🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đại Chiến Hacker - Cory Doctorow Ebooks Nhóm Zalo Tặng Alice, em đã khiến anh tròn vẹn Giới thiệu Đại chiến hacker bắt đầu khi Marcus (biệt danh w1n5t0n) vượt qua hệ thống kiểm soát tinh vi của trường để ra ngoài tham gia một game thực tế ảo. Đúng lúc ấy cây cầu biểu tượng của San Francisco nổ tung. Khủng bố. Darryl mất tích trong đám nạn nhân. Bộ An ninh Nội địa Mỹ hoảng loạn vào cuộc, điên cuồng kiểm soát thành phố bằng những công nghệ tinh vi. Và cuộc sống của toàn San Fransisco bỗng lật nhào. Nhưng Đại chiến hacker không phải một cuốn sách về thảm họa, càng không phải sách hành động giải trí đơn thuần. Nó kể câu chuyện về những thiếu niên nổi loạn nhưng trong sáng và can đảm của thời đại công nghệ số, những người mà, giống như tiền thân của họ ở Ngựa chứng đầu xanh hay nhiều tác phẩm dành cho tuổi trưởng thành nổi tiếng khác, bị mắc kẹt trong một thế giới quá nhiều bất ổn. Thế giới được mô phỏng ở đây hiện đại và giống thế giới thực tới mức người đọc hẳn sẽ quên mất đó chỉ là một hư cấu ở thì tương lai. Chính bởi sự chân thực đó, khi cuộc chiến Thiện-Ác đi đến hồi kết, khi công lý chiến thắng sau rất nhiều gian nan, khi Marcus đưa được sự thật ra ánh sáng, đâu đó hẳn sẽ có nhiều tiếng thở phào. Một cuốn sách gây tranh cãi nhưng làm ấm lòng, ít nhất với những ai còn đủ trẻ. *** Đôi nét về tác giả Cory Doctorow Cory Doctorow sinh ngày 17/7/1971 ở Canada. Ông là blogger kiêm nhà báo, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và là một trong bốn biên tập viên của Boing Boing - trang blog có lượng truy cập lớn nhất thế giới. Ngoài ra, Cory còn là nhà hoạt động ủng hộ việc tự do hóa luật bản quyền và là thành viên của tổ chức Creative Commons. Những chủ đề phổ biến trong các cuốn sách của Cory là vấn đề quản lý quyền hạn, chia sẻ thông tin trong thời đại kỹ thuật số. Hai tác phẩm Down and out in the Magic kingdom và Little brother (Đại chiến hacker) đã giúp Cory Doctorow giành được những giải thưởng danh giá John W. Campbell Award cho Nhà văn mới xuất sắc nhất, John W. Campbell Memorial Award, Prometheus Award và Sunburst Award. *** Lời khen tặng dành cho Đại chiến hacker “Hãy như M1k3y: Bước ra khỏi cửa và dám sống tự do.” - Adrew “Thỏ” Huang, Xbox Hacker “Hồi chuông cảnh báo về cuộc nổi loạn của các tín đồ công nghệ.” - Scott Westerfeld “Một cuốn sách quan trọng và cực kỳ thú vị… ĐẠI CHIẾN HACKER là tác phẩm tôi muốn giới thiệu nhất trong tất cả những cuốn tôi đã từng đọc gần đây.” - Neil Gaiman (Tác giả của Coraline và Câu chuyện nghĩa địa) “Một tác phẩm xuất sắc!” - Ray Ozzie - Trưởng nhóm kiến trúc sư phần mềm của Microsoft Chương 1 Tôi đang học năm cuối trường cấp ba Cesar Chavez ở quận Mission đầy nắng ấm của San Francisco, và điều đó khiến tôi trở thành một trong những kẻ bị giám sát kỹ lưỡng nhất trên đời. Tên tôi là Marcus Yallow, nhưng lúc câu chuyện này bắt đầu, tôi được biết đến dưới cái tên w1n5t0n. Phát âm là “Winston”. Không phải phát âm là “Vê-kép-một-en-nờ-nămtê- không-en-nờ” - trừ khi bạn là một viên chức kỷ luật ngớ ngẩn, quá xa vời với công nghệ mới và vẫn gọi Internet là “Siêu lộ thông tin”. Tôi biết một người ngớ ngẩn như vậy, tên ông ta là Fred Benson, một trong ba hiệu phó của trường Cesar Chavez. Ông ta đúng là nỗi nhức nhối của nhân loại. Nhưng nếu bạn bị cai quản thì thà bị cai quản bởi một kẻ ngớ ngẩn còn hơn bởi một người thông minh. “Marcus Yallow,” ông ta nói bằng loa vào một sáng thứ Sáu. Bản thân cái loa đã chẳng hay ho gì, và khi bạn kết hợp nó với tiếng nói lầm bầm quen thuộc của Benson, bạn sẽ thấy giống tiếng một kẻ đang đánh vật để tiêu hóa món bánh burrito dở tệ chứ không phải một thông báo của trường học. Nhưng thường thì con người rất giỏi nhận ra tên mình trong mớ âm thanh hỗn loạn - đó là đặc điểm sinh tồn. Tôi tóm lấy cái túi và gập hờ cái laptop - tôi không muốn tắt mấy chương trình đang tải về - và chuẩn bị cho điều không tránh khỏi. “Đến phòng quản lý trình diện ngay lập tức.” Giáo viên môn Nghiên cứu Xã hội của tôi, cô Galvez, trừng mắt nhìn tôi và tôi cũng trừng mắt lại với cô. Thầy hiệu phó luôn thích phạt tôi chỉ vì tôi vượt qua các tường lửa của trường nhanh như chớp, đánh lừa được các phần mềm nhận dạng dáng đi, và phá được những con chip chỉ điểm mà trường dùng để theo dõi bọn tôi. Cô Galvez thuộc kiểu giáo viên gương mẫu, tuy nhiên cô không bao giờ khiển trách tôi (nhất là khi tôi đang giúp cô dùng webmail để nói chuyện với ông anh đang đóng quân ở Iraq). Chiến hữu Darryl vỗ vào mông tôi khi tôi đi ngang qua. Tôi biết Darryl từ khi chúng tôi còn đóng bỉm và trốn khỏi trường mẫu giáo, tôi lúc nào cũng là người kéo nó vào và lôi nó ra khỏi nhiều vụ rắc rối. Tôi giơ tay lên đầu như một đấu sĩ quyền anh và ra khỏi phòng học môn Nghiên cứu Xã hội, bắt đầu cuộc diễu hành tiến về văn phòng. Tôi đi được nửa đường thì chuông điện thoại reo. Đây lại là một thứ không-không khác - điện thoại bị cấm ở trường Chavez - nhưng làm sao điều đó có thể ngăn tôi được? Tôi lẩn vào nhà vệ sinh và trốn trong phòng giữa (phòng trong cùng luôn là phòng khủng khiếp nhất vì rất nhiều người đâm đầu vào đó hòng thoát khỏi mùi và những thứ kinh tởm - kẻ thông minh và vệ sinh sạch sẽ thường chọn phòng ở giữa). Tôi kiểm tra điện thoại - máy tính ở nhà đã gửi một e-mail thông báo rằng có chương trình mới trên Harajuku Fun Madness và đó là một trong những trò chơi hay nhất từng được phát minh ra. Tôi nhăn mặt. Cả ngày thứ Sáu phải ở trường đã là quá lắm rồi, dù sao thì tôi cũng mừng vì có một lý do để chuồn đi. Tôi từ từ đi tiếp tới văn phòng của thầy Benson, vừa vẫy tay chào ông vừa lướt qua cửa. “Nếu không phải là Vê-kép-một-en-nờ-năm-têkhông- en-nờ,” ông nói. Fredrick Benson - Số an sinh xã hội 545-03-2343, sinh ngày 15 tháng Tám năm 1962, tên thời con gái của mẹ là Di Bona, quê ở Petaluma - cao hơn tôi rất nhiều. Tôi chỉ còi cọc có 1,73m trong khi ông ta cao tận 2m, và bóng dáng của những năm tháng chơi bóng rổ ở trường đại học ngày xưa đã lùi xa vào dĩ vãng, cơ ngực ông ta bây giờ chảy xệ một cách đáng thương, thấy rõ qua chiếc áo polo khuyến mại. Trông ông ta lúc nào cũng như sắp tung chưởng vào mông bạn, và ông ta thực sự thích cao giọng để tạo hiệu ứng bi kịch. Và tất cả những điều này bắt đầu mất dần hiệu quả khi bị diễn đi diễn lại quá nhiều. “Không, em xin lỗi,” tôi nói. “Em chưa bao giờ nghe tới nhân vật R2D2 này của thầy.” “W1n5t0n,” ông ta nói, đánh vần lại một lần nữa. Ông nhìn tôi một cách dò xét và đợi tôi đầu hàng. Tất nhiên đó là biệt danh của tôi hàng bao nhiêu năm nay. Đó là danh tính tôi sử dụng để đăng bài trên các diễn đàn mạng nơi tôi đang đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu bảo mật ứng dụng. Bạn biết đấy, như kiểu tìm cách chuồn khỏi trường và vô hiệu hóa bộ phận theo dõi trong điện thoại của tôi ấy mà. Nhưng ông ta không biết đó là biệt danh của tôi. Chỉ có rất ít người biết, và tôi tin tưởng tất cả bọn họ cho đến chết thì thôi. “Ừm, nó chẳng gợi lên cái gì với em cả,” tôi nói. Tôi đã làm vài trò khá hay ho quanh trường với cái biệt danh đó - tôi rất tự hào về thành quả của mình trên mấy cái thẻ mách lẻo - và nếu ông ta có thể lần ra manh mối giữa tên tôi và cái biệt danh đó, tôi sẽ gặp rắc rối to. Chưa có ai ở trường từng gọi tôi là w1n5t0n hay thậm chí Winston hết. Ngay cả mấy đứa bạn thân cũng không. Chúng chỉ gọi là Marcus hoặc không gì cả. Thầy Benson yên vị sau bàn làm việc, gõ gõ cái nhẫn tốt nghiệp(1) của ông ta lên sổ ghi chép một cách bồn chồn. Ông ta thường làm vậy mỗi khi mọi việc tiến triển bất lợi cho mình. Những người chơi bài xì thường gọi thế này là một “dấu hiệu” - một thứ giúp họ biết được đối phương đang nghĩ gì. Các dấu hiệu của Benson thì tôi thuộc nằm lòng hết cả rồi. “Marcus, tôi hy vọng trò hiểu việc này nghiêm trọng như thế nào.” “Thưa thầy, em sẽ hiểu chừng nào thầy giải thích cho em việc này là việc gì.” Tôi luôn dùng từ “thưa thầy” với các nhân vật chức trách khi muốn giỡn với họ. Đó là dấu hiệu của riêng tôi. Ông ta lắc đầu với tôi và nhìn xuống, thêm một dấu hiệu khác. Chỉ sau vài giây nữa, ông ta sẽ bắt đầu quát tháo tôi. “Nghe đây, nhóc con! Đã đến lúc trò phải chấp nhận rằng chúng ta biết hết trò đang làm gì, và chúng ta sẽ không nhân nhượng đâu. Trò mà không bị trục xuất trước khi cuộc gặp này kết thúc thì tức là trò gặp may lắm đấy. Trò có muốn tốt nghiệp không hả?” “Thưa thầy Benson, thầy vẫn chưa giải thích vấn đề là gì...” Ông thầy đập tay xuống bàn rồi trỏ ngón tay vào tôi. “Vấn đề là, trò Yallow, trò đã dính líu vào một âm mưu phạm pháp nhằm phá hoại hệ thống bảo mật của trường này, và trò đã cung cấp các biện pháp đối phó an ninh cho các trò khác. Trò thừa biết là tuần trước chúng ta đã đuổi trò Graciella Uriarte vì tội sử dụng một trong các phương kế của trò.” Uriarte đã bị phạt rất nặng. Cô ấy mua một máy bộ đàm làm nhiễu sóng ở một cửa hàng gần ga BART, phố 16 và nó đã báo động các thiết bị an ninh trong hành lang trường. Không phải lỗi tại tôi, nhưng tôi rất lấy làm tiếc cho cô bạn. “Và thầy nghĩ em liên quan tới việc này?” “Chúng tôi có nguồn thông tin đáng tin cậy cho biết trò chính là w1n5t0n” - một lần nữa, ông ta lại đánh vần nó lên, và tôi bắt đầu tự hỏi liệu ông ta có đoán được ra rằng 1 là chữ I và 5 là chữ S không. “Chúng tôi biết rằng nhân vật w1n5t0n này chịu trách nhiệm cho vụ trộm bài kiểm tra năm ngoái.” Thực ra không phải tôi, nhưng đó là một vụ rất khá, và thật hãnh diện khi họ quy vụ đó cho tôi. “Và bởi vậy có thể phải ở tù vài năm trừ khi trò hợp tác với tôi.” “Vậy là thầy có ‘thông tin đáng tin cậy’? Em muốn được nhìn thấy nó.” Ông thầy trừng mắt nhìn tôi. “Thái độ đó của trò không giúp được gì đâu.” “Nếu có bằng chứng, thưa thầy, em nghĩ thầy nên gọi cảnh sát và giao vụ đó cho họ. Có vẻ đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, và em không muốn chắn đường một cuộc điều tra thích đáng của các nhà chức trách có thẩm quyền.” “Trò muốn tôi gọi cảnh sát?” “Và cả bố mẹ em nữa, em nghĩ vậy. Thế sẽ là tốt nhất.” Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm qua cái bàn. Rõ ràng là ông ta mong tôi nhận tội ngay giây phút ông ta đưa lời buộc tội ấy. Tôi không nhượng bộ. Tôi có một mẹo khiến những người như Benson phải đầu hàng. Tôi nhìn hơi chếch về phía trái đầu họ và nghĩ đến lời một bài dân ca Ái Nhĩ Lan cổ, bài hát có ba trăm câu. Nó khiến tôi trông điềm tĩnh tuyệt vời và không hề lo lắng. Và cái cánh ở trên con chim và con chim ở trên quả trứng và quả trứng ở trong cái tổ và cái tổ ở trên cái lá và cái lá ở trên nhành cây và nhành cây ở trên cành nhỏ và cành nhỏ ở trên cành to và cành to ở trên thân cây và thân cây thì ở đầm lầy... đầm lầy ở dưới thung lũng - Ồ! Cao trên cái đầm lầy ọc ạch, và đầm lầy ở dưới thung lũng - ồ... “Giờ trò có thể quay lại lớp,” ông ta nói. “Tôi sẽ gọi lại trò khi cảnh sát sẵn sàng nói chuyện với trò.” “Thầy sẽ gọi họ bây giờ chứ?” “Thủ tục gọi cảnh sát tới rất phức tạp. Tôi đã hy vọng chúng ta có thể thu xếp việc này ổn thỏa nhanh chóng, nhưng vì trò nhất định muốn vậy...” “Em có thể đợi trong lúc thầy gọi họ,” tôi nói. “Em không phiền đâu.” Ông lại gõ cái nhẫn và tôi gồng lên đợi một câu quát tháo nữa. “Đi mau!” ông ta hét lên. “Biến khỏi văn phòng của ta ngay, thằng nhóc trời đánh kia...” Tôi ra ngoài, giữ thái độ hết sức hờ hững. Ông thầy sẽ không gọi cảnh sát. Nếu có đủ bằng chứng để báo cảnh sát thì ông ta đã gọi họ ngay từ đầu rồi. Ông ta ghét sự gan lì của tôi. Tôi đồ rằng ông ta đã nghe một vài lời đồn chưa được kiểm chứng và hy vọng có thể khiến tôi sợ hãi mà nhận tội. Tôi nhanh chóng chuồn êm xuống hành lang, giữ dáng đi bình thản và đều đặn trước các máy quay nhận dạng dáng đi. Những máy móc này mới được cài đặt cách đây một năm, và tôi yêu chúng vì cái sự ngu ngốc tuyệt đối của chúng. Trước đó, chúng tôi có các máy quay nhận dạng gương mặt bao quát hết gần như mọi không gian công cộng ở trường, nhưng một vụ xét xử đã kết luận đó là một hành vi vi phạm hiến pháp. Vậy nên Benson và rất nhiều nhà quản lý trường học bị hoang tưởng khác đã dùng tiền sách giáo khoa của chúng tôi để sắm những chiếc máy quay ngốc nghếch này, chúng có thể phân biệt được dáng đi của mọi người. Vâng, đúng thế. Tôi quay trở lại lớp học và ngồi xuống. Cô Galvez nồng nhiệt đón chào tôi. Tôi mở chiếc máy tính được phát theo tiêu chuẩn của trường và chuyển sang chế độ lớp học. SchoolBook là công nghệ tọc mạch, hớt lẻo nhất thế giới, nó ghi lại từng lần gõ phím, theo dõi toàn bộ lưu lượng truy cập những từ khóa đáng ngờ, tính từng lần nhấp chuột, kiểm soát mọi suy nghĩ thoáng qua mà bạn phát biểu thông qua hệ thống mạng. Nó xuất hiện khi tôi học năm thứ hai, và chỉ vài tháng sau lớp vỏ mạ sáng bóng đã bị xỉn. Một khi học sinh nhận ra rằng những cái laptop “miễn phí” làm việc cho ban quản lý nhà trường - và hiện lên hàng dãy dài bất tận những chương trình quảng cáo đáng ghét khi khởi động - tụi nó bắt đầu cảm thấy rất nặng nề và phiền toái. Phá SchoolBook là chuyện dễ ợt. Trong vòng một tháng kể từ khi chiếc máy xuất hiện, bản crack đã có trên mạng, và mọi việc dễ như chơi - chỉ cần tải về một file ảnh(2) DVD, chép ra đĩa, nhét vào SchoolBook và khởi động nó trong khi giữ nhiều phím khác nhau cùng một lúc. Cái DVD sẽ làm công việc còn lại, cài đặt một đống chương trình ẩn trên máy, những chương trình này sẽ ẩn ngay cả khi Phòng Giáo dục thực hiện công việc hàng ngày là kiểm tra máy móc từ xa. Thỉnh thoảng tôi lại phải cài các phiên bản crack cập nhật để vượt những đợt kiểm tra mới nhất của Phòng Giáo dục, nhưng đó là cái giá nho nhỏ để giành được quyền kiểm soát SchoolBook. Tôi mở IMParanoid, chương trình chat bí mật tôi sử dụng khi muốn “chat chit” mà không lưu lại dấu vết gì ngay trong lớp học. Darryl cũng đã đăng nhập. > Trò chơi đang phát triển! Harajuku Fun Madness sẽ hay ho cực kỳ, chiến hữu. Cậu tham gia chứ? > Không. Thể. Được. Nếu tớ bị bắt quả tang trốn học lần thứ ba, tớ sẽ bị tống cổ. Cậu biết rồi mà. Chúng ta sẽ đi sau buổi học. > Cậu có bữa trưa và giờ tự học phải không? Vậy là hai tiếng. Có hàng đống thời gian để tìm đến manh mối này và quay trở lại trước khi có ai đó bắt gặp chúng ta. Tớ sẽ liên lạc với cả nhóm. Harajuku Fun Madness là trò chơi hay nhất từng được tạo ra. Tôi biết tôi đã nói điều này rồi, nhưng nó xứng đáng được nhắc lại. Đó là một ARG, tức là Alternate Reality Game - trò chơi thực tế luân phiên, và câu chuyện bắt đầu khi một nhóm thiếu niên thời thượng của Nhật phát hiện ra một viên ngọc phi thường có khả năng chữa bệnh tại một ngôi đền ở Harajuku, khu phố nơi những thiếu niên Nhật sành điệu sáng tạo ra một tiểu văn hóa lớn chưa từng thấy trong suốt mười năm qua. Họ bị săn lùng bởi các thầy tu ác độc, bọn Yakuza (hay còn gọi là mafia Nhật), người đối lập, thanh tra thuế, các bậc phụ huynh và một trí thông minh nhân tạo. Họ gợi ý cho người chơi các tin nhắn được mã hóa, người chơi phải giải mã và sử dụng chúng để tìm ra những gợi ý sẽ dẫn tới nhiều tin nhắn được mã hóa và nhiều gợi ý khác. Hãy tưởng tượng vào một buổi chiều đẹp chưa từng thấy, bạn đang đi dạo qua những con đường trong một thành phố, ngắm nhìn đám người kỳ quái, mấy tờ rơi ngồ ngộ, vài kẻ gàn dở trên đường và các cửa hiệu độc đáo. Giờ thì hãy thêm vào đó một cuộc săn lùng kho báu, nó đòi hỏi bạn phải nghiên cứu những bộ phim và những bài hát cũ điên rồ, nghiên cứu văn hóa của giới trẻ trên khắp thế giới ở mọi thời gian và không gian. Đó là một cuộc thi, giải nhất cho một đội bốn người là chuyến đi mười ngày đến Tokyo, lượn lờ trên cầu Harajuku, đắm chìm trong đám đồ công nghệ cao ở Akihabara, và mang về nhà tất cả những sản phẩm có hình Astro Boy mà bạn có thể ăn. Ngoại trừ việc ở Nhật, thằng nhóc ấy được gọi là “Atom boy”. Đó chính là Harajuku Fun Madness, và một khi bạn đã giải được một hay hai câu đố, bạn sẽ không bao giờ dừng chơi được nữa. > Ôi trời, không thể được. Cậu đừng hỏi nữa. > Tớ cần cậu, D. Cậu là tay chơi cừ nhất tớ có. Tớ thề rằng tớ sẽ đưa chúng ta ra ngoài và quay trở lại mà không ai biết gì. Cậu biết tớ có thể làm thế mà, đúng không? > Tớ biết cậu có thể làm được > Vậy cậu đi chứ? > Trời ơi, không > Thôi nào, Darryl. Không phải cậu định đến cuối đời lại ước rằng mình đã dành nhiều thời gian hơn cho việc ngồi học ở trường đấy chứ > Mình không định đến cuối đời lại ước rằng mình đã dành nhiều thời gian hơn cho việc chơi mấy trò ARG > Ừ nhưng cậu không nghĩ rằng rất có thể đến cuối đời, cậu sẽ ước rằng mình đã dành nhiều thời gian hơn với Vanessa Pak à? Van cũng trong nhóm của tôi. Cô theo học một trường nữ sinh tư thục ở Vịnh Đông, nhưng tôi biết cô nàng sẽ cúp cua và cùng tham gia nhiệm vụ với tôi. Darryl si mê cô hàng mấy năm trời - thậm chí trước cả khi tuổi dậy thì mang tới cho cô những món quà hào phóng. Darryl đã phải lòng tâm hồn cô nàng. Buồn làm sao. > Đồ tồi > Cậu đi chứ? Cậu bạn nhìn tôi rồi lắc đầu. Sau đó lại gật đầu. Tôi nháy mắt với nó và bắt đầu liên lạc với những người còn lại trong nhóm. Không phải lúc nào tôi cũng mê chơi ARG. Tôi có một bí mật đen tối: Tôi đã từng chơi LARP. LARP là viết tắt của Live Action Role Playing, trò chơi đóng vai nhân vật thật, và nó đúng y như tên gọi: chạy vòng quanh trong bộ trang phục, nói chuyện bằng giọng điệu buồn cười, đóng giả một siêu gián điệp, một con ma cà rồng hay một hiệp sĩ thời trung cổ. Nó giống như trò cướp cờ trong tay quái vật, pha thêm chút hơi hướm của một câu lạc bộ kịch, và những trận hay nhất là những trận chúng tôi chơi ở trại Hướng đạo sinh ngoài thành phố tại Sonoma hay dưới Peninsula. Chúng kéo dài ba ngày, có thể trở nên khá nguy hiểm và thú vị với những cuộc hành quân từ sáng đến tối, các cuộc chiến ác liệt bằng thanh kiếm làm từ bọt xốp và tre, đọc thần chú bằng cách ném gối xốp và hét lên “Cầu lửa!”, rồi nhiều trò khác nữa. Khá vui dù hơi ngớ ngẩn. Nhưng không ngớ ngẩn bằng ngồi quanh cái bàn đầy lon Diet Coke và những mô hình sơn màu lòe loẹt nói về những gì con yêu tinh của bạn định làm, và đòi hỏi hoạt động thể chất hơn nhiều so với ngồi chết gí ở nhà nhấp chuột đến đờ đẫn chơi mấy trò game online dành cho hàng đống người cùng lúc. Thứ khiến tôi gặp rắc rối là những trò chơi mini trong khách sạn. Bất cứ dịp nào diễn ra hội nghị khoa học viễn tưởng trong thành phố, một người chơi LARP nào đó sẽ thuyết phục họ cho chúng tôi chơi một hay hai trò chơi mini kéo dài sáu tiếng tại hội nghị, dùng luôn địa điểm họ đã thuê. Có thêm một lũ trẻ hoạt náo chạy xung quanh trong những trang phục lạ mắt sẽ tạo thêm màu sắc cho sự kiện, và chúng tôi phải chơi vui vẻ giữa những người thậm chí còn lập dị hơn mình. Vấn đề với các khách sạn đó là ngoài những người chơi LARP, còn có rất nhiều người khác - và không chỉ có những nhà khoa học viễn tưởng. Những người bình thường. Đến từ những bang có tên bắt đầu và kết thúc bằng nguyên âm. Đang đi nghỉ. Và đôi lúc những người này hiểu nhầm bản chất của một trò chơi. Mà thôi, chúng ta dừng ở đây, okay? Mười phút nữa là tiết học kết thúc, tức là tôi không có nhiều thời gian để chuẩn bị. Việc đầu tiên cần làm là đối phó với những máy quay nhận dạng dáng đi đáng ghét kia. Như tôi đã nói, ban đầu trường dùng máy quay nhận dạng gương mặt, nhưng thứ đó bị quy là vi phạm hiến pháp. Và theo như tôi biết, chưa có tòa án nào phán quyết rằng máy quay nhận dạng dáng đi có gì hợp pháp hơn, nhưng cho tới khi có người đưa ra phán quyết ấy, bọn tôi vẫn mắc kẹt với chúng. “Dáng đi” là một từ hoa mỹ để nói đến cách bạn đi lại. Con người khá giỏi trong việc nhận ra dáng đi - lần tới, khi đi cắm trại, bạn hãy thử nhìn chuyển động của đèn pin khi một người bạn ở xa tiến lại gần. Bạn có thể dễ dàng xác định được cậu ta ngay chỉ từ chuyển động của ánh sáng, cái cách chuyển động lên xuống đặc trưng ấy nói với bộ óc vượn của chúng ta rằng người đang tiến tới là ai. Phần mềm nhận dạng dáng đi sẽ chụp ảnh chuyển động của bạn, cố gắng tách cái bóng của bạn trong ảnh và khớp nó với thông tin trong kho dữ liệu để xem có thể nhận ra bạn là ai hay không. Đó là một cái máy nhận dạng sinh học, giống như trò in dấu vân tay hay quét võng mạc, nhưng nó có nhiều “xung đột” hơn cả hai thứ đó. Một “xung đột” sinh trắc học là khi một số đo trùng với hơn một người. Dấu vân tay của bạn là duy nhất nhưng có hàng trăm người cùng dáng đi với bạn. Tất nhiên là không hẳn vậy. Bước đi của cá nhân bạn, phân tích tỉ mỉ ra thì chỉ mình bạn có mà thôi. Vấn đề là bước đi khi phân tích tỉ mỉ lại thay đổi tùy thuộc vào việc bạn mệt mỏi thế nào, sàn nhà được làm bằng gì, bạn có bị đau mắt cá chân khi chơi bóng rổ không, và gần đây bạn có đổi giày không. Vậy là cả hệ thống sẽ rà soát hồ sơ của bạn, tìm người có bước đi giống bạn. Có rất nhiều người có kiểu đi bộ kiểu như bạn. Mặt khác, rất dễ để không đi giống như bạn - chỉ cần bỏ một cái giày ra. Tất nhiên, trong trường hợp đó, bạn sẽ luôn đi giống như cách bạn đi lúc-bỏ một-cáigiày- ra, vậy là máy quay cuối cùng cũng phát hiện ra rằng đó vẫn là bạn. Đó là lý do tôi thích cho thêm một chút ngẫu nhiên vào những cuộc tấn công những cái máy này: Tôi cho một nắm sỏi vào mỗi giày. Rẻ và hiệu quả, và không có bước nào giống bước nào. Thêm vào đó, bạn còn được bấm huyệt mát xa chân dễ chịu tuyệt vời. (Tôi đùa thôi. Bấm huyệt đòi hỏi kỹ thuật có tính khoa học cao như kỹ thuật định dạng dáng đi vậy). Những máy quay được dùng để báo động bất cứ khi nào có ai đó mà chúng không xác định được bước vào khuôn viên trường. Nhưng chúng không hề hiệu quả. Cứ sau mười phút chuông báo động lại kêu. Khi người đưa thư tới. Khi một phụ huynh ghé vào. Khi những người lao công sửa sân bóng rổ. Khi một học sinh mang đôi giày mới xuất hiện. Nên giờ chúng chỉ cố kiểm soát được học sinh nào đang ở đâu và vào lúc nào. Nếu một ai đó ra khỏi cổng trường trong giờ học, dáng đi của người đó sẽ được kiểm tra xem có trùng với dáng đi của học sinh nào không và nếu có thì, húp-húp-húp, chuông báo động sẽ reo lên! Trường Chavez có những lối đi đầy sỏi. Tôi thích trữ vài nắm đá trong cái túi trên vai để phòng khi cần đến. Tôi âm thầm chuyển cho Darryl mười hay mười lăm anh bạn bé nhỏ và chúng tôi cùng nhét chúng vào giày. Buổi học sắp kết thúc - và tôi nhận ra mình vẫn chưa vào trang web của Harajuku Fun Madness xem gợi ý tiếp theo là gì! Tôi hơi quá tập trung vào việc tìm cách trốn ra và chưa buồn quan tâm tới việc chúng tôi sẽ trốn đi đâu. Tôi quay sang Schoolbook và gõ phím. Trình duyệt web chúng tôi sử dụng được cung cấp kèm chiếc máy này. Nó là một phiên bản Internet Explorer bị cài chết cứng một lố spyware. Internet Explorer - một phần mềm dấm dớ của Microsoft mà không ai dưới bốn mươi tuổi lại tự nguyện sử dụng cả. Tôi có một bản Firefox trong USB gắn trên đồng hồ, nhưng thế vẫn chưa đủ - SchoolBook sử dụng phiên bản Windows Vista4Schools, một hệ điều hành cổ lỗ được thiết kế để khiến cho các nhà quản lý trường học ảo tưởng rằng họ có thể kiểm soát được tất cả những chương trình mà học sinh của họ sử dụng. Nhưng Vista4Schools là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính nó. Có rất nhiều chương trình mà Vista4Schools không cho phép bạn tắt đi - như chương trình theo dõi thao tác bàn phím, phần mềm lọc web - và những chương trình này hoạt động theo một chế độ đặc biệt khiến chúng vô hình đối với hệ thống. Bạn không thể tắt chúng vì thậm chí bạn còn không thể thấy chúng đang ở đó. Bất cứ chương trình nào có tên bắt đầu bằng $SYS$ đều vô hình đối với hệ điều hành. Vậy nên bản Firefox của tôi tên là $SYS$Firefox - và khi tôi khởi động nó, nó trở nên vô hình đối với Windows, và cũng vô hình luôn với phần mềm kiểm duyệt của mạng. Giờ tôi đã có một trình duyệt web độc lập, tôi cần một kết nối mạng độc lập. Hệ thống mạng của trường ghi lại từng lần nhấp chuột ra vào hệ thống, thế nên thật là một tin xấu nếu bạn muốn vào trang web Harajuku Fun Madness để giải trí trong giờ học. Giải pháp là một thứ rất thông minh gọi là TOR(3) - The Onion Router hay Bộ định tuyến củ hành. Mỗi TOR là một trang trên Internet, nó tiếp nhận các yêu cầu truy cập các trang web và chuyển chúng đến các TOR khác, rồi các TOR khác nữa, cho đến khi một trong số chúng cuối cùng quyết định truy cập vào trang web đó và chuyển lại qua các trạm chuyển tiếp tới chừng nào bạn nhận được thì thôi. Sự lưu chuyển thông tin qua các TOR này được mã hóa, đồng nghĩa với việc nhà trường không thể nhìn thấy bạn đang yêu cầu cái gì, và các trạm chuyển tiếp cũng không biết chúng đang làm việc cho ai. Có tới hàng triệu trạm - chương trình được cài đặt bởi Cơ quan nghiên cứu khoa học Hải quân Hoa Kỳ để giúp người của họ xâm nhập qua các phần mềm kiểm duyệt ở những nước như Syria và Trung Quốc, điều này có nghĩa là nó được thiết kế hoàn hảo để hoạt động trong phạm vi một trường cấp ba bình thường ở Mỹ. TOR hoạt động được vì nhà trường chỉ có một danh sách đen hữu hạn những địa chỉ xấu mà chúng tôi không được phép xem, trong khi địa chỉ của các trạm chuyển lại thay đổi liên tục - không thể nào kiểm soát được toàn bộ chúng. Sự kết hợp giữa Firefox và TOR đã biến tôi thành một người tàng hình, không bị Phòng Giáo dục của trường xía mũi vào, thoải mái lướt trên trang Harajuku Fun Madness mà xem xét tình hình. Và nó đây rồi, đầu mối mới. Giống như mọi đầu mối của Harajuku Fun Madness, nó gồm ba phần: hiện thực, trực tuyến và tưởng tượng. Phần trực tuyến là các câu đố mà bạn phải giải, nó đòi hỏi bạn phải tìm câu trả lời cho một loạt những câu hỏi mơ hồ, khó hiểu. Trong số đó, có nhiều câu hỏi liên quan đến các tình tiết trong dōjinshi - thể loại truyện tranh được vẽ bởi các fan của manga, truyện tranh Nhật Bản. Quy mô của chúng có thể lớn bằng những bộ truyện chính thống đã truyền cảm hứng cho chúng, nhưng chúng kỳ dị hơn rất nhiều, với các cốt truyện chồng chéo nhau, đôi lúc có những bài hát và hành động thật sự ngớ ngẩn. Tất nhiên là rất nhiều chuyện tình ái. Ai cũng muốn cho các nhân vật mình thích yêu nhau. Tôi sẽ giải những câu đố này sau, khi đã về nhà. Công việc sẽ dễ dàng nhất khi cả nhóm hợp sức tải về hàng đống truyện dōjinshi và rà soát chúng để tìm lời giải cho các câu hỏi. Tôi vừa đánh dấu lại tất cả những manh mối thì chuông reo và chúng tôi bắt đầu cuộc đào tẩu. Tôi lén lút thả sỏi vào đôi giày thấp cổ của mình - một đôi Blundstone đến mắt cá chân của Úc, rất lý tưởng để chạy nhảy leo trèo, và kiểu thiết kế không dây dễ dàng cởi ra đi vào của chúng rất thuận tiện để đối phó với đám máy dò kim loại có mặt khắp nơi. Tất nhiên chúng tôi cũng phải lẩn tránh sự giám sát trực tiếp, nhưng cứ mỗi lần trường gắn thêm một lớp rình mò mới thì việc này lại càng trở nên dễ dàng hơn - những tiếng chuông reo và còi hiệu ru các thầy cô yêu quý của chúng tôi chìm đắm vào một cảm giác an toàn giả tạo. Chúng tôi hòa vào đám đông xuống dưới sảnh, tiến tới cửa ra vào yêu thích của tôi. Đang đi được nửa đường thì Darryl kêu lên, “Chết rồi! Tớ quên mất, tớ có một cuốn sách mượn ở thư viện trong cặp.” “Cậu đùa à,” tôi kêu lên và kéo nó vào nhà vệ sinh gần nhất. Sách thư viện thì đúng là quá tệ. Mỗi cuốn đều có một thẻ RFID(4) dính vào gáy để các thủ thư có thể xuất sách bằng việc lướt nó qua một đầu đọc, và để giá sách thư viện thông báo cho bạn nếu có quyển sách nào không còn trên giá. Nhưng nó cũng giúp nhà trường theo dõi vị trí của bạn mọi lúc. Đây cũng là một trò mập mờ khác về mặt luật pháp: luật pháp không cho phép nhà trường theo dõi chúng tôi bằng thẻ RFID, nhưng họ có thể theo dõi sách của thư viện và sử dụng thông tin lưu trữ của trường để biết ai đang cầm cuốn sách nào. Tôi có một cái ví Faraday trong cặp - đây là những chiếc ví quấn chằng chịt dây đồng, cực kỳ hiệu quả trong việc chặn năng lượng sóng, bịt miệng mấy cải thẻ RFID. Nhưng chúng chỉ dùng để đựng thẻ nhận dạng cá nhân trung tính và máy đọc thẻ sách chứ không dùng cho những quyển sách như... “Nhập môn Vật lý?” tôi rên lên. Nó có kích cỡ của một cuốn từ điển. Chú thích: 1. Nhẫn kỷ niệm tốt nghiệp trường cấp ba hoặc đại học. 2. File ảnh đĩa (disk image): một tập tin chứa toàn bộ nội dung và cấu trúc dữ liệu của một thiết bị lưu trữ dữ liệu như ổ cứng, đĩa CD, DVD. 3. The Onion Router - Bộ định tuyến củ hành: là một mạng lưới giúp người sử dụng vượt tường lửa và trao đổi thông tin bảo mật. Sở dĩ được gọi là bộ định tuyến củ hành là vì các gói tin khi đi từ trạm TOR này qua trạm TOR khác sẽ được “bao bọc” lại bằng một lớp mã hóa, do đó gói tin có nhiều lớp vỏ như củ hành. 4. Hay còn gọi là “arphid”. Là tên viết tắt của Radio Frequency Identification - công nghệ nhận dạng tần số sóng vô tuyến dựa trên giao tiếp không tiếp xúc giữa đầu đọc và thẻ chíp. Công nghệ này được sử dụng nhiều tại các quầy tính tiền ở siêu thị, trên thẻ nhân viên, thẻ rút tiền… Chương 2 “Tớ đang tính sẽ học ngành Vật lý khi vào trường Berkeley,” Darryl nói. Bố nó dạy tại Đại học California ở Berkeley, điều này đồng nghĩa với việc nó sẽ được miễn học phí ở đó. Và trong gia đình Darryl, chưa ai từng đặt câu hỏi nó sẽ vào trường nào. “Tốt thôi, nhưng chẳng lẽ cậu không nghiên cứu trên mạng được à?” “Bố tớ nói tớ nên đọc nó. Hơn nữa, tớ không có kế hoạch làm gì phạm pháp hôm nay.” “Cúp cua không phải là phạm pháp. Nó chỉ vi phạm nội quy thôi. Chúng hoàn toàn khác nhau.” “Chúng ta làm gì bây giờ, Marcus?” “Ừm, tớ không thể giấu nó, nên tớ sẽ cho nó vào lò vi sóng.” Phá RFID là một nghệ thuật hắc ám. Không một ông chủ bà chủ nào muốn các khách hàng ác hiểm đi quanh cửa hàng và để lại một đống hàng bị bóc tung tóe, mất cả mã vạch vô hình, vậy nên không nhà sản xuất nào lại cung cấp thiết bị phát “tín hiệu chết” mà bạn có thể truyền đến một thẻ RFID để tắt. Bạn có thể lập trình lại thẻ RFID bằng phương tiện thích hợp, nhưng tôi ghét phải làm việc này với sách thư viện. Không hẳn là phải xé trang sách ra, nhưng cũng chả hay ho gì, vì sách có thẻ bị lập trình lại thì không thể xếp lên giá sách thư viện và không thể tìm ra được. Nó sẽ trở thành cái kim ở đáy biển. Nên tôi chỉ còn một lựa chọn duy nhất: cho cuốn sách vào lò vi sóng. Theo đúng nghĩa đen. Ba mươi giây trong lò vi sóng là quá đủ cho mọi thẻ RFID. Và bởi thẻ của thư viện không phản hồi tín hiệu khi Darryl trả sách, họ sẽ in một thẻ mới và thiết lập mã mới với thông tin của cuốn sách trong danh mục, rồi nó sẽ lại sạch sẽ ngăn nắp trên giá. Tất cả những gì chúng tôi cần là một lò vi sóng. “Đợi thêm hai phút nữa là phòng nghỉ của giáo viên sẽ trống không,” tôi nói. Darryl giật lại cuốn sách và hướng về phía cửa. “Quên đi, không bao giờ. Tớ vào lớp đây.” Tôi giữ khuỷu tay nó kéo lại. “Thôi đi, D, bình tĩnh nào. Sẽ ổn thôi.” “Phòng nghỉ của giáo viên? Có lẽ cậu chưa nghe rõ, Marcus. Nếu tớ bị bắt chỉ một lần nữa thôi, tớ sẽ bị đuổi học. Cậu nghe rõ chưa? Bị đuổi học.” “Cậu sẽ không bị bắt đâu,” tôi nói. Nơi duy nhất mà các giáo viên không có mặt sau giờ nghỉ là phòng nghỉ. “Chúng ta sẽ đi cửa sau.” Phòng nghỉ có khu bếp nhỏ ở một phía, với lối vào dành riêng cho thầy cô nào chỉ muốn ghé qua pha một tách cà phê. Lò vi sóng - lúc nào cũng thơm phức mùi bắp rang bơ hoặc xúp - ở ngay đó, trên nóc tủ lạnh mi ni. Darryl rên rỉ. Tôi nghĩ thật nhanh. “Nghe kìa, chuông kêu rồi. Nếu cậu tới phòng tự học giờ này, cậu sẽ bị trễ. Giờ này thì thà không xuất hiện còn hơn. Tớ có thể lẻn ra lẻn vào bất cứ phòng nào trong trường, D. Cậu đã thấy tớ làm thế rồi mà. Tớ sẽ đảm bảo an toàn cho cậu, người anh em.” Nó lại rên lên. Đó là một trong những dấu hiệu riêng của Darryl: một khi nó rên rỉ tức là nó đã sẵn sàng đầu hàng. “Hành động thôi,” tôi nói và cả hai rời đi. Thật hoàn hảo. Chúng tôi men theo các lớp học, đi cầu thang sau xuống tầng hầm, lên cầu thang trước vào phòng nghỉ của giáo viên. Phía cửa không có tiếng động, tôi khẽ xoay tay nắm và kéo Darryl vào rồi lặng lẽ khép cửa lại. Cuốn sách vừa khít với cái lò vi sóng trông thậm chí còn mất vệ sinh hơn lần gần đây nhất tôi lẻn vào và dùng nhờ nó. Tôi cẩn thận bọc cuốn sách bằng khăn giấy trước khi đặt vào. “Trời ơi, giáo viên đúng là những con heo,” tôi thì thào, còn Darryl, mặt trắng bệch và căng thẳng, không nói gì cả. Cái thẻ chết ngắc trong một cơn mưa tia sóng, trông khá đẹp mắt (mặc dù không được đẹp bằng hiệu ứng khi cho một quả nho bị đóng băng vào lò vi sóng, cảnh tượng mà phải tận mắt nhìn thấy mới tin được). Giờ thì bọn tôi phải lẻn ra khỏi trường mà tuyệt đối không để lộ danh tính và tiến hành cuộc đào tẩu. Darryl mở cửa đi ra, tôi theo sát gót nó. Một giây sau, nó giẫm lên ngón chân tôi, khuỷu tay chèn vào ngực tôi trong khi cố gắng bước lùi vào cái bếp rộng bằng một phòng để đồ mà chúng tôi vừa rời khỏi. “Quay lại,” nó thì thầm vẻ cấp bách. “Nhanh lên - Charles đấy!” Charles Walker và tôi không hợp nhau. Bọn tôi học bằng lớp và đã biết nhau lâu như tôi biết Darryl, nhưng ngoài ra không còn điểm chung nào nữa. Charles luôn to con hơn so với tuổi, giờ nó chơi bóng đá và dùng thuốc Anabolic steroid(1) nên càng bự hơn nữa. Nó có vấn đề với khả năng kiềm chế sự tức giận - tôi đã mất một cái răng sữa vì nó năm lớp ba - và nó cố gắng tránh khỏi rắc rối bằng cách trở thành kẻ mách lẻo nhiệt tình nhất trường. Thật là một sự kết hợp tồi tệ, một kẻ hay bắt nạt lại còn lẻo mép, khoái trá với việc thưa giáo viên bất cứ vi phạm nào mà nó phát hiện được. Thầy Benson rất cưng Charles. Charles thích làm ra vẻ mình đang có một rắc rối to tướng vu vơ nào đó, nhờ thế lúc nào nó cũng có lý do biện hộ cho việc lảng vảng khắp các hành lang lớp học ở Chavez kiếm người để tố giác. Lần cuối cùng thằng Charles chơi xấu tôi đã khiến tôi phải từ bỏ trò LARP. Tôi không muốn dây vào nó nữa. “Nó đang làm gì thế?” “Nó đang làm cái việc là tiến vào đây,” Darryl nói. Cu cậu đang run như cầy sấy. “Okay,” tôi nói. “Okay, đến lúc áp dụng những biện pháp đối phó khẩn cấp.” Tôi lấy điện thoại ra. Tôi đã lên kế hoạch kỹ càng từ trước. Charles sẽ không thể nào tóm được tôi nữa. Tôi gửi e-mail cho máy chủ ở nhà, và nó khởi động. Vài giây sau, điện thoại của thằng Charles đột ngột réo lên đầy ngoạn mục. Tôi đã làm cho hàng chục nghìn cuộc gọi và tin nhắn ngẫu nhiên ập đến máy nó cùng một lúc, làm cho chuông nhỏ chuông to gì cũng phải réo lên và cứ thế réo liên tục. Cuộc tấn công được thực hiện bởi một hệ thống botnet, tôi cảm thấy như thế thật tệ, nhưng dù sao làm vậy cũng là phục vụ cho một lý do đúng đắn. Botnet là nơi máy tính bị nhiễm virus sống tiếp cuộc đời còn lại của nó. Khi bị nhiễm sâu máy tính hay virus, máy tính của bạn sẽ gửi một tin nhắn tới một kênh chat trên IRC - Internet Relay Chat. Tin nhắn sẽ thông báo với chủ nhân của botnet - người đã triển khai con sâu máy tính đó - rằng máy tính của bạn đã sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của anh ta. Các botnet cực kỳ mạnh, vì chúng có thể bao gồm hàng nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn máy tính, rải rác khắp mạng Internet, kết nối với các mạng tốc độ cao và chạy trên các PC cấu hình cao ở nhà. Bình thường, những PC này hoạt động thay mặt chủ nhân của mình, nhưng khi chủ nhân botnet gọi chúng, chúng sẽ trỗi dậy như thây ma để thực hiện mệnh lệnh của anh ta. Có rất nhiều máy tính bị nhiễm virút trên mạng và giá thuê một botnet trong một hoặc hai tiếng đồng hồ đã giảm mạnh. Hầu hết những thứ này làm việc cho những người chuyên gửi thư rác như một phần mềm spambot(2) rẻ tiền được phân bố khắp nơi, nhấn chìm hộp thư của bạn bằng những lời chào mời quyến rũ các loại thuốc kích thích, hoặc bằng các virus mới có thể xâm nhập máy tính của bạn và chiêu mộ nó vào hàng ngũ botnet. Trong mười giây, tôi vừa thuê ba nghìn máy tính khác nhau gửi tin nhắn hoặc cuộc gọi VoIP(3) tới điện thoại của Charles, tôi moi được số điện thoại của nó từ một mẩu giấy nhớ dính trên bàn của thầy Benson trong một cuộc gặp định mệnh ở văn phòng. Khỏi phải nói, điện thoại của Charles không hề được trang bị để đối phó với tình huống này. Đầu tiên là những tin nhắn SMS đổ đầy bộ nhớ máy, khiến nó bắt đầu tắc nghẽn với các hoạt động bình thường như kiểm soát chuông điện thoại và ghi lại tất cả các cuộc gọi đến bằng số ảo (bạn có biết rằng rất dễ làm giả một con số gọi đến không? Có khoảng năm mươi cách khác nhau để làm được điều này - chỉ cần gõ từ khóa “spoof caller id” lên Google). Thằng Charles đứng chết trân nhìn chằm chằm vào cái điện thoại, đập ầm ầm đầy tức tối, cặp lông mày rậm của nó nhíu chặt lại và ngọ nguậy trong lúc chiến đấu với những con quỷ đã chiếm được thiết bị riêng tư nhất của nó. Cho đến lúc này, kế hoạch đang diễn ra tốt đẹp, nhưng Charles không làm cái việc mà đáng lẽ nó phải làm tiếp theo - đáng lẽ nó phải tìm một chỗ ngồi xuống và cố gắng tìm cách để điện thoại trở lại bình thường. Darryl lắc vai tôi và tôi rời mắt khỏi khe nứt trên cửa. “Nó làm gì vậy?” Darryl thì thầm. “Tớ phá cái điện thoại của nó, nhưng giờ nó cứ nhìn chằm chằm vào đó chứ không cuốn xéo đi.” Không dễ để khởi động lại cái máy ấy. Một khi bộ nhớ đầy ứ, sẽ cần nhiều thời gian nạp lại những đoạn mã cần thiết để xóa những tin nhắn ma này - mà điện thoại của nó không có chức năng xóa toàn bộ tin nhắn, nên nó sẽ phải dùng tay xóa tất cả hàng nghìn cái tin đó. Darryl đẩy tôi ra và dán mắt vào cửa. Một lúc sau, vai nó run lên. Tôi hơi sợ, tưởng nó bị hoảng loạn, nhưng khi nó quay đầu lại, tôi thấy nó đang cười nhiều đến nỗi nước mắt giàn giụa hai bên má. “Cô Galvez vừa tóm nó vì tội lảng vảng ở hành lang trong giờ học và tội sử dụng điện thoại ở trường - cậu phải nhìn cô ấy phạt nó cơ. Cô ấy thực sự thích thú.” Chúng tôi bắt tay một cách trang nghiêm và len lén chuồn khỏi hành lang, xuống cầu thang, đi qua cổng sau, ra khỏi cửa, vượt qua hàng rào và đứng giữa ánh mặt trời rực rỡ của buổi chiều ở Mission. Phố Valencia chưa bao giờ đẹp như hôm nay. Tôi xem giờ và kêu lên: “Đi thôi! Mọi người hẹn chúng ta ở chỗ cáp treo sau hai mươi phút nữa!” Van nhận ra chúng tôi đầu tiên. Cô đang nhập vào một nhóm khách du lịch Hàn Quốc, một trong những cách mà cô rất thích dùng để ngụy trang khi cúp học. Từ khi có sự xuất hiện moblog(4) cúp cua, thế giới của chúng tôi trở nên đầy rẫy những người bán hàng và những kẻ giả nhân giả nghĩa thọc mạch chụp ảnh chúng tôi để cho lên mạng, nơi các nhà quản lý trường học có thể xem xét và nhận dạng. Van bước khỏi đám đông, đi về phía chúng tôi. Darryl thích cô từ lâu lắm rồi, và cô thì đủ ngọt ngào để vờ như không biết gì về việc đó. Cô ôm tôi và rồi quay sang Darryl, hôn nó một nụ hôn kiểu chị em rất nhanh vào má khiến mặt nó đỏ bừng đến tận tai. Hai người bọn họ làm thành một cặp khá ngộ nghĩnh: Darryl hơi nặng một chút, tuy vậy nó ăn mặc rất ổn, và nó có nước da trắng hồng thường ửng đỏ khi nó chạy hay phấn khích. Nó mọc râu từ khi chúng tôi mười bốn tuổi, nhưng ơn Chúa là nó đã cạo râu sau một thời gian ngắn được biết đến trong nhóm với biệt danh “Thời Lincoln”. Và nó cao. Rất, rất cao. Cao như vận động viên bóng rổ. Trong khi đó, Van thấp hơn tôi nửa cái đầu và mảnh dẻ, với mái tóc đen thẳng tết theo một kiểu cầu kỳ, điên khùng mà cô tìm được trên mạng. Nước da cô màu đồng và đôi mắt đen huyền, cô thích những chiếc nhẫn thủy tinh lớn kích cỡ như những củ cải đập vào nhau lách ca lách cách khi cô nhảy múa. “Jolu đâu?” cô hỏi. “Cậu khỏe chứ, Van?” Darryl hỏi bằng một giọng nghèn nghẹn. Nó luôn luôn chậm một bước khi nói chuyện với Van. “Mình khỏe, D. Những thứ nhỏ bé của cậu thế nào?” Ôi, cô nàng thật là tệ. Darryl suýt nữa thì ngất. Đúng lúc đó nó được giải thoát khỏi sự xấu hổ nhờ Jolu xuất hiện trong một chiếc áo khoác da quá cỡ của dân chơi bóng rổ, đi giày thể thao nhanh nhẹn, đội một chiếc mũ lưỡi trai quảng cáo cho tay đô vật bịt mặt yêu thích của chúng tôi, El Santo Junior. Tên đầy đủ của Jolu là Jose-Luis Torrez, người còn lại trong nhóm bốn người chúng tôi. Nó học trong một trường dòng siêu nghiêm khắc ở Outer Richmond nên không dễ gì trốn được ra ngoài. Nhưng nó chưa một lần thất bại: không ai có thể khéo léo như Jolu của chúng tôi. Jolu rất thích cái áo khoác của mình vì nó trễ xuống rất thấp - trông khá sành điệu ở một vài nơi trong thành phố - và có thể che hết mấy thứ tào lao của trường dòng, những thứ dễ trở thành điểm ngắm của bọn người thóc mách có trang moblog được đánh dấu trong điện thoại. “Ai sẵn sàng đi rồi nào?” tôi hỏi khi cả nhóm đã xong màn chào hỏi. Tôi rút điện thoại ra và chỉ cho mọi người bản đồ tôi tải xuống từ BART. “Theo như tớ tính toán, chúng ta phải quay lại Nikko, và đi qua một khu nhà về phía O’Farrell, rồi đi về phía trái lên hướng Van Ness. Đâu đó ở đấy chúng ta sẽ tìm thấy tín hiệu không dây.” Van nhăn mặt. “Đó là khu vực khó chịu của Tenderloin.” Tôi không thể tranh cãi gì với cô. Khu vực này của San Francisco là một trong những nơi kỳ quái nhất - đi qua cổng chính khách sạn Hilton, bạn sẽ bước vào thế giới của dân du lịch với những thứ như xe cáp chạy vòng quanh và các nhà hàng gia đình. Và đi về phía bên kia bạn sẽ ở khu ‘Loin, mọi gái điếm cải trang, bọn ma cô, đám mua bán thuốc phiện và những kẻ vô gia cư khốn khổ trong thành phố đều tập trung ở đây. Những gì họ mua bán, trao đổi, không ai trong số chúng tôi đủ tuổi tham gia vào (dù cũng có rất nhiều gái điếm bằng tuổi chúng tôi miệt mài với công việc của họ ở khu ‘Loin). “Hãy nhìn vào mặt tốt của nó,” tôi nói. “Khoảng thời gian duy nhất mà một người muốn lảng vảng ở đây là vào ban ngày. Và chí ít thì từ giờ tới mai sẽ không có người chơi game nào khác đến gần chỗ này đâu. Và đây là điều mà dân chơi ARG chúng ta gọi là một khởi đầu tuyệt đỉnh.” Jolu nhe răng cười với tôi. “Cậu làm như ngon ăn lắm không bằng,” nó nói. “Ngon hơn ăn món uni là cái chắc,” tôi nói. “Chúng ta định tán dóc hay định chiến thắng nào?” Van nói. Sau tôi, cô là người chơi rắn nhất trong nhóm. Cô cực kỳ, cực kỳ coi trọng chiến thắng. Chúng tôi khởi hành, bốn người bạn tốt, trên đường giải mã một manh mối, giành được chiến thắng trong trò chơi - và bỏ qua tất cả những gì chúng tôi quan ngại, mãi mãi. Phần thực tế của lời gợi ý hôm nay là một hệ tọa độ GPS(5) - có tọa độ của tất cả những thành phố lớn nơi diễn ra trò Harajuku Fun Madness - ở đấy chúng tôi sẽ tìm thấy tín hiệu của một điểm truy cập WiFi. Tín hiệu này bị chèn một cách có chủ ý bởi tín hiệu khác phát ra từ những nơi gần điểm WiFi bị giấu, cốt để nó không thể bị phát hiện bởi thiết bị dò WiFi thông thường, các khóa điều khiển nhỏ sẽ báo cho bạn biết khi bạn ở trong vùng truy cập WiFi mở mà bạn có thể sử dụng miễn phí. Chúng tôi phải tìm ra vị trí của điểm truy cập “ẩn” này bằng cách đo độ mạnh của những điểm truy cập “hữu hình”, tìm ra điểm sóng yếu nhất một cách bí hiểm nhất. Tại đó chúng tôi sẽ tìm ra manh mối tiếp theo - lần trước nó nằm trong món ăn đặc biệt của Anzu, cửa hàng sushi phô trương trong khách sạn Nikko ở Tenderloin. Nikko thuộc quyền sở hữu của Japan Airlines, một trong những nhà tài trợ của Harajuku Fun Madness, và nhân viên ở đó đã làm mọi chuyện rối lung tung beng khi chúng tôi cuối cùng cũng lần ra được manh mối. Họ đưa cho chúng tôi những bát súp miso và cho chúng tôi thử món uni, là sushi làm từ nhím biển, trên bề mặt có pho mát chảy và có mùi giống như phân lỏng của chó. Nhưng nó thực sự ngon. Hay đúng ra là Darryl nói vậy với tôi. Tôi không định ăn cái thứ đó. Tôi bắt được tín hiệu WiFi bằng bộ phận dò WiFi trong điện thoại của mình, cách O’Farrell khoảng ba lô, chưa đến phố Hyde, trước cửa hiệu “Mát xa kiểu châu Á” với cái biển ĐÓNG CỬA màu đỏ nhấp nháy trên cửa sổ. Tên của mạng này là Harajuku Fun Madnees, vậy là chúng tôi biết mình đã dò trúng điểm phát. “Nếu nó ở trong đó, tớ không vào đâu,” Darryl nói. “Các cậu đều có máy dò WiFi rồi chứ?” tôi hỏi. Darryl và Van đều có điện thoại cài sẵn chức năng bắt WiFi, trong khi Jolu, quá sành điệu nên không chịu mang bất cứ cái điện thoại nào to hơn ngón tay mình. Nó có một chiếc khóa định hướng nhỏ riêng biệt. “Được rồi, hãy tản ra xem chúng ta tìm được gì. Các cậu đang tìm một tín hiệu rất nhạy nhưng lại yếu dần đi mỗi khi tới gần nó.” Tôi lùi lại một bước và giẫm phải chân ai đó. Tiếng con gái kêu lên “Ối”, tôi quay lại và lo một ả gái điếm sẽ đấm cho tôi một cú vì làm gãy gót giày của ả. Thay vào đó, tôi thấy mình đang đối diện với một con nhóc bằng tuổi tôi. Nó có bộ tóc hồng chóe gây sốc và khuôn mặt sắc sảo, giống một loài gặm nhấm, đeo một cái kính râm to cộ, đích thị là kính lồi kiểu phi công. Nó mặc quần bó sọc dưới một cái váy đen kiểu bà già, trên đó đính nhiều hình đồ trang trí nhỏ xíu của Nhật - các nhân vật anime(6), nhân vật lãnh đạo thế giới già nua, logo các nhãn hiệu đồ uống nước ngoài. Nó cầm một chiếc máy ảnh và chụp tôi cùng cả nhóm. “Chúc mừng,” nó nói. “Các ngươi đã được lên máy ảnh phát hiện trốn học.” “Không đời nào,” tôi nói. “Cậu sẽ không...” “Tôi sẽ làm chứ,” nó nói. “Tôi sẽ gửi tấm ảnh này cho hệ thống kiểm soát việc cúp cua của học sinh sau ba mươi giây nữa trừ khi bốn người các cậu rút lui khỏi manh mối này để tôi và các bạn tôi ở đây kiểm soát nó. Các cậu có thể quay lại sau một tiếng nữa và nó sẽ thuộc về các cậu. Tôi nghĩ như vậy là rất hợp tình hợp lý rồi.” Tôi nhìn đằng sau nó và thấy thêm ba đứa con gái nữa ăn mặc giống nhau - một đứa tóc xanh lam, một đứa tóc xanh lá cây và một đứa tóc tím. “Các cậu đóng giả ai vậy, Đội Quân Kem Que à?” “Chúng tôi là đội sẽ đá đít đội cậu trong trò Harajuku Fun Madness,” nó đáp trả. “Và tôi là người ngay bây giờ sẽ đăng ảnh của cậu lên và khiến cậu gặp vô số rắc rối...” Đằng sau lưng, tôi cảm giác Van đang tiến lên. Trường nữ sinh của cô nàng khét tiếng vì những vụ đánh nhau, và tôi chắc rằng cô đã sẵn sàng cho con nhỏ này một trận. Và rồi thế giới thay đổi vĩnh viễn. Chúng tôi cảm thấy điều đó đầu tiên, sự lắc lư khủng khiếp của xi măng dưới chân mà bất cứ người California nào cũng nhâïn ra ngay theo bản năng - động đất. Điều đầu tiên tôi muốn làm, như mọi khi, là bỏ chạy: “Khi gặp rắc rối hay nghi ngờ điều gì, hãy chạy vòng tròn, hét to lên.” Nhưng thực tế là, chúng tôi đang ở nơi an toàn nhất có thể, không phải ở trong một tòa nhà có thể đổ sụp lên chúng tôi, không phải ở giữa đường nơi những mảng bê tông có thể rơi trúng đầu. Những trận động đất thường yên tĩnh một cách quái gở - lúc nó bắt đầu, tất nhiên - nhưng thứ này thì không hề yên tĩnh. Nó ồn ào, một âm thanh lạ kỳ rống lên to hơn bất cứ âm thanh nào tôi từng nghe thấy trước đây. Âm thanh đó khiến tôi quỵ gối xuống, và tôi không phải là người duy nhất. Darryl lắc tay tôi chỉ qua những tòa nhà và chúng tôi thấy nó: một đám mây đen khổng lồ nổi lên từ phía Đông Bắc, từ hướng Vịnh. Thêm một tiếng đùng nữa, và đám mây khói lan ra, cái hình thù màu đen mỗi lúc một phình to mà chúng ta hay thấy trên phim. Ai đó vừa mới thổi một cái gì đó với quy mô rất lớn. Có thêm nhiều tiếng ầm ầm và nhiều đợt chấn động nữa. Những cái đầu xuất hiện ở các cửa sổ từ cao xuống thấp trên phố. Tất cả chúng tôi đều nhìn đám mây hình nấm trong yên lặng. Và còi báo động rú lên. Trước đây, tôi đã nghe thấy những tiếng báo động như thế này - họ kiểm tra còi của tổ dân quân tự vệ vào trưa thứ Ba hàng tuần. Nhưng tôi mới chỉ nghe thấy chúng kêu lên đột ngột trong những bộ phim chiến tranh cũ và trò chơi điện tử, cảnh mà một ai đó đánh bom người khác từ trên cao. Còi báo động có máy bay oanh tạc. Âm thanh uuuuuuu khiến nó ít giống thật hơn. “Báo về hầm trú ngay lập tức.” Nó giống như giọng nói của Chúa, phát ra từ nhiều nơi cùng một lúc. Có loa phát thanh trên một vài cột điện, những thứ mà tôi chưa bao giờ chú ý tới, và tất cả đồng loạt bật lên. “Báo về hầm trú ngay lập tức.” Hầm trú? Chúng tôi nhìn nhau bối rối. Hầm trú nào? Đám mây vẫn từ từ nổi lên, tỏa dần ra. Liệu đó có phải là bom hạt nhân không? Liệu có phải chúng tôi đang hít những hơi thở cuối cùng không? Đứa con gái có bộ tóc màu hồng kéo đám bạn của nó rồi bọn họ lao xuống dưới đồi, quay về hướng ga BART dưới chân đồi. “TẬP TRUNG VỀ HẦM TRÚ NGAY LẬP TỨC.” Có một tiếng hét vang lên, và rất nhiều người chạy nháo nhào. Khách du lịch - bạn luôn có thể nhận ngay ra họ, họ là những người nghĩ rằng CALIFORNIA = NẮNG ẤM rồi trải qua kỳ nghỉ lạnh cóng ở San Francisco với quần soóc và áo phông - rải rác ở mọi hướng. “Chúng ta nên đi thôi!” Darryl hét vào tai tôi, tiếng nó nghe yếu ớt giữa rừng tiếng rú của còi báo động, giờ lại cộng thêm tiếng rít quen thuộc của còi xe cảnh sát. Hàng tá xe cảnh sát San Francisco hét vào mặt chúng tôi. “TẬP TRUNG VỀ HẦM TRÚ NGAY LẬP TỨC.” “Xuống ga BART đi,” tôi hét lên. Các bạn tôi gật đầu. Chúng tôi xếp hàng và bắt đầu di chuyển nhanh chóng xuống dưới đồi. Chú thích: 1. Thuốc làm tăng khối lượng cơ bắp. 2. Là một chương trình máy tính tự động được thiết kế hỗ trợ cho việc gửi thư rác. 3. Voice-over-Internet Protocol: cho phép truyền tiếng nói qua Internet tới mọi nơi trên thế giới mà không phải trả cước viễn thông. 4. Từ kết hợp giữa “mobile” và “blog”, làmột trang mạng xãhội bao gồm những thông tin được đăng tải bằng điện thoại đi động hoặc các thiết bị di động khác. 5. Global Positioning System: Hệthống định vị toàn cầu. 6. Phim hoạt hình Nhật. Chương 3 Chúng tôi đi qua rất nhiều người trên đường tới ga BART ở phố Powell. Họ đang chạy hoặc đang đi, mặt trắng bệch, im lặng hoặc la hét và hoảng sợ. Những kẻ vô gia cư co ro trong các ô cửa và quan sát mọi thứ, trong khi một ả gái điếm da đen cao lớn cải trang đang quát hai gã trai trẻ có râu về chuyện gì đó. Càng tới gần ga BART, sức ép của các thân thể càng kinh khủng hơn. Khi chúng tôi tới cầu thang dẫn xuống ga, cảnh tượng ở đây thật hỗn loạn, một đám đông khổng lồ cố gắng giành giật lối đi xuống một cái cầu thang chật hẹp. Mặt tôi bị ép vào lưng ai đó, còn người nào đó khác thì đè vào lưng tôi. Darryl vẫn ở bên cạnh tôi - cậu ta đủ cao lớn để không bị xô đẩy, và Jolu ở ngay phía sau Darryl, như kiểu bám vào eo Darryl vậy. Tôi thấy Vanessa ở cách đó vài mét, bị kẹt trong một đám còn đông hơn nữa. “Cút đi!” Tôi nghe thấy Van hét lên phía sau. “Đồ khốn! Bỏ tay ra khỏi người tao!” Tôi căng mắt ngó quanh đám đông và thấy Van đang kinh tởm nhìn một gã lớn tuổi hơn mặc một bộ vest đẹp đẽ, đang cười ngớ ngẩn với cô. Van lục ví và tôi biết ngay cô đang tìm cái gì. “Đừng xịt hắn!” tôi gào lên qua đám đông. “Cậu sẽ gây rắc rối cho tất cả chúng ta đấy.” Vừa nghe tới từ xịt, gã đàn ông tỏ vẻ sợ hãi và nhũn như con chi chi, dù cho đám đông vẫn đẩy hắn lên phía trước. Phía trước, tôi nhìn thấy ai đó, một người đàn bà trung niên mặc một bộ váy hippie, loạng choạng ngã xuống. Bà hét lên khi bị ngã, và tôi thấy những nỗ lực thảm hại của bà để đứng dậy, nhưng bà không thể, sức ép của đám đông quá lớn. Tới gần bà, tôi cúi xuống để giúp bà đứng dậy, và suýt nữa tôi khiến bà ngã úp mặt xuống đất. Cuối cùng tôi giẫm cả lên ngực bà khi đám đông đẩy tôi vượt qua bà, nhưng tới lúc ấy tôi không nghĩ bà còn có thể cảm thấy được gì nữa. Tôi sợ hãi như chưa bao giờ sợ hơn thế. Giờ những tiếng gào thét ở khắp nơi, thêm nhiều cơ thể người trên sàn, sức ép từ phía sau vẫn tàn nhẫn không dừng như một chiếc xe ủi đất. Tôi đã làm tất cả để cố đứng vững. Chúng tôi vào đến phòng đợi lớn, ở đó có những chiếc cửa xoay. Ở đây cũng chẳng khá khẩm gì hơn - không gian khép kín khiến những giọng nói xung quanh chúng tôi dội lại thành những tiếng rống, làm cho đầu tôi ù lên, mùi và cảm giác của tất cả những cơ thể này khiến tôi thấy sợ bị nhốt kín, nỗi sợ mà tôi chưa bao giờ nghĩ mình mắc phải. Mọi người vẫn đang tràn xuống cầu thang, nhiều người khác chen chúc quanh các cửa xoay và dưới cầu thang tự động dẫn lên sân ga, nhưng rõ ràng cách này cũng chẳng có kết cục tốt đẹp hơn. “Có muốn thử cơ hội lên trên không?” tôi hỏi Darryl. “Có chứ, mẹ kiếp, có,” nó nói. “Thật khủng khiếp.” Tôi nhìn ra Vanessa - chắc chắn cô không thể nào nghe thấy tôi. Tôi tìm cách rút điện thoại ra và nhắn tin cho cô. > Chúng ta ra khỏi đây thôi Tôi thấy cô cảm thấy máy điện thoại rung lên, cúi xuống đọc rồi nhìn lại tôi và gật đầu cật lực. Trong lúc ấy, Darryl đã kéo được Jolu lại. “Kế hoạch là gì?” Darryl hét lên vào tai tôi. “Chúng ta phải quay trở lại!” Tôi hét lại, chỉ vào đám người đang chen chúc, đè nén lên nhau tàn nhẫn. “Không thể nào!” nó nói. “Chúng ta càng đợi lâu thì càng không thể!” Nó nhún vai. Van cố gắng vượt qua đám đông tới và túm lấy cổ tay tôi. Tôi bám lấy Darryl, Darryl bám lấy Jolu bằng tay kia và chúng tôi chen ra ngoài. Việc này không hề dễ dàng. Ban đầu chúng tôi di chuyển được tám centimet một phút, rồi chậm dần, thậm chí chậm hơn nữa khi tới cầu thang. Những người mà chúng tôi đi qua cũng chẳng vui thú gì vì chúng tôi xô họ đi. Vài người chửi chúng tôi, có một anh chàng còn trông như thế sẽ đấm cho tôi một cú nếu anh ta cựa quậy được cánh tay. Chúng tôi vượt qua ba người nữa bị giẫm đạp dưới chân, nhưng không có cách nào để tôi giúp họ. Đến lúc đó, tôi thậm chí không nghĩ tới việc cứu ai nữa. Tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ là tìm khoảng trống phía trước để tiến tới, vì Darryl đang níu chặt lấy cổ tay tôi, vì tôi đang siết cứng lấy tay Van ở phía sau mình. Sau một khoảng thời gian tưởng chừng như bất tận, chúng tôi lao ra mạnh mẽ và tự do như nút chai sâm banh, chớp mắt dưới ánh đèn màu khói xám. Tiếng còi báo động vẫn om sòm, nhưng âm thanh của xe cấp cứu khi chúng đi xuống phố Chợ còn lớn hơn. Dường như không còn ai trên phố nữa - chỉ có những người đang cố gắng trong tuyệt vọng để xuống dưới hầm. Rất nhiều người trong số họ khóc lóc. Nhìn thấy vài chiếc ghế dài bỏ trống - thường ngày bị chiếm đóng bởi mấy tay bợm rượu - tôi chỉ về hướng chúng. Chúng tôi di chuyển tới đó, tiếng còi báo động và khói làm chúng tôi phải cúi đầu khom vai xuống. Chúng tôi vừa đến được chỗ chiếc ghế băng thì Darryl ngã về phía trước. Cả đám hét lên trong khi Vanessa túm lấy nó kéo lại. Một bên áo của nó nhuốm màu đỏ và vết đỏ đang loang dần ra. Van kéo áo nó lên và thấy một vết cắt dài, sâu trên cái sườn mập mạp. “Thằng khốn nạn nào đó đã đâm nó trong đám đông,” Jolu nói, hai bàn tay nó siết chặt thành nắm đấm. “Chúa ơi, thật kinh khủng.” Darryl rên lên và nhìn chúng tôi, rồi nhìn xuống sườn, rên lên và quay đầu lại. Vanessa cởi áo khoác jean và kéo cái áo cotton ngắn tay mà cô mặc ở trong ra. Cô nhồi nó lại và ấn nó vào sườn Darryl. “Giữ đầu cậu ấy,” cô bảo tôi. “Nâng nó cao lên.” Cô nói với Jolu, “Nâng chân cậu ấy lên - cuộn áo khoác của cậu hay cái gì đó vào.” Jolu di chuyển nhanh nhẹn. Mẹ Vanessa là y tá và mùa hè nào cô cũng được huấn luyện sơ cứu ở trại hè. Cô thích xem những người trong phim sơ cứu sai cách và cười nhạo họ. Tôi mừng vì có cô đi cùng. Chúng tôi đã ngồi đó rất lâu, giữ cái áo áp vào sườn Darryl. Nó liên tục nói với chúng tôi rằng nó ổn rồi và chúng tôi nên để nó đứng dậy, còn Van thì liên tục bảo nó hãy im mồm và nằm yên trước khi cô cho nó một trận. “Hay chúng ta gọi 911?” Jolu nói. Tôi thấy mình như một thằng ngốc. Tôi rút điện thoại ra và nhấn 911. Âm thanh mà tôi nhận được thậm chí không phải là tiếng tít tít báo máy bận - nó giống như tiếng rên rỉ đau đớn từ hệ thống điện thoại. Bạn sẽ không nhận được những âm thanh như thế trừ khi có ba nghìn người cùng lúc gọi đến một số. Ai cần đến các botnet khi đã có những kẻ khủng bố? “Thế còn Wikipedia?” Jolu hỏi. “Không điện thoại, không dữ liệu,” tôi nói. “Còn họ thì sao?” Darryl nói và chỉ ra đường. Tôi nhìn về hướng nó chỉ, tưởng sẽ thấy cảnh sát hay một nhân viên hỗ trợ y tế, nhưng không có ai ở đó. “Không sao đâu bạn hiền, cậu thư giãn đi,” tôi nói. “Không, đồ ngốc, họ thì sao, mấy cảnh sát trong xe? Kia kìa!” Nó nói đúng. Cứ năm giây lại có một xe cảnh sát, một xe cấp cứu hay một xe cứu hỏa đi qua. Họ có thể giúp đỡ chúng tôi. Tôi đúng là thằng ngốc. “Vậy thì đi thôi,” tôi nói, “hãy đưa cậu ấy tới chỗ bọn họ để họ khám và băng bó cho.” Vanessa không thích điều này, nhưng tôi chỉ ra rằng cảnh sát không dừng lại vì một thằng nhóc đứng vẫy mũ trên đường, ngày hôm đó thì không. Tuy nhiên có thể họ sẽ dừng lại nếu thấy Darryl đang bị chảy máu ở đây. Tôi tranh cãi ngắn gọn với cô và Darryl đã dàn hòa bằng việc lảo đảo đứng dậy và tự lê mình xuống phố Chợ. Chiếc xe đầu tiên gào rú lao qua - một cái xe cấp cứu - thậm chí còn không thèm đi chậm lại. Chiếc xe cảnh sát tiếp theo không dừng lại, cả xe cứu hỏa, rồi ba xe cảnh sát tiếp theo cũng không. Tình trạng của Darryl không tốt - mặt nó trắng bệch, hơi thở hổn hển. Chiếc áo của Van thấm đẫm máu. Tôi mệt mỏi với những chiếc xe cứ lao qua mặt mình. Lần kế tiếp, khi một chiếc xe xuất hiện trên phố Chợ, tôi đứng chắn giữa đường, khua tay trên đầu, la lớn “DỪNG LẠI”. Chiếc xe chạy chậm dần rồi dừng lại, chỉ đến lúc đó tôi mới nhận ra rằng nó không phải xe cảnh sát, xe cấp cứu hay xe cứu hỏa. Đó là một chiếc jeep giống của quân đội, giống như một chiếc Hummer bọc thép, chỉ khác một điều nó không gắn huy hiệu quân đội. Chiếc xe dừng lại ngay trước mặt tôi, tôi nhảy lùi lại, mất thăng bằng và ngã lăn ra đường. Tôi cảm thấy cánh cửa mở ra ở gần mình, rồi nhìn thấy một đám lộn xộn những cái chân đi giày ống chuyển động tới gần. Tôi nhìn lên và thấy một nhóm người trông giống người của quân đội, mặc áo liền quần, cầm những khẩu súng to kềnh càng và đeo mặt nạ chống khí ga với tấm chắn kim loại mạ. Tôi thậm chí còn chưa kịp nhìn kỹ họ thì những khẩu súng đã chĩa vào mình. Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy nòng súng cận cảnh như bây giờ, nhưng tất cả những gì bạn nghe nói về nó đều đúng. Bạn bị đông cứng tại chỗ, thời gian ngừng lại và tim bạn đập thùm thụp bên tai. Tôi há hốc miệng, rồi ngậm lại, rồi, rất chậm, tôi đưa hai tay lên trước. Người đàn ông vũ trang không mặt, không mắt, cứ đứng trước tôi giữ súng rất chắc. Tôi thậm chí không thở nổi. Van đang hét gì đó, Jolu thì gào lên và tôi nhìn họ được một giây thì có người trùm một cái bao tải thô vào đầu tôi và thít chặt nó quanh khí quản tôi, nhanh và dữ dội đến nỗi tôi không còn thời gian để thở những hơi cuối cùng trước khi bị nghẹn lại. Tôi bị thúc vào bụng một cách thô bạo nhưng vô cảm, cái gì đó quấn quanh cổ tay tôi hai lần rồi siết chặt lại, cảm giác như ai đó đang cuộn dây rồi móc lại một cách tàn nhẫn. Tôi rú lên, giọng nói nghẹt lại do cái bao trùm đầu. Giờ tôi hoàn toàn ở trong bóng tối, căng tai ra để nghe ngóng chuyện gì đang xảy ra với các bạn mình. Tôi nghe thấy họ hét lên qua lớp bao tải ngột ngạt, và rồi ai đó lạnh lùng túm lấy cổ tay tôi, giật người tôi gập xuống chân, sau đó bẻ quặt cánh tay tôi ra sau lưng, vai tôi kêu rắc rắc. Tôi suýt ngã mấy lần, rồi một bàn tay ấn đầu tôi xuống và tôi đã ở bên trong chiếc Hummer. Nhiều cơ thể khác cũng bị xô đẩy hết sức thô bạo cạnh tôi. “Các cậu à?” Tôi gào lên và nhận được một cú đấm mạnh vào đầu. Tôi nghe tiếng Jolu trả lời, và cảm thấy cú đấm mà nó cũng bị nhận. Đầu tôi rung lên như cái cồng. “Này,” tôi nói với bọn lính. “Hãy nghe đã! Bọn tôi chỉ là học sinh cấp ba. Tôi muốn dừng xe các ông lại vì bạn tôi đang bị chảy máu. Ai đó đã đâm cậu ấy.” Tôi không biết những lời này sẽ lọt được bao nhiêu qua cái bao tải bịt kín này. Nhưng tôi vẫn nói. “Xin hãy nghe chúng tôi - đây chắc chắn là một sự hiểu nhầm. Chúng ta phải đưa bạn tôi vào bệnh viện...” Ai đó lại đánh vào đầu tôi. Cứ như họ dùng dùi cui hay gì đó như vậy - đau hơn bất kỳ lần bị đánh vào đầu nào tôi từng biết xưa nay. Mắt tôi hoa lên, nước mắt chảy ra và đau đến mức tôi thực sự không thở nổi. Một lúc sau, khi lấy lại hơi, tôi không dám hé răng nữa. Tôi đã được một bài học. Những tên hề này là ai? Họ không đeo phù hiệu. Có lẽ là bọn khủng bố! Trước giờ tôi chưa bao giờ thực sự tin rằng những kẻ khủng bố tồn tại - ý tôi là về lý thuyết thì tôi biết có những kẻ khủng bố ở đâu đó trên thế giới này, nhưng tôi không mảy may nghĩ đến nguy cơ sẽ gặp bọn chúng. Có hàng nghìn cách thế giới này có thể giết tôi - bắt đầu bằng việc bị một gã say xỉn đang lao như tên lửa xuống Valencia tông phải - rõ ràng việc đó còn dễ xảy ra và nhanh chóng hơn khủng bố. Bọn khủng bố giết chết ít người hơn so với những vụ sập nhà tắm và bị điện giật. Lo lắng về mấy tai nạn đó cũng có ích gần bằng việc lo bị sét đánh. Ngồi sau con Hummer, với cái đầu bị bọc trong bao, tay bị trói nghiến ở sau lưng, nghiêng qua ngả lại trong khi những vết thâm sưng tấy trên đầu, đột nhiên tôi thấy việc bị khủng bố chứa đựng nhiều rủi ro hơn rất nhiều. Chiếc xe xóc lên xóc xuống và hướng về phía đỉnh đồi. Tôi đoán chúng tôi đang đi về hướng đồi Nob, và từ góc quan sát này, có vẻ như chúng tôi sắp đến một con đường dốc hơn - tôi đoán đó là phố Powell. Giờ chúng tôi đang lao xuống dốc. Nếu như bản đồ trong não tôi đúng thì chúng tôi đang hướng về khu cầu cảng Fisherman (Ngư Dân). Ở đó bạn có thể lên một con tàu, đi thật xa. Ý tưởng này phù hợp với giả thuyết về bọn khủng bố. Nhưng thế quái nào mà bọn khủng bố lại đi bắt cóc một lũ học sinh cấp ba? Chúng tôi dừng lại trên một con dốc. Xe chết máy và cánh cửa mở ra. Ai đó kéo tôi ra đường và đẩy tôi trượt chân xuống mặt đường lát đá. Vài giây sau, tôi bị vấp ngã vào một cầu thang thép, cẳng chân bị va đập mạnh. Bàn tay phía sau lại xô tôi một lần nữa. Tôi thận trọng đi lên cầu thang, không thể dùng tay để giữ thăng bằng. Tôi bước lên bậc thứ ba và chuẩn bị bước tiếp bậc thứ tư, nhưng không có bậc thứ tư nào. Tôi suýt ngã một lần nữa, nhưng một bàn tay khác đã tóm lấy tôi từ phía trước và lôi tôi xuống một cái cầu thang thép, ấn tôi quỳ xuống rồi khóa tay tôi vào cái gì đó sau lưng. Thêm nhiều chuyển động nữa, và cảm giác của những cơ thể bị trói khác ở ngay bên cạnh mình. Những tiếng rên rỉ và những âm thanh bị bóp nghẹt. Tiếng cười. Tiếp theo là một khoảng thời gian kéo dài vô tận trong sự ảm đạm bế tắc, tôi hít thở và nghe thấy tiếng thở của mình trong tai. Tôi đã xoay xở ngủ được một chút, tư thế quỳ gối làm máu không lưu thông được xuống chân, đầu vẫn trong bao tải. Chỉ khoảng ba mươi phút, cơ thể tôi đã tiết vào máu lượng adrenaline của cả một năm, và trong khi chừng ấy adrenaline có thể tiếp thêm sức mạnh đủ để bạn nâng một chiếc ô tô khỏi một người bạn yêu quý hay nhảy qua những tòa nhà cao lớn thì sự đánh đổi như thế này thật đáng ghét. Tôi tỉnh dậy vì ai đó kéo cái túi trùm ra khỏi đầu tôi. Họ không thô bạo cũng chẳng cẩn thận - chỉ là... vô hồn. Giống như người ta đặt các bánh kẹp cạnh nhau ở McDonald. Ánh sáng trong phòng quá mạnh khiến tôi phải nhắm nghiền mắt, nhưng dần dần tôi cũng mở he hé rồi mở toang để nhìn xung quanh. Chúng tôi đều ở phía sau một chiếc xe tải, một chiếc xe khổng lồ mười sáu bánh. Tôi có thể nhìn thấy các khoang bánh cách nhau đều đặn dọc thân xe. Nhưng khoang sau của chiếc xe tải này đã bị biến thành sở chỉ huy/nhà tù di động. Những chiếc bàn thép xếp dọc tường với các màn hình phẳng bóng loáng đặt trên các giá đỡ có khớp nối linh hoạt có thể điều chỉnh vị trí xoay quanh người sử dụng như một vòng hào quang sáng lóa. Mỗi bàn có một chiếc ghế văn phòng sang trọng phía trước, được trang trí bằng các núm thiết kế thân thiện để điều chỉnh từng milimét của bề mặt ngồi, độ cao, cường độ và hướng di chuyển. Rồi đến khu vực nhà tù - ở phía trước chiếc xe tải, cách xa mấy cánh cửa nhất, có những thanh chắn bằng sắt đóng vào thành xe, bên trong những thanh chắn này là các tù nhân. Tôi nhìn thấy Van và Jolu ngay lập tức. Darryl có lẽ đang nằm trong hàng tá những người bị trói trong góc, nhưng cũng khó mà nói chắc được - nhiều người bọn họ đã ngã xuống và chắn tầm nhìn của tôi. Nơi đó bốc đầy mùi mồ hôi và nỗi sợ hãi. Vanessa nhìn tôi và cắn môi. Cô sợ. Tôi cũng vậy. Cả Jolu nữa, mắt nó đảo điên loạn trông trắng dã. Tôi cũng sợ. Còn tệ hơn thế nữa, tôi mót tè như một con ngựa đua. Tôi nhìn quanh tìm những kẻ bắt giữ chúng tôi. Đến lúc này tôi vẫn tránh nhìn bọn chúng, giống như bạn vẫn không muốn nhìn vào góc tối của cái tủ nơi não bạn tưởng tượng ra hình ảnh một con quái vật. Bạn không muốn biết mình đúng hay không. Nhưng tôi phải nhìn những kẻ đáng ghét đã bắt cóc chúng tôi kỹ hơn. Nếu chúng là bọn khủng bố, tôi muốn biết. Tôi chưa biết một tên khủng bố thì trông ra sao, mặc dù các chương trình ti vi đã cố gắng hết sức để thuyết phục tôi rằng bọn chúng là những người Ả Rập da nâu, râu dài, đội mũ thít chặt và mặc áo cotton rộng thùng thình trùm tới mắt cá chân. Những kẻ bắt giữ chúng tôi thì không như vậy. Đáng ra chúng phải làm hoạt náo viên giữa giờ của giải Super Bowl(1) mới phải. Trông chúng đặc chất Mỹ theo một cách nào đó mà tôi không thể xác định chính xác. Với đường viền cằm đẹp và mái tóc ngắn chỉn chu, trông chúng không giống người của quân đội chút nào. Chúng mặc đồ trắng và nâu, cả nam lẫn nữ, cười thư thái với nhau, đùa cợt và uống cà phê trong những cái cốc giấy. Chúng không phải người Ả Rập đến từ Afghanistan: trông chúng giống khách du lịch đến từ Nebraska. Tôi nhìn chằm chằm vào một người, một phụ nữ trẻ da trắng có mái tóc màu nâu có vẻ không hơn tuổi tôi là mấy, khá dễ thương trong cung cách công-sở-đầyquyền- lực và đáng sợ. Nếu bạn cứ nhìn chằm chằm vào ai đó đủ lâu, cuối cùng họ sẽ phải nhìn lại bạn. Cô ta nhìn lại, gương mặt cô ta sa sầm lại thành một trạng thái hoàn toàn khác, vô cảm, thậm chí như một con rô bốt. Nụ cười của cô ta biến mất trong tức khắc. “Này,” tôi nói. “Nghe này, tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi thực sự cần đi tè.” Cô ta nhìn xuyên qua tôi như thể không nghe thấy gì. “Tôi nghiêm túc đấy, nếu không được đi tè bây giờ, tôi sẽ gặp phải một rắc rối khó chịu. Nó sẽ bốc mùi lên ở đây, cô biết chứ?” Cô ta quay sang đồng bọn, một nhóm nhỏ ba người, chúng nói gì đó nhỏ đến mức tôi không thể nghe thấy gì ngoài tiếng quạt của máy tính. Cô ta quay lại phía tôi và nói. “Nhịn thêm mười phút nữa, rồi từng đứa bọn mày sẽ được đi tiểu.” “Tôi không nghĩ mình còn có thể nín thêm được mười phút nữa,” tôi nói, thêm một chút khẩn cấp trong giọng nói của mình. “Nghiêm túc mà nói, thưa quý cô, bây giờ hoặc không bao giờ cả.” Cô ta lắc đầu và nhìn tôi như một kẻ thua cuộc thảm hại. Cô ta và đồng bọn bàn bạc thêm, rồi một người khác tiến lên phía trước. Hắn ta già hơn, khoảng ba mươi ba mốt, đôi vai khá đồ sộ, như kiểu hắn luôn tập luyện với cường độ cao. Trông hắn giống người Trung Quốc hay Hàn Quốc - cái này ngay đến Van đôi lúc cũng không phân biệt được - nhưng lại có tác phong trông rất Mỹ theo một cách mà tôi không tài nào nói rõ được. Hắn kéo vạt áo khoác thể thao ra để cho tôi thấy vũ khí giắt bên trong: tôi nhận ra một khẩu súng lục, một dùi cui điện và một cái gì đó giống gậy hoặc bình xịt tiêu, rồi lại kéo áo lại. “Không vấn đề gì,” hắn nói. “Ừ,” tôi đồng ý. Hắn chạm vào cái gì đó ở thắt lưng của hắn và cái còng ở sau lưng tôi tuột ra, cánh tay tôi đột nhiên rơi thõng xuống đằng sau. Như thể hắn đeo cái thắt lưng đa năng của Người Dơi vậy - điều khiển còng tay không dây từ xa! Tôi nghĩ nó rất hợp lý, dù sao thì bạn cũng không muốn cúi xuống trước mặt tù nhân của mình với tất cả những thứ vũ khí chết người đó trong tầm mắt của họ - họ có thể giành lấy súng bằng răng và kéo cò súng bằng lưỡi hay cái gì đó. Hai bàn tay tôi vẫn bị dây nhựa dẻo trói quặt ra phía sau, và giờ, khi không được đỡ bởi chiếc còng, tôi nhận ra chân mình đã tê cứng trong lúc chết gí ở một tư thế. Tóm lại là, tôi ngã đập mặt xuống đất, đá đá chân một cách yếu ớt vì chúng rần rần như có kiến bò ở trong, cố gắng đặt chúng ngay ngắn dưới phần thân để tôi có thể cảm thấy bàn chân của mình. Gã đàn ông kéo tôi đứng lên và tôi bước xiêu vẹo về phía sau xe, tới nhà vệ sinh di động ở đó. Tôi cố gắng tìm Darryl trên đường quay lại, nhưng nó có thể là bất cứ ai trong số năm hay sáu người đang vạ vật ở đó. Hoặc không là ai cả. “Vào đi,” gã đàn ông nói. Tôi giật cổ tay ra. “Làm ơn tháo cái này ra được không?” Tôi cảm giác ngón tay mình như những miếng xúc xích tím ngắt sau hàng giờ bị trói nghiến trong sợi dây nhựa dẻo. Hắn không nhúc nhích. “Coi này,” tôi nói, cố gắng không tỏ vẻ mỉa mai hay giận dữ (không hề dễ). “Coi này, hoặc là anh phải giúp tôi nới lỏng bàn tay hoặc anh sẽ phải giúp tôi đi tè. Một chuyến viếng thăm nhà vệ sinh không phải là lúc không cần dùng đến tay.” Ai đó trong xe cười khẩy. Gã này không ưa gì tôi, tôi có thể cảm thấy qua cách cơ miệng hắn chuyển động. Trời ơi, những con người này thật lạnh lẽo. Gã đàn ông đưa tay xuống thắt lưng và kéo ra một bộ đồ đa năng rất đẹp. Hắn rút một con dao nhìn rất nguy hiểm, lướt nó qua đám dây trói bằng nhựa dẻo và tay tôi lại được tự do. “Cảm ơn,” tôi nói. Hắn xô tôi vào phòng tắm. Bàn tay tôi trở nên vô dụng, giống như hai cục đất sét gắn vào cổ tay vậy. Khi tôi khẽ nhúc nhích các ngón tay, chúng ngứa ran, rồi cơn ngứa biến thành một cảm giác nóng rực khiến tôi gần như thét lên. Tôi đặt bệ xuống, tụt quần và ngồi xuống. Tôi không tin mình có thể tự đứng vững nữa. Sau khi bàng quang của tôi được thả lỏng, mắt tôi cũng dễ chịu dần. Tôi lặng lẽ khóc, lắc lư qua lại trong khi nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để không bật khóc nức nở - tôi bịt miệng lại và kìm nén những âm thanh thổn thức. Tôi không muốn chúng được thỏa mãn. Cuối cùng, tôi vừa tiểu vừa khóc trong khi gã kia đập cửa thình thịch bên ngoài. Tôi cố gắng lau mặt sạch sẽ bằng một nắm giấy vệ sinh, ném xuống bồn cầu và giật nước, rồi nhìn quanh tìm bồn rửa mặt nhưng chỉ thấy một bình xịt thuốc rửa tay hoạt tính mạnh được bọc bởi một tờ giấy nhỏ in các thành phần sinh học của nó. Tôi xoa một ít vào tay và bước khỏi nhà vệ sinh. “Mày làm trò gì trong đó thế?” gã đàn ông nói. “Sử dụng các tiện ích,” tôi nói. Hắn xoay tôi lại, tóm lấy tay tôi và tôi cảm thấy một cái còng tay bằng nhựa dẻo mới được phập vào. Cổ tay tôi đã sưng phồng sau lần gần nhất bị trói mà cái còng mới thì siết vào làn da mỏng manh của tôi một cách tàn bạo, nhưng tôi sẽ không khóc toáng lên để hắn được thỏa mãn. Hắn trói tôi vào chỗ cũ và tóm lấy người tiếp theo, tôi nhận ra chính là Jolu, với khuôn mặt sưng vù và một vết bầm tím trên má. “Cậu ổn chứ?” tôi hỏi, và gã đàn ông có thắt lưng đa năng bất ngờ đặt tay lên trán tôi và đẩy mạnh, khiến đầu tôi bật về phía tường kim loại của xe tải, tạo ra một âm thanh nghe như tiếng chuông đồng hồ. “Không được nói,” hắn nói trong khi tôi vật lộn để kéo mắt mình tập trung vào một điểm. Tôi không thích những người này. Và ngay lúc đó tôi đã quyết định rằng bọn chúng sẽ phải trả giá cho tất cả những điều này. Từng người một, tất cả những tù nhân tới nhà vệ sinh và trở lại, và khi tất cả đã xong, kẻ canh giữ tôi quay lại với đám bạn của hắn và uống thêm một tách cà phê nữa - tôi thấy chúng uống từ một cái bình giấy bìa lớn của Starbucks - cuộc nói chuyện không rõ ràng và pha lẫn tiếng cười. Rồi cánh cửa phía cuối xe bật mở, không khí trong lành ùa vào, không còn ám khói như trước nhưng thoáng mùi khí ozone. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi tôi nhìn thấy cảnh vật bên ngoài trước khi cửa đóng, tôi thấy trời tối om, và đang mưa, một cơn mưa bụi giống như sương mù của San Francisco. Người đàn ông vừa bước vào mặc một bộ quân phục. Quân phục Hoa Kỳ. Ông chào mọi người trong xe và họ cũng chào lại ông, đó là lúc tôi biết rằng tôi không phải tù nhân của nhóm khủng bố nào cả - tôi là tù nhân của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Họ dựng một cái màn che nhỏ ở cuối xe rồi nhặt từng đứa chúng tôi một, cởi trói và dẫn tới sau xe. Theo như tôi tính - bằng cách đếm từng giây trong đầu, một con hà mã, hai con hà mã - thì mỗi cuộc tra hỏi kéo dài khoảng bảy phút. Đầu tôi váng vất do cơ thể bị thiếu nước và caffeine. Tôi là người thứ ba, người phụ nữ với mái tóc được cắt thẳng băng đưa tôi tới. Nhìn gần, trông cô ta mệt mỏi với quầng thâm dưới mắt và những nếp nhăn nơi khóe miệng. “Cảm ơn,” tôi nói một cách máy móc trong khi cô ta cởi trói cho tôi bằng điều khiển từ xa và kéo tôi đứng thẳng lên. Tôi ghét bản thân vì cái lối lịch sự máy móc này, nhưng nó đã ăn sâu vào tôi mất rồi. Cơ mặt cô ta không hề nhúc nhích. Tôi đi trước cô ta tới cuối xe, đằng sau màn che. Có một chiếc ghế gập đơn và tôi ngồi xuống đó. Hai người bọn họ - người phụ nữ có mái tóc cắt bằng và người đàn ông với chiếc thắt lưng đa năng - nhìn tôi từ chiếc ghế siêu công thái của họ. Giữa họ là một chiếc bàn trải đầy đồ trong ví và ba lô của tôi. “Xin chào, Marcus,” người phụ nữ với mái tóc cắt bằng nói. “Chúng tôi có vài câu hỏi cho cậu.” “Tôi đang bị bắt giữ à?” tôi hỏi. Đây không phải một câu hỏi vẩn vơ. Nếu bạn không bị bắt giữ thì có những giới hạn nhất định trong việc cảnh sát được phép và không được phép đối xử với bạn. Thứ nhất, họ không thể giữ bạn quá lâu mà không bắt giam bạn, không thể không cho bạn gọi một cuộc điện thoại và phải cho phép bạn nói chuyện với luật sư. Và ôi trời ơi, tôi rất muốn được nói chuyện với một luật sư. “Cái này để làm gì?” cô ta hỏi, tay cầm điện thoại của tôi. Màn hình đang hiện thông báo lỗi mà bạn sẽ thấy nếu cứ liên tục xâm nhập dữ liệu của nó mà không có mật mã đúng. Đó là một thông điệp khá thô lỗ - một bàn tay bằng đồ họa đang làm cái động tác mà cả thế giới đều nhận ra - vì tôi thích tùy biến đồ vật của mình. “Tôi đang bị bắt giữ phải không?” tôi lặp lại. Họ sẽ không thể bắt bạn trả lời bất cứ câu hỏi nào nếu bạn không bị bắt, và khi bạn hỏi họ câu hỏi này, họ phải trả lời bạn. Đó là luật. “Cậu đã bị Cục An ninh Nội địa giam giữ,” người phụ nữ ngắt lời. “Tôi có đang bị bắt giữ không?” “Cậu sẽ phải có thái độ hợp tác hơn nữa, Marcus, bắt đầu ngay từ bây giờ.” Cô ta không nói “Nếu không thì...” nhưng ai cũng hiểu. “Tôi muốn liên lạc với một luật sư,” tôi nói. “Tôi muốn biết tôi đã bị buộc tội gì. Tôi muốn xem vài giấy tờ chứng nhận của cả hai người.” Hai viên sĩ quan nhìn nhau. “Tôi nghĩ cậu nên thực sự cân nhắc lại cách tiếp cận của mình trong trường hợp này,” người phụ nữ có mái tóc cắt bằng nói. “Và tôi nghĩ cậu nên làm như thế ngay bây giờ. Chúng tôi tìm thấy một vài thiết bị đáng ngờ trên người cậu. Chúng tôi đã tìm thấy cậu và đồng bọn của cậu ở gần khu vực xảy ra vụ khủng bố nghiêm trọng nhất mà đất nước này từng chứng kiến. Kết nối hai sự kiện này lại thì mọi việc có vẻ không tốt đẹp lắm cho cậu đâu, Marcus. Cậu có thể hợp tác, hoặc là cậu sẽ phải vô cùng hối tiếc. Giờ thì, cái này để làm gì?” “Cô nghĩ tôi là quân khủng bố à? Tôi mới mười bảy tuổi!” “Vừa đủ tuổi - Al Qaeda thích tuyển chọn những đứa trẻ nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng. Chúng tôi đã tìm thông tin về cậu trên mạng, cậu biết đấy. Cậu đã đăng rất nhiều thứ không hay ho chút nào lên Internet.” “Tôi muốn nói chuyện với một luật sư,” tôi nói. Người phụ nữ với mái tóc cắt bằng nhìn tôi như thể tôi là một con bọ. “Cậu đã có ấn tượng sai lầm rằng mình bị cảnh sát bắt do phạm tội. Cậu cần phải vượt qua điều này. Cậu đang bị chính phủ Hoa Kỳ giam giữ như một kẻ có khả năng là chiến binh của kẻ thù. Nếu tôi là cậu, tôi sẽ phải suy nghĩ rất kỹ về việc làm thế nào để thuyết phục chúng tôi rằng cậu không phải là kẻ thù quốc gia. Rất rất kỹ. Bởi vì có những hốc tối mà kẻ thù quốc gia có thể biến mất vào trong, lỗ hổng rất sâu và tối, lỗ hổng mà cậu sẽ biến mất vào đó. Vĩnh viễn. Cậu có nghe tôi không anh bạn trẻ? Tôi muốn cậu mở khóa chiếc điện thoại này và giải mã những tệp tin trong bộ nhớ. Tôi muốn cậu tự giải thích cho mình: tại sao cậu ở trên con phố đó? Cậu biết gì về cuộc tấn công trong thành phố này?” “Tôi sẽ không mở khóa điện thoại của tôi cho cô,” tôi nói đầy căm phẫn. Bộ nhớ điện thoại của tôi có tất cả các loại tài liệu riêng tư trong đó: ảnh, e-mail, các bản hack và mod(2) nhỏ mà tôi đã cài. “Đó là đồ đạc riêng tư.” “Cậu có gì phải giấu?” “Tôi có quyền riêng tư của mình,” tôi nói. “Và tôi muốn nói chuyện với một luật sư.” “Đây là cơ hội cuối cùng của cậu, nhóc con. Những người thành thật không có gì phải giấu.” “Tôi muốn nói chuyện với một luật sư.” Bố mẹ tôi sẽ trả tiền. Tất cả những câu hỏi thường gặp về việc bắt giữ đã khá rõ ràng vào thời điểm này. Chỉ cần kiên quyết yêu cầu một luật sư, dù cho họ nói hay làm gì. Không có lợi gì khi nói chuyện với cớm mà không có mặt luật sư của bạn. Hai người bọn họ nói họ không phải cớm, nhưng nếu đây không phải là một vụ bắt giữ thì là cái gì? Nhưng suy đi tính lại, đáng lẽ tôi nên mở khóa điện thoại của mình cho họ. Chú thích: 1. Super Bowl (Siêu Cúp) là giải vô địch của Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia Mỹ. 2. Bản mod: Phiên bản đã được sửa đổi của một trò chơi, thêm hoặc bớt các yếu tố, nhân vật hoặc thay đổi kịch bản. Chương 4 Họ lại trói và trùm đầu tôi rồi bỏ tôi ở đó. Một lúc lâu sau, chiếc xe tải bắt đầu chuyển động, lăn xuống dốc và tôi bị lôi mạnh. Lập tức tôi ngã lăn ra. Chân tôi tê dại tới mức tôi thấy cả hai chân như những tảng băng, ngoại trừ cái đầu gối sưng phồng và mềm nhũn sau hàng giờ phải quỳ. Những bàn tay tóm lấy vai và chân tôi, tôi bị nhấc lên như một bao khoai tây. Quanh tôi là những giọng nói mơ hồ. Kẻ khóc lóc. Người chửi rủa. Tôi bị khiêng đi một quãng đường ngắn rồi được đặt xuống, trói vào một rào chắn khác. Đầu gối không thể đỡ nổi tôi nữa, tôi chúi đầu về phía trước, kết cục là ngã xoắn xuống đất như một cái bánh quy, làm sợi dây trói quanh cổ tay căng ra. Rồi chúng tôi lại chuyển động, lần này không giống như đi trên một chiếc xe tải. Sàn nhà dưới chân tôi rung lên nhè nhẹ và lắc lư vì những động cơ diesel nặng nề, tôi nhận ra mình đang ở trên một con tàu! Dạ dày tôi đông cứng. Tôi đang bị tống khỏi nước Mỹ để tới một nơi khác, và có Chúa mới biết đó là nơi nào? Trước đây tôi đã từng sợ hãi, nhưng ý nghĩ này khiến tôi kinh hoàng, đờ người ra, không nói lên lời vì sợ. Tôi chợt nhận ra có thể mình sẽ không bao giờ được gặp lại bố mẹ nữa và tôi thực sự cảm thấy buồn nôn. Cái túi bọc quanh đầu tôi thít chặt lại khiến tôi khó thở, thêm vào đó là cái tư thế kỳ cục mà tôi đang bị xoắn vào. Nhưng ơn Chúa chúng tôi không phải ở trên nước lâu lắm. Cảm giác như một tiếng đồng hồ, nhưng đến nay thì tôi biết rằng chỉ có mười lăm phút, rồi tôi cảm thấy tàu cập bến, cảm thấy những bước chân trên boong, các tù nhân khác được cởi trói, khiêng đi hoặc dẫn đi quanh tôi. Khi họ tiến về phía tôi, tôi cố gắng đứng dậy một lần nữa nhưng không thể, thế là họ lại khiêng tôi đi, vô cảm và thô bạo. Khi họ tháo bao trùm đầu ra, tôi đã ở trong xà lim. Xà lim cũ và đổ nát, đượm mùi không khí biển. Có một cửa sổ ở trên cao với những song sắt gỉ sét. Bên ngoài trời vẫn tối. Có một tấm chăn trên sàn nhà và một bồn cầu bằng kim loại không có chỗ ngồi, gắn vào tường. Tên cai ngục vừa tháo bao trùm đầu cho tôi đang cười nhăn nhở và đóng cánh cửa bằng thép đặc lại. Tôi nhẹ nhàng xoa bóp hai chân, rên rỉ khi máu lưu thông trở lại chân và bàn tay. Cuối cùng tôi cũng có thể đứng dậy và đi lại. Tôi nghe thấy những người khác đang nói, khóc, gào thét. Tôi cũng gào lên: “Jolu! Darryl! Vanessa!” Những giọng nói khác trong cả tòa nhà đang khóc lóc, hét gọi tên nhau, chửi bới tục tĩu. Những giọng nói gần nhất nghe như của mấy gã say xỉn mất trí trên đường. Có lẽ giọng tôi nghe cũng giống như vậy. Đám cai ngục quát nạt bắt chúng tôi im lặng nhưng điều đó chỉ khiến mọi người la hét to hơn. Cuối cùng chúng tôi cứ tru tréo, gào lên đến nổ tung đầu, gào lên đến khô cả họng. Sao không chứ? Chúng tôi còn gì để mất nào? Lần tiếp theo họ tới tra hỏi tôi, tôi đã bẩn thỉu mệt mỏi và đói khát. Người phụ nữ có mái tóc cắt bằng có mặt trong nhóm tra hỏi mới, cùng với ba gã đàn ông to con xoay tôi như một miếng thịt. Một gã da đen và hai gã da trắng, có vẻ một gã là người gốc Nam Mỹ. Họ đều mang súng. Cứ như thể quảng cáo quần áo của Benneton trộn với trò Counter-Strike. Họ đưa tôi ra khỏi xà lim, xích cổ tay cổ chân tôi lại. Vừa đi tôi vừa để ý xung quanh. Tôi nghe thấy tiếng nước bên ngoài và nghĩ có lẽ chúng tôi đang ở Alcatraz - nó vẫn chỉ là một nhà ngục dù luôn được nói đến như một địa điểm du lịch hấp dẫn bao nhiêu thế hệ, nơi bạn đến để xem Al Capone và băng đảng của hắn đã làm gì trong thời đại của chúng. Tôi đã tới Alcatraz trong một chuyến dã ngoại ở trường. Nó cũ kỹ, mục nát và đậm chất trung cổ. Đứng ở đây, người ta có cảm giác như đang quay lại thời Thế chiến thứ II chứ không phải thời thuộc địa. Trên mỗi cánh cửa phòng giam đều có miếng dán in mã vạch và số phòng, nhưng ngoài những thứ đó ra thì không có cách nào để biết ai hoặc cái gì ở đằng sau chúng. Phòng tra hỏi khá hiện đại với đèn huỳnh quang, ghế công thái - nhưng tất nhiên là không dành cho tôi, tôi được ngồi trên một chiếc ghế nhựa gấp loại dùng trong các khu vườn - và một chiếc bàn gỗ lớn cho phòng họp. Trên tường là một tấm gương giống trong những chương trình về cảnh sát, và tôi đồ rằng hẳn có ai đó đang quan sát từ phía sau nó. Người phụ nữ với mái tóc cắt bằng và bạn của cô ta lấy cà phê từ bình hãm trên cái bàn nhỏ (lúc ấy, đáng ra tôi có thể dùng răng cắn toạc cổ họng cô ta và giằng lấy cà phê) rồi đặt tách nước đầy bọt xuống cạnh tôi - mà không mở còng tay ở sau lưng cho tôi nên tôi không thể với được. Ha ha ha. “Chào Marcus,” người phụ nữ có mái tóc cắt bằng nói. “Thái độ của cậu hôm nay ra sao?” Tôi không nói gì cả. “Chuyện không đến nỗi quá tệ đâu, cậu biết đấy,” cô ta nói. “Từ giờ trở đi, nó sẽ không thể nào tốt hơn được nữa. Thậm chí một khi cậu nói cho chúng tôi những gì chúng tôi muốn biết, thậm chí nếu điều đó thuyết phục được chúng tôi rằng cậu chỉ ở đó không đúng lúc đúng chỗ, thì cậu cũng đã bị đánh dấu. Chúng tôi sẽ theo dõi mọi nơi cậu đến và mọi việc cậu làm. Cậu đã hành động như thể muốn giấu giếm điều gì đó, và chúng tôi không thích điều này.” Thật thảm hại, nhưng tất cả những gì não tôi có thể nghĩ tới là cụm từ đó, “thuyết phục chúng tôi rằng cậu đã ở đó không đúng lúc đúng chỗ.” Đây là điều tồi tệ nhất từng xảy ra với tôi. Trước đây tôi chưa bao giờ cảm thấy tồi tệ hay sợ hãi thế này. Những chữ này, “không đúng lúc đúng chỗ”, năm chữ này, chúng như sợi dây cứu sinh đung đưa trước mắt tôi khi mà tôi đang quẫy đạp trên mặt nước. “Này, Marcus?” cô ta bật ngón tay trước mặt tôi. “Nhìn đây, Marcus.” Cô ta khẽ cười và tôi ghét bản thân mình vì để cô ta thấy nỗi sợ của mình. “Marcus, mọi việc có thể xấu hơn thế này rất nhiều. Đây không phải là nơi tệ nhất chúng tôi có thể giữ cậu, hoàn toàn không.” Cô ta đưa tay xuống dưới cái bàn, kéo ra một chiếc va li rồi mở nó ra. Từ đó, cô ta rút ra điện thoại, máy bắn/làm nhái thẻ RFID, bộ dò WiFi và mấy cái USB của tôi. Cô ta đặt từng thứ một xuống bàn. “Đây là những việc chúng tôi muốn cậu làm. Cậu phải mở khóa điện thoại cho chúng tôi hôm nay. Nếu cậu làm thế, cậu sẽ được hưởng đặc quyền ra ngoài trời và đi tắm. Cậu sẽ được tắm rửa và được phép đi lại trong sân thể dục. Ngày mai, chúng tôi sẽ đưa cậu quay lại và yêu cầu cậu giải mã những dữ liệu trong các thẻ nhớ này. Làm thế, cậu sẽ được ăn ở phòng chung. Ngày tiếp theo, chúng tôi muốn mật mã e-mail của cậu, và nó sẽ cho cậu đặc quyền được sử dụng thư viện.” Từ “không” đã ở ngay trên môi tôi, giống như tiếng ợ muốn phụt ra ngoài, nhưng nó không chịu ra. Thay vào đó, tôi nói: “Tại sao?” “Chúng tôi muốn chắc chắn rằng cậu đúng như chúng tôi phán đoán. Đây là vì sự an toàn của chính cậu, Marcus. Cứ nói rằng cậu vô tội đi. Có thể cậu vô tội, tuy nhiên tại sao một người vô tội lại hành động như thể anh ta có quá nhiều điều để che giấu tôi. Nhưng cứ cho rằng cậu vô tội đi: cậu có thể đã ở trên cây cầu đó khi nó bị nổ tung. Bố mẹ cậu cũng có thể đã ở đó. Bạn bè cậu. Cậu không muốn chúng tôi bắt được những kẻ đã tấn công gia đình mình sao?” Thật buồn cười, nhưng khi cô ta nói chuyện về việc tôi sẽ được nhận những “đặc quyền”, tôi cảm thấy sợ phát khiếp. Tôi cảm tưởng như mình đã làm điều gì đó để giờ phải chịu kết cục như thế này, như thể một phần sự việc là do lỗi của tôi, như thể tôi đã có thể làm gì đó để thay đổi nó vậy. Nhưng ngay khi cô ta chuyển sang những thứ về “sự an toàn” và “an ninh”, dũng khí của tôi quay lại. “Thưa cô,” tôi nói, “cô đang nói về việc tấn công gia đình tôi, nhưng cho đến bây giờ tôi có thể nói rằng cô là người duy nhất đã tấn công tôi. Tôi cứ nghĩ rằng tôi sống ở một đất nước có hiến pháp. Tôi cứ nghĩ rằng tôi sống ở một đất nước nơi tôi có quyền. Cô đang nói về việc bảo vệ sự tự do của tôi bằng cách xé tan tành Bản tuyên ngôn nhân quyền.” Một nét khó chịu thoáng qua mặt cô ta rồi biến mất. “Thật thống thiết, Marcus. Không ai tấn công cậu. Cậu chỉ bị giam giữ bởi chính phủ của đất nước cậu trong khi chúng tôi tìm kiếm những chi tiết về vụ khủng bố tệ hại nhất từng xảy ra trên lãnh thổ của chúng ta. Cậu có trong tay sức mạnh để giúp chúng tôi chiến đấu trong cuộc chiến chống lại kẻ thù quốc gia này. Cậu muốn giữ gìn Bản tuyên ngôn nhân quyền phải không? Hãy giúp chúng tôi ngăn chặn những kẻ xấu đã thổi bay thành phố của cậu. Giờ thì cậu có chính xác ba mươi giây để mở khóa cái điện thoại này trước khi tôi đưa cậu quay lại xà lim. Chúng tôi phải phỏng vấn rất nhiều người khác nữa trong hôm nay.” Cô ta nhìn vào đồng hồ. Tôi khua cổ tay mình, khua đám dây xích đang ngăn tôi không thể với ra xung quanh và mở khóa điện thoại. Đúng thế, tôi định làm thế đấy. Cô ta đã chỉ cho tôi con đường tới tự do - tới thế giới, tới cha mẹ tôi - và điều này đã cho tôi hy vọng. Giờ cô ta lại dọa sẽ đưa tôi đi, bắt tôi ra khỏi con đường đó, hy vọng của tôi đã sụp đổ và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là làm sao để giành lại cơ hội. Thế nên tôi khua cổ tay, muốn lấy điện thoại để mở khóa cho cô ta, và cô ta chỉ lạnh lùng nhìn tôi, kiểm tra đồng hồ. “Mật mã,” tôi nói, cuối cùng cũng hiểu cô ta muốn gì ở tôi. Cô ta muốn tôi nói to lên, ở đây, nơi cô ta có thể thu lại, nơi đồng sự của cô ta có thể nghe thấy. Cô ta không muốn tôi chỉ mở khóa điện thoại không thôi. Cô ta muốn tôi phải tuân lệnh cô ta. Để cô ta toàn quyền kiểm soát tôi. Đưa cho cô ta toàn bộ bí mật, toàn bộ sự riêng tư của tôi. “Mật mã,” tôi nhắc lại, và rồi nói cho cô ta biết. Xin Chúa giúp con, con đã phục tùng ý muốn của cô ta. Cô ta nở một nụ cười ra vẻ nghiêm nghị, nụ cười chắc chắn phải tương đương như điệu nhảy chiến thắng của nữ hoàng băng giá, rồi mấy gã quản ngục dẫn tôi đi. Khi cửa đóng lại, tôi nhìn thấy cô ta cúi xuống cái điện thoại để nhập mật mã vào. Ước gì tôi có thể nói rằng tôi đã dự tính trước khả năng này để tạo ra một mật mã giả chỉ có thể mở được phần hoàn toàn vô hại trong điện thoại của mình, nhưng tôi cũng chưa hoang tưởng/tinh ranh tới mức ấy. Đến đây có thể bạn sẽ tự hỏi tôi giấu những bí mật đen tối gì trong điện thoại, thẻ nhớ và e-mail. Dù sao thì tôi vẫn chỉ là một đứa nhóc thôi mà. Sự thật là tôi có tất cả mọi thứ để giấu, và không có gì cả. Xem điện thoại và thẻ nhớ của tôi, bạn có thể có khái niệm về chuyện bạn bè tôi là ai, tôi nghĩ gì về họ, tất cả những việc ngớ ngẩn chúng tôi đã làm. Bạn có thể đọc được phiên bản điện tử của những lần cãi vã giữa chúng tôi, và những cuộc dàn hòa chúng tôi đã đạt được. Như bạn thấy đó, tôi không xóa mọi thứ đi. Tại sao phải xóa chứ? Việc lưu trữ thì rẻ, và bạn không bao giờ biết khi nào bạn muốn xem lại những thứ đó. Nhất là những thứ ngốc nghếch. Bạn biết cảm giác đôi khi bạn phải ngồi đợi ở bến tàu điện ngầm và không có ai để nói chuyện, rồi đột nhiên bạn nhớ ra một cuộc tranh cãi gay gắt nào đó mà mình đã dính vào hay một điều khủng khiếp nào đó mà mình đã nói? Chà, thường thì nó không tệ như bạn nhớ đâu. Việc có thể quay lại và xem lại là một cách tuyệt vời để tự nhắc nhở rằng bạn không tệ như bạn vẫn nghĩ về bản thân. Những cuộc tranh cãi như thế giữa Darryl và tôi nhiều đến mức tôi không thể đếm được. Mà thậm chí đấy cũng không phải là vấn đề. Tôi biết điện thoại của tôi là riêng tư. Tôi biết thẻ nhớ của tôi là riêng tư. Đó là nhờ thuật mã hóa - mã hóa tin nhắn. Thuật toán của quá trình mã hóa khá tốt và chắc chắn, mặt khác, bạn và tôi đều có thể tiếp cận tới cùng một hệ mã hóa mà các ngân hàng và Cơ quan An ninh Quốc gia sử dụng. Tất cả mọi người đều áp dụng một dạng mã hóa duy nhất: dạng mã hóa công cộng, mở và có thể được triển khai bởi bất kỳ ai. Đó là cách để bạn biết rằng nó hoạt động. Có điều gì đó thật phóng khoáng trong việc có một góc nào đó trong cuộc sống của bạn chỉ thuộc về bạn, nơi không ai có thể thấy ngoài bạn. Nó hơi giống như việc khỏa thân hay đi vệ sinh. Ai cũng phải trần truồng một lúc nào đó. Ai cũng phải đi vệ sinh trong bồn cầu. Chẳng có gì đáng xấu hổ, khác thường hay kỳ cục về những việc này cả. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi ra sắc lệnh từ bây giờ, mỗi khi muốn bài tiết những chất thải rắn, bạn phải làm việc này ở trong một phòng kính đặt giữa Quảng trường Thời Đại, và bạn buộc phải trần như nhộng? Dù cho cơ thể bạn không có gì khiếm khuyết hay dị thường - mà bao nhiêu người trong số chúng ta có thể như thế? - thì nhất định bạn phải khá kỳ quặc mới thích ý tưởng trên. Hầu hết chúng ta sẽ chạy trốn và gào thét. Hầu hết chúng ta sẽ nhịn cho đến khi bị nổ tung. Vấn đề không phải là bạn làm điều gì đáng xấu hổ. Vấn đề là bạn đang làm một việc riêng tư. Vấn đề là cuộc sống của bạn thuộc về bạn. Họ đang dần tước điều đó khỏi tôi, từng mảnh một. Khi đi lại xà lim, cảm giác về việc đang bị tống giam lại quay trở lại với tôi. Trong đời mình, tôi đã phá vỡ rất nhiều luật lệ và hầu như vụ nào cũng trót lọt. Có lẽ đây là sự công bằng. Có lẽ đây là quá khứ quay lại hỏi thăm tôi. Rốt cuộc, tôi đã có mặt ở cái nơi mà lẽ ra tôi phải có mặt vì tội trốn học. Tôi được phép tắm. Tôi được phép đi lại trong sân. Tôi thấy một khoảng trời trên đầu, và ngửi thấy mùi giống như khu Vịnh, ngoài ra thì tôi không có manh mối nào về việc tôi bị giam giữ ở đâu. Tôi không thấy tù nhân nào khác trong suốt thời gian đi dạo, và tôi chán đi vòng quanh rồi. Tôi căng tai ra nghe ngóng bất kỳ tiếng động nào có thể giúp tôi biết được đây là đâu, nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là những âm thanh đứt quãng của xe cộ, một vài cuộc nói chuyện xa xăm, một máy bay đang hạ cánh ở nơi nào đó gần đây. Họ mang tôi trở lại xà lim và cho tôi ăn, một nửa miếng bánh xúc xích bò heo rắc hạt tiêu từ cửa hàng Goat Hill Pizza, nơi mà tôi biết rất rõ, ở trên đồi Potrero. Cái hộp các tông với hình vẽ quen thuộc và số điện thoại 415 càng gợi tôi nhớ rằng chỉ một ngày trước đây, tôi còn là một con người tự do trong một một đất nước tự do, và giờ thì tôi đã là một tù nhân. Tôi không ngớt lo lắng cho Darryl và những người bạn khác. Có thể họ đã chịu khó hợp tác hơn và được thả ra rồi. Có thể họ đã nói với cha mẹ tôi và giờ mọi người đang điên cuồng tìm kiếm khắp nơi cũng nên. Mà cũng có thể không. Xà lim trống trải một cách khủng khiếp, rỗng không như tâm hồn tôi. Tôi tưởng tượng bức tường đối diện giường tôi là một màn hình để ngay lúc này tôi có thể đột nhập hệ thống và mở cửa xà lim. Tôi mơ màng về bàn làm việc của mình và những kế hoạch ở đó - những chiếc can cũ mà tôi đã biến thành thiết bị âm thanh nổi hạng bét, máy chụp ảnh trên không bằng diều mà tôi đang làm và cái laptop tôi tự ráp lấy. Tôi muốn ra khỏi đây. Tôi muốn về nhà, gặp lại bạn bè, trường học, cha mẹ và sống cuộc sống của mình. Tôi muốn được đi bất kỳ nơi đâu tôi muốn chứ không phải là cứ đi đi lại lại ở đây mãi. Kế tiếp, họ lấy mật khẩu USB của tôi. Trong đó chứa một số thông điệp thú vị mà tôi tải về được từ dăm ba nhóm thảo luận trực tuyến, vài đoạn chat, những chỗ mà tôi đã tìm ra kiến thức cần có để làm những việc tôi đã làm. Chẳng có gì trong đó mà mà bạn không thể tìm được bằng Google, tất nhiên, nhưng tôi không cho rằng điều này sẽ giúp được gì cho mình. Tôi lại được ra tập thể dục vào chiều hôm ấy, và lần này có những người khác trong sân khi tôi tới, bốn anh chàng khác và hai người phụ nữ, ở mọi lứa tuổi và chủng tộc khác nhau. Tôi đồ rằng rất nhiều người đang làm nhiều việc để giành được “đặc quyền”. Họ cho tôi nửa giờ đồng hồ, và tôi cố gắng bắt chuyện với người trông có vẻ bình thường nhất trong đám tù nhân, một anh chàng da đen trạc tuổi tôi, có mái tóc xoăn ngắn. Nhưng khi tôi tự giới thiệu và giơ tay ra, cậu ta liếc về hướng những máy quay được gắn một cách đáng ngại trên các góc sân và cứ tiếp tục đi, không hề thay đổi nét mặt dù chỉ một chút. Nhưng rồi, ngay trước khi họ gọi tên tôi và mang tôi quay lại tòa nhà, cửa mở ra và một người bước ra - Vanessa! Chưa bao giờ tôi hạnh phúc hơn thế khi được nhìn thấy một khuôn mặt thân thiện. Trông cô có vẻ mệt mỏi và cau có nhưng không bị thương, và khi nhìn thấy tôi, cô gào tên tôi và chạy về phía tôi. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau và tôi nhận ra mình đang run lẩy bẩy. Rồi tôi nhận ra Van cũng đang run không kém. “Cậu ổn chứ?” cô hỏi, vẫn giữ tôi trong tầm tay. “Mình ổn,” tôi trả lời. “Họ nói rằng họ sẽ thả mình nếu mình đưa cho họ các mật mã của mình.” “Họ cứ liên tục hỏi mình những câu hỏi về cậu và Darryl.” Một giọng nói phát ra từ loa phóng thanh, quát chúng tôi hãy ngừng nói chuyện và tiếp tục đi bộ, nhưng chúng tôi lờ nó đi. “Trả lời họ đi,” tôi nói ngay. “Bất cứ điều gì họ hỏi, hãy trả lời họ. Nếu điều đó giúp cậu được tự do.” “Còn Darryl và Jolu thì sao?” “Mình không thấy bọn họ.” Cánh cửa mở tung và bốn tên lính gác khổng lồ xông ra. Hai gã túm lấy tôi, hai gã giữ Vanessa. Chúng đè tôi xuống đất và xoay đầu tôi khỏi Vanessa, dù vậy tôi vẫn nghe thấy cô ấy cũng đang bị đối xử y như vậy. Chiếc còng bằng nhựa dẻo bập vào hai cổ tay tôi, rồi tôi bị giật chúi đầu xuống chân và bị đưa trở lại xà lim. Tối hôm đó không có bữa tối. Sáng hôm sau không có bữa sáng. Không ai tới mang tôi đến phòng xét hỏi để moi thêm bí mật. Cái còng tay bằng nhựa dẻo không được tháo ra, và vai tôi nóng ran, đau nhức, tê liệt, rồi lại nóng ran lên. Tay tôi hoàn toàn mất cảm giác. Tôi phải đi tiểu. Tôi không thể tự tụt quần. Tôi thực sự, thực sự phải đi tiểu. Tôi tè hết ra người. Sau đó, họ tới kiểm tra tôi, khi mà nước tiểu nóng đã nguội và trở nên ẩm ướt, khiến cho cái quần đã sẵn bẩn thỉu dính chặt vào chân tôi. Họ giải tôi tới đại sảnh dài có nhiều cánh cửa, mỗi cánh cửa có mã vạch riêng, mỗi mã vạch ứng với một tù nhân giống tôi. Họ giải tôi xuống hành lang và đưa tôi đến phòng xét hỏi, cứ như thể tôi đang bước vào một hành tinh khác vậy, một thế giới nơi tất cả đều bình thường, nơi mọi thứ không hôi thối và nồng nặc mùi nước tiểu. Tôi cảm thấy mình thật bẩn thỉu và đáng xấu hổ, tất cả cảm giác về việc tôi đáng phải chịu những điều này lại quay về. Người phụ nữ với mái tóc cắt bằng đã ngồi sẵn đó. Cô ta thật hoàn hảo: đội mũ và chỉ trang điểm nhẹ. Tôi ngửi thấy mùi tóc cô ta. Cô ta nhăn mũi với tôi. Trong thâm tâm, tôi cảm thấy sự xấu hổ lại trỗi dậy. “Chà, cậu là một đứa bé hư, phải không? Tên bẩn thỉu kia?” Tủi thẹn. Tôi cúi xuống bàn. Tôi không thể chịu được khi phải nhìn lên. Tôi chỉ muốn nói cho cô ta mật khẩu e-mail của mình và biến khỏi đây. “Cậu và bạn cậu đã nói gì với nhau trong sân?” Tôi cười phá lên với cái bàn. “Tôi bảo cô ấy hãy trả lời những câu hỏi của cô. Tôi bảo cô ấy phải hợp tác.” “Vậy là cậu đưa ra mệnh lệnh?” Tôi thấy máu réo rắt trong tai. “Ồi thôi nào,” tôi nói. “Chúng tôi chỉ cùng nhau tham gia một trò chơi, gọi là trò Harajuku Fun Madness. Tôi là trưởng nhóm. Chúng tôi không phải những kẻ khủng bố, chúng tôi chỉ là những học sinh cấp ba. Tôi không ra lệnh cho cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng chúng tôi cần phải thành thật với cô để có thể xóa bỏ hết mọi nghi ngờ và ra khỏi đây.” Cô ta không nói gì trong một lúc. “Darryl sao rồi?” tôi nói. “Ai cơ?” “Darryl. Các người đã bắt chúng tôi cùng lúc. Bạn tôi. Ai đó đã đâm cậu ấy ở ga BART, phố Powell. Chính vì thế chúng tôi mới phải ở trên mặt đường. Để tìm ai đó giúp cậu ấy.” “Vậy thì tôi chắc là cậu ta ổn,” cô ta đáp. Dạ dày tôi thắt lại và suýt chút nữa tôi đã nôn ra. “Cô không biết? Các người vẫn chưa đưa cậu ấy đến đây sao?” “Những người chúng tôi đưa đến hay không đưa đến đây không phải việc chúng tôi định bàn với cậu, không bao giờ. Cậu không được biết những điều đó. Marcus, cậu đã thấy điều gì xảy ra khi cậu không hợp tác với chúng tôi. Cậu đã thấy điều gì xảy ra khi cậu không tuân theo mệnh lệnh của chúng tôi. Cậu đã hợp tác một chút, và nó đã giúp cậu gần tới điểm cậu có thể được tự do. Nếu cậu muốn biến khả năng này trở thành hiện thực, cậu phải trả lời những câu hỏi của tôi.” Tôi không nói gì. “Cậu đang tiếp thu đấy, vậy là tốt. Giờ thì vui lòng cho tôi mật khẩu e-mail của cậu.” Tôi đã sẵn sàng. Tôi cung cấp cho họ mọi thứ: địa chỉ máy chủ, tên đăng nhập, mật khẩu. Điều này không thành vấn đề. Tôi chẳng giữ e-mail nào trong máy chủ của mình. Tôi đã tải hết về và để trong lap- top ở nhà, cứ sáu mươi giây cái laptop này lại tự động tải xuống và xóa tất cả thư của tôi trên máy chủ. Họ sẽ không thể tìm thấy gì trong hộp thư của tôi - mọi thứ đều đã được dọn sạch khỏi máy chủ và lưu trong laptop ở nhà. Họ đưa tôi về xà lim nhưng tôi được nới lỏng dây trói tay, tắm và mặc một cái quần của tù nhân màu da cam. Nó quá rộng so với tôi và bị tụt xuống hông, như một thằng nhóc Mexico ở khu Mission. Đó là nơi sinh ra cái trò quần-tụt-xuống-mông, bạn biết chứ? Từ trong tù. Đúng thế đấy, thật là kém vui khi biết rằng nó chả phải một tuyên ngôn thời trang gì hết. Họ mang quần bò của tôi đi, và tôi ở thêm một ngày nữa trong tù. Sau một tấm lưới thép là những bức tường bong tróc xi măng. Bạn có thể nói tấm lưới bằng thép vì không khí đang mằn mặn đầy mùi thép gỉ, và dưới ánh sáng màu cam đỏ, tấm lưới ánh lên qua lớp sơn màu xanh. Bố mẹ tôi đang ở đâu đó bên ngoài cái cửa sổ ấy. Ngày hôm sau họ lại tới. “Chúng tôi đã đọc thư của cậu được một ngày. Chúng tôi đã đổi mật khẩu để máy tính ở nhà cậu không thể tiếp nhận thông tin nữa.” Chà, tất nhiên họ đã làm thế. Đáng ra tôi cũng phải làm vậy chứ nhỉ, giờ tôi mới nghĩ tới điều này. “Chúng tôi đã có đủ thông tin để tống giam cậu trong một thời gian dài, Marcus. Việc cậu sở hữu những bài viết đó” - cô ta chỉ vào đống đồ nho nhỏ của tôi - “và dữ liệu chúng tôi tìm lại được từ điện thoại và thẻ nhớ, cũng như những tài liệu mang tính phá hoại mà chúng tôi chắc chắn sẽ tìm ra nếu đột nhập nhà cậu và lấy máy tính của cậu. Nó đủ để tống giam cậu cho đến khi cậu già khụ. Cậu hiểu điều này chứ?” Trong một giây, tôi đã không tin. Không đời nào một tòa án lại tuyên bố rằng tất cả những thứ này cấu thành nên bất cứ loại tội ác nào. Đó là tự do ngôn luận, đó là niềm đam mê công nghệ. Nó không phải tội ác. Nhưng ai nói là những người này sẽ đưa tôi ra trước một phiên tòa nào chứ. “Chúng tôi biết cậu sống ở đâu, chúng tôi biết bạn bè cậu là ai. Chúng tôi biết cách cậu hoạt động và tư duy.” Rồi ý nghĩ đó lóe lên trong đầu tôi. Họ chuẩn bị thả tôi. Căn phòng như bừng sáng. Tôi nghe thấy mình đang thở, những hơi thở ngắn ngủn. “Chúng tôi chỉ muốn biết một điều nữa: máy móc để vận chuyển bom lên cầu là loại máy gì?” Tôi ngừng thở. Căn phòng tối sầm lại. “Cái gì?” “Có mười điểm đặt bom trên cầu, dọc chiều dài cây cầu. Chúng không ở trong thùng xe. Chúng đã được đặt ở đó. Ai đã đặt chúng ở đó và làm thế nào để chuyển chúng lên đó?” “Cái gì?” tôi lặp lại. “Đây là cơ hội cuối cùng của cậu, Marcus,” cô ta nói. Cô ta có vẻ buồn bã. “Cho đến giờ cậu đã làm rất tốt. Nói cho chúng tôi điều này là cậu có thể về nhà. Cậu có thể thuê một luật sư bào chữa cho mình trước tòa. Chắc chắn là có những trường hợp giảm nhẹ tội mà cậu có thể sử dụng để giải thích cho hành động của mình. Chỉ cần nói cho chúng tôi điều này, cậu sẽ được thả.” “Tôi không biết cô đang nói về cái gì!” Tôi đang khóc và thậm chí không thèm quan tâm đến điều đó. Khóc nức nở đến sưng cả mắt. “Tôi không hiểu cô đang nói về cái gì!” Cô ta lắc đầu. “Marcus, làm ơn. Hãy để chúng tôi giúp cậu. Đến giờ cậu đã biết rằng chúng tôi luôn đạt được thứ chúng tôi theo đuổi.” Có một âm thanh lắp bắp phía trong trí óc tôi. Họ điên rồi. Tôi lấy lại bình tĩnh, cố gắng hết sức để ngừng khóc. “Nghe đây, thưa bà, điều này thật điên rồ. Bà đã xem hết đồ đạc của tôi, đã xem hết rồi. Tôi là một thằng nhóc mười bảy tuổi học cấp ba, không phải kẻ khủng bố! Bà không thể nào nghĩ một cách nghiêm túc...” “Marcus, vậy là cậu vẫn chưa thấy rằng chúng tôi đang nghiêm túc sao?” Cô ta lắc đầu. “Cậu được điểm số khá cao ở trường. Tôi tưởng cậu phải thông minh hơn thế.” Cô ta búng nhẹ tay và những tên lính gác nhấc nách tôi dậy. Quay trở lại xà lim, hàng trăm từ ngữ xuất hiện trong tôi. Người Pháp gọi điều này là esprit d’escalier - tinh thần bậc thang, những lời bác bỏ mạnh mẽ đến với bạn sau khi bạn rời khỏi phòng và bước xuống cầu thang. Trong đầu mình, tôi đang đứng dậy và giãi bày, nói cho cô ta rằng tôi là một công dân yêu tự do, điều này khiến tôi là một người ái quốc và biến cô ta thành kẻ phản bội. Trong đầu mình, tôi đang khiến cô ta hổ thẹn vì đã biến đất nước tôi thành một trại vũ trang. Trong đầu mình, tôi đang ăn nói hùng hồn và xuất sắc, làm cô ta phải bật khóc. Nhưng bạn cũng biết đấy, không điều gì trong những lời lẽ hay ho đó quay lại với tôi khi họ kéo tôi đi vào ngày hôm sau. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là tự do. Bố mẹ tôi. “Xin chào, Marcus,” cô ta nói. “Cậu thấy thế nào?” Tôi nhìn xuống bàn. Cô ta đặt một chồng tài liệu ngăn nắp trước mặt, bên cạnh là tách cà phê Starbucks loại mua về. Mơ hồ nó khiến tôi thấy thật dễ chịu, như nhắc tôi rằng có một thế giới thực ở đâu đó ngoài kia, bên ngoài những bức tường. “Đến giờ chúng tôi đã hoàn tất việc điều tra cậu.” Cô ta dừng lại ở đó. Hẳn điều này có nghĩa là cô ta sẽ thả tôi ra. Cũng có thể nó có nghĩa là cô ta sẽ ném tôi vào một cái hố và quên luôn rằng có tôi trên đời. “Và?” cuối cùng tôi nói. “Và tôi muốn cậu nhớ rằng chúng tôi rất nghiêm túc trong việc này. Đất nước chúng ta đã trải qua một vụ tấn công tệ nhất trong lịch sử. Cậu muốn chúng ta phải chịu đựng bao nhiêu vụ Mười một tháng Chín thì cậu mới sẵn sàng hợp tác? Chi tiết về những cuộc điều tra của chúng tôi là tuyệt mật. Chúng tôi sẽ không ngừng lại vì bất cứ lý do gì với nỗ lực đưa thủ phạm của những tội ác ghê tởm này ra trước công lý. Cậu hiểu chứ?” “Có,” tôi lầm bầm. “Hôm nay chúng tôi sẽ cho cậu về nhà, nhưng cậu đã bị đánh dấu. Cậu thuộc diện bị tình nghi - chúng tôi chỉ thả cậu vì lúc này chúng tôi đã hoàn tất việc xét hỏi cậu. Nhưng từ giờ trở đi, cậu thuộc về chúng tôi. Chúng tôi sẽ theo dõi cậu. Chúng tôi sẽ đợi cậu phạm sai lầm. Cậu hiểu rằng chúng tôi có thể theo dõi cậu mọi lúc chứ?” “Có,” tôi lầm bầm. “Tốt. Cậu sẽ không bao giờ nói chuyện với bất cứ ai về những gì đã xảy ra ở đây, không bao giờ. Đây là vấn đề về an ninh quốc gia. Cậu biết rằng hình phạt tử hình vẫn được áp dụng cho tội mưu phản trong thời kỳ chiến tranh chứ?” “Có,” tôi lầm bầm. “Cậu bé ngoan,”cô ta gầm gừ. “Ở đây chúng tôi có vài giấy tờ để cậu ký.” Cô ta đẩy đống giấy tờ trên bàn sang phía tôi. Những mẩu giấy ghi chú in dòng chữ KÝ Ở ĐÂY dính đầy các tài liệu. Một lính gác mở còng tay cho tôi. Tôi lật qua đống giấy tờ và mắt tôi chảy nước còn đầu thì choáng váng. Tôi không thể hiểu chúng viết gì. Tôi cố giải mã thứ ngôn ngữ pháp lý này. Có vẻ như tôi đang ký vào một tờ khai rằng tôi tự nguyện được giam giữ và tự nguyện trả lời các câu hỏi, tất cả hoàn toàn do tôi tự quyết định. “Sẽ thế nào nếu tôi không ký?” tôi nói. Cô ta giật đống giấy tờ lại và búng tay lần nữa. Mấy tay lính gác ấn tôi xuống. “Đợi đã!” tôi hét lên. “Làm ơn đi! Tôi sẽ ký!” Họ lôi tôi ra cửa. Tất cả những gì tôi có thể thấy là cánh cửa đó, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là nó đang đóng lại phía sau tôi. Tôi đã đánh mất nó. Tôi òa khóc. Tôi cầu xin để được phép ký vào những giấy tờ. Đã quá gần tự do rồi lại để tuột mất, điều ấy khiến tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì. Tôi không thể đếm được những lần tôi đã nghe ai đó nói: “Ôi, tôi thà chết còn hơn làm việc này- hoặc-việc-kia” - chính tôi cũng đã nhiều lần tự nhủ như thế. Nhưng đó là lần đầu tiên tôi hiểu ý nghĩa thực sự của nó. Tôi thà chết còn hơn quay trở lại xà lim. Tôi cầu xin khi họ đưa tôi ra hành lang. Tôi nói với họ tôi sẽ ký bất cứ thứ gì. Cô ta gọi những tay lính gác, họ liền dừng lại. Họ mang tôi quay lại. Họ để tôi ngồi xuống. Một người đặt bút vào tay tôi. Tất nhiên, tôi ký, ký và ký. Người ta để quần jean và áo phông của tôi trong xà lim, đã được giặt sạch và gấp gọn gàng. Chúng có mùi thuốc tẩy. Tôi mặc đồ, rửa mặt, ngồi xuống giường và nhìn chằm chằm vào bức tường. Họ đã cướp đi mọi thứ của tôi. Đầu tiên là sự riêng tư của tôi, rồi đến lòng tự trọng của tôi. Tôi đã sẵn sàng ký bất kỳ thứ gì. Có khi tôi đã ký một bản thú nhận rằng mình đã ám sát tổng thống Abraham Lincoln cũng nên. Tôi cố gắng khóc, nhưng dường như mắt tôi đã khô kiệt, cạn nước mắt. Họ lại mang tôi đi. Một lính gác tóm lấy tôi với một cái bao trùm đầu, như cái bao tôi bị nhét vào khi họ bắt chúng tôi, mà sự kiện đó diễn ra cách đây bao lâu không biết, mấy ngày trước hay mấy tuần trước. Cái mũ trùm kín đầu tôi và thít chặt lại ở cổ. Quanh tôi tối thui, không khí ngột ngạt và khó chịu. Họ kéo tôi đứng thẳng lên, dẫn xuống hành lang, lên cầu thang, đi trên con đường rải sỏi. Lên một ván cầu. Đứng trên boong tàu bằng thép. Tay vẫn bị xích sau lưng, tôi đi tới rào chắn. Tôi quỳ xuống boong tàu và lắng nghe âm thanh đều đều của động cơ diesel. Con tàu chuyển động. Một thoáng không khí mằn mặn len vào trong mũ trùm. Trời mưa phùn và quần áo tôi nặng trĩu nước. Tôi đang ở ngoài trời, dù cho đầu tôi có bị bịt trong một cái bao. Tôi đang ở ngoài trời, giữa thế giới này, những giây phút tự do của tôi. Họ đến dắt tôi xuống tàu và bước trên mặt đất gồ ghề. Lên ba bậc thang kim loại. Cổ tay tôi được giải thoát. Cái bao trùm được tháo ra. Tôi quay trở lại xe tải. Người phụ nữ với mái tóc cắt bằng đã ở đó, chỗ chiếc bàn nhỏ mà cô ta đã ngồi trước đó. Cô ta cầm một chiếc túi ni lông có khóa, bên trong là điện thoại, mấy thứ máy móc lặt vặt, ví và tiền lẻ trong túi quần tôi. Cô ta lẳng lặng đưa chúng cho tôi. Tôi cho đồ vào túi quần. Cảm giác thật kỳ cục khi mọi thứ quay về vị trí quen thuộc của nó, khi mặc bộ quần áo quen thuộc của mình. Bên ngoài cửa sau xe tải, tôi nghe thấy âm thanh quen thuộc của thành phố thân yêu. Một lính gác trả tôi cái ba lô. Người phụ nữ chìa tay ra phía tôi. Tôi chỉ nhìn nó. Cô ta đặt xuống và cười gượng với tôi. Rồi cô ta làm bộ mím môi lại và chỉ vào tôi rồi mở cửa ra. Bên ngoài là ánh sáng ban ngày, xám xịt và mưa phùn. Tôi nhìn xuống con hẻm, về phía những chiếc ô tô, xe tải và xe đạp đang lao trên đường. Tôi đứng sững trên bậc thang cao nhất của xe tải, nhìn chằm chằm vào tự do. Đầu gối tôi run rẩy. Giờ thì tôi biết rằng họ lại đang đùa giỡn với tôi. Trong nháy mắt, những tay lính gác sẽ tóm lấy tôi và kéo tôi vào trong, cái bao sẽ trùm quanh đầu tôi, và tôi sẽ bị tống lên chiếc thuyền quay lại nhà tù, quay lại với vô số câu hỏi không thể trả lời. Tôi gần như không thể ngăn mình tự tọng cả nắm tay vào miệng. Rồi tôi bắt mình bước xuống một bậc thang. Thêm một bậc nữa. Bậc cuối cùng. Giày của tôi nghiến lên đống rác ở con hẻm, kính vỡ, kim tiêm, sỏi. Tôi bước một bước. Một bước nữa. Tôi đi tới đầu hẻm và bước ra vỉa hè. Không ai tóm tôi lại. Tôi đã tự do. Rồi những cánh tay mạnh mẽ ôm chầm lấy tôi. Suýt nữa thì tôi bật khóc. Chương 5 Nhưng đó chính là Van, cô cũng đang khóc và ôm tôi chặt đến mức ngạt thở. Tôi không quan tâm. Tôi ôm cô, vùi mặt trong tóc cô. “Cậu ổn rồi!” cô nói. “Mình ổn,” tôi gắng bật nên lời. Cuối cùng cô cũng bỏ tôi ra và một vòng tay khác bao bọc lấy tôi. Đó là Jolu! Họ đều ở đây. Nó thì thào vào tai tôi, “Người anh em, cậu an toàn rồi,” và ôm tôi chặt hơn cả Vanessa. Khi nó buông tay ra, tôi nhìn quanh. “Darryl đâu?” tôi hỏi. Họ nhìn nhau. “Có lẽ nó vẫn ở trong xe,” Jolu nói. Chúng tôi quay lại và nhìn cái xe ở cuối ngõ. Đó là một chiếc xe mười tám bánh màu trắng, khó xác định hãng nào sản xuất. Ai đó đã mang cái thang gấp vào trong. Đèn hậu màu đỏ bật sáng, chiếc xe lăn bánh về phía chúng tôi, phát ra âm thanh píp píp đều đều. “Đợi đã!” Tôi hét lên khi chiếc xe tăng tốc về phía chúng tôi. “Đợi đã! Còn Darryl thì sao?” Chiếc xe tiến đến gần hơn. Tôi vẫn gào lên. “Thế còn Darryl thì sao?” Jolu và Vanessa mỗi người một tay kéo tôi lại. Tôi chống cự, miệng vẫn gào lên. Chiếc xe lùi tới đầu ngõ, quay ra đường, hướng xuống dốc và phóng đi. Tôi cố đuổi theo, nhưng Van và Jolu giữ tôi lại. Tôi ngồi xuống vỉa hè, bó gối và khóc. Tôi khóc và khóc và khóc, những tiếng khóc nức nở mà tôi đã không còn khóc từ hồi bé tí. Chúng không ngừng tuôn ra. Tôi không thể thôi run rẩy. Vanessa và Jolu giúp tôi đứng dậy và dìu tôi đi từng bước lên phố. Có một trạm xe buýt, họ để tôi ngồi xuống đó. Cả hai cũng khóc, cả đám ôm nhau một lúc, và tôi biết chúng tôi đều khóc cho Darryl, người mà không đứa nào dám hy vọng sẽ được gặp lại nữa. Chúng tôi đang ở phía Bắc của khu phố Tàu, chỗ ngay sát khu North Beach, nơi có rất nhiều hộp đêm và hiệu sách phản văn hóa Ánh Sáng Đô Thị huyền thoại, phong trào thơ Beat đã được sáng lập tại đây vào những năm 1950. Tôi biết rất rõ khu vực này. Nhà hàng Ý yêu thích của bố mẹ tôi nằm ở đây và họ thích đưa tôi tới đây để thưởng thức những đĩa mì ống lớn, những núi kem Ý khổng lồ với trái vả tẩm đường, tiếp đến là cốc espresso ngon chết người. Giờ nó như một nơi khác, một nơi mà tôi được nếm mùi tự do lần đầu tiên sau một khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận. Chúng tôi kiểm tra túi và tìm thấy đủ tiền để đặt một bàn tại một trong những quán ăn Ý, trên vỉa hè, dưới một mái hiên. Cô bồi bàn xinh đẹp đốt lò sưởi gas lên bằng bật lửa lò nướng, ghi lại yêu cầu của chúng tôi rồi đi vào. Cảm giác được chọn và gọi món ăn, được kiểm soát số phận của mình là điều kỳ diệu nhất mà tôi từng cảm thấy. “Chúng ta đã ở đó bao lâu?” tôi hỏi. “Sáu ngày,” Vanessa nói. “Tớ nghĩ là năm,” Jolu nói. “Tớ không đếm.” “Họ đã làm gì cậu?” Vanessa hỏi. Tôi không muốn nói về việc này, nhưng cả hai đều nhìn tôi. Và khi đã bắt đầu thì tôi không thể ngừng lại. Tôi kể cho họ mọi thứ, ngay cả lúc tôi bị ép phải tè ra người, và họ im lặng lắng nghe. Tôi ngừng lại khi người bồi bàn mang sô đa cho chúng tôi và đợi đến khi cô ta ra khỏi tầm nghe, tôi mới kể nốt câu chuyện. Qua lời kể của tôi, mọi chuyện nghe có vẻ thản nhiên. Cuối cùng, tôi không biết mình đang thêu dệt nên sự thật hay đang cố làm mọi chuyện bớt tồi tệ hơn. Những ký ức của tôi bơi như những con cá nhỏ mà tôi đang cố bắt, đôi lúc chúng vuột khỏi tay tôi. Jolu lắc đầu. “Họ thật khắc nghiệt với cậu, chiến hữu,” nó nói. Nó kể cho chúng tôi câu chuyện của mình. Họ tra hỏi nó, phần lớn là về tôi, và nó luôn nói sự thật cho họ, trung thành với sự thật về ngày hôm đó và về tình bạn của chúng tôi. Họ đã bắt nó phải lặp đi lặp lại, nhưng họ không dùng những trò cân não với nó như cách họ làm với tôi. Nó được ăn trong phòng ăn tập thể cùng với những người khác, được ở trong phòng có ti vi chiếu băng video những bộ phim ăn khách năm ngoái. Câu chuyện của Vanessa chỉ hơi khác một chút. Sau khi cô khiến họ tức điên vì nói chuyện với tôi, họ đã lấy hết quần áo của cô và bắt cô phải mặc một bộ đồ liền màu cam cho tù nhân. Cô bị bỏ trong xà lim suốt hai ngày mà không cho liên lạc với ai, dù hàng ngày cô vẫn được ăn. Nhưng phần lớn thì cũng giống Jolu: vẫn những câu hỏi ấy, lặp đi lặp lại. “Họ thực sự ghét cậu,” Jolu nói. “Thực sự muốn hành hạ cậu. Tại sao?” Tôi không thể tưởng tượng ra tại sao. Rồi tôi chợt nhớ. Cậu có thể hợp tác, hoặc là cậu sẽ vô cùng, vô cùng hối tiếc. “Đó là vì mình đã không mở khóa điện thoại cho họ, vào đêm đầu tiên. Thế nên họ đã chọn riêng mình.” Tôi không thể tin điều đó, nhưng không còn cách giải thích nào nữa. Đó là sự tuyệt đối không khoan dung. Tâm trí tôi xoay theo ý nghĩ này. Họ thực hiện tất cả những điều đó chỉ để trừng phạt tội không tuân thủ các nhà chức trách. Tôi đã sợ hãi. Giờ thì tôi tức giận. “Lũ khốn,” tôi nói nhỏ. “Chúng làm thế để trừng phạt tớ vì tớ không hé nửa lời.” Jolu chửi thề còn Vanessa thì hét lên bằng tiếng Hàn Quốc, điều mà cô chỉ làm khi vô cùng giận dữ. “Mình sẽ đánh bại họ,” tôi vừa thì thầm vừa nhìn chòng chọc vào cốc sô đa. “Mình sẽ đánh bại họ.” Jolu lắc đầu. “Cậu không thể, cậu biết mà. Cậu không thể chống lại họ.” Không ai trong chúng tôi muốn nói về việc trả thù. Thay vào đó, chúng tôi nói về việc sẽ làm gì tiếp theo. Chúng tôi phải về nhà. Pin điện thoại của chúng tôi đã cạn và khu này đã bỏ dịch vụ điện thoại trả tiền từ mấy năm trước. Chúng tôi chỉ cần về nhà. Thậm chí tôi còn nghĩ tới việc đi taxi, nhưng cả bọn không còn đủ tiền để làm như thế. Vì vậy chúng tôi cuốc bộ. Ở một góc phố, chúng tôi bỏ vài xu vào hộp báo San Francisco Chronicle và dừng lại để đọc trang bìa. Đã năm ngày kể từ khi xảy ra vụ đánh bom nhưng nó vẫn tràn ngập trang nhất. Người phụ nữ có mái tóc cắt bằng đã nói về “cây cầu” bị nổ tung, và tôi đã đoán cô ta nói về cầu Cổng Vàng, nhưng tôi đã nhầm. Bọn khủng bố đã làm nổ tung Cầu Vịnh(1). “Thế quái nào mà chúng lại làm nổ Cầu Vịnh nhỉ?” tôi hỏi. “Cổng Vàng mới là cây cầu xuất hiện trên mọi tấm bưu thiếp.” Dù chưa bao giờ tới San Franciso nhưng bạn vẫn có thể biết cầu Cổng Vàng trông ra sao: nó là một cái cầu treo lớn màu da cam võng xuống đầy ấn tượng, nối liên căn cứ quân sự cũ tên là Presidio tới Sausalito, nơi tập trung tất cả những thị trấn sản xuất rượu tuyệt hảo cùng những cửa hàng nến thơm và các phòng tranh nghệ thuật. Cây cầu đẹp như tranh vẽ và là biểu tượng của bang California. Nếu bạn tới công viên Disneyland ở California thì ngay khi đi qua cổng, bạn sẽ thấy một mô hình của nó, với một đường ray xe lửa chạy xung quanh. Vậy nên, lẽ tất nhiên tôi nghĩ rằng nếu bạn định cho nổ một cái cầu ở San Francisco, bạn sẽ chọn Cổng Vàng. “Có lẽ chúng sợ các máy quay và vài thứ khác,” Jolu nói. “Cảnh vệ Quốc gia luôn kiểm tra ô tô ở cả hai đầu, lại còn những tấm rào cản người tự vẫn và những thứ linh tinh khác dọc đó nữa.” Từ khi được thông xe năm 1957, người ta cứ lên cầu Cổng Vàng mà nhảy xuống - họ đã ngừng đếm sau vụ tự tử thứ một nghìn vào năm 1995. “Đúng thế,” Vanessa nói. “Hơn nữa Cầu Vịnh thực sự dẫn tới một nơi nào đó.” Cầu Vịnh dẫn từ trung tâm San Francisco tới Oakland rồi từ đó đi tới Berkeley, vùng ngoại ô ở Vịnh Đông là nơi ở của rất nhiều người đang sống và làm việc trong thành phố. Nó là một trong số ít những nơi ở khu Vịnh mà một người bình thường có thể mua một căn nhà đủ rộng để thực sự duỗi hết chân tay ra bên trong, rồi còn có trường đại học và hàng tá các nhà máy công nghiệp nhẹ bên đó. BART nằm bên dưới Vịnh và cũng nối liền hai thành phố, nhưng Cầu Vịnh mới là nơi diễn ra phần lớn hoạt động giao thông. Cầu Cổng Vàng là một cây cầu đẹp đối với khách du lịch và những người giàu có đã về hưu sống ở vùng đồng quê sản xuất rượu, nhưng nó gần như chỉ để trang trí. Cầu Vịnh mới thực sự là cây cầu huyết mạch của San Francisco. Tôi nghĩ về điều đó trong một phút. “Các cậu nói đúng,” tôi nói. “Nhưng tớ không nghĩ tất cả chỉ có thế. Chúng ta cứ nghĩ rằng bọn khủng bố muốn tấn công các điểm mốc bởi vì chúng ghét những điểm mốc. Bọn khủng bố không ghét những điểm mốc hay cầu hay máy bay. Chúng chỉ muốn làm loạn và khiến mọi người hoảng sợ. Để khủng bố. Vì vậy tất nhiên chúng đã nhằm vào Cầu Vịnh khi mà cầu Cổng Vàng có đầy rẫy máy quay như thế - khi mà máy bay nào cũng bị dò kim loại và quét tia X-quang.” Tôi nghĩ thêm một lúc nữa, mắt đờ đẫn dõi theo những chiếc ô tô đang chạy trên đường, những người đang đi bộ trên vỉa hè, thành phố xung quanh tôi. “Những kẻ khủng bố không ghét máy bay hay cầu cống. Chúng yêu sự khủng bố.” Điều đó quá rõ ràng, đến mức tôi không thể nào tin là trước đây mình lại chưa từng nghĩ đến nó. Tôi đoán việc bị đối xử như một tên khủng bố trong vài ngày qua đã đủ để soi rọi lối tư duy của tôi. Hai đứa bạn nhìn tôi chằm chằm. “Mình đúng phải không? Tất cả những thứ rác rưởi này, tia (X-quang) và máy nhận dạng này, chúng đều vô ích phải không?” Họ gật đầu chậm rãi. “Còn tệ hơn là vô dụng,” tôi nói, giọng tôi cao dần và vỡ ra. “Bởi vì cuối cùng chúng cũng ở trong tù với chúng ta, với Darryl...” Tôi đã không nghĩ về Darryl từ lúc chúng tôi ngồi xuống và giờ thì tất cả quay trở lại, bạn của tôi, mất tích, biến mất. Tôi ngừng nói và nghiến quai hàm. “Chúng ta phải nói với bố mẹ,” Jolu nói. “Chúng ta nên tìm một luật sư,” Vanessa nói. Tôi nghĩ về việc kể lại câu chuyện của mình. Về việc kể cho cả thế giới biết tôi đã trở thành cái gì. Về những đoạn video không còn nghi ngờ gì nữa sẽ được tung lên, trong đó tôi đang khóc, khiến tôi chỉ còn là một con vật hèn hạ. “Chúng ta không thể nói với họ bất cứ điều gì,” tôi nói không cần suy nghĩ. “Ý cậu là sao?” Van hỏi. “Chúng ta không thể được nói bất cứ điều gì,” tôi lặp lại. “Cậu đã nghe cô ta nói rồi đấy. Nếu chúng ta nói, họ sẽ đến tìm chúng ta. Họ sẽ đối xử với chúng ta như họ đã làm với Darryl.” “Cậu đùa à?” Jolu nói. “Cậu muốn chúng ta...” “Tớ muốn chúng ta chiến đấu,” tôi nói. “Tớ muốn được tự do cốt để có thể làm điều đó. Nếu chúng ta ra ngoài và bô lô ba la, người ta sẽ bảo chúng ta là những đứa nhóc dựng chuyện. Chúng ta thậm chí còn không biết mình bị giam giữ ở đâu! Sẽ không ai tin chúng ta. Rồi, một ngày, họ sẽ tìm tới chúng ta. “Tớ sẽ nói với bố mẹ rằng tớ ở một trong những trại ở phía bên kia Vịnh. Tớ tới đó để gặp các cậu và chúng ta bị mắc kẹt, hôm nay mới thoát ra được. Báo chí đã nói vẫn còn người lang thang về nhà từ những trại này.” “Tớ không thể làm thế,” Vanessa nói. “Sau tất cả những gì họ làm với cậu, làm sao cậu vẫn còn có thể nghĩ đến việc làm vậy chứ?” “Nó đã xảy ra với tớ, đó chính là mấu chốt. Giờ thì đây là việc giữa tớ và bọn họ. Tớ sẽ đánh bại họ, tớ sẽ đưa Darryl trở về. Tớ sẽ không để lời nói dối này trở nên vô ích. Một khi bố mẹ chúng ta liên quan đến vụ này, chuyện thế là kết thúc. Sẽ không ai tin và không ai quan tâm. Nếu chúng ta làm theo cách của tớ, mọi người sẽ để ý.” “Cách của cậu là sao?” Jolu hỏi. “Kế hoạch của cậu là gì?” “Tớ cũng chưa biết nữa,” tôi thú nhận. “Hãy cho tớ thời gian đến sáng mai, ít nhất hãy cho tớ chừng ấy thời gian.” Tôi thừa biết một khi họ đã giữ bí mật đó trong một ngày thì nó sẽ vĩnh viễn là bí mật. Bố mẹ chúng tôi thậm chí còn nghi ngờ hơn nếu chúng tôi đột nhiên “nhớ ra” rằng mình đã bị giữ ở một nhà tù bí mật thay vì ở trong một trại tị nạn. Van và Jolu nhìn nhau. “Tớ chỉ xin một cơ hội thôi mà,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tìm hiểu câu chuyện trên đường về, làm sáng tỏ nó. Hãy cho tớ một ngày, chỉ một ngày thôi.” Hai bạn tôi gật đầu rầu rĩ và cả bọn lại đi xuống đồi và về nhà. Tôi ở đồi Potrero, Vanessa ở khu Bắc Mission và Jolu sống ở thung lũng Noe - ba khu hoàn toàn khác nhau nhưng chỉ cách nhau vài phút đi bộ. Chúng tôi hướng vào phố Chợ và dừng lại. Con phố bị chặn lại ở mọi góc, những ngã tư giờ chỉ còn là làn đường đơn, và đậu san sát dọc phố Chợ là những chiếc xe mười tám bánh khổng lồ khó xác định nguồn gốc như chiếc xe đã chở chúng tôi, phần mui bị che lại, đậu từ bến tàu tới khu phố Tàu. Mỗi xe có cầu thang thép ba bậc dẫn xuống từ phía sau và rì rầm những âm thanh hoạt động của quân lính, những người mặc đồ vest và cảnh sát đi ra đi vào. Đám người mặc đồ vest đều đeo phù hiệu trên ve áo và bị quân lính kiểm tra kỹ lưỡng khi ra vào - những phù hiệu điện tử không dây. Khi chúng tôi đi qua một trong số họ, tôi nhìn vào và thấy cái logo quen thuộc: Cục An ninh Nội địa. Một người lính thấy tôi nhìn chằm chằm bèn trừng mắt lại với tôi. Tôi tiếp nhận thông điệp, đi tiếp và chia tay đám bạn ở Van Ness. Cả bọn níu lấy nhau, khóc và hứa sẽ gọi cho nhau. Đường về đồi Potrero có một lối dễ đi và một lối khó đi, đường khó đưa bạn qua một trong những đỉnh đồi dốc nhất ở thành phố, như kiểu bạn hay thấy trong phim hành động, những cảnh ô tô rượt đuổi nhau rồi bay vút lên không trung khi vượt tới đỉnh cao nhất. Tôi luôn chọn đường này để về nhà. Nó có nhiều con phố đông dân cư, những ngôi nhà cổ thời Victoria mà họ gọi là “các quý cô đỏm dáng(2)” vì được sơn cầu kỳ công phu, với những khu vườn trước nhà đầy hoa thơm ngát và cỏ cao ngút ngàn. Bọn mèo nhà sẽ nhòm bạn qua hàng rào, và hiếm khi nào thấy mèo hoang. Những con phố này yên tĩnh tới mức tôi ước mình đã chọn đường kia, qua khu Mission, nơi mà... náo nhiệt có lẽ là từ đúng nhất để mô tả nó. Ồn ào và sôi nổi. Đầy rẫy những kẻ say xỉn ầm ĩ, con nghiện cocaine cáu kỉnh và bọn sốc ma túy bất tỉnh, cũng không thiếu những gia đình đẩy xe nôi đi dạo, những bà cụ ngồi nói chuyện bên hiên nhà, những người lái xe ô tô cỡ lớn kéo theo âm thanh rầm rầm xuống phố. Có những tay hippie, đám sinh viên mỹ thuật theo phong cách emo(3) sầu thảm và cả hai tay chơi rock punk truyền thống, những lão già bụng phệ lòi ra khỏi cái áo phông in hình ngài Kennedy Quá cố. Rồi cả những gã mặc đồ phụ nữ(4), các băng nhóm thanh thiếu niên hung dữ, những nghệ sĩ graffiti và kẻ ngụy trưởng giả luống cuống cố để không bị giết trong khi chờ mối đầu tư nhà đất mãn hạn. Tôi đi lên đồi Goat và rảo qua quán Pizza Goat Hill, nơi này làm tôi nhớ lại nhà tù mà mình đã bị giam giữ, và tôi phải ngồi xuống cái ghế dài bên ngoài nhà hàng cho đến khi những cơn run rẩy kết thúc. Rồi tôi nhìn thấy chiếc xe tải trên đồi, một chiếc mười tám bánh với cầu thang ba bậc kim loại phía sau. Tôi đứng dậy và di chuyển. Tôi cảm thấy những ánh mắt đang dõi theo mình từ mọi hướng. Tôi lao nhanh trên đoạn đường còn lại. Tôi không nhìn ngắm “các quý cô đỏm dáng”, mấy khu vườn hay bọn mèo nhà nữa. Tôi chỉ nhìn xuống đất. Cả hai xe của bố mẹ tôi đều ở lối vào ga ra, dù bây giờ là giữa ngày. Tất nhiên, bố tôi làm việc ở Vịnh Đông nên chắc ông bị mắc kẹt ở nhà trong khi người ta sửa cầu. Còn mẹ, ờ, ai mà biết tại sao mẹ lại ở nhà. Họ ở nhà vì tôi. Tôi còn chưa kịp mở khóa cửa thì cánh cửa đã tuột khỏi tay tôi và mở tung ra. Cả bố và mẹ tôi, trông đều buồn bã và phờ phạc, đang mở to mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Chúng tôi cứ đứng đó như bị đóng băng mất một lúc, rồi họ lao ra kéo tôi vào nhà, suýt nữa làm tôi vấp ngã. Cả hai người nói quá to và nhanh khiến tất cả những gì tôi nghe thấy là những lời lắp bắp ồn ào, không từ nào ra từ nào và họ ôm lấy tôi mà khóc, tôi cũng khóc, chúng tôi cứ đứng như vậy trong gian tiền sảnh nhỏ, khóc lóc và thốt ra những âm thanh gần giống lời nói cho đến lúc hết cả hơi và vào trong bếp. Tôi làm việc mà tôi luôn làm khi về nhà: lấy cho mình một cốc nước từ máy lọc trong tủ lạnh và bới lấy vài chiếc bánh quy từ “thùng bánh quy” mà chị gái của mẹ đã gửi cho chúng tôi từ Anh. Sự bình thường của việc này khiến tim tôi thôi không đập thình thịch nữa, nó bắt kịp trí óc tôi, và cả gia đình nhanh chóng ngồi vào bàn. “Con đã ở đâu?” bố mẹ gần như đồng thanh hỏi tôi. Tôi đã suy nghĩ về việc này trên đường về. “Con bị mắc kẹt,” tôi nói. “Ở Oakland. Con đến đó cùng mấy người bạn, cùng làm một việc này, rồi bọn con đều bị cách ly.” “Trong năm ngày?” “Vâng,” tôi nói. “Vâng. Thật tệ.” Tôi đã đọc về những vụ cách ly trên tờ Chronicle và không ngại ngùng chôm luôn những gì họ viết. “Vâng. Tất cả những ai bị bắt gặp trong đám mây đó. Họ nghĩ rằng bọn con bị tấn công bởi một loại siêu sâu bọ nào đó và tống bọn con vào những công ten nơ vận chuyển ở khu xưởng đóng tàu, như cá mòi ấy. Ở đó cực kỳ nóng và nhớp nháp. Cũng không có nhiều đồ ăn nữa.” “Chúa ơi,” bố tôi đấm tay xuống bàn. Bố tôi đi dạy ở Berkeley ba ngày một tuần, làm việc với vài sinh viên cao học về chương trình khoa học thư viện. Thời gian còn lại ông tư vấn cho khách hàng trong thành phố và dưới Peninsula, các công ty trực tuyến trong Làn sóng thứ ba(5) đang tiến hành nhiều hoạt động khác nhau về lưu trữ tài liệu. Hiện là một thủ thư hòa nhã nhưng ông từng là một người theo chủ nghĩa cấp tiến chính cống vào những năm sáu mươi và chơi đấu vật hồi cấp ba. Thỉnh thoảng tôi thấy ông tức giận phát điên - ngay cả tôi đây cũng thi thoảng làm ông nổi giận như thế - và những lúc như thế ông có thể mất kiểm soát nghiêm trọng. Có lần bố tôi đã ném cả cái xích đu của hãng Ikea qua cả bãi cỏ của ông nội khi nó cứ đổ lên đổ xuống đến lần thứ năm mươi khi ông đang lắp ráp nó. “Lũ người man rợ,” mẹ tôi nói. Bà đã sống ở Mỹ từ khi mới là thiếu nữ nhưng vẫn luôn thể hiện bản sắc Anh mỗi khi bà gặp cảnh sát, nhân viên chăm sóc sức khỏe, an ninh sân bay hay những người vô gia cư. Giờ thì bà dùng từ “lũ người man rợ”, ngữ âm Anh của bà lại rõ nét như xưa. Chúng tôi đã tới Luân Đôn hai lần để thăm gia đình bà và tôi không thể nói rằng ở đó văn minh hơn San Francisco được, nó chỉ tù túng hơn thôi. “Nhưng họ đã thả bọn con ra, và chở bọn con về đây hôm nay.” Tôi ứng biến. “Con có bị đau không?” mẹ hỏi. “Có đói không?” “ Có buồn ngủ không?” “Dạ, mỗi thứ một ít. Và cũng Ngốc Nghếch, Thông Thái, Hắt Xì và Xấu Hổ nữa.” Chúng tôi có một trò đùa gia đình truyền thống về bảy chú lùn. Bố mẹ tôi đều khẽ cười, nhưng mắt họ vẫn ướt. Tôi cảm thấy rất tệ. Hẳn là họ đã lo lắng đến phát điên. Tôi mừng như bắt được vàng vì có cơ hội để đổi chủ đề. “Con rất muốn được ăn.” “Bố sẽ gọi pizza ở Goat Hill,” bố nói. “Không, không phải thứ đó,” tôi nói. Cả hai nhìn tôi như thể tôi bị đột biến vậy. Thường thì tôi rất thích pizza của Goat Hill - mọi khi tôi có thể ngấu nghiến món đó đến lúc nó hết sạch hoặc tôi nổ bùm mới thôi. Tôi gượng cười. “Chỉ là con thấy không thích pizza,” tôi nói một cách không thỏa đáng. “Chúng ta gọi ít cà ri được chứ ạ?” Ơn Chúa, San Francisco là trung tâm của đồ ăn mang về. Mẹ tôi tới chỗ ngăn kéo để thực đơn các món ăn mang về (thêm một sự bình thường nữa, cảm giác như thể được uống một cốc nước khi họng đã khô rã rời) và lật nhanh. Chúng tôi tạm thời thư giãn vài phút để xem thực đơn của quán thịt Pakistan ở Valencia. Tôi chọn món chả trộn nướng kiểu Ấn Độ và rau cải trộn kem với pho mát nông trang, cùng món lassi xoài muối (ngon hơn nhiều so với tên gọi của nó) và một ít bánh nướng nhúng nước đường. Sau khi đặt món xong xuôi, một tràng câu hỏi lại bắt đầu tuôn ra. Họ đều đã nghe tin từ gia đình Van, Jolu và Darryl (tất nhiên) và đã cố gắng để báo cáo về sự mất tích của chúng tôi. Cảnh sát đã lấy tên, nhưng có nhiều “người di tản” đến nỗi họ không lập hồ sơ tìm kiếm ai hết trừ phi sau bảy ngày người đó vẫn mất tích. Cùng lúc đó, hàng triệu các trang web đăng tin tìm người thất lạc mọc lên như nấm sau mưa. Vài ba trang ăn theo MySpace cũ đang cạn tiền lại tìm thấy nguồn thu mới từ việc đăng thông báo về những vụ mất tích. Xét cho cùng, một số nhà đầu tư mạo hiểm cũng có gia đình bị thất lạc ở khu Vịnh. Nếu những người này được tìm thấy thì có thể trang web sẽ thu hút thêm nhiều mối đầu tư mới. Tôi lấy laptop của bố và xem qua các trang mạng. Trên đó toàn là quảng cáo, tất nhiên, và ảnh của những người bị mất tích, hầu hết là những bức ảnh chụp ở lễ tốt nghiệp, đám cưới và những chỗ tương tự. Khá là kinh khủng. Tôi tìm ra ảnh của mình và thấy nó được kết nối tới ảnh của Van, Jolu và Darryl. Có một mẫu đơn nhỏ để đánh dấu những người đã tìm thấy và một mẫu nữa để ghi chú về những người đang mất tích khác. Tôi điền vào ô của tôi, Jolu và Van, để trống ô của Darryl. “Con quên Darryl rồi,” bố tôi nói. Ông không thích Darryl lắm - cứ khi nào ông phát hiện ra một chai trong tủ rượu của mình bị vơi đi vài phân, tôi lại đổ cho Darryl, mặc dù tôi vô cùng xấu hổ vì việc này. Tất nhiên, sự thật là cả hai đứa đều có lỗi, bọn tôi thường lượn lờ quanh quẩn, nếm thử vodka pha Coke sau mỗi lần chơi game thâu đêm. “Nó không đi cùng chúng con,” tôi nói. Lời nói dối đắng ngắt trong miệng tôi. “Lạy Chúa tôi,” mẹ tôi thốt lên. Bà siết chặt hai tay vào nhau. “Bố mẹ cứ tưởng khi về nhà các con sẽ đi cùng nhau.” “Không,” tôi tiếp tục nói dối. “Không, đáng lẽ bọn con phải gặp nó nhưng rốt cuộc thì không thấy đâu. Có lẽ nó vẫn đang mắc kẹt ở Berkeley. Nó định đi tàu điện ngầm tới gặp bọn con.” Mẹ tôi thút thít. Bố tôi lắc đầu và nhắm mắt lại. “Con không biết chuyện gì xảy ra với ga tàu điện ngầm sao?” ông nói. Tôi lắc đầu. Tôi có thể thấy điều này sẽ dẫn tới đâu. Có cảm giác như mặt đất đang rung chuyển dưới chân tôi. “Chúng đã cho nổ tung nó,” bố nói. “Lũ khốn ấy đã cho nổ tung ga tàu điện ngầm và cây cầu.” Tin này vẫn chưa lên trang nhất của tờ Chronicle, tuy nhiên một ga tàu điện ngầm bị nổ tung dưới nước sẽ không sinh động bằng hình ảnh chiếc cầu treo bị xé toạc thành nhiều mảnh văng đi khắp Vịnh. Đường hầm tàu điện ngầm từ Embarcadero ở San Francisco tới ga West Oakland đã bị nhấn chìm. Tôi quay lại với cái máy tính của bố để lướt qua các tít báo. Không ai chắc chắn, nhưng số thi thể được tìm thấy đã lên tới con số hàng nghìn. Giữa những chiếc ô tô lao thẳng từ độ cao 57 mét xuống biển và những người bị chìm trong tàu, số người chết vẫn đang tăng lên. Một phóng viên tuyên bố mình đã phỏng vấn một “tay chuyên làm giả giấy tờ tùy thân”, kẻ đã giúp “hàng tá” người giũ bỏ cuộc sống cũ của mình chỉ bằng cách biến mất sau vụ tấn công, có chứng minh thư mới, thoát khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc, những khoản nợ nần chồng chất và cuộc sống tồi tệ. Nước mắt chảy dài trên gương mặt bố tôi còn mẹ tôi khóc nức nở. Họ lại lần lượt ôm lấy tôi, vỗ về tôi như để tự trấn an mình rằng tôi đang ở đây. Họ liên tục nói với tôi rằng họ yêu tôi. Tôi nói tôi cũng rất yêu họ. Chúng tôi có một bữa tối đầy nước mắt, rồi bố và mẹ mỗi người đều uống vài ly rượu, bình thường như vậy là quá nhiều đối với họ. Tôi nói mình buồn ngủ, lần này thì tôi nói thật, và lẻn lên phòng. Tuy nhiên tôi không đi ngủ ngay. Tôi cần lên mạng và tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Tôi cần nói chuyện với Jolu và Vanessa. Tôi cần bắt tay vào việc tìm kiếm Darryl. Tôi lén đi lên phòng và mở cửa. Tôi tưởng như đã không nhìn cái giường cũ của mình cả nghìn năm nay rồi. Tôi nằm xuống đó và với tay về phía cái tủ đầu giường để lấy laptop. Hẳn là tôi đã cắm lỏng phích điện - nó cần được chỉnh lại cho đúng - vậy nên cái laptop dần dần hết pin khi tôi đi vắng. Tôi cắm lại và đợi vài phút để sạc pin trước khi thử khởi động lại máy. Trong lúc đó, tôi cởi quần áo và ném vào sọt rác - tôi không bao giờ muốn nhìn lại chúng nữa - rồi mặc quần lót sạch và áo phông mới. Những bộ quần áo thẳng thớm, thơm tho nằm ngăn nắp trong các ngăn kéo khiến tôi thấy thật thân quen và dễ chịu, như vòng tay của bố mẹ vậy. Tôi bật nguồn laptop, xếp một đống gối ở đầu giường rồi tựa lưng vào đó, dịch người lại, mở máy tính và đặt nó lên đùi. Nó vẫn đang khởi động, trời ơi, những biểu tượng vụt qua trên màn hình trông thật tuyệt. Nó hoạt động, nhưng rồi bắt đầu cảnh báo pin yếu. Tôi kiểm tra lại dây điện, lắc lắc nó và laptop tắt phụt. Phích điện đã chính thức bị hỏng. Thật sự là tình hình tệ đến mức tôi không thể làm gì được. Mỗi lần tôi bỏ tay ra khỏi dây điện là điện lại không vào máy và thông báo pin yếu lại hiện lên. Tôi xem xét cái laptop kỹ hơn. Toàn bộ vỏ laptop của tôi hơi bị lệch tâm, đường nối chia rẽ ở một góc rộng rồi thu hẹp và mở rộng ở phía sau. Đôi khi bạn nhìn thiết bị nào đó và phát hiện ra một chi tiết tương tự như vậy, rồi bạn tự hỏi, “Có phải nó luôn như thế này không?” Có lẽ do bạn không để ý thôi. Nhưng với laptop của tôi, điều này là không thể. Bạn thấy đấy, tôi đã tự lắp nó. Sau khi bộ giáo dục phát SchoolBook cho tất cả bọn tôi, không đời nào bố mẹ tôi lại đi mua cho tôi một cái máy tính riêng, mặc dù về mặt lý thuyết thì SchoolBook không thuộc về tôi, tôi không được phép cài đặt phần mềm hay điều khiển nó. Tôi có chút tiền tiết kiệm - từ những công việc vặt, Giáng sinh và sinh nhật, một chút tiền nhờ buôn bán trên eBay. Gom tất cả lại cũng chỉ đủ để mua một cái máy xập xệ có tuổi thọ năm năm. Vậy là Darryl và tôi đã tự lắp một cái. Bạn có thể mua vỏ laptop giống như mua vỏ PC, dù chúng hơi đặc biệt hơn một chút so với một chiếc PC cũ đơn thuần. Trước đó tôi và Darryl đã lắp hai cái PC, gom các bộ phận từ trang Craigslist, những buổi bán đồ cũ tại gia và đặt từ mấy người bán hàng Đài Loan giá rẻ mà chúng tôi tìm thấy trên mạng. Tôi phát hiện ra rằng tự lắp ráp một cái laptop sẽ là cách tốt nhất để có được sức mạnh mà tôi muốn ở mức giá tôi kham được. Để lắp ráp một cái laptop, ta bắt đầu bằng việc đặt mua một “barebook”, tức một cỗ máy chỉ có một ít phần cứng và những khe cắm cần thiết. Tin mừng là, một khi tôi hoàn thiện nó thì tôi sẽ có một cỗ máy nhẹ hơn nửa ký so với con Dell mà tôi vẫn mê mẩn, chạy nhanh hơn mà giá chỉ bằng một phần ba số tiền đáng ra tôi phải trả nếu mua Dell. Tin xấu là, lắp ráp một cái laptop cũng giống như làm một con tàu nhỏ trong chai vậy. Đó là một công việc rất tỉ mỉ, với nhíp và kính lúp, cố gắng lắp cho vừa mọi thứ vào cái vỏ nhỏ xíu. Không giống như một cái PC nguyên cỡ - bên trong chủ yếu là không khí - bạn cần tận dụng từng milimét khối không gian trong laptop. Cứ lần nào tôi nghĩ mình đã hoàn thành là lại xuất hiện cái gì đó khiến cái máy không thể đóng khít hoàn toàn, và nó lại quay về bàn làm việc. Vì thế, tôi biết chính xác khớp nối laptop của tôi trông như thế nào khi nó đóng lại, và nó không giống thế này. Tôi cứ lắc lắc phích cắm nhưng hoàn toàn vô vọng. Không có cách nào để khởi động máy mà không tháo nó ra. Tôi rên rỉ và đặt nó cạnh giường. Tôi sẽ giải quyết nó vào sáng mai. Tuy nhiên, tôi chỉ nói thế thôi. Hai giờ sau, tôi vẫn đang chòng chọc ngó lên trần nhà, trong đầu chiếu lại những thước phim về những gì họ đã làm với tôi, đáng ra tôi nên làm gì, về tất cả sự hối tiếc và esprit d’escalier. Tôi bò ra khỏi giường. Đã là nửa đêm và tôi nghe thấy bố mẹ đã đi ngủ từ 11 giờ. Tôi dọn vài khoảng trống trên bàn, gài mấy bóng đèn LED nhỏ lên tấm đỡ kính lúp và kéo ra một bộ tua vít nhỏ có độ chính xác cao. Một phút sau, tôi đã mở vỏ máy và tháo bàn phím ra, nhìn chằm chằm vào ruột máy. Tôi lấy một bình khí nén và thổi đám bụi mà quạt làm mát hút vào rồi xem xét mọi thứ. Có gì đó không ổn. Tôi không thể nói đó là gì, nhưng cũng phải vài tháng nay tôi không tháo tung cái laptop ra thế này. Thật may là đến lần thứ ba phải tháo máy ra và tìm cách đóng lại, tôi đã thông minh hơn: tôi chụp ảnh ruột máy và mọi thứ bên trong. Nhưng vẫn chưa thông minh tuyệt đối: ban đầu, tôi lưu bức ảnh đó trên ổ cứng, và đương nhiên, tôi không thể xem nó khi laptop đã bị tháo tung. Nhưng sau đó tôi đã in ảnh ra mà đính lên ngăn kéo lộn xộn giấy tờ của tôi, cái nghĩa địa nơi tôi lưu giữ tất cả thẻ bảo hiểm và các sơ đồ chân chip điện. Tôi lục tung lên - chúng có vẻ bừa bộn hơn tôi nhớ - và mang bức ảnh ra. Tôi đặt nó cạnh máy tính và nhìn bao quát, cố gắng tìm ra chi tiết nằm không đúng vị trí. Rồi tôi phát hiện ra nó. Băng cáp nối bàn phím với mainboard không chuẩn lắm. Nó thật kỳ cục. Không có mômen quay trên đó, không có gì để đẩy nó ra trong quá trình hoạt động bình thường. Tôi thử ấn nó lại và phát hiện ra dây cắm không chỉ bị đặt sai - còn cái gì đó nữa giữa nó và bảng mạch. Tôi gắp thứ đó ra và chiếu đèn lên. Trong bàn phím của tôi có gì đó mới. Nó là một mẩu kim loại cứng, chỉ dày chừng một li, không có nhãn mác gì. Bàn phím được gắn vào nó, và nó được gắn vào bảng mạch. Nói cách khác, nó đã được đặt một cách hoàn hảo để chụp lại tất cả những phím bấm mà tôi gõ. Nó là một con bọ. Tim tôi nện thình thịch. Ngôi nhà đang chìm trong bóng tối và tĩnh lặng, nhưng đó không phải một thứ bóng tối dễ chịu. Ngoài kia có những đôi mắt, mắt và tai, chúng đang theo dõi tôi. Giám sát tôi. Sự giám sát mà tôi đã phải đối mặt ở trường giờ đang theo tôi về nhà, nhưng lần này, không chỉ có Phòng Giáo dục theo dõi tôi: Cục An ninh Nội địa (DHS) cũng góp mặt vào trò này. Suýt nữa thì tôi lấy con bọ ra. Rồi tôi hiểu ra rằng ai đặt nó ở đây sẽ biết ngay nếu nó biến mất. Tôi để nó nằm yên đấy. Tôi phát ốm khi phải làm như thế. Tôi tìm xem họ còn bỏ thêm gì nữa không. Tôi không tìm thấy gì, nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa với việc không còn gì khác? Ai đó đã đột nhập vào phòng tôi và gài thứ này - đã tháo rời laptop của tôi rồi ráp lại. Có rất nhiều cách để nghe trộm một cái máy tính. Tôi không đời nào tìm ra hết được. Tôi dùng hai ngón trỏ ráp mọi thứ lại. Lần này, khung máy không chỉ đóng khít vào ngay mà cáp điện cũng đâu vào đó. Tôi khởi động lại máy tính và đặt ngón tay lên bàn phím, định cho chạy vài công cụ chẩn đoán để xem nó là thứ gì. Nhưng tôi không thể làm vậy.