🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Đaghextan Của Tôi
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
ĐAGHEXTAN CỦA TÔI
Мой Дагестан
Tác giả: Raxun Gamzatốp (Расул Гамзатов - 1923-2003) Dịch giả: Phan Hồng Giang (Phần văn xuôi); Bằng Việt (Phần thơ) Người biên tập: Bùi Văn Hòa
Họa sĩ: Enkônina N. M.
Nhà xuất bản Cầu vồng - Mátxcơva1984
In theo bản dịch của nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hà Nội Khổ 12 x 17cm
Tập 1: 343 trang
Tập 2: 288 trang
Scan: Thích Là Bụp - otofun.net
https://thuviensach.vn
Đánh máy: Thích Là Bụp; Ongrungf; lurang Ebook: Thích Là Bụp
MỤC LỤC
TẬP I
Lời nói đầu
Thế vào lời bạt. Về lời bạt nói chung
Cuốn sách này đã ra đời thế nào và nó đã được viết ở đâu Về ý nghĩa của cuốn sách này và tên gọi của nó Về hình thức cuốn sách này. Viết nó như thế nào Ngôn ngữ
Đề tài
Thể loại
Bút pháp
Ngôi nhà cuốn sách này - cốt truyện
Tài năng
Làm việc
Sự thật. Lòng dũng cảm
Phân vân
TẬP II
Cha và mẹ. Lửa và nước
Ngôi nhà
Ba báu vật của người Đaghextan
Con người
https://thuviensach.vn
Nhân dân
Tiếng nói
Bài ca
Cuốn sách
LỜI NÓI ĐẦU
Nói về Raxun Gamzatốp có nghĩa là nói về Đaghextan, xứ sở trên vùng núi Kapkazơ, nơi có 36 dân tộc đang chung sống, trong đó có dân tộc Avar. Raxun Gamzatốp là người Avar. Thêm nữa: nói về Raxun Gamzatốp có nghĩa là nói về thơ ca, nói tới những trang ghi thêm vào thơ ca của Raxun Gamzatốp, một trong những nhà thơ Đaghextan nổi tiếng nhất, tác giả của hàng chục cuốn thơ, trong đó có "Thơ bát cú" Gamzatốp rất xuât sắc, vì nó là sự tái tạo thể thơ cổ vốn có sức quyến rũ tâm hồn và nhạc cảm. Nói về Raxun Gamzatốp cũng tức là nói tới Gamzát Xađax, người đã làm rất nhiều cho việc giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân gian của dân tộc Avar. Có lẽ chúng ta sẽ bắt đầu từ đó. Nếu như lướt qua cuốn Từ điển Bách khoa Liên Xô chúng ta sẽ đọc được những dòng: "Xađax Gamzát (1877 - 1951) nhà thơ Xô Viết người Avar, nhà thơ nhân dân của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Đaghextan (1934). Ông là cha của Raxun Gamzatốp..." Vâng, rõ ràng điều đó có nhiều ý nghĩa - ra đời trong gia đình một nhà thơ lớn, người đã đi vào lịch sử phát triển tinh thần của dân tộc mình. Điều đó cũng buộc Raxun phải nghĩ tới nhiều thứ. Và vấn đề không chỉ ở chỗ Raxun là con trai của Gamzát, viết văn từ rất sớm, năm 14 tuổi đã được in. Cần phải tìm cho ra con đường của mình, cũng như bản thân mình trong nghệ thuật; thế mà điều này lại rất không đơn giản, khi bên cạnh anh là một tài năng lớn, khi tên tuổi cha anh đầy ý nghĩa đối với dân tộc anh vừa soi sáng cho anh vừa động viên anh. Raxun đã lớn lên trên chiếc cây gia tộc mình như là một nhánh vững chãi, đáng tin, đẹp đẽ, một nhánh cây đã đâm hoa kết trái làm sống lại dòng nhựa của rễ cây bền vững lâu đời. Hôm nay đây Raxun Gamzatốp - cũng như cha ông - là nhà thơ nhân dân Đaghextan. Ông là
https://thuviensach.vn
thành viên của Chính phủ, đại biểu Xô Viết tối cao Liên Xô, người được Giải thưởng Lênin. Và thêm nữa, ông được mọi người yêu mến. Là người được độc giả và thính giả yêu mến, Raxun Gamzatốp thường phát biểu, tiếp xúc với một cử tọa rộng lớn và đa dạng. Ông là người được dân tộc mình, được vùng núi Kapkazơ và tất cả đất nước Xô Viết yêu mến. Do đó khi Raxun viết xong cuốn văn xuôi này cũng đã gây nên được một sự quan tâm và hiếu kỳ to lớn. Qua những nhận xét đầu tiên người ta thấy rõ rằng cuốn sách đã thành công...
Chúng ta cần kể về điều đó, bởi vì độc giả tương lai nhất định cần biết Raxun Gamzatốp, con người yêu đời vĩ đại đó, người biết mừng vui vì cuộc sống, biết thưởng thức cuộc sống và chính bản thân mang cho cuộc sống ánh sáng và niềm vui, con người ấy là ai vậy. Song kể về cuốn sách “Đaghextan của tôi” khó khăn hơn là kể tóm tắt về tác giả của nó. Bởi vì đây không phải tiểu thuyết, cũng không phải truyện vừa, đây không phải ký sự cũng không phải tư liệu. Đây là tác phẩm văn xuôi vượt ra ngoài định nghĩa và biến thể của loại hình văn học. Nó rất tự do và theo nghĩa ấy có thể ví nó như con chim bay và từ trên cao thấy rõ như trong lòng bàn tay, những núi non, khe vực thân thuộc, những làng mạc và phố phường, những nhà cửa và chợ búa, những con chim ưng và những con dê, niềm vui và nỗi lo lắng, quá khứ và, có lẽ, cả tương lai. Nhìn chung nó là cuốn sách tự truyện chỉ có điều đó là tiểu sử nhiều cốt truyện, nhiều giọng nói: tiểu sử của nhà thơ, tiểu sử làng bản thân thuộc và tiểu sử dân tộc. Cuốn tiểu sử tự thuật nhiều thành phần này lại giàu chất thơ và rất chân thành. Nó đậm sắc trữ tình, nó được sưởi ấm bởi sự hài hước nhẹ nhàng, nó được chiếu sáng bởi sự láu lỉnh - cái láu lỉnh tinh nghịch dí dỏm - chẳng khác nào trong chiếc tráp cổ kính không chỉ có một đáy mà trong mỗi đáy, lại còn chứa những điều bí mật của nó. Raxun Gamzatốp biết sử dụng khéo léo ngôn ngữ huyền diệu của dân gian giàu nhạc điệu và đầy màu sắc, đổng thời biết hòa trộn bất ngờ các sắc điệu văn phong rồi nói lên bằng ngôn ngữ tươi mới và phóng khoáng của người đương thời.
https://thuviensach.vn
Cốt lõi của cuốn sách vẫn là phương pháp văn học hết sức giản dị. Dường như Raxun Gamzatốp xin ý kiến độc giả và viềt lời tựa cho cuốn sách tương lai của mình. Ông suy nghĩ kỹ càng về cuốn sách ấy, thấy khoái cảm vì nó, ông như quên đi những âm điệu khác nhau và những kiến giải cùng chiều, ông nhớ lại, ông suy ngẫm, ông trò chuyện với độc giả, với những người quen, với những người thân thuộc và người cùng làng. Ông cho chúng ta biết một lượng thông tin thú vị nhất về Kapkazơ, về Thơ ca, về Cuộc sống, về Con người, về Lịch sử. Tác phẩm được thêm vào nhiều truyện vừa mà mỗi truyện ấy cũng có thể thành một tác phẩm riêng. Đây đó trong tác phẩm ông tung ra nhiều câu tục ngữ, ngạn ngữ, ông kể những chuyện vui và cả những chuyện buồn đã xẩy ra với chính tác giả, với bạn bè ông hoặc nó còn được giữ lại từ lâu trong ký ức của nhân dân. Tác giả không sợ phải ngắt mạch truyện của mình bằng một cốt truyện khác, ông như đi lạc đề hoặc đùa vui, hoặc kể những chuyện hoàn toàn buồn - nói gọn lại, ông đã đối xử với bạn đọc như với người đối thoại tự do, sinh động, nghiêm túc và thông minh sắc sảo. Do đó ngay trong văn bản cuốn sách đôi khi không biết vì sao đó có vẻ là lạ như thể không phải là văn viết: nó có nhiều kiểu chữ khác, nhiều đoạn ngắt quãng, nhiều chỗ tách ra cứ như nó giữ lại trong bản thân dấu vết của thứ khẩu ngữ lộn xộn. Chính sự phá vỡ đó của hình thức nghệ thuật cuốn sách đã đảm bảo cho dung lượng hết sức lớn của nó. Cuốn sách của Raxun Gamzatốp không chỉ là lời tự thú của tâm hồn nhà thơ, nó còn là một cuốn bách khoa thật sự về cuộc sống của dân tộc Avar. Có lần chính Gamzatốp đã viết về bản thân mình như thế này: “Cha tôi gọi tên tôi là Raxun - mà theo tiếng Arập thì từ ấy có nghĩa là người đại diện. Hạnh phúc thay cho nhà thơ nào được độc giả nói về ông ta như thế này: đó là người đại diện của chúng tôi, người đại diện của nước chúng tôi, của nền thơ ca chúng tôi. Ở đây tôi không thể nói rằng tôi xứng đáng với tên của mình. Song bao giờ tôi cũng mong muốn được như thế. Tôi sống ở thủ đô nước Cộng hòa tự trị Đaghextan, tại thành phố Makhátkala trên phố Mácxim Gorki. Nhà 15. Khi các bạn tới vùng chúng tôi xin mời bạn ghé chơi nhà tôi. Lời chúc mừng yêu thích của tôi là: chúc cho những người tốt
https://thuviensach.vn
sẽ gặp những điều tốt đẹp, mong cho kẻ xấu sẽ gặp những điều xấu xa. Dù rằng điều đó thường xẩy ra ngược lại”.
https://thuviensach.vn
Abutalíp nói:
Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác.
Ai qua đường nếu chẳng ghé nhà tôi
Thì mưa đá sấm rền sẽ đổ vào anh, sấm rền mưa đá! Nhưng nếu khách không vui vì lều tôi không rộng mở, Thì mưa đá sấm rền sẽ đổ vào tôi, mưa đá sấm rền!
Lời ghi trên cửa
https://thuviensach.vn
THẾ VÀO LỜI BẠT
VỀ LỜI BẠT NÓI CHUNG
Khi tỉnh dậy, chớ chồm ra khỏi giường như bị châm đốt. Trước tiên hãy ngẫm nghĩ về những gì đã đến với anh trong mơ.
Tôi nghĩ rằng chính Đức Allah[1]trước khi kể lại với đám hầu cận của mình một câu chuyện lý thú nào đấy, hay trước khi ban phát một lời giáo lý nào đấy, thi thoạt tiên cũng châm thuốc hút, chậm rãi hít một hơi thật dài và ngẫm nghĩ.
Máy bay trước khi cất cánh, rồ máy rất lâu, sau đó người ta kéo nó ngang qua sân bay để ra đường băng, tiếp đấy nó rồ máy ầm ĩ hơn, từ từ chạy và chỉ sau khi làm xong những việc đó, nó mới bay lên không trung.
Máy bay trực thăng không cần chạy một đoạn, nhưng nó cũng rồ máy rất lâu, gầm rít, toàn thân rung lên một cách căng thẳng, trước khi rời khỏi mặt đất.
Chỉ có chim ưng trên núi từ vách đá lao thẳng vào bẩu trời xanh thẳm, nhẹ nhàng lượn lên cao mãi, cao mãi cho đến khi biến thành cái chấm nhỏ xíu dần mất hút trên nền trời.
Mọi cuốn sách hay cần phải mở đầu như vậy, không cần viện đến lời rào trước đón sau dài dòng, không cần đến lời nói đầu buồn tẻ. Bởi vì nếu có con bò lớn chạy ngang qua mà anh không kịp túm lấy sừng giữ nó lại thì anh sẽ không thể nắm đuôi mà giữ nó được nữa.
Một ca sĩ cầm lấy cây đàn panđur[2]. Tôi biết rằng ca sĩ có giọng khá hay, vậy thì việc gì anh ta lại phải “bật bông” lâu thế, nhạt nhẽo thế trước khi cất giọng hát? Cũng có thể nói như vậy về bản báo cáo đọc trước buổi liên hoan văn nghệ, về bài nói chuyện trước vở kịch sắp mở màn, về những lời giáo huấn tẻ ngắt mà bố vợ thết đãi chàng rể khi lẽ ra là nên mời ngay vào bàn tiệc và rót rượu ra cốc.
https://thuviensach.vn
Một lần, có mấy chàng hiệp sĩ khoe với nhau về thanh gươm của mình. Họ nói rằng những thanh gươm ấy được làm bằng thứ thép tốt như thế nào, những câu thơ tuyệt vời nào trích từ cuốn kinh Hồi giáo đã được khắc lên gươm. Trong số những chàng hiệp sĩ đó có Khátgi - Murát, người tù trưởng của Samin. Chàng nói:
- Sao các người lại tranh cãi với nhau dưới bóng mát cây ngô đồng? Sáng sớm mai sẽ diễn ra một trận chiến đấu, và lúc ấy chính lưỡi gươm của các người sẽ chứng tỏ cái nào là tốt nhất.
Nhưng tuy vậy, tôi nghĩ rằng, Đức Allah vẫn chậm rãi hút thuốc trước khi bắt đầu câu chuyện kể của mình.
Nhưng tuy vậy, ở vùng núi chúng tôi, vẫn có phong tục là kỵ sĩ không nhảy lên yên ngựa bên cạnh ngưỡng cửa của mình. Anh ta cần phải dắt ngựa ra khỏi bản. Cần làm như vậy chắc là để một lần nữa suy nghĩ xem anh đã để lại đây những gì và những gì sẽ đến với anh trên đường đi. Dù công việc thúc bách đến đâu, anh vẫn tư lự, chậm rãi cầm dây cương dắt ngựa qua bản để rồi sau đó, khẽ chạm chân vào bàn đạp, anh nhảy phắt lên yên, cúi rạp mình xuống và nhòa dần trong đám bụi đường.
Đấy, tôi cũng vậy, trước khi nhảy lên yên cuốn sách của tôi, tôi cũng chậm chạp bước đi với vẻ đăm chiêu. Tôi cầm dây cương ngựa và đi bên cạnh nó. Tôi đang nghĩ ngợi. Tôi không vội nói thành lời.
Lời nói lúng búng không phải chỉ trong miệng người có tật nói lắp, mà còn cả trong miệng người đang cố tìm một lời nào thích hợp nhất, cần thiết nhất, sâu sắc nhất. Tôi không hy vọng làm ai ngạc nhiên về sự sâu sắc, uyên thâm, nhưng tôi cũng không phải người nói lắp. Tôi đi tìm lời nói cần thiết.
Abutalíp nói: Lời bạt một cuốn sách chính là cái cọng rơm mà người đàn bà miền núi mê tín ngậm ở răng khi vá áo choàng ấm cho chồng. Bởi vì nếu lúc ấy không ngậm một cọng rơm thì tương truyền rằng chiếc áo choàng sẽ biến thành tấm áo liệm.
https://thuviensach.vn
Abutalíp còn nói: Tôi giống như một người mò mẫm trong màn đêm tìm cửa để vào, hoặc là giống người đã sờ thấy cửa, nhưng còn chưa biết là có thể vào được không, có đáng vào hay không. Anh ta gõ cửa: Cốc - cốc, cốc - cốc.
- E hèm, trong nhà nghe đây này, nếu các người định luộc thịt thì đến giờ dậy rồi!
- E hèm, trong nhà nghe đây này, nếu các người định giã lúa mạch, thì cứ ngủ cho khỏe nhé, không việc gì phải vội cả.
- E hèm, trong nhà nghe đây này, nếu các người định uống buza[3], thì đừng quên mời hàng xóm nghen!
Cốc - cốc, cốc - cốc.
- Này, thế thì tớ nên vào hay là các người không cần đến tớ?
Con người cần hai năm để học nói và cần sáu mươi năm để học cách im lặng.
Tôi không phải hai tuổi và cũng không phải sáu mươi. Tôi đang ở giữa độ đường. Tuy nhiên, có lẽ tôi gần điểm sau hơn, vì lời chưa nói tôi quý hơn tất cả những lời nói rồi.
Cuốn sách chưa viết tôi quý hơn tât cả những cuốn đã viết. Cuốn sách ấy là quý nhất, thân thiết nhất, khó khăn nhất.
Cuốn sách mới là một cái động mà tôi chưa từng bước vào, nhưng cái động đó đã mở ra trước mắt tôi, mời chào tôi bước vào khoảng sâu thẳm mờ sương. Cuốn sách mới là con ngựa tôi chưa từng thắng yên cương, là con dao găm tôi chưa từng rút ra khỏi bao.
Người vùng núi nói rằng: “Không cần thì đừng rút dao ra. Nêu đã rút rồi thì hãy đâm! Đâm một nhát thôi mà giết được cả kẻ thù lẫn ngựa”.
Họ nói đúng lắm!
Nhưng tuy vây, trước khi rút dao găm ra khỏi bao, anh cần phải biết chắc xem nó có được mài nhọn không.
https://thuviensach.vn
Cuốn sách của ta, đã bao năm nay ngươi sống trong lòng ta! Ngươi là người đàn bà, người tình say đắm mà ta chỉ trông thấy từ xa, ta mơ tưởng tới, mà không sao tới gần được.
Đôi lúc tưởng rằng nàng đã đứng đâu đây gần ngay bên cạnh - chỉ cần với tay ra là tới, nhưng ta rụt rè, bối rối, ta đỏ mặt và lùi xa.
Nhưng bây giờ thì - chấm dứt. Ta mạnh dạn bước lại gần và cầm tay nàng. Từ một chàng trai rụt rè yêu đương, ta biến thành một người đàn ông táo bạo, từng trải. Tôi thắng yên cương vào ngựa, quất nó ba roi - mặc cho nó lao lên.
Nhưng tuy vậy, thoạt tiên tôi rắc thuốc lá trồng trong vườn nhà miền núi lên miếng giấy nhỏ vuông vức, rồi từ từ cuốn lại thành điều thuôc. Nếu tôi cuốn lại thật đều, thật mịn, thì khi hút sẽ thú vị biết bao!
Cuốn sách của ta, trước khi ta bắt đầu viết, ta muồn kể rằng ngươi đã chín dần trong ta thế nào, Ta đã tìm được tên đặt cho ngươi thế nào. Vì lẽ gì mà ta viết. Và đâu là những đích tới trong cuộc đời ta.
Tôi để khách xuống bếp, nơi đang pha những tảng thịt cừu và ở đây không phải đang có mùi thịt nướng bốc lên, mà là mùi máu, mùi thịt, mùi da cừu còn đang ấm nóng.
Tôi dẫn bạn bè vào căn phòng làm việc thân thiết, nơi những bản thảo của tôi đang để ở đấy, và tôi cho phép họ lục lọi.
Mặc dầu bố tôi nói: Người lục lọi bản thảo của kẻ khác cũng giông như người lục lọi túi áo kẻ khác.
Bố tôi còn nói: Lời bạt gợi cho ta hình ảnh một người lưng rộng bè bè, trên đầu lại đội thêm cái mũ to sù sù ngồi chắn trước ta trong rạp hát. Nếu anh ta ngồi yên, không ngả sang phải, sang trái thì còn đỡ. Người ngồi trước như thế sẽ đem lại cho tôi, một khán giả, nhiều điều rất bất tiện và cuối cùng sẽ làm tôi bực tức.
Rút trong sổ tay. Nhiều lần tôi có dịp phát biểu trong các buổi dạ hội thơ ca ở Matxcơva hoặc ở các thành phố của nước Nga. Những người đến dự
https://thuviensach.vn
không biết tiếng Avar[4]. Thoạt tiên tôi tự kể đôi nét về mình bằng một thứ tiếng Nga chưa được sõi lắm. Sau đó các bạn nhà thơ Nga đọc bản dịch những bài thơ của tôi. Nhưng thường là trước khi bắt đầu, người ta yêu cầu tôi đọc một bài thơ bằng tiếng mẹ đẻ: “Chúng tôi muốn được nghe nhạc điệu của ngôn ngữ Avar, nhạc điệu của bài thơ”. Tôi cất giọng đọc, tôi đọc chẳng khác gì tiếng “bật bông” trên cây đàn panđur trước khi ca sĩ hát.
Lời bạt một cuốn sách cũng sẽ như thế chăng?
Rút trong sổ tay. Khi tôi theo học đại học ở Matxcơva bố tôi gửi tiền cho tôi để mua bành tô mùa đông. Nhưng kết quả là tiền tôi tiêu hết mà bành tô thì không mua. Đến kỳ nghỉ đông, tôi về Đaghextan với bộ đồ đã mặc khi rời đó đi Matxcơva dạo hè.
Về đền nhà tôi bắt đầu phân bua với bố, bịa ra đủ thứ chuyện, chuyện sau ngô nghê hơn chuyện trước. Khi thấy tôi đã hết phương biện bạch, bố tôi mới ngắt lời:
- Thôi không nói nữa, Raxun. Bô muốn hỏi con hai câu.
- Bố hỏi đi.
- Mua bành tô chưa?
- Con chưa mua.
- Tiền tiêu hết chưa?
- Con tiêu hết rồi.
- Thế đây, bây giờ thì rõ tất cả rồi - Việc gi con phải tuôn ra lắm lời vô ích như thế, việc gì phải sáng tác ra cả một đoạn mào đầu dài dòng như vậy, nếu thực chất của sự việc chỉ thể hiện trong đôi ba chữ?
Bố tôi đã dạy tôi như thế.
Tuy nhiên, đứa bé mới ra đời không thể biết nói ngay. Trước khi biết nói, nó phải bập bẹ những tiếng gì không rõ. Và có khi nó khóc vì bị đau mà đến mẹ đẻ cũng khó lòng biết được nó đau chỗ nào.
https://thuviensach.vn
Nhưng lẽ nào tâm hồn thi sĩ lại không giống tâm hồn trẻ thơ?
Bố tôi nói: Khi người ta chờ đàn cừu đi ăn trên núi về thì thoạt tiên họ thấy sừng con dê bao giờ cũng đi đằng trước, tiếp đó thấy cả con dê, và sau nữa mới thấy đàn cừu.
Khi người ta chờ đợi nghi lễ đám cưới hay đám tang bắt đầu thì thoạt tiên họ nhìn thấy người cấp báo.
Khi người ta chờ người cấp báo vào làng thì thoạt tiên họ nhìn thấy đám bụi mù, sau đó là ngựa và cuối cùng là người ky sĩ ấy.
Khi người ta chờ người thợ săn trở về thì thoạt tiên họ nhìn thấy con chó của người thợ săn.
https://thuviensach.vn
CUỐN SÁCH NÀY ĐÃ RA ĐỜI THẾ NÀO VÀ NÓ ĐÃ ĐƯỢC VIẾT Ở ĐÂU
Cả những đứa trẻ cũng từng gặp những giấc mơ lớn.
Lời ghi trên nôi
Vũ khí chỉ dùng đến một lần, cần phải mang theo suốt đời, Bài thơ mà anh sẽ ngâm nga suốt đời chỉ viết trong một lần.
Có một con chim mùa xuân bay lượn trên làng bản khi xuân sang. Nó đang nghĩ xem nên nghỉ ngơi ở nơi đâu.Nó chợt nhìn thấy một mái nhà bằng phẳng, rộng rãi, sạch sẽ. Trên mái nhà là một cái sân nhỏ bằng đá. Từ khoảng không, con chim hạ thấp xuống và đậu trên sân nhỏ nghỉ ngơi. Người đàn bà miền núi đã nhanh tay tóm được chú chim và mang nó vào trong nhà. Nó nhận thấy mọi người trong nhà đều đối xử tốt với nó, và nó ở lại luôn tại đấy. Nó tự kết tổ trên cái móng sắt đóng vào thanh dầm ngang cũ kỹ bám đầy bồ hóng.
Có phải cuốn sách của tôi cũng thế chăng?
Đã bao lần, từ khoảng trời thơ ca của mình, tôi đã liếc nhìn xuống cánh đồng văn xuôi, cố tìm một chỗ để ngồi lại, nghỉ ngơi...
Không, ở đây tốt hơn hết có lẽ nên so sánh với một chiếc máy bay đang cần hạ cánh xuống sân bay. Tôi đã lượn một vòng để từ từ hạ cánh. Nhưng vì thời tiết xấu, sân bay không nhận đón máy bay tôi. Đang bay một vòng rộng, tôi chuyển sang bay thẳng và lại bay tiếp xa hơn, mặt đất mong đợi vẫn nằm nguyên phía dưới... Đã nhiều lần diễn ra như vậy.
Và tôi nghĩ, thế có nghĩa là tôi không được số phận dành cho một điểm tựa vững như bàn thạch. Thế có nghĩa là đôi chân tôi sẽ phải đi hoài không nghỉ trên trái đất này, đôi mắt tôi sẽ phải ngắm nhìn không chán những miền đất mới trên hành tinh này, và trái tim tôi - phải luôn luôn sinh ra những bài ca mới.
https://thuviensach.vn
Giống như người thợ cày say sưa ngắm nhìn đám mây bay qua hay đàn sếu dăng hàng mềm mại, rồi, dứt bó niềm say mê ây, lại cầm lấy tay cày mà đẩy đi với vẻ cần mẫn hơn nữa, tôi cũng lại ngồi vào bàn, viết tiếp bản trường ca bỏ dở giữa chừng. Phải rồi, thơ ca của tôi, dù tôi có so sánh nó với khoảng nào đi nữa, riêng đối với tôi nó vẫn là miếng đất cày đi xới lại, là công việc nhọc nhằn của tôi. Tôi chưa từng viết văn xuôi.
Rồi có lần tôi nhận được một phong bì dày. Trong phong bi là bức thư của tổng biên tập một tờ tạp chí mà tôi rất kính trọng. Bản thân người tổng biên tập đó tôi cũng kính trọng. Và vị tổng biên tập ấy cũng mở đầu bức thư bằng câu: “Raxun kính mến”. Nóí chung là hai bên đều tôn trọng nhau sâu sắc.
Khi tôi mở bức thư ra đọc, nó đã làm tôi nhớ đến hình ảnh một tấm da trâu mà người dân miền núi trái ra phơi khô trên mái nhà, Và khi tôi lật những trang thư, chúng cũng kêu sột soạt không kém gì tấm da trâu đã khô, người ta gấp tư lại để mang vào nhà. Chỉ có điều là không có mùi hăng hăng, ngai ngái của tấm da thôi. Bức thư không có mùi vị gì.
Nhân tiện cũng xin dẫn ra một đoạn trong bức thư của vị tổng biên tập đó: “Tòa soạn chúng tôi quyết định sẽ đăng trong các số tới của tạp chí những bài vở về những thành tựu, những việc làm tốt đẹp và quang cảnh lao động hàng ngày ở Đaghextan. Đây sẽ là câu chuyện về những người lao động bình thường, về các chiến công và nguyện vọng của họ. Đây sẽ là câu chuyện về ngày mai tươi sáng của miền núi quê anh, về những truyền thống lâu đời ở đó, nhưng chủ yếu - là về ngày hôm nay rất đáng ghi nhớ của miền quê ấy. Chúng tôi cho rằng một bài như thế tốt hơn hết là anh viết. Thể loại tùy anh chọn: có thể là truyện ngắn, bài báo, bút ký hay một loạt những phác thảo. Bài dài chừng 9 - 10 trang đánh máy. Thời hạn chừng 20 – 25 ngày. Chúng tôi rất hy vọng và xin cám ơn anh trước...”
Thời xưa, khi gả chồng cho con, người ta không cần hỏi đến ý kiến cô gái mà chỉ làm một cách đơn giản - nói theo ngôn ngữ bây giờ - là đặt cô ta trước việc đã rồi. Họ nói rằng mọi chuyện đã xong xuôi. Nhưng thậm chí
https://thuviensach.vn
ngay từ thời ấy, ở miền núi chúng tôi không một ai dám tổ chức đám cưới cho con trai mình khi cậu ta không đồng ý. Người ta nói rằng chỉ có một người nào đó ở 1àng Ghiđátli đã từng hành động như vậy. Nhưng lẽ nào vị tổng biên tập đáng kính của tôi lại là người làng Ghiđátli? Ồng ấy đã quyết định tất cả thay tôi... Nhưng liệu tôi có quyết định kể về đất nước Đaghextan của tôi qua chín trang giấy nhỏ trong vòng 20 ngày không?
Tôi cố quên bức thư xúc phạm tới tôi ấy. Song ít lâu sau, điện thoại của tôi bỗng réo lên gắt gao liên hồi, hệt như đó không phải là điện thoại, mà là một con gà mái vừa đẻ trứng xong. Tất nhiên, đó là điện thoại gọi từ tòa soạn tờ tạp chí nọ.
- Chào anh Raxun! Anh nhận được thư chúng tôi rồi chứ? - Nhận được rồi.
- Thế bài đâu?
- Tôi... tôi... Nhiều việc quá... Chẳng có lúc nào rỗi.
- Sao lại thế, anh Raxun? Không thế nói thế được. Tạp chí chúng tôi in tới gần một triệu bản. Nó được phát hành cả ở ngoài nước. Nếu quả thật là anh bận, chúng tôi sẽ phái đến anh một người. Anh sẽ phác ra vài ý, vài chi tiết, còn lại anh ta sẽ làm tất. Anh sẽ đọc lại, sửa qua rồi ký tên mình vào... Điều chúng tôi cần nhất là có tên của anh.
- Ai không biết quý trọng khách thì hãy để cho xương của nó gãy hết đi! Nếu ai gặp khách với vẻ mặt khó chịu hay với vầng trán nhăn nhó thì hãy để cho trong nhà nó không có người già, - những người có thể khuyên bảo lời hay việc tốt, hãy để cho trong nhà nó không có người trẻ - những người sẽ nghe những lời khuyên bảo ấy! Chúng tôi đối xử với khách như vậy đấy. Nhưng cầu trời, các anh đừng phái đến chỗ tôi người nào khéo tay mau miệng. Tôi sẽ tự làm lấy được tất. cả tay quai nơi cái bình của tôi, tôi cũng tự gắn vào. Nếu tôi bị ngứa lưng thì không ai có thể gãi chỗ ngứa ấy tốt hơn tôi.
Cuộc thương lượng giữa chúng tôi đến đây là chấm dứt. Thế là xong!
https://thuviensach.vn
Tôi xin nghỉ phép một tháng và trở về làng quê Xađa.
Ôi Xađa! Bảy mươi nếp nhà ấm cúng. Bảy mươi làn khói xanh tỏa lên bầu trời trong sáng của miền núi cao. Những ngôi nhà màu trắng trên mặt đất đen. Phía trước làng, phía trước những ngôi nhà màu trắng là những cánh đồng xanh bằng phẳng. Đằng sau làng, những vách đá dựng đứng. Những tảng đá màu xám nhấp nhô dựng trên làng chúng tôi hệt như những đứa trẻ tụ tập trên mái nhà bằng để nhìn xuống đám cưới đang diễn ra dưới sân. Đi tới làng Xađa, tôi nhớ lại bức thư mà bố tôi đã gửi về nhà khi lần đầu tiên nhìn thấy Matxcơva. Khó mà đoán được, chỗ nào bố nói đùa, chỗ nào bố nói thật. Ông ngạc nhiên về Matxcơva:
“Hình như ở đây, ở Matxcơva, người ta không đốt lửa trong bếp lò để nấu ăn, vì bố không nhìn thấy người phụ nữ nào đóng bánh phân khô[5]trên tường nhà mình, không nhìn thấy từ các mái nhà khói đùn lên trông giống như chiếc mũ lông to tướng của Abutalíp. Bố cũng không nhìn thấy những bánh xe lăn để ép phẳng những mái nhà kết bằng rạ. Bố không nhìn thấy người dân Matxcơva phơi cỏ khô trên mái nhà. Nhưng nếu họ không phơi khô cỏ thì sẽ lấy gì để cho bò ăn? Bố không nhìn thấy một phụ nữ nào lê bước đi với bó củi khô, hay bó cỏ trên vai. Không một lần nào bố nghe thấy tiếng kèn zuma hay tiếng trống. Có thể nghĩ rằng thanh niên ở đây không lấy vợ và không tổ chức đám cưới. Dù bố có đi khắp các ngả đường của thành phố lạ lùng này thì bố cũng không hề thấy một con cừu nào. Thử hỏi người dân Matxcơva sẽ ngả thịt con gì nếu khách bước qua ngưỡng cửa nhà mình? Khi có bạn bè thân đến chơi nêu không mổ cừu thì lấy gì mà thết đãi? Không, bố chẳng thèm muốn một cuộc sống như thế. bố muốn sống trong làng Xađa của mình, nơi mà bố có thể ăn món khinkal[6]tùy thích, sau khi nói với mẹ cho thêm tỏi vào đó...”
Bố tôi còn tìm thấy nhiều “nhược điểm” khác ở Matxcơva khi so sánh nó với làng quê hương. Tất nhiên là ông đã đùa khi ngạc nhiên rằng ở Matxcơva người ta không đắp phân khô lên tường nhà, nhưng ông đã không đùa khi ông dành tình yêu lớn hơn cho cái làng nhỏ của ông chứ không phải
https://thuviensach.vn
cho thành phố vĩ đại kia. Ông yêu làng Xađa của mình và không bao giờ đổi nó để lấy bất cứ một thủ đô nào trên trái đất này.
Làng Xađa thân yêu của tôi! Đây, tôi đã trở về đây từ thế giới rộng lớn mà ở đó bố tôi đã nhận thấy bao nhiêu là “nhược điểm”. Tôi đã đi khắp thế giới ấy, và đã nhìn thấy bao nhiêu kỳ thú. Đôi mắt tôi hoa lên trước bao nhiêu cảnh đẹp phong phú, không biết dừng lại ngắm cảnh nào. Vừa nhìn một ngôi đền đẹp đẽ, đôi mắt tôi đã vội lướt sang một ngôi đền khác cũng đẹp như vậy; vừa thấy một gương mặt đẹp thì trước mắt đã hiện ra một gương mặt khác đẹp hơn; tôi biết rằng dù hôm nay tôi nhìn thấy những cái đẹp đến đâu, ngày mai tôi vẫn sẽ nhìn thấy những cái đẹp hơn... Như ta thấy đây, thế giới này không bao giờ có tận cùng.
Hãy tha lỗi cho tôi, hỡi những ngôi chùa Ấn Độ, những kim tự tháp Ai Cập, những ngôi đền cổ Italia; hãy tha lỗi cho tôi những xa lộ nước Mỹ, những đại lộ Pari, những công viên nước Anh, những ngọn núi Thụy Sỹ. Hãy tha lỗi cho tôi, những người phụ nữ Ba Lan, Nhật Bản, Rôm - tôi ngắm nhìn các bạn, nhưng trái tim tôi bình thản đập, và nếu nhịp đập của nó có nhanh hơn một chút, cũng không đến nỗi làm miệng tôi khô đắng và đầu óc quay cuồng.
Vì đâu mà bây giờ, khi tôi lại nhìn thấy bảy mươi nếp nhà nép mình bên vách đá này, trái tim tôi bỗng đập liên hồi, làm tôi đau đau nơi lồng ngực, mắt tôi nhòa đi và đầu óc quay cuồng như tôi đang bị ốm hay say rượu?
Chẳng lẽ cái làng Đaghextan nhỏ bé lại đẹp hơn Vơnizơ, Cairô hay Canquytta?
Chẳng lẽ người phụ nữ Avar chậm chạp bước đi trên con đường mòn nhỏ với bó củi trên vai đẹp hơn người đàn bà xứ Xcanđinavơ cao lớn, tóc màu hạt dẻ?
Ôi, Xađa! Ta bước đi trên những cánh đồng của ngươi, và sương lạnh ban mai đã làm đôi chân ta hết mỏi. Tôi không lấy nước dưới lòng suối trong khe núi, chỉ lấy nước tận đầu nguồn rửa mặt. Người ta nói rằng nếu muốn uống, hãy uống nước nguồn. Người ta cũng nói rằng, - điều này tôi nghe bố
https://thuviensach.vn
tôi nói, - người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: để uống nước nguồn và để hái hoa, Xađa, chính ngươi là nguồn nước của ta. Tôi quỳ xuống, ghé môi và say sưa uống nguồn nước Xađa.
Tôi nhìn thấy hòn đá - và một bóng hình trong suốt in lên đó. Đây chính là tôi ba mươi năm về trước. Tôi ngồi trên tảng đá và chăn cừu. Trên đầu tôi, một cái mũ nhầu nát, tay tôi cầm một chiếc gậy dài, chân lấm đất.
Tôi nhìn thấy con đường mòn nhỏ và một bóng hình trong suốt in lên đó. Đây cũng là tôi ba mươi năm về trước. Tôi có việc sang làng bên cạnh. Chắc là bố tôi đã sai tôi đi.
Trên mỗi bước đi, tôi gặp lại mình, gặp lại thời thơ ấu của tôi, gặp lại những mùa xuân, những cơn mưa, những bông hoa và những chiếc lá rụng mùa thu của tôi.
Tôi cởi quần áo và ngâm mình dưới dòng thác trắng xóa. Dòng nước nhảy nhót từ vách đá này sang vách đá khác, tung bọt trắng rồi tụ lại thành dòng, và cuối cùng thì đập vào vai, vào tay, vào đầu tôi.
Vòi tắm hoa sen ở khách sạn Pari “Hoàng cung” so với những thác nước mát lạnh này của tôi chỉ là một đồ chơi thảm hại bằng chất dẻo.
Giữa những tảng đá ấm áp, dòng nước chảy từ nhánh sông trên núi, ầm dần lên. Bồn tắm màu xanh nhạt ở khách sạn Luân - đôn “Mêtơrôpôn” - chi là một cái đĩa nhỏ so với những bồn tắm giữa khe núi của tôi.
Tôi thích đi bộ giữa lòng những thành phố lớn, Tuy vậy chỉ sau dăm sáu lần đi chơi lâu lâu, tôi đã bắt đầu cảm thấy thành phố trở nên quen thuộc và ý muốn đi chơi mãi trong thành phố dần tiêu tan.
Nhưng tôi đã hàng nghìn lần đi trên các ngõ. ngách làng tôi, thế mà tôi không hề thấy chán, tôi vẫn còn muốn đi nữa, đi mãi không thôi.
Lẩn trở về này, tôi đến thăm từng ngôi nhà. Trong những ngôi nhà, bếp lò còn rực than hồng hay chỉ còn tro tàn nguội lạnh, tôi đã cúi đầu chào, mái đầu cũng đã lốm đốm trắng màu tro.
https://thuviensach.vn
Tôi đứng bên cạnh những chiếc nôi, trong đó các chàng trai, cô gái miền núi tương lai đang quẫy đạp, hay trong đó chỉ còn hơi ấm - đứa bé đã mang đi, hay trong đó chiếc chăn, gối nhỏ đã lạnh ngắt.
Bên mỗi chiếc nôi, tôi đều có cám giác dường như tôi đang nằm trong đó, dường như tất cả tương lai tôi còn ở phía trước: cả những con đường mòn trên núi và những con đường rộng rãi ở nước Nga, cả những xa lộ, những sân bay ở các nước xa xôi.
Tôi bế những đứa trẻ, khe khẽ hát bài hát ru, và bọn trẻ yên lành thiếp dần trong tiềng hát vụng về của tôi.
Tôi đã ra thăm nghĩa địa làng Xađa, nơi những nấm mộ cũ cỏ dại mọc đầy nằm bên những nấm mộ mới còn thơm mùi đất.
Tôi ngồi im lặng trong những ngôi nhà đang có đám tang, tôi vui vẻ nhảy múa trong các đám cưới. Tôi đã nghe nhiều lời, nhiều câu chuyện trước đây chưa từng nghe. Nhiều điều tôi đã biết và đã quên, tôi lại nhớ, lại trở về từ đáy sâu ký ức...
Tôi nhìn thấy cái mới, nghe lại, nhớ lại những điều xưa cũ, và ý nghĩ của tôi giống như những sợi chỉ nhiều màu quấn quanh một ống suốt lớn. Tôi đã tự hình dung tấm thảm sặc sỡ có thể dệt lên từ những sợi ấy.
Mới hôm qua còn trèo cây bắt chim
Kéo bè bạn lên chơi từng mỏm đá
Tình yêu đến, mắt trong xanh, kỳ lạ
Và bỗng dưng tôi khôn lớn, trưởng thảnh.
Nhưng nếu hôm qua, tôi đã tự coi mình
Chín chắn, khôn ngoan, chưa già - đầu đã bạc...
Tình yêu đến, chỉ mỉm cười đơn giản
Thì trước tình yêu, tôi lại hóa trẻ thơ.
https://thuviensach.vn
Tôi còn một thiên trường ca về tình yêu chưa viết xong. Chàng và Nàng. Chàng - chính là tôi. Nhưng nhân vật chính - là tình yêu của tôi. Cần phải viết nốt! Nhung tôi có cảm giác dường như vừa nhận được một bức điện đầy lo âu, và tôi phải gác mọi việc lại để vội vã ra sân bay.
Hay có khi thế này, sớm tinh mơ, người đàn bà vùng núi nhóm lửa lên. Chị ta sửa soạn hâm đồ ăn còn lại từ hôm qua, đủ để cả gia đình ãn no. Nhưng bất ngờ, một người khách hiện ra trên ngưỡng cửa. Cần phải nhắc cái nồi đựng thức ăn hôm qua xuống, cần phải làm món ăn mới.
Hay có khi thế này, trong đám cưới, các thanh niên cố ngồi gần chàng rể, người bạn, người cùng lứa tuổi với họ, nhưng rồi bỗng nhiên họ phải đứng dậy và nhường chỗ vì có những người lớn tuổi hơn mới bước vào phòng.
Hay có khi thế này, trong ngôi nhà công cộng của làng có các bậc cao tuổi đang ngồi, lũ trẻ chơi đùa ngay bên cạnh. Bỗng nhiên người ta xua bọn trẻ ra ngoài, vỉ các cụ cần phải họp bàn một việc quan trọng.
Đôi khi tôi có cảm giác, tôi là một người thợ săn, người đi câu, người kỵ sĩ: tôi săn đuổi các dự định, câu chúng, cưỡi lên chúng và đập gót giày vào. Đôi khi tôi lại có cảm giác tôi là con hươu, con cá hồi, con ngựa, ngược lại, những ý nghĩ, dự định, cảm xúc đi tìm tôi, túm lấy tôi, cưỡi lên và điều khiển tôi.
Phải rồi, những ý nghĩ và cảm xúc đã đến như những người khách miền núi, không cần được mời, không cần báo trước. Không thể bỏ mặc khách mà chạy, cũng như không thể trốn thoát khỏi những cảm xúc và ý nghĩ ấy.
Ở miền núi chúng tôi không phân biệt khách lớn, khách bé, khách quan trọng hay không quan trọng. Vị khách bé nhất cũng được tôn kính hơn cả chủ nhân già lão nhất. Không cần hỏi khách từ miền nào tới, chúng tôi ra ngưỡng cửa đón khách, dẫn vào góc nhà cạnh bếp lò và mời ngồi lên đệm gối.
Ở miền núi, khách bao giờ cũng xuất hiện bất chợt. Nhưng không bao giờ chúng tôi thấy đó là điều bất ngờ, không bao giờ chúng tôi bị lúng túng, vì lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng đón khách, từng ngày, từng giờ, từng phút.
https://thuviensach.vn
Cũng giống như vị khách miền núi, ý đồ viết cuốn sách này chợt đến với tôi.
Hay có khi thế này, chẳng biết làm gì, anh uể oải lấy cây đàn panđur treo trên tường xuống để thử xem dây còn đúng không, anh bắt đầu “bật bông”, nhưng bỗng một bài hát vang lên trong đầu anh, từ tiếng đàn rời rạc anh nghe thấy âm điệu dịu dàng, du dương, và chính anh đã cất tiếng hát, quên mất rằng đêm đang qua và bình minh đã tới,
Hay có khi thế này, một chàng trai trẻ đi sang làng bên cạnh vì một chuyện vặt vãnh, rồi trở về với một người vợ ngồi đằng sau yên.
Anh bạn tổng biên tập tạp chí thân mến! Tôi sẽ thực hiện yêu cầu mà anh đã nêu trong bức thư. Sắp tới tôi sẽ bắt đầu viết quyển sách về Đaghextan. Chỉ có điều là hãy tha lỗi cho tôi - chắc là tôi không thể viết xong trong thời hạn anh đã đặt ra. Tôi còn phải đi qua quá nhiều con đường mòn, mà ở vùng núi chúng tôi, những con đường như vậy rất hẹp và dốc.
Những ngọn núi quê tôi lấp lánh từ xa một cách bí ẩn trông như những tảng kim cương chưa được mài nhẵn. Trước con ngựa của tôi là một khoảng không bao la. Nó không muốn phi trong hẻm núi chật hẹp mà anh đã chỉ ra.
Tôi cũng không thể gói ghém Đaghextan của tôi vào chín, mười trang đánh máy của anh đâu. Và tôi cũng không thể viết nổi bài về “những thành tựu, những việc làm tốt đẹp, về những quang cảnh lao động”, “về những người lao động bình thường, về các chiến công và nguyện vọng của họ”, “về ngày mai tươi sáng của miền núi, về những truyển thống lâu đời, nhưng chủ yếu là về ngày hôm nay rất đáng ghi nhớ...”
Ngòi bút nhỏ bé của tôi không đủ sức để chịu đựng một sức nặng như thế! Giọt mực nhỏ xíu ở đầu ngọn bút không thể thu vào trong mình nó cả những dòng sông mênh mông cuồn cuộn chảy, cả những dòng nước trên núi ào ào đổ xuống, số phận của cả thế giới và số phận của một con người.
Chim lớn thì nhiều máu, chim nhỏ thì ít máu. Chim thế nào thì máu thế ấy.
https://thuviensach.vn
Người ta nói rằng: Có ai tình cờ ném đi một hạt quả anh đào, tình cờ nó rơi xuống đầu con chim, thề rồi đôi sừng hươu đẹp đẽ mọc lên.
Người ta nói rằng: Nếu trên đời này không có Ali thì cũng không thể có Omar. Nếu trên thế giới này không có đêm thì cũng không lây đâu ra buổi sớm. Người ta nói rằng:
- Này chim ưng, chim sinh ra ở đâu?
- Trong khe núi hẹp.
- Chim bay đi đâu?
- Bay đến khoảng trời cao rộng.
https://thuviensach.vn
VỀ Ý NGHĨA CỦA CUỐN SÁCH NÀY VÀ TÊN GỌI CỦA NÓ
Chuông báo trước niềm vui khi hội hè
Nhưng ẩn bên trong cả từng hồi báo động.
Lời ghi trên chuông
Cha can đảm, cha tận cùng trung thực
Mang tên cha, con ngủ ở nôi này
Luỡi dao cha – đặt đầu nôi con đó
Chiến công cha - lời ru nựng con đây!
Lời ghi trên nôi
Có hai thứ người miền núi chúng tôi đặc biệt trân trọng giữ gìn: cái mũ của mình và cái tên của mình. Giữ gìn mũ là người có đầu dưới mũ. Giữ gìn tên là người trong tim có lửa.
Trên trần ngôi nhà nhỏ của chúng tôi có nhiều vết đạn. Bạn bè của bố tôi đã lấy súng lục nhắm bắn lên trần: những con chim ưng làm tổ trên các ngọn núi xung quanh cần phải biết rằng đứa em của chúng vừa mới ra đời, rằng ở Đaghextan có thêm một chim ưng nữa.
Tất nhiên đứa con trai không thế ra đời từ một viên đạn, từ một phát súng. Nhưng bao giờ cũng phải có một viên đạn nào đấy để ghi nhận sự ra đời của một chú bé trai.
Khi tôi ra đời và khi đặt tên cho tôi, bạn bố tôi đã hai lẩn nổ súng: vừa bắn lên trần vừa bắn xuống nền nhà.
Mẹ tôi kể lại mọi người đã đặt tên cho tôi như thế nào. Trong gia đình, tôi là đứa con trai thứ ba. Còn có một người con gái nữa, là chị tôi.
Tên đứa con trai đầu lòng cả làng đều biết từ trước khi nó ra đời, vì theo tục lệ, nó phải mang tên người ông đã quá cố. Mọi người dân trong làng đều
https://thuviensach.vn
nhớ đến điều đó và tất cả đều nói: sắp tới gia đình Gamzatốp sẽ có thêm cậu Mahômét.
Trong sân nhà ông tôi chưa từng bao giờ có con vật bốn chân bước vào, trừ chó và mèo. Không biết đã lần nào ông tôi ngủ trong chăn chưa, không chắc là ông tôi đã biết thế nào là quần áo lót. Chưa có vị bác sĩ nào trên thế giới này có thể khoe rằng đã được khám bệnh cho Mahômét, đã nhìn vào miệng ông, bắt mạch ông, bắt ông thở thật sâu, thật mạnh hay nói chung là nhìn thấy thân hỉnh ông. Không có ai trong làng tôi biết rõ được ngày sinh và ngày mất của ông. Nếu tin vào một lá đơn được viết ra để bôi nhọ bố tôi thì ông nội Mahômét có biết chút ít tiếng Ả Rập. Bố tôi đã lấy tên ông để đặt cho người con đầu lòng, người anh cả của tôi.
Bố tôi còn có một người chú chết ít lâu trước khi mẹ tôi sinh đứa con trai thứ hai. Chú tên là Akhintri.
- Đấy, Akhintri sống lại rồi! - dân làng sung sướng nói, khi cậu bé thứ hai sinh ra trong nhà tôi. - Akhintri của chúng ta đã sống lại. Nếu có con quạ nào đậu lên nóc nhà đơn sơ của ông thì đây sẽ là điềm lành, chứ không phải điềm dữ. Hãy cầu cho đứa bé này lớn lên cũng sẽ thành người tốt bụng như người nó đã mang tên.
Vào khoảng thời gian tôi sắp ra đời, bố tôi chẳng còn ai thân thích hay ruột thịt vừa mới chết hay mất tích ở xứ sở xa lạ để tên của người đó có thể được chuyển sang cho tôi, để tôi sẽ lại mang cái tên ấy trên đời một cách trung thực như vậy,
Khi tôi ra đời, bố tôi mời những người đáng kính nhất trong làng đến nhà để làm lễ đặt tên. Họ chậm rãi ngồi xuống trong nhà với đầy vẻ trịnh trọng, hệt như họ đang phải quyết định số phận của cả một nước. Trên tay mỗi người là một chiếc bình sứ miền Bankhar. Trong bình tất nhiên là rượu buza sủi bọt. Chỉ có một người cao tuổi nhất, râu tóc bạc trắng như tuyết, trông giống như một nhà tiên tri là không cầm gì trên tay.
Mẹ tôi từ một phòng khác bước ra và trao tôi cho ông già đó. Tôi quẫy đạp trên tay ông già, lúc ấy mẹ tôi nói:
https://thuviensach.vn
Cụ đã hát trong đám cưới của cháu, lúc thỉ gảy đàn, lúc thì rung trống, Những bài hát của cụ rất hay. Bây giờ cụ sẽ hát bài gì, khi cụ bế trên tay đứa bé của cháu?
- Hỡi thiếu phụ! Cô là mẹ nó, cô sẽ đưa nôi và hát cho nó nghe. Rồi sau đó chim chóc và các dòng sông sẽ hát cho nó. Những thanh kiếm và viên đạn cũng sẽ hát cho nó. Bài hát hay nhất nó được nghe sẽ là bài hát từ miệng người con gái sau này nó yêu.
- Vậy thì cụ hãy đặt tên cho nó đi. Hãy để cho cháu, là mẹ nó, để cho cả làng này và cả Đaghextan nghe thấy cái tên cụ đặt cho nó.
Ông lão nâng bổng tôi lên phía trần nhà và dõng dạc nói:
- Tên con gái cần phải giống ánh sáng các vì sao hay giống bông hoa mềm mại. Tên con trai cần phải chung đúc âm thanh của những thanh kiếm và sự uyên thâm của các cuốn sách. Khi đọc các sách ta đã biết nhiều tên, ta đã nghe thấy nhiều tên trong âm thanh của kiếm. Những cuốn sách của ta và thanh kiếm của ta thì thào mách bảo ta rằng tên gọi đó là RAXUN.
Ông lão trông giống nhà tiên tri ấy ghé sát một bên tai tôi và thì thầm: “Raxun”. Sau đó, cụ ghé sát xuống tai kia và kêu to: “Raxun!” Tiếp đấy cụ trao lại tôi đang khóc cho mẹ, và hướng về phía mẹ, hướng về mọi người ngồi trong nhà, cụ nói:
- Đây, Raxun đây!
Những người ngồi trong nhà im lặng đồng ý tên đặt cho tôi. Các ông già nghiêng bình rót rượu, đưa tay vuốt ria mép, vui vẻ cười ha há.
Có hai thứ người dân miền núi cần giữ gìn: đó là cái mũ và cái tên. Có thể có cái mũ rất nặng. Cái tên cũng vậy. Hóa ra là cụ già râu tóc bạc phơ kia, người đọc nhiều sách và đi khắp thề gian, đã đem lại ý nghĩa và sứ mạng cho tên tôi.
Raxun trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “sứ giả”, hay đúng hơn là “người đại diện”. Vậy thì tôi là sứ giả của ai, là đại diện cho ai?
https://thuviensach.vn
Rút trong sổ tay. Nước Bỉ. Tôi tham dự cuộc gặp gỡ các nhà thơ thế giới, đại diện nhiều nước, nhiều dân tộc. Mỗi người đều lên diễn đàn và nói về nhân dân mình, về văn hóa, thơ ca, về số phận của đất nước mình. Cũng có những đại biểu như thế này: người Hunggari ở Luân Đôn, người Extônia từ Pari, người Balan ở Xan - Frăngxixkô... Biết làm thế nào được, số phận đã ném họ đi khắp các nước, qua những biển rộng và núi cao, cách thật xa quê hương.
Tôi ngạc nhiên hơn cả khi nghe một thi sĩ phát biểu: - Thưa các ngài, các ngài từ nhiều nước khác nhau đến đây. Các ngài là đại diện nhiều dân tộc khác nhau. Chỉ có tôi ở đây là không đại diện cho một dân tộc nào, một nước nào cả. Tôi là đại biểu của tất cả các dân tộc, của tất cả các nước, tôi là đại diện của thơ ca. Vâng, tôi - là thơ ca. Tôi - là mặt trời chiếu rọi cả hành tinh này, tôi - là cơn mưa tưới nhuần mặt đất mà không hề nghĩ đến nguồn gồc dân tộc của mình, tôi - là cái cây nở hoa như nhau trên khắp mọi miền của trái đất này.
Anh ta nói như vậy rồi rời khỏi diễn đàn. Có nhiều người vỗ tay. Và tôi nghĩ rằng: anh ta nói có phần đúng, tất nhiên, - chúng tôi, những nhà thơ, có trách nhiệm với cả thế giới, - nhưng kẻ nào không gắn bó với một mánh đất quê hương thỉ không thể đại diện cho cả hành tinh này được. Đối với tôi, anh ta giống như một người rời bỏ quê hương, lấy vợ ở một miền xa và gọi bà nhạc là mẹ đẻ. Tôi không ghét bỏ gì các bà nhạc, nhưng ngoài mẹ ra, không có ai khác là mẹ đẻ được.
Khi người ta hỏi anh rằng anh là người thế nào, thì anh có thể chìa chứng minh thư, tấm hộ chiếu ra, trong đó ghi mọi điều cần thiết.
Nếu khi có ai hỏi một dân tộc xem dân tộc đó là thế nào, thì dân tộc đó sẽ đưa ra “giấy tờ” của mình là các nhà bác học, nhà văn, nhà họa sĩ, nhạc sĩ, nhà hoạt động chính trị, các vị tướng lãnh.
Từng người một, từ khi còn trẻ, cần phải hiểu rằng mình ra đời trên trái đất này là để đại diện cho nhân dân mình, và cần phải sẵn sàng đón nhận vai trò đó.
https://thuviensach.vn
Con người được đặt tên, được đội mũ và đeo vũ khí, con người được học những bài hát thân yêu ngay từ lúc nằm trong nôi.
Cho dù số phận làm tôi phiêu dạt đến thế nào, ở đâu tôi cũng sẽ cám thấy mình là đại diện của miền đất ấy, của những rặng núi ấy, của cái làng - nơi tôi đã biết cách thắng yên cương. Ở đâu tôi cũng tự coi mình là phóng viên thường trú của Đaghextan quê tôi.
Nhưng tôi lại trở về Đaghextan với tư cách là một phóng viên của nền văn hóa chung nhân loại, là đại diện của cả đất nước chúng ta và thậm chí của cả thế giới.
Đất quê tôi, làm sao tôi kể nổi
Cho cả trăm miền bát ngát dưới trăng sao.
Giống như tôi đeo đầy mình báu vật
Nhưng tháo cởi ra thì không biết cách nào!
Đến một bài ca ngân vang trong tiếng mẹ
Tôi cũng không sao biết hát ở trăm miền!
Như trên vai, gánh hòm rương quý giá
Gánh mà không thể mở để ai xem!
Ngồi trên sân mái nhà, những người đổng hương của tôi bắt đầu hỏi tôi tới tấp:
- Ở những nơi xa ấy anh có gặp người mình không?
- Trên trái đất không đâu có núi như núi quê ta chứ?
- Ở nước ngoài anh có thằy buồn không, anh có nhớ làng ta không?
- Ở các nước khác người ta có biết đến chúng ta không, có biết rằng chúng ta cũng cùng sống trên trái đất này?
Tôi trả lời:
https://thuviensach.vn
Làm sao mà họ biết chúng ta được, trong khi chúng ta cũng chưa tự biết mình đến nơi đến chốn. Chúng ta có một triệu người. Chúng ta sống bên những vách đá của miền núi Đaghextan. Một triệu người và bốn mươi thứ tiếng khác nhau...
- Thì anh hãy kể lại cho họ nghe về chúng ta - cho bản thân chúng ta và cho những người cùng sốngchung trên trái đất này. Đã hàng thế kỷ nay, kiếm và đao găm đã viết nên lịch sứ của chúng ta. Anh hãy dịch ra tiếng nước khác những cuốn sách đó. Nếu một người sinh ra ở làng Xađa như anh không làm chuyện đó, thì sẽ không có ai thay anh làm việc đó được.
Anh hãy tập hợp ý nghĩ của mình thành những đàn ngựa quý, không con nào thua kém con nào. Anh hãy thả đàn ngựa ấy lên cánh đồng cỏ của những trang giấy trắng. Hãy để cho ý nghĩ của anh phi trên trang giấy như những con ngựa cuống quít, như đàn dê rừng.
Đừng giấu những ý nghĩ của mình. Nếu giấu đi thi rồi anh sẽ quên mất đã để ở đâu. Giống như kẻ hà tiện đôi khi quên mất nơi giấu tiền, và cuối cùng bị mất tiền chính vì sự keo kiệt của mình.
Nhưng cũng đừng trao ý nghĩ của mình cho người khác. Không thể đưa nhạc cụ quý cho trẻ con thay đồ chơi. Đứa trẻ hoặc sẽ làm gãy hỏng, hoặc sẽ đánh mất, hoặc sẽ bị đứt tay vì thứ nhạc cụ đó.
Không ai biết tính nết ngựa cùa anh rõ hơn chính bản thân anh,
Câu chuyện về con đường mòn của bố tôi. Từ làng Xađa nhỏ bé của chúng tôi đến làng lớn Khunzắc, có một con đường ô tô đi. Huyện lỵ đóng ở Khunzắc. Mỗi lẩn đến Khunzắc, bố tôi không bao giờ đi đường chung mà đi bằng con đường mòn nhỏ của riêng mình. Ông đã vạch ra con đường đó, đã tạo thành lối mòn, đã đi trên đấy mỗi buổi sáng và buổi chiều.
Trên con đường nhỏ ấy bố tôi đã tìm ra được những bông hoa tuyệt đẹp. Ông hái chúng và kết lại thành những bó hoa còn tuyệt vời hơn.
Mùa đông, ông lấy tuyết nặn những hình người, hình ngựa, kỵ sĩ nho nhỏ dọc hai bên đường. Dân làng Xađa và dân làng Khunzắc đã đến ngắm nghía
https://thuviensach.vn
những hình tuyết ấy.
Những bó hoa ấy đã khô héo từ lâu, những hình tuyết kia đã tan từ lâu. Nhưng những bông hoa Đaghextan, những hình ảnh người dân miền núi còn sống trong những bài thơ của bố tôi.
Khi tôi mới là một thiếu niên và bố tôi còn sống, có lẩn tôi phải đến làng Khunzắc. Tôi rời khỏi đường cái lớn, và muốn đi bằng con đường mòn nhỏ mà bố tôi đã đi. Một ông già trông thấy thế, bảo tôi dừng lại và nói:
- Đường của bố, cháu hãy để nguyên cho bố. Cháu hãy tìm một lối đi khác, tìm con đường riêng của mình.
Tôi nghe lời cụ già và đi tìm con đường mới. Con đường thơ ca của tôi thật dài và gồ ghề, nhung tôi đã đi trên đó, hái những bông hoa của tôi, ghép lại thành bó hoa của tôi.
Chính trên con đường ấy, lần đầu tiên tôi nghĩ đến cuốn sách này.
Bắt đầu nghĩ - cũng thể như hoài thai. Đứa trẻ nhất định ra đời, chỉ cần nuôi dưỡng nó, như người đàn bà đã mang nặng cái thai trong bụng để rồi sau đó đẻ nó ra, nhễ nhại mồ hôi, vật vã đau đớn. Nói sang chuyện sách - thì đó là viết.
Nhưng tên đứa trẻ thì có thể chọn trước khi nó ra đời. Vậy thì tôi sẽ gọi tên Cuốn sách của tôi thế nào? Liệu tôi có đem tên hoa mà đặt cho nó được chăng? Hay là lấy tên một vì sao? Hay là đi tỉm trong những cuốn sách uyên thâm?
Không, tôi sẽ không đặt yên cương của người khác lên con ngựa của mình. Tên chọn từ đâu khác chỉ có thể là tên tục, tên lóng chứ không thể là tên.
Tất cả là thế. Nhưng nếu đi tìm đầu đề thì anh cần xuât phát từ nội dung mà anh muõn đặt vào trong cuốn sách, cần xuất phát từ mục tiêu mà anh đã tự đặt cho mình, Hãy chọn mũ theo đầu, chứ không phải làm ngược lại. Chiều dài của sợi dây đàn tùy thuộc vào chiểu dài cây đàn.
https://thuviensach.vn
Làng của tôi, những rặng núi của tôi, Đaghextan của tôi, đó là tổ ấm, những ý nghĩ của tôi, tình cảm và khát vọng của tôi. Từ cái tổ ấy tôi đã bay lên như một con chim nhỏ đủ lông đủ cánh. Những bài ca của tôi đều bắt nguồn từ đấy. Đaghextan - là tổ ấm của tôi. Đaghextan - là cái nôi của tôi.
Vậy thì việc gì phải nghĩ ngợi lâu nữa? Ở miền núi, người ta thường lấy tên ông nội để đặt cho con trai đầu lòng. Cuốn sách sẽ là con của anh, còn anh lại là con của Đaghextan. Vậy thì tên nó sẽ là “ĐAGHEXTAN”. Mà làm sao có được tên nào khác, chính xác hơn, thích hợp hơn, đẹp đẽ hơn.
Ngưừi ta nhận ra nước mà ngài đại sứ đại diện, qua cây cờ nhỏ cắm trên xe ông ta. Cuốn sách của tôi là đất nước của tôi. Tên gọi của nó là cây cờ nhỏ ấy.
Ở người đang viết, các ý nghĩ luôn tranh cãi với nhau trên từng trang, từng dòng, từng chữ một, Và những ý nghĩ của tôi cũng lao vào cuộc tranh luận về tên gọi cuốn sách - như các vị bộ trưởng ở một hội nghị quốc tế nào lao vào cãi vã nhau ngay từ lúc tháo luận chương trình nghị sự.
Thề là có một vị “bộ trưởng” đưa ra đề nghị gọi cuốn sách tương lai là “Đaghextan”. Vị “bộ trưởng” thứ hai lại không thích thú cái tên đó. Đặt tập giấy xuống trước mặt, vị này bắt đầu phản đối:
- Không được. Không thích hợp. Sao lại lấy tên của cả một nước mà đặt cho một cuốn sách nhỏ? Không thế lấy mũ của bố đặt lên đầu được - đầu đứa trẻ sẽ lọt thỏm trong đó.
Sao lại không thích hợp? - Vị “bộ trưởng” nêu ra đề nghị cãi lại. - Khi trăng trôi trên nền trời và in hình xuống mặt biển, mặt sông, thì chúng ta cũng sẽ tiếp tục gọi bóng hình dưới nước là trăng chứ không thể là gì khác. Chẳng lẽ cần phải nghĩ ra một cái tên khác đế gọi bóng hình ấy sao? Thật ra thì trong một chuyện cổ tích có con cáo chỉ cho con sói thấy bóng trăng dưới nước và bảo rằng đó là một miềng mỡ lợn, con sói ngu xuẩn liền nhảy xuống sông. Nhưng mọi người đều biết cáo là con vật lừa đảo, giả dối.
Không được. Không thích hợp, - vị “bộ trưởng” kia khăng khăng nói. - Đaghextan trước hết là một khái niệm địa lý. Núi, sông, hang hốc, nguồn
https://thuviensach.vn
nước, thậm chí cả biển nữa. Khi người ta nói với tôi “Đaghextan”, thì trước tiên tôi hình dung ra một cái bản đồ.
Ồ, không phải thế! - tôi chen vào. - Trái tim tôi chứa đầy Đaghextan, nhưng trái tim tôi vẫn không phải là tẫm bản đồ địa lý. Đaghextan của tôi hoàn toàn không có những ranh giới địa lý hay ranh giới gì khác. Đaghextan của tôi cũng không có một tiến trình lịch sử nhịp nhàng liên tục qua nhiều thế kỷ. Cuốn sách của tôi, nêu tôi viết được nó ra, sẽ không giống một Cuốn sách giáo khoa về Đaghextan. Tôi xáo trộn các thế kỷ, sau đó tôi chọn ra thực chất của các sự kiện lịch sử, thực chất của nhân dân, thực chất của từ “Đaghextan”.
Có cảm tưởng như lả chỉ có một Đaghextan duy nhất cho mọi người Đaghextan. Tuy nhiên, mỗi người Đaghextan đều có riêng một Đaghextan của mình.
Tôi cũng có riêng Đaghextan của tôi. Chỉ có tôi nhìn thấy nó như thế, chỉ có tôi biết nó như thế. Từ tất cả những gì tôi đã thấy ở Đaghextan, từ những gì tôi đã nếm trải, từ những gì mọi người Đaghextan sống trước tôi và cùng tôi đã nếm trải, từ những bài ca và những dòng sông, những tục ngữ và những vách đá, những con chim ưng và những móng ngựa, từ những con đường mòn nhỏ trên núi và thậm chí cả từ tiếng vọng trên vách núi mà một Đaghextan của riêng tôi đã dần dần kết lại.
Rút trong sổ tay: Kixlôvốtxk. Trong căn phòng có hai chúng tôi. Tôi và một người Uzbếch. Vào lúc chiều hôm và ban mai, qua khung cứa số, chúng tôi nhìn thấy cả hai ngọn núi Enbrux.
Tôi nghĩ rằng hai ngọn núi này giống như hai cái đầu cạo trọc, nham nhở vết thương của hai người bạn, hai chiến sĩ dũng cảm của vua Samin.
Vào đúng phút ấy, anh bạn tôi nói:
- Quả núi hai ngọn này tôi trông như một ông già bạc đầu miền Bukhara, hai tay cầm hai bát cơm lớn rồi bất chợt dừng lại và chết lặng đi trước vẻ đẹp của thung lũng sớm mai.
https://thuviensach.vn
Rút trong sổ tay. Ở Canquytta, trong nhà của Rabinđranát Tagor vĩ đại, tôi nhìn thấy bức về một con chim. Trên trái đất này chưa từng bao giờ có một con chim như vậy. Nó xuất hiện và sống trong tâm hồn của Tagor, nó là kết quả trí tưỏng tượng của ông. Nhưng tất nhiên, nêu Rabinđranát không nhìn thấy những con chim thật trên trái đất thỉ ông cũng không thể sáng tạo ra hinh ánh con chim kỳ lạ của mình.
Tôi cũng có một con chim kỳ lạ như vậy - đó là Đaghextan của tôi. Bởi vậy để cho tên cuốn sách chính xác hơn, tôi cần gọi nó là “ĐAGHEXTAN CỦA TÔI”. Không phải vỉ Đaghextan là sở hữu của tôi, mà là vì hình dung của tôi về Đaghextan không giống hình dung của người khác.
Thế là quyết định xong. Trên bìa cuốn sách sẽ đề: “Đaghextan của tôi”.
Người ta thường đeo lên ngực đứa trẻ mới sinh một lá bùa, để cẩu cho đời nó sung sướng, không bị ốm đau, không phải buồn khổ. Khoan hãy bàn đến chuyện lá bùa ấy trên thực tề có giúp ích gì không, ta hãy chú ý đến một điều là người ta đeo lá bùa cho trẻ dưới lớp áo chứ không đeo lồ lộ ra ngoài.
Mỗi cuốn sách đều phải có một lá bùa như vậy, lá bùa mà tác giả đã biết, độc giả đoán ra, nhưng lại ẩn đằng sau lớp áo.
Hay là, khi làm rượu urbet, người ta pha vào đó một chút mật ong. Mật ong tan đi trong rượu thơm thơm, ngòn ngọt, nhưng không thể trông thấy nó và sờ vào nó được.
Hay là, ở Bombay có một vườn hoa bốn mùa tươi tốt. Nó không bao giờ tàn héo, dầu chung quanh khô cằn nóng bức. Hóa ra là phía dưới vườn hoa có một cái hồ nước chảy ngầm đem nguồn nước mát tới nuôi sống cây cối,
Tư tưởng không phải là dòng nước đổ ẩm ầm xuống qua các tảng đá, chỉ tung bọt trắng xóa, mà là mạch nước ngầm thấm nhuần lòng đất và nuôi sống muôn cây.
Như mọi người đều biết, cả dải đất bao la của chúng ta bắt đầu từ điện Kremli. Và tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng đối với tôi, ngoài điều đó ra, thế
https://thuviensach.vn
giới còn bắt đầu từ làng quê thân yêu, từ ngưỡng cửa ngôi nhà mình. Điện Kremli và làng quê, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và tình cảm quê hương, - đó là đôi cánh của một con chim, là hai sợi dây trên cây đàn panđur của tôi.
- Nhưng nếu vậy thì việc gì phải đi khập khiễng? Nếu nghĩ thêm một cái tên nữa cho cuốn sách, cái tên thể hiện được thực chất bên trong của nó.
Tôí đã tỉm cái tên ấy mọi nơi, mọi lúc. Tôi đã nghĩ về Đaghextan khi chu du Ấn Độ. Trong nền văn hóa lâu đời của đất nước này, trong triết học của đất nước ấy, tôi như nghe được âm thanh vọng lại của một tiếng nói nào bí ẩn. Còn tiếng nói của Đaghextan của tôi thì cụ thể đối với tôi, tiếng nói đó nghe được rất xa trên mặt đất này. Có một thời, khi cất tên gọi “Đaghextan”, ta chỉ nghe thấy tiếng vọng của những khe núi hoang vắng và vách đá trơ trọi. Nhưng bây giờ nó vang xa khắp đất nước ta, khắp thế giới này và được hàng triệu, triệu trái tim đáp lại.
Tôi đã nghĩ về Đaghextan cả trong những ngôi đền thờ Phật ở Nêpan, nơi chảy ra hai mươi hai dòng nước chữa bệnh. Nhưng Nêpan chưa phải là viên kim cương đã được mài, và tôi không thể đem nó so với Đaghextan của tôi được, bởi vi kim cương Đaghextan nhiều lần đã được dùng cắt kính.
Tôi đã nghĩ tới Đaghextan cả ở châu Phi. Châu Phi làm tôi nhớ đến con dao găm chỉ mới rút ra khỏi bao một phần tư. Và cả ở nhiều nước khác - ở Canađa, Anh, Tây Ban Nha, Ai Cập, Nhật Bản - tôi cũng nghĩ về Đaghextan, tìm ra ở đó những điểm giống nhau hoặc khác biệt với quê chúng tôi.
Có một lần, trong chuyến đi thăm Nam Tư, tôi được đến thành phố Đubrôpnic tuyệt vời nằm trên bờ biển Adriatic. Ở thành phố này, nhà cửa, phố xá trông giống như những hẻm núi và vách đá, giống như tảng đá lớn có nhiều bậc thang. Lối vào các ngôi nhà đôi khi trông giống như lối vào hang động xẻ ra trong vách đá. Nhưng gần đấy là những ngôi nhà cao tầng hiện đại vươn cao, đứng bên cạnh những kiến trúc trung cổ và trước đó nữa.
Chung quanh thành phố có một bức tường dài bao bọc giống như thành phố Đerbent của chúng ta. Theo những đường phố nhỏ dốc dần lên như
https://thuviensach.vn
những cầu thang bằng đá, tôi leo lên bức tường thành. Dọc theo bức tường thành, cứ sau từng khoảng cách nhất định, lại có những tháp canh bằng đá nhô cao. Mỗi tháp có hai lỗ châu mai trông như hai con mắt dữ tợn. Những ngọn tháp canh này trông như những hiệp sĩ của đức giáo chủ đạo Hồi, những người suốt đời tận tụy, trung thành với chủ.
Leo đến tường thành, tôi muốn đứng trong tháp canh nhìn qua lỗ châu mai. Tôi muốn được nhìn ngay, nhưng ở đây đang có rất nhiều khách du lịch nên tôi không thể đến gần đó được. Qua lỗ châu mai từ xa tôi chỉ nhìn thấy những vệt gì xanh xanh nhỏ bé. Những vệt xanh ấy vừa bằng lỗ châu mai, và lỗ châu mai thì bằng bàn tay.
Khi tôi đến gần lỗ châu mai và ghé mắt vào, tôi rất kinh ngạc: tôi đã nhìn thấy biển mênh mông trải ra dưới ánh mặt trời tháng giêng, mặt biển hiền hòa vì đây là biển miền Nam Ađriatíc, vả có vẻ khắc nghiệt vì lúc này đang là tháng giêng. Màu biển không thuần một màu xanh mà đa sắc. Sóng biển trào lên đập ào ào vào những vách đá rồi lại lùi ra phía xa. Ngoài khơi là những con tàu lớn, mỗi con tàu rộng bằng cả làng tôi.
Vào lúc ấy, thoạt đầu tôi đứng sau lưng đoàn khách du lịch mà rướn người nhìn ra khoảng trời rộng và sau đó đến được gần ghé mẳt nhìn, tôi lại nhớ về miền Đaghextan của tôi.
Miền đất này trước đây cũng đứng ở phía sau cố chờ đến lượt mình, cũng rướn mình lên nhưng vẫn bị lưng của những người may mắn đứng trước che khuất. Và bây giờ dường như nó mới được nhìn thấy cả thế giới qua khung cửa sổ nhỏ của bức tường thành lũy. Bây giờ thì nó đã hòa nhập vào thế giới bao la chung quanh, đem tới đấy những phong tục, tập quán, những bài ca và phẩm giá của mình.
Ở những thời đại khác nhau, nhiều nhà thơ đã tìm kiếm những hình tượng khác nhau để đặt vào đó ý niệm của mình về Đaghextan. Nhà thơ buồn Makhơmút đã ví các dân tộc ở Đaghextan như những khe suối trên núi lúc nào cũng muốn nhập chung dòng, nhưng vẫn không thể nhập hòa và vẫn chảy từng dòng riêng lẻ. Ông còn nói rằng các dân tộc ở Đaghextan giống
https://thuviensach.vn
như những bông hoa mọc hai bên hẻm núi, ngả vào nhau mà không sao kết lại được. Nhưng bây giờ lẽ nào các dân tộc Đaghextan lại chưa hòa nhập thành một dòng, chưa kết lại thành một bó hoa duy nhất?
Batưrai đã nóí: giống như một người nghèo vứt vào xó tối chiếc áo rách của mình, Đaghextan đã từng bị vo viên lại và quẳng vào những hẻm núi.
Đọc xong lịch sử xứ Đaghextan, bố tôi đã so sánh nó với chiếc sừng đựng rượu mà mấy người say chuyền tay nhau trong bữa tiệc.
Tôi biết ví Người với ai, hỡi Đaghextan của tôi? Tôi sẽ tìm hình ảnh nào để nói lên ý niệm của tôi về số phận, về lịch sử của Người? Có thể rằng sau này tôi sẽ tìm được những từ chính xác hơn, xứng đáng hơn, nhưng hôm nay thì tôi muốn nói: “Khung cửa nhỏ mở ra đại dương thế giới”. Hay ngắn gọn hơn: “Khung cửa nhỏ nhìn ra đại dương”.
Đó, các đồng chí “bộ trưỏng” ạ, đấy là tên gọi thứ hai của Cuốn sách mà tôi đang định viết. Tôi hiếu rằng, nhiều nước láng giềng của Đaghextan cũng có thể tự gọi mình như vậy. Không sao cả, hãy để cho Đaghextan có những nước gọi trùng tên.
Thế đấy, thưa bạn, cái mũ là “Đaghextan của tôi” và ngôi sao đính trên mũ là “Khung cửa nhỏ nhìn ra đại dương”.
Giống như người sắp chơi đàn, tôi lên dây cây đàn panđur của tòi. Giống như người sửa soạn khâu vá, tôi xâu chỉ vào kim.
Các vị “bộ trưỏng” của tôi đã quyết định xong tên gọi cuốn sách như các bộ trưởng tại một hội nghị quốc tế nào đấy cuối cùng cũng thông qua được chương trình nghị sự.
Có khi, hai anh em thuận hòa ngồi chung một ngựa. Có khi một chàng kỵ sĩ dẫn một lúc hai ngựa xuống uống nước.
Abutalíp nói: Anh ta mua một chiếc mũ giống như của Lép Tônxtôi, nhưng mua ở đâu được một cái đầu giống ông?
Người ta cũng nói: Tên cậu bé đặt hay đấy, không biết lớn lên nó thành người thế nào.
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
VỀ HÌNH THỨC CUỐN SÁCH NÀY.
VIẾT NÓ NHƯ THẾ NÀO
Dao nếu mãi nằm yên trong vỏ - thì dao gỉ.
Tráng sĩ nếu suốt đời ở nhà - sẽ phát phì.
Lời khắc trên dao găm
Chỉ tôi đã luồn vào kim - nhưng chiếc áo khoác nào tôi sẽ may đây? Đàn tôi đã lên dây, nhưng bài hát nào tôi sẽ hát?
Con ngựa nôn nóng, trung thành của tôi đã được đóng móng. Tôi tự nhấc từng chân nó lên xem để soát lại độ bền của móng. Tôi thắng yên và kéo dây chằng. Khó khăn lắm mới luồn được ngón tay vào dưới dây chằng. Ngựa đã được thắng yên một cách khéo léo.
Một ông già hơi giống bố tôi, cho tôi sợi dây cương. Một cô bé đôi mắt tinh nhanh đưa cho tôi cây roi. Người phụ nữ hàng xóm cố tình đi ngược lại phía tôi với bình nước đầy trên tay. Thế có nghĩa là chị muốn chúc tôi lên đường may mắn. Tôi dắt ngựa qua làng và mỗi người tôi gặp đều tránh đường cho tôi và nói: chúc anh lên đường may mắn!
Đến ngôi nhà đầu làng, một người phụ nữ trẻ đặt lên cửa sổ ngọn đèn sáng. Thế có nghĩa là chị muốn nói với tôi:
- Anh đừng quên khung cửa này, đừng quên ngọn đèn này. Nó sẽ còn sáng mãi chừng nào anh chưa trở về. Trên đường xa, trong những đêm mưa rét, nó sẽ rọi sáng cho anh qua năm tháng. Và khi đã mệt mỏi sau những ngày lãng du, anh bắt đầu quay về làng quê, ngọn đèn ấy sẽ đập vào mắt anh đầu tiên. Anh hãy nhớ khung cửa này, nhớ ngọn đèn này.
Tôi quay đầu lại nhìn làng quê thân yêu lần nữa. Tôi nhìn thấy mẹ tôi đứng trên mái nhà. Bà đứng một mình, không nhúc nhích. Trông bà mỗi lúc một bé dần, đến khi chỉ còn là một vạch thẳng nhỏ trên đường ngang của
https://thuviensach.vn
những mái nhà bằng. Cuối cùng, khi đường quành ra sau núi, quả núi che khuất làng tôi, tôi quay lại và không nhìn thấy gì nữa ngoài ngọn núi.
Phía trước tôi cũng nhìn thấy một ngọn núi. Nhưng tôi biết rằng, đằng sau núi là cả một thế giới bao la. Ở đây có cà những làng xóm, những thành phố to, những đại dương, những nhà ga, sân bay và các cuốn sách.
Móng ngựa gõ xuống con đường đá chạy trên miền Đaghextan quê hương tôi. Trên đầu là khoảng in hình những ngọn núi cao. Bầu trời khi thì chan chứa ánh mặt trời, khi chi chít những vì sao, khi bao phủ đầy mây đen và tuôn xuống đất những cơn mưa.
Đợi một chút, ngựa ta ơi, hãy đợi!
Ta còn chưa kịp ngoái lại đằng sau.
Phía sau đó - những gì ta để lại
Một làng quê - Nơi cắt rốn chôn rau.
Giờ hãy lao đi, lao như bay, ngựa hỡi!
Khỏi cần chi ngoái lại mãi đằng sau...
Làng phía trước, cũng làng quê chờ đợi
Đâu chẳng anh em thân thuộc, bạn bầu...
Tôi đang đi đâu? Làm sao tìm được đường đi đúng? Làm sao tôi viết được cuốn sách mới?
Rút trong sổ tay. Bây giờ ở Đaghextan thanh niên không mặc quần áo dân tộc nữa. Họ mặc quần âu phục, áo vestông, cài ca vát dưới cổ áo sơ mi - giống như ta vẫn thấy ở Matxcơva, Tbilixi, Taskent, Đusanbê, Minxk.
Chỉ còn những diễn viên của Đoàn ca múa là ăn vận quần áo dân tộc. Có thể gặp người mặc quần áo ngày xưa trong đám cưới. Thỉnh thoảng, nếu có ai đó muốn mặc thì mượn bạn bè, người quen, hay thuê lại. Anh ta không có quần áo riêng may theo kiểu đó nữa. Nói ngắn gọn tức là quần áo dân tộc đang mất dần đi, nếu không phải là mất hẳn.
https://thuviensach.vn
Nhưng vấn đề ở chỗ cỏ một vài nhà thơ làm mất hình thức dân tộc trong sáng tác của mình, và thậm chí họ còn thấy tự hào về điều đó.
Tôi cũng mặc âu phục, mà không mặc áo dài như bố tôi nữa. Nhưng tôi không có ý định loại bỏ khỏi thơ tôi màu sắc dân tộc. Tôi muốn những bài thơ tôi vận bộ đồ dân tộc Đaghextan của chúng tôi.
Bản thân tôi thì không sao! Tôi được trời phú cho sống vài chục năm. Những năm này rơi vào lúc mọi người đều mặc âu phục, đi giày da. Thơ cũng có cuộc sống riêng. Nó có thời gian sinh ra và chết đi. Tôi không nói gì đến thơ tôi, có thể là nó sẽ không sống lâu hơn tôi.
Ở Matxcơva tôi nhìn thấy một cây sồi cổ kính. Người ta nói rằng Ivan Hung bạo đã trồng nó. Có nghĩa là khi cây sồi lớn lên, thì mới đầu người ta mặc quần áo kiểu quý tộc, sau đó người ta mặc áo khoác ngoài cộc tay và đeo tóc giả, rồi đến đội mũ chỏm cao vành hẹp và áo đuôi tôm, sau đó thì đội mũ kỵ binh Buđiônưi và mặc áo bluzông bằng da, tiếp đây người ta mặc vestông đơn giản và quần ống rộng, rồi quần ống hẹp... Còn cây sồi thì như muốn nói: các người dưới đó cứ chạy đi, cứ thay đổi kiểu mặc đi, nếu không còn việc gì khác hơn. Ta có một sứ mạng riêng - thu bắt những tia sáng mặt trời, biến chúng thành gỗ chắc, thành những hạt sồi mà từ đó sẽ nảy nở cũng những cây cao lớn như thế.
Ở miền núi người ta thường nói rằng quần áo làm nên con người, ngựa làm nên kỵ sĩ dũng cảm. Câu tục ngữ này nghe kêu đấy, nhưng tôi cảm thấy nó không đúng. Người anh hùng không nhất thiêt phải mặc áo khoác bằng da hổ. Đôi khi đằng sau tấm áo giáp thép lại ẩn náu trái tim của một tên nhát gan.
Bởi vì: Nhiều lần tôi đã phải gãi gáy khi thấy quả dưa hấu mình chọn có vẻ ngoài đẹp thế mà bên trong lại trắng bệch và nhạt thếch.
Bởi vì: Có lần, chàng trai trẻ trùm áo choàng lên người yêu và mang cô ta đi, thế rồi khi lật tấm áo đó lên thì chỉ thấy bà lão móm sều của cô gái.
https://thuviensach.vn
Bởi vì: Abutalíp kể lại với tôi rằng có lần ông được mời dự đám cưới ở một làng xa và thổi kèn zurna ở đó. Đám cưới thật linh đình. Trên bãi rộng ven rừng đầu làng, ba ngày liền sáo thổi, ba ngày liền trồng gõ, đàn kêu, người hát. Như ở Đaghextan người ta thường nói, vừa có “đam - đam”, vừa có “tram - tram”, tức là vừa được nghe vừa được ăn. Cả làng tham dự đám cưới, mọi người từ bé đến lớn đều nhảy múa ít nhiều.
Đến ngày thứ ba, theo lệnh của chủ trò, một người lớn tiếng báo rằng lát nữa chú rể và cô dâu sẽ bước vào vòng nhảy. Chú rể thì mọi người đã thấy trong ba ngày qua, còn cô dâu thì suốt thời gian ấy chỉ ngồi với tâm khăn voan che mặt. Ba ngày liền Abutalíp ngắm nhìn trang phục của cô ta. Quần áo sặc sỡ có thể ví như tấm bìa đẹp của bộ Tuyển tập thơ miền Kapkazơ.
Khi cô dâu đứng lên và bước vào vòng nhảy, Abutalíp hơi nghi ngại trước dáng vẻ của cô ta. Nhìn vóc người đẫy đà, ục ịch của cô ta, có thể so sánh cô với bộ trường ca “Manax” của Kirghizi do Nhà xuất bản Văn học quốc gia xuất bản. Cô dâu sửa soạn bỏ tấm khăn che mặt. Mọi người lặng đi, và Abutalíp cũng nín thở. Đây rồi, cô dâu đã nhấc tấm khăn lên - khoảnh khắc mà bao người đã chờ đợi từ ba ngày nay...
Một mắt cô dâu nhìn về làng Khunzắc, mắt kia lại nhìn về làng Bôtlic. Giữa hai con mắt hằm hằm tránh xa nhau ấy nổi lên một cách vụng về cái mũi dài ngoẵng...
Abutalíp bỗng cảm thấy buồn rầu. Ông không thể thổi sáo, không thể ăn được nữa. Và đành phải bỏ dở đám cưới ra về.
Tôi nghĩ rằng, Abutalíp đã hơi phóng đại khi kể lại câu chuyện này.
Tuy nhiên, sự trình bày đẹp không thể cứu vãn được cuốn sách tồi. Để có thể đánh giá nó chính xác, cần phải vứt bỏ tấm vỏ che.
Bởi vì, có năm, người ta đã đặc biệt chú ý, “hết sức coi trọng” vấn đề địa vị của người phụ nữ miền núi và thái độ của nam giới đối với họ.
Vào năm đó, các ông chồng đã không dám nói nặng lời với vợ. Vì cãi cọ bình thường với vợ có thể bị gọi lên huyện ủy cánh cáo. Để khỏi có những
https://thuviensach.vn
lời eo xèo, đầu tiên người ta cảnh cáo suốt lượt các cán bộ ở huyện ủy. Vào năm đó, người ta tổ chức những hội nghị phụ nữ mà tại đó các đại biểu đã nói những lời mà ở tất cả các hội nghị khác, qua mọi thời kỳ chưa từng ai được nghe.
Vào năm đó, trong phiên chợ ngày chủ nhật, ta thấy xuất hiện một người đàn bà cao lớn chuyên mua bán những mặt hàng cấm. Đồng chí công an coi chợ đã không dám động đến bà ta, để khỏi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ dân tộc. Tuy vậy, đến chủ nhật thứ ba, anh vẫn rụt rè nhắc nhở bà ta, và đến chủ nhật thứ năm, anh đánh liều bắt mụ ta dẫn vào đồn.
Khi anh dẫn mụ ta đi ngoài đường, mọi người đều chỉ trỏ và ngạc nhiên không hiểu hà cớ gì mà anh lại dám bắt một người phụ nữ dân tộc đã được quyền làm chủ?
Ngoài chợ, nơi mọi người chen chúc, anh khó quan sát kỹ mụ phe, và bây giờ anh mới có thể chú ý đến một vài chi tiết chẳng hạn như đôi ủng to quá khổ, lộ ra dưới vảy.
“Suối này chẳng phải chảy từ nguồn ra!” - đồng chí công an nghĩ vậy và cởi tấm khăn trùm trên mặt mụ ta. Một khuôn mặt đàn ông to bè bè hiện ra với đôi mắt lồi, ria mép mọc lởm chởm như cây mận gai trên vách đá.
Một số nghệ sĩ không đủ tài năng, lòng kiên nhẫn, và lòng tự trọng, cũng đã cố tiêu thụ sản phẩm của mình bằng cách khoác tấm áo của người khác, hy vọng lấy vẻ ngoài hào nhoáng để che giấu những ý nghĩ nghèo nàn. Nhưng nếu bên trong rỗng tuếch thì có nghĩa gì?
Cũng vậy, dù dao găm làm bằng gỗ có đẹp đến đâu, nó cũng không thể cắt được ngay cả cái cổ gà con. Có chăng, nó chỉ cắt được làn mưa đang rơi.
Cũng vậy, những đứa trẻ không thể sinh ra từ đám cưới búp bê.
Cũng vậy, khi muốn cắt bao quy đầu cho chú bé người ta chỉ cho nó cái lông ngỗng. Nhưng làm thế chỉ cốt đánh lừa. Không thể dùng lông ngỗng mà cắt được, cần phải có dao sắc.
https://thuviensach.vn
Nhưng độc giả không phải là con trẻ mà có thể đánh lừa, an ủi, và tôi cũng không phải diễn viên đeo dao bằng bìa, cho dù chiếc bao đó là thật, được mạ vàng hẳn hoi.
Tất nhiên, cần có cả bao nữa - không có bao thì dao sẽ gỉ. Và nếu có bao đẹp thì cũng tốt;
Tất nhiên, khi chàng kỵ sĩ trở về với vật quý thì vợ anh ta sẽ choàng lên cổ ngựa tấm khăn lụa;
Tất nhiên, đối với ý nghĩ sắc sảo nhất thì ngôn ngữ cùn mòn chẳng khác gì chó sói với cừu non;
Tất nhiên, ngay cả cỗ xe tốt nhất cũng có thể bị long ra trên đường xấu, và thậm chí có thể đổ kềnh xuống vực;
Tất nhiên, không thể làm đẹp con ngựa bằng cách đặt lên lưng nó giá ngồi của con lừa, còn lừa thì không thể thích họp với bộ yên cương của con tuấn mã.
Đến đây, tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về một người Bankhar và con ngựa xoàng của anh ta.
Câu chuyện về một người Bankhar và con ngựa xoàng của anh ta. Một người Bankhar đặt lên lưng con ngựa khốn khổ của mình đủ các thứ lọ, bình, bát đĩa và đi bán rong khắp các làng.
Hôm ấy, ở một làng người Avar có tổ chức hội đua ngựa. Các chàng kỵ sĩ hăng máu đem tới đây những con tuấn mã còn hăng máu hơn, Các kỵ sĩ đều lừng danh, ngựa cũng lừng danh. Các kỵ sĩ trông rất đẹp và cân đối, và ngựa của họ còn đẹp và cân đối hơn. Đôi mất các kỵ sĩ lộ đầy vẻ dũng cảm, hăng hái, mắt ngựa thì tỏ ra nôn nóng.
Các chàng kỵ sĩ bắt đầu xếp thành hàng thì bất chợt có anh lái buôn hiền lành cưỡi con ngựa xoàng xĩnh đi vào bãi rộng, vẻ mặt người Bankhar trông ngái ngủ, còn ngựa của anh thì dường như vừa đi vừa ngủ. Đám kỵ sĩ trẻ tuổi cười phá lên, trêu chọc anh lái buôn.
- Vào đây thi với chúng tôi nào!
https://thuviensach.vn
- Chúng tôi ghi ngựa của anh vào danh sách ngựa đua nhé! - Sao lại không cho nó chạy đua với ngựa chúng tôi?
- Cùng đua với chúng tôi nhé, nêu không chẳng có ai nhặt móng sắt cho ngựa chúng tôi.
Đáp lại những lời diễu cợt ấy, anh chàng Bankhar lặng lẽ tháo dỡ khỏi ngựa của mình đủ thứ lọ, bình, bát đĩa, Anh bình thản xếp hàng lại một đống, bình thản ngồi lên ngựa và chiếm một chỗ bên cạnh các chàng kỵ sĩ kia.
Những con tuấn mã của các chàng kỵ sĩ kia lấy móng hất tung đất lên, hai chân trước giơ cao, toàn thân như dựng đứng, trong khi đó con ngựa của anh chàng Bankhar vẫn cúi đầu, thiu thiu ngủ.
Thế rồi cuộc đua bắt đầu. Những con tuấn mã hăng máu kia lao lên ào ào như gió cuốn. Một đám bụi mù bốc lên, và trong đám bụi đó, ở tận cuối cùng, là con ngựa của anh chàng Bankhar. Vòng đua đầu tiên kết thúc, rồi tới vòng thứ hai, thứ ba. Mọi người đều thấy rõ những con ngựa đua kia đã thấm mệt, mồ hôi đầm đìa, chúng sùi bọt mép ra, bọt rỏ xuống giữa đám bụi mù. Vó ngựa phi yếu dần, chúng chạy chậm lại. Dù các kỵ sĩ có thúc ngựa, quất roi vào chúng thế nào cũng không sao bắt được chúng phi nhanh hơn. Chi có chú ngựa của anh lái buôn nọ vẫn phi như lúc đầu, không yếu đi, không chậm hơn. Mới đầu nó đuối kịp tốp sau, rồi tiếp đó nó phi tới ngang tốp đầu, và đến vòng cuối, vòng đua thứ mười, thì nó vượt lên trên.
Người ta đã phải quấn vòng khăn giải thưởng đầy hãnh diện lên cổ con ngựa xoàng của chàng Bankhar. Anh ta bình thản dắt ngựa của mình đến chỗ để hàng, chât hàng lên rôi lại tiếp tục đi.
Những trường hợp tương tự như vậy có lẽ còn thường gặp trong văn học hơn là trong các cuộc đua ngựa.
Rút trong sổ tay. Những bài thơ viết dễ dàng, có khi lại rất khó đọc. Những bài thơ viết ra một cách khó nhọc, có khi lại dễ dọc. Hình thức và nội dung - dường như là quần áo và con người. Nếu con người tốt đẹp,
https://thuviensach.vn
thông minh, cao thượng thì việc gì lại không mặc quần áo tương xứng. Nếu con người có gương mặt đẹp, sao lại không có những ý nghĩ đẹp?
Ta thường thấy điều này, nhiều phụ nữ đẹp lại không thông minh, hoặc là rất thông minh thì lại không đẹp. Trong nghệ thuật cũng thường xảy ra như vậy.
Nhưng có những người phụ nữ may mắn, vừa thông minh vừa đẹp. Cũng có thể nói như vậy về những tác phẩm của các nhà thơ thật sự có tài.
Một người miền Maalia nói: “Người đến làng tôi chỉ vừa mới lộ ra trên đèo, tôi đã có thể biết ngay người đó là tốt hay xấu”.
Một người miền Kubatri nói: “Vàng hay bạc tự nó chưa nghĩa lý gì. Cần phải có đôi tay vàng của người thợ nữa”.
Những chiếc bình đẹp nhất
Nặn từ đất bình thường
Như câu thơ đẹp nhất
Từ những chữ bình thường.
Lòi ghi trên bình
Tôi đã sống trên đời này hơn 15 nghìn ngày. Tôi đã đi qua rất nhiều con đường trên mặt đất này. Tôi đã gặp hàng nghìn người trên trái đất này. Ấn tượng trong tôi nhiều vô kể, nhiều như những con suối trên núi lúc trời mưa hay lúc tuyết tan. Nhưng làm thế nào để kết các ấn tượng đó lại thành một cuốn sách? Viết được nó khác nào như đào được giữa thung lũng một con kênh vừa rộng, vừa sâu. Nhưng đó chỉ là một nửa nhiệm vụ. Cần phải làm sao cho những con suối trên núi kia gặp nhau và chảy vào dòng kênh đó. Bằng cách nào tôi có thể làm được việc đó? Tôi cần phải có thêm những hiểu biết gì, ngoài sự hiểu biết cuộc sông? Lý luận văn học ư? Phải chăng không thể nghĩ thêm về điều làm thơ thế nào thay vì việc làm hẳn bài thơ.
Tôi muốn nói rằng tôi không yêu thích một trường phái, một trào lưu văn học nào. Tôi chỉ có những nhà văn, nhà nghệ sĩ mà tôi yêu thích.
https://thuviensach.vn
Rút trong sổ tay. Tại trường Đại học văn học, trong một kỳ thi, một sinh viên người Avar được hỏi: chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn khác nhau thế nào? Anh sinh viên người Avar đó chắc là không đọc những cuốn sách vê vấn đề ấy, thề mà lại phải trả lời. Suy nghĩ một lát, anh trả lời vị giáo sư:
Chù nghĩa hiện thực là khi ta gọi chim ưng là chim ưng, còn chủ nghĩa lãng mạn là khi ta gọi con gà trống là chim ưng.
Vị giáo sư cười phá lên và ký sổ kiểm tra cho anh bạn đổng hương của tôi.
Về phẩn tôi, ngay từ đầu tôi đã cô gắng gọi ngựa là ngựa, lừa là lừa, gà trống là gà trống và đàn ông là đàn ông.
Rút trong sổ tay. Nhà thơ danh tiếng Rabinđranát Tagor có một người em trai cũng là nhà văn. Người này là môn đồ của trường phái Bengan trong văn học Ấn Độ. Còn Rabinđranát thì bản thân ông đã là một trường phái, là cả một trào lưu, chính chỗ này là điểm khác nhau giữa hai anh em.
Trong tâm hồn của Rabinđranát có một con chim, không giống những loài chim khác, xưa nay chưa từng thấy. Ông đã thả con chim ấy vào trong nghệ thuật, và mọi người đều thấy đó là con chim của Tagor.
Nêu nhà nghệ sĩ thả con chim của mình ra, mà nó lại lẫn vào cả đàn chim khác giống nhau như tạc thì có nghĩa là anh ta không phải nghệ sĩ. Có nghĩa là anh đã không có được con chim riêng của mình, khác thường, kỳ lạ, anh chỉ có một con chim sẻ bình thường và bây giờ không ai phân biệt được con chim sẻ của anh với cả đàn chim cho dù rất dễ thương nhung vẫn là chim sẻ.
Mỗi người cần có riêng bếp lò của mình để tự mình nhóm lên ngọn lửa. Kẻ ngồi nhờ ngựa mượn người khác sớm muộn cũng phải xuống và trả ngựa lại cho chủ. Hãy đừng thắng yên cương lên những ý nghĩ của người khác, hãy tìm cho ra những ý nghĩ của chính mình.
https://thuviensach.vn
Tôi dám ví văn học với cây đàn panđur, còn các nhà văn thì tôi ví với sợi dây căng trên cây đàn đó. Từng dây một có cung bậc riêng, âm điệu riêng, nhưng hợp lại với nhau, chúng làm nên một hòa âm.
Cây đàn panđur của dân tộc Avar chỉ có hai dây. Người ta nói rằng bố tôi đã căng thêm sợi dây thứ ba trên cây đàn panđur của văn học Avar.
May mắn bao nhiêu nếu tôi cũng đạt được một âm điệu khác mọi người. May mắn bao nhiêu nêu tôi được trở thành sợi dây thứ tư trên cây đàn dân tộc cổ kính của chúng tôi.
Tôi không muốn giống như mấy nhà thợ săn mua hươu ngoài chợ rõi về nhà nói dối rằng tự họ bắn được.
Hay có khi thế này: Có tin đồn rằng một người thợ săn đã bắn được con dê rừng rất to trong một hẻm núi, và thế là tất cả thợ săn đã chạy hết cả về cái hẻm núi may mắn đó. Cùng lúc ấy, người thợ săn đầu tiên lại bắn được ở nơi khác một con gấu to. Đám thợ săn lại lao cả về phía đó, trong khi ấy thì nhà thiện xạ kia lại đang rình ở một hẻm núi khác một con báo... Thử hỏi ai là người thợ săn chân chính? Là người tự mình đi tìm mồi hay là bọn người chuyên chạy theo đuôi? Những kẻ chuyên chạy theo như vậy chắc không ngượng ngùng gì khi bắt thú rừng trong bẫy của người khác.
Họ làm tôi nhớ đến một số nhà văn. Không thể hành động như một người tôi quen đã hành động. Người này sau khi làm quen với Komây Ivanôvích Trukốpxki, liền giả tảng như là không biết Abutalíp.
Con suối nhỏ chảy ra tới biển, nhìn thấy trước mình là khoảng không xanh thẳm bao la và hòa mình vào khối nước màu xanh vĩ đại ấy, chớ nên quên nguồn nước nhỏ trên núi cao mà từ đó con suối đã bắt đầu, chớ nên quên con đường nhỏ dài, gập ghềnh sỏi đá mà nó đã phải đi qua.
Phải rồi, tôi là con suối núi. Tôi yêu ngọn nguồn của tôi, yêu con đường gồ ghề sỏi đá mà tôi đã đi qua. Tôi yêu những hẻm núi hoàng hôn chập choạng mà dòng nước của tôi đã chảy qua, yêu những vách đá từ đó nó đổ xuống tung bọt trắng ngần, yêu những lúc nó dường như dừng lại, êm đềm
https://thuviensach.vn
lắng sâu, thu vào mình bóng hình của núi, trời, sao. Và rồi lại từ từ chảy tiếp, mỗi lúc một thêm hối hả.
Nhưng tôi không nói rằng tôi chỉ cần những hẻm núi. Tôi trôi đi - có nghĩa là phía trước có mục tiêu. Không phải tôi chỉ linh cảm, mà tôi còn nhìn thấy, biết trước khoảng rộng mênh mông của biển.
Và không phải chỉ có tôi. Đúng hơn là cả tôi nữa, bởi tầm mắt của Đaghextan đã vươn xa. Qua những tháng năm ấy, không phải chỉ có những ranh giới những nghĩa địa được mở rộng ra mà ranh giới những cảm quan của chúng ta về cuộc sống, về thế giới cũng mở rộng thêm nhiều.
Tôi là một nhà thơ Avar. Nhưng từ đáy lòng mình, tôi cảm thấy trách nhiệm người công dân không phải chỉ với miền Avarixtan, không phải chỉ với cả xứ Đaghextan, không phải chỉ với đất nước Liên Xô bao la mà với cả hành tinh này, thế kỷ hai mươi này. Không thể sống khác.
Nguời ta kể cho tôi. Sau khi tôi ra đời ít lâu, bố tôi phải chuyển công tác đến làng Arađêrích một thời gian. Bố tôi buộc bên cạnh yên hai cái túi lớn. Một túi chất đầy đồ đạc cần dùng: quần áo, bột mì, bột yến mạch rang, mỡ lợn, sách vở. Một túi nữa để đầu tôi thò ra.
Sau chuyến đi, mẹ tôi bị ốm nặng. Trong làng chúng tôi mới chuyển đến, có một người đàn bà cô đơn bất hạnh vừa mới chết con. Người đàn bà ở làng Arađêrích ấy bèn bắt đầu nuôi tôi bằng dòng sữa của mình. Bà trở thành người mẹ thứ hai của tôi.
Vậy là trên trái đất này có hai người phụ nữ tôi đã chịu ơn. Dù tôi có sống lâu đến đâu, dù tôi làm được gì cho hai người phụ nữ đó, cũng không bao giờ tôi trả được ơn. Lòng biết ơn của một người con không bao giờ có tận cùng.
Hai người phụ nữ đó: - một người là mẹ tôi, người sinh ra tôi, người đầu tiên đưa nôi cho tôi và hát cho tôi bài hát ru đầu tiên; một người nữa... cũng là mẹ tôi, người đã đem dòng sữa đến cho tôi khi tôi bị cái chết đe dọa, người đã đem cho tôi sinh khí ấm áp, và từ con đường chết nhỏ hẹp tôi đã rẽ ngoặt sang con đường sống thênh thang.
https://thuviensach.vn
Nhân dân chúng tôi, đất nước nhỏ bé của tôi, mỗi cuốn sách của tôi cũng đều có hai người mẹ.
Người mẹ thứ nhất là miền Đaghextan thân yêu. Nơi đây tôi đã sinh ra, nơi đây lần đầu tiên tôi đã nghe thấy tiếng nói quê hương, đã học nói thứ tiếng ấy và tiếng nói ấy đã thấm vào máu thịt tôi. Nơi đây lần đầu tiên tôi được nghe những bài ca quê hương và lần đầu tiên tôi cất tiếng hát. Nơi đây lần đầu tiên tôi cảm được mùi vị của nước và bánh mỉ. Đã bao lần hồi bé tôi bị đá sắc cứa vào da thịt, nhưng rồi nước và cỏ cây của miền quê đã làm liền lại các vết thương của tôi. Người miền núi nói: không có bệnh nào mà ở miền núi chúng tôi không tìm được cây thuốc chữa.
Người mẹ thứ hai của tôi là nước Nga vĩ đại, người mẹ thứ hai của tôi là Matxcơva. Người đã dạy dỗ tôi, chắp cánh cho tôi, đưa tôi lên con đường lớn, chỉ cho tôi những chân trời bao la, chỉ cho tôi cả thế giới.
Tôi mang nặng lòng biết ơn của một người con trước hai người mẹ ấy. Hai tấm thảm, hai tấm chân dung Makhơmút và Puskin được treo trên tường nhà tôi. Trong những tập thơ Blốc còn mát rượi những đêm trắng Pêterbua, tôi đã để vào đầy những bông hoa núi thắm đỏ miền Avar.
Hai người mẹ như đôi cánh, như hai bàn tay, hai con mắt, hai bài ca. Bàn tay hai người mẹ đã xoa đầu tôi, và beo tai tôi, những khi cần thiết. Hai người mẹ đã lên dây cho cây đàn panđur của tôi. Mỗi người lên một dây. Hai người mẹ đã nâng tôi lên cao, và từ trên vai mẹ tôi đã nhìn thấy nhiều điều trên thế giới mà tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nếu không được nâng lên cao. Như con chim ưng khi bay, làm sao biết được cảnh nào cần hơn, quý hơn với nó, tôi cũng không biết được người mẹ nào thân thiết với tôi hơn.
Trước đây người miền núi chữa tất cả các bệnh chỉ toàn bằng cỏ cây và nước. Họ tin vào các ông lang. Thật ra đã có những chuyện ông lang đến giờ nhân dân vẫn còn kể lại. Mấy ông lang này khi chữa bệnh đau đầu, đã bắt gia đình phải mổ một con cừu đen.
https://thuviensach.vn
Mọi người Avar đều biết rằng thịt cừu đen thơm hơn, ngọt hơn thịt cừu xám hay cừu trắng. Thầy lang bảo bệnh nhân chui đầu vào trong tấm da cừu mới lột và bắt ngồi như thế rất lâu. Còn thịt thì thầy đem về nhà mình.
Bây giờ thì chúng ta sẽ không nói đến những thầy lang như thế nữa. Nhưng trên thực tế cũng còn có những lương y giỏi và những vị thuốc dân gian rất quý.
Cỏ lẩn bố tôi nằm chữa bệnh ở Matxcơva, tại bệnh viện Kremli. Tại đấy ông nhớ đến cỏ cây và nước miền Đaghextan, ông lại bảo các con mang tới cho ông thứ nước lấy từ nguồn mạch nhỏ trên rặng Buxrakhơ.
Đối với các con, lời của bố là đạo luật. Chúng tôi trở về Đaghextan, trèo lên rặng núi Buxrakhơ, tìm được nguồn mạch ở đó và lấy nước từ đây đem tới cho bố chúng tôi, một nhà thơ Avar đang nằm ở bệnh viện Kremli.
Bố tôi uống thứ nước ấy và ông cảm thấy nhẹ mình. Sau đó thậm chí ông đã khỏi hẳn. Ông không hay biết rằng, cũng từ ngày hôm ấy, người ta đã bắt đầu tiêm cho ông một thứ thuốc mới của nước ngoài.
Có lẽ ông đã không khỏi bệnh nếu chi nhờ mỗi thứ thuốc do khoa học tạo ra kia. Có lẽ ông đã không khỏi bệnh nếu chỉ nhờ uống thứ nước lấy ở miền quê ấy, như những người Avar đã uống. Đúng hơn là ông đã khỏi bệnh nhờ cả hai thứ thuốc.
Trong văn học cũng như thế. Ngọn nguồn của nó là quê hương, là nhân dân nước mình, là tiếng mẹ đẻ. Nhưng nhận thức của nhà văn chân chính hôm nay còn vươn xa ra ngoài giới hạn đất nước mình. Tất cả những cái gì có quan hệ đến con người, đến thế giới đều có thể xúc động trái tim, khối óc nhà văn.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đó?
Rượu vang, bánh mì chăng?
Nhưng, khách ơi, hãy nhớ:
https://thuviensach.vn
Anh cần chi hành lý
Có dân núi đón rồi!
Cô gái thì nướng bánh
Chàng trai rót rượu mời.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đó?
Con dao mài sắc chăng?
Nhưng khách ơi, hãy nhớ:
Nếu kẻ thù lẩn quất
Khi anh được mời chào.
Chúng tôi sẵn gươm dao
Che chở anh yên ổn.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đỏ?
Anh mang theo bài hát,
Ôi, người bạn thân yêu!
Bải hát lạ bao nhiêu
Rừng núi này chẳng có?
Nhưng nó không nặng gì
Anh cứ mang dự trữ!
Vậy là nếu nhà văn muốn hành động giống như vị bác sĩ chữa cho bố tôi, anh ta cần phải biết sử dụng một cách khéo léo cả những phương tiện dân tộc truyền thống từ ngàn xưa và cả những thành tựu mới nhất trên thế giới.
https://thuviensach.vn
Còn nếu nhà văn muốn giống như khách lãng du kia, thì khi đến thăm một dân tộc khác, anh cần phải mang theo những bài ca quê hương, nhưng anh cũng cần phải để dành chỗ trong trái tim mình cho những bài ca mà anh sẽ được nghe.
Dân tộc này tiễn anh đi, dân tộc kia lại đón anh, mà bài ca thì dân tộc nào cũng có.
Dạo trước, khi các báo cáo viên, các diễn giả đến miền chúng tôi nói chuyện, có nơi như ở làng Kêlép, phụ nữ ngồi quay lưng lại diễn giả để khỏi bị nhìn thấy mặt. Nhưng khi diễn giả nói chuyện xong và ca sĩ bước ra sân khấu hát, vì tôn trọng các bài ca mà các thính giả phụ nữ đã vượt qua được định kiến, quay mặt về phía ca sĩ; hơn thế nữa, họ còn tự cho phép mình bỏ tấm khăn che mặt.
Không một ngày nào, không giờ phút nào trong tôi không vang lên bài ca mẹ tôi đã hát ru bên nôi. Bài ca ấy là cái nôi của tất cả các bài ca của tôi. Nó là tấm gối mà tôi ngả mái đầu mệt mỏi của mình xuống, nó là con ngựa đưa tôi đi khắp thế gian này. Nó là ngọn nguồn mà tôi ghé môi xuống uống những lúc khô khát. Nó là bếp lửa sưởi ấm người tôi, hơi ấm của nó tôi đã mang theo trong suốt cuộc đời.
Nhưng đồng thời tôi cũng không muốn giống như anh chàng Sukum: dù đã lớn thành một chàng trai khỏe mạnh, anh ta vẫn không bỏ được thói quen bú sữa mẹ. Người ta thường nói về những kẻ như vậy thế này: “To như con bò đực mà trí khôn lại của bê”.
Ở thời đại này, chúng ta đã quen trả lời đủ thứ thăm dò ý kiến. Trong đời tôi, tôi đã bao lần phải làm việc đó! Không có một bản thăm dò ý kiến nào tôi thấy đề ra câu hỏi về tình yêu quê hương, nhưng điều đó không có nghĩa trong lòng người trên trái đất này không tổn tại một tình yêu như thế.
Mặt khác, khi trả lời bản thăm dò, chỉ viết là “công dân Liên Xô” chưa đủ - cần phải làm một người công dân như vậy; chỉ viết là “Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô” chưa đủ - cần phải làm một người như thế; chỉ viết
https://thuviensach.vn
“tiếng mẹ đẻ là Avar” chưa đủ - cần phải làm sao cho tiếng nói đó thật sự là thân thiết, làm sao đủ dũng cảm không phản bội lại nó.
Hỡi các vị khách thập phương, hãy đến với tôi, hãy đem lại cho tôi những bài ca khác nhau! Hãy đến như những người anh em, chị em, tôi sẽ tiếp đãi tất cả các bạn, trái tim tôi sẽ cùng chia sẻ với các bạn mọi niềm vui, nỗi buồn!
Nếu chàng trai trẻ miền núi, khi trở về làng Khunzắc đã mang theo trên yên ngựa mình một phụ nữ thuộc dân tộc khác, thì mọi người nhìn anh ta trách móc, hành động của anh ta không được những người già cả trong làng ủng hộ. Nhưng bây giờ thì cả trẻ lẫn già đều đã quen với chuyện đó. Cuộc hôn nhân giữa chàng trai Avar và người phụ nữ dân tộc khác không còn bị coi là đáng xấu hổ. Chỉ còn một thứ hôn nhân bị lên án ở vùng núi - đó là hôn nhân không tình yêu.
Lẽ nào không phải là hoa càng nhiều loại thì bó hoa do đó lại càng đẹp hơn. Trên trời càng nhiều sao bầu trời sẽ càng sáng hơn. Cẩu vồng sở dĩ đẹp vì nó mang tất cả sắc màu.
Ở châu Phi, tôi đã được xem một bông hoa kỳ lạ, dị thường. Mỗi một cánh hoa của nó đều mang màu riêng. Mỗi một cánh hoa có riêng tên gọi, có riêng hương thơm. Nói ngắn gọn là trên một bông hoa là cả một bó hoa kết sẵn, nhung đổng thời đó vẫn chỉ là một bông hoa.
Tôi ao ước sao cho cuốn sách viết bằng tiếng Avar này của tôi sẽ giống như bông hoa châu Phi huyền diệu, sao cho mỗi người sẽ tìm thấy trong đó những gì thân thuộc, gần gũi.
Đấy, tôi đã bày ra tất cả những gì có thể tạo thành cuốn sách của tôi. Giõng như người thợ lành nghề miền Kubatri, mọi thứ đều đã có trong tay. Anh đã có vàng bạc, dao cắt, búa gõ, đục đẽo, con dấu, tranh vẽ. Còn tôi thì có tiếng mẹ đẻ, vốn sống, chân dung nhiều kiểu người, tính cách của họ, âm điệu các bài ca, cảm giác về lịch sử, cảm giác về công lý, tình yêu thiên nhiên, quê hương, hồi ức về người cha, quá khứ và tương lai của dân tộc
https://thuviensach.vn
tôi... Tôi đã có trong tay những thỏi vàng. Nhưng liệu tôi có đôi tay vàng không? Tôi cỏ đủ tài năng, có đủ tài nghệ không?
Bằng cách nào tôi có thể chuyền vào tay các bạn bài ca của tôi như một chú chim nhỏ run rẩy, để bài ca của tôi ngập tràn trái tim các bạn như bỗng nhiên tình yêu đã đến?
Tôi lại cầm lên lần nữa những gì tôi có trong tay trên bàn làm việc... Người ta nói: Hãy để cho vợ bỏ chàng kỵ sĩ nào không có ngựa.
Người ta còn nói: Hãy để cho vợ bỏ cả chàng kỵ sĩ nào ngựa không có yên cương, không có roi quất ngựa.
Người ta nói: Đừng cho chim ưng ăn rơm và cho lừa ăn thịt.
Người ta nói: Ngay cả ngôi nhà đẹp cũng có thể đổ nếu các bức tường xây dối.
Người ta nói: Gà mái mơ thấy mình là chim ưng, nó bay khỏi vách đá và ngã gãy cánh.
Con suối nhỏ mơ thấy mình là dòng sông lớn, nó tràn vào bãi cát và lập tức bị hút khô.
https://thuviensach.vn
NGÔN NGỮ
Đứa trẻ khóc và cười
Nhưng còn chưa biết nói
Rồi đến lúc nó kể
Nó là người thế nào
Đến thế giới này vì sao.
Lời khắc trên nôi
Nếu trên thế giới này không có lời nói thì thế giới đã không giống như nó đang tồn tại.
Nhà thơ sinh ra từ một trăm năm trước khi thế giới tạo thành.
Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ chẳng khác gì anh chảng mất trí lao xuống dỏng sông cuồn cuộn mà không biết bơi.
Nhiều người mở miệng nói không phải vì ý nghĩ chen chúc trong đầu mà vì ngứa lưỡi. Một số người làm thơ không phải vì trái tim tràn ngập những tình cảm lớn mà vì... Thật khó mà nói được vì lẽ gì mà bất ngờ họ quyết định làm thơ. Những câu thơ cửa họ nghe như tiếng lạo xạo của hạt dẻ khô khi đổ vào cái túi bằng da cừu thô.
Những người ấy không muốn quay lại để thoạt tiên thứ nhìn xem điều gì đang xảy ra trên thế giới. Họ không muốn lắng nghe, không muốn nhận biết, thế giới này đầy ắp những bài ca, những âm điệu, những hòa âm thế nào.
Thử hỏi con người được phú cho đôi mắt, đôi tai và lưỡi để làm gì? Tại sao mắt người có hai, tai người có hai, mà lưỡi chỉ có một thôi? Vân đề là ở chỗ trước khi một cái lưỡi phát ra một lời nào đó, thì hai mắt đã phải nhìn, hai tai đã phải nghe.
Lời nói rời khỏi lưỡi chẳng khác nào con ngựa từ con đường nhỏ dốc ngược lao xuống cánh đồng. Thử hỏi liệu có thể tung ra thế giới lời nói
https://thuviensach.vn
chưa từng được ấp ủ trong tim?
Không có lời nói nào đơn thuần chỉ là lời nói. Có khi nó là lời nguyền rủa, khi nó là lời chúc mừng, là vẻ đẹp, là nỗi đau, là sự bẩn thỉu, là bông hoa, là giả dối, là sự thật, là ánh sáng hay là bóng đêm.
Tôi đã nghe trên đất này khắc nghiệt.
Thế giới tội lỗi được tạo nên, chỉ với một lời.
Lời ấy là gì, âm thanh trầm hay bổng?
Lời nguyện cầu chăng? Lời thề chăng? Hay mệnh lệnh mà thôi?
Chúng ta đang đấu tranh cho thế giới hôm nay
Thế giới đang bị thương, bị dằng xé vô cùng khốc liệt.
Hãy nói lên một lời đi: dù lời thề, lời cầu nguyện
Hay lời rủa cũng cam! Miễn để cứu thế gian này!
Một anh bạn tôi nói: tôi là chủ nhân lời nói của tôi, muốn giữ trong miệng thì giữ; muốn phát ra ngoài thì phát. Có thể là đối với bạn tôi, phương châm đó thích hợp, nhưng nhà văn thì cần phải trở thành chủ nhân chân chính những lời nói của mình, những lời thề và lời rủa của mình. Trước cùng một sự việc, anh ta không thể thề hai lẩn. Và nói chung kẻ nào thề luôn miệng, theo tôi đó là một tên lừa đảo.
Nếu cuốn sách này giống như tấm thảm thì tôi đã dệt lên nó từ những sợi nhiều màu của tiếng Avar. Nếu nó giống tấm áo choàng da cừu thì tôi đã khâu tấm áo ấy bằng những sợi chỉ bền của tiếng Avar.
Người ta nói rằng ngày xưa trong tiếng Avar chỉ có rất ít từ. Những khái niệm “tự do”, “cuộc sống”, “lòng dũng cảm”, “hữu nghị”, “lòng tốt”, đều được thế hiện bởi một từ hoặc vài từ rất giống nhau về âm điệu và ý nghĩa. Mặc cho nhiều người nói rằng tiếng nói của dân tộc nhỏ bé chúng tôi nghèo nàn, tôi có thể dùng tiếng nói của tôi để nói lên tất cả những gì tôi khao
https://thuviensach.vn
khát, và để biểu hiện mọi tình cảm và ý nghĩ, tôi không cần viện đến một ngôn ngữ nào khác.
Ở Đaghextan có một dân tộc rất ít người - dân tộc Lắc. Chừng 5 vạn người nói tiếng đó thôi. Kẻ cũng khó mà tính cho chính xác, bởi vì ở đó có những đứa trẻ chưa biết nói và còn có những kẻ đã quên mất tiếng nói của cha ông.
Dân tộc Lắc ít ỏi, tuy vậy vẫn có thể gặp họ ở nhiều nơi trên thế giới. Cuộc sống nghèo khổ trên miền đất cằn cỗi ấy đã đẩy họ đến chỗ phải tha phương cầu thực. Họ đều là những thợ thủ công khéo léo - thợ đóng giày, thợ bạc, thợ mạ; một số người chuyên đi hát rong. Ở Đaghextan người ta thường nói: “Bổ dưa thì bố cho khéo, kẻo mà người Lắc trong đó nhảy ra”.
Khi tiễn con trai đi những miền xa, người mẹ Lắc dặn dò con; “Trước khi ăn đĩa cháo ở một thành phố nào, con nhớ nhìn xem dưới đáy đĩa có người Lắc ta nào không”.
Người ta kể lại. Có một người Lắc đi lang thang trên phố xá Matxcơva, hay Lêningrát gì đó. Bỗng anh ta nhìn thấy một người mặc quần áo Đaghextan. Anh ta bỗng cảm thấy thân thuộc, muốn bắt chuyện. Anh ta xấn lại gần người đồng hương và nói bằng tiếng Lắc. Người đồng hương không hiểu và lắc đầu. Anh chàng người Lắc chuyển sang nói tiếng Kumức, rồi nói tiếng Tát, rồi tiếng Lêzghin... Dù anh ta nói bằng tiếng gì thì người đồng hương mặc quần áo Đaghextan kia vẫn không thể bắt chuyện được. Đành phải nói với nhau bằng tiếng Nga. Lúc ấy mới biết rằng anh người Lắc đã gặp một người Avar. Anh chàng Avar bèn mắng nhiếc người bạn đồng hương bất ngờ gặp mặt:
- Anh dám nhận là người Đaghextan, anh dám nói là đồng hương với tôi thế mà lại không biết tiếng Avar! Anh không phải là người Đaghextan mà là một con lạc đà đần độn!
Trong cuộc cãi vã đó, tôi không thể đứng về phía người đồng bào của tôi. Không việc gì anh ta lại phải công kích người Lắc đáng thương kia. Tất nhiên có thể biết tiếng Avar mà cũng có thể không biết thứ tiếng đó. Điều
https://thuviensach.vn
quan trọng là người Lắc kia đã biết tiếng mẹ đẻ của mình. Anh ta còn biết thêm nhiều thứ tiếng mà anh chàng Avar nọ không biết.
Abutalíp có lần đến Matxcơva choi. Một lần ngoài phố ông có việc cần hỏi người qua đường. Chắc là ông cần biết chợ ở đâu, chẳng dè Abutalíp hỏi phải một người Anh. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên - trên đường phố Matxcơva chẳng thiếu người nước ngoài.
Người Anh nọ không hiểu Abutalíp và hỏi lại ông mới đầu bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Pháp, rồi tiếng Tây Ban Nha, và có thể bằng nhiều thứ tiếng khác nữa.
Còn Abutalíp thì cố nói cho người kia hiểu mới đầu thì bằng tiếng Nga, sau đó bằng tiếng Lắc, rồi tiếng Avar, tíẽng Lêzghin, tiếng Đarghin, tiếng Kumức.
Hai bên không hiểu nhau và đành phải bỏ đi. Một vị người Đaghextan quá ư là có học, biết đôi ba chữ tiếng Anh, sau này đã nói với Abutalíp rằng:
Đây, anh đã thấy thế nào là học vấn chưa. Nếu anh có học hơn một chút, anh đã có thể nói chuyện với người Anh kia, anh hiểu chưa?
- Tôi hiểu rồi, - Abutalíp trả lời. - Chỉ có điều là tại sao anh chàng người Anh kia lại được coi là có học hơn tôi, vì anh ta cũng không hề biết một thứ tiếng nào mà tôi đã dùng để nói với anh ta!
Đối với tôi, ngôn ngữ của các dân tộc như các vì sao trên nền trời. Tôi không muốn nhiều vì sao hợp lại thành một vì sao chiếm nửa bầu trời. Đã có mặt trời rồi. Hãy để cho các vì sao lấp lánh. Hãy để cho mỗi người đều có riêng một vì sao.
Tôi yêu vì sao của tôi - tiếng Avar thân yêu của tôi.
Tôi tin vào các nhà địa chất nói rằng, trong quả núi nhỏ có thể chứa nhiều vàng.
- Tôi cầu trời không cho con bà nói được tiếng của bà nữa, - hai người đàn bà rủa nhau như vậy.
https://thuviensach.vn
Về những lời rủa. Khi tôi viết truyện thơ “Người đàn bà miền núi”, tôi cần biết một lời rủa để đặt vào miệng người đàn bà độc ác trong truyện. Người ta mách cho tôi rằng ở một làng xa có một người đàn bà luống tuổi chưa từng chịu thua ai trong những lần chửi bới nhau. Tôi liền khăn gói lên đường tới gặp người đàn bà lạ lùng đó.
Một buổi sáng đẹp trời mùa xuân, khi tôi không muốn chửi bới, nguyền rủa mà chỉ muốn vui mừng, ca hát, tôi đã phải bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cần thiết cho tôi. Tôi thật thà nói với bà già vì cớ gì tôi đến. Đây, tôi muốn nghe một lời rủa nào thật cay độc, tôi sẽ ghi lại và đưa vào truyện thơ.
- Cầu cho lưỡi mày khô đi, cho mày quên tên người yêu, cho người mày có việc cần gặp không hiểu lời mày nói. Cầu cho mày quên lời chào làng quê khi mày đi xa trở về, cầu cho gió lùa vào miệng mày khi mày rụng hết răng... Này đồ chó, già này có thể cười được chăng (cầu trời tước cái niềm hân hoan này của mày đi!) nếu già không thấy vui? Tiếng khóc trong nhà có đáng giá gì nếu ở đây không ai chết cả! Già làm sao nghĩ ra được một lời chửi rủa, nếu không bị ai xúc phạm đến? Đừng bao giờ đến đây mà yêu cầu ngu ngồc thế nữa nhé.
- Cảm ơn bà già tốt bụng, - tôi nói vậy và rời khỏi ngưỡng cửa nhà bà.
Trên đường đi tôi nghĩ: “Nếu đang yên lành, không tức giận gì ai mà bà ta ứng khẩu cho tôi nghe những lời rủa điêu luyện như vậy thì khi bị ai chọc tức bà sẽ tuôn ra những lời rủa đến thế nào?”
Tôi nghĩ rằng rồi đây sẽ có nhà sưu tầm văn học dân gian Đaghextan nào đó sẽ soạn ra cả một cuốn sách gom góp những lời chửi rủa ở miền núi, lúc đó mọi người sẽ biết được mức độ sáng tạo, mức độ chính xác, trí tường tượng phong phú của người miền núi và cả sức biểu hiện của ngôn ngữ chúng tôi.
Mỗi làng quê đều có riềng những lời chửi rủa. Có lời rủa trói chân trói tay anh bằng những sợi dây vô hình; có lời rủa đẩy anh vào quan tài; có lời rủa làm mắt anh rơi vào đĩa canh đang húp, có lời rủa làm mắt anh lăn
https://thuviensach.vn
xuống khe sâu qua những tảng đá lởm chởm. Những lời rủa động đến đôi mắt là vào loại độc địa nhất. Đó lả lời rủa của các lời rủa. Nhưng vẫn có lời rủa còn đáng sợ hơn. ở một làng tôi đã nghe thấy hai người đàn bà chửi nhau:
- Cầu trời nó bắt đi cái người biết dạy con mày học nói!
- Cầu trời nó bắt của con mày đi cái người mà con mày có thể dạy nói!
Đấy, những lời rủa có thể đáng sợ đến như thế. Nhưng một người không biết tôn trọng tiếng mẹ đẻ cũng sẽ không còn được kính trọng ở miền núi nữa, dù không phải nghe một lời rủa nào. Người mẹ miền núi sê không đọc các bài thơ của con, nêu các bài thơ đó được viết bằng một thứ tiếng méo mó.
Rút trong sổ tay. Có lần tôi gặp ở Pari một họa sĩ người Đaghextan. Sau cách mạng ít lâu, anh ta sang Italia học, lấy một cô gái Italia rồi không về nước nữa.
Đã quá quen với cảnh núi rừng, anh chàng Đaghextan nọ thấy xa lạ giữa miền quê mới. Anh đi khắp các nơi, dừng lại khắp các thủ đô tráng lệ của các nước xa xôi, nhưng, dù anh đi tới đâu, lúc nào anh cũng cảm thấy buồn. Tôi muốn nhìn thấy nỗi buồn đọng lại thành đường nét, màu sắc, tôi yêu cầu anh cho tôi xem các bức tranh anh vẽ.
Có một bức tranh được đặt tên như thế này: “Nỗi buồn nhớ quê hương”. Trên bức tranh là một người phụ nữ Italia (chính là vợ anh) mặc quần áo kiểu Đaghextan ngày xưa. Cô ta đứng bên nguồn nước tay cầm chiếc bình chạm bạc, sản phẩm của những người thợ lành nghề xứ Gôxalin. Đằng xa là cảnh buồn của làng quê Avar nằm trên sườn núi, những ngọn núi bên làng trông còn buồn hơn. Mây mù bao quanh đỉnh núi.
- Mây mù - là nước mắt của núi, - họa sĩ nói. - Khi mây mù phủ đầu sườn núi, thì bên những nếp nhăn vách đá bắt đầu rỏ xuống những gìọt nước trong trong. Mây mù - đó là tôi.
https://thuviensach.vn
Ở một bức tranh khác, tôi nhìn thấy một con chim đậu trên bụi mận gai. Bụi cây ấy mọc giữa vách đá trần trụi. Chim đang hót, một người đàn bà miền núi từ khung cửa sổ ngôi nhà buồn buồn nhìn ra... Thấy tôi chú ý đến bức tranh này, họa sĩ nói rõ thêm:
- Bức tranh này dựa theo ý một câu chuyện cổ Avar.
- Chuyện cổ nào?
- Người ta bắt một con chim và nhốt nó vào lồng. Sống trong cảnh tù túng, suốt ngày suốt đêm chim kêu: cuốc - cuốc, cuốc - cuốc... giống hệt như tôi đã thầm kêu suốt bao năm qua... Chủ nhân của con chim đó, bèn nghĩ:
“Quê hương của nó ở đâu nhỉ? Có lẽ đó là một đất nước tươi đẹp, trù phú, nơi có những loài cây kỳ diệu, những gìống chim kỳ diệu. Hay là ta thả nó ra và thử nhìn xem nó bay đi đâu. Nó sẽ chỉ cho tôi con đường đến xứ sở diệu kỳ kia”. Anh ta tháo chiêc lồng ra, và con chim liền vỗ cánh bay. Nó bay chừng mươi bước và đậu xuống bụi mận gai mọc lên giữa tảng đá trơ trọi. Trong bụi cây ấy đã có tổ của nó... Tôi cũng đang nhìn về quê hương mình từ khung cửa nhó chiếc lồng của tôi, - họa sĩ nói thế rồi dừng lại.
- Vậy thì sao anh không muốn trở về?
- Muộn rồi. Trước đây tôi đã mang đi khỏi quê hương trái tim trẻ trung nồng nhiệt, liệu tôi có thể mang lại cho quê hương bộ xương già nua này không?
Rời Pari trở về nước, tôi tìm kiếm họ hàng của họa sĩ. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mẹ anh ta còn sống. Họ hàng thân thích tụ tập trong nhà buồn rầu nghe tôi kể chuyện về người con trai đã rời bỏ quê hương, đánh đổi quê hương lây một miền đất lạ. Nhưng dường như họ đều tha thứ cho anh ta. Họ mừng là anh ta vẫn còn sống, Bất ngờ bà mẹ hỏi tôi:
- Anh nói chuyện với con tôi bằng tiếng Avar à?
- Không. Chúng tôi phải nhờ phiên dịch. Tôi nói tiếng Nga, còn con trai bà nói tiếng Pháp.
https://thuviensach.vn
Người mẹ kéo chiếc khăn đen che mặt như người ta vẫn làm khi nghe tin con chết. Mưa đều đều rơi trên mái nhà. Chúng tôi đang ngôi ở miền Avaria, ở tận cuối chân trời, nơi có Pari ấy, có thể là người con lưu lạc của Đaghextan cũng đang nghe thấy tiếng mưa rơi. Im lặng một lúc lâu, bà mẹ nói:
- Anh nhầm rồi, anh Raxun ạ, con tôi đã chết từ lâu rồi. Đó không phải là con tôi. Con tôi không thể quên được thứ tiếng mà tôi, một bà mẹ Avar, đã dạy nó.
Hồi ức. Có một thời kỳ tôi làm việc tại nhà hát Avar. Nhiều khi, với đủ thứ bài trí, phục trang, đạo cụ (lừa thồ các đồ lề của nhà hát chúng tôi, song cũng còn những thứ chính các nghệ sĩ phải mang lấy) chúng tôi đi hết làng này sang làng khác, giới thiệu với nhân dân miền núi nghệ thuật sân khấu. Tôi thường nhớ lại năm ấy, cái năm tôi đã sống trong ngành sân khấu.
Trong một vài vở- kịch, tôi được giao đóng những vai phụ, nhưng thường là tôi được ngồi ở chỗ nhắc vở. Là một nhà thơ trẻ, tôi thú vai nhắc vở hơn cả. Tôi cảm thấy diễn xuất của các diễn viên, điệu bộ, cử chỉ của họ trên sân khầu đều là thứ yếu và không cần thiết. Tôi cảm thấy cả quần áo, hóa trang, bài trí nữa cũng là thứ yếu. Có một điều tôi cho là quan trọng hơn hết thảy - đó là lời nói. Tôi theo dõi rất kỹ sao cho các diễn viên không thêm bớt lời nói, sao cho họ nói thật đúng với kịch bản. Và nếu có diễn viên nào đó bỏ bớt hay nói sai, tôi liền ló ra khói chỗ ngồi của mình đọc to lên cho cả rạp nghe thấy thế nào là lời nói đúng.
Phải rồi, tôi đã coi lời nói là quan trọng hơn hết. Bởi vì lời nói có thể sống được mà không cần đến quần áo, hóa trang - khán giả sẽ hiểu được ý nghĩa của lời nói.
Tôi nhớ lại một trường hợp buồn cười. Hôm đó chúng tôi trình diễn vở “Những người miền núi” viết về quá khứ xa xôi của dân tộc Avar. Như mọi khi, tôi lại giữ chân nhắc vở. Theo diễn biến của vở kịch, Aigazi, nhân vật trong vở, trốn trên núi để tránh sự trả thù, một đêm đã lén về làng gặp người yêu. Cô bạn gái khuyên anh mau trở về núi, không thì sẽ bị người ta giết,
https://thuviensach.vn
nhưng Aigazi (do diễn viên Magaép đóng) vẫn không rời nàng, anh trùm tấm áo khoác che mưa cho nàng và nói với nàng những lời yêu đương, đau khổ.
Đến đây có một chuyện bất ngờ xảy ra. Vợ của Magaép bỗng chạy lên sân khấu. Chị ta tức giận nhẩy bổ vào túm lấy anh vì tội anh đã tư tình với một người đàn bà khác. Magaép nắm lấy tay vợ kéo vào sau cánh gà để giải thích cho vợ biết rõ đầu đuôi. Anh hy vọng sẽ trở ra sân khấu ngay và tiếp tục vở kịch, nhưng chị vợ bám chặt lấy chồng và không chịu thả anh ra sân khấu.
Người yêu anh đành đứng lại một mình trên sân khấu. Vở kịch phải dừng lại.
Tôi ngồi trên bục thấp, và tất nhiên không mặc quần áo tử tế, không hóa trang, áo sơ mi cố không cài cúc, hình như chân chỉ đi giày vải. Với cách ăn mặc như thế, tôi không thể đóng thay Magaép, dù tôi đã thuộc lòng phần đối thoại của nhân vật Aigazi. Nhung bởi vì đối với tôi quan trọng hơn cả là lời nói chứ không phải phục trang, và thế là tôi nhẩy lên sân khấu và nói với cô gái bất hạnh kia những lời mà Aigazi - Magaép lẽ ra phải nói.
Tôi không biết khán giá hôm ấy có hài lòng không, có thể là vở diễn biến thành một thứ hài kịch với họ, nhưng riêng tôi thì cảm thấy hài lòng. Bởi vì họ đã hiểu được nội dung vở kịch, họ không bỏ qua một lời nói nào, và điều này tôi cho là quan trọng nhất.
Tôi còn nhớ với đoàn kịch đó lần đầu tiên tôi đến làng Guníp nổi tiếng, nằm rất cao trên núi. Mọi người đều rõ là nhà thơ với nhà thơ là bạn, dù họ chưa quen nhau. Ở làng Guníp cũng có một nhà thơ tôi đã được nghe tên, nhưng trước đây chưa từng được gặp. Tôi đến thăm nhà thơ đó và ở lại nhà anh ấy suốt những ngày đoàn kịch diễn tại đây.
Chủ nhân tốt bụng đã tiếp đón tôi thịnh tình đến mức tôi phải cảm thấy lúng túng, không biết đặt mình ở đâu. Tôi đặc biệt ghi nhớ tấm lòng dịu dàng, phúc hậu của bà mẹ nhà thơ.
https://thuviensach.vn
Ra đi, tôi không tìm được lời cảm tạ. Lúc tôi chia tay với mẹ nhà thơ, trong phòng không có một ai khác. Tôi biết rằng với các bà mẹ thì không có gì vui hơn là được nghe những lời khen con trai mình. Và mặc dầu tôi rất tỉnh táo khi đánh giá những khá năng hết sức eo hẹp của nhà thơ lảng Gunip, tôi vẫn mở miệng dè dặt khen ngợi anh ta. Tôi nói với mẹ anh ta rằng, con trai bà là một nhà thơ rất tiến tiến, kịp thời.
- Có thể là nó rất tiên tiến, - bà mẹ buồn rầu ngắt lời tôi, - nhưng nó không có tài. Có thể thơ của nó rất kịp thời, nhưng khi đọc nó, tôi cảm thấy tẻ nhạt. Raxun, cháu thử nghĩ xem nhé. Khi con tôi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên, những tiếng không sao hiểu được, tôi đã cảm thấy sung sướng vô cùng. Thế mà bây giờ khi nó đã biết nói và còn làm được cả thơ nữa thì tôi lại thấy buồn tẻ. Người xưa nói là trí khôn của người đàn bà nằm nơi vạt áo. Khi ngồi thì còn, đứng lên thì rơi mất. Con trai tôi cũng vậy: khi ngồi sau bàn ăn, nó nói năng bình thường dễ nghe, nhưng chỉ cần đi từ bàn ăn đến bàn làm việc, lả nó đánh rơi mất tất cả những lời hay ho, giản dị. Chỉ còn toàn những lời khuôn sáo, nhạt thếch.
Nhớ lại câu chuyện đó, tôi cầu trời cho tôi không bao giờ bị mất đi lời nói. Tôi muốn sao cho những bài thơ của tôi, cuốn sách này của tôi và tất cả những gì tôi sẽ viết đều trở nên dễ hiểu, gần gũi với mẹ tôi, chị tôi, và mỗi người dân vùng núi, với những ai có cuốn sách này trong tay. Tôi không muốn gây ra sự buồn tẻ, tôi muốn đem tới niềm vui. Còn nếu lời nói của tôi không còn sinh khí, trở nên lạnh lẽo, khó hiểu và tẻ nhạt - nói ngắn gọn là nếu tôi làm hỏng mất lời nói của mình thì trong đời tôi sẽ không còn gì đáng sợ hơn.
Trước đây, khi dân làng chúng tôi tụ tập tại ngôi đến hồi giáo để bàn bạc việc chung, tôi đã đọc cho mọi người nghe thơ của bố tôi. Lúc ấy tôi còn là một cậu bé, nhưng tôi đã biết đọc thơ một cách hăng say (thậm chí quá hăng say), đọc thật to và nhấn mạnh những chữ, những âm tôi thích. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ mới của bố tôi “Đi săn sói ở Xađa”, âm “X” trong chữ “Xađa” tôi đọc qua kẽ răng, làm chừ đó như rung lên, đập vào nhau. Tôi
https://thuviensach.vn
tưởng rằng cách phát âm gay gắt, căng thẳng như vậy đối với âm ấy sẽ gây được nhiều ẵn tượng hơn.
Mỗi lần sửa cách đọc của tôi, bố tôi đều nói:
- Con cứ tưởng mỗi chữ là một hạt dẻ có thể lấy răng mà cắn vỡ sao? Hay là mỗi chữ giống như củ tỏi có thể bỏ vào cối đá mà giã sao? Hay là mỗi chữ là một thửa đất khô đẩy sỏi đá để cần phải ráng sức đẩy lưỡi cày xuống mà cày xới sao? Con hãy đọc từng chữ thật nhẹ nhàng, không phải cố sức, sao cho hàm răng con không phải xít lại, đập vào nhau!
Tôi lại đọc lại, nhưng vẫn không sửa được thói quen. Lúc ấy mẹ tôi đang đứng rìa ngoài mái nhà. bố tôi gọi mẹ tôi:
- Bà xuống mà dạy nó!
Mẹ tôi phát âm những chữ khó đối với tôi giống như bố tôi đã phát âm. - Con nghe thấy chưa? Bây giờ thi đọc đi.
Tôi lại đọc sai như trước.
- Xì, - bố tôi nổi cáu. - Có lần tao đã lấy chổi phất trần quất một thằng vì tội làm hỏng lời nói. Nhưng với con tao thì biết làm thế nào?
Ông bực bội bỏ cuộc họp ra về,
Bố tôi đã đánh anh chàng phả rối như thế nào. Hôm đó là một phiên chợ mùa xuân. Mùa xuân, như ta biết đấy, những thứ thu hoạch được của vụ trước thì sắp hết mà thu hoạch vụ mới thì chưa đến. Về mùa xuân, mọi thứ ở chợ đều đắt hơn mùa thu, thậm chí các thứ nồi niêu cũng đắt, mặc dù đó không phải cây mọc ngoài đồng.
Bố tôi, lúc ấy còn trẻ, định đi ra chợ. Người hàng xóm gửi ông 20 kôpếch và nhờ ông mua một cái chổi phất trần.
- Nếu mua rẻ hơn thì tiền thừa anh cứ giữ lại, - người hàng xóm dặn dò bố tôi. Với lời dặn dò ấy, bố tôi đi ra chợ.
Một lúc sau ông tìm thấy người bán chổi lông và tiến lại mua. Mọi người đều biết, ở các chợ phương Đông lần nói giá đầu tiên không có nghĩa gì.
https://thuviensach.vn
Người bán có thể đòi đến 100 rúp cho thứ hảng chỉ đáng giá 5 kôpếch. Bố tôi chọn một cái chổi lông đẹp, chắc và hỏi:
- Ông bán à?
- Thế tôi đứng đây làm gì?
- Bao nhiêu?
- 40 kôpếch.
- Cái chổi lông không phải là con ngựa, việc gì phải xướng giá cao thế, nói thiệt giá coi.
- Đúng 40 kôpếch.
- Ông không nói đùa chứ?
- Đúng 40 kôpếch,
- 20 kôpếch nhé!
- Đúng 40 kôpếch.
- Nhưng tôi chỉ có 20 kôpêch.
- Đúng 40 kôpẽch,
- Quả tình là tôi không có tiền hơn.
- Khi nào có tiền lại đến mua.
Biết là không mua được chổi lông, bố tôi bắt đầu đi lang thang trong chợ, lát sau ông nhìn thấy trên một mô đất cao, cách nơi bán hàng không xa, có nhiều người tụ tập. Ông lại gẩn, lách vào và hiểu là mọi người đang nghe ca sĩ Makhơmút hát.
Makhơmút ngồi giữa đám đông, tay cầm đàn panđur. Lúc thì ông gẩy đàn, lúc thì ông đặt bàn tay lên dây và hát. Mọi người nín thở lắng nghe. Chung quanh yên lặng đến mức có thể nghe rõ tiếng bay vo vo của một con ong nào đang tìm nhụy. Một chàng trai trẻ húng hắng ho khi nghe hát, liền bị một ông già tóc bạc, có lẽ là bố của chàng trai vừa ho, đẩy xa ra khỏi đám đông.
https://thuviensach.vn
Giữa lúc mọi người im lặng nghe Makhơmút hát thì bỗng có một anh chàng nào đó cất tiếng nói chuyện với người bên cạnh. Thật ra thì anh ta cũng có ý định tốt thôi: anh ta kể lại cho người bên cạnh, người này không biết tièng Avar, nội dung của bài Makhơmút đang hát.
Nhưng tai họa là ở chỗ việc làm của anh ta đã cản trở mọi người nghe và thưởng thức bài hát.
Người bố tương lai của tôi lúc ấy rất lấy làm bực bội với cử chỉ của anh chàng nọ. Ông giật giật ống tay áo người kia, nhưng không ăn thua gì; ông nói nhỏ vào tai nhắc người kia im đi, nhưng anh ta không thèm để ý. Bố tôi bối rối nhìn quanh và bắt gặp người bán chổi lông lúc nãy cũng đến nghe. Bố tôi chạy lại, cầm lấy cái chổi lông to nhất và bắt đấu quất tới tấp vào anh chàng phá rối kia.
Anh chàng này lùi lại đe dọa bố tôi, nhưng bố tôi giận dữ đến mức không nghe thấy lời đe dọa và cuối cùng đã đuổi anh ta đi. Sau đó bố tôi quay lại phía người bán chổi lông để trả lại hàng.
- Anh cứ giữ lấy mà dùng.
- Nhưng tôi chỉ có 20 kôpếch mà ông đòi những 40 kôpếch cơ mà?
- Tôi biếu anh đấy. Hành động vừa rồi của anh còn đáng giá hơn tất cả gánh hàng của tôi.
Trên thế gian này, những kẻ phá rối bài ca như vậy có rất nhiều. Tiếc rằng ít khi tìm được chổi phất trần và tìm được người biết sử dụng cây chổi phất trần ấy.
Ở miền núi người ta thường nói về một chữ dùng hay, chính xác, sắc sảo là: “Chữ ấy đáng giá một con ngựa thắng yên rồi”.
Rút trong sổ tay. Anh hàng xóm ở Makhátkala của tôi, Ali Aliép, là một đô vật tuyệt vời, bốn lần vô địch thế giới. Có lần ở Xtambun, anh phải đọ sức với đô vật mạnh nhất của Thổ Nhĩ Kỳ. Đô vật Thổ Nhĩ Kỳ quả thật là rất khỏe và nhanh nhẹn. Nhưng anh bạn hàng xóm của tôi, Ali Aliép, là một đô vật dũng cảm, bình tĩnh, anh đã quật ngã đối thủ nằm sóng soài trên
https://thuviensach.vn
thảm. Khi đứng dậy, đô vật người Thổ buột miệng văng ra một câu chửi. Ali Aliép rất ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng Avar. Đô vật người Thổ kia còn ngạc nhiên hơn khi thấy kẻ chiến thắng cũng nói với anh ta bằng tiếng Avar: “Việc gì phải chửi thế anh bạn, thể thao là thể thao chứ!”
Trọng tài và khán giả lại còn ngạc nhiên hơn cả họ, khi thấy hai đối thủ bỗng dưng ôm chẩm lấy nhau, giống như hai anh em sau bao năm trời biệt tăm mới gặp lại nhau.
Hóa ra đô vật người Thố kia xuất thân từ một gia đình Avar, gia đình này đã rời sang Thổ Nhĩ Kỳ sau khi Samin bị bắt. Đến giờ hai đô vật ấy khi gặp nhau vẫn coi nhau như bạn bè.
Hổi ức của bố tôi. Năm 1939, bố tôi đi Matxcơva để nhận huân chương. Thời bây giờ đó là một sự kiện lớn. Khi ông trở về làng với tấm huân chương trên ngực, cả làng họp lại yêu cầu ông kể chuyện Matxcơva, chuyện Kremli, kể lại chuyện Mikhain Ivanôvích Kalinin, người đã trao huân chương cho tất cả, kể lại ấn tượng lớn nhất của ông.
Bố tôi tuần tự kể lại mọi chuyện rồi nói:
- Điều tôi nhớ nhất là Mikhain Ivanôvích đã đọc tên tôi theo tiếng Avar chứ không theo tiếng Nga. Ông gọi tôi là Xađax Khamxát, chứ không phải chỉ đơn giản là Gamzát Xađax.
Các ông già làng ngạc nhiên, gật gù tán thưởng.
- Bà con thấy chưa, - bố tôi nói, - khi bà con nghe tôi kể thôi mà bà con đã thấy thích, huống gì là tôi được nghe thế từ miệng Kalinin giữa điện Kremli. Nói thật với bà con là lúc ấy tôi mừng đến nỗi quên cả mừng được gắn huân chương.
Xúc động của người bố, với tôi rất dễ hiếu.
Cách đây mấy năm, trong đoàn đại biểu nhà văn Xô Viết, tôi sang thăm Ba Lan. Có lần ở Krakốp, tôi thấy tiếng ai gõ cửa buồng khách sạn của tôi. Tôi ra ở cửa. Một người lạ hỏi tôi hoàn toàn bằng giọng Avar:
- Gamzatin Raxun ở buồng này phải không?
https://thuviensach.vn
Tôi mừng rỡ đến bối rối:
- Cầu cho nhà của anh không bao giờ cháy, không bao giờ sụp! Sao một người Avar như anh lại lọt vào Krakôp?
Thiếu chút nữa thì tôi đã ôm chầm lấy vị khách, tôi kéo anh ấy vào buồng và nói chuyện đến hết ngày và suốt buổi tối.
Nhưng vị khách không phải là người Avar. Đó là một nhà học giả Balan, chuyên nghiên cứu ngôn ngữ và văn học các dân tộc ở Đaghextan. Ông được nghe tiếng Avar lần đầu qua hai tù nhân Avar ở một trại tập trung. Ông thấy thích thú tiếng đó và còn thích hơn nữa chính bản thân người Avar. Ông bắt đầu nghiên cứu ngôn ngữ chúng ta. Sau này một tù nhân Avar đã chết, còn người kia thì chịu đựng cảnh tù đày, được Hồng quân cứu thoát và sống đến tận bây giờ.
Chúng tôi nói chuyện với nhau hoàn toàn bằng tiếng Avar. Đối với tôi, việc đó thật lạ lùng, khó quên. Cuối cùng tôi đã mời nhà học giả sang thăm Đaghextan.
Vâng, hôm đó cả hai chúng tôi đã dùng tiếng Avar. Tuy vậy giữa cách nói của hai người vẫn có một sự khác biệt lớn. Ông nói như một nhà học giả cần phải nói, nói bằng một thứ tiếng rất thuần, rất đúng, nhưng lại đúng quá, đến mức trở nên bằng phẳng, đơn điệu. Khi nói, ông nghĩ nhiều hơn đến ngữ pháp chứ không phải đến mầu sắc của tiếng nói, nghĩ nhiều hơn đến sơ đồ, đến cấu trúc câu, chứ không phải là đến thịt da từng chữ một.
Tôi muốn viết một cuốn sách, trong đó không phải ngôn ngữ phụ thuộc vào ngữ pháp mà là ngữ pháp phụ thuộc vào ngôn ngữ.
Nói cách khác, tôi ví ngữ pháp với anh chàng đi bộ trên đường, còn văn học thì giống như một người cưỡi la. Anh chàng đi bộ xin đi nhờ, và người cưỡi la cho anh ta ngồi sau lưng. Dần dần anh chàng đi nhờ bạo dạn lên, anh ta lấn người kia ra khỏi đệm ngồi, đuổi người kia xuống và gào to: “Con la này của tao, tất cả đồ đạc buộc bên yên cũng là của tao!”
https://thuviensach.vn
Hỡi tiếng Avar thân yêu của tôi! Người là tài sản của tôi, là kho báu của tôi trong những ngày hoạn nạn, là vị thuốc thần trị trăm ngàn bệnh. Nếu một người sinh ra với trái tim của một ca sĩ, nhưng mồm lại bị câm thì có lẽ tốt hơn hết là anh ta đừng sinh ra. Nơi trái tim tôi có nhiều bài ca và tôi lại có giọng nói. Giọng nói đó chính là Người, tiếng Avar thân yêu của tôi. Người đã nắm tay tôi, như nắm tay một đứa trẻ mà dắt tôi đi từ làng nhỏ ra thế giới rộng lớn để đến với moi người, để tôi được kể cho họ nghe về miền đất quê hương tôi. Người đã dẫn tôi đến với tiếng Nga vĩ đại. Thứ tiếng ấy cũng trở thành thân thiết với tôi, nó đã cầm nốt tay kia của tôi mà dẫn đến nhiều nước trên trái đất, và tôi mang ơn tiếng Nga như mang ơn người đàn bà làng Arađêrích đã lấy bầu sữa của mình nuôi sống tôi. Nhưng mặc dầu vậy tôi vẫn luôn ghi nhớ rằng một người đàn bà khác đã sinh tôi ra.
Bởi vì, có thể sang hàng xóm xin diêm để về nhóm lửa trong bếp lò của mình. Nhưng không thể đi gặp bạn để xin những que diêm có thể nhen lên ngọn lửa trong tim.
Tiếng nói mọi người có thể khác nhau nhưng trái tim thì giống nhau. Tôi biết có những người bạn tôi rời bỏ làng quê đến sinh sống ở những thành phố lớn. Chuyện đó không phải là tai họa. Chim non chỉ ngôi yên trong tổ chừng nào chưa mọc đủ lông cánh. Nhưng nên nghĩ thế nào về một vài người bạn tôi khi sống ở các thành phố lớn bây giờ lại viết bằng một thứ tiếng khác? Tất nhiên đó là chuyện của họ và tôi không hề có ý định khuyên bảo họ điều gì. Nhưng dù sao họ vẫn giống như những người định dùng một tay mà cầm hai quả dưa hấu.
Tôi nói chuyện với những người bất hạnh ấy và thấy rằng ngôn ngữ mà họ dùng để viết bây giờ không phải là tiếng Avar nhưng cũng chưa phải là tiếng Nga. Thứ tiếng họ dùng gợi cho tôi nhớ đến một cánh rừng mà người ta đã chặt cây bừa bãi.
Tôi đã thấy những người đó, đối với họ, tiếng mẹ đẻ quá nghèo nàn, eo hẹp và họ phải đi tìm một tiếng khác giầu hơn. Nhưng kết quả lại giống như con dê trong truyện ngụ ngôn Avar. Con dê đi vào rừng để kiếm cho mình
https://thuviensach.vn
một cái đuôi sói, nhưng đuôi thì không kiếm được mà lại mất luôn cả cặp sừng.
Hay là, họ giống như những con ngỗng nuôi trong nhà, biết bơi biết lặn nhưng không thể như cá, biết bay một chút nhưng không thể như chim, biết cất tiếng hát nhưng không thể như họa mi. Không việc gì biết làm đến nơi đến chốn.
- Công việc thế nào? - có lần tôi hỏi Abutalíp.
- Thường thường vậy thôi. Không giống như sói mà cũng không giống như thỏ. Lừng chừng ở giữa. - Abutalíp im lặng rồi nói thêm: - Tâm trạng dở nhất ở một nhà văn là cảm giác lưng chừng. Anh ta phải cảm thấy mình hoặc là sói đã ăn thỏ, hoặc là thỏ đã chạy thoát khỏi sói.
Rút trong sổ tay. Có lần, đám thanh niên làng tôi kéo đến nhà bố tôi và kể lại rằng họ đã đánh một ca sĩ.
- Sao các cậu lại đánh anh ta? - bố tôi hỏi.
- Hắn hát sai lung tung bác ạ, - khi thi cố tình ho, xuyên tạc lời hát, khi thi kêu ré lên, khi lại sủa gâu gâu như chó. Hắn làm hỏng cả bài hát, thế là chúng cháu đánh hắn.
- Các cậu lấy cái gì đánh nó?
- Người lấy thắt lưng, người lấy nắm tay.
- Lẽ ra nên dùng cả roi ngựa nữa. Nhưng tôi muốn hỏi là các cậu đánh vào chỗ nào của nó?
- Chúng cháu đánh nhiều vào phần mềm thôi. Tất nhiên cũng có lần đánh vào cổ hắn ta.
- Nhưng mà chính đầu nó mới có tội kia mà!
Hổi ức. Sao lại không kể tiếp ra đây một chuyện nữa, nếu nó đã được nhớ lại? Ở Makhátkala có một ca sĩ người Avar... Tôi không muốn nói tên anh ta: anh ta thế nào cũng tự đoán ra, còn đối với chúng ta thì cái tên đó là thế nào cũng chẳng có gì hệ trọng, phải không? Nhiều lần chàng ca sĩ đó đến
https://thuviensach.vn
gặp bố tôi, yêu cầu ông viết lời cho những bài hát của anh ta. Bố tôi nhận lời và thế là những bài hát mới ra đời.
Có lần chúng tôi đang ngồi uống nước chè thì trên rađiô nói rằng một ca sĩ nối tiếng sẽ trình diễn một bài hát theo lời của Gamzát Xađax. Tất cả chúng tôi đều lắng nghe, cả bố tôi cũng vậy. Nhưng càng nghe chúng tôi càng kinh ngạc. Ca sĩ hát thế nào mà chúng tôi không sao nghe rõ được lời. Chỉ nghe rõ những tiếng rống lên, ca sĩ nuốt hết lời như con gà trống mới đầu thì ăn vội ăn vàng làm tung tóe thóc ra chung quanh, sau đó thì nhặt từng hạt một.
Khi gặp ca sĩ, bố tôi hỏi anh ta rằng sao anh ta lại xử tệ với lời hát của bố tôi.
- Tôi cố tình làm thế đấy, - ca sĩ trả lời, - để những người khác không hiểu gì, không nhớ gì. Nếu các ca sĩ khác nhớ được bài hát, thì họ sẽ hát mà tôi thì muốn hát bài đó một mình.
Ít lâu sau, bố tôi mời một số bạn bè đến nhà chơi, trong số đó có cả anh ca sĩ nọ. Cuối buổi gặp gỡ, bố tôi lấy từ trên tường xuống cây đàn kumuz hỏng dây và gảy tưng tưng vào chiếc dây đàn duy nhất còn lại cũng đã bị chùng mà nghêu ngao hát một bài do ca sĩ nọ sáng tác phẩn nhạc. Lời bố tôi hát rất rõ, nhưng điệu nhạc phát ra từ cây đàn hỏng dây kia thì nghe không còn ra thế nào nữa. Ca sĩ nổi cáu nói rằng bài hát của anh ta không thể biểu diễn bằng cây đàn hỏng ấy và cây đàn ấy không thể truyền lại được vẻ đẹp của âm điệu bài hát của anh ta. Bố tôi bình thản đáp:
- Tôi cố tình hát và đánh đàn thế đây, để cho không ai rõ nhạc của anh. Nếu bài ca không ai rõ lời có thể nghe được thì tại sao bài hát không ai rõ điệu nhạc lại không nghe được?
Người Đaghextan viết văn làm thơ bằng mười thứ tiếng khác nhau, nhưng chỉ được xuất bản bằng chín thứ tiếng. Nếu vậy thì những ai viết bằng tiếng thứ mười làm thế nào? Tiếng đó là tiếng gì?
Viết bằng tiếng thứ mười là những người đã quên mất tiếng mẹ đẻ - dù đó là tiếng Avar, tiếng Lắc hay tiếng Tát, nhưng cũng chưa kịp biết tiếng khác
https://thuviensach.vn
đến nơi đến chốn. Họ ở lưng chừng.
Hãy viết bằng thứ tiếng xa lạ nếu anh biết nó rõ hơn tiếng mẹ đẻ. Hoặc là hãy viết bằng tiếng mẹ đẻ nếu không biết một thứ tiếng nào khác. Chi có đừng viết bằng tiếng thứ mười.
Phải rồi, tôi là kẻ thù của tiếng thứ mười. Ngôn ngữ cần phải có chiều sâu hàng nghìn năm cổ kính, chỉ như vậy nó mới có thể dùng được.
Tất nhiên ngôn ngừ luôn thay đổi, tôi không chõng lại điều đỏ. Nhưng chẳng phải lá cây hàng năm vẫn rơi đấy sao, lá cây rơi khi đã úa vàng và những lá khác lại mọc lên thay thề. Chỉ có cây là còn lại. Mỗi năm nó lại thêm um tùm hơn, cao lớn hơn, rắn chắc hơn, Cuối cùng nó sẽ khai hoa, kết quá.
Tôi đem tới cho các bạn những bài ca, những cuốn sách của tôi như đem tới những chùm quả chín trên cái cây tuy nhỏ bé nhưng lâu đời của tiếng Avar.
TIẾNG MẸ ĐẺ
Thật vô lý lạ lùng, tất cả ở trong mơ:
Tôi chiêm bao thấy mình đã chết
Trong thung lũng Đaghextan, giữa ban trưa nóng bức
Tôi nằm yên. Ngực xuyên vết đạn chì.
Sông réo trôi, không một chướng ngại gì
Còn tôi bị lãng quên, không ai cần đến nữa
Tôi nằm duỗi trên quê hương xứ sở
Trước lúc hòa chung vảo đất mà thôi.
Không ai biết hôm nay tôi chết
Không ai phút này có mặt bên tôi
Chỉ cao tít là tiếng bầy chim ó
https://thuviensach.vn
Con nai kêu từ đâu đó xa xôi.
Sẽ không một ai khóc trước mồ tôi
Thương tôi mất lúc đang còn tuổi trẻ
Khỏng bè bạn, không người yêu, không cả hình bóng mẹ Cho đến một người khóc mướn cũng không!
Tôi cứ thế thiếp dần trong bất lực
Thì đột nhiên, nghe thấy, cũng không xa
Tiếng hai người vừa đi vừa trò chuyện
Bằng tiếng mẹ yêu thương - thứ ngôn ngữ Avar
Trong thung lũng Đaahextan, giữa ban trưa nóng bức. Tôi chết giữa bao chuyện gần kề.
Chuyện nói đến chàng Gaxan ranh mãnh,
Chuyện kể về hành động của Ali.
Mơ hố thâm từng âm thanh tiếng mẹ
Tôi bỗng tỉnh ra. Tới giây phút lạ lùng
Tôi chợt hiểu, người chữa tôi khòi bệnh
Chẳng thể là ai, ngoài tiếng mẹ thân thương.
Những tiếng khác dành cho dân tộc khác
Cũng sẽ khiến cho lành bệnh bao người!
Tôi chỉ biết nếu tiếng tôi biến mất
Thì tôi sẵn sàng nhắm mắt, buông xuôi.
Tôi luôn mê say với cả tâm hồn
Dù ai bảo tiếng tôi nghèo đến mấy!
https://thuviensach.vn
Thứ tiếng không được dùng giữa diễn đàn trọng đại.
Vẫn thân thuộc cùng tôi, trọng đại với hồn tôi.
Thế hệ tiếp sau tôi, để hiểu Makhơmút
Chẳng lẽ lại cần bản dịch hay sao?
Và chẳng lẽ tôi là nhà văn sau chót
Được viết, được ca, bằng tiếng mẹ tự hào?
Tôi yêu cuộc đời, yêu hành tinh tôi ở
Yêu đến từng góc nhỏ khắp gần xa...
Mà trên hết là quê hương Xô Viết
Tôi muốn ngợi ca bằng chính tiếng Avar.
Cả đất nước tự do đang nở rộ
Từ Bantích đến Xakhalin - tôi thân quí vô vàn
Tôi có thể hy sinh vì nơi nào cũng vậy
Nhưng hãy chôn tôi vào lòng đất Đaghextan.
Có thể ngay đầu làng, đã gần kề mộ chí,
Để những người Avar, bằng tiếng mẹ Avar,
Thỉnh thoảng nhắc: Raxun, chàng đồng hương thuở trước Họ nhà Gamzát đây, người gốc ở Xađa.
Rút trong sổ tay. Bố mẹ một chàng trai Avar không đồng ý cho con mình lấy một cô gái Nga. Nhưng chắc là cô gái rất yêu chàng trai Avar. Có lần anh nhận được thư cô gái viết bằng tiếng Avar. Chàng trai liền đưa ngay thư cho bố mẹ xem. Cả hai người đều xúc động ghê gớm; tay vẫn cầm lá thư khác thường ấy, bố mẹ đã cho phép anh ta được đem cô gái về nhà.
https://thuviensach.vn
Rút trong sổ tay. Ngôn ngữ đối với nhà văn khác nào mùa màng ngoài đồng với nông dân. Một bông lúa có nhiều hạt, mà bao nhiêu bông lúa không đếm xuể. Nhưng nếu người nông dân khoanh tay ngồi nhìn cánh đồng lúa của mình thì cuối cùng anh ta không thể lấy được một hạt lúa nào. Lúa cần phải gặt và sau đó phải đập. Tuy nhiên đập rồi cũng chỉ mới làm xong một nửa công việc. Còn phải quạt sạch, sàng sẩy loại bỏ hạt cỏ dại lẫn vào. Sau đó phải xay thành bột, nhào nặn nó rồi mới cho vào lò nướng. Nhưng điều chủ yếu cần nhớ nhất có lẽ là, dù cần phải làm bánh nhiều đến đâu cũng không thể sử dụng hết các hạt đem về. Những hạt mẩy chắc nhất người nông dân để dành lại làm giống.
Người viết văn suy nghĩ cách sử dụng ngôn ngữ đúng nhất là nên so với người nông dân.
Người ta nói: Trẻ con chặt cây nào có chim ác - là làm tổ, và phá tổ của nó đi.
- Này cây, sao người ta chặt mi đi?
- Vỉ tôi không thể nói gì với bọn trẻ.
- Này chim ác - là, vì sao người ta phá tổ của mày?
- Vì tôi kêu nhiều quả.
Người ta nói: Lời nói là cơn mưa: mưa lần đầu là điều may mắn lớn, mưa lần hai cũng tốt, mưa lần ba còn chịu được, mưa lần bốn là tai họa.
https://thuviensach.vn
ĐỀ TÀI
Đừng phá cửa - có thể mở nó nhẹ nhàng bằng chìa khóa.
Lời ghi trên cánh cửa
Đừng nói: “Trao cho tôi đề tài”
Hãy nói: “Trao cho tôi đôi mắt”.
Lời khuyên đối với các nhà văn trẻ.
“Các đồng chí thân mến, tôi có nguyện vọng lớn muốn viết. Nhưng không biết viết gì. Hãy gợi ý cho tôi một đề tài kịp thời, tôi sẽ viết được một cuốn rất hay”.
Không hiếm khi gặp những lời yêu cầu như vậy của những bạn trẻ được trình bày trong các bức thư gửi đến Hội nhà văn, đến tòa soạn các báo, các tạp chí và đến riêng các nhà văn. Tôi cũng từng nhận được những bức thư tương tự. Bố tôi cũng từng nhận được thư như thế. Nhận được thư kiểu đó, có lần bố tôi lắc đầu nói:
- Chàng trai trẻ muốn lấy vợ, nhưng thật bất hạnh vì anh ta không biết lấy ai. Không có cô gái nào thật đáng chú ý, không biết nhờ người mối lái đến gặp ai.
Hồi ức. Có lần Hội nhà văn Đaghextan nhận được thư của Abutalíp. Nhà thơ đề nghị cho đi thực tế sáng tác một tháng ở những làng xa trên núi cao. Tại hội nghị Ban Chấp hành người ta hỏi Abutalíp rằng ông muốn viết gì, về đề tài gì. Nhà thơ già nổi giận:
- Chẳng lẽ người thợ săn biết trước là anh sẽ gặp con thú gì ư – gặp thỏ, ngỗng trời, chó sói hay là cáo? Chăng lẽ người chiến sĩ biết trước rằng trong trận chiến đấu anh ta sẽ lập được chiến công gì sao?
Tôi có dự cuộc họp đó. Lời nói của Abutalíp đã ghi sâu vào lòng tôi.
Tôi rất kinh ngạc khi thấy có những người luôn quầy nhiễu nhà văn bằng cách bắt họ phải trình bày rõ kế hoạch sáng tác trong vài năm tới. Tất nhiên
https://thuviensach.vn
là nhà văn phải có hướng sáng tác trong đầu. Có thể đặt kế hoạch trước cho việc viết tiểu thuyết bộ ba, bộ tư, nhưng còn thơ... Thơ đến bất ngờ như tặng vật. Công việc bếp núc của nhà thơ không thể chịu theo kế hoạch gò bó được. Không thể đặt trước cho mình kế hoạch đại loại: hôm nay vào lúc 10 giờ sáng tôi sẽ yêu cô gái gặp ngoài đường, hay là 5 giờ chiều mai tôi sẽ căm thù một tên vô lại nào đó.
Thơ không phải là hoa trong chậu cảnh - ở đó tất cả đều hiện ra trước mắt anh, anh không cần phải tìm đâu thêm - thơ giống như hoa trên đồng nội, trên rặng núi Anpơ, nơi mỗi bước đi lại hứa hẹn thêm một bông hoa mới, diệu kỳ hơn.
Cảm xúc sinh ra âm nhạc, âm nhạc lại sinh ra cảm xúc. Vậy thì đặt cái nào lên trước? Cho đến giờ vẫn chưa giải quyết được vấn đề cái nào là đầu tiên, quả trứng hay là gà mái. Cũng hệt như vậy: nhà văn đẻ ra đề tài hay đề tài đẻ ra nhà văn? Đề tài là cả thế giới của nhà văn, đó là tất cả nhà văn. Không có đề tài thì không có nhà văn. Mỗi nhà văn đều có riêng đề tài của mình.
Ý nghĩ và cảm xúc lả những cánh chim, đề tài là khoảng không; ý nghĩ và cảm xúc là những con hươu, đề tài là cánh rừng; ý nghĩ và cảm xúc là những con sơn dương mà đề tài là núi; ý nghĩ và cảm xúc là những con đường và đề tài là thành phố mà những con đường sẽ dẫn đến và gặp nhau.
Đề tài của tôi là quê hương. Tôi không cần phải tìm đề tài, phải chọn lựa. Chúng ta không lựa chọn cho mình quê hương, nhưng quê hương thì ngay từ đầu đã chọn lựa chúng ta. Không thể có chim ưng mà không có bầu trời, không thể có dê rừng mà không có vách đá, không thể có cá hồi mà không có dòng sông trong chảy xiết, không thể có máy bay mà không có sân bay. Cũng vậy, không thể có nhà văn mà không có quê hương,
Chim ưng uể oải đi bên đàn gà trong sân, - không còn là chim ưng nữa. Dê rừng đi trong đàn súc vật của nông trường, - không còn là dê rừng. Cả hồi bơi trong bể kính, - không còn là cá hồi nữa. Máy bay đặt trong viện bảo tàng, - không còn là máy bay nữa.
https://thuviensach.vn
Cũng hệt như vậy, không thể là chim họa mi nếu không biết hót những bài ca họa mi.
Nói thêm về đề tài, từ thuở nhỏ, phong cảnh quê hương đã in sâu vào lòng tôi. Chỉ cần mở cánh cửa sổ nhỏ ngôi nhà của bố tôi là đã có thể thấy một thảo nguyên xanh bát ngát như tấm thảm trải rộng ra từ ven làng. Chung quanh thảo nguyên là những vách đá. Những con đường mòn nhỏ chạy ngoằn ngoèo qua những vách đá trông như những con rắn dài, còn những lối vào hang trông như miệng thú há ra. Sau rặng núi này là một rặng núi khác nhô lên. Các quả núi trông tròn tròn, đen đen như có lông bao phủ, như lưng con lạc đà.
Bây giờ thì tôi đã biết là ở Thụy Sỹ hay ở Naplơ còn có những nơi đẹp hơn, nhưng dù cho tôi đã đến tận đâu, dù đôi mắt tôi có nhìn thấy những cảnh đẹp đến thế nào trên trái đất, tôi vẫn thầm so sánh những gì đã thấy với bức tranh xa xôi của tuổi thơ tôi, bức tranh hiện ra qua khung cửa nhỏ ngôi nhà của bố, và trước bức tranh ấy mọi cảnh đẹp của thế giới đều trở nên mờ nhạt. Nếu vì lý do nào đó mà tôi không có làng quê và những vùng xung quanh ấy, nếu những cảnh vật đó không sống trong lòng tôi thì cả thế giới với tôi sẽ là một bộ ngực không tim, một cái miệng không lưỡi, một đôi mắt không có con ngươi, một tổ chim không có chim.
Điều này hoàn toàn không có nghĩa tôi giam hãm đề tài của tôi trong những giới hạn chật hẹp của ngôi nhà và làng quê tôi, điều này không có nghĩa tôi đã dựng lên một bức tường kiên cố chung quanh đề tài thân thiết của tôi.
Có những cánh đồng sau khi cày lật lớp đất dày ở trên thì lộ ra ở dưới một lớp đất mềm. Có những cánh đồng sau khi cày lật lớp đất mỏng ở trên thì lộ ra toàn sỏi đá. Có những cánh đồng chưa cần cày xới gì cả đã trông thấy lổn nhổn sỏi đá. Tôi không có ý định cày bừa gì ở thửa đất như thế vì tôi biết rằng không thể thu hoạch được gì kha khá ở đó cả.
Tôi không muốn trói buộc tình yêu quê hương của tôi như trói buộc con ngựa đã một thời tung hoành ngang dọc và bây giờ phải chậm chạp gặm cỏ
https://thuviensach.vn