🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Nam Liệt Truyện - Tập 3 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mục lục QUYỂN ĐẦU QUYỂN 1 QUYỂN 2 QUYỂN 3 QUYỂN 4 QUYỂN 5 QUYỂN 6 QUYỂN 7 QUYỂN 8 QUYỂN 9 QUYỂN 10 QUYỂN 11 QUYỂN 12 QUYỂN 13 QUYỂN 14 QUYỂN 15 QUYỂN 16 QUYỂN 17 QUYỂN 18 QUYỂN 19 QUYỂN 20 QUYỂN 21 QUYỂN 22 QUYỂN 23 QUYỂN 24 QUYỂN 25 Ghi Chú https://thuviensach.vn QUYỂN ĐẦU Bọn chúng tôi là Tổng tài, Toản tu ở Quốc sử quán kính tâu về việc bộ "Chính biên liệt truyện nhị tập" đã chép xong, xin khắc vào bản in để nêu tỏ đức sáng to lớn. Thiết nghĩ: Từ xưa minh quân thánh đế chịu đạo lục, giữ phù thụy (tức là lên làm vua), tất có người ở bên trong bên ngoài giúp đỡ, mà đạo của vương giả mới nên; có phân biệt được kẻ tốt người xấu mà chính vương giả mới làm được. Cho nên kinh Thi khen phong hóa của thơ Quan thư, Lân chỉ, do ở 2 biên Chu Nam, Thiệu Nam mà gây nên; kinh Dịch xem rồng, hổ, gió, mây theo từng loại, mà muôn vật đều biết cảặc có người phù tá ngôi báu, nên cột đá ở trong triều đình; hoặc có người trấn thủ biên cương, vững thành đài ở ngoài muôn dặm; hoặc có người đưa sức ra trận đánh giặc, oanh liệt một phen; hoặc có người văn chương nổi tiếng trong nước, thanh giá gấp bội; hoặc có người phong vân thanh nhã, đủ làm cho kẻ lười tự lập, kẻ tham thành liêm; hoặc có người như ngọc trắng hoàn toàn, đủ để nêu kẻ thanh liêm, răn kẻ tham nhũng. Dẫu đến kẻ tội ác đầu sỏ, khó tránh được dưới búa rìu; mà sự thực chép biên đều thấy cả trong sử sách. Đâu là người thế, việc thế, phải trái có công luận, để làm gương răn vậy. Thế thì nước phải có sử, mà sử phải có truyện, không phải là cốt để làm gương răn, mà để mãi đến đời sau ư? Nhà nước ta nối nghiệp đời trước, gặp vận trung hưng, thánh thần truyền nối; công đức thịnh nhiều, cố nhiên việc đều khảo xét được, sách có thể tin chắc được, sử không chép xuể truyền mãi không dừng vậy. Duy đời nào có người phụ tá đời ấy, người nào có việc làm của người ấy, cho nên thể tài của nhà chép sử, liệt truyện là một thể của sự vậy. Đó là nhân vật trong thời nay, đời sau có thể cùng truyền lại được, để đều in thành tập, mới là để làm gương cho sau này mãi mãi. Tuy ngày nay xét việc đời trước, thời đại xa gần, hoặc có thiếu sót; nhưng hỏi rộng nhìn xa, việc làm thực sự hay dở không thể hỗn độn. Truyện tức là truyền lại, nên làm thành sách để ghi chép. Vâng việc tra xét từ năm Thành https://thuviensach.vn Thái thứ 5 (1893) có chỉ chuẩn cho Sử quán chúng tôi tiếp tục làm Liệt truyện chính biên nhị tập, nhưng chỉ chép từ năm Minh Mạng thứ nhất (1820) đến cuối năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) trở về trước. Sử quán chúng tôi vâng lệnh tư cho 2 bộ Lại, Binh chuyển tư cho các địa phương tra hỏi sự tích, đã lâu chưa phúc đáp đầy đủ. Ngày tháng 6 năm thứ 13, tiếp Viện Cơ mật kính sạo lục các truyện của các quan từ Bình, Trị trở về Bắc, đã chuẩn giao cho Văn minh điện Đại họ Vĩnh trung tử trí sĩ, đã chết, là Nguyễn Trọng Hợp nhận làm. Còn về liệt truyện của các hậu phi, hoàng tử, công chúa và các quan từ phủ Thừa Thiên trở về Nam, chuyên do Sử quán tôi nhận làm. Nhưng khi ấy Sử quán tôi hiện đương kính làm Thực Lục đệ ngũ, đệ lục, việc biên chép bề bộn, nên chưa kịp làm. Kịp đến tháng 11 năm thứ 14 (1902) vâng chỉ bắt đầu làm, chiếu theo thể lệ "Liệt truyện sơ tập", lựa chọn thứ tự trước sau, châm chước biên chép, gồm với một tập bản thảo của án sát Nguyễn Duy Nhiếp là con Nguyễn Trọng Hợp đã chết, đệ giao cho. Bọn thần vâng tham xét, khảo đính, bổ sung chỗ thiếu sót cho được hoàn bị. Ngày tháng 2 năm thứ 16, Sử quán tôi lại dâng tờ phiến tâu về việc Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu (1), Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu (2) chính vị trong cung cấm mẫu nghi thiên hạ, nên kịp thời đăng mục sớm. Tuy năm mất là ở sau niên hạn, (chỉ chuẩn, chỉ chép đến năm Đồng Khánh thứ 3 trở về trước thôi). Nhưng nay một vị đã được phụ tế ở Thái miếu, còn một vị cũng sắp cử hành lễ phụ tế, sắp sửa cũng đều theo lễ cát cả. Xin cho biên vào liệt truyện các hậu phi. Lại như hoàng thân Tuy Lý Vương Miên Trinh là thân hiền trong hàng phiên vương, cùng các quan như Vũ Trọng Bình, Trần Đình Túc, các người ấy đều là kỳ lão danh vọng của triều trước, tuy là chết sau mà hưu trí trước, sự trạng rõ ràng; cùng là cách tính khai danh sách người nào vốn có công lao tài giỏi mà sự trạng rõ ràng, thì đều ghi cả, cho tiện một mối. Đã vâng chỉ chuẩn cho chép vào, hiện để tại hồ sơ. Sau vâng tra xét bổ thêm. Trong đó có nguyên Phụ chính là Nguyễn Trọng Hợp đã chết cũng là bề tôi cũ của triều trước, sung vào tướng phủ 8 năm, đứng đầu trăm quân, trung thành rõ rệt, mọi người đều tin tưởng. Sau khi chết đã được truy tặng làm Cần chính điện Đại học sĩ, hiện cũng hết tang, xin tuân chiểu chỉ đã chuẩn y ngày tháng 2 năm Thành Thái 16 (đã nói ở trên) được https://thuviensach.vn ghi cả vào truyện, để nêu công trạng. Bữa nọ đã chép thành biên bản. Còn thứ tự các thiên thì trước là hậu phi, thứ đến hoàng tử, công chúa, thứ nữa đến các quan, rồi những người hạnh nghĩa, liệt nữ, ẩn dật, cao tăng. Cuối rốt phụ chép các nghịch thần, bản thảo kê ra cộng có 10 mục. Ngày tháng 4 năm 17, đã vâng viết thành bản tinh tiến coi. Ngày tháng 7 năm đầu Duy Tân, Sử quán tôi mới tuân lệnh lĩnh về, kiểm chính lại, chỗ nào bỏ sót sơ lược thì bổ sung thêm. Tập ấy, không dám nói rằng việc được đúng, văn chép thẳng, cũng chỉ là nhân chỗ sơ lược mà làm cho tinh tường, như là vẽ ra, xem sách chép thì biết được ngay mà thôi. Khẩn mong giao cho khắc bản, cất trong kho sở, để tiếp theo 2 tập Tiền biên, Chính biên, làm tấm gương soi cho sau này, để cho hành trạng sự thực của người trước suốt đời không quên, gọi tinh thần, ở nơi chín suối sống lại. Tưởng cũng là một chính sách để làm khuyên răng vậy. Đến như công việc nên làm, xin tuân chiếu thể lệ, thi hành. Vậy xin làm tập tâu lên, cúi đợi chỉ dụ rõ ràng. Cẩn tấu Ngày 19 tháng 9 năm Duy Tân thứ 3 để tâu. y tâu Thần là Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xưng, Trần Xán, Vâng sắc khai chép chức quan và tên các viên biên chép: Tổng tài: Phụ chính đại thần, Thái tử Thiếu bảo, Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Học bộ Thượng thư, kiêm quản Quốc Tử Giám An Xuân Nam, thần Cao Xuân Dục. Toản tu: Nguyên trực học sĩ, hiển thăng Lễ bộ Tham tri, nhưng sung thần Lưu Đức Xung, Nguyên trực học sĩ, sau thăng Hộ bộ Tham tri, thần Nguyễn Vỹ, Quang lộc tự thiếu khanh, thần Trần Xán Biên tu: Nguyên Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ, sau đổi thăng Án sát sứ tỉnh Quảng Ngãi, hiện chờ bổ, thần Lê Đình Luyện, https://thuviensach.vn Nguyên Hàn Lâm viện Thị độc, hiện sung Lang trung Học bộ, thần Nguyễn Thiện Hạnh. Hàn Lâm viện Thị độc, thần Trương Tuấn Nhiếp, Nguyên Hàn Lâm viện Thị độc, thần Phạm Tuân, Nguyên Hàn Lâm viện Thừa chỉ, hiện Đốc học tỉnh Bình Thuận, thần Phạm Khắc Doãn, Thừa biện: Nguyên Hàn Lâm viện Thừa chỉ hiện sung Viên ngoại lang Học bộ, thần Nguyễn Đình Hiển Nguyên Hàn Lâm viện Trước tác hiện Tri huyện huyện Can Lộc cáo nghỉ, thần Nguyễn Xuân Thưởng Hiệu khảo: Hàn Lâm viện Trước tác, thần Lê Hoàn, Nguyên Tòng thất phẩm hiện làm trong Vụ ty ty Học bộ, thần Trần Cán, Đằng lục: Chánh thất phẩm, thần Lê Hy, Tòng thất phẩm, thần Nguyễn Quát, thần Lê Quân, Chánh bát phẩm, thần Nguyễn Trọng Đĩnh, Nguyên Chánh bát phẩm hiện bổ Chánh bát phẩm tỉnh Khánh Hòa, thần Đồng Trọng Duật Nguyên Chánh bát phẩm hiện lĩnh Chánh cửu phẩm tỉnh Quảng Trị, thần Nguyễn Hữu Cận, Nguyên Tòng bát phẩm hiện để tang, thần Trần Đình Diệu, Tòng bát phẩm, thần Dương Hưng Lang, Thu chưởng: Nguyên Chánh cửu phẩm hiện bổ Tòng bát phẩm bộ Học, thần Phan Văn Tập, Chánh cửu phẩm, thần Nguyễn Đại Đoan. QUYỂN 1 https://thuviensach.vn TRUYỆN CÁC HẬU PHI - MỤC I Thánh Tổ Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu Họ Hồ, người ở Bình An, tỉnh Biên Hoà, con gái của Phúc Quốc công Hồ Văn Bôi, mẹ họ Hoàng. Năm Bính Dần, Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao Hoàng Đế, cùng Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu tuyển con gái các công thần để sánh đôi với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế; sai tiến vào hầu ở tiềm để (3). Hậu là người hiền thục trinh thuận, hết lòng hiếu kính. Thế tổ rất khen, ban cho tên hay (trên theo chữ (miên), dưới theo chữ (quán) (4). Lúc đầu Thế tổ bảo rằng, tên cũ của phi trên theo chữ (không có chữ), dưới theo chữ (thập) (5), chỉ lấy 4 chữ là hương thơm đưa lên làm nghĩa. Sao bằng trên theo chữ (miên), dưới theo chữ (quán) gồm có cả quả phúc. Nhân thế đặt tên cho. Năm thứ 6, Đinh Mão, tháng 5 sinh ra Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (tức Thiệu Trị) ta, mới được 13 ngày hậu mất, thọ 17 tuổi, táng ở núi Cư Chính huyện Hương Thuỷ. Năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ, mùa hạ, tháng 6, sách tặng làm Chiêu Nghi, thuỵ là Thuận Đức, hợp tế vào đền Gia Phi họ Phạm. Sách văn rằng: Lễ lẽ đương nhiên, ban tên thuỵ để tỏ ra điển cổ, ân nghĩa là ở đó; truy khen để long trọng nghĩ văn. Chọn được ngày lành, ban ra sắc chỉ: Nghĩ rằng: tuyển thị Hồ nếp nhà trâm anh cao quý, nết người hiền dịu thanh tao. Chốn khuê phòng thường giữ đoan trang, làm không trái đạo; nơi tiềm để sớm nêu hiền hậu, để lại tiếng hay. Vừa ứng điềm hùng (6) ân sủng đương được đằm thắm; vội tỉnh mộng kiến (7), tuổi trời chưa hưởng được nhiều. Nghĩ người khuất đi, rất là thương xót. Đặc sai sứ thần bưng sách bạc tặng phong làm Chiêu Nghi, thuỵ là Thuận Đức. Mong rằng: nhận lấy huy kính theo sắc mệnh, để thoả linh hồn người đức tốt ngày xưa, để lâu hưởng ơn nêu khen vẻ vang mãi mãi. Năm thứ 7, là năm Bính Tuất, truy tặng cha sinh ra hậu là Hồ Văn Bôi là Nghiêm Vũ Tướng quân Thượng hộ quân Đô thống, mẹ là Hoàng thị làm Nhị phẩm phu nhân. Năm thứ 17, là năm Bính Thân, tấn tặng lên làm Tần phi. Sách văn rằng: Thánh nhân nhân lòng người mà đặt ra lễ, điển nghi tự có phép thường; vương giả trọng đạo hậu để mà ban ơn tỏ ra đặc biệt. Ngày tốt đã hợp, sắc https://thuviensach.vn chỉ ban ra. Nhớ lại: nguyên tặng phong làm Chiêu Nghi là Hồ thị khi trước, dòng dõi nhà tướng phiệt họ sang, thể chất tựa quỳnh dao ngọc quỹ; giữ đạo phòng khuê, khi ở tiềm để, đã nêu đức hạnh tốt hay; rủ nhiều bóng cả vì ở cây cao, để phúc đông dài đàn lũ. Hoa tai vàng đã lâu khuất vẻ; quản bút để còn thấy ngát hương. Nghĩ năm xưa ân cách ban ra, điển tặng phong đã lừng hương ngát; đến ngày nay cung giai mới định, tên vinh dự thâm thoả hồn thơm. Lại ban điển thường, để đều nhuần thấm. Nay đặc ơn tấn phong nàng làm Tần phi, vẫn tên thuỵ là Thuận Đức. Mong rằng: kính theo mệnh lệnh quý trọng, nhận lấy tên gọi vẻ vang, một chữ sắc phong, thâm thoả linh hồn chín suối; nghìn thu thờ cúng, còn dài hương khói lâu đời. Bèn sai Tiền quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự là Phan Hữu Tâm sung làm Chánh sứ; Thượng thư bộ Lễ là Phan Huy Thức sung làm Phó sứ, cầm cờ tiết, bưng sách vàng kính đến từ đường làm lễ tuyên phong. Năm thứ 19, Mậu Tuất, mùa đông tháng 10, xuống sắc đổi dựng đền thờ ở xã Vạn Xuân, bờ bên Tây sông Hữu hộ thành. Năm thứ 20, Kỷ Hợi, mùa hạ, tháng 6, rước thần chủ về thờ ở đền mới. Năm đầu Thiệu Trị, Tân Sửu mùa xuân, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế ở ngôi. Tháng 3 nhuận, các quan dâng biểu xin truy dâng huy hiệu Cao Hoàng tỷ (8). Biểu rằng: hiếu không gì to bằng làm cho bề thân rạng rỡ, lễ không gì trọng bằng tặng lấy danh hiệu tôn vinh. Cho nên vương giả chịu mệnh, truy tôn người sinh ra mình. Đó là nghĩa thường xưa nay. Kính nghĩ: Thuận Đức Thần phi Hồ thị … đức hiền nết tốt, dòng dõi danh giá, sáng suốt gây điềm, giúp cho xã tắc. Theo lễ nên truy dâng huy hiệu. Vua liền thỉnh mệnh bà Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu (9), vâng được dụ rằng: Thuận Đức Thần phi Hồ thị là kính vâng Thế Tổ Cao Hoàng Đế cùng già này đã cẩn thận chọn con gái trưởng của công thần Hồ Văn Bôi sung làm sánh đôi với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế. (Hồ thị) là người nết na, thuần thục, đoan chính hiền lương, được Nhân Hoàng Đế vốn kính trọng yêu mến; lại khéo hầu hạ Thế Tổ Cao Hoàng Đế và già này, được hết đạo hiếu. Cho nên Thế tổ đặc biệt ban cho tên hay (10). Nay tích đức để phúc, sinh được cháu trưởng, để nối nghiệp lớn, nguồn là từ đấy mà https://thuviensach.vn có. Than ôi! Phi chết sớm không kịp trông thấy ngày nay, há chẳng thương sao! Nhân Hoàng đế lòng thương vợ cả, nên hậu ban ân lễ, cho thụy là Thuận Đức, phong là Thần phi, ở ngôi 21 năm mà trong cung vẫn dành hư vị đợi chờ, không phải là không có ý. Nay các quan có lời tâu lên đế và hậu cùng tôn, là lễ chính đáng, là lễ nên thế, rất hợp với lòng của lão tổ mẫu này, lại có thể yên ủi được Nhân Hoàng đế không quên tình vợ xưa vậy (11). Chuẩn cho hoàng đế cháu ta, dụ cho các quan biết. Vua vâng lệnh chỉ của bà, dụ sai các quan họp bàn. Khi mới bàn được 12 chữ sai Thọ Xuân Vương Miên Định, tâu cung Từ Thọ (12) biết. Được Thái hoàng Thái hậu dụ rằng: "Tôn thụy của Nhân Hoàng hậu cũng nên như tên thụy của Cao Hoàng hậu". Bấy giờ các quan lại bàn lại, và tâu nói: "Trời đất hợp đức thánh nhân làm theo, duy có thánh nhân vâng theo lệnh trời, duy có hoàng hậu sánh với hoàng đế. Nhà nước ta, thánh thần nối nhau, hướng được lòng trời, công đức không dời đổi, đế và hậu đều ngang nhau, để tỏ rõ nối đức cũ của người xưa, mà lòng hiếu có thể làm mẫu mực được. Kính nghĩ: Thuận Đức Thần phi Hồ thị … khoan rộng vốn là bản tính, kính nghĩa định tên tự trời. Lòng từ ái chan chứa chốn tiên phòng, đức tốt đẹp nối thơm nơi kinh thất (nơi cung vua), Tổ bà có lệnh, nghĩa vợ cả vốn đã rõ ràng; con thánh sinh ra, điềm tuân triết đã từng rõ rệt. Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế ta ngự ngôi 21 năm, tuy vị hiệu trong cung chưa kịp truy xưng, mà nghĩ đến gươm xưa, lòng thánh đã định từ trước. Phong tặng là Thần phi, tên thụy là Thuận Đức, là ý đức sánh ngôi vua, thuận theo đạo đất mà tỏ bảo là đáng làm người mẹ cho thiên hạ vậy. Kinh Dịch nói: đạo khôn là thuận theo vậy, vâng mệnh trời mà làm, vì là rất nhu thuận có thể sánh với chí kiện, để tạo nên công che chở, thì đức trong thiên hạ còn có gì tốt hơn được thuận chăng? Thế cho nên để tán dương bốn đức của quẻ Khôn, trước hết phải nêu ra bốn đức của quẻ Càn là: nguyên, hanh, lợi, trinh (13) để sánh vào. Mà suy ra là chính ngôi, ở phận dưới, là đến sau có phúc, là muôn vật nhờ đấy mà sinh sống, là đức tết đẹp ở trong, là đức hóa sáng suốt, là lâu thì càng trinh chính. Tuy mọi điều hay không gì là không đủ, https://thuviensach.vn nhưng đều gốc ở đức thuận mà ra cả Nếu không phải là bậc đức tốt sáng tỏ đến xa, há dễ ai được những điều ấy. Bọn chúng tôi kính vâng suy rộng cái ý ban đầu của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế ban cho tên thụy, mong để hợp với định luật rất công của thiên hạ muôn đời sau. Vì đã có đức thuận, cho nên giữ trong lòng thì: đoan trang để bảo thủ đức nguyên, trinh chính để giữ gìn đức kiện; tĩnh để nên hóa thì tức là cung, lợi để hợp nghĩa thì tức là hoa; có thể sánh trời mà ở chính ngôi, có thể chứa phúc mà sau được tốt; có đức hậu để chứa chở muôn vật, tức là từ, có đức tốt mà phát ra sự nghiệp, tức là huy; biết sự sáng tỏ to lớn tức là minh, yên giữ trinh chính thịnh tốt tức là hiền. Đó đều là ở trong đức thuận mà có những sự tốt đẹp tự nhiên ấy. Rất mực thay! To lớn thay! Xin kính cẩn thuật lại những công việc tỏ ra hơn hết là như thế. Lại, xét về quy chế ở miếu, thì hoàng hậu đem lên thờ ở miếu, cùng với tên thụy ở miếu cùng giống nhau. Vâng bàn truy dâng tôn thụy là Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu. Để cho thiên hạ đời sau biết mà trông vào, ngõ hầu trên có thể hả được lòng của hoàng thượng ta truy báo đạo hiếu, dưới có thể yên được nguyện vọng của ức triệu người mến đức nhân từ vậy. Nghị ấy tâu lên, được châu phê (14) là "được, y lời bàn". Tấn tôn đền thờ gọi là điện Vĩnh Tư. Sắc cho bộ Lễ kính kiểm xét các đồ thờ, thứ gì cần chế tạo mới thì theo từng hạng mà làm mới; trước sơn mà đỏ thì nay đổi sơn màu vàng, trước chạm hình con giao long, thì nay đổi chạm hình rồng phượng; áo, đai và đồ lỗ bộ đều chế theo kiểu hoàng hậu. Tháng 4, ngày 16 là ngày Canh Tý, truy dâng tôn thụy là: Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu. Sách văn rằng: muốn sinh ra hình, nhờ có khí hóa ra trước, mà đạo trời mới thành: muốn họp bề thân, cần phải cung kính bề thân, mà đạo người mới đủ. Cho nên, dựa vào cha để kính thờ mẹ, gốc ở đất để sánh với trời. Quy chế ở miếu thờ, nghĩa cũng giống nhau; tấm lòng của con hiếu, người nào cũng thế. Kính nghĩ: Hoàng tỷ Thuận Đức Thần phi bệ hạ, dấu đức sáng ứng với đạo đất, giữ đức thuận vâng theo đạo trời; dòng dõi công thần, https://thuviensach.vn phúc hiệp điểm tốt. Làm theo việc đức, sớm ứng phúc lành. Hoàng khảo Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế ta khi còn ở tiềm để, hoàng tổ có mệnh lệnh, sai nộp lễ nghinh hôn; về làm dâu với nhà vua, mới gây nền phong hóa; ngầm giúp trong buổi duy tân mệnh lớn, hợp với được thấy đại nhân buổi đầu; chứa ở trong lòng, thì đoan trang để vững tâm trí, trinh chính để giữ đạo thường; phát ra bên ngoài, thì cung kính mà có chừng mực, ôn hòa mà hợp lẽ phải. Gây nguồn phúc sáng tỏ to lớn, về sau được hay; dấu đức tốt rủ bóng từ bi, với nhân cùng thể. Nối theo tiếng tốt, lòng hiếu được Thánh từ khen đã từ lâu; để trống chính cung, nết hiền được hoàng khảo vẫn tưởng nhớ đến. Trời trên xét tới, phúc lớn ban cho; miếu mới phụng thờ, nghiêm vẻ khói hương ngào ngạt; cung giai (15) tốn tặng, để nêu tiếng tốt lâu dài. Càng lâu càng rõ ràng, hợp với đạo quẻ Khôn rất thuận; lưu hành mãi không nghỉ, sánh với đạo quẻ Kiền không cùng. Đức tốt để lại về sau, tất có danh tiếng; lòng thành đã đỉnh từ trước; rồi được hiển vinh. Thần, nối giữa tên miếu phụng thờ, lâu nhớ công ơn sinh dục; lễ có điển truy tôn huy hiệu; lòng vẫn nghĩ hiển dương bề thân. Nói về ân thì tôn kính gồm hai, nói v nghĩa thì trong ngoài như một. Bèn trước hết tâu lên cung Từ Thọ được Thánh Tổ Mẫu Thân Tuyên Thái Hoàng Thái Hậu xuống chỉ ưng thuận. Kính chọn ngày lành, cáo yết các miếu và bàn thờ tiên đế, thân đem phủ Tôn nhân và các quan văn võ; kính rước sách vàng, ấn vàng truy dâng tôn thụy là Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu. Kính xin: nhận lấy xưng hiệu lớn lao, rộng gây khuôn mẫu tốt đẹp, anh linh chứng giám miếu mới, đều cùng thờ phụng đến ức năm; dài lâu ban bố điềm lành, được nhiều phúc tốt đến muôn thuở. Ngày Tân Sửu, đề thần chủ làm thánh vị. Hôm sau ban ân chiếu cho trong ngoài. Chiếu rằng: trẫm nghĩ đất dày chở muôn vật, đức tốt có thể hợp với trời; hễ quý tôn bề thân, truy tặng để mà nối đạo hiếu. Thơ Trường Phát ca ngợi họ Hữu nhưng để khen Huyền Tổ (16) vì lấy nghĩa sinh ra nhà Thương; thơ Đại Minh xuý tụng bà Thái Tự, sánh với Văn Vương, vì nguồn phúc mở ra vua Vũ. Từ xưa chúa hiền vua giỏi, nối dõi lên ngôi, nhớ https://thuviensach.vn lại nguồn gốc thiên luân, hết đạo hiển dương cha mẹ. Thế là để rõ lễ, mà là đạo hiếu thông thường vậy. Kính nghĩ Hoàng tỷ Thuận Đức Thần phi, cùng đạo nhân một thể, giúp đức kiện nên công; lợi công dụng mà trinh lâu dài, lượng bao hàm hợp với đức quẻ Khôn dung chứa; đều hoàn bị nên sau tốt đẹp, đức quang minh tỏ ra đạo quẻ Ly kính tin. Nhớ lại Thế Tổ Cao Hoàng Đế nghĩ đến mưu xa, tính sẵn có cháu nối nghiệp ở Phong Thủy; đương khi Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế còn ở tiềm để, đã tìm cho người sánh đôi ở Hợp Dương. Em gái trời đâu bỗng sinh ra, chính hợp Chu kinh vận tốt; ngày tháng lành sớm làm lễ cưới, thuộc về Sân ấp con dòng. Sánh đức tốt mà làm theo, họp cả tri năng của trời đất; có uy nghi đáng bắt chước, đủ làm khuôn mẫu cho nước nhà. Tính trời đem nhất trinh thần, sửa mình báu, để người sau hâm mộ tiếng hay; phong hóa của thiên Cát Đàm, Quyền Nhĩ khi xưa, chốn cung vi còn lưu khuôn ph Hoàng tổ khảo, hoàng tổ mẫu, mừng rằng có lòng hiếu thảo tất có phúc thừa; đời tử ta, đời tôn ta, nhờ được để đức nhân từ, hẳn sau thịnh vượng. Chốn khuê môn để lại phong hóa, thiên Đại Nhã thực bởi đó gây nên; cung vua nối giữ tiếng hay, thiên Nhị Nam còn dài lâu xưng tụng. Đức sáng để lại mãi, được lòng trời thầm lặng xét soi; nết tốt được truy khen, mệnh Tiên đế bao phong long trọng. Tặng làm Thần phi để tỏ ra là vợ cả, cung Trường Thu ngôi chính còn để không; thụy là Thuận Đức để nêu làm mẫu nghi, nghĩa là gươm cũ trong lòng đã dự định. Ta là kẻ tiểu tử này, kính theo chí người trước, rất nghĩ đến bề thân. Ta lớn thay trời hóa ra khí, rất mực thay đất sinh ra hình, cùng nhớ ơn sâu khôn xiết; đã tôn kính ông có công liệt, lại tôn kính mẹ có văn đức nối theo đạo hiếu vô cùng. Cùng tôn đều kính, cả trong ngoài như một; chính ngôi tôn hiệu là điển lễ rất lớn đó. Đã được dụ chỉ của Thánh Tổ Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu chuẩn y, bèn kính cáo các miếu và bàn thờ tiên đế. Ngày 16 tháng này, thân đem phủ Tôn nhân và các quan văn võ, kính rước sách vàng, ấn vàng truy dâng tôn thụy lên Hoàng tỷ. Nhân bề thân để lập ra yêu kính, lễ giáo đã thuận tình người; cho phúc lành mà rộng mở ơn ban, thấm khắp đến cả muôn họ. Vậy ban xuống ân điển gồm 12 điều. Than ôi! Tôn sùng nhất https://thuviensach.vn thiên hạ để báo đáp, chưa hết lòng hiếu của ta; tấm lòng của bốn phương đương mong chờ sao cho đời được hưởng phúc. Sau dâng tên lăng là lăng Hiếu Đông, hợp tế ở điện Sùng n lăng Hiếu Đông, để tỏ là cùng tôn cả. Ngày tháng 5, suy tặng họ Hồ ở quê ngoại. Dụ rằng: từ xưa đế giỏi vua hiền, lấy đạo hiếu để trị nước, cho nguồn phúc được dày, xét điển chương còn đó. Nghĩ đến: công thần Nghiêm uy tướng quân, Thượng hộ quân Đô thống, là Hồ Văn Bã mất, giúp đỡ trong buổi trung hưng, công lao ghi ở sử sách. Sinh ra Hoàng tỷ Nhân Hoàng hậu ta, điềm lành chung đúc, phúc tốt lớn lao. Trẫm tham xét điển xưa, noi theo phép trước, nên gia tặng hàm Đặc Tiến Tráng Vũ Tướng Quân Tả Quân Đô Thống Phủ Đô Thống Chưởng Phủ Sự Thái Bảo, thụy là Trung Dũng, phong là Phúc Quốc công. Chính thất Hoàng thị phong làm nhất phẩm Phúc Quốc công phu nhân, thụy là Ý Thuận. Trước khi làm lễ phong tặng đem việc kính cáo điện Vĩnh n, sai bộ Lễ làm thần chủ. Đến ngày ấy, sai quan đến truyền việc gia tặng và đề chủ, làm lễ phần hoàng (17) yên vị. Dựng đền thờ riêng ở xã Xuân Hòa, thuộc huyện Hương Trà. Ở quê quán cũng cho dựng từ đường, đều gọi là Hồ tộc từ đường. Lại truy tặng tổ là Hồ Văn Lãng làm Nghiêm Vũ Tướng Quân Cấm Binh Thống Chế Long Khánh Hầu, thụy là Đôn Chính; chính thất Đỗ thị làm nhị phẩm phu nhân, thụy là Nhụ Mẫn. Tằng tổ (không biết tên) làm Anh Dũng Tướng Quân Cấm Binh Vệ Úy tập Phúc Bá, thụy là Cẩn ý; chính thất (không biết tên) làm Thục nhân, thụy Ôn Tĩnh. Cao tổ (không biết tên) làm Minh Nghĩa Đô Úy Tinh Binh Vệ Úy Linh Chiểu Tử, thụy là Trực Lượng; chính thất (không biết tên) làm Cung nhân, thụy là Gia Thận. Tiên tổ (không biết tên) làm Minh Nghĩa Đô Úy Chư Quân Hiệp Quản, thụy là Tráng Hiệu; chính thất (không biết tên) làm Cung nhân, thụy là Lương Thục. Lại ấm thụ cho 4 người họ thân làm đội trưởng, coi giữ các đền; thu thuế đinh cho người làng 30 năm, thuế điền thổ 3 năm, cùng với họ Trần ở Văn Xá cũng thế. Lại cho là họ Hồ từ đời thứ tư trở về trước, không rõ thế thứ, sai tỉnh thần Biên Hòa tra hỏi để tâu lên. Mùa thu, tháng 8 ngày 20, rước thần chủ thờ chung vào điện Hiếu Tư. Còn nhà từ cũ vâng lệnh cho dỡ đi. https://thuviensach.vn Năm thứ 3, Quý Mão, mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 9, rước thần chủ thờ chung ở gian tả nhất nhà Thế miếu; rước thánh vị hợp tự ở gian tả nhất điện Phụng Tiên; rước thánh vị hợp thờ ở điện Hiếu T Năm Tự Đức thứ 5, đổi Hồ tộc từ làm Dụ trạch từ, hàng năm chi tiền công để cung việc thờ cúng. QUYỂN 2 TRUYỆN CÁC HẬU PHI - MỤC II Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu (tập Thượng) Hiến Tổ Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu Phạm Thị, người ở Tân Hòa, Gia Định, con gái của Lễ bộ Thượng thư tăng Cần chính điện Đại học sĩ, phong Đức Quốc công; Phạm thị (họ Phạm khác) phong làm nhất phẩm Đức Quốc công phu nhân. Sinh vào ngày 9 tháng 5, mùa hạ, năm Gia Long thứ 9. Lúc nhỏ thích đọc sách, thông nghĩa lớn kinh sử, có đức hiền. Đến năm 12 tuổi, phu nhân là mẹ của hậu bị bệnh, chỉ thích nằm một mình, tất cả người nhà không ai được gần gũi hầu hạ, hậu ngày đêm hầu hạ cơm thuốc, không rời bên cạnh. Đến khi phu nhân chết, hậu ngày đêm kêu khóc không thôi, giữ tang thương xót chẳng nghĩ gì thêm, như người đã trưởng thành, xa gần nghe biết đều tấm tắc khen là lạ. Năm 14 tuổi, Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu nghe tiếng hiền, tuyển vào cung sai hầu Hiến tổ khi còn ở tiềm để. Hậu là người có đức trang kính, giữ nết thuận tòng, được vua (18) rất yêu. Bấy giờ con gái của Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhân là Lệnh phi cũng đồng thời vời vào. Lệnh phi vì tước của cha, nên vị thứ ở trên. Có một hôm, Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế cho mỗi người 1 áo sa cổ thường thêu hoa vàng. Đến khi bái từ được Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu ban cho mỗi người một chiếc cúc áo vàng, một thứ chạm hình con phượng, một thứ chạm cành hoa, nhưng phong giấy kín và khấn trời rằng: "Ai được chiếc cúc chạm hình phượng, thì có con trước", rồi sai nữ quan đem ban cho, bảo mỗi người lấy một phong, nhưng không được mở ra, cứ để nguyên phong tiến lên. Hậu nhường Lệnh phi lấy trước. https://thuviensach.vn Kịp đến khi đệ tiến mở gói ra, thì Lệnh phi được cúc chạm hoa, hậu được cúc chạm phượng. Năm 15 tuổi, sinh trưởng công chúa Diên Phúc; cách một năm lại sinh thứ trưởng công chúa. Từ đấy càng ngày càng được thêm yêu quý, địa vị thành ra ở trên. Hậu đối với Lệnh phi riêng có lòng yêu quý nhau lắm. Còn các cơ thiếp, cũng đều lấy lòng thành thực dẫn tiến, đều được nương nhờ, lại có nhân đức kể cả đối với người dưới. Một đêm kia, mộng thấy thần nhân áo rộng đai to, tóc bạc, lông mày trắng, mang một tờ giấy vàng viết chữ son có đóng dấu và một chuỗi minh châu trao cho, bảo là "xem đây để nghiệm về sau". Hậu nhận lấy rồi sau có thai, sinh ra Dực Tôn Anh Hoàng Đế ta, quả nhiên hợp với mộng. Hậu là người đoan trang nhàn nhã nghiêm túc cử chỉ có độ lượng. Trong cung những khi tuế thời triều mừng, vua thường sai theo ban làm lễ, đều hợp nghi tiết. Người ta thấy dáng điệu tôn nghiêm, trông mà đáng sợ. Những người ngoài xem hoặc cho là kiêu. Khi ấy có một mụ già ở sau nhà, đêm mộng thấy thần nhân bảo rằng: "Người ở chính giữa nhà trước, tức là hoàng hậu, bọn ngươi rất ngu, chớ có khinh thường". Mụ tỉnh dậy, đem mộng ấy báo cáo. Thần cơ dự phần nhiều có triệu chứng như thế. Năm đầu, Thiệu Trị Hiến Tổ Chương Hoàng Đế lên ngôi, phong làm cung tần. Năm thứ 2, có việc bang giao, ngự giá Bắc tuần, sung vào chân đi theo hầu. Khi ấy cung tần theo hầu rất ít, hậu ngày đêm hầu hạ bên cạnh, phàm những ấn báu, vật làm tin, đều giao cho hậu giữ cả. Kịp khi ngự gi đến cung, cung nhân thấy hậu đầu tóc thưa rụng, nét mặt gầy xạm, đều lấy làm lạ hỏi chuyện. Vì là tấm lòng kính cẩn lo nghĩ nhiều mà ra thế. Lại thường làm chức Thượng nghi coi giữ 6 chức thượng (19), phàm việc trong cung khổn đều giúp đỡ cả. Vua mỗi khi nhàn rỗi, đọc sách đến nửa đêm chưa đi ngủ, hậu hầu hạ không mỏi, hoặc có khi đến gà gáy mới ăn bữa đêm. Lại thường khuyên răng các người tần ngự cung nhân đều chăm công việc. Khi được ơn huệ không tranh cạnh với người. Hễ ai có lỗi, thì mình đứng nhận thay. Vì thế thường được ban ơn yêu quý. Năm thứ 3, mùa hạ, tháng 4, sách phong làm Thành phi. Sách văn rằng: kinh Dịch có quẻ Gia Nhân, nên đức tốt về lễ độ trinh chính; kinh Lễ có thiên Nội Tắc, tỏ đạo cả về thứ bậc luân thường. Chọn ngày tốt lành, ban ra sắc mệnh. Nghĩ nay: Cung tấn làm Phạm thị,văn phép vốn nếp nhà https://thuviensach.vn dòng dõi, phong tư như chất ngọc trắng trong; kính sửa túi khăn, khi tiềm để đã lâu tin tức tốt; đông nhiều con cháu, chốn khuê phòng đều mát mẻ gió hòa. Đoan trang nối sánh tiếng hay, chăm kính thêm dày nết tốt. Kịp khi trẫm lên ngôi báu, gây khuôn mẫu cho phong hóa buổi đầu tiên; đến nay định lại cung giai, cần nêu khen người đức hiền thêm rạng rỡ. Đã xét điển cũ, ban cho trật tôn. Nay tấn phong nàng làm Thành phi, nàng nên nhận lấy xưng hiệu mới vẻ vang, chăm lo công việc trong khuê khổn. Kính theo khuôn phép, nhớ trong lòng chớ sai; lâu chịu ơn vinh, mãi về sau không hết. Năm thứ 6, mùa xuân, tháng giêng, tấn phong làm Quý phi, sai đại thần là bọn Vũ Quân Cẩn, Tạ Quang Cự bưng sách vàng đến tuyên phong. Sách văn rằng: trẫm nghĩ, nguồn gốc cây nên phong hóa, trị nước cốt ở nghiêm sửa trong nhà; triều đình ban xuống ân vinh, trước người nhà sau mới đến người khác. Ngày tốt đã hợp, sắc phong ban ra. Nghĩ nay Thành phi Phạm thị, nghi lễ nhà dòng, đoan trang nết tốt; như ngọc trong sáng, nên khuôn hòa kính, cung giai 9 bậc đứng đầu; đông nhiều con cháu, đầm ấm khí hòa, phong hóa nhị nam gây mới. Phụng dưỡng giữ đạo trong khuê khổn, hòa vui hả dạ cung Từ Ninh; tuổi hoa bốn chục xanh tươi, phần hưởng thụ còn nhiều phúc lớnức tốt sáu cung tiêu biểu, điển bao phong xứng vẽ áo thêu. Đã xét điển thường, ban cho danh tốt. Nay tấn phong nàng làm Quý phi. Nàng nên kính vâng ân mệnh, giữ đạo cung vi; để dạ chớ quên, đức hòa nhu dùng làm khuôn mẫu; hưởng phúc không chán, ơn bao vinh rộng mãi lâu dài. Hậu được tấn phong bậc nhất, ngôi ở đầu 6 cung, thường thân đem các cơ tần, thay phiên hầu hạ cung Từ Ninh và vua. Bấy giờ Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu tuổi cao mạnh khỏe, Hiến tổ thể theo chí trước, mọi việc gì đều biết ý trước, đốn chí làm theo, nói năng dịu dàng, sắc mặt vui vẻ rất vui lòng từ cung. Hậu cũng vâng theo chiều chuộng, phàm có sai khiến ban cho gì, không cứ là lớn nhỏ, không việc gì không thuận theo thi hành, thường được đẹp lòng vui vẻ. Cho nên được yêu quý hơn cả. Tính hậu lại thông minh nhớ lâu, hết thảy việc cũ và nghe tuyên đọc các sách, giấy tờ gì, là hiểu ngay, không đợi mở xem, lại vua có hỏi đến, thưa rõ từng điều, không https://thuviensach.vn sót. Vua thường ngự điện Khâm Văn nghe chính, sai hậu ở sau tường nghe trăm quan tâu việc, lời vua huấn thị rõ hay không. Ở trong cung trước sau nuôi nấng các hoàng tử hoàng nữ, dạy dỗ không gì là không đến nơi. Lòng từ ái không thể thuật hết, vua thường ban khen. Phàm khi lên hầu hay khi triệu hỏi, thì gọi là "phi" chứ không gọi tên. Lại vâng dụ rằng: Phi tính hạnh đoan cẩn, nuôi nấng các con như con mình đẻ ra, có đức tốt có phúc, con cháu hẳn được nhờ ơn. Năm thứ 7, vua không được vui, hậu hầu hạ cầu khấn, ngày đêm không nghĩ đến ăn ngủ. Đến khi vua gần mất, mọi việc về sau, đều dặn dò ủy thác cho hậu. Lại diện dụ các quan rằng: Quý phi là nguyên phối (vợ cả) của trẫm, là người phúc đức hiền minh, giúp ta coi công việc trong cung cấm đã 7 năm. Nay ý trẫm muốn sách lập làm hoàng hậu chính ngôi trong cung, tiếc vì việc không làm kịp mà thôi. Đến khi Dực Tôn Anh Hoàng Đế lên ngôi, thân đem hoàng thân công, những tôn nhân, các quan văn võ cùng lời kêu xin cử hành lễ lớn tấn tôn. Hậu truyền dụ rằng: ta đem sớ văn, đã biết hoàng đế và các quan có lòng thành rồi. Nhưng nghĩ quan tài tiên đế còn quàn chưa được trăm ngày, đau thương luyến tiếc, không thể thôi được. Lại nghĩ: hoàng đế tuổi còn trẻ, chưa am chính thể, thường thấy buổi sớm chăm lo, buổi tối sợ hãi, chẳng tưởng ăn ngủ, lòng ta rất là thương xót. Vả lại, hoàng đế nhận mệnh lớn của trời, làm quân sư cho dân, phải lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau sự vui của thiên hạ. Phàm những lời tiên đế đã dạy bảo, mà hoàng đế đã vâng theo, nên ghi vào trong lòng để mưu nghĩ nối chí theo việc. Chỉ mong các thần phiên huân thần cùng nhau kính sợ, gắng sức hết lòng, để giúp đỡ chỗ hoàng đế không nghĩ đến, để lâu hưởng phúc trời, dân yên nước trị, thì ta còn có gì vui hơn nữa. Đó là những việc mà hoàng đế và các bậc thân huân nguyên lão nên phải nghĩ kỹ. Ta còn nói thừa chi nữa. Đến như việc xin suy tôn, không nên cử hành là phải. Năm đầu Tự Đức, mùa hạ, tháng 6, lại đồng từ kêu xin. Hậu lại truyền dụ rằng: lòng hiếu thảo của hoàng đế và lòng thành khẩn của các quan, ta đã biết cả rồi. Ta đương khi trong lòng thương buồn, ngày càng nhớ tiếc, chưa lúc nào quên, việc ấy chuẩn cho đợi khi Tây cung (cung của Hoàng thái hậu ở) khánh thành, sẽ cử hành cũng chưa muộn gì. https://thuviensach.vn Năm thứ 2, mùa hạ, tháng 4, ngày 15, là ngày Quý Sửu, cung Gia Thọ khánh thành. Vua rước từ giá dời ngự cung mới, tiến 3 vạn quan tiền kẽm. (Theo lệ mỗi năm tiến 2 vạn quan, năm có khánh hạ bội hơn lên). Ngày 23 là ngày Canh Thân, vua đem Tôn nhân, đình thần rước sách vàng, ấn vàng kính dâng tôn hiệu là Hoàng thái hậu. Sách văn rằng: thần nghe: đạo mẹ bắt chước quẻ Khôn, đức tốt sánh với quẻ Kiền gây mới; thánh nhân lập ra pháp độ, lễ cả gì bằng tôn kính bề thân. Đế vương từ xưa, nối phúc tốt giữ lâu mệnh lệnh lấy tên hay phụng sự từ thân là để tỏ phúc lành mà nêu đức tốt vậy. Kính nghĩ hoàng mẫu bệ hạ, vốn nhà dòng dõi tiếng thơm, sẵn có đức ân tốt đẹp. Giúp hoàng khảo gây nền phong hóa, phúc khắp nước nhà; dạy con nhỏ biết sớm siêng chăm, lợi cho xã tắc. Đức tốt hơn họ Đồ Sơn (20) giúp đỡ nhà tiếng hay như bà Sằn Tự (21) rạng tỏ nhà Chu. Mới rồi ức triệu người cùng lời, hai ba phen khẩn khoản nhưng thánh từ ban ra ý chỉ, vẫn cố khiêm nhường. Nay cung Trường Lạc làm xong, phúc nhà trời còn dài tụ họp; xét điển lịch triều để lại, ngôi thái mẫu cần phải suy tôn. Đã xin mệnh các miếu điện, thân đem các quan, rước sách vàng, ấn vàng kính dâng tôn hiệu là Hoàng thái hậu. Cúi xin: nhận cho xưng hiệu tôn quý này, hướng nhiều phúc tốt lâu dài mãi. Khang cường thêm tốt, ức muôn năm tuổi sánh bậc tiên; phồn thịnh về sau, muôn ngàn thuở còn nhà phúc lớn. Lễ xong, ban ân chiếu cho trong ngoài gồm 17 điều. Tháng 5, ngày 19, là ngày Ất Mão, kính gặp tiết Thánh thọ tứ tuần đại khánh, vua đem các quan kính dâng tờ kim tiền chúc mừng và biểu tâu, làm lễ mừng. Lễ xong, gia tặng cho cha sinh ra hoàng hậu là Phạm Đăng Hưng là Đặc Tiến Vinh Lộc Đại Phu Thái Bảo Cần Chính Điện Đại Học Sĩ, phong là Đức Quốc công, thụy là Trung Nhã. Chính thất Phạm thị phong là Đức quốc nhất phẩm phu nhân, thụy là Đoàn Từ. Dựng từ đường ở xã Kim Long. Tháng 7 gia tặng cho các đời trước họ Phạm quê ngoại, các đời trước đều được gia tước và thụy. Hiển tổ là Phạm Đăng Long truy tặng làm Từ Thiện Đại Phu Lại Bộ Thượng Thư Phúc An Hầu, thụy Trang Nghị. Chính thất là Phan thị làm phu nhân, thụy Đoan Khiết. Tằng tổ là Phạm Đăng Doanh truy tặng làm Gia Nghị Đại Phu Hàn Lâm Viện Chưởng Viện Học Sĩ Bình Thạnh Bá, thụy là Cẩn Lượng. Chính thất là Trương thị làm Thục nhân, thụy là Đoan https://thuviensach.vn Hà. Cao tổ là Phạm Đăng Tiên truy tặng làm Trung Thuận Đại Phu Hàn Lâm Viện Thị Độc Học Sĩ Mỹ Khánh Tử, thụy là Đoan Xác. Chính thất là Bùi thị làm Cung nhân, thụy là Đoan Cung. Tiên tổ là Phạm Đăng Khoa truy tặng làm Trung Thuận Đại Phu Thiêm Sự Phủ Thiếu Thiêm Sự, thụy là Hòa Mẫn. Chính thất là Nguyễn thị làm Cung nhân, thụy là Đoan Thục và dựng đền ở bên hữu đền Đức Quốc công. Năm thứ 11, Mậu Ngọ, mùa đông, vì sang năm gặp tiết Thánh thọ ngũ tuần đại khánh. Phủ Tôn Nhân, đình thẩn xin tấn tôn huy hiệu mỹ tự. Vua thân mang sớ văn kính tiến lạy xin ý chỉ. Được Thái hậu diện dụ rằng: xem tờ tâu đã rõ cả rồi. Nhưng nghĩ rằng: được hưởng sự phụng dưỡng của thiên hạ, nên lo cái lo của thiên hạ. Năm nay lúa mạ các nơi chưa được mùa cả, dân các địa phương chưa vui đủ cả. Chính là lúc hoàng đế phải chăm lo kính sợ, lòng ta sao nỡ thản nhiên. Vả, tính ta vốn cần kiệm, không chuộng phù hoa, chẳng ngờ ngày này chịu sự tôn vinh ấy, thường sợ hãi sửa mình không rồi, huống chi làm thêm hư danh, làm nặng nỗi bất đức của ta ư? Vậy việc xin ấy nên bãi đi. Chỉ mong các công và các quan kính giữ chức vụ, giúp việc chính giáo, để ta ngày thấy buổi thái bình thịnh vượng, thì còn gì vui hơn. Thế thì càng tỏ lòng thành của các quan tôn vua thân bề trên lo cho nước, thương đến dân, há không hơn hư văn xu mị ru? Đến sang năm gặp ngày sinh thứ 50 của ta, hết thảy các công việc nên làm, hoàng đế nên châm chước thi hành, chiếu theo thường lệ hàng năm, liệu gia thêm một hai phần, cũng đủ để hả lòng mọi người mà thôi, không nên quá vẽ vời, để xứng với ý của ta. Sang năm là năm Kỷ Mùi, mùa hạ, tháng 5, kính gặp khánh tiết. Trước ngày đó, từ các công chúa đến các nội đình, cung nhân, nữ quan đều có phẩm vật cung tiến, khẩn xin hiến vui chúc thọ. Bấy giờ trời đương ít mưa, vua sai kinh doãn cầu phúc với thần, lại mật đảo trong cung. Thái hậu xuống chỉ dụ rằng: mấy tuần không mưa, việc nông không tiện, ta còn vui gì? Nhưng không nỡ lại trái lòng mọi người. Hãy chờ sau khi được mưa sẽ lượng chuẩn cho cử hành một hai ngày, để hả lòng người dưới. Thái hậu thường hỏi đến thức ăn của dân, công việc làm ruộng, ngầm cầu đảo hộ cho dân. Đến ngày chúc thọ, được luôn mấy trận mưa rào. Vua thân đem các quan làm lễ Khánh hạ, làm lễ xong, lại được thái hậu dụ ngay https://thuviensach.vn trước mặt rằng: lòng thành chân thật, ta đã rõ cả rồi. Nhưng ta vốn tính không xa hoa. Đáng lẽ trả về toàn số, để tỏ quy tắc tiết kiệm, nhưng nghĩ rằng đã ân cần có lòng thành, nếu nhất khái bác hết, không khỏi đem đi đem lại, phiền phí khó nhọc. Trừ các hạng vàng ngọc quý lạ đã giao trả về, còn đều chuẩn cho thu nhận, lại đều thưởng cho ngân tiền có khác nhau, để tỏ ra thể tất. Vua bèn truyền chỉ cho các quan ở 2 bộ Hộ, Lễ biết. Tháng 6, ban ân chiếu cho người trong ngoài, thưởng cho làng quê ngoại 200 lạng bạc. Năm thứ 21, mùa đông, các quan cho là sang năm gặp tiết Lục tuần đại khánh, mọi người lại cùng lời tâu xin. Vua thân đem tờ văn tâu cung tiến, kính xin thánh chỉ y cho. Được dụ rằng: cứ lời lẽ trong tờ tâu, đã rõ hết lòng thành của hoàng đế và hoàng thân cùng các quan rồi. Nhưng ta nghĩ: Đức Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu ta nhân từ đức hậu, phúc tốt ban cho nước nhà, tấn phong huy hiệu, cố nhiên là phải. Còn thân già này đức bạc, đâu dám sánh tày được. Huống chi ngày nay biên cương chưa yên, cơ vụ còn nhiều, còn lòng nào vui riêng được? Nếu vin lệ cũ mà tâu xin, thì không hợp thời nghi, rất trái ý ta. Tạm hãy thôi đi là thỏa đáng hơn. Còn về khánh tiết sang năm, lễ nghi phải nên giảm bớt đi rất nhiều. Cả đến phẩm vật chúc mừng cũng nên châm chước mà làm, dâng một hai thứ thổ sản là đủ biểu hiện lòng thành, chớ quá xa xỉ, để hợp ý ta. Vua vâng theo chỉ dụ của thánh từ, truyền bảo cho các quan biết. Tháng 5, kính gặp khánh tiết, vua sai Gia Hưng Công Hồng Hưu kính đến điện Long An cáo yết. Ngày hôm sau rước từ giá kính đến chiêm bái. Rồi sai Tả Thị lang bộ Lễ Phan Đình Bình đến đền Đức Quốc công kính cáo. Đến ngày ấy, vua thân đem hoàng thân, văn vũ trăm quan đến cung Gia Thọ chúc mừng. Sai Tuy Lý Quận vương Miên Trinh bưng kim tiên chúc mừng, Kiến Thụy Công Hồng Y bưng mâm rượu, Hoằng Tri Quận công Hồng Tố bưng chén rượu làm lễ Thượng thọ. Vua tiến bài chúc tụng lục tuần đại khánh và cả bài tựa. Lời tựa rằng: thần nghĩ, có đức lớn tất có vị, có lộc, có danh, có thọ, mà sở dĩ được như thế, há không có nguyên do sao? Nhưng khắp trong khoảng trời đất, không gì là không có đôi, quẻ "Càn" mà không có quẻ "Khôn", không thể diễn ra được 8 quẻ để ứng muôn vật, khí âm không có khí dương, không thể vận chuyển được 5 khí để sinh muôn https://thuviensach.vn vật. Cho nên vua nhận ệnh trời phải có người đức lớn làm sánh đôi để làm cha mẹ muôn dân, mà chính nguồn gốc của giáo hóa. Kính nghĩ Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ ta, vốn nhà nề nếp con dòng, làm nguyên phối với hoàng khảo ta, về lời hay nết tốt, nhân từ đức hóa, tiếng đồn trong thiên hạ từ lâu. Cho nên nhờ phúc thừa của hoàng khảo ta, hưởng chịu mệnh trời, gồm 4 thứ phúc ấy mà làm mẫu nghi thiên hạ, họp cả phúc của thiên hạ để làm phúc của mình. Khang cường hưởng phúc, 5 tuần lên đến 6 tuần rồi đến mãi muôn muôn tuổi, nghìn nghìn tuần, sánh với đức rộng dày, cùng với đức cao sáng mà lâu dài vô cùng vậy. Nay Tự Đức năm thứ 22, là năm Kỷ Tỵ, tháng 5 là tháng Canh Ngọ, ngày 19 là ngày Canh Dần, lại kỷ niệm Đại khánh tiết Thánh thọ lục tuần. Nước Đại Nam ta, từ Nam chí Bắc các thân thiếp lớn nhỏ và sĩ thứ trong ngoài đều vui mừng sung sướng xem khánh tiết, chúc thánh đức, dâng tôn hiệu tốt đẹp tỏ đức sáng rõ ràng. Để tỏ ra nguyện vọng tôn thân, không hẹn mà giống nhau, cùng một lời nài xin đến ba bốn lần, thực là do tự lòng thành không đừng được. Kể ra, tính trung hiếu người ta giống nhau, thì nguyện vọng biểu dương cũng không thể không giống nhau. Đạo con thờ cha mẹ, tuy kiệt sức lực chịu gian lao, đem hết đồ trân cam của 4 biển 9 châu, cũng chưa đủ phụng dưỡng, Duy có kính nêu ra đức tốt, để lại danh hiệu lớn đến mãi không cùng, mới có thể hả được lòng mọi người. Nhưng mà lửa sáng của đom đóm không ích gì cho mặt trời mặt trăng, chỉ bày sự vui, đưa lòng thành để chìu chuộng một người mà thôi. Ở người còn thế, thần lại mong mỏi hơn. Nay gặp khánh tiết, chính là phải lúc, lễ lại nên thể. Thiết nghĩ: soi xét đến tình kẻ dưới, tất được dụ chỉ ưng thuận. Nhưng lòng thánh khiêm nhường, không lấy việc thiên hạ phụng dưỡng làm vui, chỉ lấy việc của thiên hạ làm lo chẳng dám ví với tiền thánh, đã khước từ mà chẳng nhận, lại khuyên lấy đạo vua tôi mưu trị, sửa lỗi, càng thấy lượng như trời biển không phải như kẻ lấy ống nhòm tượng trời, lấy bầu đong nước biển mà nói lên được. Mà thể theo tượng quẻ khiêm, ngôi cao mà biết nhũn, thế là khiêm nhượng, ngôi tôn mà càng sáng tỏ vậy. Nếu không phải là bậc đức lớn thì được dự vào đấy. Điều ấy thần dân đều nghe biết đều kính mộ, mà thần hằng ngày nghe dạy dỗ, thần thấy được tốt đẹp, càng là mật thiết. Tình tha thiết như thế, nên sinh ra https://thuviensach.vn văn, không phải vì thiển lậu mà tự im lặng được. Kính chắp tay cúi đầu dâng bài tụng để biểu dương đức tốt của thánh từ được một phần trong muôn phần vậy. Tụng rằng: 1 - Trời yêu nước Đại Nam, Thánh thần đời truyền nối, Đã cho hoàng khảo ta, Lên ngôi tôn nối dõi, 2- Lại tìm người phối hợp Mẹ ta đáng sánh đôi, Không phải tự trời định Ai thể sánh được Ngài, 3- Tất được nhiều phúc tốt, Tất có lắm điều hay, Đức cũ chứa để lại, ạng rỡ hẳn có ngày, 4- Tham xét điển lễ xưa Lại vâng lời dặn lại, Lời vàng ngọc rỡ ràng, Biểu dương và khen ngợi, 5- Đức khôn nguyên chung đức, Điềm trăng sáng vào lòng (22) Sáng đỏ rọi sân trước (23) Áo vàng vào nhà trong (24) 6- Chẳng phải thấy ngựa lớn (25) Điều hay đã báo rõ, Chẳng phải bắn tranh công (26) "Thị Khang" biểu nêu rõ (27) 7- Trời phú cho đặc biệt, Chất vàng ngọc ai bì, Tự nhiên đúng khuôn dáng, Son phấn chẳng cần chi, https://thuviensach.vn 8- Không thèm học nghề vặt, Cần chi tập vá may, Tính nhanh, sáng trời phú Sách vở đọc hàng ngày. 9- Hiếu để lại hòa dịu, Không hề ai khác lời, Hầu nhà huyên kính cẩn, Được lòng ngài thường vui, 10- Không nề khi đau yếu, Hầu hạ liền ở bên, Chăm việc, sẻo thịt vế (28 Việc thường chi đáng khen, 11- Gặp khi người cháu trưởng, Đông cung đáng lập lên, Được hai cung yêu quý, Cẩn thận việc kết duyên, 12- Tất tìm người đức tốt, Nề nếp dòng danh giá, Đạo kiền khôn làm mẫu Hóa Quan thư giây ra (29) 13- Hiếu thảo nổi tiếng khen, Rồi đồn đi rộng khắp, Nương gần bóng thánh từ, Khuôn mẫu được học tập, 14- Họ Bạc, họ Cao, Tào (30) Riêng quý người họ ng Sao bằng bậc toản nữ (31) Chọn lọc dạy dỗ mãi, 15- Mười bốn tuổi kết duyên, Hoa đào đương tươi thắm, Xe loan đón rước về, Tiệc hoa vui vẻ lắm, 16- Đều chúc câu vạn tuế, https://thuviensach.vn Mong phồn thịnh muôn đời, Lệnh Quang đương vừa độ (32) Văn đức sớm sánh đôi (33) 17- Việc khăn lược chăm giữ, Việc nghiên bút theo dõi, Tiếng sắt cầm ăn nhịp, Tiếngông trống hòa vui, 18- Không đoan chính dịu dàng, Sao ân quan soi đến, Không đức tốt tiếng hay, Sao thân yêu quý mến, 19- Chẳng những bọn cơ thiếp, Tình tào khang thế nào? Mình làm nhiều việc tốt, Sủng mệnh được dồi dào, 20- Chẳng cỏ huân, cỏ du, Cúc chạm phượng chạm hoa (34) Đến khi mười lăm tuổi Con gái liền sinh ra, 21- Chí thánh không để ý, Mà hợp với cơ trời, Chí đức không tư vị, Vừa lòng cả mọi người, 22- Thơ giang dĩ không hối Dây sẵn nhờ bóng cây, Mình sau nhường người trước, Lòng thành thực vui vầy, 23- Không phải đi cầu khấn, Không dẫm vết chân to (35) Rất thành thực liêm chính Trời ngầm ban phúc cho. 24- Thoa ngọc bói đã nghiệm (36) https://thuviensach.vn Dấu son thần đem trình (37) Đức cù lao khôn siết, Dạ ghi tạc đinh ninh, 25- Chuyển động rồi Sinh ra rồi chăm nuôi, Lại vỗ về ôm ấp, Lại yêu dấu trông coi, 26- Rồi nuôi cho lớn khôn, Rồi dạy học sách vở Nào khuyên nhủ bảo ban Biết suy sét ghi nhớ. 27- Lúc bé bị vận kiểm, Gầy còm ốm liên miên, Người thân tự săn sóc, Bỏ ngủ ăn cũng quên, 28- Tuổi trẻ còn ngu lười, Không khỏi có tội lỗi, Thẹn không ôm gậy khóc (38) Lại được người thương 29- Cố nhiên cha dạy bảo, Nhờ mẹ mới nên người Khác gì bà Thái Nhâm, Dạy từ khi có thai, 30- Cũng là do bản tính, Không ham thích chơi bời, Chỉ thích đọc sách vở Xếp cạnh đọc làm vui, 31- Vả lại chỉ nhớ lâu, Việc lớn nhỏ thuộc hết, Dẫu xưa không chuyên chăm, Lâu ngày thành hiểu biết, 32- Trải bao tháng ngày qua, https://thuviensach.vn Không quên các việc cũ, Hoàng khảo có hỏi đến, Trả lời rất đầy đủ, 33- Ăn mặc chi dùng sẻn, Vì thế nên đủ dùng, Nữ công đã chăm chỉ, Lại có lượng bao dung, 34- Nói năng có điều độ, Mừng giận không lộ ra, Nghiêm, nhưng không nghiệt ác, Hiền, nhưng không xuề xòa, 35- Hàng năm buổi chầu mừng, Lễ nghi đều thao thuộc, Người ngoài xem kể chi, Cũng khó mà bắt chước, 36- Mụ già ngu sao biết, Thân báo mộng không sai Chỉ đáng cười một Biết rõ dễ mấy ai. 37- Hoàng khảo lên ngôi báu Cung giai đứng hàng đầu, Hai cung khéo chiều chuộng, Kính thất (39) mình là dâu, 38- Chiều chuộng bà Chu Khương (40) Khác gì bà Văn Mẫu (41) Hầu hạ hết sức mình, Thuần nhất nết càng hậu, 39- Khi Hoàng khảo đi chơi ngự, Hầu bên cạnh không rời, Làm việc không lúc rỗi, Đồ quý giao trông coi, 40- Đầu tóc biếng khi chảy, https://thuviensach.vn Nét mặt gầy sạm đen, Đạo tòng và đạo thuận, Việc phận sự không quên 41- Việc nấu nướng chăm lo, Việc buồng the nghiêm cẩn, Khuya sớm không biếng lười, Răn bảo rất cẩn thận, 42- Ơn huệ chia đều nhau, Giận mắng cũng dẹp hết, Yêu riêng không phải thiên Đức tốt không ai ghét, 43- Răn thần đừng chơi bời, Dục thần thường hầu hỏi, Cùng các con yêu khác, Cũng đều răn dạy tớ 44- Chỉ vì nết mềm dịu, Nên được lòng thương yêu, Chỉ vì tính chăm chỉ, Nên được bao vinh nhiều, 45- Trong 7 năm thấm thoát, Bốn sao (42) vị đứng trên, Chỉ bảo không ngờ vực, Đòi hỏi không gọi tên, 46- Bói thẻ lối hủ xưa (43) Tìm gươm tình nhớ cũ (44) Đến lúc bệnh gần nguy, "Nguyên phối" đã diện dụ (45) 47- Là thánh nên tinh thông Khiêm nhường vì có đức, Tiếc chưa kịp tôn phong, Trong lòng vẫn thắc mắc, 48- Hầu bệnh hàng mấy tuần Nghìn mối lo vấn vương, https://thuviensach.vn Như quạ mất hồn vía, Như sấm bên tai vang, Sầu gồm cả Lỗ, Ngạc (46) Lệ thấm như Anh, Hoàng (47) 49- Ngoài lo kẻ tuổi trẻ, Ngôi báu không phải dễ, Trong dạy các cung tần, Chia cho đều ơn huệ, 50- Theo lời huấn răn bảo, Trong nước được khang a Cung Trường Lạc tiêu khiển, Rất vui vẻ an nhàn, 51- Tôn quý nhất trong đời, Phụng dưỡng cả thiên hạ, Phụng dưỡng ngày thêm nhiều Nhưng không thích gì cả, 52- Gương mẫu tốt càng nhiều, Thích ăn chay không bỏ, Hay nghe đọc kinh sử, Đều thông hiểu tường tỏ, 53- Dạy bảo các con cháu, Thêm trí tuệ tinh thông Thuật lại công liệt trước, Răn bảo kẻ ngu xung,(48) 54- Mở rộng công liệt xưa, Lấy đạo trung làm gốc, Khi tế tự công tư, Dậy sớm để đôn đốc, 55- Lòng kính rất chân thành Lễ vật rất ngon lành, Đứng hầu không biết mỏi, Cảm động đến thần minh, https://thuviensach.vn 56- Báo ơn nhớ nguồn gốc, Không sót nơi gần xa, Vui mệnh trời, yên phận, Trước nước sau đến nhà 57- Ưa trung trực liêm chính, Ghét tham ô gian tà, Lòng nhân thương kẻ khó, Ghét du đãng xa ho 58- Việc dân sinh quốc kế, Hỏi đến được ban khen, Không can dự triều chính, Gia pháp rất cẩn nghiêm, 59- Không dùng người họ ngoại, Nữ tắc đã tinh sành, Tiểu hầu trong 4 họ (49) Kiểm thúc phải học hành. 60- Cẩn thận sau như trước, Khiêm nhường hưởng phúc trời, Thừa hưởng nhiều sự tốt, Sống lâu mãi trên đời, 61- Tuy vì ăn chay mãi, Sức mắt có kém đi, Người tôn nhiều nghĩ, No ấm có cần chi, 62- Trong lòng không lay động, Thần khí không sút hao, Nhờ phúc ấm để lại, Khí sắc vẫn hồng hào, 63- Nay đến tuổi nhĩ thuận (60 tuổi) Hơn xưa tuổi trí mệnh (50 tuổi) Sau khí tuổi đã cao, Càng thêm đức thuận chính, https://thuviensach.vn Nào phải là ngẫu nhiên, Thánh lại sánh với thánh, 64- Như mặt trời sáng lâu, Như mặt trăng chiếu tỏ, Như gió mát giải phiền, Như đám mây rực rỡ 65- Chén lá sen đưa thơm Quạt lá quỳ mát mẻ, Đào tiên, cây đại xuân (50) Truyện hoang đường chi kể, 66- Ai không là con đỏ, Dâng sưởi, tiến rau cần (51) Ai không cha mẹ già, Kính trên, tôn bề thân, 67- Tự Nam cho chí bắc, Xa đâu cũng cố đi, Huống chi kẻ tuổi trẻ, Mừng thọ biết lấy gì, 68- Thân đem các thần thiếp, Chúc mừng hầu cơm bữa, Rượu Vương Mẫu kính dâng, Áo sặc sỡ nhảy múa, 69- Chén chuốc nghiêng sao đẩu (52) Tung hô ba tiếng vang (53) Tiếng ca nhạc dìu dặt, Vẻ áo mũ rõ ràng, 70- Ngọc lụa lễ đủ hết, Chuông trống tiếng vui thay, Nào đúc vàng chạm ngọc, Đức sáng muốn tỏ bày, 71- Nguyện vọng của thần tử, Không hẹn mà hợp nhau, https://thuviensach.vn Nhưng vì đức khiêm tốn, Xin mãi đã được đâu, 72- Chưa khỏi lo việc nước, Là tội thần bất tài, Chất yếu ít thăm hỏi, Là tội thần biếng lười, 73- Hai lần xin chưa nghe, Rất thẹn và xấu hổ, Chỉ vì tình văn này, Là theo diễn lễ cổ, 74- Để ngài phải chiều theo, Sao bằng nên thừa thuận, Châm chước cho thích nghi, Không phải là sẻn lận, 75- Tiết mục giảm bớt đi, Lòng thành đủ dãi tỏ, Việc vui tạm hoàn thành, Ơn huệ khắp ban bố, 76- Càng lâu càng nhân từ, Đức bao dung càng rõ, Nguồn gốc tự người xưa Cung Tràng Thọ, Từ Thọ (54) 77- Cung Gia Thọ (55) nối tốt, Ba vị thọ đều cao, Đức nhà Chu đáng sánh, Phép nhà Tống hủ sao (56) 78- Lấy gì để khen ngợi, Khôn ví đức cao dầy, Lấy gì để chúc tụng, Trời giúp nhiều sự hay, 79- Duy lòng kẻ trẻ thơ, Vừa mừng lại vừa s https://thuviensach.vn Xin học ông Lão Lai (57) Luôn luôn lòng mến nhớ. 80- Ngày nào hay ngày ấy, Nhờ ơn trời độ trì, Việc không phải Lệnh Bá (58) Mà tình giống như y, 81- Tấm son không cùng tận, Có trời đất xét soi, Không dám quá xa vọng, Mong nương bóng lâu dài, 82- Ngự sự không biết rõ, Nữ sử khó tả ra, Đức hay dám bỏ sót, Chép thực bỏ chuyện ngoa, Trâu Kỵ chi khen tới (59) Trân Tư (60) dám đọ a. Ngày hôm ấy múa tam giác ở sân cung, hát và diễn kịch, ngày hôm sau diễn kịch ở nhà Duyệt thị, hôm sau nữa ban ân chiếu cho trong kinh ngoài các tỉnh, mọi người đều vui mừng. QUYỂN 3 TRUYỆN CÁC HẬU PHI - MỤC III Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu (tập Hạ) Năm Tự Đ ức 31, Mậu Dần, gặp Đại khánh tiết Dực Tôn Anh Hoàng Đế 50 tuổi. Vâng hoàng hậu b an yến và cho các hạng gấm ngọc. Hoàng hậu dụ rằng: "Duy ta và con, cùng bệnh thương nhau, chỉ lo nhau ốm là việc trong nhà biết với nhau; chỉ lo nghĩ mà già, vui cùng thiên hạ quý trọng tuổi tác. Cứ 10 năm mới gặp một năm, nước có mừng to, lễ nên làm vậy; hợp muôn người cũng cùng một lý, người cùng tôn thân, tình hả thôi à. Thế là hợp muôn lòng để https://thuviensach.vn thờ đứng thân, thu năm phúc để ban thần thứ. May ra hòa bình được phúc, cùng nên miễn cưỡng mà làm. Còn việc tự trước không thích xa hoa, cũng cùng người chất pháủa nhà có gì quý báu đủ tỏ lạ lùng; lễ mừng tuổi tác không phải tầm thường, há lại sơ lược? Ăn cho khỏe người, chưa tỏ lòng ta coi sóc; vật để tỏ ý, chính mong con được khang cường. Vả con ăn uống vốn ít, gầy còm thêm nhiều. Thịt thà vẫn sức làm tinh, sợ chưa ngon miệng; dưa muối cũng là tiện dụng, cốt được thêm cơm. Ngươi nên lĩnh lời thành thực, ta cũng tự cười quê mùa". Vua vâng lời dụ và làm biểu tạ. Có câu rằng: phúc cả nhờ được ơn thừa, Tri mệnh (61) đến nay chính thọ, trên muốn yên vui lòng mẹ, dưới thể tất thần dân. Châm chước thời nghi, bỏ bớt phù phí, làm thành điển vậy, con đâu có lòng khác. Tưởng nghĩ gia đình vùi bởi thiên tính. Chợt trân phẩm lại được mẹ cho. Lại có câu rằng: lời hay lạy nhận, biến sắc kính vâng. Thủy lục họp một mâm, thực là giàu có bốn biển. Chua mặn hòa năm vị, há chỉ quý đủ bát trân. Lại có câu rằng: chỉ là vị muối nhuận tràng, khí rau mát ruột, vị ấy ngon lâu hương ấy càng đậm. Thức ăn cần đến, dẫu sang cũng vẫn phải dùng; chất giữ đông, làm quan cũng nên biết đến. Con nhận bữa ăn thêm cơm, đúng như lời mẹ. Lại nhớ của báu trên chiếu, hình như ngọc bích trong tay. (Thơ Lưu Côn rằng: Trong tay có ngọc bích quý). Đá mài dĩa rũa, nhà nhã có thể càng tính linh; (Quách phác tán ngọc rằng: Quân tử đeo ngọc, hình dung đức tốt, bỏ hết lòng tà. Sách Thập Di Ký nói tính ngọc ôn nhuận, đeo thì tính linh động) không mòn không đen, mà vết không cần gợi truyện. (Dương Văn Tôn cho Lý Huấn cái ngọc có ý bảo rằng: cho người làm đầu mối câu truyện). Lại có câu rằng: cửa vàng ráng tỏ, sắc chiếu cung hoa. Thềm ngọc sen khơi, sáng sinh ngự bút (Lý Quân Phòng nhà Đường làm phú văn cẩm rằng: sắc đẹp ly kỳ, như sen nở ở thềm ngọc. Sắc vẻ sặc sở, như sáng soi vào cửa vàng). Triệu Muội dệt ra đẹp quá, làm cho phường dệt bỏ nghề (sách Hợp Di Ký chép: Ngô vương Triệu phu nhân có tài tuyệt diệu, có thể dùng đầu ngón tay dệt thành gấm rồng mây, vậy mà trong cung cũng phải bỏ nghề dệt); y phục xứng với vua Tần, phải đợi thần may chế tạo, ân quang vô lường, thể tất không sót. con là mẹ, dạy con cũng là mẹ, https://thuviensach.vn mẹ mà là thầy vậy. Sinh ra con là mẹ, biết con cũng là mẹ, mẹ là trời vậy. Còn lại các thứ khác đã biên ở trong sách "Ngự chế văn tập". Năm Tự Đức thứ 32, Kỷ Mão, mùa hạ, tháng 5, gặp Thánh thọ thất tuần đại khánh tiết. Vua thân đem quần thần đến cung Gia Thọ dâng kim tiên biếu ngự soạn làm lễ khánh hạ. Bài biểu rằng: đức dầy không bờ bến, ban sức sống thực là hàm chứa nguồn sáng to: lòng thành không dừng lại điềm tốt hợp lâu dài cao sáng. Bèn tự năm ngũ tuần chúc thọ, đến tuổi bảy mươi, ăn mừng. Hợp số trời đất, lại gặp đức vua thêm thịnh. Nhờ ân lớn tổ khảo, càng tỏ thật linh hiển thụy. Thực là phúc to của nước, cũng là việc tôn quý nhất xưa nay. Trộm nghĩ hưởng thọ có 3 điều, cũng phải lấy nhân làm gốc. Muốn được 4 việc ấy nếu không có đức lớn thì khó được. Duy có lòng Nghiêu Thuấn trọng nữ giới, mới hưởng thọ Kiều Tòng của thần tiên. Nhả hơi hút khí cần chi bí quyết hư truyền. Vui mừng thờ mẹ đã có điển chương sẵn đó. Giới phúc theo nghĩa kinh Dịch; thọ mẫu lại đọc kinh Thi. Cung Trường Ninh dâng thọ mà tính vui, cung Khôn Thành khánh hạ mà lễ đủ. Nhưng chưa bao giờ có liền năm quốc khánh, con năm mươi mà mẹ bảy mươi. Ban phúc ra ân, nhà hiếu từ mà nước được nhờ lớn như ngày nay vậy. Bởi vì trọng tuổi già tự lòng người có sẵn; cho nên kính trọng mẹ cha, thì ai cũng như ai. Vượt biển trèo non, ai cũng lòng thành về đến cửa. Dâng rau phơi nắng đều đến Chúc Hồ ở Đông Triều. Hơn nữa con biết niềm vui tuổi tác càng sâu thì tình phép hạ sao đã (do phép Hạ, sách Bách Hổ thông nói rằng: con nuôi cha mẹ dùng phép gì, dùng phép hạ trường mộc, hỏa ấy nuôi mẹ vậy). Kính nghĩ Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ chia ánh sáng hiền hậu, mở giao hoa quẻ Khôn. Mộng nuốt ngọc tốt, báo điềm sinh con (mẹ hoàng hậu Tề Cao Đế là Hàn thị mộng nuốt ngọc mà sinh ra hoàng hậu). Thần treo châu báu mà chung đức lên. Dòng dõi Đào Đường chứa thiện nên cao rộng cửa nhà (Tả truyện Tương Công năm 24 Phạm Tuyên Tử nói rằng tổ taự đời Ngu về trước là họ Đào Cường, Tấn Chủ hạ minh là họ Phạm). Su Lỗ (62) là đất nho phong, giữ có lễ khác người cầm qua kích. Lúc vịn vẩy rồng, phụ cánh phượng, há tị hiềm mà không dự Vân Đài. Khi vẽ con sâu múa mương thú, vâng cố mệnh từng dự ghế ngọc. Quách thị khiêm cung https://thuviensach.vn sao ví được, Bạc gia nhân thiện chả hơn gì. (Gọi là chư sinh, vốn học tập Đặng Hoàng hậu nhà Hán, chỉ lo học ở sách vở không hỏi đến việc nhà. Bà mẹ thường chê rằng mày không làm việc nữ công, mà chỉ chăm học, chắc định đi thi bác sĩ à? Hoàng hậu nể lời mẹ ngày coi việc nhà, đêm học kinh điển. Người nhà gọi là chư sinh). Hiếu trước trăm nết, đức tốt tỏ ngời. Giao cung ân cần, cố gắng tuổi trẻ có chí nối đức tốt mẹ chồng; giá báu êm đềm đón về (Đường Cao tông Thái tử nạp phi thi "Bảo già quy đan điện" nghĩa là xe loan rước về điện son). Bắt chim nhạn tặng nhau để làm cớ hợp tác (Đường thư tam tôn chư tử truyện chép: thái tử kén cung phi, Hữu Ty tâu rằng: phải dẫn quà biếu, phải chông chim nhạn trắng. Vừa lúc đó gặp được chim trong vườn, bắt được, Cao Tông mừng nói: nhà Hán bắt được nhạn để làm bài hát cho nhạc phủ. Nay có được nhạn trắng để làm quà biếu cầu hôn. Hôn lễ là đầu nhân luân. Ta không thể bỏ được). Quy Muội quẻ tốt, không cứ mộng thấy ngựa to, Thị Khang điềm lành, khác gì mộng con dê trắng. Hoa đào tươi đẹp vui có lễ nghi; thư cưu vui hoa, riêng thành đôi lứa. Liền sinh con gái, thẳng đến vị cao. Rủ lòng thương hoạn nạn (Người xưa, Hậu phu nhân tất có phép quản quần thiếp, lấy lễ chầu vua. Cho nên sách Nữ sử ghi: ngày tháng nhận lấy, dùng ngọc để tiến, thoái. Ngày sinh con, thì rút vòng vàng về, khi đang ngự thì dâng vòng lên đeo ở tay trái, sau lại đeo ở tay phải. Việc không lớn nhỏ gì mà thành phép tắc). Những vàng bạc mà âm đức tai nghe (Tùy, Đường Quý sở kiêm truyện viết: con nhiều âm đức. Sĩ Khiêm nói: gọi là đức đâu chỉ phải là người chỉ nghe và đọc. Người không biết, nay có điều dạy bảo của ta, con ta đều biết thế nào là âm đức) chán rộng cầu tinh binh. Cầm soa ngọc mà tinh thần dạ thỏa. Cửa Nghiên mẫu nhiều tháng, khó nhọc h cả người hiền. Bọc Đồ Sơn nhiều năm, bú sớm không theo lâu tập. Mọi người không ghét, bóng cùng mộc tự đấy rườm rà. Tủi phận khác nhau lời tiểu tinh tự dây im lặng. Bèn chăm giáo dục chỉ mong trưởng thành. Văn võ mong con tài, dạy dỗ như lúc qua sân cha bảo: sớm khuya khuyên con học nghiêm hơn rứt khung cửi người xưa. Thần nhân báo sẵn trinh phù chỉ là cười nhạt, Thiên mệnh đã về đức tốt, lại càng thêm lo. Đến hào Kiền, lợi kiến đại nhân, theo đạo khôn càng sửa mọi nết. Bút son rõ ràng, giúp vị ngũ mà chính nhu nghi; ăn mặc nền nếp, đem https://thuviensach.vn sáu cung mà sửa nội chức. Khi ngự giá Bắc tuần thờ mẹ giữ con, tóc mây thưa rụng. Lúc chầu hầu nam nội, hết lòng vui mẹ dạ ngọc hòa yên. Đêm khuya chưa ngủ người khó hay mà mình làm chả mỏi, việc cũ không quên, vua hỏi đến thì ứng đối được ngay. Dẫu tiêu phòng còn đế trống đợi chờ; không đợi đúc tượng vàng; mà lan phòng gọi lên để hỏi. Cũng là tìm gươm cũ mà dùng. Cho nên dữ mệnh nói rõ là nguyên phối. Há chi khen là đức trùm cả hậu cung. Chọn hiền xét định tự lòng vua, thu phúc xuân, ban cho thần thứ. Cất đầu trông tới. Thương ngô, nghiệp vua coi trọng. Lệ rơi tương trúc, con mắt hơi mờ. Thương con nhỏ thơ ấu, sợ hãi như dòng vắng mông mênh tới vực sâu; nhớ tiên quân nhân minh phảng phất như nghe thấy lời, trông thấy bóng. Nuôi các con như mình đẻ ra; dạy các quan sợ lòng dân hiểm. Được mùa thì mừng, mất mùa thì lo, một tạnh, một mưa săn sóc chưa từng bỏ bẵng, việc lợi nên làm, việc tệ nên đổi. Ai hèn, ai tốt, xét bàn không chút sai lầm. Thân thuộc không riêng ai; chỉ cốt người cần người kiệm. Tế tự hết lòng kính, cốt là rất cẩn, rất thành. Phú tính vốn sẵn thuần hóa, chăm học không ham gì khác. Tự cung Trường Thọ, cung Từ Thọ đến cung Gia Thọ kính trọng khi bản triều mẫu nghi rất chính, đức trọng tuổi tác đều tôn, Hán Đường Tống chưa đời nào được thế. Xét thơ Chu Nam, thơ Thiệu Nam đến sách Đại Nam, xưa nay gia pháp nghiêm trọng, phong hóa quan hệ Duy Khương (Thái Khương), Nhâm (Thái Nhâm), Tự (Thái Tự) đủ làm phép cho đời. Đủ truyền trăm đời để noi theo, há chỉ ba cung cho đủ số (Đường thư truyện Văn tôn hậu chép, lúc bấy giờ Ý Yên Thái hậu ở cung Hưng Khánh; Bảo Lịch Thái hậu ở Diên Khánh cùng Thái hậu đại nội gọi là 3 cung. Ngày 15 tháng giêng năm Khai Thành, vua ngự điện Hàm Thái: treo đèn múa nhạc, cho đón 3 cung đến dâng rượu chúc thọ). Bởi thế trời soi đức tốt cho hưởng tuổi tiên. Thế nhà góc biển chứa chất còn nhiều. Rừng thọ mộc mãi chẳng già (sách Thập Di Ký chép, nước Kỳ Hiệp người thọ 300 tuổi, có rừng thọ mộc, một cây nghìn tầm, người ngồi ở dưới cây ấy, đều không ốm không chết). Vừa đến tuổi bảy mươi, vui chúc lời vạn chúc. Mùa hạ thì muôn loài vật đều tươi. Ngày ấy ban thưởng thì lúa tháng hè nuôi lớn. Vừa độ sao động tĩnh, ứng vào luật di tân thì Hán Cao https://thuviensach.vn Tổ sinh. Sau sinh nhật Hán Cao Tổ 2 ngày, áo vàng vào cửa. Cũng ngày ấy giáng vua Bảo Đức, một lúc tia sáng đầy sân. (Sách Văn Giám đời Tống chép: trên đỉnh núi Phong Sơn có miếu Hán Cao Tổ, tập tục ở đây cho ngày 19 tháng 5 là sinh nhật Cao tổ, đến ngày các nơi xa gần đem cỗ rượu đến tế. Sách Nhật nguyệt kỷ đạo gia ngày xưa nói ngày 19 tháng 5 Bắc đẩu xuất du, Bảo Đức chân quân giáng). Chắc cùng trông trăng trong đàn bầu để xưng tụng (sách Bắc Tề chép: Vũ Thành Hoàng hậu là con gái Hồ Diên, lúc mẹ có thai có người sư đi qua cửa nói rằng: nhà này, trong đàn bầu có mặt trăng rồi thì sinh ra hoàng hậu). Há Chỉ coi bóng mây trên chỗ nằm mà chúc mừng (sách Nam sử chép truyện Hậu phi, nhà Tề Cao Chiêu Lưu hậu chỗ nằm không có lọng cánh che ở trên, người nhà rình xem thường thấy ở trên ấp ánh như hơi mây). Nối dấu ông vạn phần không kịp, tôi đã biết rồi. Noi điển cũ lâu đời không sai, lễ nào để thiếu. Nhưng mà Thánh mẫu tiết kiệm, lại còn khiêm cung. Nghĩ rằng thiên hạ chưa thái bình, lòng ta vui gì. Lại trong nước chưa về nhất thống, trách ta khó chối. Đã xin mãi khó trái dư tình, tạm theo tiết kiệm. Mà bản ý không phiền nhiều việc, mong sớm hoàn thành. Ghi nhớ lời hay, dám sai phép tốt. Bấy giờ mới dàn hoa chỉ đặt một hai cái, để ban yến cho tả hữu công khanh; chén ngọc thân dâng hai ba tuần, tự đem cả nội ngoại thần thiếp. Mưa mai (sách Tỳ Nhã nói: Giang Nam, tháng 3 là mưa đón mai, tháng 5 là mưa tống mai) thấm mà chiếu hoa êm. Mây đồng che mà thềm ngọc nát (sách Hài nam tử nói: cây vông thành mây, là nói hơi cây vông bay lên có thể thành mây). Hàn phong chả (sách Vân Tiên tập ký chép: phòng thọ tháng 6 mời thánh đến bửa quả liễu làm chén, dã hoa sen làm rượu, hòa sữa dê làm hàn phong chả) để giúp thành hòa, Thái tinh bôn (chưa biết là cái gì) để cùng ngon ngọt. Rượu hút cành sen, ao Thái Dịch đầy hoa quân tử (sách Dậu dương tạp chở chép: phía bắc Lịch thành có rừng Sứ quân, trong năm Chính Thủy đời Ngụy, Trịnh Công Sao khoảng tam phục đem tân khách đến tránh nắng ở đấy. Lấy lá sen to để lên trên nắp nghiên rót 3 thùng rượu vào, dùi lá sen cho rượu thông xuống cuống sen, vắt cong cái cành sen ấy lên, cắt lượt nhau hút rượu để uống gọi là uống rượu cần sen, mùi rượu hơi sen thơm mát) áo dùng bạch trữ, (văn Huy https://thuviensach.vn Minh thơ tháng 5 có câu: trai gái mới hay áo bạch trữ, bạch trữ là một thứ vải mát) trên bắc đường đối cỏ nghi nam (Phong thổ ký, cây hoa huyên gọi là cỏ nghi nam, đàn bà có thai đeo cỏ ấy thì đẻ con trai). Một khúc phụ tài gảy đàn, gió nồm đến mà không phải hát thương ca (sách Thập Di Ký chép: Linh Đế cứ đến mùa nực cho hát bài Chiêu Thương thì khí mát đến ngay). Năm tơ trường mạnh hoàn thành: bổng ngày dài chính là điềm mối thọ (sách kinh ở Tứ thời ký chép: ngày 5 tháng 5, lấy tơ 5 sắc buộc vào cánh tay gọi là trường mạnh lũ, là dây trường thọ. Lại Liêu sứ Lễ chí chép, ngày trùng ngũ vua ban cho dây trường thọ). Dẫu không có bích ngâu, băng đảo, giao lê, hoa táo là các thứ thần tiên kỳ dị của 10 châu. Và cũng không có tùy châu, hòa bích, thục cẩm, dao tiêu là các thứ trân dị tìm từ trong 4 biển. Nhưng mà năm mươi tuổi mến cha mẹ, lòng xích tử ân cần; hợp một nhà chúc thọ khang vui thiên luân khẩn trí. Và tôi bày việc chúc phúc không những tỏ trí tình, còn là trên thể tất. Nghĩa hoàng khảo ngày xưa giáo hiếu; dưới để khuyên thần dân làm con phụng sự mẹ cha. Nếu đem hết cả thứ cống hiến của ba mươi lăm địa phương để nuôi mẹ, cũng chưa phụ lòng. Dẫu đem bày văn từ hơn nghìn vạn câu để phô trương cũng chưa tỏ đức. Bởi thế không quý vật lạ. Chỉ hết lòng thành, tỏ bày trung khúc, mong được tươi cười. Cúi mong 3 điều ước đều ứng. Muôn sự đều nên, nhân hậu truyền cho con cháu, mỹ lợi đếnả xã tắc. May ra đáp được lòng hoàng khảo phó thác, ơn thánh mẫu dạy nuôi. Năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, chín mười mươi, cứ 10 năm 1 tiết chúc mừng, sống mãi đến vạn nghìn tuổi. Phải nhân, phải kính, phải hiếu, phải từ, lại phải tín, lấy một điều thiện làm thầy ngự trị, hưởng quốc hơn tám trăm năm". Lễ chúc thọ xong, ban ân chiếu cho trong ngoài. Thái hậu từ khi đến ở cung Gia Thọ về sau, dầu quý nhất trong cõi dùng của thiên hạ để nuôi, mà tự phụng kiệm ước tất cả các thức ăn mặc đề dùng đều mộc mạc không khác khi trước. Thường nói rằng, tự xét không làm gì có ích nhà nước nữa, lại tự phụng xa xỉ, cho nên phàm việc tiết kiệm để dùng mà thôi, không dám xa phí. Còn như lệ tiến sáp vàng vào cung để dùng, Hậu cũng cho đốt hà tiện, thành ra sáp thừa nhiều. Cho đem về kho chứa lại. Vậy dụ rằng: còn nhớ lúc nhỏ gia tư chưa thừa thãi, dầu thắp đèn https://thuviensach.vn không đủ suốt đêm. Nay nhờ trời, nhờ tổ giàu có 4 biển, một tơ một hạt đều là máu mỡ của dân. Nếu lãng phí đã không ích mà lại có đáng tiếc, sao bằng lưu để nhà nước dùng. Hậu lại nói rằng, những lụa màu, gấm đoạn châu ngọc tự trước tiến lên, đều giao cho chứa vào kho chưa từng dùng đến. Bởi vì tính ta không thích hoa lệ, không là sẻn tiếc đâu. Vua vào trong cung, thầy đồ ngự dụng có quạt giấy nan tre và bát ăn cơm lâu ngày hơi rách, rạn vỡ, sai người hầu đổi dùng cái khác, Hậu không cho đổi. Lại có cái túi đựng hạt thủy tinh xoa mắt đã cũ xin đổi cái túi mới khác. Hậu dụ rằng: cái hạt thủy tinh xoa mắt chỉ hơi mát mà thôi, không công hiệu lắm. Nếu đổi cái mới để lâu nó cũng cũ đi bất nhược cứ để cái cũ hà tất đổi. Những sự kiệm ước đại loại như thế. Vua thường thong dong chầu mẹ. Mẹ nhân bàn đến công đức liệt thánh tiên triều và việc làm lời nói trước để dạy bảo: Việc gì cũng nên trung hậu, không lấy mới coi hơn cũ. Cho vua nghe công đức trước để rộng chí nối noi. Về việc hiếu phụng tôn miếu, thì gặp ngày kỵ, ngày đản tấự biện quả tốt cỗ to để tiến. Trước kỳ tắm gội sạch sẽ. Đến đêm dặn người hầu báo biết thì giờ đợi đến sáng đi lễ, đứng chầu bên cạnh bàn thờ như lệ thờ cha mẹ khi sống. Lễ xong mới về. Và ngày giỗ điện Long An (thờ Hiến tổ) chưa từng chả sụt sùi giỏ nước mắt. Người tả hữu đứng hầu cũng động lòng. Đến việc tế riêng ở gia miếu, các phẩm vật đều dự biện tốt sạch. Nhà thờ họ ngoại là họ Phạm văn, điển lễ cũng thế. Về việc nghĩ xa báo gốc tốt lắm. Lúc ngày thường hậu xem sách làm vui để dạy các em trai, em gái. Những hoàng thân, công chúa, cung nhân tiên triều ai túng thiếu thì đều ban cho. Nhưng tính thường ghét xa xỉ, chuộng kiệm ước. Vua tâu nói: hoàng thân công chúa nhiều xa đãng kêu xin, phủ Tôn Nhân thường nói. Vậy hậu dụ rằng: đấy bởi không biết tiết kiệm mới thiếu. Nếu kiệm được một phần thì ích một phần. Bởi bổng lộc đủ chi dùng, liệu thu mà chi, tùy thời thừa thiếu. Nhà có thế nào tiêu thế ấy, làm gì đến thiếu thốn thất thể. Mà làm quen thói xa xỉ, dẫu của nhà đã thiếu mà còn lãng phí muốn cho đầy đủ, bèn đi vay mượn để tiêu cho sướng trước mắt, đã mắc nợ rồi thì lãi đẻ ra không bao giờ trả xong, làm sao chả thiếu. Dẫu ban cho mãi mà không biết tiết kiệm cũng không đủ được chỉ làm sinh ra cái tệ kiêu hãnh ngang trái https://thuviensach.vn mà thôi, thực là chỗ khó xử. Hậu lại nói rằng: thường thấy có người cậy giàu hủy hoại của trời, xa phí phi lễ. Thậm chí dùng nhiễu thâm, người ta đội khăn đem may làm quần mặc, như thế sao chả tổn phúc mà thêm họa. Liền thấy người ấy bại sản, nhục thân cùng khốn quá lắm, đáng làm răn cho người đời. Lại công chúa thứ 9 nhân nghe bị bệnh lên đậu, hậu thương, cho 2 lạng vàng lại còn xin thêm. Hậu dụ rằng: thấy nghèo cũng thương, nhưng xa xỉ lại ghét. Người bổng lộc cũng như người khác mà không cần kiệm, chuyên xa xỉ thì sao đủ được. Dẫu ban cho mãi cũng không sao được. Vả hoàng thân công chúa rất nhiều, có lẽ hậu bạc khác nhau à? Cho nên chỉ cho thế (lệ cho 2 lạng vàng), Hậu từ ái mà nghiêm như thế. Hậu thường ngăn họ ngoại không cho thỉnh thác. Có người không chăm học, cầu làm Thị vệ. Hậu nghe thấy bảo rằng: người trọng thích lý, không lo không hiển đạt, chỉ sợ không có tài. Cho nên đã ưu cấp tiền gạo làm nhà cửa, khiến cho chuyên tâm học tập may đỗ được làm nổi tiếng nhà. Không ngờ chỉ như cây gỗ mục không đục chạm được, lười việc tu tiến, chỉ đi cầu cạnh, phụ ý tác thành. Và chân Thị vệ phải có chức vụ, vô cớ há nên lạm bổ. Hơn nữa thích lý nếu được bổ quan cũng chỉ vâng chầu hầu mà thôi, há được tự nhưng cắt cho đi tòng chính dự sự à. Nếu theo lời xin thì những người trong thích lý ai cũng cho làm quan à? Thực là trái ý thân già này. Có người tố cáo người thích lý tư nhũng, việc đến tai. Hậu bảo vua rằng: người thích lý vốn không công trạng gì, chỉ nhờ gia ấm, bổ được quan chức. Nên cẩn giữ pháp độ để giữ gia ấm, mà lại làm bậy ngoài pháp luật khả ố. Vua cho triệu người ấy đến kinh răn bảo, để răn về sau mà tỏ công đạo. Hậu tính muốn xem sử. Vua đem sử đọc, hậu nghiêng tai nghe. Và hậu dụ rằng: người tất học mới biết điều thiện, điều ác điều thiện làm gương, điều ác làm răn, mới hay biến hóa khí chất mà không mà không làm bậy. Cho nên nói rằng "nhân bất học, bất tri đạo". Một ngày vua đọc sử đến câu: người vàng giáng 3 cái vào miệng. Khắc ở sau lưng rằng "cổ chi thận ngôn nhân dã", vậy hậu dụ rằng: đích thực vậy lời nói không thể không cẩn thận. Ra một lời nói mà người nhờ ơn ra một lời nói mà người ta bị họa và ân oán thành bại đều do ở đấy. Cho nên kinh Thi nói rằng: vết ngọc bạch khuê còn mài đi được, lời nói có vết không sửa chữa được. Thực thế. Đọc đến https://thuviensach.vn chỗ vua Tề, vua Ngụy hỏi nhau có của báu gì không. Về câu nói được 4 tôi giỏi quý gấp mười châu báu. Cho nên nói rằng: quý báu chỉ là người hiền, thực thế. Đọc đến chính sự đời Tần. Hậu dụ rằng: nhà Tần chuyên dụng hình pháp, không làm nhân đức. Lại giết Phù Tô, Mông Điềm. Tin dùng Triệu Cao, Lý Tư cho nên không được lâu dài. Xem như thế thì biết dựng nước phải chuộng nhân nghĩa mới có thể lâu xa được. Lại nói rằng: tội ao Tư giết chết vạn lần không đủ che tội. Đọc Hán sử đến truyện Hàn Tín. Hậu nói rằng: Hàn Tín dụng binh như thần, đi đến đâu đều được, chỉ phải cái dinh quân không cẩn, tướng lệnh không nghiêm, cho nên Hán Cao 2 lần vào trong dinh quân, cướp ấn tướng, đổi đặt quân. Như thế nếu người địch vào được há chả hỏng việc à? Lại phòng thân không rõ ràng, ăn nói bất tất, đến bị giết tróc, thực đáng tiếc. Há có phải khôn việc ấy mà không khôn việc này ư? Đọc đến việc Lã Hậu đòi Triệu Vương, Chu Xương không cho. Hậu nói rằng: Chu Xương nguyên là người can đối thái tử, nay cho làm Triệu tướng cũng mong hết chức mà thôi, người đời xưa trung thực đáng làm phép ấy như thế. Đọc đến truyện Lã Hậu, thì chê cười. Đọc bài trị an sách của Giả Nghị, hậu nói rằng: Nghị tuổi trẻ mà văn học như thế có thể là người tài cao. Ngày ấy sự thế nguy nan, phong tục xỉ mị mà người khác không dám nói, Nghị dám nói có thể gọi là trung với nhà Hán vậy, đem ra thi hành cũng được thịnh trị, tiếc Hán Vân không dùng được. Lại khen rằng văn Giả Nghị rất hay. Đọc đến truyện Hán Văn Đế, bảo rằng: Hán Văn Đế kiệm ước cung huệ các đức tốt đủ cả, đời sau ít người kịp. Đọc bài đối sách của Đổng Trọng Thư, đến câu: nối đời trị thì đạo giống nhau, nối đời loạn thì thay đổi đi. Hậu nói rằng: Hán nối sau nhà Tần, phong tục xỉ bạc thế là nối đời loạn, làm chính trị sao khả dĩ không biến đạo ấy đi. Lại nói rằng: Hán Vũ Đế trinh phạt thần, tiến tụ hiềm, công tác bời bời lắm việc, cái gì cũng làm, tai dị cũng nhiều mà dân không tán loạn, chỉ vì năm cuối biết hối quá thôi. Thực lực hơn người nhiều, phúc thịnh cũng hơn người nhiều. Còn Tần Thủy Hoàng thì tự ý làm càn, không biết hối ngộ, cho nên rồi bại hoại là phải. Nói tóm lại thì Vũ Đế đắc thất tham bán (nửa đắc nửa thất), Tần Thuỷ Hoàng có thất mà không đắc. Đọc đến việc Hán Nguyên Đế hủy miếu lại lập miếu. Hậu nói rằng: Các miếu ở quận quốc không nên để không https://thuviensach.vn nhiều sở, hủy đi cho bớt lao phí là phải. Đến như miếu ở kinh đô đã thành, vừa hủy đi, lại làm lại, thành sự thể gại nói rằng: các vua đời Hán đều nhân gặp một điềm dở, một điềm hay thường thường đổi niên hiệu cho nên một đời vua mà đến 7, 8 niên hiệu, thực là phiền tạp không bằng trước sau một niên hiệu để biết ở ngôi dài, vắn. Hơn nữa điềm dở, điềm hay đều nhờ trời, đổi niên hiệu có ích gì. Lại nói ràng đời Hoàn Đế Linh Đế, hiền giả rất nhiều mà không biết dùng, lại dùng lũ hoạn quan chuyên quyền dâng độc, đến nỗi nhà Hán mất ngôi vua. Nếu biết dùng người hiền thì làm vua còn được lâu dài chưa biết đến đâu. Đọc đến việc Đảng cố thì hậu nói rằng: Trương Kiệm trốn đi để lụy nhiều người, không bằng Phạm Bàng đem thân đến ngục là khẳng khái hơn. Đọc đến truyện Triệu Bao trước vì nước đánh giặc, sau theo mẹ mà chết, Hậu nói rằng: như thế thì trung hiếu được cả vậy. Hậu lại nói rằng Hà Tiến, Viên Thiệu đều rất vô mưu, sao không từ từ liệu mưu giết lũ hoạn quan mà triệu ngay ngoại binh, cho Đổng Trác sinh loạn có ích gì đâu. Sau Viên Thiệu lại làm minh chủ, đem quân các đạo đánh Đổng Trác, cùng không hay quyết sách tiến đánh, chỉ ngồi ăn mà thôi, thực không có lòng vì nhà vua, đều là lũ hèn mạt. Lũ Lưu Yên, Lưu Biểu đều là tôn thất nhà Hán cũng không ra sức đánh giặc, lòng nó làm sao thế. Hậu lại nói rằng, Hiến Đế không phải là vua ngu tối, chỉ vì đại quyền đã mất chỉ giữ ngôi không, cho nên không làm gì được. Và lúc ấy các người hiền đã mắc cả cái hoạ đảng cố, không còn ai để giúp vua. Nếu được sót mấy người để giúp vua thì ngôi vua nhà Hán chưa mất. Hậu lại nói rằng: Viên Thiệu, Viên Thuật đều ngu, mà Thiệu lại ngu quá. Nếu nghe lời Thư Thụ trước đón Hiến Đế thì quyền lực cũng đủ làm xong việc. Tào Tháo làm gì được. Lại nói rằng, Thục thất sách ở việc đánh Ngô, nhân Quan Công thất lợi. Lưu tiên chủ lo nghĩ không thôi, lòng cấp trí mê cho nên mới thế. Nếu Thục cùng Ngô liên hoàn đánh Tào Tháo thì nghiệp có thể phục hưng vậy. Lại nói rằng, Thục Hán nhờ có Khổng Minh cho nên hay chia thiên hạ thành vạc 3 chân. Tự lúc Khổng Minh mất, thì Hán chủ cùng lũ Tưởng Uyển làm gì được. Khổng Minh cũng biết vận nhà Hán không thể phục hưng, chỉ hết đạo làm tô https://thuviensach.vn Bàn đến các vua nhà Tấn, thì Hậu bảo: nhà Tấn suy hại vì Huệ Đế ở ngôi lâu ngày mà lời phải việc hay, văng vẳng không nghe. Đến như Hoài Đế Mẫn Đế ở ngôi ít ngày mà lời nói, việc làm còn đáng khen nhưng nhân sự thế đã hỏng, không làm thế nào được. Các phương trấn bấy giờ đều cầm quân tự giữ không ai có lòng siêng năng việc vua. Thực đáng giận. Lại nói rằng Ôn Kiệu hình như hơn Đào Khản, Khản nhân giận riêng đóng quân không tiến còn có chỗ kém. Đến như Hà Sung cử Hàn Ôn là việc cử lầm người bậy, gây nên mối loạn. Lại nói rằng, lúc ấy Tấn ở thiên về một góc thế đã suy nhược. Lại có quyền thần nhiều lần làm nội loạn thì khôi phục làm sao được. Hậu đọc sử trên từ Chiến quốc, dưới đến Tấn, Nguỵ, Lương, Trần, Tuỳ, Đường, Tống, khoảng ấy trên dưới vài nghìn trăm năm, lời bàn có đến hơn vài trăm câu, đều vạch rõ cơ vi hiền biệt tà chính. Viện dẫn đích xác có căn cứ, bàn bạc không tầm thường đâu. Lại bàn việc học rằng: các việc trăm nghề nếu có rất khó cũng có thể để chậm năm tháng tập mà làm được. Còn việc học thì rộng dài sâu xa, càng học càng tốt. Được tấc giữ tấc được thước giữ thước, nhiều nhiều càng hay, dẫu đến già cũng không hết được, thực là việc rất khó. Hậu thường hỏi đến quan lại đắc thất, bảo vua rằng: làm chính trị cốt được người giỏi, được người giỏi thì đều tôn chức, dân đều yên nghiệp. Nay triều đình ân trạch nhiều lần ban xuống mà sự đau khổ của dân vẫn thường nghe thấy, há chả phải lũ quan lại tham nhũng làm nên à! Nếu quan được người khá thì nhà nước không lo gì nữa. Lại nói rằng: quan chức dầu có lớn, nhỏ khác nhau, mà hay, hèn thì không cứ lớn nhỏ. ện dầu là nhỏ mà được một người công chính cai trị thì ân uy cũng đủ xong việc. Dùng người há chả nên cẩn thận à! Mỗi khi nghe nói quan lại tư tệ, bèn than rằng: Cửa vua xa vạn dặm, tham lam thành thói quen, việc đến tai vua vạn không được một, thế mà muốn thời vụ thuận hoà, mùa màng tốt tươi, dân yên trộm cướp hết, sao có thể. được à? Lại nói rằng: làm quan dẫu phúc có hậu bạc; tài có lớn nhỏ khác nhiều, mà phúc mạnh tài đức đều cân đối với nhau, há có thể kiêu hãnh cầu cạnh được. Nếu ai tìm cách để cầu mà mạnh, phận chưa hợp rồi tất nhân cớ khác mà hỏng thôi. Những người cầu cạnh há chả nên răn à? https://thuviensach.vn Vua thường khen Vũ Trọng Bình thanh liêm, Nguyễn Tri Phương công trung cần cán không từ khó nhọc. Hậu dụ rằng: nếu được nhiều người như thế bổ đi mỗi tỉnh một người, thì việc nhà nước, đời sống của dân bổ ích nhiều, ta không phải lo, sớm tối chưa ăn nữa. Hận một nỗi người tham rất nhiều, cướp bóc dân không chán sao chúng không biết hối răn? Lại nói rằng: xưa nay quan lại dung một chữ "tham" chưa bỏ được, hại chính mọt dân chả gì tệ hơn. Nghe có người cầu bổ quan ngoài, lấy cho đầy túi đem về, không biết bao nhiêu, ấy chả phải lấy của dân là gì. Nhưng của bất nghĩa cũng không ở lâu, chả đến vài đời mà đã hết sạch, con cháu cùng khó thiên hạ chê cười. Sao bằng làm nhân nghĩa để ân trạch được lâu dài à? Hậu dạy bảo nghiêm đại loại như thế. Hậu dẫu ở thâm cung, thường lo dân sinh tật khổ. Nghe một phương có giặc hoặc có tai họa gì, thì đau đáu không vui. Thời thường hỏi việc nhà nông có tiện lợi không, hạn thì cầu mưa, lụt thì cầu tạnh, lòng lo dân chưa từng quên. Mỗi khi thấy ngoài biên báo có giặc thì than rằng nhà nước nuôi quân trăm năm đến lúc dùng đến sao không có một người nào ra để cáng đáng việc ngoài biên. Và quan khoa mục xuất thân cũng nhiều, người ấy thường ngày không làm phúc cho dân, gặp việc không hay thắng giặc, thì học những việc gì. Lại thường hỏi đến việc giặc cướp Bắc Kỳ. Đến lúc nghe tin giặc Phượng bị bắt, vui mừng lắm. Dụ rằng: nay nhờ ơn trời vận nước dần dần lại thịnh. Đảng ấy đã dẹp yên. Sẽ thấy Gia Định trở vào Nam cũng đều lần lượt thu phục, lòng mới yên. Hậu tính quí sinh vật, thường răn vua bớt việc săn bắn. Những con chim dâng vào có con bị thương nhẹ bèn sai lấy thuốc chữa cho chim. Chỗ ở cung Gia Thọ trên thềm hiên đông có đàn kiến họp ở đấy để tránh mưa, người hầu quét không hết kiến, muốn lấy nước sôi dội vào. Hậu trông thấy lập tức bắt đình chỉ. Hậu bảo kiến rằng đàn kiến đi ngay, kẻo bị dội nước sôi, kiến lập tức đem nhau đi hết. Lòng nhân cảm động đến vật như thế. Còn các việc khác đã chép ở sách Tư Huấn Lục. Năm Tự Đức thứ 36, mùa hạ tháng 6, Dực Tôn Anh Hoàng Đế lên chầu trời, cho Cung Tôn Huệ Hoàng Đế nối ngôi. Di chiếu tấn tôn hậu làm Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu. Tờ chiếu có câu rằng: trẫm có một mẹ một con, bình sinh dựa nhau, nay trẫm không được tống chung là trẫm bất hiếu lớn. https://thuviensach.vn Ngươi nên khéo thờ cốt cho được lòng, ngày càng khang ninh, cẩn thận lúc cuối cùng cho tốt. Đến sau Xuất đế nối ngôi, lấy năm sau là năm Ất Dậu làm Hàm Nghi nguyên niên. Mùa xuân, tháng 3, làm lễ tấn tôn. Trước các quan vâng di chiếu nhiều lần xin dâng tôn hiệu, hậu không nghe, mùa đông năm ngoái lại nhắc lại lời xin trước, vâng ý chỉ chuẩn cho đến mùa xuân năm ấy cử hành lễ tấn tôn. Hậu dụ rằng: ngày nay của kho so với trước sụt nhiều, mọi việc đều nên xét kỹ cho hợp thời nghi. Đến bấy giờ sai quan kính cáo. Đến ngày, vua thân đem các quan đến cung Gia Thọ kính dâng sách vàng, ấn vàng tấn tôn huy hiệu là Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu. Sách văn rằng: "Thành vật chỉ quẻ Khôn đức thực hợp chở nặng. Kế chỉ là cháu hiếu lễ to là tôn sùng. Bởi vì rất dày sánh với rất cao, mà đại danh về người đại đức. Cung Khánh Thọ thờ bà Quang Hiến, thịnh điển đáng soi, cung Bảo Từ tôn bà Tuyên nhân long nghi thêm sáng, mây ráng vẻ tươi, cõi biển ánh sáng. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Thái hoàng Thái hậu bệ hạ, giữ thuận theo trời, cầm tốt ứng đất. Giúp Hoàng tổ 7 năm nối trị, sánh Thương Săn (bà Hữu Săn đời Thương), Tự (bà Thái Tự đời Chu) mà sáng thêm. Vâng tiên hoàng một lòng hiếu thành, đem của 4 biển 9 châu mà phụng dưỡng. Bà sáu năm mẫu nghi cả chính, sao bảo vụ sáng khắp chín tầng trời. Ức vạn năm phúc trời hưởng lâu, tiệc tiên đào đã ba lần chúc thọ. Phúc đức để cho con cháu, lợi trạch đến cả bang gia. Tôi lâu đội ơn to, kính theo chí trước. Hoàng khảo không quên hiệu, nhớ mãi lời dặn ở trước ghế ngọc: tiểu tử chưa biết gì chỉ biết chăm việc tôn phụng dao cung phát huy đức tốt, bèn xét điển chương. Nay kính vâng di chiếu chọn ngày tốt, xin phép miếu điện ban thờ, thân đem Tôn Nhân phủ, văn võ thần công, kính dâng sách vàng, ấn vàng, kính dâng huy hiệu là Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu. Cúi mong nhận lấy tên to, ngày thêm phúc cả. Đức tốt vẫn hưởng phúc lành, thỏa lòng vạn phương yêu kính. Sống lâu để giúp con cháu, yên hồn chín miếu di truyền". Làm lễ xong, ban ân chiếu cho trong ngoài. Chiếu rằng: "Trẫm nghĩ thánh nhân chế lễ từ cha lên trên đến tổ; vương gia ban phúc, từ nhà mà sau kíp đến nước. Bởi vì hợp kính đồng tôn để hợp lòng ức triệu mà làm phúc, ban ơn, để dạy hiếu thần dân. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu bệ hạ, thuận đạo kiền đức tốt, như mặt https://thuviensach.vn trời độ thường. Phúc khánh đến cả nước nhà. Lợi trạch kịp đến xã tắc. Hào lục ngũ nguyên cát, giúp đạo kiền để thành công. Năm tám nghìn làm xuân, mừng khang cường càng tiến phúc. Vâng Dực Tôn Anh Hoàng Đế ta, kính mến mẹ như vua Thuấn, chầu hầu mẹ như vua Văn. Chăm hiếu phụng trong ba mươi sáu năm, làm tiêu chuẩn cho nghìn muôn thuở. Di mệnh sáng ngời, đủ nghi văn tôn sùng biểu hiện; tên tốt chói rọi, tỏ đức cả quang đại hàm hoàng. Trẫm lễ đúng chỗ chôn ngọc, chỉ cốt nối noi; kính vâng bà ngậm đường, lòng chăm yêu mến. Vừa rồi tuân theo di chiếu bèn xét điển chương. Khẩn xin hai ba lần mới được nghe cho. Đã xin phép miếu điện, chọn ngày tốt, lấy ngày mồng 3 tháng ấy, thân đem các quan dâng sách vàng, ấn vàng làm lễ tấn tôn, để tỏ đức tốt và báo ơn to. Đại đức tất được đại danh chính hợp nghĩa tôn tân. Hiếu tâm đem làm hiệu trị, bèn ban ơn lồng lộng. Than ôi, yêu người thân kính người tôn, ta mộngười mong nối chí tiền nhân; che như trời, chở như đất, người muôn họ cùng đội ơn vương mẫu. Mùa hạ, tháng năm, kinh thành có việc, vâng từ giá (xe Từ Dụ Thái hậu) ra trú ở Khiêm Cung tạm tránh. Đại thần Nguyễn Văn Tường vâng từ chỉ tạm lưu đợi giảng hòa. Gặp Tôn Thất Thuyết ra sau gặp vua ở cửa Tây Nam, bèn rước vua đến trường thi (tức là xã La Chữ) nhân đem vua ra Quảng Trị đóng ở hành cung. Lúc bấy giờ Nguyễn Văn Tường đã bàn cùng quan Đại Pháp cho hòa hỏa như cũ, đem việc tâu ngay ở nơi hành tại và ủy Thị lang bộ Binh Phạm Hữu Dụng thân đến tâu cho vua biết và xin đón vua về. Hữu Dụng đến nơi bị Thuyết ngăn trở, không đón được vua về. Thuyết bèn đem vua đến sơn phòng Quảng Trị và tâu xin từ giá và 2 cung cùng đi. Ba cung có ý lừng chừng, vẫn đóng ở hành cung Quảng Trị. Thuyết đã đi trước vài ngày lại sai người về tâu xin đón 3 cung đi sơn phòng. Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản bàn cùng Lương Thành: nghĩ thành Quảng Trị phong trần, xin rước 3 cung về cung tư cho Nguyễn Văn Tường biết. Văn Tường được tin, bèn đưa thư cho Khâm sứ Pháp là Xâmbô nói Đô thống Pháp là Côrasi phúc từ xin 3 cung quay về, để định dân chí. Từ giá và 2 cung chuẩn y như lời tâu. Ngày mồng 3 tháng 6, xe từ Quảng Trị về đến Khiêm Cung đóng ở đấy. Dụ cho phái người đến hành tại tâu xin ngự giá hồi loan. Mỗi https://thuviensach.vn lần đến đều bị Thuyết ngăn trở. Lúc bấy giờ tôn nhân, đình thần cùng với sứ nước Pháp bàn hòa hảo, duy chưa đón được vua về, lòng người chưa biết thuộc vào đâu vâng từ chỉ cho Thọ Xuân Vương Miên Định nhiếp lý quốc chính. Việc gì cũng tâu 3 cung, xin chỉ tuân hành. Lại xuống dụ các địa phương đón vua về, và trị tội Tôn Thất Thuyết chuyên quyền làm bậy. Tháng ấy, gặp lễ đại tường điện Hòa khiêm vâng ý chỉ sai Kiên Giang hầu đến làm lễ. Hậu ở Khiêm Cung xét thấy tự khí ở các tôn lăng nhiều cái mất mát, bèn trích của trong cung chế tạo tự khí để bày thờ. Hậu lại nghĩ các cung nhân nữ quan ở các tôn lăng nhiều, nhân loạn chạy tan; dụ sai nhiếp chính vương Thọ Xuân Vương Miên Định cùng đại thần Nguyễn Văn Tường nói khéo thương giảng đi đến cung chiêm. Và sai nghiêm cấm niêm phong không cho người ngoài ra vào dòm ngó. Hậu nhân dụ hỏi Nguyễn Văn Tường về hiện tình phủ Thừa Thiên và các địa phương Nam Bắc thế nào? Hòa nghị đã bàn định xong chưa? Nguyễn Văn Tường đem việc tâu lại và nói điều khoản hòa vị, đợi ngự giá hồi loan giao trả thành trì mới bàn định. Ngày 27 tháng ấy quý quan Pháp đưa thư nói rõ giao trả kinh thành cho ta, xin 3 cung đều về nguyên cung như cũ. Việc tâu lên. Hậu xuống dụ rằng: nay nghe Đại Pháp Đô thống đại thần Khâm sứ đại thần có ý tốt trả kinh thành cho ta đón lũ ta về cung, ta rất vui mừng. Nhưng lũ ta đàn bà không hiểu quốc chính. Hơn nữa phép nhà nước ta từ trước không có phép hoàng hậu ngồi trong mành nghe chính sự, nên trước định ngôi vua có người làm chủ, rồi sau chúng ta về cung mới là thỏa hợp. Nên bàn nói thế nào trả lời cho biết. Rồi thì quan Pháp nghe vua chưa về, lại đánh điện báo rằng kinh thành phải đợi có chủ quân mới trả. Bèn vâng ý chỉ chuẩn cho bàn rồi phúc tấu. Ngày tháng tám, nhiếp chính Thọ Xuân Vương Miên Định cùng lũ đại thần Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, cùng quan Đại Pháp bàn định rước con thứ 2 của tiên đế là Kiên Giang hầu nối ngôi vua. Vâng ý chỉ chuẩn y, bèn vâng ý chỉ bá cáo trong ngoài. Dụ rằng: "Vua làm chủ thần dân, tôn miếu, nhân dân quan hệ vào đấy. Nước ta cùng Đại Pháp kết hiếu hơn 30 năm, 2 bên không dối trá gì, nước nhà được yên. Ngày 22 tháng 3 năm ấy, nghịch thần Thuyết làm bậy hỏng việc, tôn xã sợ động, xe vua chạy dạt, sân cửa ngong ngóng, nước mắt https://thuviensach.vn không còn. Tự khi nó bắt ép đi đến nay 2 tháng hơn. Nhiều lần đón về, không tin đích xác. Thân già này nghĩ đến, tức giận thêm nhiều. Nay may nước Pháp giảng hòa, bàn để Đại Nam hoàng đế ngự vị như cũ, nhà nước Đại Nam cũng y như cũ. Những ý tốt ấy đã bá cáo trong ngoài. Nay tiếp triều đình Đại Pháp điện báo cần có chủ quân mới giao trả kinh thành. Thân già này nghĩ đi nghĩ lại, nếu không quyền thời thi nghi, thì xã tắc 9 miếu hương hỏa nguội lạnh, thần công trong ngoài, không ai lệ thuộc, 3 tháng ong óng, bốn biển sôi nổi, sự thể như thế bao giờ kéo về được. Nay ngôi to không thể để trống lâu, ý tốt không thể để chậm mãi. Nối lại mối dứt, ở một lần này, trái thời bỏ lòng dân, thì việc lớn làm sao? Người đời trước có câu "xã tắc là trọng" thân già này rất để ý vậy. Quan Đại Pháp Đô thống bảo hộ Đại Nam quốc Toàn quyền đại thần Côrasi, trú kinh Khâm sứ đại thần Xâmbô, nhiếp lý quốc chính Thọ Xuân Vương Miên Định, Cơ Mật đại thành Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình cũng lũ Tôn Nhân phủ, văn võ đình thần dụ tấu chỉnh đốn dựng con thứ 2 của Dực Tôn Anh Hoàng Đế là Kiên Giang Quận công làm tự hoàng đế, để vâng chính thống mà định nhân tâm. Thân già này rất yên dạ vui lòng. Đã cho chọn ngày tốt, lấy ngày mồng 6 tháng ấy, đón Kiên Giang Quận công vào thành, ngày 11 làm lễ tấn quang. Hoàng thái hậu ngự về nội điện, để chính mẫu nghi. Vua Hàm Nghi nếu có lúc nào về, nên tập phong tước công để thờ cúng Kiên Quốc công. Nước có vua lớn là phúc xã tắc, trên yên hồn thiêng liêng hoàng đế ở trên trời, dưới phó nguyện vọng thần dân một nước. Mà thân già này năm nay đã già yếu, lại được thấy nghiệp cũ tiên triều, còn mừng gì hơn nữa. Tất cả thần thứ trong ngoài của ta đều nên kính theo pháp kỷ, để mừng ngày thịnh vượng". Tháng ấy, lễ tấn tôn đã xong, vua đem quần thần đón từ giá và 2 cung đều về cung điện cũ. Năm Đồng Khánh thứ 2, Đinh Hợi, tháng 4 nhuận, ngày 20 Đinh Mùi, vua đem hoàng thân tôn nhân văn võ thần công đem sách vàng, ấn vàng dâng huy hiệu làm Từ Dụ Bác Huệ Thái Hoàng Thái Hậu. Sách văn rằng: "Trộm nghe nhân thân dạy ái, là lễ to của đế vương; vinh hiệu về tôn là điển lớn xưa nay. Bởi chỉ có đại đức của thiên hạ tất nên đại danh của thiên hạ. Kính https://thuviensach.vn nghĩ Thánh Tổ Mẫu Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu bệ hạ Xa Lộc (63) gây điềm, hương lan ứng mộng. Giúp Hiền tổ trị hóa 7 năm, cũng giống Đồ Sơn giúp Hạ. Mở Dực tôn thăng binh 3 kỹ, khác gì Khương hậu hưng Chu. Mỹ lợi đến cả xã tắức hóa khắp đến nước nhà. Cho nên ta nay tuổi trẻ vào nỗi mối to. Khôn nguyên chở dày, được nhờ để, mưu cho cháu. Khiêm đức tôn sáng, khó đem tên tốt dâng bà. Cẩn đem quần thần dâng sách vàng, ấn vàng dâng tôn hiệu Từ Dụ Bác Huệ Thái Hoàng Thái Hậu. Kính nghĩ hiệu tốt cả chính, ân to rộng ban. Để thiện về sau, bồi nền nhân hậu, vui thiên hạ cùng lo việc thiên hạ, ngậm đường, chơi với cháu, hưởng phúc khang cường, giúp văn tử lại giúp cả văn tôn". Ngày hôm sau ban ơn cho trong ngoài xa gần mừng rỡ. Năm Thành Thái thứ nhất (1889) mùa xuân, tháng giêng. Hoàng thượng lên ngôi, mùa hạ, tháng 4 tấn tôn làm Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái Hoàng Thái Hậu. Trước đây vua nghĩ năm ấy gặp thánh thọ, 80 tuổi Đại khánh tiết, đem tôn nhân phụ chính đình thần cùng lời tâu xin tôn thêm huy hiệu. Vâng từ chỉ chu chuẩn bảo cho giúp đỡ công việc, mong cho nước thịnh dân yên. Còn đến việc dâng thêm tên đẹp thì khiêm nhượng không nhận. Vua 2, 3 lần đến kêu xin mới được chuẩn cho. Đến ngày ấy bèn đem quần thần đến cung Từ Thọ dâng sách vàng, ấn vàng tôn dâng huy hiệu. Sách văn rằng: "Quẻ tấn trung chính thì hưởng phúc giúp có tam linh; quẻ Khôn quang đại mà ứng trời ban bao hàm muôn loại. Bởi vì có đại đức của thiên hạ, nên nhân sủng danh của thiên hạ. Thời tốt rỡ ràng, điển to rộn rịp". Kính nghĩ Thánh tòng tổ mẫu Từ Dụ Bác Huệ Thái Thái Hoàng Thái Hậu bệ hạ, đức tĩnh như núi, mưu đầy như vực. Giúp trị hoá 7 năm cũng như Đồ Sơn dựng nhà Hạ. Mở ưu cần 3 kỷ, cũng như Văn Mẫu hưng Chu. Lúc vận trời gian nan, nhờ thánh tâm mặc vận. Kế lớn đã định, thân dân có chủ. Trí thành cẩm phát, xã tắc được yên. Nhà nước bình khang, dân đều nhàn thọ. Thực là làm tốt 9 loài mà thu phúc. Khoẻ mà sống lâu, khắp cả tám cõi cùng chúc mừng, thực cùng danh tốt. N là cháu hèn, kính vâng nghiệp cả. Gặp tuần thọ 80, kính chúc lời vạn phúc. Dầu khiêm cung không nhận, mà https://thuviensach.vn đức tốt xứng gương. Kính đem hoàng thân văn võ đình thần dâng sách vàng, ấn vàng dâng tôn hiệu là Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái Hoàng Thái Hậu, đại hoá đều thành, trải bốn đời làm mẹ thiên hạ; an ninh tiến phúc hợp bốn biển làm vui một nhà. May ra tằng tôn tu tiến, cũng được hưởng phúc khoẻ mạnh. Năm Thành Thái thứ 11 (1899) gặp Đại khánh tiết 90 tuổi, ngũ đại đồng đường, ngày tết Nguyên Đán, vua thân đem quần thần làm lễ khánh hạ. Lễ thành, bế cháu huyền tôn làm lễ ôm ra chầu. Kính vâng thánh từ vui vẻ. Vua bèn xuống dụ rằng: "Đế vương tự đời xưa giai cung mở điềm tốt. Lan ngọc trình điềm lành. Có cháu tằng tôn, lúc đó các đời cùng có. Đến như tuổi lên thượng thọ, có cháu năm đời, sáng sao vụ giữa trời, nở cành vàng lá ngọc, thực là ít đời có được. Vâng quốc triều ta, Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Thái Hoàng Thái Hậu thánh thọ vọng nhập, vừa thấy cháu huyền tôn sinh, ngũ đại đồng đường, gia tôn hành khánh, chép vào sách ngọc, thực là ít có. Ngày 11 tháng 11 năm Thành Thái thứ 9, hoàng tử thứ 3 của trẫm là Vĩnh Trân sinh là huyền tôn của Thánh tằng tổ mẫu. Năm ấy kính gặp Thánh thọ cửu tuần Đại khánh tiết. Ngày tết Nguyên Đán, Trẫm thân đem quần thần đến cung Gia Thọ làm lễ khánh hạ. Lễ thành đem huyền tôn làm lễ ôm cháu đến chầu. Kính vâng tháng từ vui mừng thưởng cho rất nhiều. Trước bàn dâng quả, trên thềm ngậm đường, thực ví sáng với đời trước, và việc vui của nhà trời. Trẫm vui mừng quá!". Ngày ấy ban ân chiếu cho trong ngoài. Năm Thành Thái thứ 13, mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, Hậu se mình rồi mất, thọ 93 tuổi, đặt thi hài ở cung Gia Thọ, ngày tháng 5 kính dâng tôn thụy là Nghi Thiên Tán Thành Từ Dụ Bác Huệ Trai Túc Tuệ Đạt Thọ Đức Nhân Công Chương Hoàng Hậu. Sách văn rằng: "Tôi nghe có đại đức thiên hạ thì được đại danh thiên hạ. Tự đời xưa, thành tâm hiếu phụng. tất làm lễ tôn sùng. Kính nghĩ Thánh Tằng Tổ Mẫu Đại Hành Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái Hoàng Thái Hậu bệ hạ, Mai Sơn đúc khí tốt, kim khấu tỏ điềm lành. Giúp trị công lớn 7 năm cùng Hiến Tổ Chương Hoàng Đế. Mở công to 36 năm https://thuviensach.vn của Dực Tôn Anh Hoàng Đế. Gặp lúc sấm mây rực động, cán đáng một lòng; im lặng núi sông thanh cao, thiếp thái vui cùng bốn biển. Đức tốt nghi thiện, chở dày ngậm rộng; phép hay tán thành, nguồn cả thấm xa, từ đường là đức, để cho người sau bác ái một lòng, ơn khắp con họ, tỏ tiếng tốt ở kinh thất, đức ví với người từ trai; nêu phép tắc ở nội đình, nghi biểu rất là cung túc. Tính sáng thích xem sách vở, từ huấn chép ra: đạt quyền thích ứng thời nghi, triều cương bền vững. Ngũ đại đồng đường, cửu tuần tấn thọ. Đức tốt phải được, lợi kịp xã tắc Công thì cao lắm, nhân tới nước nhà. Nhớ chỗ ban phúc đức lành, vô cùng cảm mộ; nghĩ đến thánh đức trí thiên, ra sức tụng dưỡng. Bèn xét điển lễ, hỏi cả mọi người. Bèn vâng tâu lên cung Trường Ninh Trang Ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái Hậu, cung Từ Nghi Hoàng thái hậu được chỉ. Cần sai chọn ngày tốt thỉnh mạnh liệt miếu kính cáo linh tọa, thân đem Tôn Nhân phủ văn võ đình thần kính dâng sách vàng, ấn vàng truy dâng tôn thụy là Nghi Thiên Tán Thành Từ Dụ Bác Huệ Trai Túc Tuệ Đạt Thọ Đức Nhân Hiển Hiệu, ngự làm vào miếu, để thờ phụng ức năm, phát mãi điềm lành, ban phúc đến muôn thuở". Ngày hôm sau, ban ân chiếu cho trong ngoài. Tháng ấy, ngày 22 làm lễ ninh lăng an táng ở Vạn vạn niên cát, ngọn núi bên hữu Xương Lăng. Kính dâng tên lăng là xương Thọ lăng. Lễ thành rước thần chủ ngự về điện Lương Khiêm ở Khiêm Cung. Sau ngày làm lễ đàm, rước thần chủ thăng phụ vào án hữu nhất Thế Miế. Vâng đem tháng thị thăng phối vào án hữu nhất điện Phụng Tiên và ở án chính điện Biểu Đức. Từ đường Đức Quốc công nay do Quang Lộc tự khanh Phạm Nhã Khanh giám thủ, tuế thời tự điển hình tiền công chi biện. QUYỂN 4 TRUYỆN CÁC HẬU PHI - MỤC IV Dực Tôn Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu. Họ Vũ, người huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha là Ngự https://thuviensach.vn tiền đại thần Thái tử Thái bảo Đông các Đại học sĩ, đặc tiến Kim tử Vinh Lộc Đại phu, phong Lệ Quốc công Vũ Xuân Cẩn. Sinh mẫu là Trần thị, phong Lệ quốc nhất phẩm phu nhân. Năm Minh Mạng thứ 9, Mậu Tý, mùa hạ tháng 5 sinh hoàng hậu. Hậu lúc bé đã nhàn tĩnh đoan nhã có tính đặc biệt, thích xem sách vở, hiểu nội tấc. Năm Thiệ u Trị thứ 3, được tuyển vào hầu Dực Tôn Anh Hoàng Đế ở nhà riêng (tiềm để). Hậu đức thì đoan trang, nết thì thục thận. Thờ Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu ở đông triều rất được mẹ chồng vui vẻ. Vua cũng yêu kính. Năm Tự Đức thứ 1, vua lên ngôi phong làm Cung tần. Năm thứ 3 định lại cung giai tấn phong làm Cần phi. Sách văn rằng: "Vâng theo đạo trời, thứ tinh vẫn bày vào thần viên; trị đến nước nhà, nội dung thực giúp việc vương hóCung giai có thứ tự, lễ mạnh nên thắng đầu. Yêu thay Cung tần Vũ thị, ra tự thế phiệt, đức tốt ngọc quỳnh. Nội trị tu tề, kính theo phụ đạo. Thờ mẹ yên thắm được vui tư tâm. Bèn theo điển lễ để tỏ ân to, đặc cách tấn phong làm Cần phi. Ngươi nên kính mang ân vinh, càng chăm nết tốt. Đọc coi đồ sử để giúp đỡ vương phong, bàn bạc phúc nhân, còn hưởng lâu sủng mạnh". Năm 13, tấn phong làm Thuần phi. Trước đây vua báo quan bộ Lễ rằng, năm ngoái gặp đại khánh tiết Thánh từ ngự thân, vâng thánh từ dụ rằng: Phi tần nội đình thờ ta rất tốt. Đến nay 12 năm, nên cho thăng để khuyên người cần sự mà nghiêm cung nghi. Kính vâng lời ngọc không dám trái: nhưng việc quân chưa rỗi, tạm hoãn lại. Nay lại vâng từ chỉ hỏi đến. Vừa nhân tiết mùa xuân, ban ơn cũng nên suy ân đế tỏ ơn mẹ bèn tấn phong làm Thuần phi thiên hạ. Sách văn rằng: "Thiên văn thứ tinh, vi phi thực là người giúp. Thần cung nội chức thăng trật để khen người hiền. Đã chọn ngày tốt, bèn tỏ tiếng thơm. Yêu thay Cần phi Vũ thị, dòng dõi danh gia, hiền tài, trinh tư thục thận. Đoan trang tỏ nết tốt, nội trị theo đức hóa tu tề; cẩn kính cả đức hay. Thờ mẹ sẵn một lòng ngoan ngoãn, trên yên lòng mẹ, liền đội ơn dày. Thánh thọ vừa gặp thịnh điển, suy ơn trước tự gần, chu chuân kính vâng tiếng ngọc, thiều quang lại gặp thần, thi huệ tước tự xuân, khen tốt nên rộng lời vàng. Nay đặc cách phong làm Thuần phi. Ngươi nên vinh đức vân ngộ theo đúng huấn di. Sửa sang khẩn giáo, luôn luôn tỏ nết êm đềm, vinh diện https://thuviensach.vn cổn chương, mãi mãi thấm ơn đằm thắm". Năm 14, mùa đông, đổi phong làm Trung phi, bài sách văn vẫn theo thể cũ. Chỉ đổi khác chữ Thuần phi làm chữ Trung phi. Năm 15, mùa xuân, tháng giêng, tấn phong làm Hoàng quý phi. Vua dụ rằng: "Trong cung vi là gốc phong hóa, không thể không đặt người ra để xướng suất cung nhân, chấp hành phụ đạo. Trung phi Vũ thị, con nhà danh gia, kính vâng tuyển cho hầu ta. Cùng có đức hạnh nên cất nhắc lên. Vậy tấ phong làm Hoàng quý phi, suất nhiếp sáu viện". Sách văn rằng: "Ngôi tử vi đế tọa, sao thứ năm chỗ đóng là phi; quẻ phong tỏa gia nhân, hào lục nhị ở trong thì tốt. Bởi có đức tốt mới xứng sắc phong. Xét Trung phi Vũ thị, trinh tư thục thận, dòng dõi huân hiền. Gia đình dạy sẵn, thi thư đồ sử khuyên răn, lễ phép quen rồi, hạnh vũ cư hoàng trong sáng. Tuyển cho dã vừa ý thánh. Đoan trang đủ tỏ nghi hình. Mấy năm hay hầu hạ từ vi, tấn thuận càng bền nết tốt. Bao nhiêu lần được nhờ hậu thương, khiêm cung chả kém lòng xưa. Tiếng tốt càng lâu mà càng rõ, hiển hiện chỉ thêm mãi không thôi. Nay cho ngươi làm Hoàng quý phi. Ngươi nên kính noi thánh mạnh, giúp ta một người. Càng tốt khuê nghi, suất nhiếp 6 thượng. Giữ sau như trước, tỏ thói hiếu kính kiêm cần; theo lẽ mà hòa, để phúc cung vi con họ". Năm 35, mùa đông, tháng 12 lại giáng làm Trung phi. Lúc bấy giờ cơ vụ rất nhiều có khi vua quá trưa mới được ăn. Vua se mình đương uống thuốc, cung nhân tiến cơm hơi chậm trái ý vua. Vua bèn giáng Quý phi làm nguyên giai Trung phi quản nhiếp Thượng nghi, không cho suất nhiếp sáu viện. Năm 36, mùa hạ, tháng 5, vua lên chầu trời, vua di chiếu tôn Trung phi làm hoàng hậu, trị việc trong nhà để dạy tự quân. Sau Cung Tôn Huệ Hoàng Đế nối ngôi mới được 3 ngày bị quyền thần bức bỏ, đón Phế đế là Văn Lãng Công vào nối ngôi cả. Mùa thu năm ấy, Tôn nhân, đình thần vâng di chiếu xin tấn tôn làm hoàng hậu. Hậu đến cung Gia Thọ (chỗ Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu ở) lạy từ rằng, tôi vâng chiếu dạy bảo tự quân nay tự quân như thế cũng có lỗi, tôi xin ra ở Khiêm Cung để chầu thờ. Lúc bấy giờ Phế đế lại xin hậu ngự điện Cao Minh để đến bái yết và thân dâng cơm. Hậu cố từ https://thuviensach.vn không nhận, liền đi xe ở Ôn Khiêm Đường, vâng chầu điện Lương Khiêm. Vua bèn sai Tôn nhân, đình thần bàn thế nào hợp lễ chế. Quần thần bèn tham chước thành điện, xin lấy mỹ tự lên cung tôn làm Khiêm Hoàng Hậu. Nghị ấy dâng lên, vua lại sai Tuy Lý Vương cùng các quan, Quốc tự giám bàn kỹ cho rằng lấy mự tên cung làm hiệu, cũng như đời Dương Bảo Lịch Hoàng Hậu ở điện Nghĩa An, thì tôn làm Nghĩa An Hoàng Hậu. Đời Tống Hiển, lúc thái hậu ở cung Ninh Đức thì tôn làm Ninh Đức Hoàng Hậu. Nay tôn làm Khiêm Hoàng Hậu chiếu vào điển cổ cũng hợp xin y nghị làm. Bèn sắc làm sách vàng, ấn vàng và đem việc này tâu lên cung Gia Thọ, xin chỉ thi hành. Đến lúc tâu lên từ chỉ cho bãi hoãn, đợi đến lúc trở về. Đến lúc vua bị bỏ, việc tấn tôn ấy vẫn chưa cử hành. Giản Tôn Nghị Hoàng Đế nối ngôi, qua sang năm (là Kiến Phúc năm thứ 1) mùa hạ, tháng 5, gặp sinh nhật, hậu vâng đổi gọi làm Thiên Thu tiết. Trước kỳ đem việc ấy kính cáo, đến ngày ấy sai hoàng thân công cùng quan bộ Lễ kính đệ biểu tiên phẩm nghị đến Ôn Khiêm Đường ở Khiêm Cung làm lễ khánh hạ. Đến lúc Giản Tôn mất, Xuất đế lên ngôi, lấy năm sau làm Hàm Nghi nguyên niên. Mùa xuân, tháng 3, tấn tôn Nghi Thiên Thái Hoàng Thái Hậu lễ thành. Liền xin tấn tôn huy hiệu. Hậu không nhận. Năm ấy, mùa hạ, tháng 5 kinh thành có việc. Hậu nghe biến liền đi theo Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu chạy ra hành cung Quảng Trị đóng ở đấy. Đến lúc nghị hòa thành, vâng hầu Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu từ Quảng Trị về Khiêm Cung đóng đấy. Đến lúc Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế nối ngôi, quan Đại Pháp giao trả kinh thành, 3 cung đều về ở cung điện trước. Hậu từ Khiêm Cung lại về cung Trường Ninh. Mùa đông năm ấy, gia tặng cha hậu làm Lệ Quốc công, đích mẫu Bạch thị, sinh mẫu Trần thị đều làm Lệ Quốc phu nhân, dựng đền là Lệ Quốc công từ. Năm Đồng Khánh thứ nhất, mùa đông, tháng 12, sung ân họ ngoại nhà vua. Hiền tổ Vũ Xuân Phổ trước tặng Tư Thiện Đại Phu Thượng Thư Bộ Lễ, gia tặng thêm hàm Thuận Xương Hầu, thụy là Đôn Nhã, chính thất Vũ Văn thị làm Đoan Nhận, thụy là phương Huy. Tằng tổ Vũ Xuân Uyên, trước tặng Gia Nghị Đại Phu Hàn Lâm Viện Chưởng Viện Học Sĩ, tặng thêm là Đức Hòa Bá, thụy Đôn Trực. Chính thất Vũ Văn thị làm Thục nhân, thụy Nhu Giá. Cao tổ Vũ Xuân Yên gia tặng Trung Thuận Đại Phu https://thuviensach.vn Hàn Lâm Viện Thị Độc Học Sĩ Thế Lộc Tử, thụy Đoan Phác. Chính thất Phạm thị làm Cung nhân, thụy Hòa Nhu. Tiên tổ Vũ Xuân Khoa truy tặng Trung Thuận Đại Phu Hồng Lô Tự Khanh, thụy Lượng Uyên. Chính thất (không nhớ họ) làm Cung nhân, thụy Tĩnh Nhàn truy tặng Bạch thị, thụy Trang Nhân Lệ Quốc phu nhân; Trần thị, thụy Trinh Từ Lệ Quốc phu nhân, dựng đền thờ gọi là "Tích tử từ" và tu chỉnh phần mộ, ấm thụ cho người cận thân để làm giám thủ. Năm Đồng Khánh thứ 2, mùa xuân, tháng 3, dụ rằng: "Tự đời xưa, vua giỏi hiếu phụng đông triều. Đã hợp của thiên hạ để nuôi, tất hết sự tôn của thiên hạ để tôn. Hán có Minh Đức, Tống có Tuyên Nhân, đức để tỏ tôn lớn mà rõ đức tốt vậy. Kính nghĩ thánh mẫu, làm hoàng đức phúc, tĩnh mục làm phép giúp hoàng khảo Dực Tôn Anh Hoàng Đế nội trị 36 năm. Nối tốt Khương Chí, chỉ làm điều đức. Đức hóa kịp đến nước nhà, mỹ lợi ra các xã tắc. Vâng hoàng khảo lúc sắp mất để chiếu lại tấn phong làm hoàng hậu, đại lễ chưa kịp cử hành ngẫu nhiên gặp biến cố, trên thờ thiêng liêng chín miếu và thánh tổ mẫu và thánh mẫu chứa phúc, còn tốt đẹp đến ngày nay. Đây chỉ là Hậu đức hợp càn nguyên, sáng nhờ Khôn hậu. Nhưng tốt chứa trong lòng mà phát ra ngoài thì vốn đức thâm trầm, thân bề thục thận, há chả phải trong à? Trong thì tinh tú, đến nơi thì thâm nghiêm, há chả phải ý à? Trẫm nghĩ vâng nghiệp cả, được lấy thiên hạ, thân nuôi chầu hầu, tôn thân cùng hiệp, thần dân cùng lòng. Trước đây qua tôn nhân đình, thần kêu xin tấn gia tôn hiệu. Từ chỉ khiêm tốn không nhận, thực là đức tốt khiêm quang, không thể hình dung được. Nhân nghĩ cách ngọc tinh cầu đợi có huy xưng là tính, cũng là lễ vậy. Cũng nên kính dâng huy chương để tỏ quốc khánh. Nay tôn thân đình thần hai ba lần xin, trẫm lập tức đem việc tâu lên; nay được chuẩn y về sự nghi tấn tôn, nên làm thế nào cho phần việc đều chiểu lệ làm, để yên lòng ta một người hiếu phụng, hợp nguyện vọng muôn họ tôn sùng". Mùa hạ, tháng 4, ngày 27, vua thân đem quần thần dâng sách vàng, ấn vàng dâng huy xưng rằng Trang Ý Hoàng Thái Hậu. Sách văn rằng: "Trộm nghe đại đức tốt được tên to, tôn thân chỉ là chí hiếu. Phúc nhà Thương phát mãi, nguồn phúc vẫn tự bà Hiến Nhung; nghiệp nhà Chu không suy, đức thịnh cũng từ kinh thất. Đều để có đức tốt, mãi sáng https://thuviensach.vn phúc to vậy. Kính nghĩ Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ, vốn có khổn phạm, hay nối huy âm. Nhớ trị hóa rũ áo xiêm ngày ấy, phụ tá công nhiều; cứ lời nói trên ghế ngọc ngày nào, suy tôn lễ sẵn. Chưa đặt nghi chương, bởi nhân biến cố. Trên nhờ thánh từ, vẫn nghĩ đến miếu xã; cho nên tiểu tử hơi định được bang gia. Dẫu thịnh tốt mà không nhận, càng rõ lòng tôn quang; nhưng nêu gương xiết bao, để tỏ lòng sùng báo cẩn đem quần thần dâng sách vàng, ấn vàng dâng tôn hiệu là Trang Ý Hoàng Thái Hậu, cúi xin nhận lấy huy xưng, phô bày đức tốt. Tấc cỏ báo ánh xuân, vẫn tin lòng hiếu; sáu mươi vừa chu giáp, mừng dựa bóng từ. Ngày mồng 9 tháng 5, gặp Đại khánh tiết Thiên thu sáu mươi tuổi, vua thân đem quần thần dâng biểu kim tiên làm lễ khánh hạ. Lễ thành. Ban ân chiếu cho trong ngoài, cả thần dân reo mừng. Năm Thành Thái thứ nhất, mùa đông, tháng mười, hoàng thượng ta thân đem Tôn Nhân phủ, văn võ thân công dâng sách vàng, ấn vàng dâng thêm huy xưng là Trang Ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái Hậu. Sách văn rằng: "Ứng thời là thuận đức ngậm rộng tỏ hết tốt ở trong. Nguyên cát có phúc to, tán tụng rõ đức to càng sáng, thực bởi lâu ngày thì tỏ, thực xứng với danh. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Trang Ý Thái Hoàng Thái Hậu bệ hạ, trinh tiên sáng vẻ, lan dịch bay thơm. Để nữ tắc ở cung nhà Đường, an trinh đều tết; vâng từ hoàn ở điện nhà Hán, kính cẩn càng thêm. Thuận đức khắp cả nước nhà, hiếu đạo giữ toàn sau trước. Tự trước sắc phong ngọc đẹp, chưa đủ hình dung; nên nay sử đỏ bìa xanh, càng truyền thịnh mỹ. Ta hay tiểu sử trên nhờ bóng từ. Duy phong hóa tốt tự cung vi, nên lợi trách khắp đến xã tắc. Lòng thành khiêm tốn, còn mong sâu xa. Đức tốt phô giương, càng thêm kính mến. Bèn xét lễ to vừa gặp thời tốt. Kính đem hoàng thân văn võ đình thần dâng sách vàng, ấn vàng dâng tôn hiệu là Trang Ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái Hậu. Cúi mong nhận lấy huy xưng, rộng ban khổn huấn. Nhậnốt này, cùng soi ánh sáng sao bảo vụ; đức khôn nguyên lớn, làm vững cơ nghiệp thế âu vàng". Lễ thành, ban ân chiếu cho trong ngoài. https://thuviensach.vn Vua dụ rằng: "Vua nhờ mẫu hậu, để dạy dân hiếu với mẹ cha. Đại danh huy để hợp kính cùng tôn, lễ rất sang trọng vậy. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Trang Ý Thái Hoàng Thái Hậu bệ hạ tư chất thuần túy, khuôn phép đoan trang. Giúp trị hóa Hoàng tổ khảo Dực Tôn Anh Hoàng Đế, thờ vui lòng Hoàng tôn tổ mẫu Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái Thái Hoàng Thái Hậu. Ơn khắp nước nhà, lợi đến xã tắc. Vâng Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế ta theo di chiếu dâng tôn xưng. Tiếng tốt kinh thất sáng thân sách trước. Trẫm trên nhờ từ nhân, nối vâng nghiệp lớn. Thực là đức thịnh tốt lớn, chứa lâu càng tỏ mà sách ngọc ấn vàng tán tụng chưa đủ, lòng trẫm vẫn chưa yên. Vừa rồi đem kim tiêm xin tấn thêm tôn hiệu. Kính vâng lòng thánh khiêm cung, nhường tên tốt không phận. Trẫm hai ba lần kêu xin, may được ừ cho. Lại vâng chỉ thân dụ rằng, sự nghi làm lễ, nên theo tiết kiệm những phẩm nghi trong ngoài cung tiến; đều cho đình chỉ. Thực trông lên thấy khiêm tốn mà sáng, không lấy tôn cao làm vui, mà nghĩ sâu về dân sinh quốc kế. Sâu xa làm sao vậy! Bởi thế kính theo điển lễ, bàn làm nghi chương. Vâng xin mạnh miếu điện, tâu lên cung Gia Thọ thân đem quần thần dâng huy hiệu công tôn tước phi tần, công chúa phủ thiếp các triều và văn võ ấn quan ở kinh đều cho ăn yến một tiệc, để tỏ từ huệ. Còn tất cả phiến văn tiết nhỏ đều đình chỉ. May ra thể tất ý tốt tiết kiệm của hoàng hậu. Và thân người thân mà tôn người tôn là lễ thường vậy. Ban mãi phúc cho thần dân, cũng là hiếu đức của vua nhân. Từ nay nhân dân được nhờ phúc coi như con. Nước có tốt đẹp không bờ bến, chắc thần dân cũng đều vui mừng cả". Năm Thành Thái thứ 4, mùa hạ, tháng 5, san khắc các tập thơ văn thánh chế của Dực Tôn Anh Hoàng Đế ban hành, viết xong tiến trình. Vâng ý chỉ rằng các tập thánh chế trước thật đã vâng kiểm soát, san khắc, nhưng trong ấy còn có bỏ sót. Và lại vâng sao raột tờ, thánh chỉ di chúc rằng: thi sử ta dụng công rất cần. Chưa xong, giao cho các thần theo làm, cốt thành sách san hành. Còn các sách như các loại tự học luận ngữ, nếu làm được, lần lượt san hành. Vua bèn sắc Sở tu thư Sử quán kiểm soát kỹ giao cho khắc in, thành sách ban cấp cho trong ngoài. Năm Thành Thái thứ 9, mùa hạ, tháng 5, gặp đại khánh tiết Thiên thu cho bảy mươi tuổi. Vua đem quần thần làm lễ khánh hạ như trước. Năm thứ 13, https://thuviensach.vn mùa hạ, tháng 4, Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu ngự giá lên tiên. Lễ ninh lăng xong, rước thần chủ đặt lên điện Lương Khiêm. Hậu đến điện Ôn Khiêm để phụng thờ. Năm thứ 14, mùa hạ, tháng 4, hậu mất, thọ 75 tuổi đặt thi hài ở Ôn Khiêm Đường, ngày tháng 5, vâng vua dụ rằng: "Từ xưa người có nết tốt không ai to bằng, thì có tên tốt không ai lớn bằng. Làm văn tế để thuận đức hạnh, đặt tên thuỵ để tôn danh, sách ngọc ấn ngọc để đến vô cùng, ban ra trong biển, là điển lễ rất to vậy. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Đại Hành Trang Ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái Hậu, nết thuần tốt đẹp. Khôn nguyên tốt đức thuận thừa, hoá quang kinh dịch; kinh thất hết lòng hiếu phụng, tư mỵ cả thi. Dầu gặp thời tiết mây sấm, lại sáng hơn là dực chẩn. Ngầm vận một lòng. Mưu toan mọi việc. Lợi tốt đến cả xã tắc. Nhân ân thấm đến nước nhà. Nết hiền tiếng tốt, nối được Hoàng tằng tổ tỷ Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, cũng là Nghiêu Thuấn trong những bà mẹ, mà là Thái Nhân Thái Tự đời nay vậy. Đầu năm Đồng Khánh, vâng Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế theo di chiếu dâng, tôn xưng hiếu tự tốt thịnh, tên to cả rõ. Trẫm nối vâng mối cả, kính theo mưu xưa, trạch năng đức mỏng chỉ sợ không gánh vác nổi. Thực nhờ thánh từ giữ gìn được có sự tốt đẹp ngày nay, sẵn lòng yêu mến bắt chước mẫu nghi. Năm lên ngôi, thân đem quần thần trăm quan kính dâng sách ấn, tăng thêm huy xưng cũng đã tỏ công lớn vào bài thơ, sáng tôn danh vào sách vở rồi. Ngày tháng 4 năm ngoái, vâng Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu bỏ đời lên tiên, kính vâng ý chỉ theo di chúc của Dực Tôn Anh Hoàng Đế, sau yên táng rồi đón thủ đặt lên điện Lương Khiêm, Hoàng tổ mẫu ngự Ôn Khiêm Đường để tiện thờ tự. Vâng thấy tần tảo nết tốt, sớm tối siêng năng, đương mong tuổi hạt tám mươi cung Trường Tín chén vui ngậm đường mãi mãi. Bàn đào nghìn tuổi, ao dao trì dâng chén thọ luôn luôn. Nào ngờ ngày tháng 4 năm ấy, vâng linh giá lên xa, kêu với không kịp. Thương xót vô cùng. Than ôi ! Thương thay! Nhớ lại đại đức trí nhân, không thể nói sao cho hết. Chỉ có nên khen tốt đẹp báo đáp thêm vào. Kính nghĩ Tổ mẫu ta, đại hóa sánh trời, mưu tốt giúp thánh. Đoan trang ý mỹ, như thuận hiếu thành. Sớm chầu thì răn tiến như thơ kê minh; đãi kẻ dưới thì ban ân như thơ cù mộc, sao mà cần lại như thế. Còn họ hòa họp ở cung vi, mẫu nghi đủ làm phép cả nước. https://thuviensach.vn Sao mà ôn lại từ thế. Làm lợi xã tắc mà không để cho vua phải lo, há chả phải hiển minh à? Giữ thái hòa mà hưởng nhiều tuổi thọ, há chả phải tĩnh mà sống lâu à? Qua tôn nhân đình thần văn võ cùng bàn xin dâng tôn thụy là Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng Hậu, chắc là nhân nết tốt mà dâng tôn xưng. Trẫm duyệt kỹ lại tưởng cũng phải đã đem việc này tâu lên cung Ninh Thọ, Hoàng thái hậu soi xét. Bởi thế trên nói chỉ chuẩn, dưới lấy lời của mọi người. Cẩn lấy ngày mồng 4 tháng 6 là ngày tốt cử hành. Những sự nghi nên làm theo phần việc tuân biên, cốt hợp với tình lễ tổ bảo sau này. Trẫm sẽ trai tịnh xin mệnh các miếu. Kính đem sách ấn đến trước linh tọa vâng dâng tôn thụy, may ra nêu tôn to mà rõ điển tốt để lưu truyền đến vô cùng vậy". Đến ngày, vua thân đem quần thần dâng sách vàng, ấn vàng đến linh tọa kính dâng tôn thụy là: Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cán Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng Hậu. Sách văn rằng: "Nghi thơm nết tốt, nghìn thu bút son sáng ngời; nêu tốt tỏ hay, muôn thuở ngọc cầu rực rỡ. Tôn xưng là trời để viếng, vì sáng mặt trăng. Kính nghĩ Hoàng tổ mẫu Đại Hành Tranh Ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái Hậu, Lệ Thủy đức thiêng, cao môn học tốt. Giúp đức hóa ba kỷ thăng binh của Dực Tôn Anh Hoàng Đế. Nội trị đã nên, thờ được vui chín tuần thọ khảo của Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, tiếng tốtược. Ngửa xem thỏa lòng cả thần thứ. Nghi hình được trọng cả gần, xa. Lại còn đại hóa sánh trời, mưu tốt giúp thánh giữ mình cần thứ, mang đức ôn từ. Hiền mà lại sáng, việc tật khổ của dân không sót điều gì, tính mới sống lâu, giữ tiên hòa trong mình nuôi thành tiên cách. Duy thịnh đức, trí thiện khó quên, hình dung không hết, nhớ lưu truyền phúc cả tự đấy, cảm mộ vô cùng. Bèn vâng tâu lên cung Ninh Thọ Hoàng thái hậu dụ chỉ, kính xin chọn ngày tốt, xin mệnh các miếu, kính đến linh tọa dâng sách vàng, ấn vàng dâng tôn thụy là Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng Hậu, cúi mong nhận lấy tên tự, ngầm thỏa linh sàng, ngự lãm về miếu, hậm tưởng lòng thành. Phát mãi điềm lành, ban cho phúc cả. Ngày 15, rước linh giá tiến đi an táng ở vạn niên cát địa, núi bên tả Khiêm Lăng. Dâng tên lăng là Khiêm Thọ lăng. Lễ thành rước thần chủ về điện Ôn https://thuviensach.vn Khiêm phụng sự, theo đúng lễ cửu ngu, làm lễ tốt khốc. Sau khi tế đàm, rước thần chủ thăng phụ vào án tả nhị Thế miếu. Rước thánh vị thăng phối án tả nhị điện Phụng Tiên và án chính điện Hòa Khiêm. Đền Lệ Quốc công và đền Tích Trỉ, 2 đền hàng năm chi tiền công phụng tự. Hậu là con nhà quan to, trí đức hiền hạnh, nối được tiếng tốt của Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu. Khiêm đức tôn quang, khôn hậu tái vật, trong giúp trị hóa 36 năm của Dực Tôn Anh Hoàng Đế. Tu tề dựng đức hóa, ung mục thành thái hay. Phúc để cung ru, ân ra thần thứ, thái bình thấm thía thực là tốt lắm thay. Đến Hàm Nghi năm thứ nhất, ngẫu gặp biến cố, vẫn nghĩ đến xã tắc làm trọng quyền thời thì nghi trên giúp mẹ hiền, ngoài tốt lân hiếu. Cho nên hay quyết đại mưu, định đại kế đem thiên hạ âu vàng không mẻ truyền cho văn tử văn tôn, rồi được cung cấm lại sạch, giá chuông như cũ, há chả phải lòng nhân chí sáng phát ra xa à? Dẫu Mã hậu Đặng hậu nhà Hán, Cao hậu Tào hậu nhà Tống cũng không hơn được, câu đời xưa gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn, nay lại thấy đấy Lễ tân Nguyễn Thị Bích tự Lang Hoàn. Người huyện An Phúc, đạo Ninh Thuận là con gái thứ 4 của Thanh Hóa Thừa nguyên Bố chính sứ Hộ lý Tổng đốc Nguyễn Nhược Sơn. Mẹ là Thục nhân Nguyên thị. Lúc có thai, mộng thấy sao bích vào miệng, nhận nuốt xuống đến lúc sinh con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Bích. Thị lúc bé thông minh có tiếng văn học. Năm Tự Đức thứ 1, Thị mới 19 tuổi, Phụ chính đại thần Lâm Duy Nghĩa làm biểu dâng lên. Kính vâng Dực Tôn Anh Hoàng Đế bảo làm thơ tảo mai, Thị lập tức làm thành bài thơ, có câu rằng: "Nhược giao dụng như hòa canh vị, ngự tác lương thần phụ Hữu Thương", nghĩa là nếu khiến dùng mày hòa vị canh, xin làm lương thần giúp Hữu Thương. Vua khen tốt, thưởng cho 20 đĩnh bạc, tuyển vào cung sung làm việc ở Viện Thượng nghi. Năm thứ 3, phong làm Tài nhân, khi chầu hầu trong cung và theo đi du hạnh nhiều lần ứng chế. Vua nghĩ Thị thông minh và cung cẩn cũng yêu, dạy cho làm thơ, làm nữ môn sinh của thiên tử. Năm 13, phong làm Mỹ nhân, liền phong làm Quý nhân, tấn phong làm Tiệp dư. Giản Tôn Nghị Hoàng Đế, Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế lúc ở tiềm để (nhà riêng lúc chưa làm vua), vua sai dạy kinh điển, và dạy tập nội đình. Trong cung gọi là Tiệp dư phu tử. Năm 36, Dực Tôn Anh https://thuviensach.vn Hoàng Đế lên chầu trời, vâng ý chỉ 2 cung sắc dụ đều cho tay Thị ấy làm. Năm Hàm Nghi thứ nhất, tháng 5, kinh thành có việc, Thị đi theo 2 cung đi Quảng Trị nên có bài hát quốc âm xe vua vào Thục (64). Ngày 2 xe cùng về, các sắc phụng chiếu thư, cầm bút viết xong ngay, việc gì cũng xứng chỉ. Năm Thành Thái thứ 4 kính vâng từ chỉ, nghĩ công khó nhọc, tấn phong Tam giai Lễ tân. Năm Duy Tân thứ 3 , tháng 11, Thị chết thọ 80 tuổi. QUYỂN 5 TRUYỆN CÁC HOÀNG TỬ - MỤC I Các con của Thế tổ (gồm 13 hoàng tử. Con thứ tư tức Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, còn 12 người trước đã chép vào truyện 10 người, nay chép vào truyện 2 người là: - Định Viễn Quận vương Nguyễn Phúc Bính. - Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Mão. Các con của Thánh tổ (tập trên) (gồm 77 hoàng tử. Con cả tức Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, còn 77 người, chép vào truyện 72, chưa chép vào truyện 5 người). - Hoàng tử Chính - Thọ Xuân Vương Miên Định - Ninh Thuận Quận vương Miên Nghi - Vĩnh Tường Quận vương Miên Hoành - Phú Bình công Miên Áo - Nghi Hòa Quận công Miên Thần - Phù Mỹ Quận công Miên Phú - Hàm Thuận Quận công Miên Thủ - Tùng Thiện Quận công Miên Thẩm. Các con của Thế tổ Định Viễn Quận vương Nguyễn Phúc Bính Là con thứ 6 của Thế Tổ Cao Hoàng Đế, mẹ là Tiệp dư họ Dương, là em cùng mẹ với hoàng nữ Ngọc Cửu. Sinh năm Ất Tỵ, lúc mới làm hoàng tử https://thuviensach.vn thích chơi bời, nên bị vua quở trách. Thánh tổ khi chưa lên ngôi hai ba lần xin tha hộ cho. Sau ông biết hối cải, hành độ ng theo lễ phép. Vua khen. Năm Gia Long thứ 16, được phong làm Định Viễn Công. Năm Thiệu Trị thứ 2, vua ngự giá Bắc tuần, ông theo hầu; khi vua nhận sách phong do sứ nhà Thanh đem sang, ông được sung chức Ngự tiền Thân thần nhận sắc. Đến khi trả về, đư ợc ban thưởng hậu. Năm Tự Đức thứ 16, ông chết, thọ 67 tuổi. Ông là người trung hậu thanh kiệm, kính giữ chức phiên vương. Ngày chết, vua nghe tin thương tiếc lắm, nghỉ chầu 3 ngày, tấn tặng làm Quận vương, cho thuỵ là Đôn Lượng, cấp 10 mẫu ruộng để thờ cúng, dựng đền thờ ở xã Dương Nỗ, thuộc huyện Phú Vinh. Có 42 con trai, 31 con gái. Con trưởng là Tĩnh Cơ, năm Thiệu Trị thứ 3, ân phong làm Bái Trạch Đình Hầu. Con thứ 9 là Tĩnh Long, năm Tự Đức thứ 26 ân phong làm Phụng Quốc khanh. Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Mão Là con thứ 13 của Thế Tổ Cao Hoàng Đế, mẹ là Chiêu dung họ Nguyễn Văn, sinh năm Gia Long thứ 12, năm Minh Mệnh thứ 6 được phong làm Từ Sơn Công. Tết Nguyên Đán năm thứ 14, ông được khâm mệnh đi tế thay vua, vì chậm trễ, vua giận giao xuống cho phủ Tôn Nhân nghị tội, phạt lương 3 năm. Sau biết hối, chịu khó đọc sách, hành động theo lễ phép, kính giữ chức phiên vương. Vua khen, Tự Đức năm thứ 2, vua thấy ông tuổi cao đức tốt, miễn cho khi thường triều khỏi phả lạy, để tỏ lễ ưu hậu. Năm thứ 7, mùa xuân tháng 2, vua đến thăn nhà Thái học, ông theo hầu, vâng lệnh làm 10 bài ca Thị học. Bài thứ I Trời yêu nước Nam, đóng đô Phú Xuân, thánh thần truyền nối, vun đắp dần dần. Nhà học rèn tài, giáo hoá trau dồi, lâu ngày cảm hóa, không chán lòng người. Bài thứ II Thánh bắt chước trời, dựng vua và thầy, đạo tâm rõ rệt, Thánh học nối hay. Xét ra điển cũ, làm lễ long sùng, thêm rạng công tước, tuyền mãi không cùng. https://thuviensach.vn Bài thứ III Mùa xuân tháng 2, ngày "đinh" đúng kỳ, xe loan sắp sửa, nhà học tiến đi. Gió xuân mát mẻ, nước xuân trong veo, thuyền rồng dây gấm, tiếng hát c đều. Bài thứ IV Cửa Khổng ngay trước, nào phải xa xôi, nhạc ngựa sang sảng, vua ta tới nơi. Câm ngạc nghiêm trang, anh tài bao kẻ, rót rượu kính dâng, giúp vua làm lễ. Bài thứ V Lễ vật bày đủ, ngào ngạt mùi hương, tấu 6 khúc nhạc, âm điệu du dương. Nhạc 6 hàng múa, điệu bộ rất đều, lễ nghi rất mực, ban cho phúc nhiều. Bài thứ VI Nhà học tới nơi, giảng dạy cúng tế, các quan đầy sân, cúi đầu làm lễ. Mũ, đai, áo, hia, vẻ đông đúc lắm, kính cẩn tôn nghiêm, đường bộ thăm thẳm. Bài thứ VII Sĩ tử áo xanh, kính nghe lời dạy, lời dạy là gì, châm răn đời đấy Khuyên chăm nghề nghiệp, sửa lòng cho ngay, mài giũa rèn luyện, để nên người hay. Bài thứ VIII Lời vua trọng đại, khuôn mẫu tỏ bầy, tình tứ Chu, Khổng (65), hun đúc xưa nay. Thân đến giảng dạy, rảy khắp lòng nhân, các quan ban yến, học trò dự phần. Bài thứ > Sĩ tử chịu ơn, hát thơ Vực bốc (66), đều chúc vua ta, trời ban trăm phúc. Sĩ tử chịu ơn, hát thơ Hán lộc (67), đều chúc vua ta, trời ban trăm lộc. Đem đệ trình lên. Vua khen ngợi cho liệt vào tập "Bích ung canh ca hội". Năm thứ 21 ông chết, thọ 56 tuổi, cho thụy là Ôn Thận, dựng đền ở xã Xuân Hoà thuộc huyện Hương Thuỷ. Có 13 con trai, 10 con gái. Con trưởng là Từ Đàn, ân phong là Mộc Đức Hầu. Con thứ hai là Từ Cương, ân https://thuviensach.vn phong làm Tân n Hầu, sau tập phong làm Từ Sơn Huyện công. Cháu là Thái Cẩm tập phong Huyện hầu. Các con của Thánh tổ. Hoàng tử Chính Là con thứ hai của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế. Mẹ họ Ngô, con gái viên Chưởng cơ Văn Sở, lúc đầu vào hầu Thánh tổ từ khi còn ở tiềm để, Minh Mạng năm đầu, phong làm Cung tần, sau được tấn phong làm Niên phi, ông sinh năm Nhâm Tý mùa thu tháng 8, mới được một năm thì chết non, thờ ở đền Triển thân. Tất cả các hoàng tử chết non đều phụ tế ở đây (dưới cũng thế). Thọ Xuân Vương Miên Định Ông tên tự là Minh Tĩnh, hiệu là Đông Trì. Lúc đầu Thế Tổ Cao Hoàng Đế cho tên là Yến, năm Minh Mệnh thứ 4, ngự chế sách vàng biên dòng dõi nhà vua, cho tên hiện nay. Là con thứ 3 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Gia phi họ Phạm, người ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định, con gái của Văn Chẩn, được truy tặng Quang lộc tự Thiếu khanh, sinh vương vào tháng 7 mùa thu năm Gia Long thứ 9. Khi Gia phi chết, vương mới 3 tuổi, Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu nuôi ở trong cung. Lúc nhỏ yếu đuối nhưng đĩnh ngộ, học ở chái tây điện Cần Chính. Thế Tổ Cao Hoàng Đế thường thấy cắp cặp đi học, càng khuyến khích khen ngợi. Khi lớn trạng mạo đẹp đẽ, tư chất hơn người. Minh Mệnh năm đầu, cùng với Hoàng trưởng tử (tức Hiến Tổ Chương Hoàng Đế) đư ợc ra làm phiên vương theo học các sư phó, xem rộng các sách. Có tiếng là hay thơ, càng giỏi về thể thơ ứng chế. Ông vâng chiếu họa bài thơ "Cấm trung tử quì hoa" (Hoa quì tía trong cung cấm), có câu rằng: Phiên âm: "Tự tòng duệ tảo lưu để vịnh, quang chiếm quần phương độc đàn danh", dịch nghĩa: Từ khi nhà vua có thơ đề vịnh để lại, hoa quì … chiếm tiếng thơm đẹp trong các hoa. Vua rất khen. Khi ấy Tuy Thịnh Quận Công Trương Đăng Quế suy t làm nhà ứng chế chuyên môn, cho nên trong bài cung từ của Thiện Quận Công Miên Thẩm có câu phiên âm: Tất cánh trầm tam (68) hoàn đệ nhất, đương https://thuviensach.vn gia thiến thủ Thọ Xuân Công. Tạm dịch: "Rốt cuộc lai thứ nhất, chuyên môn hay giỏi Thọ Xuân Công, là chỉ vào việc đó". Năm Minh Mạng thứ 4, có sắc dụ được lập phủ ở bên tả trong kinh thành để tiện chầu hầu. Năm thứ 6, mùa hạ, vua đi thăm Quảng Nam, sai ông lưu ở Kinh, có dụ rằng: Khi có từ chỉ, và cả việc ở Nội, chuẩn cho làm tập tâu. Năm thứ 7, mùa hạ, vua đi thăm Quảng Bình lại sai lưu ở Kinh. Năm thứ 9, mùa thu, vua mệt, vương và Hoàng trưởng tử lúc trực ở nhà Duyệt thị. Khi ấy Thái y tiến thuốc chưa công hiệu, vua từ chối không dùng, vương và Hoàng trưởng tử dâng sớ khuyên can, vua bèn sai dâng thuốc, vài ngày thì khỏi. Khi vua ngự ra điện Cần Chính, nhận lễ mừng, tuyên triệu vương lên điện, thong dong ban cho nước trà rồi lui. Năm thứ 11, mùa xuân sách phong làm Thọ Xuân Công. Năm thứ 16, mùa xuân, vương cùng Hoàng trưởng tử vào chầu ở Đông Các, vua ban cho mỗi người một cái lư hương, 1 cây đàn cầm quí. Dụ rằng: lư hương để truyền mùi thơm, đàn để gảy thành tiếng, mong cho các ngươi tiếng thơm đồn xa, nên cố gắng đấy. Vương cúi đầu tạ. Mùa hạ năm ấy, vua đi thăm Quảng Trị, sai ông lưu lại giữ Kinh thành, dụ rằng: Kinh sư là nơi căn bản, cho người ở lại coi giữ, hàng ngày đến điện Cần Chính cùng các đại thần thương nghị thỏa đáng. Lại cấp cho con dấu bằng ngà, phàm khi có việc ở trong cung khổn, cho phép một mình làm tập tâu lên. Khi vua trở về hỏi ở Kinh mưa gió thế nào? Vương thưa rằng từ khi nhà vua đi tuần đến nay, ở nhà bị mấy tuần gió bắc mưa to, khí trời rất rét lạnh. Vua nói: tháng tư mà rét quá, mấy chục năm nay chưa có thế, cũng là việc lạ. Trẫm đi tuần chỉ ra ơn cho dân hạt, ban ơn cho kỳ lão mà thôi. Đến như xét địa phương xem phong tục thì chưa kịp làm. Năm thứ 11, mùa thu, mới đặt chức quan phủ Tôn Nhân sai vương kiêm giữ chức Hữu tôn chính phủ Tôn Nhân. Dụ rằng: phàm người trong tôn phổ không kể là thân sơ, đều thuận dưới quyền vương trông coi cả. Vương bèn xin lập ra điều lệ. Sau có sớ cử Tôn Thất Lương, là một vị quan thanh bạch, xin nêu khen để khuyến khích. Vua cho. Năm thứ 19, sai vương cùng với quan bộ Lễ tiếp tục bàn chương trình phủ Tôn Nhân để thi hành. https://thuviensach.vn Năm thứ 21, mùa đông, vua bị mệt, gặp khi danh sách xét án mùa thu dâng lên, vua sai vương cùng Hoàng trưởng tử duyệt lại. Vương cho việc ấy là việc trọng đại, nhường để hoàng trưởng tử xử đoán, vua khen. Sau vua ban cho vườn Diệm Lộc để làm nơi đọc sách trong các ngày rỗi. Và dụ lấy ý nên lưu tình văn bài, ngày chăm tiến đức sửa mình. Mùa đông năm ấy vua mất. Thiệu Trị năm đầu, làm đại lễ Ninh lăng, vương theo hầu bàn thờ tiên đế, thương xót hết lễ. Năm thứ 2, mùa xuân, Hiến tổ ngự giá Bắc tuần làm lễ bang giao, vương được sung làm Ngự tiền thân thần. Ngày tuyên phong, sứ nước Thanh là Báo Thanh ngồi kiệu vào thẳng cửa Chu Tước, quan hầu tiếp không ngăn trở được; vương nghiêm sắc mặt thét mắng, sứ nước Thanh liền xuống kiệu thong thả đi vào. Khi làm lễ xong, vua khen. Đến khi trở về kinh, thưởng cho ông 1 tấm bài đeo bằng ngọc trắng, có khắc 4 chữ "đặc dị quyến bưu" (sủng ái đặc biệt). Năm thứ 3, mùa hạ, làm lễ thăng phối (69) xong, vua ngự ra triều nhận lễ mừng. Khi vương làm lễ thượng thọ, vua thân rót rượu của vua dùng ban cho và cho bài thơ rằng: Phiên âm: Bất di dương niên cộng điển phần, thành phạm lưu lãm hóa tư văn, ích đôn thân ái long phiên bính, vật ngại quân thần phân sự phân. Dịch nghĩa: Cùng học như xưa há dễ đâu, văn hay lưu lại để xem sao, càng thêm thân ái càng thêm vững, chớ ngại vua tôi phận khác nhau. Năm thứ 5, mùa hạ, vua đặt ra chữ bộ chia từng phòng cho các tướng công, để rõ về dòng nhà vua. Vương được bộ thủy. Vua lại làm 1 bài thơ đặt các chú từ về chính phái, để làm lịch truyền thế, tỏ ra đặc ân vậy. Sau sai vương làm chức Tổng lý coi làm bộ Đại Nam hội điển. Năm thứ 7, dâng sớ viện lệ xin giải việc ở phủ, nhường cho các hoàng tử, tước công. Vua xuống chiếu không cho. Năm Tự Đức thứ 2, làm lễ bang giao, vương sung làm Ngự tiền thân thần Năm thứ 11, Nam Kỳ có biến, vương dự trù việc cõi biên, nhân thấy có việc binh nhung phí tổn nhiều, làm sớ xin quyên lương giúp quân, vua https://thuviensach.vn không cho. Năm sau mùa thu, vương làm lễ thọ 50 tuổi, vua cho phẩm vật và câu đối rằng: Phiên âm: Dữ quốc đồng hưu, tình ân báo quốc; hạ thiên tích hựu, thị cáp tri thiên. Dịch nghĩa: "Cùng nước cùng vui, có sẵn lòng báo ơn nước, mừng trời cho phúc, thọ đến tuổi biết mệnh trời" (50 tuổi). Vương kính nhận, rồi dâng biểu tạ ơn. Lời trong biểu rằng: trung để báo nước, giúp đỡ tiếc không có tài bằng Chu Công Đán; thiện để giữ nhà, rất vui biết rõ ý của Đông Bình Vương. Khi sân vua triều lạy, lúc nhà riêng thảnh thơi. Nhờ ơn vua thu phúc ban ra, lên cõi nhân thọ. Đợi phúc trời dồi dào thấm khắp trong mình khang cường. Nhân nay có biến ở biên thùy, thực không chút công lao thước tấc. Đương muốn viện lệ già yếu, tuổi 50 làm việc riêng tự thẹn lòng, ngờ đâu ban ơn đặc biệt, lễ tam đại trọng nghi, may được lạm duệ. Năm thứ 13, mùa xuân, kính gặp Nam Giao lễ lớn, vương sung làm nhiếp hiến. Năm thứ 18, mùa xuân, vua thấy vương tuổi cao đức tốt khi thường triều yến, có ban cho hoặc hỏi bảo việc gì mà phải ra vậy, thì cho ngồi ở chỗ, hoặc đứng dậy lấy tay chắp lên ngang trán, để tỏ là chí tình. Sau được vua viết sắc cho, khi tiến triều được ngồi võng đến ngoài cửa Nhật Tinh, để tỏ ra ưu đãi. Năm ấy, đổi giữ chức Tả tôn chính phủ Tôn Nhân. Vương vào bái mệnh, vua dụ rằng: Bậc lão thành không có mấy, nên tạm phiền đến vương, nên gắng theo phép cũ, chớ sai mệnh lệnh của trẫm. Vương bèn xin chọn người cẩn thận sung làm chức Tư giáo, để giữ việc, vua y cho. Năm thứ 19, mùa thu, vương vào chầu, vua bảo rằng: từ xưa, nhiều người trong tôn thất có đức sáng nết hay, tự có thể làm nên địa vị hiển đại. Nay muốn cho con cháu các công đều mài dũa thành tài, kịp thời dùng làm việc cho bõ nguyện vọng của trẫm trông cậy như cái thành để che chở bảo vệ mà lâu nay dạy bảo thế nào, chưa thấy có thành hiệu. Vương thưa rằng: các viên Dực thiện phẩm cấp chức kém, không đủ tư cách làm thầy, nay xin lại mở nhà tôn học, đặt 1 viên Chưởng giáo, chọn người sĩ phu nào có đạo đức ngay thẳng trong hàng khoa giáp, có thể làm thầy dạy mẫu mực để bổ sung chức ấy, mới có thể kịp thời thành tựu. Vua khen là phải. Sau sai đặt học https://thuviensach.vn đường, lấy nhã sĩ là Đặng Văn Kiều làm Chưởng giáo. Vương lại xin cho con cháu các công được theo các nha trong bộ để học tập chính sự. Vua nói: nguồn gốc chi phác trăm đời, nên xếp đặt sớm, để được thành tài. Không thế thì ngày càng ản nhiều, sau không thành ra thể thống gì. Bèn sai vương cùng các công đồng sự châm chước chọn điển lệ nhà Thanh những công việc nên làm thế nào rồi phúc tâu lên. Bấy giờ điều trần tấu rằng: phàm con cháu tước công, trừ ra người nào có văn học được xét bổ thì không kể, ngoài ra ai học lực không tiến, mà có sức khỏe, thì bổ vào trường học bên võ. Con gái các công không có tư bản gì, thì cho sung vào phụng trực ở điện các tôn lăng, để có chỗ trông nhờ. Vua y nghị cho thi hành. Năm thứ 22, mùa thu, hưởng thọ 60 tuổi, vua cho áo gậy phẩm vật và bài thơ rằng: Phiên âm: Giới độ tích vưu chí, tôn phiên kim thư tỳ, vô trường năng tự húc, nan lão khởi duy kỳ, … Dỹ cực tiều đình tước, ninh vong tự tục quy, tất nhân phương đắc thọ, lượng hữu nhất kinh di. Dịch nghĩa: Xưa là em vua (70) thân đến đâu, nay là phiên vương giúp đỡ nhau, không tài nhưng biết tự cố gắng, mới 60 tuổi thọ còn lâu, tước triều đình vương tôn quý nhất, vì con cháu lo xa nghĩ sậu, hẳn phải là nhận mới được thọ, chắc có một kinh để lại sau. Năm thứ 27, mùa hạ, được tấn phong Quận vương. Dụ rằng: Công và Ninh Thuận Công Miên Nghi đều là bậc chú của trẫm, năm nay gần 7 tuần, tuổi tác trung hậu, càng già càng chăm, là bậc làm phên dậu che giữ của trẫm, trẫm rất kính, rất yêu. Mỗi khi muốn đặc ân cách để yên tấm lòng chân tình của ta, nhưng không phải phẩm vật là quý, danh vọng mới quý, thì phẩm vật gì để xứng với tình ta ư? Nếu mà để đến khi đã chết mới truy khen bao phong, sao bằng bao phong cho lúc còn sống được kịp thấy là hơn. Vậy 2 công chuẩn tấn phong làm Quận vương, nói về thân tình, về tuổi già, về đạo đức, không gì là không đúng cả, có thể trên yên lòng hữu ái của tiên đế, mà https://thuviensach.vn bỏ tấm lòng rất hậu đãi người thân phiên của trẫm. Nhờ đức lớn ấy gây được phong tục hay, trẫm lại càng mong lắm vậy. Vương cùng Ninh Thuận Công dâng sớ khẩn thiết chối từ cho là triều đình từ khi đại định đến nay, các thân phiên chưa có ai còn sống mà được phong tước vương cả. Huống chi nay đương lúc biên thuỳ có nhiều việc, hoàng thượng sớm khuya lo nghĩ chưa rỗi, mà nhiều lần dự bàn việc nước việc binh, không có chút gì bổ ích, tự biết vô công mà hưởng lộc hậu, trong lòng thấy không yên chứ không dám khiêm nhượng hão. Vua phê bảo: triều đình khâm định chưa phong tước vương, vì chưa được người chưa phải lúc, cho nên vẫn đợi. Hai chú đừng từ chối để yên lòng kính người lão quý thân rất thành thực của trẫm. Vương bèn nhận lễ phong. Năm thứ 29, mùa đông, vâng có dụ rằng: tuổi vương quá 60, sắp được chống gậy vào triều, mà lòng trung cần chưa chút giảm. Chuẩn cho khi dự yến, yết kiến ở tiệm điện mà có ban cho hoặc hỏi han gì thì chỉ làm lễ 3 vái cũng đủ tỏ ra cung kính, miễn cho phải quỳ lạy. Năm thứ 30, mùa xuân, vua thấy vương tuổi cao đức tốt, mà trung cần không đổi, sai quan phủ Thừa Thiên chọn 15 mẫu ruộng công hạng tốt cho làm ruộng thế nghiệp, trước là để thờ cúng bà Phi và làm của hương hoả cho vương về sau. Năm sau, mùa xuân, gặp Đại khánh tiết Ngũ tuần vạn thọ, được tấn phong là Thọ Xuân Vương. Dụ rằng: lễ mừng ban ân huệ, tất từ gần trước là nghĩa thân người thân vậy. Thọ Xuân Vương tuổi gần 7 tuần, phúc thọ phú quý đều có cả, mà ưu ái trung thành càng lâu càng nhiều. Triều đình có bậc họ thân tuổi tác cao, chẳng những riêng trẫm kính yêu, cũng đủ thỏa lòng mọi người trông mong. Chuẩn tán phong làm Thọ Xuân Vương, để yên ủi tuổi già mà tỏ ra lòng yêu quý ưu đãi. Năm sau, mùa thu vương thọ 70 tuổi, vua ban phẩm vật trong kho ra, làm bài tự văn và bài ca để mừng thọ. Đại lược rằng: ở đời khó được là phúc và thọ, hoặc người có phúc mà không thọ, hoặc người có thọ mà không phúc, được 1 điều đã là một hai người trong trăm nghìn người, được cả hai điều lại là một hai người trong vạn ức người. Huống chi kiêm được cả hai điều, mà lại vẹn.đủ không thiếu sự gì, thì thực là điều tuyệt nhiên không có trong https://thuviensach.vn trăm ngàn vạn ức người, mà chỉ có một mình được vậy. Có người nói rằng ta được một người vào trong ấy vậy. Vương ví như con vua Văn Vương, em vua Vũ Vương, chú vua Thành Vương nhà Chu ngày xưa, đã sớm được phong cho đất, đến nay nhiều lần gia phong, ngôi ở dưới thiên tử một bậc, quý đã là quý lắm rồi. Trải thờ 4 triều, lộc đến nghìn chung, ban cho vô kể, giàu đã là giàu lắm rồi. Nhưng đều là phận đáng được, chưa lấy gì là khó. Duy có, nghe nói: vương lúc trẻ yếu đuối bệnh tật, sau lúc trưởng thành sung sức khỏe mạnh, sinh được trai gái quá trăm người, thế thì bài đẻ trăm con trong kinh Thi so ra còn kém, lại còn ngờ gì là khen quá. Huống chi lại tinh thần sáng suốt, càng già càng béo tốt. Năm nay thọ đến tuổi "cổ hy" (70 tuổi). Tuy râu tóc đều bạc phơ mà ăn uống, trông coi, nghĩ ngợi, nói năng không kém, khiến người ta đáng kính đáng yêu mà không thôi được. Có kẻ nói rằng: xưa Lương Hiếu Vương giàu to mà không nghe nói thọ và nhiều con trai; Trung Sơn Vương nhiều con trai mà không nghe nói giàu thọ; An Bình Vương hưởng tuổi thọ mà nhiều con trai và giàu thì chưa nghe nói. Nay vương tiếng tăm không bằng Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, hào hùng tuy không bằng Ninh Thuận Vương, làm giàu tuy không bằng Định Viễn Quận vương, nhưng mà các vương xưa nay đều có chỗ không đủ. Duy 1 mình vương có thể đủ phúc đẹp đẽ, để làm rạng rỡ nền phúc trạch của triều ta để lại trong sử sách. Chẳng phải tuyệt nhiên không chỉ có 1 mình vương thôi ư? 2 đoạn cuối cùng nói rằng: ta nghe Mạch Thúc nói có 3 điều bất hủ mà không nói gì đến thế tộc (đời đời ăn lộc). Tạm dùng ý ấy để mừng tuổi thọ của vương. Bèn làm bài ca để tỏ tình rằng. Ca rằng: (miễn phiên âm). Mười châu ba đảo mười thần tiên, Ta nghe nói tên, mà chưa thấy người, Khói mây suối đá, là nơi vui thú của người ẩn dật, Nếu được thấy người, còn sợ khó vẹn tuyền. … Sao bằng đời nay có tiên ông, Đông Trì chủ nhân (71) lại ở trong. Đất Đông Trì tuy gần đô thị, https://thuviensach.vn Cảnh Đông Trì kiêm cả sơn thủy, Ta chẳng mục kích nhưng nghe nói rất đẹp đẽ, Chủ nhân tìm chỗ ấy đã lâu, Trên có cây cao chim quý nương đậu, Dưới có sen thơm cá lội nhỡn nhơ, Quan mát nhà ấm, không chi không đủ, Gió mát trăng trong không cần khép cửa, Con cháu quanh gối, không thuộc hết tên, chỉ hất hàm gật, Em trai em gái cùng vui đánh cờ một bàn, Chủ nhân tuy không thích uống rượu nhưng thích khách, Uống mỗi chén vịnh một bài thơ, vui vẻ vô chừng. Tiếng địch cung đàn thay đổi xướng họa, Rượu ngon nhắm tốt đầy chỗ ngồi. Chủ nhân chẳng nói khách quên về, Đã vẹn cả ngày, lại đến đêm. Đến nay chủ ông thọ Vui thú như thế nào? Muốn đem nước biển đổ thêm vào đồng hồ cho chậm giờ, Không để cho vầng trăng vội lặn xuống sóng biển, Trước sân đèn và hoa quả đương sắp sửa, Chờ xem hai sao (72) sắp vượt ngân hà. Gần đến đêm ông Phần Dương (73) cầu ch Cho nên phúc thọ ngày thêm nhiều. Nhân sinh thích chí thế là tột bậc, Thần tiên trên cõi đất đều là nói ngoa, Tưởng chừng đối với Trần Tư (74), Đạo uẩn (75) cùng là một hạng người, Thơ hay phú giỏi tranh nhau bày ra, Chưa biết có vừa ý của chủ nhân không? Có giúp được lòng nhân chủ nhân không? Có lưu được danh tiếng của chủ nhân, được đến nghìn năm không? Như mây trôi nước chảy nguyên không định, Đàn của Ung Ngôn không nỡ nghe (76) https://thuviensach.vn Cây Kinh của nhà họ Điền sợ lại bị héo (77) Ao nhạn, vườn thỏ thành ra vỏ hoang, Sao được như Cố Hổ Đầu (78), Được như Vương Ma Cật (79 Uống chén lớn, Vẫy bút lớn, Vẽ ra chân dung của Đông Trì thọ tiên, Để treo giữa Đông Trì, So với bản vẽ 9 ông già ở Hương Sơn tranh thi hơn kém, Bức vẽ 9 ông già, Bức vẽ Chu Công giúp vua Thành Vương nhà Chu (80) Chẳng biết ngay ngày nay còn ai sống không? Vương dâng biểu tạ ơn. Nói rằng: "Lâu đội ơn trên thân yêu, gây dựng quá hậu; sớm được phong cho tước thổ, rong chơi làm vui. Là con Văn Vương, là chú Thành Vương, đức không đủ, sao xứng đáng với tiếng thơm; giàu như Lương Hiếu, thọ như An Bình, nhiều con trai như Trung Sơn, phúc được kiêm là lạm nhờ ở tạo hóa. Đẵn củi phải nghĩ sao cho gánh nổi, món ngon cầu tránh tiếng ăn không. Uổng công chưa thể thêm vào nhà biển, lạm nhận tiếng khen của Chu Công. Xét mình không xứng, sợ để tiếng cho người sau, nghĩ đến thân tàn, đương tự thẹn với tuổi thọ. Ngờ đâu tới tuổi bảy tuần, lại được ơn vua yêu quý. Trông lên của báu kho vua, đều là thế gian ít có. Đọc lời sắc văn rõ ràng, ngụ ý giáo dục chu chân. Vua rất khen ngợi. Năm thứ 33, mùa thu, con kế tập của vương là Quận công Hồng Hạo mất, vương thương xót thành ốm, dâng sớ xin thôi việc phủ. Vua nói: việc phủ không n lắm, vương là người lão thành am luyện, đứng chủ trương đốc suất có khó gì mà phải từ việc. Nên giữ gìn cho dài tuổi thọ. Các con đông nhiều, cho người nào khá để thay, cũng là thường tình của người ta, chớ nên thương tâm thành bệnh, nên nghĩ báo nước suốt đời mới thôi. Năm thứ 36, mùa hạ, tháng 6, Dực Tông Anh Hoàng Đế chầu trời, để lại tờ chiếu cho Cung Tôn Huệ Hoàng Đế nối ngôi, dụ rằng: thấy vương cùng Tuy Lý Quận vương đều là người rất thân, tuổi và đức đều cao, hễ thấy nhà https://thuviensach.vn nước có điều gì không phải, nên hết lời sửa chữa cho đều được tốt cả. Mùa thu năm ấy, vâng theo di chiếu tấn tôn Trung Phi (tức Lệ Phi Hoàng hậu) làm Hoàng thái hậu. Bấy giờ quyền thần (81) đã rước lập Lãng Quốc công (82). Quần thần nghị cho rằng khó tôn xưng. Vương kiến nghị xin theo lệ Khai Bảo Hoàng hậu triều Tống (83), bèn hội đồng phủ Tôn Nhân và đình thần dâng sớ lấy mỹ tự tên ở cung, tấn tôn làm Khiêm Hoàng hậu. Mùa đông năm ấy, kính gặp Ninh Lăng lễ lớn, vương sung việc đề chủ. Hàm Nghi năm đầu, mùa hạ, kinh thành có việc, vua chạy ra Bắc, trong nước không có chủ, vương vâng ý chỉ hai cung, tạm coi việc nước, lòng người hơi yên. Sau ông tâu xin cho các công Tuy Lý, Hải Ninh, Hoằng Hóa, trước nhãn có tội bị chia ở các tỉnh, chuẩn cho đều về kinh. Mùa thu năm ấy Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (tức là Đồng Khánh) lên ngôi, vương bèn xin nghỉ việc, nhưng vẫn kiêm việc ở phủ Tôn Nhân. Vua thấy vương phẩm trật đã cao, không thể gia phong được nữa nên đặc biệt cho 200 lạng bạc để đủ nuôi tuổi già. Vương đã nghĩ việc, đến tòa sứ thăm hỏi, nhân nói đến việc sau này là lương bổng của các hoàng thân không đủ dùng. Khâm sứ là Sâm-bô bèn lấy một nghìn đồng bạc tây dương giao viện Cơ mật đem biếu vương để tỏ ý tốt. Khi ấy Tôn Thất Bá hạch tâu cho là làm tắt như thế không hợp lệ, vâng lệnh chuẩn phạt vương 3 năm l Đồng Khánh năm đầu, mùa đông, vương chết, thọ 77 tuổi Vua nghe tin vương chết, lấy làm thương xót, nghỉ triều 3 ngày, sai hoàng thân công ban rượu tế, đặc biệt cho tôn thụy là Đoan Khác. Ngày đem chôn, sai quan đến tế. Lại vâng lệnh hai cung mỗi cung sai quan đến tế 1 đàn. Đền thờ ở mả tại bãi Dương Xuân, từ đường đặt ở Đông Trì, là ngôi nhà cũ đổi dựng lại. Trước tác để lại của ông có tập "Minh Mạng cung từ", "Tĩnh Minh Ái Phương thi tập". Ông có 78 người con trai, 66 người con gái, con trưởng là Hồng Tuấn được ân phong là n Mông Đình hầu; con thứ 7 là Hồng Hạo bắt đầu tập phong làm Đình hầu; năm Tự Đức 24, tập phong làm Thọ Xuân Huyện công; năm thứ 31, tập phong làm quan công. Con thứ 12 là Hồng Chiêm ân phong làm Trợ quốc khanh, con thứ 15 là Hồng Hàm ân phong làm Phụng quốc khanh. Con thứ 34 là Hồng Cẩn ân phong làm Trợ quốc úy. Cháu đích là Ưng Hào tập phong làm Thọ Xuân Hương công. Sau lấy https://thuviensach.vn bản tước ấy kiêm giữ chức Hữu tôn khanh phủ Tôn Nhân. Năm Thành Thái thứ 14, được đổi thụ hàm Quang Lộc tự khanh, trông coi việc phủ. Vương đương thời hiếu thảo yêu quý anh em, giữ mình cẩn thận, tuổi cao đức lớn, được triều đình nhờ cậy quý trọng đã lâu. Giữ việc trong họ nhà vua hơn 50 năm, chính mình đề suất kẻ dưới, hòa đễ với mọi người, thiết lập ra giáo điều, khen nhắc người hiền tuấn. Nhiều người trong tôn phả được thành tựu. Kịp đến khoảng năm Ất Dậu có việc biến cần kíp, vương là người rất thân tâm giữ chính, quyết kế lớn, xử đoán mối nghi ngờ lớn, đem việc tâu rõ, để cho lòng người có nơi lệ thuộc, chuyển nguy làm yên. Nếu chẳng phải là người trung thành, đức độ sẵn chứa trong lòng sao được đến thế, cho nên mới được phú quý thọ khảo, nhiều con, mọi phúc đầy đủ, thực là trong các vương xưa nay ít thấy được người như thế. Ninh Thuận Quận vương Miên Nghi Trước kia tên là Dục, sau mới ban cho tên hiện nay. Là con thứ 4 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Trang tần họ Trần người ở Phú Lộc, phủ Thừa Thiên, con gái của Trần Công Nghị, được truy tặng làm Vệ úy, sinh ra vương vào năm Gia Long thứ 9. Vương phong tư khôi ngô khác người, tính tình hào mãi. Khi làm hoàng tử được ra mở phủ đệ, ông theo học, đọc rộng khắp các kinh sử. Năm Minh Mạng thứ 17, được phong làm Đức Thọ Công. Năm thứ 14, đổi phong làm Ninh Thuận Công. Năm thứ 17, sai ông tạm giữ chức Tả Tôn nhân phủ Tôn Nhân. Năm thứ 21, sai ông cùng Hoàng trưởng tử là Trường Khánh Công duyệt lại danh sách xét án mùa thu, công nhường Hoàng trưởng tử quyết định được thỏa đáng, vua khen. Năm Tự Đức thứ 3, vương xin lập nhà tôn học để dạy con cháu các hoàng thân. Vua khen là phải, sai định chương trình để khích lệ. Sau ông lại xin cử người phạm tội là Cử nhân Phan Văn Xưởng sung làm chức giảng tập trong phủ Tôn Nhân. Vua mắng trách rằng: việc giáo tập tất phải lấy người có đức hạnh văn chương mớ i có thể làm mô phạm, nếu lấy người phạm tội sung vào, thì sự thể còn ra sao nữa? Vua không cho. Năm thứ 5, ông công tiến thứ lúa tốt. Vua nhân đấy làm bài thơ "Gia hòa" cho công xem và ban cho kim tiền. Bài thơ ấy có câu: Chỉ có ông là hàng rất thân, trong cùng ruột thịt, ngoài làm phên che, https://thuviensach.vn được ban ngọc khuê chia cho đất phong, không cậy là cao quý, chỉ nghĩ việc cày cấy gian nan. Dựng nghiệp riêng ở bên Đông thành sống đạm bạc, ruộng ngang dọc giáp hàng rào bông bụt, buổi sớm nhàn rỗi, đọc sách xong chẳng thích gì, ông ra đồng ruộng chăm việc làm cỏ. Ngày ngày chống gậy thăm đồng ruộng, lúc rỗi cùng với ông láng giềng đi cày bừa, quần rách áo tơi không lấy làm lạ, nén cơm rau luộc tự lấy làm vui, gieo mạ từ sau ngày kh sinh ra (tức là tháng 11 âm lịch), nếu đợi sao Nông trường mọc sợ chậm quá, may nhờ mưa nắng thuận thời. Trăm khoảnh lúa mạ đều tươi tốt, lúa chín đầy đồng như mây vàng bát ngát, đầy ruộng bông thóc. Sau bảo đầy tớ chóng thu hoạch, dâng thứ lúa tốt đến sân vua, đây đó đầy đấu rất đáng mừng, một bông lúa 2 chẽ quả bông dài lại là lạ nữa, bông rũ xuống như lá cây trúc, ngổn ngang như cành cây chi chít, há phải ăn rau cần muốn đem tiến bởi tự lòng thành, chỉ muốn quý trọng hạt thóc để làm khuyên răn, thóc quý tặng ta, ta biết thâm ý, bảo trả bằng kim tiền sao lại chối từ, thử xem năm nay việc nhà nông, chỗ được mùa chỗ mất mùa không đều nhau, sao chỉ chỗ ấy lúa tốt quá thế, trông bông lúa chất thành đống cao, tuy là vì cấy sớm và thuận rét nắng, hoặc là lòng hiếu thông cảm đến thần kỳ (Ninh Thuận Công đương có tang mẹ nên hoặc có được thế), bỗng nhiên bông lúa tốt lên điện, hơn hẳn trong vườn mọc cỏ tử chi. Còn thì chép rõ ở trong tập thơ ngự chế. Năm thứ 18, vua thấy công tuổi cao đức tốt, thường phải ra lạy, chuẩn cho được miễn, để tỏ chí ý tôn thân. Sau sai giữ chức Hữu tôn chính phủ Tôn Nhân. Năm thứ 22, ông thọ 60 tuổi vua sai Thị vệ bưng phẩm vật ban cấp và cho một bài thơ. Thơ rằng: Phiên âm: Ác chưởng đồng chu nhật, Thân tình tứ trượng niên, Trung phương ưng tự bích. Ngoại trực phỉ y liên, Ngu lão tam bôi tửu, Di tôn sở khoảnh điền, Vạn thuần phù ý phạm, https://thuviensach.vn Viên giác cửu di kiên. Dịch nghĩa: Khi nắm tay nhau trong thuyền, Lúc cho gậy để tỏ tình, Trong lòng đứng đắn như ngọc bích, Bên ngoài thẳng thắn như cây sen. Ba chén rượu để vui tuổi già, Mời khoảnh ruộng để cho con cháu, Tuổi già thuần túy hợp với khuôn mẫu tốt, Nên nhũ nên sãng càng lâu ngày càng chắc chắn. Năm thứ 37, tấn phong làm Quận vương. Công cho là theo lệ quốc triều, các thân phiên lúc còn sống chưa có ai được phong tước vương cả, nên xin từ chối, nhưng vua không cho (chép rõ ở truyện Thọ Xuân Vương). Sau ông mắc bệnh nên chưa kịp tuyên phong thì đã chết, thọ 65 tuổi. Vua nghe tin ông chết thương xót nghỉ triều 3 ngày. Về tước vương mới phong, chuẩn đổi làm truy tặng. Còn việc tang theo tước được tặng mà làm, cho thụy là Đoan Túc. Lại làm thơ viếng rằng: Chợt làm cho lòng yêu tha thiết của ta, Chẳng ngờ ông sống chết, T định vào tháng này, Được tin ông chết lòng ta đau thương, Nhớ khi ông còn tuổi trẻ mạnh khỏe, Chí khí sao mà hào hùng thế, Cưỡi ngựa bắn súng thạo cả 6 nghề, Bắn giỏi có thể nối theo nhu cầu trong kinh Thi là bắn một phát được năm con lợn, So với hai họ Ngụy và hai họ Nhâm ngày xưa, văn, võ đều cả trong lòng, Ngọc trắng khéo tự mài giũa (ý nói biết sửa lỗi). Tóc xanh đã thành ông già, Cảnh ao vườn có thú vị chân chính, Thăm ruộng đồng chăm công việc nhà nông, Trông coi việc nhà không cầu lợi buôn bán, https://thuviensach.vn Lính no đủ cho con cháu bằng những năm được mùa, Có món ăn ngon gọi em trai em gái đến ăn, Xếp đặt công việc giữ lòng công bằng, Chỗ ngồi lúc nào cũng đông khách, Trong mâm không lúc nào hết Tuy ở vào địa vị rất thân của nhà vua, Vẫn giữ phong độ nhà nho nước Lỗ, Tưởng rằng trong lòng khoan khoái, thân thể béo tốt, Như thế thì tuổi thọ còn lâu dài, Sao đã sớm chán đời, Đã vội ốm mệt nặng, Hôm trước có vào chầu, Tiếng nói và dung nhan đều thấy kém, Vẫn thường lo ngại thầm cho ông, Sao mà đã vội vàng lánh cõi tục thế? Cõi đời giấc mộng đều thế cả, Chỉ có tiếng hay để lại không cùng, Nói đùa ngẫu nhiên mà trúng, Đã từng cùng nhau đi chung thuyền về, Tập "Hương thủ ngoại hiên" dâng lên, Công dụng chẳng có gì, nhưng tình thì là trung, 60 tuổi cũng đã gọi là thọ, Công giúp đỡ để lại nhiều. Con nối học hành khá, Anh em thân yêu nhau, Đối với ông không có điều gì thắc mắc, Phong tặng tạm để thông cảm cùng nhau. Ngày an táng, vua sai quan đến tế một đàn. Dựng đền ở xã Tiên Nộn thuộc huyện Phú Vinh. Ông có 34 con trai, 41 con gái. Con trưởng là Hồng Tự ân phong làm Hàm ân Đình hầu, sau tập phong là Ninh Thuận Huyện công. Con thứ là Hồng Phẩm tập phong là Ninh Thuận Huyện hầu. Vĩnh Tường Quận vương Miên Hoành https://thuviensach.vn Lúc trước tên là Thự, sau mới ban cho tên hiện nay. Là con thứ 5 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, em cùng mẹ với hoàng nhị tử Chính, sinh năm Gia Long thứ 10. Vương khi còn trẻ đã thích học, kịp khi được mở phủ, có học kinh sử qua loa. Năm Minh Mạng thứ 11, phong làm Vĩnh Tường Công, năm thứ 16 ông chết, lúc 25 tuổi được truy tặng làm Quận vương, cho thụy là Trang Mục. Dựng đền thờ ở xã Vạn Xuân huyện Hương Trà, sau đổi dựng ở Đông Trì. Có 4ưởng là Hồng Duy tập phong Quận công. Sau vì phẩm hạnh kém nên bị lột mất phong tước; sau được khai phục làm Phụng quốc lang. Con thứ là Hồng Kỷ được ân phong làm Bình Trạch Đình hầu, sau đổi phong làm Vĩnh Tường hầu. Cháu ông là Ưng Tấn được tập phong làm Kỳ ngoại hầu. Phú Bình Công Miên Áo Trước tên An, sau đổi tên hiện nay. Là con thứ 6 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, em cùng mẹ với Quận vương Miên Hoành, sinh năm Gia Long thứ 15. Lúc làm hoàng tử học tập kinh sử. Năm Minh Mạng thứ 11, phong làm Phú Bình Công, sai giữ chức Hữu tôn nhân phủ Tôn Nhân. Năm Tự Đức thứ 17, vì con vợ thứ là Hồng Tập mưu khởi nghịch, ông bị lột mất tước. Năm thứ 18 ông chết, lúc 50 tuổi, vua gia ân cho khai phục tước Quận công, đình việc cho tên thụy, cho phép được cúng. Năm thứ 31, kính gặp tiết Ngũ tuần đại khánh, vua truy niệm đến ông, xướng dụ rằng: Nguyên Phú Bình Công Miên Áo đã chết, là người hiền lành điềm đạm, cũng là phiên vương tốt, chỉ vì quá nhu nhược không dạy được con, đến nỗi phải liên lụy, chuẩn cho gia ân truy phục tước cũ. Dựng đền ở xã Dương Xuân thuộc huyện Hương Trà. Ông có 10 con trai 7 con gái. Con trưởng là Hồng Quế lúc đầu phong là Hoài An Đình hầu, sau tập phong là Kỳ ngoại hầu. Về sau người em là Hồng Trạch, đi tố cáo mẹ y là bất hợp pháp, Hồng Quế vì không cấm trấp được nên bị đoạt tước. Con thứ 7 là Hồng Vinh, năm Kiến Phúc thứ 1 đư ợc tập phong làm Phú Bình hầ Nghi Hòa Quận công Miên Thần Là con thứ 7 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Quý nhân họ Nguyễn Hữu, con gái Cẩm y Hiệu úy Hữu Trạc, người ở huyện Phong Điền, phủ https://thuviensach.vn Thừa Thiên. Sinh năm Gia Long thứ 16. Lúc còn làm hoàng tử thường đến nhà Chí Thiện cùng các vương đọc sách, cũng có học hạnh. Năm Minh Mạng thứ 21, được phong làm Nghi Hòa Quận công. Năm Tự Đức thứ 18, vua thấy công tuổi đức đều tôn, lấy lễ ưu đãi, miễn cho những khi thường triều không phải sụp lạy. Năm thứ 31 ông chết, thọ 60 tuổi, thụy là Cung Lượng, dựng đền ở Thượng giáp xã Nam Phổ thuộc huyện Phú Vinh. Có 11 con trai, 3 con gái. Con thứ 8 là Hổng Tê được tập phong Kỳ ngoại hầu. Phù Mỹ Quận công Miên Phú Là con thứ 8 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ không rõ tên họ là gì, sinh năm Gia Long thứ 16. Lúc còn làm hoàng tử, vốn tính kiêu ngông, thân cận với trẻ hư, thường cho đầy tớ cưỡi ngựa dẫm chết người. Việc đến tai … Vua giận sai lột mũ áo, cấm không được dự hàng với các hoàng tử, cứ lấy tên mà gọi. Sau ông biết sợ và hối hận, nên được hoàn lại mũ áo vị hiệu nhưng không cho vào chầu hầu. Thiệu Trị năm đầu cho theo ban triều bái. Năm Tự Đức thứ 5, được phong làm Phù Mỹ Quận công. Năm thứ 35, công mở trường hát xướng, dẫn người ngoại quốc tới xem, bị người hạch tâu, có chiếu đoạt tước giáng làm Kỳ nội hầu. Năm thứ 36, mới khai phục tước cũ. Hàm Nghi năm đầu, công chết, thọ 69 tuổi, thụy là Cung Lượng, dựng đền ở xã Xuân Dương thuộc Hương Thủy. Ông có 13 con trai, 8 con giá. Con vợ thứ là Hồng Ninh được tập phong làm Phù Mỹ Đình hầu. Hàm Thuận Quận công Miên Thủ Ông tên tự là Thị Phủ, con thứ 9 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ là Mỹ nhân họ Nguyễn Văn, con nhà lương gia ở Do Linh, Quảng Trị. Ông sinh năm Gia Long thứ 18, lúc mới làm hoàng tử, giữ tính khiêm tốn, đến khi ra mở phủ đi học, tinh thông kinh sử. Năm Minh Mạng thứ 21, phong làm Hàm Thuận Quận công. Năm Tự Đức thứ 12, ông chết, lúc 41 tuổi, vua cho tên thụy là Đôn Cung, dựng đền ở ấp Xuân An, xã Phú Xuân huyện Hương Trà. Ông có 27 con trai, 35 con gái. Con thứ 6 là Hồng Hiển được tập phong làm Kỳ ngoại hầu. Sau can tội bị đoạt tước, lui về nhàn tản. Tùng Thiện Quận vương Miên Thẩm Lúc trước tên là Hiển, tự là Trọng Uyên, lại tự là Thận Minh, hiệu là Thương Sơn, biệt hiệu là Bạch Hào tử. Con thứ 10 của Thánh Tổ Nhân https://thuviensach.vn Hoàng Đế, con của Thục tần họ Nguyễn Khắc. Lúc mới sinh ra, mày bên hữu có một cái lông dài trắng, mình có 4 vú, lưng có nốt ruồi đỏ tía, trước ngực bên tả có cái vết vuông một tấc, hình như cái ấn nhỏ, trên lốt vết ấy mọc lông. Thế Tổ Cao Hoàng Đế nghe tin lấy làm mừng, cho 10 lạng vàng. Thuở nhỏ tính hay khóc lại nhiều bệnh tật, Thục tần ngày đêm hết sức chăm nom. Chưa được đầy năm, khóc càng quá, hai mắt mờ đi và chảy máu. Thục tần lo ngại, tìm cách cứu chữa nhưng không khỏi. Chợt có đạo sĩ tên là Vân trông thấy bảo rằng: đây là sao Thái Bạch kim tinh giáng sinh, làm lễ tiễn thì khỏi. Quả nhiên đúng như lời nói. Năm Minh Mạng thứ 3, mới 4 tuổi nhưng rất đĩnh ngộ, lúc đầu theo học nữ sư (84) ở trong cung, dạy học sách hiếu kinh. Năm 7 tuổi đến học ở Dưỡng chính đường, ông chăm học, không chơi đùa, gấp sách đọc có khi cả trăm tờ giấy. Một hôm vào hầu Thục tần, thấy trên án có chiếc quạt viết bài thơ thể 5 chữ của người Đường, trong đó có mấy chữ chưa hiểu lắm, mà đọc lên thấy vui miệng, bèn cố xin cho được cái quạt ấy. Hôm sau đem hỏi viên giảng tập rằng: đấy là thơ gì? Viên giảng tập đem sở kiến của mình để trả lời. Nhân đấy bèn hỏi nghĩa bài thơ ấy, lại xin dạy cho luật phép bằng trắc. Từ đấy có làm bài nào cũng ám hợp phép thơ. Thông minh sớm như thế. Năm thứ 8, mùa xuân tế Giao, công theo đi, có làm bài thơ tế Nam Giao, bấy giờ công mới 9 tuổi. Hơi lớn lên, ra ngoài học tập, không sách gì không thông hiểu, lại có tính mê sơn thủy, hàng ngày cùng các danh sĩ giao du, kiến văn ngày càng rộng, làm thành tập thơ bát đầu từ đấy. Năm thứ 16, vua thăm đàn tế Giao, trong ngoài tường cấm đàn ấy đều trồng thông, ông có làm bài thơ vịnh cây thông ở trai cung. Lại theo vua lên núi Ngự Bình, vua sai làm bài thơ, bài thơ có nhiều câu hay, vua khen ngợi. Năm thứ 20, ông được phong làm Tùng Quốc Công, cho lập phủ ở phường Liêm Năng, bên cạnh phường ấy tiếp giáp với Tĩnh Phố, tức là phủ của Tuy Lý Vương. Ông cùng vương ngày ngày vui thưởng xướng họa. Đến khi Hiến Tổ Chương Hoàng Đế nối ngôi năm thứ 2, vua đi tuần ra miền Bắc, công theo hầu, ông liền có tập thơ Bắc hành. Sau hoặc lên núi Nam Sơn thi bắn, hoặc lên núi Thúy Vân chơi xem, đều có thơ cả. Lại làm cơ nghiệp https://thuviensach.vn