🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuốn Theo Chiều Gió - Margaret Mitchell Ebooks Nhóm Zalo Cuốn theo chiều gió Margaret Mitchell Dịch giả: Dương Tường Giới thiệu: Trần Hoàng Nhà xuất bản Văn học Hà Nội Năm xuất bản: 1988 LỜI GIỚI THIỆU Vào năm thứ ba mươi sáu của thế kỷ XX, một sự kiện được ghi lại trong lịch sử văn học hiện đại nước Mỹ. Đó là sự ra đời của một tác phẩm văn học chẳng những mau chóng thu phục được tấm lòng người dân Mỹ mà còn cả trái tim của hàng triệu người trên khắp các lục địa. Tác phẩm ấy mang tên Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind). Chỉ ba tuần sau khi được xuất bản Cuốn theo chiều gió đã thu hút ngay sự chú ý của hơn mười bảy vạn độc giả. Và liền năm sau, 1937, nó được tặng giải thưởng Pulitzer, một giải thưởng được nhiều nhà văn ao ước. Đến tháng 12 năm 1938 hơn một triệu bảy bản đã được ấn hành tại nước Mỹ. Sau đó đúng một năm khi bộ phim dựa theo cuốn tiểu thuyết này lần đầu tiên ra mắt khán giả Mỹ, hơn hai triệu bản Cuốn theo chiều gió đã được in và dịch ra mười sáu thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tính đến năm 1962 thì lên tới hơn mười triệu bản và cuốn sách được dịch ra hơn ba chục thứ tiếng và đã được chuyển thể thành sách cho người mù đọc. Cuốn theo chiều gió là cuốn tiểu thuyết duy nhất của nữ tác giả Margaret Mitchell. Bà sinh năm 1900 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ) và cũng qua đời tại thành phố này ngày 16 tháng 8 năm 1949. Cha bà là một luật gia nổi tiếng, chủ tịch Hội nghiên cứu lịch sử Atlanta. Mẹ và anh Margarett Mitchell cũng rất thích lịch sử. Sống trong một bầu không khí như thế, cô bé Margaret ham say nghe những chuyện kể về cuộc Chiến tranh Ly khai Nam Bắc. Sau khi tốt nghiệp trung học tại Atlanta, Margaret theo học y khoa tại trường Đại học Smith. Nhưng cái chết đột ngột của mẹ đã thay đổi hoàn toàn hướng đi của Margaret. Cô trở về quê hương sống với cha và anh. Sau đó cô bắt đầu nghề báo dưới bút danh Peggy Mitchell. Nhưng một tai nạn đã làm Margarett giập mắt cá và buộc phải bỏ nghề làm báo. Năm trước, 1925, cô đã kết hôn với John R. March, giám đốc phụ trách quảng cáo cho Công ty Điện lực Georgia. Trước đó nhiều lần Margaret Mitchell đã thử viết tiểu thuyết và một số truyện ngắn. Nhưng lần nào bản thảo cũng bị trả lại với một lời xin lỗi và nhận xét gần như muôn thuở: “Sách của bà khá lý thú, nhưng tiếc rằng đăng vào lúc này không thích hợp”. Nhưng Margaret Mitchell không hề nản chí mà vẫn kiên trì sáng tác. Cũng vào năm 1936 bà bắt tay thật sự vào cuốn tiểu thuyết lịch sử vĩ đại Cuốn theo chiều gió. Bà đã viết trong mười năm ròng trong một tâm trạng gần như bệnh hoạn. Cung cách làm việc của Margaret Mitchell khá là độc đáo. Chẳng hạn bà đã viết kết luận trước khi triển khai cốt truyện. Bà thu thập các tình tiết, góp nhặt những tư liệu mới, phát triển tính cách các nhân vật của mình, thậm chí sống cuộc sống của họ. Người ta kể lại rằng, một đêm Margaret ngồi cặm cụi viết trong căn phòng nhỏ của mình. Bỗng nhiên người nhà nghe thấy tiếng nức nở của bà. Người ta gõ cửa phòng nhưng Margaret nhất định không chịu mở cửa. Sáng hôm sau, đầu tóc rối bù, mắt thâm quầng vì qua một đêm không ngủ, Margaret Mitchell thét lên: “Melanie đã chết rồi!” Lời nói đó thốt ra từ trái tim nặng trĩu của tác giả khóc than cho số phận một nhân vật mà bà vô cùng yêu mến. Nỗi đau khổ tột cùng này gợi cho ta nhớ lại tâm trạng của L.Tolstoy hay của G.Flaubert trước cái chết thảm thương của Anna Karenina và của bà Bovary. Năm 1935, H. S. Latham, phó giám đốc nhà xuất bản MacMillian, một nhà xuất bản lớn của nước Mỹ, đến Atlanta. Ông đã xem qua công trình đồ sộ nhưng còn dị dạng kia. Ông ấn định một thời hạn và vào mùa xuân năm 1936 cuốn tiểu thuyết ra đời. Nó đã thu được một thắng lợi vang lừng. Có những ngày năm vạn cuốn bán hết tại nước Mỹ. Vinh quang rực rỡ đó không hề thay đổi bản chất của Margaret Mitchell. Bà vẫn tiếp tục tự do sống trong ngôi nhà nhỏ tại Atlanta, tiếp tục một cuộc sống vô cùng giản dị. Thư từ và hàng vạn điện tín của độc giả tới tấp gửi đến ca ngợi bà. Ngày ngày Margaret Mitchell đã ngồi trong phòng kiên nhẫn và hòa nhã trả lời thư tín của các độc giả ngưỡng mộ bà. Tuy nhiên bà đã buộc phải ra mắt công chúng nhân dịp cuốn phim cùng tên Cuốn theo chiều gió được chiếu lần đầu, vì có nhiều kẻ gian dối đã mạo danh bà làm những điều xằng bậy. Năm bốn mươi chín tuổi, trong khi cùng chồng đi qua một đường phố ở Atlanta, bà bị một chiếc xe tải đâm phải. Năm ngày sau bà qua đời giữa muôn vàn thương tiếc của người thân và bạn đọc. Người phụ nữ nhỏ bé, duyên dáng và khiêm nhường có đôi mắt màu xanh xinh đẹp đó đã từng nói: “Tôi chỉ tìm thấy mình trong công việc và tác phẩm mà thôi; còn cái riêng tôi thì chẳng là gì cả.” Các nhà phê bình văn học đã viết rất nhiều về Cuốn theo chiều gió. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về tác phẩm văn học này. Nhưng có một điều không thể chối cãi được là vào bất kì thời nào nó cũng được các bạn đọc trẻ tuổi ham thích. Câu chuyện được đặt trong bối cảnh lịch sử của cuộc Chiến tranh Nam Bắc phân tranh giữa một bên là Miền Bắc công nghiệp, đại diện cho lực lượng tiến bộ chủ trương thủ tiêu chế độ nông nô, và một bên là Miền Nam - đại diện cho lực lượng bảo thủ phản động ngoan cố duy trì chế độ nô lệ da đen. Nhân vật chủ yếu của cuốn tiểu thuyết hơn một nghìn trang là Scarlett O’Hara. Scarlett là một cô bé xinh đẹp, con gái một điền chủ giàu có. Được nuông chiều từ bé, Scarlett rất ngang bướng và ích kỷ, nhưng có nhiều nghị lực. Sau khi Atlanta thất thủ, Scarlett quay về ấp trại của mình và bắt tay xây dựng lại từ đầu. Nhờ có tính ngoan cường và cách suy nghi rất thực tế, Scarlett đã cứu cửa nhà khỏi sự tàn phá của quân lính tướng Sherman. Những khó khăn khủng khiếp do cuộc chiến tranh tàn khốc gây ra đã rèn luyện tính cách của Scarlett nên đến cuối chiến tranh nàng đã trở thành một con người hoàn toàn khác hẳn. Song song với Scarlett là một nhân vật rất điển hình: Rhett Butler, một con người hết sức thực dụng và mưu trí. Rhett Butler đã lợi dụng chiến tranh và phong tỏa để thực hiện nhiều vụ áp phe lớn mang lại cho y rất nhiều lợi nhuận. Scarlett và Rhett hợp nhau ở rất nhiều điểm, nhưng vì kiêu căng và ngộ nhận Scarlett đã cự tuyệt tình yêu, mãi đến cuối cùng sau khi đã chia tay với Rhett, nàng mới nhận thức sâu sắc rằng chính Rhett mới là người yêu lý tưởng của mình. Trong khi đó suốt bao nhiêu năm ròng nàng vẫn tưởng mình yêu Ashley Wilkes, chồng Melanie. ...Tuy là hai nhân vật thứ yếu, Melanie và Ashley đã để lại một ấn tượng khá sâu sắc trong lòng người đọc. Melanie gợi nhớ lại cho ta hình ảnh của Agnes dịu hiền trong David Copperfield của Dickens. Nhưng người con gái yếu đuối, đôn hậu kia trong giây phút quyết liệt cũng đã dám nổ súng vào kẻ thù để cứu bạn. Còn Ashley thì quả là một nhân vật đầy mâu thuẫn. Phải chăng đó là một kẻ hèn nhát, thiếu nghị lực và quyết đoán, một vai trò tẻ nhạt, tầm thường? Tuy nhiên khi đi sâu tìm hiểu tâm tư tình cảm của con người hào hoa phong nhã đó, ta sẽ thấy cảm thông với chàng thanh niên dũng cảm, hăm hở lên đường ra trận nhưng đã hoàn toàn vỡ mộng sau thảm hại ở Appomatto. Câu chuyện thực ra không có gì là phức tạp, rắc rối cả. Mọi tình tiết đều diễn ra rất logic, ít mang tính kịch cao. Nhưng xoay quanh những tình tiết không mấy li kì đó Margaret Mitchell đã khắc họa nên những nhân vật hết sức điển hình, tiêu biểu cho những cá tính và những quan niệm riêng biệt, độc đáo. Điều này cắt nghĩa tại sao Cuốn theo chiều gió được sự hưởng ứng mạnh mẽ và mau lẹ của độc giả trong và ngoài nước Mỹ. Dĩ nhiên ta không thể phủ nhận là bộ phim phát hành năm 1939 đã góp phần không nhỏ vào hành công to lớn và lâu dài của cuốn sách. Hơn năm mưới năm đã qua từ ngày Cuốn theo chiều gió xuất hiện trên văn đàn thế giới. Bao nhiêu cuộc chiến tranh đã xảy ra trên hành tinh chúng ta, phi nghĩa cũng như chính nghĩa. Bao nhiêu thế hệ độc giả đã say sưa đọc và xem Cuốn theo chiều gió. Những thế hệ tương lai sẽ tiếp tục say mê Cuốn theo chiều gió. Vì cuốn tiểu thuyết lớn của Margaret Mitchell đã khơi dậy trong lòng các thế hệ độc giả khác nhau tình yêu quê hương xứ sở, tình thương đồng đội. Nó đã tiếp thêm cho họ nghị lực và kiên nhẫn để vượt qua mọi đau thương gian khổ mà chiến tranh mang lại cho con người. Và quan trọng nhất là nó đã dựng được những nhân vật điển hình khó lòng quên được. Vì thế mặc dù Cuốn theo chiều gió còn nhiều thiếu sót về mặt quan điểm lịch sử và chính trị, mặc dù những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức đối với bọn ba K (KKK - Ku Klux Klan), chúng ta không thể phủ nhận cống hiến của Margaret Mitchell đối với kho tàng văn học thế giới. Mấy chục năm qua, ở Việt nam đã dịch và xuất bản hơn một lần Cuốn theo chiều gió. Với lần xuất bản này chúng tôi hi vọng đáp ứng lòng mong đợi của độc giả. TRẦN HOÀNG PHẦN MỘT CHƯƠNG I S carlett O’Hara không đẹp, nhưng điều đó, đàn ông đã say duyên cô như kiểu hai anh em sinh đôi nhà Tarleton, họa hoằn lắm mới nhận ra. Gương mặt cô pha trộn quá rõ những nét thanh tú của bà mẹ, một phu nhân quý tộc miền Duyên hải, gốc Pháp, với những nét nặng nề của ông bố da dẻ hồng hào người Ireland. Nhưng đó là một bộ mặt đầy sức hấp dẫn, nhọn cằm mà lại vuông hàm. Cặp mắt xanh nhạt hơi xếch, không một gợn màu hạt dẻ, rợp bóng rặng mi đen. Bên trên, cặp lông mày đen rậm xuyên một đường chéo bất ngờ trên làn da trắng như hoa mộc lan - thứ nước da mà phụ nữ phương Nam rất chuộng và chăm chút bảo vệ bằng đủ thứ: mũ, mạng, găng tay, chống lại ánh nắng chói chang miền Georgia. Vào cái buổi chiều huy hoàng tháng tư năm 1861 ấy, ngồi với Stuart và Brent Tarleton trong bóng mát hàng hiên của ấp Tara, đồn điền của cha cô, Scarlett tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ. Chiếc áo dài mới bằng muslin xanh in hoa xòe cả chục mét vải cuộn sóng trên những vòng căng váy và hoàn toàn ăn với đôi dép da bê thuộc màu xanh gót bẹt mà cha cô vừa mang từ Atlanta về làm quà cho con gái. Chiếc áo dài làm nổi bật một cách hoàn mỹ vòng eo bốn mươi ba phân - vòng eo nhỏ nhất trong cả ba hạt - và chiếc áo lót vừa khít khuôn lấy bộ ngực tròn đầy đối với độ tuổi mười sáu của cô. Nhưng tất cả vẻ bề ngoài, sự e lệ thể hiện ở những nếp váy xòe rộng, nét đoan trang của mớ tóc búi gọn và đôi tay nhỏ trắng muốt lặng lẽ chắp trong lòng, không che đậy nổi bản ngã thật sự của cô. Trên khuôn mặt cố hết sức làm ra vẻ thùy mị, đôi mắt màu lam ngỗ ngược, bướng bỉnh và đầy sức sống đối chọi rõ ràng với thái độ đứng đắn của cô. Cung cách của cô là do bên ngoài áp đặt - những lời răn bảo dịu dàng của bà mẹ và kỷ luật nghiêm khắc của Mammy[1] - còn cặp mắt mới thực là của cô. Hai bên cô, cặp anh em sinh đôi ngả người thoải mái trong ghế bành, nheo mắt dõi nhìn ánh nắng qua những chiếc cốc cao thành đầy nước bạc hà, cười cười nói nói, thẻo đảnh bát chéo đôi cẳng dài kỵ sĩ cuồn cuộn bắp thịt đi ủng cao đến tận đầu gối. Mười chín tuổi, cao khoảng một mét tám mươi lăm, mặt rám nắng, tóc hung sẫm, mắt vừa tươi vui, vừa ngạo mạn, mình vận áo vét xanh và quần cưỡi ngựa màu vàng sẫm, y hệt nhau, họ giống nhau như hai giọt nước. Bên ngoài, mặt trời chiều chênh chếch chiếu xuống sân, làm bật sáng rực rỡ hàng cây sơn thù du với những mảng dày đặc hoa trắng trên nền xanh mơn mởn. Ngựa của anh em Tarleton buộc ở lối đi, những con vật to lớn, lông hung đỏ như tóc của chủ chúng; và dưới chân chúng, đang gầm gừ lũ chó săn Opot gầy nhẳng, dễ kích động, chủ đi đâu cũng theo bám không rời. Tách ra một quãng cho phù hợp với cương vị quý tộc của mình, một chú khuyển Dalmatian mình đốm đen nằm ghếch mõm lên chân, kiên nhẫn chờ hai công tử về nhà ăn tối. Giữa hai anh em sinh đôi, bầy chó và cặp ngựa của họ, có một quan hệ thân thuộc sâu sắc hơn mối thân tình nảy sinh do thường xuyên gần gũi nhau. Tất cả đều khỏe mạnh, vô tư, mỡ màng, duyên dáng, dũng cảm, hai chàng trai cũng hăng như đôi ngựa họ cưỡi, hăng và nguy hiểm, song kỳ thực bên trong lại dịu dàng và ngoan ngoãn đối với ai biết lựa chiều khiển lái. Mặc dù sinh trưởng trong cảnh an nhàn của đồn điền, được săn sóc hầu hạ từ tấm bé, nhưng diện mạo của ba người ngồi chơi ở hàng hiên không hề có chút gì là ẽo ợt hoặc mềm yếu. Họ đều có cái vẻ mạnh mẽ và nhanh nhẹn của những người vùng quê suốt đời sống ngoài thiên nhiên thoáng đãng và rất ít bận bịu đầu óc với những điều tẻ ngắt trong sách. Cuộc sống ở Bắc Georgia, hạt Clayton hãy còn mới mẻ, và xét theo tiêu chuẩn của Augusta, Savannah và Charleston, thì có phần hơi thô lậu. Những người phương Nam trầm tĩnh ở những vùng xưa cũ hơn nhìn dân Georgia ở mạn trên với chút khinh thị, nhưng ở Bắc Georgia đây, có thiếu những điều tế nhị của học vấn cổ điển cũng chả có gì đáng xấu hổ, miễn sao người đàn ông tỏ ra giỏi giang, khéo léo trong những vấn đề quan trọng. Và khai thác bông tốt, cưỡi ngựa hay, bắn giỏi, khiêu vũ lẹ làng, tháp tùng các bà, các cô một cách thanh nhã và uống rượu với tư thế đàng hoàng của một người hào hoa phong nhã, đó chính là những vấn đề quan trọng. Về những tài lẻ đó, cặp anh em sinh đôi này thật là cự phách và họ cũng xuất chúng đến mức nổi tiếng là không thể học được bất cứ điều gì chứa đựng giữa những tấm bìa của các cuốn sách. Gia đình họ có nhiều tiền, nhiều ngựa, nhiều nô lệ hơn bất kì ai ở trong hạt, nhưng về khoản ngữ pháp thì hai cậu công tử lại nghèo hơn đa số những người Cracker[2] khố rách áo ôm ở vùng xung quanh. Chính vì lý do đó mà Stuart và Brent ngồi chơi tếu ở hàng hiên ấp Tara buổi chiều tháng Tư ấy. Họ vừa bị đuổi khỏi trường Đại học Georgia, trường đại học thứ tư đã trục xuất họ trong vòng hai năm trời, và hai người anh trai, Tom và Boyd, cũng cùng về nhà với họ, không chịu ở lại một học đường không hoan nghênh cặp anh em sinh đôi này. Stuart và Brent coi việc họ bị đuổi học gần đây nhất là một trò đùa thú vị. Scarlett, vốn từ dạo rời trường nữ học Phayetteville không lần nào tự nguyện mở đến một quyển sách, cũng thấy chuyện đó là hay hay như họ. - Tôi biết hai anh bất cần chuyện bị đuổi, cũng như cả anh Tom nữa, cô nói. Nhưng còn Boyd? Xem chừng anh ấy có vẻ quyết tâm học đến nơi đến chốn, thế mà hai anh đã kéo theo anh ấy bật khỏi các trường Đại học Virginia, Alabama, Nam Carolina và bây giờ lại đến Georgia nữa. Cứ cái đà này thì anh ấy sẽ chả bao giờ học xong được. - Ồ, anh ấy có thể đọc sách luật trong văn phòng quan tòa Parmalee, Brent nhơn nhơn đáp. Với lại, cái đó cũng chả hệ trọng gì lắm. Đằng nào bọn này cũng phải về nhà trước khi kết thúc niên học. - Tại sao? - Chiến tranh chứ còn sao nữa, cô bé ngốc nghếch! Chiến tranh sắp nổ ra bất kỳ ngày nào, cô tưởng có ai trong bọn chúng tôi sẽ ở lại trường trong khi chiến sự diễn ra chắc? - Các anh thừa biết là sẽ chẳng có cuộc chiến tranh nào hết, Scarlett bực bội nói. Toàn là chuyện phiếm. Này hai cha con Ashley Wilkes tuần trước vừa mới bảo ba tôi là các đại diện của ta ở Washington sẽ đi đến một... một... một thỏa thuận hòa hữu về Liên bang với ông Lincoln. Và dù sao đi nữa, bọn Yankee[3] cũng sợ chúng ta hết vía, chả dám đánh nhau đâu. Sẽ chẳng có cuộc chiến tranh nào hết, tôi nghe chuyện ấy phát ớn lên rồi. - Sẽ không có cuộc chiến tranh nào hết! Hai anh em sinh đôi bất bình kêu lên như thể bị mất cắp vậy. - Này cô bạn thân yêu ạ, tất nhiên là sẽ có chiến tranh, Stuart nói. Có thể là bọn Yankee sợ chúng ta, nhưng sau khi tướng Beauregard nã đại bác đánh bật chúng khỏi pháo đài Sumter ngày hôm kia một cách nhục nhã như thế, chúng sẽ phải đánh, kẻo mang tiếng hèn nhát trước toàn thế giới. Chà, Liên bang... Scarlett bĩu môi chán ngán và sốt ruột. - Các anh chỉ cần nói “chiến tranh” một lần nữa là tôi sẽ vào nhà đóng cửa lại tức thì. Trừ mấy từ “ly khai” ra, không từ nào trên đời làm tôi chán ngấy bằng mấy từ “chiến tranh”. Ba tôi sáng, trưa, chiều tối chỉ thấy nói toàn những chuyện chiến tranh, và các tôn ông đến thăm ba cũng hò hét về pháo đài Sumter, về cái quyền của bang, về Abe Lincoln cho đến khi tôi phát chán muốn hét toáng lên! Và các chàng thanh niên cũng toàn nói chuyện ấy - chiến tranh và Đội của họ. Năm nay không có cuộc vui chơi nào thú vị bởi vì cánh trai trẻ không nói chuyện gì khác. Tôi rất mừng thấy Georgia đợi đến sau Noel mới ly khai, nếu không, các cuộc vui chơi của chúng ta nhân dịp Noel cũng sẽ hỏng hết. Nếu các anh còn nói “chiến tranh” nữa tôi sẽ vào nhà đấy. Scarlett nói thật tình, vì cô không bao giờ đủ kiên nhẫn chịu đựng dài một cuộc trò chuyện trong đó cô không phải là đầu đề chính. Nhưng cô vừa nói, vừa cười nụ, cố ý làm lún sâu thêm lúm đồng tiền và hàng mi đen rậm chấp chới như cánh bướm. Đúng như chủ đích của cô, hai cậu công tử phải bả thích mê và vội vã xin lỗi đã làm cô khó chịu. Không vì cô thiếu quan tâm mà họ bớt quý mến cô. Thực tế, họ quý cô hơn. Chiến tranh là việc của đàn ông, đâu phải việc của đàn bà, cho nên họ xem thái độ ấy là bằng chứng hiển nhiên về nữ tính của cô. Sau khi lái họ khỏi cái đề tài chiến tranh chán ngắt, cô hào hứng quay trở lại tình cảnh trước mắt của họ. - Thế bác gái nói gì về việc hai anh lại bị đuổi học? Hai cậu có vẻ không thoải mái khi nhớ lại ứng xử của mẹ cách đây ba tháng, hồi họ từ trường Đại học Virginia trở về nhà. - À, Stuart nói, bà cụ chưa có dịp nói gì cả. Bọn tôi và anh Tom đi khỏi nhà từ sáng sớm hôm nay, trước khi bà cụ dậy, anh Tom thì đang ở nhà gia đình Phontaine, còn bọn tôi tới đây. - Bà cụ có nói gì khi các anh về đến nhà đêm hôm qua không? - Đêm qua, tụi tôi gặp may. Ngay trước khi tụi tôi về tới nhà, người ta mang đến con ngựa giống mới mà bà cụ đã mua ở Kentucky và cả nhà cứ là loạn cả lên. Cái đồ vũ phu to xác ấy - nó là một con ngựa cao lớn, Scarlett ạ, cô phải nói với ba cô sang xem ngay đi - nó đã cắn tên bồi ngựa một miếng ra trò trên đường đi về đây và giẫm cả lên hai tên nô lệ da đen của mẹ tôi ra đón tàu hỏa ở ga Jonesboro. Và ngay trước lúc tụi tôi về đến nhà, chỉ thiếu chút nữa thì nó đạp đổ chuồng, suýt giết chết con Strawberry, con ngựa nòi cũ của bà cụ. Khi bọn này đến nhà thì bà cụ đang ở ngoài chuồng ngựa với cả một hũ đường miếng, cố xoa dịu nó và phải công nhận là bà cụ làm việc đó rất thành công. Bọn lệ da đen sợ hết vía, đánh đu ở các rui kèo, tròn xoe mắt, nhưng bà cụ thì nói chuyện với con ngựa như nói với người và cho nó ăn ngay trong lòng bàn tay mình. Thật không có ai dỗ ngựa khéo như bà cụ. Và khi trông thấy bọn này, bà liền nói: “Trời đất, bốn ông tướng lại về nhà làm gì vậy? Chúng bay còn tệ hại hơn cả các họa ở Ai Cập[4]”. Thế rồi con ngựa lại hí và đá hậu, bà liền bảo: “Cút khỏi đây ngay! Chúng bay không thấy nó sợ à, tội nghiệp con vật to đùng? Sáng mai ta sẽ hỏi đến bốn đứa bay!”. Thế là bọn này đi ngủ và sáng nay tót đi trước khi bà cụ có thể tóm cổ và để Boyd lại đối phó với bà. - Liệu bác có đánh anh Boyd không? Scarlett, cũng như mọi người khác trong hạt, không sao quen được với cái cách bà Tarleton bé nhỏ đối xử thô bạo với những con trai đã lớn của mình, hễ gặp dịp xem chừng như chính đáng là quất roi ngựa lên lưng họ. Beatrice Tarleton là một người đàn bà bận rộn, ngoài việc cai quản một đồn điền bông rộng lớn, một trăm nô lệ da đen và tám người con, còn phải trông nom khu trại nuôi ngựa lớn nhất trong toàn bang nữa. Tính bà nóng và dễ điên tiết lên bởi những vụ bỏ học thường xuyên của bốn cậu con trai; và trong khi không cho phép ai được dùng roi đánh ngựa hoặc nô lệ, bà vẫn cảm thấy là thỉnh thoảng cho các cậu ấm một trận đòn cũng chẳng có hại gì. - Tất nhiên là bà cụ không đánh Boyd. Bà chả bao giờ đánh Boyd nhiều vì anh ấy là cả và hơn nữa lại là gà còi. Stuart nói, hãnh diện với chiều cao một mét tám mươi lăm của mình. Vì thế mà bọn này để anh ấy ở nhà để trình bày mọi sự với bà cụ. Lạy Chúa Toàn Năng, bà cụ phải thôi đánh bọn này đi chứ! Hai chúng tôi đã mười chín, Tom thì hai mươi mốt, thế mà bà cứ làm như bọn tôi mới lên sáu! - Liệu mai bác gái có cưỡi con ngựa mới sang dự bữa tiệc ngoài trời[5] của gia đình Wilkes không? - Bà cụ muốn thế đấy, nhưng ba tôi bảo nguy hiểm lắm. Với lại, dù thế nào đi nữa, mấy đứa con gái cũng chẳng để bà làm thế. Chúng bảo ít ra cũng có một lần chúng đưa bà đi dự tiệc bằng xe ngựa như một vị phu nhân. - Mong sao ngày mai trời đừng mưa, Scarlett nói. Một tuần nay ngày nào cũng mưa rồi, không có gì chán hơn một bữa tiệc ngoài trời phải chuyển vào trong nhà. - Ồ, ngày mai trời sẽ trong sáng và nóng như cữ tháng sáu, Stuart nói. Nhìn vầng mặt trời lặn kìa. Tôi chưa bao giờ thấy một ráng chiều đỏ hơn. Bao giờ cũng có thể đoán thời tiết bằng vào mặt trời lặn. Họ đưa mắt nhìn những cánh đồng bông mới cày vỡ của ông Gierald O’Hara trải dài tít tắp đến tận chân trời đỏ ối. Giờ đây, khi mặt trời đã lặn vào một vùng hỗn mang rực đỏ đằng sau dãy đồi bên kia con sông Flint, cái nóng ban ngày tháng tư dịu dần thành mát rượi, dễ chịu. Năm ấy, mùa xuân đến sớm với những cơn mưa rào ngắn ấm áp, với sắc hồng của hoa đào đột ngột nở rộ, với hoa sơn thù du rắc những đốm sao trắng lên bờ đầm tối sậm cùng những ngọn đồi xa. Các thửa ruộng đã cày gần xong và ánh tà dương rực rỡ như máu, càng tô đỏ thêm những luống đất sét đỏ miền Georgia mới xới lên. Chất đất ẩm, đói, vừa được cày đảo nằm chờ hạt bông gieo xuống, phô sắc hồng hồng trên chốc luống có lẫn cát, đỏ son, đỏ tía và nâu sẫm ở những quãng bóng râm phủ lên dọc hai thành rãnh. Ngôi nhà gạch quét vôi trắng của đồn điền tựa như một hòn đảo giữa vùng biển đỏ man dại, một vùng biển cuồn cuộn những đợt sóng cồn vồng lên, xoáy lộn, đột nhiên sững lại khi tóe ra thành từng chùm bọt hồng. Vì ở đây không có những luống dài thẳng tắp như thường thấy ở những cánh đồng đất sét vàng của vùng Trung Georgia bằng phẳng hoặc ở dải đất đen nục nạc của các đồn điền ven biển. Ở miền Bắc Georgia, những thửa ruộng lượn sóng dưới chân đồi được cày thành hàng triệu luống cong cong để ngăn chất đất màu mỡ khỏi trôi tuột xuống lòng sông. Đó là một vùng đất đỏ hoang sơ, mưa nhiều thì như màu máu, hạn hán thì như bụi gạch - vùng đất trồng bông tốt nhất thế giới. Đó là một miền dễ chịu với những ngôi nhà trắng, những cánh đồng cày thanh bình và những dòng sông màu vàng đục lờ đờ xuôi chảy, song lại là một miền đất của những tương phản, của ánh nắng chói chang nhất và bóng râm đậm đặc nhất. Những khoảng rừng thưa trong khu vực đồn điền và những cánh đồng bông trải dài hàng dặm mỉm cười với một mặt trời ấm áp, bình thản và tự mãn. Xung quanh sừng sững những cánh rừng già tối thẳm, ngay cả những buổi trưa nóng nực nhất cũng vẫn mát mẻ, những cánh rừng huyền bí có phần hơi hắc ám, ở đó những cây thông rì rào dường như kiên trì chờ đợi hàng thế kỷ và cất lời đe dọa trong những tiếng thở dài se sẽ: “Cẩn thận đấy! Cẩn thận đấy! Bọn ta đã từng thắng các người. Bọn ta có thể lại thu phục các người lần nữa.” Ngồi dưới mái hiên, ba người trẻ tuổi vẳng nghe tiếng vó nện, tiếng dây thắng lanh canh và tiếng cười the thé ẩu xịa của đám nô lệ da đen dắt la từ ngoài đồng trở về. Từ trong nhà bay ra giọng nói êm nhẹ của bà Ellen O’Hara Hara, mẹ của Scarlett, gọi con bé da đen mang chiếc làn đựng chìa khóa của bà. Một giọng trẻ con lanh lảnh đáp: “Thưa bà, vâng”, và có tiếng chân ra cửa sau đi về phía nhà sấy, nơi bà Ellen chia khẩu phần thức ăn cho các lực điền đang lục tục về. Có tiếng bát đĩa sứ và thìa, đĩa bạc chạm nhau lách cách trong khi quản gia Pork của ấp Tara dọn bàn ăn. Những âm thanh cuối cùng này nhắc cặp anh em sinh đôi là đã đến giờ lên đường về nhà. Nhưng họ ngại giáp mặt với bà mẹ và nấn ná ở hàng hiên ấp Tara thêm một lát, hi vọng Scarlett mời ở lại ăn tối. - Này, Scarlett, về chuyện ngày mai ấy mà, Brent nói. Bọn này đi vắng nên không biết mai có bữa tiệc ngoài trời và vui chơi khiêu vũ, nhưng không phải vì thế mà đêm mai bọn này đành chịu chay tịnh không được nhảy cho đã. Cô chưa hứa dành trước tất cả các điệu nhảy chứ? - Rồi mà! Làm sao tôi biết trước là các anh về nhà? Tôi không thể can tâm chờ phục dịch hai anh mà chịu nguy cơ tựa tường không có ai mời nhảy. - Cô mà lại dựa tường không có ai mời nhảy! Hai cậu công tử phá lên cười ầm ĩ. - Này, cô bé thân yêu. Cô phải dành cho tôi điệu waltz đầu tiên và cho Stu điệu cuối cùng và cô phải ăn tối với tụi tôi. Chúng mình sẽ ngồi trên sàn cầu thang như trong đêm vũ hội lần trước và lại bắt Mammy Jincy đến xem bói cho chúng mình lần nữa. - Tôi không thích nghe Mammy Jincy bói. Các anh biết đấy, bà ấy bảo tôi sẽ lấy một ông tóc đen nhánh, để ria dài mà tôi thì không ưa các ông tóc đen. - Cô thích đàn ông tóc hung chứ gì, cô gái thân yêu? Brent cười toe toét. Nào, ừ đi, hãy hứa nhảy với bọn này tất cả các bài waltz và cùng ăn tối nhé. - Nếu cô hứa, bọn tôi sẽ cho cô biết một điều bí mật, Stuart nói. - Điều gì? Scarlett reo lên, linh lợi như một đứa bé khi nghe thấy hai tiếng “bí mật”. - Có phải cái chuyện chúng mình nghe thấy hôm qua ở Atlanta không, Stu? Nếu là chuyện ấy thì nên nhớ là chúng ta đã hứa sẽ không nói cho ai biết. - À, Miss[6] Pitty đã nói cho bọn này biết. - Miss gì? - Cô biết đấy, bà cô họ của Ashley Wilkes hiện ở Atlanta ấy mà, Miss Pittypat Hamilton, - cô của Charles và Melanie Hamilton. - Tôi biết rồi, cả đời tôi chưa bao giờ gặp một bà già nào ngu độn hơn thế. - Thế hôm qua khi bọn này ở Atlanta chờ tàu hỏa về nhà thì xe ngựa của bà ấy đi qua cửa ga và bà dừng lại nói chuyện với bọn này, bà bảo là trong vũ hội đêm mai tại nhà Wilkes, người ta sẽ công bố một cuộc đính hôn. - Ồ, chuyện ấy thì tôi biết rồi, Scarlett thất vọng nói. Cái gã cháu trai ngu đần của bà ta, Charlie Hamilton đính hôn với Honey Wilkes chứ gì. Mọi người đều đã biết từ mấy năm nay là đến một lúc nào đó, họ sẽ lấy nhau, cho dù cậu chàng có vẻ như không mặn mà gì lắm. - Cô nghĩ là hắn đần độn à? Brent hỏi. Noel vừa rồi, cô chả để cho hắn bám quanh vo ve mãi là gì? - Tôi không thể cấm anh ta được, Scarlett hờ hững nhún vai. Theo tôi, anh ta là một gã õng ẹo gớm chết. - Vả lại, đâu phải là họ sẽ công bố cuộc đính hôn của hắn, Stuart đắc thắng nói. Mà chuyện Ashley với em gái Charlie, tiểu thư Melanie cơ. Sắc mặt Scarlett không thay đổi, nhưng môi cô tái nhợt đi, như một người bất thình lình bị một đòn đau điếng và trong phút choáng đầu tiên, không hiểu là chuyện gì đã xảy ra. Trong khi trừng trừng nhìn Stuart, mặt cô im sững đến nỗi gã này, vốn không bao giờ biết phân tích tâm lý, cứ yên trí rằng cô chỉ ngạc nhiên và rất chú ý mà thôi. - Miss Pitty nói với bọn này rằng họ định sang năm mới công bố vì tiểu thư Melly[7] không được khỏe lắm; nhưng thấy thiên hạ chỉ bàn tán toàn chuyện chiến tranh, mọi người ở cả hai bên gia đình đều cho rằng cứ cho cưới quách đi thật sớm lại hơn. Cho nên họ định công bố vào quãng giữa bữa ăn tối mai. Scarlett, bây giờ bọn này đã nói cho cô biết điều bí mật, vậy cô phải hứa ăn tối với bọn này đi. - Dĩ nhiên là thế, Scarlett nói như cái máy. - Và tất cả các bài waltz nữa nhé? Tất cả. Cô thật đáng yêu! Tôi cuộc là các cậu kia sẽ tức điên lên cho mà xem. Cho họ tức, Brent nói. Hai chúng mình có thể xử trí được với bọn họ. Này Scarlett, trong bữa tiệc ngoài trời ban sang, cô ngồi với bọn này nhé! Cái gì? Stuart nhắc lại lời yêu cầu. - Tất nhiên. Hai anh em sinh đôi nhìn nhau sướng rơn, nhưng có phần hơi ngạc nhiên. Mặc dù tự coi mình là những người được Scarlett ưu đãi trong đám rắp ranh giương cung bắn sẻ, trước đây họ chưa bao giờ giành được những biểu hiện của đặc ân đó một cách dễ dàng như lần này. Thông thường cô để họ phải nài nỉ, van xin mà vẫn lần lữa trì hoãn, không chịu trả lời dứt khoát có hay không, phá lên cười mỗi khi họ hờn dỗi, ra mặt lạnh lùng nếu họ nổi cáu. Và đây, thực tế cô đã hứa dành cho họ hầu như toàn bộ ngày mai - ngồi cạnh suốt bữa tiệc ngoài trời, tất cả các bài waltz (họ sẽ xoay sở sao cho tất cả các bài nhảy đều là nhịp waltz) và cùng ăn tối nữa. Thật cũng bõ bị đuổi khỏi trường Đại học! Lòng tràn ngập niềm phấn khởi mới do thành công đó, họ tiếp tục nán lại bàn về bữa tiệc ngoài trời và đêm vũ hội, về Ashley Wilkes và Melanie Hamilton, ngắt lời nhau, bông phèng, chế nhạo đôi này, gợi ý chung chung về khách mời đến ăn tối. Mãi một lúc sau, họ mới nhận ra là Scarlett trở nên rất ít nói. Không khí đã có phần đổi khác. Hai anh em sinh đôi không biết rõ vì sao, nhưng đúng là cái ánh rực rỡ tuyệt vời của buổi chiều đã tan biến rồi. Scarlett dường như chẳng để ý mấy đến những điều họ nói mặc dầu cô vẫn trả lời đâu ra đấy. Mơ hồ nhận thấy có một điều gì đó mà họ không thể hiểu nổi, do đó đâm thất vọng và ngán ngẩm, hai cậu cầm cự thêm một lát, rồi miễn cưỡng đứng dậy nhìn đồng hồ đeo tay. Cuối những cánh đồng mới cày vỡ, mặt trời đã xuống thấp và bên kia sông, những rừng cây cao in bóng đen sậm. Chim én lao vút qua sân, gà, vịt và gà tây từ ngoài đồng về lộn xà lộn xộn, con thì lạch bà lạch bạch, con thì vênh váo khệnh khạng. Stuart quát to: “Jeems”. Và lát sau, một gã da đen cao lớn trạc tuổi họ hổn hển chạy vòng ngôi nhà ra chỗ buộc ngựa. Jeems là người hầu của họ và, cũng như bầy chó, theo họ đi khắp nơi. Gã là bạn chơi thuở nhỏ của hai cậu ấm sinh đôi và được xem như quà sinh nhật cho hai cậu làm của riêng hôm họ tròn mười tuổi. Vừa trông thấy gã, lũ chó săn nhà Tarleton liền chồm dậy khỏi đám bụi đỏ và đứng tại chỗ chờ chủ. Các cậu cúi gập người bắt tay và nói với Scarlett rằng sáng mai họ sẽ sang bên nhà Wilkes từ sớm chờ cô. Rồi họ hối hả chạy xuôi lối đi, lên ngựa và, theo sau là Jeems, phóng dọc theo đường rặng tuyết tùng, vừa vẫy mũ vừa hét với lại chào cô. Khi đã quành qua chỗ ngoẹo của con đường đầy bụi, khuất khỏi tầm nhìn từ ấp Tara, Brent ghìm ngựa đứng lại dưới một lùm cây sơn thù du. Stuart cũng dừng lại và gã da đen hãm ngựa cách họ mấy bước. Mấy con ngựa cảm thấy lỏng cương, vươn cổ gặm lớp cỏ xuân mơn mởn, trong khi lũ chó lại kiên nhẫn nằm xuống trong lớp bụi đỏ êm ái và thèm thuồng ngước nhìn đàn én lượn vòng trong hoàng hôn dần sẫm bóng. Bộ mặt hồn nhiên của Brent có vẻ bối rối và hơi bất bình. - Này, gã nói. Anh có thấy hình như Scarlett có ý muốn mời chúng mình ở lại ăn tối không? - Mình nghĩ là thế, Stuart nói. Mình cứ cho nàng mời, thế nhưng nàng lại không nói gì. Brent nghĩ thế nào? - Chả nghĩ thế nào cả. Nhưng tôi cảm thấy như lẽ ra nàng có thể làm thế. Nói cho cùng, đây mới là ngày đầu tiên chúng mình trở về nhà, bao nhiêu lần nàng không gặp chúng mình. Và chúng mình còn hàng lô chuyện cần nói với nàng. - Mình thấy hình như nàng rất mừng được gặp chúng mình khi chúng mình mới tới. - Tôi cũng nghĩ thế. - Thế rồi cách đây độ nửa tiếng, bỗng dưng nàng đâm lì xì như thể bị đau đầu vậy. - Tôi có nhận thấy thế, nhưng lúc ấy tôi không để tâm. Anh cho là nàng bị làm sao? - Mình không biết. Theo Brent, chúng mình có nói gì làm nàng phật ý không? Cả hai cùng ngẫm nghĩ một lát. - Tôi chịu, không đoán được vì cớ gì. Với lại, khi Scarlett bực thì ai cũng thấy ngay. Nàng không tự kiềm chế như một số cô gái khác. - Phải, mình thích nàng chính ở chỗ đó. Nàng không vòng vo điệu đàng khi có chuyện bực mình, mà nói thẳng toẹt ra. Nhưng chắc chúng mình đã làm hoặc nói điều gì khiến nàng ngậm miệng không buồn nói chuyện nữa và có vẻ như khó ở. Mình dám cam đoan rằng lúc đầu nàng rất mừng được gặp chúng mình và đã tính mời chúng mình ăn tối. - Theo anh, có phải tại chúng mình bị đuổi học không? - Xì, đâu phải! Đừng có ngớ ngẩn. Nàng đã cười như thường khi chúng mình kể cho nghe chuyện ấy. Vả chăng, Scarlett cũng chả coi trọng việc học hành gì lắm, khác nào chúng ta. Brent quay người trên yên ngựa, gọi tên hầu da đen: - Jeems! - Dạ. - Mày có nghe chúng tao nói chuyện gì với tiểu thư Scarlett không? - Dạ không, thưa cậu Brent! Làm sao mà cậu lị nghĩ là cháu dám gio thám người da chắng? - Do thám ư, lạy Chúa! Bọn da đen chúng mày biết mọi chuyện xảy ra. Hừ đồ dối trá, chính mắt tao trông thấy mày len lén quành góc hiên đến ngồi núp trong bụi hoa nhài cạnh tường mà. Thôi đi, mày có nghe thấy chúng tao nói điều gì có thể làm cho tiểu thư Scarlett nổi giận, hoặc mếch lòng không? Được cầu viện đến như vậy, Jeems thôi không giả vờ là không nghe trộm nữa và vầng trán đen của gã cau lại. - Thưa không, cháu không nhận thấy các cậu có nói rì làm cô í nủi dận. Cháu thấy dư là cô í rất mừng được gặp các cậu, rõ ràng cô í nhớ các cậu và cô í cứ díu da díu dít dư chim cho đến khi các cậu nói đến chuyện cậu Ashley mấy cô Melly Hamilton sắp lấy nhau. Thế rồi cô í lặng đi dư con chim nhỏ thấy con diều hâu bay qua. Hai anh em sinh đôi nhìn nhau, gật đầu, nhưng vẫn không hiểu ra sao. - Jeems có lý, Stuart nói. Nhưng mình vẫn không hiểu tại sao lại thế. Lạy Chúa! Ashley chỉ là bạn nàng mà thôi, không hơn. Nàng đâu có mê hắn. Nàng mê bọn mình kia. Brent gật đầu tán thành. - Nhưng, gã nói, anh có cho là có thể Ashley đã không nói gì với nàng về chuyện công bố đính hôn đêm mai, thành thử nàng bực hắn đã không nói với nàng là bạn cố tri trước khi thông báo cho mọi người khác chăng? Con gái vốn dĩ rất thích là người đầu tiên được biết những chuyện như vậy. - Ờ, có thể thế! Nhưng giả sử hắn không nói trước cho nàng biết chuyện công bố đính hôn vào ngày mai thì đã sao? Cái đó phải là bí mật và bất ngờ, mấy lại người đàn ông có quyền giữ kín việc đính hôn của mình chứ, phải không nào? Nếu bà cô của tiểu thư Melly không buột miệng nói ra thì chúng mình cũng chả biết. Nhưng mà chắc hẳn Scarlett đã biết là trước sau hắn cũng sẽ lấy Melly. Chà, chuyện ấy chúng mình biết trước từ mấy năm nay rồi. Xưa nay, trong hai dòng họ Wilkes và Hamilton, anh chị em họ vẫn lấy nhau mà. Ai nấy đều biết một ngày kia họ sẽ lấy nhau cũng như Honey Wilkes sẽ lấy Charlie, anh trai của Melly. - Thôi, tôi chịu. Nhưng tôi vẫn tiếc là nàng không mời bọn mình ở lại ăn tối. Tôi thề là không muốn về nhà nghe mẹ chửi về chuyện chúng mình bị đuổi học. Mà đây nào phải là lần đầu tiên. - Có thể giờ đây Boyd đã xoa dịu được bà cụ. Brent biết đây, cái anh chàng nhỏ bé tinh ranh ấy nói dẻo như kẹo. Anh ta bao giờ cũng có thể xoa dịu được mẹ, Brent lạ gì. - Phải, anh ấy có thể làm được việc ấy, nhưng phải mất thời gian. Anh ấy phải nói lòng vòng cho đến khi bà cụ không biết đường nào mà lần, đành bỏ cuộc và bảo anh ấy để dành giọng mai sau làm thầy cãi. Nhưng bây giờ thì anh ấy chưa đủ thời gian để mở máy cho trơn chu. Ồ, tôi dám cuộc là bà cụ hiện vẫn còn rối lên với con ngựa mới, đến mức thậm chí không nhận ra là chúng mình đã lại ở nhà, cho đến lúc ngồi xuống ăn tối và trông thấy Boyd. Và suốt bữa ăn, bà sẽ nổi sấm, nổi sét cho mà xem. Rồi phải đến mười giờ đêm Boyd mới có cớ giải thích được cho bà rằng, sau cái cách ông hiệu trưởng danh dự nói chuyện với anh và tôi, thì bất kỳ ai trong số anh em mình còn ở lại trường đại học cũng chẳng vinh dự gì. Và khi Boyd khích được bà chuyển sang tức giận ông hiệu trưởng tới mức hỏi tại sao Boyd không bắn ông ta đi thì cũng đã nửa đêm. Không, chúng mình không thể về nhà trước nửa đêm. Hai anh em sinh đôi ỉu xìu nhìn nhau. Họ tuyệt nhiên chẳng sợ ngựa dữ, các cuộc gây lộn bắn nhau cũng như sự phẫn nộ của hàng xóm láng giềng, nhưng đầu óc lành mạnh của họ lại rất hãi những lời mắng nhiếc thẳng thừng của bà mẹ tóc hung cùng chiếc roi ngựa mà bà sẵn sàng quất vào đít quần họ không chút ngại ngần. - Này thôi, Brent nói, ta sang bên nhà Wilkes vậy. Ashley và các cô em gái chắc sẽ vui mừng giữ chúng ta ở lại ăn tối. Stuart có vẻ hơi băn khoăn. - Không, ta đừng sang đấy. Chắc họ đang bận tíu tít chuẩn bị cho bữa tiệc ngoài trời ngày mai và ngoài ra... - Ồ, tôi quên béng điều đó, Brent vội vã chữa. Phải, ra không nên sang đó. Họ thúc ngựa và phóng đi lặng lẽ một lúc đôi má ngăm ngăm của Stuart ửng đỏ lên, bối rối ngượng ngùng. Cho đến mùa hè năm ngoái, Stuart vẫn đi lại tìm hiểu India Wilkes với sự đồng ý của đôi bên gia đình cũng như sự tán thưởng của toàn hạt. Mọi người trong hạt cảm thấy rằng có lẽ tiểu thư India Wilkes lạnh lùng, kín đáo sẽ có tác dụng làm cho chàng trai trở nên đầm tính. Dù sao chăng nữa, họ cũng nhiệt tình hi vọng thế. Stuart lẽ ra đã cưới India nhưng Brent không vừa ý. Brent cũng thích India, song gã thấy cô ta cực kỳ giản đơn và nhạt nhẽo, và gã dứt khoát không thể mê cô để cặp kè với Stuart được. Đây là lần đầu tiên sở thích của cặp anh em sinh đôi không đồng nhất và Brent giận cậu anh đã để mắt đến một cô gái mà gã thấy chẳng có gì là đặc sắc cả. Thế rồi, mùa hè vừa rồi tại một cuộc nói chuyện chính trị trong một rừng sồi ở Jonesboro, cả hai đột nhiên phát hiện ra Scarlett O’Hara Hara. Họ đã quen biết cô bao năm nay và từ bé, Scarlett đã là bạn chơi thú vị nhất vì cô biết phi ngựa, trèo cây, gần như chả kém gì họ. Nhưng giờ đây họ ngỡ ngàng thấy Scarlett đã lớn lên thành một thiếu nữ thanh lịch, thậm chí là bậc giai nhân yêu kiều nhất trần gian nữa kia. Lần đầu tiên họ nhận thấy cô có cặp mắt xanh xiết bao linh hoạt, hai má lúm đồng tiền khi cười, đôi bàn tay và đôi bàn chân nhỏ nhắn và vóc người mới thon thả làm sao. Những câu nói dí dỏm của họ khiến cô cười khanh khách vui vẻ và, hào hứng với ý nghĩ được cô coi là xuất sắc, hai cậu càng cố vượt lên bản thân ra sức khoe tài. Đó là một trong những ngày đáng ghi nhớ trong đời hai anh em sinh đôi. Về sau, mỗi khi ôn lại chuyện ấy, bao giờ họ cũng tự hỏi tại sao trước đó họ không nhận ra duyên sắc của Scarlett. Không bao giờ họ tìm được lời giải đáp chính xác, vậy mà đó chỉ đơn giản là: hôm ấy, Scarlett đã quyết định làm cho họ phải chú ý tới mình. Do bản chất, cô không thể chịu thấy một người đàn ông nào mê một phụ nữ khác ngoài bản thân mình và cái cảnh India Wilkes và Stuart cặp kè với nhau tại cuộc nói chuyện đập vào mắt cô, kích cái máu thèm mồi của cô lên quá độ. Không thỏa mãn với một mình Stuart, cô thả câu bắt luôn cả Brent và tiến hành triệt để đến nỗi hai cậu đâm choáng ngợp. Giờ đây, cả hai đều phải lòng Scarlett, và India Wilkes cũng như cô nàng Litty Munroe ở Lovejoy mà Brent miễn cưỡng tìm hiểu, chỉ còn là những cái bóng mờ trong tâm trí họ. Họ không hề đặt ra câu hỏi là trong trường hợp Scarlett chọn một trong hai thì kẻ xấu số sẽ làm gì. Đến lúc đó hẵng hay. Chỉ biết bây giờ họ hoàn toàn mãn nguyện về việc lại tâm đồng ý hợp về một cô gái vì giữa họ, không hề có chuyện ghen tuông. Đó là một tình huống khiến hàng xóm láng giềng thích thú, song lại làm phiền lòng bà mẹ vốn không ưa gì Scarlett. - Nếu con bé ranh ma ấy ưng một trong hai cậu thì thật đáng đời cho các cậu, bà nói. Hoặc giả nó đồng ý cả hai thì các cô cậu phải chuyển đến bang Utah mà ở, nếu như bọn Mormons[8] chịu chấp nhận mấy cô cậu... mà điều đó thì tôi không dám chắc... Tôi chỉ lo một ngày kia, cả hai cậu cùng bốc máu lên, ghen nhau vì cái con ranh con mắt xanh, hai mặt ấy, rồi đi đến chỗ bắn nhau thôi. Nhưng nói cho cùng, cái đó chưa chắc đã phải là không hay. Từ hôm có cuộc hội thảo ấy, Stuart đâm ra mất thoải mái những lúc có mặt India. Không phải vì India buông lời trách móc gì hoặc thậm chí, bằng khóe nhìn hoặc điệu bộ, tỏ ra đã biết chuyện cậu chàng đột ngột thay đổi thần tượng. Cô là bậc trâm anh, cao hơn những cái tầm thường đó. Dù sao, Stuart vẫn cảm thấy có lỗi và ngượng ngùng với cô. Cậu biết cậu đã khiến India yêu mình, hiện giờ vẫn còn yêu và trong thâm tâm, cậu cảm thấy mình đã không cư xử ra người quân tử. Cậu vẫn hết sức quý mến cô và kính trọng cô vì cung cách gia giáo, ý tứ, trình độ học vấn và tất cả những ưu điểm chân chính của cô. Nhưng, quỷ tha ma bắt! Cô thật nhờ nhạt, vô vị và bao giờ cũng đơn điệu bên cạnh cái duyên rực rỡ, mỗi lúc một dáng vẻ của Scarlett. Với India, lúc nào người ta cũng yên trí về chỗ đứng của mình, còn với Scarlett thì thật chả biết đằng nào mà lần. Riêng điều đó cũng đủ làm một người đàn ông điên đầu, nhưng lại có cái hấp dẫn của nó. - Thôi, ta đến nhà Cade Calvert ăn tối vậy. Scarlett bảo là Cathleen đã ở Charleston về nhà. Có thể cô ấy có những tin mới về pháo đài Sumter mà chúng mình chưa được nghe. - Đến Cathleen làm gì. Mình cuộc với Brent hai ăn một rằng cô ta thậm chí cũng không biết là pháo đài nằm ở ngoài cảng, càng không biết là bọn Yankee ở đầy trong đó trước khi ta nã đại bác trục chúng ra. Tất cả những gì cô ta biết đến trên đời, là những cuộc khiêu vũ cô ta tham dự và những thằng nhân tình cô ta “sưu tầm” được. - Chậc, thì nghe cô ta liến thoằng cũng vui chứ. Với lại, đây là nơi để ta ẩn náu cho đến khi mẹ đi ngủ. - Chà, quỷ tha ma bắt! Mình có thiện cảm với Cathleen, cô ta kể cũng ngộ và mình cũng muốn nghe chuyện về Caro Rhett và những người khác ở Charleston; nhưng ngồi suốt một bữa ăn nữa với cái bà mẹ kế người Yankee của cô ta thì xin thề độc là mình không đủ sức. - Đừng quá nghiệt ngã với bà ta, Stuart. Bà ấy đầy thiện ý. - Mình đâu có nghiệt ngã với bà ta. Mình ái ngại cho bà ta thì có. Nhưng mình không thích những người khiến mình phải ái ngại. Bà ấy cứ lăng xa lăng xăng, cố làm đúng những điều cần làm để mọi người được thoải mái, nhưng chính vì thế mà toàn làm trật, nói trật. Bà ấy làm mình điên tiết! Lại nữa, bà ấy cho dân miền Nam là man ri mọi rợ. Thậm chí bà ấy còn nói với mẹ thế. Bà ấy sợ dân miền Nam. Hễ có mặt chúng ta ở đó xem ra bà ấy sợ chết khiếp. Bà ấy làm mình nghĩ đến một con gà mái gầy đét đậu trên một cái ghế, mắt long lanh thất thần và hoảng loạn, sẵn sàng đập cánh, kêu ngậu lên hễ có ai hơi động đậy tí chút. - Thôi đi, anh mà lại phê phán bà ấy. Anh chả đã bắn vào chân Cade là gì? - Ờ, tại mình say, nếu không mình đã chẳng làm thế, Stuart nói. Vả lại, Cade không giận mình đâu. Cả Cathleen, cả Raiphord và ông Calvert cũng vậy. Chỉ có cái bà mẹ kế người Yankee ấy là làm om xòm, bảo mình là một tên dã man, và người tử tế ở giữa đám dân miền Nam mọi rợ quả là không đảm bảo an toàn. - Hừ, anh không đủ tư cách phán xét bà ấy. Đành rằng bà ấy là người Yankee và không lấy gì làm lịch thiệp cho lắm, nhưng xét cho cùng, anh đã bắn Cade, con trai riêng của chồng bà. - Thôi đi, quỷ tha ma bắt! Đó đâu phải là cái cớ để Brent lăng nhục mình! Brent là con đẻ của mẹ, thế mà cái lần Tony Phontaine bắn vào chân Brent, mẹ có làm toáng lên không nào? Không, mẹ chỉ cho người mời ông bác sĩ già Phontaine đến băng vết thương và hỏi ông ta do đâu mà Tony lại ngắm tồi đến thế. Mẹ bảo mẹ đoán là do rượu đã làm hỏng tài thiện xạ của cậu ta, Brent nhớ lại mà coi, điều đó đã làm cho Tony tức điên lên như thế nào. Cả hai cười ầm lên. - Mẹ thật là một nhân vật kì dị! Brent tán đồng, giọng đầy yêu thương. Về mặt làm đúng điều cần làm và không đẩy ta vào tình trạng bối rối trước mặt mọi người thì bao giờ ta cũng có thể tin cậy ở mẹ. - Phải nhưng tối nay, khi chúng mình về nhà, mẹ cũng rất có thể nói những điều làm chúng mình bối rối trước mặt ba và tụi em gái mình. Stuart lầm lầm nói. Này Brent, có nghĩa là chúng mình sẽ không được đi châu Âu chơi nữa, mình chắc thế. Brent biết đấy, mẹ đã bảo nếu chúng mình còn bị đuổi khỏi trường đại học thì đừng có nghĩ gì đến chuyến Đại Viễn Du nữa. - Mẹ kiếp! Cần quái gì! Ở châu Âu có gì mà xem? Tôi dám cuộc là cái đám ngoại bang ấy chẳng phô được với chúng ta cái gì mà chúng ta không có ở ngay tại Georgia này. Tôi dám cuộc là ngựa của họ không nhanh bằng, con gái bên đó cũng không xinh đẹp bằng ở đây và tôi biết chắc họ không có thứ rượu Whisky bằng lúa mạch đen nào sánh bằng rượu loại ấy của ba. - Ashley bảo là ở bên ấy có sinh hoạt sân khấu và âm nhạc rất là phong phú. Ashley rất thích châu Âu. Cậu ta cứ luôn miệng nhắc tới châu Âu. - À... anh lạ gì chị em nhà Wilkes. Họ cứ như là say cuồng âm nhạc, kịch cọt và sách vở. Mẹ bảo tại gốc gác ông nội họ ở Virginia. Mẹ bảo dân Virginia rất coi trọng những thứ đó. - Thì để cho họ những thứ ấy. Cứ cho mình một con ngựa hay để cưỡi, một vò rượu ngon để uống, một cô gái nhà lành để tìm hiểu nghiêm chỉnh và một cô gái lẳng lơ để vui chơi đú đởn, rồi thì ai muốn xí phần cả châu Âu cũng được. Nhỡ chuyến du lịch này thì thôi, cần quái gì, phải không? Giả dụ bây giờ chúng ta đang ở châu Âu và chiến tranh xảy đến? Chúng mình sẽ không về kịp. Tôi thà ra trận còn hơn đi châu Âu. - Mình cũng nghĩ thế, mình sẵn sàng ra trận bất kỳ hôm nào. Brent này, mình nghĩ ra chỗ ăn tối rồi. Ta hãy phóng ngựa qua đầm lầy đến chỗ Able Wynder, bảo anh ta rằng cả bọn anh em mình đã trở về nhà và sẵn sàng tập huấn. - Thật cao kiến! Brent phấn khởi kêu lên. Và chúng mình sẽ được nghe mọi tin tức về Đội và sẽ biết quyết định cuối cùng về màu sắc quân phục. - Nếu là cùng kiểu với Zouave[9] thì mình thề là sẽ không vào khinh kị. Mặc cái quần đỏ rộng thùng thình ấy thì còn ra cái thớ gì nữa! Trông như thứ quần ngủ bằng nỉ đỏ của các bà các cô ấy! - Các cậu có định đến nhà ông Wynder không ạ? Vì nếu các cậu đến đấy, thì cũng không có mấy mà ăn tối đâu, Jeems nói. Đầu bếp nhà í chết rồi, họ không mua đầu bếp mới. Họ lấy một chị làm đồng về nấu thay, tụi nhọ cho biết đấy là người nấu bếp tồi nhất bang. - Lạy Chúa! Sao họ không mua lấy một đầu bếp khác. - Làm sao mà Cracker đủ tiền mua nhọ? Nhiều lắm, họ cũng chỉ có được bốn nhọ là cùng, không thể hơn được. Giọng Jeems lộ rõ vẻ khinh ra mặt. Địa vị xã hội của gã được đảm bảo, vì gia đình Tarleton có cả trăm nô lệ và như mọi nô lệ của các đại điền chủ, gã nhìn những chủ nông nhỏ có ít nô lệ bằng nửa con mắt. - Tao thì đánh tuốt xương mày ra vì cái thói ấy bây giờ. Stuart kêu lên vẻ hung hãn. Mày đừng có gọi ông Able Wynder là Cracker. Đành rằng ông ấy nghèo, nhưng ông ấy không phải là Cracker. Ma quỷ bắt tao đi nếu tao để cho thằng cha nào, dù trắng hay nhọ, nói xấu ông ta. Ở cái hạt này, không có người nào cừ hơn ông ấy, chả nhẽ thế mà đội khinh kỵ lại bầu ông làm trung úy. - Cái í thì tự cháu không bao dờ hểu ra, Jeems đáp, không hề bối rối vì vẻ mặt dữ tợn của chủ. Cháu cứ ngỡ người ta chọn tất cả xĩ quan ở trong đám các ông nhà dầu, chứ đâu phải ở trong đám cặn bã nới đầm lầy. - Ông ấy không phải là cặn bã! Mày định so sánh ông ấy với bọn Cracker chính cống như gia đình Slattery hả? Able chỉ không giàu thôi. Ông ấy là một chủ nông nhỏ, không phải một đại điền chủ và nếu các chiến hữu trọng thị ông ấy đến mức bầu lên làm trung úy, thì có nghĩa là không phải bất kỳ tên nhọ nào cũng được phép nói hỗn về ông ấy. Đội có ý thức về việc mình làm chứ! Đội khinh kỵ đã được tổ chức các đây ba tháng, đúng vào ngày Georgia ly khai khỏi Liên bang và từ bấy đến nay, đám lính mới cứ chờ đợi chiến tranh hoài. Đơn vị chưa được đặt tên, mặc dầu không thiếu gợi ý. Người nào cũng có ý kiến riêng về vấn đề này và không ai chịu ai, cũng như tất thảy đều có ý kiến về màu sắc và kiểu của đồng phục. “Mèo hoang Clayton”,“Những người nuốt lửa”,“Phiêu kỵ Bắc Georgia”,“Zouave”,“Những pháo thủ nội địa” (mặc dầu Đội sẽ được vũ trang bằng súng ngắn, kiếm lưỡi cong và mác, chứ không phải bằng súng trường),“Đội xám Clayton”,“Máu và Sấm”,“Những dũng sĩ thần tốc”, tất cả những tên ấy đều có người ủng hộ. Trong khi chưa ngã ngũ, mọi người đều gọi tổ chức này là Đội và mặc dầu cuối cùng, một cái tên thật kêu đã được thông qua, ai nấy vẫn chỉ dùng gọn ghẽ một tiếng “Đội” để chỉ đơn vị khinh kỵ cho đến mãn kỳ. Các sĩ quan được anh em bầu lên vì trong toàn hạt chẳng có ai từng kinh qua trận mạc, trừ một số ít cựu binh trong các cuộc chiến tranh Mexico và Seminole[10], ngoài ra, một cựu binh không được anh em tin mến, ắt chẳng thể lãnh Đội. Mọi người đều mến bốn anh em nhà Tarleton và ba anh em nhà Phontaine nhưng, tiếc thay, không thể bầu ai trong bọn họ, vì anh em Tarleton thì hay rượu và đú đởn, còn anh em Phontaine thì tính khí nóng nảy, hung hãn quá đáng. Ahsley Wilkes được bầu làm đại úy vì là kỵ sĩ giỏi nhất hạt và vì đầu óc điền đạm, có thể tin cậy được để duy trì một cái gì từa tựa như là trật tự. Raiphord Calvert được chỉ định làm thượng úy vì được mọi người quý mến và Able Wynder, con trai một người đánh bẫy ở đầm lầy và bản thân là một chủ nông nhỏ, được bầu làm trung úy. Able là một anh chàng khổng lồ thất học sắc sảo, nghiêm nghị, hảo tâm, lớn tuổi hơn các chàng trai khác trong Đội và trước mắt phụ nữ, chí ít cũng nhã nhặn, lịch sự ngang họ, nếu không muốn nói là hơn. Trong Đội, hầu như không có thói đua đòi học làm sang vì trong các bậc cha ông của họ, quá nhiều người đã từ giai cấp tiểu nông dân cần cù làm ăn mà trở nên giàu có. Hơn nữa Able lại là tay súng cừ nhất trong Đội, một thiên xạ chính cống có thể bắn trùng mắt một con sóc ở cách xa bảy mươi mét và ngoài ra, lại rất quen với cuộc sống ngoài thiên nhiên, thành thạo mọi việc: đốt lửa dưới trời mưa, dò theo dấu vết thú vật, tìm ra những nguồn nước. Anh em trong Đội vốn kính phục những gì là chân giá trị và hơn nữa, lại yêu mến Able, nên tôn anh làm sĩ quan. Anh nhận cái vinh dự ấy một cách trang trọng, không hề tỏ vẻ ta đây như thể đó là phần chính đáng phải được dành cho anh. Nhưng các bà vợ, các cô con gái, cùng đám nô lệ của các điền chủ thì lại không thể nhắm mắt trước sự việc là Able không thuộc dòng dõi quý tộc, trong khi cánh nam giới thì sẵn sàng bỏ qua không lưu tâm đến điểm đó. Mới đầu, Đội chỉ tuyển toàn con trai các điền chủ, một đơn vị quý tộc, mỗi người tự lo lấy ngựa, vũ khí, trang bị, quân phục và cả người hầu riêng nữa. Nhưng số điền chủ giàu đâu có nhiều trong cái hạt Clayton mới thành lập này và để tập hợp đầy đủ lực lượng, cần phải tuyển thêm con trai các chủ nông nhỏ, các nhà săn thú trong rừng sâu, các người đặt bẫy ở đầm lầy, và trong một số rất ít trường hợp, cả con cái những người da trắng nghèo, Cracker khá hơn mức trung bình của tầng lớp họ. Những chàng trai thuộc loạt sau này cũng nóng lòng muốn chiến đấu chống quân Yankee không kém những người láng giềng giàu có của họ, nếu chiến tranh xảy ra, nhưng lại nảy ra một vấn đề tế nhị là tiền bạc. Chả mấy chủ nông nhỏ có ngựa. Họ tiến hành các công việc canh tác bằng la, mà cũng chả có dư, hiếm nhà có quá bốn con. La làm đồng còn không đủ, lấy đâu ra la đi chiến đấu, ngay cả nếu Đội chịu chấp nhận chúng - mà làm gì có chuyện ấy! Còn cánh da trắng nghèo thì có được một con la, đã tự coi là khá giả rồi. Những người ở trong rừng và ven đầm lầy không có ngựa, cũng chẳng có la, họ sống hoàn toàn bằng thổ sản và muông thú săn hoặc bẫy được ở đầm lầy; nói chung, họ kinh doanh theo hệ thống đổi chác và họa hoằn một năm mới nhìn thấy dăm dollar tiền mặt, cho nên ngựa và đồng phục là những thứ quá tầm khả năng của họ. Nhưng trong sự nghèo khó thanh bạch, họ vẫn tự hào mãnh liệt chả kém các điền chủ trong sự giàu sang và ắt không chịu nhận bất kỳ cái gì có hơi hướng bố thí từ tay những người hàng xóm phù hộ của mình. Cho nên, để nương theo tình cảm của tất cả, đồng thời để kiện toàn lực lượng của Đội, cha của Scarlett, John Wilkes, Buck Munroe, Jim Tarleton, Hugh Calvert, thực tế là tất cả các điền chủ lớn trong hạt, trừ Angus Macintosh đã góp tiền lại hoàn chỉnh việc trang bị cho Đội, cả người lẫn ngựa. Kết quả là mỗi điền chủ đồng ý chi tiền trang bị cho con mình cùng một số anh em khác, nhưng lựa cách giải quyết sao cho những thành viên nghèo của đơn vị có thể nhận ngựa và đồng phục mà không cảm thấy tổn thương đến danh dự. Mỗi tuần hai lần, Đội tập trung ở Jonesboro để tập luyện và cầu cho chiến tranh bắt đầu. Trong khi chưa kiếm được đầy đủ số ngựa cần thiết, những người có ngựa thực hiện những thao tác mà họ cho là trận đồ kỵ binh trên cánh đồng đằng sau Tòa án, làm bụi mù lên, hò hét đến khản giọng và vung những thanh gươm thời chiến tranh cách mạng lôi từ các bức tường phòng khách xuống. Những người chưa có ngựa thì ngồi ở vỉa hè trước cửa hiệu Bullard, nhìn các bạn thao diễn và tán róc, hoặc giả thi bắn. Không cần phải dạy những chàng trai này học bắn, vì hầu hết người miền Nam sinh ra đã cầm súng trong tay và cuộc đời săn bắn đã biến tất cả bọn họ thành thiện xạ. Từ những ngôi nhà đồn điền và những lều ven đầm, họ mang đến mỗi cuộc tập trung hàng loạt súng linh tinh đủ kiểu. Có những cây súng săn dài nghêu đã từng là tân kỳ vào hồi người ta vượt qua dãy núi Alleghenies lần đầu tiên, những khẩu hỏa mai cũ kỹ nạp đạn đằng đầu nòng đã từng hạ nhiều người Anh điêng thuở Georgia còn trứng nước, những khẩu súng lục kỵ binh đã được dùng năm 1982 trong các cuộc chiến tranh Seminol và Mexico, những khẩu súng ngắn nẹp bạc dùng trong các cuộc đấu súng, những khẩu súng bỏ túi, những cây súng săn hai nòng và những cây súng trường Anh mới, đẹp, báng bằng gỗ quý bóng loáng. Các cuộc tập luyện bao giờ cũng kết thúc trong những quán rượu ở Jonesboro và đêm đến, các vụ đánh lộn nổ ra nhiều đến nỗi các sĩ quan phải vất vả lắm mới ngăn được thương vong khỏi xảy ra trước khi giáp chiến với bọn Yankee. Chính trong một cuộc ấu đả như vậy, Stuart Tarleton đã bắn Cade Calvert và Tony Phontaine đã bắn Brent. Lần ấy, cặp anh em sinh đôi mới về nhà sau khi bị đuổi khỏi trường Đại học Virginia, đúng lúc Đội được tổ chức và họ đã phấn khởi gia nhập. Nhưng hai tháng trước đây, sau cái lần bắn nhau ấy, bà mẹ đã tống khứ họ đến trường đại học của bang, với mệnh lệnh là phải ở lại đó. Trong thời gian đi học xa, họ nhớ cái náo nức trong luyện tập và họ coi học vấn cũng đáng bỏ, miễn là họ có thể phi ngựa, bắn súng và hò hét cùng với đồng đội. - Thôi, ta hãy đi tắt sang nhà Able đi, Brent gợi ý. Ta có thể xuyên qua bãi trũng nhà ông O’Hara và đồng cỏ của gia đình Fontaine, chỉ thoáng một cái là đến nơi thôi. - Thầy trò ta sẽ chả có cái gì ăn ngoài thịt opos[11]với dau sanh, Jeems cố cãi. - Mày sẽ chả được ăn gì, Stuart nhe răng cười. Bởi vì mày phải về thưa với bà là chúng tao không về nhà ăn tối. - Không, cháu không! Jeems hoảng hốt kêu lên. Không, cháu không đâu! Cháu chả vui thú gì hơn các cậu nếu bị bà Beetiss tống cổ da ngoài đường.Thoạt đầu, bà xẽ hỏi cháu là làm xao cháu lại để các cậu bị đuổi lần nữa. Tiếp sau đó là làm xao tối nay cháu lại không đưa các cậu về nhà, để bà tống cổ các cậu da. Rồi thì bà xẽ nhảy bổ lên cháu dư diều hâu bổ xuống gà con và cháu biết là bà lại đổ mọi tội lỗi lên đầu cháu. Nếu các cậu không mang cháu theo đến nhà ông Wynder cháu xẽ vui lòng nằm ngoài dừng cả đêm, rồi có thể tuần cha bắt cháu cũng được, bởi chúng cháu thà bị tuần cha bắt còn hơn bị bà Beetiss túm gáy trong cơn bà lôi đình thịnh nộ. Hai anh em sinh đôi vừa bực vừa bối rối nhìn gã da đen bướng bỉnh. - Nó có thể rồ dại để bọn tuần tra bắt và trong trường hợp ấy mẹ sẽ có một đầu đề khác để ca hàng tuần nữa. Quả thật cái bọn da đen quá ư là phiền toái. Đôi khi mình nghĩ quan điểm của những người theo chủ nghĩa bãi nô là đúng. - Thôi, bắt Jeems phải đối đầu với một tình huống mà chúng mình muốn tránh, kể ra cũng không phải lắm. Chúng mình phải đem nó đi theo thôi. Nhưng này, thằng da đen ngu dại trơ tráo kia, nếu mày ra vẻ ta đây trước mặt đám da đen nhà Wynder và nói bóng gió xa xôi rằng chúng tao xưa nay chỉ ăn gà quay với giăm bông trong khi nhà họ không có gì khác ngoài thỏ và opos, thì tao sẽ... tao sẽ mách bà. VÀ chúng tao cũng sẽ không cho mày theo ra trận nữa. - Da vẻ ta đây ư? Cháu mà lại phải da vẻ ta đây với bọn nhọ mạt hạng. Không, thưa cậu, cháu là người lịch ruyệt chứ. Chả phải bà Beetiss cũng giậy cháu đường ăn lối ở như giậy các cậu đó sao? - Bà đã không thành công gì lắm trong việc dạy dỗ cả ba chúng ta, Stuart nói. Nào, ta đi thôi. Gã giật cương cho con ngựa hồng cao lớn lùi lại, rồi dận đinh thúc vào mạn sườn khiến nó nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào chắn, vọt sang cánh đồng mịn màng của đồn điền Gerald O’Hara. Ngựa của Brent và Jeems nhảy theo sau, gã này rạp mình túm chặt lấy một núm yên và bờm ngựa. Tuy không thích nhảy rào, nhưng gã đã vượt qua những rào cao hơn thế này để theo kịp các cậu chủ. Trong khi phóng qua những luống cày đỏ cạch và lao xuống đồi về phía bãi trũng trong hoàng hôn dần sậm bóng, Brent la to với anh trai: - Này, Stu, anh có cảm thấy rằng đáng ra Scarlett đã mời chúng mình ở lại ăn tối không? - Mình vẫn nghĩ thế, Stuart lớn tiếng đáp. Thế Brent cho là... 1. Tên các gia đình miền Nam nước Mỹ dùng để gọi các bà già (thường là da đen) chăm sóc nhiều thế hệ trẻ thơ trong gia đình và được coi như người trong nhà. (Tất cả chú thích trong sách là của người dịch)↵ 2. Dân da trắng nghèo ở miền Nam nước Mỹ.↵ 3. Người Mỹ ở miền Bắc.↵ 4. Để buộc vua Pharaoh cho người Hebrew rời khỏi Ai Cập, Thượng đế bèn liên tiếp giáng xuống đất nước này hàng loạt dịch họa, biến nước sông thành máu, dịch súc vật, nạn chấy rận.v.v… (Kinh Thánh, sách Xuất Ai Cập ký, chương 7-12).↵ 5. Ở nông thôn châu Mỹ, người ta thường tổ chức những cuộc liên hoan ngoài trời, đào bếp ngay ở mặt đất để nướng hoặc quay lợn, hoặc bò, hoặc cừu cả con.↵ 6. Chữ Miss (cũng như mademoiselle trong tiếng Pháp) dùng để gọi những phu nhân chưa hoặc không chồng, bất kể tuổi tác. Ở trường hợp cụ thể này là một bà già, dịch là cô thì không ổn, nên chúng tôi để nguyên chữ Miss.↵ 7. Tên gọi thân mật của Melanie.↵ 8. Giáo phái do Josep Smith thành lập năm 1830 ở New York trên cơ sở Thiên Khải Thánh Thư của Mormon (tác giả không có thật), cho phép phổ biến tục lệ nhiều vợ nhiều chồng coi như nét đặc trưng của giáo phái này. Hai phần ba trong số hơn một triệu tín đồ của giáo phái Mormons ở bang Utah.↵ 9. Đội khinh kỵ của Pháp, thành lập năm 1830, gồm toàn người Algeria.↵ 10. Cuộc chiến tranh giữa người Mỹ và người Anhđiêng từ 1834 đến 1842.↵ 11. Loài thú có túi đựng con, có nhiều ở Bắc Mỹ.↵ CHƯƠNG II K hi hai anh em sinh đôi nhà Tarleton để Scarlett đứng lại trong hàng hiên ấp Tara và tiếng vó ngựa đã tắt hẳn, cô quay trở lại ghế ngồi như một người mộng du. Cô cảm thấy mặt mình tê cứng và miệng đau nhức thực sự vì cứ phải miễn cưỡng căng ra gượng cười để cặp anh em sinh đôi khỏi đoán ra điều bí mật của lòng mình. Cô mệt mỏi ngồi xuống, gập một chân lại và tim cô ứ đầy khổ não đến độ muốn bật tung lồng ngực quá chật chội. Trái tim ấy đập trật trưỡng với những cái giật thót kỳ lạ; hai bàn tay cô lạnh toát và một dự cảm tai họa làm cô ngột thở. Mặt cô lồ lộ vẻ đau đớn và ngỡ ngàng, cái ngỡ ngàng của một đứa trẻ được nuông chiều xưa nay đòi gì được nấy, giờ đây lần đầu tiên đụng chạm với những ngang trái của cuộc đời. Ashley sẽ lấy Melanie Hamilton! Ôi, lẽ nào đấy lại là sự thật? Chắc hai anh em sinh đôi kia nhầm. Hay họ đùa mình? Ashley không thể, không thể yêu cô ta được. Không ai có thể mê một cô gái bé nhỏ, rụt rè như Melanie được. Scarlett khinh bỉ nhớ lại thân hình mảnh khảnh như trẻ con của Mely với khuôn mặt hình trái tim nghiêm nghị, đơn giản đến mức gần như xấu. Và Ashley chắc là hàng mấy tháng không gặp cô ta. Từ cái lần chàng mở tiệc chiêu đãi ở trại Mười Hai Cây Sồi hồi năm ngoái cho tới nay, chàng chưa đến Atlanta quá hai lần. Không, Ashley không thể phải lòng Mely được, bởi lẽ. Ồ, cô không thể lầm được! - bởi lẽ chàng đang yêu cô! Chính cô, Scarlett đây, mới là người chàng yêu - điều đó, cô biết chắc! Scarlett nghe thấy bước chân nặng nề của Mammy làm rung cả sàn tiền sảnh. Cô vội ngồi lại cho ngay ngắn và cố giữ bộ mặt cho bình thản hơn. Không nên để Mammy ngờ là có chuyện gì không ổn. Mammy cảm thấy gia đình O’Hara thuộc về bà, cả phần hồn lẫn phần xác, những bí mật của họ là những bí mật của bà và chỉ cần hơi có một chuyện gì bí ẩn là đủ khiến bà ra công lùng sục ráo riết như một con chó săn vậy. Theo kinh nghiệm, Scarlett biết là nếu sự tò mò của Mammy không được thỏa mãn ngay lập tức, bà sẽ nêu vấn đề với bà Ellen, rồi thì Scarlett sẽ buộc phải thổ lộ mọi chuyện với mẹ, hoặc phải nghĩ ra một cách nói dối thế nào cho lọt tai. Mammy từ tiền sảnh bước ra; đó là một bà già người to lớn, có đôi mắt nhỏ tinh khôn như mắt voi. Da đen nhánh, chính gốc Phi, tận tụy, trung thành với gia đình O’Hara đến giọt máu cuối cùng, bà là chỗ dựa chính của bà Ellen, nỗi tuyệt vọng của ba cô con gái, nỗi kinh hoàng của các gia nhân khác. Tuy là da đen, quy tắc cư xử và ý thức tự hào của Mammy cũng ngang tầm hoặc thậm chí còn cao hơn so với chủ. Bà đã được nuôi dạy ở trong phòng ngủ của Solange Robillard mẹ của Ellen O’Hara, một phụ nữ người Pháp mũi gồ cao, khó tính, lạnh lùng, bao giờ cũng trừng phạt đích đáng mọi vi phạm nghi thức, nhất nhất không dung thứ, bất kể kẻ có lỗi là con cái hay kẻ ăn người làm. Bà đã từng bế ẵm Ellen, theo Ellen từ Savannah lên mạn ngược khi cô chủ lấy chồng. Mammy thường rầy la uốn nắn những người mình yêu. Và vì rất yêu thương Scarlett và vô cùng tự hào về cô, nên bà càng hay càu nhàu, tựa hồ không bao giờ ngớt. - Các cậu í về rồi à? Sao em không mời họ ở nại rùng bữa tối, Scarlett? U đã bảo Poke[1] rọn xêm hai suất nữa. Sao lại mất nục xự xế? - Em nghe họ bàn chuyện chiến tranh phát ớn đến nỗi chắc không chịu đựng nổi qua bữa tối, nhất là nếu ba lại hùa vào chỉ trích ông Lincoln. nữa. - Em thật chả nục xự gì hơn một tên nực điền, ấy nà bà Ellen mấy u đã mất bao nhiêu công bảo ban mà còn vậy. Mà em nại không chùm chăn nữa này! Giời về tối đã dở nạnh! U đã bảo đi bảo nại em cẩn thận kẻo cảm xốt vì ngồi ngoài giời đêm chả có gì phủ nên vai. Vào nhà đi, Scarlett! Scarlett ngoảnh đi chỗ khác không nhìn Mammy, chủ tâm làm ra vẻ hờ hững, bụng mừng thầm vì Mammy đang mải nhắc nhở chuyện choàng khăn, không để ý thấy sắc diện cô. - Không, em muốn ngồi đây ngắm mặt trời lặn. Cảnh đẹp quá! U chạy vào lấy khăn đi. Hộ em, u nhé, em sẽ ngồi đây cho đến khi ba về. - Rọng cô nói nghe dư nà bị nhiễm nạnh rồi đấy, Mammy nói, vẻ ngờ vực. - Chà, em có sao đâu, Scarlett sốt ruột nói. U đi kiếm khăn cho em đi. Mammy lạch bạch quay vào tiền sảnh và Scarlett nghe thấy bà nói vọng lên cầu thang gọi người hầu gái trên gác. - Này, Rosa! Ném cho ta cái khăn của cô Scarlett! Rồi, cao giọng hơn: - Cái con bé da đen vô tích xự! Chả bao dờ thấy nó ở chỗ người ta cần đến nó. Thế nà mình nại phải neo nên tự nấy xuống. Scarlett nghe thấy các bậc cầu thang cọt kẹt và nhẹ nhàng đứng dậy. Khi nào Mammy trở lại, hẳn bà lại tiếp tục lên lớp về chuyện không hiếu khách, mà Scarlett thì cảm thấy mình không đủ sức chịu đựng những lời lải nhải về một vấn đề vớ vẩn như vậy trong khi tim cô như muốn vỡ nát. Trong khi đang tần ngần đứng, tự hỏi không biết có chỗ nào trốn tạm được cho đến khi nguôi bớt cơn nhói buốt trong ngực, một ý nghĩ chợt nảy ra trong óc cô, mang tới một tia hi vọng nhỏ nhoi. Chiều nay, ba cô đã phóng ngựa sang trại Mười Hai Cây Sồi, đồn điền của gia đình Wilkes, để xin mua Dilcey, cô vợ to béo của gã người hầu Pork. Dilcey là quản gia kiêm hộ sinh ở trại Mười Hai Cây Sồi, và từ sáu tháng nay, sau khi họ lấy nhau, Pork đã ngày đêm kèo nèo xin ông chủ mua Dilcey về để hai vợ chồng được chung sống trong cùng một đồn điền. Chịu không được, chiều nay, ông Gerald đành đến xin mua Dilcey. “Chắc chắn ba sẽ biết cái câu chuyện ghê gớm ấy có thật hay không, Scarlett nghĩ. Ngay cả nếu chiều nay ba không nghe được điều gì cụ thể thì chắc cũng nhận thấy điều gì, cảm thấy một sự nhộn nhịp nào đó trong gia đình Wilkes. Nếu mình gặp riêng được ba trước khi ăn tối, có lẽ mình sẽ khám phá ra sự thật, có nghĩa đó chỉ là một trong những kiểu đùa thô bỉ của hai anh em sinh đôi nọ mà thôi.” Đã đến giờ ông Gerald phải trở về, nếu Scarlett muốn gặp ông một mình thì không có cách nào khác là ra đón ở chỗ lối xe chạy trong ấp đâm ra đường cái. Cô lặng lẽ bước xuống bậc thềm trước nhà, thận trọng ngoái lại nhìn để chắc chắn là Mammy không theo dõi mình từ cửa sổ trên gác. Không thấy khuôn mặt da đen to bè chít khăn trắng toát nào quàu quạu nhòm qua khe hở giữa hai tấm rèm lay động, cô mạnh dạn vén cao chiếc váy xanh in hoa và thoăn thoắt lao về phía lối sỏi, cố bước rảo hết mức đôi dép lê quai mỏng cho phép. Những cây tuyết tùng sẫm bóng hai bên lối xe chạy rải sỏi giao nhau trên đầu, tạo thành một đường hầm dài âm u. Dưới những cành sứt sẹo của rặng tuyết tùng, Scarlett biết chắc không con mắt quan sát nào có thể nhìn thấy mình và cô chậm bước lại. Cô thở hổn hển vì chiếc corset thặt quá chặt không cho phép chạy nhiều, nhưng cô vẫn đi nhanh hết sức mình. Chẳng mấy chốc cô đã tới cuối lối đi và ra đường cái chính nhưng cô chỉ dừng lại sau khi qua khúc quành có một lùm cây lớn chắn giữa cô và ngôi nhà. Mặt đỏ bừng và thở dốc, Scarlett ngồi xuống một gốc cây cụt đợi cha. Đã quá giờ ông phải có mặt ở nhà, nhưng cô mừng là ông về muộn. Sự chậm trễ đó khiến cô có thời gian trấn tỉnh, lấy lại nhịp thở và sắc mặt bình thường để ông Gerald khỏi sinh nghi. Lúc nào cô cũng ngỡ nghe thấy tiếng vó ngựa của ông và trông thấy ông lao thẳng lên đồi với tốc độ tưởng đến ngã gẫy cổ như ông vẫn thường phóng. Nhưng thời gian cứ trôi qua, mà ông Gerald vẫn chưa về. Scarlett phóng mắt nhìn xuôi con đường tìm ông, nỗi đau lại cuộn lên trong tim. “Ôi, chuyện đó không thể là thật được!” Cô nghĩ. “Tại sao mãi ba chưa về nhỉ?” Mắt cô dõi theo con đường ngoằn ngoèo giờ đây đỏ như máu sau trận mưa buổi sáng. Cô hình dung tuyến đường chạy xuống đồi tới con sông Flint lờ lững, qua những đầm lầy nhằng nhịt rồi lại ngược lên con dốc khác đến trại Mười Hai Cây Sồi, nơi Ashley sống. Đó là tất cả ý nghĩa của đường này, con đường dẫn tới Ashley và tòa nhà đẹp đẽ có hàng cột trắng ngự trên đồi như một ngôi đền Hy Lạp. “Ashley, Ashley!” Cô nghĩ, tim đập nhanh hơn. Cô tạm gác cái cảm giác lạnh buốt, hoang mang và bất hạnh đè nặng trong lòng từ lúc hai anh em nhà Tarleton cho cô biết cái tin đồn nọ; thay vào đó, lại trào lên cơn sốt đã xâm chiếm cô suốt hai năm nay. Kể cũng lạ, suốt thời kỳ vị thành niên, cô chẳng bao giờ thấy Ashley hấp dẫn đến thế. Thuở bé, cô dửng dưng nhìn chàng đến rồi đi, chẳng hề bận tâm. Nhưng kể từ cái ngày cách đây hai năm khi Ashley vừa từ cuộc viễn du châu Âu ba năm trở về, sang chào gia đình nhà O’Hara, cô đã đem lòng yêu chàng. Sự viêc đơn giản như vậy thôi. Hôm ấy, cô đang ở hiên trước và chàng phóng ngựa ngược lên lối đi dài giữa hàng cây, mình mặc bộ đồ đen mỏng màu xám với một chiếc cà vạt làm nổi bật chiếc sơ mi may xếp nếp. Ngay cả bây giờ cô vẫn nhớ từng chi tiết y phục của chàng, đôi ủng bóng lộn, chiếc ghim cà vạt có hình đầu Medusa[2] bằng đá chạm, chiếc mũ panama rộng mà chàng lập tức cất khỏi đầu khi nhìn thấy cô. Chàng xuống ngựa, quẳng dây cương cho một thằng bé da đen, và đứng lại nhìn cô, một nụ cười làm nở rộng cặp mắt xám mơ màng và ánh nắng rực rỡ đùa trong mái tóc vàng rơm khiến nó giống như một chiếc mũ bạc lấp lánh. Và chàng thốt lên: “Ôi, cô đã thành người lớn rồi, Scarlett!” Rồi chàng thoăn thoắt bước lên thềm, hôn tay cô. Mà giọng chàng mới êm ái làm sao! Cô không sao quên được cái giật thót nơi tim khi nghe thấy chàng cất lời như thể lần đầu tiên cô phát hiện ra cái giọng sang sảng, giàu nhạc tính và hơi chậm rãi ấy. Từ phút đầu tiên ấy, cô đã cảm thấy cần chàng, đơn giản và tự nhiên như cần thức ăn để ăn, cần ngựa để cưỡi, cần một cái giường êm để ngã lưng vậy. Trong hai năm, chàng đã tháp tùng cô đi khắp hạt, đến vũ hội, đến các cuộc họp mặt nho nhỏ, những cuộc picnich ngoài trời, các buổi đi câu, các hội hè đình đám. Chàng không năng đến thăm cô bằng hai em nhà Tarleton hay Cade Calvert. Không bao giờ xoắn xuýt như mấy cậu trai nhà Fontaine, nhưng không tuần nào chàng không sang chơi bên ấp Tara. Đúng là chàng chưa bao giờ tán tỉnh cô, cặp mắt xám nhạt của chàng chưa bao giờ bừng lên cái ánh rừng rực mà cô rất quen thuộc ở những đàn ông khác. Tuy nhiên..., tuy nhiên... cô biết Ashley yêu cô. Điều đó cô không thể lầm được. Bản năng mạnh hơn lý trí và hiểu biết nảy sinh từ kinh nghiệm bảo cô rằng chàng yêu cô. Quả nhiên lần cô đã bất chợt thấy chàng nhìn cô không phải bằng cặp mắt lim dim, hoặc xa vắng, mà là với một niềm khao khát và một vẻ buồn khiến cô đâm bối rối. Cô biết Ashley yêu cô. Tại sao chàng không nói với cô thế? Điều đó, cô quả không hiểu. Song, ở chàng có biết bao điều mà cô không sao hiểu nổi. Bao giờ chàng cũng lịch sự, nhưng vẫn cách biệt, xa vời. Không ai biết được chàng nghĩ gì, và Scarlett lại càng không biết. Ở một nơi mà ai nấy đều đoán ngay được chính xác điều người bên cạnh mình đang nghĩ, sự kín đáo của Ashley thật lộn ruột. Chàng thành thạo không kém gì các thanh niên khác trong các thú tiêu khiển thông thường trong hạt, nào săn bắn, nào cờ bài, khiêu vũ, nào bàn luận chính trị, và là kỵ sĩ cừ nhất trong bọn họ; nhưng chàng khác tất cả bọn họ ở chỗ chàng không coi những hoạt động thú vị ấy là cứu cánh và mục đích của đời mình. Và chàng là người duy nhất quan tâm đến sách vở, âm nhạc và thích làm thơ. Ôi, tại sao chàng lại có mái tóc vàng rơm đẹp đến thế, lại vừa lịch sự, vừa cách biệt đến thế, tại sao chàng toàn giở chuyện Châu Âu, chuyện sách vở, âm nhạc, thơ ca cũng những điều cô không hề quan tâm, cứ thế nói hoài, chán phát điên lên được, mà vẫn... đáng yêu đến thế? Hết đêm này sang đem khác, khi về giường nằm sau những lúc cùng ngồi với chàng ở hiên trước trong bóng nhập nhoạng tranh sáng tranh tối, Scarlett cứ trăn trở hàng giờ không ngủ được, và chỉ còn biết tự an ủi với ý nghĩ ràng lần tới gặp cô, chắc chắn chàng sẽ ngỏ lời cầu hôn. Nhưng lần sau đến rồi qua, kết quả vẫn chẳng có gì - ngoại trừ một điều là cơn sốt ngự trong cổ càng dâng cao và thiêu đốt dữ dội hơn. Cô yêu chàng, cô cần có chàng mà cô không hiểu nổi chàng. Cô tự nhiên và giản dị như ngọn gió thổi trên miền Tara, như con sông màu hoàng thổ uốn khúc qua đây và cho đến trọn đời, cô ắt cũng không hiểu nổi bất kỳ điều gì phức tạp. Thế mà giờ đây, lần đầu tiên cô phải đương diện với một bản chất phức tạp. Bởi lẽ Ashley thuộc về một dòng loại người dùng thì giờ rảnh của mình để suy nghĩ chứ không phải để hành động, để theo đuổi những giấc mơ lung linh màu sắc không chứa một chút gì là thực tế. Ashley vận động trong một thế giới nội tâm đẹp hơn xứ Georgia và chỉ quay về thực tế một cách miễn cưỡng. Chàng nhìn mọi người với tư cách một khán giả, không yêu mà cũng chẳng ghét. Chàng nhìn cuộc đời không phấn hứng mà cung chẳng sầu tư. Vũ trụ và chỗ đứng của chàng trong đó như thế nào, chàng chấp nhận như vậy và, nhún vai, chàng quay trở về với âm nhạc, sách vở và cái thế giới tốt đẹp hơn của mình. Cô không biết tại sao chàng lại khiến cô mê mẩn, trong khi tâm tưởng hai người hoàn toàn xa lạ với nhau. Chính cái bí mật nơi chàng lại kích thích tò mò của cô như một cái cửa không có cả ổ khóa lẫn chìa khóa. Những điều cô không thể hiểu ở chàng chỉ khiến cô thêm yêu chàng và sự bộc lộ tình cảm kỳ lạ, dè giữ của chàng chỉ làm cô thêm quyết tâm chiếm đoạt chàng cho riêng mình. Về chuyện một ngày kia chàng sẽ ngỏ lời cầu hôn, cô không bao giờ nghi ngờ gì cả: cô quá trẻ và quá được nuông chiều nên chưa bao giờ biết mùi thất bại. Và giờ đây, tin dữ đến như một tiếng sét. Ashley sẽ lấy Melanie! Điều đó không thể là sự thật được! Ờ, mới tuần trước, khi hai người từ đồn điền Ngọn Đồi Đẹp phóng ngựa về nhà vào lúc chập choạng tối, chàng còn nói: “Scarlett, tôi có một điều rất quan trọng muốn nói với cô, nhưng tôi không biết nói như thế nào”. Cô đã e lệ cụp mắt xuống, tim đập cuồng loạn vì vui sướng, ngỡ giờ phút hạnh phúc đã tới. Thế rồi chàng nói: “Bây giờ chưa phải lúc. Chúng mình đã gần đến nhà, không đủ thì giờ nữa. Scarlett ơi, tôi thật hèn nhát biết bao!”. Và chàng thúc ngựa phi nước đại lên đồi Tara. Ngồi trên gốc cây cụt, Scarlett ngẫm nghĩ về những lời ấy, những lời đã từng khiến cô xiết bao sung sướng, nhưng giờ đây lại mang một ý nghĩa khác, một ý nghĩa gớm ghiếc. Ngộ nhỡ điều chàng định nói với cô bữa ấy lại chính là cái tin chàng đính hôn với Mely! Ôi, sao mãi ba chưa về nhỉ?! Cô không đủ sức chịu đựng nỗi khắc khoải chờ đợi lâu hơn nữa. Sốt ruột, cô lại phóng mắt nhìn suốt con đường và lại thất vọng. Mặt trời lúc này đã xuống dưới đường chân trời và cái quầng đỏ ở rìa trái đất đã nhạt đi thành màu hồng. Bầu trời bên trên từ xanh thẫm dần dần chuyển sang màu lam lơ thanh nhã của trứng chim ức đỏ và cái tịch lặng siêu phàm của hoàng hôn đồng nội rón rén bao quanh cô. Màn tối trườn lên cảnh thôn dã. Những luống đất đỏ và con đường như cái sẹo đỏ dài đã mất cái màu ma quái để trở thành đất nâu bình dị. Bên kia đường, trên bãi cỏ chăn súc vật, ngựa, là và bò lặng lẽ đứng, thò đầu bên trên rào ngăn, đợi người đưa về chuồng ăn tối. Chúng không thích bóng đen sậm của những lùm cây bao quanh bãi cỏ và chúng hướng về Scarlett vẫy vẫy tai như tán thưởng sự bầu bạn của con người. Trong cái ánh tranh sáng tranh tối kỳ lạ, những cây thông cao bên bờ sông, lúc nắng thì rực rỡ một màu xanh ấm áp là thế, giờ đen sậm trên nền trời màu tùng lam như một hàng dày đặc những người khổng lồ đen xì, đứng che dòng nước vàng đục lặng lờ chảy dưới chân chúng. Trên ngọn đồi trấn ngự bờ bên kia, những ống khói cao quét vôi trắng của nhà Wilkes nhòa dần vào khối đen những cây sồi to lớn vây quanh, và chỉ những điểm sáng xa tít của những ngọn đèn trên bà ăn bữa tối là chứng tỏ có một ngôi nhà ở đó. Hương mùa xuân ấm áp đượm hơi nước ngọt ngào ôm ấp lấy cô trong những mùi âm ấm phả ra từ đất mới cày đảo cùng tất cả những mầm xanh mơn mởn đang nhú lên. Cả trời hoàng hôn lẫn mùa xuân cùng cây cỏ tươi xanh mới nảy lộc không phải là phép màu kì diệu gì đối với Scarlett. Cô chấp nhận vẻ đẹp của những thứ ấy cũng tự nhiên như khí trời cô thở, như nước cô uống, vì cô không bao giờ ý thức thấy cái đẹp ở những gì khác ngoài dung nhan phụ nữ, ngựa, xiêm áo lụa là và những thứ tương tự sờ mó được. Tuy nhiên, cái ánh tranh sáng tranh tối thanh bình trên những đồng ruộng được chăm sóc tốt của ấp Tara vẫn phần nào làm dịu tâm trí rối bời của cô. Cô yêu đất này xiết bao, thậm chí tới mức không biết là mình yêu nó, yêu như yêu gương mặt mẹ cô dưới ánh đèn vào giờ cầu nguyện. Vẫn không thấy dấu hiệu gì của ông Gerald trên con đường ngoằn ngoèo lặng lẽ. Nếu phải đợi thêm nữa, chắc chắn Mammy sẽ tìm ra và cự nự bắt cô vào nhà. Nhưng trong khi đang căng mắt ra nhìn con đường đang tối dần, cô bỗng nghe thấy tiếng vó nện giòn giã ở mạn cuối đồi cỏ và trông thấy đám bò, ngựa sợ hãi chạy tán loạn. Ông Gerald O’Hara phóng hết tốc lực băng qua đồng về nhà. Ông phi nước đại lên đồi trên con ngựa săn thân to mập, chân dài, trông xa như một chú bé trên một con chiến mã quá lớn. Mái tóc bạc dài bay ngược lại đằng sau, ông hò hét, ra roi thúc ngựa tiến tới. Mặc dầu lòng đầy lo âu khắc khoải, Scarlett vẫn ngắm cha với một niềm tự hào trìu mến, vì ông Gerald quả là một kỵ sĩ xuất sắc. “Mình không hiểu tại sao cứ uống một vài chén là ba lại thích cho ngựa nhảy qua hàng rào”, cô nghĩ. “Và sau cái lần ngã gẫy xương đầu gối năm ngoái ngay tại đây, tưởng là ba đã biết thân. Nhất là khi ba thề với mẹ là sẽ không bao giờ cho ngựa nhảy nữa.” Scarlett không hề sợ cha, và cảm thấy ông là người gần gũi với mình hơn cả các em gái,vì việc giấu vợ chuyện cho ngựa nhảy qua hàng rào đem lại cho ông một niềm tự hào trai trẻ cùng một niềm vui tội lỗi không kém gì sự thích thú của cô khi đánh lừa được Mammy. Cô đứng dậy để theo dõi ông cho kỹ. Con ngựa to lớn tới chỗ hàng rào, thu mình nhảy vọt qua nhẹ nhàng như một con chim, người kỵ sĩ reo lên phấn khởi, quất roi vào không khí, những lọn tóc bạc phất phơ sau gáy. Ông Gerald không trông thấy con gái đứng dưới bóng cây, ông ghìm cương dừng lại trên đường cái, vuốt ve bờm ngựa ra ý ngợi khen. Trong cả hạt này, thậm chí là trong toàn bang, không có con nào khác sánh kịp mày, - ông tuyên bố với con tuấn mã, vẻ đầy tự hào, cái âm sắc thổ ngữ hạt Meath của Ireland vẫn còn nặng trong giọng nói, mặc dù ông đã ở Mỹ ba mươi chín năm nay. Rồi ông hối hả vuốt lại tóc, sửa lại chiếc sơ mi xộc xệch, và chiếc cà vạt đã lệch hẳn ra sau tai. Scarlett biết những sang sửa vội vàng ấy của ông cốt để ra mắt vợ với bộ dạng của một người vừa khoan thai cưỡi ngựa về nhà sau khi sang thăm lân bang xóm giềng. Cô cũng biết rằng ông đang tạo cho cô cơ hội duy nhất để khơi chuyện mà không lộ mục đích thật sự của mình. Cô bèn cất tiếng cười. Đúng như dự kiến, tiếng cười làm ông Gerald giật mình, rồi ông nhận ra cô và một vẻ vừa ngượng ngùng vừa thách thức lồ lộ trên bộ mặt hồng hào của ông. Ông xuống ngựa một cách khó nhọc vì đầu gối vẫn còn cứng đơ và quấn dây cương quanh cánh tay, ông tập tễnh về phía Scarlett. - Thế đấy, tiểu thư - ông bẹo má cô và nói, - vậy ra cô đang do thám tôi như Suellen, em gái cô, tuần trước, rồi cô sẽ mách mẹ cô về tôi chứ? Giọng ông trầm, khàn khàn có vẻ bực bội, song đồng thời lại thoáng một nỗi dịu dàng mơn trớn và Scarlett vừa tặc lưỡi trêu chọc vừa vươn tay ra chỉnh lại chiếc cà vạt của cha. Hơi thở của ông phả vào mặt cô sực mùi rượu Bourbon whisky có phảng phất chút hương bạc hà. Người ông còn toát ra mùi thuốc lá nhai, mùi da thuộc đẫm dầu và mùi ngựa, một hỗn hợp những mùi luôn luôn gắn liền với cha cô và, theo bản năng, cô thấy ưa thích ở những người đàn ông khác. - Không, ba à, con đâu có mỏng môi hay hớt lẻo như Suellen, cô trấn an ông và đứng lùi lại ngắm y phục của ông, vẻ thành thạo. Ông Gerald nhỏ người, khoảng hơn một mét rưỡi, nhưng to ngang và cổ bạnh đến nỗi khi ngồi, người không biết dễ tưởng ông to lớn hơn. Thân hình chắc nịch của ông được mang trên đôi chân ngắn, lực lưỡng bao giờ cũng xỏ trong những chiếc ủng da đẹp nhất có thể kiếm được và bao giờ cũng dạng ra như đôi chân của một chú bé vênh váo. Phần lớn những người nhỏ con mà lại tự coi mình là quan trọng, thường đâm ra hơi lố bịch; nhưng gà trống dù còi ở sân nhà vẫn được kính nể và ông Gerald cũng vậy. Không ai dám táo tợn coi ông Gerald O’Hara là một nhân vật nhỏ bé lố bịch. Ông đã sáu mươi tuổi và mái tóc xoăn tít của ông bạc trắng, nhưng gương mặt sắc sảo vẫn chưa có nếp nhăn và đôi mắt nhỏ, đanh thép màu xanh lơ vẫn ánh lên cái nét trẻ trung vô lo của một người chưa bao giờ phải vắt óc suy nghĩ về những vấn đề gay go hơn là việc tính xem còn phải rút bao nhiêu quân bài nữa trong một ván poker. Dù đi dọc ngang khắp đất nước mà ông đã lìa xa từ bao lâu nay, cũng khó mà kiếm được gương mặt nào điển hình Ireland hơn mặt ông - tròn trặn, đỏ đắn, hồng hào, mũi ngắn, miệng rộng và gây gổ. Đằng sau bề ngoài quàu quạu, ông Gerald O’Hara giấu một trái tim dịu dàng âu yếm nhất. Ông không thể chịu đựng được khi thấy một người nô lệ ấm ức vì một lời quở mắng dù đích đáng đến đâu chăng nữa, hoặc nghe thấy một con mèo gào hay một đứa trẻ khóc, nhưng ông lại rất sợ người ta phát hiện ra cái nhược điểm này. Ông không hề biết rằng tất cả những ai gặp ông trong vòng năm phút, đều nhận ra lòng tốt của ông; và lòng tự ái của ông ắt sẽ bị tổn thương nặng nề nếu ông khám phá ra điều đó, bởi vì ông thích nghĩ rằng khi ông thét lác ra lệnh, ai nấy đều run sợ và tuân theo, chưa bao giờ ông nghĩ ra rằng ở đồn điền này, chỉ có một tiếng nói được tuân theo - tiếng nói nhỏ nhẹ của bà Ellen, vợ ông. Đó là một bí mật mà ông sẽ không bao giờ biết được, bởi vì tất cả mọi người, từ bà Ellen cho đến tay lực điền xuẩn ngốc nhất, ai nấy đều ngấm ngầm âm mưu với ý định tốt là giữ sao cho ông vẫn đinh ninh rằng mỗi lời của ông đều là pháp lệnh. Hơn ai hết, Scarlett nhơn nhơn không nao núng trước những cơn nổi giận, hò hét của ông. Cô là con gái cả, và giờ đây, khi ông Gerald biết rằng mình sẽ chẳng thể nào có con trai nào nữa tiếp theo ba đứa hiện đang yên nghỉ ở khu nghĩa trang gia đình, ông đã rơi vào cái thói quen đối xử với cô theo cung cách “giữa-đàn ông-với-nhau” mà cô rất thú. Cô giống cha hơn các em gái, vì Careen, tên khai sinh là Caroline Irene, vốn mảnh dẻ và mơ mộng, còn Suellen, mang tên thánh là Susan Elinor, thì dương dương tự đắc về vẻ tao nhã và cung cách tiểu thư của mình. Hơn nữa, Scarlett và cha cô còn ràng buộc với nhau bằng một thỏa ước “ngậm miệng”. Nếu ông Gerald bắt được cô trèo qua một hàng rào để khỏi phải đi bộ nửa dặm qua cổng hoặc ngồi quá khuya ở thềm trước với một chàng trai đang có ý ngấp nghé thì ông đích thân la mắng kịch liệt, nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến chuyện đó với bà Ellen hoặc với Mammy. Và khi Scarlett khám phá ra rằng ông vẫn cho ngựa nhảy qua rào mặc dầu đã trịnh trọng hứa với vợ không làm thế nữa, hoặc giả biết được đích xác những khoản tiền ông đã thua ở các cuộc chơi bài poker, như bao giờ cô cũng nghe được qua những lời ngồi lê đôi mách trong hạt, cô cũng cố kìm miệng không đả động tới trong bữa ăn tối theo cái kiểu hồn nhiên một cách xảo quyệt của Suellen. Hai cha con Scarlett cam đoan trịnh trọng với nhau rằng nói đến tai bà Ellen những điều như vậy chỉ khiến bà đau lòng và không gì có thể xúi giục họ làm tổn thương đến nhã tâm của bà. Scarlett nhìn cha trong ánh chiều tà và, không hiểu vì sao, bỗng cảm thấy nguôi dịu với sự hiện diện của ông. Ở ông, có một cái gì đầy sức sống, trần thế và thô nháp bao giờ cũng hấp dẫn cô. Vốn thuộc loại người ít có đầu óc phân tích nhất, cô không hiểu đó là vì, ở một mức độ nào, cô cũng có những phẩm chất như thế, mặc dầu suốt mười sáu năm trời, bà Ellen cùng Mammy đã ra công xóa bỏ chúng. - Bây giờ trông ba bảnh ra trò rồi, cô nói, và con chắc không ai có thể ngờ là ba lại giở những ngón cũ nữa, trừ phi ba đem ra khoe. Nhưng con thấy hình như sau lần ba cho ngựa nhảy qua cũng cái hàng rào ấy, ngã rập xương đầu gối hồi năm ngoái... - Hừ, ma quỷ bắt ta đi nếu ta để cho chính con gái ta lên giọng răn bảo ta phải cho ngựa nhảy qua cái gì và không nhảy qua cái gì, ông quát, và lại bẹo má Scarlett. Ta có gẫy cổ cũng thây kệ ta, đừng có giây vào. Với lại, cô tiểu thư làm gì ngoài này mà khăn đâu không quàng vào? Thấy ông giở những thủ đoạn quen thuộc để gỡ ra khỏi câu chuyện chẳng thú vị gì, cô bèn khoác tay ông và nói: - Con ra đón ba. Con không ngờ ba về muộn thế. Con chỉ băn khoăn không biết ba đã mua Dilcey chưa? - Cố nhiên là mua rồi, với cái giá lụn gia bại sản. Mua cả nó lẫn con bé Prissy nhà nó. John Wilkes đã định cho không nhưng ba không đời nào chịu để thiên hạ nói rằng Gerald O’Hara lợi dụng tình bạn trong công việc. Ba bắt bác ấy nhận ba nghìn cả hai. - Trời đất, ba nghìn kia hở ba! Mà ba cần gì mua Prissy! - Phải chăng đã đến lúc các con gái tôi phán xử tôi? Ông Gerald khoa trương kêu lớn - Prissy là một con bé. - Con lạ gì nó. Nó vừa giảo quyệt vừa ngu xuẩn, Scarlett bình tĩnh đáp, vẻ tỉnh khô trước sự quát tháo của ông. Lý do duy nhất khiến ba mua nó, là vì Dilcey yêu cầu ba thế. Ông Gerald có vẻ tiu nghỉu và lúng túng như tất cả mọi lần bị bắt quả tang làm điều thiện và Scarlett thẳng thắn cười giễu ý đồ lộ liễu của ông. - Ừ, thế thì đã sao? Nếu ta mua Dilcey để rồi nó lại rầu rĩ vì phải xa con bé thì phỏng có ích gì? Thôi được, ta sẽ chẳng bao giờ để cho một thằng da đen nào ở đây lấy vợ ngoài đồn điền nữa. Tốn tiền quá. Thôi nào, mèo con, chúng mình vào nhà ăn tối đi. Giờ đây bóng tối đổ xuống dày đặc hơn, vệt xanh cuối cùng đã tắt lịm trên bầu trời và một chút ớn lạnh đã thay thế hơi ấm mùa xuân. Nhưng Scarlett vẫn lần chần nán lại, chưa biết làm cách nào để khơi chuyện về Ashley mà không khiến ông Gerald sinh nghi. Điều đó quả là khó, vì Scarlett không có một chút gì là lèo lái khôn ngoan trong người, và ông Gerald thì lại giống cô đến mức chẳng khi nào không đoán ra những mẹo vặt của cô cũng như cô bao giờ cũng biết tỏng các mánh khoé của ông. Mà về điểm này, ông cứ thẳng thừng, chẳng cần tế nhị gì cả. - Mọi người bên trại Mười Hai Cây Sồi thế nào, ba? - Cũng đại loại như mọi khi. Cade Calvert cũng ở đó và sau khi giải quyết chuyện Dilcey xong xuôi, bọn họ với ba ra hiên ngồi, làm mấy ly Toddy[3]. Cade vừa ở Atlanta về và ở đấy mọi sự rối tinh rối mù, họ toàn nói chuyện chiến tranh và... Scarlett thở dài. Nếu ông Gerald lao và đề tài chiến tranh và ly khai thì phải mất hàng tiếng đồng hồ trước khi ông dứt chuyện. Cô bèn xen vào, xoay đầu đề câu chuyện sang một hướng khác. - Họ có nói gì về bữa tiệc ngoài trời ngày mai không? - À, có đấy. Tiểu thư... gì nhỉ?... Cái cô bé dịu dàng năm ngoái sang đây chơi, con biết đấy, em họ Ashley ấy mà... À phải, Melanie Hamilton, đúng tên cô ta là thế, cô ta vừa ở Atlanta tới cùng với anh trai là Charles và... - Ồ, vậy ra họ đã tới rồi hở ba? - Phải, và cô ấy thật nhu mì, điềm tĩnh làm sao, không hề nói một lời về bản thân mình, thật đúng là một phụ nữ đoan trang. Thôi nào, con gái đừng lề mề nữa, kẻo mẹ lại đi tìm bố con mình. Tim Scarlett trĩu xuống khi nghe tin đó. Bất chấp mọi sự, cô vẫn hi vọng rằng một chuyện gì đó sẽ giữ Melanie Hamilton lại Atlanta là nơi chốn thích hợp với cô ta và khi thấy ngay cả cha mình cũng khen cô ta dịu dàng điềm tĩnh khác hẳn tính cách cô thì Scarlett không dừng được nữa, bật ra: - Thế Ashley cũng ở đấy chứ? - Ừ, ông Gerald buông cánh tay con gái ra và quay lại nhìn xoáy vào mặt cô. Nếu vì chuyện ấy mà con ra đây chờ ba thì tại sao không hỏi thẳng mà cứ quanh co mãi? Scarlett không nghĩ ra được điều gì để nói và cảm thấy mặt mình đỏ dừ lên vì ngượng. - Nào, nói đi! Cô vẫn không nói gì, lòng thầm cầu ước giá như người ta được phép đánh cha, bắt cha phải im mồm. - Nó có ở đấy và nó hỏi thăm con rất thân ái, cũng như các em gái nó, chúng hi vọng không có chuyện gì ngăn con không đến bữa tiệc ngoài trời ngày mai. Ba sẽ đảm bảo không có gì ngăn trở, ông ranh mãnh nói. Thế nào, con gái, giữa con và Ashley có chuyện gì vậy? - Chẳng có chuyện gì hết, cô nói gọn lỏn và kéo tay cha. Ta vào nhà đi thôi, ba. - Vậy bây giờ đến lượt cô muốn vào nhà đấy, ông nhận xét. Nhưng tôi sẽ đứng ì đây cho đến khi nào tôi hiểu rõ ý định của cô ra sao. Bây giờ nghĩ lại, ba thấy con dạo này thật kỳ. Nó có lăng nhăng với con không? Nó có hỏi lấy con làm vợ không? - Chưa, cô đáp gọn lỏn. - Và sẽ không bao giờ nó hỏi đâu, ông Gerald nói. Lửa giận bùng lên trong cô, nhưng ông Gerald khoát tay ra hiệu cho cô bình tĩnh. - Khoan hẵng mở miệng, tiểu thư! Chiều nay, bác John Wilkes đã tâm sự rất bí mật với ba là Ashley sẽ cưới tiểu thư Melanie. Ngày mai sẽ tuyên bố đính hôn. Scarlett buông cánh tay cha. Vậy ra chuyện đó là có thật! Một nỗi đau chém phập vào tim cô cuồng bạo như nanh vuốt một con thú dữ. Qua cơn bàng hoàng, cô cảm thấy cha nhìn mình đăm đăm, phần thương hại, phần bực bội vì phải đứng trước một vấn đề mà ông không biết giải đáp ra sao. Ông yêu Scarlett song ông thấy khó chịu mỗi khi cô buộc ông phải tìm đáp số cho những bài toán con nít của cô. Bà Ellen nắm được mọi lời giải đáp, đáng lẽ ra Scarlett nên đem những điều phiền muộn của mình kể với mẹ mới đúng. - Cô tự biến mình, biến cả nhà ta thành trò cười cho thiên hạ đó chăng? Ông oang oang cất cao giọng như trong tất cả những lúc bị kích động. Vậy là cô đã chạy theo một thằng đàn ông không yêu cô, trong khi cô có thể muốn bất kỳ chàng công tử nào trong hạt này cũng xong ngay? Phẫn nộ và lòng tự hào bị tổn thương dìm bớt phần nào nỗi đau. - Con đâu có chạy theo anh ta. Chuyện đó... Chuyện đó chỉ làm con bất ngờ thôi. - Cô nói dối! Ông Gerald nói, rồi nhìn vào bộ mặt rã rời của cô, ông nói thêm trong một bùng nổ yêu thương. Ba xin lỗi, con gái. Nhưng xét cho cùng, con vẫn chỉ là một cô bé và các chàng phò mã khác còn hàng đống, đâu có thiếu. - Mẹ lấy ba lúc mới mười lăm tuổi, mà con thì bây giờ đã mười sáu, Scarlett nói giọng tắt ngắm. - Mẹ cô khác, ông Gerald nói. Bà ấy không bao giờ lông bông như cô. Thôi nào, con gái, vui vẻ lên, tuần sau ba sẽ đưa con đến Charleston, thăm cô Eulalie, rồi ở đấy, với những chuyện um xùm họ kháo nhau xung quanh pháo đài Sumter, chỉ một tuần lễ là con sẽ quên Ashley thôi. “Ba vẫn cho mình là một đứa con nít”, sầu tủi và cuồng nộ làm cô uất nghẹn không thốt nên lời, “chỉ cần dứ một thứ đồ chơi mới là làm cho mình quên đau ngay”. - Này, đừng có hất hàm với tôi, ông Gerald cảnh báo, Giá cô khôn ngoan biết điều ra thì đáng lý cứ lấy quách Stuart hay Brent Tarleton từ lâu cho xong. Nghĩ kỹ xem, con gái ạ. Con lấy một trong hai anh em sinh đôi, rồi hai đồn điền sẽ nhập làm một và bác Jim Tarleton với ba sẽ xây cho con một ngôi nhà thật đẹp ngay ở chỗ giáp ranh, trong khu rừng thông lớn kia và... - Ba thôi đi, đừng có dỗ con như dỗ trẻ nữa! Scarlett kêu lên. Con không muốn đi Charleston, hoặc có một ngôi nhà, hoặc lấy hai anh em sinh đôi nọ. Con chỉ muốn... Cô kìm lại, nhưng không kịp. Giọng ông Gerald bình tĩnh lạ lùng và ông nói chậm rãi như rút từng chữ ra từ một kho ý nghĩ ít khi dùng tới. - Cô chỉ muốn có Ashley và cô sẽ chẳng được nó đâu. Mà ví dụ nó có muốn cưới cô thì nếu tôi có ưng thuận cũng chỉ vì tình bạn đẹp đẽ giữa tôi và John Wilkes thôi, chứ tôi vẫn cứ e ngại lắm. Và thấy vẻ sửng sốt của cô, ông nói tiếp, ba muốn con gái của ba hạnh phúc, mà lấy nó thì con chả hạnh phúc đâu. - Ồ, có chứ! Có chứ! - Không đâu, con gái ạ. Chỉ khi nào hai người giống nhau kết duyên thì mới có hạnh phúc. Scarlett đột nhiên muốn kêu lên để lật tẩy cha: “Như ba mẹ đâu có giống nhau mà vẫn hạnh phúc đấy thôi”, song cô kìm lại, sợ bị bợp tai về tội láo xược. - Người nhà mình với người bên gia đình Wilkes khác nhau, ông chậm rãi nói tiếp, lúng búng tìm chữ. Gia đình Wilkes không giống ai trong số láng giềng của chúng ta - khác mọi gia đình ba quen biết xưa nay. Họ là những kẻ kỳ cục và tốt nhất là họ để cho anh chị em họ lấy nhau đặng giữ lại tính kỳ cục trong nội bộ. - Ồ ba, Ashley không hề... - Im cái mồm, mèo con! Ba không chê trách gì chàng trai ấy vì ba cũng mến nó. Và ba nói kỳ cục không phải với nghĩa là điên rồ. Nó không kỳ cục theo kiểu anh em nhà Calvert sẵn sàng đánh cá tất cả gia sản vào một con ngựa; hoặc như vợ chồng nhà Tarleton cứ mỗi lứa đẻ lại sản xuất ra một, hai thằng say, hoặc như anh em nhà Fontaine, những tên cục súc, nóng đầu có thể giết người vì một sự xúc phạm tưởng tượng. Cái kiểu kỳ cục ấy rõ ràng và dễ hiểu và nếu không nhờ Chúa thương, thì Gerald O’Hara này hẳn cũng có tất cả những khuyết tật ấy! Và ba cũng không muốn nói rằng nếu con là vợ Ashley, nó sẽ bỏ trốn, chạy theo một con đàn bà khác, hoặc đánh đập con. Nếu thế thì con còn đỡ hơn, và chí ít con còn có thể hiểu được điều đó. Nhưng nó lại kỳ cục theo cách khác và thật quả không ai có thể hiểu nổi nó. Ba mến nó, song phần lớn những điều nó nói, ba chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Này, mèo con, nói thật cho ba nghe, con có hiểu những lời lẽ dớ dẩn của nó về sách vở, thơ ca, âm nhạc, tranh sơn dầu và những thứ ấm ớ tương tự không? - Ồ ba - Scarlett sốt ruột kêu lên - nếu con lấy anh ấy, con sẽ thay đổi mọi cái đó! - À, cô sẽ thay đổi, thế bây giờ cô có thay đổi được không? Ông Gerald cáu kỉnh nói, phóng vào cô một cái nhìn sắc nhọn. Vậy ra, cô chả hiểu mấy tí về đàn ông nói chung, khoan nói đến Ashley vội. Xưa nay chưa có người vợ nào thay đổi chồng được mảy may, con chớ quên điều đó. Còn như thay đổi một người thuộc gia đình Wilkes... Ôi, Chúa trời mặc quần đùi, con gái ạ. Cả gia đình ấy là như thế và xưa nay họ vẫn thế, và có lẽ sau này, cũng vẫn là như thế. Ba xin đoán chắc với con tính kỳ cục của họ là bẩm sinh. Con cứ xem cái cung cách họ hớt hơ hớt hải phóng lên New York và Boston để nghe opera, và xem tranh sơn dầu! Và lại còn đặt mua của bọn Yankee hàng hòm sách Pháp, sách Đức nữa chứ! Thế rồi cứ ngồi ì ra đấy mà đọc, mà mơ mộng những gì những gì có Trời mới biết được, trong khi đáng ra nên để thì giờ mà săn bắn, mà đánh poker như những người đàn ông chân chính. - Trong cả hạt này, không có ai cưỡi ngựa cừ hơn Ashley, - Scarlett nói, tức điên khi thấy cha mình đem cái này lại cái nọ gièm pha Ashley - không ai hết, họa chăng chỉ trừ cha của anh ấy. Còn về đánh bài poker, thì vừa mới tuần trước, Ashley chả được ba hai trăm đô la ở Jonesboro là gì? - Mấy thằng ranh nhà Calvert lại bép xép rồi, ông Gerald chịu thua nói, nếu không thì cô đã chẳng biết được tổng số là bao nhiêu. Ashley có thể đọ được với kỵ sĩ giỏi nhất, với tay chơi poker cừ nhất - đó là ta, mèo con ạ! Và ta cũng không chối cãi rằng khi nó ra tay thi thố uống rượu, thậm chí nó có thể cho hai anh em nhà Tarletons đổ quay cu lơ dưới gầm bàn. Nó có thể làm mọi thứ đó, song nó không để tâm vào đó. Chính vì thế mà ta bảo nó kỳ cục. Scarlett lặng thinh và tim cô se lại. Cô không thể nghĩ ra điều gì để bác lại nhận xét cuối cùng này vì cô biết rằng ông Gerald nói đúng. Ashley không đặt trái tim vào bất kỳ điều gì trong số những ngón vui chơi mà chàng rất thành thạo. Chàng không bao giờ quan tâm quá mức xã giao đến bất kỳ cái gì trong số những điều được mọi người khác coi là thiết yếu. Diễn giải chính xác sự im lặng của cô, ông Gerald vỗ vỗ vào cánh tay con gái, lên giọng đắc thắng: - Đấy nhé Scarlett, cô phải thừa nhận cái đó là đúng! Cô sẽ làm gì với một anh chồng như Ashley nào? Họ hâm tuốt, cả đám nhà Wilkes ấy! Rồi bằng một giọng dỗ dành. - Lúc nãy khi ba nhắc đến anh em Tarleton, không phải là ba muốn tiến cử chúng. Đó là những thanh niên ưu tú, nhưng nếu con định nhắm Cade Calvert thì, chậc! Ba thấy cũng chả sao. Tất cả gia đình Calvert đều là người tốt, mặc dầu ông già lấy vợ người Yankee... Và khi nào ba mất... Im, con gái yêu, hãy nghe ba nói đã! Ba sẽ để lại ấp Ta ra cho con và Cade... - Có các vàng con cũng chả thèm lấy Cade, Scarlett giận dữ kêu lên - Và con xin ba đừng có gán hắn ta cho con. Con chả cần ấp Ta ra hay bất kỳ đồn điền nào. Đồn điền thì có nghĩa gì khi... Cô đã sắp sửa nói “khi người ta cần thì lại không có”, nhưng ông Gerald, điên tiết vì thái độ ngạo mạn của cô đối với món quà ông vừa đề xuất, cái mà ông yêu quý nhất trên đời sau bà Ellen, ông liền gầm lên. - Scarlett O’Hara, mày dám bảo tao là ấp Tara - mảnh đất này - chẳng có nghĩa gì phỏng? Scarlett bướng bỉnh gật đầu. Nỗi đau quá lớn khiến cô bất chấp sự nổi giận của cha. - Ruộng đất là cái duy nhất trên đời có một ý nghĩa nào đó, ông quát lên, đôi cánh tay ngắn, lực lưỡng khoa lên, phẫn nộ, - vì đó là cái duy nhất tồn tại lâu dài trên đời này, mày đừng có quên điều đó. Đó là cái duy nhất đáng để cho ta làm việc vì nó, đấu tranh vì nó... đáng để ta chết vì nó. - Ôi, ba - cô ngán ngẩm nói - ba nói như một người Ireland vậy! - Đã có bao giờ ta lấy làm xấu hổ về điều đó? Không, ta còn tự hào là đằng khác. Và cô cũng đừng quên rằng máu cô một nửa là Ireland đấy, tiểu thư ạ. Và đối với bất kỳ ai có một giọt máu Ireland trong người, mảnh đất trên đó họ sống cũng khác nào mẹ của họ. Lúc này, chính là tôi xấu hổ về cô đấy. Tôi tặng cô mảnh đất đẹp nhất thế giới - không kể hạt Meath bên cố quốc - thế mà cô đáp lại như thế nào? Cô khịt mũi chê! Ông Gerald đã bốc máu lên định quát tháo cho hả cơn giận thì chợt nhận thấy một vẻ thiểu não trên khuôn mặt Scarlett, nên ông ngừng lại: - Nhưng thôi, cô còn trẻ. Rồi ra cái lòng yêu ruộng đất ấy sẽ đến với cô. Không cách gì thoát khỏi nó đâu, một khi cô là người Ireland. Giờ đây cô mới là đứa con nít thôi và cô băn khoăn về các chàng phò mã của cô. Khi nào cô lớn tuổi hơn, cô sẽ hiểu ra... Nào quyết định đi! Cade hay cặp anh em sinh đôi, hay một trong những gã con trai của Evan Munroe, và rồi cô sẽ thấy tôi lo liệu cho cô ra sao! - Ồ, ba! Đến đây, ông Gerald đã ngấy câu chuyện đến tận mang tai và hết sức phiền lòng về nỗi vấn đề lại trút lên vai mình. Hơn nữa, ông cảm thấy buồn vì nỗi Scarlett vẫn có vẻ rầu rĩ sau khi được hiến dâng các chàng trai ưu tú nhất trong hạt, lại kèm thêm ấp Tara nữa. Ông Gerald thích các quà tặng của mình được đón nhận bằng vỗ tay và hôn hít. - Thôi, đừng có phụng phịu nữa, tiểu thư. Cô muốn lấy ai thì lấy, cái đó không quan trọng, miễn là gã đó suy nghĩ giống cô và thuộc loại hào hoa phong nhã, người miền Nam và phải giàu lòng tự hào. Đối với phụ nữ, tình yêu đến sau hôn nhân. - Ồ, ba, đó là quan niệm cổ hủ miền lục địa của ba! - Và là một quan niệm tốt đẹp! Ôi, cái thói Mỹ lăng nhăng cưới nhau vì tình yêu như bọn con đòi, bọn Yankee! Những đám cưới tốt đẹp nhất là những đám cha mẹ chọn cho con gái. Bởi vì làm sao một đứa con gái khờ dại như cô có thể phân biệt được một người tốt với một tên khốn kiếp? Cứ xem gia đình Wilkes đấy. Điều gì khiến họ giữ được lòng tự hào và sức mạnh suốt bao thế hệ nay? Ấy bởi vì họ lấy những người giống họ, anh chị em họ lấy nhau, đúng như gia đình họ mong đợi. - Ôi, - Scarlett kêu lên, một cơn đau mới lại xói vào tim khi những lời của ông Gerald khiến cô hiểu ra tính tất yếu dễ sợ của sự thật. Ông Gerald nhìn mái đầu cô cúi gục và bối rối đảo chân tại chỗ. - Con không khóc đấy chứ? Ông hỏi, lóng ngóng luồn tay nâng cằm cô lên, nhăn mặt vì thương xót. - Không, - cô vùng ra, kêu lên giận dữ. - Con nói dối, song ba lại thấy thế làm tự hào. Ba rất mừng thấy con biết tự trọng. Và ba muốn ngày mai ở bữa tiệc ngoài trời, con cũng tự trọng như thế. Ba không muốn cả hạt sẽ xì xào và chê cười con về nỗi để cho con tim héo hắt vì một gã đàn ông chẳng bao giờ dành cho con một ý nghĩ nào vượt quá tình bạn. - “Có chứ”, Scarlett nghĩ thầm, lòng buồn thấm thía. “Ồ, những ý nghĩ chàng dành cho mình vượt quá tình bạn nhiều chứ! Mình biết đúng là thế. Mình có thể nói vậy. Nếu mình có nhiều thì giờ hơn chút ít, mình ắt có thể khiến chàng phải nói... Ôi giá gia đình Wilkes đừng có đinh ninh một mực bao giờ họ cũng phải lấy người trong họ!” Ông Gerald khoác tay con gái. - Bây giờ ta vào nhà ăn tối và chuyện này chỉ ba con ta biết với nhau thôi. Ba sẽ không để mẹ phải băn khoăn về chuyện này... cả con cũng vậy. Hỉ mũi đi! Scarlett hỉ mũi bằng chiếc khăn tay rách và hai cha con tay khoác tay bắt đầu đi theo lối sỏi đã sẫm bóng, con ngựa chậm bước theo sau. Đến gần nhà, Scarlett đang sắp sửa lại lên tiếng thì trông thấy mẹ trong bóng tối lờ mờ dưới hàng hiên. Bà đội mũ chụp đầu, choàng khăn san, đi bao tay và đằng sau bà là Mammy mặt tối sầm như đám mây dông, tay cầm cái túi da màu đen trong đó lúc nào bà Ellen O’Hara cũng mang theo bông băng, thuốc men dùng để chữa bệnh cho đám nô lệ. Môi Mammy dày, trễ xuống và khi phẫn nộ, bà thường thưỡi môi dưới ra dài gấp đôi lúc bình thường. Lúc này nó cũng thưỡi ra và Scarlett biết là Mammy đang sôi tiết về một điều gì bà không tán thành. - Ông O’Hara, - bà Ellen lên tiếng gọi khi trông thấy hai cha con từ con đường xe chạy đi lên, bà thuộc cái thế hệ vẫn giữ nghi thức ngay cả sau mười bảy năm ăn ở với chồng và sinh sáu con. - Ông O’Hara, nhà Slattery có chuyện chẳng lành. Emmie mới sinh nhưng đứa bé sắp chết và cần được rửa tội để đặt tên thánh. Tôi và Mammy sắp sửa sang đến đấy xem có thể giúp được gì chăng. Giọng bà có vẻ dò hỏi như thể thắc thỏm chờ đợi ông Gerald đồng ý với dự định của mình, một thủ tục đơn thuần nhưng rất thiết yếu về mặt tình cảm đối với ông. - Lạy Chúa! Ông Gerald gắt toáng lên - Tại sao cái bọn rác rưởi da trắng ấy lại nhè đúng giờ ăn của người ta mà lôi bà đi vào đúng lúc tôi đang muốn kể cho bà nghe những chuyện họ kháo nhau ở Atlanta về chiến tranh! Ừ thì bà đi, bà O’Hara. Cứ có chuyện rầy rà ở đâu mà bà không có mặt để giúp một tay, là cả đêm bà trằn trọc không yên! - Bà í còn nà chằng chọc không yên với cái kiểu đêm đến nại nóc cóc đi xăn xóc cho bọn da den và bọn Cracker có thể tự no niệu cho mình được, Mammy làu bàu bằng một giọng đều đều khi xuống thang gác đi về phía chiếc xe đang đợi ở ngã đường nhánh. - Con gái yêu ngồi vào chỗ mẹ ở bàn ăn nhé, bà Ellen nói, bàn tay đi găng vỗ nhẹ vào má Scarlett. Mặc dầu đang nghẹn ngào cố kìm nước mắt, Scarlett vẫn thấy lòng rộn ràng dưới cái tác động không bao giờ hết nhiệm màu của bàn tay mẹ vuốt ve, của mùi thơm thoang thỏang cỏ chanh từ cái bao nhỏ đính ở chiếc áo dài lụa sột soạt của bà Ellen. Đối với Scarlett, ở bà Ellen có một cái gì làm người ta rạo rực, một thứ phép mầu cùng sống trong nhà với cô, cùng một lúc khiến cô vừa sợ, vừa mê thích và nguôi dịu. Ông Gerald đỡ vợ lên xe và ra lệnh cho xà ích đánh xe cẩn thận. Toby, người đã điều khiển lũ ngựa của ông Gerald hai mươi năm nay, bĩu môi tỏ vẻ công phẫn một cách lặng lẽ vì bị chỉ bảo dạy dỗ ngay trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Bác đánh xe đi, với Mammy ngồi bên cạnh, mỗi người là một hình ảnh hoàn hảo về thái độ sưng sỉa bất đồng tình của người Phi. - Nếu ta không làm ơn cho cái gia đình Slattery rác rưởi đến mức ấy, ông Gerald tức tối làu bàu, ắt họ đã phải đi kiếm ăn nơi khác, ắt đã bán xới cho ta mấy sào ruộng lầy khốn nạn của họ và hạt này ắt đã xong tội xong nợ với họ. - Thế rồi, mặt ông bỗng sáng lên do nghĩ ra một trò đùa thuộc loại ông vẫn chơi. - Này con gái, chúng mình đến bảo Pork là thay vì mua Dilcey, bố đã bán Pork cho bác John Wilkes đi. Ông quẳng dây cương cho một thằng bé da đen loắt choắt đứng cạnh đấy và bước lên bậc thềm. Ông đã quên phắt nỗi đau nát tim của Scarlett, chỉ còn để tâm trí vào việc trêu chọc người hầu của mình. Scarlett chậm rãi leo các bậc thềm đằng sau ông, chân nặng như đúc bằng chì. Cô nghĩ, xét cho cùng, một cuộc hôn phối giữa cô với Ashley cũng chẳng kỳ cục gì hơn cuộc nhân duyên giữa ông Gerald với bà Ellen Robillard O’Hara. Như mọi lần, cô lại tự hỏi làm sao ông bố lồ ngồ, thiếu tế nhị của cô lại xoay sở lấy được một phụ nữ như mẹ cô, vì quả không thể có hai người khác xa hơn cả về nguồn gốc sinh thành, sự giáo dưỡng về nền nếp sinh hoạt tinh thần. 1. Chính là Pork, bà Mammy phát âm sai.↵ 2. Một trong ba nữ thần Gorgon tóc rắn, có phép biến những ai nhìn mình hóa thành đá.↵ 3. Một thứ rượu mạnh pha đường và nước nóng.↵ CHƯƠNG III Ellen O’Hara ba mươi hai tuổi và, theo chuẩn định của thời ấy, bà là một phụ nữ trung niên đã sinh sáu con, chết mất ba. Bà là một phụ nữ cao lớn, hơn hẳn ông chồng nhỏ bé sôi nổi một cái đầu, nhưng bà di chuyển lặng lẽ trong lớp váy phồng một cách duyên dáng đến nỗi không ai chú ý đến chiều cao của bà. Cổ bà nhô lên từ chiếc áo lót vải mỏng, tròn trặn, thanh thanh, da ngà ngà màu kem và có vẻ như bao giờ cũng hơi ngả về đằng sau do trọng lượng của mái tóc dày dặn thu gọn trong chiếc lưới mé sau đầu. Là con gái của một phụ nữ Pháp mà song thân đã trốn khỏi Haiti hồi Cách mạng 1791, bà thừa kế ở mẹ đôi mắt xếch thẳm tối dưới bóng hàng mi đen nhánh cùng mái tóc màu gỗ mun và giống bố, một người lính của Napoleon ở cái mũi dọc dừa và cái hàm vuông được làm dịu đi bởi đường cong mềm mại của đôi má. Nhưng chỉ có cuộc đời mới đem lại cho bộ mặt của Ellen cái vẻ tự hào mà không bợn chút hợm hĩnh, vẻ duyên dáng, vẻ buồn mang mác, hoàn toàn thiếu vắng nét vui tươi. Lẽ ra bà có thể là một phụ nữ đẹp lạ lùng nếu mắt bà rực sáng một chút hay nụ cười của bà nồng ấm lên một chút, hay giọng bà có thêm chút hồn nhiên cộng với âm sắc êm ái rót vào tai những người trong gia đình và kẻ ăn người làm. Bà nói bằng cái giọng nhẹ nhàng, líu ríu của người miền Duyên hải Georgia - nguyên âm luyến, phụ âm nhấn, với một thoáng lơ lớ giọng Pháp. Bà không bao giờ cao giọng khi sai bảo đầy tớ hoặc mắng mỏ con cái, nhưng ở ấp Tara, hễ cái giọng ấy cất lên là lập tức được tuân theo răm rắp, trong khi những lời quát tháo, hò hét của ông chồng thì bị lờ đi một cách lặng lẽ. Trong tầm xa nhất của trí nhớ Scarlett, mẹ cô trước nay bao giờ cũng vẫn thế, giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng dù khen ngợi hay trách mắng, tác phong đầy hiệu quả và điềm đạm bất chấp những chuyện đột xuất xảy ra hằng này ở cái gia đình xộn rộn của ông Gerald, tinh thần bao giờ cũng bình tĩnh và bất khuất ngay cả trong những lần phải chôn ba đứa con trai mới lọt lòng. Scarlett chưa bao giờ thấy lưng mẹ cô chạm vào lưng chiếc ghế nào bà ngồi vào. Cũng chưa bao giờ cô thấy bà ngồi đâu mà không có một chút đồ khâu trong tay, trừ những bữa ăn, trong khi săn sóc người ốm hay trong khi làm sổ sách kế toán của đồn điền. Khi tiếp khách, trên tay bà luôn luôn có một món đồ thêu, còn những lúc khác bàn tay bà lại bận rộn với những chiếc sơ mi nhàu nát của ông Gerald, những chiếc áo dài của các cô con gái hoặc quần áo của gia nhân. Scarlett không thể hình dung đôi tay mẹ cô thiếu chiếc đê khâu bằng vàng, hoặc cái bóng dáng trong chiếc áo dài sột soạt của bà không kèm theo con bé da đen nhỏ nhắn mà chức năng duy nhất trong đời là tháo chỉ khâu lược và mang chiếc hộp đồ khâu bằng gỗ hồng mộc từ buồng này sang buồng khác khi bà Ellen đi quanh nhà giám sát các công việc nấu nướng, lau chùi và may quần áo hàng loạt cho người làm ở đồn điền. Cô chưa bao giờ thấy mẹ từ bỏ cái vẻ bình thản nghiêm nghị cũng như cách ăn mặc hết sức chỉnh tề, bất kể giờ nào, ngày cũng như đêm. Mỗi khi bà Ellen soạn sửa y phục chính để dự vũ hội, hoặc tiếp khách, hoặc thậm chí để đi Jonesboro, công việc đó thường đòi hỏi cả hai tiếng đồng hồ với Mammy và hai hầu gái phục dịch để đạt đến mức làm bà vừa ý. Nhưng trong những trường hợp đột xuất, bà mặc quần áo nhanh lạ lùng. Phòng Scarlett ở bên kia hành lang, đối diện với phòng mẹ cô, nên từ bé, cô đã thuộc cái tiếng sẽ sàng của những bàn chân da đen lon ton trên sàn gỗ rắn vào lúc rạng đông, những tiếng gõ cấp bách lên cửa phòng mẹ cô và những giọng người da đen tắc nghẹn sợ sệt thì thào thưa bẩm về những trường hợp đau bệnh, sinh, tử, ở cái dãy dài những lều quét vôi trắng của xóm nọ. Thuở nhỏ, Scarlett hay lần ra chỗ cửa, ghé mắt nhìn qua kẽ hở thấy bà Ellen nhô khỏi căn phòng tối vẫn nhịp nhàng tiếng ngáy đều đặn, bình thản của ông Gerald, xuất hiện trong ánh sáng chập chờn của một cây nến giơ cao, hộp thuốc cặp ở nách, tóc chải gọn ghẽ, các cúc áo đều cài tươm tất. Bao giờ Scarlett cũng cảm thấy ấm áp trong lòng khi nghe thấy mẹ vừa rón rén đi qua hành lang, vừa thầm thì, giọng rắn rỏi nhưng đầy thương yêu: “Suỵt, đừng nói to thế, kẻo ông O’Hara thức giấc bây giờ. Ốm thế chưa chết đâu.” Phải thật dễ chịu khi lần mò trở về giường nằm, cô biết chắc rằng bà Ellen đang xông pha trong đêm và mọi sự đều ổn. Nhiều buổi sáng, sau khi trực suốt đêm bên những sản phụ hay những người hấp hối trong trường hợp hai bác sĩ Fontaine, cả bố lẫn con, đều được mời đi thăm bệnh, không đến giúp bà được, bà Ellen vẫn ngồi chủ trì ở bữa điểm tâm như thường, đôi mắt thâm quầng lên vì mệt nhọc, nhưng giọng nói và cung cách vẫn không lộ vẻ gì là căng thẳng. Dưới cái vẻ hòa nhã trang nghiêm của bà, có một chất rắn như thép làm cho cả nhà phải nể sợ, ông Gerald cũng như các con gái, mặc dầu ông thà chết còn hơn thừa nhận điều đó. Đôi lần, ban đêm, khi Scarlett kiễng chân hôn lên má người mẹ cao lớn của mình, cô bé ngước nhìn cái miệng với làn môi trên quá ngắn, quá tơ non, cái loại miệng của những người rất dễ bị cuộc đời gây tổn thương, và tự hỏi không biết có bao giờ cái miêng đó uốn cong lên cười rúc rích một cách vô cớ như các cô gái khác hoặc thì thầm tâm sự suốt đêm với bạn gái thân tín. Không, chắc không thể có chuyện như thế. Mẹ xưa nay bao giờ cũng vẫn vậy, một trụ cột của sức mạnh, một suối nguồn của thông tuệ, người duy nhất biết câu trả lời cho tất cả mọi sự. Nhưng Scarlett lầm: bao năm trước đây, cô gái Ellen Robillard miền Savannah đã từng cười rúc rích vô lý như bất kỳ cô gái mười lăm nào ở cái thành phố Duyên hải đáng yêu này và thì thầm thâu đêm suốt sáng với bạn gái, trao đổi tâm sự, nói với nhau mọi bí mật, trừ một điều. Đó là vào cái năm một người đàn ông hơn Ellen hai mươi tám tuổi, Gerald O’Hara, bước vào cuộc đời cô - cũng là năm mà tuổi trẻ và người anh họ mắt đen Philippe Robillard bước ra khỏi đời cô. Vì khi Philippe với cặp mắt linh hoạt và tác phong sôi nổi giã từ Savannah ra đi mãi mãi, chàng đã mang theo ngọn lửa trong tim Ellen, chỉ để lại cho anh chàng người Ireland thấp bé, chân vòng kiềng đang tấp tểnh định cưới cô độc mỗi cái vỏ cứng bọc ngoài. Song chừng nấy cũng đã đủ cho Gerald đang choáng ngợp với cái may mắn không tưởng tượng nổi là đã thực sự lấy được cô. Và nếu có gì đã tiêu tan ở cô thì anh ta cũng chẳng cảm thấy mất mát gì. Là người tinh khôn, anh ta biết rằng một gã Ireland gia đình họ hàng chẳng có, của cải thì không, như mình mà chiếm được ái nữ của một trong những gia đình giàu nhất và quý phái nhất miền Duyên hải, thì quả là một phép lạ. Bởi vì Gerald là một kẻ tự lập. Gerald từ Ireland đến Mỹ năm hai mươi mốt tuổi. Anh đã ra đi vội vã giống như biết bao người Ireland tốt hơn, hoặc tồi hơn, trước và sau anh, với một bộ quần áo độc nhất trên gười, hai đồng shilling ngoài tiền đi đường, cùng một bản án treo giải lấy đầu anh với một cái giá mà anh cảm thấy lớn hơn mức độ nghiêm trọng của tội mình. Ở mé bên này địa ngục, chẳng có thành viên Orange[1] nào đáng giá một trăm pound[2] đối với chính phủ Anh hoặc đối với chính quỷ Satan, nhưng nếu chính phủ cảm thấy xúc động đến thế về cái chết của một viên quản lý trông nom ấp trại cho một điền chủ Anh không có mặt thường xuyên ở điền trang của mình thì quả đã đến lúc Gerald O’Hara phải chuồn, phải ba chân bốn cẳng chuồn cho mau thôi. Quả tình anh đã gọi viên quản lý là “Đồ hội viên Orange năm cha ba mẹ”, nhưng theo quan niệm của Gerald, điều đó đâu phải là lý do khiến lão ta có quyền lăng nhục anh bằng cách huýt sáo đoạn mở đầu của bài Nước sông Boyn[3]. Trận sông Boyn đã diễn ra hơn một trăm năm về trước, nhưng đối với hòng họ O’Hara và lân bang của họ, tưởng đâu như mới ngày hôm qua, mọi hi vọng và mơ ước cũng như ruộng đất và của cải của họ vừa tan biến thành mây khói như đám bụi cuốn quanh ông hoàng Stuart đang hoảng hốt tháo chạy, để mặc William of Orange cùng đoàn quân đáng ghét của y, mang phù hiệu màu da cam trên mũ chém nát những người Ireland theo phái hoàng tộc Stuart. Vì lý do đó và nhiều lý do khác nữa, gia đình Gerald không coi cuộc cãi lộn của anh là một cái gì nghiêm trọng lắm, ngoại trừ việc nó chất chứa những hậu quả nghiêm trọng. Đã bao năm, gia đình O’Hara vẫn kỵ cảnh sát Anh, đám này ngờ họ có những hoạt động chống chính phủ và Gerald không phải là người đầu tiên trong dòng họ O’Hara phải cao chạy xa bay vào lúc tờ mờ sáng. Hai người anh lớn của Gerald - James và Andrew - anh chỉ còn nhớ loáng thoáng rằng họ là những thanh niên rất kín đáo thường đi đi về về vào những giờ bất thường giữa đêm hôm khuya khoắt với những công việc bí ẩn hoặc có khi biến mất hàng tuần, làm cho bà mẹ lo mất ăn mất ngủ. Họ đã sang Mỹ từ nhiều năm trước, sau khi người ta phát hiện ra một cái kho nhỏ súng trường chôn dưới chuồng lợn nhà O’Hara. Bây giờ họ là những thương nhân phát đạt ở Savannah,“mặc dầu chỉ có Thượng Đế chí tôn mới biết đó là nơi nào” như bà mẹ bao giờ cũng chêm vào một câu như thế mỗi khi nhắc đến hai con trai đầu của mình và cậu em Gerald chính là được phái đến chỗ họ. Gerald từ giã nhà với chiếc hôn vội vàng của mẹ trên má cùng lới ban phước Cơ đốc nồng nhiệt của bà bên tai và lời dặn dò của bố lúc chia tay: “Hãy nhớ mình là ai và chớ có lấy gì của người khác”. Năm người anh trai cao lớn chào từ biệt em bằng những nụ cười thán phục, nhưng hơi kẻ cả vì Gerald là cậu con cưng và bé nhỏ nhất trong cái gia đình lực lưỡng này. Cha và năm anh trai đều cao một mét tám mươi có lẻ và to ngang, còn Gerald bé nhỏ đến tuổi hai mươi mốt đã biết rằng một mét sáu mươi mốt là toàn bộ chiều cao mà thượng đế đã ban cho anh. Đúng với tính cách của mình, Gerald không bao giờ hoài công than tiếc cho sự thấp bé của bản thân và không bao giờ thấy đó là một trở ngại trên đường tiến thủ. Trái lại, chính tầm vóc nhỏ đậm của Gerald đã khiến anh trở nên như ngày nay, vì sớm hiểu ra rằng những người nhỏ bé phải táo bạo thì mới tồn tại được giữa những kẻ to lớn. Và Gerald thì táo bạo có thừa. Những người anh trai cao lớn thuộc loại trầm tĩnh mà dữ dằn, ở họ, truyền thống gia đình khởi nguồn từ những vinh quang đã qua đi vĩnh viễn, giờ âm ỉ trong một mối căm thù câm lặng, thỉnh thoảng bùng ra thành những cơn thịnh nộ kịch liệt. Nếu Gerald to khỏe vạm vỡ, hẳn anh cũng đi theo con đường của những người khác thuộc dòng họ O’Hara để lầm lũi, bí mật hoạt động trong hàng ngũ những kẻ nổi loạn chống chính phủ đấy. Nhưng Gerald lại “đầu bò đầu bướu và to mồm”, như bà mẹ thường âu yếm nói, để nổi xung, mau nắm đấm và rất sẵn sàng gây gổ đánh nhau. Anh nghênh ngang giữa những thành viên cao lớn của gia đình O’Hara như chú gà còi vênh váo trong một cái sân trại thuần những gà Cochin kếch xù và tất cả đều yêu thương anh, âu yếm chọc tức để nghe anh la hét cho vui, và nếu có dùng đến nắm đấm to đùng của họ thì cũng chỉ nện vừa đủ để đặt cậu em nhỏ vào đúng chỗ mà thôi. Nếu cái vốn học thức Gerald mang theo sang Mỹ có còm cõi thì anh cũng chẳng hay biết. Và giả dụ có ai bảo cho anh biết thế, anh cũng bất cần. Mẹ anh đã dạy cho anh đọc thông, viết thạo và anh cũng khá về toán. Tri thức sách vở của anh dừng lại ở đấy. Vốn tiếng La tinh duy nhất của anh là những câu trả lời kinh Misa và kiến thức lịch sử duy nhất là những bất hạnh nhiều bề của đất nước Ireland. Anh chẳng biết gì về thi ca ngoài thơ của Moore[4] và chẳng nghe thứ âm nhạc nào khác ngoài những ca khúc của Ireland truyền từ đời này qua đời khác. Mặc dầu rất kính trọng những người có học vấn hơn mình, anh vẫn không bao giờ cảm thấy sự thất học của mình là một thiếu sót. Với lại anh cần gì đến những thứ đó trên một vùng đất mới mà ở đấy những anh chàng Ireland dốt nát nhất cũng làm nên cơ nghiệp lớn? Trên cái vùng đất chỉ đòi hỏi con người phải khỏe và không sợ lao động này? Cả James và Andrew khi lấy Gerald vào làm ở cửa hàng của mình ở Savannah cũng không hề hối tiếc vế sự thất học của chú em. Chữ viết rành rọt, đẹp đẽ, khả năng tính toán chính xác và tài kinh doanh buôn bán khôn ngoan của Gerald buộc hai ông anh phải kính nể; giả dụ chàng trai trẻ Gerald có thông hiểu văn học và am tường âm nhạc, thì ở đây, kiến thức đó chỉ khiến họ khịt mũi khinh bỉ mà thôi. Nước Mỹ vào những năm đầu thế kỷ đã ân cần cưu mang những người Ireland: James và Andrew bước đầu lập nghiệp bằng việc vận chuyển hàng hoá trong những xe goòng phủ bạt từ Savannah đến những tỉnh nội địa miền Georgia, đã phát đạt lên, mở được cửa hàng riêng và Gerald cũng phất lên với họ. Gerald thích miền Nam và chẳng bao lâu, trong ý thức anh đã trở thành một người miền Nam thực thụ. Có nhiều cái ở miền Nam - cũng như ở những người miền Nam - mà anh hẳn không bao giờ có thể hiểu nổi, song bản chất vốn toàn tâm toàn ý, anh chấp nhận và thực hiện triệt để những ý niệm cùng tập tục của miền Nam theo như anh hiểu - đánh bài poker, đua ngựa, bàn cãi chính trị sôi nổi, luật đấu súng, quyền các bang, nguyền rủa tất cả bọn Yankee, ủng hộ chế độ nô lệ và thâm canh bông, khinh bỉ bọn “rác rưởi” da trắng, nịnh đầm quá đáng. Thậm chí anh còn học nhai thuốc lá nữa. Còn uống whisky thì anh không cần phải học, cái đó, lọt lòng, anh đã biết rồi. Song Gerald vẫn là Gerald. Nhưng tập quán sống và ý niệm của anh thay đổi, nhưng còn cung cách thì dù có thể, anh vẫn không muốn đổi thay. Anh thừa nhận sự tao nhã uể oải của các điền chủ trồng lúa và trồng bông, từ vương quốc phủ rêu[5] của mình, họ cưỡi những con tuấn mã thuần chủng đến Savannah, theo sau là xe ngựa chở vợ họ cũng không kém sang trọng cùng đám nô lệ đi xe bò. Nhưng Gerald không tài nào đạt đến độ tao nhã được. Những âm sắc nhòe lướt chậm rãi của họ, anh nghe êm tai thật đấy, nhưng cái giọng địa phương Ireland nhanh, mạnh vẫn bám chặt lấy lưỡi anh. Anh thích cái phong độ ung dung bình thản của họ trong việc điều hành các công chuyện quan trọng, lật một quân bài cũng có thể mất một gia sản, một đồn điền hay một nô lệ như chơi, chấp nhận những tổn thất như vậy một cách vui vẻ bất cần, chẳng om xòm gì hơn khi tung vài xu cho bọn trẻ con da đen. Nhưng Gerald đã từng nếm mùi nghèo khổ, anh không thể học được cái cách hồ hởi vui vẻ chịu mất tiền. Những người miền Duyên hải Georgia ấy là một chủng loại dễ chịu với tính dễ khùng nhưng ăn nói lại dịu dàng, những mâu thuẫn ngồ ngộ đáng yêu của họ, và Gerald thích họ. Song chàng trai trẻ Ireland này mới chân ướt chân ráo đến từ một đất nước ở đó có gió vừa ẩm, vừa lạnh, và những đầm lầy đầy sương mù không phải là ổ gây bênh sốt, ở anh, bồng bột một sức sống sôi nổi, hoạt bát, khiến anh khác hẳn những người quý phái lười nhác của vùng khí hậu á nhiệt đới và đầy những đầm lầy gây sốt rét này. Anh học ở họ những gì thấy có ích và gạt bỏ mọi cái khác. Anh thấy chơi poker là điều có ích nhất trong những tập tục miền Nam, poker kèm theo whisky cho những tay bợm ruợu; và chính cái năng khiếu tự nhiên về cờ bài và về cái thứ rượu óng ánh màu hổ phách đã mang lại cho Gerald hai trong số ba tài sản quý nhất của anh: người hầu và khu đồn điền. Báu vật thứ ba là vợ anh và phúc phận này, anh chỉ có thể gán cho hảo ý huyền nhiệm của Thượng đế mà thôi. Pork, tên người hầu da đen bóng, rất đàng hoàng, được luyện kỹ về nghệ thuật phục sức trang nhã, là kết quả của một cuộc chơi poker suốt đêm với một điền chủ ở đảo St. Simons bạo phổi tháo cáy ngang với Gerald, nhưng tửu lượng thì không đọ nổi. Mặc dù về sau chủ cũ của Pork có đề nghị mua lại với giá gấp đôi, Gerald vẫn khăng khăng từ chối vì việc thủ đắc tên nô lệ đầu tiên - mà tên nô lệ này lại là “tên người hầu trứ danh, cừ nhất miền Duyên hải” - chính là bước đi lên đầu tiên hướng tới nguyện ước của trái tim anh. Gerald muốn là một người sở hữu nô lệ và một nhà điền chủ. Anh đã quyết định sẽ không theo hai anh James và Andrew bỏ cả đời vào công việc kinh doanh, đêm nào cũng cặm cụi với những dãy dài con số dưới ánh nến. Khác với các anh trai, anh cảm thấy sâu sắc cái dấu chàm mà xã hội khắc lên trán những kẻ hoạt động “trong thương trường”. Gerald muốn là một điền chủ. Với cái khao khát cháy ruột của một người Ireland phải làm tá điền trên những ruộng đất xưa kia thuộc quyền sở hữu của cha ông mình, anh muốn được thấy những mẫu đất của chính mình trải ra xanh rờn trước mắt. Với quyết tâm mẫnh liệt theo đuổi một mục đích duy nhất, anh khao khát có nhà riêng, đồn điền riêng, ngựa riêng, nô lệ riêng. Và ở đây, trên vùng đất mới này, thoát khỏi hai cái nguy cơ của đất nước anh đã rời bỏ: thuế má ngốn hết mùa màng, gia súc và mối đe dọa thường trực bất cứ lúc nào cũng có thể bị tịch thu đột ngột - anh quyết chí đạt được những mục tiêu đó. Song cùng với thời gian trôi qua, anh vỡ nhẽ ra tham vọng là một chuyện, thực hiện tham vọng lại là chuyện khác. Miền Duyên hải Georgia được một tầng lớp thượng lưu cố thủ quá vững vàng, khiến anh khó có hi vọng chiếm được cái vị trí nhắm nhe vươn tới. Thế rồi, một lá bài của số phận kết hợp với một lá bài poker đã đem lại cho anh cái đồn điền mà sau đó anh gọi là ấp Tara, đồng thời khiến anh rời miền Duyên hải để chuyển lên vùng cao bắc Georgia. Vào một đêm xuân nóng nực, Gerald đang ngồi trong một quán rượu ở Savannah thì câu chuyện tình cờ của một người lạ mặt ngồi kề bên làm anh dỏng tai lên. Người lạ mặt, vốn sinh trưởng ở Savannah, vừa trở về quê hương sau mười hai năm lưu trú ở vùng trong. Ông ta đã trúng một giải trong cuộc xổ số điền địa do Bang tổ chức để chia nhỏ vùng lãnh thổ rộng lớn ở miền Trung Georgia mà thổ dân Anh điêng đã nhường lại vào cái năm trước khi Gerald đến Mỹ. Ông ta đã tới đó và lập một đồn điền; nhưng giờ đây, ngôi nhà đã cháy rụi, ông chán ngấy cái “nơi đáng nguyền rủa” ấy và chỉ mong rũ bỏ đi cho thoát tội, thoát nợ. Tâm trí không bao giờ dứt bỏ được ý nghĩ muốn có một đồn điền riêng, Gerald bèn nhờ người giới thiệu với ông khách lạ và mối quan tâm của anh càng tăng lên khi ông này kể là miền Bắc của bang hiện đang tràn ngập những người mới đến từ Bắc và Nam Carolina và Virginia. Gerald đã sống ở Savannah đủ lâu để tập nhiễm cái quan điểm của miền Duyên hải cho rằng toàn bộ phần còn lại của bang đều là rừng rú, mỗi lùm cây đều có một tên Anh điêng rình rập. Trong những chuyến đi giao dịch công việc cho hãng Anh em O’Hara, anh đã có dịp đến Augusta ngược lên một trăm dặm phía thượng nguồn sông Savannah và đã đi khá sâu vào nội địa để thăm các thành phố cổ phía Tây. Anh biết vùng đó cũng ổn định như miền Duyên hải, nhưng theo lời mô tả của người khách lạ thì đồn điền của ông ta ở trong nội địa cách Savannah hơn hai trăm năm mươi dặm về phía Tây - Bắc và cách sông Chattahoochee không xa về phía Nam. Gerald biết rằng vùng đất ở phía Bắc con sông này còn nằm trong tay người Cherokee[6] cho nên anh rất ngạc nhiên khi nghe người khách lạ cười giễu những ý kiến lo ngại gặp chuyện rắc rối với những người Anh điêng và kể chuyện các đồn điền và thành phố đang nở rộ, phồn thịnh như thế nào ở vùng đất mới ấy. Một giờ sau, khi câu chuyện bắt đầu uể oải, Gerald bèn đề nghị chơi một ván bài, đôi mắt xanh lấp lánh đầy vẻ ngây thơ của anh khiến không ai ngờ anh có mánh gì. Đêm về khuya, các chầu rượu nối tiếp nhau, đến một lúc các tay chơi khác bỏ cuộc, chỉ còn Gerald và người khách lạ đấu với nhau. Người khách lạ dồn tất cả thẻ bài đặt cược khu đồn điền của mình vào một tiếng. Gerald cũng đặt ví tiền lên toàn bộ thẻ của mình. Nếu số tiền trong ví thuộc về hãng Anh em O’Hara, Gerald cũng chẳng bị lương tâm cắn rứt đến mức xưng tội vào buổi lễ chầu sáng hôm sau. Anh biết mình muốn gì và khi Gerald đã muốn điều gì là anh phải đạt tới bằng con đường trực tiếp nhất. Hơn nữa, anh vững tin ở vận mình cùng bộ tứ quý trên tay đến mức không một lúc nào anh tự hỏi là sẽ làm cách nào để trả lại tiền nếu đối thủ hạ xuống một bộ bài cao hơn. - Ông cũng chả được hời đâu, còn tôi thì mừng là vì không còn phải đóng thuế cho cái ấp ấy nữa, - người khách lạ thở dài, gọi mang bút mực lại: ông ta chỉ có một “bộ xì lẻ”. - Ngôi nhà chính đã cháy cách đây một năm, các cánh đồng thành bụi rậm và rừng thông non. Nhưng giờ đó là của ông. Đừng có bao giờ vừa đánh bài vừa uống whisky, trừ khi thuở bé, anh được cai sữa bằng rượu lậu Ireland, - tối hôm đó, Gerald trịnh trọng tuyên bố với Pork như vậy khi Pork giúp anh dọn giường đi nằm. Và tên người hầu - vốn đã tập tọng học giọng địa phương Ireland do lòng ngưỡng mộ ông chủ mới - bèn tán thưởng bằng một hỗn hợp tiếng Geechee với thổ âm vùng Meath mà bất kì ai ngoài hai thày trò nghe thấy ắt cũng phải sững sờ. Dòng sông Flint ngầu bùn lặng lẽ chảy giữa những rặng thông và sồi nước sừng sững như thành phủ đầy cây leo chằng chịt, cuốn quanh khu đất mới của Gerald như một vòng tay ôm; thành thử hai bên ấp đều là sông. Đối với Gerald, đứng trên cái gò nhỏ, nền của ngôi nhà cũ, nhìn xuống, cái hàng rào cao bằng cây xanh ấy là một chứng chỉ hiển nhiển và thú vị về sở hữu, như thể chính anh đã tự tay dựng lên để đánh dấu cơ ngơi của mình. Anh đứng trên nền đá sạm đen của ngôi nhà cháy trụi, nhìn xuống lối đi dài giữa hai hàng cây dẫn ra đường cái và chửi thề cho đã miệng, lòng rộn ràng một niềm vui quá lớn không thể biểu lộ bằng một lời cầu nguyện cảm ơn Thượng đế. Những rặng cây tối hàng đôi kia là của anh, cũng như cái bãi cỏ để cỏ hoang mọc cao đến thắt lưng dưới những chùm hoa trắng lấm tấm như sao của những cây mộc lan mơn mởn. Những cánh đồng bỏ hoá lác đác những cây thông nhỏ xíu và những bụi rậm, trải dài ra bốn phía, lớp đất sét đỏ bề mặt nhấp nha nhấp nhô như sóng lượn, cũng thuộc về Gerald O’Hara - tất thảy đã là của anh bởi anh có một cái đầu Ireland tỉnh táo và cái gan lớn dám đặt cược tất cả lên một lá bài. Gerald nhắm mắt lại và, trong cái tịch mịch của đồng hoang, cảm thấy như mình đã về nhà. Dưới chân anh đây, sẽ mọc lên một ngôi nhà gạch quét vôi trắng. Bên kia đường sẽ là hàng rào chấn song mới, quây nhốt đàn gia súc béo nục và ngựa giống và lớp đất đỏ cuồn cuộn chạy từ sườn đồi xuống thung lũng màu mỡ, sẽ trắng xoá lên như lông vịt dưới ánh mặt trời - bông, hàng mẫu nối tiếp nhau ngút ngàn bông! Hồng vận của gia đình O’Hara sẽ lại nổi lên phen này. Với số vốn nhỏ của riêng mình, cộng thêm những gì vay mượn được của hai ông anh chẳng nhiệt tình gì lắm và một món tiền kha khá từ khoản cầm cố đất, Gerald mua những nô lệ đầu tiên của mình và đến Tara sống cảnh độc thân trong ngôi nhà bốn buồng của người quản lý cho đến khi dựng lên được những bức tường trắng từ đại sảnh ấp Tara. Anh phá hoang, trồng bông và vay thêm tiền của James và Andrew để mua thêm nô lệ. Dòng họ O’Hara vốn có tinh thần thị tộc, gắn chặt với nhau khi thịnh vượng cũng như trong hoạn nạn, không phải do tình cảm gia tộc quá đáng, mà là vì qua những năm tháng gay go, họ đã học được rằng một gia đình muốn tồn tại phải đoàn kết để đương đầu với thế gian. Họ cho Gerald vay tiền và trong những năm sau, được trả cả vốn lẫn lãi. Dần dà, đồn điền mở rộng thêm khi Gerald mua thêm những miếng đất gần đó và cuối cùng, ngôi nhà trắng mơ ước đã trở thành sự thực. Nó được xây bằng lao động nô lệ - một ngôi nhà kềnh càng vụng về ngự trên đỉnh gò đất nhìn xuống bãi cỏ xanh trên sườn dốc chạy đến tận bờ sông. Gerald rất hài lòng về ngôi nhà vì ngay khi còn mới, nó đã có vẻ nhuốm màu năm tháng. Những cây sồi già từng thấy hàng toán Anh điêng qua dưới vòm lá của chúng, áp sát ngôi nhà và xoè cánh phủ bóng râm đậm đặc lên mái. Bãi đất, được dọn sạch cỏ dại, giờ mọc lên san sát cỏ ba lá và cỏ ống, và Gerald rất quan tâm chăm lo cho bãi xanh tốt. Từ lối đi giữa hai hàng cây tuyết tùng cho đến dãy nhà gỗ trắng dành cho nô lệ ấp Ta ra toát ra một vẻ chắc chắn, ổn định và lâu bền. Và bất cứ khi nào Gerald phóng ngựa quành góc đường cái rẽ vào ấp và trông thấy mái nhà mình nhô lên khỏi đám cành lá xanh rờn, tim anh rộn lên một niềm tự hào như thể lúc nào nhìn thấy nó cũng là lần đầu vậy. Một tay anh đã gây dựng nên tất cả cơ đồ này, Gerald thấp bé, sôi sục, đầu óc vững vàng. Gerald có quan hệ rất tốt với tất cả láng giềng ở trong hạt, từ gia đình MacIntosh có đất đai tiếp giáp ấp của ông về phía bên trái và gia đình Slattery với ba mẫu còm cõi nằm ở bên phải dọc theo những đầm lầy, giữa con sông và đồn điền của John Wilkes. Cánh nhà MacIntosh là dân Scotland lai Ireland, lại theo phái Orange, nên ví dù cây gia phả nhà họ có gồm tất cả các thánh trong lịch sử Thiên chúa giáo thì dưới con mắt của Gerald, dòng họ ấy vẫn cứ là đáng tội đầy xuống địa ngục đời đời. Đành rằng họ đã sống ở Georgia bảy mươi năm và, trước đó, đã qua một thế hệ ở Bắc và Nam Carolina, nhưng người đầu tiên trong dòng họ đặt chân lên đất Mỹ là gốc gác ở Ulster[7], chừng ấy đối với Gerald là đủ. Họ là những người kín đáo và nghiêm chỉnh mũ cao áo dài, triệt để bó hẹp trong quan hệ nội bộ và hôn phối nội tộc với họ hàng ở Carolina. Gerald không phải là người duy nhất ác cảm với họ vì dân trong hạt này vốn có quan hệ tốt với xóm giềng và thích giao du nên không chịu nổi những ai thiếu đức tính ấy. Người ta đồn rằng gia đình MacIntosh ủng hộ chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ và điều đó chẳng khiến bà con yêu mến họ thêm chút nào. Ông già Angus chưa bao giờ giải phóng một nô lệ nào, mà lại còn vi phạm tập tục xã hội đến mức không thể nào tha thứ được bằng cách bán một số người da đen của mình cho mấy tay buôn bán nô lệ vãng lai trên đường đi tới những cánh đồng mía ở bang Louisiana, mặc dù vậy những tiếng đồn kia vẫn tiếp tục dai dẳng. - Rõ ràng lão ta theo chủ nghĩa bãi nô - Gerald nhận xét với John Wilkes như vậy. - Song, ở một tay thuộc phái Orange khi nguyên tắc mây thuẫn với cái tính ke của dân Scotland thì nguyên tắc toi thôi. Gia đình Slattery lại là chuyện khác. Là dân da trắng nghèo, họ thậm chí không được hưởng sự kính nể miễn cưỡng mà những gia đình lân bang bất dắc dĩ phải dành cho Angus MacIntosh với tính độc lập nghiêm nhặt của ông. Ông già Slattery khăng khăng bám lấy mấy mẫu đất khốn khổ của mình mặc dù Gerald và John Wilkes năm lần bảy lượt ngỏ ý muốn mua. Đó là một người không biết xoay sở và luôn luôn kêu than. Vợ ông, một phụ nữ đầu bù tóc rối, ốm yếu và bề ngoài tàn tạ đến kiệt cùng, là mẹ của một đàn con năm nào cũng tăng lên đều đặn, những đứa trẻ quàu quạu và lấm la lấm lét. Tom Slattery không có nô lệ, ông ta cùng hai gã con trai lớn, bữa đực bữa cái, làm mấy mẫu bông ít ởi, trong khi bà vợ và lũ con nhỏ chăm bón một khoảnh gọi là vườn rau. Nhưng, không hiểu sao bông bao giờ cũng mất mùa, còn vườn thì do bà Slattery luôn luôn bụng mang dạ chửa, họa hoằn mới cung cấp đủ ra cho lũ con đàn của bà. Cái cảnh Tom Slattery lê la đến hiên nhà bà con hàng xóm, xin hạt bông để gieo trồng hoặc một lát thịt lợn sấy để “giúp ông ta cầm cự qua ngày”, là một sự việc quen thuộc. Còn một chút hơi tàn nào là Slattery thù ghét chút ấy hàng xóm của mình, bởi ông cảm thấy sự khinh bỉ dưới vẻ lịch sự xã giao của họ và ông càng đặc biệt ghét đám “nhọ hợm hĩnh của bọn nhà giàu”. Những gia nhân da đen trong hạt tự coi mình cao hơn đám Cracker da trắng và vẻ miệt thị không giấu giếm của họ làm ông bầm gan tím ruột, trong khi vị trí đảm bảo hơn trong cuộc sống của họ lại kích thích sự thèm muốn của ông. Tương phản với đời sống khốn khổ của ông, họ được ăn no, mặc ấm và khi ốm đau, lúc về già vẫn được chăm lo. Họ hãnh diện về danh tiếng của chủ họ, và đại đa số đều tự hào là mình thuộc sở hữu của những người ưu tú trong vùng, còn ông thì ai nấy đều khinh rẻ. Tom Slattery rất có thể bán nông trại của mình gấp ba giái trị thật của nó cho bất kỳ điền chủ nào trong hạt. Họ sẽ coi đó là một món chi được việc nhằm giải thoát cho bà con được một sự gai mắt, nhưng ông ta lại ưng ở lại và bằng lòng lần hồi sống khốn khổ trên cái hoa lợi thường niên là một kiện bông và nhờ vào lòng từ thiện của xóm giềng. Với tất cả những người còn lại trong hạt, Gerald đều có quan hệ bằng hữu và, trong một số trường hợp, ở mức thân thiết nữa. Những người thuộc các gia đình Wilkes, Calvert, Tarleton, Fontaine, tất cả đều mỉm cười khi thấy cái bóng nhỏ con trên mình con ngựa trắng to lớn phóng trên lối sỏi vào ấp trại họ, mỉm cười và ra hiệu cho gia nhân sửa soạn những ly lớn đựng đầy rượu Bourbon pha thêm một thìa đường và tí chút bạc hà