🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đằng Sau Những Nụ Cười
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐẰNG SAU NHỮNG NỤ CƯỜI
Tác giả: Khánh Ly
Hồi Ký
Công ty TNHH Sách Phương Nam phát hành Nhà Xuất Bản Văn Học
Đóng Gói: Cuibap
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
V
1
THAY LỜI TỰA
iết. Với tôi, nghĩa là ghi lại những sự việc mắt thấy tai nghe. Vui,
buồn, sướng, khổ, giàu, nghèo. Tất cả đều là sự thật từ trái tim, tự đáy lòng tôi. Đó là vì trách nhiệm. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm... với tôi. Chỉ là những chuyện lẩm cẩm, nhỏ nhặt của một người đàn bà bình thường. Và tôi tránh tuyệt đối cái việc được viết của mình làm tổn hại cho người khác.
Sở dĩ tôi chỉ thích viết về những gì tầm thường nhất mà lại hay xảy ra nhất ở bất cứ gia đình Việt Nam nào, là bởi vì khả năng của một người... ít học như tôi chỉ cho phép tôi làm được đến như thế mà thôi. Mà quả tình thật, tôi cũng không muốn, không dám sờ mó tới đời tư của ai. Tôi có hơn gì ai đâu? Đôi khi còn tệ hơn người khác nữa ấy chứ. Thế cho nên, tôi chỉ thích ghi nhận lên trên giấy những điều tôi biết rất rõ về tôi, nghĩa là những cái xấu nhất của mình, để... may ra nó bớt xấu đi chăng.
Người đời thường hay thích đề cập tới những điều ngoài tầm với, những chuyện “đội đá vá trời”. Nên hay bỏ quên hoặc khinh thường những gì họ cho là nhỏ nhặt không đáng nói đến. Song cái gần chúng ta nhiều nhất, trói buộc chúng ta nhiều nhất, làm phiền, làm khổ chúng ta nhiều nhất mà chúng ta phải nghĩ đến nhiều nhất. Hỡi ơi, lại chính là những cái nhỏ nhất. Thế mới biết... nói là một chuyện, ai nói thánh, ai nói tướng gì cũng được. Làm, lại là chuyện khác.
Tôi vốn hèn mọn như cỏ dại, chữ nghĩa không đầy một cái lá. Nhưng... bia đá còn biết đau thì nói gì là cỏ dại. Tôi cũng có những niềm vui, nỗi buồn của riêng tôi. Hát một tình khúc, làm một bài thơ. Trước hết là để giải tỏa bớt nỗi sầu thiên cổ của chính mình, sau nữa là để tìm, để tặng người... tri kỷ. Vô lý trời đất rộng bao la, bao nhiêu tỉ người, không có lấy một người cùng cảnh ngộ để chia sớt với mình? Dù là những điều hèn mọn nhất.
Đời sống ở đây dễ làm cho tôi... điên. Hoặc trở thành bệnh hoạn. Cả hai điều, tôi đều không muốn. Chúa cho tôi một giọng hát, dù không ra gì. Đó là một... ân sủng. Bạn bè cho tôi một cơ hội, mảnh đất nhỏ nhoi trên báo, để tôi có dịp ghi lại những gì đến và đi trong đời sống tôi. Đó là một hạnh phúc. Dĩ
nhiên, không phải bất cứ bài nào cũng được mọi người thích. Không phải bất cứ bài viết nào của tôi cũng được mọi người khen. Tuy vậy tôi không thể làm khác hơn được là bởi vì... con người tôi như thế. Tôi hay mọi người, đều có những cái tốt hay xấu. Đều có đầy đủ Hỉ - Nộ - Ái - Ố - Ai – Lạc - Dục. Có điều, nói rất thật thà, tôi sợ làm điều xấu, tôi sợ xấu hổ khi nhìn mặt mình trong gương. Đôi khi tôi nghĩ: Đó cũng chưa hẳn là điều tốt. Nhưng tôi vẫn sợ và vẫn tránh, cố sức tránh để khỏi phải ân hận, để không phải né tránh cái nhìn của người đối diện.
Tôi là một người có nhiều khuyết điểm. Không thù, giận ai, không dám hại ai (dù chỉ là ý nghĩ trong đầu). Không dám mong sự dữ cho bất cứ ai. Khi không làm được điều gì cho ai, tôi áy náy không yên đến độ quay ra giận chính mình. Tôi chưa bao giờ hơn thua với bạn bè. Ai muốn hơn, cứ tự nhiên. Ai muốn chửi, cũng cứ tự nhiên. Chẳng bao giờ tôi có ý kiến. Tôi nghe nhiều, rất nhiều nhưng hình như những điều đó không liên quan gì đến tôi. Bởi tôi chỉ được nghe qua người này hay người nọ. Thế thì tại sao tôi phải để ý. Sự im lặng cũng dễ gây ngộ nhận. Nhưng con người tôi vốn như thế. Như cuộc đời vốn không thể khác. Đó là những khuyết điểm của tôi, làm tôi luôn luôn bị thiệt thòi. Mà tôi cũng... lạ thật. Có nhiều người chửi tôi, ngồi đâu chửi đó, cái gì cũng mang tôi ra, như một bằng cớ để mọi người tin. Nhưng rồi sau đó lại gặp tôi sau điện thoại rất âu yếm, rất ngọt ngào, rất tay bắt mặt mừng. Tôi cũng cười. Tôi ngu chăng? Không. Tôi không ngu tí nào cả. Chỉ vì những điều đó, những người đó đã vốn như thế. Tôi biết hết nhưng không bao giờ nói ra. Tại tôi... muốn ngu mà thôi. Ngu để được bình an vì không có gì hạnh phúc cho bằng một con người được sống trong sự bình an. Tôi ăn cái gì, tôi được cái gì khi hơn thua với người khác. Ai ghét tôi người đó khổ chứ tôi không khổ. Vì ghét, nên họ cứ phải nghĩ đến tôi hoài, phải tìm trăm mưu ngàn kế để hạ tôi. Do đó họ khổ, cái tâm họ khổ vì cứ phải nghĩ đến người họ... không yêu. Trong khi đó tôi rất... nhẹ nhàng vì tôi... không biết. Và tôi... chưa bao giờ cần biết.
Tôi sống rất là... hồn nhiên. Hồn nhiên đến độ làm nhiều người bực mình. Thì tôi vốn thế. Lòng tôi như chiếc bánh đã bóc ra cho người thấy hết rồi, không có gì phải che đậy, giấu giếm. Trong gia đình, với chồng. Ngoài xã hội, với bạn bè, với khán thính giả. Tôi sống hết lòng. Người cho tôi một.
Tôi trả lại mười. Từ 32 năm qua, tôi sống như thế. Tôi chỉ duy nhất... phụ một người. Người đó đã chết.
Tôi không gần được giới trí thức hay những người thường tự vỗ ngực khoe mình. Tôi không gần được những người giàu có, danh vọng. Bởi tôi sống giang hồ từ nhỏ. Tôi thường hãnh diện với chính mình về điều đó. Sống gần giới giang hồ nên tôi không thích những người... chơi bẩn. Và bạn tôi toàn những người chạy gạo từng ngày. Nhưng tôi kính phục và quý mến họ.
Mẹ tôi thường phàn nàn về cách ăn mặc giản dị của tôi. 32 năm tôi không thay đổi. Mẹ tôi lại phàn nàn tiếp, vì sao tôi thương bạn hơn anh em ruột thịt. Lúc tôi khổ sở, không tiền trả tiền nhà, tôi có thấy anh trên, em dưới nào đâu? Làm sao mẹ tôi biết và hiểu được nỗi cơ cực của vợ chồng tôi? Nhưng tôi biết nói thế nào cho mẹ tôi hiểu? Tôi không nói gì cả. Tôi vốn thế.
Mẹ tôi, người sinh ra tôi còn không bắt tôi sống khác đi được, huống chi là ai. Thì thế đấy, tôi có sao nói vậy nhưng không bao giờ nói bậy. Không nói bậy thì không làm bậy. Tôi cũng chưa bao giờ tự nhận mình là người lịch sự, chính vì thế trên sân khấu, hay trong các bài viết trên báo, tôi đã nói rõ rằng tôi là một người vô học và ăn nói đôi khi rất là... cà chớn. Có điều gì lỗi lầm, xin bà con, cô bác bỏ lỗi cho.
Nhưng mà những điều tôi nói hay viết dù không phải ai cũng thích, song cũng có người... không ghét. Đó là những người thích... có sao nói vậy, những người không hề đòi hỏi những điều quá khả năng của tôi. Bởi đời sống ở đây quá nặng nề với những... ý đồ vĩ đại, nên đôi lúc, cái lẩm cẩm, đàn bà cà chớn của tôi đem đến ít phút thoải mái trong... phòng tắm.
Chú Mai Thảo của tôi bảo viết một bài trên báo Văn. Tôi dạ nhưng... vờ quên. Ông Nguyễn Xuân Hoàng kêu viết, cũng một bài ở Thế Kỷ 21. Tôi cũng dạ rồi thôi luôn. Lý do, tôi không dám, tôi không xứng đáng được chen chân, góp mặt. Cũng bởi tôi kính trọng và quí mến những người nghĩ đến tôi, cho nên không dám đưa cái văn bằng duy nhất của tôi ra (bằng quốc tịch ấy mà). Sợ làm hai ông mất mặt và những người khác không vui khi có tên tôi bên cạnh. Như thế cũng có thể gọi là biết điều đấy chứ.
Thường thường, ở những nước văn minh, người ta thường hay khuyến khích những... mầm non, ở bất cứ lãnh vực nào. Riêng tôi, tôi thấy người
mình hơi khắt khe, hơi... ác với nhau đó. Ác nhiều hơn là khắt khe. Vì ác khác mà khắt khe khác. Dĩ nhiên là không phải mọi người ở đây đều như thế. Song người ác nhiều hơn và hay... khoe cái ác của mình, một cách hãnh diện. Đó chính là nỗi khổ tâm của họ, bởi những người có cái tâm độc ác, sẽ không bao giờ sung sướng, hạnh phúc cả. Nếu không thế, chẳng hóa ra ông trời bất công lắm ru.
Chính vì nhiều người không sống với nhau bằng sự tử tế, ngày về mới... bóng chim tăm cá. Phải chi. Ừ phải chi... Ôi nói ra thì vô cùng, mà lại bị... chửi là... ca sĩ mà cũng bày đặt nói chuyện nước non. Nhiều khi tôi có cảm tưởng mình là người... ngoại quốc xa lạ trong cộng đồng mình. Là sao? Rất nhiều lần, trên tàu bay, tôi bị hỏi: “Mày là người ở đâu đến...” Lúc đầu tôi hùng dũng trả lời: “Tao từ Việt Nam”.
Nếu bây giờ tôi nói tôi là... người Mỹ. Cũng đúng thôi. Vì tôi đang mang quốc tịch Mỹ. Tôi nhớ là tôi đã khóc rất lớn, khóc một cách tận tình, làm mọi người ngạc nhiên, khi giơ tay tuyên thệ, thề bảo vệ xứ sở này. Tôi đã từ bỏ, chối bỏ nguồn gốc của mình. Bài quốc ca Mỹ vang lên như những mũi đinh nhọn hoắt đâm thẳng vào tim tôi.
Tôi muốn được mãi mãi làm một người VIỆT NAM... NGUYÊN VẸN HÌNH HÀI... trong cái cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một cộng đồng biết thương nhau bằng trái tim Việt Nam, thì tôi cũng sẽ không phải, không đến nỗi phải yêu thương cuộc đời bằng chính trái tim... của tôi “MỖI NGÀY TÔI CHỌN NGỒI THẬT YÊN. NHÌN RÕ QUÊ HƯƠNG, NGỒI NGHĨ LẠI MÌNH. TÔI CHỢT BIẾT RẰNG VÌ SAO TÔI SỐNG. VÌ ĐẤT NƯỚC CẦN MỘT TRÁI TIM”. Tôi ở đây và tôi cũng cần một trái tim.
2
Vì Sao Tôi Hát Nhạc Tiền Chiến
H
át trở lại những ca khúc thời Tiền chiến, nói như nhạc sĩ Nguyễn Hiền
là bình minh của nhạc Việt Nam, đối với tôi, còn là một sự trở về, tìm lại chính mình. Một thời đã qua, qua rất nhanh mà tôi không làm sao có thể quên được dẫu nỗi nhớ về đó, luôn luôn làm tôi đau lòng và chảy nước mắt.
Ngày xưa... ngày xưa... Bất cứ chuyện gì đã xảy ra, dù chỉ mới ngày hôm qua, thường được bắt đầu bằng hai chữ: Ngày xưa. Tưởng chừng như một câu chuyện thần thoại, cái ngày xưa ấy thoạt nghe có vẻ xưa lắm nhưng thật ra nó mới xảy ra cách đây... 40 năm và cái chuyện thần thoại đó là chuyện có thật. Tôi là người trong chuyện, bây giờ tôi kể lại chuyện đó nhưng sẽ không có bóng dáng của bà Tiên hay ông Bụt...
Trước ngày theo mẹ di cư vào Nam, thành phố Hà Nội tưng bừng với một hội chợ lớn. Tôi không nhớ rõ địa điểm là do ai tổ chức, hình như do người Pháp thì phải. Bởi lúc đó, người Hà Nội không gọi là hội chợ mà gọi là Kermesse. Cũng như tất cả các hội chợ ngày nay, với đủ tất cả trò chơi cho trẻ con và người lớn, tôi nhớ một sân khấu nhỏ được dựng lên cho một cuộc thi hát, kiểu tuyển lựa ca sĩ bây giờ. Lúc đó tôi được 9 tuổi. Mẹ ở xa, bà nội tôi thì hoàn toàn không biết gì về cái gọi là Kermesse bởi bà tôi vốn chân quê, không biết chữ. Làm sao tôi lọt được vào trong, tôi đi với ai, một thằng nhỏ cùng phố tên Đồng, và làm cách nào tôi có thể leo lên sân khấu để... hát. Hôm đó tôi hát bài “Thơ ngây”. Tôi không biết tác giả là ai vì tôi học lóm từ những cửa hàng trên con phố Hàng Bông những ngày cuối tuần trên đường từ nội trú về nhà bà nội. Tôi chẳng được giải gì cả.
Sau đó tôi vào Sài Gòn. Một Sài Gòn thật xa lạ đầy quyến rũ với các ly đá nhân xi rô xanh, đỏ và tờ giấy một đồng xé làm hai mà vẫn xài được, mỗi nửa gọi là năm cắc. Năm 1956, dượng tôi nhận việc tại Đà Lạt, gia đình chúng tôi ở khu Chi Lăng, trước đó được gọi là Saint Benoit, nơi đó có những biệt thự được xây cất giống hệt nhau. Gia đình tôi ở căn đầu tiên cạnh con đường đất nhỏ đưa đến hồ Chi Lăng. Cũng đầu đường đó nhìn qua nhà tôi là hotel Chi Lăng có cái giếng giả xây đằng trước. Từ nhà, tôi đi bộ
khoảng một cây số hơn tới trường tiểu học Phan Chu Trinh. Lúc đó, tôi không biết đọc tiếng Việt nên không đọc báo nhưng do đâu mà tôi biết được là ở Sài Gòn có một cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng và ai là người ghi tên cho tôi, thú thật tôi không nhớ. Song nhiều phần là ở bác tôi, bác Tuất là chị ruột của mẹ tôi. Bác trai là nhạc sĩ, bác sử dụng trompet hình như trong ban quân nhạc ở Hà Nội. Chị ruột tôi cũng hát, tên chị là Lệ Yến, hai người chị họ con bác Tuất cũng hát. Một chị là vợ ông Võ Lương, giám đốc trường Huấn luyện cảnh sát, chị Kim Lan hiện giờ ở Đức. Còn một chị Tuyết là vợ ông Thẩm Nghĩa Bôi.
Nghĩ lại là nhiều phần tôi đã nhờ gia đình bác Tuất ghi tên cho tôi đi dự cuộc tuyển lựa ca sĩ nhi đồng khoảng cuối năm 1956. Làm thế nào mà một con bé mới 11, 12 tuổi dám làm quen và xin quá giang một xe chở bắp cải về Sài Gòn, tôi nằm ngủ còng queo phía sau với những chiếc bắp cải, rồi từ bến xe tôi tới nhà bác tôi. Ai cho tôi tiền để ăn dọc đường và về tới nhà bác Tuất, tôi không thể nhớ nổi.
Nơi có buổi tuyển lựa hôm đó là rạp Norodom do đài Pháp Á tổ chức. Tôi ghi danh với tên thật là Lệ Mai. Bài hát tôi chọn là bài “Từ giã kinh thành” nhưng bị bác. Lý do tôi còn nhỏ quá để hát một bài quá buồn, chỉ dành cho người lớn... “Ra đi một sớm buồn, sương mờ chập chùng buông...” thể điệu Boston. Ban giám khảo cho tôi hát bài “Ngày trở về” của nhạc sĩ Phạm Duy.
Tôi mặc cái quần sọc trắng, cái áo sơ mi ca rô của anh tôi, cắt tóc tém như con trai và tôi hát. Và tôi chiếm hạng nhì sau thần đồng Quốc Thắng. Sau buổi hát, bác Tuất gái bắt tôi phải về Đà Lạt ngay, mẹ và dượng tôi đang nổi trận lôi đình với đứa con gái bất trị gan liền tướng quân. Tôi lại ra bến xe rau tìm đúng ông tài xế tốt bụng, nằm co ro sau xe giữa đống hàng hóa cần chuyển từ Sài Gòn về Đà Lạt.
Không cần phải kể lại, bất cứ ai trong chúng ta cũng biết cách trừng phạt con cái ngày xưa ở Việt Nam. Tôi chui xuống rãnh nước cạnh nhà ngồi khóc. Lúc đó tôi mới khóc, không phải vì đau mà là tủi, tôi nhớ bố tôi, ông đang ở đâu, còn sống hay đã chết như mẹ nói. Ông rất yêu tôi, ông sẽ không bao giờ đánh tôi vì chính ông đã từng ôm tôi và hát. Ông đánh đàn mandoline hát bài “Chiều vàng” của Nguyễn Văn Khánh, “Con thuyền không bến” của Đặng
Thế Phong. Bố tôi chưa bao giờ đánh tôi, ông sẽ không bao giờ. Trái tim non dại của tôi không ngớt vang lên tiếng gọi xót xa... Bố ơi... Bố ơi... Tôi chỉ thần tượng bố tôi, thế cho nên những điệu nhạc, những lời bài hát đã từ lúc nào xuyên vào tim tôi và ở lại đó. Tôi yêu tiếp những gì mà bố tôi đã yêu, trên hết là nhạc, bởi qua nhạc tôi như nhìn lại khuôn mặt của bố mình mà tôi biết rằng trên cõi thế, chẳng bao giờ tôi còn có thể gặp lại ông nữa. Ở một nơi nào đó, chắc bố tôi cũng không nghĩ rằng những bài tình ca ông hát trên bước đường ly loạn đã vô tình trở thành định mệnh. Một định mệnh đẹp đẽ nhưng nghiệt ngã dành cho đứa con gái xấu xí ông yêu thương nhất.
Trên sân khấu Anh Vũ ngày nào, ban ngày là quán cơm xã hội, với “Biệt ly” của Dzoãn Mẫn; “Lá thư”, “Gửi gió cho mây ngàn bay”, “Chuyển bến” của Đoàn Chuẩn – Từ Linh; “Chiều vàng”, “Con thuyền không bến”, tiếng hát của tôi chắc phải u uẩn lắm mới khiến cho ông Trung úy Không quân Lưu Kim Cương để ý. Ông khen tôi nhỏ mà biết chọn bài, ông khuyên tôi hãy cố gắng với những gì đã chọn lựa. Lúc đó mọi người chưa biết tôi là ai. Chưa mấy người để ý đến tôi. Họ đang chạy theo những thần tượng thời đó. Tôi mới 16 tuổi.
Những tình khúc người ta gọi là Tiền chiến đã gắn liền với tôi trong suốt năm năm trời ở Đà Lạt và sẽ mãi mãi về sau. Tôi vẫn luôn thắc mắc tự hỏi ở thời buổi loạn lạc, nhiễu nhương, thiếu thốn đói khổ, bằng vào những nguyên tố nào, các nhạc sĩ lại có thể gởi lại cho đời sau những tình khúc đẹp đẽ, trong sáng, lãng mạn mà vẫn thánh thiện. Một nét đẹp không hề vương một chút đời thường. Đẹp trên tất cả các vẻ đẹp, trong lành hơn cả nước mưa. Có buồn nhưng rất nhẹ, vừa đủ cho người hát và người nghe cảm nhận được nỗi buồn. Một nỗi buồn tự nhiên không son phấn.
Nhạc Tiền chiến tuyệt vời hơn nữa là ở bất cứ tuổi nào, bất cứ nơi nào, một mình hay nhiều người, cứ hễ cất lên tiếng hát, chúng ta đều cảm thấy lòng dịu lại ấm áp và bình an. Không có bóng đêm u tối, ghê rợn. Không có bóng dáng của tuyệt vọng, không có những đau đớn dìm con người vào nỗi chết. Nhạc Tiền chiến ngọt ngào dịu dàng. Giã biệt cũng là những giã biệt nhẹ nhàng.
Từ 1967 được biết đến qua nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi vẫn tiếp tục yêu
“Biệt ly”, “Suối mơ”, “Anh đến thăm em một chiều mưa”, “Lá thư”, “Lá đổ muôn chiều”, “Hà Nội 49”. Phải nói rằng những tình khúc Tiền chiến là mối tình đầu của đời tôi mà đã là tình đầu, dẫu có thêm một kiếp sống nữa tôi vẫn không quên. Tôi lại còn tiếc sợ mình không còn lại nhiều thời gian để được hát. Chưa bao giờ tôi cảm thấy là đủ. Lúc nào cũng thèm được hát và nỗi say mê chỉ tăng dần theo thời gian và tuổi đời.
Trong tôi, nỗi say mê được hát lớn nhất, vậy mà tôi lại hết sức ngần ngại trong việc nhận lời hát lại những bài tình ca tôi rất yêu. Nửa muốn nhận, nửa muốn từ chối, tôi sợ, đúng tôi sợ. Vì rằng đã lâu, tôi có ít dịp trình bày lại những tình khúc Tiền chiến. Hát sao được trong không khí của buổi dạ vũ khi người tham dự chỉ thực sự muốn giải trí sau một tuần lễ làm việc căng thẳng, sở trường của tôi là nhạc Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên cạnh những bài hát có tính cách phổ thông dễ dãi. Nhạc Tiền chiến tạm vắng bóng trên những sàn nhảy, sân khấu, sòng bài.
Tôi sợ vì nhạc lý tôi vốn rất yếu, lại không quen bị gò bó trong một khuôn khổ nhất định của dàn đàn dây, thường đòi hỏi người hát kỹ thuật cao, nhạc lý giỏi, song cái chủ đề Tiền chiến lại quá hấp dẫn. Mối tình đầu phiêu bạt bấy lâu, bỗng chốc có cơ hội hồi sinh, có thể mang lại cái nhịp đập êm ái bình an cho trái tim của mọi người, qua bao nhiêu sóng gió. Đây là cơ duyên may mắn trong ánh hoàng hôn đời người. Tôi phải cố gắng vượt qua sợ hãi với cơ duyên may mắn. Đi tìm lại chính mình.
Tôi đặt tôi dưới sự điều khiển của người nhạc sĩ trẻ Thomas Ngô. Tôi bảo anh tôi dốt nhạc lắm, hãy giúp cho tôi nếu không xuất sắc lắm bên cạnh các chị Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao, Thanh Lan, Thái Hiền ít ra tôi cũng làm tròn được bài hát. Không đến nỗi phụ lòng các thính giả. Không đến nỗi rớt lên, rớt xuống làm phiền lòng các nhạc sĩ... Thomas Ngô cười bảo tôi: “Chị cứ khiêm nhường thế, dẫu lơi nhịp chị vẫn nhảy vào bắt kịp lại như thường.” “Không, đừng nói thế, khiêm nhường là một đức tính tốt nhưng ở đây chị thực sự cần sự giúp đỡ của Ngô và cả ban nhạc.” Tôi cười tiếp: “Chị dốt nhưng không ngu và chị rất biết vâng lời dẫu Ngô nhỏ hơn chị”.
Không khí trang nghiêm nhưng không quá cứng, Thomas Ngô vung tay, tiếng nhạc trỗi lên, các nhạc sĩ dường như quên đi chính mình. Nỗi say mê biểu hiện trên từng khuôn mặt, từng ngón tay và cả chân thân là nhạc. Tất cả
chìm vào, hòa tan trong tiếng nhạc... “Biệt ly, sóng trên dòng sông ôi còi tàu như xé đôi lòng...” Tôi cất tiếng hát và như thấy lòng mình òa vỡ tiếng nấc nghẹn ngào... “Người yêu đương cách xa đành sống vui cùng gió sương...”
Sự trở về kỷ niệm, tìm lại chính mình bao giờ cũng trân trọng. Nếu không cuộc sống còn có ý nghĩa gì. Bao nhiêu năm qua, tôi luôn khắc khoải với những tìm kiếm vô vọng... Tối buông màn sương pha muối, xót xa lòng thêm trăm mối. Gió thu xưa không quên về, cớ sao mà người cứ đi... Người đã đi vào thiên thu mang theo cả tình tôi một thời nồng nàn đằm thắm. Có phải chăng những người muôn năm trước đã thay chúng ta, viết cho chúng ta những ca khúc tuyệt vời. Người dẫu đã thiên thu nhưng gởi lại trong tâm hồn chúng ta giọt nước mắt hạnh phúc lấp lánh, lấp lánh ngời sáng mãi đến ngàn sau. Tôi ghi lại đây tâm sự riêng và cảm nghĩ của mình, nói lên sự biết ơn tất cả nhạc sĩ kính mến của hai thập niên 40, 50.
M
3
Khoảng Trời Yêu Thương ấy hôm rồi, một mình tôi ở nhà, một mình tôi hưởng cái lành lạnh
buồn buồn, nhẩm lại bài hát mới “Có chút lệ nhòa trong phút hôn nhau, có những vực bờ chôn theo tình đầu. Có tiếng thở dài dưới gió thu đông. Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng.” Trời buồn, một mình buồn, bài hát buồn, tôi chợt thấy lênh đênh lãng đãng, tôi trôi dần về kỷ niệm.
Cuộc đời tôi, mỗi bước đi qua, mỗi kỷ niệm. Vui buồn hay thương đau cũng như nhau, cũng là kỷ niệm làm lòng mình ấm lại trong những ngày chớm thu. Tôi đang bước về khoảng trời yêu thương nhất của một thời, tình yêu còn mới như trang giấy, mới viết một chữ yêu. Đà Lạt của năm 1962. Bắt đầu cho tôi những ngày sống thần tiên. Tôi yêu cái thành phố - đi dăm phút lại gặp nhau, trên những con dốc, những mái nhà ngói nhỏ thấp thoáng cao thấp trên những sườn đồi. Con gái Đà Lạt má đỏ, môi hồng, da trắng tóc dài giản dị mà duyên dáng nhẹ nhàng như con gái Huế. Những chiều nắng vàng, tôi trốn bạn bè lên đồi Cù, nằm một mình dưới gốc thông, lắng nghe gió thổi mơn man trên tóc trên da, có lúc đi bộ vòng vòng trước vườm ươm cây cạnh hồ Xuân Hương, có lúc một mình ngồi uống ly café sữa nóng tại nhà thủy tạ đợi chiều xuống. Rồi lại một mình đón xe đò về nhà. Đi xe đò, xe lam ở Đà Lạt cũng là một cái thú. Dù đi một mình hay với bạn bè.
Tôi yêu Đà Lạt như yêu Huế, yêu bờ sông Thạch Hãn. Rời Sài Gòn lên Đà Lạt, lúc đó tôi 16 tuổi. Quyết định một mình và ra đi một mình. Tôi bắt đầu hát trong night club ở Đà Lạt ngày 15-11-1962. Cái nhà hàng nằm ngay bên cạnh đường đi trại Hầm. Cũng từ ngày đó tôi tự coi tôi như người Đà Lạt, người của Đà Lạt. Không có một nơi nào của Đà Lạt mà tôi không đặt chân đến. Không có tiệm ăn nào, món ăn nào ở Đà Lạt mà tôi không nếm qua. Từ Mekong, Sanghai, đến tiệm Mì Quảng Ngọc Diệp có phòng tắm nước nóng, bà bún riêu, bán mắm cà chợ Hòa Bình, bao nhiêu năm sau dù đã rời xa Đà Lạt tôi vẫn ghé thăm mỗi khi trở lại. Phở Ngọc Lan, cơm thịt đông, dưa chua Bắc Hương, café Tùng... Gần như ngày nào tôi cũng có mặt. Cái thành phố lên cao xuống thấp, nhỏ như bàn tay, mọi người đều quen biết
nhau. Bây giờ người đã chết, người còn sống với bao nhiêu trách nhiệm bổn phận của gia đình. Nhắc nhớ là một chuyện không nên. Dù lòng tôi, tận trong thâm tâm tôi, tôi không hề quên. Có điều tự nhủ. Số phận. Mỗi người một phần số. “Dòng đời trôi quanh co có khi xui người lỗi hẹn hò”. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm một thời, còn mãi những mộng mơ...
Giờ tuổi đã lớn, con cái đã lớn, có những chiều mưa buồn một mình như chiều hôm nay, tôi chợt thấy lại sống trong những kỷ niệm tôi đã đào sâu chôn cất bao nhiêu năm... Tôi đã tự nhủ với lòng rằng tất cả chỉ là định mệnh, trời đã cho ta thế, ta nhận thế. Tôi đã hài lòng, an phận với hạnh phúc gia đình đơn sơ như hôm nay.
Lẽ ra tôi không nên viết những điều này lên báo. Nhưng khổ nỗi, tôi chỉ có thể viết được những điều tôi nghĩ, không thể khác hơn... Có những lúc cơn nhớ nhà nổi lên bất tử. Đang ngồi tự nhiên la lớn... Trời ơi nhớ nhà quá, nhớ Đà Lạt quá, nhớ Huế quá...
Tôi ở Đà Lạt 5 năm, ai kêu ai rủ về Sài Gòn cũng lắc. Đà Lạt với tôi là nhất. Đà Lạt như chỗ ẩn náu thần tiên, người Đà Lạt thân thiết yêu thương tôi. Nhưng sau cùng tôi phải cắn răng bỏ Đà Lạt ra đi, để bước vào một định mệnh khác. Một hạnh phúc. Một bất hạnh khác. Sau đó nhiều lần tôi trở về thăm Đà Lạt như đứa con xa về nhà, không xa lạ như một người khách bất chợt trên đường ghé qua. Lần sau cùng tôi và một người của Đà Lạt về thăm nhà nhưng cây cầu La Ngà đã gãy, chúng tôi phải trở về. Từ đó tôi không bao giờ thấy lại người đó của Đà Lạt và cũng không bao giờ hy vọng về nhà nữa. Những đêm ngồi một mình đến 4 giờ sáng, nhiều lúc quạnh quẽ cô đơn, tôi nhớ Đà Lạt biết đến chừng nào. Nhất là café Tùng, bến xe đò Minh Trung và con đường hun hút thông reo qua hồ Than Thở đến trường Võ Bị. Từ ở đó, cuộc đời tôi qua nhiều khúc quanh, từ ở đó nơi đêm đêm tôi hát “Đời ca hát ngày tháng cho người mua vui.” Nơi tôi khóc ngày mới đến, tôi khóc ngày ra đi, tôi đã tiếc nuối không được trở lại để sống cho niềm mơ ước của mình một lần.
Có còn bao giờ không em. Còn có bao giờ không anh. Có nỗi bùi ngùi bay đi thầm lặng, có ai nghe thấy tiếng thổn thức đó chăng? Hay chỉ mình tôi, tôi nghe tiếng tôi thở dài trong đêm với Đà Lạt, với niềm mơ ước của tôi.
“H
4
Hôm Nay Thức Dậy
ôm nay thức dậy không còn thấy mọi người, không còn thấy mặt
người. Vây phủ quanh đời nói tiếng yêu thương” (Trịnh Công Sơn). Hôm nay thức dậy. Một mình. Bao nhiêu mệt mỏi của một cuối tuần. Bây giờ mới thấm. Tôi như người mộng du. Ở San José, mở mắt dậy, tưởng ở nhà. Về đây rồi. Còn tưởng sáng San José 6, 7 giờ sáng khi mọi người thức dậy, các con đi học thì tôi... ngủ. 3 giờ chiều mới mở mắt. Ngày hay đêm. Ở đâu đây. Chẳng biết. Chẳng cần biết. Mấy chục năm như thế rồi. Giờ đã gần cuối đời. Có cần thiết phải thay đổi một... thói quen. Một thói quen mọi người cho là... xấu. Khó chịu. Nhưng đáng yêu với tôi. Thói quen nào cũng đáng yêu. Yêu người, thương áo quen hơi ngọt ngào. Yêu đêm tối có nỗi cô lẻ mênh mông. Hơi áo người yêu. Tôi không chia cho ai. Đêm tối bao la kia. Không ai chia cho tôi. “Một người điên trong thành phố.” (Trịnh Công Sơn).
Đi. Về. Rồi lại đi, về. Cứ như thế. Chẳng cần biết nơi mình đến trời có xanh? Nơi mình về trời có vui? Những thành phố giống nhau đến nhàm chán. Những khuôn mặt da trắng, tóc vàng, mắt xanh... nhìn hoài nhìn mãi. Tôi đi ngơ ngác, chán chường với một điểm hy vọng nhỏ nhoi. Đến với người mình còn yêu. Còn yêu mình.
Trời đã vào Thu. Cơn mưa bất chợt phủ trùm thành phố. Vẫn tìm đến như đã tìm đến nhau. Mưa ngoài trời. Mưa trong lòng, trong mắt, trong cả môi cười. Đến với nhau. Lòng như đại dương. Tình như non cao. Giữa đời suối khe. Mưa nữa đi. Lạnh thêm chút nữa. Cho lòng thêm chút ấm. Vẫn chưa đủ, vẫn còn xa quá. Bao nhiêu cho đủ. Bao nhiêu cho vừa. Xuân. Không thấy Xuân vui. Hạ không thấy lòng bớt nhớ những chiều qua phố xưa. Thu. Nỗi nhớ nhiều hơn. Nhớ nhiều quá. Yêu nhiều quá những cơn mưa phùn Đà Lạt, những con dốc nhấp nhô, mái nhà ngói đỏ phơi mình giữa màu xanh của lá. Chưa lạnh lắm nhưng đủ để thu mình ở một góc nhỏ café Tùng. Hơi nóng từ ly café chuyền qua ấm dần hai tay giá lạnh. Thú vị lắm. Ngồi ở nhà thủy tạ, một mình nhìn mưa bay trên hồ Xuân Hương. Mưa bay dịu dàng. Nỗi buồn cũng dịu dàng. Trong cơn điên dịu dàng. Mướn taxi chạy xuống phi trường
Liên Khương. Không đón đưa ai. Đến để nhìn mọi người đưa đón nhau. Xem vui buồn đến đâu. Chạy lên phi trường Cam Ly, cũng chẳng đến đưa ai. Phi trường vắng lặng. Phi đạo nằm xoải im lìm chờ đợi. Như một người chờ một người. Người không đến thì ta đi. Phi đạo nằm lại. Tiếp tục chờ đợi. Nắng. Mưa. Ngày. Đêm. Phi đạo Cam Ly vẫn còn đó.
Bốn mùa buồn. Bốn mùa chờ đợi. Một chờ đợi dịu dàng. Nhớ Sài Gòn. Chạy ra chợ Hòa Bình rinh một sọt chuối Laba. Nhảy lên xe đò Minh Trung. Đi ghé Định Quán ăn cơm thịt heo quay. Xe ghé Định Quán cũng lại cơm. Tới Sài Gòn chỉ ở lại một ngày. Làm một vòng Sài Gòn Chợ Lớn. Phân phát hết sọt chuối. Lại nhảy lên xe Minh Trung về lại hồ Than Thở. Nhưng không thở than.
Một thời 20 rất bụi đời, rất vỉa hè. Đến như gió. Đi như gió. Từ đâu tới. Đi về đâu. Không biết. Không cần biết. Đáng yêu biết bao những ngày tháng sống lãng đãng như mây trời, biển khơi. Phà khói thuốc vào sương mù Đà Lạt. Buổi sáng thức dậy, ngửi mùi thơm của thông. Nghe thông reo nhè nhẹ. Mặc áo len cổ tròn, quàng cổ, quần jean, thế là... xuống phố. Có lúc đi giữa mưa vẫn nghe tiếng chân mình rộn rã reo vui trên mặt đường loang nước. Ở ngã tư. Xe đò, xe lam từ hướng Chi Lăng chạy ra. Bước lên xe ngồi xuống. Bao giờ tôi cũng ngồi ngoái lại trường tiểu học Phan Chu Trinh nằm bên kia đường. Tôi đã học ở đây năm 1956. Xe qua nhà vãng lai dành cho các sĩ quan Không Quân nghỉ mát. Qua ga xe lửa. Tiệm phở ở ga ăn cũng khá. Đổ một con dốc. Rồi một con dốc nhỏ nữa, qua nhà thương Soyer, trường Yersin. Xe cứ chạy. Bên trái là sân vận động, sân tennis. Khách sạn Palace. Đường rẽ lên nhà thờ chính tòa Đà Lạt. Bên phải là hồ Xuân Hương. Vòng theo một bùng binh. Ngang qua khu quân vụ thị trấn, xe đò lên dốc. Vào bến đậu ngay cạnh café Tùng. Vào làm một ly đã. Mọi chuyện tính sau. Ngày nào cũng thế, năm nào cũng thế. Không thay đổi.
Không ai có thể “bẩy” tôi ra khỏi Đà Lạt lúc đó, dù là ông Cương khểnh, dù là ông Trịnh Công Sơn. “Sợi tóc em bồng trôi nhanh. Trôi nhanh.” Mỗi người một đời nhỏ nhoi, mỗi người một góc trời nhỏ nhoi. Sơn không biết gì về tôi. Tôi không biết gì về Sơn. Không cần thiết. Sơn không bao giờ hỏi. Tôi không bao giờ hỏi. Một người hát nhạc một người. Anh Sơn và Mai.
Tôi chỉ thực sự là tôi. Thực sự hạnh phúc khi được hát. Sau này nhạc anh
Sơn. Đó là Trịnh Công Sơn. Không bao giờ hối tiếc. Sau này có ông Trầm Tử Thiêng. Tôi không bao giờ hối tiếc. Trong đời, tôi cũng đã gây nên nhiều lầm lỡ. Ân hận hối tiếc đã nhiều. Những vấp ngã ít người tránh khỏi. Nhiều hay ít mà thôi. Song trời đưa đẩy tôi gặp Sơn. Trời cho tôi những ngày đẹp đẽ đáng yêu nhất. Tôi không bao giờ hối tiếc. Nếu có kiếp sau. Tôi cũng xin gặp lại Sơn, như đã gặp. Ở Đà Lạt. Ở Việt Nam. Ở trong đời.
Mùa Đông cũng đã gần kề. Mùa Đông Đà Lạt như mùa Thu kéo dài. Thêm chút lửa ấm từ lò sưởi ngọt ngào mùi gỗ thông. Đêm Đà Lạt bao giờ cũng lạnh. Hơn, kém một tí cũng không cho ta thấy rõ mùa đang chuyển. Bốn mùa xoay quanh những thói đáng yêu... Hương café thơm ngát qua bao nhiêu suối khe đồi núi. Dốc tháp, dốc cao. Mái nhà ngói đỏ và mùi thơm của gỗ thông. Tôi yêu Đà Lạt vô chừng. Như một người tình. Hơn một người tình. Tôi rời Đà Lạt không ngờ, như khi đến. Rời xa mà vẫn yêu. Yêu nhiều hơn vì trong cái yêu có cái tiếc nuối mặc dù sự việc rời bỏ Đà Lạt năm 1967 đã đưa tôi đến một đổi thay, đến một hạnh phúc may mắn không bao giờ tôi dám nghĩ đến. Năm 1964 khi Trịnh Công Sơn rủ tôi về Sài Gòn đi hát với anh. Tôi từ chối. Không phải vì không yêu nhạc Sơn. Nhưng lúc đó tôi yêu Đà Lạt hơn. Cái lối sống xô bồ, ồn ào mánh mung của Sài Gòn không hợp với tôi. Trong khi đó Đà Lạt là thiên đường. Êm ả, trong sáng. Sài Gòn đó không có một chỗ đứng nào cho tôi. Là một người không hề có một chút tham vọng. Thích an phận, bằng lòng với những điều mình có. Một đứa con gái tầm thường như tôi. Những ngày tháng ở Đà Lạt đã là một an ủi quá đủ rồi. Với làm chi những điều quá xa vời. Cũng không hề mơ ước một đổi thay. Hơn thế nữa con người tôi, tâm hồn tôi hợp với Đà Lạt hơn. Thế mà rồi tôi đã rời xa nơi chốn đã cho tôi biết bao ngày tháng đẹp đẽ trong sáng.
Một ngày của năm 1967. Tôi đến Nha Trang. Vùng biển xanh, cát trắng. Không một chuẩn bị nào cho nơi chốn mới. Thì cũng đến hát là cùng. Vẫn còn cơ hội để không trở lại Sài Gòn. Một vài tháng phù du đủ làm đời tôi nổi sóng. Nha Trang không có gì quyến rũ. Nha Trang tầm thường quá so với Đà Lạt. Nhưng tôi không muốn trở về Đà Lạt. Nơi tôi muốn ở nhưng vẫn phải đi. Trên một chuyến xe đò. Tôi và các con tôi trở lại Sài Gòn. Một nơi cũng đã làm tôi sợ hãi. Cùng với hạnh phúc tuyệt vời. Tôi cưu mang cho đến cuối đời.
Mùa Thu nhẹ nhàng cho những tâm hồn đa sầu, đa cảm, đa tình, lãng mạn. Gợi biết bao nhiêu cảm hứng cho thi, văn, nhạc sĩ. Mùa Thu là mùa đẹp nhất trong bốn mùa. Đông đến. Mùa Đông ở xứ Mỹ bàng bạc khắp nơi màu trắng của tuyết. Cái lạnh lẽo bao trùm cả trời đất. Cả lòng người. Nhất là những người xa quê hương lưu lạc trôi nổi. Giáng sinh đã gần kề. Gần lắm rồi. Ở đây Giáng sinh được đón chờ nhiều hơn Tết Nguyên đán. Bà con gửi thiệp cho nhau. Quà cáp tặng nhau. Người lớn, trẻ con. Ai có phần nấy. Rộn ràng nhộn nhịp trong tiếng nhạc đón mừng con Đức Chúa Cha xuống trần gánh chịu tội lỗi của loài người. Và tội lỗi đó vẫn tiếp tục một cách thản nhiên. Chắc Chúa cũng phải hối hận khi đặt loài người trên tất cả mọi loài. Nhưng dù gì, mọi người, mọi nơi đều rộn ràng chờ đón Giáng sinh. Giàu có thì huy hoàng. Nghèo khó cũng ráng cho được một cây thông nhấp nhánh những ngọn đèn xanh đỏ, tím vàng. Gọi là có với gia đình. Ấy, đôi khi nghèo mà vui. Bạn bè vài ba người quây quần bên mâm cơm. Ôn lại kỷ niệm cũ. Bạn bè cũ. Đứa nào còn, đứa nào đã về với Chúa. Hạnh phúc, niềm vui, không tìm được ở nơi chốn ồn ào náo nhiệt. Ở những nơi đó thường thiếu sự thật thà, sự tử tế. Bởi có những người đến với nhau không có lòng thật thà, không có lòng tử tế. Bởi cả hai điều này ngày càng ít đi.
5
Bỗng Nhiên Gặp Lại Nơi Này Ở
đâu và bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe tiếng anh nói cười, tôi đều cảm thấy một nỗi yên tâm vô cùng... “Ồ, Mai hả, có qua không?”. Tôi cười... “Em cũng chưa biết tính sao, để xem đã nghe anh...” Miệng thì nói vậy, sáng hôm sau tôi đã có mặt ở phi trường. Chuyến bay cất cánh lúc 7 giờ sáng.
Trời lúc đó đã sang tháng 4. Tuyết vẫn phủ trắng xóa hai bên đường từ phi trường về nhà. Hình như cái gì vào lúc sắp hết cũng mạnh mẽ thêm, như ánh lụa, như cơn nắng, như mùa Đông, như tình yêu - rồi mới chịu dứt hẳn, mới chịu buông tay chấp nhận. Cũng may, tôi chuẩn bị áo lạnh đầy đủ vậy mà cũng không tránh khỏi những xuýt xoa.
Tôi đi thẳng lên lầu, rón rén bước vào phòng. Anh đang ngủ. Giấc ngủ buổi chiều. Khuôn mặt gầy, xương xương góc cạnh. Cái kính gọng vân vân như đồi mồi để trên cái bàn nhỏ đầu giường. Anh gầy quá. Tôi bước lại gần anh hơn. Rất nhẹ nhàng, tôi cúi xuống nhìn mặt anh. Tôi không nghe thấy hơi thở của chính mình. Tự dưng tôi muốn hôn lên trán anh. Tôi không làm thế. Tôi muốn nắm lấy bàn tay rất gầy có những ngón thon dài, đặt trên ngực. Tôi không làm thế. Và cũng rất nhẹ nhàng như khi bước vào, tôi ra ngoài phòng khách ngồi nói chuyện với Tâm, Tĩnh, và anh Thích.
Anh bước ra, tay vuốt tóc, tay chỉ tôi... “A, tới rồi. Tới hồi nào vậy?” Giọng anh không hề có chút ngạc nhiên, làm như cái chuyện tôi đến, anh đã biết. Ngày xưa cũng thế.
Chúng tôi ôm choàng lấy nhau và đến lúc này tôi mới cảm nhận rằng, chúng tôi thực sự có nhau. Không phải trong một giấc mơ kéo dài 17 năm. Tất cả chúng tôi ngồi bên nhau.
Hình như chưa bao giờ chúng tôi nói với nhau nhiều dù ở bất cứ một đề tài, một lãnh vực nào. Hình như chúng tôi có cách nói mà chỉ hai chúng tôi hiểu được. Một cách nói ở bốn con mắt im lặng. Cũng có lúc, cả hai chúng tôi bị lôi cuốn vào câu chuyện vui của mọi người. Nhưng đó là những điều hoàn toàn không dính líu, liên quan đến những điều thực sự chúng tôi muốn nói với nhau. Tất cả những điều cần nói, chính là những điều không bao giờ
nói ra bằng lời.
Buổi chiều tuyết rơi kín mặt hồ, chúng tôi đi bên cạnh hàng cây đầy hoa. Hoa tuyết. Nói chuyện bâng quơ, không có gì rõ ràng được đặt ra, không có gì thắc mắc, không có khoảng cách 17 năm để phải ngỡ ngàng. Tôi ngỡ như vừa từ Sài Gòn ra Huế thăm anh. Anh từ Huế vào Sài Gòn. Chúng tôi uống café tại La Pagode. Tôi tưởng sẽ có nhiều điều, để hai anh em nói với nhau. Nhưng cả hai đều không nói gì cả.
Bao nhiêu ngày tháng đã đi qua giữa chúng tôi. Anh vẫn không bao giờ thay đổi. Tôi cũng thế. Cả hai không có những thắc mắc về đời sống của nhau bởi 30 năm trước đã không hỏi thì 30 năm sau cũng không hỏi... Tôi quý những giây phút ở bên anh và tôi nghĩ anh sẽ nói với tôi điều cần nói, nếu có. Anh im lặng cũng có thể vì những điều anh nghĩ, anh muốn, không còn cần thiết phải nói ra.
Trong một căn phòng, không phải bên cạnh sông Hương mà ở ngay giữa lòng thành phố Montreal. Bên ngoài tuyết rơi, chúng tôi ngồi với nhau, những người bạn cũ. Hát lại những bài hát ngày xưa. Hoặc những tình ca mới. Mỗi người một ly rượu, khói thuốc mù mịt, mỗi người ngồi sát nhau trên chiếc thảm, trước lò sưởi... Không ai cảm thấy lạnh. Không chút lạnh lẽo nào giữa chúng tôi trong căn phòng nhỏ. Anh hát đi. Không Mai hát đi. Giang hát đi. Mai ngâm thơ đi...
“Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm không ngắn mà trời cứ mưa. Ở đây tôi sống như thừa. Có đem men rượu tẩm vừa lòng nhau.” (Nguyễn Bính). Cũng mùa Đông, một đêm nào đó, năm 1974 ở nhà anh chị Lễ ở Huế. Ngôi biệt thự bên cạnh sông Hương. Ngoài trời cũng tối và lạnh như đêm nay. Mùa Đông ở Huế. Chúng tôi cũng ngồi sát nhau như đêm nay. Lúc đó tôi vừa 30 tuổi. Tóc vẫn còn xanh. Lòng còn tha thiết yêu đời sống. Một buổi sáng tôi bỗng thấy mặt trời lên cùng tôi và biển cả. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi nhớ mùa Đông ở Huế. Mùa Đông ở Huế và anh.
1 mùa Đông lặng lẽ đi qua, tôi vẫn nhớ những ngày âm u lạnh lẽo của Huế. Tôi có thể quên nhiều điều, tôi có thể quên tất cả để chỉ nhớ về những con đường của Sài Gòn - nơi tôi đã ở và đã từ đó ra đi... nhưng không bao giờ tôi quên được những ngày tháng ngắn ngủi, vội vàng ghé Huế. Đến vội
vàng. Đi vội vàng mà chẳng thể nào quên được. Một thứ tình lạ thường đã trói buộc Huế trong trái tim tôi. Một trói buộc mơ hồ nhưng mạnh mẽ, đằm thắm. Tôi lớn trong hơi thở có Huế. Chính Huế cho tôi hơi thở.
Bây giờ là cuối Đông. Những bông tuyết bay trong chiều, đậu trên những cành cây trụi lá, gầy guộc. Chúng tôi đi bên nhau. Tia nắng dịu dàng đậu trên những bông hoa nhỏ bé, lấp lánh, tấm thảm dầy trắng tinh, chỉ có vết chân bé nhỏ của những chú sóc nghịch ngợm chạy tới ăn những hột bắp rang no bụng mà anh liệng ra để dụ chúng lại gần. Anh cười vui, ánh mắt long lanh thơ dại. Tôi ít thấy anh cười mà cũng không bao giờ thấy anh tỏ vẻ buồn bã.
Chúng tôi tìm đến một thân cây lớn, một nửa ngập dưới tuyết, ngồi nghỉ chân. Tuyết vẫn rơi. Chỉ có hai chúng tôi giữa một vùng trắng mênh mông yên lặng. Chẳng lẽ không có gì để nói, không còn gì đáng nói sau mười mấy năm vắng nhau? Có chứ. Anh đã nói, không phải với riêng tôi, mà ở những bài hát. Tôi đã nghe và hiểu từ đó...
“Có đường xa mà gió chiều quạnh quẽ. Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên... Tôi là ai mà còn khi đau lẻ. Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai. Là ai. Là ai mà yêu quá đời này... Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo. Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo...”
Tôi bỗng thương anh thêm và càng quý trọng những giây phút bên anh. Cũng vội vàng, ngắn ngủi như những lần tôi ghé Huế. Tuy nhiên, tôi nghĩ, như thế có lẽ tốt hơn. Bởi vì những điều như thế đã cho tôi cái cảm tưởng là không hề bao giờ, giữa chúng tôi có cái khoảng cách 17 năm. Lá vẫn rơi trên lối chúng tôi đi. Những khóm hoa nắng vẫn lấp lánh trên đường chúng tôi đi. Tất cả vẫn rất còn rực rỡ.
Quay về căn phòng nhỏ. Ánh lửa như hồng thêm, ấm áp thêm bên ly rượu màu hổ phách, cay nồng. Cởi áo lạnh ra, trông anh gầy hơn xưa nhiều song so với lần gặp nhau ở Paris năm 1989, anh có vẻ khỏe hơn. Bên cạnh anh là Hoàng Xuân Giang của quán Văn ngày xưa. Giang đã có vợ, con gái lớn rồi. Hoàng Xuân Sơn cũng đùm đề một gánh thê nhi nặng trĩu hai vai. Phạm Nhuận to béo hơn xưa, vui vẻ cười nói ồn ào bên cạnh Hoàng Xuân Sơn nhỏ nhẹ thư sinh. Hoàng Xuân Giang vạm vỡ khỏe mạnh như loài cây hoang trong rừng già và anh, anh mỏng manh và thật đằm thắm. Nhìn quanh, tôi thấy như mình đang sống trong thần thoại 20 năm là đây. Chỉ ở một buổi
chiều cuối đông tại thành phố Montreal. Còn ai nữa nhỉ? Chắc chắn là còn thiếu một vài người. Trong tôi, một thoáng ngậm ngùi.
Chúng tôi chia tay nhau, dưới ánh đèn đường vàng vọt, trước cửa nhà anh Quế. Mai gặp lại. Anh và tôi trở về nhà Tâm. Nỗi vui làm tôi khó ngủ như ngày xưa sau mỗi buổi hát, chúng tôi thường ngồi lại với nhau, chia cho cạn niềm vui còn sót lại. Những niềm vui không thể để vung vãi, bỏ phí. Phải uống hết, phải nuốt hết vào lòng. Chúng tôi đã sống bằng những niềm vui không nhiều trong đời. Tôi tự cho mình là cái bóng của anh và cũng được hưởng niềm vui đó.
Tôi mở cửa phòng rất nhẹ. Anh đã ngủ yên. Chỗ tôi nằm cách chỗ anh một sải tay. Tôi khẽ nằm xuống, kéo mền len, nhắm mắt dỗ giấc ngủ. Tôi nghĩ lát nữa đây, khi mặt trời lên trên thành phố này, khi tôi thức dậy, tôi sẽ nhìn thấy anh. Tuyết vẫn bay ngoài cửa sổ nhưng ngày sẽ đẹp.
Anh dậy rất sớm và việc làm đầu tiên trong ngày của anh là ra khỏi nhà. Tìm đến một quán café, ngồi đó hút thuốc và nhìn người qua lại trên đường phố... “Phải nhìn thấy mọi người, một ngày không thấy ai, buồn dễ sợ”. Tôi nhìn anh cười không nói. Cái nhìn và nụ cười là câu trả lời. Ngày xưa anh cũng thế. Chúng tôi cùng nhau xuống phố. Vẫn im lặng đi bên nhau với nỗi hân hoan hạnh phúc không thành tiếng... “Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi. Đường đến anh em, đường đến bạn bè. Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát. Để thấy tiếng cười rộn rã bay...”.
Đó là những điều rất thật thà anh đã nói, đã làm, để sau cùng “Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống, vì đất nước này cần một trái tim. Và như thế tôi đến trong cuộc đời. Và như thế tôi sống vui từng ngày. Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi”.
Tôi thấy anh yêu đời thật sự. Anh cười với ông Phạm Duy, ông Trầm Tử Thiêng, ông Duy Khánh và các bạn qua điện thoại. Anh hát và chỉ cho tôi, cắt nghĩa cho tôi những bài hát mới. “Nhớ đừng có hát như trả bài nhé.” Giọng anh hát khỏe hơn lần gặp ở Paris.
“Thôi anh hát đi, anh hát hay hơn em.” Anh cười, mắt anh cũng cười. “Anh bao giờ cũng hát hay hơn Mai.”
Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày tháng của năm 1967. Chúng tôi, những
người bạn nghèo, đến với nhau, gắn bó không ngờ. Gia đình anh giàu, gia đình Hoàng Xuân Sơn, Hoàng Xuân Giang cũng giàu. Nhưng cá nhân chúng tôi đều nghèo. Một đĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly café cùng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhàu nát trải dưới đất. Tình bạn, tình anh em nảy mầm ở đó. Quán Văn, cái tên quán dễ nhớ và dễ thương, mọc lên chơ vơ giữa lòng Sài Gòn trăm ngàn màu sắc. Những tấm ván ép hư bể, được ghép lại, nhỏ hơn cái bếp ở đây, chỉ dành làm chỗ pha café. Mọi người tới tùy tiện tìm chỗ ngồi trên cái nền xi măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp đẽ nhất của một thời tôi còn trẻ.
Chúng tôi không hề biết ngoài đời có gì vui. Chúng tôi không cần thiết biết vì niềm vui đã có. Rất đơn sơ mà thắm thiết không rời. Đến với nhau qua sự run rủi của định mệnh. Không thề thốt, không hứa hẹn... Đến và ngồi với nhau. Một lần rồi thì có nghĩa là mãi mãi. Giang đó, Sơn đó, Nhuận đó, Thảo đó, anh và tôi... từ những ngày lăn lóc đó cho đến bây giờ vẫn không dời đổi. Qua những bài hát của anh, sự kết hợp những người trẻ thật khít khao vừa vặn. Ai đến cũng được, ai đi cũng được...
“Em theo đời cơm áo. Mai ra phố xôn xao. Bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...”. Tôi có cảm tưởng đó là một lời trách móc anh dành cho tôi. Rất dịu dàng như bản tính anh. Từ bao nhiêu năm nay, câu hát đó theo tôi như một vết thương. Đời cơm áo quả thật đã cho tôi lắm ê chề, khổ đau, nhưng những ngày yêu dấu bên anh và bạn bè chẳng bao giờ tôi quên... dù đời sống có làm tan vỡ, có làm chìm sâu những mơ ước của một đời người – thì trong trái tim bầm giập của tôi, những ngày tháng cũ vẫn là một điểm son, là một bám víu cuối cùng và duy nhất...
6
Đông Phong
C
ũng một ngày như ngày hôm nay, nhưng vào Đông, hình như nó dài hơn, chậm hơn, lê thê hơn và đương nhiên là buồn hơn. Mùa Đông 1975. Giá mà lúc đó có ai bảo tôi rằng... Mày sắp bị bứt lìa ra khỏi nơi chốn này, mãi mãi và mãi mãi... Sức mấy mà tôi tin. Làm sao có chuyện đó xảy ra cho được. Nhiều năm sau đó, tôi vẫn khư khư mãi cái ý nghĩa đó. Chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua và khi ngày đến, tôi vẫn mở cánh cửa nhà tôi, căn phố số 12-14 đường Tự Do.
Tôi sẽ đi xuống nhà từ phòng tôi, bằng cái cầu thang xoáy trôn ốc bằng sắt sơn đen. Ngay đầu cầu thang là nơi mỗi đêm tôi ngồi trong bóng tối nói chuyện điện thoại. Quảng Trị. Hương Điền. Sài Gòn. Ở mỗi đầu nỗi nhớ, có một người. Xuống hết cái thang ấy là căn phòng nhỏ tôi thường dùng để ăn cơm. Căn phòng nhỏ lắm mà tôi vẫn cảm thấy nó mênh mông bởi tôi chỉ có một mình bên mâm cơm... Chỉ một lần, gió tây, Đông phong thổi qua Sài Gòn. Bữa cơm có rau dền luộc chấm tương và hai người ngồi đối mặt mà chưa dám nhìn thẳng mắt nhau.
Hình như tất cả bắt đầu vào những ngày Đông rét mướt bên dòng sông loang trắng ánh trăng. Đốt hai ngọn nến, Sơn dạo một khúc nhạc và tôi bắt đầu hát. Chai Hennessy cổ đen... chia đôi nhé... Tôi đến thành phố đó những ngày mưa gió rét mướt để tìm cho mình một chút ấm. Ngày Đông, đêm xuống nhanh. Tôi từ giã. Sơn đứng trên lan can nhìn theo chiếc xe xích lô chở tôi giữa đường phố vắng lặng, giữa hai hàng cây Sơn ngắm mỗi ngày. Hai hàng cây thắp nến để anh nhìn thấy... “Mầu nắng bây giờ trong mắt em...” Mỗi khi từ giã, Sơn không bao giờ cản, tôi không bao giờ nhìn lại. Như thế, lâu thành thói quen. Lẽ ra tôi không nên về như thế. Lẽ ra tôi nên ở lại nhà Sơn với Thúy, Tâm, Ngân, Diệu và Trinh. Năm cô em gái xinh đẹp, vui tươi như một bầy chim. Phải, lẽ ra tôi nên ở lại nhưng tôi lại đi. Một mình trở về căn phòng trọ bên cạnh bờ sông.
Lữ Quán có vẻ vắng. Ai tới đây giữa ngày đông tháng giá. Người tiếp tân có lẽ đã đi ngủ. Sảnh quạnh quẽ một mình tôi ngồi đó. Điếu thuốc cuối cùng
cầm trên tay. Tôi không châm vì không có lửa. Những điểm sáng chợt nổi rõ trong bóng tối, từ từ tiến lại gần tôi. Ánh lửa lóe lên. Hai con mắt lóng lánh ẩn giấu một niềm vui ngời ngời. Nụ cười thật tươi, thật rạng rỡ phô hàm răng trắng phóng đều tắp như những hạt bắp. Mấy năm rồi không gặp, cả hai cùng ngượng ngập, không biết phải nói gì. Những bàn tay đan vào nhau bối rối. Làm sao dám nắm lấy tay nhau? Chỉ gặp rất tình cờ như đã tình cờ gặp hai năm trước, chào hỏi nhau bình thường và rất... lễ độ. Thế thôi. Khuôn mặt đó có nhìn lại mới nhớ rằng mình đã có gặp, có chuyện trò quen biết. Cái tên gọi hình như đã nhạt trong trí nhớ tôi. Gọi nhau bằng gì bây giờ... Ông... Hơi xa lạ quá... Anh... Hơi thân mật quá... Cấp bậc... Hơi khách sáo quá... Sau cùng hai bàn tay cũng nắm lấy tay nhau như hai người bạn. Và anh nói trước. Cũng chỉ là một câu thăm hỏi thường tình, tôi bỗng cảm thấy yên tâm.
Chiếc xe Jeep lùn có ăng-ten, có máy truyền tin thỉnh thoảng lại kêu ồm ồm làm tôi giựt mình. Có phải chiếc xe này chúng tôi đã từng ngồi một lần sau mùa mưa 72 cũng tại thành phố này. Tôi không dám hỏi nhiều bởi không hiểu vì sao tôi bỗng cảm thấy lúng túng, tay chân như thừa thãi, chẳng biết để vào đâu... “Anh đưa Mai qua phố kiếm thuốc lá. Mai có thể mua thêm vài tờ báo hay mượn mấy cuốn truyện mà đọc...” Tôi vẫn chỉ im lặng. Cái im lặng bằng lòng. Xe chạy qua cầu. Mưa vẫn rả rích rơi, không lớn lắm nhưng gió từ dòng sông thổi hắt lên, mưa vỡ thành từng mảnh nước li ti bám vào mặt. Xe qua cầu, dãy phố nhỏ với những ánh đèn điện yếu ớt hiện ra trước mắt. Cả một con phố dài nằm im dưới mưa, tôi chợt hình dung ra cái ấm áp của một đôi vợ chồng trẻ, ấm áp ngồi bên nhau, ấm áp kể cho nhau nghe một câu chuyện gì đó rất vui rồi cùng cười hồn nhiên. Tôi có cái hình ảnh đó trong đầu là bởi vì tôi đang một mình, tôi đang tưởng là hai bỗng thoắt cái, chỉ còn lại một mình. Xe lại qua cầu trả tôi về Lữ Quán. Anh đưa tôi đến tận cửa phòng, chờ tôi mở cửa, bước hẳn vào trong phòng. Tôi đưa tay cho anh nắm như một lời từ giã. Cánh cửa ngăn đôi. Những bước chân anh đang xa dần và tôi... Mưa không lớn mà nhỏ hột như vậy chắc kéo dài đến ngày mai.
Không một tia nắng nào chiếu xuống thành phố vốn luôn luôn âm u vào mùa Đông. Đứng bên này sông nhìn qua bên kia, chẳng có gì rõ nét trong làn mưa lạnh căm. Ôi tôi đang buồn, đang khổ, ai khiến xui tôi đưa chân đến cái chốn âm u này. Nếu bảo là tôi chủ đích ra đây thăm Sơn, điều đó rất đúng
nhưng sao tôi không tá túc ở nhà anh. Muốn tìm đến một an ủi nơi gia đình Sơn thì cái lý phải như thế. Sơn và gia đình có bao giờ từ chối một chỗ cho tôi đâu? Đây đâu phải là lần đầu tiên tôi đến nơi này. Trong căn gác nhỏ đường Nguyễn Trường Tộ tôi đã nhiều lần tìm đến, sống rất thoải mái hồn nhiên cùng với năm cô em gái của Sơn. Như một người em, một người chị, một người con trong gia đình luôn luôn quây quần che chở lẫn nhau. Ai cũng sẵn sàng mở rộng vòng tay đón tôi.
Thật tình, tôi không dám. Tôi không dám hé môi về bất cứ điều gì bởi tất cả những điều tôi làm, dưới mắt Sơn, đều là những lỗi lầm lớn. Anh không hề nói gì nhưng tôi biết, tôi đã làm anh thất vọng nhiều vì những quyết định sai lầm của mình. Chính tôi, tôi cũng biết là mình sai nhưng lại không thể nào sửa chữa lại những sai lạc của mình. Tôi đã chọn một khúc sông nhiều sóng gió để vượt qua. Nửa đường rồi, sức đã đuối quá rồi, tôi biết là tôi phải bỏ cuộc thôi nhưng bỏ cuộc ngay giữa dòng bởi tôi không đủ sức lội tiếp hay trở lại.
Sơn và gia đình đón tôi rất thản nhiên. Không ai nhắc nhở gì về cái sai lầm không may mắn của tôi, coi như không có chuyện gì cả, như lần thăm viếng này là một điều như thế. Sơn vẫn im lặng đàn và tôi vẫn hát những tình khúc mới. Mùa Đông 1974, Sơn tập cho tôi bài “Một Cõi Đi Về” trong cái im lặng bình an đó, sét đã nổ trên đầu tôi, vào cái lúc tôi nhìn thấy cặp mắt lóng lánh trong đêm tối, ánh lên tia vui mừng và nụ cười rất trẻ thơ. Thủy chung Sơn vẫn không nói gì và tôi cũng vẫn im lặng.
Đấy, cái lênh đênh cơ khổ của tôi nó bắt đầu ở thành phố đó giữa những ngày cuối Đông. Ôi một cuộc hội ngộ rất tình cờ lại bày ra một thảm cảnh mà hậu quả tôi không lường trước được. Tuy nhiên, nếu lúc đó tôi biết trước được, có gì đảm bảo là tôi sẽ tránh né. Chắc là không bởi cho tới bây giờ, mùa Đông này nữa là mùa Đông thứ 20 của lần gặp lại đó, tôi vẫn nghĩ rằng nếu bây giờ sự việc cũ tái diễn, tôi cũng sẽ lại là tôi của 20 năm về trước. Nhưng làm sao còn tái diễn được nữa khi âm, dương đã đôi ngã. Tôi đã phụ người mất rồi.
Tôi gọi người ấy là Đông Phong. Ngọn gió Đông lạnh buốt nhưng lại làm lòng tôi ấm lại. Nếu tôi bảo rằng đó là tình yêu thứ nhất của đời tôi, điều đó cũng đúng bởi chưa bao giờ tôi biết yêu ai như thế. Cho đến lúc gặp Đông
Phong, tôi mới biết thế nào là tình yêu. Chúng tôi đến với nhau bằng những oan nghiệt từ cả hai phía. Đến với nhau rất muộn màng và ngắn ngủi. Một năm tròn, ngồi bên nhau chưa đếm đủ đầu mười đầu ngón tay. Chỉ nghe tiếng nhau, chỉ nhìn thấy nhau trên những lá thư hoen mờ mực tím. Chúng tôi mới đúng là những người ở hai đầu nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà ngay khi nghe bài hát... “Ở hai đầu nỗi nhớ” của Nguyễn Văn Tý tôi đã thích ngay - Tôi mường tượng thấy mình đứng trong mưa Đông. “Đếm mấy triệu hạt rồi mà chưa vơi nỗi nhớ...”
Tất cả đã nhốn nháo lắm rồi, nhất là ở những nơi hoang vu hẻo lánh, những thành phố nhỏ vùng cao nguyên, nơi mà sự xuất hiện của những người lạ mặt dễ bị nhận diện. Tôi vẫn đi. Từ Bình Dương, chúng tôi nói với nhau. Từ Cần Thơ, từ Mỹ Tho, chúng tôi vẫn như có ở bên nhau trong tiếng bom đạn gầm thét, dẫu biết rằng chẳng có thể làm được gì cho nhau. Qua tiếng nói lúc được, lúc mất, chúng tôi vui cùng vui, buồn cùng buồn. Cả hai đều cùng gầy guộc, hư hao trong niềm tin son sắt. Rồi có một lúc nào đó...
Mùa Đông 1974, tôi trở lại thành phố nhỏ bé đáng yêu có dòng sông Hương thơ mộng chia hai thành phố. Tay ôm hộp bánh sinh nhật đặt mua tại La Pagode, tôi leo lên chiếc máy bay C-130 tới Đà Nẵng. Rời tàu, lên xe Jeep, tôi vượt đèo Hải Vân... “Xe qua đèo, em nhớ cột tóc cẩn thận kẻo gió bay...” Lá thư màu mực tím của Đông Phong nằm im trong túi áo lạnh, tôi cười một mình khi xe qua đèo. Xe vào đến Huế, trời mù mịt ảm đạm xám ngoét và lạnh căm căm. Mưa như trút nước, mưa tối trời, tối đất. Mưa không thấy đường đất là đâu. Xe chạy giữa một vùng nước mênh mông, thấp thoáng xa xa lẫn trong mưa là những mái lá nhô lên trên mặt nước, những chiếc cầu cũ kỹ long hết cả đinh, có thể đổ sụm xuống bất cứ lúc nào cũng chìm dưới mưa, được nhận dạng từ những vòm gỗ, sắt đen ngòm ló lên mặt nước. Xe cứ chầm chậm bò từ từ đến Mỹ Chánh.
Hai người ngồi hai đầu bàn lặng nhìn nhau. Cái bánh sinh nhật còn nguyên vẹn. Toàn thân tôi lạnh ngắt, tôi tưởng mình biến thành người đá mất rồi. Sau cùng, Đông Phong ủ hai bàn tay tôi bằng hai bàn tay cũng lạnh như đá của anh. Lúc đó nước mắt tôi mới ứa ra và tôi khóc còn hơn mưa lũ bên ngoài. Đông Phong giữ chặt hai bàn tay tôi, anh không nói gì nhưng mắt anh buồn vô hạn. Anh thương tôi. Anh thương anh. Anh thương cho hai đứa.
Đông Phong thì cứ nhìn còn tôi thì cứ khóc, không nói được lời nào. Lâu lắm anh mới nói... “Em gầy quá...” Tôi nhìn anh. Ôi, làm sao tôi quên được cái nhìn buồn bã xót xa của anh... Anh đâu có hơn gì tôi. Tôi làm khổ anh rồi, tôi đã mang lại cho anh không phải là hạnh phúc mà chỉ là những nỗi đau, những muộn phiền. Rất nhiều thứ đã làm anh điêu đứng rồi, giờ thêm tôi, anh cũng phải gầy yếu hư hao thôi.
Nghĩ đến Đông Phong, nhìn thấy Đông Phong, tôi thù ghét chiến tranh, tôi nguyền rủa chiến tranh. Tôi không chấp nhận bất cứ lý do gì khiến cho những người yêu thương nhau phải mất nhau, trong đó có tôi. Song tôi chẳng làm được gì và tôi chỉ biết khóc. Thời gian gặp nhau bao giờ cũng ngắn ngủi, cả hai chẳng nói được hết với nhau những gì muốn nói. Một hai tiếng đồng hồ ở phi trường, rồi người lên tàu, người lên xe, mỗi người một hướng kéo dài thêm nỗi niềm. Vài chục phút im lặng bên nhau, trong nhà thờ La Vang đổ nát, bên tượng đài Đức Mẹ Fatima, bên mâm cơm có rau dền luộc, chỉ nhìn mà không ăn, cả hai không thể nuốt trôi được dù chỉ một hột cơm.
Đêm mừng Chúa ra đời ở Hương Điền có những ai? Ai làm gì, nói gì? Chúng tôi không biết. Tôi đứng hát, và chỉ thấy một đôi mắt đang nhìn tôi. Giáng sinh 1974 như thế đó. Chúng tôi chưa kịp nói với nhau một điều gì đã lìa xa. Tức khắc. Chiếc bánh sinh nhật được cắt ra sau lời cầu nguyện xin được bình yên trong đêm Thiên Chúa ra đời. Nhưng hình như tất cả mọi người đều buồn trong giây phút thiêng liêng ấy với chút bình an ngắn ngủi được tính từng giờ.
Chưa kịp mừng nhau chúng tôi đã lại chia tay. Nhưng không thể ngờ được rằng đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Mở ra vào những ngày đầu tháng 3-74. Nở giữa mùa Đông và tàn trong mùa Đông. 20 mùa Đông đã qua không đủ để xóa nhòa kí ức tang thương. Nhà tôi bảo... “Em nhớ là phải. Em nhớ cũng đúng. Chẳng phải ai cũng có một ký ức đẹp đẽ như thế đâu... Cả hai đều rất xứng đáng cho nhau, với nhau. Anh muốn dựng lại... chuyện tình của em và Đông Phong bởi anh cũng là người biết yêu cái đẹp, dù cái đẹp của em cũng làm anh đôi khi... nhức nhối đôi chút...” Và nhà tôi làm thật, anh đưa hình ảnh Đông Phong vào cuốn video “Một Đời Ở Lại”. Cuộn video kỷ niệm 50 năm Khánh Ly tuổi đời. 35 năm Khánh Ly trên sân khấu và 20 năm Khánh Ly trôi nổi xứ người.
Tôi để tất cả công việc cho nhà tôi lo, với một va-li nhỏ, tôi lên đường đi đến xứ xa. Tới đó, tôi lại có dịp nhìn lại đoạn đường mình đã đi, nơi chốn mình đang ở, những việc mình sắp làm trước khi... từ giã. Trong lòng tôi giờ phút này rực rỡ nhất vẫn là hình ảnh Trịnh Công Sơn, hình ảnh Đoan và các con, nhưng phảng phất đâu đó, tôi vẫn thấy một đôi mắt nào đó lóng lánh rất hiền, đang nhìn chúng tôi và mỉm cười. Đôi mắt và nụ cười trẻ thơ của Đông Phong.
"S
7
Cần Có Một Tấm Lòng ông vẫn chảy đời sông
Suối vẫn trôi đời suối
Sống giữa đời cần có một tấm lòng.
Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lạ lùng làm sao tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu. Không yêu Sài Gòn lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế. Huế nghèo, thành phố chỉ vài con đường chính, Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ lòng lạnh ra. Dường như Huế chỉ thực sự huyền ảo, nên thơ bởi những nghệ sĩ khi viết về quê hương mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình được sinh ra. Âu cũng không phải là điều làm cho ta ngạc nhiên.
Nhưng không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì như vậy tôi phải yêu Hà Nội hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn, phải yêu Ðà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu Huế, thỉnh thoảng gặp lại một vài người bạn, tôi năn nỉ “mi nói cho tau nghe chút cho đỡ “dzớ””. Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép nhẹ nhàng. Có một cái gì đó thật mong manh, như tơ, như sương khói, như một điều không có thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng như họ không phải là một sự hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo, chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả. Mười ba năm qua, chỉ xin nói vài câu cho đỡ nhớ “nhà”. Như thế là yêu đấy, nhiều mới khổ chứ. Dù tôi chỉ biết Huế sau tết Mậu Thân và không quá mười lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến, những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn nhắc đến “Huế của riêng tôi” và như vậy cũng có nghĩa là mở ra cánh cửa kỷ niệm, của những hân hoan, đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh, đeo đuổi tôi suốt mười ba năm qua... mười ba năm đã không thành, không nói. Thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi dù có thêm 100 năm nữa “hai mái đầu xanh giờ đã bạc” cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng thì cũng là kiếp sau. Nhưng “tình tưởng đã
yên mà tâm còn động vọng”. Thì ra mười ba năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Cố gắng bao che, tự dối mình. Chỉ là một cơn mộng. Ðêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn còn xanh với lời dặn “qua đèo Hải Vân nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em”.
Mộng đã tàn. Tôi đã tỉnh. Thì thầm một mình “khóc đi chứ”. Còn khóc được là biết mình còn sống. Còn khóc được là biết Huế còn đó trong trái tim, trong tận cùng nỗi khốn cùng của một kiếp người mà hạnh phúc đồng nghĩa với bất hạnh.
Tôi vốn là một đứa trẻ mồ côi cha. Học hành dở dang, vài năm trường Tây, vài năm trường ta. Trường học chẳng dạy tôi điều gì. Gia đình chẳng dạy tôi điều gì. Nên tôi tự dạy tôi ra đời năm 16 tuổi. Ði hát nhưng không bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành ca sĩ. Hát vì thích hát. Ðiều này tôi hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi ông bố có nhiều nghệ sĩ tính. Không có tình thương của bố, không hợp tính với mẹ. Ngoài ý thích được hát, tôi không biết mình phải làm gì. Ðời sẽ cho tôi những gì và tôi sẽ được những gì. Tôi quờ quạng sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng, nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia cho chai nước mắm. Nghèo mà vui, tôi không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi, từ bỏ. Tôi như một thằng con trai giữa đám bạn trai. Tuy không có cái cảnh vườn đào kết nghĩa nhưng cho đến bây giờ gần 30 năm qua, có đứa đã ra đi mãi, có đứa nửa điên nửa dại, có đứa nhà cao cửa rộng vợ con đùm đề. Thỉnh thoảng gặp lại tưởng 30 năm mà như một ngày. Cũng tưởng đời sẽ mãi lêu bêu cho tới ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là điều có thật thì điều đó đã đến với tôi một đêm mưa tại Ðà Lạt.
Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán cao, rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp tươi với chiếc răng khểnh. Người con trai đó nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Ðà Lạt đa số nói tiếng Huế nhưng hơi lai, nhưng Sơn là “Huế chay”. Sơn với hai bàn tay gầy guộc, những ngón tay dài, tài hoa, tháp cho tôi một đôi cánh, xỏ vào chân tôi đôi hài bảy dặm. Cô bé lọ lem lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường này bước sang một đoạn trường khác.
Từ Sơn tôi đã thành danh, nhưng đó cũng chưa hẳn là điều tôi mong muốn. Tôi có cảm tưởng như vậy. Có phải đời sống là như thế hay sao? Thế
là đủ hay sao? Nếu thiếu thì thiếu cái gì và tại sao thiếu? Ðời sống tầm thường thế thôi sao? Một đứa trẻ mồ côi bị gia đình hắt hủi - luôn thèm một mái ấm gia đình, một lời ngọt ngào của mẹ. Thèm từ một cái áo, một đôi giày. Mà phải gia đình nghèo khó gì cho cam. Chỉ vì... đúng là dưới một ngôi sao không mấy đẹp. Lúc sống lang thang như một thằng lãng tử, tôi thường tự hỏi mình có nhu cầu gì cho đời sống? Sống trong đời sống mình cần có những gì? Tình, tiền, danh vọng? Cho đến lúc nghĩ rằng mình đã có đủ những điều mơ ước tôi vẫn luôn luôn âm thầm. Hình như không phải như mình nghĩ. Cuộc sống, đời sống, con người sống trong đời chỉ tầm thường thế sao?
Có lúc tôi cảm thấy thèm thuồng cái hạnh phúc nhỏ nhoi của một cặp vợ chồng nghèo. Chồng đạp xích lô. Chỉ cần vài cuốc xe đủ tiền ăn một ngày là thôi. Ông ghếch xe lên lề đường làm đỡ tô mì, tô cháo cá cho ấm bụng rồi chở vợ con đi dạo mát. Ở cái hạnh phúc giản dị thiêng liêng đó đâu có tốn kém gì. Mà cần gì phải ông lớn, bà lớn, ca sĩ nọ, tài tử kia.
Một hôm tôi hỏi Sơn: “Sống trong đời mình cần phải có gì? Làm gì?” Sơn cười, ngón tay dài khẽ đẩy cái gọng kính đang trễ xuống. Câu trả lời ngắn gọn: “Cần có một tấm lòng”. Tôi nhìn Sơn: “Một tấm lòng?”. Ở giữa thế kỷ này, giữa thời gạo châu, củi quế, giữa thời giá trị con người được đánh giá bằng áo quần, nhà cửa, vòng vàng, hột xoàn... Một tấm lòng để làm gì? Sơn nhìn tôi, ngón tay lại đẩy cao gọng kính. “Sống trong đời ta luôn luôn phải sống với một tấm lòng, phải có một tấm lòng, dù không để làm gì cả, dù chỉ để... gió cuốn đi”. Tôi nhìn sững Sơn, không nhớ là bao lâu, nhưng chắc chắn là lâu lắm. Cứ ngồi nhìn anh, nhìn vầng trán mênh mông, cúi xuống thật thấp, ngón tay gẩy trên những sợi dây đàn. Chiều xuống lúc nào không hay, gió từ sông Hương thổi mạnh. Hình như trời muốn chuyển mưa. Hình như lòng tôi cũng đang chuyển động dữ dội. Một ánh sáng kỳ lạ nào đó vừa chiếu dội vào cõi u tối, ngu muội. Hình ảnh con nhỏ bụi đời lúc hàn vi chợt sừng sững trước mắt tôi. Cái ngõ tối lầy lội đường Phan Thanh Giản, cái nhà sàn cầu sắt Ða Kao. Những buổi chiều nằm trên đồi săn Ðà Lạt, khóc một mình. Tất cả chợt sống lại hay đúng hơn ở một lúc nào đó tôi đã chết. Và chiều nay bên dòng sông Hương êm đềm thơ mộng - vầng trán mênh mông, giọng nói dịu dàng, ánh mắt thăm thẳm bao dung, Sơn đã kéo tôi ra
khỏi cái chết ngu xuẩn. Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đời suối, đời người cũng đã sống và hãy thả trôi đi những miền đau.
Hai mươi năm qua tôi đã sống như lời Sơn nói, như điều Sơn muốn. “Còn ai thấy được hay không điều đó không cần thiết. Chỉ cần Sơn không thất vọng là đủ rồi”.
Những ngày tháng ở Huế, gần Sơn và gia đình. Ðó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đời tôi. Sáng Ðông Ba, chiều Vĩ Dạ, tối họp nhau ở Cercle hay nhà anh chị Lễ, đàn hát, ngâm thơ. Sơn yêu thơ Nguyễn Bính, bắt tôi ngâm đi ngâm lại bốn câu:
Mà sao giấc ngủ không dài
Mà đêm ngắn xuống mà trời cứ mưa
Ở đây tôi sống như thừa
Có thêm men rượu tạm vừa lòng nhau.
Có bao giờ Sơn hiểu rằng dù rượu có hết mà sầu vẫn không vơi. Sơn ơi! Huế ơi!
“Nỗi sầu cứ như tóc bạc, cứ cắt lại dài ra...”
Đ
8
Thương Thay! Bi Thay!
ang ở vào những ngày cuối Xuân. Miền Đông vẫn hứng chịu cơn bão
tuyết, đất trời mờ mịt cùng người ở lại trong giá lạnh buốt cóng. Cali lại có những ngày nóng đổ lửa chói chang, cỏ cây khô héo trên mặt đất như muốn nứt ra nhưng đêm xuống lại lạnh anh ạ. Lạnh như những ngày ở Đà Lạt. Không biết anh còn nhớ những ngày bắt em... thò đầu ra cửa sổ, tập hát những nốt cao... Anh bảo... “Mai đừng hát giọng óc nghe khó chịu lắm. Ráng tập đi có thể là hơi cực nhưng hát bằng giọng thật của mình, bao giờ cũng hay hơn...” Anh có nhớ bài hát nào anh đã bắt em tập như thế không. Đó là bài “Xin Mặt Trời Ngủ Yên”. Chuyện ngày xưa anh còn nhớ không.
Nghĩ cũng thương cho anh em mình, thương cho quê hương mình. Nghèo quá nên thiếu thốn mọi bề và anh đã phải dạy em hát bằng cách đó, trên sân cỏ đồi Cù hay ở cái bàn nhỏ, khuất, nằm dưới chân cầu thang. Cũng có khi hai anh em, chỉ có hai anh em trên lầu café Tùng, anh hát và tập cho em bài “Tiếng Hát Dạ Lan”. Anh không nói ý nghĩa về hai chữ “dạ lan” em không hỏi và sau này bài hát trở thành “Dấu Chân Địa Đàng” em cũng không hỏi. Anh cũng vẫn không nói. Hình như bắt đầu từ ngay những giây phút đầu tiên, anh và em đã tập cho nhau cách nói và nghe bằng sự... im lặng và chính vì như thế, anh em mình luôn gần nhau. Không có rừng sâu, núi thẳm, chẳng có biển rộng, sông dài. Lại càng không có bao nhiêu năm trời, mình vẫn nghe tiếng nhau trong bình minh trong đêm tối, trong nắng cháy, trong mưa giông bởi anh là hình, em là bóng.
Hôm nay 1 tháng 4, trời bỗng âm u khác thường. Rồi gió lên. Rồi mưa xuống. Anh ơi, trời ở đâu. Trời cao quá. Nơi nào là cuối trời. Có lẽ đường dài lắm, nên trời mới nhỏ lệ thương người. Phải thế không anh. Em thấy nụ cười và ánh mắt tinh nghịch và những ngón tay thuôn đẹp hờ hững trên những sợi dây đàn. Gió từ sông Hương lồng lộng trên những hàng cây. Tóc em bay xôn xao trong gió cùng với tiếng hát anh mênh mang, mênh mang. Gió cứ theo em cùng tiếng hát anh đến mãi mãi... mãi mãi. Một bóng âm thầm. Rất âm thầm.
Ôi, thương thay! Bi thay!
9
Dường Như Vắng Ai... C
hắc chắn ngoài trời phải lạnh lắm bởi nhìn qua cửa sổ, tôi chỉ thấy một màu tuyết trắng xóa che phủ kín những mái nhà. Long lanh. Long lanh dưới ánh đèn đường vàng vọt. Chưa khuya lắm đâu. Chiều vừa tắt nắng nhưng ngay cả tiếng xe cũng thỉnh thoảng mới nghe. Tiếng chân bước trên hè phố dường như không có. Tuyết trắng từng sợi như tơ đổ xuống từ trời cao ngay giữa tháng ba.
Trong căn lầu hai của anh chị Thích Tâm, tôi không thể đếm được là bao nhiêu người, thậm chí lại chẳng biết ai là ai. Anh đi quanh từng người cười nói dịu dàng nhỏ nhẹ, thăm hỏi đôi câu, tay vẫn không rời ly rượu. Hạnh phúc ngời trên khuôn mặt gầy. Anh luôn luôn tỏ lộ niềm vui sướng hân hoan với những người bạn anh thương và thương anh. Một nỗi mừng vui thật thà rất trẻ con. Nhìn anh đi quanh phòng nói chuyện với từng người, tôi chợt nhớ đến câu thơ (xin lỗi không nhớ tên tác giả, lại là một câu thơ làm cho người đẹp): “Em đi như vẽ trên đường nắng / Em nói như đàn trong miệng ai.”
Anh bao giờ cũng nhỏ nhẹ dịu dàng, chậm rãi từ tốn - từ những ngày quen biết đầu tiên, tôi đã thấy như thế - đó là bản chất của anh - cái này không thể học được. Không ai dạy ai được. Ông Giời cho thì được. Anh nói nhỏ, không nhỏ lắm nhưng đủ để người cần nghe, nghe rõ. Anh đi không bao giờ đi nhanh nhưng cũng chưa làm ai phải chờ. Anh ăn chậm rãi, nhai nhỏ nhẹ, không ai nghe tiếng. Không nghe tiếng đũa chấm bát, kể cả khi ăn xong cũng không ai nghe tiếng bát ăn để xuống đĩa. Mỗi ngày anh chỉ ăn chừng nửa chén cơm nhỏ cho cả hai bữa. Mọi người tiếp tục ăn, anh nhấc ly rượu uống một ngụm nhỏ, tay phải đặt xuống, tay trái cầm miếng napkin đưa lên chậm nhẹ lên miệng. Bát đũa của anh khác mọi người, loại gốm Bát Tràng màu xanh trứng sáo trên lạt dưới đậm màu hơn.
Căn lầu rất dài và rộng, chỉ có một cây dương cầm và hai cái sopha nhỏ. Bàn ăn được nối dài thêm, dài nữa mà vẫn không đủ chỗ cho mọi người. Chị Tâm luôn tươi cười quay trái, quay phải giữa đám nồi chảo bốc khói. Anh Thích luôn ngó chừng bàn ăn xem có thiếu gì. Chị Thúy, Ngân, Diệu, Trinh
và tôi thuộc loại thợ vịn sẵn sàng chờ sai bảo bưng đồ ăn hoặc lấy thêm cái này, cái khác. Xong xuôi tất cả, chị Tâm hoặc chị Thúy lên tiếng... “Mời anh Sơn thời cơm...” Anh Thích tiếp theo. “Thôi mời cả nhà ăn kẻo đói.” Anh đến ngồi vào ghế đầu bàn và chỉ chiếc bên trái cạnh anh... “Mai ngồi đây.” Mọi người cùng ngồi. Anh ăn miếng đầu tiên vài hột cơm hoặc một cọng rau rồi để chén cơm xuống, lấy khăn giấy chậm miệng, nhấc ly lên... một tẹo. Anh không ăn liền sau đó, có khi anh nhắc tới một người bạn vừa gọi điện thăm anh, có khi anh nhắc người này, người kia... rồi sau đó anh mới lại cầm bát cơm, cũng chỉ dùng đũa để đưa mấy hạt cơm vào miệng, thêm một miếng cá kho đặc biệt kiểu Huế. Miếng cá cũng chỉ bằng cái đầu đũa. Cơm vài hột, thức ăn như làm cảnh trước mặt anh, do đó, rất ít ai thấy anh nhai. Sau miếng thứ hai anh lại đặt bát xuống, lặp lại từng ấy cử động của lần thứ nhất. Cái chén vốn nhỏ, cơm chừng một muỗng canh. Anh ăn xong chén cơm của anh bằng người khác ăn bốn chén.
Có khi đang ăn, nghe ai đó nói một điều gì vui, anh đưa khăn lên che miệng cười sảng khoái. Ăn ít, nói ít nhưng anh nghe nhiều. Ngồi ăn cạnh anh, tôi cứng người như ông phỗng đá, nhưng không bỏ qua một cử chỉ nào của anh. Thấy ly rượu anh hơi đậm, tôi rất tự nhiên sớt bớt qua ly của tôi. Anh biết hết đó nhưng lâu lâu lại làm bộ... “Răng mà rượu của Moi lạt rứa...” Ấy là tại tôi thêm soda cho lạt bớt thôi. Anh lại rót thêm rượu, tôi lại rình anh để sớt bớt rượu, thêm soda, và như vậy anh uống bao nhiêu tôi uống bấy nhiêu. Thường thì khi anh ăn xong, mọi người cũng xong, nhưng anh ăn quá ít mà chúng tôi người nào cũng mạnh nói mạnh ăn. Có một hôm tôi nghe anh nói với một người nào đó, tôi đã quên tên... “Răng mà ăn nhiều rứa...” Tội nghiệp người đó, thật ra mới có chén thứ hai. Thành ra cứ khuya, chờ lúc không có anh tôi mò xuống bếp kiếm đồ ăn, có hôm gặp anh Thích, chị Tâm, hai ông bà cười nhưng tôi không xấu hổ, vì tôi biết, nói gì thì nói cả nhà anh rất thương tôi.
Được anh tập hát cho ngay từ lúc bắt đầu, nhưng lúc nào tôi cũng sợ. Tôi sợ vì tôi dốt, tôi sợ bị anh biết mình dốt. Được cái Chúa Mẹ thương, bài nào của anh dù khó mấy, dù bao nhiêu thăng, bao nhiêu giáng, tôi cũng không ngán - bởi dốt nhìn bài hát cũng như xẩm sờ voi. Chỉ 5-10 phút coi như học trò đã làm bài xong. Có nhiều nốt, tôi hát sai nhưng anh không sửa, không
nói gì, nên tôi cứ cho là mình đúng. Tới chừng nhạc in ra thì có người bảo tôi hát sai nhạc của anh. Thì đúng là tôi hát sai, nhưng có thể lúc đó, dẫu biết tôi sai, nhưng anh vẫn cảm thấy lọt tai, cũng được, hoặc anh thấy tôi say mê với cái sai của mình, anh không nỡ nói. Với tôi, tác giả không la rầy thì tôi cứ hát dù sau này học nhạc, biết là mình sai nhưng nhạc của anh đã trở thành máu thịt của tôi rồi. Anh đã chấp nhận. Khán thính giả đã chấp nhận. Một cái dốt có thể tha thứ được. Và đã được tha thứ.
Nhớ năm 1972-73, anh dạy tôi hai bài “Chưa mất niềm tin” và “Một cõi đi về”. Tôi vừa thâu thanh bài “Chưa mất niềm tin” thì anh lại tìm ra bài “Phôi pha”. Tình khúc này phê quá mà anh nỡ bỏ quên nó trong đống bản thảo 20 năm. Năm 1976 tôi làm cuốn băng cassette thứ ba có bài “Một cõi đi về” nhưng do chưa tập kỹ, không có bài, chỉ hát theo trí nhớ nên sai nhiều lắm. Anh có nghe nhưng không la rầy, chỉ nói tôi hát lại và trước khi thâu, tôi còn gọi điện thoại về cho anh để được anh cắt nghĩa rõ hơn về bài hát.
Khi tôi đi, anh đứng lại ở lề đường trông theo... Anh không ưa cảnh tiễn đưa... Tôi hiểu. Tôi đi mà nhớ mãi những điều anh nói với Đoan. “Lúc trước Moi không biết gì về Đoan, chỉ nghe người ta nói, Moi rất thương Mai, Mai khổ nhiều rồi. Moi không muốn Mai phải khổ thêm. Bây giờ thì Moi yên tâm vì biết chắc chỉ có Đoan mới làm được nhiều việc tốt cho Mai.”
Ai đó đã nói rằng hận thù là món ăn nguội, càng để lâu càng ngon. Cho phép tôi được đổi lại... sự yêu thương, lòng trân trọng thương tiếc là món ăn càng để nguội càng để lâu càng quý... Có đêm trời mưa, ngủ một mình và tôi khóc trong tiếng mưa rơi giữa đêm khuya lạnh lẽo. Anh à, bây giờ cũng là ngày cuối tháng ba, em nhớ tiếc những ngày có anh nhưng... “Lòng tôi có khi chợt như vắng ai. Nhiều khi muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà...”
Anh có chờ đợi ai không hay mọi người chỉ nghĩ rằng anh đang chờ đợi mà thật ra anh đang ngồi thảnh thơi, dõi mắt trông theo những hạt bụi nhỏ bé đang bay theo cơn gió cuốn với ước mơ hạt bụi nhỏ bé kia không vương vào mắt ai...
T
10
Nắng Buồn Hơn Mưa
ôi đã như một kẻ lạc loài đi giữa cuộc đời bằng đôi chân thơ dại, bằng
trái tim sớm mang nhiều vết thương, bằng cảm nghĩ luôn lo âu, sợ hãi, mất niềm tin ở chính mình và cuộc đời. Tôi đã không biết phải làm gì, phải làm sao. Đó, tiếng kêu bi ai, đã nhiều lần bật ra từ trái tim tôi.
Trời đất bao la. Tôi mải miết đi tìm. Tìm một bóng mát đủ che đời mình. Tìm một trái tim độ lượng đủ để cưu mang mình. Tìm một người có tấm lòng nhân hậu để dẫu mai sau có thế nào, ở cuối chân mây, góc biển, tôi vẫn cảm thấy được gần gũi, chở che và an ủi.
Vẫn như những ngày xưa, sự im lặng thay cho bao lời nói mà chỉ những tấm lòng đồng cảm mới có thể nắm bắt được những tín hiệu... Bên ngoài, nắng đang lên. Căn phòng nhỏ tịch lặng, có hai người đang đứng bên lề cuộc đời. Hai người ở ngoài những cuộc vui. Không hề liên quan đến sự sống ồn ào, hối hả của một ngày vừa bắt đầu. Ly rượu pha nhạt, trên mặt bàn là gốc của một cây thốt nốt 100 tuổi bóng ngời ngộ nghĩnh. Tôi rút một điếu thuốc. Làn khói mỏng bay vờn. Những ngón tay gầy guộc đưa lên gọng kính. Anh bảo... nắng buồn hơn mưa. Tôi hiểu.
Lơ đãng nhìn ra khung cửa nhỏ. Những đốm nắng lung linh đậu trên vòm lá xanh. Cái cây này, anh đã trồng từ năm 1973, giờ nó cũng bắt đầu già. Anh tránh cái nhìn soi mói của tôi... Bao giờ tôi cũng nhìn anh như thế. Rất chăm chú bởi tôi muốn tìm đọc thêm những điều mới lạ, không nói nên lời kia... rằng cái gì ẩn giấu sau vầng trán thông minh kia... cái gì được chứa đựng trong trái tim nhỏ bé kia... Tất cả những điều tôi cho là kỳ diệu tiềm tàng trong thân thể mảnh mai yếu đuối. Tôi muốn - thậm chí nắm bắt chúng, cất giữ cho riêng mình - anh, chính anh là Lý Tầm Hoan của thế kỷ 20.
Nhân vật truyền kỳ mang tên Lý Tầm Hoan có lẽ là hình dáng lý tưởng cho tất cả mọi người, trong đó có tôi. Với một ngọn đao nhỏ bé mong manh, dẫu ra tay chậm hơn nhưng bao giờ cũng đến đích trước, không bao giờ sai chạy dù không ai thấy Lý Tầm Hoan xuất thủ... Con người ấy trọng nghĩa khinh tài, luôn luôn bênh vực lẽ phải, một đời sống cho người. Nhường cả
người yêu và gia tài cho người ơn. Lánh xa, ở ẩn, lấy rượu làm vui... Một con người có cái tâm vĩ đại trong một thân thể thoạt trông tiều tụy nhưng lại luôn tỏa sáng hào quang đẹp đẽ.
Tôi đã bắt gặp một Lý Tầm Hoan - bằng lòng để người phụ mình chứ không phụ người - ở anh trong một buổi chiều êm ả trên căn gác nhỏ, nơi anh thường ngồi... gọi nắng, mong mưa. Những ca khúc anh viết lúc nào, không ai biết. Trong những đêm khuya một mình bên ly rượu không bao giờ vơi. Trong một buổi chiều một mình lặng lẽ nghe tiếng mưa nhảy nhót trên sân nhà. Trong bình minh - cũng vẫn một mình - chờ đợi để thấy nắng lên. Từ bình minh, màu nắng lặng lẽ chia tay mình với hoàng hôn để chiêm nghiệm rằng... nắng buồn hơn mưa.
Thế đấy, không ai biết mà những ca khúc ấy cứ đi thẳng vào tim rồi ở lại đó. Ca khúc của anh và người nghe đã trở thành đôi bạn tâm giao chẳng chia lìa. Vì sao tôi yêu những ca khúc của anh. Tôi sẽ không đủ sức ngợi khen anh như nhiều người đã làm bởi tôi đơn giản lắm. Con người của anh cũng đơn giản và vì thế những ca khúc của anh - nhanh hơn cả lưỡi đao của Lý Tầm Hoan - cũng ngọt ngào, êm ái xuyên vào tim tôi.
Làm sao người ta có thể hiểu được vì đâu... con chim hót trên những cành lau... nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối... ấy lại có thể nặng lòng với quê hương, gia đình và bằng hữu đến như vậy. Đó cũng chính là điều tôi muốn tìm ở anh và tôi đã hiểu, đã biết. Nói một cách đơn giản nhất mà tôi có thể nói được là, ai cũng chỉ có một quê hương. Nếu ngay chính cả quê hương mình, mình còn không yêu thì liệu mình còn có thể yêu thương cái gì nữa.
Anh để lại cho những thế hệ sau một bài học yêu thương. Hãy đến tìm nhau, lại gần với nhau học lại từ đầu bài học yêu thương. Những bông hoa đẹp đẽ. Những cây lành trái ngọt không thể nảy sinh từ lòng căm thù. Sự hận thù chỉ làm cho người ta nhỏ lại, làm cho người ta xấu xí. Làm cho cuộc đời tăm tối hơn. Làm cho tâm hồn nghèo nàn, thấp kém. Cái tâm không bình yên sẽ chẳng còn ai nghĩ đến ai với những điều tử tế, dẫu chỉ trong trí tưởng.
Những ca khúc của anh chính là tấm gương soi cho tôi nhìn lại rõ mình, tìm lại được chính mình từ những mất mát. Tôi đã được chia sẻ. Được an ủi ngay cả trong giây phút phân ly. Thế nên, điều tôi muốn nói ở đây là anh - không phải những ca khúc - rằng chính anh trong tâm hồn tôi còn lớn lao vĩ
đại hơn những gì anh đã làm và để lại. Một người tầm thường không thể làm nổi những điều tốt đẹp và một người vĩ đại không hề làm những điều tầm thường.
Chiều nay, ở một nơi rất xa, tôi cũng ngồi một mình nhìn nắng vàng đang ngả màu trên lá cỏ. Lòng bỗng xót xa ngậm ngùi... Anh ơi, trong bữa cơm chiều nay, chiếc ghế của anh không người ngồi. Anh chắc lại ra đầu phố, mua một cái gì đó, hoặc cùng dăm ba người bạn ngồi ở quán café, nhìn xe ngựa ngược xuôi. Lát nữa đây, anh sẽ trở về, ngồi vào chiếc ghế đó, nâng cây đàn lên bằng hai bàn tay gầy và hát rằng... “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.”
Cũng chiều nay, em không đưa anh đi bởi em không đủ sức cản chân người đi. Anh em mình sẽ gặp lại. Song em biết trên hết mọi điều, như anh nói, chúng ta không bao giờ xa nhau. Chưa bao giờ... nắng vẫn buồn hơn mưa anh ạ nhưng chúng ta yêu thương nhau vĩnh viễn không bao giờ chia lìa... có phải anh đã từng nói như thế?
T
11
Bài Tình Ca Nhỏ
ôi muốn xếp vào cái giỏ nằm ở góc phòng kia một hai bộ quần áo, gọi
một chiếc taxi rồi lặng lẽ khóa cửa. Một phi trường. Một nhà ga. Nơi người ta đón mừng hay đưa tiễn nhau... Về đâu nhỉ? Tôi không biết. Có thể là bất cứ nơi nào cho tôi một hơi thở trong lành, cho tôi thấy một ánh nhìn ấm áp và một giọng nói dịu dàng. Tôi biết về đâu đây. Tôi biết đi đâu đây và tôi nhớ... Ôi, tôi có biết bao điều để nhớ, nhớ đến quặn thắt cả ruột gan. Những hạt bụi...
Bây giờ là mùa Thu, tôi biết như thế và tôi luôn chờ đợi mùa Thu để sống lại đời mình trong những tháng ngày ngắn ngủi. Ngày đó tôi còn bé lắm, hai bàn tay nhỏ nâng niu hít hà mùi thơm của cốm gói trong chiếc lá sen. Ngày đó tôi không biết cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ và mùi hoa sữa ngọt ngào của đêm Thu Hà Nội. Tôi nhớ cái dốc cao từ Nhà thờ Chánh tòa dẫn xuống hồ Xuân Hương. Những con đường nhỏ ở cái thành phố có những cô gái má hồng như màu hoa đào. Thành phố có những cơn mưa bụi bất ngờ chưa bao giờ làm bước chân tôi nhanh hơn và tôi tìm cho mình một chỗ ngồi nhàn nhã nhìn café nhỏ từng giọt, nhàn nhã nhìn mọi người bước đi trên hè phố. Không ai vội vã cả.
Hay là mình làm một chuyến đi xa! Bay về Hà Nội tìm lại hương thơm của cốm lá sen. Mùa Thu Hà Nội đẹp lắm nhưng Hà Nội xa quá... Đà Lạt... Tôi muốn tới mà nào hay đôi chân đã mỏi rồi và con dốc xưa hẳn là không còn dễ dàng đối với tôi. Café Tùng còn đó không? Café Hân đường Đinh Tiên Hoàng giờ ra sao? Mặt đường Sài Gòn bốc khói dưới cơn mưa bất ngờ, tôi ngồi thu mình trong chiếc xích lô chỉ đến café Hân uống một ly và nghe nhạc, nghe chính mình hát, nhưng... Sài Gòn xa quá... Huế cũng xa quá. Tất cả đều như bỏ tôi mà đi hay chính tôi đã bỏ tất cả mà đi! Tuổi trẻ ở đâu? Trái tim ấy. Tấm lòng kia. Sao xa quá...
Sáng nay cầm ly café ra vườn, tôi nhìn thấy những giọt sương khuya còn long lanh trên cỏ. Quay vào nhà lấy chiếc áo lạnh và trong một thoáng, tôi chợt thấy nao cả người. Mùa Thu vừa mới bắt đầu ở cái thành phố thường
xuyên chịu đựng những cái nóng điên người.
Dù cái cảm nghĩ của tôi về ngày, tháng, năm và các sự việc rối tung, rối nùi chẳng ra môn khoai gì cả... rất đỗi mơ hồ nhưng với cái hơi Thu vừa chớm hay lúc Đông về, lòng tôi không khỏi xao xuyến, tiếc nhớ bồi hồi. Rõ ràng là đời tôi chỉ có một mùa để đi về thương nhớ. Mùa Xuân rực rỡ quá. Mùa Hè trần trụi quá. Rực rỡ hay trơ trẽn đều làm tôi khó chịu. Tôi vốn yêu những gì thầm kín dịu dàng dù có mong manh dễ vỡ. Thế cho nên sáng hôm nay, tôi chợt muốn rời bỏ cái thành phố này, đi về một nơi nào đó, tìm đến một ngọn đồi nào đó, nằm dài dưới gốc thông nghe tiếng chim hót tiếng suối reo và chìm vào giấc ngủ...
“Người đi tìm kiếm giữa mịt mùng. Người đi tìm mãi suốt con đường. Tấm lòng kia...” (Trịnh Công Sơn). Cuộc sống vốn đã làm tôi mỏi mệt, cuộc tìm kiếm vô vọng kia, về một tấm lòng đầy ắp những điều tử tế nhân hậu, lại khiến tôi muốn tìm một nơi chốn cô quạnh để ngồi xuống, nằm xuống với cây cỏ. Nếu đã có những người chân ra đi, trái tim ở lại... thì tôi, thân tuy ở đây lòng lúc nào cũng mơ ước một cuộc ra đi mang theo cả trái tim của mình. Tiếng hát nghe buồn quá, sáng nay. Tôi lặng lẽ hát để nước mắt lăn dài trên má...
Tôi vốn sợ, rất sợ cuộc sống tù túng trói buộc nhất là bởi những điều tôi nhận thức được là vô lý. Tôi lại càng sợ hơn nữa khi những điều tôi cảm nhận đã thành một thực thể, ngay trong cuộc sống của tôi, trong cái thành phố này. Với tôi, nơi này có nhiều điều dư thừa, quá dư thừa. Không cần thiết với tôi. Cái tôi cần chỉ nhỏ như hạt bụi. Tiếc rằng tôi tìm đã bao năm mà không thấy. Có thể vì nó nhỏ bé quá chăng trong cái mênh mông bát ngát đến ngộp thở này. Cũng có thể điều tôi kiếm tìm không hề có!... Không! Tấm lòng ấy! Trái tim ấy là điều có thật! Nhưng hỡi ơi không còn có thể...
Sáng nay tôi đã khóc. Từ lâu rồi tôi không khóc! Tôi dặn lòng mình rằng nước mắt quý hơn nụ cười bởi dù lòng chẳng có gì vui, người ta vẫn có thể cười nhưng nước mắt không thể chảy ra dễ dàng như thế. Cái gì quý đều ít. Cái gì ít thì quý. Vậy mà sáng nay tôi khóc. Có phải đúng là tôi khóc không? Rõ ràng là nước mắt đã chảy ra. Và chỉ mình tôi hiểu vì sao tôi khóc...
C
12
Xin Đủ Cho Một Đời
ó những điều người ta chỉ nói một lần rồi thôi. Có những sự việc
người ta chỉ thoáng nghĩ đến rồi quên nhanh. Có những sự cớ phải buộc lòng bôi xóa để sống bởi đời sống nghiệt ngã ở khắp mọi nơi. Tuy thế nào mặc lòng, vẫn có những u uẩn cứ theo ta. Bóng ma quá khứ, như món nợ tiền kiếp.
Tôi không còn trẻ dại để mong Xuân về, Tết đến. Tôi cũng không còn đủ thanh xuân để mong nắng Xuân hồng trên má, gió Xuân làm mắt long lanh hơn hay để khoe người yêu một tà áo mới. Tôi lại chưa đủ già để quên những năm tháng có cay đắng, có ngọt ngào. Những ngày tháng ngập tràn tiếng cười và tiếng khóc. Thời gian cứ trôi qua. Cứ là thời gian và tôi vẫn cứ là tôi. Hai mươi lăm năm không thay đổi được bao nhiêu nơi con người tôi, à không, tôi muốn nói cái đầu tôi, nó vốn nhỏ bé nhưng lại chứa đựng quá nhiều kỷ niệm khiến nhiều khi tôi mất thăng bằng. Đó là tôi đã gạn lọc sàng đãi để chỉ giữ lại điều mình muốn.
Khi tôi đến Huế, hơi Xuân lạnh còn đầy không gian. Không có hoa Phượng bay... mù, không lối vào, chỉ có mưa phùn buồn não lòng. Huế lạnh và buồn trong tiếng đại bác thỉnh thoảng từ xa vọng về. Ánh đèn vàng hiu hắt không soi rõ bước chân của người khách lạ dừng bước nhìn qua bên kia sông. Ta sẽ về nơi đó. Không có mưa rơi, gió lạnh nhưng cũng không có ai chờ đón ta.
Cách đó chỉ một con đường, anh ngồi lặng lẽ. Những ngón tay thon gầy lười biếng vuốt nhẹ trên từng sợi dây đàn. Cây đàn đã cũ nhả ra những âm thanh dịu dàng. Căn phòng nhỏ bỗng như ấm lại và sáng hơn cùng với tiếng cười con gái khúc khích. Anh ngước lên nhìn hiền lành rồi lại cúi xuống. Năm cô em gái, tóc dài đen nhánh mượt mà, hồn nhiên chạy ra ngồi quanh anh. Không có sự bao bọc, che chở nào êm ái hơn... “Ru mãi ngàn năm dòng tóc em buồn...”
Tôi, người khách lạ trong thành phố, đứng một bên cửa nhìn vào lòng quặn đau, nước mắt ứa ra. Tôi có thể bước vào được. Trong căn nhà nhỏ đơn
giản đó, lúc nào cũng có một chỗ dành cho tôi, bên cạnh anh. Bao giờ cũng bên cạnh anh cùng với tình yêu và bóng mát của Mẹ anh. Người mẹ đó là tất cả. Là tình yêu duy nhất của đời anh. Bà cũng là người bạn, hiểu và cần thiết cho anh hơn bất cứ người nào.
... Mùa Xuân năm ấy, tôi bỏ lại tất cả. Bỏ lại cả cuộc đời. Dĩ nhiên là anh bao giờ cũng ở trong tim tôi, một chỗ thật riêng tư và trang trọng. Cuộc đời đã sang trang chỉ sau một giấc ngủ. Hầu như mọi người đều thay đổi. Phải thay đổi để thích ứng với cuộc sống mới nơi quê người. Riêng tôi, một ngày qua, nỗi đau có dịu lại nhưng nỗi nhớ lại đầy hơn. Tôi nhớ thương những tháng ngày, những người đã cho tôi một thời hạnh phúc hiếm hoi và dẫu sao, tôi cũng nhớ thương nơi tôi đã bỏ đi.
... Quen biết nhiều, nhưng gọi là bạn, tôi lại chẳng có ai. Với tất cả tôi đều dành một sự quý mến, nhường nhịn như nhau, bằng nhau - ông N.D. Toàn, ông T.C. Sơn dĩ nhiên phải đặc biệt hơn và không thể coi là bạn - ở mỗi người, tôi yêu một điều gì đó và chỉ cần như thế. Những người tôi được biết là những người hoặc có thực tài hoặc đức độ. Đức là điều không phải ai cũng có được. Tiền, tài, thế gian này không thiếu. Chỉ thiếu người đức độ...
...Họ thường gặp nhau vào buổi chiều. Những cơn gió nhẹ từ con sông rong chảy ngang thành phố, đã xua tan cơn nóng bức, làm dịu lại cả những mặt đường. Cây lá bắt đầu xôn xao nhảy múa chờ đón nắng khuya. Đó là giờ phút thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ. Họ là những người còn trẻ. Tất cả như mới vào đời. Mới bắt đầu cuộc chơi. Họ nhìn nhau bằng những cái nhìn trong sáng đầy tin cậy. Họ cười với nhau bằng những nụ cười hồn nhiên, thơ dại và chân chất. Họ còn trẻ. Họ chưa chuẩn bị, chưa có một chuẩn bị nào cho một cuộc chơi nhiều bi thảm, mà phải mãi nhiều năm sau này, họ mới biết được.
Tuổi trẻ, ở bất cứ thời điểm nào đều đáng yêu. Hãy nhìn họ nói với nhau. Hãy nghe họ hát với nhau những bài hát ca ngợi cuộc sống và tôn vinh nỗi chết. Họ có cùng một tuổi trẻ. Cùng một niềm tin dẫu rằng tuổi trẻ sẽ qua và niềm tin sẽ nhấn chìm họ trong nỗi thống khổ. Đúng, phải nhiều năm sau, họ mới biết.
Buổi chiều. Là buổi chiều của hơn 30 năm về trước. Có những người trẻ
ngồi hát bên nhau, nói với nhau về tình yêu, cuộc đời, thân phận và quê hương. Ở đâu đó tiếng đại bác vọng về. Ở đâu đó, không xa lắm, đêm đêm nỗi chết hiện ra cận kề như người tình không chờ đợi. Những người trẻ vẫn ngồi hát bên nhau. Chính là họ đang vỗ về an ủi trái tim của họ, trái tim của những người cùng một thế hệ. Những trái tim chưa kịp trẻ. Còn rất non trẻ.
Mãi đến sau này, rất nhiều năm sau này, khi họ, những người của hơn 30 năm trước lại ngồi với nhau, hát lại những bài tình ca cũ, họ mới chợt nhận thức được rằng trái tim của họ đã tan nát từ bao giờ. Họ ngồi với nhau trong một căn nhà ấm cúng. Cũng một buổi chiều. Thời điểm cũng vẫn là buổi chiều. Bao giờ buổi chiều cũng là khoảng thời gian đẹp đẽ để gặp nhau. Tiếng hát được cất lên trong không gian đang nhạt nhòa. Thật thà hơn, buồn bã hơn. Họ gặp lại nhau để biết rằng đây không phải là một giấc mơ. Rằng tiếng hát cũng như người hát đều là thật. Không gì có thể thật hơn. Thật như nỗi chết vậy.
...Hơn 30 năm không còn cùng nhau ngồi hát ca. 25 năm xa lìa cố quận. Bao nhiêu cay đắng bể dâu không khiến lòng tôi phai mờ những dấu ấn tốt đẹp. Quê hương thì bao giờ cũng thế. Nhưng đời người, những con đường, những góc phố, những dòng sông, những khuôn mặt, những nụ cười, những ánh mắt... tất cả dường như đã biến dạng. Điều còn lại, phải chăng là những ước mơ đâu đó trong trái tim mọi người. Anh gầy hơn xưa, tưởng như chẳng còn có thể gầy hơn nữa. Anh trầm lắng như tượng đá. Ánh mắt xa vắng. Nụ cười vu vơ khiến tôi đau lòng... Sao anh không khóc đi. Nước mắt có khi thay được cho bao nhiêu điều muốn nói... Vẫn những người em gái xưa, nay đã thành thiếu phụ, ở quanh anh. Không còn phải là những phút sum vầy sung sướng hạnh phúc đơn sơ. Chẳng có gì, chẳng có ai lấp đầy nỗi đơn lẻ trong anh. Ôi, làm sao trả lại cho anh, cho tôi, cho chúng tôi những tháng ngày đã mất... Người quen biết cũ lần lượt vắng xa và sẽ chẳng còn bao lâu nữa, tôi cũng sẽ rong chơi một nơi nào đó. Sẽ chẳng còn gì. Sẽ chẳng còn ai từng ngày, ngồi thương tiếc. Kỷ niệm sẽ tàn phai, mất hút. Như chưa bao giờ xảy ra, như một điều không có thật. Như huyền thoại... Một ngày nào, anh bảo tôi... Huyền thoại là điều không có thật...
Ngày đó... ngày đó chúng tôi còn trẻ và rất gắn bó. Có ai trong chúng tôi nghĩ rằng có một ngày nào đó lại phải thương nhớ nhau từng phút giây. Tuy
vậy, bằng cách nào đó, chúng tôi vẫn ở trong trí tưởng của mỗi người, như ngày đầu ngồi với nhau, vào đời nhau bằng những bản tình ca. Hồn xa rồi, người ta còn có thể sống được không? Trái tim ngưng đập rồi người ta có thể nào không chết? Chúng tôi đã đến với nhau một lần. Chỉ một lần nhưng xin đủ cho một đời...
C
13
Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng
on người, bất cứ người nào. Trong lúc khốn cùng. Như người ngồi
trong một canh bạc. Bản chất thật nhất được phơi bày. Rõ hơn bao giờ. Ngày hôm qua cũng gần hai mươi năm về trước, tôi đã thường ngồi, cùng ông Trầm Tử Thiêng. Chữ ngồi ở đây có nghĩa là... cùng ngồi. Không phải là ngồi xuống như thông thường. Ông là một người tư cách.
Ðó là nhận xét của tôi về tác giả Kinh khổ, Đêm nhớ về Sài Gòn. Vì sao tôi dám khẳng định như thế. Vì dù ngày xưa hay ngày nay. Chưa bao giờ ông giàu có. Chưa bao giờ ông xem tiền bạc trọng hơn tác phẩm hay con người. Một lời nói không phải về một người vắng mặt. Không hề có. Một phê bình ác ý về một người khác. Không hề có. Than thở về tiền bạc khó khăn, về những người sản xuất lấy nhạc của ông mà không hề biết đến tác giả là ai. Không hề có. Sàm sỡ, bất nhã với anh em, bạn bè. Lại càng không hề có. Có đôi lúc ông tỏ ra khó khăn với chúng tôi, như muốn nói với chúng tôi rằng: “Này, tao lớn rồi, tụi bay đừng có giỡn mặt. Tụi bay cũng không còn nhỏ nữa đâu.” Tụi tôi đứa nào cũng ngán ông. Trong canh bạc đời, tôi đã được cùng ông... cùng ngồi. Ở lại Sài Gòn. Ðời sống làm nhiều người thay đổi. Với ông Trầm Tử Thiêng, không hề có. Nếu có chăng, chỉ là tử tế hơn, trân trọng hơn, nghiêm túc hơn mà thôi. Con người ông trong canh bạc đời cho tôi thấy rõ tư cách ông. Tôi thích nhạc ông và kính trọng ông. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và Trịnh Công Sơn là hai nhạc sĩ tôi được quen biết. Tôi không hề... hối tiếc.
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng không giàu. May ra đủ sống. Nhưng ông giàu tình người. Từ Chuyện một chiếc cầu đã gãy, qua Kinh khổ, qua Mộng sầu, Tưởng niệm, Mười năm yêu em... đến Ðêm nhớ về Sài Gòn. Tôi đã thấy điều đó. Nhạc ông viết thật nhân bản. Ðầy tình nghĩa. Dù qua bao nhiêu điêu linh hoạn nạn. Ông vẫn mong còn có một ngày được ở với “vòng tay tình yêu người và người”. Dù tình người có tiêu hao qua bao loạn ly ông vẫn chờ một ngày mai thật lạ, “Thù hằn anh em bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà”. Mơ ước không thành, ông đành ra đi, ôm theo một khối tình quê. Ông tự ví
mình như một cậu bé mồ côi. Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi. Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn. Ðể đêm đêm nhớ về Sài Gòn.
Nghe nhạc Trầm Tử Thiêng, tôi thấy ông cũng là một... “gã si tình” nhưng chung tình. Và là một gã tình si quân tử. Như ông đã là một gã tình si quân tử ở ngoài đời. Dù đôi chân chậm quá, trong tình yêu, anh vẫn “xin em cùng ta hát để nhớ hoài” (Mười năm yêu em). Mười bốn năm. Tôi mới tìm lại được những lời hát đẹp như thế. Ðẹp. Tràn ngập tình yêu. Tình người. Tình Việt Nam. Ðầy sự tử tế. Sự tử tế vốn chỉ tìm thấy ở những người tử tế. Tôi may mắn được làm học trò của những người lúc nào cũng dạy tôi làm những điều tử tế. Lấy tấm lòng tử tế ở với đời, với người...
N
14
Bóng Cả
gày xưa... những gì xẩy ra ngày hôm qua đối với tôi đều là ngày xưa...
Khi được các hãng sản xuất băng đĩa gọi tới, chúng tôi coi như 50% đạt được giấc mơ trở thành ca sĩ của mình. Tại sao lại 50%? Tại còn chờ đợi nữa! Cái phần còn lại này mới quan trọng vì từ đó, tiếng hát đó, con người đó mới được định vị. Phần này quan trọng lắm vì đó là sự lựa chọn từ thính giả.
Qua lịch sử từ Đông sang Tây nhiều thiên tài được sinh ra từ những nghịch cảnh và trầm luân của cuộc sống. Phải đến khi họ đi ra khỏi cuộc sống thì người ta mới tiếc ngẩn ngơ và vội vàng đội cho họ những vương miện hào quang muộn màng. Chính họ lúc còn quay cuồng khổ ải với cuộc sống nghiệt ngã và với con người tàn ác lạnh lùng, họ không hề nghĩ đến. Tất cả những đóng góp của thiên tài cho đời sống này rất tự nhiên và rất vô tư vì họ được sinh ra như thế. Những thiên tài hiện diện trong mọi lãnh vực. Tôi xưng tụng những con người đối với tôi là thiên tài bởi tôi thấy chẳng có cách nào khác khi được nghĩ và được nhắc đến họ. Chúng ta không có nhiều người được xưng tụng như thế. Chúng ta không muốn xưng tụng những người đáng được xưng tụng. Chúng ta không quen nhìn cái hay cái đẹp của người khác. Chúng ta chỉ có thói quen hủy diệt. Thói quen này lâu dần thành “mãn tính”.
Tôi thường tự hỏi vì sao trong những nghiệt ngã của cuộc đời mà cụ Phan Khôi vẫn nhận ra... con mắt còn có đuôi? Làm thế nào mà các cụ Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Khánh, Đặng Thế Phong, Văn Cao... lại có thể gửi lại người đời sau những tình khúc đẹp đến muôn đời sau mà ngàn năm trước không có và ngàn năm sau cũng không?
Tôi cũng rất muốn trân trọng bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình đến Ông Anh Bằng, Ông Lam Phương, Ông Phạm Duy, Ông Trầm Tử Thiêng, Ông Phú Quang, Ông Dương Thụ, Ông Nguyễn Văn Tý, Ông Phan Huỳnh Điểu, Ông Thanh Tùng, Ông Đỗ Trung Quân, Ông Trịnh Công Sơn và rất nhiều người khác nữa.
Tôi không cần đắn đo dò hỏi các ông là ai hay các ông từ đâu đến. Đó là chuyện của các ông. Tôi cứ yêu những gì các ông để lại cho đời dù trong bất cứ hoàn cảnh và thời gian nào. Chính vì trái tim, tấm lòng, ước mơ và niềm hy vọng với âm nhạc mà mọi người sẽ nhìn và sẽ tìm ra con đường ngắn nhất đưa mọi người đến và cùng ngồi với nhau.
Chúng tôi ở hải ngoại không còn được mấy người suốt cả một đời cống hiến và tận tụy. Cuộc sống mới nơi xứ người thật muôn ngàn khó khăn. Đời có đổi nhưng chúng tôi thì không. Các tên tuổi lớn vẫn là bóng mát cho chúng ta giữa muôn ngàn khó khăn vất vả. Tôi lại luôn tự hỏi làm thế nào sau khi trải qua gần nửa thế kỷ gian nan, ngược xuôi mà trái tim người nhạc sĩ vẫn tiếp tục đập? Ở cái tuổi lúc nào cũng sẵn sàng vẫy tay chào cuộc đời mà lại có thể nhắc nhở chúng ta rằng trong mỗi nhịp đập của đời sống vẫn còn nợ nhau một nhịp đập ân tình. “Anh còn nợ em một buổi chiều, một lời thề trong công viên ghế đá.” Trái tim chân chính của người nhạc sĩ vẫn chỉ đập một nhịp thủy chung cho dẫu đó là nhịp đập cuối cùng gửi lại cho đời. Làm thế nào mà trái tim vẫn rộn ràng chờ đợi và vẫn hân hoan nâng niu cái phút giây... “từ ngày có em về...” Những đớn đau bầm giập, những khắc khoải chờ mong, những tủi hận ê chề sẽ tan biến hết bởi chỉ từ ngày có em về mà trái tim vốn cất giữ những tiếng cười rộn rã niềm vui và tràn trề hạnh phúc. Ông Lam Phương không giữ cho riêng mình. Ông trải ra gửi đến mọi người. Nghìn năm trước. Nghìn năm sau. Tình yêu rực rỡ mà dịu dàng theo ta đến muôn đời sau.
Cái nghĩa Thiên Tài với tôi như số mệnh được sinh ra và vào đời, nay chỉ để như thế dù một ngày không còn xa nữa. Ông Anh Bằng hay ông Lam Phương sẽ cười mà bảo chúng ta rằng... “... nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên...” Điều rất giản dị nhưng không phải ai cũng có thể nói. Chỉ có những người quên niềm đau của riêng mình và đi khâu vá những vết thương của thế nhân. Chúng ta không có nhiều và không còn nhiều nữa.
K
15
Bên Đời Hiu Quạnh
hi tôi đến nơi, mọi người tề tựu đã khá đông. Thật đau cho chúng tôi
cứ phải gặp nhau ở chỗ đưa người về cõi khác. Không còn chỗ nào để gặp nhau nữa sao? Hay chỉ có những nơi như thế này, mọi người mới thật thà đến và đưa nhau đi? Nhà quàn nằm ở giữa ngã tư Bolsa và Beach đã trở thành quen thuộc với tất cả chúng tôi. Một khu đất riêng có bóng cây cao mát, có hồ, có hoa, có bướm, có chim về hót quanh năm một bài ru dịu dàng. Quê hương của những người Việt đã chọn nơi này nằm xuống cùng anh em, bạn bè.
“Trưa nắng người về, người về đất, về đất. Trên cánh chim người quy cố hương.” (Hồ Đăng Lễ). Chúng tôi ra về, kẻ trước người sau, sau khi đã phủ lấp huyệt mộ. Nguyễn Tất Nhiên nằm tại đó cạnh ngay mộ em trai tôi và quanh đó là những người cùng màu da, cùng tiếng nói. Chắc hẳn cũng có cả những người đã từng đọc và yêu thơ của anh. Nguyễn Tất Nhiên ra đi rất bình thản như anh đang ngủ, giấc ngủ đẹp hơn tất cả những giấc ngủ trong khoảng thời gian 41 năm đã qua trên đời anh. Người vợ đã xa, những đứa con chưa lớn. Người thân cuối đời đã lo cho Nhiên một nấm mồ. Tất cả đã chẳng ai nghe anh nói một lời cuối cùng. Tôi nghĩ... Nhiên không hề đau khổ. Anh rất tỉnh và thản nhiên khi chọn cho mình con đường này.
Có nhiều cái chết mọi người cho là vô lý. Với tôi không hẳn vậy. Đôi khi là một lựa chọn khôn ngoan, chỉ phải cái... hơi ác... bởi đã để lại bao nhiêu ân hận cho người sống.... “Nỗi khổ còn đây người ở lại. Chén rượu nào vơi được nhớ thương”. (Hồ Đăng Lễ). Chẳng có gì vơi được. Chẳng bao giờ vơi được. Rượu sẽ hết mà sầu chẳng nguôi. Người đã chết chẳng bao giờ sống lại. Có uống đến ngàn chai. Có khóc đến cạn nước mắt đến chảy máu mắt, cũng chẳng còn kịp nữa. Đời người như cơn gió, như vạt nắng cuối chiều. “Một đời người sống là... đợi chết không may.” (Trịnh Công Sơn)
Dù đã quá quen với những mất mát nhưng ở mỗi cuộc chia tay, ngay cả với một người không quen biết, tôi vẫn thấy xót xa. Còn bao nhiêu người nữa sẽ nằm lại ở đây? Chúng tôi nhìn nhau thở dài. Tóc đã bạc rồi, một ngày
sống là một ngày bước lại gần hơn huyệt mộ của chính mình. Đầu óc tôi còn đầy ắp hình ảnh Nguyễn Tất Nhiên nằm bình thản trong chiếc áo cuối đời, tin buồn thì lại tới. Ca sĩ Anh Thoại trong lúc thâu băng đã bị stroke bởi một cơn đau tim, anh được đưa ngay vào bệnh viện và đã qua một đêm một ngày, anh vẫn chưa tỉnh. Ôi tại sao bất hạnh lại nhiều như thế. Nhiều và hay đến với những người vốn đã nghèo, đã kém may mắn. Tôi chỉ biết ngồi cầu nguyện cho Anh Thoại và ngồi trách trời gần, trời xa. Có lúc tôi nghĩ Thượng Đế thật bất công. Nguyễn Tất Nhiên vừa nằm xuống. Anh Thoại đang mê man trên giường bệnh, họ là những người hiền lành, dễ thương và đáng sống biết bao. Thế mà... thế mà... Thật không thể nào hiểu nổi. Càng nghĩ càng buồn, càng buồn càng hận mà chẳng biết trút vào đâu cái buồn hận này. Người nghệ sĩ suốt đời mang lại niềm vui cho cuộc đời, khi hai tay buông xuôi, chẳng còn gì, chẳng còn gì. Nguyễn Tất Nhiên sau cùng cũng đã có một căn nhà suốt đời anh mơ ước với tình thương của anh em, bạn bè. Giờ chúng tôi lại chia ra theo dõi, giúp đỡ Anh Thoại. Tinh thần cũng như vật chất.
Đêm 13-9 tới đây, ông Trầm Tử Thiêng cùng một số ca, nhạc sĩ tổ chức đêm văn nghệ cho anh Ngô Văn Quy. Quy là nhân viên của hội thiện nguyện USCC, anh cũng là huynh trưởng gia đình Phật tử Long Hoa. Tháng vừa qua, trước cổng chùa Việt Nam tại Los, gia đình anh đã gặp tai nạn. Một người Mễ sau khi đụng một chiếc xe, bị rượt bắt đã... tông vào xe anh khiến anh bị thương nặng. Hàm bể nát, phải giải phẫu, khâu lại, vợ anh gãy xương vai. Người lái xe kia không có bảo hiểm và xe anh cũng vừa hết. Ngô Văn Quy rất sốt sắng trong những buổi văn nghệ từ thiện, gây quỹ cho chùa, cho trẻ mồ côi tại các trại tị nạn. 17 năm qua ngoài công việc giúp đỡ bà con mới đến từ Việt Nam hoặc từ các đảo như chỉ dẫn lấy mê-đi-keo (bảo hiểm y tế), tiền trợ cấp, xin việc làm, Ngô Văn Quy dành hết thì giờ làm việc trong chùa, hướng dẫn các em trong gia đình Phật tử Long Hoa.
Ngô Văn Quy làm thơ, viết truyện ngắn đăng trên Hồn Việt, là tờ báo anh đã đóng góp công sức từ những ngày đầu cùng với Nguyễn Hoàng Đoan, Du Miên, Trọng Viễn, Huỳnh Công Phúc khi Hồn Việt còn ở trong một cái nhà kho ở San Diego. Quy cùng với Nam Lộc là hai trong số ít người Việt có việc làm ngay khi còn ở trại tị nạn. Vì anh giỏi cả hai sinh ngữ Pháp và Anh.
Song đời công chức, đồng lương không bao nhiêu mà đời sống càng ngày càng khó khăn. Quy rất gói ghém không bao giờ làm phiền bạn bè, không mấy khi tham dự party nhưng vẫn giữ liên lạc với bạn, đặc biệt là giới ca, nhạc sĩ. Nếu anh có nhờ ai một việc gì đó thì cho nhà chùa mà thôi.
Chính ở tính tình hiền lành không bon chen nên anh không giàu. Tuy nhiên nhờ thế mà chúng tôi thương quý anh. Giờ anh gặp nạn mọi người xúm lại lo cho anh. Buổi văn nghệ này là một sự ngạc nhiên bởi Quy không hề biết. Anh ngại nhờ bạn bè, anh sợ tình nghĩa không trả được nhưng đầy đủ tấm lòng của những người anh đã giúp, muốn được trả lại một phần nào ân tình đó. Chúng tôi hẹn nhau có mặt tại Ritz ngày 13-9 sắp tới. Nhiều ít gì cũng là nghĩ đến nhau. Có còn hơn không Quy ạ.
Tôi thường hay nghĩ về cái Hội Nghệ sĩ chưa bao giờ có ở đây mặc dù văn, thơ, ca, nhạc sĩ đã kẻ trước người sau qua và ở tại Cali rất đông. Những người đi hồi 75 coi như đã... mồ yên, mả đẹp và những người đi sau rất bơ vơ, rất thiệt thòi, nhất là lúc gặp kinh tế tuột dốc như bây giờ. Đã cùng một nghiệp dĩ thì không nên luận sang hèn, lớn nhỏ. Đã cùng một xuồng thì chẳng nên phân chia. Đã cùng một cảnh ngộ mà còn bè phái thì thật đau lòng. Nghệ sĩ tuy đời sống có hơi khác thường nhưng vẫn tôn ti trật tự như thường. Vẫn có thể bảo nhau cùng ngồi lại với nhau chia vui, sẻ buồn. Vừa có thể giúp đỡ lúc hoạn nạn, vừa tạo thêm niềm thương mến trong lòng khán thính giả. Ngồi lại với nhau không có nghĩa là... ăn hết của nhau. Không có gì đẹp bằng cái hình ảnh vai sát vai của những người luôn luôn cống hiến cho đời những điều đẹp đẽ.
Qua văn, thơ, nhạc chúng ta thường thấy ca tụng tình yêu thương giữa người và người. Hình như tất cả những gì đẹp và lý tưởng nhất đều đã được ghi trên giấy người người đều đọc, đều nghe. Thế mà thực tế lại không hề đơn giản.
Như thế chẳng hóa ra chúng ta lừa bịp mọi người sao? Và lừa bịp cả ngay chúng ta nữa. Thật đáng buồn và đáng thương biết bao nhiêu nếu chúng ta cứ phải sống với nhau bằng những đều không thật.
Trở lại vài tháng trước đây khi Nhật Minh ra đi. Nếu không có linh mục Paul Chiếu, nếu không có những người không quen, xa gần cảm thương cho một đời nghệ sĩ, liệu Nhật Minh đã có một nấm mồ như đã có không? Và
chúng ta có còn một nơi chốn để tìm đến, thắp cho Nguyễn Tất Nhiên một cây nhang, đặt xuống một cành hoa. Hay là cả Nhật Minh và Nguyễn Tất Nhiên đều sẽ tự nhiên về với cát bụi.
Vẫn biết chết là hết. Chôn hay thiêu cũng là chết. Đủ tiền thì chôn, nghèo thì thiêu. Mỹ hay thiêu bởi vì họ quan niệm còn phải lo cho người sống. Cũng có lý nhưng chúng ta theo quan niệm Á đông: sống có một mái nhà, chết cần một nấm mồ. Ngày xưa lúc còn ở bên nhà, tôi ít thấy cái vụ thiêu. Công giáo cũng không thiêu. Chỉ có ở đây mà thôi. Đôi khi giàu cũng thiêu chứ không cứ là nghèo. Khi em tôi chết, mẹ tôi nhắc lại lời Hải nói đùa một tuần lễ trước đó rằng nếu nó có chết thì thiêu chứ đừng chôn. Mẹ tôi muốn như vậy để có thể mang về nhà thờ cho gần gũi, mẹ tôi cũng đã lớn tuổi, bà sợ không thể đi thăm mộ thường. Tụi tôi nhất loạt phản đối và cùng hùn tiền lo cho Hải.
Tôi dứt khoát không chịu thiêu. Bất nhẫn quá. Đau lòng quá. Cứ nghĩ đến ngọn lửa hừng hực, hung hãn thiêu đốt xác thân anh em, tôi không chịu được. Một nấm mồ cũng vẫn hơn, dù đất đã lấp kín nhưng khi đặt một cành hoa, thắp một nén nhang, đốt một điếu thuốc, tôi vẫn cảm thấy rằng bạn tôi, em tôi dù cách xa ba tấc đất, vẫn là còn đó, vẫn ngửi được mùi thơm của hoa, của nhang. Khác hẳn với nhúm tro than trong bình. Song cũng có người không đủ phương tiện lo cho người thân một nấm mồ dù họ rất muốn. Trong đó có nghệ sĩ.
Tất cả những người mang danh là nghệ sĩ đều nghèo. Tôi chưa thấy ai giàu. Có thể là lo ít, lo nhiều thôi. Từ hồi nào đến giờ, từ khi khôn lớn biết suy nghĩ, tôi thấy đời sống ca nhạc sĩ Việt Nam khổ quá. Lúc sống, ngay cả lúc vàng son nhất, cũng chỉ đủ ăn đủ mặc không đến nỗi phải cấu véo bạn bè. Nhưng khi không làm hay đau ốm ở nhà một tháng là thấy đời nhau ngay. Nhất là ở đây. Tôi được nghe kể rất nhiều về đời của những nghệ sĩ cổ nhạc. Đa số là chết trong nghèo khổ và quên lãng của mọi người. Tôi thật không thể hiểu vì sao. Có người vì hút, vì cờ bạc. Ừ thì cho là vì như thế nên họ nghèo. Nhưng những người khác thì sao? Vậy mà tất cả gần như chung số phận. May mắn lắm mới có vài người thoát ra khỏi cảnh nghèo lúc cuối đời nhờ lấy được chồng khá, hoặc biết dè sẻn, buôn bán, có ra đi cũng ra đi trong êm ấm, đầy đủ. Cái chết của Thanh Nga là cái chết có một không hai.
Chúng tôi thường lo âu về tương lai mỗi khi gặp nhau. Ai biết được ngày sau sẽ ra sao. Ai biết được ngày mai sẽ thế nào. Mọi người thường nghĩ về chúng tôi qua hình ảnh rực rỡ, vui tươi trên sân khấu. Đèn tắt rồi, màn buông rồi, phấn son chùi rửa rồi, chúng tôi có chung với mọi người một khối lo. Có thể chúng tôi khổ hơn vì đôi khi phải cười mà trong lòng muốn khóc. Ôi đời cơm áo tàn nhẫn biết dường nào. Đời của một ca sĩ đáng thương biết là bao.
Vừa nghe tin Anh Thoại nằm bệnh viện, bài viết chưa xong, Trung Nghĩa báo tin... Anh Thoại mất rồi... Mới ở nghĩa trang về, lại sắp tiễn đưa người khác... Nghĩa nói: “Sao kỳ vậy chị Mai, sao toàn chuyện buồn không vậy, tại sao người ta không cưới nhau mà chết quá vậy...?” Làm sao tôi biết làm sao bây giờ. Chí Tài điện thoại: “Sao kỳ vậy chị Mai, ảnh mới rủ em đi ăn, em hẹn tuần này mà”. Việt Dũng cũng kêu: “Sao lạ vậy chị Mai, chắc chị phải làm một cái gì, cúng tổ đi chị, sao cứ nhè ca, nhạc sĩ không vậy?” Ông Thiêng nói: “Kỳ quá mới gặp hôm kia đây mà, gì mà kỳ vậy...”
Tôi ngây người ra. Tôi bỗng ngu hẳn lại. Tôi bỗng thấy một nỗi chán nản tuyệt vọng chụp xuống khiến tôi choáng váng mặt mày, không thở được. Thôi tôi ngưng.
16
Nhạc Sĩ Ngô Mạnh Thu Ở
vào những năm cuối của thế kỷ 20, khi mà con người đã mò lên mặt trăng hỏi thăm chị Hằng, xem chị và chú Cuội sống chung ra sao. Khi mà muốn tiêu diệt nhau, và cũng là tiêu diệt cả thế giới, chỉ cần... một ngón tay, bất cứ ngón tay nào trong... “bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa...” và một cái nút tí tẹo. Một cái nhấc tay. Một cái hạ xuống. Xong. Xong hết. Không cần tới 30 giây mà chỉ một giây thôi. Con người được tạo dựng bởi cát bụi, trở lại cát bụi.
Quả thật là chúng ta đang sống không phải là một mà là nhiều cái nút. Khi máy móc làm việc thay cho con người, đó cũng là lúc chính con người cũng trở thành một cái máy. Một ngày rất gần chúng ta sẽ tự hỏi... Mình đang ăn hay cái máy nó ăn? Hình ảnh Charlie Chaplin được cái máy đút cho ăn lập tức sống lại trong trí nhớ mù mịt của chúng ta. Tự hỏi là bởi trong lồng ngực chúng ta, trái tim, may mắn thay nó còn đập. Đập để nhắc rằng chúng ta chưa phải là cái máy.
Cứ thử nhắm mắt và tưởng tượng đến cái lúc chúng ta sống như những người máy hoặc là máy móc sống thay cho chúng ta. Ăn, có máy đút, chân gắn bánh xe di chuyển. Cởi quần áo máy cũng cởi giùm. Tất cả đều là máy với một cái nút nhỏ bé xinh xắn. Thậm chí đến cái tư tưởng của chúng ta cũng không cần phải nói ra bằng lời, bằng miệng. Bấm một cái nó hiện lên màn hình com-pui-tơ ráo trọi. Thế mình đâu còn là mình nữa. Đâu còn là con người nữa. Trái tim có còn đập thì cũng chẳng ăn thua gì. Chỉ làm ta chán nản thêm bởi nó cho ta thấy rõ đời sống không còn ý nghĩa nữa. Thời đại máy móc hiện đại, những năm tháng sắp tới sẽ tiêu diệt nốt chút nhân tính còn lại trong chúng ta. Dù có muốn chết cũng... làm biếng, vả lại cái máy nó sống chứ có phải là mình nữa đâu và cái máy nó không biết chết là gì. Nó bắt mình phải sống như thế để trả nợ cho cái xứ sở này.
Chuyện Khoa học giả tưởng ấy mà. Tuy vậy nó cũng làm cho tôi nổi da gà, nghẹt thở. Phải đi ra ngoài tìm chút không khí bạn bè, nói dóc dăm ba câu chuyện cho cái đầu bớt căng. Hẹn nhau ở phở Hồng Long, tôi gọi là phở
Nhật Thụy. Ngồi đợi đến lúc mỏi mòn mới thấy nhà... làm luật Trầm Tử Thiêng khệnh khạng vác cái bụng lép xẹp như bánh tráng tới, theo sau là một người đàn ông tuổi trung niên. Một người mà tôi rất biết. Rất quý mến của cái thời cả hai chúng tôi đều còn tương đối trẻ. Thời của những bài tình ca đẹp đẽ trong sáng với tiếng đàn thùng đơn giản cất lên giữa những bãi cỏ, sân trường, khuôn viên Đại học. Có thể nếu tình cờ gặp lại giữa phố, tôi không còn nhớ được anh là ai mặc dù trong trí nhớ đã rất mịt mờ của tôi, tên anh vẫn còn rất đậm nét. Có thể tôi sẽ nhíu mày cố lục lọi, để cố tìm hiểu xem cái khuôn mặt... quen quen này là ai? Tên là gì? Bởi vì đã hơn 20 năm, giờ gặp lại... Đây Ngô Mạnh Thu đấy. Tôi đâu có quên anh. Tôi chưa bao giờ quên anh.
Tôi có thể đã rất khổ sở khi gặp lại những người quen cũ. Quen biết từ 20, 30 năm về trước. Đa số là tôi nhớ mặt nhưng nếu cắc cớ hỏi... Nhớ thật không? Tên gì nào? Tôi đành xấu hổ mà rằng... cái vụ nhớ tên thì tôi thua... Nhưng cũng có trường hợp ngược lại. Nhớ tên, nhớ rất nhiều, nhưng khi gặp mặt thì tôi cứ ngu ra. Ngu như chưa bao giờ... ngu thế. Thực tế, tôi không phải là người mau quên mà phải nói là tôi có một trí nhớ đáng kể. Nhưng hơn 30 năm nay, thuốc ngủ đã làm cho tôi đôi khi ngây ngây, dại dại, lúc nhớ lúc quên. Tình trạng mỗi ngày một tồi tệ thêm, tôi đành tự an ủi rằng... Thôi thì cũng nên quên bớt đi cho dễ sống.
Ngô Mạnh Thu là một tên tuổi lớn của thời Du Ca, hình như còn trước cả Nguyễn Đức Quang, trước Trịnh Công Sơn, bởi năm 1967 khi tôi được cùng hát với Trịnh Công Sơn tại Quán Văn, đã có Ngô Mạnh Thu rồi. Anh hiền lành, đứng đắn và không... đẹp trai lắm. Tôi kính anh như một người anh lớn và tất cả những giao thiệp sau đó giữa tôi và anh đều nằm trong sự Tương Kính. Chẳng hiểu anh Ngô Mạnh Thu có “kính” tôi hay không nhưng riêng cá nhân tôi, cho đến bây giờ gặp nhau trên xứ người, tôi vẫn giữ nguyên sự Kính Nể đối với anh như ngày xưa.
Dĩ nhiên là cả hai anh em chúng tôi đều đã già theo năm tháng. Hơn 20 năm mà bảo là... không có gì thay đổi... là điều không thật. Ngày xưa, anh em chúng tôi còn quý nhau ở điểm, cả hai chúng tôi đều... không đẹp. Nhưng hôm nay, tôi thấy anh Thu không quá già như trường hợp của nhiều người khác, mà hình như anh... đẹp hơn thuở thanh niên... Cái này tôi thường gọi
là... đẹp lão. Anh chưa già đủ để thành lão nhưng tóc anh đã bạc nhiều. Lạ nữa là anh trắng hơn ngày xưa. Tóm lại ở Ngô Mạnh Thu tôi thấy có nhiều thay đổi, duy chỉ có cái khí chất điềm đạm ở anh là còn nguyên. Y chang, không mảy may thay đổi. Cái điều làm cho lớp chúng tôi quý mến anh còn nguyên vẹn, sau bao nhiêu tang thương, biến đổi. Kể cũng hiếm thấy.
Tôi còn nhớ dù rất lờ mờ, những ngày cùng sinh hoạt ở Hội quán Cây Tre, đường Đinh Tiên Hoàng, cạnh Sân Vận Động. Anh Thu tập cho chúng tôi hát. Một trong những bài hát nổi tiếng của anh thời bấy giờ là bài Lạc vùng ăn năn. Chúng tôi chỉ biết hát, trong khi anh Ngô Mạnh Thu vừa sáng tác vừa hát hay nên dạy cho chúng tôi là điều quá dễ đối với người có vốn nhạc lý thuộc loại cao cấp như anh. Dễ nhưng mà khó bởi muốn bửa đầu chúng tôi ra để nhét vào đó một bài hát, không phải là không mất thì giờ. Nói thế không phải là chúng tôi quá ngu nhưng vì hay ỷ lại, làm biếng, và thích đùa vui hơn, nên cầm cương được chúng tôi, quả không có được mấy người.
Thời đó, mỗi khi chúng tôi tập họp nhau lại dù để làm việc, cũng là một dịp để phá làng, phá xóm. Một đứa thì không sao. Dính lại một chùm thì chẳng mấy ai chịu nổi. Đùa vui. Phá cho vui thôi nhưng cũng đủ làm nhức đầu các ông thầy mà trong đó có anh Ngô Mạnh Thu. Thật sự ra, ngoài những bài hát thu băng, thu đĩa Billy Trung tập cho tôi, số còn lại, của ai sáng tác người đó tập cho ca sĩ hát. Ông Trầm Tử Thiêng. Ông Ngô Thụy Miên. Ông Nguyễn Đức Quang. Ông Vũ Thành An. Ông Từ Công Phụng và nhiều hơn cả là ông Trịnh Công Sơn. Cứ đến 100 bài thì có đến 99 bài chính ông Sơn tập cho tôi. Chỉ có 2 bài do Hoàng Thi Thao dạy tôi vì lúc đó ông Sơn ở Huế, đó là bài Tình nhớ và Tình xa.
Từ 1969 đến 1975 đó là khoảng thời gian cực thịnh của những bài tình ca lãng mạn, trữ tình. Tác giả thương yêu tác phẩm của họ, do đó sự liên lạc với ca sĩ rất thường xuyên và gắn bó mà từ đó, nẩy sinh ra thêm tình thầy trò, anh em kéo dài mãi cho đến sau này. Tiếc là sau năm 75, đến bây giờ và có thể mãi về sau, điều tốt đẹp đó sẽ chẳng còn bao giờ trở lại nữa. Đời sống văn minh tự do đến tàn nhẫn, đã đập dập tan tành tất cả. May ra còn lại cái “trí”. Nhưng nhiều người lại sử dụng nó vào những việc khác, cũng không kém phần tàn nhẫn, bất nhân, dùng nó để lợi cho mình, hại cho người. Người có “trí” không thiếu, nhưng nếu chỉ có thế vẫn không đủ.
Tôi vẫn thường cảm thấy rất hạnh phúc khi gặp lại những khuôn mặt thân thiết ngày xưa mặc dù sau 20 năm, chẳng phải ai cũng nguyên vẹn cái tình xưa, nghĩa cũ. Tôi đã từng lãnh những cú... tát trái, tát phải, những cú đấm ngàn cân, những nắm bùn vứt vào mặt tôi ở đằng sau những nụ cười. Nhưng có sao đâu. Thế mới là đời. Thế mới là người. 20 năm đã qua, còn 20 năm sắp tới nữa chứ. Đâu có phải đến đây là chấm dứt. Đâu đã phải là ngày của trận Đại Hồng Thủy. Cứ bình thản trước mọi việc là câu trả lời đúng nhất. Im lặng cũng là một cách sống. Nếu ai không tin, xin cứ tìm nhà làm luật Trầm Tử Thiêng mà hỏi.
Thầy Thiêng cười rạng rỡ. Bên cạnh thầy vừa xuất hiện người Chưởng môn phái... huề vốn Lâm Tường Dũ. Ông này nói chuyện rất tếu, rất ngây thơ và dĩ nhiên rất huề vốn khác hẳn lối viết... share cái này, share cái kia. Những tô phở được bưng ra, thơm lừng, nghi ngút khói. Tôi ngồi cạnh ông Ngô Mạnh Thu, đối diện với nhà tôi, ngồi cạnh thầy Thiêng. Đây là phở Công Lý, phở Pasteur, phở ở đường Lý Thái Tổ Sài Gòn và ngày hôm nay cũng có thể là một ngày nào đó của năm 1970... “Bỗng nhiên gặp lại nơi này. Những khuôn mặt cũ một thời có nhau. Ngày xưa phố cổ ngọt ngào. Ngày nay xứ lạ điệu chào ngẫu nhiên...” (Trịnh Công Sơn)
Thầy Thiêng hỏi ngày 27-11 tôi có thể đến tham sự đêm hội ngộ chào mừng nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu tổ chức tại Ritz không... “Đến được là em đến ngay, cần gì vé mời nhưng thầy phải để em về coi lại cái sổ... bộ đời của em đã. Ngày đó chắc chắn là em về nhưng về tới lúc nào, mấy giờ thì em chưa biết. Hễ về trước 9 giờ đêm là tụi em... bay tới...” Tôi nói rất mạnh miệng và rất thật dù biết rằng tuần lễ đó chúng tôi chạy show như những con khùng, chạy xì khói. Chạy cháy thắng. Chạy sôi nước. Về đến nhà là quay cu lơ, thở dốc. Vác được cái mặt đến Ritz có nghĩa là chúng tôi thuộc loại Super, loại Bionic Women. Cũng phải cố thôi.
Ăn xong là chia tay. Thôi nhé, đường ai nấy đi. Việc ai nấy làm. Chia tay không bịn rịn vì sức mấy mà không gặp lại. “Phải gặp chứ, gặp tại nhà tôi làm một đêm nhạc Du Ca với nhau như ngày xưa... cho nhau nghe.” Nhà tôi đề nghị. “Bún măng vịt đi em.” Lần đầu tiên tôi lắc đầu. “Cho em khất lại vài ngày nữa. Hôm nay em mệt.” Nhà tôi rất khảnh ăn. Khi nào anh đề nghị một món gì đó có nghĩa là anh... rất thích. Thường thì tôi OK ngay. Nhưng
chẳng hiểu sao từ mấy tháng nay, tôi cứ đau ốm hoài. Khỏe được vài ngày lại muốn lăn đùng ra. Lờ đờ lửng đửng như cá mắc cạn, đêm cứ trằn trọc hoài không ngủ, 3, 4 giờ sáng còn đi ra, đi vào... như ma. Đọc truyện cho mỏi mắt mà đầu óc cứ sáng như giữa Ngọ. Tôi chẳng muốn làm phiền ông bác sĩ TQLC tốt bụng nữa, vớ được thuốc gì uống đại cho xong. Không khỏi bệnh này cũng khỏi bệnh kia. Rốt cuộc ba hồn chín vía đi mất tiêu, chỉ còn có mệt.
Tôi trùm mền nằm một đống như người chết chưa chôn. Việc gì cũng đẩy qua cho chồng. Nhà tôi thì dư biết tính con vợ khùng điên, khi muốn làm Trời cản cũng không nổi mà khi đã không muốn, dát vàng nó cũng không thèm nhúc nhích, nên để tôi yên một mình. Bà nội Cu gọi điện thăm dâu mỗi ngày – con dâu kiểu tôi, không khá được - mấy cô em nhà tôi, cô thì gửi hoa, cô thì mua thuốc bổ, thuốc bịnh, cô thì kêu mỗi ngày, đến độ... tôi bỗng ngượng... không muốn bịnh thêm nữa. Chính vì vậy mà tôi gượng dậy đi ăn phở Hồng Long, phở Nhật Thụy và mới gặp lại ông Ngô Mạnh Thu để trả nợ cho Thời Báo kẻo mợ Hà Khánh Hội lại giận, không để dành hồng giòn cho thì thật là mất ăn.
N
17
Kế Đô
ói về cái vụ sao hạn, tôi cũng loáng thoáng nghe. Nào là La Hầu, Kế
Đô, nào là con bà Hắc Đế, nào là tướng tinh con cọp, con heo, con gà, con khỉ, v.v. và v.v... Rồi cúng sao giải hạn. Nghe thôi chứ tôi thường nghĩ nếu quả là số, có sợ thì chạy đâu khỏi. Người Trung Hoa có cái câu hay lắm... “Khi xui, uống miếng nước cũng sặc”. Hoặc là... “Càng nói, càng sai...” Hay. Và vì là người Công Giáo tôi không có cái màn cúng giải hạn.
Ngày cuối cùng của năm, tôi lên đường qua Hawaii hát đêm Giao thừa nhưng tôi phải rời Hawaii bằng chuyến bay đêm cất cánh lúc 11 giờ 55. Dạ vũ tổ chức ngay tại hotel tôi ở nhưng xui cho bầu, cho bà con và cả cho tôi là cùng lúc đó cũng có một cái party của Mỹ. Thế là bà con ta dù đã mua vé nhưng không có chỗ đậu xe, dẫu đã chạy vòng vòng cả hai tiếng đồng hồ.
Nhoáng một cái nhìn đồng hồ đã thấy 11 giờ kém. Tôi phóng lên lầu thay quần áo. Bầu chưa kịp đi lấy tiền, tay đang cầm mấy trăm bạc, tôi giựt luôn... Chị không chờ được, em gửi tiền cho chị sau nhé... 11 giờ 20 tôi chụp được một chiếc taxi... “Bằng bất cứ giá nào, mày đưa tao ra phi trường cho kịp chuyến tầu”... Tay lái xe lắc đầu... “Tao không nghĩ mày có thể bắt kịp, tao chỉ hứa là sẽ có mặt ở phi trường lúc 11 giờ 40...” Tôi thấy ngàn phần trăm là ở lại Hawaii đêm nay nhưng lỡ rồi, cứ đi biết đâu chừng tầu bay cất cánh trễ năm mười phút.
Phi trường vắng đúng như... đêm 30, chỉ có ba mạng ngồi nói chuyện gẫu, chỉ gate xong họ lại tiếp tục câu chuyện để mặc tôi với hai cái va-li, một bọc áo thun. Tôi bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng đến muốn khóc. Khi chất hai va-li lên xe đẩy thì Lạy Chúa Tôi lòng lành vô cùng, tôi thấy một anh chàng đi đến gần chỗ tôi và trên tay anh ta là cái boarding pass. Như vậy có nghĩa là anh ta đã check-in và máy bay không thể bỏ anh ta lại. May cho tôi làm sao.
Quả đúng tôi là hành khách cuối cùng bước vào máy bay. Tầu bốc lên khỏi phi đạo. Vừa qua giờ Giao thừa. Năm mới đã đến. Cái con sao Kế Đô thổ tả không biết nó đã... xéo... đi chưa mà sao nước mắt tôi cứ chảy xuống như mưa. Là một trong 12 con giáp bỏ mẹ, tôi thấy năm nào, con nào cũng
xui. Không chủ quan nhưng tôi ít khi nói sai. Cái ý là nếu sai, tôi không nói. Ở tuổi tôi, giờ còn nói sai nữa, e không... thọ, dẫu vẫn biết rằng sống cũng chẳng có gì vui, chết chả phải là điều đáng buồn. Ấy thế mà còn sống được là còn thấy những điều cười ra nước mắt. Tấn kịch đời... khôi hài bi thảm.
Khóc đã rồi hắt hơi, hắt hơi liên tục không biết ngượng trong suốt 5 tiếng đồng hồ. Đoan đón tôi ngay cửa máy bay, đưa áo lạnh. Anh ái ngại nhìn tôi hắt hơi nữa... “Đi nổi không em, nếu không thì về đi...” “Về làm sao được anh, đầu năm đầu hôm của người ta, lại trần xì chỉ có hai mống, em không tới làm sao Lê Tâm gồng một mình lại còn mang tiếng nữa...”. Mới 7 giờ sáng. Còn sớm chán, vợ chồng thủng thỉnh kéo nhau đổi qua cổng số 1 tới USAir. Đoan lì xì cho tôi một phong bao đỏ, tôi lì xì cho Đoan một bọc áo thun có in toàn là Rồng, con nằm ngang, con nằm ngửa, con vểnh râu, con lộn đầu... “Em đi nhé...”
Lên tầu rồi tôi lại hắt hơi tiếp. Ý cha mẹ ơi, năm nay coi bộ lạ đấy, ai nhắc mình mà hắt hơi dữ vậy. Cứ như thế cho tới khi tầu đáp xuống phi trường Charlotte, North Carolina. Lê Tâm chưa tới. Tôi vội vã lấy đồ nghề làm mặt ngay lại chỗ... Mẹ kiếp, đã xấu sẵn rồi, làm gì cũng không thể đẹp hơn, cứ quẹt quẹt tí xanh xanh đỏ đỏ cho bà con... đỡ sợ là được rồi. Chẳng có chỗ thay áo dài, tôi chơi luôn quần jean, áo lạnh lên sân khấu. Mười tiếng chập chờn hắt hơi sổ mũi vậy mà Chúa Mẹ thương, tôi cứ hát được như thường. Cái này sức người không thể.
Buổi tối là Dạ vũ, tôi có được hai tiếng đồng hồ để tắm gội sửa soạn mặt mày quần áo cho đúng lễ nghi quan cách. Biết tôi bệnh, Lê Tâm ráng gồng giùm tôi bằng những bài hát hot nhất. Bà con, nhất là giới trẻ khoái chí vỗ tay như sấm nổ, tất cả cứ đứng tại piste chờ đợi, chẳng ai chịu vào chỗ ngồi. Riêng tôi, được một bà mẹ của em chơi keyboard cho uống thuốc, cạo gió và ăn donut. Cũng có thể vì ăn chay lại đai-ét, cơ thể tôi yếu quá chăng. Nhưng sao vẫn hát được. Ấy, đã nói có Chúa Mẹ đỡ mà.
6 giờ sáng, lại ra phi trường bay về Houston. Cái màn hắt hơi đỡ rồi nhưng phải thú nhận là tôi đã thấm mệt. Thuốc ngủ cứ uống nhồi mãi mà ngủ không đủ do đó tôi cứ như người mộng du. 11 giờ vào đến sân vận động khổng lồ, là nơi tổ chức Hội Chợ Tết Con Rồng, chưa có một mống ca sĩ nào cả. Ngay bên cạnh sân khấu là cái... lều quây bằng vải đen dùng làm chỗ
thay quần áo cho các đấng ca sĩ từ giọng hát hàng đầu đến hạng chót... same same. Tôi chắp ba cái ghế lại làm được một giấc. Ôi, ngẫm còn hơn hạnh phúc của giấc ngủ thiên thu.
Thế là xong ba ngày Tết lênh đênh trên đời, mấy chục tiếng đồng hồ bay chạy dạng chân từ phi trường này tới phi trường kia, từ cổng này đến cổng nọ. Cầm đống tiền, nước mắt lại chảy ra, nghĩ đến khán thính giả đã chia sẻ cho mình mồ hôi nước mắt của những ngày giờ làm việc bấm thẻ. Cứ nghĩ thế mà cho rằng mình còn may mắn hơn rất nhiều người trong đời sống, trong nghề nghiệp có những oan trái đắng cay lại phải nuốt sâu vào lòng, đêm đến thì mượn thuốc ngủ làm... người tình trăm năm. Liều lượng ngày một tăng, tháng nào cũng phải cúng cho nó cả trăm bạc. Vậy nên nếu lúc nào tôi về hưởng nhan Thánh Chúa... thì đó là lỗi tại tôi. Xin cả làng nước đừng bảo rằng chồng tôi... thuốc tôi để lấy bảo hiểm. Gì chứ nói oan cho người khác, tội nghiệt không phải nhẹ đâu nhé, đừng tưởng lời nói gió bay.
Tôi cảm cúm đã bốn tháng kể từ đêm quyên tiền cứu lụt miền Trung tại San Jose. Bà con ngồi cả dưới đất, trời đêm đó lạnh như cắt ruột. Ôm thùng tiền đi xin, thấy chỗ này vẫy, chỗ kia cầm tiền ngoắc, làm sao len vào với đôi giày vừa to vừa cao như cái chiến hạm, thế là tôi chơi cái chân đất đặng chạy cho lẹ. Đi hai tiếng đồng hồ cho đến khi bàn chân tôi tê cóng vì lạnh. Thằng Kenny, con tôi đi theo ôm áo, ôm giày xót mẹ kéo tôi vào quên cả bé Dung, vợ nó cũng đang ôm một thùng đi xin tiền. Gần 80 ngàn đô đã được Đỗ Văn Trọn tự tay cầm về.
Vancouver kêu, Seattle kêu, Toronto kêu... Lụt đây... lụt đây. Nhiều khi nghĩ cũng lạ. Chỗ nào ấm áp, ăn uống nhậu nhẹt nhảy đầm thả giàn, cờ bạc chí chạp ít có mình. Có lẽ tại thấy tôi đai-ét triền miên, nhảy đầm lại dốt, cờ bạc thì... rét nên thỉnh thoảng mới cho tôi góp mặt. Sao thế nhỉ? Cái này tôi phải chờ thầy Nhật Thanh coi giùm xem tôi được sinh ra dưới ngôi sao nào. Tuy nhiên cũng tốt thôi... Mình ăn hết, người ta ăn thì còn... Ngày xưa ở Việt Nam được đóng góp trong những công việc từ thiện, xã hội cũng là nghề của nàng. Giờ đổi đời, ai đổi thì đổi chớ với tôi đó vẫn là niềm vui như anh Trịnh Công Sơn thường dặn... sống phải có tấm lòng. Sống phải tử tế với nhau...
Trước khi đi, Đoan bắt tôi phải chích thuốc khỏe cộng thuốc trụ sinh vì tôi đã uống nhiều trụ sinh trong mấy tháng qua và xông cả chục nồi thuốc
xông tổ bố. Anh soạn áo lạnh kín cổ cao tường và xếp cho tôi năm cái khăn quàng cổ đủ màu. Vợ chồng vui vẻ chở nhau ra phi trường, lấy boarding pass xong cả hai còn kéo nhau ra lề... ăn điếu thuốc rồi mới chia tay. Không có ôm ấp hôn hít gì cả chỉ có hai cái mũi quẹt vào nhau, coi như xong. Đoan lên xe, tôi quay vào, không cả cái màn... đứng sừng sững nhìn theo... như chú Mai Thảo đã viết... “Đứng sững mới hay lìa cách đã. Sơn cùng thủy tận giữa đôi ta”... Chi dữ vậy, hai ngày bay, một ngày hát là lại... phải nhìn thấy nhau rồi.
Toronto lạnh quá. Tuyết trắng cả một khung trời. Chỉ mong ra khỏi phi trường cho mau đặng ăn điếu thuốc giữa một thảm tuyết trắng, cũng đáng gọi là một điều thống khoái. Khiếp, nghe tôi nói cứ như một gã đàn ông dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Thủ tục đóng thuế cũng nhanh nhờ tôi có đem theo giấy đóng thuế tuần rồi ở Vancouver. Ba cái va-li nhỏ xếp gọn trên xe, tôi đi như một người dư thì giờ đi dạo chơi. Mít gặp nhau là nhận ra ngay. Một người đàn ông trung niên tóc muối tiêu dáng mảnh khảnh, mắt hiền lành phúc hậu với nụ cười vui vẻ rộng hết cỡ chạy tới... “Sao, cô có mệt không, vào đây làm ly café đã, chờ cháu nó lấy xe. Tôi là Doanh, Hội Người Việt ở đây...” “Dạ chào bác, cảm ơn bác nhưng bác cho phép em ra ngoài... ăn điếu thuốc đã...” “Ừ. Được nhưng mà lạnh lắm đấy, cô phải cẩn thận nhé...”
Trên đường đi, bác Doanh, Du - con bác Doanh - nói cười vui như Tết, như đã quen nhau từ... muôn kiếp trước. “Giờ có ly café thì ấm bụng bác nhỉ...” “Ấy có đây, để cháu nó đưa cô đến, chỉ sợ giờ này nó đóng cửa...” Một tiệm café có karaoke, trên màn ảnh đang chiếu cuốn... “Mẹ” của Thúy Nga. Vui đáo để và café thật ngon. Du uống được còn bác Doanh thì thật là phí tiền vì bác chỉ cần có mấy giọt mà thôi... Tôi vừa nhâm nhi café, thuốc lá vừa hỏi thăm bác Doanh chương trình, bởi vì tôi biết là tôi sẽ được hát chung với Giao Linh như ông Kha Xe nói, mà tôi thì lại rất quý và muốn gặp Giao Linh... “Bác Doanh ạ, chương trình gá nhà của Toronto ra sao chứ chỉ có hai mống gồng, có nước... hộc máu...” Bác Doanh cười... “Cô đừng lo, cây nhà lá vườn ở đây cũng nhiều, có cả Tuấn Tài nữa cơ mà...” “Vậy mà em có biết đâu bác, ông Kha Xe chỉ nói tới Giao Linh thôi...”
Chợt có người đập vào vai tôi đánh bộp một cái... “À lại gặp rồi, trả nợ đi chứ, hứa gửi bài mà chả thấy gì, hèn chi bị lão Phan Ni Tấn làm thơ mắng
khéo đầu năm.” “Ối giời ơi, bố Nguyên Nghĩa đi đâu đây.” “Rõ là vô duyên, đi vào tiệm café là để uống café chứ chẳng lẽ vào đây mua cá mua thịt.” Nguyên Nghĩa đi với một anh được giới thiệu là Khải kéo ghế ngồi bàn bên cạnh... “Này, thế ngày mai ông có đi không?” Nguyên Nghĩa cười lắc đầu... “Tôi không đi, gặp mặt nhau mất vui...” “Tại sao...” “Chị không biết à, ngày mai có Nguyệt Ánh, có Hưng Ca hát mà...” Bác Doanh cười, nói không có Nguyễn Hữu Nghĩa, chỉ có Nguyệt Ánh và Nguyễn Xuân Nghĩa mà thôi. “Ôi vậy sao, tôi có đi hát chung với Nguyệt Ánh và Nguyễn Xuân Nghĩa rồi mà sao tôi không nghe nói gì cả, tưởng chỉ có Giao Linh thôi. Vậy Nguyên Nghĩa chuyển lời mình thăm anh chị Nguyễn Ngọc Ngạn và anh chị Phan Ni Tấn nhé vì ngày mai tôi phải đón con gái, sợ không có thì giờ. Hẹn gặp ở Paris.”
Bác Doanh và Du chở tôi lại nhà của nha sĩ Từ Chấn Phong, người em kết nghĩa “vườn cải” có một cái nhà tổ bố lại ở một mình, rất mê hát karaoke, rất quý mến ca nhạc sĩ. Tuấn Ngọc và tôi từng được gửi ở đây – ban tổ chức đỡ tốn tiền khách sạn và có lẽ sẽ có thêm đề tài về ông nha sĩ trẻ và bà ca sĩ già. Có hề chi. Phong, thằng cu Hiền cháu Phong và tôi ngồi trên thảm hát karaoke mà lại hát tiếng Tây mới chiến chứ... 2 giờ sáng tôi xin phép hai chú cháu đi ngủ nhưng dầu đã uống thuốc ngủ tôi cứ trằn trọc mãi vì sự... thiếu sót của ban tổ chức. Đêm mai, tôi sẽ đối đầu với một người đã dùng tờ báo của mình làm phương tiện đánh phá tôi trong suốt hơn 10 năm qua mà hình như cho đến bây giờ vẫn chưa thôi.
Kế Đô vừa qua, còn cái gì nữa thì tới luôn cho tiện việc sổ sách. Mà nói cho cùng tôi cũng chẳng còn nhớ mặt mũi cái người chửi tôi ra sao. Vài chục năm trước, chỉ nghe thấy loáng thoáng từ xa khi Nguyễn Hữu Nghĩa đi theo sư phụ là Nguyễn Đức Quang... Thôi đọc kinh rồi ngủ. Cái mặt tôi đây, ai muốn chửi, thích chửi thì xin mời. Chỉ biết một điều là bao giờ tôi cũng đứng thẳng, nhìn thẳng và đi ngay. Nếu có một điều gì cần phải chứng minh thì tôi chỉ chứng minh với bản thân mình mà thôi. Hơn thế nữa điều mà mọi người muốn ở tôi là hát. Vâng, tôi sẽ hát, hát đến có phải bật máu ra mà chết tôi cũng sẽ hát bởi đó mới là điều quan trọng, đó mới là niềm hạnh phúc mơ ước của tôi. Xin kính chúc tất cả sức khỏe và sự bình an. Bình an trong đời sống. Bình an trong tâm hồn.
T
18
Gia Tài Mẹ Chỉ Có Thế
ôi vừa chia hũ cà cuối cùng. Một cho Ngọc Minh. Một cho bà nội của
Cu. Thế là hết 100 pounds cà cha Nam Hải gửi cho. Tôi đã làm đúng lời cha dặn. Chia cho mỗi người một ít gọi là quà cha gởi tặng, trong khi tôi lại là người được hưởng ít nhất. Bởi bị cúm cả hơn tháng, tôi chẳng dám đụng tới một quả cà. Vừa ngớt bịnh, chuẩn bị thâu băng, Giang lại bồi thêm một cú. Này, đừng có ăn cà, khản tiếng đấy. Đành nhịn thèm nhìn các hũ cà to, nhỏ trên tay các bạn. Bye.
Chắc tương lai tôi khi về già sẽ gần gũi với ruộng vườn, gia súc. Lần đầu tiên những cây ớt tôi gieo trồng đầu mùa Xuân cho tôi nhiều trái. Thích trồng cây nhưng không biết cách, lại lười tưới bón, có khi đi hát xa cả tháng, về đến nhà, cây cối chết tiệt. Năm nay chịu khó hơn, tôi thăm chừng mấy cây ớt mỗi ngày, kể từ lúc mới nhú trong chậu, cho đến khi tôi đánh cây con trồng riêng ở ngoài.
Đây là những cây ớt Việt Nam. Tôi lấy giống từ nhà Sĩ, Nguyên ở Úc. Ớt cũng từ Việt Nam qua Úc rồi từ Úc nhập cảnh lậu vào Mỹ. Mọi người dọa. “Này, mang trái cây vào Mỹ là tội đó, tụi nó mà bắt được...” Tôi cứ gân cổ cãi. “A, bắt được thì phạt chứ sao. Tớ đếch sợ, tớ có chỗ giấu.” “Giấu ở đâu, trong... quần à, ớt mà dính... vào đó, cay hết biết, mà rồi bà có trồng được, cũng không ai dám ăn.” “Kệ cha tôi, tôi giấu chỗ nào là của tôi, trồng cây đâu phải để hòng hái trái, ngó cũng vui mắt rồi, muốn ăn, ra chợ mua chứ tội gì bứt cây mình trồng.”
“Chỉ có em là điên như thế thôi.” Đoan bảo vậy. “Hoa thì không trồng lại đi trồng ớt, trồng sả, trồng rau, mà rồi lại không cho hái, không cho nhổ.” “Ừ, em điên kệ em, muốn ăn, muốn hái, muốn nhổ cũng được nhưng phải tùy.” “Tùy cái gì?” “Thì tùy người em quý, người quý em nhớ đến công em săn sóc tưới bón chứ.” “Em thật là điên còn vớ vẩn, ai ăn mà chả thế, còn bày đặt lựa người rồi mới cho ăn.” “Kệ em, anh có công việc của anh, em có công việc của em. Công việc nào cũng cần sự suy nghĩ và lựa chọn.”
Hoàng Xuân Giang cười. “Đoan nói đúng đấy, cây hết trái, hết mùa, phải
tỉa, cắt bớt những cành yếu, cây mới mạnh, lứa sau sẽ nhiều trái. Sả phải nhổ bớt nó mới đâm thêm chồi mới, giềng gom lại một bụi đủ rồi, ớt phải trồng chỗ nhiều nắng, phải thêm đất, thêm phân.” Nghe lời Giang và nể chồng, tôi hái ớt... đãi bạn. Tùng Giang, Du Miên ăn ớt như nhồng, nhìn mấy trái ớt đen thẫm tôi đưa với cặp mắt... khinh bỉ. Mẹ ơi, cả hai người gần té đái vì cay, gật gù. “Được, ớt này được, bẻ ra đã nghe cay rồi. Người nào trồng ớt cay là người tốt.” Tôi chẳng biết thầy Thiêng có nói đúng không vì thầy này là vua điển tích. Song tôi vui vì đây là công lao của tôi.
Ổi tôi được ăn nhiều. Ở nhà chị Hà, ở nhà chị Kiều Loan, ổi nhà Elvis Phương, nhưng không ổi nào ngon bằng cây ổi tôi mua 15 đồng 6 năm trước. Đúng là ổi xá lị. Ngọt, giòn và thơm. Ăn một miếng, sướng một miếng, nuốt tới đâu, sướng tới đó. Mùa đầu tiên nó chỉ có hai trái to hơn cái bát ăn cơm. Mấy năm nay, trái khá nhiều nhưng nhỏ. Nam Lộc bảo tôi khi hết trái phải tỉa bớt cành, chỉ giữ lại những cành mạnh thì năm sau trái mới to. Tôi cứ thương thương, tiếc tiếc thế nào ấy, không chịu nghe lời. Nhìn cái cành cây đang lá sum suê, bảo tôi phải cắt bớt, tôi không nỡ. Tôi sợ cái cây nó đau sao?
Cam cũng thế, bơ cũng thế. Cứ để chín vàng cho đẹp. Đừng ai bứt trái bẻ cành của tôi. Muốn ăn thì đi mua. Không tiền thì nhìn cũng đủ... mát ruột rồi. Trái nào chín quá rụng xuống, tôi mới ăn. Bơ nhà tôi ngon lắm, hột nhỏ, cơm dày, vàng và béo ngậy. Trái chỉ dành để biếu bạn, cho con dâu làm sa-lát vì mùa này ở chợ Mỹ bán gần 2 đồng một trái.
Đấy, tôi chỉ có thế, “gia tài của mẹ chỉ có thế”. Tôi nói với con tôi như vậy. Và đó còn là những người bạn của tôi nữa. Những người bạn không biết nói. Bảo Linh đưa vợ con lại thăm tôi, nó nhìn tôi cười và nói. “Mẹ thích chó và cây vì nó không biết nói”. Tôi cũng cười, không trả lời. Con tôi đã thành nhân.
Những cây hồng giòn, cây mận nhà Du Miên nặng trĩu đến gãy cả cành làm tôi tiếc mãi, xót xa mãi như chính mình bị thương vậy. Cây ngọc lan vẫn là nỗi ao ước của tôi. Năm tới tôi sẽ mua một cây, một cây lớn có hoa ngay khỏi phải chờ đợi. Mua cả hồng giòn nữa. Nhất định mùa Xuân tới tôi sẽ mua, lúc đó có Hoàng Xuân Giang ở đây, sẽ nhờ Giang phụ một tay... đào đất. Tôi tự hẹn với tôi như vậy.Và khi tôi nói ra, Đoan bảo. “Em muốn cái gì
thì có trời xuống cản nổi. Muốn thì mua ngay đi.” Cái thích của tôi ngang với cái lười. Thôi để vào Xuân đã, bây giờ gần đông rồi. Thế đấy. Vẫn biết là muốn gì được nấy, không ai có thể cản được. Chính vì thế mà tôi... ít muốn và... muốn ít. Nhưng cái “ít” của tôi làm Đoan nhiều khi chạy... xì khói. Muốn thâu băng là thâu ngay. Tự lựa bài, tự đưa bài làm hòa âm, tự gọi điện lấy phòng thâu, mặc cho Đoan tự động chạy tiền. Không cần biết bao giờ mới phát hành. Cứ thâu. Vì sao? Vì tôi thích chứ vì sao. Cuốn này chưa xong, nhồi thêm cuốn nữa. Đoan chạy tiền bở người mà không dám hé răng cằn nhằn. Sợ con điên nổi cơn thì còn mệt hơn lúc chạy tiền. Được cái Đoan cũng mê văn nghệ, hát hò. Có nhiều khi anh chỉ tôi cả cách diễn tả bài hát nữa. “Em phải hát như thế này mới đúng ý ông Sơn, giống như anh Giang đã chỉ em rồi đó.” Rồi anh thản nhiên nhắm mắt nhắm mũi, tay múa loạn lên như đang trình diễn, như nhạc trưởng đang điều khiển một dàn nhạc hòa tấu. Trước mặt ông Thiện, ông Thiêng, John, Mai và bác Lê Nguyễn. Đoan say sưa hát khi trầm như lời thủ thỉ, khi bổng như tiếng kêu đau thương của người tuyệt vọng. Lúc đó là lúc anh hoàn toàn quên những cơn điên của tôi, quên cái cảnh chạy tiền trả nhạc sĩ phòng thâu. Ngược lại, tôi nghĩ anh rất hài lòng.
Có người bảo. “Mẹ, thâu gì mà thâu lắm thế. Bán cho ai, bán cho chó à.” Ấy, đừng nói thế, băng nhạc thì bán cho người chứ sao bán cho chó. Nói sao nghe nặng nề thế, không sợ à. (Chả là chúng tôi có ông Tổ và ông Tổ này nghe kể là một người ăn mày, do đó có cái lệ là ca sĩ kiêng không cho tiền những ai ăn xin. Vì sao thì tôi không biết). Tổ rất linh. Bên cổ nhạc thường xá Tổ trước khi ra sân khấu. Tôi không làm vậy, chỉ làm dấu thánh giá nhưng cũng e dè không dám làm điều gì... bất nhân vì sợ Tổ lấy lại nghề hay lộc Tổ đã đãi. Thế nên khi nghe nói những lời cay độc, tôi làm lơ và tiếp tục công việc của mình.
Tôi sợ, tôi sợ một buổi sáng đẹp trời nào đó, mở mắt dậy nói không ra hơi, khào khào như vịt, ngan, ngỗng kêu. Chắc tôi sẽ tự tử chết cho rồi. Có gì bào đảm đâu? Việt Nam mình có được bao nhiêu Kim Tước, Châu Hà, Thái Thanh, Mai Hương, Hà Thanh? Mà đâu phải lúc nào cũng có, lúc nào cũng lấy rổ đong được. 35 năm cũng là quá nhiều cho một việc làm mang ý nghĩa, giá trị tinh thần nhiều hơn. Không hát được nữa thì tôi sẽ làm sao với bao
nhiêu tâm sự ngổn ngang, muốn gởi gắm qua các bài hát. Chỉ có chết là hết chuyện.
Lê Bá Chư cũng than buồn. Ôi đá cũng đổ mồ hôi sao? Tưởng Chư không bao giờ buồn, không bao giờ biết buồn chứ? Băng nhạc, nghe đâu cũng bán được gần chục ngàn cuốn, dưới trướng là bao nhiêu ca sĩ nổi tiếng. Có tiền, đẹp trai lại một thân một mình tìm đâu chả ra người yêu. Buồn cái nỗi gì? Buồn vì sao? Than buồn rồi còn muốn... chết nữa. Gì mà ghê vậy. Có buồn thì cũng in ít thôi, chừa lại cho anh em với chứ. Buồn thì có... danh giá gì mà dành về phần mình hết vậy. Ơi Chư ơi là Chư, nếu quả thật có buồn thì về nhà, vào phòng đóng cửa lại, chửi thề một tiếng thật to, hét lên một tiếng thật to là xong ngay. Đừng chết nhé. Uổng. Đời đẹp lắm. Cũng còn những điều khả dĩ có thể yêu được, chẳng hạn như Hội Nhớ Huế của Chư đó. Cả bọn cười vang phòng thâu.
Đường về khuya vắng vẻ. Đoan cho xe chạy chầm chậm lướt qua những trụ đèn. Anh lẩm nhẩm hát theo một bài vừa thâu. Tôi im lặng nhìn ra ngoài. Những trụ đèn trong đêm trông buồn bã lạ thường. Tôi nhớ những trụ đèn ở Đà Lạt, ở Huế, ở Paris, ở Canada. Những trụ đèn ở đâu trong bóng đêm, cũng buồn như nhau. Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày, đêm, mưa, nắng. Những trụ đèn vẫn đứng đó im lặng. Trông tội nghiệp ghê đi. Nó cũng biết đau đấy chứ. Nó cũng có những niềm đau của nó. Nó cũng biết buồn đấy chứ. Nó đang... thở dài đó. Có ai nghe tiếng thở dài của những trụ đèn đó không. Người và xe vẫn thản nhiên lướt qua. Tôi nghĩ đến những trái ớt, những trái ổi đã chín mà tôi định hái sáng mai.
M
19
Những Điều Rất Nhỏ Nhoi ột ngày đối với người như tôi dường như hơi ngắn. Tôi chưa kịp làm
gì, trời đã tối. Ngày ngắn nhưng đêm lại quá dài. Không biết làm gì cho hết đêm. Có người bảo cứ nghĩ đến những việc sắp làm, song càng nghĩ lại càng tỉnh. Có người bảo cứ mở tivi coi cho mỏi mắt sẽ ngủ. Coi cái phim dở thì mở qua đài khác. Gặp phim hay, hấp dẫn quá quên... ngủ luôn. Có người bảo tôi đọc sách cho mỏi mắt. Sách hay quá, truyện tuyệt vời, phải xem cho tới hồi kết không bao giờ có chuyện ngưng nửa chừng. Thì tìm sách... dở mà đọc, chán quá sẽ ngủ. Nhà tôi không có chỗ cho những cuốn truyện dở. Lại đi mò tìm đọc những sách khác cho tới sáng trắng. Nhớ tới câu ru con ngày xưa... “Con cò mày đi ăn đêm. Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. Tôi là con cò và tôi muốn lộn cổ xuống ao cho rồi.
Nói ra thì lại bảo sao cứ kêu rên hoài, than thở hoài. Không kêu, không than đâu mà là một chút tâm sự thôi. Không lẽ cũng bị cấm nữa. Ở đây là xứ đàn bà đứng thứ hai chỉ thua con nít. Vậy mà hở ra cái gì cũng bị... cấm thì... ít vui. Kỳ quá. Vả lại tôi đã nói rất nhiều lần là tôi chỉ viết và viết... về tôi và các bạn tôi mà thôi. Về bạn thì dù có bị bạn chửi cũng... quen rồi. Còn về chính tôi, nhiều điều để nói ra, viết ra. Người lạc quan yêu đời sẽ cười dễ dàng vì những cái lẩm cẩm, ấm ớ của đàn bà. Người yếu đuối, bi quan, lòng mềm yếu dễ ngậm ngùi thương cảm. Tôi chủ ý viết để các bà các cô đọc chơi. Cùng phận đàn bà dễ chia sẻ, thông cảm những rắc rối về công việc, đời sống, chồng con. Những điều rất nhỏ nhoi trong đời sống song đôi lúc, cái nhỏ nhoi đó làm ta đau đớn khôn cùng. Đau mà không nói được, không cho nói thì... chết sướng lắm.
Đây nhé, sáng nay tôi thức dậy, đánh răng rửa mặt xong, mở tủ lạnh lấy đá, đập nhỏ bỏ vào ly café sữa chồng đã pha sẵn cho. Xong bắt tay vào việc liền. Cái việc mà tôi rất sợ hãi, rất nản lòng. Điện thoại cho các đại lý. Nhưng sao lại sợ, sao lại nản. Bán được hàng thì có tiền để sống, đó là một công việc... quá nhẹ nhàng, dễ dàng và nhàn hạ mà. Đại lý nào cũng quý hóa, dễ thương. Thăm hỏi dăm ba câu rồi là đặt hàng. Nhiều khi hai bên tâm sự
ba điều bốn chuyện, vui lắm chứ. Vậy thì sợ đây là sợ cái câu hỏi của các đại lý. “Băng hay không Khánh Ly?” Làm sao tôi trả lời. Nếu mời băng cho một người khác, tôi sẽ rất mạnh miệng để trả lời một cách hùng dũng rằng: Hay lắm, tuyệt. Bây giờ chẳng lẽ tôi lại khen tôi rằng... hay. Dạ em không biết, xấu đẹp tùy người đối diện. Dạ chắc cũng không đến nỗi nào tệ lắm. Đại khái là vậy. Cái thứ hai là “Sao băng cô mắc thế, làm sao bán?” Cái này cũng khó cắt nghĩa. Vô lý lại đề cao băng tôi vì thế này, thế kia nên phải bán giá cao, băng người khác vì thế kia, thế nọ nên hạ giá hơn. Cả hai điều tôi đều không nói được. Rồi các đại lý vẫn đặt hàng và rồi tôi vẫn rất sợ, rất mệt trong những lần phát hành băng. Mà nếu tôi không là người kêu cho đại lý thì không ai có thể làm được.
Việc tưởng dễ mà không dễ. Tỷ như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên cho bà con té khơi khơi chỉ vì một... sợi tóc vướng chân người ấy mà. Tỷ như Trịnh Công Sơn đã vẽ ra bức tranh tuyệt vời, mặt hồ nổi sóng, đời người đã lênh đênh chỉ vì một... giọt nước mắt của em. Thấy không, chỉ một sợi tóc, một giọt nước mắt mà biết bao trái tim thổn thức khổ đau. Nhưng đấy là cái thổn thức khổ đau vì yêu nên rất... thơ, rất... nhạc. Tôi đang khổ đau, tim cũng nhức nhối vì bấm điện thoại liên chi hồ điệp. Cái khổ đau thổn thức rất... người và rất khó. Đại lý lấy băng mới. Lấy thêm băng cũ. Ghi ghi, chép chép. Chừng một tiếng đồng hồ, hai tay, cổ mỏi nhừ, mắt muốn nổ đom đóm vì cái kính lão, mới thấy đường mà ghi chép. Việc tính tiền thì có Misa hay Đoan. Chả là từ bé đến lớn, dù được đi học (hết bậc tiểu học Cầu Kho chứ ít sao) tôi cũng chưa bao giờ một mình làm được một bài toán. Dốt thì cũng dốt vừa vừa thôi chứ. Bao nhiêu cái dốt giành lấy hết, làm sao sống (sao cái này không thấy ai giành). Như có lần bán băng cho ông Hoàng Ngọc Ẩn ở Houston, vừa điện thoại, vừa tính tiền. Hơn ngàn anh Ẩn à. Tuần sau đó ông Ẩn qua Cali ghé nhà ăn cơm, Đoan lấy sổ ra xem. “Em cộng thế này mà cộng được à, lấy ở đâu ra mà cộng như thế.” Tôi cười. “Thì anh cộng lại, sổ sách còn đó chứ có mất đâu, tiền thì vẫn nằm trong túi anh Ẩn, có sao đâu mà... phải lớn tiếng với vợ.”
Ngay cả đến việc xếp băng vào thùng tôi cũng làm không được vì có thế nào cũng... lộn, hoặc dư hoặc thiếu. Đoan lại phải đổ ra và đếm xếp lại... từ đầu. Nhưng những việc đó dễ thôi phải không. Cái khó và cái khổ nhất tôi đã
gánh. Tôi phải gánh thôi bởi chỉ mình tôi biết ông Đoan là chồng tôi chứ đại lý biết ông Đoan là ai. Chẳng lẽ lúc đó lại giải thích rằng tôi là chồng cô này, chúng tôi lấy nhau mấy chục năm rồi v.v... Xin quí vị mua băng của... vợ tôi. Đoan không chịu làm. “Người ta biết em và người ta quý em thì chỉ có em gọi được thôi.” Đoan nhất định, một hai gì cũng... không. Mà thật ra Đoan không làm việc này là... đúng. Thế thì... dang ra cho... con già này làm việc. Gọi điện thoại cho đại lý liên tiếp ba ngày, ngày nào cũng vậy, lúc buông cây bút, gỡ cái mục kính ra, tôi mới nhớ là suốt cả một ngày tôi chưa ăn gì.
Đã nói là trong cái khổ nó có cái vui. Thực thà mà nói thì chưa có đại lý nào nỡ nói với tôi những lời nói nặng. Chỉ nhẹ nhàng. Sao cô để băng giá mắc quá. Thế thôi. Và sau cùng cũng lấy. Nói nặng thì không nỡ nhưng hốt hụi rồi... chạy luôn thì có. Khi thấy con số lên đến bạc ngàn mà mình thì... rách, bèn nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng. “Chị thông cảm gửi cho em để em lấy băng mới đã.” Điện thoại thăm hỏi, bèn được trả lời một câu cũng nhẹ nhàng không kém. “Ồ mình... sang tiệm rồi để mình tính rồi mình gửi cho Khánh Ly ngay.” Cái “ngay” đó hình như không có bao giờ. Có nơi tháng trước mới order băng. Tháng sau liên lạc lại đã đổi chủ. Ôi giời cao đất dày ơi, chết em. May mà lâu lâu mới bị một vố chứ nếu bị hoài chắc tôi lên... bàn thờ lâu rồi.
Bình thường, tôi làm cái gì cũng nhanh. Đi, đứng, ăn, nói, làm cơm, rửa chén, 30 giây. Nhưng hôm nay là ngày phát hành video “Một đời Việt Nam” của tôi thì cả Đoan lẫn tôi cùng đau ốm bịnh hoạn. Hôm đi lấy video về, Đoan đã không khỏe nhưng thấy ông em rể lễ mễ khiêng hết thùng này đến thùng khác, vô lý mình đứng... ngó, vô lý mình chơi cái... tình lờ. Bèn hùng dũng ra cái điều không răng mô. Nào hay già cả rồi chịu sao thấu, trật xương, cụp xương gì không biết mà qua ngày hôm sau, chàng đi như người... đau lậu. Vì tôi ngủ riêng nên chàng kể cho hai sư phụ Thiện và Thiêng và tôi nghe là sáng nay chàng phải... bò dậy, bò ra mặc quần áo, bò ra đi giày, bò ra xe và lái đi mua thùng giấy. Về đến nhà là chàng hô hào Misa, Cu và hai cô cháu gái từ Phila xuống chơi, ra xe khuân thùng vào, lấy video lên bắt đầu làm việc. Con, cháu tôi thay vì hôm nay đi biển chơi bèn được cho lao động vinh quang. Song chàng hứa sẽ chi tiền cho các con, các cháu đi Magic Moutain chơi. OK xong ngay. Từ trưa tới chiều bỏ thùng được hơn ngàn cuốn. Mệt quá rồi, 6 giờ rồi. Nghỉ cái đã. Tôi ăn vội miếng bánh chưng còn
thừa ngày hôm qua vì đói quá rồi. Tụi nhỏ rút vào buồng coi tivi. Sư phụ Trầm Tử Thiêng lên chở Đoan Hố Nai đi bác sĩ. Không biết bác sĩ Nguyễn Xuân Quang phán làm sao, lúc chàng về, tay xách hộp Pioneer Chicken, mặt mày nhăn nhó. “Dám phải mổ lắm.” “Cái gì?” “Mổ chứ gì, ngày mai đi chụp hình, bác sĩ Quang nói là cái xương nó... đè... cái gân. Có thể phải mổ, không thì... liệt luôn, phải chụp hình ngày mai.” Tôi không đi với Đoan nên không biết cái xương... nào đè cái gân nào. “Không sao đâu anh. Ở đây mổ xẻ là chuyện thường như người ta mổ... gà vậy.” Sư phụ Trầm Tử Thiêng tay xách giùm Đoan pack beer cằn nhằn. “Tôi đã bảo rồi mà, ông đã bị cụp xương một lần rồi là phải cẩn thận, già rồi, cái gì bây giờ cũng sợ.” Hai ông già ngồi giữa một đống thùng băng ngổn ngang.
Số là tuần rồi ở Houston về. Tôi bỗng bị trở lại cái bệnh nhức tay nhức chân. Thường thì bệnh này hay tác quái vào mùa lạnh. Mấy tháng qua tưởng đã đỡ. Nhưng bệnh ở trong xương làm sao mà rờ. Tôi ngủ không được chong đèn đọc sách chờ mắt mỏi. Chờ đến 8 giờ sáng vẫn không ngủ. Đoan mở mắt thấy tôi còn ôm cuốn sách, không hiểu vì sao, lại cằn nhằn sao tôi mê truyện không chịu ngủ. Phần vì đau nhức suốt đêm, phần thì mệt vì không ngủ. Tôi bỗng nổi cơn điên, phóng xuống giường tìm thuốc ngủ rồi ôm mền gối qua phòng con. Đoan hốt hoảng chụp tôi lại, nhưng lúc đó cơn tủi thân đang lên cao. Tôi la bải hải, tôi nhất định không thèm ngủ chung. Tôi nhất định không làm phiền ai dù người đó là chồng, con tôi. Ấy cái tính tôi vậy. Hay tự ái, tủi thân với chồng con. Do đó lúc Đoan bị đau tôi không biết. Cứ nghĩ là chàng đau sơ sơ, đau ít thôi nhưng nhõng nhẽo một chút để làm huề dù sáng hôm sau Đoan đã xin lỗi mà tôi còn chưa chịu huề.
Đoan đau như vậy, chỉ làm được việc nhẹ. Đi bác sĩ thì nhờ sư phụ Trầm Tử Thiêng, Thiện chở đi. Còn lại mấy mẹ con, bác cháu. Làm mệt nghỉ. Hết mệt làm tiếp. Và khi tất cả mọi người đã ngủ yên. Tôi vẫn lụi hụi ngồi một mình viết viết ghi ghi buồn vui của một ngày. Đến 4 giờ sáng tôi vào phòng Misa nằm đọc truyện tiếp chờ giấc ngủ. 5 giờ rưỡi mò lấy thuốc ngủ. Uống đại để ngủ cho rồi.
Tôi uống đủ thứ thuốc. Cảm nặng, trúng độc thì trụ sinh triền miên. Đau nhức uống thuốc Bắc. Không hết thì thuốc ngủ. Thuốc như kẹo, uống như một thói quen. Uống cho quên đau, quên đời. Và nếu có một buổi sáng đẹp
trời nào đó, tôi không mở mắt ra được nữa thì xin đừng ai ngạc nhiên. Lỗi tại tôi mọi đàng. Lỗi tại tôi đó thôi. Đừng ai suy diễn lòng thòng thêm rắc rối. Đừng bảo rằng chồng tôi... thuốc tôi. Giết tôi. Rồi mỗi người suy diễn một kiểu. Mỗi người cho tôi chết theo một kiểu khác, kiểu nào, cách nào thì cũng ly kỳ. Như mọi người đã từng làm với tôi và với người khác.
Cả tuần nay không nấu nướng gì. Phần đau lại lu bù công việc, thôi thì bạ cái gì ăn cái đó. Mọi người hăm-bơ-gơ riêng mình tôi là cơm. Ăn để mà sống thì ăn sao cũng được. Nhét bất cứ cái gì cho đầy bao tử là được rồi.
Nghỉ được vài ngày lại bắt tay vào việc mới. Mix băng đã thu. Thâu project mới để dành, 11 projects đã thâu xong từ lâu. Để đó. Có dư được chút ít là tôi lại đổ vào băng nhạc. Chúa thương cho tôi một giọng hát. Chúa có thể lấy lại bất cứ lúc nào. Tối nay còn véo von. Sáng ra có thể không còn nghe tiếng nói, không còn nói được. Vậy thì cứ hát để đó. Đủ làm vốn cho con xong Đại học. Việc đời đã lo xong. Tôi có thể bỏ hết thì giờ cho đạo.
Theo gương bà mẹ chồng của tôi. Mấy tháng nay, tôi gia nhập hội các bà mẹ Công Giáo. Vụ Công Đoàn St. Columbian, linh mục Mai Khải Hoàn là Cha Quản nhiệm. Vậy mà tôi chưa làm được việc gì cho hội. Nói ra thêm xấu hổ. Tôi có lỗi vô cùng. Khổ cho tôi một điều là các buổi họp thường nhằm vào Chủ Nhật đầu tháng, lúc 10 giờ sáng. Thường thì giờ đó tôi đang ở trên máy bay hoặc đang ở phi trường chờ tàu... Xấu hổ thêm nữa là tôi không lái xe. Đi đâu cũng phải nhờ Đoan hay Misa. Phiền hà cách chi ấy. Cho nên lòng tôi cứ áy náy xốn xang hoài. Nhiều lần xem lễ xong, tôi lẻn về. Trốn không dám gặp Cha.
Khổ vậy đó. Tôi có nhiều nỗi bận tâm mà chồng con không chia sẻ được. Đành phải ghi trên giấy trình làng với bà con. Mong sự thông cảm kẻo tôi điên thêm. Đánh vật với đời sống ở đây. Đánh vật với con cái. Không điên cũng uổng. May mà thuốc ngủ đã giúp tôi... quên được rất nhiều điều. Thật vậy, 30 năm qua tôi uống liên miên nên bây giờ ruột để ngoài da. Nói trước quên sau. Ai nói gì với tôi chỉ vài phút sau là tôi... quên hết. Bạn bè biết tính tôi, biết cái bệnh của tôi nên giận mãi cũng chán, bèn không thèm để ý nữa. Tôi lại không nhớ cả ngày tháng luôn. Cả đồng hồ tôi cũng liệng luôn. Thế là không biết gì cả. Thấy trời còn sáng thì đó là ngày. Trời tối là đêm. Thế thôi. Tôi khổ đấy rồi tôi vui đấy. Các bạn bảo tôi điên. Tùng Giang thì không.