🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Nam Liệt Truyện - Tập 4
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục Lục
QUYỂN 26
QUYỂN 27
QUYỂN 28
QUYỂN 29
QUYỂN 30
QUYỂN 31
QUYỂN 32
QUYỂN 33
QUYỂN 34
QUYỂN 35
QUYỂN 36
QUYỂN 37
QUYỂN 38
QUYỂN 39
QUYỂN 40
QUYỂN 41
QUYỂN 42
QUYỂN 43
QUYỂN 44
QUYỂN 46
Ghi Chú
https://thuviensach.vn
QUYỂN 26
TRUYỆN CÁC QUAN - MỤC XVI
Nguyễn Quốc Hoan
Người huyện Bình Chính, Quảng Bình.
Minh Mạng năm thứ 2, Hoan đỗ hương tiến, lúc đầu được phái đi làm Hành tẩu Bộ Công.
Năm thứ 5, được bổ Tri huyện huyện Sơn Dương.
Năm thứ 9, thăng Tri phủ phủ Nghĩa Hưng, phẩm đầy niên hạn, thăng Học chính Quốc tử giám; rồi vì có tang mẹ nghị chức.
Năm thứ 15, có chiếu bổ dụng, nhắc lên Giám sát Ngự sử đạo Định An. Năm thứ 16, thăng Án sát tỉnh Thanh Hóa
Năm thứ 19, đổi đi án sát Hà Nội, trải thăng đến Bố chính 2 tỉnh Hà Nội, Nam Định.
Thiệu Trị năm thứ 2, quyền giữ ấn quan phòng, Tổng đốc Định An. Năm ấy, ngự giá đi tuần ra Bắc, Quốc Hoan vì việc sung biện việc đón tiếp ở đình bãi sông, không hợp phép, bị giáng hàm thất phẩm, trích đi làm việc công ở Tân Gia Ba.
Năm thứ 3, được khởi phục Viên ngoại lang, không bao lâu bổ thụ án sát Vĩnh Long, trải làm Bố chính Định Tường.
Năm thứ 6, Hoan về kinh, chúc tuổi vua, thăng Hữu thị lang bộ Hình, rồi đổi sang Bộ Binh.
https://thuviensach.vn
Năm Tự Đức thứ nhất, bổ ra làm Bố chính Quảng Nam, trải thự Tuần phủ Thuận Khánh,
Năm thứ 5, được hộ lý ấn quan phòng Tổng đốc Ninh Thái.
Năm thứ 9, Hoan bị bệnh chết. Quan tỉnh ấy cho là Quốc Hoan tại chức nghèo túng, về công việc sau khi chết không lấy gì mà chi biện được. Xin phát tiền kho ra sắm mua lụa màu, áo quan để dùng, chi các khoản sau khi chết đi cho Hoan. Vua y cho lại bảo rằng: Bắc Ninh là nơi địa phương lớn, công việc bận rộn, Quốc Hoan vỗ tự có phương pháp, dân trong hạt tin yêu, chuẩn cho truy thụ hàm Tổng đốc Ninh Thái, chiếu hàm mới, cấp tiền tuất, và sai quan có trách nhiệm đến tế ở nhà.
Quốc Hoan là người nghiêm nghị, khi trị một địa phương, răn cấm cẩn thận người nhà không cho phép chúng đưa đón lễ lạt, có tiếng liêm khiết. Khoảng năm Tự Đức, được thưởng 1 chiếc kim khánh có chữ thanh liêm cần cán; lại nhận chức vụ ở bên ngoài lâu ngày, ơn huệ để lại dân cả, ca tụng ví như cây cam đường của ông Thiệu Bá (1) ơn mưa dầm của ông Tuần bá (2) đời xưa. Tính Hoan rất thích văn chương, sách vở, mỗi khi ở quan thường lấy thế làm vui. Sau khi chết đi Hoan chỉ để lại có sách vở đầy nhà mà thôi.
Con là Quốc Quyển, Quốc Thành, đỗ cử nhân đồng khoa về ân khoa Bính ngọ, năm Thiệu Trị thứ 6. Quốc Thành sau đỗ tiến sĩ, quan đến Tri phủ Ứng Hòa. Quốc Uyển theo chí của cha ở nhà phụng dưỡng ông nội, mãi không ra làm quan; về sau được bổ Giáo chức huyện Nam Chân, chết ở nơi tại chức.
Đào Trí
Tên tự là Trung Hòa, tiên tổ là người Thanh Hóa, chuyển vào Nam, làm nhà ở xã Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Trí tự thuở nhỏ ham đèn sách. Năm
https://thuviensach.vn
Minh Mạng thứ 5, theo lệ làng ra đầu quân, thăng mãi đến Chánh đội trưởng suất đội.
Năm thứ
21, Trí theo việc bắt giặc ở Trấn Tây; trận đánh ở bảo Sa Tôn có công được bổ Phó Quản cơ sung Hiệp quản vệ Tả Thủy ở Vĩnh Long.
Thiệu Trị năm thứ nhất, thăng Phó Vệ úy Vệ tiền doanh Hùng nhuệ.
Năm thứ 7, được phái đi phòng giữ cửa biển Đà Nẵng, xây đắp đồn bảo, vì trận đánh ở Trà Sơn, không biết ra sức, bị cách chức, lưu lại, đổi về làm phó vệ úy vệ nhị hậu doanh quân Vũ lâm.
Đầu năm Tự Đức, Trí trải làm Lãnh binh Biên Hòa, Định Tường.
Năm thứ 7, bổ thụ Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y, rồi đổi làm Tham biện quân vụ tỉnh Quảng Ngãi. Đến khi nạn Thạch Bích bình rồi, Trí được triệu về Thự chưởng vệ, quyền giữ Hữu dực doanh Vũ lâm.
Năm thứ 9, tháng 8, binh thuyền Đại Pháp sinh sự ở Đà Nẵng, vua sai Trí kịp đi hiệp cùng với Tổng đốc Quảng Nam là Trần Tri để tùy cơ đánh dẹp. Bấy giờ phái viên của Đại Pháp đến biển tự xưng là chức quan nhất phẩm,
cần đến kinh cùng đại viên nhất phẩm hội định hòa ước. Trí dâng sớ x chọn người làm phái viên, vua dụ rằng: Ngươi phải hết lòng trù liệu, bất tất phải cử người khác. Đến lúc về đổi cai quản các vệ ở Viện Thượng tứ vệ tuyển phong. Phàm có việc lớn đều được dự đình nghị. Không bao lâu, quân của Đại Pháp lại chở đến Đà Nẵng, bắn phá đài, bảo. Vua cho Trí quyền lĩnh Tổng đốc Nam Ngãi trù liệu công việc đánh giặc. Trận đánh ở sông Hàn, Trí cùng tán tương Nguyễn Duy đặt quân phục, đánh lui được giặc.
Năm thứ 13 , Trí trình bày việc binh. Vua cho Trí là quan võ mà hưởng ứng lời chiếu và bàn nói hết lời, thưởng cho Kim tiền "Long vân khế hội" hạng lớn và hạng bé đều 1 đồng.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 15, sung chức Kinh lý đại thần, đốc biện việc lương quân, khí giới phòng bị từ Quảng Nam đến Bình Thuận; rồi bổ thụ Thống chế tham tán quân thứ Hải Yên, đánh lấy lại được thành phủ Bình Giang. Lại tiến quân giải vây ở Hải Dương, được nhắc lên hàm Đô thống lĩnh Tổng đốc Định Yên. Trí dâng sớ nói rằng: Lệ thi hương thường dùng các viên phủ, huyện sung làm sơ phúc khảo, khi phái người đi sung chức ấy, và phái người đến quyền nhiếp, dân trong hạt không phải phiền vì việc đón tiễn. Xin đem viên giáo thụ sung vào phúc khảo; viên huấn đạo và cử nhân sung vào sơ khảo. Vua khen là phải. Gặp khi Nam Định giá gạo đắt lương ăn của dân khó khăn. Trí cùng bố chính là Nguyễn Huy Kỷ, án sát là Lê Tuấn quyên tiền giúp việc chẩn cấp được 1.400 lạng bạc, 90.500 quan tiền, và 2.200 hộc thóc; dựng đặt kho xã thương được 94.100 hộc thóc, và 1800 quan tiền. Lại sức dân đắp đê, khẩn ruộng được hơn 17.000 mẫu, dân có lợi lắm.
Năm thứ 19, kỳ đại kế, vua cho Trí nhiều lần lập được chiến công, trị an một địa phương lớn, cho thăng thụ Tả quân Đô thống phủ chưởng phủ sự. Vẫn lĩnh chức như cũ. Vua lại cho Hà Nội là một địa phương quan trọng mà Trí là trọng thần, oai vọng lừng lẫy, nên đổi cho Trí đi Hà Ninh, kiêm sung Thống đốc việc hải phòng của 3 tỉnh Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên; giao cho Trí giữ việc huấn luyện biền binh, sửa sang đồn lũy. Sau Trí tâu xin: Ở Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình, đều đặt đồn lũy họp dân phu, mộ chiến sĩ, để phòng khi bất ngờ.
Năm thứ 21, tú tài ở Nam Định là bọn Lê Đường đốt phá nhà thờ bên đạo và nhà dân đạo ở 2 xã Trình Xuyên, Ngọc Thành. Vua cho là Trí trước đây Tổng đốc Định Yên, dân tình vẫn tin phục, bèn sai Trí đi đến đấy xử trí cho thanh thỏa; rồi chuyển về Hà Nội liệu đem toán quân mạnh, đi lại tuần hành, đàn áp các hạt Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh.
Năm ấy, tuổi Trí đến lệ 70, dâng sớ cáo lui. Vui cho là tuy già nhưng làm được việc, nên lưu lại. Lại thấy Trí khi ở Nam Định, vì dân chấn hưng việc lợi vẫn có tiếng tốt, khen thưởng cho Trí 1 cái kim bài có chữ "vị đức, vị
https://thuviensach.vn
dân" có dây thao đeo rũ xuống và gia 1 cấp trác dị nữa. Vua sai sử quán soạn bài văn bia giao tỉnh Nam Định khắc vào bia dựng lên. Trí dâng sớ xin từ chối, rồi việc ấy cũng ngừng lại. Bấy giờ, quân thứ miền bắc có loạn Ngô Côn, mà việc phòng thủ đánh dẹp bọn giặc ở đồn tây lại là việc cần yếu của Bắc kỳ; nên đổi bổ Sơn bắc quân thứ Thống đốc tiễn bộ quân vụ đại thần.
Vua lại lo các đạo quân ở Bắc kỳ đều tự đóng quân lại, tự ngăn chặn riêng, bèn hợp Sơn Hưng Tuyên lại làm một đạo, cho Trí cai quản tất cả. Rồi sau Trí cùng giặc đánh nhau ở đồn Man Hạ bị thua phải giáng làm Đô thống. Lại vì để nửa tháng không chịu phái quân đi đội đánh, nên lại giáng xuống thống chế; nhưng vẫn sung việc đốc vận.
Năm thứ 23, tướng nước Thanh là Phùng Tử Tài cần đi đến thành Tuyên, mà lương thực, thuốc đạn, chuyển vận không được kế tiếp. Trọng Bình đem việc ấy tâu lên. Vua sai tước hết chức hàm của Tr, lệ thuộc vào quân thứ để cố gắng ra sức chuộc tội. Không bao lâu, Trí được khai phục chức lãnh binh. Tháng 7 năm ấy, vì già yếu xin nghỉ, vua y cho. Lại chuẩn cho Trí khai phục chưởng vệ.
Trí tính nhanh nhẹn, thẳng thắn, thích văn chương. Tuy xuất thân về hàng ngũ; nhưng thường đón thấy dạy học. Trí thích đọc Vũ kinh, học qua kinh sử. Phương đình Nguyễn Văn Siêu thường khen là Trí tuy bề ngoài thì võ, mà bề trong thì văn. Trí ở ngoài Bắc gần 18 năm, khi đốc suất việc tỉnh, thì
chính sự được chỉnh đốn, khi thống quản việc quân thì thao lược thông thạo. Võ thần như thế, thực là ít có. Trí năm 80 tuổi thì chết.
Cao Hữu Bằng
Nguyên tên là Dực, tên tự là Hy Bằng, về sau kiêng quốc húy, nên lấy tên tự để gọi. Người huyện Phong Điền, Thừa Thiên, Bằng là người thông minh, nhanh nhẹn có khí thức.
https://thuviensach.vn
Năm Minh Mạng thứ 6, đỗ hương tiến.
Năm thứ 7, Thượng bảo thiếu khanh, quản lý phòng văn thư là Phan Đình Sĩ dâng sớ xin chọn người sung làm Hành tẩu phòng ấy. Bấy giờ hội cử được 10 người, Bằng được dự tuyển; do làm Hàn lâm viện điển bạ, nhiều lần thăng đến Lang trung Bộ Hộ.
Năm thứ 12, vâng phái đi hộ tống nạước Thanh về tỉnh Phúc Kiến. Năm thứ 14, ra làm án sát sứ Hà Tĩnh.
Năm thứ 15, thăng thự Bố chính, Hộ lý ấn quan phòng tuần phủ. Bấy giờ, có tướng giặc là Phan, lẩn trốn ở miền rừng núi Hồng Sơn, Hữu Bằng thân đốc quân dân chặn đánh bắt sống được hơn 20 tên vừa đầu mục giặc và bọn lũ giặc; lại có hơn 30 tên đến thú nữa. Vua xuống dụ khen thưởng cho thực thụ Bố chính, vẫn giữ chức Hộ lý.
Năm thứ 18, sung làm khâm mạng tuyển trường ở Nam Định. Trước đây, quan lại ở Trấn Tây đã có đặt chức hiệp, nhưng chưa chọn cử được người sung chức ấy. Đến bây giờ, vua bảo là Hữu Bằng có thể đương nổi chức ấy. Bèn đổi Bằng làm Thị lang Bộ Binh, hiệp tán công việc thành Trấn Tây, và chế cấp cho ấn quan phòng, phàm có việc khẩn cấp, cho phép được làm tập tâu riêng. Khi ấy là năm Minh Mạng thứ 19. Hữu Bằng khi mới đến trấn ấy, dâng sớ dán kín nói: Trấn Tây chưa thể nghỉ được, việc binh, các phiên thuộc nay đã hành bộ hiện tên trong sổ, nên bắt phong biên sứ phải tự về thú. Lại xin tha các tù phạm giam cầm ở thành ra, ghép vào làm binh đồn điền. Sớ dâng lên, vua chuẩn cho trích đem tù đồ tha ra ghép sung vào đồn điền. Còn như người Man, Thổ, thì bắt giữ việc ngoài biên, không chuẩn cho đi làm đồn điền.
Lại dụ rằng: Người mới được chọn bổ, phải thực lực làm việc cho ẩn đáng, chớ nên chỉ kiến nghị tâu bày để tự khai mình.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 20, Hữu Bằng trình bày việc biên giới các điều: Đồng ruộng ở Hải Tây rất tốt mầu, xin trích thú binh đến đấy khai khẩn.
Dân phiêu lưu ở 6 tỉnh, phần nhiều ẩn ngầm ở trong thành, tùy ở chỗ nào, làm ăn ở đấy, xin dở tại chiêu dụ lập thành làng, ấp. Lại người nước Thanh đến ngụ phần nhiều bị người Phiên nhũng nhiễu; cũng xin nhân thế mà phủ dụ dồn thành họ trong hàng bang. Đợi khi việc làm ăn và cư trú yên ổn, tới họp đông đúc, sẽ bàn việc đánh thuế.
Tự trước, tục người Thổ, đầu mục đều có phần đất, phần dân. Người nào làm dân, thì nhất thiết nghe theo người đầu mục. Xin từ nay trở di, phàm chức nào có liên quan đến công việc binh dân, thì phải do quan ở thành chọn xin, sẽ lượng cho quan chức. Vua khen lời tâu là phải.
Năm thứ 21, Hữu Bằng lại về khi trước ở Hà Tĩnh thu riêng tiền thuế lá trầu ở các quan ải bến đò, bèn dâng sớ tự trình bày tội mình. Vua khoan tha cho, lại bắt phải nộp nguyên số sung vào nhà nước.
Năm ấy, Bằng nghe tin thân phụ bị ốm, dâng sớ xin về quê thăm nom; sau vì việc bận, vua không chuẩn y. Vua đặc ân phái ngự y và ban cho sâm quế, thuốc thang về tận quê chữa trị cho. Đó là đặc cách vậy. Tháng 8, Bằng có tang cha. Vua cho là Hữu Bằng ở Trấn Tây lâu năm, tình hình vốn đã thuộc hết, hãy tạm lưu lại làm hiệp trấn ở đấy, đợi việc bắt giặc xong xuôi, sẽ chiếu lệ cho về quê, cũng chưa muộn gì. Tháng ấy, thổ biền phủ Hải Tây là Sa Mộc xua bọn dân mới lập làm phản, bỏ đi phụ giữ tận Xà Năng. Bồn Suất cũng đốc suất lính thổ trốn đi. Bọn giặc nổi lên tứ phía. Đình thần cho là Hữu Bằng không biết phòng giữ, nghĩ xử tội đồ. Vua đặc ân xuống dụ giáng làm viên ngoại lang Bộ Binh, vẫn sung chức Hiệp tán. Đến tháng 10, vua thấy Bằng đốc suất biền binh đánh dẹp có thực trạng và phủ dụ giặc ấy, thưởng cho kỷ lục (giống như quân công) 1 thứ. Lại cùng với ban biện là Doãn Uẩn tâu nói: Tướng giặc ở Quế Lâm là Nguyên Na Tiên họp bọn đến quấy hạt phủ Sơn Tĩnh. Quan quân tiến đánh thì giặc lui ẩn ở trong rừng, đuổi theo thì không thấy dấu vết. Lại xứ La Kết giáp gần thành lị; giặc
https://thuviensach.vn
thường nhân cớ ban đêm lẻn đến đuổi dân cướp của. Các thổ mục, thổ dân nguyên ở nơi ấy thần đã sai phá hết nhà cửa, di cư di chỗ khác, chớ để cho bọn giặc ra vào tụ tập ở đấy. Vua y theo, cho phép phải xem cơ hội mà làm
cho thỏa hợp. Đến khi Trấn Tây không giữ được, năm Thiệu Trị thứ nhất, cho là Bằng xử trí trái phép, chuẩn cho lấy hàm bị giáng, quyền lĩnh Bố chính An Giang. Rồi sau Bộ Hình đem việc Trấn Tây phân biệt xử tội. Vâng lời dụ rằng: Hữu Bằng là quan to ở địa phương chỉ một mực dựa dẫm, không thi thố được chút nào. Trước đây đã giáng làm hàm Viên ngoại, quyền lĩnh Phiên ti An Giang. Nay chuẩn giáng làm Tư vụ; lại cách chức cho lưu lại, vẫn quyền lĩnh Án sát An Giang.
Hữu Bằng phải đi thám tình hình của giặc, tâu rằng: Bọn thổ phỉ từ trước đến nay phần nhiều khổ về nỗi muối ăn và trầu cau không đủ. Hiện nay nước Xiêm, nước Miên chia đóng ở Tượng Sơn, Tham Sơn; quân của tên Giun và Chất Tri có 10.000 quân ở Khai Biên; phỉ mục là Trần Sâm có quân của người nước Thanh, người Thổ hơn 5.000 tên, ở các sách Sốc Trăn, Trà Tâm đặt đồn để chống cự. Vua cho là lời tâu phần nhiều chỉ nghe hão. Duy là địa đầu quan yếu, cũng nên thám hết tình hình hư thực của giặc thế nào. Sau đem các thổ dân đã đến hợp nhập ấy đi viện cấp lương thực, khí giới cho quân, đều được thanh thỏa? Được khai phục hàm Viên ngoại lang, vẫn lĩnh chức niết sứ. Tháng 6, được về quê liệu lý việc nhà. Khi xong việc, đổi làm án sát Định Tường; lại chuẩn cho Hộ lý tuần phủ tỉnh ấy.
Năm thứ 3, chuyển đi Gia Định. Năm thứ 4, thăng thự Tuyên phủ sứ Tây Ninh. Tháng 8, về làm việc gắng sức, đem thưởng gia 1 cấp.
Bấy giờ, thổ dân ở Lạp, Miên đến 5.000 người, đem nhiều xe trâu đến buôn bán ở Tây Ninh. Hữu Bằng đem việc ấy tâu lên. Vua bảo rằng: Việc phủ dụ đã tiện có cớ đấy. Lại xin gọi lập ấp cấp cho ngưu canh, điền khí, ra sức khai khẩn, để giữ vững biên cương, Vua theo lị.
Năm thứ 5, được thăng bổ Thị Lang Bộ Binh, thự tuần phủ An Giang.
https://thuviensach.vn
Năm Tự Đức thứ nhất, được thưởng 1 cấp quân công.
Năm thứ 2, về Kinh kính đợi lễ tấn tôn, được sung làm nội tán "đại lễ bang giao", liền được bổ thụ tuần phủ, nhưng quyền làm việc bộ Hình. Rồi lại đổi đi tuần phủ Hà Tiên. Năm ấy được thăng thự tổng đốc An Hà. Danh sách kì đại kế dâng lên, được thưởng gia 1 cấp.
Năm thứ 4, mùa xuân, Hữu Bằng tâu nói: quốc vương Cao Miên là Sá Ông Giun ủy cho thổ mục đệ công văn đến tỉnh: Một khoản xin chuyển lui 2 bảo Bình Di, Khánh An; một khoản xin châm chước tha thuế thuyền, để thổ dân
được tiện đi lại thông thương. Vua sai Bằng nghĩ làm tờ tư trách hỏi vua Miên về nghĩa phiên thần, và ơn gây dựng, xem hắn đáp lại thế nào, rồi tùy cơ liệu làm. Sau Bằng lại tâu rằng: Dân Miên bị mất mùa, Miên trưởng tất muốn đến buôn gạo của nước ta, thì giá gạo sợ lại đắt thêm. Xin trả lời khước từ với nước ấy từ trước khi chưa có lệ thông thương. Nếu dân Miên có nhân đói họp bọn cướp bóc, thì ta sẽ bắt chém; thổ dân về quy thuận, thì cho sát nhập vào Ô Môn ở Ba Châu mà sinh sống làm ăn để tỏ ra ý kiến vỗ về yên họp. Vua khen là phải, sai sao chép bản tâu ấy giao cho Gia Định, Định Tường, Hà Tiên, thi hành một thể.
Năm thứ 5, Bằng làm tập đem các phủ huyện là nhân viên xuất sắc, bảo cử lên. Được dụ rằng: Cao Hữu Bằng, biết tiến người hiền tài, không ẩn giấu chút nào, thực là đáng khen. Chuẩn thưởng cho 3 tấm sa màu, để tỏ ra khuyến khích. Tháng 8, danh sách kỳ đại kế dâng lên; được dụ rằng: Cao Hữu Bằng gặp việc hết sức thừa hành không cẩu thả, cẩn thận, siêng năng về chức vụ, thưởng gia một cấp. Tháng 9 được triệu về Kinh chầu hầu.
Năm thứ 6, được thăng thụ Tổng đốc An Hà. Tháng 9 năm ấy, Bằng xin sức cho nước Miên rút bỏ đồn thủ ở thượng du. Vua không cho, dụ rằng: Đấy là lệ thường giữ nước, chưa có thể lấy việc đó. Sự nhòm nom biên cảnh, mở mối hấn khích mà trách họ. Về thế chế thương mến nước ngoài, cần phải tỏ ra lòng rộng rãi.
https://thuviensach.vn
Bấy giờ, Kinh lược đại sứ Nam Kỳ là Nguyễn Tri Phương đem tập xét các đại viên tâu trình. Được dụ rằng: Thự tổng đốc Cao Hữu Bằng vốn nghe nói là lại dân tín phục, thực là đứng đầu hàng đại viên ở địa phương 6 tỉnh, thưởng cho gia một cấp, và 50 lạng bạc, để khuyên người hạng tuần lương (3).
Tháng 12, Hữu Bằng lại tâu nói: Việc đồn điền ở 6 tỉnh, cần phải chiêu dụ thong thả, để cho chúng có việc làm và chỗ ở yên ổn; rồi sau huấn luyện dần dần. Đến như ngạch lính ở các cơ hiện nay, hãy lấy đài số mà thôi, cốt can ở chỗ không phô trương số hào, và tỉnh bớt lệ trục tính từng hạng, xóa tên đi, biên tên vào để tiện cho dân. Vua dụ rằng: Lời tâu ấy tuy là có ý kiến tiện cho dân mà không đề xướng ra. Nhưng không biết rằng nói gần phải, mà thành ra trái. Xét ra, binh dân, lấy sổ làm đình ngạch. Nếu không có tục điền xóa tên biên vào trong sổ, thì hầu như bỏ thiếu ngạch binh càng lâu ngày càng thiếu mãi, lấy gì mà trách cho có thành hiệu được ư?
Năm thứ 8, Bằng vì đốc sức các phủ, huyện khuyên dân trồng trọt khoai, sắn, đậu, ngô, có công hiệu, được thưởng 1 cấp.
Năm thứ 9, vì làm thanh thỏa được việc bắt binh lính, xét hình ngục, thu lương thuế, nên thưởng gia 2 cấp và kỷ lục 2 t
Năm thứ 10, vì có công đốc biện việc khơi đường sông, được thưởng 1 đồng kim tiền "Phi long" hạng lớn.
Năm thứ 12, tháng 7, Bằng bị bệnh, chết ở chỗ làm quan, tuổi 61. Hữu Bằng giữ lòng thanh khiết chăm chỉ làm việc, thạo giỏi. Ngày Bằng chết, vua thương lắm, vâng lời được dụ rằng: Cao Hữu Bằng kịp thờ 3 triều, một lòng cẩn hậu, trải coi giữ nhiều địa phương, phủ trị đúng phép, dân man di mến phục. Chính đương lúc nơi biên cương quan trọng, thiết tha nhờ viên ấy giúp đỡ. Nay thế mà tuổi vừa 61, một lần bệnh từ biệt mãi mãi, rất đáng thương tiếc. Tặng cho hàm Hiệp biện đại học sĩ, cấp cho tiền tuất; gia cấp cho ấm tướng quốc, sa màu và vải lụa, cùng 500 quan tiền để chi tiêu về
https://thuviensach.vn
việc làm ma. Lại sai hộ tống quan tài về quê, và sai quan Khâm mạng đến tế.
Con là Hữu Sung, nay lấy hàm Tuần phủ và hưu trí; Hữu Hàm, lấy hàm ấm thụ làm quan đến Tri huyện Nghi Xuân; Hữu Mỹ đăng vào danh sách anh danh, quan đến Hiệp quản nha Tu lí. Cháu nội là Hữu Lương đỗ khoa thi hương, làm quan đến Kiểm thảo Nội các; Hữu Chấp ấm thụ Hàn lâm viện điển tịch.
Nguyễn Đức Hoạt
Người huyện Hải Lăng, khi trước thuộc phủ Thừa Thiên, nay đổi là
Năm Minh Mạng thứ 6, Hoạt đỗ hương tiến. Năm thứ 9, bổ Hàn lâm viện kiểm thảo, sung làm Hành tẩu Nội các, trải thăng Thừa chỉ, Thị độc, Thị độ
c học sĩ, tham biện việc Các. Vì tính siêng năng, cẩn thận, được thưởng gia 1 cấp. Rồi sung làm Giáp phó sứ sang nước Thanh; Hộ lý ấn quan phòng phủ Nội vụ, đổi làm lang trung Bộ Binh, làm công việc bộ, lại quyền biện công việc Bó Hộ, vì có bàn điều khoản quân điền, được thưởng 1 cấp, thăng thự Bố chính sứ Nghệ An.
Năm Thiệu Trị thứ nhất, đổi làm Hữu thị lang Bộ Lễ, lại sung làm Giáp phó sứ sang nước Thanh, sung biện công việc Nội các.
Năm thứ 2, thăng thự Tả tham tri Bộ Lại, quyền giữ ấn triện viện Đô sát. Tháng 9 năm ấy, có tai nạn bão lụt, Vua xuống chiếu cầu lời ngay thẳng. Hoạt dâng nói rằng: Yêu dân là đức tốt của ai làm vua, mà lo cho dân ăn dùng thừa thãi càng là chính sách của vương giả nên làm trước. Nay, 2 hạt
Thừa Thiên, Quảng Trị, sau khi đau khổ lâu ngày, lại bị tai nạn riêng, thì thuế lệ năm nay cùng số thuế trốn nhiều năm trước, xin hoãn lại 1 năm để cho lương ăn của dân được thừa thãi. Vua cho là Đức Hoạt hưởng ứng lời chiếu trình bày đầu tiên, không phụ chức vụ, thưởng cho sa và lụa.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 5, Hoạt lấy bản hàm Hiệp lý doanh Thủy sư kinh kỳ.
Năm thứ 7, quyền Hộ ấn quan phòng Tổng đốc An Tĩnh; rồi về làm Tả tham tri Bộ Lại, quyền giữ chức Thượng thư.
Năm Tự Đức thứ nhất, đổi đi Hộ lý tổng đốc Định Biên.
Năm thứ 2, Hoạt chết. Hoạt trải làm quan khắp trong ngoài, giữ cẩn qui chế làm quan, không ầm lỗi, nhiều lần chuyên giữ một địa phương vẫn tỏ ra có đức chính lương thiện. Đến lúc chết, vua thương Hoạt là người hiền năng, công lao, chuẩn cho thực thụ. (Nguyên thự hàm Tả tham tri); cho chiếu theo hàm mới mà cấp tiền tuất, và cho thêm 3 cây gấm Trung Quốc và vải lụa, tiền nữa.
Vũ Phan
Tên tự là Hoán Phủ, tiên tổ người ở huyện Đường An, Hải Dương; sau dời đến ở huyện Thọ Sương, Bắc Thành. Tằng tổ là Diễm, đỗ tiến sĩ đời Lê, quan đến hiến sát; cha là Cửu, ẩn cư dạy học.
Phan thuở nhỏ được học cha ở n
hà. Năm Minh Mạng thứ 7, đỗ tiến sĩ, trải thăng bổ Tham hiệp Thái Nguyên. Làm quan chỉ cần lấy nhân từ, ơn huệ. Rồi sau bị giáng xuống Đốc học Bắc Ninh, cáo bệnh về nghỉ, làm nhà ở hồ Hoàn Kiếm, đọc sách hầu vui cha già. Nhiều người học trò theo học. Phan tu dưỡng, hòa nhã, học trò suốt ngày ở bên cạnh chưa từng thấy Phan có sắc giận và lời xẵng. Khi trước có khi Phan tự kinh đô vượt biển về, gặp gió to, người trong thuyền đều sợ hãi, độc một mình Phan ngâm vịnh như thường. Lại thường ở làng xóm, bọn cướp chợt đến; Phan thong thả bước ra, bọn cướp biết mặt răn bảo nhau, không dám xâm phạm. Người ta đều phục Phan là có lương. Đến khi Phan chết, xa gần mấy nghìn người trở lên đến hội táng. Bọn sĩ lâm thương mến lắm. Trước đây, người huyện Đường An đến nhập tịch huyện Thọ Xương, như Phạm Hội, ạm Hy Lượng, Vũ Nhự (đều có truyện chép về
https://thuviensach.vn
sau) lại có Hoàng Xuân Hợp, năm Tự Đức thứ 4 đỗ Thám hoa, quan đến Thị giảng học sĩ viện Tập hiền. Ngô Phát cùng em ruột là Dạng đều đỗ hương tiến.
Tô Trân
Người huyện Văn Giang, Bắc Ninh. Năm Minh Mạng thứ 7 đỗ tiến sĩ, bắt đầu bổ Hàn lâm viện biên tu, trải bổ Hộ tào.
Năm thứ 14, thăng bổ Tuần phủ Định Tường. Giặc Khôi đến hãm thành, Trân bị tội, tước mất chức và phái đi gắng sức báo hiệu
chuộc tội.
Đầu năm Thiệu Trị, được khởi phục bổ Án sát sứ Thái Nguyên. Năm thứ 2, thăng Thái bộc tự khanh, sung chức Toản tu ở Sử quán.
Năm Tự Đức thứ nhất, thăng Tả tham tri Bộ Lễ, lĩnh chức ở Sử quán như cũ; lại sung làm nhật giảng quan ở Kinh diên. Vừa gặp tuổi 70, xin nghỉ việc. Vua ban cho vàng lụa và cho về. Rồi sau chết.
Trân, thanh liêm, tiết nghĩa, nghiêm chỉnh. Khi trước làm Tuần phủ Định Tường, thân hào sợ mà mến yên. Đến khi thành bị hãm, Trân lẩn ngầm ở dân gian, làm bài thơ để lại rồi đi.
Thơ rằng:
Phiên âm:
Dục bảo bất năng chử vũ dương,
Phân điền, phân thổ, bất phân vương,
Gia ưng hữu thất, hà tu thỉ,
https://thuviensach.vn
Lễ bất cầu phong, chỉ dụng dương
Đạt đắc chúng nhân, thôi hạnh xuất,
Thao tổn nhất thủ, tự vô đương.
Ngư du thảo hạ, hòa biên ổn.
Ngọc chẩn di xa tụy nhất đường.
Dịch nghĩa:
Chữ Bảo bỏ chữ năng, Chữ chử vất chữ vũ tức là chữ thự. Chia chữ điền, chữ thổ không chia chữ vương tức là chữ lý. Chữ gia chỉ dùng chữ thất, cần gì chữ thỉ tức
là chữ định. Chữ lễ chẳng cần chữ phong, chỉ dùng chữ dương tức là chữ tường. Chữ đạt được 3 chữ nhân, bỏ chữ hạnh tức chữ tuần. Chữ thao giữ lại nhất chữ thủ, đem chữ vô vào tức chữ phủ. Chữ ngãi ở dưới chữ thảo
bên cạnh chữ hòa, bên tốt tức chữ tô. Chữ ngọc, chữ chẩn bỏ chữ xa rồi hợp lại làm một tức chữ Trân. Tức là nói kín 8 chữ "
lý Định Tường tuần phủ Tô Trân" vậy. Khi Trân ở Thái Nguyên, ty thuộc, có người tham ô, Trân lúc mới đến lỵ, nghe biết đã ghét rồi. Người ấy cầu xin yết kiến nhưng không được, nên sợ lắm, thác xưng có bệnh mà đi. Lại thấy nơi biên giới ấy ít văn học, Trân thường tụ họp các học trò, làm thời
khóa giảng dạy, để chấn hưng việc học. Trân tuổi già, ở sử cục lâu ngày, soạn thuật được nhiều, nên bấy giờ, người đời trọng vọng, suy tôn.
Con là Châu, là ấm sinh, phụ thí ở kinh sư được đỗ, làm quan đến Thị độc học sĩ, sung chức Toản tu ở Sử quán.
Ngụy Khắc Tuần
Tên tự là Thiện Phủ, người huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
https://thuviensach.vn
Minh Mạng năm thứ 7, đỗ tiến sĩ, bắt đầu bổ Hàn lâm rồi thăng mãi đến Lang trung Bộ Hộ, trải làm Tham hiệp 2 tỉnh Ninh Bình, Thanh Ba.
Năm thứ 13, thự Bố chính sứ Bắc Ninh, rồi chuyển đi Nam Định. Sau được triệu về kinh, bổ Hữu thị lang Bộ Công, rồi bổ ra làm Bố chính sứ Sơn Tây.
Năm thứ 19, đổi đi Bố chính Hưng Hóa, Hộ lý ấn quan phòng tuần phủ. Khắc Tuần tâu nói: Thuộc hạt ấy mộ dải tả hữu sông Đà về các châu Đà Bắc, Mộc An, nguyên có dân xã Thạch Bi ở Ninh Bình lưu tán ở đấy nhiều, từ trước vẫn không có đăng ký vào sổ. Xin kiểm xét số người, lập làm thôn ấp, phải chịu thuế, cho việc cai trị có thống nhất. Lại nói châu Ninh Biên giáp liền nước Nam Chưởng, xin dồn lại lập thành đội Ninh Biên, lệ thuộc vào bảo ấy. Vua y cho.
Thiệu Trị năm thứ nhất, Khắc Tuần dâng sớ xin đặt phủ Điện Biên. Trước đây, nước Nam Chưởng đến cướp cõi ven. Vua sai Khắc Tuần xét kỹ tình hình ngoài biên, trù nghĩ công việc giữ cho sau này được tốt. Khắc Tuần bèn dâng sớ nói: Châu Ninh Biên thuộc vào đổ bản nước ta đã lâu rồi, không phải mới một ngày thôi. Duy nước Nam Chưởng nhận làm đất cũ, rồi gây mối hiềm khích. Khi trước, thổ quan mưu cầu cho vô sự, nên đem vàng đút lễ họ; đến khi đặt lưu quan, thì họ không được gì, mới viện dẫn người Xiêm kéo đến lấn cướp. Vả lại, đồn ở châu ấy, không có thành trì vững chắc, sức binh thì yếu và ít, không đủ dùng; dân cư thì không thành thôn trại gì, vừa mới nghe tin giặc đến đã chạy trốn liền ngay. Nếu không qua một phen xếp đặt thì mối lo ở cõi ven, còn chưa trừ hết được. Huống chi là châu ấy đất rộng, người ít, lại ở thượng du, làm phên che cho 10 châu ở phía bắc sông Đà, thì không gì bằng mộ dân đến ở nơi ấy cho đông để tự phòng thủ lấy, mới là kế sách dài lâu. Nay xin đem nơi đồn của châu ấy đặt làm phủ Điện Biên, kiêm lý châu Ninh Viễn; và lấy nơi Lai Châu gần đấy, lại thêm vào châu Tuần Giáo nữa, đặt chức tri phủ, quản phủ, mộ 300 binh, dũng đóng giữ. Rồi lại chiêu tập dân lưu tán, dân trú ngụ, cày và khẩn ruộng đổi chác buôn bán, để dần dần làm thành cơ chỉ, ngõ hầu việc phòng
https://thuviensach.vn
bị ở cõi biên ngày có thể hoàn toàn được. Vua y theo. Sau xuống dụ rằng: Khắc Tuần vỗ họp dân cõi biên, mở thành 1 phủ, có công kiến nghị ra trước, việc sắp được thành, giao Bộ bàn xét công ấy. Rồi Khắc Tuần về kinh theo triều ban.
Năm thứ 3, mùa xuân đổi thự Tuần phủ Nam Ngãi, liền sung làm Tý quân vụ Quảng Ngãi chiêu dụ bọn sơn man đầu hàng đến 14 sách. Mùa đông năm ấy, Man Chu Thủy đến quân môn hàng. Vua xuống chiếu thư khen, ban cho 1 cái nhẫn vàng và 1 đồng kim tiền. Lại trở vố nguyên lị coi việc. Được ít lâu đổi đi Tuần phủ Bắc Ninh; lại đổi đi thự Tổng đốc Bình Phú.
Tự Đức năm thứ 4, bổ Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, trình bày 3 việc, nói đều mật thiết thẳng thắn. Khắc Tuần mấy lần nhận chức phương diện, đến đâu cũng nổi tiếng là giỏi. Bấy giờ lại giữ chức ở một phương diện lớn, nên vua yêu quí ban cho bài thơ:
Phiên âm:
Su đình thuật chức triển đan thầm.
Bảo chướng hoàn kì lệ nhĩ khâm.
Học đạo dã năng suy tự đạo,
Dân tâm như thử, tức dư tâm,
Nhất phương trữ kiến Cam đường hóa,
Tam khẩn trùng thinh mạch tuệ âm,
Lô thủy, Tản sơn vô hạn hứng,
Cánh tương nhã tục kí thanh ngâm.
Dịch nghĩa:
https://thuviensach.vn
Về triều thuật lại chức vũ tỏ hết lòng thành thực.
Khuyên người khi ra coi một địa phương cố gắng giúp đỡ Học đạo đã hay suy ra làm đạo trị dân,
Lòng dân như thế tức là lòng ta, thấm nhuần giáo hóa của ông, Một phương sẽ thấy cam đường hoá,
Thiệu Công ngày xưa, vẫn phá cây cam đường,
Ba tỉnh lại nghe thấy câu hát lúa (4) ré như ông Trương Trạm ngày xưa. Núi Tản, sông Lô, bao cảnh hứng thú,
Đem cả việc nhã, việc tục gửi vào trang ngâm nga.
Ý vua rất thiết tha lấy việc giúp đỡ che giữ ba nơi biên giới ấy ký thác cho Tuần.
Năm thứ 6, Tuần vào làm Thượng thư Bộ Hộ. Gặp kỳ đại kế, chuẩn cho 1 người con được ấm thụ làm Tư vụ.
Năm thứ 7, Khắc Tuần vì bệnh xin phép về làng. Vua sai sứ đến thăm hỏi, và mang cho thứ thuốc của vua dùng. Năm ấy Khắc Tuần chết, truy tặng hàm Hiệp biện đại học sĩ; sai quan đến tế. Sau được bày thờ vào đền Hiền Lương.
Con là Huy, bắt đầu ấm thụ Tư vụ. Năm Tự Đức thứ 15, Bắc Ninh có giặc, Huy cùng viên Tri phủ Quì Châu là Phan Danh Cơ theo viên Bố chính Khánh Hòa là Nguyễn Đăng Hành mộ dũng đánh dẹp, cùng giặc đánh nhau bị thua, đều chết trận. Huy được truy thụ hàm Hàn Lâm viện tu soạn. ười cháu gọi bằng bác là Khắc Đản có truyện riêng.
https://thuviensach.vn
Ngụy Khắc Đản
Cha là Khắc Thận, đầu năm Gia Long đỗ hương tiến, ở nhà dạy học. Khắc Đản thuở nhỏ thông minh. Năm Tự Đức thứ 9, Đản đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (tức là thám hoa) bài đối sách của Đản nói nhiều câu khẩn thiết. Vua xem rồi khen, ví Đản như con hạc đứng ở trong đàn gà. Bắt đầu được bổ và
o viện Hàn lâm rồi thăng mãi đến Án sát sứ Quảng Nam.
Năm thứ 16, chọn Đản đi sứ Tây. Vua bảo rằng: Việc đi tùy câu hỏi mà trả lời lại, thực là khó lắm, phải có can đảm, mới có thể nên việc. Đình thần đem Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Khắc Đản sung tuyển. Nhưng Khắc Đản vì có mẹ già, xin từ chối. Vua bảo rằng: Đạo làm tôi, công nghĩa là trước. Ngươi cứ đi, còn mẹ già ngươi, trẫm sai quan có chức trách đến thăm hỏi, cũng được. Năm sau Đản đi sứ về thăng Bố chính sứ Nghệ An; lại khâm sai kinh lý Trấn Ninh, sung Tuyên phủ sứ; rồi thự Hữu tham tri Bộ Hộ. Gặp dân hạt tỉnh Nghệ biến động, việc giao thiệp phiền phức, vua chuẩn cho Đản cứ lưu ở đấy làm việc.
Năm thứ 25, Đản được triệu về Kinh quyền lĩnh Thượng thư Bộ Binh; lại đổi làm quyền lĩnh Bộ Công, sung Tham biện viện Cơ mật. Sau vì bệnh cáo về rồi chết. Vua chuẩn cho thực thụ hàm tham Tri, sai quan đến tế. Con là Khắc Khoan, đượấm thụ bổ quan đến Tri huyện.
Hoàng Tế Mỹ
Tên hiệu là Phục Đình, lúc trước tên là Thạnh, tiên tổ là người ở huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Cha là Thự, đỗ tiến sĩ cuối đời Lê, làm quan đến hiệp trấn Lạng Sơn.
Tế Mỹ, thuở nhỏ đến ở nhà họ ngoại tại làng Đông Ngạc, Hà Nội, rồi nhập tịch vào sổ
https://thuviensach.vn
làng ấy.
Năm Minh Mạng thứ 7, Tế Mỹ đỗ tiến sĩ, trải bổ Tri phủ, thăng Án sát sứ Hải Dương; rồi bị tội mất chức, theo vào mạc phủ (nơi làm việc quân cơ) của Tạ Quang Cự, đi lên Thái Nguyên gắng sức báo hiệu chuộc tội. Khi giặc bình, Mỹ được khai phục rồi thăng bố chính sứ Hải Dương. Lại nhân có việc bị lỗi; hồi lâu lại cử đi Án sát sứ Cao Bằng; rồi vào làm Hữu thị lang Bộ Hình.
Đầu năm Thiệu Trị, Tế Mỹ đi theo vua đi tuần ra Bắc sung làm Tam pháp tư, lưu lại khám việc án các tỉnh Bắc kỳ. Rồi sau sung chánh sứ đi Yên Kinh; lúc trở về thăng Tả thị lang, tiến lên Hữu tham tri Bộ Binh.
Năm Tự Đức thứ nhất, sung làm Nhật giảng quan ở Kinh diên, kiêm ấn triện Viện Hàn lâm. Sau Tế Mỹ chết, được tặng hàm Thượng thư Bộ Lễ. Khi đưa ma về quê, sắc sai quan đến tế
Tế Mỹ tính cương trực, lúc tuổi già sung vào Kinh diên, vì là giỏi văn học, nên được vua biết. Con là Tướng Hiệp.
Tướng Hiệp
Tên tự là Thúc Chất. Năm Tự Đức thứ 18, đỗ tiến sĩ, bổ Tri phủ Bình Giang, thăng Án sát sứ Lạng Sơn. Gặp khi biên giới mạn Bắc động binh, Tướng Hiệp từng giúp việc quân.
Năm thứ 35, được bổ Tuần phủ Tuyên Quang. Khoảng năm Hàm Nghi, quân của triều đình rút
về, bèn theo cùng đi, đến Vân Nam, chết ở đất Trung Quốc. Đầu năm Đồng Khánh được truy tặng hàm Thượng thư.
Cha, con, ông, cháu Tế Mỹ đỗ đại khoa liên tiếp nhau, nước ta ít thấy mấy nhà được như thế.
https://thuviensach.vn
Đặng K
Người huyện Văn Giang, Bắc Ninh, tổ là Thiều, làm Tả thứ sử đời Tiền Lê, bổ thụ Điện tiền đô hiệu điển ti.
Minh Mạng năm thứ 7, Khải thi đỗ Tiến sĩ, bắt đầu được bổ Hàn lâm viện biên tu, nhắc lên Tri phủ Diên Khánh, thăng Viên ngoại lang Bộ Lễ.
Năm thứ 9, bổ thụ Thái thường tự thiếu khanh, sung làm phó sứ đi sang Yên Kinh; rồi vì có lỗi lại mất chức, phái đi theo thuyền công đi Lã Tống, đến Tân Gia Ba bị bệnh chết. Được truy thụ Lễ bộ viên ngoại lang.
Con là Siển, do ấm sinh trải bổ Kinh lịch Lạng Sơn. Em ruột là Kham, đỗ hương tiến, quan đến Án sát, vì có việc bị mất chức.
Vũ Đức Mẫn
Người huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Năm Minh Mạng thứ 7, đỗ tiến sĩ, bắt đầu bổ Hàn lâm viện biên tu; rồi do tri phủ, vào làm Lang trung Bộ Hình.
Năm thứ 14, được thăng án sát Phú Yên. Rồi sau bị giáng làm Đốc học 2 tỉnh Ninh Bình, Nam Định.
Đầu năm T
hiệu Trị, được gia hàm Thị giảng học sĩ, triệu vào kinh bổ ít lâu thăng Án sát sứ Ninh Bình.
Tự Đức năm thứ 3, làm biện lý Bộ Hình sung vào chức Toản tu hội điển; rồi lĩnh Bố chính sứ Khánh Hòa, bị tội, mất chức. Đức Mẫn về quê làm nhà dạy học, học trò theo học nhiều. Năm Mẫn chết, tuổi 73.
Chu Văn Nghị
https://thuviensach.vn
Tên chữ là Lê Phủ, người huyện An Phong, Bắc Ninh. Thuở nhỏ có cao tiết. Năm Minh Mạng thứ 7, đỗ tiến sĩ, nhiều lần từ chối không ra làm quan, chỉ lấy sơn thủy, văn chương sách vở làm vui, không mộ đến vinh lợi. Học trò đến theo học nhiều. Năm Nghị chết, mới 56 tuổi.
Con là Văn Giảng, cũng có tiếng văn chương. Năm Tự Đức thứ 17, Giả ng đỗ hương tiến, thăng mãi đến Thị giảng, sung làm Đồn điền phó sứ. Ngô Bỉnh Đức
Tên tự là Tuyết Giả, lúc trước tên là Lệnh Đức, người huyện Đông Ngàn, Bắc Ninh. Thuở nhỏ, cố sức học.
Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, .ở quê đọc sách hơn 10 năm, mới ra làm quan. Lúc đầu bổ Tri huyện An Bác; khi đủ lệ, xét công, được vào làm Giám sát ngự sử, thường thường nói việc, cùng với Lê Di ở Quảng Bình, đều c
ó tiếng là can ngăn nói thẳng. Sau được nhắc lên Án sát sứ Hải Dương, rồi thăng bổ chính sứ Nghệ An. Lại được triệu về bổ Thị lang bộ Hình.
Tự Đức năm thứ 5, được bổ Bố chính sứ Nam Định.
Bỉnh Đức, tính cương nghị, ở quan siêng năng, cẩn thận, đi đến đâu, cũng có tiếng là chính tiết giỏi. Vua khen thưởng, đặc ân ban cho kim khánh để nêu tên.
Năm thứ 8, thăng lên Tả tham tri Bộ Hộ, rồi cáo bệnh về quê, chết ở nhà. Lê Danh Đề
Tên tự là Thạc Phủ, người huyện Lôi Dương, Thanh Hóa. Năm Minh Mạng thứ 6, đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Nam Sang; sau trải làm Lang trung bộ Lại, Án sát sứ Hải Dương.
https://thuviensach.vn
Đầu năm Tự Đức, mấy lần thăng lên Bố chính sứ 2 tỉnh Bình Định, Khánh Hòa, rồi đổi đi Quảng Ngãi. Trước đây, Man Thạch Bích ở Quảng Ngãi, cậy chỗ hiểm, đi cướp
bóc, thường làm tai nạn cho dân. Quan quân đến đánh, nhưng núi cao, khí núi độc, các man chẹn chỗ hiểm, quân không tiến được Khi Danh Đề đã đến tỉnh lị, dâng sớ xin đi đánh. Vua y cho. Đề bèn thân đốc thúc lại tốt, vịn sườn núi leo trên cây, nối tiếp nhau mà lên, hơn 3 tháng thì bắt được tên tù trưởng bọn Man. Rồi sau Trương Đăng Quế dâng sớ cử người liêm cán, Đề chuyển đi Bố chính sứ Sơn Tây.
Năm thứ 10, Đề được cử đi Tuần phủ Ninh Bình. Gặp bọn thổ phỉ nổi loạn. Danh Đề đánh lấy lại được thành phủ Nho Quan, rồi lần lượt trù tính đánh dẹp, bắt giặc có mưu kế.
Năm thứ 15, vì bệnh chết ở nơi làm quan, tuổi 68.
Phan Thanh Giản
Tên tự là Tĩnh Bá, lại tự là Đạm Như, tên hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là Mai Xuyên. Tiên tổ là người ở Trung Quốc, cuối đời Minh, di chuyển sang nước Nam, làm nhà ở tỉnh Bình Định. Đến khi loạn Tây Sơn, thì ông tổ đem cả gia quyến đến nhập tịch ở Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long.
Thanh Giản thuở nhỏ có tiếng là văn chương. Năm Minh Mạng thứ 7, Giản đ̕iến sĩ, là đ
ỗ khởi đầu cho Nam Kỳ. Do Hàn lâm viện biên tu, trải thăng đến Lang trung Bộ Hình. Ra làm tham hiệp Quảng Bình.
Năm thứ 9, quyền nhiếp việc trấn Nghệ An. Chưa bao lâu lại trở về Quảng Bình.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 10, thự Phủ doãn phủ Thừa Thiên, vào chầu. Vua cho là Thanh Giản trước ở Nghệ An, nhân hỏi đến việc Trấn Ninh. Thanh Giản thưa rằng: Trấn Ninh cũng là một sự lo ở bên ngoài. Nay không nhân lúc việc chưa phát hiện ra, mà trị ngay đi, thì về sau thế đã thành, lại khó làm việc. Vua bảo rằng: Trị việc ở lúc chưa hiện ra, thì dùng sức ít mà thành công dễ; lo việc ở lúc đã phát ra, thì dùng sức bội lên, mà thành công khó. Lời tâu của ngươi, chính hợp ý trẫm. Sau Thanh Giản thăng Thị lang bộ Lễ, sung việc Nội các, lại thăng Hiệp trấn Ninh Bình.
Năm thứ 12, đổi về Quảng Nam, gặp bọn ác Man đến cướp nguyên Chiên Đàn. Thanh Giản đem quân tiến đánh, bọn giặc Man đánh úy lại, quân ta bị thua, Giản bị tội, phải cách chức, gắng sức báo hiệu chuộc tội.
Năm thứ 13, được khởi phục Kiểm thảo, sung Hành tẩu Nội các, rồi thăng Viên ngoại lang Bộ Hộ, thự phủ thừa Thừa Thiên; lại thăng lên Hồng lô tự khanh, sung làm phó sứ sang nước Thanh. Đến lúc về, được nhắc lên Đại lí tự khanh, kiêm biện công việc Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm thứ 16, khâm phái đi Trấn Tây làm việc công. Lúc trở về qua Bình Thuận lưu lại đánh giặc Man, bình được hết cả. Đổi bổ làm Bố chính Quảng Nam, Hộ lí ấn quan phòng tuần phủ.
Năm thứ 17, mùa xuân, vua cho là Nam Bắc bình yên, triều đình nhàn hạ, xuống chiếu đến tháng 5, đi Quảng Nam. Thanh Giản tâu bày rằng: Nhà vua tuần du, dân hạt nghe tin, ai chẳng vui sướng. Nhưng năm nay, lúa chiêm mất mùa; mà khoảng tháng 4, 5, lại đương mùa cày cấy; một phen cung ứng, nhìn chỗ này thì hỏng chỗ kia. Xin hãy tạm đình, để cho dân được chuyên việc đồng ruộng. Vua xem lời tâu, không bằng lòng, bảo Cơ mật rằng: Thanh Giản ngầm đem việc Mạnh Kha thưa với Tề vương, mà chê bai (5) bèn chuẩn cho đình cuộc tuần du. Rồi phái cho ngự sử là Vũ Duy Tân đến đấy xét hỏi. Khi Duy Tân về tâu rằng: Dân đều mong nhà vua đi tuần di. Lại trích ra những tình trạng việc tỉnh lười bỏ, quan lại nhũng tệ; nên Giản bị giáng làm thuộc viên lục phẩm, theo tỉnh Quảng Nam gắng sức
https://thuviensach.vn
làm việc báo hiệu. Mới được 2 tháng, được nhắc lên làm thừa chỉ Nội các, đổi sang Lang trung Bộ Hộ, biện lý việc bộ; rồi thự Thị lang, sung Cơ mật viện.
Năm thứ 19, vua sai đi duyệt binh ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Khi duyệt xong trở về, chuyên biện việc Bộ. Chợt có chương sớ của địa phương, thuộc về Bộ Hộ, đã được vua phê, mà quên không đóng ấn. Thanh Giản vì là bộ thần, lại gặp phiên đương trực, không biết kiểm xét ra, bị giáng làm Lang trung, biện lí việc bộ. Rồi sau vâng phái đến miền núi ở nguyên Chiên Đàn. thuộc Quảng Nam, để thuê hộ lấy vàng khai nhặt vàng cám. Thanh Giản nói là việc khó, được đổi đi Thái Nguyên khai lấy mỏ bạc. Giản tâu rằng: Hai mỏ bạc Tống Ngân (6), Nhân Sơn chất bạc chưa được phong vượng lắm, nhặt lấy không được mấy.
Năm thứ 20, mùa đông, vua nghĩ: Thanh Giản đi đã lâu ngày cho triệu về, đổi bổ làm Thông chính sứ ty phó sứ, rồi chuyển sang Thị lang Bộ Hộ. Bấy giờ, Vương Hữu Quang vì việc tâu bày càn bậy, bị can nghĩ xử, đình thần muốn khép Hữu Quang vào tội nặng vì Thanh Giản và Hữu Quang là người cùng làng, nên nghị riêng biệt theo tội nhẹ. Vua ghét Giản là che chở bênh vực cho nhau, lại giáng làm Thông chính phó sứ, hộ lí công việc ở kho tàng.
Năm thứ 21, sung làm Phó chủ khảo trường thi Thừa Thiên. Có cử nhân là Mai Trúc Tùng, bài phú bị trùng vần. Bộ Lễ duyệt lại, Thanh Giản vì điểm duyệt không tinh, bị giáng 1 cấp. Chưa bao lâu, được thăng Thị lang Bộ Binh.
Thiệu Trị năm thứ nhất, thăng Tham tri, lại kiêm việc viện.
Năm thứ 3, tháng 2, có mây trắng hiện ra ngang trời. Vua xuống chiếu cầu lời nói thẳng. Thanh Giản dâng sớ đại lược nói rằng: Giữa khoảng trời và người rất đáng sợ. Ngôi của thánh nhân ngồi trị, thì gọi là ngôi của trời; dân của thánh nhân cai trị, thì gọi là dân của trời; về đường lối hành chính, thì
https://thuviensach.vn
gọi là đạo của trời. Không có gì khác đâu, chỉ ở lòng thánh nhân mà thôi. Lòng ấy động tác việc gì, đều thông cảm đến trời. Cho nên phải cẩn thận các việc gì mà mình không trông thấy, sợ hãi những điều mà mình không nghe thấy. Từ chỗ huyền vi đến chỗ rõ rệt, tự thân mình mà đến mọi người,
không một việc gì là không hợp lẽ trời, thì dân nhờ đấy mà sinh sống, mà trời giáng cho phúc vậy. Hoàng thượng ta, buổi mới nối ngôi, hiếu thành rất mực, kính sợ một lòng, dâng thư dán kín nói các việc, có nêu thưởng bằng lụa màu; quan giữ việc can ngăn, có thưởng cho bó lụa. Ơn to thấm khắp cả thiên hạ, phúc lớn lan rộng thiên đến hoàn cầu nên được hợp với lòng trời, điềm lành thường ứng. Thế mà, còn có lệ khí lưu hành, tượng trời răn bảo. Hoặc giả, đường ngôn luận tuy mở rộng, mà dân tình khó thấu lên trên; việc quyên, xá tuy khoan hổng, mà ơn trạch, khó thấm đến dưới. Lòng đại thần mở bảo, hãy còn có sự lo ngại rụt rè, chức thú mục các địa phương không để ý đến lợi hại của sinh dân, mà đến thế chăng? Năm gần đây, cõi Tây có loạn, bờ cõi chưa yên, quân lữ huy động luôn luôn, sinh dân ít được thỏa đời sống. Xin hoàng thượng những khi rỗi việc, tuyên triệu 5, 3 viên tuổi già đức tốt vào hỏi về kế hoạch trong nước, mưu tính ngoài biên, cùng nhau bàn bạc xác đáng cho việc đều tết cả. Lại dụ rõ cho thần liêu trong ngoài, phàm sự đau khổ của dân gian, đều được nói hết, chọn điều nào đáng dùng thì cho thi hành. Thế thì thói tệ của quan lại được trong sạch, quân lính được thực dụng việc biên phòng vững mạnh mà thế nước tôn nghiêm. Vua khen lời tâu
Năm thứ 7, kỳ đại kế, vua dụ rằng: Thanh Giản làm việc ở nơi cơ yếu, trù nghĩ việc biên cương, bảo vệ nơi cung sảnh, làm xong công việc, thăng cho Thượng thư Bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần.
Tự Đức năm thứ nhất, đổi sang Bộ Lại. Bấy giờ Kinh sư và các địa phương ít mưa. Giản cùng viện thần dâng sớ xin nhận tội, (chép ở truyện Đăng Quế).
https://thuviensach.vn
Năm thứ 2, bắt đầu mở Kinh diên, sung làm giảng quan. Chợt gặp dân ở Tả kỳ bị dịch lệ nhiều, lại cùng Nguyễn Tri Phương trình bày 5 việc (chép ở truyện Tri Phương). Vua tự chọn lấy Giản sung Kinh lược đại sứ ở Tả kỳ, lĩnh Tổng đốc Binh Phú kiêm coi đạo Thuận Khánh. Thanh Giản mang cờ tiết đi Nam, dâng sớ trình bày 2 việc về thể tuất bình dân. Vua khen, thưởng cho 20 lạng bạc.
Năm thứ 4, mùa xuân, đổi sung làm Kinh lược phó sứ Nam kỳ; nhưng lĩnh Tuần phủ Gia Định, kiêm coi tỉnh Biên Hòa và các đạo Long Tường, An Hà.
Năm thứ 5, cùng Kinh lược chánh sứ là Nguyễn Tri Phương dâng sớ trình bày 8 việc (chép ở truyện Tri Phương), xin đem cờ sứ tiết trả lại. Nhưng vua dụ lưu lại và thưởng cho 1 chiếc kim khánh hạng lớn có chữ "liêm bình cần cán".
Năm thứ 6, tháng 8, vua thấy Thanh Giản khó nhọc mãi ở ngoài, bèn gọi về cho thăng thự Hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Thượng thư bộ Binh, vẫn sung chức ở Cơ mật kinh diên như cũ. Thanh Giản bèn tâu bày về công việc làm cho Nam kỳ sau này được tốt, như: Vỗ yên nước Cao Miên, chữa hồi bệnh đau khổ của dân, rộng ban ân điển, chỉnh đốn thói quen của sĩ phu, chế tạo xe trâu, sửa đắp phần mộ của công thần, cấp cho phu coi mộ, gồm có 6 điều, đều được đem ra thi hành cả. Sau sai trông coi làm Tổng mục bộ Việt sử thông
Năm thứ 9, kỳ đại kế, vua khen Thanh Giản là thanh liêm, cẩn thận, thưởng cho bài theo bằng thứ ngọc tốt.
Năm thứ 12, Đà Nẵng cùng Định Biên có loạn, Thanh Giản cùng viên thần tâu bày mưu kế chiến, hòa và phòng thủ (chép ở truyện Đăng Quế), Thanh Giản lại tự dâng sớ đại lược rằng: Thiên hạ rất rộng, các việc rất nhiều, cai trị tự dân rất nhiều, để ngự trị chỗ rất rộng, cần làm cho yên mà thôi. Nhân người mà dạy, thì không nhọc mà nên công, dựa vào pháp luật mà trị, thì
https://thuviensach.vn
quan lại tốt mà dân yên. Cho nên việc lợi không được trăm phần thì không thay đổi phép; công không đủ 10 phần, thì không đổi khí dụng. Làm phương kế ngày nay, bỏ việc nuôi dân chăm cày cấy, thì không còn việc nào là trước hơn; bỏ việc nuôi quân, trù lương thực, thì không còn việc nào cần kíp hơn nữa. Cứ để ý đến những việc ấy thì sức dân hơi thưa, mà quân có giáo huấn; địa lợi không bỏ, mà lương ăn có sản xuất; binh giỏi lương đủ, như nước nguồn chảy mãi không hết, thì hoặc chiến, hoặc thủ, không việc gì là không được cả. Dùng để dẹp giặc, yên dân, tiêu tai họa đến trị bình, hoặc có bổ ích được chút ít. Vua bảo rằng: Lời nói đều có thiết yếu, không phải bọn tâu tiến có thể làm được. Chỉ mong ngươi thực tâm, thực lực giúp trẫm, sẽ có tiếng để lại đời sau.
Năm thứ 15, tướng Pháp ở Gia Định mang thư đến nghị hòa. Đình thần xin cho sứ đi lại là phải. Thanh Giản cùng Lâm Duy Thiếp xin đi. Vua chuẩn cho 2 viên ấy sung làm Chánh, phó sứ toàn quyền đại thần. Vua rót rượu ngự ban cho, và bảo nên biện bác cho khéo. Khi các viên đến Gia Định, tướng Pháp bức bách ta phải nhường giao đất đai ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và phải chịu tiền bồi là 4.000.000 đồng. Việc đến tai vua, xuống dụ khiển trách nghiêm nghị, đổi làm lĩnh Tổng đốc Vĩnh Long, cùng tướng Pháp bàn làm, để chuộc tội. Sau vì thương thuyết không công trạng, bị cách chức, lưu l
Năm thứ 16, được triệu về, sung làm Chánh sứ đi Tây. Vua hỏi Giản về việc 3 tỉnh, quả là cân nhắc nhẹ nặng mà làm, hay là có ý riêng gì? Giản thưa rằng: Thần xem kỹ thời thế, không thể không được. Thần nay phụng mệnh đi sứ, thành sự hay không thành, là ở 2 nước ấy. Thần chỉ biết hết tâm lực thôi.
Năm sau, đi sứ trở về được, đổi lĩnh Thượng thư Bộ Hộ. Gặp có Toàn quyền nước Pháp là Hà Ba Lí đến Kinh. Vua lại chuẩn cho Thanh Giản sung làm Toàn quyền đại thần, để cùng người Pháp chước lượng bàn định.
https://thuviensach.vn
Tới lúc Thanh Giản đi, vua làm bài thơ ban cho, khuyên lấy làm cho xong việc đi sứ. Thơ rằng:
Phiên âm:
Có nhân kiêm trọng phụ, Lợi độn cự tiên tất
Duy dĩ thành khổn phu, Quỉ thần tự khả chất.
Bạo hổ do độ hà, Cuồng ngạc diệc tỉ thất,
Thẩn phù bỉ hữu tri, Hà loạn hồ cưỡng phật.
Gia danh, nhân sở hiếu, Chí lý, nhân sở khuất,
Thiện ngôn, nhân sở phục, Nghĩa khí phân sở truật,
Thiết thạch chung bất di, Khê hác yên năng dật,
An nguy tại thử cử, Khẳng tích kinh luân thuật
Vô ngôn dĩ mặc hội, Niên lai, cửu thân mật.
Dịch:
Cố nhân nhận ký thác gánh
Lợi hại không chắc trước được đâu,
Duy có lòng thành tín thông cảm,
Hệ có thể đối với quỷ thần được,
Tay không đánh bò cũng như tay không lôi sang,
Quỉ thần tự ứng cầu,
https://thuviensach.vn
Huống chi kẻ kia có tri giác,
Cả điên cuồng cũng phải dời đi chỗ khác.
Tiếng tốt, người vẫn thích,
Lẽ phải, người phải phục,
Nói điều thiện, người sợ phục,
Có nghĩa khí, người chột dạ
Lòng phải sắt đá không đổi đời
Dù ngòi lạch sao đầy được?
An, nguy ở chuyến đi này,
Sao chịu tiếc mưu kế thi thố,
Tuy không nói ra cũng hiểu ngầm trong bụng
Thân mật đã lâu đến mấy năm nay.
Năm thứ 18, tháng 2, tế Giao, vua sai Thanh Giản đi tế thay. Năm ấy, Thanh Giản, 64 tuổi, dâng sớ xin nghỉ, đại lnói rằng: Thần sinh hình vốn không tài năng gì, tự nghĩ mình chưa báo bổ được chút đỉnh nào, đương nghĩ cố hăng, mong để báo đền. Nhưng vì tuổi già như bóng chiều gần xế. Tự nghĩ tinh lực không được bằng trước nhiều, mà thần trông coi ở địa phương phiền kịch, việc quên sót nhiều. Tự nghĩ lại rằng: Người ta sống đến 70 tuổi, như cây bồ liễu đã trải qua mùa thu. Tuy có tình sâu luyến ái vua, nhưng sức ngựa đã kiệt rất sợ làm không xong việc để lầm lỡ. Vua yên ủi rằng: Ngươi nên cố gắng, để khuyến khích bọn hậu tiến, và Kinh Thi có câu rằng: "Văn, vũ xưa thụ mệnh, có người như ông Thiệu công, ngày mở mang trong nước được trăm dặm. Nay thì trong nước, ngày hụt đi trăm dặm
https://thuviensach.vn
vì người đời nay, không còn có ai được như xưa". Mỗi khi đọc đến đấy, đau lòng khôn xiết. Gặp đốc thần Vĩnh Long là Trương Văn Uyển xét tâu tình hình 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Vua nói rằng: Nơi biên viễn chơ vơ xa cách, thực khó coi giữ. Nếu được người nào, hệ tín phục sẵn, hoặc có thể yên được chăng? Đoan Thọ, Trần Tiễn Thành đem Thanh Giản ứng cử. Vua sai Thanh Giản sung làm Kinh lược đại thần, tha cho tội cách lưu, để mong báo hiệu về sau. Thanh Giản đã được khai phục, lại dâng sớ tự trình bày rằng: Thần cùng viên Lâm Duy Thiếp đã chết rồi là tình đồng sự với nhau; mà thần không có công trạng may được khai phục, còn viên đã chết kia ở dưới đất, một mình tự quay mặt vào xó nhà mà khóc. Trong khoảng u minh, lòng không tự yên được. Vậy thần xin lấy lại ân mệnh của thần cho được như trước, gắng sức tự chuộc tội lấy.
Vua bảo rằng: Lòng trẫm đối với bề tôi có lòng thể tất trách cho thành hiệu, lòng thành của khanh tự trách mình, nghĩ đến bạn cũ, thực là hai đằng đều hết lẽ. Duy có Thiếp việc chưa thành mà đã chết trước. Trẫm ngày mong khanh lập công, để tiện cho ơn kịp đến viên đã chết. Nếu khanh có lòng ấy, thì sự mong hẹn không phải là ít. Khanh nên cố gắng mưu tính đi.
Năm thứ 19, Thanh Giản lại lấy cớ già yếu xin nghỉ. Vua quở rằng đương bắt phải làm cho có thành hiệu, mà chưa làm xong, ý kiến của lão thần sao lại phát ra câu ấy.
Năm thứ 20, tháng 5, phái viên của Pháp đem binh, thuyền đến bến sông Vĩnh Long, sai người đệ thư lại nói về việc nhượng giao 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Thanh Giản đến, cùng người Pháp biện luận việc ấy, sau cũng không thể ăn thua gì. Bèn khuyên họ chớ làm kinh động quấy nhiễu nhân dân, cùng tiền, lương hiện chứa ở kho tàng, vẫn do ta chiếu quản. Tướng Pháp thuận nghe. Không bao lâu, Giản trở về thì quân Pháp đã kéo 4 mặt vào thành. Bỗng lại có tin báo 2 tỉnh An, Hà, quân Pháp cũng làm như thế. Không đầy 5 ngày, 13 tỉnh kế tiếp nhau không giữ được. Thanh Giản tự cho mình là không công trạng gì, mới đem hiện số tiền,
https://thuviensach.vn
lương 3 tỉnh ấy, chiếu tính khấu trừ vào số bạc bồi thường năm ấy 1.000.000 đồng. Lại đem cả áo chầu, ấn triện và từ sớ để đưa về nộp. Sớ rằng: Hiện nay gặp cơn gian bĩ, giặc dữ khởi ở giao, điện; khói lửa của giặc khắp cả biên cương. Đất đai ở Nam kỳ một khi đến như thế, mau chóng quá, tình thế không thể ngăn nổi. Thần nghĩa đáng chết, không dám cầu sống, để cái hổ cho vua, cha Hoàng thượng ta rộng xem kim, cổ, xét kỹ trị loạn; thân, hiền trong ngoài, một lòng giúp đỡ; kính cẩn việc răn của trời, vỗ thương nhân dân cùng khổ; lo trước nghĩ sau, thay dậy, đổi lối; thế lực còn có thể làm được. Thần đến lúc tuyệt mệnh, nghẹn lời không biết nói sao nữa; chỉ rỏ nước mắt trông nhớ, khôn xiết nguyện vọng mà thôi. Rồi Thanh Giản không ăn, uống thuốc độc chết. Bấy giờ Giản 71 tuổi.
Năm thứ 21, Giản bị truy tước chức hàm, đục bia tên ở bia tiến sĩ.
Đồng Khánh năm thứ nhất, chuẩn cho khai phục nguyên hàm, lập bia như cũ.
Thanh Giản là người ngay thực, giữ lòng liêm khiết làm quan thận cần, gặp việc dám nói. Trải thờ ba triều, vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế không làm sao đượết tội, tự uống thuộc độc chết. Thực là ở vào chỗ người ta khó xử. Xem tờ sớ để lại thì lòng trung ái, chứa chan ở ngoài lời nói. Vả lại Thanh Giản học nhiều, lời rộng. Khi Dực Tông Anh hoàng đế lúc rỗi việc, bàn đến việc các quan làm văn, từng khen văn của Giản là cổ nhã. Các danh thần ở Nam và Trung sau này, ít người hơn được. Giản bình sinh trước thuật, có tập "Thi văn Lương khê" lưu hành ở đời.
Con có 2 người: Thanh Liêm làm quan đến Thượng thư; Thanh Tôn làm quan đến Hồng lô tự thiếu khanh. Con của Thanh Liêm là Thanh Khai được ấm thụ, trải thăng đến Viên ngoại lang viện Cơ mật.
Nguyễn Như Thăng
https://thuviensach.vn
Người huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Lúc đầu Thăng lệ thuộc vào sổ lính doanh Long Vũ.
Minh Mạng năm thứ 7, theo Tham tán đại thần là Nguyễn (khuyết tên) đi Gia Định làm việc bắt giặc ở Trấn Tây thắng trận, chém được thủ cấp của giặc cắt lấy tai, được thăng bổ đội trưởng; trải thăng đến cai đội, phó quản cơ, phó vệ úy.
Năm Tự Đức thứ nhất, thăng bổ Tả chấp vệ Kim ngô.
Năm thứ 4, nhắc lên Chưởng vệ trung doanh Thủy sư; rồi thăng Thống chế Hữu dực, doanh Vũ lâ
Năm thứ 10, cùng với Binh Bộ tham tri là Trần (khuyết tên) đem quân đóng giữ cửa biển Thuận An, đánh nhau với thuyền Tây Dương, Thăng bắn súng lớn đánh trúng vào thuyền ấy thuyền ấy bỏ chạy ra phía đông. Được thưởng 1 cấp quân công, gia hàm Đô thống và thưởng 1 đồng tiền, 30 lạng bạc.
Năm thứ 16, được bổ thụ Đô thống phủ Đô thống ở Tiền quân. Sau ốm chết.
QUYỂN 27
TRUYỆN CÁC QUAN - MỤC XVII
Lâm Duy Thiếp
Khi trước gọi là Duy Nghĩa, tên tự là Chính Lộ, hiệu là Thất Trai, tiên tổ từ Trung Quốc sang làm nhà ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Thuở nhỏ có tiếng là thông minh nhanh nhẹ
n, năm Minh Mạng thứ 9, đỗ hương tiến, từng làm tri huyện, tri phủ, có tiếng là chính t rị giỏi.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 18, thăng bổ Thị độc học sĩ, tham biện việc Nội các, rồi cất lên làm Thị lang vẫn sung biện việc
Thiệu Trị năm thứ nhất, tới kỳ xét công, vua cho Thiếp vâng chỉ tính đường,làm việc siêng năng nhanh chóng, gia hàm Tham tri, chuẩn cho ăn lương tòng nhị phẩm.
Năm thứ 2, vua đi tuần ra Bắc, sung làm Nội các ở nơi hành tại. Khi trở về, thưởng cho 1 đồng kim tiền "Phan long phụ phượng” hạng 3, có dây đeo, và 8 lạng bạc, bổ làm Hữu tham tri Bộ Binh. Tháng 11 năm ấy, đi duyệt binh ở 6 tỉnh Nam Kỳ.
Năm thứ 6, thự Thượng thư Bộ Công, chưa bao lâu đổi sang Bộ Lễ, kiêm quản cả thị vệ.
Năm thứ 7, tháng 9, vâng chiếu để lại sung làm Phụ chính đại thần. Khi Dực Tông Anh hoàng đế lên ngôi, thăng thụ Hiệp biện đại học sĩ, vừa gặp người buôn nước Thanh là Lý Thái, chở thuyền vào cửa Thuận. Duy Thiếp gởi tâu xin phái thêm nhân viên nhận chở của công sang Quảng Đông đổi chác. Đình thần tham hặc, nghị phải cách chức. Vua đặc cách gia ơn cho giáng chức được lưu lại, bỏ kiêm hàm quản lĩnh, chỉ chuyên làm việc ở bộ. Bấy giờ ở Kinh sư và các địa phương hiếm mưa. Thiếp cùng đình thần dâng sớ xin nhận tội (đã chép ở truyện Đăng Quế).
Năm thứ 3, sung vào viện Cơ mật, kiêm chức Sử quán phó tổng tài, và làm cả công việc doanh Thủy sư ở Kinh kỳ, tới kỳ xét công danh sách dâng lên, vua cho Duy Thiếp là bậc kỳ cựu giỏi giang trung thành sẵn tiết, thưởng gia
cho 2 cấp. Rồi sau cùng với Trương Đăng Quế, Vũ Văn Giải dâng sớ xin thôi chức hàm Phụ chính, vua không cho. Mùa đông năm ấy, trong kinh kỳ mưa rét nhiều, Thiếp dâng phong thư một việc dán kín, đại lược rằng: Nên cẩn thận một đức để hưởng phúc trời, nên khen quan lại giỏi để khuyến khích các người giữ việc, chọn người hiền tài để thu được thực dụng, và bỏ cái tệ án đã thành còn bác đi tra xét, từ nặng giam cấm lâu ngày. Vua khen
https://thuviensach.vn
là có thể đem ra thi hành lựa dụng được. Duy Thiếp cùng bọn Đăng Quế nhắc lại lời xin tước, vua bèn y cho.
Năm thứ 6, xin về thăm quê, vua cho 40 lạng bạc và dụ lấy ý giao hiếu để khuyến trung; lại ấm thụ cho một người con làm chủ sự. Khi trở lại kinh, đổi làm Tổng đốc Hà Ninh, chuyên trông coi mỏ kẽm ở 3 tỉnh: Hải Dương, Thái Nguyên và Bắc Ninh. Gặp tên thổ tù ở Ninh Bình là Đinh Công Mỹ làm loạn, Duy Thiếp xin cấp cho bọn Lê Đạt Ký, nguyên ở bang Hương Nghĩa người nước Thanh tập họp phu mỏ để chống lại. Vua không cho, nói rằng: Đem quân cứng mạnh của ta mà đánh lũ tiểu phỉ ví như lò than hồng cháy ngay cái lông, hà tất phải mượn người ngoài lại sinh ra trở ngại khác. Rồi về khoản che chở cho thuộc biền, giáng làm Tuần phủ, vẫn được lĩnh chức cũ. Bấy giờ ở trong tỉnh hạt gió lụt ra tai, dân nhiều người người đói khát xanh xao. Duy Thiếp ngày thường không biết dự phòng trước, lúc lâm thời lại không hết sức chẩn tế. Khâm phái Khoa đạo là Trương Ý đem việc tham hặc lên, phải cách chức được lưu lại, rồi giáng làm Tham tri Bộ Binh.
Năm thứ 12, lại sung đại thần ở Cơ mật viện, có trình bày xin khuyên răn viên thống chưởng, răn bảo các quan coi việc kinh hai việc. Vua khen là thành thực khẩn thiết, nhắc bổ làm Thượng thư.
Năm thứ 15, ở Nam Kỳ có việc, sai sung làm nghị hòa Phó toàn quyền đại thần, cùng với Thanh Giản đi thương thuyết, khi vào từ hành trước mặt vua, vua thân rót rượu ngự ban cho. Rồi sau không có công trạng gì (đã chép ở truyện Thanh Giản), vua quở trách, đổi làm Tuần phủ ở Thuận Khánh, nhưng phải cách lưu, cùng bàn bạc với tướng Pháp để chuộc tội. Chưa được bao lâu rồi chết. Vua nghĩ là bậc cựu thần, cấp thêm cho vóc lụa tiền nong để chôn cất.
Năm thứ 21, phải truy đoạt lại chức hàm. Năm Đồng Khánh thứ 1 viên thần là Nguyễn Hữu Độ vì Duy Thiếp, xin cho khai phục hàm Thị lang Bộ Binh. Con là Duy Chạm lấy công chúa, cháu là Duy Điện, được ấm hàm Cẩm y hiệu úy.
https://thuviensach.vn
Hoàng Thụ
Người huyện Quảng Điền, phủ Thừa thiên. Năm Minh Mạng thứ 16, đỗ tiến sĩ do hàm Hàn lâm viện biện tu, sung chức biên tập bộ "Tiễu bình phương lược" rồi bổ làm Tri phủ Thường Tín, có tiếng về chính trị giỏi, được vào làm Giám sát ngự sử ở Kinh, rồi thự Lễ khoa chưởng ấn cấp sự trung, lại sung thanh tra Nội vụ phó đổng lý.
Năm thứ 20, nhắc lên Án sát sứ Hưng Hóa. Đầu năm Thiệu Trị, đổi về
Nghệ An, chuyển làm Thị lang ở 2 bộ Binh, Hình, phải làm Bố chính sứ Định tường, Vĩnh Long, An Giang, lại thăng thự Tuần phủ Định Tường.
Tự Đức năm thứ nhất, bổ Tham tri Bộ Hình kiêm quản viện Đô sát, chưa bao lâu, đổi sang Bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần. Tâu xin: Phàm các quan viên có tang 3 năm, cho nghỉ chức đến hết kỳ, để làm hậu phong tục, cổ lệ hạnh kiểm. Vua cho là phải, rồi vì có tang mẹ được nghỉ chức.
Năm thứ 9, án bổ Tham tri Bộ Hộ, sung chức Kinh duyên nhật giảng quan. Mùa đông năm ấy, nhấc bổ Tổng đốc An Tĩnh, rồi đổi đi Hà Ninh.
Năm thứ 15, chuyển về làm Thượng thư Bộ Hộ, rồi ốm chết ở công thự (nơi dinh thự công).
Thụ có tài làm ệc, làm quan trải khắp trong ngoài, chăm chỉ cẩn thận, cần kíp công việc. Khi làm Tổng đốc ở An Tĩnh, vua có làm bài thơ ban cho, thơ rằng:
Phiên âm:
Kinh địa nhân tài chân hãn đắc,
Hữu kỳ khổn ký lượng phú khinh,
Trữ khan bồ trạch điền ngưu mãi,
https://thuviensach.vn
Hưu tiến thôn đồng trúc mã nghênh.
Trước thủy ngã tiên đôn nhã tháo,
Vọng bi thủy bất hệ thâm tình,
Nhất phương bảo chướng kỳ tăng tráng,
Mạc phụ tam triều trọng tránh thành
Dịch nghĩa:
Nhân tài ở nơi kinh kỳ thực ít có,
Nhân ký thác coi địa phương Hữu kỳ
(Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) trách nhiệm không phải là nhẹ. Sẽ thấy Chằm Bồ mua trâu về cày (7)
Chớ người trẻ trong đám người ngựa bằng đoạn tre đi đón.(8) Rót nước suối (9) ra hãy làm cho nhã tháo được hậu
Trông bia (10) ai chẳng có mối cảm tình tha thiết.
Che chở một phương thêm vững mạnh,
Chớ phụ sự trách thành của ba triều.
Được vua yêu quá quyến luyến là như thế đấy. Hôm Thụ chết, Vua rất tiếc, chi gấm Trung Quốc sa lụa bạc tiền, sai phủ thần vâng mệnh đến tế. Con là Văn Đễ cũng đỗ hương tiến, sau can án về không có luân thường, bị giam chết ở ngục.
Ngô Kim Liên
https://thuviensach.vn
Tên cũ là Lân, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Thuở nhỏ thông minh, đọc sách qua mắt một lượt là nhớ. Ở nhà hiếu thuận, cùng với anh là Kim Thanh dốc chí đọc sách.
Minh Mạng năm thứ 7, vì có văn học được sung cống sinh ở Quốc tử giám.
Năm thứ 9, có kỳ thi diên bổ trúng hạng ưu, được làm hậu bổ ở Bắc thành, trải quyền thự 3 huyện: S
ơn Dương, Tam Dương và Thụy Anh, có tiếng là chính trị giỏi được thực thụ Lễ khoa cấp sự trung.
Năm thứ 15, phái vào Nam Kỳ tra xét việc án của ngụy Khôi, Kim Liên cho là tố cáo ra có dây đưa đến nhiều người khác, xin cho đình việc tra bắt, vì trái chỉ của nên bị biếm.
Năm thứ 17, gặp kỳ bổng mãn (đủ lệ 6 năm) xếp vào hàng bình, được kỷ lục 2 thứ, rồi bổ Lang trung, trải làm biện lý công việc ở 2 bộ Công và Hộ.
Năm thứ 20, thăng bổ Chính sứ Hải Dương. Năm Thiệu Trị thứ nhất, đổi đi Hộ lý Tuần phủ Hưng yên.
Tự Đức năm thứ nhất, dâng bộ "Đại học diễn nghĩa" được thưởng kim tiền, rồi chết ở nơi làm quan.
Con là Kim Viện được ấm thụ bát phẩm, và Kim Dư được ấm sinh. Con Viện là Hoán đỗ Cử nhân, nay làm Ngự sử đạo Tả trực, con Dư là Điển làm Thông phán tỉnh Khánh Hòa, anh Liên là Kim Thanh đỗ sinh đồ, làm quan đến Án sát, con là Mỹ Tri đỗ tú tài làm quan tới Tham tri Bộ Binh.
Phan Khắc Thận
Người huyện Bình Sơn, trấn Quảng Ngãi.
Năm Minh Mạng, đỗ tú tài 2 khoa về năm Ất dậu và Mậu tý.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 11, ứng hạch vào hạng binh, trải làm giáo chức ở huyện phủ Bảo An và Tân An.
Năm Thiệu Trị thứ nhất, quyền nhiếp công việc phủ Tây Ninh. Bấy giờ có tên đầ giặ
c là Đinh Tuân, tự xưng Thiên thương tướng, tụ họp đem hơn 700 người Man, Chàm tiến sát tới đồn phủ Tây Ninh. Thận hết sức cố gắng thủ bán giết được tên Tuân, giặc bèn vỡ chạy. Việc đến tai vua, xuống chiếu thư khen ngợi, và thưởng cho một cấp quân công, 1 đồng kim tiền, chưa bao
lâu, bổ làm Giám sát ngự sử đạo Kinh kỳ, và thự công khoa Chưởng ấn cấp sự trung.
Năm thứ 4, thự Án sát sứ ở 2 tỉnh Bình Định và Vĩnh Long. Năm ấy, tới kỳ xét công, được dự hạng ưu, rồi đổi đi làm Tuyên phủ sứ Tây Ninh, trải làm Bố chính sứ ở Nam Định, Hà Nội.
Tự Đức năm thứ 5, quyền Chưởng ấn Tuần phủ quan phòng ở Lạng Bình. Gặp bọn thổ phỉ nước Thanh vào cướp thôn Đông Long trấn Lạng Sơn, Khắc Thận dẹp tan được, thắng trận to, thưởng thêm cho quân công 1 cấp, kim tiền 1 đồng.
Năm thứ 6, tới kỳ xét công, vua cho là Thận thân chịu chức trách ngoài biên, vỗ về chống chọi phải lẽ, khả gọi là bề tôi biết giữ bờ cõi, thưởng gia 1 cấp, đổi làm Tả tham tri Bộ Hộ.
Năm thứ 11, người Pháp gây hấn ở cửa biển Đà Nẵng, sai Khắc Thận đem quân ra chống cự lại đánh nhau ở sông Cẩm Lệ bị thua, phải giáng 3 cấp được lưu chức.
Năm thứ 12, vua cho là Khắc Thận trước đã nhận chức ở Nam Kỳ, địa thế nhân tình vốn đã am hiểu, đổi Khắc Thận làm Tuần phủ An Giang, đem quân tới Ba Xuyên dẹp giặc Man được thắng trận, thưởng cho quân công kỷ lục 2 thứ, bổ làm Tổng đốc An Giang. Bấy giờ quân Pháp đã chiếm cứ
https://thuviensach.vn
thành Gia Định, bọn giặc thổ Man ở Vĩnh Định, Kiên Giang tràn sang cướp Ba Xuyên. Thận thân đem các tướng hầu chia đi dẹp tan hết.
Năm thứ 19, Nam Kỳ kinh lược sứ là Phan Thanh Giản tâu nói: Tên Man mục là A Xoa gây việc, do tự phủ Tĩnh Biên là Hoàng Khoán làm cho chúng kéo đến, mà đốc than là Khắc Thận cũng hùa theo vào đấy. Nay tên Ă Xoa đã trốn vào Thất Sơn, tỉnh thần ấy nói là ngăn chặn, là hùng bắt, toàn là nói hão cả, để cho tướng Pháp chưa khỏi hết ngờ. Thận bèn bị cách chức rồi trách phải bắt được tên Ă Xoa (tức Ông Bướm) ở Thất Sơn giải giao cho tướng Pháp; lại được khôi phục Binh bộ Thượng thư, lĩnh Tuần phủ Nam Ngãi, vua bảo Thận là thu cùng về lúc bóng chiều đã ngã nên phải cố gắng.
Năm thứ 21, bọn thổ phỉ nước Thanh là Ngô Côn lấn nhiễu các tỉnh Thái, Lạng, quan quân bị thua, vua sai Thận sung làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Khắc Thận mới đến quân thứ, mắc bệnh rồi chết. Vua rất thương, xuống dụ rằng: Khắc Thận ngày thường công lao khá nhiều, nay chẳng may vội chết, nên cho ưu hậu. Tặng hàm Hiệp biện đại học sĩ, sai quan địa phương bắt dân phu đưa quan cữu về quê, chiếu theo hàm được tặng mà cấp cho tiền tuất gấp hai.
Nguyễn Bái
Tên tự là Phong Đình, người huyện Phú Vang phủ Thừa Thiên, có sức mạnh, lúc nhỏ tập võ nghệ. Đầu năm Minh Mạng ra đầu quân, trải làm đội trưởng suất đội. Khoảng năm Tự Đức nhiều lần thăng đến Phó Lãnh binh ở Nam Định, đổi đi quân thứ ở Hưng Hóa. Vì có chiến công cất làm Cấm binh vệ úy lĩnh Chưởng vệ thủy sư Hữu doanh. Gặp bọn giặc ở mặt nước đến cướp Hải Yên, vua sai sung làm khâm phái quân vụ quản đốc binh chuyền đạo thủy kịp thời ội lại đánh dẹp. Bái cùng giặc đá
nh nhau ở ngoài khơi Ngọc Mai, cả phá được quân giặc, được cất làm Đề đốc ở Nam Định.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 30, đổi làm Đề đốc ở Thủy sư Kinh kỳ.
Năm thứ 36, bổ thụ Đô thống, bấy giờ Bái đã 70 tuổi viện lệ xin về hưu. Vua cho Bái là người được việc quen thạo, không cho nghỉ. Rồi sau lại về bị ốm, chuẩn cho hưu trí, năm Đồng Khánh thứ 3, thọ 77 tuổi thời chết. Phủ thần tâu lên, vua cấp thêm cho tiền tuất 200 quan. Con là Văn Mỹ theo học, được ấm thụ Hàn lâm viện biên tu.
Nguyễn Hoàng
Người huyện Đăng Xương, phủ Thừa Thiên, khi trước tên là Văn Hoàng. Minh Mạng năm thứ 7, đăng vào sách Anh danh, ra Bắc Kỳ bắt giặc, bổ thụ đội trưởng, nhiều lần thăng làm Quản cơ cơ Trung chấn.
Năm thứ 21, bổ Phó Vệ úy vệ Kỳ vũ, tới Trấn Tây, rồi cùng quan quân đánh dẹp bọn thổ phỉ ở Ô Môi, chém được tên đầu giặc là Dương ất tại trận, đến khi tiến đánh cửa Vinh Đà. Hoàng hăng hái lên trước, cùng giặc
đánh nhau, liền được thắng trận. Vì có công được lên chức Vệ úy.
Thiệu Trị năm thứ nhất, đổi bổ Lãnh binh Vĩnh Long, cùng với bọn Nguyễn Tiến Lâm đánh nhau với giặc ở Súc Sâm. Bấy giờ, các đạo quân đánh giáp lá cà, giặc tựa vào lũy chống cự lại, Hoàng cùng giặc đấu chọi sát nhau, chém được một thủ cấp cắt lấy tai, bị giặc bắn trúng tay bên tả, Hoàng bọc vết thương lại thân ra đốc quân đem hết sức đánh, giặc bèn vỡ chạy. Đến khi tâu thắng trận ở Súc Sâm, vua nghe tin khen ngợi thưởng cho quân công 1 cấp, nhẫn đeo tay bằng vàng, thẻ bài bằng bạc, và bạc trắng các hạng.
Năm thứ 3, đổi bổ làm Lãnh binh quan ở An Giang.
Thiệu Trị năm thứ 4, bổ làm Chưởng vệ, Hộ lý ấn quan phòng của Đề đốc An Giang.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 5, coi đem binh thuyền do đạo Tiền Giang đánh dẹp, cả phá vỡ bọn thổ phỉ ở Ba Bam. Tin thắng trận tâu lên, vua cho Hoàng thắng trận chuyến này, làm cho tiếng tăm của quan quân lừng lẫy lên trước, rất đáng khen ngợi, gia cho quân công một cấp và thưởng cho một đồng kim tiền có chữ "long vân khánh hội" với một chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng. Rồi Hoàng cùng với Doãn Uẩn chia đường đến đánh lấy đồn Kha Đốc đánh phá đồn Thiết Thằng, thẳng tới thành Nam Vang, Vì có công được phong thự Đề đốc, lại gia quân công gia cấp kỷ lục và thưởng cho cái nhẫn đeo tay mạ vàng khảm mặt kim cương trân châu, một cái bằng ngọc quý có dây thao xâu ngọc san hô đeo rủ xuống, một cái khánh vàng ghi công, rồi sung làm Bang biện quân vụ Trấn Tây.
Năm thứ 7, nước Cao Miên sang triều, việc Trấn Tây đã được yên. Vua dụ thưởng các tướng đi đánh dẹp Trấn Tây. Vua cho là Hoàng trải cho đánh dẹp tự thân đi trước quân lính, xông pha tên đạn, giết giặc lập công, ban cho một cái bài đeo bằng vàng có chữ: "An tây tuấn kiện tướng" và một cái bài đeo bằng ngọc quý hình con chim ưng bay có dây rũ xuống xâu hạt trân châu. Tháng 5, vâng chiếu đem quân về. Khi vào chầu, vua cho cái áo lụa sắc đỏ mặt mát và cái quạt của vua dùng. Đến hôm sau, cho triệu vào điện Cần Chánh tuyên dương úy lạo, sai hoàng tử là Gia Hương Công rót rượu đem cho. Lại cho một chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng dát mặt ng, một cái hình con gấu mạnh bằng vàng, để tỏ ra như con gấu khỏe mạnh đáng khen. Sắc cho làm n Tây tuấn kiện tướng, rồi bổ làm Thống chế doanh Tiền phong. Mùa thu năm ấy, xét công những người có công đánh Trấn Tây, được tấn phong Vũ xá tử. Đến khi võ công cáo thành, vua sai đúc khẩu súng lớn để ghi công sắc cho khắc tên vào súng báu "Thần uy phục viễn" thứ hai, dựng bia ở Vũ miếu để nêu quân công.
Tự Đức năm thứ 2, ra làm Tổng đốc Định Biên, chưa bao lâu, đổi thự Tổng đốc Long Tường.
https://thuviensach.vn
Tự Đức năm thứ 4, vừa đúng kỳ xét công, thăng thự Hữu quân đô thống, nhưng vẫn kiêm Tổng đốc.
Năm thứ 5, triệu về, rồi thôi chức vụ ở trấn, nhưng thự vào quân phủ. Mùa xuân năm ấy có kỳ điểm duyệt quân lính to, sung làm chánh tổng duyệt. Vua khen quân sĩ được chỉnh túc. Mùa thu năm ấy cổ kỳ xét công, vua cho là Hoàng có công đánh dẹp rõ rệt, việc trị hơi quen thạo, chuẩn cho thực thực kiêm giữ ấn triệu của Tiền quân phủ Đô thống. Đến sau chết, tặng làm Hữu quân Đô thống phủ Đô thống chưởng phủ sự, cáo thụ đặc tiến tráng vũ tướng quân, cho tên thụy là Vũ Nghị, chiếu hàm cấp cho tiền tuất.
Năm thứ 11, được liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
Khi trước, Hoàng còn là tướng hiệu nhỏ, bấy giờ chưởng phủ là Tạ Quang Cự biết tài của Hoàng có thể đại dụng được, bèn tiến cử lên triều đình. Tới khi theo đi đánh dẹp, thường lập chiến công, Hiến Tổ Chương Hoàng đế khen ngợi, cho Quang Cự là biết người, mà Hoàng thực không phụ người đề cử ra vậy.
Con là Trân, được lấy Mỹ Duệ công chúa, cháu là Lương Phác lúc đầu bổ làm Hiệu úy, làm việc quan nhiều lần thăng đến Quang lộc tự khanh, biện lý công việc Bộ Lễ. Rồi chết, truy thụị lang.
Lê Đình Lý
Người huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, thuở nhỏ nhà nghèo lên núi kiếm củi dọc đường có cây đàm hoa xanh tốt, Đình Lý ngồi dưới gốc hóng mát một chút, chợt có cái hoa to rụng xuống trước mặt, nhặt lấy ăn, được vài tháng khổ mặt khác hẳn, người làng lấy làm lạ.
Minh Mạng năm thứ 10, ra đầu quân, phái tới hai trấn Định Biên, An Giang đánh dẹp giặc Man, có công thăng cai đội.
https://thuviensach.vn
Thiệu Trị năm thứ nhất, trải thành Vệ úy thường theo Phạm Văn Điển và Doãn Uẩn liền mấy trận, phá được thổ phỉ người Lạp, Man, có chiến công to; lại tiến phá đồn Thiệt Thằng, thẳng tới thành Nam Vang, được thắng trận luôn. Vua chuẩn cho gia hàm Lãnh binh, thưởng cho quân công một cấp và kim tiền, thể bài bằng vàng tía, để nêu công trạng.
Năm thứ 5, bổ Lãnh binh An Giang.
Năm thứ 7, quyền Chưởng ấn quan phòng của Đề đốc An Giang. Trấn Tây việc yên, thăng thự Chưởng vệ, vẫn hộ lý ấn quan phòng Đề đốc. Chưa bao lâu, xét công Trấn Tây, vua dụ rằng: Đề đốc là Lê Đình Lý trước sau theo đánh dẹp, công lao rõ rệt, tấn phong làm Thắng công nam. Năm ấy võ công sắc cho ghi công khắc tên vào súng đồng "Thần uy phục viễn" vị thứ 5.
Tự Đức năm thứ 4, thăng thự Thống chế.
Năm thứ 5, thự Hậu quân lĩnh Tổng đốc Định Tường.
Năm thứ 8, thự Hậu quân lĩnh Tổng đốc Định Tường.
Năm thứ 8, vào Kinh và ra mắt vua. Tâu nói: Dân ở đảo Phú Quốc rình bắt được con ba ba to còn sống, nuôi để đem dâng, có phần khó nhọc, phí tổn. Vua cho làm nhọc dân miễn đi.
Năm thứ 11, thăng thự Đô thống phủ chưởng phủ sự. Gặp lúc cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam có loạn, được chọn sung làm Tổng thống tiễu bộ quân vụ đại thần, đem quân đến chống cự lại. Tới khi đánh nhau, trúng đạn bị thương rồi chết, thọ 68 tuổi.
Đình Lý xuất thân ở võ bị, là người dũng cảm, trước kia ở Trấn Tây, thường lập chiến công, thưởng kim bài cho nêu khen, súng đồng ghi tên, mình giữ ấn hổ phù, trị nhậm cõi xa, thực là bậc tướng quân, việc gần đây vì bị thương nặng xin về làng, vua nghĩ thương tình phái thầy thuốc điều trị. đến khi chết ở nhà, hậu cấp cho gấm vóc bạc tiền, và vua làm câu đối
https://thuviensach.vn
văn tế ban cho, sai tỉnh thần sửa lễ tới tế điện, một tấm trung hồn, để thơm tờ điệp xưa, thực là đặc cách hơn cả mọi người. Năm Tự Đức thứ 32, được liệt vào thờ ở đền Trung Nghĩa. Con là Đình Thi được thừa ấm để phụng tự, cháu là Đình Thường làm Cấm binh suất đội.
Nguyễn Bá Nghi
Tên tự là Sư Phần, người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Minh Mạng năm thứ 13, thi hội đỗ ất khoa (Phó bảng), trải làm tri huyện, tri phủ, kế tiếp liệt vào hàng gián quan, được tiếng nói thẳng. Đổi ra thự Án sát sứ ở Vĩnh Long. Vì xử án cẩu thả, bị cắt chức cho gắng sức báo hiệu, rồi lại khởi phục bổ dụng.
Đầu năm Thiệu Trị, thự Giảng họ
c sĩ, tham biện việc Nội các, chưa bao lâu thăng thự Thị lang bộ Lại, vì có việc lại giáng xuống Hàn lâm viện thị giảng, phải đi theo thuyền Thanh loan sang Quảng Đông làm việc. Khi thuyền bị cháy, theo đường bộ về trước, lại bị thổ phỉ nước Thanh cướp bóc. Vua nghĩ thương, cất làm Thị độc học sĩ tham biện việc Nội các.
Năm thứ 4, thự Bố chính sứ An Giang. Bấy giờ Xiêm mục an phủ đến nói: Nước Lạp Man ý muốn bản triều ta bảo hộ như trước, Đốc thần là Nguyễn Tri Phương thương lượng ủy cho Bá Nghi tới Trấn Tây để thương thuyết, giặc Man hãy còn nghiêm mật phòng bị để đợi. Bá Nghi đến, ngồi yên, Xiêm mục là Phi Nhã, Đầu Ròng cùng quan Phiên đều nói: Ông Giun ngày đêm nhớ mẹ, nếu được tha về (năm trước quốc trưởng nước ấy là Ngọc Vạn bị quân ta bắt về giam giữ), thời họ xin làm thần bộc, mà từ đó trở đi nước Xiêm cùng với bản triều ta, cứ 3 năm lại sai sứ sang hòa hiếu như xưa. Bá Nghi bảo: Nay Thánh triều lấy trung tín trị thiên hạ, nếu ông Giun cũng lấy trung tín làm lòng, quyết không có nhẽ nào không bằng lòng,
https://thuviensach.vn
nhưng phải có thư đưa đến, mới có thể xếp đặt được Về sau quả nhiên không có thư đưa tới.ăm thứ 6, bổ Thị lang Lễ bộ, sung làm việc ở Nội các.
Năm thứ 7, kỳ xét công, danh sách dâng lên, vua dụ rằng: Bá Nghi khi trị nhậm ở An Giang, có dự bàn việc quân và vận chở tiếp tế, tới khi các vâng giữ chiếu sắc cũng được cẩn thận rõ ràng, chuẩn cấp cho lương tòng nhị phẩm.
Tự Đức năm thứ nhất, Nghi tâu nói: "Phàm các thần công (các quan) tâu việc, nếu không phải mưu tính việc quân quốc và những việc không thể tiết lậu được, thì không cần phải làm tập kín, để ngăn mọi tệ”. Vua cho là phải, xuống chiếu bổ làm Tuần phủ Hưng Hóa; lại cho trấn Hà Tiên là nơi địa đầu quan yếu Bá Nghi trước ở An Giang, biết hết tình thế, đổi bổ đi Hà Tiên. Khi đã tới nhận chức, làm tập trình bày việc thăm dò tình hình ngoài biên và nghĩ đề phòng kiểm soát xét hỏi các việc quan yếu. Vua đều nghe theo, mới được đầu năm, Hộ lý tổng đốc Bình Phú, rồi lại về Tham tri Bộ Lại, sung Kinh duyên nhật giảng quan Cơ mật viện đại thần.
Năm thứ 6, có kỳ địa kế xét công quả. Vua cho Nghi chăm siêng, cẩn thận, cần kíp việc công. nhắc lên làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên. Các hạt ấy nước lụt luôn mấy năm, tình hình quẫn bách. Bá Nghi xin cho chẩn cấp cứu tế, và đem số ruộng đất bị cát bồi, nước vỡ, cộng 1296 mẫu, cho xóa gạch miễn thuế, Vua đều cho cả.
Năm thứ 12, triệu về làm Thượng như Bộ Hộ, nhưng sung vào Cơ mật viện.
Năm thứ 13, vua cho tai dị thường phát ra, và đói khát luôn luôn; lại nhân Đà Trấn cùng Định Biên đang có việc, chuẩn cho viện thần đem đem ý kiến mưu lược liệt ra chương sớ tâu bày lên.
Bá Nghi tâu nói: Vua đã ra chính lệnh, thời bề tôi theo đó mà làm, nếu có chính thiên lệch hình oan uổng, cũng đủ trái với hòa khí đem lại tai dị.
https://thuviensach.vn
Nhưng chính hình muốn được quân bình, cũng rất là khó, tức ở trong thì bộ, các, viện, ở ngoài thời các trực, tỉnh, dẫu có điển hình đủ cả, đều giữ chức mà làm; nhưng nhân phẩm không giống nhau, tài năng kiến thức lại
khác nhau, đến việc thi hành đều theo ý kiến riêng, khó giữ được không có cái hiếm người này thì khoan, người kia thì mãnh, kẻ giáp khiếm khuyết sơ lược, kẻ ất hà khắc nhỏ nhặt. Các nha có quan hệ, nếu không giữ lẽ công bằng để so sánh từng việc cho minh bạch, mà làm lá phiếu phúc lại; quan có trách nhiệm được nói, lại phong tùy từng việc sửa chữa lại, chỉ thiên về yêu ghét riêng, thì chính thiên lệch hình oan uổng không thể tránh khỏi được. Khi xưa có người chịu oan phải bỏ ngục, đến nỗi 3 năm không mưa (11) và tháng 6 có sương bay xuống (12), đủ nghiệm là hình phạt mất công bằng, thời thiên tai hiện nay. Nay muốn tiêu tai biến đến được trì trị, chỉ mong các quan giữ chức đều theo lòng công bằng, không thiên về yêu ghét riêng. Thi hành chính lệnh, cốt phải quân bình. Một việc hình danh, trong ngục sâu có kẻ bị oan uổng lâu ngày. Dưới ngọn bút làm cho người sống hay chết, càng nên một lòng giữ công bằng, rõ ràng cẩn thận vào. Lại như điển lệ của quốc triều ta, về hai việc binh và tài, việc nào cũng chép rõ ràng, duy có mạnh hay yếu đủ hay thiếu thì thường tùy thời cổ nhân cũng theo đó là lý hội. Đại đế binh, tài đều ở dân mà ra, dân yên vui thời nước giàu binh mạnh, đó là phần gốc. Bớt sự khó nhọc để chăm giảng luyện, sẻn tiêu dùng để khỏi phí hao, đó là phương pháp. Vậy muốn dân yên vui thì người giữ việc chăn nuôi dân chớ ngại trong tâm phải khó nhọc; muốn cho bình tài đầy đủ thời người làm việc bắt lính thu thuế, trước hết không nên nhũng nhiễu. Nếu không xét đến gốc, tìm lấy phương pháp thì dẫu đốc trách chăm, kỳ hạn ngặt, chữa thấy đã là phải vậy. Hiện nay 6 tỉnh Nam Kỳ, ngoại quốc mưu muốn ở lâu giặc Man ẩn hiện quấy. nhiễu cõi ven. Thế của ta càng chia, tình họ chưa đẹp, muốn sớm xong việc, đã khó càng khó. Tổng thống là Nguyễn Tri Phương uy vọng đến một vốn lừng lẫy, người ngoài cũng vẫn biết tiếng. Nay đã chuyên làm thống soái, thời công quá tầm thường bất tất trách hỏi, mà chỉ trách xét các tướng có đúng hay không? Lại quân không có hình thế thường thường mãi, phần chiều nhân địch mà chế biến. Hơn nữa, đường xa đi lại phải đến hàng tuần, tháng mới
https://thuviensach.vn
tiếp tới. Nếu giấy tờ của bộ không thi hành, thì việc đã kém cho nên thường thấy không đều nhau. Về cơ nghi trong quân tựa hồ không phải ra hết thảy xuất ở nhà binh, mà chỉ trách lâm cơ ứng biến cho đúng thôi. Vả lại, việc binh đã lớn lại khó, không phải người nào cũng bàn được người nào cũng nói được, kiến thức nông nổi, lời bàn cóp nhặt, phần nhiều không có ích chỗ thực dụng, xin nên nhất khai bỏ đi, bất tất giao hỏi, đưa duyệt, để đỡ văn từ bề bộn ở quân thứ, cho được hết tài thi thố, thì thành công chắc có thể đạt được.
Năm thứ 14, quân Pháp đánh hãm đồn lớn ở Gia Định, Tri Phương đã trúng đạn bị thương, đặc cách chọn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần thống lĩnh cả biền binh mới phái đến, hội đồng với các thứ thần (các quan ở quân thứ) tính toán mà làm. Bá Nghi mang cờ tiết tới nơi quân thứ, cho việc đánh hay giữ đều không tiện cả, ủy người đến giảng hòa, làm kế hoãn binh. Lại đem sự trạng hiện làm, viết vào tập tâu lên. Được vua dụ bảo: hoặc có chủ ý gì cho được cứ thẳng tâu bày lên.
Nghi lại tâu nói: Sự thế ở Nam Kỳ chỉ duy có giảng hòa là hơn, không thế thì sẽ sinh trở ngại khác. Đại lược nói: Thần vẫn nghe nhà binh nói: tàu của Pháp chạy bằng hơi nước nhau như bay, súng của họ bắn vỡ thành đá được vài nhận (mỗi nhận 7,8 thước khi xưa) và bắn xa được vài mươi dặm, họ có những khí giới ấy, đánh hay giữ hai đằng đều khó cả. Lúc bấy giờ, trong tâm của thần chưa tin, đến năm Thiệu Trị thứ 7, mùa xuân tàu của Pháp tới Đà Nẵng không được vài khắc, đã bắn vỡ 5 chiếc thuyền đồng lớn của ta. Lần ấy thần ở Quảng Nam, được mục kích rõ ràng. Ba bốn năm nay, quân ta không phải không mạnh, súng của ta không phải không mãnh liệt, đồn bảo ta không phải không kiên cố, nhưng không thể đánh được họ là vì tàu súng của họ chiếm được sở trường, mà thuốc đạn bắn xa dữ dội, có thể vậy. Chỉ vì các quan ở quân thứ không so sánh họ với mình, vẫn gượng ép mà làm, nên lại có những trận thua ấy. Thần đến tỉnh Biên Hòa, xét thấy tình thế đều nguy bách, bất đắc dĩ phải tự tiện phái người đến tướng Pháp vặn hỏi, dẫu rằng tạm mượn kế để hoãn binh, thực ra ý kiến ngu thần thấy sự
https://thuviensach.vn
thể đánh hay giữ đều không thể làm được. Không hòa thì không định được thời cuộc, nên tập tâu trước, và lời tư trước của thần đều cho là trừ cái kế ấy ra, thần chỉ duy chịu tội thôi. Lại nói là hòa dẫu là thua kém, nhưng sự thế ở Nam Kỳ còn có thể làm được. Không thể thế thời thần không rõ đợi tội ở chỗ nào? Lại nói là tình thế như thế, dầu binh thuyền có nhiều cũng chưa chắc dùng được. Vì là người Pháp cho ta đãi họ lãnh đạm đã lâu, họ bị các lân bang khinh bỉ, nên lấy binh hiếp bách để mong phải hòa. Xem như những khi thường thường sai người đến giảng hòa trước, thì việc hòa có thể nghiệm được. Lại, bờ biển nước ta dài suốt, mà tự lúc dùng binh đến giờ binh thuyền của thủy sư, vẫn tránh nghề sở trường của họ, nhất phái để đó không dùng. Thế là binh lực của ta đã giảm bớt một nữa rồi, chỉ cậy kế súng lớn và lũy làm kế đánh giữ, mà việc đánh và giữ lại là khó nói. Nay nếu không hòa, họ không thôi, thì binh luôn luôn gây nhiều nỗi họa, ngu thần thực quá lo việc ấy, cho nên nói là trừ kế hòa ra, thần chỉ xin chịu tội, là thế. Lại kính xét khoảng năm Minh Mạng, Thiệu Trị, tiết thứ đẹp yên được giặc Khôi cùng 2 nước Xiêm, Man, là vì Nam kỳ đất nhiều sông ngòi, thủy binh cùng ứng tiếp với nhau. Về đường binh thì các hạng thuyền ô, thuyền lê nhanh nhẹn lại càng là thứ dùng, cốt yếu về súng to đạn nặng, thì dùng thuyền lớn do đường biển tải đến cùng cấp. Hết thảy các hạng tiền gạo, súng ống, khí giới, thuyền ghe thì có 6 tỉnh cung ứng được dư đủ. Nhưng đem toàn lực như thế mà dẹp một tên giặc Khôi cũng phải 3 năm mới xong việc, và dẹp 1 nước Cao Miên cũng phải 2 năm mới được giảng giải. Nay 6 tỉnh thì 2 tỉnh Gia Định và Định Tường trên từ Man ở núi, dưới tớửa biển, họ đã chiếm cứ cả; mà 2 tỉnh Vĩnh Long, Biên Hòa cách trở khó không. Vả lại tỉnh Biên Hòa giáp giới với họ, đằng sau lưng có rừng lớn, kế tiếp đất Man, là nơi rất xung yếu cách tuyệt. Về 4 tỉnh ấy dẫu đều có thuyền, nhưng khó đối địch với tàu của họ. Nên nói là dẫu binh thuyền có nhiều cũng chưa có thể dùng được, là thế. Hiện giờ người Pháp đã chiếm cứ Gia Định, hòa hay không hòa, chỉ như thế đã kém thua rồi. Ví bằng giảng hòa mà họ vẫn không giao trả, thì sự kém thua chỉ có thế, mà 3 tỉnh Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang còn về phần ta, đường trạm đường biển vẫn thông đồng, để đỡ nguy cấp trước mắt, mà đợi mưu toan sau này. Nếu
https://thuviensach.vn
cho là kém thua mà không hòa với họ, thì họ há chịu ngồi yên; chắc là 6 tỉnh Nam Kỳ sẽ từ đây mà bỏ mất, mà buôn bán vận chở đường sông biển, cũng sẽ từ đây mà cắt đứt. Việc đáng lo ở chỗ khó nói, thần không dám nói quá. Cho nên nói là hòa giải dẫu có kém thua, nhưng sự thế ở Nam Kỳ còn có thể làm được. Nếu không thì thần không biết đợi tội ở chỗ nào, là thế. Hiện nay, thế nước ngoài như thế kia, mà 6 tỉnh hiện tình như thế này, phàm việc công và giữ đều không thể thi hành được. Đã không có thực sự đánh hay giữ được, chỉ tỏ cho địch lấy cái hình thức, thời chỉ khiến họ chóng gây binh, và thêm tổn hại thôi. Nên thần từ trước đến nay, không đắp đồn lũy, giảm bớt sự đòi thêm binh lương là thế. Đó là chủ ý của thần như thế, cúi mong quyết đoán thi hành, để cứu cái khổ cho binh, dân từ Nam Ngãi trở vào Nam. Nếu không quyết đoán mà làm cả hai đằng, thì ở thần sửa thư từ qua lại hỏi han, mà ở quân thứ cùng các tỉnh thì không dám trái lời ở bộ, hoặc phái người lén tới chiêu dụ binh; hoặc sửa san đồn lũy, tỏ ra tình trạng công thủ, người ngoài họ nhòm biết ý ta không thực, lại cố ý hiếp chế, bấy giờ đánh không được giữ không được, hòa cũng không được, thần lo không biết xử trí ra sao. Tờ sớ dâng lên. Vua dụ rằng: Sự thế khó làm ta đã biết rõ rồi, khanh có lòng cáng đáng công việc, nên hết sức mà làm, để rõ ra gặp gió mạnh mới hay cỏ cứng là phải. Rồi Bá Nghi lại dâng sớ xin truy quan chức cho nguyên tỉnh thần ở Gia Định là Vũ Duy Ninh và Lê Từ, cùng gia tng cho tuất ấm. Vua xuống dụ quở mắng và phạt bổng 9 tháng. Rồi thì Bá Nghi cùng với tướng Pháp giảng thuyết, bí mật đem ý hắn cần giảng hòa tâu lên. Vua lại dụ rằng: Khanh từ khi sai đi đến giờ, chỉ thấy chủ ý nghị hòa. Khanh là người thông đạt mẫn cán, trẫm đã chọn ủy cho, sự mong mỏi không phải là ít nên hết lòng báo nước, để sớm dâng công thì được thưởng hậu. Bá Nghi lại xin chọn phái đại thần tới làm tổng thống. Vua sai hỏi là: Nếu khanh tự liệu có thể giảng giải được để làm trót việc đã muốn tính, cho cứ trình bày lên; nếu khanh tự liệu là hòa đã khó thành, mà đánh giữ cũng không làm được, cũng cho bày tỏ sự thực sẽ liệu cách xử trí. Bá Nghi cùng với tán tương là Trần Đình Túc dâng tập tâu về tình hình ở Biên Hòa yếu ớt, không thể đánh giữ được, mà hòa lại không thành, xin giảm bớt quân thứ, phái người cầu viện nước khác. Vua truyền dụ quở
https://thuviensach.vn
mắng, nhưng sai hội đồng bàn nghĩ có mưu kế gì có thể giữ vững được Biên Hòa, An Giang; lại mưu thu phục lại 2 tỉnh Gia Định, Định Tường, thì làm tập tâu lên.
Mùa đông năm ấy, Bá Nghi lại cho là lui binh ở phân tán, không thể giữ được. Xin nhận tội. Vua xuống chiếu cho đem quân về đóng ở Bình Thuận.
Năm thứ 1, tỉnh Biên Hòa không giữ được giáng làm Tham tri, nhưng vẫn phải cách chức lưu nhiệm, sung làm Phụ tá quân vụ, hiệp cùng với Tổng thống đại thần Nguyễn Tri Phương bàn làm công việc ở quân thứ Bình Thuận. Đến khi hòa cục đã định, đổi sung làm tham tán ở quân thứ ngoài Bắc; rồi Hộ lý tổng đốc Sơn Hưng Tuyên kiêm tiêu biện việc quân, miễn cho cách lưu.
Năm thứ 17, Man Mèo nổi lên quấy nhiễu tỉnh Tuyên Quang, các bộ biền đều bị thua, Bá Nghi đem binh và voi tới dẹp. Nghe có dân Man là Bàn Văn Nhị ra thú, nhưng con nó còn trốn, tỉnh thần đem giam lại. Bá Nghi tức thì cấp cho quần áo và tha về, lại nghiêm xích khóa phái viên của tỉnh đã quấy nhiễu nhà người Man ấy, rồi đem việc tâu lên. Vua cho việc làm phải lẽ, chuẩn cho tùy cơ mà làm cho thỏa đáng, để người Man cảm chiêu dụ những Man khác ra thú. Mùa hạ năm ấy, Bá Nghi ốm xin về hưu. Vua nói: Bá Nghi có trách nhiệm đánh dẹp, đã lâu nay không làm được một việc gì, lại báo ốm xin về hưu, rất quái lạ. Giáng 3 cấp, vẫn phải lưu lại đánh dẹp.
Năm thứ 18, tự cho mình cầm quân đã 3 năm, dẹp giặc không có công trạng gì xin chịu tội. Vua nói: đã tự biết lỗi tất có lòng hăng gắng để bù vào cái lỗi. Gia ơn chuẩn cho cách lưu, nhưng phải hô đốc làm việc, bắt phải trù tính đánh dẹp bọn giặc còn lại ở Tam Tuyên. Rồi thì Bá Nghi tâu bày công việc nên khu xử. Vua cho là công dẹp giặc của Bá Nghi phần nhiều đáng ghi chép, duy đám giặc nhỏ mọn ấy chưa trừ được là đáng tiếc thôi. Gia hạn cho 6 tháng phải mưu tính cốt được yên ổn, rồi cùng các đạo bàn công ban thưởng. Bá Nghi lại dâng sớ nói: Nghĩa trong kinh Xuân thu, trách về chủ suý là nặng hơn, trước đây đồn lớn ở Gia Định không giữ được, thần
https://thuviensach.vn
xin chịu tội; còn các viên biền xin đều miễn cho họ. Vua nói: Mưu tính thì trách nhiệm ở thống suý, mà đánh hay giữ cũng do các tướng nhỏ; thưởng tới, phạt lại không tới, thì có quân binh không? Rồi sau vì thu phục được thành Tuyên, vỗ yên hạt Sơn Tây, miễn cho cách lưu, thăng bổ làm Thống đốc.
Bấy giờ, các tỉnh ở Bắc Kỳ xin đặt thành trì cho các phủ huyện, chuẩn giao cho Bá Nghi và Kinh lược Vũ Trọng Bình thương lượng bàn định, đều nói là lao phí (lời nói ấy chép ở truyện Trọng Bình). Vua nghe lời bàn.
Năm thứ 19, động Suối Bốc ở Tuyên Quang giặc Mèo cậy hiểm, nên lâu chưa chịu hàng. Bá Nghi cho là phí tổn rộng khó nhọc nhiều, đánh dẹp không bằng vỗ yên, xin nghiêm hịch, phái người đến chiêu dụ. Vua cho là phải.
Năm thứ 21, gặp tiết tứ tuần đại khánh, được thăng thự Hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Tổng đốc như cũ. Bá Nghi ở tỉnh Sơn lâu ngày, nhân thế có tậu ruộng nhà, tự cho là mình can vào pháp luật, xin chịu tội. Vua cho là đã biết tự trình bày ra, miễn cho. Nhân dụ rằng: Khép tội nhẹ, là lòng nhân từ của vua thể tất cho thần công, mà giữ pháp là chính đạo của người làm tôi giữ trọn phận thần tự. Ngươi nay đã lão thành, có lỗi tất phải đổi, hết lòng làm việc cộng cho sớm yên việc ngoài biên, về chầu sẽ có ngày; lại thêm tiếng chính trị lương thiện, mến tiếc còn mãi, thời dân Đồng Hương thờ phụng (13) còn hơn gấp vạn ruộng nhà, chớ lại làm sự lỗi.
Năm thứ 23, chủ suý nước Thanh là Phùng Tử Tài khẩn tư cho thành Tuyên giúp việc dẹp giặc. Bá Nghi cùng với Đào Trí, hiệp trù việc lương thực không được kế tiếp, Phùng súy có phàn nàn, Trọng Bình đem việc tâu lên. Vua bèn lấy lại chức tước, gắng sức báo hiệu chuộc tội. Trọng Bình lại tâu nói: Bá Nghi đã bị cách sai bảo không tiếng, khó mà dồn được lỗi; và tự đó tới nay, giải biện lương và thuốc đều đã khá đủ, cũng là có tâm cố gắng; Vua chuẩn cho khai phục Bố chính ở Sơn Tây, Bá Nghi cho việc khai phục là do lời xin của Trọng Bình, tự bày tỏ chưa có thực trạng, xin từ. Vua nói:
https://thuviensach.vn
Thưởng phạt ở tự triều đình, há có phải người xin được ư? Không cho. Tháng 4 năm ấy, chết ở chỗ làm quan, vua rất thương, cho khai phục lại hàm Tổng đốc, cấp tiền tuất, cho quan địa phương bắt dân hộ tống quan tài về quê.
Bá Nghi trải làm quan khắp trong ngoài, hầu 40 năm, ở triều giữ việc cáo sắc nhà vua, ra ngoài coi một phương diện. văn học đủ dùng, chính thuật khả quan, hai lần Tổng đốc hạt Sơn Tây, công lao tỏ rõ, tới nay người dân địa phương ấy vẫn còn truyền tụng.
>
Nguyễn Trọng Thao
Người trấn Thanh Hóa, tổ là Đống làm Tả đô đốc Dĩnh quận công đời Lê, cùng với Thống đốc Đình Phổ là anh em con chú con bác họ. Trọng Thao năm Gia Long thứ 14, ra đầu quân.
Minh Mạng năm thứ 5, làm suất mộ, bổ làm suất đội 5, cơ Hiệu thuận nhất. Nhiều lần có công từng thăng Phó quản cơ lại Phó vệ úy ở Tả vệ Nam Định, rồi bổ Quản cơ Tả cơ, phái theo việc quân ở Sơn m thuộc Ninh Bình.
Năm thứ 20, thiên Phó vệ úy vệ Diệu vũ thuộc doanh Long vũ .
Đầu năm Thiệu Trị, trải làm Phó Lãnh binh ở 2 tỉnh Hà Tĩnh, Ninh Bình; lại bổ Phó Lãnh binh Sơn Tây, tiến dẹp đám thổ phỉ là Nhàn Thạch có công.
Năm đầu Tự Đức, cho triệu về bổ làm Chỉ huy sứ ở ty Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y, rồi thăng làm Chưởng vệ, Quyền chưởng Kinh thành đề đốc, kiêm lý công việc ở phủ Thừa Thiên.
Năm thứ 7, ra lĩnh Đề đốc Hà Nội, chuyển lĩnh Trấn phủ Hưng Yên.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 12, vào Kinh bổ làm Thống chế doanh Hùng nhuệ.
Gặp lúc ở Trà Úc có biến động, đem quân đến phòng giữ cửa ải Hải Vân; rồi sau đổi đi quân thứ Gia Định, sung làm Đề đốc quân vụ, chết ở nơi quân thứ, thọ 59 tuổi, sau liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
Hồ Viêm
Người huyện Phong Phú, tỉnh Quảng Bình. Viêm sức khỏe hơn người, mỗi bữa ăn bằng bảy tám người ăn, thuở nhỏ tập võ nghệ.
Minh Mạng năm thứ 4, ra đầu quân làm binh tỉnh ấy, rồi đổi dồn vào đội 5 ở Vệ thủy sư Kinh kỳ, trải làm đội trưởng, suất đội thăng mãi đến Phó Vệ úy.
Khoảng năm Tự Đức, thăng Vệ úy vệ Long thuyền.
Năm thứ 11, cất bổ Chưởng vệ, quyền Chưởng ấn triện ở doanh Hổ uy.
Năm thứ 14, phái đi khám xét các nơi phòng thủ ở ngoài biển, từ Quảng Bình trở ra, gặp có bọn quân giặc ở mặt nước thuộc Quảng Yên tụ họp cướp bóc các phần ngoài khơi. Vua cho Viêm là người mạnh giỏi tường am luyện đường thủy, sai kíp tới quản lĩnh binh thuyền của Nghệ An, Thanh Hóa, chở tới Quảng Yên trù liệu cơ mưu đánh dẹp. Đến khi giặc mặt nước tạm yên, cho rút về được thăng Thủy sư đề đốc.
Năm thứ 18, sung làm Bắc tào chuyển vận sứ.
Năm thứ 21, cất làm Thống chế doanh Hổ uy quyền Chưởng tả quân, kiêm quản Hậu quân. Chưa bao lâu, vì ốm xin nghỉ việc rồi chết, thọ 71 tuổi. Con là Huân nay làm suất đội ở kinh binh; cháu là Toại đỗ tú tài.
Nguyễn Thế Trị
https://thuviensach.vn
Người huyện Thuận Xương, tỉnh Quảng Trị, là con Thế Chân làm Đề lĩnh Quảng Trị.
Minh Mạng năm thứ 16, đỗ đồng tiến sĩ thụ hàm Hàn lâm viện biên tu. Năm thứ 17, phái đi hậu bổ ở Bình Định.
Năm thứ 18, quyền nhiếp việc phủ An Nhân, rồi lĩnh Tri phủ, khi đủ hạn, thăng làm Chủ sự, đổi về làm Ngự sử ở đạo Nam Nghĩa.
Năm thứ 21, thăng thự Lễ
khoa chưởng ấn.
Thiệu Trị năm thứ nhất, lĩnh án sát sứ ở An Giang, đổi sang Vĩnh Long. Năm thứ 3, có đại tang về quê rồi chết ở nhà.
Con là Thế Trạch ấm sinh tú tài, làm Tri huyện ở Hương Sơn. >
Nguyễn Đức Hoan
Người ở An Thư, phủ Hải Lăng đỗ cử nhân khoa Mậu Tý. Năm Minh Mạng thứ 16, khoa Ất mùi đỗ đồng tiến sĩ, tự lúc bắt đấu thụ hàm Biên tu, trải làm quan đến Tuần phủ tỉnh Khánh Hòa, bị việc phải miễn quan. Con là Di đỗ cử nhân. Trước đây chưa có ai đỗ tiến sĩ, khoa ấy Đức Hoan cùng Thế Trị cùng đỗ một bảng, thực là khởi đầu khoa tiến sĩ ở tỉnh ấy.
QUYỂN 28
TRUYỆN CÁC QUAN - MỤC XVIII.
https://thuviensach.vn
Thân Văn Quyền
Tên tự là Dụng Trung, người ở huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên. Tiên tổ trước làm nhà ở xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy. Quyền lúc nhỏ thông minh ba đời có tiếng là văn hay. Gặp loạn Tây Sơn, không chịu ra làm quan, ẩn cư dạy học, chuyên tâm về lý học, học trò nhiều người theo học. Đầu năm Minh Mạng, Đại học sĩ là Trịnh Hoài Đức cho đem tên Quyền tâu lên, đ
ược bổ thụ làm Giáo thụ phủ Thăng Hoa, là đặc cách chọn bổ vậy. Văn Quyền làm Giáo thụ, chuộng chính học tập tục của kẻ phu cả biến đổi, nên trong bài khải mừng, có câu rằng: "Nguyệt Biều nhất đái thủy, bắc lai chi cuồng lãng nan dao; hoa ốc kỷ gian sương, tây hạ chi mê trần bất nhiễm", nghĩa là: một dải nước Ng uyệt Biều, sóng dữ từ Bắc lại khó mà lay chuyển, mây làm nhà che sương, bụi mê ở Tây xuống không nhuốm bẩn, cứ như câu ấy đủ biết được đại khái. Bấy giờ Quốc tử giám Tư nghiệp là Nguyễn Đồng Sở vì khóa mùa xuân cân nhắc mất công bằng phải biếm chức, Tham tri bộ Lễ là Hoàng Kim Hoán đến Quyền sung cử đổi thự Tư nghiệp, tới kỳ khảo hạch, không có ai được hạng ưu. Vua cho Văn Quyền rèn luyện không đôn đốc, giáng làm Lại bộ chủ sự; rồi thăng làm Thừa chỉ sung chức Giảng tập ở Dưỡng chính đường. Chưa được qua một năm, cất làm Thị độc quản lý phòng văn thư.
Một hôm vua cùng các quan bàn luận nghĩa lý trong kinh, có bảo Văn Quyền rằng: "Sách Luận ngữ có câu nói: "Ta không thể đi bộ để lấy xe của ta mà làm cái quách", thế thời nhà đức Khổng tử không có vật gì khác nữa ư? Cứ phải xin cái xe ấy làm được ư". Quyền thưa: Phần chú thích cho là mua cái xe ấy. Vua nói: Về chú thích ngày xưa đã đành là thế, nhưng trẫm tưởng là xin cái xe là xin gỗ ở cái xe ấy làm cái quách, chú thích đời cổ không có ý ấy, nên mới nghi đó thôi!
Năm thứ 8, cất làm Thượng bảo khanh, vẫn coi Văn Thư phòng như cũ.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 9, đổi bổ Thị lang Bộ Hộ, thăng thự Hữu tham tri, gặp có tên buôn xảo quyệt là Liệu Ninh Thái (tên người khách buôn nước Thanh) lập mưu muốn lĩnh trưng quan thuế ở Bắc Kỳ, tả Tham tri là Lý Văn Phức hối lộ 100 lạng bạc, vì họ đề đạt thay hộ. Việc vỡ ra Phức bị tước chức, mà Quyền thì sau khi việc xong mới nhận tiền, phải giáng làm Hàn Lâm thị độc.
Năm thứ 11, ra làm Tham hiệp ở Quảng Bình, rồi Thự hiệp trấn, sung Phó chủ khảo trường Gia Định, lại đổi sang Thị lang
Trước đây, cục Bảo tuyên ở Bắc thành đúc tiền phần nhiều thiếu hụt, Bộ Hộ đều ghép vào tội. Quyền cho Viên ngoại là Lưu Công Nghị và Tư vụ là Nguyễn Doãn Thông mới tiếp làm việc đúc tiền. Chưa được bao lâu, tâu xin liệu giảm cho Vua bảo Quyền là lập bè lũ để mua chuộc tiếng thơm, phải cách chức để gắng sức chuộc tội. Rồi lại khai thụ hàm biên tu, sung chức giáo tập ở nhà Quảng phúc, 2 vị vương là Thương Sơn, Vỹ Dã lúc nhỏ cũng đều tới học. Trải thăng Thị độc học sĩ, ra làm Án sát sứ ở Tuyên Quang; được hơn một tháng cất lên bổ Thị lang Bộ Hộ, sung biện việc Nội các.
Năm thứ 15, Án sát sứ ở Hưng Yên là Nguyễn Trữ, nhẹ dạ nghe lại dịch rút bớt khẩu cung của kẻ phạm. Tuần phủ là Phan Bá Đạt chỉ tên tham hặc, án nghị phải tội đồ. Vua cho không có tang chứng hối lộ, đặc cách cho đổi hàm, cách chức bắt phải gắng sức báo hiệu chuộc tội. Văn Quyền cho Trữ là Tiến sĩ xuất thân, tâu xin giảm cho nhẹ hơn. Vua lại ghét là che chở, sai vệ sĩ lôi ra sắp chém bỗng sai đem giam khóa, chờ đến mùa thu xét xử, rồi được tha ra, đi theo tàu thủy sang Lã Tống ra sức chuộc tội.
Năm thứ 17, lại khởi phục hàm Tư vụ. Năm thứ 18, cất làm Án sát sứ ở Gia Định, đổi thự Bố chính sứ ở Định Tường, rồi chết. Thọ 67 tuổi, được truy thụ làm Bố chính.
Về văn học Văn Quyền chủ trương nghĩa lý, thơ văn không làm nhiều, nhưng cũng có câu hay, như bài "Ký sự khi đi sang đông" có câu rằng:
https://thuviensach.vn
Phiên âm:
“Hồi đầu Lã Tống sầu biên nguyệt.
Tiền lộ Trà Sơn mộng lý xuân"
Dịch nghĩa:
Ngoảnh lại Lã Tống thấy trăng ngoài biên mà sầu,
Trà Sơn trước mặt vẫn mộng tưởng luôn.
Lại có câu rằng:
Phiên âm:
"San lĩnh lương phiêu thôi viễn lãm,
Hà ky tàn nguyệt chiếu lai chư”,
Dịch nghĩa:
Gió mát ở núi San hổ thổi lại như giục thuyền xa dắt dây về, Trăng tàn ở bến đã soi vào chiếc thuyền ở xa đến.
Dẫu không do chân khoa cử mà văn thân quyền quý đều biết tiếng cả. Sau khi chết, Thương Sơn vương có lời viếng rằng: "Đạo vị tiên sinh thủ, danh tòng hậu bối khoa" dịch nghĩa: Đạo đức thì tiên sinh giữ, danh tiếng thì bọn hậu bối suy tôn lên. Vĩ Dã vương cũng khen là hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc của các kinh, ấy được người ta tôn mến là thế. Con là Văn Duy, Văn Nhiếp đều có truyện riêng. Tới nay con cháu vẫn kế tiếp đỗ đạt làm quan là một họ có danh tiếng ở Xuân Kinh.
Văn
https://thuviensach.vn
Văn Duy lúc nhỏ thông minh khác thường, năm 12 tuổi, thường làm bài thơ "Tảo mai" (mai nở sớm) có câu rằng:
Phiên âm: "Song điệp vị tri hương lĩnh tín, bách hoa phương hận chiếm xuân trì". Dịch nghĩa: Đôi bướm chửa hay tin hoa đỉnh núi hương đã ngát. Trăm hoa đương giận là chiếm xuân chậm hơn. Người ta đều chắc là ít có.
Gia Long năm thứ 18, đỗ hương tiến (cử nhân) mới 24 tuổi do Hành tẩu Bộ Hộ, trải thăng đến Thiêm sự.
Minh Mạng năm thứ 7,
sung làm Đổng lý thanh tra ở sở Nội tạo.
Bấy giờ ở Bộ Hình phần nhiều hình phạt không đúng mắc tội cả. Vua cho Văn Duy đổi bổ sang Thiêm sự bộ Hình, nhân bảo Duy rằng: “Người ta nói: "kẻ sĩ thi không may phải làm hình quan" nếu đúng như lời nói ấy, thì Bộ Hình chả nên đặt nữa, mà người làm tôi có chọn việc để làm trung ư. Đó là lời nói không có bằng cứ đấy thôi. Tự trẫm xem ra, nơi lao tù là nhà phúc đường, người làm hình quan biết giữ lòng công bằng khoan thứ, có người nào oan uổng phải xét cho rõ lý, thời các phúc cứu sống người còn hơn dựng ngôi tháp 7 từng nhiều lắm. Người ở Bộ Hộ, có tiếng là mẫn cán, trẫm biết đã lâu. Nay ở pháp tư nên vì trẫm chia lo, chớ thấy người trước bị tội mà sờn lòng”. Chưa bao lâu, thăng thự Thị lang.
Năm thứ 8, thổ phỉ ở Nam Định là Phan Bá Vành ngông cuồng khởi loạn, quan quân đánh dẹp lâu chưa yên được. Văn Duy mạnh bạo dâng sớ xin đại lược rằng: "Nay thổ phỉ ở Bắc thành tụ họp quấy nhiễu cướp bóc, xếp đặt công việc, lại phiền nhà vua lo nghĩ; sở dĩ sai tướng đem quân thực muốn dẹp giặc yên dân, thế mà bọn giặc vừa tan lại tụ ngay, thần chưa thể hiểu được c đó. Vả lại, 2 hạt Đông Nam, đói thời vừa bán thóc ra, vừa cho vay, kém thời thuế khóa tha giảm. Là người vốn có lương tâm trời phú cho, há lại không có bụng tôn thân ư? Huống hồ bọn giặc như giống quạ, giống
https://thuviensach.vn
hươu chóng hợp, chóng tan, không so sánh như địch quốc được. Mà tướng lão luyện, quân tinh nhuệ của triều đình, không phải là không có khí khái kình địch với giặc, thế mà việc thành công còn chậm đến hàng năm hàng tháng. Đó lại là chỗ thần chưa hiểu ra sao? Thần dẫu việc quân lữ chưa học, nhưng tình trạng của hạ dân hoặc có thể hỏi han được, oai đức của triều đình hoặc có thể tuyên dương được, xin được theo đi làm việc ở nơi hàng trận, để mong báo hiệu chút đỉnh một phần trong muôn phần chăng?”.
Vua khen là giỏi và cho đi đổi sang thự Bộ Binh quyền biện binh tào ở Bắc thành kiêm tham biện việc trận mạc. Đến khi bình hết giặc, triều đình nghĩ đến việc làm cho sau này được tốt, cho Thống chế lĩnh trấn thủ Nghệ An là
Nguyễn Văn Hiếu và Hình Bộ Thượng thư là Hoàng Kim Sán sung làm Kinh lược chánh phó sứ, cho Duy làm Tham biện để vỗ yên những nơi điêu tàn, sửa sang lại quan lại, việc điều đâu ra đó (đã chép ở truyện Kim Sán). Khi xong việc triệu về úy lạo và thưởng thêm 1 cấp đổi làm Thị lang ở 2 bộ Hình và Lại.
Năm thứ 9, ra làm Bộ Tào ở Bắc Thành, rồi đổi làm Hiệp trấn ở Thanh Hóa. Chưa bao lâu, bị ốm chết, thọ 33 tuổi. Vua rất tiếc, cho 50 lạng bạc, 100 quan tiền và 30 tấm vải lụa, sai trấn thần cho quân đi đường bộ đưa quan cữu về chôn cất.
Văn Duy lấy tài học, được vua biết đến, cất nhắc không theo thứ tự, cùng ngang tiếng với Hà Tôn Quyền, Lý Văn Phức ở Bắc thành. Người bấy giờ có câu ca rằng: "Họ Thân, họ Lý, họ Hà trong nước không có nhiều, họ Thân, họ Hà, họ Lý trong nước không có mấy, họ Hà, họ Lý, họ Thân trong nước không ai bằng", được mọi người bàn khen như thế, nếu trời để cho sống thêm ít năm nữa thì tác dụng há có thể lường được ư? C là Trọng Tiết, năm Tự Đức thứ 4, đỗ tam giáp Tiến sĩ, làm quan đến Tập hiền thị giảng; con Trọng Tiết là Trọng Điềm, Trọng Khoái, Trọng Lẫm đều đỗ Hương tiến; Điềm làm đến Quang lộc tự thiếu khanh, Hộ lý phủ Nội vụ, Khoái làm
https://thuviensach.vn
Giám sát ngự sử đạo Hữu trực (đã chua ở trên) và Lẫm làm Tri phủ phủ Tuy Hòa.
Văn Nhiếp
Tên tự là Ngưng Chi, hiệu là Lỗ Đình. Lúc nhỏ chăm học, phóng khoáng, có chí lớn. Thiệu Trị năm thứ nhất, đỗ hương tiến, do hậu bố tỉnh Khánh Hòa, rồi lĩnh Tri huyện huyện Tân Định, ở tỉnh cho là người thanh liêm tài giỏi, đề cử lên, bổ Hàn lâm viện trước tác, sung Nội các hành tẩu. Hôm vào Các, vua ra ngự ở Đông Các cho tuyên triệu vào dụ rằng: Ngươi là con thứ mấy của Thân Văn Quyền? Tuổi bao nhiêu? Có biết làm thơ không? Lại ngoảnh lại bảo viên các trưởng là Nguyễn Cửu Trường rằng: Nhiếp làm con nhà thế gia có học, mới vào các hoặc có sự tới lui chưa quen, nên bảo cho biết. Năm Tự Đức thứ nhất, thăng Thừa chỉ.
Năm thứ 2, mớ
i đặt Tam kinh duyên, đổi làm Thị giảng ở viện Tập hiền sung chức Khởi cư trú. Vua thường đi du hạnh quan ở kinh duyên, dâng sớ can có câu rằng: Thôi diệt vị ly ư Dục thất, du quan dĩ khởi ư hậu hồ, nghĩa là sô gai chửa rời nơi Dục thất, chơi xem đã chớm ở nơi hậu hồ. Vua sắc bảo: Lại là thủ bút (tay viết) của Văn Nhiếp. Rồi thăng Thị độc đổi làm Đốc học Gia
Năm thứ 5, thự Án sát sứ ở Bình Thuận, lại đổi đi Bình Định. Có dâng sớ trình bày về chính trị khiếm khuyết đại lược rằng: nhà thủy tạ hứng mát, dẫu rằng tạm thời tiêu khiển, mà kéo dài đến hàng tuần. Vườn sau đua ngựa, dẫu rằng tập khó nhọc, học nghề võ, mà thực thì rong ruổi làm vui. Đến như việc công tác, nói là đình hoãn rồi có lúc lại thấy làm. Gỗ cây hết, không được đặt giá mua của dân, đặt giá mua thì hạ dân càng tỏ ra quẫn bách; sức binh mỏi, không được không trốn tránh, trốn tránh thì số binh càng thấy không hư. Lại gần đây, mua hàng hóa của nước Thanh, hàng năm kể có bạc vạn; hỏi han đồ châu báu, khắp cả các tỉnh. Khoa đạo tâu nói thì thường sức hỏi bắt tâu trả lời. Kể ra, có người can ngăn chứng thẳng, càng
https://thuviensach.vn
thấy thánh nhân biết khoan dung; có người can ngăn u tối, càng thấy thánh nhân hay hỏi, dẫu ý kiến của kẻ thấp hèn, đâu dám đọ với bậc cao minh, mà lời nói trái ngược cũng có bổ ích được tý chút. Nếu mỗi khi vặn hỏi, phải tới cùng lời, sau muốn dâng nói, lại sợ phải tội, không phải là để thông đạo trị mà suốt hết tình dưới vậy. Nay xin triệt nhà thủy tạ, bãi hết công dịch, hủy vườn hậu phố mà chẳng cần ngựa hay, bỏ việc đặt giá mua để thư sự đau khổ cho dân, xa con hát, để sự tăng nghe được đoan chính. Các thần công tâu can điều gì nên dùng thì tiếp nhận, điều gì không dùng được thì bỏ đó. Người ta bảo rằng "cầu trời ở trời, chi bằng cầu trời ở tâm". Tờ sớ dâng vào, vua quở và bảo là trình bày những việc cũ, những câu sáo hủ, nhưng không bắt tội. Văn Nhiếp lại trình bày xin tự nay hễ xét án đinh lậu thì trong khi lấy khẩu cung bất kể có gia sản hay không, cam kết cho rõ, nếu có gia sản thì chiếu lệ cho đăng vào sổ không có gia sản thì chiếu án phát lạc, giao về nơi nguyên ngụ bắt phải quản nhận. Vua cho lời xin có thể dùng được. Giao Bộ Hình phúc bàn lại cho thi hành.
Năm thứ 6, đổi thự Hồng lô tự khanh, tham biện việc Các. Chưa bao lâu, đình thần đề cử làm Quốc tử tế tửu. Vua bảo: Nhiếp mới vào Các, làm việc cũng chăm khá, không nên vộ chức khác. Chưa được đầy năm, đổi làm Biện lý Bộ Lễ, đứng đốc xây dựng bảo thành ở Hiếu Lăng; lại kiêm giữ ấn triện tự Đại lý. Bấy giờ Tham tri Bộ Lại là Hoàng Thu có đại tang, chuẩn cho nghỉ 4 tháng. Nhiếp cho trái lệ, có hại đến lễ giáo, xin cho theo lệ (12 tháng) để tang, khiến cho kẻ dưới nghe thấy đều rõ chí ý về giáo điều tác trung của triều đình. Vua cho là phải. Vừa gặp có cái án dân ở hai tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình tranh nhau trưng ruộng đất. Hai tỉnh ấy khám xét phân xử hơn 10 năm chưa xong. Vua sai Nhiếp tới tra xét chỉ hơn 20 hôm là xong. Khi về bổ làm Hồng lô tự khanh, lĩnh Bố chính sứ ở Vĩnh Long. Chưa bao lâu, thăng Thái bộc tự khanh, rồi đổi về biện lý Bộ Binh, đổi đi thự Bố chính Quảng Nam.
Năm thứ 11, mùa thu, tàu Pháp chở tới cửa biển Đà Nẵng, quan quân đại đội ngăn dẹp đang lúc khẩn cấp, Nhiếp ngày đêm mưu tính ổn thỏa. Nhiếp
https://thuviensach.vn
ở Quảng Nam ba năm có những bài sớ như tâu xin đem tiền thóc dân đã vay ấy, cấp cho dân làm vốn để làm kho của xã, và phát chẩn cứu tế cho dân đói, lại cố chấp lời tâu trước về việc phái nhân viên kiểm tra các thuyền ở sông và xin đình phái viên đi mua các vật hạng, cho buôn bán có nơi. Vua phần nhiều tiếp nhận cho thi hành.
Năm thứ 14, Nam Kỳ có biến động, viên Phủ thừa phủ Thừa Thiên là Nguyễn Túc Trưng trình bày xin cho mộ lính nghĩa dũng tòng quân, lại cho Nhiếp là người tài năng, sức khỏe, trí thức đủ cả, trước đây ở Định Long sĩ phu vẫn tín phục, xin cho cùng đi. Vua bèn đổi bổ Nhiếp làm Binh bộ Thị lang sung làm Hiệp tán ở quân thứ Biên Hòa. Nhiếp tới quân thứ, đem tình hình và sự thể chống giữ tâu lên. Vua cho là lời tâu bày có kiến thức thao lược, lại hay cảm kích hăng hái. nên cho được hết lòng mà làm cho ổn thỏa. Rồi sau tỉnh Biên Hòa không giữ được phải cách lưu. Kịp lúc hòa nghị đã thành, đổi làm bố chính sứ ở Bình Định. Nhiếp về tới Bình Thuận, bị bệnh xin về quê.
Năm thứ 16, Vua cho Nhiếp là người cứng ngạnh có học thức, đổi làm Thị lang Bộ Lại, tham biện công việc ở viện Cơ mật.
Năm thứ 17, cùng với Biện lý bộ Binh là Nguyễn Văn Tường đi khắp 9 châu trong hạt Quảng Trị đò xét dân tình địa thế. Khi xong việc trở về, thự Tham tri Bộ Binh, Hộ lý tổng đốc Bình Phú. Bấy giờ dân ở Quảng Ngãi, Bình Định bị đói phải lưu tán kiếm ăn, lại nhân mưa lụt phần nhiều mắc bệnh. Nhiếp thông sức cho sở tại đưa đặt người ốm về nghỉ ở quán chợ, chi tiền công mua thuốc để chữa và nấu cơm cháo nuôi nấng; rồi đem tình hình tâu lên.
Năm thứ 18, đình thần bàn bỏ cấm thuốc phiện mà đánh thuế nặng. Nhiếp ba, bốn lần trình bày cho là không nên. Nhưng các tờ sớ ấy bỏ đó, không thi hành. Nhiếp lại dâng sớ nói về công việc sửa sang đồn bảo ở Thị Nại, hiện đã khám xét trù tính rồi, đến như việc thuê thuốc phiện không nên nghe theo thỉnh cầu chút nào, để người lĩnh trưng trả lại không thu nộp nữa.
https://thuviensach.vn
Đó là nhân giữ chức để cho thuế khóa của nhà nước thiếu hụt và vì tình hình ốm đau xin cáo. Tờ sớ dâng lên, Vua phê bảo: Tỉnh Bình Định là một địa phương lớn ở Tả Kỳ (14) ngươi là dòng dõi thế thần, cũng có thể làm nổi công việc trên thời trẫm chuyên ủy thác cho, dưới thời thuộc đều tín trọng, cốt nên hết sức mưu để báo đáp, mới phải. Thế mà sau khi ngươi từ trong Nam trở về, thường cáo ốm tránh việc, tựa hồ có ý bất mãn, sao lại trái ngược mà lại kiêu ngạo trách móc. Cứ một việc ấy, đã không phải nghĩa của người làm tôi, lại không phải là người có đạo học. Hơn nữa, lời lẽ trong tờ sớ phần nhiều lúc câu kín hở, như việc sửa sang phòng bị ở cửa biển, là chức phận nên làm; không cho người khách người nước Thanh tự tiện tới nhà, dân thu thuế thuốc phiện cũng là phải. Nhưng cái ý chia bai xương dượng ngầm, chỉ thấy là người hẹp hòi bạc bẽo, trẫm rất không bằng lòng. Bậc tiên nho thường nói: Dẫu có đức nghiệp công lao như Chu Công, cũng chẳng qua phận sự là người làm tôi. Lại như Hàn Kỳ đời Tống, từng cố sức can ngăn về việc làm phá không hợp, có câu nói rằng: "Kỳ là cựu thần vì nghĩa không thể im lặng được". Tới khi không thấy nghe thì lập tức hiếu dụ thuộc viên tuân hành. Lại nói: "Kỳ là một chức Quận thú, dám đâu không theo lệnh," sao mà thuần thế. So với Chu Công cố nhiên không thể bì tỵ, nhưng người ví với Hàn Công thì như thế nào? Đã nhiều lần phê bảo, há không biết ư? Sao chỉ biết trách người, mà không biết tự xét mình. Nên nghĩ lại cho kỹ. Nếu ốm không thể làm việc được, cho tạm nghỉ tĩnh dưỡng, công việc tạm giao cho bố, án hội làm. Khi ngươi khỏi ốm lại cung chức như cũ, quyết không nên lấy việc tư làm trở ngại việc công, bàn xằng can tội.
Năm thứ 19, thăng bổ Tuần phủ, nhưng vẫn hộ đốc. Tới khi nghe trong Kinh có biến loạn về tên Trưng, tên Trực, dâng sớ trình bày về kế tự cường tự trị, đại lược rằng: Thần nghe những việc ngang ngược, là giúp cho người quân tử được tiến đức. Nhà nước ta tám chín năm nay gặp biến cố luôn, ở trong nước thì thủy hạn tật dịch, dân trông nhìn vào đâu mà sống được, ở ngoài thì Nam, Bắc xâm lấn tơi bời, bồi tiền cắt đất. Đây chính là lúc kẻ thần tử phải hiến thân hết sức, mà là ngày nhà vua nên nằm gai nếm mật
https://thuviensach.vn
vậy. Thế mà gặp việc lại cho là ngẫu nhiên, chưa thấy thực sự tu tỉnh bổ cứu. Mà pháp lệnh thay đổi, chỉ suy bì về lợi, không lo tính xa. Gần đây, ngay ở Kinh sư phát ra những nghịch án không phải là việc nhỏ. Kể ra, biến cố sinh ra không cứ việc gì mà khởi ra, không cứ một việc gì mà thôi đi được. Chỉ có việc nào cũng kính cẩn, lúc nào cũng kính cẩn. Kinh Thư có câu nói: Oan tự sinh ra há ở nơi sáng tỏ, nên sự không thấy phải tính đến. Nay đã sáng tỏ rồi há chẳng gấp mưu toan ư? Chỉ cốt ở trong tâm thôi. Mà chính sự của ta hay hay dở, nước láng giềng chửa từng chẳng rình chỗ hở của ta, để xen vào cái lo của ta, rất đáng sợ. Cúi mong nhà vua dốc ý cố gắng để tâm lo nghĩ ở nơi cung khuyết 9 lần tôn nghiêm, thì nghĩ đến xứ Nam kỳ cửa nhà bị thiêu hủy, ngắm nghía lầu gác ở lăng tẩm rực rỡ thì nên nghĩ đến mồ mả của dân Nam kỳ bị phá hủy; ăn đồ ngọc thực của Thượng phương dâng tiến, thì nghĩ đế thổ sản ở Nam kỳ có còn gì không? Vỗ về dân đâu há ở nơi kỳ phụ, thì nghĩ đến dân ở Nam Kỳ có ai chẩn tuất không? Nghĩ đi rồi lại nghĩ lại, tự nhiên có thể cảm động được lòng thánh thượng, hăng hái lo xa, phàm việc gì không cần cấp, chính sách không tiện lợi, cho đến việc dùng người nuôi quân, bỏ xa xỉ, chuộng kiệm ước lần lượt thay dây đổi vết bánh, để được hay cả. Nhưng trước hết phải bãi việc đi Đông đi Tây, triệu các nhân viên đi mua những phẩm vật trở về, tàu máy rút về cửa biển Thuận An để phòng bị tuần tiễu. Những lính sai đi làm việc, khoan cho sức làm, chớ đốc trách quá, cốt mong thực bụng thi hành. Tiếng tăm đồn đến đâu đều thỏa thuận lòng người. Lòng người đã cảm theo, thì lòng trời cũng thuận giúp, mà gốc nước được vững bền yên ổn mãi vô cùng. Xưa có câu nói rằng: Nhiều nạn mới dựng được nước, lo nghĩ nhiều mới sinh ra thánh đức, là thế đó. Nếu coi là tầm thường, thì cái lo sau này sợ chưa thôi đâu. Thần tuổi già lại ốm, há dám nghĩ đến việc rút lui, vì tấm lòng khuyển mã không thể thôi được. Cúi mong rủ lòng soi xét, nếu có được câu gì thì xin kíp cho thi hành. Nếu cho là cuồng rỡ nói càn, thì cách chức, làm tôi cũng không dám trách.
Vua phê bảo: Nói đơn giản mà thiết thực, có thể gọi là kỳ vọng cho vua biết khó làm được. Tâm lực của ta thế nào? Đã có mặt trời soi xét và mọi người
https://thuviensach.vn
đều biết, không dám nói gì.
Năm thứ 21, thăng thự Tổng đốc. Bấy giờ, vua thường đi chơi ngự công việc xây dựng kế tiếp. Nhiếp lại tâu nói: "Từ xưa người trị quốc gia, mà biết lo lắng siêng chăm thì thường thấy nguy biến, nếu nhàn rỗi vui chơi thì thường thấy yên ổn. Thường thấy nguy biến là gốc tri trị, thường thấy yên vui là mầm họa loạn. Mã Chu đời Đường dâng sớ có nói rằng: "Khi xưa đời Tùy lúc chưa loạn, tự cho là không bao giờ có loạn; chưa mất nước, tự cho là không bao giờ mất nước". Thế mà loạn vọng theo ngay, việc chia ra an nguy, tồn vong, là chỉ do ở bậc nhân chủ một lòng kính sợ hay càn giở đó thôi. Thần cúi thấy sự th ngày nay, là thời đại nào ư? Bờ cõi cũ chìm mất, giặc Bắc lan tràn, nắng lụt gió bão, chỗ nào cũng báo có tai biến sức kiệt, của hết, dân không lấy gì mà sống được. Lại nói Kỳ phụ lay động, loạn lạc nổi lên, cái thế an nguy, thực không những trăm điều lo mà thôi đâu. Thế mà gần đây công việc xây dựng kế tiếp tha hổ xa xỉ không thôi, làm ngôi lăng "Vạn niên cơ" so với lăng Thiên Thụ không những tốn gấp 10 lần; lại ngói đen gởi mua ở Hạ Châu, giấy mỏng làm trò gởi mua ở nước Thanh, gấm bóng, đồ uống, nhiều năm phái đi mua sắm, đờn Tây Dương, vải Tây Dương, năm nào cũng có thanh đơn trả tiền. Lại khi tuần hành, cung nữ chèo thuyền, đó đều là từ trước tới giờ chưa từng có, mà thấy luôn trong khoảng 4, 5 năm nay. Lại, nay lầu ở trong cung mới xong, lần để thuyền sông mới làm. Đương lúc hạn hán tai ương, gạo thóc cao giá, mà chẳng chút giảm bớt. Xưa kia, Hán Văn đế tiếc trăm lạng vàng không xây lộ đài, và nói: "Ta phụng thờ tiên đế quả là thường vẫn sợ thẹn, xây đài làm gì?" Hoàng thượng ngày thường vẫn mong bắt chước như Văn đế, thế mà hiện nay hành động lại trái ngược quá. Cho dân lao khổ để làm vui, vung tiền của để cho thích. Cốt muốn vượt khuôn phép trước, để khoa mẽ sau này. Sẽ muốn kéo dài việc chơi bời để hưởng hết tuổi trời, chẳng cũng bảo rằng có thương hại gì đâu ư? Mà không biết bụng nghĩ ấy đã lưu ở việc làm phồn hoa du đãng, lòng người ta oán, đường sá vang rầm, sẽ không thể cứu chữa được. Thần, sợ lòng người ly tán, đến lúc ấy dẫu có lầu rộng gác cao, không nhàn hạ đâu mà du thưởng nữa. Nhà vua có nước mà không biết
https://thuviensach.vn
thương xót, thì thần dân đâu chịu tiếc cái chết. Đã nhiều lần dâng sớ, chưa thấy đổi thay. Nay lại xúc phạm những điều kiêng kỵ, xin giao cho quan tư khâm kết thần tội chết, để chính cái tội của thần, mong thấy động đến nhà vua!
Vua nói: Lời ngươi thống trách, đều là lỗi của trẫm vậy, sai Viện thần mật chép để biết. Rồi chuẩn cho được thực thụ.
Năm thứ 24, Hải phòng s ở Bình Định chỉ tên tham hặc việc Nhiếp làm không đúng, phải giáng 2 cấp đổi đi, nhân đương ốm xin ở lại chữa rồi chết, thọ 69 tuổi.
Vua cho Nhiếp là người cương trực được việc quen thạo, vốn có công lao tài năng, mắc tội cũng không phải là tham tang hối lộ, gia ơn cho truy phục hàm cũ, cấp cho tiền tuất, và bắt trạm phu ở dọc đường phải hộ đưa về an táng; lại cho Phủ doãn Thừa Thiên vâng mệnh đến tế một tuần.
Văn Nhiếp giữ tính cứng xẵng quả quyết, học vấn sâu rộng, làm quan trải khắp trong ngoài đến 30 năm. Những chương sớ tấu nghị, viện dẫn đủ chứng cớ, lời rất thống thiết, dẫu phạm đến điều kiêng kỵ cũng không tránh, có phong cách của bề tôi đời xưa can ngăn vua. Khi làm Tổng đốc Bình Phú, vua thường phái thị vệ mang cho sâm quế, lộc nhung và đem việc cơ mật hỏi. Nhiếp gặp việc dám nói. Vua từng khen rằng: Văn Nhiếp cùng ta vốn không phải đã quen biết cũ, nhưng lấy lòng thành thực cảm thông nhau, hay nói những câu người ta khó nói, không thẹn tiếng trung thực, hơn nữa có lòng liêm khiết, lấy bụng thành tín đãi người dưới, nên nhiều người yêu mến. Sau khi chết, Phạm Ý thay chân. Vua sắc bảo ý rằng: Chớ để Thân Văn Nhiếp một mình chuyên được tiếng hay về trước. Cứ lời nói đó đủ biết là đã chọn sẵn rồi.
Con có 3 người: Trọng Trữ làm quan đến Tri phủ phủ Tuy An; Trọng Huề làm Bố chính sứ ở Quảng Nam; Trọng Thuận lấy ấm sinh sung Ký lục, rồi đỗ hương tiến. Con Trữ là Trọng Cảnh, Trọng Hốt. Trọng Cảnh cũng đỗ
https://thuviensach.vn
hương tiến làm Đốc học ở đạo Ninh Thuận; Trọng Hốt lúc đầu đỗ hương tiến tới trúng liền Phó bảng.
Nhã Bá Sĩ
Tên tự là Nguyên Lập, người huyện Mỹ Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông cao tổ (tổ 5 đời) là Hiền, làm Đô thống chế vệ Cẩm y đời Lê. Bá Sỹ năm Minh Mạng thứ 2, đỗ hương cống, bổ làm Tri huyện Tiên Lữ, nhiều lần thăng lên viên Ngoại lang Bộ Hình.
Năm thứ 11, thự Lang trung, ra trông coi thuế đường ở Quảng Ngãi, bị việc phải cất chức, phái đi theo sang Quảng Đông ra sức báo hiệu chuộc tội. Rồi sau khai phục kiểm thảo, lĩnh huấn đạo ở huyện An Lạc, thăng Giáo thụ phủ Hoài Đức, gia làm Hàn lâm viện tu soạn, vì ốm nghỉ việc. Đầu năm Tự Đức, được các quan đề cử, nên thường xuống chiếu cho khởi phục, đều cáo ốm xin từ.
Năm thứ 6, thăng hàm trước tác, lĩnh Đốc học ở tỉnh ấy. Được ít lâu, xin về hưu, Vua cho, gặp khi giặc ở ngoài biển không yên, nhiều lần dâng sớ bày tâu.
Nă
m thứ 17, lại mật trần 3 chước "tiên nghi". Vua nói rằng: Người ấy mà tuổi già đáng tiếc. Chuẩn cho cùng với 2 tỉnh thần Thanh, Nghệ thương nghị việc công.
Năm thứ 20, bị ốm chết, thọ go tuổi. Bá Sỹ ở nhà hơn 10 năm, dạy bảo học trò, trong châu trong làng đều mến thanh giáo của ông. Sau khi mất, Vua thường dụ bảo các quan sai tiến cử người nào học hành thuần chính như Nhã Bá Sỹ, được vua chọn biết yêu quí. Bá Sỹ có trước tác: Đại học đồ thuyết, 1 quyển; Thanh Hóa tỉnh chí, 2 tập; Việt hành tạp thảo, 2 tập; Nghị âm hãn hương 2 tập. Và những quyển: Vịnh Việt sử thi tập, Đạm trai thi
https://thuviensach.vn
văn, cùng những tập: Đạm trai quan nghị, Nghị âm biệt lục v.v … em là ố, con là Dĩ Huyễn, Tri Thuật cháu là Duy Cơ đều đỗ hương tiến.
Nguyễn Thu
Khi xưa tên là Bảo, tự là Định Phủ, người huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Cụ là Hiệu, ông là Hoản, khoảng năm Chính Hòa (đời Lê Hy Tông) kế tiếp đỗ Tiến sĩ, đều làm đến Tham tụng. Minh Mạng năm thứ 2, đỗ hương tiến, lúc đầu bổ Tri huyện Thanh Hà, rồi thăng Tri phủ Kinh Môn, bị việc phải giáng làm Tư vụ Bộ Lễ, nhiều lần thăng tới Lang trung.
Năm thứ 21, bổ làm Án sát sứ Hải Dương. Đầu năm Thiệu Trị lại giáng làm Hàn lâm viện thị độc, sung vào Sử quán biên tu.
Năm thứ 4, pho "Thực lục tiền biên" làm xong, cất lên Thị giảng học sĩ, rồi gia Hồng lô tự khanh, sung vào Toản tu.
Tự Đức năm thứ nhất, thăng Quang bộc tự khanh, sung Phó sứ sang Yên Kinh. Khi xong việc trở về sung làm công việc Nội các; rồi bổ Hữu thị lang Bộ Lại, trải làm Bố chính 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên, đổi về Tả thị
lang Bộ Hộ.
Năm thứ 7, bổ Bố chính tỉnh Khánh Hòa, khi vào từ biệt trước mặt vua để đi, vua dụ bảo: Mưu tính công việc giữ đã. Năm sau bị ốm chết ở chỗ làm quan, thọ 57 tuổi.
Vua bảo: Thu làm quan điềm tĩnh đáng khen, sai cấp thêm tiền tuất để làm ma.
Thu là người yên tĩnh chắc chắn, chăm về soạn thuật, mỗi khi ở công đường lui về, thời ngồi yên lặng trọn ngày, bên tả đồ họa, bên hữu sách vở, tay không rời quyển sách. Trước tác có những bộ: Sử yếu, Hoàn vũ kỷ văn, Sử cục loại biên, Quốc sử ký biên, Điển lễ lược khảo, Kinh môn phủ chí,
https://thuviensach.vn
Thanh Hà huyện chí, Phương Sơn từ chí lược, Thạch đề mộng thuyết, Tinh thiền tùy bút, Sứ trình tập ký, Anh vũ học ngôn, Biền lệ tạp văn, Tạp cú thi khảo, cộng 14 tập. Con là Giản, em là Nhân; cháu họ là Vỹ đều được nổi tiếng.
Giản
Tên tự là Tuân Phủ, Tự Đức năm thứ nhất, đỗ hương tiến, bổ làm Tri huyện ở Thủy Đường. Gặp tỉnh Hải Dương có giặc cướp, Giản mộ quân nghĩa dũng theo quân thứ đi bắt dẹp.
Năm 19, lĩnh Tri phủ ở Kinh Môn và trước kia theo quân có công, bổ Hàn lâm viện thị độc nhưng vãn lĩnh Tri phủ. Rồi đình thần xét ra có cán lược, sung làm Bang biện Hải Dương tỉnh vụ và tham tán việc tuần phòng ngoài biên.
Năm thứ 24, sung làm Thương biện sơn hải phòng ở Thanh Hóa, kiêm khuyên bảo khai khẩn đất bỏ hoang ở miền thượng du. Năm sau được gia Thị giảng học sĩ, rồi sung làm Sơn phòng sứ ở Thanh Hóa, bị việc phải mất chức, gắng sức báo hiệu chuộc tội. Rồi sau tiến quân tới 2 châu Quan, được thắng trận, lại khai phục Hàn lâm viện trước tác, đổi làm chủ sự Bộ Lễ thăng đến Lang trung.
Năm thứ 33, sung
quản lý Thương chính Hà Nội, trải làm Án sát sứ Hà Nội, sau chuyển về Hà Tĩnh, vì nhiều lần bị giáng nên cáo bệnh về rồi chết. Con thứ là Lợi Cấp đỗ hương tiến.
Nhân
Gia Long năm thứ 12, đỗ hương cống, trải bổ Tri huyện Nga Sơn. Nhân tính vốn hiền lành, làm việc chuộng khoan hòa giản dị, không nhận đồ đưa lễ; rồi bổ Tri phủ Hà Trung, vẫn trong sạch kiệm ước như trước. Dân có
https://thuviensach.vn
việc đến kiện, đem nghĩa lý hiểu bảo, người cũng tin lời, không nỡ dối trá. Về hình ngục càng cẩn thận, khi khám xét những án nặng rất phải chăng sạch mật đảo, Sau làm đến Lang trung Bộ Hộ.
Vĩ
Tên tự là Phong Phủ, cháu của Nhân, bố là Nho, đỗ hương cống, Tự Đức năm thứ 11 Vỹ cũng thi đỗ làm Tri huyện Nam Trực thăng tri phủ Đức Thọ, rồi triệu vào Chưởng ấn cấp sự trung; rồi lĩnh án sát sứ ở Nghệ An. Vỹ có tiếng là tài cán. Năm thứ 31, sung biện công việc ở Nội các, đổi làm biện lý Bộ Lại; sau lĩnh Bố chính sứ Bắc Ninh, rồi chết. Con là Lệ đầu năm Đồng Khánh làm bang biện huyện vụ Nông Cống, chết về quốc sự, được tặng hàm Cung phụng.
Nguyễn Quốc Trạch
Khi trước tên là Quốc Cẩm, người huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Minh Mạng năm thứ 2 đỗ hương tiến, do tư vụ Bộ Lễ, bổ ra Tri huyện Nam Xương, trải thăng Viên ngoại lang Bộ Lại.
Năm thứ 17, cất lên làm Án sát sứ Bình Thuận và Hộ lý tuần phủ quan phòng tỉnh ấy.
Năm thứ 21, thăng thự Thị lang Bộ Hộ.
Đầu năm Thiệu Trị, chuyển làm Tả thị lang, nhiều lần thăng đến Tuần phủ 2 tỉnh Hưng Yên và Hà Tĩnh.
Năm Tự Đức thứ 6, quyền hộ Tổng đốc An, Tĩnh, rồi vào làm Tả tham tri Bộ Hộ; vâng phái đi Tham biện công việc đê điều ngoài sông ở Bắc Kỳ. Khi xong việc trở về, bổ làm Tổng đốc Hải Yên. Gặp bọn giặc ở mặt nước thuộc tỉnh Quảng Yên làm rối loạn, lan tràn đến 2 hạt Đông và Bắc, tới vây sát đ
https://thuviensach.vn
ến tỉnh thành ương. Thế giặc ngông cuồng. Quốc Trạch khuyến khích tướng tốt bày cách cố giữ. Trải hơn 5 tháng, quân cứu viện tới, vòng vây mới giải được. Khi trước được tin báo có giặc, Quốc Trạch bị khép tội về chống chọi không có công trạng phải mất chức. Sau Tổng thống là Nguyễn Tri Phương cho là có công giữ được thành tâu rõ lên, được khai phục Thị giảng học sĩ, nhân ốm xin cáo nghỉ rồi chết.
Phan Tĩnh
Khi trước tên là Vĩnh Đinh, người huyện Tân Long, thành Gia Định. Minh Mạng năm thứ 12, đỗ hương tiến, đầu năm Tự Đức nhiều lần thăng đến Thị lang Bộ Lễ, sung làm Chánh sứ sang nước Thanh. Khi đi sứ về, đổi làm Bố chính sứ Quảng Nam. Chưa bao lâu cất làm Tuần phủ Hưng Hóa.
Năm thứ 7, đổi làm Hữu tham tri Bộ Hộ; rồi vì trước ở Quảng Nam đòi lấy thuế bạc lậu, việc phát giác ra, bị giáng 3 cấp đổi xuống làm tham biện quân vụ ở Quảng Ngãi, đến làm Thự bố chính sứ. Bấy giờ bọn ác Man ở Thạch Bích cướp bảo Thanh Lâm, Tĩnh cùng Lãnh binh là Nguyễn Trường Duyệt dẹp được yên.
Năm thứ 12, quân Pháp đánh hãm thành Gia Định, đổi sung làm tham tán. Trận đánh ở đồn tả Phú Thọ, Tĩnh trúng đạn bị thương. Việc đến tai vua, cấp cho sâm quế, xạ hương, băng phiến và 30 lạng bạc; chuẩn cho cách lưu vẫn sung tham tán ngồi trong trướng bày mưu lập kế, rồi đổi làm tán
Mùa đông năm ấy, ốm chết ở trong quân.
Tĩnh vốn có danh vọng vua rất thương, truy tặng hàm Tham tri, sai quan đến tế và cấp thêm cho 1 cây gấm Trung Quốc, 5 tấm lụa, 10 tấm vải và 80 lạng bạc, cùng bổ dụng cho các con.
Nguyễn Hiên
https://thuviensach.vn
Người huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, lúc nhỏ đọc sách có trí lược. Khoảng năm Minh Mạng ra đầu quân, bắt đầu bổ làm đội trưởng, theo đi quân thứ ở thành Phiên An, có công cất làm suất đội, lại đi Trấn Tây, đánh phá đồn Thiết Thăng cất làm quản cơ.
Tự Đức năm thứ 5, trải làm Phó Lãnh binh ở Định Tường, An Giang, rồi thăng Vệ úy.
Năm thứ 12, cửa biển Đà Nẵng có biến động, Hiên lấy hàm Chưởng vệ sung quân thứ tán tương.
Năm thứ 15, Hộ lý tổng đốc Nam Ngãi.
Năm thứ 17, thăng bổ Thống chế doanh Long Vũ, kiêm quản Hậu quân, trải coi Tả hữu quân. Gặp lúc Nam kỳ có việc sung làm Hải phòng sứ ở Tả trực kỳ, ủy cho huấn luyện các biền binh và việc sửa sang các đồn bảo.
Năm thứ 21, mùa thu, giặc Ngô bên nhà Thanh đánh hãm tỉnh Cao Bằng, quan quân bị thương, Vua cho sung làm Khâm sai Thái Nguyên đạo Thảo nghịch Tả tướng quân và cho 80 lạng bạc, cùng thanh gươm Vua dùng để long trọng quyền hành. Hiên tới quân thứ, cùng với Bình khấu tướng quân
và Đoàn Thọ tâu bày kế sách đẹp vỗ tình hình ở ngoài biên (lời nói chép ở truyện Đoàn Thọ). Vua khen và nhận lời, đổi sung làm Hiệp thống quân thứ Lạng Sơn; rồi lĩnh Tổng đốc ở Định Yên.
Năm thứ 2, phái viên của Pháp là quan ba An Nghiệp đã lấy Hà Thành, đem binh thuyền rời xuống Nam Định. Bấy giờ hòa ước chưa định, Hiên ủy cho Lãnh binh là Nguyễn Văn Lợi và Thương biện là Phạm Văn Nghị đón đánh ở đồn Độc Bộ, không địch nổi, tàu Pháp chạy thẳng lên sông Vỵ Hoàng bắn phá rồi chiếm giữ lấy thành. Hiên bị cách chức gắng sức báo hiệu chuộc tội. Rồi sai các quan ở quân thứ cho Hiên là vốn có công lao, tâu xin cho khai phục hàm Phó quản cơ, về quê rồi ốm chết, thọ 82 tuổi, con là Oanh được tập viên tử.
https://thuviensach.vn
QUYỂN 29
TRUYỆN CÁC QUAN - MỤC XIX
Hồ Uy
Người huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên. Khoảng năm Minh Mạng, ra đầu quân, trích sung vào viện Thượng Trà, Thiệu Trị năm thứ 6, bổ làm Thị bậc thứ 5, vì sát hạch vào hạng bình, trải thăng lên bậc thứ 2.
Tự Đức năm thứ 12, phái đến quân thứ Quảng Nam. Trận đánh ở Hải Châu có công, bổ làm Cẩm binh phó vệ úy; rồi đổi sang vệ Khinh kỵ viện Thượng tứ sung làm Hiệp lĩnh Thị vệ ở ban trực. Hồi lâu, thăng Chưởng vệ, quyền giữ ấn triện doanh Long vũ.
Năm thứ 19, gian dân là Đoàn Trưng, Đoàn Trực họp bọn lũ gây biến, bức hiếp thợ làm ở xưởng Dương Xuân kể
có nghìn người, sấn vào cửa Ngọ môn, chuyển tới cửa Tả dịch. Viên thị vệ là Nguy ễn Thịnh, Chỉ huy sứ là Phạm Viết Trang đóng cửa chống cự, đều bị thương. Giặc phá cánh cửa vào đến nhà Duyệt Thị, Uy ngăn chống, Trực chém phải Uy bị thương tai bên phải. Uy hô to bảo Nội giám kíp đóng cửa
chái bên tả; tức thì ra hiệu lệnh gọi những người túc trực ở xứ Thị vệ, ty Cẩn tín tới bắt giặc. Bấy giờ giặc Trưng đem bè lũ ước năm, sáu trăm người tới trước điện Thái Hòa sắp nghi vệ gọi vệ loan giá đem kiệu ra đón Đinh Đạo. Kiệu nửa đường, Uy gặp hét lên bắt lui; lại trỏ biền binh ở sở công tác mắng rằng: "Bọn ngươi cam chịu theo giặc ư?" Chúng đều rút lui tan đi, Uy sấn đến đâm, tên giặc Trực ngã xuống, rồi bộ biền kế tiếp đến, Trưng cũng bị bắt, bắt hết được cả bọn lũ. Đến khi đình thần xét tâu công trạng, cất bổ Uy làm Đô thống doanh Long Vũ, tấn phong là Dũng nghĩa tử, nhưng vẫn sung làm quản lĩnh Thị vệ đại thần; gia thưởng cho 1 cái bài vàng có 5 chữ "Sắc tứ Trung dũng tướng", 1 cái bài đeo bằng ngọc quý 1 cái nhẫn đeo
https://thuviensach.vn
bằng vàng dát mặt ngọc kim cương liền nhau và 10 lạng vàng, lại gia cho 1 cấp trác dị; vào triều đứng hàng dưới ban văn thự hiệp biện. Rồi sau đổi làm Tiền quân đô thống, kiêm Chưởng Tả quân.
Năm thứ 23, quân thứ ở Bắc kỳ thường bị thua, Uy xin theo đi đánh dẹp. Vua cho là bên ban vũ đương cần người,
Năm thứ 26, Hà thành có việc sai sung làm Tổng thống quân vụ, đem đại binh tới đầu địa giới cõi Thanh Hóa, Ninh Bình nghiêm mật đóng đồn xem cơ hội mà làm. Gặp tỉnh Nghệ An có tên Trần Tốn khởi loạn, đổi làm An Tĩnh Tổng thống đại thần. Tháng 4 năm ấy, bị ốm, vua sai thị vệ đi ngựa trạm cấp cho sâm quế của vua dùng. Rồi sau vì phái đi không có công trạng gì, cho triệu về giáng làm chưởng vệ, nhưng quyền chưởng Tiền quân. Năm thứ 28 thời chết.
Uy vốn có dũng lược, vua suy nghĩ cho phục lại nguyên hàm Đô thống. Con có 3 người, Trực tập tước làm đến Cẩm binh suất đội; Tiến vào danh sách anh danh, trải thăng Phó quản cơ; Chất vào lệ tùy, trải thăng Chánh thất phẩm sung Sử quan đằng lục.
Nguyễn Chí
Người huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, ông là Tiến Trực được ân tứ thọ dân. Chí có dũng lực, Minh Mạng năm thứ 9, ra đầu quân, thường theo tàu thủy tới Tân Ba và tiểu Tây Dương làm việc công. Vì am hiểu đường đi biển, bổ chánh đội trưởng, trải thăng Quản cơ vệ úy.
Tự Đức năm thứ 20, thăng làm Chưởng vệ sung Thuận An đốc phòng; rồi cất lên bổ Thủy sư đề đốc.
Năm thứ 24, thăng thự Đô thống, vì coi giữ thuyền rồng không cẩn thận bị bãi, một hồi lâu lại bổ Đô thống.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 30, cáo bệnh xin về hưu. Vua cho là Chí giúp việc lâu ngày có phần khó nhọc, ơn ban cho sa lụa mỗi thứ đều 3 tấm, và 50 lạng bạc. Chưa bao lâu thời chết, thọ 73 tuổi.
Vũ Lã
Tên tự là Trọng Đỉnh, người huyện Lễ Dương, tỉnh Quảng Nam. Lã là người cương trực, có kiến thức mưu lược. Năm Minh Mạng ra đầu quân. Đầu năm Tự Đức trải làm cai đội, chuyển làm hiệp quản. Được khá lâu, rồi lĩnh Phó lãnh binh ở Quảng Ngãi.
Năm thứ 21, đổi bổ Vệ úy kiêm quản ty Trấn phủ; rồi cất lên bổ Đô chỉ huy sứ ở vệ Cẩm y.
Năm thứ 26 bổ Thống chế doanh Tiền phong. Bấy giờ có toán thổ phỉ ở nước Thanh từ Hưng Hóa lan tràn quấy nhiễu miền thượng du Thanh Hoá. Vua cho tỉnh Thanh là trọng địa ở Hữu Kỳ, sai Lã sung là Đề đốc quân vụ, cùng với Tham tán là Nguyễn Chính đem lính kinh đến ngay đốc thúc đánh dẹp, Kịp khi toán giặc trốn tránh, Lã cùng Chính mưu tính việc làm cho tốt về sau. Xin đặt nha Sơn phòng, để thời thường thay phiên nhau đi tuần phòng cho mạnh thanh thế. Vua y theo. Khi về vào ra mắt. Vua dụ rằng: Chuyến đi này dẫu không có công lao mấy, nhưng mới thử qua một tý đã có thể mưu tính sớm được yên tĩnh, rất là khen ngợi, thưởng cho 1 đồng kim tiền.
N27, ở An Tĩnh có loạn Mai Tấn vua sai Lã sung làm Hiệp đốc, cùng với Thống đốc là Lê Bá Thân đem binh thuyền tới Linh Giang phòng giữ đánh dẹp. Khi thành Hà Tĩnh đã thu phục được, cho triệu về thăng bổ Thống chế quyền chưởng Hậu quân sung làm Hải phòng phó sứ ở Kinh kỳ. Rồi sau ốm chết, thọ 68 tuổi, truy tặng hàm Đô thống, chiếu lệ cấp cho tiền tuất.
Lê Chỉ Tín
https://thuviensach.vn
Người huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Lúc mới ra đầu quân, khi ấy Hiến tổ chưa lên làm vua, chọn vào hầu trong. Vì là thân cẩn, được tin yêu, hầu hạ hơn 10 năm, trải thăng đến cai đội. Khi Hiến tổ lên ngôi năm đầu, bổ làm Thị vệ bậc 3, lâu năm làm tới Chưởng vệ.
Tự Đức năm thứ nhất, quyền Chưởng ấn triện doanh Hổ uy quản lính Thị vệ đại thần; trải làm Thống chế đô thống, rồi đến Tiền quân Đô thống phủ đô thống.
Năm thứ 9, viện lệ xin về hưu. Vua cho Chỉ Tín sức lực còn thể theo làm việc quan được, cố lưu ở lại.
Năm thứ 13, chết ở chỗ làm quan, gia ân cho tiền, lụa rất hậu, sai quan đến tế.
Năm thứ 33, vua lại nghĩ Chỉ Tín là thần bộc của triều trước chuẩn cho được liệt tự ở đường Phương gia ngoài cửa Khiêm
Khi trước, vợ Chỉ Tín là Hoàng Thị sung làm nữ quan ở Nội đình phong làm Thục nhân. Con có 2 người, con lớn là Chỉ Hiếu lấy Nghĩa Chưởng công chúa, bổ làm Phò mã đô úy làm đến Phó vệ úy; con thứ là Chỉ Trung đỗ cử võ, làm Viện khanh ở viện Vũ bị; cháu là Phái được ấm thụ Hàn lâm viện kiểm thảo.
Nguyễn Khắc Trạch
Tên tự là An Phủ, người huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên.
Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, trải làm Huyện thừa huyện Yên Lạc, bổ Tri huyện huyện Yên Lạc.
Năm thứ 19, đổi làm đồng Tri phủ Yên Khánh, rồi vào làm Viên ngoại lang Bộ Hình.
https://thuviensach.vn
Đầu năm Thiệu Trị đổi làm Lang trung, nhiều lần thăng đến Án sát sứ Hà Tĩnh và Hải Dương.
Tự Đức năm thứ nhất, đổi làm án sát sứ Hà Nội. Trạch đi đến đâu cũng thích khuyến dạy các sĩ tử, các học trò tài vào bậc nào thành đạt vào bậc ấy, học tập thường đến vài trăm người.
Năm thứ 2, bổ Bố chính sứ ở Gia Định; rồi Hộ lý tuần phủ ở Định Tường. Rồi lại bổ Bố chính sứ
Năm thứ 8, lấy hàm Hàn lâm trực học sĩ, sung chức Sử quán toản tu. Tới năm sau, 67 tuổi, sắp xin cáo lão, nhiều người cho là chưa tới lệ, khuyên nên ở lại. Trạch nói: "Người xưa chuộng mạnh bạo rút lui, Nhà theo chí
hướng của mình". Bèn dâng sớ trần tình xin về. Vua y cho, và ban cho áo triều bào để vẻ vang khi về làng.
Khắc Trạch đã được an nhàn, lấy vườn rừng tư thích. Năm tuổi đến 80, được dự ban cấp bạc lụa; lại vì có con là Vỹ được vinh hiển. Năm thứ 31 gặp kỳ khánh tiết ban ân, lại được thưởng cho đồ vật. Rồi chết, thọ 91 tuổi. Con là Phổ, Giảng, Vỹ đều đỗ hương tiến, Phổ, Giảng trải làm Thú lệnh; Vỹ hiện nay bổ Hiệp biện đại học sĩ, sung làm Thương biện ở Phủ thông sứ Bắc kỳ; còn Nghiêm, Trình, Xứng cũng do tập ấm bổ quan, Bình thì đỗ tú tài.
Nguyễn Hữu Thái
Người huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, bắt đầu bổ Tri huyện Thụy Anh, rồi đổi đi 2 huyện: Kim Sơn, Đông Triều; trải thăng đồng Tri phủ Bình Giang; rồi triệu vào bổ Giám sát ngự sử.
Tự Đức năm thứ 5, cáo bệnh về hưu.
https://thuviensach.vn
Hữu Thái làm quan có chính sách nhân huệ, sau khi mất, các thần ấp: Tuy Lộc, An Hòa ở Kim Sơn và Hoàng Kinh An sinh ở Đông triều đều lập đền thờ.
Lại có người cùng huyện với Hữu Thái là Lê_Viết Huy và người ở xã Vĩnh Lộc là Đỗ Thiện Kế, cùng vì kính cẩn chức vụ làm đến ấn quan. Viết Huy tên tự là Nguyên Thông. Năm Tự Đức thứ 8, đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Thanh Chương, chuyển làm Tri phủ ở hai phủ Nam Sách, Kinh Môn; kế tiếp giám sát kho tàng tỉnh Hà Nội; rồi cất lên hàm Hàn lâm viện thị độc, lĩnh án sát Nghệ An. Trải thăng Quang lộc tự khanh, lĩnh Bố chính sứ. Thiện Kế, năm Tự Đức thứ 28, đỗ phó bảng, nhiều lần thăng làm Biện lý ở 2 bộ Hình và Lễ. Khi chết tặng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
Đào Đình Bảo
Người huyện n Thi, tỉnh Hưng Yên. Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, bắt đầu bổ Tri huyện Thiên Lộc, thăng tới Tri phủ Thiên Trường.
Năm thứ 14, thăng làm Đốc học ở Hà Tĩnh, tiếp thu bè bạn, chăm chỉ dạy bảo, được sĩ tử theo học nhiều.
Năm thứ 18, gia hàm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, văn lĩnh chức như cũ rồi chết, thọ 67 tuổi.
Về sau, người cùng quận là Dương Duy Thanh và Lê Sâm ở huyện Đông Yên, cùng Đào Danh Văn ở huyện Tiên Lữ, đều là học thức có tiếng. Duy Thanh, năm Minh Mạng thứ 9, đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Kim Anh, nhiều lần thăng hàm Hàn lâm viện Thị độc, sung Sử quán biên tu.
Thiệu Trị năm thứ 7, bổ Đốc học Hà Nội. Duy Thanh tính rất hiếu, để tang theo hết lễ, trải mùa rét, mùa nóng không thay đổi. Người đều khen.
Lê Sâm
https://thuviensach.vn