngồi đợi sẵn tại đó. Địa điểm của cuộc gặp gỡ lịch sử này cụ thể là ở đâu? Cho đến nay qua nhiều cuộc hội thảo khoa học, các nhà sử học vẫn còn tiếp tục tranh luận, chưa thống nhất. Ít nhất có đến 5 địa điểm đã được nhắc đến: Ngự Hà, Hồ Tịnh Tâm, Bến Phu Văn Lâu, Trong Nội, Hậu Hồ. Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn nhớ đến mấy câu thơ của nhà thơ Ưng Bình Thúc Dạ Thị: Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non Trong cuộc gặp gỡ này, không những nhà vua đồng ý tham gia vào công cuộc khởi nghĩa, mà còn cho phép đúc tạm 4 ấn kinh lược để 60 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM các khu Bình Trị (Quảng Bình, Quảng Trị), Nam Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi), Bình Phú (Bình Định, Phú Yên), Khánh Thuận (Khánh Hòa, Bình Thuận) sử dụng đóng trong các giấy tờ, chỉ thị. Điều này cho thấy Duy Tân là một ông vua thật sự yêu nước, sau này, cho dù công cuộc bại lộ, bị giặc Pháp truất ngôi, đày sang đảo Réunion ở phía đông Phi châu, nhưng nói như nhà thơ Nguyễn Duy thì “Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ!”. Về ngày khởi sự, mọi người thống nhất chọn giờ ngọ, ngày ngọ, tháng ngọ, tức ngày mồng 2/5 năm Bính Thìn, là ngày 2/6/1916. Để giữ tuyết đối bí mật, Trần Cao Vân đã làm bài thơ “Hỏa xa Huế - Hàn”, có thể xem văn bản này là một “hiệu lệnh” của cuộc khởi nghĩa: Một mối xa thư đã biết chưa? Bắc Nam hai ngả gặp nhau vừa. Đường “rây” đã sẵn thang mấy bước, Ống khói càng cao ngọn gió đưa. Sấm dậy tứ bề trăm máy chuyển, Phút thâu muôn dặm nửa giờ trưa. Trời sai ra dọn xong từ đấy, Một mối xa thư đã biết chưa? Trước lúc chia tay, hai ông còn thống nhất ngày hộ giá nhà vua đi Quảng Ngãi, ẩn náu tại đó, chờ ngày khởi nghĩa thành công sẽ rước về. Tất nhiên sau đó, họ còn gặp gỡ nhiều lần khác. Người đóng vai trò liên lạc giữa nhà vua và ông Trần Cao Vân, Thái Phiên là bà Trương Thị Dương, người Quảng Trị, một nữ đồng chí dũng cảm của Hội. Có một chi tiết khá thú vị mà ta cũng nên biết qua, để thấy cách liên lạc thời ấy rất kín đáo, khôn khéo và... đầy chất thơ! Bà Dương có kể lại một lần bà được nhà vua phái vào Quảng Nam tìm quân sư Trần Cao Vân: “Ngày 15 tháng giêng năm Thìn, tôi được ngài phái đi tìm quân sư. Tôi ra đi cùng các ông Đặng Hoài, Đỗ Chiêu, Lê Đại Bút, Võ Ngô, Đặng Tạo, Đặng Khánh Giai, bà Đỗ Quỳnh. Sáng sớm mờ mờ ghe ghé vào bến Vĩnh Điện (Điện Bàn), ngó lên đường cái đã thấy sẵn 5 chiếc xe kéo và một người thanh niên đến gần mời chúng tôi về nhà quân sư. 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Vào nhà đợi mãi đến chiều không gặp quân sư, mọi người có vẻ sốt ruột, bàn nhau ra về. Vừa lúc ấy, người con gái quân sư, bồng cháu rảo qua rảo lại trước mặt nhà, hát ru em: Chỉ e đường sá một mình Ở đây mà đợi sư huynh ít giờ Nó ru đi ru lại như thế có mấy lần, khiến tôi sinh nghi, không rõ sao con này hát ru em mãi một câu như thế. Tôi chạy ra hỏi thì nó đã tếch qua nhà bên cạnh! Tôi bảo anh em gắng ở lại đợi. Quả nhiên, độ 10 giờ đêm quân sư về, tỏ bày công việc tiêm tất, đến sáng ngày sau chúng tôi trở ra Huế” (Ngũ Hành Sơn chí sĩ - Ngô Thành Nhân biên soạn, NXB Anh Minh (Huế) - 1961, tr. 71). Sau khi được diện kiến nhà vua, lập tức, Việt Nam Quang phục Hội lại mở cuộc họp lần thứ hai để nghe các yếu nhân báo cáo tình hình, kiểm điểm lại lực lượng, duyệt chương trình hành động và định kế hoạch khởi nghĩa. Nhìn chung công việc sắp xếp là ổn thỏa, chỉ chờ ngày hành động. Nhưng sau đó, do sợ cơ mưu bị bại lộ, nhà vua quyết định ấn định lại ngày khởi nghĩa là ngày 3/5/1916, tức sớm hơn một tháng. Than ôi! Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên chăng? Bất ngờ âm mưu này lại bại lộ một cách hết sức đơn giản. Bấy giờ, Võ Cử (có tài liệu ghi là Võ An) - một viên cai khố xanh có chân Việt Nam Quang Phục Hội đang đóng ở đồn Quảng Ngãi bị đổi đi Đức Phổ. Trước ngày lên đường, vì tình riêng, Cử mới dặn người em ruột là Võ Huệ (có tài liệu ghi người em họ tên Trung) đang phục vụ tại dinh án sát đôi điều. Điều quan trọng nhất là Cử dặn, trong một hai ngày nữa nên tìm cớ về nhà, chứ nhất định không nên ở trong dinh. Huệ thấy làm lạ, không hiểu tại sao phải như vậy, gặng hỏi mãi thì Cử dại dột tiết lộ mọi bí mật! Vào lúc 2 giờ chiều ngày 1/5/1916, Huệ xin phép quan án sát về thăm nhà. Lâu nay, nghe phong phanh đâu đó có chuẩn bị cuộc bạo loạn, nay tình cờ thấy Huệ lại xin về một cách bất thường thì quan đâm ra sinh nghi! Đã thế sắc mặt và điệu bộ của Huệ cũng lúng ta lúng túng như gà 62 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM mắc tóc! Quan án sát liền vặn vẹo tra hỏi, lúc dỗ dành, mua chuộc, lúc hăm dọa đe nẹt... Có tật thì giật mình, Huệ hoảng sợ kể lại mọi chuyện. Ngay lập tức, thông tin này được bẩm báo đến công sứ Tastes và quan tuần vũ Trần Tiễn Hối. Cùng lúc, Cử cũng bị bắt tra hỏi. Không chịu nổi đòn tra tấn, Cử khai ra Cần - tùy phái tòa sứ nhận nhiệm vụ đầu độc viên công sứ và khai luôn ra Thiềm - cai lính khố xanh sẽ chỉ huy cuộc binh biến. Sự việc như vậy đã rõ như ban ngày. Toàn bộ thông tin này được bí mật điện cho Charles - khâm sứ Trung kỳ để phối hợp dập tắt cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước. Nhận được điện tín vào ngày 2/5/1916, Charles không báo cho Nam triều hay biết mà đề phòng hết sức gắt gao. Y mật báo chỉ thị công sứ các tỉnh nỗ lực canh phòng: phải tước hết khí giới của binh lính người Việt, cất vào kho đạn dược, đóng chặt các cửa thành, không một ai được béng mảng ra ngoài; ra lệnh thiết quân luật, ban đêm chỉ có binh lính Pháp tuần tiễu khắp nơi, kiểm soát các ngả đường... Trong khi đó các lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa vẫn không hay biết công cuộc đã bại lộ. “Theo tài liệu của thực dân Pháp để lại, thì trong những ngày đó tình hình như sau: tại nhiều địa điểm trong tỉnh Quảng Ngãi xuất hiện nhiều tốp nghĩa binh, khá đông, vũ khí bằng dao và mác, với tư thế sẵn sàng chiến đấu; tại Quảng Nam, có khoảng 250 đến 300 nghĩa binh, chia thành hai nhóm, đã công khai tấn công một đội lính tại địa hạt Tam Kỳ rồi rút lui an toàn; xung quanh bến cảng Đà Nẵng và Hội An cũng xuất hiện nhiều nghĩa binh, với tư thế sẵn sàng chiến đấu; riêng tại Huế có khoảng 50 thủ lĩnh nghĩa quân từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến để vận động, tổ chức nghĩa quân chuẩn bị tấn công tiểu đoàn thứ 16 để cướp vũ khí; trong khi đó ở quanh thành Huế, xuất hiện nhiều tốp nghĩa quân - mỗi tốp chừng 50 đến 80 người - đóng rải rác khắp cánh đồng, sẵn sàng chờ lệnh tấn công thành Huế...” (1). (1) Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858 - 1918, Dương Kinh Quốc biên soạn, NXB Giáo dục tái bản năm 1999, tr.365). 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Dù khắp nơi đã sẵn sàng, chờ lệnh đồng loạt khởi nghĩa, nhưng tiếng súng báo hiệu tại kinh thành thành Huế đã không nổ ra đúng theo kế hoạch. Vào đêm mồng 3 rạng ngày 4/5/1916, vua Duy Tân cải trang thành thường dân, đầu chít khăn đen, đi chân đất, mặc áo cụt đỏ sẫm và quần vải trắng được hai ông Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bí mật đưa ra khỏi Hoàng thành để đến bến Thương Bạc. Nơi đó có thuyền của Trần Cao Vân, Thái Phiên đã chờ sẵn. Ngay lúc ngài vừa bước xuống thuyền, thì cũng tên mật thám Trần Quang Trứ - thông phán tòa Khâm - phán hiện được, con chó săn này đã nhanh chân chạy báo cho khâm sứ Charles. Dù đã biết trước, nhưng y không ngờ nhà vua lại dám làm một việc “tày trời” như thế! Lập tức y hạ lệnh giăng lưới khắp nơi bủa vây! Trong tình thế ngặt nghèo, nhà vua bỏ lại gói ấn tín trên cầu Tràng Tiền rồi theo hai lãnh tụ của Việt Nam Quang phục Hội đi trốn. Tòa khâm phái Phan Đình Khôi đem quân đi truy nã, chúng bắt được nhà vua và Thái Phiên tại chùa Thiên Mụ (có tài liệu ghi là tại đàn Nam Giao), bắt được Trần Cao Vân tại làng Hà Nhân, huyện Phú Lộc (Huế) và nhiều người khác đem về giam tại đồn Mang cá. Đối đầu với tình thế ghê gớm này, thực dân Pháp đã đàn áp khốc liệt lực lượng kháng chiến. Hàng trăm người bị bắt bớ, tra tấn, bị đày đi Lao Bảo, Côn Lôn và hầu hết các yếu nhân của Hội đều bị xử tử. Tại Quảng Ngãi, chúng dựng pháp trường tại bãi cát trên sông Trà Khúc để hành quyết các ông Lê Ngung, Lê Triết, Nguyễn Thụy (tức Cử Sụy), Trần Thêm... Dù ông Lê Ngung, Cử Sụy đã uống thuốc độc tự vận trong khám, nhưng chúng cũng dã man đem thi thể hai người anh hùng ra chém bêu đầu! Tại Quảng Nam, các ông Lê Đình Dương, Trương Bá Huy, Lương Thái Hòa, Phan Thành Tài... cũng sa vào tay giặc. Ông Lê Đình Dương bị đày lên nhà lao Buôn Mê Thuột, tại đây ông đã tự kết liễu cuộc đời bằng độc dược Cyanure de Mercure; ông Phan Thành Tài bị án chém tại chợ Vĩnh Điện (Quảng Nam) v.v... Ngồi trong tù, hai ông Trần Cao Vân, Thái Phiên và các đồng chí trong Việt Nam Quang phục Hội đã nhận hết tội về mình để 64 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM bảo vệ cho nhà vua. Trần Cao Vân có viết câu đối thống thiết trên giấy vấn cuộn thuốc hút, rồi bí mật đưa đến tận tay Thượng thư Hồ Đắc Trung: Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai?Thà để cô thân vĩnh biệt; Trời còn đó, đất còn đó, xã tắc giang san còn đó, mong sao thánh thượng sinh toàn. Nhờ vậy, trong bản luận tội, Trung đã tỏ ra bênh vực cho nhà vua mà kết tội nặng nề các lãnh tụ cách mạng: “Ban đầu buông câu ở Hậu Hồ, mạo viết chiếu văn, rồi đậu thuyền ở Thương Bạc đến đón rước nhà vua..., làm mình rồng phải chịu dãi dầu gió bụi đều là tội nghiệt của bọn ấy cả...”. Nếu căn cứ vào đây thì ta được biết địa điểm vua Duy Tân gặp gỡ các nhà cách mạng là Hậu Hồ. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, điều này khó xẩy ra, vì Hậu Hồ là chỗ cung cấm, canh gác cẩn mật ngày đêm thì làm sao Trần Cao vân, Thái Phiên có thể lọt vào trong đó mà ung dung giả làm người câu cá để đợi hoàng đế? Có thể vì nhằm gỡ tội nhà vua, Trung phải luận tội như thế, vì nếu viết ở một vị trí khác ngoài hoàng thành thì hóa ra ngài đã đích thân ra ngoài gặp quân “phiến loạn” (?). Còn câu hò của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, nhiều nhà nghiên cứu lại dè dặt vì nó được công bố sau khi tác giả mất và chú thích có liên quan đến sự kiện trên là do người đời sau thêm vào (?). Dù sao, vua Duy Tân cũng không bị chịu án chém như các đồng chí của ngài. Trong lúc bị giam tại nhà lao Huế, trước ngày ra pháp trường đền nợ non sông, Trần Cao Vân có làm hai bài thơ tuyệt mệnh đủ sức lay động cả đất trời (Hành Sơn dịch): Giữa trời đứng sững không thiên, Nghìn năm nước Việt còn truyền sử xanh Chu vương nhân chính đại hành Quân dân hợp sức lũy thành đắp xây Người thù non nước còn đây Trời xanh với tấm lòng nầy tương tri Anh hùng thành bại xá gì Nghìn thu lịch sử còn ghi lại đời 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ngày 17/5/1916, các ông Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu đã hiên ngang bước lên đoạn đầu đài tại Cống Chém (làng An Hòa, thành phố Huế). Xác của những người anh hùng chôn cùng một hố. Từ giây phút thiêng liêng này, những người yêu nước đã trở nên bất tử trong sử sách nước nhà. Trần Cao Vân hưởng thọ 51 tuổi. Sau này, trong khoảng thập niên 1960 sống tại vùng địch tạm chiếm, nhà văn Nguyễn Văn Xuân vì niềm kính phục tiền nhân đã dựng thành truyện ngắn “Rồi máu lên hương”. Nay đọc lại, ta thấy phảng phất được không khí bi hùng lúc những người anh hùng dân tộc bước lên án chém: “Mới bốn giờ sáng mà bãi chém An Hòa đã rộn tiếng chân người. Họ từ bốn phương kéo về. Người ta đến vì công vụ, vì thân nhân; đa số vì hiếu kỳ. Công cuộc khởi nghĩa, có cả đức vua tham dự trong lịch sử đã xảy ra mấy lần? Mà những kẻ bị chặt đầu, tên tuổi sẽ gắn liền công cuộc giải phóng, đâu có phải người xa lạ. Họ đã từng len lỏi trong dân chúng, đã từng trú ngụ các đền chùa, lúc làm cho khách thương, khi làm thầy tướng số. Công việc hoạt động của họ, ngoài sự tổ chức rộng rãi, kín đáo lại có tính cách võ hiệp ly kỳ khả dĩ đủ sức khêu gợi tấm lòng tò mò và đau thương và kính trọng của những người dân mất nước. Người ta bắt đầu chen nhau để xem, quây thành một cái vòng rộng quanh hàng cọc tre tơi đầu. Binh lính từng đoàn, từng lũ kéo ra. Lính khố vàng với mũ vàng, khố vàng, xà cạp vàng. Lính khố xanh với cũng chừng ấy thứ màu xanh, lại đèo thêm khẩu súng trường thườn thượt. Lính khố đỏ mặc ka ki vàng, dây nịt và các khuy đồng đánh sáng choang đi cùng lính Tây, nện gót sắt hùng hổ nhịp nhàng tiến vào. Họ nhanh nhẹn bọc quanh pháp trường, lưỡi lê tuốt trần sáng loáng đủ sức bảo vệ một cái khán đài rực rỡ những cờ đuôi nheo, cờ ngũ hành và một pháp trường xử toàn trọng tội. Ngoài ra, lại còn một đám thị vệ dáng điệu khủng khỉnh luôn mồm sai bảo các thứ lính tuần sát, lính lệ chạy cời đầu. Mặt trời lên, thì bãi cỏ càng rộng và xanh thăm thẳm. Người xem tỏ mặt, ai ai cũng có thái độ thầm kín và khẽ đưa mắt nhìn theo mọi cử động của những người hành sự. 66 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Khi các cơ ngũ binh lính đã chỉnh tề, bọc trong bọc ngoài kín mít, người ta lần lượt dẫn tội nhân vào. - Thái Phiên! Có tiếng ai nói và trỏ vào tội nhân đi đầu. Tất cả chen nhìn cho được con người nẫm thấp trạc băm sáu, băm bảy tuổi đi một cách khó nhọc dưới một chiếc gông tạ do bốn người lính tuần sai dìu bốn góc. Thái Phiên vốn gầy, bây giờ chỉ còn lại da bọc xương nên trông bé hẳn đi khiến những ai không quen chính sự đều tưởng mình trông lầm. Vì lẽ nào chàng thư sinh bạch diện, tóc tơ rối rắm kia lại có gan sắt đá đủ làm kinh hồn, táng đởm cả một kinh thành? Tiếp theo là Trần Cao Vân, cũng không lấy gì làm cao lớn, mặt hơi rỗ hoa, râu dài với chiếc áo dài rộng tay kiểu đạo sĩ không bao giờ rời nó làm cho người xem càng muốn đoán sâu thêm tư tưởng con người theo “vạn pháp quy tôn” kia đang biến chuyển ra sao? Và ông có đủ phép thuật thần thông để thoát khỏi giờ phút hiểm nghèo không? Rồi mọi người dù hết sức nghiêm trang, cũng không khỏi mỉm cười nhìn kẻ tội đồ thứ ba: Tôn Thất Đề. Tuy bị giam cầm lâu ngày, ông thị vệ tiếng tăm này vẫn phì nộn, to béo tốt tươi, núc ních đi dưới chiếc gông tạ gỗ lim như đi dưới một thứ đồ chơi bé nhỏ... Người ta lần lượt tháo gông cho các tử tù. Một anh gầy gò lấy kéo xắp cao mớ tóc rối loạn trên cổ họ để lát nữa lưỡi gươm đi qua cho ngọt. Các tội nhân được đưa đi vĩnh biệt thân nhân. Hội đồng thị chém đã đến đông đủ. Các tinh kỳ, các tàn vàng tán tía đua nhau rung chuyển màu sắc. Tiếng ngựa hí xen lẫn tiếng hô bồng súng làm cho pháp trường thêm vẻ uy nghiêm khiến khán giả phải dè dặt tiếng ho. Các tử tù được lần lượt dẫn đến trước từng cây cọc dành cho số phận từng người. Một bọn lính tỉnh cầm sẵn dây liền trói ké họ vào đấy. Vị đại diện bộ Binh tiến lên một bước, đọc bản án rồi ra lệnh hành hình. Một đoàn lính nhung phục đỏ đứng khoa những mã tấu trước mặt đám người sắp thành liệt sĩ. Thầy đội chuyên việc xử trảm lù lù hiện 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ra với một chiếc dây lưng đỏ khé và một thanh quất sáng ngời lăm lẳm nơi tay. Cả rừng người cùng nhốn nháo nhìn và hồi hộp theo dõi từng bước đi của thầy. Chợt tiếng loa vang. Chiêng trống nổi lên. Tùng... bi li. Soạt... Chỉ một lát gươm đưa qua, đầu Thái Phiên rụng xuống. Trong cái cơ thể bé nhỏ đã kiệt lực, kiệt khí huyết ấy chỉ có một vòi máu yếu ớt văng ra. Thầy đội chém lùi lại một bước rất uy nghi để thở. Thốt nhiên, con người có vẻ can trường hùng hổ ấy bỗng giơ hai tay ra. Những kẻ đứng gần đều thấy mặt thầy trở nên xám xanh, xám ngắt. Thanh quất trong tay thầy rơi xuống. Rồi cả cái thân thể rắn chắc, vững vàng ấy cũng khuîu gối ngã nhào xuống giữa pháp trường, bỏ lại một đám đầu đang lạnh lùng ngước tới để được sớm rụng cho rồi. Giữa lúc mọi người đang ồn ào hỏi nhau vì cớ gì thầy đội mới chém một cái đầu nhỏ nhoi đó bỗng ngã ra như sau một ngày tử chiến, người ta lại ngạc nhiên thấy từ đám quần chúng nhấp nhô như sóng thoắt vụt ra một bóng người. Một người đàn bà. Một thiếu phụ mặc toàn tang chế. Nàng vẹt quân lính, líu ríu chạy trên đôi chân bé nhỏ, thẳng một mạch đến chỗ chiếc đầu lâu vừa rơi xuống trên đống cỏ. Nàng quỳ xuống, nâng nó lên trên đôi bàn tay trắng bệch. Nàng áp cái đầu đầy máu me vào ngực mình, như không một vật nào cao quý linh thiêng, yêu dấu bằng, như thể nó chính từ bộ phận máu xương từ cơ thể nàng bị đứt ra. Nàng rú lên, thét lên thê thảm đến nỗi cái bọn đầu trâu mặt ngựa đứng cạnh đó cũng phải tủi lòng. Nhưng pháp trường không bao giờ được náo loạn. Một tốp lính chạy đến, kẻ giật lại đầu lâu, kẻ kéo nàng ra. Con người mỏng mảnh đó vẫn chống cự đến kiệt lực. Trước khi người ta lôi được nàng đi, nàng đã xõa hết mớ tóc đen như mun để chùi, để thấm, để bết hết cái dòng máu ít ỏi đã từ cơ thể chồng nàng đổ ra trên áng cỏ còn lóng lánh sương mai. 68 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Một xúc động mãnh liệt hiện lên trên nét mặt quần chúng. Nhiều người đàn bà rưng rức khóc và quay về. Ở phía Đông Nam, một người có vẻ văn nhân, nắm tay áo bạn: - Thôi ta về đi! - Nhưng còn cả mớ đầu kia mà. - Không, tôi không thể xem được nữa, tôi đến để dự kiến một trang sử oanh liệt của đất nước chớ không chờ để dự chứng một thiên tình sử bi thảm đến thế. Đêm nay làm sao mà ngủ được? Một pháp trường không thể thiếu đao phủ thủ. Nhà chức trách cho người nhớn nhác đi tìm. Kìa một người tráng niên vẻ mặt vừa ngu độn vừa đanh ác lừ khừ đứng cạnh khán đài. - Ngáo! Một trăm cái miệng cùng reo lên: - Ngáo! Ngáo! Lập tức, người ta mang đến một chai rượu và trao cho lão một thanh mã tấu. Vốn là kẻ sinh vô gia cư, tử vô địa táng, suốt đời chỉ biết ăn thịt chó, uống rượu, Ngáo có bao giờ chịu dừng bước trước một việc gì khi đã được uống! Một chai rồi một chai nữa. Ngáo xách vũ khí ra pháp trường. Tùng... bi li. Đầu óc loạng choạng hơi men, Ngáo đưa qua một lưỡi mã tấu trên cổ Trần Cao Vân. Thanh đao văng ngược lại như thể kẻ bị xử tử vận nội công... Nhưng không, nhà chính trị đang sẵn sàng chờ chết. Lại một nhát nữa rồi một nhát nữa. Ngáo càng say càng chặt bậy. Phải đủ bảy nhát mới chém nổi đầu một ông già chẳng lấy gì làm to lớn. Đến lượt Tôn Thất Đề, Ngáo chém đến chín nhát mà vẫn trơ trơ. Quân lính phải cởi trói ông ra đè ông xuống cho Ngáo lấy dao cắt cổ”. Về tình riêng, chung sống thủy chung với bà Tô Thị Quyên, Trần Cao Vân có được năm người con là: Trần Thị Khâm, Trần Thị Phái, Trần Thị Ngọc Diêu, Trần Nguyên An, và Trần Nguyên Em. Sau khi chồng đền 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nợ nước, bà Quyên vẫn chưa yên thân với lũ giặc. Năm 1920, tại huyện Phù Mỹ, Phù Cát (Bình Định) có vụ treo cờ giữa huyện đường - trên cờ lại ký tên Trần Cao Phong. Nhà cầm quyền ngờ là phe đảng của Trần Cao Vân nên bắt cả gia đình bà bị tống ngục. Năm sau không tìm ra chứng cớ nên chúng phải trả tự do, nhưng buộc họ phải về Quảng Nam chứ không cho cư trú tại Bình Định nữa. Tháng 6/1925 bà cùng đồng chí của chồng là bà Trương Thị Dương đã bí mật đưa hài cốt hai ông Trần Cao Vân, Thái Phiên từ hố chôn trong pháp trường An Hòa về an táng gần Tháp Hòa thượng Kiết Mao thuộc xã Thủy Xuân (Huế). Sau đó 11 ngày, việc cải táng có nguy cơ bị bại lộ, bà Dương lại từ Quảng Trị vào Huế. Chờ lúc màn đêm buông xuống, bà đã bí mật đào hài cốt hai ông đem qua chôn chung một mộ tại đồi thông Từ Hiếu (trên đường lên Lăng Tự Đức). Hiện nay, ngôi mộ chung Thái Phiên và Trần Cao Vân, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Còn vua Duy Tân cùng vợ là bà Mai Thị Vàng bị đày sang đảo Réunion. Đi cùng chuyến này còn có vua Thành Thái, bấy giờ đang bị giam lỏng tại Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Sang đó một thời gian, bà Vàng không chịu được phong thổ nơi đây nên đau ốm luôn. Bà xin chồng cho về nước và được ngài đồng ý. Có lẽ do vậy nên mười năm sau, ngài lại lập gia đình lần nữa với bà Fermande Antier. Chung sống với bà Fernande Antier, Duy Tân có được bốn người con. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, ngài còn có thêm một bà vợ nữa là bà Maillot Marie Ernestine, sinh được một con gái. Ngày 14/12/1945, cựu hoàng Duy Tân được phép gặp riêng tướng De Gaulle tại Paris và dự kiến sẽ được quay về Việt Nam. Thế nhưng, mười ngày sau trên chuyến máy bay quay về Réunion để thăm gia đình và Thành Thái, máy bay chở ông đâm vào núi Bangui (Cộng hòa Trung Phi). Cho đến nay cái chết bất ngờ của Duy Tân vẫn còn là một bí ẩn của lịch sử. Tháng 4/1987, Nhà nước ta và gia đình cựu hoàng Duy Tân tổ chức đưa hài cốt của ngài về an táng tại Huế. Ngưỡng mộ hành động oanh liệt của những người anh hùng hy sinh vì nước, ngoài Côn Đảo, các nhà cách mạng đã có thơ ca ngợi. Trong Thi 70 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Lăng mộ Trần Cao Vân - Thái Phiên hiện nay tại Huế (2004) tù tùng thoại, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có ghi lại được những bài thơ của bạn tù và dịch lại. Chẳng hạn như bài thơ: Xoay trời chuyển đất thử ra tay, Minh Trị, Duy Liêm cũng bậc này. Hùng đoán, dẫu rằng công việc hỏng, Hiệu Duy Tân mới thiệt không sai! Khóc hai ông Thái Phiên, Phan Thành Tài, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ: Tây học đâu cam chịu kiếp bồi, Không thành nên chịu mất đầu thôi. Kìa phường Tây học đông như kiến, Đem hỏi lòng chăng, có hổ ngươi? Về cuộc khởi nghĩa năm 1916, phía người Pháp đương thời đã nhận định như thế nào? Trong khóa họp thường kỳ năm ấy của Hội đồng Chính phủ Đông Dương, họ cho rằng: “Phong trào hồi tháng 5/1916 vừa 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM qua, cũng giống như các cuộc phiến loạn hồi năm 1908, là sự nghiệp của các đảng phái cách mạng đang có hoạt động chống lại sự nghiệp của người Pháp. Bởi vậy, phần lớn bọn thủ mưu là những văn nhân đã can dự vào vụ 1908 và vẫn đang có liên lạc với những phần tử người Trung kỳ đã trốn ra nước ngoài và bọn này cũng không ngừng bắt liên lạc với người của chúng còn lại ở Trung kỳ hay đã trở lại Trung kỳ. Bọn chúng đã âm mưu nhân cơ hội nước Pháp đang bận bịu về cuộc chiến tranh ở châu Âu mà gây rối loạn ở Đông Dương nhằm đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước An Nam, giành lại nền độc lập cho xứ sở”. 72 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM LƯƠNG NGỌC QUYẾN, ĐỘI CẤN Linh hồn của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 Trời đã ngã về chiều. Gió thổi lồng lộng. Từ trong rừng sâu vọng lại tiếng cọp gầm đến rợn người. Những thân nhân của người tù đang bịn rịn chia tay, từng giọt nước mắt vắn dài, thảm sầu không kể xiết. Nhưng lần nào cũng vậy, duy có cô gái trạc chừng hai mươi xuân lên thăm hai ông anh ruột của mình vẫn cứ hồn nhiên như không. Cô cười nói tự nhiên nên lại càng xinh tươi lạ thường. Giữa rừng rú Thái Nguyên âm u lại có một nhan sắc như thế khiến Đội Cấn cũng mềm lòng. Dần dần, ông dành cho cô nhiều tình cảm Đội Cấn (? - 1918) và ngỏ lời muốn cùng cô kết nghĩa trăm năm, nhưng cô chỉ cười e thẹn chứ không trả lời dứt khoát. Biết được chuyện này, chiều này, tranh thủ không có lính canh đang đứng soi mói canh chừng, ông anh đầu là Cả Thấu mới bảo với cô em út: 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Em ạ! Biết em có tâm huyết và chia sẻ hành động của những người hy sinh vì Nước, do đó, anh mới tiết lộ cho em biết chuyện trọng đại... Dừng lại, nhìn trước ngó sau, ông mới ra hiệu cho người em kế là Hai Vî tiết lộ bí mật: - Các đồng chí ở đề lao và bên trại lính đang mưu phá ngục, em có thể giúp cho lực lượng cách mạng bằng cách như thế này... Giọng thì thầm của Hai Vî nhỏ dần. Nghe xong, cô trả lời bằng giọng quả quyết: - Dẫu có hy sinh nhưng vì đại nghĩa, em chẳng gì tiếc tấm thân. Giây lát sau, cô nói tiếp: - Nhưng ở nhà còn có mẹ già, chỉ một mình em chăm sóc. Em phải thu xếp xong trước khi vâng theo lời dạy của hai anh. Nói xong, cô vội vã xuôi về Sơn Tây. Khi gặp mẹ, cô trình bày với mẹ mọi kế hoạch mà hai anh đã bàn với mình, bà mẹ bảo: - Bố con bị chém giữa làng Vân Cốc, trước lúc mất cũng chỉ trăn trối như vậy thôi. Cô rụt rè thưa: - Nhưng còn mẹ, nếu mọi chuyện vỡ lỡ ra con sợ giặc sẽ giận cá chém thớt, mẹ sẽ bị vạ lây... Bà mẹ cười, không đáp. Tối hôm ấy, để các con khỏi bận lòng, bà lẳng lặng thắt cổ chết ngay sau bếp! Chôn cất mẹ xong, cô thu xếp lên Thái Nguyên và đồng ý làm vợ Đội Cấn với nhiệm vụ giác ngộ cách mạng cho chồng. Nhưng Đội Cấn là người như thế nào? Ông tên thật Trịnh Văn Cấn (còn có tên Trịnh Văn Đạt), không rõ năm sinh, quê làng Yên Nhiên, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc xã Vũ Di, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú). Xuất thân từ thành phần bần 74 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM nông, lớn lên ông vào lính khố xanh (1) được thăng đội trưởng đội lính cơ tập trong Lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương. Do đó, mọi nguời thường gọi là Đội Cấn. Trong đêm tân hôn, cô đã thủ thỉ cho chồng nghe bài thơ tuyệt mệnh mà bố mình - nhà cách mạng Phùng Văn Nhuận - đã đọc trước lúc bị chém: Đời là thế, ấy đời là thế Hồn có thiêng cũng hé miệng cười Những quân dạ thú mặt người Quá ham danh lợi, đạo trời kề chi Lại gặp lúc nước suy thế ngặt Lũ “rước voi” ra mặt tung hoành Thi nhau bán nước cầu vinh Còn đâu nghĩ tới chút tình keo sơn! Nghe xong bài thơ, Đội Cấn suy nghĩ rất nhiều. Ông sực nhớ lại tháng ngày trước đây đã từng tham gia đàn áp phong trào Yên Thế của Đề Thám, nhưng biết cụ chủ trương chỉ giết giặc Pháp chứ không đánh lính khố xanh, khố đỏ nên Đội Cấn dần dần hiểu việc làm chính nghĩa của người kháng chiến. Hiểu và khâm phục nhưng nào dám tâm sự với ai, nay được vợ phân tích phải trái thì ông lại càng “tâm phục khẩu phục” và bộc bạch nỗi lòng với người đầu ấp tay gối: - Chả trách những người đang nằm bên đề lao kia, họ làm cách mạng là đúng. Sứ mệnh ấy vẻ vang biết chừng nào! (1) Lính khố xanh: lính thuộc lực lượng vệ binh bản xứ ở Đông Dương và Quảng Châu Loan (Trung Quốc) do thực dân Pháp tổ chức, chỉ huy để đán áp phong trào yêu nước, cách mạng; duy trì trật tự trị an; canh giữ công sở của Pháp, các tuyến giao thông, trại giam; áp tải tù nhân, hàng hóa; ở Việt Nam xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX; trang phục có xà cạp và tấm vải che bụng màu xanh. Chính thức thành lập theo sắc lệnh tổ chức Lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương do tổng thống Pháp ký ngày 30/6/1915. Thống đốc (ở Nam kỳ), thống sứ (ở Bắc kỳ) và khâm sứ (ở Trung kỳ) chỉ huy và quy định số quân cho từng tỉnh; được tuyển mộ như lính chính quy và có thể bị đưa đi chiến đấu ở tỉnh khác hoặc chuyển sang lực lượng chính quy của quân đội thuộc địa khi cần thiết. Ở Nam kỳ cũng gọi lính thủ bộ hay dân vệ. Sau đảo chính ngày 9.3.1945, Nhật giữ nguyên tổ chức lính khố xanh và trao quyền chỉ huy cho chính phủ Trần Trọng Kim” (Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng biên soạn, NXB Quân đội Nhân dân - 1996, tr. 482). 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Từ đấy, mầm mống chống đối lại nhà nước Bảo hộ đã hình thành trong tâm trí Đội Cấn. Rồi mỗi ngày người vợ trẻ lại đem chuyện thù nhà nợ nước tỉ tê, khuyên lơn chồng sống sao cho đáng mặt làm trai. Đội Cấn xiêu lòng và tác động đến hai người bạn tâm giao là Đội Giá và Đội Xuyên. Bấy giờ, để cai quản đám tù nhân dám “hiên ngang đối đầu cùng cái chết”, đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ oanh liệt của Hùm thiêng Yên Thế Đề Thám, từng hoạt động trong tổ chức Việt Nam Quang phục Hội... nên nhà cầm quyền đã phái tên Darles từ Hà Nội lên làm công sứ Thái Nguyên. Sự tàn bạo của y khủng khiếp đến nỗi chính thống sứ Gallen đã nhiều lần khuyên y không nên giết người tù một cách man rợ và trong dân gian ta có câu nguyền rủa: “Nhất Đạc (Darles), nhì Ke (Ecker), tam Be (Galambert), tứ Bích (Brides)”! Thế nhưng với dòng máu thực dân sôi sục trong người, Darles không những cai trị người tù mà còn hành hạ cả đám lính khố xanh với tất cả thú tính! Nhiều lần chứng kiến tội ác của Darles, Đội Cấn có lần tâm sự với đồng đội “Thân phận thằng cai tù anh em mình nào khác gì con chó! Chủ lệnh sủa thì sủa, chủ lệnh cắn thì cắn, chứ có biết việc làm của mình đúng sai thế nào đâu!”. Chính thái độ của Darles càng làm Đội Cấn căm hờn bọn thống trị. Sau ngày cưới, để có thể thường xuyên giác ngộ anh em binh lính đang đánh thuê, vợ của Đội Cấn nhận thầu cơm lính. Mỗi ngày hai lần đem cơm vào đề lao, cô đã nhận thư từ của chính trị phạm nhất là của Ba Quyến gửi ra. Trong các thư này, ngoài việc giác ngộ cách mạng thì Ba Quyến luôn khuyến khích và thúc giục Đội Cấn mau mau khởi nghĩa vì đại nghĩa. Ba Quyến là ai mà dám kích động binh lính khố xanh quay súng bắn công sứ Darles và bọn giám binh nhà tù Thái Nguyên? Ông tên thật Lương Lập Nham, sinh năm 1890, quê ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) là con trai thứ của cụ Lương Văn Can - một nhà duy tân tiếng tăm vang dội khắp Bắc kỳ. Do ảnh hưởng tinh thần yêu nước của cha, lớn lên Lập Nham không tiến thân bằng con đường khoa cử, mà thích được học về quân sự và ông đã toại 76 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM nguyện. Vì từ tháng 3/1905, có một sự kiện khiến các trí thức trong nước rất phấn khởi, đó là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tranh Nga - Nhật! Không ai có thể ngờ rằng, Nhật thắng Nga! Đây là một trong những tác động khiến các cụ nhà nho cấp tiến của ta bảo nhau: - Vậy thì Á châu mình có kém gì Âu châu! Nhật Bản chỉ có mấy hòn đảo chênh vênh ngoài biển mà còn dám đánh nhau với đế quốc Nga đang là nước hùng cường ở châu Âu. Thế tại sao Việt Nam ta không dám ngóc đầu dậy đánh đuổi bọn Pháp lang sa? Nhưng chiến lược đánh Pháp phải tiến hành như thế nào? Tất nhiên là tùy theo chủ trương của từng tổ chức cách mạng lúc ấy. Đối với chí sĩ Phan Bội Châu và các đồng chí của cụ như Tiểu La Nguyễn Hàm, Tăng Bạt Hổ, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân... thì phải thành lập Hội Duy tân, tiến hành đường lối bạo động, khởi nghĩa võ trang. Muốn vậy, thì phải gấp rút bí mật tổ chức đưa các thanh niên có nhiệt huyết, có lý tưởng cách mạng ra nước ngoài học tập về quân sự. Từ cuối tháng 7/1905, phong trào Đông du của Duy Tân hội bắt đầu đưa thanh niên xuất dương sang Nhật. Do ảnh hưởng từ của những lời kêu gọi thống thiết của cụ Phan từ Nhật gửi về như Khuyến quốc dân du học văn, Khuyến quốc dân tư trợ du học văn... các nhà hảo tâm trong nước đã giúp tiền của đưa thanh niên xuất dương ngày càng nhiều. Dịp này, hai con trai của cụ Lương Văn Can là Lương Lập Nham và Lương Nghị Khanh cũng lên đường thực hiện ước mơ cháy bỏng của tuổi thanh xuân. Sang Nhật, Lương Lập Nham đổi tên Lương Ngọc Quyến, do là con thứ ba trong gia đình nên mọi người thường gọi Ba Quyến. Có thể nói, Lương Ngọc Quyến, Lương Nghị Khanh, Nguyễn Thức Canh (tức Trần Trọng Khắc hoặc Trần Hữu Công) và Trần Điển là bốn học Lương Ngọc Quyến (1890-1917) 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM sinh Việt Nam trong phong trào Đông du đầu tiên được cụ Phan Bội Châu đưa vào học ở Chấn võ học hiệu Đông Kinh. Năm 1908, Ba Quyết tốt nghiệp loại ưu. Sự đời “vỏ quýt dày móng tay nhọn” là lẽ thường tình. Trước phong trào Đông du ngày một dậy sóng, thực dân Pháp càng hoảng sợ, chúng ngấm ngầm can thiệp một cách khôn khéo. Tháng 9/1908 điều ước Pháp - Nhật được thi hành, theo yêu cầu của chính phủ Pháp ở Đông Dương, chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất lưu học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Vì lẽ đó, Ba Quyến phải chạy sang Trung Quốc học tiếp, sau đó, ông nhận chức thiếu tá trong quân đội Trung Hoa. Sau khi Duy tân Hội được cải tổ thành Việt Nam Quang phục Hội vào đầu tháng 2/1912, Ba Quyến là Ủy viên quân sự của Hội. Năm 1914, ông nhận nhiệm vụ trở về nước gây cơ sở cách mạng tại Nam kỳ, rồi sang Thái Lan, Hương Cảng... Trên bước đường công cán, ông bị mật thám Anh bắt rồi giao lại cho Pháp. Bị đưa về nước, trong những ngày bị giam tại nhà lao Hỏa Lò, ông có làm bài thơ Tuyệt mệnh bằng chữ Hán (Đào Trinh Nhất dịch): Bể học xông pha trải bấy lâu? Thân tù ngoảnh lại nghĩ mà đau. Trăm năm đất Tổ về quân mọi, Bảy thước thân tàn mặc nước sâu. Bạn tốt đời nay sao vắng cả? Thù nhà kiếp khác dễ quên đâu! Hồn ta gặp được Lam Sơn đế, Quyết mượn oai linh chém Pháp đầu! Sau đó, ông bị đưa lên giam ở nhà lao Thái Nguyên. Biết ông là con trai của cụ Lương Văn Can và trong gia đình các anh em đều tham gia cách mạng nên công sứ Darles tra tấn rất tàn nhẫn, sợ ông đào thoát nên y sai lính dùi thủng giữa bàn chân để buộc xích! Đối đầu bạo lực điên cuồng, nhưng ông không cung khai một lời. Do đó, không những anh em trong tù khâm phục mà ngay cả lính khố xanh cũng kính trọng ông. 78 TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM Những lá thư của Ba Quyến chuyển cho Đội Cấn đều trót lọt và qua đó đã tác động dữ dội đến suy nghĩ của người đọc thư. Nhưng kế hoạch khởi nghĩa cứ trù trừ mãi, chưa thể thực hiện được. Lần thứ nhất, các ông dự định tiến hành vào tháng 6/1917, lợi dụng lúc tên giám binh Noel đi Đại Từ đốc thuế, nghĩa quân sẽ giết y, cướp tiền rồi quay về tấn công vào trại giam, nhưng kế hoạch bất thành vì lính khố xanh chọn đi cùng Noel không phải là lực lượng đã được giác ngộ. Lần thứ hai, nghĩa quân dự định đốt nhà của một vài người Pháp trong tỉnh thành, nhằm thu hút lực lượng binh sĩ chính quy Pháp đến chữa cháy. Lúc đó, nghĩa quân chia làm hai cánh, một cánh mai phục đánh bọn lính này, một cánh phối hợp với anh em trong trại giam nhất tề nổi dậy. Nhưng nhận thấy kế hoạch này không chắc thắng nên các ông phải dừng lại. Lần thứ ba, nghĩa quân lợi dụng ngày quốc khánh Pháp (14/7), nhân lúc đi diễn binh thì sẽ quay súng về hướng khán đài, nhắm bọn quan chức Pháp mà nổ súng, rồi tấn công đánh chiếm luôn tỉnh lỵ. Nhưng rồi, họ hoãn Lực lượng binh lính người Việt trong quân đội Pháp - từng nội ứng cho cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) 79