🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Nam Liệt Truyện - Tập 2
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
QUYỂN ĐẦU
QUYỂN 1
QUYỂN 2
QUYỂN 3
QUYỂN 4
QUYỂN 5
QUYỂN 6
QUYỂN 7
QUYỂN 8
QUYỂN 9
QUYỂN 10
QUYỂN 11
QUYỂN 12
QUYỂN 13
QUYỂN 14
QUYỂN 15
QUYỂN 17
QUYỂN 18
QUYỂN 19
QUYỂN 20
QUYỂN 21
QUYỂN 22
QUYỂN 23
QUYỂN 25
QUYỂN 26
QUYỂN 27
QUYỂN 28
QUYỂN 29
https://thuviensach.vn
QUYỂN 30 QUYỂN 31 QUYỂN 32 QUYỂN 33 CHÚ THÍCH
https://thuviensach.vn
LIỆT TRUYỆN SƠ TẬP
QUYỂN ĐẦU
Bọn thần là Tổng tài, Toản tu ở Quốc sử quán, kính cẩn tâu về việc xin đem sách "Chính biên liệt truyện sơ tập" để tỏ ra điển tất.
Trộm nghĩ, ử để lưu truyền lại, đã có từ lâu. Vì từ đế vương đời cổ, nhận giữ đồ, lục (1), kinh Dịch bắt đầu quẻ Kiền quẻ Khôn giúp nền giáo hóa ở trong, cùng là những hàng giúp mệnh, các người giúp sức, phong thanh khí tập, người hay người dở, điều tốt điều xấu, cũng không việc gì là không có sự thực. Thể cách làm ra liệt truyện, do đây mà tỏ ra, thực không thể thiếu được.
Nhà nước ta, nhận mệnh yêu mến của trời, nên cơ đồ ở cõi Nam. Thánh thần truyền nối, hơn hai trăm năm, sách Thực lục tiền biên, sáng để muôn thuở.
Kính nghĩ, Thế tổ Cao Hoàng đế, ứng mệnh trời thuận lòng người; dẹp yên rối loạn, trở lại đạo chính, thần hóa sánh với đất trời; công tốt đầy khắp vũ trụ. Đã từng phụng chỉ làm sách "Chính biên đệ nhất kỷ", duy khi ấy, bên trong việc sửa sang, bên ngoài làm chính trị, quy mô xa rộng, bút của sử thần, không thể chép xiết.
Bọn thần phụng chỉ tra cứu suốt từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đặt ra Sử quán, chọn sai nho thần, biên chép lâu năm. Đến buổi đầu năm Thiệu Trị kính vâng sắc chỉ chuẩn cho sửa lại làm Liệt truyện, để đủ làm quan chiêm của một triều đại và để bảo rõ điển chương đến muôn đời sau. Tới năm Tự Đức thứ 5 (1852) bộ "Tiền biên liệt truyện" làm xong; phụng chỉ kế tiếp, làm bộ "Đệ nhất kỷ chính biên liệt truyện", các viên ở Sử quán lúc ấy, tham bổ khảo xét đính chính, chia từng mục, biên thành từng loại. Đầu là các
https://thuviensach.vn
truyện của Hậu phi; thứ là Hoàng tử, Công chúa; thứ nữa là các bề tôi; thứ nữa là người có hạnh có nghĩa, và các liệt nữ; cuối rốt chép phụ thêm các truyện về bọn tiếm thiết và việc nước ngoài, gồm có 8 mục, cộng 33 quyển, nhan đề là "Chính biên liệt truyện sơ tập". Trong đó tìm lấy nguyên nhân từ trước cốt yếu về sau, việc xét đúng, văn rõ ràng, thực đáng làm gương để khảo xét nhân lúc nhiều việc chưa kịp đem khắc ra ban hành, bản thảo vẫn để ở Lan Đài (2) không ai được thấy sự bí mật của bộ sách ấy.
Bọn thần nghĩ rằng: sách này sửa chép đến nay đã vài mươi năm rồi, về người về việc, đã rõ, há nên để mãi lâu ngày mà chưa nêu rõ ra ư? Nay xin kính đem nguyên bản kiểm xét kỹ lại viết ra rõ ràng tiến trình, đợi vâng chỉ chuẩn cho giao khắc bản in, để vào kho sử; ngõ hầu công liệt lớn của nhị kỷ trở về sau, cũng xin thư đệ biên, chép nối thêm, khiến cho điển chương nhân vật của thịnh triều đều có sách chép sẵn, truyền mãi không cùng, thực là nguyện vọng lớn của bọn thần vậy.
Về việc khắc in xin đều do ty có chức trách sửa làm.
Vậy dám kính làm tập tâu lên, đợi Hoàng thượng quyết định. Kính cẩn tâu lên
Thành Thái năm thứ I (1889), tháng 10 ngày 13 đệ tâu (ngày 5 tháng 11 năm 1889). Vâng chỉ chuẩn y lời tâu, phải kính theo lời chỉ.
(Thần) Nguyễn Trọng Hợp
Bùi n Niên
Trương Quang Đản
Đoàn Văn Bình
Hoàng Hữu Sứng
https://thuviensach.vn
Thành Ngọc Uẩn
Trịnh Quang Chiểu
Tô Châu
Phụng kiểm:
Hàn lâm viện kiểm thảo sung khảo hiệu, thần: Hồ Đắc Mưu, Hàn lâm viện điển bạ sung khảo hiệu, thần: Hồ Quý Thiều.
Phụng tả:
Nguyên điển nghi ty tư vụ sĩ bổ, thần: Trương Giảng, Chánh cửu phẩm sĩ bổ, thần: Nguyễn Quát, thần: Lê Quang Huân.
Tòng cửu phẩm sung đăng lục sĩ bổ, thần: Hoàng Cương, thần: Nguyễn Hữu Tuyên.
Thị sai tòng cửu phẩm sĩ bổ, thần: Lê Văn Hào.
Thư lại sĩ bổ, thần: Trần Văn Kinh.
Hành nhân ty hành nhân sĩ bổ, thần: Nguyễn Ngoạn.
Thu chưởng:
Hàn lâm viện đãi chiếu sung thu chưởng, thần: Lê Bá Nhượng. ĐẠI NAM CHÍNH BIÊN LIỆT TRUYỆN
QUYỂN 1
TRUYỆN CỦA CÁC HẬU PHI
https://thuviensach.vn
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng hậu
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng hậu là Nguyễn Thị, người ở làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên, con gái Diễn quốc công Nguyễn Phúc Trung (nguyên là họ Nguyễn, hoặc được cho họ là Nguyễn Phúc, không thể xét được), mẹ là họ Phùng.
Khi hậu mới vào hầu ở nhà để (3) theo đạo trinh thuận, tập quen quy tắc trong chốn khuê môn. Sinh được ba con trai, con cả là Đông Hải Quận vương tên là Đồng, con thứ hai là Thế Tổ Cao Hoàng đế, con thứ ba là Thông Hóa Quận vương tên là Diễn; một con gái là Long Thành Công chúa, tên là Ngọc Tú. Khi biến loạn năm Giáp Ngọ (4), hậu ẩn náu ở làng An Du, các Trưởng công chúa đều theo đến cả đấy. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1779), Thế Tổ Cao Hoàng đế sai người đón đến Gia Định, tôn làm quốc mẫu; gặp khi giặc Tây Sơn vào lấn cướp, Thế Tổ phải thiên đi nơi khác, hậu và cung quyến lui đóng ở đảo Phú Quốc. Thuyền của Thế Tổ ngự đi đảo Côn Lôn, gặp gió lớn, trôi giạt ở ngoài biển 7 ngày, trong thuyền hết nước uống, bỗng chốc nước nhạt chảy ra, nhờ thế mới đỡ. Tới khi thuyền của Thế Tổ lại trở về đảo Phú Quốc, Thế Tổ thuật lại tình trạng cay đắng khi ở giữa biển, hậu than rằng: "Gió lớn ở đảo Côn Lôn, giữa biển có suối nước ngọt, có thể biết là lòng trời ngầm giúp cho, con ta chớ nên lấy sự khó nhọc ấy mà tự nản chí". Thế Tổ lạy tạ nói rằng: Xin kính cẩn vâng lời dạy.
ăm Giáp Thìn (1784) Thế Tổ sang nước Xiêm cầu viện, Hậu và cung quyến dời đi đóng ở đảo Thổ Châu, mùa thu năm ấy, Thế Tổ đem quân đi Xiêm về đánh nhau với giặc không lợi. Mùa xuân năm Ất Tỵ (1785) Thế Tổ lại sang nước Xiêm, bèn đóng tạm ở Long Khâu, sai người rước từ giá (mẹ vua) và cung quyến đến nơi hành tại (5). Mùa
thu năm Đinh Mùi (1787) Thế Tổ từ nước Xiêm về, thuyền ngự tiến đóng ở Hà Tiên, sai Vũ Di Nguy, Phạm Văn Nhân, hộ vệ từ giá và cung quyến lưu lại ở đảo Phú Quốc. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) quân ta lấy lại được
https://thuviensach.vn
thành Gia Định, liền sai bọn Nguyễn Văn Nhân rước về Gia Định, mùa xuân năm Canh Tuất (1790) dựng làm hậu điện rước đến ở.
Năm Bính Thìn (1796) mùa đông, tháng 10 ngày Kỷ Mão, Thế Tổ thân đem các quan bưng sách vàng, ấn vàng tôn làm Quốc mẫu Vương thái phi. Năm Tân Dậu (1801) dã lấy được đô thành, Gia Long năm thứ I (1801) mùa hạ tháng 4, Thế Tổ sai bọn Hoàng Viết Toản làm phụng nghinh sứ tháng 6 đến kinh. Tháng 11, Thế Tổ ra ơn cho làng họ ngoại, dân làng An Du, các việc ra lính tạp dịch thân thế đều miễn cho cả. Năm thứ 2, mùa xuân tháng 3, ngày Nhâm Dần, tôn làm Vương thái hậu.
Sách văn rằng: Vốn nghe: đức rất tốt của đế vương, sự cốt yếu không gì trước hơn điều hiếu, cho nên yêu kính làm ở trong nhà, mà phong hóa ngấm khắp cả nước, thế gọi là đạo hiếu suốt cả trong nước.
Kính nghĩ Thánh mẫu bệ hạ, là dòng dõi nhà thế phiệt có đức tiếng thơm chuyện tốt ở chốn khuê phòng. Kịp thời hầu đức nhân khảo sửa sang công việc trong cung cấm, tuy ở trong lúc biến nguy hầu quanh bên cạnh không lúc nào trễ biếng, vỗ nuôi thân nhỏ mọn này cho đến trưởng thành. Gặp trong nước có tai nạn, càng ân cần lắm. Quan hà ngoại cõi, không lúc nào yên ổn, lo về nước nhà, sớm khuya răn sợ, để có ngày nay. Trên nhờ linh thiêng của các tiên thánh vương ở trên thời giúp cho thành công; cũng là do thánh mẫu sinh ra dậy nuôi được thế. Nhân đức rất lớn không thể xưng tụng ra được. Tham xét điển chương, danh hiệu tốt đẹp, để hậu lòng hiếu kính mà đáp lại ơn nhân tử. Than ôi! Tôn kính bề thân ngửa trông đức Kiền nguyên (6) rất lớn, trời ban cho chịu nhiều điềm Lý cát (7) vô cùng. Ngày Giáp Thìn, Thể Tổ ngự ở điện, các quan dâng biểu mừng, cho ăn yến cỗ thứ bậc khác nhau. Xuống chiếu bá cáo cho trong ngoài biết.
Mùa hạ tháng 4, truy tặng cho ông của Thái hậu là Phúc Kiêm làm Dương Vũ công, Khai phủ phụ quốc, Quang tiến trấn quốc đại tướng quân, Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Thiếu úy, Quận công, thụy là Đôn Hậu, cha sinh ra Thái hậu là Phúc Trang làm Tán trị công thần, Đặc tiến khai phủ
https://thuviensach.vn
phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Trung quân, Đô đốc phủ chưởng phủ sự, Thái bảo, Miên quốc công, thụy Chính Trực. Lập đền thờ ở Phú Xuân gọi là đền Dục Đức, lại vì họ Phùng dựng đền ở xã An Du cho điệt ôn (cháu gọi mẹ Thái hậu là cô) là Phùng Thế Bình làm Cai đội, coi giữ việc thờ tự. (Minh Mạng thứ 13 đổi phong đền Dục Đức của Diễn quốc công, gọi là đền Diễn quốc công).
Năm thứ 3 (1804), mùa xuân tháng 3, dựng cung Trường thọ, mùa dông tháng 10, cung làm xong rước Vương thái hậu đến ở, Thế Tổ thân đến làm lễ chúc mừng, các quan và mệnh phụ đều đem giấy mừng cùng lễ phẩm tiến lên. (Các con tiến 20 lạng vàng, 100 lạng bạc, mệnh phụ tiến 10 lạng vàng, 50 lạng bạc).
Năm thứ 5 (1806) mùa thu, tháng 7, ngày Mậu Thân, dâng kim sách tôn làm Hoàng thái hậu.
Sách văn rằng: Trộm nghe, hiếu tất phải trước ở có lòng yêu kính, lễ không gì lớn hơn tôn bề thân, đã xét khắp đạo thường, đủ chứng tỏ điển thịnh.
Kính nghĩa Vương thái hậu bệ hạ, tiếng tốt rộng khắp, cao hxưa: đức hậu nết tốt, lúc yên lúc nguy một mực; đứa hóa làm phép cho chốn đình vi, lợi trạch khắp cả đến nền xã tắc; phúc để lại cho con cháu, ơn ngấm khắp đến
thần dân; công nhân tích lũy, để có ngày nay. Cho nên thần (tức Thế Tổ) mới hợp lời của mọi người đã nhận danh hiệu là đế. Nghĩ đến công ơn sinh dục, nhưng trời không cùng, dám không tôn xưng danh hiệu tốt đẹp, để đáp lại ơn lớn. Kính cẩn bưng sách vàng, ấn vàng kính dâng tôn hiệu làm Hoàng thái hậu. Cúi xin nhận lấy danh hiệu to lớn chịu nhiều phúc tốt lâu dài; phúc ban từ trời, càng dài tuổi thọ, giống chín điều như (8).
Ngày Canh Tuất, Thế Tổ ngự điện Thái Hòa nhận lễ chúc mừng, xuống chiếu bá cáo trong ngoài biết.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 6 (1807) mùa thu tháng 7, khánh tiết lớn mừng Thánh thọ bảy mươi tuổi, Thế Tổ thân đem các quan đến làm lễ chúc mừng. Tôn nhân phủ, hoàng tử, hoàng tôn, tá hữu cung tần, văn ban, vũ ban, văn vũ mệnh phụ, công tính, cung thuộc, các thành doanh, trấn, đạo, dòng dõi công thần ở huyện Tống Sơn, họ Lê, họ Trịnh đều dâng lễ mừng, sai nhạc công múa bát dật (9), hát khúc Vạn niên hoan, Thiên hạ lạc, Thái bình lạc.
Thái hậu tính hiền từ yêu mến tự trời sinh ra, đối với chị là Từ phi, tình yêu càng quyến luyến, bỗng nhân khi Thái hậu trở trời gặp lúc Từ phi ốm kịch, Thế Tổ chưa dám tâu lên, tới khi Từ phi mất, Hậu mới biết, giận không ăn
cơm. Thế Tổ thân đến thăm sức khỏe, Hậu bảo rằng: Thân già này có một người chị, lúc ốm không được thấy, vì thế ăn không ngon, ngủ không yên. Thế Tổ quỳ ở dưới thềm, yên ủi và xin lỗi hồi lâu, ý Thái hậu mới giải bèn lại ăn cơm.
Năm thứ mười (1811) mùa thu, tháng 9, Thái hậu bị mệt nặng. Trước đây, sao chổi mọc ra, người hầu tâu lên Hậu biết, Hậu buồn rầu không vui. Có một đêm Hậu lẻn ra xem, vào bảo người hầu rằng: "ổi hiện ra, ứng vào thân già này". Đến đây Hậu bị bệnh nặng.
Ngày Kỷ Sửu, Hậu mất, thọ 74 tuổi, đem quan tài để ở cung Trường Thọ. Thế Tổ thương khóc không thôi, sai các quan bàn quy chế để tang. Ngày sóc ngày vọng tế điện to, đặt bàn chay lớn ở chùa Thiên Mụ. Năm thứ 11
(1812) mùa xuân tháng 3, ngày Mậu Dần, sách dâng tên thụy là Y Tĩnh Huệ Cung, Anh Trinh Từ Hiến, Hiếu Khang Hoàng hậu.
Sách văn rằng: thần nghe: kinh Dịch nói là thánh vật, kinh Thi khen là sinh dân, duy có đức dày thể theo đức lớn của quẻ Khôn cho nên tiếng tốt để lại đời sau mãi mãi.
Kính nghĩa Đại hành Hoàng thái hậu, nhân từ vốn tự tính trời, rộng lớn sánh với đạo đất. Gian nan vẫn theo đạo thường, giúp đức nhân khảo ta đã gặp vận nước tai biến lại đến khi thần phải khó khăn, chính mình đem
https://thuviensach.vn
khuôn phép kiên thuận, khuyên thần lấy mưu lược siêng lo, khiến cho thần dựng lại được nước nhà, nhất thống được bờ cõi, không phải do tự lời dạy của hậu, sao được đến thế. Đức hóa tốt đẹp khắp đến các phương, tuổi thọ
đã cao quá tuần bảy chục, sao đã vội bỏ sự cung dưỡng bằng cả thiên hạ, mà đi chơi ở chốn cõi tiên. Công cao như trời, muốn báo đền ơn sâu mà chẳng biết; ơn dầy như đất, nên thuật lại đức tốt đến vô cùng. Nay kính cẩn thân đem các quan xin mệnh lệnh ở nhà tôn miếu, kính bưng kim sách dâng lên thụy là Ý Tĩnh Huệ Cung, Anh Trinh Từ Hiến, Hiếu Khang Hoàng hậu.
Cúi xin anh linh sáng tỏ thêm lên, nhận lấy danh hiệu to lớn phối hưởng với Nễ cung (10), cùng lâm hưởng muôn thủa.
Ngày Kỷ Mão, bá cáo cho trong ngoài biết. Mùa hạ, tháng 4 táng ở lăng Thụy Thánh (ở núi Đinh Môn, thuộc huyện Hương Trà), ngày Giáp Dần rước thần chủ để ở cung Trường Thọ.
Năm thứ 12 (1813), tháng 9, lễ đại tường xong, Lễ thần dâng nói: Hiếu Khang Hoàng hậu lấy đức sánh với đức, sinh ra bệ hạ, rộng giúp nhân dân, lợi đến xã tắc, làm nên trung hiếu cho bệ hạ không gì lớn hơn, để lại công đức vô cùng cho đời sau, không những là có công với Hiếu Khang Hoàng đế cũng có công với tổ tông, có công với trăm họ nữa. Kinh Thi có nói rằng: "Hiệu thiên võng cực" (11) là nghĩa ơn đức của mẹ cũng như cha vậy. Xin đến sau ngày tế đàm, kính rước thần chủ lên phối hưởng ở Nễ cung. Sớ dâng lên, bảo là phải. Tháng 11, tế đàm rước thần chủ lên phối hưởng ở miếu Hoàng khảo (Minh Mạng năm thứ 2 đổi dâng miếu hiệu là miếu Hưng Tổ).
Đền Diễn quốc công nay do cai đội là Tôn Thất Tú coi giữ, hàng năm chi tiền công để cung việc tế tự.
Nguyễn Từ Phi
https://thuviensach.vn
Nguyễn Từ Phi là chị Hiếu Khang Hoàng hậu. Trước kia vào hầu Hưng Tổ, sinh 3 con trai: con cả là Tương Dương Quận vương, tên là Hạo, con thứ nhì chết sớm, con thứ ba là An Biên Quận vương tên là Mân, 2 con gái lớn là Phúc Lộc Công chúa Ngọc Du, con gái thứ là Minh Nghĩa Công chúa Ngọc Tuyền. Khi biến l
oạn năm Giáp Ngọ, Phi ẩn náu ở dân gian. Mùa xuân năm Kỷ Hợi, Thế Tổ Cao Hoàng đế sai người rước vào Gia Định, ở cùng với Hiếu Khang Hoàng hậu. Buổi đầu năm Gia Long rước về kinh, theo ở sau cung Trường Thọ. Mùa đông năm thứ 6 chết, tặng là Ý Thân Huy Gia Từ phi năm thứ 5 (1845) rước thần chủ thờ ở nhà thờộc Thái trưởng công chúa.
Thế Tổ Thừa Thiên Cao Hoàng hậu
Thế Tổ Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, họ Tống, là người ở quý huyện (tức huyện Tống Sơn) tỉnh Thanh Hóa, con gái Quý quốc công Tống Phúc Khuông, mẹ là họ Lê.
Trước đây, Quốc công mang gia quyến vào Gia Đ
ịnh. Năm Mậu Tuất, hậu 18 tuổi, Thế Tổ Cao Hoàng đế đem đủ lễ vật đến cưới, tấn phong là Nguyên phi. Hậu là người cung kính cẩn thận, cử động có phép tắc lễ độ, vua rất quý trọng. Sinh được 2 con trai, con cả là Chiêu, chết sớm, con thứ là Cảnh, đã có truyện chép riêng. Mùa thu năm Quý
Mão, giặc Tây Sơn đến cướp thành Gia Định, vua ngự ra đảo Phú Quốc, người nước Xiêm đến đón. Khi vua sắp sang Xiêm, trước hết sai Hoàng tử Cảnh sang Tây cầu viện. Bèn đem ra nửa dật vàng tốt cho Hậu, bảo rằng con ta đi rồi, ta sẽ đi đây, Phi phụng dưỡng Quốc mẫu ở đây, chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin.
Mùa xuân, năm Giáp Thìn (1784) vua từ nước Xiêm về, Hậu rước quốc mẫu ở lại đảo Phú Quốc. Mùa thu năm Mậu Thân (1788) lấy lại thành Gia Định, sai người đến rước về Gia Định. Từ đây trở đi, mỗi khi vua đi đánh
https://thuviensach.vn
giặc, Hậu thường đi theo. Gia Long năm thứ 2 (1803) tháng 3, ngày Bính Thân lập làm Vương hậu.
Sách văn rằng: Đạo trời nhờ công khí âm để nôi, hóa tốt muôn vật; Thánh nhân đặt chức lên trong để giúp, nêu mẫu sáu cung. Xướng được điều tốt đẹp ấy thuộc về người có đức hay. Nghĩ đến Nguyên phi họ Tống, công nghiệp tốt như ngọc cư ngọc hoàng, dáng nghi đẹp như ngọc uyển ngọc diễm. Lúc rồng vàng còn ẩn núp, điềm lành sớm định, đức trinh tĩnh đã nối theo tiếng hay. Ngày chim cưu về tổ xưa tiếng tốt nêu cao, nết kiệm cần đã gây nền vương hóa. Con cháu được đông đàn, khác gì cây tiêu liêu nhiều quả, cung tần được yêu tới nhờ ở bóng cù mộc rộng che. Gặp bước gian truân, vui được vợ tốt; chật vật cờ bái vua Thang, cờ mao vua Vũ cùng trẫm rửa căm thù cho tiên vương tám chín đời; Xa xôi thành nước Thục, đường nước Tần theo ta chịu phong trần ba mươi năm ở nước bạn. Vất vả càng thêm kiên trì. Mềm dịu vốn quen lễ độ, có lòng hiếu thảo với cung Trường Lạc (12), thân làm đồ ngon đồ ngọt trong bữa cơm. Chia sự đắng cay ở núi
Cối Kê (13), tự dệt vải mỏng vải dầy cho quân lính. Bỏ trâm (14) ra chốn ngõ sâu, phần nhiều khuyên chăm chính sự. Trẫm nghĩ tế chứng thường nơi chín miếu, chân dày sương cùng nhớ đến tổ tông. Trẫm nghĩ sự lao khổ của sáu quân, nghe trống trận cũng chau mày thương tướng sĩ. Nhiều lo toan và trong lòng thành thực sâu xa, vẫn giấu kín mà tỏ đức ôn hòa mềm dẻo. Chắn gấu (15) để giữ vua nhà Hán, không hổ với Phùng Cơ, chạy ngựa (16) cùng dựng nghiệp nhà Chu, có phần hơn Khương Nữ. Kiền khôn gây dựng lại, đã giúp nhau trong lúc gian nan; nhật nguyệt cùng sáng soi, cùng hưởng trong khi phú quý. Bèn xét điển đời cổ ban cho danh hiệu hay.
Vâng mệnh của Vương thái hậu, sai viên Chưởng thần vũ quân là Phạm Văn Nhân, Lễ bộ là Đặng Đức Siêu bưng sách vàng ấn ngọc lập làm Vương chính hậu
https://thuviensach.vn
Ôi! Duy có nghiêm kính có thể thờ được người trên. Nhân từ có thể tiếp được kẻ dưới. Hậu siêng năng thì người không dám biếng lười. Hậu kiệm ước thì người không dám xa xỉ. Hậu nên nghĩ về điều ấy, để chịu phúc của nhà tôn miếu, để được tốt cho con cháu sau.
Năm thứ 3 (1804) truy tặng bốn đời: Cao tổ là Tống Phúc Đức làm Cai cơ, tước Hầu; Tằng tổ là Tống Phúc Dương làm Chưởng cơ, tước Quận công; ông là Tống Phúc Thành làm Chưởng doanh, tước Quận công; cha là Tống Phúc Khuông làm Thái bảo, tước Quốc công, lập đền ở Phú Xuân, gọi là đền Tống công. (Năm Minh Mạng thứ 13, đổi phong là Quy quốc công, đền Tống công sau dời đến Kim Long, đổi tên là đền Quy quốc công).
Năm thứ 5 (1806) mùa thu, tháng 7, ngày Kỷ Mùi, lập làm Hoàng hậu.
Sách văn rằng: Trộm nghĩ thế của thuần khôn, sánh với kiền nguyên, bắt đầu vương hóa, gây ở nội trị: cùng tôn cùng quý đối với lễ là trinh. Nghĩ đến vương hậu họ Tống: tiếng nghĩa rộng khắp, nết tốt đầy đủ: giữ việc
trong cung cho Trẫm, chốn nấu ăn được nghiêm lặng. Lúc trước trong khi xiêu giạt, trẫm lo nghĩ khó nhọc ở ngoài, Hậu siêng năng giúp đỡ ở trong; gian nan cùng giúp lẫn nhau, hiểm bằng nếm đủ tất cả; khoan thai khép nép rất là kính, tiến dâng ngon ngọt hết đạo hiếu; ơn huệ để cho con cháu, đức trạch khắp tới quân nhưng; ôn hòa kính cẩn kiệm ước đã giúp đỡ ta, đức tốt như ngọc hành ngọc vũ làm khuôn phép trong cung cấm, thói hay ở thơ Quang thủ đem giáo hóa cả thiên hạ, tu tề trị bình, cũng nhờ ở đấy. Trẫm mới hợp lời đình thần tâu xin, đã chính vì hoàng đế; nghĩ tới ngôi hậu ở trong cùng trẫm cùng trị, chúc ở trong cung; tốt ở triều đình là gốc. Đã dâng lời tâu xin chỉ Hoàng thái hậu, sai Chưởng thần vũ quân kiêm coi quân thần sách là Kiêm quận công Phạm Văn Nhân mang cờ tiết, Hộ bộ thượng thư. Tích thiện hầu là Nguyễn Kỳ Kế làm phó, mang sách vàng ấn vàng, tấn phong làm Hoàng hậu5; cho long trọng vị hiệu. Hậu nên nhận lấy danh hiệu cao quý ấy, sửa sang chính sự ở trong cung, kính cẩn việc thờ phụng ở nhà tôn miếu, làm khuôn phép người mẹ cho thần dân, kính siêng
https://thuviensach.vn
sửa đức nghĩ điều nghĩa cho sáng thêm; được hưởng nhiều phúc, giữ tốt mãi không chán.
Năm thứ 13 (1814) mùa xuân, tháng 2 ngày Ất Mùi Hậu mất, thọ 54 tuổi, để quan tài ở điện Khôn nguyên. Vua thương tiếc không thôi. Dụ các quan rằng Hoàng đế để tang Hoàng hậu một năm, là phải lễ. Trẫm ở trong cung
để tang một năm, còn từ Hoàng tử xuống bàn định phép để tang có thứ bậc. Ngày Canh Tuất làm lễ thành phục, vua sai hoàng tử thứ tư (tức là Thánh Tổ Nhân Hoàng đế) dâng lễ tế điện. (Thánh Tổ Nhân Hoàng đế tuổi mới lên ba, vua sai Hậu nuôi, Hậu yêu sách phải có khế khoán. Vua sai Lê Văn Duyệt viết một tờ giấy đưa cho. Hậu giao cho cung tỳ là Nguyễn Thị Lê cất giữ. Từ đấy Thánh Tổ Nhân Hoàng đế, vào hầu ở trong cung làm con của Hoàng hậu. Đến sau Hoàng trưởng tử là Cảnh, Hoàng nhị là Hi, Hoàng ba là Noãn nối nhau chết đi, đến lúc có tang hậu, các quan hặc có người bàn đem Hoàng tôn Đán giữ việc thừa tự, Vua dụ rằng: Hoàng tử là con của Hoàng hậu, còn có khế khoán ở kia, nên sai làm chủ việc thờ cúng: việc lớn của nước không thể nhất khái câu nệ lễ của nhà mọi người. Nguyễn Văn Thành lại cho là lời xưng hô trong văn khấn khó nói. Vua bảo rằng: Con phụng mệnh cha để tế mẹ, danh chính ngôn thuận, có gì là không được. Lời nghị mới quyết định).
Mùa thu, tháng 7, ngày Mậu Tuất, tấn phong tên thụy là Giản Cung Tề Hiến Đức Chính Thuận Nguyên Hoàng hậu.
Sách văn rằng: Trị bên trong nhờ ở người nội tướng, nên Kinh Thi mở đầu là thiên gây nên nền phong hóa; có đức lớn thì nhận danh hiệu lớn nên Kinh Lễ trọng về điểm tôn xưng lúc tống chung. Lâu nhớ đức hay nêu rõ hiệu tốt. Đại hành Hoàng hậu Tống thị, con nhà danh giá kính giữ lời dạy, tự trời phối hợp cùng trẫm sửa mình, xếp dặt việc nhà, sấm gió đương lúc gian truân phong trần hợp sức giúp đỡ. Trời biển gian hiểm cố gắng giúp ta, quê ngư̖i lạnh lùng, kính hầu mẫu hậu, sớm khuya không trễ, răn bảo cùng nhau, nghĩ cùng trẫm báo phục mối thù cho miếu xã; nghĩ cùng trẫm cứu
https://thuviensach.vn
vớt nỗi khổ cho nhân dân. Cho nên trẫm lấy lại được cõi bờ dẹp yên được trong nước, nghĩ đến Hậu lấy hiếu để phụng thờ tổ tiên, lấy kính để tiếp đãi người dưới, nhân đến phi tần, yêu cả con cháu, ra ơn cả thân hiền, để tâm đến cả làng xóm. Việc đưa đám Thụy lăng, xót thương hết lòng. Trước sau vẫn một tâm đức, trong ngoài theo về người thân. Tuổi thọ chưa đầy sáu chục, xe tiên đã vội xa vời. Nhớ đến người giúp giỏi, cử hành điển chương thường. Bèn xin mệnh lệnh ở tôn miếu, sai Khâm sai chưởng Hữu quân giám Thần sách quân, Khiêm quận công là Phạm Văn Nhân làm chánh sứ. Lễ bộ thượng thư, Hưng nhượng hầu là Phạm Đăng Hưng làm phó sứ, bưng sách vàng, ấn vàng tấn phong tên thụy là: Giản Cung Tề Hiếu Đức Chính Thuận Nguyên Hoàng hậu. Mong nhận lấy tên hiệu long trọng, để tỏ lâu đời. Than ôi! Ghi về việc, nêu về công lễ vẫn nên thế, sống thì vinh, chết thì thương, Hậu nên xét cho.
Năm thứ 14 (1815) mùa xuân, tháng giêng, vua sai bộ Lễ bàn về lễ tiểu tường, đại tường và trừ phục về cung Khôn nguyên. Quan bộ Lễ tâu nói: Theo sách Lễ ký, về tang một năm, 11 tháng thì tế luyện (tiểu tường), 13 tháng thì tế đại tường, 15 tháng thì tế đàm, thế là lễ chính. Nhưng quan tài còn để quàn, chưa nên đem cát lễ mà đổi áo tang. Kính xét: Thiên tang phục Tiểu ký nói rằng sau ba năm mới làm ma, thì tất phải hai lần tế, trong khoảng hai lần tế ấy không được tế cùng một lúc mà bỏ áo tang, là vì có việc chưa thể sửa việc tang được. Về việc tế luyện (tiểu tường), tế đại tường, tất đợi khi chôn cất rồi, lại cử hành hai lễ tế ấy; nhưng phải tế làm hai lần không được cùng tế một lúc. Tiểu ký lại nói rằng: quàn lâu mà chưa chôn, duy có người chủ tang không được bỏ áo tang, còn người khác để tang bằng áo vải gai cứ hết số tháng bỏ áo trở thì thôi. Người chủ tang không được bỏ áo tang là con để tang cho mẹ, cháu để tang ông bà, chưa chôn thì không được bỏ áo sô gai và dây lưng gai. Hết số tháng mặc áo gai nhưười thân thuộc để tang một năm đến 3 tháng, cứ đủ số tháng thì bỏ áo tang, nhưng áo trở ấy vẫn còn phải thu cất đi, để đợi khi tống táng. Thế là khi chưa chôn, lễ tế luyện, tế đại tường chưa thể cử hành được, áo trở chưa được bỏ đi được, kinh có chép rõ ràng nghĩa nên tham khảo. Lại xét: Tiên
https://thuviensach.vn
nho Dữu Uất Chi nói rằng: Thiên Phục Vấn có nói "Vua chủ việc tang cho phu nhân", thế là lấy người tôn chủ việc tang cho người ti, không được giống như người ti chủ việc tang của người tôn, không lấy cớ rằng người ti chưa chôn mà để cho người tôn phải mặc áo trở mãi được. Từ Kiều Học cũng cho tới Dữu thị là phải. Thế mới biết là người tôn chủ việc tang cho người ti, tuy lâu chưa táng, nhưng không thể không từ phục vụ được. Vua cho là phải.
Năm thứ 1 4 (1815) mùa xuân tháng 3, ngày Nhâm Dần, chôn ở bên hữu chỗ huyệt lăng Thiên Thọ ( thuộc núi Thụ Sơn, xã Định Môn, huyện Hương Trà, năm Gia Long thứ 13 mới dựng phần. Vua dùng phép hợp lăng đời cổ làm hai cái quách đá ở huyệt, chôn trong Bảo Thanh, trước cửa xây đá làm thềm bậc, đổi tên là núi Thiên Thọ). Ngày Ất Ty đem thần chủ để ở điện Hoàng Nhân.
Minh Mạng năm thứ 1 (1820), mùa hạ, tháng sáu, ngày Tân Mão dâng thêm tôn thụy là Thừa Thiên Tá Thánh, Hậu Đức Từ Nhân Giản Cung Tề Hiếu Dực Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng hậu.
Sách văn rằng: Lễ không gì lớn bằng tôn lấy danh hay; hiếu không gì trước hơn thuật lại đức tốt, nhớ mãi khuôn phép tốt nên tỏ danh hiệu nay.
Kính nghĩ: Hoàng tỉ, Giản Cung Tề Hiếu Dực Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng hậu, từ hiếu trời phú cho, đoan trang giữ lời dạy, việc nội trợ giúp cơ nghiệp gian nan tu tề trước chính vương hóa, thờ bề trên có dung nghi dịu thuận, trước sau đạo hiếu vẹn tuyền. Giáo hóa làm khuôn phép người mẹ khắp thiên hạ. Tin yêu nuôi nấng mọi người, đến cả phi tần. Tuy xe mây đã sớm đuổi tới cõi tiên, mà đức tốt vẫn lưu nơi cung cấm. Cho nên quả đức nới nối nghiệp lớn, truy tôn đã thuật lại thánh công, nhưng khôn nghi trên sánh với kiền nguyên (17) nối tốt lại xét theo điển lớn kính cẩn đem các quan xin mệnh lệnh nhà tôn miếu, đem sách ấn dâng thêm tôn thụy là: Thừa Thiên Tá Thánh, Hậu Đức Từ nhân, Giản Cung Tề Hiếu, Dực Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng hậu.
https://thuviensach.vn
Cúi xin Thái hậu nhận lấy tên thụy vẻ vang, lên phối hưởng ở cung Nễ (18). Than ôi ! kính trọng người tôn đức đầy khó hình dung ra dược. Anh linh đầy rẫy, phúc nhiều đón hưởng mãi lâu dài, kính rước thánh vị, lên phối hưởng ở điện Minh Thành.
Năm thứ 3 (1822) mùa xuân, tháng giêng, rước thần chủ hợp thờ ở miếu Thế Tổ. Hậu là người nhân hậu cần kiệm, hiền từ yêu người. Trước kia trong lúc xiêu giạt, phụng dưỡng Hoàng thái hậu nếm trải mọi mùi gian nan hiểm trở, thường thân hành dệt cửi chính tay may lấy áo trận, để cấp cho quân sĩ. Một hôm thuyền đi gặp giặc, vua đốc quân cố sức đánh, Hậu cùng cầm dùi đánh trống, quân lính tranh nhau phấn khởi thành ra đánh được quân giặc. Đầu năm Quý Mão (1783), vua cho Hậu dật vàng, Hậu nhận lấy cất đi, kịp khi thiên hạ đã yên định, Hậu thong dong trình dâng. Vua nói rằng: Vàng giữ làm tin đây, thực trời giúp đấy, không thể quên lúc gian nan, vậy nên lưu lại để bảo cho con cháu biết. Hậu nhận lấy dật vàng ấy cho Thánh Tổ Nhân Hoàng đế. Minh Mạng năm thứ nhất (1820) Thánh Tổ đem dật vàng ra bảo Phạm Đăng Hưng, Nguyễn Hữu Thận rằng: đấy là vật làm tin của hoàng khảo, khi dời đi xa lưu lại để đưa cho trẫm. Bèn sai khắc chữ vào dật vàng ròng: "Thế Tổ Đế Hậu Quý Mão bá thiên thời tín vật" (Vật giữ làm tin của Thế Tổ Đế Hậu lúc xiêu dạt đi xa về năm Quý Mão) rồi đem để ở điện Phụng Tiên.
Đền thừ Quy quốc nay do Cai đội là Tống Phúc Sở coi giữ, hàng năm chi tiền công, để cung việc tế tự.
Thuận Thiên Cao Hoàng hậu
Thuận Thiên Cao Hoàng hậu họ Trần, người ở huyện Hương Trà phủ Thừa Thiên, là con gái Thọ quốc công Trần Hưng Đạt, mẹ là họ Lê. Lúc biến loạn năm Giáp Ngọ, Hiếu Khang Hoàng hậu, ẩn nấp ở làng An Du, Hậu là con nhà danh giá, được tiến vào hầu. Năm Mậu Tuất(1778) Thế Tổ Cao Hoàng đế nhiế
https://thuviensach.vn
p chính ở Gia Định sai người rước từ giá (tức Hiếu Khang Hoàng hậu). Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1789) Hậu và các Trưởng công chúa đều theo đi. Hậu 14 tuổi được tiến vào cung, rồi tấn phong là Tả cung tần, hiệu là Nhị phi.
Khi ấy giặc Tây Sơn đương hăng, Thế Tổ phải xiêu dạt đi xa, Hậu cứ hàng đêm đốt hương khấn trời rằng: "Nay vận nước còn bối rối, chưa có yên định hẳn, may mà sinh con, sợ đương lúc chạy xa này, bỏ đi thì không nỡ, bế cõng đi theo, lại không khỏi bận lòng cho chúa thượng; nếu mệnh đáng có con, xin đợi thiên hạ thái bình, rồi sau hãy sinh con thực là trời cho vậy".
Năm Mậu Thân (1788) lấy lại được thành Gia Định. Có một đêm, Hậu nằm chiêm bao thấy người thân trình một cái ấn báu, hai cái ấn, cái ấn báu thì sắc đỏ bóng nhẫy tươi sáng như mặt trời; một cái ấn thì sắc tía, một cái ấn thì sắc rất nhạt, Hậu đều nhận cả.
Năm Tân Hợi (1791) Hậu 24 tuổi, sinh ra Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ở thôn Hoạt Lộc (thuộc Gia Định, khoảng năm Minh Mạng dựng đền Khải Tường ở đấy), con thứ hai là Kiến An vương, tên là Đài; thứ ba là hoàng tử Hiệu chết sớm; thứ tư là Thiệu Hóa quận vương tên là Chẩn.
Minh Mạng năm thứ nhất (1820) dựng cung Từ Thọ, ban ơn cho làng họ ngoại 150 lạng bạc (họ Trần 100 lạng, xã Văn Xá 50 lạng). Các quan xin dâng tôn hiệu, Thánh Tổ đem tờ biểu tấu lên. Hậu dụ rằng: Ta xem tờ biểu, đã biết Hoàng đế và các quan thành tâm rồi, Nhưng nghĩ Tiên đế ta chôn vào lăng chưa được bao lâu, quân dân phần nhiều ốm đau, ta thấy Hoàng đế lo siêng sợ hãi như thế, sớm khuya không yên, lòng ta tự thấy thương xót biết bao, tuy rằng tai họa ấy vị tất là do người làm vua kém đức nên nỗi thế, nhưng có thiên hạ, thì nên chịu lấy trách nhiệm của thiên hạ, cũng phải lo về sự lo của thiên hạ cũng là phải.Ta xin các lão tiên sinh, cùng một tâm đức giúp đỡ các điều hoàng đế không nghĩ tới để hồi lại ý trời, để vui sự sinh sống cho dân, thì ta vui mừng nhiều lắm. Về tờ biểu xin tôn sùng, bất tất cử hành là phải.
https://thuviensach.vn
Mùa đông năm ấy, cung Từ Thọ làm xong, Thánh Tổ đem các quan xin chúc mừng. Hậu xuống dụ miễn cho, các quan lại dâng tờ biểu xin tiến tôn. Hậu xuống chỉ bằng lòng y theo: năm thứ 2 (1821) mùa xuân, tháng 3 ngày Quý Sửu, tấn tôn làm Hoàng thái hậu.
Sách văn rằng: Chí nguyên để xưng cho mẹ, sinh ra muôn vật nhân kia sánh với Kiền nguyên; đức lớn được danh hiệu lớn, được mệnh trời yên, phúc ấy bởi tự trời giúp. Thư đỏ chói lọi, sách ngọc rõ ràng.
Kính nghĩ hoàng mẫu bệ hạ, nhân hậu tự trời, hiền minh đức cũ từ ái đối với con cháu, phúc lộc thịnh cho nước nhà; dậy bảo cho thần, nên mới có ngày nay. Đã hưởng phụng dưỡng rất mực của thiên hạ, nên nhận lấy vinh hiển của thiên hạ. Tấm lòng thành thực tin ở mọi người đều nói, ngửa trông đức tốt khiêm khiêm (19), danh hiệu to lớn, để nêu rõ khuôn phép rất hay, ở văn quý quý (20), vậy đã mệnh lệnh ở nhà tôn miếu thân đem các quan kính bưng sách ấn dâng tôn hiệu là Hoàng thái hậu.
Kính nghĩ: Chính danh hiệu to chịu nhiều phúc tốt; một nhà đầy phúc vui vẻ, gốc giáo hóa làm phép bởi từ nhà; muôn năm tuổi thọ dài lâu, phúc lộc để mãi đến con cháu. Ngày hôm sau, ban ân chiếu cho trong ngoài, lấy ngày 27 tháng 11 làm tiết thánh thọ. Lại truy tặng cho tằng tổ là Trần Mậu Tài làm Thị trung trực học sĩ, phong là Văn Xá bá; ông là Trần Mậu Quế làm Lại bộ Thượng thư, phong là Gia Bình hầu; cha là Trần Hưng Đạt làm Thái phó, phong là Hà Ba (Hoa) quận công. Miễn lệ thuế tô công tư điền ba năm, tiền đầu quan về thuế thân và giao dịch 30 năm cho làng họ ngoại.
Mùa thu năm ấy, có việc bang giao, vua đi tuần miền Bắc, sai Hoàng trưởng tử tức Hiến Tổ Chương Hoàng đế ở lại kinh để hầu. Tháng 11 gặp tiết thánh thọ, Thánh Tổ chính tay làm tờ biểu sai Hoàng thái tử thay tiến lên.
Biểu văn rằng: Thần lâu cách buổi sớm buổi hôm, xa rời bên tả bên hữu, xem mây từ mà càng quyến luyến, trông ngày khánh càng thấy băn khoăn.
https://thuviensach.vn
Nay gặp tiết Thánh thọ tiết tiểu xuân (tháng 10) ra lệnh ngày trường chí (ngày đông chí) họp phúc; thần trước đây vâng lời từ dụ bảo việc khánh hạ năm nay nên đình miễn; lại vì có việc ban giao ở lâu bên ngoài, không thể thân bưng chén rượu thọ hầu vui chúc phúc, trong lòng sợ hãi, thức ngủ không yên. Kính sai Hoàng tử ở Kinh kính bưng hòm biểu, và ba dật vàng tốt thượng hạng, 100dật bạc đến cung dâng lên để tỏ lòng thành nhỏ mọn đến nơi phương khuyết (21), dãi tâm tình nhớ mến ở đất Long Biên (22), cúi mong tuổi thọ như mặt trời mới mọc, mặt trăng thường sáng, phúc lớn giải mãi không cùng. Chúc phúc như núi kia sông nọ, cao sâu dài bền, vui cùng thần dân khắp cả. Thêm nhiều phúc tốt càng tăng điều lành. Ức vạn năm vẻ vang, rộng mở Bảo lục (23) tám nghìn xuân năm tháng, chồng chất cơ trù (24), năm thứ 3 (1822) mùa xuân, tháng giêng, tiết Chính đán (mồng một tết) Thánh Tổ đem các quan xin làm lễ mừng, Thái hậu không ưng cho. Năm thứ 2 (1823) mới nhận lễ chầu mừng; từ đây hàng năm lấy làm lệ thường. Tiết Đoan dương, tiết Thánh thọ cũng như thế.
Năm thứ 5 (1824) dựng đền Dụ Khánh, (ở phía Tây kinh thành, năm Tự Đức thứ 5 đổi thành đền Thọ quốc công) thờ Hà Ba quận công. Lại truy tặng tổ năm đời là Trần Phúc Tư làm Hàn lâm viện thị độc học sĩ, Tổ bốn đời là Trần Văn Thuật làm Thái bốc tự khanh, dựng từ đường ở Văn Xá thờ năm đời họ Trần. Tự Đức năm thứ 5 đổi từ đường họ Trần làm đền Dụ Khánh, lại miễn thuế cho làng họ ngoại ba năm. Năm thứ 7 (1826) cho họ Trần 100 quan tiền và áo quần đều có thứ bậc khác nhau.
Năm thứ 8 (1827), mùa đông, khánh tiết lớn Thánh thọ sáu mươi tuổi. Bên tả bên hữu nhà Duyệt thị dựng nhà rạp căng lụa màu, bên tả bên hữu dựng nhà sàn lợp lụa năm màu; lại dựng nhà rạp căng lụa màu ở sân điện Cần Chính; trước lầu Phu Văn dựng nhà ăn yến. Trước mười ngày Thánh Tổ mặc triều phục đến cung Từ Thọ hầu cơm, quỳ dâng thìa đũa. Đến ngày khánh tiết, Thánh Tổ thân đem các quan làm lễ chúc mừng, dâng rượu chúc thọ ba lần; nhạc sinh múa Bát dật. Ngày hôm sau ban ân chiếu thưởng tất cả các quan lụa màu bạc lạng có thứ bậc khác nhau.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 10 (1829) mùa xuân, Thánh Tổ thân làm bài tụng"cửu như" để dâng. Lời tụng rằng: Như đất lâu, như trời dài, như sông biển rộng như ngôi sao sáng, như phù tang (cây dâu) ở biển đông, sinh nhiều bóng tốt như ngọc bích lớn ở núi Côn Cương trinh chính bền rắn; như Vô lượng thọ Phật (25) từ bi trí tuệ cho phúc khắp cả con cháu ra ơn đến cả cõi xa. Sau vâng từ chỉ miễn lễ dâng bạc và ba tiết lớn và lệ thuế ở Sở Thương bạc, miễn thuế tô ruộng cho làng họ ngoại 5 năm, cho thêm tiền 1500
Thái hậu tính cần kiệm, từng đặt nhà dệt nuôi tằm ở trong cung, thân đến trông nom để làm vui.
Năm thứ 11 (1830) gặp tiết tứ tuần đại khánh của Thánh Tổ Nhân hoàng đế, ban ơn cho làng họ ngoại 150 lạng bạc.
Năm thứ 13 (1832) truy tặng cha (sinh ra thái hậu) là Trần Hưng Đạt làm Đông các học sĩ, Thái phó, phong là Hoa quốc công; mẹ (sinh ra thái hậu) là phu nhân họ Lê làm Hoa quốc nhất phẩm phu nhân. Miễn thuế lệ tô ruộng cho làng họ ngoại 5 năm, cho thêm tiền để cung việc tế tự 3 từ đường họ Trần là 1000 quan.
Thánh Tổ từng thân đến hầu cơm, Thái hậu đứng dậy đi lại để tỏ ra khỏe mạnh. Thái hậu nói rằng: ta biết Hoàng đế chăm lo suốt ngày, há nỡ lấy cái tuổi gần 70 mà lại làm lụy cho con, cho nên hàng ngày cố gắng ăn thêm, tự thấy tâm thần thảnh thơi, hoàng đế nên chớ phải lo. Thánh Tổ cả mừng lạy tạ.
Năm thứ 18 (1837) mùa đông, tháng 11 gặp khánh tiết lớn Thánh thọ 70 tuổi. Ngày 16 tháng ấy là ngày Canh Dần, Thánh Tổ thân đem các quan bưng sách vàng ấn vàng dâng huy hiệu là Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng thái hậu.
Sách văn rằng: có đức thì tất được danh, tôn bề thân gọi là đạt hiếu. Thế cho nên Đại Nhã, kinh Thi có thơ Tư trai sách ngọc nêu lên đức tốt, điển
https://thuviensach.vn
nghi long trọng ở cung Trường Lạc, sử đỏ (26) để sáng lâu dài, đều là để rõ phúc tốt mà nêu ra đức tốt vậy.
Kính nghĩ Thánh mẫu Hoàng thái hậu bệ hạ, bao rộng để hợp phúc lành, tĩnh nghiêm để chỉnh khuôn phép. Tám cõi gió, hòa ấm áp, bảy tuần tuổi thọ khang cường, kính gặp điển lễ vui mừng, thêm thỏa tấm lòng hoan hỷ. Rất mực thay khôn nguyên, rộng đầy khó hình dung về đức tốt. Xét theo các cổ điển, tôn xưng để tỏ rõ về tiếng thơm. Cẩn bưng sách vàng, ấn vàng, kính dâng hiệu Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng thái hậu.
Cúi xin nhận lấy danh hiệu tôn quý, hưởng nhiều phúc to lâu dài. Chín châu phụng dưỡng vẻ vang tấm lòng, những tiếc ngày nuôi ngắn ngủi, tuổi thọ thêm nhiều phúc tốt dâng lời tụng, mong được như núi lâu dài. Ngày hôm sau ban ân chiếu cho trong ngoài, lại miễn tô ruộng cho làng họ ngoại 5 năm, cho thêm tiền tự điền họ Trần là 4800 quan.
Năm thứ 20 (1839) tiết thánh thọ, ban dâng cho làng họ ngoại 1000 quan tiền.
Năm thứ 21 (1840) mùa đông, Thánh Tổ mất, di chiếu để lại cho Hoàng trưởng tử là Trưởng Khánh công nối ngôi. Cố mệnh đại thần là Trương Đăng Quế hội các quan làm bản tâu lên thái hậu biết, Thái hậu dụ rằng: Cha truyền con nối là đạo thường xưa nay, bọn ngươi phải nên giúp đỡ.
Thiệu Trị năm thứ 1 (1841) mùa xuân tháng 3 ngày Nhâm Tý, sách tôn là Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng thái hậu.
Sách văn rằng: đạo làm người hiếu thảo không có gì to bằng, thánh nhân chính nguồn gốc về lập giáo, điển lễ danh hiệu là điều lớn nhất, vương giả trọng về điển tôn xưng bề thân, cho nên, Đại nhã vịnh Tư trai, thích khen Kinh thất (27), mà Chương tụng vịnh Tuấn tiết, quy tốt cho Thương cơ (28), đều là nêu đức lành để danh lớn mà rõ thịnh ý đó.
https://thuviensach.vn
Kính nghĩ: Thánh Tổ mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng thái hậu bệ hạ, nghiêm tĩnh để ơn lành, bao rộng ra đức hóa, rõ rệt đức hay mà sửa giáo hóa trong khuê khổn, giúp cho Thế Tổ ta 18 năm dựng cơ đồ, nói tốt người trước mà để lại người sau, mở cho tiên đế ta 21 năm thái bình thịnh trị. Tuổi thọ vui vẻ, được nhiều phúc tốt, ơn trạch thấm khắp nước nhà, dài lũ đông đàn lâu đội ơn trời phúc lộc để cho con cháu. Phụng dưỡng tôn vinh đủ làm vu danh xưng cao quý lâu tỏ vẻ vang để được kế thừa người khác, nhận nghiệp lớn này, yêu con nối nhờ về phúc ấm, phong hậu, cho nên nối công chí xưa cần nghi đạo hiếu, điển tôn xưng phải nên long trọng cử hành. Nên dã kính cáo nhà tôn miếu, bưng sách vàng ấn vàng, kính dâng tôn hiệu là: Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng thái hậu.
Cúi xin chính lấy danh to chịu nhiều phúc lớn quả giữ đạo đức thường trinh lâu sáng tỏ chốn cung đình, lưu mãi tiếng hay, việc làm tốt đẹp phúc lành nên xã tắc dược lâu lợi lớn.
Ngày hôm sau ban ân chiếu cho trong ngoài.
Thái hoàng thái hậu thường thong dong bảo Hiến Tổ về việc tin dùng người cũ tuân theo phép trước, khéo nối chí, khéo léo theo việc mới gọi là hiếu, đáng làm trưởng, đáng làm vua mới là người trên. Lại cho bài luận về vua tôi, dậy bảo cặn kẽ.
Mùa hạ năm ấy truy tặng cha sinh ra Thái hoàng thái hậu là Hoa quốc công Trần Hưng Đạt làm Cần chính điện đại học sĩ thái sư, đổi phong là Thọ quốc công. Mẹ (sinh ra thái hoàng thái hậu) là họ Lê làm Thọ quốc nhất phẩm phu nhân.
Hiến Tổ thân đến hầu cơm, Thái hoàng thái hậu dụ rằng: Hoàng đế hầu cơm, đi bằng đầu gối, dâng đũa chính tay điều hòa nước canh, vui vẻ dâng chén, nhất nhất đều tuân theo chí của người trước, tình lễ thực là đầy đủ cả. Hiến Tổ giơ tay lên trán lạy tạ. Thái hoàng thái hậu thường đến chơi vườn Thường mậu, lên lầu Ký ân xa trông ruộng tịch điền, dụ Hiến Tổ rằng:
https://thuviensach.vn
Thánh Tổ yêu quý, chú ý đến hoàng đế, khác hẳn các con khác. Tổ mẫu già này biết rõ từ lâu. Năm trước Thánh tổ Nhân Hoàng đế dựng ra vườn này, vì sợ sự giàu sang dễ thành ra kiêu căng xa xỉ, không biết lo cho dân, thương nhà nông, cho nên dựng nhà phủ đệ cho hoàng đế ở trước ruộng tịch điền, khiến cho hoàng đế biết cấy gặt khó nhọc. Hoàng đế nên nghĩ kỹ về tiết kiệm, chớ xa xỉ về ăn uống, sửa sang cung nhà vườn7;c để làm vui, thực không phải là chí của người trước.(Năm ấy ra ơn cho làng Văn Xá họ Trần 2000 quan tiền, miễn thuế tô ruộng 5 năm).
Năm thứ 3 (1843 ) tiết Thánh thọ cho họ Trần 800 quan tiền.
Năm thứ 4 (1844) Thái hoàng thái hậu đến chơi vườn Cơ Hạ, Hiến Tổ quỳ đón ở cửa vườn, đi trước dẫn đường, cho võng Thái hoàng thái hậu chơi xem khắp cả. Nhân thể ngự coi ao Minh giám, các Quang biểu, xem làm sóng gợn, thả câu được nhiều cá tốt. Thái hoàng thái hậu dụ rằng, cá ở ao này không lo chài lưới, đầm ruộng cũng chẳng hơn thế. Xưa kia Chiêu liệt nhà Hán đối với Gia Cát Vũ hầu lấy cá nước tương đắc với nhau làm lời ví, thực là câu nói hay. Vả đạo nhân quân làm chính trị, cốt nên thân người hiền xa kẻ gian, răn xa xỉ, chuộng tiết kiệm, Hoàng đế nên nhớ kỹ đấy.
Năm thứ 5 (1845) gặp Dao cung (tức Thái hoàng thái hậu) được ngũ đại đồng đường. Tháng 11, ngày Kỷ Mùi, Hiến Tổ thân đem Hoàng tử, Hoàng tôn, Hoàng thân, Tôn nhân phủ và các quan ở trong ở ngoài bưng kim sách, dâng thêm huy hiệu là: Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Minh Thái hoàng thái hậu.
Hiến Tổ thân làm sách văn rằng: Thần nghe có đức thánh thiện, hưởng được nhiều phúc, trời thêm cho là mệnh tốt, thân được khang cường, con cháu gặp sự tốt, cả cháu tằng và cháu huyền, cùng trông thấy từ xưa đến giờ. Khắc vào ngọc chạm vào vàng, để xưng tụng tôn bề thân là đạt hiếu, chính ở ngày này vậy.
https://thuviensach.vn
Kính nghĩ: Thánh Tổ mẫu, Nhân Tuyên Từ Khánh Thái hoàng thái hậu bệ hạ, đức thánh tiết giữ lòng trong kính, bậc hiền minh mở bảo người sau; giúp cuộc trùng hưng nên thống nhất sơn hà, phong hóa bắt đầu gây mới, để lại phúc thừa cho 3 triều văn vật, dịch số diễn đến lâu đời. Ngày được khuyên răn, dạy kẻ tuổi trẻ nối noi công chí người trước; trời cho phúc lớn, mỏ cho nước nhà nhiều điềm tốt rõ ràng. Thư công Lạc tỏ ra điềm làm ngũ phúcỏ thần giáp (29) dâng chúc tuổi thọ muôn năm; gần tới 8 tuần tuổi thọ, vui vầy ngũ đại đồng đường; vâng theo 3 đức vô tư (30), vinh dưỡng bằng 9 châu 4 biển. Nghìn phương xưng tụng, tám cõi vui mừng.
Cử hành nghi lễ chúc mừng để tỏ ra thuận tốt, tham xét điển chương thời cổ, tôn xưng để rạng rỡ đức to. Kính cẩn bưng sách vàng tấn tôn là Thánh Tổ mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Minh Thái hoàng thái hậu.
Cúi nghĩ sáng ngang mặt trời, được chịu mệnh trời, thuận theo đạo trời sánh với đạo đất. Cao sáng lâu dài không cùng; rộng đầy bao hàm có mãi. Đức tốt đẹp truyền khắp nơi, bày tỏ lòng, vui của muôn nước, ngậm đường ngọt vui cùng cháu chắt, đều dâng bài tụng chín điều như, ban ân cho trong ngoài xa gần đều vui vẻ. Cho họ Trần 400 quan tiền và áo quần đều có thứ bậc khác nhau.
Năm thứ 6 (1846) tháng 8, Thái hoàng thái hậu bị ốm, tháng 9, ngày Canh Tý hậu mất, thọ 79 tuổi, để quan tài ở cung Từ thọ, tháng 11 ngày Tân Sửu, kính dâng tôn thụy là: Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dụ Hóa Cơ, Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao hoàng hậu.
Sách văn rằng: thần nghe có đức lớn ở thiên hạ, tất nhận danh lớn của thiên hạ. Cho nên điển rạng tôn danh xưng chép ở kinh, mà văn thuật lại đức tốt lưu ở sách.
Kính nghĩ: Hoàng tổ tỷ, đại hành Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Minh Thái hoàng thái hậu, bao rộng nêu nết tốt kính thuận nổi tiếng hay.
https://thuviensach.vn
Đức hợp đạo Khôn giúp thành công dựng lên nhà Hạ. Đàm trình ấn báu chịu mệnh trời sinh ra nhà Thương. Đức sáng để lại sau, lan đến cả xã tắc; phong hóa gây nền trước, làm phép cho nước nhà. Lòng dân vốn hay yêu rộng, mà đức thánh thiện đều đến khắp nơi, từ bi để hòa hợp khí,mà phần phúc thọ rất bề cao quý. Ba triều hợp phúc, ngũ đại đồng đường; ra ơn khắp cõi đất thấm xa, hậu phúc tựa bầu trời che phủ. Suy tìm phúc lành chứa chất ấy từ đâu mà có, cảm mộ biết bao giở cùng; ngửa trông nhân đức to lớn ấy, khó nổi hình dung, báo đáp làm sao cho xứng, bèn xét điển thưởng, đã hợp lòng chúng; mới xin mệnh lệnh ở các miếu, thân đem Tôn nhân phủ, các quan văn vũ, kính bưng sách vàng, ấn vàng dâng tôn thụy là Thuận Thiên Hưng Thánh Quan Dụ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao hoàng hậu.
Cúi xin chính rõ danh to, nêu lên đức tốt, cao sáng thăng lên phối hưởng sáng với trời đất dài lâu không cùng; khói hương ngào ngạt phụng thở, giúp cho con cháu kế thừa mãi mãi.
Ngày hôm sau, ban ân chiếu cho trong ngoài. Tháng 12 ngày Canh Thân, táng ở bên hữu lăng Thiên Thụ ( thuộc núi Thuận Sơn huyện Hương Trà, bên hữu núi ấy là núi Mỹ Sơn dựng diện Gia thành).
Năm thứ 7 (1847) miễn thuế điền 5 năm cho làng Văn Xá quê ngoại.
Thái hoàng thái hậu tính kiệm ước, hiền từ nhanh nhẹn. thiệp lịch kinh sử, chính mình hưởng sự phụng dưỡng của cả thiên hạ đến 30 năm, tuổi thọ gần đến 8 tuần, kịp thấy cháu huyền (tức là cháu 5 đời). Nguồn phúc nhiều lâu, thực là sự rất tốt dẹp, hơn cả từ xưa đến nay.
Năm Tự Đức năm thứ 1 (1848) tháng 11, ngày Canh Thìn, rước thần chủ lên hợp tế ở gian giữa nhà Thế miếu, hướng Tây, rước thánh vị để ở gian giữa điện Phụng Tiên, hướng Tây. Năm ấy ban ân cho họ Trần và quê ngoại 2000 quan tiền.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 4 (1853) cho thêm kho của Tiên Thọ 24000 quan tiền. Năm thứ 5 (1854) trở về sau, lại miễn thuế điền 15 năm.
Đền Thọ quốc công và đền Dụ khánh ở xã Văn Xá nay do Phó vệ úy là Trần Hưng Khanh coi giữ, điển lễ tuế thời tế tự tiền công để chi biện.
QUYỂN 2
TRUYỆN CỦA CÁC HOÀNG TỬ
Các con Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế
Tương Dương quận vương Hạo: Con cả Hưng Tổ, mẹ
là Từ phi họ Nguyễn, mới cho làm Cai cơ, gặp giặc hết sức đánh, chết ở trận (không chép năm nào). Năm Gia Long thứ 4 (1805) tặng hàm Thái phó, Quốc công, tên thụy Trung Nghĩa, được phụ tế ở nhà Thái miếu. Năm thứ 13 (1814) gia tặng là Trang công, thờ ở đền Triển Thân, Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), gia tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ tôn chính, đổi tên thụy là Cung Mục, phong là Tương Dương quận vương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) hợp thờ ở đền Thân huân, không có con thờ tự.
Hải Đông quận vương Đồng: Con thứ 2 Hưng Tổ, là anh cùng mẹ với Thế Tổ Cao Hoàng đế, mới bổ làm Đội trưởng thuyền Gia tam; Mùa xuân năm Ất Mùi (1775) theo Duệ Tông vào Gia Định, thường theo đi đánh giặc. Mùa thu năm Đinh Dậu (1777), giặc xâm phạm Long Xuyên, bị giặc giết chết. Năm Kỷ Dậu (1789), tặng là Đặc Tiến Phụ Quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ sĩ, Chưởng cơ, thụy Anh Ngăm Gia Long thứ 4 (1805) tặng là Dực Vân Minh Nghĩa tôn thần, Đặc Tiến Phụ Quốc thượng tướng quân,. Thái sư, Quốc công, đổi tên thụy là Trung Tiết, cho phụ tế ở nhà thái miếu. Năm thứ 13 (1814) gia tăng là Uy công, lại thờ ở đền Triển Thân. Năm
https://thuviensach.vn
Minh Mạng thứ 12 (1831) gia tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ hữu tôn chính, đổi tên thụy là Cung Ý, phong là Hải Đông quận vương.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) dựng đền thờ ở ấp An Tân, (thuộc huyện Hương Thủy) hợp thờ với Thông Hóa quận vương Điển, Thận An công Hy. Năm Tự Đức thứ 3(1850) đổi làm đền Thân Huân. Không có con thừa tự.
Khuyết hoàng tử thứ tư:
An Biên quận vương Mân: Con thứ năm của Hưng Tổ, là con cùng mẹ với Tương Dương quận vương Hạo. Mùa xuân năm Ất Mùi theo Duệ Tông vào Gia Định, thường theo đi đánh dẹp, bổ chức Thiếu phó quận công. Năm Nhâm Dần (1782) giặc Tây Sơn vào cướp, ông cùng Chu Văn Tiếp chia các tướng ra từng bộ để đánh nhau với tướng của giặc là Đỗ Nhàn Trập ở Ngưu Chữ (Bến Nghé) cả đánh phá được, giặc chạy về Quy Nhơn, lấy lại được Sài Gòn. Mùa xuân năm Quý Mão (1783) giặc Tây Sơn vào cướp, ông giữ đồn Giốc Ngư, đồn bị hãm, ông chạy sang qua cầu phao, giặc chặt dứt cầu, ông rơi xuống nước chết. Năm Kỷ Dậu (1789) tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng doanh, thụy là Trung Dũng. Năm Gia Long thứ 4 (1805) gia tặng là Dực Vận Tuyên Lực tôn thần, Khai phủ phụ quốc nguyên soái, Thiếu phó, Quận công, thuỵ là Trung Liệt, cho phụ tế ở nhà Thái miếu. Năm thứ 13(1184) gia tặng là Tuyên Lực tôn thần, Khai phủ phụ quốc nguyên soái thái phó, Nghị công, thụy là Trung Hiến lại thờ ở đền Triển Thân. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) đổi phụ tế ở Thế miếu. Năm thứ 12, gia tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ tôn nhân lệnh, đổi tên thụy là Trung Hoài, phong là An Biên quận vương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) hợp thờ ở đền Thân Huân. Không có con thừa tự.
Thông Hóa quận vương Điển: Con thứ 6 của Hưng Tổ, là em cùng mẹ với Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Năm Ất Mùi, theo Duệ Tông vào Gia Định, thường đi theo đánh dẹp. Năm Quý Mão (1783) giặc Tây Sơn vào cướp, quân ta đánh không lợi, theo Thế Tổ đi ra đảo Phú Quốc, vừa đến đảo Điệp Thạch
https://thuviensach.vn
thì giặc đuổi kịp vây lấy, ông bị giặc bắt được, chửi giặc, bị giết chết. Năm Kỷ Dậu tặng là Cẩm y vệ chưởng vệ sự, Cai cơ, thụy là Tráng Tiết. Năm Gia Long thứ 4, tặng là Dực Vận Tĩnh Nạn tôn thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Thái bảo quốc công, thụy là Trung Mẫn, cho phụ tế ở đền Triển Thân. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) đổi làm phụ tế ở Thế miếu. Năm thứ 12, gia tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ tôn nhân lệnh, đổi tên thụy là Trung Tráng, phong là Thông Hóa quận vương. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) hợp thờ ở đền Thân Huân. Không có con thừa tự.
Các con của Thế Tổ Cao Hoàng đế.
Anh Duệ Hoàng thái tử Cảnh: Con cả của Thế Tổ, mẹ là Hoàng hậu họ Tống, năm Canh Tý (1780) sinh ở Gia Định, gặp giặc Tây Sơn hăng mạnh, Thế Tổ không có chỗ ở yên. Mùa hạ năn Quý Mão bị thua ở đảo Điệp Thạch. Thế Tổ sắp sang Xiêm, mới sai người Phú lăng sa là Bá đa Lộc (Evêque d'Adran) đưa ông sang Tây. Năm ấy ông mớ
i 4 tuổi, đến lạy từ biệt, Vua cùng Hoàng hậu gạt nước mắt đưa chân. Năm Giáp Thìn mới sang Tây, sai Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm cùng đi. Mùa xuân năm Ất Tỵ đến Tiểu Tây, gặp khi trong nước Đại Tây có biến, đậu lại ở thành Phông-tia-thê-đơ, Đa Lộc cùng Văn Nhân bàn mưu làm thư cầu viện trợ ở But-tu-kê, vài tháng chưa được tin báo, người nước Hồng Mao nghe thấy, tranh xin hết sức giúp sức; bọn Bá Đa Lộc ghét về hung ngược giảo quyệt, khước từ đi. Mùa hạ năm Bính Ngọ, Trấn mục ở Tiểu Tây đem thuyền chiến đưa ông sang nước Đại Tây. Khi đã đến nơi, Quốc trưởng đãi lấy lễ Quốc vương. Ở mãi lâu ngày tuyệt không có ý giúp, bèn mưu quay về. Mùa thu năm ấy nước Bút-tu-kê sai tướng là An Tôn Lỗi mang quốc thư và phẩm vật đến dâng ở hành tại Vọng Các, xin vua vào ở nước ấy, tự nói là đã có 56 chiếc thuyền chiến đậu ở thành Cô-á để đợi đến giúp. Khi ấy vua ở nước Xiêm, người nước Xiêm cũng không có ý giúp. Kịp nghe tin báo của nước Bút-tu-kê đến, vua có lòng ghét bèn dụ cho An Tôn Lỗi về ngay và mật báo tướng sĩ định kế trở về.
https://thuviensach.vn
Mùa thu năm Đinh Mùi (1787) vua trở về Gia Định, nhớ ông lắm, bèn sai Hộ bộ là Trần Phúc Giai, quản Tiểu sai đội là Tống Phúc Ngọc đi đón ông về. Mùa hạ năm Kỷ Dậu (1789) ông từ Đại Tây về, vua yên ủi ông rằng: Con ta đi góc biển chân trời đã 6 năm nay, ngày nay được hội họp là sự may trời giúp cho. Các quan xin dựng làm Thái tử, vua lấy cớ là tuổi còn nhỏ chưa cho. Mùa xuân năm Quý Sửu (1792) ông 14 tuổi, các quan lại cố xin vua mới nghe theo. Sách lập làm Đông cung, phong là Nguyên súy quận công, ban cho ấn có chữ " Đông cung chi ấn". Dựng phủ Nguyên súy, đặt liêu thuộc, lấy văn vũ đại thần (1ễ bộ 1 viên, phó tướng 1 viên) giúp làm việc phủ, việc nhỏ do các đại thần phân xử, việc lớn bẩm súy phủ quyết định, để lập chính thể. Lại dựng nhà Thái học, đặt chức Phụ đạo, Đốc học, Hàn lâm thị học, sớm hôm họp ở nhà Thái học, giảng đọc kinh sử. Đông cung nói câu gì, làm việc gì, thị học chép cả. Hàn lâm viện chế cáo là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định sung chức thị giảng.
Mùa hạ năm ấy, vua thân đi đánh ở Quy Nhơn, để ông trở lại trấn thành Gia Định. Mùa đông năm ấy, ông ra trấn Diên Khánh. Vua dụ rằng: Từ xưa các đế vương, không ai là không học, thế cho nên Thái Giáp học mà làm cháu hiền vua Thang, Thành vương học mà làm vua hiền nhà Chu. Ngươi vào lúc việc binh thư rỗi, nên tuân theo lời sư phó, siêng giảng kinh sách, học để nối sáng, ngày không chơi rỗi, thì khi có việc binh nhung đã có thể biết sai tướng điều binh; trong lúc thái bình, cũng biết tề nhà trị nước. Đến như người bên tả bên hữu, nên chọn người ngay thẳng, không thể ở liền với người không đứng đắn. Ngươi phải cố gắng đấy. Ông lạy xin vâng mệnh. Khi đã đến Diên Khánh trăm họ hưởng ứng một cõi đứng yên.
Năm Giáp Dần, giặc Tây Sơn là Nguyễn Quang Toản sai tướng là Trần Quang Diệu đem thủy binh vào cửa biển Nha Trang, Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh đến Bình Khang, hợp quân lại tiến sát đến thành Diên Khánh, bổ vây ba mặt, ông gọi Vũ Văn Lượng vào thành chống giữ, sai Mạc Văn Tô đóng đồn ở Tam Độc, Nguyễn Văn Nhân đóng đồn ở Long Cương, Nguyễn Long đóng đồn ở Thượng đạo, để ngăn quân giặc và thông đường
https://thuviensach.vn
tiếp viện của ta. Vua nghe tin đến cứu viện, giặc sợ hãi bị tan vỡ. Vua thân đốc quân đuổi theo đánh. Ông đốc xuất bộ binh các đạo theo đường thượng đạo đánh úp phá ba đồn Hà Nha, Thị Dã, Chủ Sơn, bắt được hơn 2000 quân giặc, giặc tan vỡ chạy ra, ông vâng mật dụ kéo quân về đồn Tân Thị. Vua thấy ông khó nhọc mãi ở ngoài sai Võ Tánh thay giữ thành Diên Khánh, ra lệnh cho ông đem quân thuộc bộ của ông coi về Gia Định trước.
Mùa đông năm ấy, giặc lại tiến đánh thành Diên Khánh. Mùa xuân năm Ất Mão vua thân đem thuyền quân đến cứu viện, ông ở lại trấn Gia Định, trong thì vỗ yên trăm họ, ngoài thì vận tải quân nhu, về phương pháp phòng ngự, có đủ điều kiện, làm cho quân dân đều yên cả. Lại hay giải quyết kiện tụng, cấm chỉ gian tà. Các đội Tiểu sai, Tiểu hậu, phần nhiều hay xuống các làng lừa dối kiợi, ông xét bắt tên can phạm tâu xin giết di. Ai nghe thấy cũng khen và thỏa lòng.
Năm Đinh Tỵ (1797) ông theo vua đi đánh Quy Nhơn, lại theo đi đánh Quảng Nam, khi đã kéo quân về, xin làm liệt truyện các bề tôi có lòng trung rõ rệt để khuyến khích lòng người. Vua cho y.
Ông thiên tư thông sáng, học qua các kinh sử, thích nghe lời nói thẳng, phụ đạo là Ngô Tòng Chu cũng làm hết chức trách người sư phó, tùy việc sửa chữa phần nhiều có ích. Một hôm giảng thiên Nhạc ký, Tòng Chu nói rằng: Người đời xưa làm nhạc cùng trời đất cùng khí hòa .Ông nói rằng: Người đời xưa làm nhạc như thế để cảm động đến trời đất, quỷ thần. Nay cúng tế ở miếu theo tục dùng bọn nữ nhạc, chèo hát, là rất vô vị. Giảng bàn đến đêm khuya, vẫn không biết mỏi. Tòng Chu nói rằng: Súy phủ tay không rời quyển sách rất là có ích. Ông nói rằng: Hán Cao Tổ, Tống Nghệ Tổ (tức Thái Tổ) đều là vua giỏi dựng nên cơ nghiệp. Hán Cao Tổ thì nói: Ta vì ngồi trên cật ngựa mà được thiên hạ, dùng thi thư làm gì mà Tống Tổ thì tuy ở trong quân chưa từng bỏ quyển sách, chỉ một việc ấy đủ biết hai vua kia đã cách nhau xa lắm. Tòng Chu nói rằng: Súy phủ nghĩ thế là phải đấy. Lúc mới trung hưng, lính trốn có luật cấm nặng, bắt vợ con lính trốn giam
https://thuviensach.vn
lẫn lộn ở trại giam quân, ông ra trông thấy thế, tâu rằng: Con trai con gái có phân biệt, là phép đời cổ. Người đàn bà giam giữ ở chỗ kín một đêm, suốt đời khó nói cho minh bạch được. Nay cho làm sở giam riêng biệt. Vua cho là nói phải.
Mùa đông năm ấy, ông thay Nguyễn Văn Thành trấn thủ Diên Khánh, Bá Đa Lộc, Tống Viết Phúc đều lệ thuộc theo cùng. Viết Phúc từng lấy lời nói đè lấn Bá Đa Lộc, vua nghe thấy, dụ ông rằng: nhân hậu tất nên quả quyết, mới nên việc ngươi trấn giữ Diên Khánh, việc ở ngoài cửa kinh thành trở ra đều phải trông coi cả; từ phó tướng trỏ xuống, ai không theo lệnh thì chém đầu để nghiêm tướng lệnh. Viết Phúc sợ không dám nói nữa. Lâu lâu ông muốn về thăm sức khỏe Hậu. Hậu đưa thư nghiêm trách ông mới thôi.
Năm Kỷ Mùi (1799) theo vua đi đánh Quy Nhơn, lấy được thành, đổi tên là thành Bình Định, để Võ Tánh ở lại. Tháng 9 kéo quân về.
Năm Canh Thân giặc vây thành Bình Định, vua đưa đại binh đến cứu viện, để ông ở lại trấn thành Gia Định. Gặp khi tỉnh Hà Tiên đói, Cai cơ là Mạc Tử Thiêm sai dân mua thóc ở Kiên Giang, Long Xuyên, quan ở đấy không
cho mua, Tử Thiêm xin triều đình, ông nói rằng: buôn thóc đưa ra biển, tuy có điều cấm, nhưng dân Hà Tiên cũng là con đỏ của triều đình, há nỡ ngồi mà coi dân lặn xuống ngòi lạch chết ư ? Đem việc ấy tâu lên, được y theo lời xin, dân sống được rất nhiều. Đương khi ấy có việc gọi quân ra trận, hiện binh số ít, ông sai các doanh mộ lính, mỗi doanh lập một chi trấn thành hùng trấn để đủ coi giữ. Ở Vĩnh Trấn nhiều lính trốn, dân chưa đến 18 tuổi cũng sung vào ngũ. Ông nghe thấy thế bắt phải thôi đi, dân tình mới yên.
Năm Tân Dậu (1801) mùa xuân, ông bị bệnh đậu chết , tuổi 22. Vua nghe được tin, đau thương lắm, sai Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Tử Châu cùng bộ lễ sửa việc tang.
https://thuviensach.vn
Sắc cho thành Gia Định đình việc tế tự lớn nhỏ cho đến ngày an táng mới thôi. Bình Khang, Bình Thuận thì đình 13 ngày. Về việc giá thú thì thành Gia Định đình 60 ngày, Bình Khang, Bình Thuận đình 30 ngày. Táng ở Bình Dương. Năm Gia Long thư 3 thờ ở Tả vu nhà Thái miếu, truy đặt tên thụy là Anh Duệ hoàng thái tử, lập nhà thờ đại mộ ở xã Vĩ Dã. Năm thứ 8, đưa về táng ở xã Dương Xuân. Lúc ông tuổi nhỏ gặp khi vận nước gian truân, lặn lội sóng gió, nương thân ở cõi xa, đi về 6 năm. Chính vị Đông cung vừa được tám năm, khi ở thì coi việc nước, khi đi xa thì coi việc quân, uy đức rõ rệt ở trong ngoài, tới khi chết, xa gần nghe thấy đều đau khóc.
Vợ là Tống Thị Quyên có hai trai là Mỹ Đường (1ại tên là Đán) và Mỹ Thùy (1ại tên là Cảnh) (31). Năm Gia Long thứ phong Mỹ Đường làm Ứng Hòa công, Mỹ Thùy làm Thái Bình công, tước trật lương bổng hàng năm và thưởng cho cũng như Hoàng tử công.
Trước đây vua ở ngôi, tuổi đã cao, các quan xin dựng ngôi Trừ nhị (người dự bị để nối ngôi vua), hoặc có người xin lập hoàng tôn Đán, vua không nghe. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) Mỹ Đường bị người mật tố cáo là tư dâm với mẹ là người họ Tống. Tống thị phải tội dìm xuống nước cho chết; Mỹ Đường phải dâng nộp ấn và dây thao, giáng xuống làm thứ dân; con trai con gái biên phụ vào sau sổ họ Tôn thất. Năm thứ 7, Mỹ Thùy bị quân lính ở Dực Chấn kiện, sắp giao xuống cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh chết, không có con, bèn lấy con cả của thứ dân (Mỹ Đường) là Lệ Chung tập phong là Ứng hòa hầu, phụng thờ Anh Duệ Hoàng thái tử năm thứ 8, đổi phong làm Thái Bình hầu.
Năm thứ 14, mùa xuân, chánh, phó Tổng tài ở sở Ngọc diệp là bọn Phan Huy Thực, Tôn Thất Bằng tâu nói: Con cả của Anh Duệ Hoàng thái tử là Mỹ Đường, trước vì bị tội, con trai con gái biên phụ vào sổ họ Tôn thất,
thiết nghĩ tội của Mỹ Đường là chỉ mình làm hại thân mình, so với nghịch Hợp nghịch Huệ có khác, huống chi, con là Lệ Chung hiện được tập tước để coi việc thờ tự về dòng Anh Duệ Hoàng thái tử, xin liệt vào tôn phả là
https://thuviensach.vn
thế thứ về phòng Anh Duệ Hoàng thái tử còn biên phụ thì bỏ đi. Đến như danh tự của Mỹ Đường, xin ở dưới những chữ "Anh Duệ Hoàng thái tử tử nhị" trong phả Hoàng thái tử đã chép, chưa rõ tội danh để còn án tích. Châu phê là phải.
Năm thứ 17, mùa đông, Phủ tôn nhân lại hội đồng với bộ Lễ tâu nói: thứ nhân là Mỹ Đường tội ác nặng lắm, con trai, con gái há nên còn để ở tôn phả; duy Lệ Chung đã được tập phong để giữ việc thờ tự về dòng họ Anh
Duệ, xin cho miễn nghị. Còn con trai Lệ Chung là Lệ Ngân, con gái là Thị Văn, Thị Dao đều giáng làm thứ dân, tước bỏ tên ở sổ họ Tôn thất. Vua theo lời tâu. Năm thứ 20 (1839) đổi phong làm Cảm Hóa hầu, sau sai giữ việc thờ tự Anh Duệ Hoàng thái tử.
Năm Tự Đức thứ 1 (1848) Đông các đại học sĩ là Vũ Xuân Cẩn dâng sớ xin ban ơn cho con cháu Anh Duệ Thái tử nói: Thần nghe, đế vương làm chính trị, tất gốc ở thân người thân, mà ơn hậu đãi xếp đặt thứ tự trong họ hàng càng muốn cho ngấm khắp cả. Cho nên hoa và đài hoa cây dương lệ, Kinh Thi khen là đều sáng cùng nhau, cội gốc dây sắn bìm, sách truyện khen đều nhờ bóng, đấy đều là lẽ bởi tình người nên thế, hậu đãi với người nên hậu.
Kính nghĩ: Thừa Thiên Tá Thánh, Hậu Đức Từ Nhân, Gián Cung Tề Hiếu, Dực Chính Thuận Nguyên Cao hoàng hậu, giúp Thế Tổ Cao Hoàng đế ta vượt biển trèo non trải bao gian hiểm, sinh ra Anh Duệ thái tử , tuổi mới lên bốn đã vâng lệnh sang Tây, chân trời góc biển, đi mãi sáu năm, tới ngày trở về, tấn phong là Nguyên Súy, chính vị Đông cung, giữ Gia Định, trấn Diên Khánh, lấy lại Bình Thuận, Phú Yên, theo đi thì coi việc quân, ở nhà thì coi việc nước. Ba quân vâng theo hiệu lệnh, trăm họ được đội ân uy, công nghiệp đã rõ rệt, thanh danh đã truyền bá. Chẳng may lúc tuổi trẻ chết đi để lại hai con là Mỹ Đường, Mỹ Thùy, khoảng năm Gia Long đã được phong tước công, sùng mệnh lòng hậu. Năm Minh Mạng thứ 5, Mỹ Đường đã bị tội phải phế làm thứ nhân, năm thứ 7, Mỹ Thùy lại ốm chết, về dòng ấy chỉ còn một Lệ Chung là con Mỹ Đường mà thôi. Trông nhờ ơn Thánh Tổ
https://thuviensach.vn
Nhân Hoàng đế, nghĩ hậu đãi với người thân, đặc cách phong làm Cảm Hóa hầu, để giữ việc thờ Anh Duệ Thái tử. Thân kính thực lực, thấy đức của Thừa Thiên Cao Hoàng hậu thịnh lớn như thế, công của Anh Duệ Thái tử rực rỡ như thế, dù cho Mỹ Đường có tội cũng chỉ là tự bỏ mất luân thường của thân mình mà thôi. Bấy lâu phải truất bỏ đi, đối với phép luật đã cũ rồi, Lệ Chung đã được cải phong, để giữ việc thờ tự Anh Duệ Thái tử, tức là dòng dõi sau của Anh Duệ Thái tử. Mỹ Đường, Mỹ Thùy không được coi con là con, coi cháu (gọi bằng chú) là cháu nữa. n cách được như thế, hình như đã có sử trí
Kính xét Hoàng triều ta lệ định về tôn tước, con thân vương thì tập phong tước công, con thân công thì tập phong tước hầu. Thế thì dòng dõi thân vương có khác với dòng dõi thân công, huống chi là dòng dõi thái tử ư ? Tuy Lệ Chung hiện được bổng trật đã là hậu rồi, nhưng cũng chỉ cùng với Phúc Long hầu là Tôn Thất Vĩnh như nhau thôi; nói về cấp bậc thân người thân, sợ còn chưa đủ để tỏ ra phân biệt. Về Lệ Chung xin gia ơn đặc cách tấn lên đồng phong (32), để cùng với dòng dõi phiên vương có khác. Đến như Mỹ Đường trước đó đã phế làm thứ nhân đến nay hơn 20 năm, lấy tình thân về phái nhà vua mà ngang hàng với dân thường trong sổ hộ, không giam cầm mà là cấm, cũng như tù phạm phải giam cầm, chắc rằng anh linh của Cao miếu ở trên trời cũng để lòng thương ngầm.
Nay thấy nhà vua lòng chí nhân rộng khắp tất cả thiên hạ được ngấm ơn, dẫu kẻ tù đồ muôn phần đáng chết đều có đường để lại sống, mà việc cho phụ tên vào tôn phả há không một điều bàn tới. Về Mỹ Đường xin nên đặc cách ra ơn cho lương lộc phân biệt, khiến cho có chỗ trông chở, được đủ nuôi sống lúc tuổi thừa, để trọn vẹn ý Thánh tổ Nhân hoàng đế thương nghĩ đến anh cả, và yên anh linh của Cao miếu ở trên trời, tức là một việc lớn nối chí theo việc của Hoàng thượng ta vậy. Cúi xin đợi chỉ, thần không dám xuất lược kêu xin.
https://thuviensach.vn
Kính phụng lời vua dụ rằng: Nay cứ tập tâu bày của Vũ Xuân Cẩn, trẫm đã mở duyệt kỹ, ở trong tập nói về ơn hậu đãi với người thân, về điển đền công của nước nhà, lời nói và tình ý khẩn thiết, lý nghĩa rõ ràng, thực nên tùy việc ra ơn để tỏ đạo hậu. Về khoảng xin gia phong cho Cảm Hóa hầu là Tôn thất Lệ Chung, chuẩn cho bộ Lễ ghi lấy, đợi sau khi hết tang, phúc tâu đợi chỉ, lượng cho tấn phong.
Năm thứ 2, Mỹ Đường ốm chết, Kinh thành có lệ khí, xuống c tìm cách để dẹp yên thiên tai. Đình thần là bọn Tạ Quang Cự 30 người tâu bày cho là trước kia Vũ Xuân Cẩn đã từng đệ tập tâu về dòng dõi Anh Duệ Hoàng thái tử, kính phụng lời dụ rõ ràng là về việc Cảm Hóa hầu Tôn thất Lệ Chung chuẩn cho bộ Lễ ghi lấy, đợi sau khi hết tang phúc tâu đợi chỉ, lượng cho tấn phong.
Kính nghĩ: đặc cách ra ơn, là hậu với người rất thân vậy. Bọn thần phụng xét Anh Duệ Hoàng thái tử là người rất thân của nước, và lại có công lớn, con là Mỹ Đường can về tội riêng, đến nỗi các con trai con gái đều phải tước bỏ họ tên ở tôn phả. Sau này năm Minh Mạng thứ 14 lại được liệt kê vào phả, đến năm thứ 17 lại tước bỏ tên di. Xét ra tội của Mỹ Đường thực tự làm nên tội, nay đã bị phế và đã chết rồi, đủ xứng đáng với tội, duy con trai con gái tên ấy đều là cháu của Anh Duệ Hoàng thái tử, cô đơn khổ sở, không chỗ nương tựa, tình đáng nên thương. Kính xét từ trước người trong tôn tịch bị gián hoặc có người can án truất bỏ tên ra; năm ngoái kính vâng lời dụ rõ ràng, là "Nhân viên họ Tôn thất, từ trước đến giờ gián hoặc có người thân can án phải tước tên trong sổ, giáng làm họ Nguyễn Thuận đổi theo họ mẹ, ghép vào dân xã là vì tình tội can phạm đều có nhẹ nặng khác nhau. Bấy lâu trừng trị thi hành cũng đủ xứng với tội. Nay chuẩn cho phủ Tôn nhân tra xét từ trước đến giờ có người nào giống như thế, thì đem tội trạng những tên ấy đã can khi trước, kê danh sách làm bản tâu lên, lượng gia ơn cho". Rõ ràng lời dụ ôn hòa, ban ơn rộng rãi, thực là hậu đạo thân người thân, trọng ở ra ơn, không nỡ lấy điều lỗi trong một lúc mà tuyệt hẳn bản thân người ấy; tội riêng của một người, mà lây đến mấy đời. Nhân viên
https://thuviensach.vn
chi xa mà bị lỗi còn được như thế huống chi người ở phái gần, chỉ vì cha bị phế truất mà trọn đời không lệ thuộc vào đâu. Tưởng Thánh thượng càng để lòng thương đến. Về dòng Anh Duệ Hoàng thái tử, trừ ra Lệ Chung sẽ được ơn phong thì không kể, còn con trai con gái của Mỹ Đường để lại bao người có nên lại được tuân theo ơn cách năm Minh Mạng thứ 14 lại được liệt vào tôn phả, và cấp tôn bổng hay không, do tự ơn của thánh thượng.
Kính vâng lời vua dụ rằng: Nay cứ tập tâu của bọn Tạ Quang Cự trình bày, trẫm hai ba lần xét duyệt. Trong tập nói về ơn hậu với người thân, điển lệ lục người có công của nhà nước, cũng là nêu lên phong hóa trung hậu, châm chước việc nên làm nên bỏ, có thấy được đều gì, tất trình bày ra, cũng có phần nên lượm lấy để thi hành. Nhưng phải nên chước lượng sửa chọn để đến chỗ làm được. Về khoản xin cho con trai con gái của Mỹ Đường về dòng Anh Duệ Hoàng thái tử , xin lại được liệt vào tôn phả, cấp cho lương bổng họ tôn thất, thì xét ra Anh Duệ Hoàng thái tử có công với nước nhà, đạo hậu thân với người thân, nghĩa phải nên làm trước. Đương lúc mới phát ra tội án của Mỹ Đường, kính vâng Hoàng Tổ Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ta quyết đoán lấy nghĩa lớn, có lòng về chí nhân, lời dụ ôn hòa rực rỡ, nêu rõ nghìn xưa. Kính nghĩ đại thánh nhân xử trí về chỗ nhân luân, cân nhắc trong khoảng tình pháp thực không ai chê trách được.
Trẫm nay thể theo ý của Hoàng Tổ, phép đã làm rồi thì ban cho ơn , Mỹ Đường đã từng bị phế từ lâu và chết rồi đã xứng với tội, còn về con trai con gái và cháu bao nhiêu người, gia ơn chuẩn cho tuân theo ân cách năm Minh Mạng thứ 14 đều cho lại liệt vào tôn phả, cấp cho lương bổng như người tôn thất. Năm ấy Lệ Chung được ân phong làm Cảm Hóa quận công.
Thuận An công tên là Hy: Con thứ hai của Thế Tổ, không rõ mẹ đẻ là ai. Ông mới đầu bổ làm Khâm sai cai đội. Mùa đông năm Mậu Ngọ, chưởng tiền quân là Tôn Thất Hội chết, vua ra lệnh chọn người làm chức súy. Các tướng đều xin cử ông. Vua dụ rằng: Hy còn trẻ, chưa tập việc quân, không bằng lòng cho. Mùa hạ năm Kỷ Mùi, vua thân đi đánh Quy Nhơn, để ông ở
https://thuviensach.vn
lại trấn thành Gia Định. Năm Canh Thân mùa hạ theo vua đi đánh giặc ở Quy Nhơn, thuyền vua đến cửa biển Cầu Huân, sai ông ở lại trấn Diên Khánh, rồi sai đem quân trong bộ thuộc tiến đóng đồn Hội Án, bỗng chốc lại gọi đến hành tại. Năm Tân Dậu mùa hạ ông mất ở trong quân, tuổi 20, tặng là Đặc tiến phụ quốc tướng quân, Thiếu úy, Quận công, thụy là Đôn Mẫn, không có con thừa tự. Ông là người tinh anh nghiêm nghị, mọi người đều sợ. Ông có một cái búa bằng đồng, khi ra đi sai người mang đi theo, người ta gọi là Phủ công (ông hay mang búa đi theo). Năm Gia Long thứ 3, cùng Anh Duệ Hoàng thái tử Cảnh hợp thờ ở tả vu nhà Thái miếu. Năm thứ 13, gia tặng Hoài công, thờ ở đền Triển Thân. Năm Minh Mạng thứ 13 gia tặng là Tôn nhân phủ tả tôn chính, phong là Thuận An công. Năm Thiệu Trị thứ 3 đổi thờ ở đền Thân Huân.
Hoàng tử tên là Tuấn: Con thứ ba của Thế Tổ, mẹ đẻ là Chiêu Dung họ Lầm, năm 12 tuổi thì chết.
Kiến An vương tên là Đài: Con thứ năm của Thể Tổ, là em cùng mẹ với Thánh Tổ. Ông học rộng hay thơ. Năm Gia Long thứ 16 phong là Kiến An công. Buổi đầu năm Minh Mạng, vua từng đến chơi nhà biết ông tiêu rộng, bổng lộc không đủ, cho 20 quan tiền, dụ rằng: Em phải nghĩ dấy, bổng lộc của người là mỡ béo của dân tất phải kính sẻn, để nối nghiệp nhà, chớ hoang phí để hại đức. Ta vì thiên hạ giữ của, há có thể thưởng dùng của công để làm ơn riêng được ư?
Năm Minh Mạng thứ 14, ông sai thuộc viên trong phủ là Lê Văn Quát đi Hà Nội mua ngựa, Quát đi tắt lên Cao Bằng, yêu sách của dân, tuần phủ Lạng Sơn là Hoàng Văn Quyền đem việc ấy tâu vua biết, Quát phải tội xử tử, ông phải phạt bổng một năm. Năm ấy, Lê Văn Khôi làm phản, ông lấy cớ người vợ lẽ là cháu gọi Khôi bằng cậu, xin truất làm tì. Vua bảo rằng: cháu gọi bằng cậu là bên ngoại, luật cũng không khép tội nay đã truất làm tì, chuẩn cho được đoàn tụ. Và về việc ấy em không can hệ gì, bất tất phải suy sợ quá làm gì nên cứ chiếu lệ thưởng chầu hầu. Ông cúi đầu tạ ơn.
https://thuviensach.vn
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) ông tuổi ngày càng cao lên, lúc ra mắt thường ở Nội đình, vua có ban thưởng, đều vâng lời chiếu, ưu đãi được miễn quỳ lạy chỉ làm lễ một vái. Năm thứ 3 quốc tang đã hết, khi có tiệc yến ở đại đình, đều miễn bưng chén dâng rượu chúc thọ, liệt vào ngồi trên để bồi hầu. Lại cấp cho một chiếc thuyền Trường bồng sam bản (33) để phòng khi theo hầu.
Năm thứ 4, ông lên tuổi thọ năm mươi, thưởng trước cho 2000 quan tiền, lại sai hoàng tử mang tờ dụ và các vật hạng ban cho để làm đồ dùng mừng thọ, ông được yêu quý, trọng vọng phần nhiều như thế.
Năm Tự Đức thứ 2 (1849) mùa thu, ông mất, thọ 55 tuổi. Hoàng thượng thương tiếc lắm, nghỉ coi chầu 5 ngày, truy tặng là Kiến An vương, tên thụy là Cung Thận; hậu cấp của công, sai quan sửa việc tang, ngày an táng sai quan đến tế một đàn.
Ông vốn tính trung hiếu, độ lượng rộng rãi, lấy lễ mà giao tiếp với sĩ phu, rộng xem sách vở, càng giỏi về thơ, có làm ra các tập Dưỡng mông, Bảo quang, được lưu hành ở đời. Con trai 40 người, con gái 41 người, con cả là Lương Kỳ, chết năm Minh Mạng thứ 9, tặng là Phụng n tướng quân, rồi đổi tặng là Phụng Quốc khanh. Con thứ là Lương Viên, năm Thiệu Trị thứ 3 phong là Phúc Trạch đình hầu; năm Tự Đức thứ 8 tập phong Kiến An quận công.
Diên Khánh vương tên là Tấn, lại có tên nữa là Thản, con thứ bảy của Thế Tổ, mẹ được tặng là Chiêu nghi, họ Nguyễn Hữu. Ông hình dáng khôi ngô, tính trời hiền hậu, năm Gia Long thứ 16, phong là Diên Khánh công, khi ấy
ông 19 tuổi, ưa thích hào phóng, buổi đầu năm Minh Mạng từng vì việc riêng, thiện tiện đánh roi viên Thị trung cai đội là Lê Văn Hương, Tôn Thất Dịch đem việc ấy tâu lên, vua đương ngự ở Tiện điện (34) các tước công đều ở đấy. Vua quay lại trông ông, rỏ nước mắt mà trách rằng: Lê Văn Hương kia cũng là phẩm quan của triều đình, có tội nên tâu lên, sao có thể tự tiện trách phạt bằng roi. Vả phép của Tiên đế lập ra là phép chung của
https://thuviensach.vn
thiên hạ, anh em ta há được mà dùng riêng ư? Em không thấy Tiên đế thiết tha quở trách Định Viễn công là Bính ư? Khi ấy Định Viễn công có lỗi nhỏ, anh vì Định Viễn công hai ba lần cầu xin miễn cho, Tiên đế còn không tha, sở dĩ phải làm thế là vì lo các Hoàng thân, các tước công sinh trưởng ở chỗ
giàu sang cậy được ân yêu, khinh thường phạm đến hiến pháp, cho nên không thể không nghiêm ngặt trách phạt để làm răn cho sau này. Nay anh lấy lòng Tiên đế làm lòng mình mà yêu em, em cũng nên lấy lòng anh làm lòng mình mà yêu anh, cùng nhau cẩn thận giữ phép đã thành để giữ tiếng tốt đến không cùng, chớ làm việc gì phi pháp thế nữa. Ông dập đầu cúi tạ.
Năm Minh Mạng thứ 13, ông lại lầm nghe người buôn xảo quyệt là Diệp Liên Phong kêu xin lấy thuyền nước Thanh, mạo đổi lại làm thuyền miễn thuế, để mưu toan khoan tha thuế. Việc phát ra, ông sợ hãi xin nhận tội. Vua cho là ông đã biết tự hối hận lắm, không giấu giếm chống chữa chút nào, đặc cách miễn cho. Ông từ đấy quyết tâm rèn luyện, đốc chí học hỏi, đức nghiệp ngày tiến, Thánh tổ càng yêu và yêu dấu hơn lên.
Năm Thiệu Trị thứ 2, vua đi tuần miền Bắc, ông đi theo, thưởng cho rất hậu. Ông ở trong thân thuộc là vai trên mà giữ việc càng kính cẩn trong khoảng 7 năm, theo hầu ở bên tả bên hữu, chăm chăm lòng kính cẩn. Đến tận khi Hiến Tổ ốm, ông thường hầu ở bên, sớm đêm không trễ biếng, Hiến Tổ càng thêm yêu lắm, dặn lại Hoàng thượng ngày nay, sau này nên hậu đãi ông, và phong cho mẹ ông làm Chiêu nghi, để báo đáp công khó nhọc. Vì yêu đương quyến luyến đặc biệt như thế, ông càng cảm khích mưu tính báo đền lại. Năm ấy về nghi lễ tang ma, ông xin trông coi việc ấy. Tới khi việc lớn làm xong, ông có công lao vào đ̑y.
Năm Tự Đức thứ I (1848), ông thọ 50 tuổi, vua đặc cách sai Gia Hưng công là Hồng Hưu, thị vệ đại thần là Lâm Duy Nghĩa đưa cho phẩm vật.
Năm thứ 3 xuống dụ thưởng cho một chiếc thuyền bồng, để phòng theo hầu. Lại sách phong mẹ ông làm Chiêu nghi, là làm thành chí của Tiên đế vậy.
https://thuviensach.vn
Ông phụng sự bà Chiêu nghi, đón trước ý muốn, vâng theo chỉ định ở trong gia đình, giữ cách phụng dưỡng về mũ áo và đồ ngon ngọt, người không ai chê được. Năm thứ 5, để tang bà Chiêu Nghi, thương xót hủy hoại thân hình đủ hết lễ nghi. Sau khi tế đàm vài tháng, thì bị ốm nặng, thường đối với người nói rằng: cả nhà chịu ơn hậu của nước chưa báo đền được một chút nào, một sớm chết đi, nuốt hận lâu mãi mà thôi, không một lời nào nói đến việc nhà cả. Năm thứ 7 (1854) là năm Giáp Dần, mùa hạ, ông mất thọ 56 tuổi. Trước đây, lúc ông bị ốm, vua đặc biệt cho thầy thuốc của vua ra xem mạch chữa bệnh, ban cấp thứ thuốc của vua dùng, sai trung sứ đến thăm hỏi,không ngày nào không. Kịp khi mất, vua nghe thấy thương khóc, nghỉ coi chầu 4 ngày, truy phong là Diên Khánh vương, cho tên thụy là Cung Chính.
Dụ rằng: từ đời xưa người quân tử có đức để làm rạng rỡ cho nước nhà, không ai là không, lúc sống có vinh danh, lúc chết có hiển hiện. Huống chi lấy người rất thân của nước, có tuổi có đức há nên không nêu lên rõ rệt để khuyến khích người thân? Nghĩ đến Diên Khánh vương giúp rập 4 triều, trung thực một mực, Hoàng khảo ta lúc còn ở ngôi, trong những người rất thân, riêng đối với công càng có kính lễ khác hẳn. Trẫm kính vâng lời dạy của Tiên đế, nghĩ hậu với người thân huân, duy ông tước và tuổi đã lớn mà vẫn mặc áo cao cừu giữ đạo chính (35), lần tường chạy trốn phong tước (36) lại càng khiêm cung, trẫm rất khen ngợi, ấn thao của tước hầu tước vương chưa có lần nào ban cho. Trời làm mất người kỳ lão có đức không để giúp cho ta. Nhớ đến người đức cũ, thực là đau thương. Sắp đến kỳ đưa đám ông, đã ra lệnh cho quan có chức trách hậu cấp tiền tuất, dẫu đến Đông Bình vương (37) đời Hán được cho xe loan lộ quân hổ, về ơn lễ cũng không hơn thế. Lại nghĩ, lễ có đổi tên, vua cho tên thụy, là đạo của đời xưa. Lấy ông là người có đức tốt có công nghiệp, có huân lao, có danh vọng, cùng với Kiến An vương đã chết, trước sau sáng tỏ, thực dáng khen. Phải nên ưu đãi, lấy điển lễ đặc biệt, cho lấy tước phong to lớn, khiến cho danh và đức của ông, để mãi không mất được. Vậy chuẩn cho truy phong Diên Khánh công làm Diên Khánh vương, cho tên thụy là Cung Chính. Kinh Thi nói
https://thuviensach.vn
rằng: "Thuần hòa người cung kính là nền của đức". Lễ Ký có nói rằng: "Ngay thẳng không gian tà là chất của lễ". Không phải là hiền vương của ta, thì ai đáng được các câu ấy. Hồn vương ở nơi chín suối có thiêng, nhận lấy danh hiệu vinh hiển này. Về cháu trưởng là Hội Kỳ đợi sau này là trưởng thành chuẩn cho do phủ Tôn nhân tâu xin tập phong tước hầu giữ việc phụng thờ vương, để tỏ ý trẫm tôn người có đức, trọng người hiền giống đức của người trước. Sai quan sửa việc tang ma, chuẩn cho hết thẩy đều làm theo như lễ đưa đám cố Kiến An vương ngày trước. Việc tế điện đắp mộ, nhà nước chiếu cấp tiền để làm; lại cấp thêm cho 4000 quan tiền. Vua lại làm bài thơ để viếng. Lại sai Ninh Thuận công là Miên Nghi thay mặt vua đến ban trà, rượu và sai quan đến tế một đàn. Lại sai những bài ơn dụ trước, sau và bài thơ của vua làm khắc vào bia. Lại sai quan sứ ở sứ quán xét hành trạng của vương, soạn văn bia ở trước mộ, để lưu mãi không cùng.
Vương có 20 người con trai, 28 người con gái, trưởng tử là Diên Vực, năm Thiệu Trị thứ 3 được ân phong là Mộ Trạch đình hầu, năm Tự Đức thứ 6 chết, trưởng tôn là Hội K
Điện Bàn công tên là Phổ: Con thứ tám của Thế Tổ, mẹ đẻ mất sớm không rõ sự tích. Năm Gia Long thứ 16, phong là Điện Bàn công. Năm Minh Mạng thứ 7, ông đặt càn quan chức, làm riêng ấn tín. Việc phát giác ra, ông đến cửa khuyết xin nhận tội. Vua ra lệnh phạt bổng thân công ba năm, triệt bỏ thuộc binh đi, không chuẩn cho theo ban chầu mừng. Và dụ rằng: Ngươi có tính ngu tối đến đỗi bị kẻ không ra người làm mê hoặc, nhiều việc làm càn, xuýt nữa mắc vào tội lớn. Nghĩ tới chuyện ấy, khiến người não lòng, tức giận không thôi. Sau này nếu cố sức mưu tính làm điều thiện, trẫm cũng lượng ra ơn cho. Nếu thói cũ, không chữa tất phải quyết đoán bằng nghĩa lớn. Nhất định không thể vì ngươi mà làm eo phép luật được Ngươi phải ngày đêm răn sợ xét mình, sớm hôm hối hận đổi lỗi. Còn phó trưởng sử thuộc phủ đệ ấy là Nguyễn Văn Bảo giao xuống bộ Hình trị tội.
https://thuviensach.vn
Ông từ đấy càng tự hối hận lắm, không dám làm bậy. Duy có tính muộn phiền nhiều thiên lệch, thằng nhỏ đầy tớ ông dã yêu thì tự ý đem cho không biết bao nhiêu của. Tuy nhà thường vẫn túng thiếu cũng không tiếc gì.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860) mùa thu, ông mất, thọ 62 tuổi. Vua nghỉ coi chầu ba.ngày, cho tên thụy là Cung Đốc; cho nhiều gấm đoạn và tiền, sai quan sửa việc tang. Ngày hôm an táng sai quan đến tế một đàn. Có 2 con trai là Tín Kiên và Tín Phác.
Thiệu Hóa- quận vương tên là Chân: Con thứ 9 của Thế Tổ, là em cùng mẹ với Thánh Tổ. Ông tính cẩn hậu, hiền hòa, khi đi đứng có lễ độ, Thế Tổ yêu ông lắm. Năm Gia Long thứ 16 (1807) ông 15 tuổi, phong là Thiệu Hóa công. Ông thích học, vui làm điều thiện, Thánh Tổ rất yêu, lấy nhà Thánh Tổ vẫn ở khi chưa làm vua đem cho. Ông lại dựng cơ nghiệp riêng ở An Ninh, để làm chỗ lúc rỗi đọc sách. Trong vườn có ao, trồng sen trắng, ngoài hiên trồng tre xanh, nhân gọi chỗ là thôn Bạch Liên, ườn gọi là vườn Thê Phượng.
Buổi đầu năm Minh Mạng, Hiến Tổ Chương Hoàng đế ra mở phủ, kém ông 4 tuổi, cùng ông học tập trong lúc tuổi trẻ, ông rất có lễ coi trọng Hiến Tổ. Về kiến thức hơn người như thế. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) là năm Giáp Thân ông mất mới 22 tuổi. Khi ông mới bị bệnh, Hoàng thái hậu lấy làm lo, một hôm đốt hương khấn trời rằng: "Bệnh ông có khỏi hay không, xin báo mộng cho biết". Đêm nằm mộng thấy một người già đến trước mặt tâu rằng: "Ông sẽ chết". Tới khi ông chết, vua rất thương tiếc, nghỉ coi chầu năm ngày, tặng Thiệu Hóa quận vương, tên thụy là Cung Lượng; hậu cấp của công sai quan sửa việc tang. Ngày an táng, vua lên lầu cửa Đông Nam trông theo khóc đưa.
Năm Thiệu Trị thứ 1 (1841), Hiến Tổ Chương Hoàng đế đến yết lăng, lúc trở về qua trang An Ninh, đến nhà thờ ở mộ của vương, cầm chén rượu rót xuống đất để tế. Ông có 2 con trai, con cả là Thiện Khuê, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) tập phong là Thiệu Hóa công, rồi vì hoang phí, của dùng
https://thuviensach.vn
trong nhà ngày một hao hụt đi. Rồi đem kim sách ngân sách cầm cố đi, việc phát giác ra, phải giáng làm Thiệu Hóa đình hầu. Sau biết hối hận đổi lỗi, năm Tự Đức thứ 13 (1860) chuẩn cho khai phục nguyên tước. Con thứ là Thiệu Chí, năm Minh Mạng thứ 20 (1839) ân phong làm Lại Trạc đình hầu.
Quảng Uy công tên là Quân: Con thứ mười của Thế Tổ, mẹ là Đức Phi họ Lê. Năm Gia Long thứ 16 phong là Quảng Uy công.
Ông lúc còn tuổi trẻ thích chơi đùa và sấc láo kiêu ngạo. Giáo đạo là Ngô Đình Giới dạy bảo đốc trách có phần nghiêm ngặt. Ông ghét lắm. Một hôm ông sai thằng nhỏ đầy tớ bắt con hà mô trói để ở sân, lấy roi đánh, bảo rằng: "Mày chớ khinh ta" (con hà mô tục gọi là con nhái, nhái với giái, tiếng miền Trung nói giới là giái, tiếng gần như nhau cho nên lấy thế làm trò đùa). Buổi đầu năm Minh Mạng, vua cho Tần Đ Nghĩa chuyên làm thầy giảng dạy, ban cho cái roi. Dụ rằng: em nhỏ tuổi của trẫm, sinh trưởng ở trong cung cấm, không dạy thì không nên người có đức được. Ngươi sớm khôn khéo dẫn bảo, có lỗi thì đánh, chớ để cho kiêu lười thành tính. Lại sai Hàn lâm trực giảng là Nguyễn Đăng Sĩ sung làm giảng quan ở phủ của ông.
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) là năm Kỷ Sửu mùa hạ, ông bị bệnh đậu chết, mất 21 tuổi. Vua nghỉ coi chầu ba ngày, cho tên thụy là Cung Trực. Sai Hoàng trưởng tử (tức là Hiến Tổ Chương Hoàng đế) đến cho rượu, chi phát gấm vóc vải lụa và tiền của công, sai quan sửa việc tang. Ngày an táng sai quan đến tế một đàn. Ông không có con thừa tự.
Thường Tín công tên là Cự. Con thứ 11 của Thế Tổ, là em cùng mẹ với Quảng Uy công tên là Quân. Năm Gia Long thứ 16 phong là Thường Tín công. Buổi đầu năm Minh Mạng, coi việc thờ tự Long Thành thái trưởng công chúa. Năm Tự Đức thứ 2, mùa hạ ông mất, thọ 40 tuổi, tên thụy là Ôn Tĩnh. Ông có 7 con trai, 11 con gái, con thứ ba là Thường Đổng, năm Tự Đức thứ 8 phong là Vĩnh n đình hầu; con thứ năm là Thưởng Lâu, năm ấy cho tước là Trợ Quốc khanh.
https://thuviensach.vn
An Khánh công tên là Quang: Con thứ 12 của Thế Tổ, mẹ là Mỹ nhân họ Trịnh. Năm Minh Mạng thứ 6 phong là An Khánh công.
Năm thứ 12 (1831) ông gặp tang mẹ, dâng sớ xin thợ và phu dịch vật liệu, đều đã gia ơn hậu cấp cho. Năm 13, tang mẹ đã an táng rồi, lại tâu xin gạch và chi trước cho tiền bổng năm Minh Mạng thứ 14. Vua dụ rằng: An Khánh công Quang trước nhân có việc tang riêng mượn cớ xin nài không những hai ba lần, trẫm lấy cớ là thân công, đặc cách cấp thưởng hậu cho và phái lính cùng voi đến giúp đỡ làm việc, lại gia ơn cho mượn trước lương bổng năm Minh Mạng thứ 13 để sửa việc tang. Nay lại không biết là đầy đủ, lại có lời xin nài, xem ra quả là mượn cớ để mong cầu lợi. Toàn nói hàm hồ, thực là nhảm nhí quá lắm. Tập tâu ấy vất trả lại, và truyền chỉ sức quở nghiêm ngặt rằng: Sau này nếu không yên bản phận, tự tâu cầu xin việc gì, tức thì giao cho phủ Tôn nhân.hội đồng với bộ Hình nghị tội nghiêm ngặt không tha. Từ đấy về sau, không dám xin việc nữa. Năm thứ 14, ba ngày tết tháng giêng, ông thay vua đi tế các miếu. Vì chậm trễ, làm lỡ việc, dâng sớ xin nhận lỗi, vua giao xuống cho Tôn nhân nghị tội, bị phạt bổng một năm.
Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mùa hạ, ông mất, tuổi 35, vua nghỉ coi chầu ba ngày, cho tên thụy là Trang Mẫn, cho nhiều gấm đoạn và tiền, ngày an táng sai quan đến tế một đàn; thờ ở đền Triển Thân, ông không có con thừa tự.
QUYỂN 3
TRUYỆN CÁC CÔNG CHÚA
Bốn con gái của Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng đế
Long Thành công chúa Ngọc Tú: Con gái lớn của Hưng Tổ, là chị cùng mẹ với Thế Tổ. Khi biến loạn năm Giáp Ngọ (1774) theo Hiếu Khang Hoàng hậu, ẩn náu làng An Du. Mùa xuân năm Kỷ Hợ
https://thuviensach.vn
i theo hậu vào cung Gia Định, gả cho Cai cơ là Lê Phúc Điến. Năm Quý Mão (1783) chiến dịch ở đảo Điệp Thạch, Điến bị giặc bắt được, chửi giặc rồi bị giết. Chép rõ ở truyện của Điến. Khi ấy chúa còn trẻ tuổi giữ tiết không đi lấ y chồng nữa. Chúa từng nói rằng: Điến làm ngề tôi biết chịu chết vì tiết nghĩa, ta là người há nên biến đổi tiết nghĩa, khi nào lấy lại được kinh thành cũ ta nên lập tức xuất gia để thờ Phật mà thôi. Vua khen về chí tiết liệt của chúa. Buổi đầu năm Gia Long, vua làm nhà lớn tại xã Dương Xuân để chúa ở. Chúa thường xin gọt tóc, vua không bằng lòng cho.
Năm Minh Mạng thứ 4 (1825) năm Quý Mùi, mùa đông chúa mất, thọ 65 tuổi. Trước đây chúa bệnh nặng, Thánh Tổ Nhân Hoàng đế đến thăm, chúa khóc nói rằng: Cắt tóc thờ Phật, đấy là ý muốn lúc bình sinh của vị vong nhân (38) này, có chí muốn mà chưa làm được, duy nhà vua làm cho trọn vẹn ý muốn ấy, sau khi chết rồi, chớ có để tóc, liệm bằng áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối, xong được ý muốn ấy rồi. Vua lấy làm cảm động. Khi chúa mất rồi, vua đem lời nói của chúa bảo Kiến An công là Đài. Kiến An công Đài tâu rằng: thân thể tóc da là của cha mẹ để cho, lúc mới sinh ra trọn vẹn, lúc chết vẫn giữ được trọn vẹn là lễ đấy. Nhà vua trị thiên hạ nên chuộng đạo chính, truất bỏ dị đoan, lời chúa xin thế không thể theo được. Vua cho là phải. Bèn sai ông (Đài) cùng Diên Khánh công là Tấn hội đồng với bộ Lễ sửa việc tang, cấp cho nhiều của công, nghỉ coi chầu năm ngày, sai quan đến tế một đàn, tặng là Long Thành thái trưởng công chúa, tên thụy là Trinh Tĩnh, phụ táng ở bên cạnh lăng Thụy Thánh (39). Ngày an táng, vua lại nghỉ coi chầu một ngày, mặc áo trắng đi đưa. Trước kia, năm Gia Long thứ 11 (1812), sửa làm lăng Thụy Thánh, vua dụ rằng: Trưởng công chúa thờ mẹ có hiếu, kính giữ đạo làm con trong lúc gian nan để tiếng thơm như ngọc uyển ngọc diễm, đặc biệt chuẩn cho dựng sinh phần ở bên lăng. Lại dự đặt nơi phụ hưởng ở một gian bên tả Tẩm điện (đền thờ ở lăng Thụy Thánh). Đến đây mất bèn phụ táng ở đấy. Năm thứ năm, phụ hưởng ở một bên tả hướng tây. Không có con thừa tự, lấy Thường Tín công Cự coi việc thờ tự.
https://thuviensach.vn
Phúc Lộc công chúa Ngọc Du: Con gái thứ hai của Hưng Tổ, mẹ đẻ là Từ phi họ Nguyễn. Mùa xuân, năm Kỷ Hợi, công chúa theo Hiếu Khang Hoàng hậu vào Gia Định, gả cho Võ Tánh, làm quan đến Chưởng hậu quân, có truyện chép riêng. Buổi đầu năm Gia Long, vua làm nhà ở xã Xuân Hòa để cho chúa ở. Năm Minh Mạng thứ 1 (1820) là năm Canh Thìn, mùa hạ, chúa mất, thọ 59 tuổi. Vua nghỉ coi chầu năm ngày, tặng là Nhu Gia thái trưởng công chúa, sai chi của công để sửa việc tang; lại cho thêm một ngàn quan tiền, một ngàn phương gạo. Ngày an táng, sai quan đến tế một đàn. Năm Minh Mạng thứ mười truy tặng là Phúc Lộc thái trưởng công chúa. Chúa có một con trai, hai con gái.
Minh Nghĩa công chúa Ngọc Tuyền: Con gái thứ ba của Hưng Tổ, là em gái cùng mẹ với Phúc Lộccông chúa Ngọc Du. Mùa xuân năm Kỷ Hợi, chúa theo Hiếu Khang Hoàng hậu vào Gia Định, gả cho Hữu cơ là Nguyễn Hữu Thụy. Mùa xuân năm Nhâm Dần cùng đem lính trong bộ thuộc tiến đóng ở Lộc Dã để chống giặc, tướng Bình nhung của giặc là Nguyễn Văn Kim nghe thấy, đem quân đánh úp, quân của Thụy đánh không lại, lui về Giang Lăng, thu quân lại đánh, bị thua, chúa cùng Thụy chạy tan vỡ, lạc mất nhau. Chúa bèn lén đến ngụ ở Ba Phủ, có người ở Bình Hóa là Nguyễn Hưng Hiên cấp lương khô cho chúa, dựng nhà tranh cho chúa ở. Kim do thám biết tin, bức bách chúa đưa về dồn; Đốc chiến của giặc là Tập lại bức bách chúa phải thiên đến Sài Gòn, khi thuyền đến sông Tam Đà, chúa giữ nghĩa không chịu nhục, nghiêm nét mặt chửi mắng giặc rồi nhảy xuống sông chết, tuổi mới mười chín. Năm Minh Mạng thứ mười chín, truy tặng là Minh Nghĩa thái trưởng công chúa, tên thụy là Trinh Liệt, thờ ở sau đền Triển Thân. Không có con thừa tự.
Công chúa Ngọc Uyển: Con gái thứ tư của Hưng Tổ, mẹ đẻ là họ Tống. Khi biến loạn năm Giáp Ngọ, chúa vì tuổi nhỏ, lẩn lút ở dân gian, gả cho người quý h(túc Tống Sơn) tỉnh Thanh Hóa là Tống Phúc Tín. Năm Gia Long thứ 9 mùa đông chúa mất, thọ 45 tuổi, có bốn con trai, một con gái.
https://thuviensach.vn
Các con gái của Thế Tổ:
(Cộng mười tám người, mười bảy người đã ghi lên truyện, còn một người chưa ghi)
Bình Thái công chúa Ngọc Châu: Con gái cả của Thế Tổ, mẹ là họ Phạm được tặng là Chiêu dung. Năm Gia Long thứ bảy, gả cho Vệ úy Nguyễn Văn Ngoạn là con Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương. Năm Minh Mạng thứ 14, Ng
oạn chết. Năm thứ 21 phong làm Bình Thái trưởng công chúa. Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), mùa thu, chúa mất, thọ 66 tuổi thụy là Đoan Tuệ, có một con gái.
Bình Hưng công chúa Ngọc Quỳnh: Con gái thứ hai của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với Hoàng tử thứ ba là Tuấn. Năm Gia Long thứ 7 (1808) gả cho Trưởng vệ Phạm Văn Tín là con Tiên Hưng quận công Phạm Văn Nhân. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), phong là Bình Hưng trưởng công chúa. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) Tín chết. Năm Tự Đức thứ hai, mùa hạ, chúa chết. thọ 62 tuổi, thụy là Uyển Thục, có hai con trai, một con gái.
Bảo Lộc công chúa Ngọc Anh: Con gái thứ ba của Tổ, là em gái cùng mẹ với Bình Hưng công chúa Ngọc Quỳnh. Năm Gia Long thứ 7, gả cho Vệ úy Trương Phúc Đặng là con Cai cơ Trương Phúc Tuấn. Năm Minh Mạng thứ 8, Đặng làm việc bắt giặc điều khiển trái lẽ, bị cách chức, giao nghị tội. Đặng sợ tội tự tử chết, khai phục nguyên hàm. Năm thứ 21 phong là Bảo Lộc trưởng công chúa. Mùa xuân năm Tự Đức thứ 3, chúa mất, thọ 61 tuổi, tên thụy là Trinh Hòa, có một con trai, ba con gái.
Công chúa Ngọc Trân: Con gái thứ tư của Thế Tổ, mẹ là họ Hoàng, được tặng là Chiêu dung. Năm Gia Long thứ 17, gả cho vệ úy Nguyễn Đức Long là con Thiếu bảo, Đô thống chế Nguyễn Đức Thịnh. Năm thứ 18, mùa hạ, chúa mất, thọ 30 tuổi, tên thụy là Tĩnh Chất, không có con thừa tự.
https://thuviensach.vn
Bảo Thuận công chúa Ngọc Xuyến: Con gái thứ năm của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với Bình Thái công chúa Ngọc Châu. Năm Gia Long thứ 17, gả cho Vệ úy Nguyễn Hoàng Toán là con Kiến Xương quận công Nguyễn Hoàng Đức. Năm ấy Toán chết; sau lại lấy Vệ úy Trương Văn Minh, Minh cũng chết trước. Năm Minh Mạng thứ 21, phong là Bảo Thuận trưởng công chúa. Năm Tự Đức thứ 4, chúa mất, thọ 60 tuổi, tên thụy là Trinh Tuệ, không có con thừa tự.
Công chúa Ngọc Ngoạn: Con gái thứ sáu của Thế Tổ, mẹ là thứ nhân họ Tống. Năm Gia Long thứ 17, gả cho Vệ úy Mai Đức Nho là con Vĩnh Lại hầu Mai Đức Nghị. Năm ấy Nho chết, năm Minh Mạng thứ 8, chúa mất, tuổi 33, tên thụy là Trang Khiết, không có con thừa tự.
An Thái công chúa Ngọc Nga: Con gái thứ bảy của Thế Tổ, mẹ là tài nhân họ Dương. Năm Gia Long thứ 17, gả cho Vệ úy Nguyễn Đức Thiện là conái Chân quận công Nguyễn Đức Xuyên. Năm ấy Thiện chết, không có con thừa tự. Sau lại lấy Lãnh binh Trấn Tây là Vũ Viết Tuấn (1à con cả Thị nội thống chế Vũ Viết Bảo). Năm Minh Mạng thứ 21, đem quân cứu viện đồn Sa Tôn, bị thương nặng rồi chết; tặng là Chưởng vệ. Năm Tự Đức thứ 7, phong là An Thái thái thái trưởng công chúa (40). Năm thứ 9, chúa mất, thọ 61 tuổi, tên thụy là Nhu Hòa. Có ba con trai, hai con gái.
Công chúa Ngọc Cửu: Con gái thứ tám của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với Định Viễn công Bính. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho Lê Hậu là con Lê Chất. Năm Minh Mạng thứ 11 Hậu chết, năm Thiệu Trị thứ 6, chúa mất, tuổi 45, tên thụy là Uyển Thục, có ba con trai, một con gái.
Nghĩa Hòa công chúa Ngọc Nguyệt: Con gái thứ chín của Thế Tổ, mẹ là họ Tống, được tặng là Chiêu dung. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho Phó vệ úy Nguyễn Đức Hỗ là con đích của Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên. Năm Thiệu Trị thú 6, chúa mất, thọ 44 tuổi, tặng là Nghĩa Hòa thái trưởng công chúa, tên thụy là Cung Khiết, có năm con trai, bốn con gái.
https://thuviensach.vn
An Nghĩa công chúa Ngọc Ngôn: Con gái thứ mười của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với Quảng Uy công tên là Quân. Năm Minh Mạng thứ 4, gả cho Lê Văn Yên là con cả Lê Văn Phong làm con thừa tự Lê Văn Duyệt. Năm
thứ 16 (1835) việc án của Duyệt phát ra, Yên bị tội phải xử tử. Năm Tự Đức thứ 7, phong là An Nghĩa thái thái trưởng công chúa. Năm thứ 9, chúa mất, thọ 53 tuổi, tên thụy là Trinh Lệ, có ba con trai.
Công chúa Ngọc Khuê: Con gái thứ 12 của Thế Tổ, là em gái cùng mẹ với công chúa Ngọc Ngôn. Năm Minh Mạng thứ 6, gả cho Vệ úy Nguyễn Văn Thiện là con thứ của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân. Năm Minh Mạng thứ 8, chúa mất, tuổi 21, tên thụy là Trinh Ý. Năm thứ 9, Thiện chết, có một con trai.
Định Hòa công chúa Ngọc Cơ: Con gái thứ 13 của Thế Tổ, mẹ là mỹ nhân họ Nguyễn Đình. Năm Minh Mạng thứ 10 gả cho Vệ úy Nguyễn Hoàng Thành là con thứ của Kiến Xương quận công Nguyễn Hoàng Đức. Năm thứ 13, Thành chết, chúa dựng am ở làng Dương Xuân để ở; năm Tự Đức thứ 9, chúa mất, thọ 49 tuổi, tặng là Định Hòa thái thái trưởng công chúa, tên thụy là Đoan Nhàn, có hai con trai.
Hoàng nữ Ngọc Thiều: Con gái thú 14 của Thế Tổ, mẹ là tài nhân họ Nguyễn Viết, một tuổi thì chết.
Hoàng nữ Ngọc Lý: Con gái thứ 15 của Thế Tổ, mẹ là Tài nhân họ Trần, năm Gia Long thứ 18, mùa xuân chúa mất, mới mười một tuổi.
Công chúa Ngọc Thành: Con gái thứ 16 của Thế Tổ, mẹ là Tài nhân họ Phan, năm Minh Mạng thứ 10 gả cho Vệ úy Hồ Văn Thập là con Phúc quốc công Hồ Văn Bôi, chưa cưới mùa đông năm ấy chúa mất, tuổi 18, tên thụy là Nhu Khiết.
Hoàng nữ Ngọc Bích: Con gái thứ 17 của Thế Tổ, mẹ là mỹ nhân họ Trần. Mùa hạ năm Gia Long thứ 13, hoàng nữ chết, mới lên tám tuổi.
https://thuviensach.vn
Hoảng nữ Ngọc Trinh>Con gái thứ 18 của Thế Tổ, mẹ là tài nhân họ Đặng. Mùa xuân năm Gia Long thú 14, hoàng nữ mất, lên bảy tuổi.
QUYỂN 4
TRUYỆN CÁC QUAN. MỤC I
(Tôn Thất)
Tôn Thất Huy là con thứ hai của Ý công Thất Dục. Huy có thao lược làm tướng, khéo dụng binh, khi trước theo Thế Tổ vào Gia Định, đem quân đánh giặc, thường lập chiến công, làm quan đến Chưởng tả quân doanh, Thiếu phó, Quận công. Năm Giáp Thìn theo Thế tổ sang nước Xiêm
cầu viện trợ, khi trở về đánh nhau với giặc không lại, quan quân tan chạy linh tinh cả, Hu y cùng bọn Tôn Thất Hội đều dẫn tàn binh 50, 60 người, theo vua đến Hà Tiên, đường sá gian khổ, đ ến nỗi có khi 3 ngày không có cơm ăn. Bèn đi chiếc thuyền đánh cá ra đảo ngoài biển, lại theo vua sang Xiêm. Mùa thu năm Đinh Mùi, vua từ nước Xiêm về , tiến đóng ở Mỹ Lung, Huy cùng với Chưởng tiền quân là Lê Văn Quân đến Ba Thắc, Trôm Phụ, chiêu tập hương binh, tiến đóng ở Tinh Phụ, giặc là Thái bảo Phạm Văn Tham, Thái úy Nguyễn Văn Hưng họp quân lại vây, vừa gặp quân cứu viện đến, bọn Tham bỏ không vây nữa kéo quân đi. Huy về đóng quân lũy ở Ba Lầy, bọn Tham lại đến vây, đánh mãi không lấy được lũy, cầm cự nhau đẫy tháng, Hội và Hưng về Quy Nhơn, Tham cũng lui về Sài Gòn, vòng vây giải tán.
Thuyền vua chiếm đóng ở Mai Giang xứ Trà Luật, Huy cùng quân chia nhau đóng đồn ở nơi yếu hại để chống giặc.
Năm Mậu Thân, vua đóng Hồi Oa, Huy cùng quân đóng giữ các đồn Trinh Phụ, Triệu Phụ, thường gặp giặc mạnh, chưa từng bị thua lần nào. Mùa hạ
https://thuviensach.vn
năm ấy, vua đến đóng ở Hát Tiên. Huy lại cùng quân đánh thành Trấn Định, lấy được thành, bắt được chưởng cơ của giặc là Diệu (thiếu họ) tiến quân đánh đất Vọng Thê (có tên nữa là Thác Lung) bắt sống được đô đốc của giặc là Nguyễn Văn Mân, kịp khi tiến lấy thành Gia Định, Huy trông coi các việc tướng sĩ quân dân ở Trấn Định.
Năm Canh Tuất, mùa xuân, Hội đắp thành đất ở Gia Định, mùa hạ năm Tý, giặc vây Lê Văn Quân ở Phan Lý, vua ngự đi Cần Giờ điều khiển quân đến cứu viện. Triệu Huy từ Trấn Định về, cùng Tôn Thất Hội, Tống Phúc Đạm, ở lại giữ Gia Định.
Năm Nhâm Tý, mùa hạ, vua đi đánh Quy Nhơn, Huy cùng bọn Võ Tánh giữ thành Gia Định. Mùa đông năm ấy, Huy bệnh chết, tặng là Dịch vận tá mệnh tôn thần, Đặc tiến thượng trụ quốc, Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự, Thái phó, Quận công, thụy Trung Tĩnh. Năm Gia Long thứ 4, cho phụ tế ở nhà Thái miếu, lại thờ riêng ở đền Triển Thân. Năm thứ 9, liệt vào thờ ở miếu Trung hưng công thần. Năm Minh Mạng thứ 5, đổi phụ tế ở Thế miếu. Năm thứ 12, tặng là Tá vận tôn thần, Tôn nhân phủ tả tôn chính, phủ sự, đổi tên là Tĩnh Hiến, phong là An Tây công, không có con thừa tự.
Tôn Thất Hội là con thứ ba của Cai đội Tôn Thất Thắng. Khi trước theo Thế tổ vào Gia Định, từng đi đánh dẹp, làm quan đến Chưởng Hậu quân, Khâm sai đốc chiến trưởng cơ. Năm Quý Mão (1783) trận đánh ở Đồng Tuyên không có lợi, vua ngự đến đảo Thổ Châu, Hội thuướng sĩ giữ đồn Trinh Phụ, quân giặc bao vây, vừa gặp quân cứu viện, Hội phá vòng vây
chạy ra, chạy đến Tân Hòa, hợp với quân của Lê Văn Quân. Năm Giáp Thìn theo hầu vua sang Xiêm, kịp khi đem quân Xiêm về đánh không lại, lại theo sang Xiêm.
Năm Đ
inh Mùi (1787) mùa thu, vua từ nước Xiêm kéo quân về đánh ở Mỹ Lung. Hội tiến đóng ở đồn Triệu Phụ, giặc không dám phạm. Mùa thu năm Mậu
https://thuviensach.vn
Thân, đại binh đến đóng ở Tam Phụ. Hội cùng Võ Tánh đánh giặc ở Ngũ Kiểu, lấy đèn lồng sắt đốt rào của giặc, giặc sợ tan vỡ cả. Bắt sống được không biết đâu mà kể. Bèn nhân thế được, tiến sát đến Sài Gòn, đánh phá được Thái bảo của giặc là Phạm Văn Tham chạy đến, giữ Ba Thắc. Mùa
xuân năm Kỷ Dậu (1789) Hội điều khiển quân các đạo cùng bọn Võ Tánh đánh giặc ở Hổ Châu, Tham sức kém bèn đầu hàng. Lại cùng Nguyễn Văn Trương đánh dẹp bọn lũ còn lại của người Man Ốc Nha Ốc. Tân Hợi, bổ làm Chưởng tiền quân doanh. Năm Quý Sửu (1793) thăng Khâm sai Bình Tây đại tướng quân, tước quận công. Mùa hạ năm ấy, vua đi theo đường thủy đến đánh Quy Nhơn. Hội đem quân bộ các đạo tiến đánh phá được đô đốc của giặc là Hồ Văn Tự ở Phan Lý, Tự theo miền trên xứ Sâm Lô trốn đi, lấy lại được Bình Thuận. Đại binh vào cửa biển Thi Nại, Hội từ Hà Nha, Cù Mông chia làm hai đường đến đánh úp tên Bảo là con ngụy Nhạc ở Thổ Sơn, Bảo thua chạy về thành Quy Nhơn. Hội cùng đạo binh họp lại bao vây, giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp thành Diên Khánh, để Hội ở lại giữ Phú Yên phòng giặc. Rồi sau triệu về, sai Đông cung Cảnh ở lại trấn giữ.
Năm Giáp Dần, tướng của giặc là bọn Trần Quang Diệu họp quân vây Diên khánh. Thế Tổ đem các tướng đến cứu viện, sai Hội điều khiển binh lính doanh tiền thủy. Khi đến vùng La Nhung, giặc nghe đại binh đến giải vây chạy. Bèn cho Hội làm tiên phong, tiến đánh cửa biển Thi Nại, liền lấy được đồn Tiều Cơ, Mai Hương của giặc, lấy được khí giới rất nhiều, rồi kéo quân về. Mùa đông năm ấy, Võ Tánhay trấn Diên Khánh, giặc lại bao vây, Hội đóng quân ở Bà Rịa, để phòng tiến đánh.
Năm Ất Mão, Thế Tổ thân đốc quân thuyền đến cứu viện. Hội điều khiển quân bộ các đạo tiến đến Phố Hời, đóng đồn ở Xuy Miệt. Mùa hạ năm ấy, đánh phá tư lộ của giặc là Lê Trung ở Lũy Giang, giết quân và voi của giặc rất nhiều. Trung lui giữ Hạc Giang, Hội xin thêm quân để nhân lúc sơ hở đánh úp.
https://thuviensach.vn
Thế Tổ dụ rằng: Ngươi xin thêm quân là ra mưu để đánh lấy được, nhưng chỉ đánh phá được Diệu, thì Trung tự tan vỡ, không cần phải thêm quân. Bấy giờ quân thủy quân bộ đánh giáp lại, Diệu thế ngày càng quẫn bách, mật báo cho Trung mưu trốn đi. Hội tiến đóng đồn ở Lương Giang. Giặc liền ngày cố đánh đều bị Hội đánh cho bị thua, bèn đêm trốn đi. Hội đốc quân tiến đến Du Lâm, lại đánh cho giặc phải thua. Trung chạy đến Diên Khánh hợp với Diệu, Hội tiến giữ Lạp Quán, bọn Diệu bỏ vây chạy đến Quy Nhơn. Rồi sau kéo quân về, Hội ở lại trấn Diên Khánh. Chọn dân ở Bình Khang, Diên Khánh làm lính, đặt ra 36 đội. Năm Bính Thìn triệu về Gia Định.
Năm Đinh Tỵ, Thế Tổ thân đi đánh Quy Nhơn, để Hội ở lại trấn Gia Định. Uy lịnh nghiêm túc, trong cõi yên lặng. Mùa đông năm Mậu Ngọ bị bệnh chết, tuổi bốn mươi hai. Thế Tổ rất thương tiếc, tặng là Nguyên phụ công thần, đặc tiến thượng phụ quốc chưởng doanh.
Hội là người nghiêm trọng, kính giữ lễ độ, công cao mà không khoe, ngôi tôn mà càng khiêm tốn, mỗi khi vào chầu ra mắt đi đứng có chỗ thường, ăn mặc như nhà Nho, các tướng đều kính mà sợ. Lê Văn Duyệt từng bàn luận về điều được điều hỏng của các tướng, bảo rằng: Tống Viết Phúc hăng mạnh mà không có mưu, Nguyễn Văn Thành có mưu mà ít hăng mạnh. Duy Hội trí dũng gồm đủ thật là bậc danh tướng. Tính thích uống rượu, khi ở trong quân hoặc có lúc uống đến say lịm đi. Thế Tổ từng khuyên răn. Năm Gia Long thứ 3 (1804) liệt vào thờ ở đền Hiển Trung. Năm thứ 6 định những người có công ở Vọng Các, liệt vào bậc nhất, cấp cho tự điền và phu coi mộ. Năm thứ 9, liệt vào thờ ở miếu Trung Hưng công thần. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) gia tăng làm Đặc tiến tráng vũ tướng quân, Tả trụ quốc Thái phó Quận công, thụy là Trang Túc, cho phụ tế ở Thế Miếu. Năm thứ 12, tặng là Tá Vận tôn thần, Tôn nhân phủ Tả tôn chính, Đặc tiến tráng vũ đại tướng quân. Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, đổi tôn thụy là Tác Vũ, phong là Lạng Giang quận công.
https://thuviensach.vn
Năm thứ 16 vua lấy Hội làm người huân nghiệp danh vọng rõ rệt đứng đầu các bề tôi đời trung hưng, cho phụ tế ở Võ Miếu. Có hai con trai là Trinh và Thụy, Trinh tập ấm chức Kiêu kỵ đô úy, làm quan đến Thị trung vệ úy, lĩnh
Hà Trung phủ quản phủ sự; Năm Minh Mạng thứ 2, chết ở nơi làm quan. Vua ban cho 100 lạng bạc. Thụy làm quan đến chức quản cơ.
Tôn Thất Dụ là anh Lạng Giang quận công Tôn Thất Hội. Năm Giáp Ngọ theo Duệ Tông đi vào miền Nam, làm quan trải đến Chưởng tiền quân.
Năm Tân Sửu, năm thứ 2 (1781) thời Thế Tổ Cao Hoàng đế, ông giữ Bình Thuận, gia cho làm Chưởng Trung quân, Tiết chế, điều bát các đạo bộ binh. Vua bèn đem đại binh đánh giặc Tây Sơn sai ông đem quân trong bộ thuộc
tiến đi trước. Khi đến Vân Phong Nha Trang, hợp với quân của Chu Văn Tiếp, gặp bọn của Đông Sơn còn sót lại làm loạn, sau việc xuất quân không thành, ông lại rút về Bình Thuận.
Năm Nhâm Dần (1782) mùa xuân, giặc Tây Sơn vào cướp, vua ngự ra đảo Phú Quốc. Ông nghe thấy tin báo tức thì đem bọn Tả chi là Trần Xuân Trạch, đạo Hòa Nghĩa là Trần Công Trương, Tham tán Hồ Công Siêu vào cứu viện, cùng giặc gặp nhau, bèn đánh áp ở cầu Tham Lương, chém được tướng của giặc là Phạm Ngạn, Công Siêu bị súng của giặc bắn ch. Vừa gặp quân của Chu Văn Tiếp đánh nhau với giặc, cả đánh phá được, lấy lại thành Gia Định.
Vua trở về Sài Gòn , khi bàn công, bổ cho ông là Khâm sai ngoại hữu chưởng doanh lĩnh đại tư nông. Mùa đông năm Quý Mão (1783) ông bị bệnh chết ở trong quân. Buổi đầu năm Gia Long, tặng là Hữu quân chưởng phủ sự dụ quận cộng, tên thụy là Trung Túc, liệt thờ ở miếu Hiển Trung và miếu Trung Hưng công thần cả hai miếu.
Tôn Thất Cốc là con của Tôn Thất Đàm. Khi trước theo vua vào miền Nam, làm quan trải đến Tả thủy chưởng cơ kiêm Công bộ cai nội mã, cai tàu vụ.
https://thuviensach.vn
Năm Nhâm Dần (1782) giặc Tây Sơn vào cướp Gia Định, vua chạy đi Tam Phụ, ông làm Trung quân đạo đi hộ vệ vua tiến đóng ở sông Tứ Kỳ (thuộc Gia Định) cùng giặc đánh nhau to, quân ta đánh không lại, lui giữ Lật Giang; đến mùa thu năm ấy, giặc đã lui, ông hộ vệ vua về Gia Định, cùng Chu Văn Tiếp lĩnh hơn 100 chiếc thuyền chiến, làm kế chống giặc.
Năm Quý Mão, mùa xuân, giặc Tây Sơn lại vào cướp trận bị thua ở Dốc Ngư, vua chạy ra bên ngoài, ông điều bát thủy quân cùng với Hòa nghĩa đạo điều khiển là Trần Đĩnh về Cần Giờ do thám giặc, Đĩnh vốn khinh ông, quân sự phần nhiều không theo mệnh lệnh của ông, ông giết đi.
Trận đánh ở Điệp Thạch không lại, vua đi ra đảo Côn Lôn. Ông cùng bọn Tôn Thất Điến, Chưởng cơ Hoảng, Vinh Ma Ly, đều bị giặc bắt được. Giặc lấy lợi dụ ông, ông quát lên mắng rằng: "Ta thà làm quỷ ở Đông Phố, chứ không làm tôi Tây Sơn", giặc bèn giết di. Năm Gia Long thứ 3, truy tặng là Chưởng doanh quận công, liệt thờ ở miếu Hiển Trung và miếu Trung Hưng công thần cả 2 miếu. Em ông là Trung, thường theo đánh dẹp có công, làm quan đến Hữu quân phó t
Tôn Thất Bính là con thứ trưởng của Tôn Thất Yến. Buổi đầu trung hưng, năm Bính Thìn (1796) vào Gia Định thường theo đi đánh dẹp. Năm Gia Long thứ nhất (1802) bổ làm Thuộc nội cai đội coi quản binh vệ Nghiêm dũng ra đóng thú ở Bắc Thành; rồi cất lên làm Vệ úy Nghiêm dũng, nhiều lần được thăng lên đến Vệ úy hữu nhất thị trung. Năm thứ 13, thăng dự Thần sách hữu đoan phó đô thống chế, quản lãnh binh thuyền đi Bắc Thành nhận việc vận chuyển. Tới khi trở về gặp lúc Nghệ An có cướp nổi lên, cướp bóc làng ấp, quan địa phương không thể trị được. Bính đốc suất lính các vệ Thị nội, Nội trực, Tín trực,
Ban trực hơn 2000 người tiến đến Nghệ An đến đạo Thanh Bình chiếu theo địa phận tuần phòng, kịp khi triệu về mới dược thực thụ.
https://thuviensach.vn
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), có việc bang giao, vua đi tuần miền Bắc. Bính sung làm đại thần ở lại Kinh lĩnh biền binh Thị trung, Thị nội đi tuần để hộ vệ Kinh thành. Năm thứ 5, sung chức Giám tu ngọc điệp tôn phả phó tổng đài, rồi thăng đến Thị trung tả thống chế.
Năm thứ 7, vua đi tuần Quảng Trị, Bính sung chức ở lại Kinh, lại kiêm coi các đội Dực, Nhuệ, Bính là người thành thực, càng được vua tin dùng.
Năm thứ 8, mùa xuân, ốm chết, tuổi 61, tặng là Thị nội đô thống chế, cho nhiều bạc, gấm, vải lụa. Năm Tự Đức thứ 11 (1858) liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
Tôn Thất Chương có tên nữa là Điến, là con đích của Tôn Thất Yến, lúc còn nhỏ, gặp khi trong nước có biến loạn, đi ẩn ở chùa Thiên Thai làm đồ đệ của sư. Khi 15 tuổi, Gia Định, yết kiến Thế Tổ, cùng nói chuyện, Thế Tổ rất đẹp lòng, bổ cho làm Thuộc nội cai đội, thường theo đi đánh dẹp, thăng làm Quản ban trực hậu vệ, năm Giáp Dần (1794) coi bốn mươi chiếc thuyền binh, theo Trương Phúc Luật đi đánh giặc, vì có quân công chuyển làm Tiền đồn phó thống, chuyển qua Hữu đồn phó thống, thăng làm Thần sách hữu doanh Đô thống chế. Buổi đầu năm Gia Long, ra lĩnh Đốc trấn Thanh Hóa. Năm Qu
ý Hợi (1802) có việc bang giao, theo vua đi tuần miền Bắc, sung làm hộ sứ tiếp sứ nước Thanh. Năm thứ 7 triệu về kinh, rồi cho về trấn.
Mùa hạ năm ấy, giặc Sơn m nổi lên. Chương sai Vệ úy là bọn Phạm Văn Xuân đánh đuổi phải chạy đi. Năm thứ 9, bè lũ của giặc Sơn m còn sót lại là Quách Tất Thúc lại hợp mưu đánh úp Thiên Quan (41) Chương chia quân đóng giữ lối đường quan yếu, giặc sợ không dám hành động gì.
Năm thứ 12 (1813) bị bệnh xin về Kinh, rồi chết, tuổi 43, tặng là Dực vận tôn thần, Đặc tiến trấn quốc đại tướng quân chưởng doanh, tên thụy là Vũ
https://thuviensach.vn
Tiết. Ban cho 500 quan tiền, 300 phương gạo, sai quan vâng lời đến tế. Năm Tự Đức thứ 5 liệt vào thờ ở miếu Trung hưng công thần.
Chương là người có đức tốt, nhận coi một phương diện giữ lòng thanh bạch, được người khen vì thế. Ông có năm con trai, ba người con làm đến quan to. Con thứ 3 là Tê buổi đầu năm Tự Đức, làm quan đến chức chưởng vệ, quyền hưởng ấn Triệu doanh Kỳ Vũ trải làm đến Hộ đốc tỉnh Thanh Hóa, nhiều lần bị tội phải miễn quan, con cả là Bằng, con thứ hai là Chiểu, đều có truyện chép riêng.
Tôn Thất Bằng là con đích trưởng của Chương, năm Gia Long thứ 15 (1816) cất lên làm Nội hậu cai đội. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) ra làm quản phủ Hàn Trung. Năm thứ 7 triệu thăng làm Nội hậu vệ phó vệ úy, quyền nhiếp Tôn nhân phủ.
Bằng là người thành thật chất phác giữ lòng trong sạch có thói tốt của cha. Vua nghe thấy thế, xuống dụ khen rằng: ngươi làm quan trong sạch , giống được cha ngươi, và ơn hậu đãi với người thân, trẫm cố nhiên không sẻn tiếc. Trong họ nhà vua mà có người tốt, là phúc của nước. Ngươi phải cố gắng giữ danh tiết chớ cậy là dòng dõi có địa vị mà tự kiêu sa. Nhân cho 100 lạng bạc, 15 cái áo. Thăng mãi lên đến chức Vệ úy hậu nhất tả dực doanh Vũ lâm, rồi thăng bổ Chưởng vệ thiên chuyển lên thống chế doanh Long vũ. Năm thứ 20, mùa xuân, ra làm Tổng đốc. Mùa hạ năm ấy bị bệnh chết ở chỗ làm quan, tuổi 48, không con thừa tự.
Tôn Thất Chiểu là con thứ hai của Chương. Năm Gia Long thứ 18, cất lên làm cai đội Nội hậu. Năm Minh Mạng thứ 7, thiên chuyển làm Từ tế ty Từ tế sứ, coi giữ việc thờ tự ở Nguyên miếu, lĩnh chức Hà Trung phủ quản phủ sự vụ. Chiểu cùng anh là Bằng làm quan, quen chịu nghèo túng đều được tiếng khen là thanh bạch. Vua lại dụ rằng: cha ngươi nhận coi một phương diện lâu ngày người khen thanh liêm, anh em ngươi nối nhau làm quan ở trong triều, điều hay nối được thói nhà, trẫm rất khen ngợi; anh ngươi là Bằng ở Kinh đã được thưởng cấp riêng, nay sai phòng Văn thư mang 100
https://thuviensach.vn
lạng bạc, 15 cái áo thưởng cho ngươi. Ngươi phải nghĩ cảm khích phấn khởi thêm, phàm các công việc nên giữ phép công hết sức mà làm, như thế thì trời cũng không phụ người tốt, huống chi trẫm lại phụ người Tôn Thất tốt ư? Chỉ sợ danh không hợp với thực, thì ngươi lại phụ trẫm nhiều lắm. Rồi thăng Chiểu làm phó vệ úy quân Thần sách, vẫn lĩnh quản phủ như cũ. Mùa xuân năm thứ 14, bị tội nhiều thứ phải cách lưu. Mùa hạ năm ấy, bị bệnh chết ở nơi làm quan. Không có con thừa tự.
Tôn Thất Dịch là con Tôn Thất Xuân, buổi đầu năm Ất Dậu (1755), giặc Tây Sơn vào cướp Gia Định, quan quân đánh không lại, Xuân kéo quân gia quyến sang Xiêm cầu viện trợ, vua Xiêm ngờ, bèn mất ở Xiêm.
Năm Ất Tỵ (1785) Thế Tổ đi sang Vọng Các, Dịch tuổi còn nhỏ theo hầu. Năm Đinh Mùi theo vua về Gia Định. Năm Kỷ Mùi bổ làm Cai đội, thường theo di đánh dẹp. Năm Tân Dậu chuyển làm Vệ úy vệ Tề vũ.
Năm Gia Long thứ 8, cất lên làm Vệ úy vệ Tả nhất quân Thị Trung, lại cai quản thuyền các vệ, đội quân Th
ị nội. Năm thứ 15 thăng Thị nội thống chế. Năm thứ 17 chuyển làm Thị trung tả thống chế. Năm Minh Mạng thứ 2, cho lên lương bổng, các người theo đi Vọng Các cấp cho gấp hai. Mùa thu năm ấy, có việc bang giao, sung làm Bắc tuần tùy giá thị vệ đại thần. Năm thứ 5, thăng bổ Đô đốc thống chế hữu doanh quân Thần sách. Năm thứ 7, ra lĩnh chức án trấn Thanh Hoa. Khi vào bệ kiến (42) để từ biệt, vua dụ rằng: Thanh Hoa là ấp thang mộc (43) dân ở đấy dễ dạy bảo, ngươi đến đấy cần ra ơn đức, để cho dân
yên ở, chớ nên cho kẻ tư lại nhũng nhiễu mà thôi. Bèn cho 300 lạng bạc, phái 100 tên lính ở Kinh đưa đến chỗ làm quan. Dịch là bề tôi trong thân thuộc có huân lao cố cựu thường được vua yêu để ý đến. Ở trấn hai năm, rồi có lệnh triệu về, chưa kịp lên đường thì bị bệnh chết, tuổi 40. Vua nghe
thấy đau thương lắm; cho nhiều gấm; đoạn; vải lụa và tiền, sai lính sở tại hộ tang, đưa về chôn. Năm Tự Đức thứ 11 liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
https://thuviensach.vn
Tôn Thất Hoảng là con Tôn Thất Huống, theo vào Gia Định, bổ cho làm thuộc nội cai đội, thường theo đi đánh dẹp, có nhiều công lao, thăng lên làm Phó vệ úy vệ Tả ban trực, thiên chuyển làm Vệ úy vệ Nhuệ uy. Năm Tân Dậu, theo vua đi đánh lấy lại được Kinh đô cũ. Tháng 8, đánh nhau với giặc ở núi Thần Đầu (thuộc Hà Tĩnh), Điều bát là Nguyễn Kế Nhuận đóng quân lại không tiến, Hoảng một mình đem quân vào sâu, không có cứu viện, quân tan vỡ, Hoảng đánh nhau với giặc bị chết trận, tuổi 31. Vua nghe tin thương tiếc lắm, chiếu theo phép luật khép tội Nhuận đem giết chết.
Năm Minh Mạng thứ 6, con là Hy dâng biểu trình kêu xin. Vua dụ rằng Hoảng có lòng địch hại với kẻ đáng giận, vì nước bỏ mình, trong họ Tôn Thất có người trung thành siêng năng như thế, sao có thể cho mai một đi được. Tặng là Thống chế, tên thụy là Mẫn Thiện.
Tôn Thất Nông là con thứ của Tôn Thất Triêm. Năm Ất Mão, theo vào Gia Định, bổ làm Khâm sai cai đội, nhiều lần theo đi đánh dẹp, làm quan đến Phó vệ úy vệ Ban trực hữu. Năm Kỷ Mùi, theo vua đi đánh ở Quy Nhơn, cùng giặc đánh nhau ở sông Tân An, chết tại trận; tuổi 42, tặng là Cẩm y vệ trưởng vệ sự, liệt vào thờ ở đền Hiển Trung. Năm Minh Mạng thứ 4, truy tặng là Thống chế quân Thần sách, tên thụy là Trung Dũng. Con là Quần, làm quan đến cai đội Lăng trung vệ, tặng là Minh Nghĩa hiệu úy phó thân quân úy. Quần có hai con là Tử và Linh.
QUYỂN 5
TRUYỆN CÁC QUAN. MỤC
(Họ ngoại thích)
Nguyễn Phúc Trung: Người ở huyện Minh Linh, phủ Thừa Thiên (họ Nguyễn này hoặc vua cho là Nguyễn Phúc, hoặc lấy chỗ Phúc trùng làm mỹ tự, không thể xét được, huyện Minh Linh nguyên thuộc tỉnh Quảng Trị,
https://thuviensach.vn
nay thuộc phủ Thừa Thiên). Cha là Phúc Kiêm, tặng Thiếu úy, Quận công, tên thụy là Đôn Hậu.
Ông trước lấy con gái họ Phùng, sinh ra Hiếu Khang Hoàng hậu. Làm quan ở triều Thế Tông (Hiếu vũ hoàng đế), đến Chính doanh cai cơ, rồi chết, không có con thừa tự. Năm Gia Long thứ 2, truy tặng là Tán trị công thần, Trung quân đô đốc phủ chưởng phủ sự, Thái bảo, Quốc công, tên thụy là Chính Trực. Phùng thị cũng được gọi là Quốc thái phu nhân, lập đền thờ ở Phú Xuân, gọi là đền Dục Đức. Năm Minh Mạng thứ 13, đổi tặng là đặc tiến Tráng vũ đại tướng quân, Trung quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo, vẫn tên thụy là Chính Trục, phong là Diễn quốc công. Phùng thị cũng đổi phong là Diễn quốc nhất phẩm phu nhân.
Tống Phúc Khuông: Tiên tổ là người ở quý huyện tỉnh Thanh Hóa, lúc trước theo Thái Tổ (44) vào trấn miền Nam, nhận tịch ở phủ Thừa Thiên. Cha là Thành, làm quan triều Thế Tông, làm đến Nội thủy chưởng cơ kiêm Cung bộ, Chưởng sử sự, tặng Chưởng doanh, Quận công, tên thụy là Đôn Trực.
Ông làm nên vì tập ấm, quan đến Chưởng doanh. Trước đây lấy Lê Thị là người ở Quảng Nam, sinh ra Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Ông lại lấy con gái thứ 6 của Thế Tông là công chúa Ngọc Cư, sinh con là Phúc Lương. Năm Ấ
t Mùi (1775), Duệ Tông vào Gia Định, ông mang gia quyến đi theo. Giặc Tây Sơn vào cướp, Duệ Tông mất, Thế Tổ dấy quân ở Long Xuyên, ông cùng bọn Chưởng doanh là Tống Phúc Lương, đem quân hội đánh chức điều khiển của giặc là Hòa ở Long Hồ, cả đánh phá được, tiến lấy được Sài Gòn.
Năm Mậu Tuất (1778) cùng bọn Đỗ Thành Nhân tôn Thế Tổ làm Đại nguyên súy, coi việc trong nước. Năm Canh Tý (1780) Thế Tổ lên ngôi vương, bàn công những người giúp đỡ, cho ông làm Ngoại tả chưởng
https://thuviensach.vn
doanh kiêm chưởng sử sự. Rồi ông đi chiêu dụ nước Chân Lạp, bị bệnh chết ở thành Nam Vang. Năm Kỷ Dậu, Chưởng cơ Hồ Văn Lân đưa hài cốt về táng ở Gia Định.
Năm Gia Long thứ 3, tặng là Suy trung trực vận công thần, đặc tiến khai phủ, Phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc thái bảo, Quốc công, tên thụy là Trung Ý, đưa về táng ở Long Hồ. Thế Tổ thân đến đưa đám, sai sở tại đắp phần mộ, lập đền thờ ở Phú Xuân, gọi là đền Tống Công, cấp tự điền và phu coi mộ, lại liệt vào thờ ở đền Hiển Trung ở Gia Định và miếu Trung Hưng công thần. Gia tặng Lê Thị làm Quốc phu nhân, lại lập đền thờ Lê Thị ở An Quán (thuộc Quảng Nam).
Năm Minh Mạng thứ 13, đổi tặng là Đặc tiến Tráng vũ đại tướng quân, Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo, đổi tên thụy là Cung Mẫn, phong là Quy quốc công, lại di đền thờ đến Kim Long, đổi tên đền gọi là đền Quy quốc công. Gia tặng Lê Thị là Quy quốc nhất phẩm phu nhân.
Họ Tống, khi ban đầu dựng nước là họ có danh vọng, đời đời làm quan sang; tới đến ông là Trung hưng dực đới công thần, thanh danh phúc lộc ở nhà, cùng với nước cùng vui, không những là có tiếng thích lý, cũng rực rỡ về công nghiệp nữa.
Con là Phúc Lương từng làm quan đến Chưởng phủ, phong là hầu, có truyện chép riêng.
Trần Hưng Đạt, có tên là Thân. Tiên tổ là Trần Phúc Tư, người ở Thanh Hóa, theo Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế vào Thuận Hóa, nhập tịch ở huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Từ đây đời đời sinh ra người đạo nho, người làm thầy thuốc, đạo sĩ, cũng có người làm quan, nhưng chưa được hiển đạt lắm. Đến cha là Quế, làm quan ở triều Túc tôn (Hiếu Ninh hoàng đế) làm chức tri phủ, theo đi đánh Chân Lạp có công, nhiều lần được thăng đến
https://thuviensach.vn
chức ký lục hai trấn Trấn Biên và Hà Tiên. Khoảng năm Minh Mạng tặng làm Lại bộ thượng thư.
Ông là con thứ bảy, ng
ười thuần hậu có khí độ kiến thức, bắt đầu làm quan ở viện Hàn Lâm. Mùa đông năm Giáp Ngọ, quân họ Trịnh đến xâm chiếm, năm Ất Mùi vua ngự đi miền Nam, ông cùng em là Đức lén vào Quảng Nam tránh ẩn dạy học trò, toan vào Nam, bị giặc bắt được, suýt nữa bị giết chết, có viên quan của ngụy vẫn quen với ông trước cứu cho được khỏi.
Năm Canh Tý, Thế Tổ đã chính thức ngôi vương ở Gia Định; năm Tân Sửu con gái ông làm Tả cung tần, tức sau này là Thuận Thiên Cao Hoàng hậu. Năm thứ 13 là năm Quý Sửu, anh em ông vượt biển vào yết kiến đem hết tình hình của giặc tâu Thế Tổ nghe.
Thế Tổ lúc mới thấy, mừng nói rằng: "Người nói anh em nhà ngươi chết rồi, từ đâu mà lại đây ?" ông đem tình trạng trả lời lại. Thế Tổ yên ủi hỏi han kỹ lắm, bổ cho ông vào viện Hàn Lâm, rồi chuyển làm Lễ bộ tham tri. Năm Canh Thân, sung làm chức bảo phó cho Hoàng tử. Năm Gia Long thử 1 (1802) triệu về Kinh. Khi thiên hạ đã định, việc bàn lễ xét văn, chế tác buổi đầu, ông cùng với Lễ bộ là Đặng Đức Siêu biên chép từng điều tâu lên để thi hành; rồi đổi bổ làm Lễ bộ hữu tham tri.
Thánh Tổ khi còn ở tiềm để (45) ng tâu xin chọn các quan người nào có tuổi có đức để làm sư phó. Vua mới lấy Lễ bộ Đặng Đức Siêu kiêm sung chức giáo đạo. Năm Gia Long thứ 4, ông vì tuổi già, nghỉ việc. Năm thứ 9 (181 0), mùa hạ bệnh chết, tuổi 64. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) truy tặng là Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, thượng trụ quốc, thiếu phó, Hà Hoa quận công, tên thụy là Ôn Cẩn. Vợ là Lê Thị phong là Quốc phu nhân. Năm thứ 5 dựng đền thờ ở Kim Long, gọi là đền Dụ Khánh, (năm Tự Đức thứ 5, đổi làm đền Thọ quốc công, đổi đền họ Trần làm đền Dụ Khánh). Năm thứ 13, gia tặng là Đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sĩ, Thái phó,
https://thuviensach.vn
phong là Hoa quốc công. Lê Thị cũng đổi phong là Hoa quốc thái phu nhân.
Năm Thiệu Trị thứ I (1841) gia tặng làm Cần chính điện đại học sĩ, Thái sư, đổi phong là Thọ quốc công. Lê Thị đổi phong làm Thọ quốc nhất phẩm phu nhân.
Em là Đức, lúc bắt đầu dựng nước bổ làm huấn đạo, năm Quý Sửu vào Gia Định bổ làm Hàn lâm chế cáo, từng theo việc quân nhung, thăng làm cai bạ Phú Yên. Năm Gia Long thứ 3, triệu về Kinh vừa gặp có bệnh chết. Con là Hưng Khanh nay bổ làm chư quân phó vệ úy, coi giữ việc thờ tự.
Hồ Văn Bôi, người ở Bình An trấn Biên Hòa. Lúc mới đầu quân làm Túc trực đội trưởng, hai lần theo vua đi Vọng Các. Năm Đinh Mùi mùa thu, theo về Gia Định, quân đến Bà Lầy, Ngự úy của giặc là Nguyễn Văn đóng quân chống cự. Ông cùng bọn Nguyễn Văn Trị, Trương Thúc Giáo, Nguyễn Văn Tôn theo Lê Văn Quân đánh giặc biết được khẩu hiệu của giặc, đêm lẻn vào đồn giặc đốt các trại, giặc bèn tan vỡ. Rồi thăng làm Thuộc nội cai đội, đem đội Túc trực trung ngũ theo vua đi đánh giặc, thường có chiến công rực rỡ. Năm Gia Long thứ 1, thăng làm Vệ úy Tả nhất Thị trung; Mùa đông năm ấy, thăng làm Khâm sai Thuộc nội chưởng cơ, vẫ
n coi vệ Tả nhất như cũ. Năm thứ 3, vua đi tuần miền Bắc, cho mũ áo tới khi trở về, vì tuổi già xin về hưu, rồi chết.
Trước đây, có con gái vào hầu ở tiềm để Thánh Tổ tức sau này là Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. Buổi đầu năm Minh Mạng , xuống chiếu cấp tiền gạo cho con trai con gái.
Năm thứ 7, tặng là Nghiêm uy tướng quân Thượng hộ quân thống chế. Năm Thiệu Trị thứ 1, gia tặng là Đặc tiến Tráng vũ tướng quân, Tả quân đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự, Thái bảo, tên thụy là Trung Dũng,
https://thuviensach.vn
phong là Phúc quốc công. Vợ là Hoàng thị cũng phong là Phúc quốc nhất phẩm phu nhân. Lập đền thờ ở Vạn Xuân. Lại truy phong 4 đời họ Hồ, dựng đền riêng để thờ, gọi là Hồ tộc từ. Năm Tự Đức thứ 5, đổi làm Dụ trạch từ.
Ông có 2 con trai là Lưu và Thập. Lưu được tập ấm n kị úy, từng làm quan đến Tiền phong doanh Đô thống chế. Thập làm quan đến Vệ úy sung nhất đẳng thị vệ. Khi Hiến Tổ Chương hoàng đế ta răn về sự họ ngoại thích dần dà ra làm việc, liền cho Lưu vẫn giữ hàm Thống chế, Thập vẫn giữ hàm Chưởng vệ thị vào triều yết.
Phạm Đăng Hưng tên tự là Hiệt Củ (46) người Tân Hòa, thành Gia Định. Cao tổ (tổ 14 đời) của ông thi đỗ, học rộng có tiếng là văn hay. Khoảng năm Chính Trị (47) đời Lê, giữ
nghĩa không thờ họ Trịnh. Đương khi Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta mở cơ nghiệp ở Thuận Hóa, ông đem cả họ vào miền Nam, bắt đầu nhập tịch ở Vũ Xương, sau dời đến Hương Trà. Tằng tổ ông là Đăng Tiên vì có văn học bổ làm huấn đạo huyện Tư Ngh
ĩa, nhân dời nhà đế Sơn. Tổ là Đăng Xương thiên đến huyện Tân Hòa ở Gia Định. Cha là Đăng Long, nổi tiếng là người có văn học, đi ẩn dạy học, học trò gọi là Kiến Hòa tiên sinh.
Ông lúc còn nhỏ thông minh nhanh nhẹn, lúc lớn ham học hỏi. Gặp khi thiên hạ nhiều việc hăng chí về công nghiệp. Phàm các thể yếu của nhà nước, lễ nhạc cho đến binh thư, lịch pháp, không thứ gì là không học tập cho thông. Buổi đầu trung hưng, khoa Bính Thìn tam trường thi trúng cách, bổ làm phủ lễ sinh, sung vào viện Cống sĩ, lại thiên làm Tham luận vệ Phấn vũ, theo quân tiến đánh ở Phú Yên, khi trở về, vừa gặp người Diến Điện đánh nước Xiêm, nước Xiêm cầu viện trợ ở ta. Ông theo đại đội quan quân ta ra biển đến cứu viện. Người Diến Điện nghe có quân cứu viện, tức thì rút lui. Đại binh trở về. Năm Kỷ Mùi thăng Lại bộ tham tri.
https://thuviensach.vn
Ông thường theo vua đi đánh dẹp, tham bàn mưu chước, vua ngày càng yêu quý chú ý lắm. Năm Gia Long thứ 4, kiêm giữ việc cầm lái thuyền. Khi ấy, thiên hạ mới định, việc chuyên chở ở miền Nam, miền Bắc, chính là quan chẩn, ông để ý xếp đặt đều ổn thỏa, của dùng trong nước đầy đủ thừa thãi.
Thế Tổ cùng ông bàn đạo trị nước, hỏi rằng: người ta nói Nghiêu Thuấn không làm gì mà nước được trị là thế nào? Ông thưa rằng: sách "Đại học diễn nghĩa" của Chân Đức Tứ, bàn đã kỹ rồi; nhân đem sách ấy tiến lên.
Năm Gia Long thứ 6 sung làm đề điệu trường thi hương Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Năm thứ 12, thăng thượng thư bộ Lễ. Ông sớm khuya kính cẩn trong sạch, tham khảo sáng kiến nhiều việc bổ ích. Năm thứ 15 xin đặt kho ở xã đề phòng chẩn cấp về năm mất mùa. Thế Tổ dụ rằng: phép ấy tuy hay, nhưng người chủ thủ khó có thể được người tốt cả, sợ làm hại cho dân. Việc ấy rồi không thi hành. Mùa dông năm ấy, kiêm quản Khâm thiên giám sự vụ.
Năm thứ 18 (1819) mùa đôế Tổ mất, ông vâng mệnh thảo tờ chiếu để lại, cùng Lê Văn Duyệt chịu mệnh lệnh của Thế Tổ dặn lại.
Năm Minh Mạng thứ 1 (1820) bàn lễ ngày kỵ các miếu. Thánh Tổ dụ bộ Lễ rằng: Theo lễ thì có tang không tế. Lại nói rằng: "Người quân tử có tang để suốt đời tức là ngày kỵ", thì có thể biết lễ kỵ không phải là cát tế, sau này gặp ngày kỵ các miếu thì làm thế nào? Ông xin vua mặc áo lễ phục thân đến tế: vua theo lời. Bàn về nghi tiết lễ tế tưởng. Thánh Tổ nói rằng: Trước ngày tế luyện (tế tiểu tường) một ngày, có cáo tế không ? Ông thưa rằng: kỵ thì có cáo tế, còn luyện thì không. Xưa kia tiên đế để tang Hiếu Khang Hoàng hậu cũng vậy. Thánh Tổ nói rằng: Tiên đế chế ra lễ, trẫm không dám trái, nhưng không cáo yết trước mà tế, trong lòng có chỗ chưa yên, đến kỳ trẫm nên đem con em đến dự cáo trước, trăm quan lạy theo là được.
Khi kính sửa ngọc phả, ông cùng Thống chế là Tôn Thất Dịch sung làm chức giám tu. Việc này mới làm bắt đầu, bàn ra ý chép của nội dung và thể
https://thuviensach.vn
lệ, biên chép cất tay làm đều khó cả. Ông nghĩ tiến điều lệ, nói đại lược rằng: "Bản triều ta tích lũy đã lâu, sách chép để lại đức sáng. Triệu Tổ gây nên nghiệp vương, Thái Tổ dựng trước mở đất, các thánh nối nhau dấy lên, giữ trị một nước. Buổi đầu dẹp yên, đã từng dựng Triệu miếu, Thái miếu làm điển lễ cho nghìn muôn đời không cùng. Xin từ Triệu Tổ, Thái Tổ các thánh, chép làm Chính kỷ, gốc cành trăm đời, nên cẩn thận xét kỹ.
Từ trùng quốc trở về trước, tham khảo ở quốc sử, đại lược có thể xét được, nhưng năm và thời đại đã lâu, việc ghi chép còn thiếu sót, xin chép làm Tiền kỷ. Từ Thái tổ trở về trước các vị nào ở lại Thanh, Nghệ trở ra ngoài, cho là họ Nguyễn Hựu, thi kê cứu cho xác thực, xin chép phụ vào Tiền kỷ. Vua báo cho biết là được.
Năm thứ 2, sung làm Quốc sử quán phó tổng tài. Năm thứ 3, bộ Lễ mạo tặng phong cho cha mẹiên, việc phát ra, giao xuống đình thần bàn. Ông phải giải chức đợi xét. Rồi phụng mệnh đi bán thóc gạo ở Quảng Nam. Kho ông đã đến nơi, tâu nói: lính trạm lệ không có lương tháng, khó kiếm gạo ăn, cùng với dân không khác gì, xin bán gạo cho. Lại dò xét ra việc lý dịch lĩnh thóc gạo bán ra, lại giành làm của mình, xin chém, để bảo cho dân chúng biết.
Năm thứ 4, đình nghị dâng án lên, ông đáng phải giáng 4 cấp đổi đi. Thánh Tổ lấy cớ là ông khi trước đi bán thóc gạo cho dân, giữ phép công bằng phát hiện ra kẻ gian trừ bỏ thói tệ đổi làm giáng 1 cấp, đổi bổ làm Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ, rồi thăng lại làm Lại bộ tả hữu tham tri, kiêm quản Hàn lâm viện, vẫn sung Quốc sử quán tổng tài như cũ, lấy bản chức kiêm lĩnh ấn vị Lại bộ, sung chức Khâm tu ngọc phả toản tu. Năm thứ 5, lại làm Lễ bộ thượng thư. Năm thứ 6, vua đi tuần ngự Quảng Nam, để ông ở lại giữ Kinh thành, ông là đại thần tuổi già, trung thành văn nhã. Thánh Tổ càng thân yêu tin dùng. Mùa hạ năm ấy, ông mất, thọ 61 tuổi. Trong khi ông đương ốm nằm, Thánh Tổ đau thương lắm, cho nhiều gấm lụa và tiền, sai
https://thuviensach.vn
quan sửa việc tang; tặng là Vinh lộc đại phu, Trụ quốc, Hiệp biện đại học sĩ, thụy là Trung Nhã.
Ông lúc trước lấy người họ Phạm Văn, sinh ra Thánh Từ Hoàng thái hậu, là con gái đích của ông. Năm Tự Đức thứ 2, gia tặng là Đặc tiến vinh lộc đại phu, Thái bảo, Cần chính điện đại học sĩ, phong là Đức quốc công, vẫn tên thụy là Trung Nhã, Phạm Văn thị phong là nhất phẩm Đức quốc phu nhân, tên thụy là Đoan Từ, dựng đền thờ riêng ở Kinh sư để thờ. Lại suy tôn công đức đời trước của ông bao phong 4 đời: Cao tổ, tặng Trung thuận đại phu, Thiêm sự phủ thiếu nhiêm sự tên thụy là Hòa Mẫn; tằng tổ tặng là Hàn lâm viện thị độc học sĩ, Mỹ Khánh tử, tên thụy là Đoan Ý; tổ, tặng là Gia nghị đại phu, Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ, Bình Thịnh bá, tên thụy là Cẩn Lượng; cha, tặng Tư thiện đại phu, Lại bộ thượng thư, Phúc An hầu, tên thụy là Trung Nghị, thờ riêng ở đền Tích Thiện. Năm thứ 5, bàn thêm về điều lệ t công thần, mọi người nói: ông ở lúc mới khai sáng, giúp việc quân nhung, sau khi đại định, giúp đỡ mọi việc, công liệt rõ rệt, trước sau vẹn tiết, liệt vào nơi thờ to tát là phải lễ. Xuống chiếu bảo rằng: "Được". Bấy giờ ông cùng Trịnh Hoài Đúc, Lê Quang Định bổ sung thêm vào thờ ở miếu Trung Hưng công thần. Năm thứ 11 liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
Ông lúc mới bị bệnh dâng sớ: "Sách thực lục làm ra là cốt để lại sự tin thực cho đời sau, phải nên tìm nhặt rộng thêm ra, mới có thể làm thành sách được. Thế Tổ Cao Hoàng đế ta, lúc bắt đầu mới gây dựng, mưu mô tự lòng quyết đoán, quân mở muôn hình, những việc từ năm Đinh Mùi trở về trước, chép còn thiếu sót, không bởi đâu để xét định được. Tới năm Mậu Thân, xa giá về Gia Định, cho đến năm Tân Dậu, cộng 14 năm,về bản thảo chép sơ lược, còn có để ở bộ Lại. Thần giữ chức Á khanh (ngang với quan khanh, tức là thượng thư) chính mắt trông thấy có hơn một trăm tập, tưởng trong đó cũng có thể trích nhặt để đủ khảo xét mà in khắc được. Thần duy ở trong lúc có bệnh, nghĩ tới việc chép sử, không dám không để lòng đến. Xin sắc xuống cho bộ Lại kiểm soạn đưa cho Sử quán theo từng việc biên chép, khiến cho có chỗ chứng nghiệm". Sau khi ông mất, người thu giữ ở quán
https://thuviensach.vn
giấu kín đi; người lần chép sách sau cũng chưa biết. Năm Tự Đức thứ 2, mới xét ra bản thảo để lại, cộng hơn 130 tập, mới được hiệu đính thành sách, cũng có thể thấy được tấm lòng săn sóc đến nơi đến chốn cẩn thận của ông vậy.
Năm thứ 10, đức Kim thượng truy xét lại nguồn phát phúc (48) sai các quan ở viện Tập Hiền là Phan Thanh Giản, Trương Quốc Dụng xét soạn hành trạng của ông khắc vào bia ở mộ, để lưu truyền mãi không mất.
Ông có 4 con, con cả là Đăng Tuấn, tặng là Lễ bộ Lang Trung; con thứ 2 là Đăng Tá, tặng là Lễ bộ viên ngoại lang; con thứ 3 là Đăng Thiệu; ấm thụ cai đội; con thứ 4 là Đăng Thuật đã làm quan đến bộ Lễ bộ lang trung, được tuyển vào lấy công chúa, đổi bổ làm Phò mã đô úy dự vào triều tiền yết. Khi chết tặng là Lễ bộ thị lang.
QUYỂN 6
TRUYỆN CÁC QUAN. MỤC III
Võ Tánh
Võ Tánh: Tiên tổ là người Phúc Yên, tỉnh Biên Hòa, sau dời nhà đến Bình Dương. Tổ là Đỗ, tặng là Cai cơ; cha là Toán, tặng Chưởng cơ. Anh là Nhàn làm quan đến Cai cơ, là thuộc tướng của Đỗ Thanh Nhân, khi Thế Tổ đã giết được Thành Nhân, Nhàn họp bọn giặc Đông Sơn còn lại để làm phản, vua bắt được đem giết đi.
Năm Giáp Thìn, giặc Tây Sơn vào cướ p Gia Định, vua ngự sang thành Vọng Các. Tánh nhân bọn lũ của Nhàn còn lại ngầm kết với người hào kiệt, nổi nghĩa binh ở Phù Viên (thuộc Gia Định) để đánh giặc.
https://thuviensach.vn
Tánh là người sáng suốt trí dũng hơn người nên nhiều người theo. Tánh cho là Phù Viên, đất bằng và rộng không phải là chỗ dụng võ, bèn đến Định Tường, giữ bãi Khổng Tước, (trước thuộc Kiến Hòa, nay thuộc Tân Hòa) có hơn một vạn quân, lập làm năm chi, năm hiệu, tự xưng là Tổng Nhung gọi là đạo quân Kiến Hòa. Quân giặc đi qua đất ấy thì đánh úp giết chết. Giặc cùng răn nhau rằng: Gia Định có ba người hùng, Võ Tánh là một, không thể xâm phạm được (Tánh cùng Đỗ Thanh Nhân, Chu Văn Tiếp, người ta gọi là tam hùng).
Thế Tổ ở Vọng Các vẫn nghe tiếng hùng mạnh của Tánh. Mùa thu năm Đinh Mùi, trở về Nga Châu, sai bọn Nguyễn Đức Xuân đến trước ngõ dụ bảo Tánh vâng mệnh. Mùa xuân năm Mậu Thân, vua tiến đóng ở Hồi Oa, sai các tướng đánh bọn Thái bảo của giặc là Phạm Văn Tham, Thái úy của giặc là Nguyễn Văn Hưng ở Ba Lầy quân giặc nhiều người chết và bị thương, lui về Kha Hôn, Tánh đón đánh ba trận đều được cả, giặc lui giữ Trường Giang, không dám lên bờ.
Mùa hạ năm ấy, sai Trương Phúc Giáo đến triệu Tánh, Tánh bèn đem thuộc hạ là bọn Vũ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại lạy ra mắt. Vua mừng lắm, bổ cho Tánh làm tiên phong doanh Khâm sai tổng thú chưởng cơ, rồi đem trưởng công chúa Ngọc Du (con gái thứ hai Hưng Tổ) gả cho, bọn Lượng đều bổ làm Cai cơ.
Vua tiến đóng ở Tam Phụ, Tánh cùng Tôn Thất Hội đánh lấy được đồn Ngũ Kiểu, đô đốc của giặc là Lê Văn Minh thua chạy. Mùa thu năm ấy, giặc Tham lui giữ Sài Gòn, quân ta đuổi đánh, Tánh vòng quân bày trận ở Dã Nam, đi thẳng vào Ngưu Chữ (Bến Nghé) để chặn sau giặc, Tham sợ tan vỡ, chạy đến Ba Thắc, nương tựa Ốc Nha Ốc là người Chân Lạp làm viện trợ. Năm Kỷ Dậu, Tánh cùng tiền quân Lê Văn Quân, hậu quân Tôn Thất Hội, quản tiên phong thủy quân Nguyễn Văn Trương hội quân để đánh, Tham thế cùng quẫn đến cửa quân đầu hàng.
https://thuviensach.vn
Vua để Tánh và quân ở lại thu vỗ bọn Man, bắt được Ốc Nha Ốc ở Cần Thơ, giết đi, hơn một nghìn năm trăm người ra xin đầu hàng, rồi dẫn quân về.
Tánh tuổi trẻ, thích hăng mạnh, hay tức khí. Quân tuy làm đại tướng đã lâu nhưng ý Tánh không chịu kém, vì thế có hiềm khích, hầu đến đấm đá nhau. Năm Canh Tuất cùng Quân đánh Phan Lý, Đô đốc của giặc là Đàoổ trốn chạy, lấy lại Bình Thuận, Quân tự khoe là công mình, Tánh khinh bỉ Quân. Vua biết hai người không hòa thuận với nhau để Quân ở lại giữ đất, triệu Tánh về. Khi Tánh về, Quân tiến quân đến Phan Lang, bị giặc đánh, đưa thư đến cấp báo, Tánh không quay lại, cứ đi, gặp quân cứu viện của Nguyễn Văn Thành đến, Quân được khỏi thua, sang năm sau Quân lại bị đánh thua, tự cho là mình làm thua quân, bị Tánh sỉ nhục, xấu hổ giận bực mà chết. Lời nói chép ở truyện của Quân.
Rồi Tánh vì thiên tư với họ ngoại, bị phạt giáng làm Cai cơ, vẫn coi tướng sĩ doanh tiên phong. Năm Tân Hợi chuyển sang coi doanh Hậu quân.
Năm Nhâm Tý, vua thân đi đánh Quy Nhơn, Tánh cùng Tôn Thất Huy ở lại giữ Gia Định. Năm Quý Sửu, vua lại thân đi đánh Quy Nhơn cho Tánh làm Khâm sai chưởng hậu quân doanh, Bình tây tham thặng tướng quân, theo hầu vua đi đánh giặc. Khi tiến quân đến Bình Khang, giặc không phải đánh tự tan vỡ. Nhân thế đi thẳng đến Xuân Đài, đánh đồn La Thai, giặc trốn chạy, lấy lại được Phú Yên.
Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Thi Nại, Tánh đánh lấy được đồn Thi Nại, đuổi đánh phá được quân giặc ở cầu Tân Hợi, giặc lui giữ Úc Sơn. Tánh đóng quân ở Bình Thịch, giặc Nguyễn Văn Nhạc sai con là Bảo ra khỏi thành chống đánh. Tánh đánh Bảo phải chạy. Bảo lui đóng đồn từ Thế Sơn đến Úc Sơn, để chống quân ta, vừa gặp bộ binh của bọn Tôn Thất Hội từ Hà Nha, Cù Mông chia làm hai đường kéo đến, vua mật dụ Hội đốc dân chém gỗ ở núi Phú Quý, giả làm đường tiến quân, để cho giặc ngờ, rồi cùng với Nguyễn Văn Thành đêm sang qua núi Kỳ Sơn hội với Tánh đánh úp
https://thuviensach.vn
phía sau giặc; giặc đương lúc không ngờ, quân và voi chạy tán loạn, tự dày xéo lên nhau, chết rất nhiều. Bảo lui về Quy Nhơn , Nhạc đóng cửa thành chống giữ. Tánh lại cùng bộ binh các đạo của Tôn Thất Hội tiến sát đến ngoài thành Quy Nhơn, hạ trại sách để vây, quân cứu viện của giặc đến, bèn kéo quân vềăm Giáp Dần, giặc vây Diên Khánh, vua tự làm tướng đem Trung quân đến cứu viện, giặc tan chạy, vua lập tức sai Tôn Thất Hội làm tiên phong, Tánh làm hậu tập, tiến đánh Quy Nhơn. Tánh phá được giặc ở chợ Hội Yên đạo Phú Yên, rồi tiến đến Thi Nại, Quân giặc giữ chỗ hiểm, chưa thể đánh phá được cả. Vua ra lệnh kéo quân về. Về đến Diên Khánh, sửa đồn chứa lương, làm kế phòng giặc, muốn sai quan ở lại trấn mà khó có người. Tánh xin tự đương lấy, vua khen là giỏi bèn y cho. Tánh ở Diên Khánh, thao luyện quân lính, làm khí giới, sửa đình bảo, phòng thu nghiêm ngặt. Mùa dông năm ấy, tổng quân của giặc là Trần Quang Diệu xâm phạm Phú Yên, Nguyễn Long, Vũ Văn Lương lui quân về Bình Khang, Tánh sai về Gia Định rồi đem việc tâu lên vua biết.
Vua dụ rằng: giặc ở xa lại, họ lợi về đánh ngay, ngươi nên bền giữ lấy quân nhàn rỗi đợi khi quân địch nhọc mệt sẽ đánh, đó là chước vẹn toàn muôn phần. Sai sứ mang áo mặc chống rét cho tướng sĩ. Giặc xâm phạm Bình Khang, Tánh lại tâu lên vua biết. Vua dụ rằng: giặc đến là chú ý ở Diên Khánh, nay trong thành lương thực chứa sẵn, chiến cụ đủ cả, nếu giặc khéo đánh, thì ta khéo giữ, nhất thiết chớ nên cứ động khinh suất, đợi giặc ở lâu ngày dần dần trễ biếng, đánh úp tất là phá được. Bèn sai chưởng Hữu quân là Nguyễn Hoàng Đức, tiên phong là Nguyễn Văn Thành điều bát quân bộ tiến thẳng đến Phan Lang, để làm tiếp ứng xa cho thành Diên Khánh. Rồi Diệu đem hết quân vây Diên Khánh, lại sai bọn lũ là Lê Trung xâm phạm Du Lai, chặn đường cứu viện của Bình Thuận. Bọn Hoàng Đức bị ngăn trở không thể tiến lên được. Diệu dẫn quân tuyệt đường kín nước trong thành. Tánh sai quân đến các chi tiến du, tiến kích đánh được quân của Diệu, giặc chen sát nhau để lên thành, trên thành bắn súng xuống, giặc chết rất nhiều. Giặc bèn đắp lũy cao ở ngoài thành để bức bách. Tánh cố giữ vững thành, lại nhân lúc giặc sơ hở đánh úp, bắt được đô đốc của giặc là Định. Giặc
https://thuviensach.vn
đánh càng kíp, trong thành có ít muối tướng sĩ kiếm ăn khó khăn. Tánh lấy trung nghĩa để khuyến khích quân lính vui lòng theo lệnh ra sức liều chết cố đánh. Vì thế giặc đánh không thể đánh được. Tánh mộ trong thành có người nào dám liều chết nhân ban đêm phá vỡ vây chạy báo ở Gia Định thì có đội trưởng chấp kích là Nguyễn Văn Công ứng mộ, mang tờ biểu lẻn ra để tâu vua biết.
Vua nhận tờ biểu đẹp lòng lắm, nói rằng: Làm tướng như thế tuy người đời cổ cũng không hơn được, thực là may lớn cho nước nhà, tức thì sai người đem tờ dụ để khuyến khích các tướng sĩ, đóng quân cố giữ. Mùa hạ năm Ất Mão, vua đem đại binh thủy bộ tiến đến cứu viện. Tánh nghe thấy quân cứu viện đến, bèn thân đốc suất tướng sĩ, đêm mở cửa thành ra đánh giặc, đốt trại của giặc từ núi Sỹ Lâm đến cầu Hoa Bông, cộng 4 sở, quân giặc bỏ chạy, bị thương chết rất nhiều. Bèn chia quân giữ đất ấy, đắp thành đất để chống cự. Gặp khi ở trong thành tướng sĩ có nhiều người ốm, Tánh cũng bị bệnh, người do thám tâu vua biết. Vua lo lắm, mật đưa cho thuốc thang, mùa thu năm ấy, quân các đạo của ta đánh giáp lại. Diệu vỡ vòng vây mà trốn. Vua úy lạo Tánh rằng: Diệu cũng là giặc mạnh mà ngươi nay giữ được trọn vẹn thành ấy, thật là gió mạnh mới biết cây cỏ cứng. Thưởng cho 10.000 quan tiền, xuống dụ kéo quân về. Đem Chưởng tiền quân là Tôn Thất Hội thay lĩnh Diên Khánh, sai Tánh dẫn quân về trước. Vua về Gia Định, ban yến để úy lạo tướng sĩ, cho Tánh làm Khâm sai Chưởng hậu quân, Bình Tây Tham thặng Đại tướng quân, Quận công.
Năm Bính Thìn, mùa đông đội tiểu hầu xuống phiên trấn thu thuế chiếu, lửa dối kiếm lợi, Tánh nói với Đông cung tâu xin cấm đi. Đông cung nói: Đấy là có chỉ ở trong, ta sao dám nói. Tánh nói: súy phủ là ngôi trữ nhị (49) của nước, bọn Tánh cũng là thân thần của nước, có việc gì không tiện, tức thì phải tâu ngay ở trước mặt. Nếu chỉ dạ vâng thôi há phải là người con biết can ngăn của nhà, người bề tôi biết can ngăn của nước ư? Súy phủ không nói, thì Tánh cùng tiền quân Hội tất phải nói, không dám ngậm miệng nín lặng để phụ ơn
https://thuviensach.vn
Tánh đã thân, quý, lại nhiều chiến công, ý hơi tự mãn. Lễ Bộ là Nguyễn Thái Nguyên từng chê trách ở trước mặt, tiền quân là Tôn Thất Hội cũng chê là hẹp hòi, bảo Tánh rằng: cậy sang không chịu xem xét đến quân lính là lỗi của Hoắc phiêu kỵ (50), nên bỏ tính kiêu ngông của ngươi đi, để giữ tiếng hay thì hơn, Tánh cảm tạ, từ đấy tự nen bớt khí kiêu căng., hơi được lòng tướng sĩ.
Năm Đinh Tỵ, mùa hạ, vua thân đi đánh Quy Nhơn, Tánh cùng Nguyễn Văn Thành đem bộ binh tiến đến Phú Yên, đánh lại được bảo Hội An.
Vua đem quân thuyền tiến thẳng đến Quảng Nam, đóng ở cửa biển Đà Nẵng, đánh Thiếu bảo của giặc là Nguyễn Văn Huấn, lại triệu Tánh đến ngay cửa biển Đại Chiêm đánh mặt sau của giặc. Tánh đem thuyền quân vượt biển tiến đánh, phá được Đô đốc của giặc là Nguyễn Văn Ngữ và bọn giặc ở biển ngoài khơi, thu được thuyền của giặc 30 chiếc. Vào cửa biển Đại Chiêm, hội với quân của Đông cung Cảnh, đánh cho quân giặc phải chạy, tiến đóng đồn ở Hà Thân. Thanh thế lừng lẫy, giặc nhiều người đầu hàng. Đô đốc của giặc là Lê Chất, Lê Văn Thanh đem quân từ Quy Nhơn đến, Tánh đón đánh, quân và voi của giặc phần nhiều bị thương chết. Lại đem quân sang qua sông Mỹ Khê đánh phá được Đô đốc của giặc là Nguyễn Văn Giáp, Huấn bèn cùng Lê Chất thu quân chống giữ, rồi vì đã đến cuối thu bèn kéo quân về.
Năm Kỷ Mùi, mùa hạ, vua thân hành đi đánh Quy Nhơn, Tánh đem quân thuyền đi theo, đến cửa biển Thi Nại, cùng với Chưởng Hữu quân là Nguyễn Hoàng Đức tiến quân đóng đồn ở Phú Trung, đánh giặc ở Thị Dã. Thiếu úy của giặc là Trương Tiến Thúy thua chạy, thu được 30 thớt voi, đuổi đến cầu Tân An, chém được Đô đốc của giặc là Nguyễn Thực, bắt được quân và voi rất nhiều. Đại đô đốc của giặc là Lê Chất đến cửa đầu hàng, sai theo sự điều khiển của Tánh, quân ta tiến sát thành Quy Nhơn; Tánh điều khiển quân doanh các đạo vây lại Thái phủ của giặc là Lê Văn Ứng ra khỏi thành trước, mưu đến trên núi Tây Sơn thu vận lương quân
https://thuviensach.vn
làm kế cứu giúp lẫn nhau. Chất báo cho Tánh biết, Tánh ủy cho Nguyễn Đức Xuyên là Tả đạo, Chất làm Hữu đạo, mà Tánh tự coi Trung đạo đón đánh ứng ở Kha Đáo, bắt được hết 6.000 quân, hơn 50 thớt voi, Ứng chỉ
chạy trốn được một mình. Đại tổng quản của giặc là Lê Văn Thanh và Binh bộ thượng thư của giặc là Nguyễn Đại Phát dâng thành đầu hàng. Vua vào thành, vỗ yên quân lính, đổi tên thành Bình Định. Hoặc có kẻ khuyên vua nhân thế thắng tiến lấy Phú Xuân, vua đem hỏi Tánh, Tánh thưa rằng: Quy Nhơn tuy hạ được, nhưng Phú Xuân còn có lực lượng hoàn toàn, quân ta đã mệt mỏi chưa nên khinh suất tiến đi. Vua cho là phải.
Đại binh thắng trận trở về, Tánh vâng mệnh ở lại trấn thành ấy. Lễ bộ là Ngô Tòng Chu hiệp theo để giúp. Trần Quang Diệu là Thiếu phó của giặc ở Phú Xuân, nghe Tánh giữ thành Bình Định cùng Tư đồ của giặc là Vũ Văn Dũng mưu rằng: ta nghe tiếng Tánh đã lâu, chư tướng không ai địch nổi, nay giữ thành trơ trọi một mình, tiến lui không có quân cứu viện, ta đem quân bộ đến đánh, đem quân thủy chặn cửa biển Thi Nại ngăn quân cứu viện ở Gia Định, hẳn là lấy được. Mùa đông năm ấy, cùng nhau đem vài vạn quân mạnh, hơn 100 chiếc thuyền, đường thủy đường bộ đều tiến. Dũng đem quân vào cửa biển Thi Nại, Diệu đem quân bộ xâm lấn Thạch Tân, thế quân rất mạnh, Tánh biết khí thế của giặc đương mạnh, chưa có thể cùng đánh nhau được bèn sai hậu quân Phó tướng là Nguyễn Văn Thập thu quân vào thành, sai Lê Chất đem quân trong bộ thuộc về Gia Định để điều khiển và đem tình hình giặc tâu vua biết.
Chất đã đi rồi giặc tiến sát đến dưới thành thường khiêu chiến, Tánh đóng chặt thành không hành động gì. Diệu bảo Dũng rằng: Tánh không đánh nhau là muốn cầm cự lâu để làm cho quân ta già yếu đi. Bèn đắp lũy dài ở ngoài thành, (chu vi cộng hơn 4340 trượng, mỗi trượng 2 người tuần giữ), đem bộ binh vây vài vòng, Diệu đứng trông coi, đem thủy binh bày đồn bảo; lại đem thuyền lớn định quốc của ngụy chắn ngang cửa biển Thị Nại, Dũng đứng trông coi, phòng bị rất bền chặt.
https://thuviensach.vn
Vua nghe tin báo, triệu chư tướng lại bàn, đều xin đến viện trợ ngay. Vua nói: Tánh khéo giữ, tất không khinh xuất đánh nhau. Giặc sợ Tánh như cọp, cũng không dễ lay động được. Lương chứa ở Bình Định đủ chi một năm, nay gió Đông Bắc đương mạnh, không lợi đi đường thủy, đợi đến mùa xuân sang năm sẽ cứu viện cũng chưa muộn. Gặp khi ấy hàng tướng ở trong thành là Vũ Văn Sự, Nguyễn Bá Phong đem bọn lũ làm phản ở bên trong, đêm mở cửa bắc thành quay về với giặc. Tánh được tin báo, sai tỳ tướng là Ngô Văn Sở chẹn giữ lấy cửa, những kẻ làm phản ra trước hơn 400 người, còn những người khác nữa không dám động đậy gì, Tánh lo họ phản trắc, giết hết đi.
Trước đây khi giặc mới đến Tánh sai Chất về, có kẻ nói rằng: Chất đánh giỏi lưu lại có thể được việc. Tánh nín lặng. Kịp khi quân làm phản phát ra, Tánh bảo chư tướng rằng: Các ông có biết ý ta ngày trước sai Chất về là ý gì không ? Chất tuy đánh giỏi nhưng mới về hàng phục, những thuộc hạ lại đều là người thổ trước là một điều đáng lo. Trong thành lương ít, nếu giặc giữ lâu không giải vây, thì quân nhiều lương ăn ít, là hai điều đáng lo. Ta sở dĩ sai Chất về là muốn dứt hẳn mối ngờ về sau thêm lương ăn cho quân, để làm kế cố giữ mà thôi. Các tướng đều phục cả.
Vua thân đem quân ở thuyền đến cứu viện, đóng ở Cù Mông sai Nguyễn Văn Thành điều bác bộ binh, từ Xuân Đài tiến đến Hội An, vượt qua núi Ải Thạch, thường đánh nhau với giặc, giặc hơi lui, Tánh nghe quân cứu viện đến, mở cửa nam thành cùng giặc đánh nhau to ở núi Tam Tháp, đốt phá lũy giặc, chiều hôm thu quân vào thành chống giữ.
Khi ấy, giặc vây thànhẩn mật, Diệu tự khoe về tướng lược thả lỏng cho người trong thành ra vào, muốn để gọi ra hàng. Vì thế Tánh thường sai người ra đến nơi hành tại, vua cũng sai người do thám và uý lạo tướng sĩ, tin tức thông nhau mà đánh thì không thể lấy được. Quân bộ của ta đóng ở Thị Dã, quân thủy đóng ở Cù Mông đường thủy đường bộ không tiếp nhau được, lâu không giải được vây, vua ngùi ngùi không vui. Một hôm vua đi
https://thuviensach.vn
thuyền ra ngoài khơi, trông thấy giặc giữ cửa biển Thi Nại rất chặt bèn than rằng: Trời chưa muốn diệt giặc Tây Sơn ư? Làm sao khiến cho tướng giỏi của ta chịu khốn khó mãi ở đấy.
Mùa xuân năm Tân Dậu dùng kế hỏa công, sai Nguyễn Văn Trương tiến lên phía trước, bọn Lê Văn Duyệt kế tiếp tiến đến sau lẻn vào cửa biển Thi Nại đốt thuyền của giặc, nhưng đem việc ấy báo cho Tánh biết trước. Tánh ngay đêm hôm ấy mở cửa bên đông thành ra đánh úp, quân giặc sợ lui, đốt hàng dãy trại của giặc. Dũng ở đồn thủy của giặc, cũng bị bọn Trương, Duyệt đánh phá, chạy đến hợp với Diệu vây thành càng khẩn cấp.
Vua thấy trong thành lương ít, thế không giữ được, bảo chư tướng rằng: Thà để mất thành, không để mất tường giỏi của ta, sai người mang thư lặn xuống nước lẻn vào thành bảo Tánh phá vòng vây, ra hội với đại binh. Tánh cho lũy giặc bền, chưa thể phá được, nếu phá vòng vây mà ra thì quân chết và bị thương rất nhiều. Bèn ngầm làm tờ biểu đưa đến hành tại nói rằng: Tướng giỏi quân mạnh của ngụy Tây đều cả đây, Phú Xuân bỏ không. Làm kế ngày nay, không gì bằng đổi ngói lấy vàng. Xin để thành Bình Định ra ngoài không tính đến, nhưng lúc bỏ không, đánh thẳng lấy Phú Xuân, cũng là một cơ hội tốt.: ấy Phú Xuân khấu thay một mạng thần, thần cho là đủ rồi.
Vua xem tờ biểu than thở mãi. Trước đây, các tướng nhiều người đem cách đánh cờ thế quân xe để nói, vua còn lưỡng lự không nỡ, kịp khi được thư trong thành ý mới quyết. Mùa hạ năm ấy để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Thị Dã, để tiếp ứng cho Tánh, quân của vua do đường thủy tiến đi. Đêm hôm tiến quân đi đốt lửa ở núi Độc Sơn làm hiệu. Tánh trông thấy lửa, tức thì mở thành ra đánh, chém tướng của giặc vài người, giặc thêm quân vây thành. Quân vừa tiến lấy được Phú Xuân, vua sai bọn Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Viết Phúc đem quân về cứu viện cho Tánh. Khi đến Quảng Ngãi thì thành Bình Định đã bị hãm rồi.
https://thuviensach.vn
Thành bị vây lâu ngày sắp bị hãm, Tánh tùy cách ngăn chống, quân lệnh nghiêm ngặt rõ ràng, khuôn xếp chỉnh đốn nhàn hạ, thường cùng giặc đánh, chưa từng bị thua chút nào. Hoặc có người khuyên bỏ thành chạy ra. Tánh không nghe, nói rằng: ta vâng mệnh giữ thành, nên cùng với thành còn hay mất. Bỏ thành để tạm sống, còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa. Lương ăn hết, giết voi ngựa để ăn. Hoặc có kẻ khuyên phá vỡ vòng vây. Tánh thấy quân đều có sắc đói, muốn liều chết đánh để chạy ra bèn ngầm ước với Văn Thành tiến quân đến núi Phú Quý để tiếp ứng. Lời ước đã định, Tánh điểm tướng và lại, thấy thiếu một Phó vệ úy, mật bảo Tòng Chu rằng: Mưu cơ tiết lộ rồi, không ra nữa. Lại lo thành hãm quân lính tất hại nhiều, bèn gởi thư báo hiệu, nói: Trong thành lương ăn hết, không thể giữ được nữa, tướng quân thua trận mà chết là việc của ta, ta đã quyết kế rồi, quân lính không có tội chớ nên giết hại.
Nhân bảo các tướng rằng: Uống thuốc độc thì chết, nhảy vào lửa cũng chết, nhưng chết bằng thuốc độc, giặc còn trông thấy mặt, ta không muốn để cho giặc trông thấy ta, ta chết bằng lửa vậy. Bèn sai chứa củi khô ở trong lầu bát giác, đặt thuốc dẫn lửa. Tánh tắm gội mặc triều phục trông về cửa khuyết
lạy, rồi lên lầu ngồi. Hội cả tướng sĩ bảo rằng: Từ khi ta vâng mệnh ở giữ thành này, giặc Tây Sơn đem sức cả nước, bốn mặt đánh vây, đến nay đã hai năm, thực nhờ các tướng cùng lòng, cho nên mới giữ lấy thành chống
giặc. Nay lương hết sức kiệt, ta đành chết thôi, không làm khổ cho các tướng. Tướng sĩ rạp xuống đất cả khóc. Tánh vẫy cho lulấy súng điểu sang hai máy ở bên chỗ ngồi, trao cho Lưu thủ Nguyễn Văn Thịnh, bảo rằng: Ngươi cầm cái này bảo cho Diệu rằng ta đem quan quân gửi lại hắn. Bèn sai phó tướng Nguyễn Văn Biện đốt lửa. Biện khóc mà chạy. Tánh đương hút thuốc, lấy than châm vào thuốc dẫn lửa cháy bùng lên, tự đốt cháy. Thống binh là Nguyễn Tiến Huyên từ ngoài đến cũng gieo mình vào lửa chết. Hôm ấy là ngày mồng 7 tháng 5.
Trước khi thành bị hãm hai ngày, Lễ bộ là Ngô Tùng Chu đến bàn mưu kế với Tánh, Tánh chỉ vào đống củi chứa ở dưới lầu để bảo, Tòng Chu lui về
https://thuviensach.vn
uống thuốc độc chết. Tánh đến coi liệm và chôn, lời nói chép ở truyện của Tòng Chu.
Tánh đã chết vì tiết nghĩa, Diệu dẫn quân vào thành, trông thấy thương chảy nước mắt ra, lấy lễ thu chôn, tướng sĩ ở trong thành, giặc không giết hại ai cả. Rồi các tướng sĩ ấy đều tự ra về, không một người nào chịu làm việc cho giặc, là vì lòng trung thành của Tánh làm cảm động người như thế.
Tánh giữ thành lẻ loi trơ trọi một mình, buột giữ lấy giặc mạnh ở lại đấy, khiến cho thành Phú Xuân bỏ không, quân vua tiến đến lấy lại được Thần kinh, thực là công thứ nhất đời Trung hưng.
Việc đến tai vua, vua thương khóc mãi, không thôi, bảo các quan rằng: Bọn Tánh giữ vẹn tiết nghĩa như thế, tuy những người trung liệt đời cổ như Trương Tuần, Hứa Viễn cũng không hơn được. Bèn sắc cho quan ở tại trấn tại Gia Định hậu cấp cho người nhà Tánh.
Năm Gia Long thứ 1, tặng là Dực Vận Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Thái úy, Quốc công, tên thụy là Trung Liệt, sai Cai bạ là Đinh Công Khiêm, Cai đội là Tôn Thất Bính mang áo mũ gấm lụa đến quân thứ ở Thi Nại thu liệm hài cốt còn lại, đưa về chôn ở Gia Định. Lại dựng đền ở trước lầu bát giác để thờ (Năm Tự Đức thứ 4, đổi tên là đ̓ Chiêu Trung). Năm thứ 3, liệt vào thờ ở gian chính giữa đền Hiển Trung ở Gia Định, cấp cho tự dân, tự điền, mộ phu, sai con là Khánh coi việc giữ thờ tự.
Dụ rằng: Nêu rõ người trung lương là điển lễ long trọng của nhà nước. Cha ngươi là người có công đầu với nước, nhận ký thác quan trọng ở Bàn Thành (51), đem thân còn mất với thành. Đặc biệt cấp cho tự dân, tự điền, để tôn sùng việc thờ tự, ngươi phải cẩn thận đấy. Lấy phải có hạn chế, dùng phải có tiết độ đời đời kính giữ lấy cùng với nước, còn mãi, để xứng đáng với tôn người có đức, bảo người có công của ta. Lại miễn thuế thân cho dân thuộc, lệ ở trấn Tắc Khái để giữ mộ tổ của Tánh. Năm thứ tư, cho phụ tế
https://thuviensach.vn