🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Truy Nã Tên Đồ Tể Do Thái Adolf Eichmann
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Table of Contents
Cuộc Truy Nã Tên Đồ tể Do Thái Adolf Eichmann Lời Nói Đầu
1. Trước khi cuộc bắt bớ khai diễn
2. Bóng ma của Nuremberg
3. Con người và cơ quan của Eichmann
4. Cuộc săn đuổi bắt đầu
5. Tại Áo
6. Tổ chức Quốc Xã bí mật
7. Cuộc săn đuổi tiếp diễn
8. Bắt cóc
9. Canh phòng cẩn mật
10. Phòng 06
11. Nếu quốc gia Do Thái không hiện hữu 12. Cuộc xử án
https://thuviensach.vn
Cuộc Truy Nã Tên Đồ tể Do Thái Adolf Eichmann
Tác giả: Moshe Pearlman
Nguyên tác: The Capture of Adolf Eichmann
Bản dịch: Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên
Nhà xuất bản Sông Kiên 1974
Nguồn: Vnmilitarihistory
Đánh máy: Huytop
Tạo bìa: inno14
Soát lỗi, định dạng: Văn.Cường
Tạo ebook: tran ngoc anh
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Adolf Eichmann (1906 - 1962)
Adolf Eichmann (sinh 19 tháng 3 1906 - tử hình ngày 31 tháng 5 1962) là trung tá lực lượng vũ trang SS Đức Quốc xã. Vì ông có đầu óc tổ chức và có lý tưởng quốc xã sâu đậm, Eichmann được cấp trên là Reinhard Heydrich trao trách nhiệm chính trong kế hoạch thủ tiêu người Do Thái ở Châu Âu. Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, ông bị Đồng Minh truy lùng gắt gao, phải giả giấy thông hành hội Chữ thập đỏ chạy trốn sang sinh sống tại Argentina với cái tên giả là Ricardo Clemento. Đến năm 1960, nhân viên cục tình báo Mossad của Israel bắt được Adolf Eichmann, đưa về Israel xét xử. Năm 1962 Eichmann bị tòa án Israel kết án và xử tử hình.
https://thuviensach.vn
Lời Nói Đầu
Tôi rời bỏ chức vụ trong chính phủ ngày 1 tháng 5 năm 1960 để dành thì giờ viết văn. Lúc đó tôi chưa nghĩ rằng mình sẽ viết một quyển sách về Eichmann. Tôi lại càng không biết việc người ta chuẩn bị để bắt ông. Lần đầu tiên tôi được tin Eichmann bị bắt và bị giữ ở Israel là ngày 25 tháng 5 lúc 4 giờ chiều khi Thủ tướng lan báo tin ấy ở Quốc Hội (Knetsset). Vì vậy quyển sách này không chứa đựng một tài liệu nào mà tôi đã thâu lượm được nhờ vào chức vụ của tôi.
Tôi cũng chưa chú ý đến trường hợp Eichmann khi có tin ông ta bị bắt. Khoảng tháng 11 năm 1946 lần đầu tiên tôi nghe nói đến những hoạt động của ông. Với tư cách phóng viên một tờ báo, khi tôi đến phỏng vấn người cộng sự cũ của ông, ông Sturmbannfuhrer SS Dieter Wisliceny tại khám đường Trung Ương Bratislava, vài tuần trước khi ông này bị hành quyết. Lúc đó ông ta nói với tôi rất nhiều về vai trò của Cơ quan Chuyên trách về các vấn đề Do thái mà người cầm đầu là Adolf Eichmann. Ông còn thảo một văn thư để nhờ chuyển lại cho tôi quả quyết Eichmann vẫn còn sống.
Quyển sách này không phải là một bản công bố chính thức. Vì vậy nó không dính líu gì đến chính phủ Do Thái. Tự cá nhân tôi viết ra và một mình tôi chịu tất cả mọi trách nhiệm.
Moshe Pearlman
https://thuviensach.vn
1. Trước khi cuộc bắt bớ khai diễn
Ngày đầu tiên của mùa xuân có lẽ đóng một vai trò định mệnh trong cuộc đời của Adolf Eichmann. Năm 1935 ông ta cưới vợ vào ngày này. Và cũng chính ngày này năm 1960, kế hoạch khởi bắt ông đã được vạch định rõ ràng.
Ngày 21 tháng 3 năm 1960, như mọi khi, Eichmann thức dậy sớm, dạo thơ thẩn một lúc trong căn nhà gạch nhỏ tô hô mà ông ta đang sống với vợ và ba đứa con trong đám con trai của ông, ở vùng ngoại ô loang lổ của San Ferrnando tại Buenos Aires (thủ đô xứ Á Căn Đình- Nam Mỹ), cạo râu, rửa mặt trong một phòng tắm sơ sài không nước máy, thay quần áo, đoạn dùng điểm tâm theo kiểu Đức. Lúc 6 giờ 45, ông ra khỏi nhà mà trên cánh cửa có tấm bảng đề tên ”Klement” Ông Klement đi bộ một khoảng đường 200 thước để đến một trạm xe buýt gần nhất, và nơi để ông chờ chiếc đầu tiên của ba xe buýt để đưa ông đến nơi làm việc, nhà máy Mercedes-Benz, ở đầu bên kia thành phố về phía đông nam. Khi đến xưởng, ông trình thẻ thuộc viên để kiểm soát với tên Ricardo Klement.
Từ lúc rời khỏi nhà, khuôn mặt và mọi cử chỉ của ông đều bị theo dõi bằng một loại ống dòm thật tinh vi của một chàng trai trẻ tuổi bằng nửa ông ta mà chúng ta gọi bằng Gad.
Gad ngồi sau một cánh cửa khép kín trong một căn nhà cách ngôi nhà mang bảng tên Klement khoảng 400 thước, và từ căn nhà đó, người ta có thể nhìn thông suốt đến căn nhà Klement. Hai lỗ nhỏ ở cánh cửa, nhìn từ ngoài không lớn hơn hai lỗ mối ăn, cũng đã đủ để đôi nhãn kính làm việc. Gad theo dõi ngôi nhà như mọi buổi sáng khác trong nhiều tuần nay, chàng thấy Klement mở cửa quay đầu lại như để chào từ giã ai trong nhà, rồi đóng cửa, đi theo con đường đất nhỏ đưa tới khoảng đất được bao quanh bằng một hàng rào kẽm gai. Gad nhìn theo trong khi ông ta đi đến trạm xe buýt, mắt không rời ông ta cho tới lúc xe chạy. Chàng thanh niên chỉ rời khỏi ghế
https://thuviensach.vn
bên cửa sổ khi chiếc xe mất hút. Kế đó anh ta bước đến điện thoại để liên lạc đi hai tiếng.
— Yigal, anh hỏi (ngay khi trả lời, anh tiếp) Karagil, có nghĩa là bằng tiếng Hebrew (Do Thái cổ): “Như thường lệ”.
Anh gác máy và tự đi làm cho mình một tách cà phê.
Ở đầu dây bên kia, Yigal, liên lạc xong với Gad, gọi Dov.
— Beseder, anh ta nói với Dov, ”Mọi việc tốt đẹp”.
Dov có một văn phòng bên cạnh nhà máy Mercedes-Benz. Đối với công việc phải làm bây giờ, anh có dư thì giờ.
Anh chờ ba mươi phút, đoạn, xách một chiếc rương nhỏ đặc biệt, nhưng không có một chút gì khác lạ ở bề ngoài, anh đi chầm chậm về hướng trạm xe buýt gần hãng nhất. Anh đến đó lúc bảy giờ hai mươi phút. Vài phút sau, một chiếc xe buýt xuất hiện. Trong khi xe tới gần, Dov ngắm tấm bảng chỉ nơi đến và làm một điệu bộ nhỏ cho ba người đứng chờ bên cạnh anh ta có thể hiểu rằng đó không phải là chiếc xe anh đang chờ đợi. Ngay khi những người hành khách bắt đầu xuống. Dov quan sát họ một cách kín đáo, vẻ dửng dưng như nét mặt của những người đang xếp hàng chờ phiên mình. Có thể là anh ta có vẻ ơ hờ hơn những người kia nữa, vì anh phải chờ chuyến xe sau. Anh đứng dạng ra sau một chút, hai tay ôm sát chiếc rương nhỏ vào bụng, như một người muốn nghỉ tạm đôi cánh tay trong một cuộc chờ đợi lâu dài. Những hành khách đi xuống, và Klement trong đám họ. Dov quan sát ông, và đầu ngón tay giữa được che khuất của cánh tay phải ấn mạnh lên mặt rương tại góc dưới. Trong khi xe buýt lại rồ máy, chở theo ba người cũng chờ đợi anh, Dov tiếp tục quan sát ông Klement khi ông này băng qua đường hướng về phía hàng rào của nhà máy. Dov xoay người từ từ để mặt trước của chiếc rương vẫn hướng về bóng dáng của Klement. Ngón giữa của bàn tay mặt vẫn được ấn xuống. Không ai nhận biết được
https://thuviensach.vn
ống thu hình của máy ảnh được giấu kín sau ổ khóa của chiếc rương. Khi Klement đi khuất vào phía trong nhà máy, Dov la cà thêm vài phút nữa ở trạm xe buýt. Chẳng có ai đến gần và để ý đến anh ta. Anh quay về phòng, từ đó anh điện thoại cho Yigal: ”Hakol Beseder” (mọi việc tốt đẹp). Trường hợp có ai bên cạnh, anh sẽ lên chiếc xe buýt sau để tránh nghi ngờ và điện thoại sau đó cho Yigal biết ông Klement vẫn đi làm như mọi hôm.
Yigal, Gad, Dov là người Do Thái. Chưa người nào tới 30 tuổi. Yigal lớn nhất, có mái tóc đen, đôi mắt nâu trên khuôn mặt thon dài và xanh nhợt chứng tỏ ngược lại một thời niên thiếu sống giữa sa mạc. Chính anh cầm đầu bọn ba người này. Nét mặt của anh làm ta liên tưởng đến một người lãnh đạo trẻ, nhiều ý thức và trách nhiệm. Thật ra anh đảm đương chức vụ một cách dễ dàng, vì là một người có óc tổ chức và điều khiển khéo léo. Gad và Dov, cả hai đều có tướng trung bình, tóc vàng và tính tình dễ dãi, họ sống như người chẳng lo nghĩ gì trên cõi đời này. Gad có đôi vai rộng và một khuôn mặt tròn sạm nắng thêm vào mái tóc dày mềm như len. Dov, thân mình cao ráo hơn, có mái tóc vàng ánh làm khuôn mặt sạm nắng của anh lúc nào cũng có vẻ trẻ thơ.
Cả ba người đã trải qua nhiều năm với tư cách người tiên phong để thành lập một nông trại hợp tác xã trên sa mạc ở miền nam nước Do Thái, và bây giờ họ tụ hợp lại Buenos Aires.
Họ đến đây để bắt cóc Adolf Eichmann.
Họ biết gần như chắc chắn người đàn ông sống dưới tên Ricardo Klement mà họ đã theo dõi không ngừng từ nhiều tuần nay, chính là Adolf Eichmann. Nhưng họ phải thật chắc mới bước sang phần kế hoạch bắt ông ta. Ông Klement sống như một người chồng thứ hai của một người đàn bà mà người ta biết rõ, không có chút nghi ngờ nào, bà đã làm vợ của Adolf Eichmann. Ba trong số con trai của gia đình đích xác là con của Adolf Eichmann. Chỉ còn phần Ricardo Klement có đúng là Adolf Eichmann hay
https://thuviensach.vn
chỉ là một người chồng thứ hai của bà Eichmann, thành hôn sau cái chết của người chồng trước như theo lời bà Eichmann và ông ta đã khai như vậy.
Lý do của sự mơ hồ này do nơi người ta biết rất nhiều về các hoạt động của Eichmann trong thời kỳ cực thịnh của chế độ Quốc xã, nhưng ít biết đến con người thật của ông ta vì ông ta cố tình đứng trong bóng tối trong khi làm công việc độc ác ghê gớm ở cơ quan Gestapo. Ông ít xuất hiện trước các ký giả, vì các điều chỉ dẫn để biết về ông ta chỉ nằm trong hồ sơ cá nhân tại phòng lưu trữ công văn mật của Tổng hành dinh lực lượng SS.
Những tài liệu này có trong tập hồ sơ mà Yigal đêm theo từ Do thái. Nhờ vậy Yigal biết được tầm vóc, màu mắt, vòng đo cổ áo, cỡ giày, ngày tháng những lần sinh đẻ của các con trai Eichmann. Ông ta còn một bức ảnh chụp khoảng năm 1930. Nhưng rất nhiều năm trôi qua. Giờ đây, có lẽ đầu ông ta đã rụng hết tóc. Nét mặt có thể đã khác trước, từ hơn hai mươi năm qua rồi dù cho ông ta không nhờ đến khoa giải phẫu thẩm mỹ, sự kiện cần phải được lưu ý. Tầm vóc phải y như xưa – và phù hợp với tầm vóc của Klement. Màu mắt cũng hệt vậy. Kích thước của mũi và chân sẽ chỉ có thể được phối kiểm khi ông ta bị giam giữ. Nhưng điều đó không thể dùng để nhận ra ông từ xa.
Ba người Do Thái đã thâu hình ông nhiều lần từ đầu cuộc theo dõi đến giờ. Một cuộc gặp gỡ bất thần với chiếc máy ảnh được giấu kín trong lúc ông ta sắp lên xe buýt đến nơi làm việc; những bức ảnh chụp lúc ông ta xuống xe trước nhà máy; đó không thể là những bức chân dung hoàn hảo. Các tấm ảnh đã được chụp một cách lén lút, không có bao nhiêu thì giờ để điều chỉnh ống kính. Chụp hình ông ta rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là làm thế nào để ông ta không cảm thấy mình đang bị theo dõi hay bị quan sát. Có nhiều khi các kết quả thật lạ lùng. Hôm nay, Yigal có nhiều tấm hình thật tốt về các đôi giầy và lai quần của Klement. Anh ta còn những tấm ảnh phóng đại thật tuyệt về một cái bụng bó sát trong chiếc áo chẽn.
https://thuviensach.vn
Nhưng họ cũng thành công về các bức ảnh chụp khuôn mặt ông ta. Những ảnh này cũng giống bức ảnh cũ của Eichmann mà họ đang có trong tay rất nhiều. Hình như không có dấu vết gì của khoa giải phẫu thẩm mỹ. Tuy nhiên ông Klement già hơn nhiều và họ không thể khẳng định hai loạt ảnh này là của cùng một người. Họ cũng không thể nói chắc chắn sự giống nhau là thực sự hay chỉ là phản ánh của lòng ước ao của họ. Còn thiếu một cái gì cụ thể hơn để họ có thể tin chắc rằng Klement chính là Eichmann sống dưới một cái tên giả.
Ngày thứ hai đó, 21 tháng 3, trôi qua như mọi ngày khác trong tuần, từ lúc ba người Do thái bắt đầu công việc theo dõi của họ, Klement rời nhà máy lúc 12 giờ 30, như mọi hôm, ông dùng bữa cơm thanh đạm trong một quán ăn gần đó. Lúc 1 giờ 30, ông rời khỏi quán ăn, đi dạo khoảng hai hoặc ba khu nhà của hãng và tiếp tục làm việc lúc 2 giờ. Ông ra sở lúc 5 giờ 30, nhưng hôm đó, thay vì đi thẳng đến trạm xe buýt, ông ta vào một hàng hoa và lúc ra, ông ôm một bó hoa bọc giấy bóng kính. Bấy giờ ông mới đến trạm xe buýt.
Dov đã thêm chi tiết đặc biệt đó vào bản tường trình bằng điện thoại thường lệ cho Yigal ngay khi chiếc xe buýt chuyển bánh. Yigal cố ý không nói đến điều đó khi điện thoại cho Gad biết Klement đã rời sở.
Bốn mươi lăm phút sau, Gad gọi lại cho Yigal. Người ấy đã về nhà, nhưng có mang về một bó hoa, anh nói bằng tiếng Hebrew. Yigal trả lời bằng một ám ngữ có nghĩa: “Chiều nay họp”. Anh ta ấn định vào lúc 9 giờ 30. Anh gọi Dov để ban cùng lệnh đó. Các cuộc họp như thế này được diễn ra ở nơi căn phòng họ mướn tại ngoại ô Buenos Aires, phòng này cách xa nơi trú ngụ của Klement cũng bằng cách xa hãng Mercedes-Benz.
Yigal đã có mặt ở đó khi Gad và Dov lần lượt đến. Cặp mắt Yigal lộ vẻ khích động, nhưng cử chỉ của anh ta vẫn bình thản như mọi khi. Câu hỏi đầu tiên cho cả hai là:
https://thuviensach.vn
— Các bạn giải thích ra sao về bó hoa đó?
Họ suy nghĩ vài phút và Yigal hỏi thêm:
— Hôm nay là ngày mấy?
— Ngày 21 tháng 3.
— Cái gì đã xảy đến cho ông ta vào ngày 21 tháng 3?
Vài giây sau cả hai cùng nói lớn:
— Ông ta cưới vợ!
— Đúng vậy. Yigal nói. Như vậy hôm nay là ngày kỷ niệm thành hôn của ông ta. Lần thứ 25 đấy, các bạn không thấy gì lạ sao?
Trời ơi! Có chứ! Gad la lên. Tại sao người chồng thứ hai của bà Eichmann lại nhớ đến ngày kỷ niệm thành hôn lần trước của bà? Và tại sao, nếu đúng như vậy, hắn lại mừng dịp này bằng một bó hoa?
Dov mỉm cười:
— Vậy thì Klement đúng là Eichmann. Xong rồi! Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa. Đây là cái sơ hở mà chúng ta đã chờ đợi từ bao lâu nay.
Các bạn. Yigal nói, giờ đây chúng ta phải làm hai việc: uống mừng một ly và gửi một bức điện tín về nhà. Ly rượu mừng, chúng ta uống ngay bây giờ. Bản tin, tôi sẽ gửi khi về phòng.
Bốn mươi phút sau, bức điện tín sau đây được gửi về Do thái từ một trạm bưu điện ở khoảng giữa nơi hội họp và nhà trọ của Yigal: “Ha’ish hu Ha’ish”, “Người đúng là người”.
https://thuviensach.vn
2. Bóng ma của Nuremberg
Adolf Eichmann là ai?
Tên ông ta được nói lần đầu tiên trước công chúng bởi các nhân chứng tại Tòa án quân sự Quốc tế ở Nuremberg vào cuối năm 1945. Ngay sau đó, ông ta trở thành một biểu tượng của sự độc ác ghê tởm. Lần lượt theo diễn biến của vụ kiện, những kẻ bị truy tố, những nhân chứng, các luật sư vạch lại lịch sử một cuộc thảm sát qui mô và độc ác không tiền khoáng hậu: tiêu diệt sáu triệu người Do thái. Theo họ, con người chịu trách nhiệm về công cuộc tổ chức ám sát tập thể này chính là Adolf Eichmann.
Trong ngăn dành cho các bị cáo có những người mà tên tuổi được toàn thế giới biết đến, những ngôi sao đã chiếu sáng rực trong vòm trời hắc ám của Đức quốc xã: Goering và Keitel, Ribbentrop và Seyes-Inquart, Kaltenbrunner và Frank, Frick và Streicher, Saukel và Jodl… Trong mười hai năm họ đã cai trị nước Đức, và trong năm năm hơn phân nửa Âu châu với chức vụ Bộ trưởng của Quốc trưởng Hitler trong khoảng thời gian ngắn này, họ đã trút lên thế giới nhiều đau khổ hơn bất cứ chế độ nào trong lịch sử. Họ đã gây một cuộc thế chiến mà trong đó nhiều triệu binh sĩ và thường dân đã bị giết. Nhưng đó chỉ là một trong nhiều lý do khiến họ phải ngồi trên ghế bị cáo, để trả lời cho sự tố cáo về tội ác chiến tranh trước một tòa án gồm các quan tòa Mỹ, Nga, Anh và Pháp. Cáo trạng chính danh cho họ là tội ác chống lại nhân loại.
Trong chiến tranh, binh sĩ tất nhiên là bị chết. Thường dân cũng rất thường là nạn nhân dưới làn đạn của hai phe. Nhưng những người này đã bị truy tố vì đã tàn sát một cách cố ý, có hệ thống những kẻ hoàn toàn vô tội, đàn ông, đàn bà và trẻ em, không lý do nào khác hơn sự liên quan của họ với một nhóm quốc gia, tôn giáo hoặc chủng tộc bị các đảng viên Quốc Xã (Nazi) khinh rẻ. Đó chính là tội ác chống lại nhân loại.
https://thuviensach.vn
Và đó là điều làm cho những người ngồi trong ngăn bị cáo của tòa án Nuremberg cảm thấy ngột ngạt. Dĩ nhiên những kẻ như Goering và Kaltenbrunner có vẻ rã rời, tuyệt vọng bởi tai biến cá nhân họ đã bị đè bẹp từ việc sụp đổ uy quyền tột đỉnh đến một chỗ ngồi nhục nhã trong tòa án đối mặt những đại diện pháp luật của các dân tộc mà cường quyền của họ đã tác oai tác quái và đã bị bẻ gẫy. Nhưng trước khi bị giao cho pháp luật, họ vẫn tiếp tục phô trương nét tự mãn. Dường như họ chỉ nhớ đến vinh quang đã đạt được trước khi bị sụp đổ, những chồng tiền phỉnh gom được từ những kẻ đánh bạc trước khi vận đỏ quay đi. Họ đã mất tất cả, nhưng họ đã suýt toàn thắng. Họ không may, nhưng sự thiếu may mắn đâu phải là tội ác. Họ vẫn còn hy vọng hão huyền là thoát khỏi sợi dây treo cổ.
Nhưng họ đã bị giải ra trước tòa án. Và ở đó họ nghe ông biện lý đọc một cách trầm tĩnh và lạnh lùng, những sự việc được xác nhận bằng các tài liệu, các hồ sơ và những nhân chứng còn sống sót. Đó là một bản tường thuật những tội sát nhân và dần dần theo diễn biến của bản tường thuật khủng khiếp ấy, những kẻ ngồi trong ngăn bị cáo đã bắt đầu mất đi vẻ ung dung khinh khoái mà họ đã phô trương. Khi ánh mắt của tòa án, của công chúng và các đại diện báo chí lần lượt quay về họ, thì họ gục đầu xuống, lưng cúp lại và ngụp sâu trong sự nhục nhã. Là một chiến sĩ oai hùng của một quân đội đã chiến đấu và đã bại trận là một việc, nhưng làm nên một tên tội phạm sát nhân thường luật, phần tử của một đảng bất lương đê tiện mà cường lực đã cho pháp họ gây nhiều tội ác trong hơn 16 nước, tất cả tội ác mà loài người đã từng biết qua, đến những tội ác chưa từng biết mà họ đã sáng chế ra, lại là một việc khác.
Những tội ác này gồm có: cố sát, tận diệt, áp chế, lưu đày và những hành động vô nhân đạo khác gây ra cho những thường dân trước và sau chiến tranh, và những chuyện bắt bớ, ngược đãi về phương diện chính trị, chủng tộc và tôn giáo.
https://thuviensach.vn
Tòa án Nuremberg đã kể tường tận vài phương pháp đã áp dụng: “Những cuộc cố sát và ngược đãi đã được thực hiện bằng nhiều phương pháp chẳng hạn như xử bắn, treo cổ, làm chết bằng hơi ngạt, bỏ đói, nhốt chồng chất trong những căn phòng thật nhỏ, cho ăn uống thiếu chất dinh dưỡng một cách có hệ thống, ép buộc làm những công việc quá sức chịu đựng, cung cấp quá thiếu thốn các cơ sở y tế và các phương tiện giải phẫu, những cú đá, những hình phạt các thủ đoạn tàn bạo và tra tấn bằng đủ mọi cách, trong đó có dùng sắt nung đỏ, nhổ móng tay và các cuộc thí nghiệm trên thân thể những người còn sống”.
Những kẻ bị tố cáo lắng nghe. Có kẻ cũng tỏ ra xấu hổ.
Cuộc kể tội nghiêm khắc tiếp tục: “Họ đã cố tình tổ chức một cuộc diệt chủng một cách rất có hệ thống, nghĩa là tận diệt các nhóm về chủng tộc và quốc gia, nhất là Do thái, Ba lan, Di gan…” Và họ đã thực hiện những công việc tàn ác đó với những phương tiện mới. Đây là một vài ví dụ được lấy ra một cách tình cờ:
Những cách thức tiêu diệt trong những trại tập trung, những sự ngược đãi, những cuộc thí nghiệm khoa học giả hiệu (làm tiệt đường sinh sản của phụ nữ ở trại Auschwitz và Ravensbruek, nghiên cứu về sự bành trướng của bệnh ung thư tử cung ở Auschwitz, bệnh đậu lào ở Buchenwald, nghiên cứu về cơ thể học ở Natzweiler, chích thuốc vào tim ở Buchenwald, ghép xương và xẻo bắp thịt ở Ravensbruek….) phòng hơi ngạt, xe hơi ngạt và lò thiêu… Vô số đống thây người cho thấy chứng cớ của nhiều vụ tàn sát bí mật.
Trong chỉ có một trại có hơn 200.000 người Do thái đã bị tàn sát. “Những phương cách độc ác tinh vi nhất đã được dung cho việc giết người, chẳng hạn như mổ bụng, làm đông đặc trong các thùng chứa nước. Những cuộc xử bắn tập thể được diễn ra trong tiếng nhạc hòa tấu”…
Trong vài trường hợp, những nạn nhân được đưa đi dò mìn, “Tất cả những người đó đều bị chết trong những vụ nổ mìn”.
https://thuviensach.vn
Có những vụ tra tấn bằng cách “treo người lên trần nhà”. Nhiều người bị bắn sau khi chịu đựng hình phạt này.
Tại một vùng ở phía Đông Âu, bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, đã có “hơn một ngàn xác chết mang nhiều chứng tích bị tra khảo đã được tìm thấy. Một trăm ba mươi chín người đàn bà tay bị trói thúc bẻ ra sau bằng dây kẽm; một số đã bị xẻo mất nhũ hoa, cắt lỗ tai, chặt cụt ngón tay và ngón chân. Tất cả các xác đều có vết cháy phỏng. Để thêm phần sâu sắc, và để nhấn mạnh sự việc các nạn nhân đều là người Do thái, trên thân thể những người đàn ông đều bị in một ngôi sao năm cánh bằng sắt nung đỏ hoặc bị rạch bằng dao. Có kẻ bị mổ banh bụng”.
Ngay các trẻ em cũng không được buông tha. Tòa án ở Nuremberg lên án những nhà lãnh đạo Đức Quốc Xã đã tàn sát các trẻ em đồng thời với những người lớn một các không thương tiếc. Họ giết chúng cùng với cha mẹ chúng, giết từng nhóm hoặc riêng rẽ. Họ giết chúng trong các nhà giữ trẻ và ở bệnh viện, chôn sống, quăng vào lửa, đâm thủng người chúng bằng lưỡi lê, chích thuốc độc, dùng chúng trong các cuộc thí nghiệm, lấy máu chúng để tiếp cho quân đội Đức, nhốt chúng vào xà lim, trong các phòng tra tấn của Gestapo và trong các trại tập trung, nơi đây chúng chết vì đói, vì tra tấn và vì bệnh dịch”.
Các bị cáo hết sức kinh ngạc với những điều phát giác ấy, vì họ nghĩ rằng họ đã thủ tiêu các chứng tích tội ác của họ. Thật vậy, như tòa án Nuremberg đã tiết lộ’ từ tháng 6 năm 1943, người Đức đã thực hiện việc hủy diệt các bằng chứng tội ác của họ. Họ đào các xác chết lên và đốt đi, nghiền nát số xương còn sót lại để làm phân bón”.
Nhưng số nạn nhân quá đông, và không thể nào đào lên, đốt đi và nghiền nát ra hết được. Và chính như thế, giờ đây, những người này mới phải ngồi đấy, đối chứng với các bằng cớ tội ác của họ.
https://thuviensach.vn
Càng nghe chuyện ghê rợn đồi bại của họ, không còn là những nhà lãnh đạo ngạo mạn của một quốc gia bị sụp đổ nữa. Họ chỉ là một nhóm người vô lại tầm thường. Họ bắt đầu cảm thấy rờn rợn nơi cổ về sự cọ sát đáng sợ của sợi dây treo cổ. Vì có thể họ đã hy vọng thoát khỏi bằng một cuộc xét xử nhục nhã của một cấp lãnh đạo đã gây chiến, nhưng với tội sát nhân một cách qui mô và tàn ác như vậy thì chỉ có thể có một phán quyết thôi. Và họ biết đó là tội chết.
Mọi người bắt đầu cố gắng tự cứu bằng mưu mô và bằng sự quỳ lụy nhục nhã của một kẻ tòng phạm, đổ tội cho các bạn để tự biện hộ. Mỗi người đã từng hãnh diện về quyền lực của họ, giờ chỉ biết nói lên sự vô tri thức của một thuộc cấp nơi họ. Kẻ này nói “chúng tôi đã nhận lệnh”. Kẻ khác nói “chúng tôi không biết”. “Chúng tôi có biết nhưng những hành động ấy thuộc về một cơ quan khác ngoài trách nhiệm của tôi”, phần đông họ khai như vậy.
— Cơ quan nào?
— Ban IV (B4) của cơ quan R.S.H.A, cơ quan An ninh Quốc gia, chịu trách nhiệm về các hành động chống Do thái mà người điều khiển là Obserturmbannfuhrer S.S (Trung tá) Adolf Eichmann.
Adolf Eichmann. Chính hắn Eichmann là một tên gọi mà rất nhiều bị cáo đã biết đến. Một tên gọi mà, ngược lại, gần như hoàn toàn xa lạ trong tòa án, đối với những người không dự phần vào việc dựng bằng chứng buộc tội. Bỗng dưng tên này được mọi người nhắc đến, một kẻ vô danh trở nên nổi tiếng như vai chính của một thảm kịch đen tối, chỉ một mình nó biểu tượng cho những tội ác tày trời mà Tòa án Quốc tế đã họp lại để xử. Nếu hồn ma của Hitle có lãng vãng tại Nuremberg lúc mở màn, thì giờ đây một hồn ma bóng quỷ khác lại đến gặp hắn ta, hồn ma của Adolf Eichmann. Bởi vì tất cả mọi người đều tưởng rằng Adolf Eichmann đã chết.
https://thuviensach.vn
Sự tin tưởng này, có lẽ làm các bị cáo được dễ dàng trong toan tính tránh né một sự kết tội, nhưng cũng chẳng giúp đỡ họ được gì. Họ bị kết tội bởi những trách nhiệm mà họ phải gánh chịu. Và Tòa án lại nhấn mạnh bản án của họ không miễn tố những kẻ khác liên quan đến công việc nhận định, sửa soạn hoặc thực hiện các trọng tội đối với nhân loại. Nếu Eichmann còn sống và bị bắt, hắn ta cũng sẽ ngồi ghế bị cáo.
Vì Adolf Eichmann hiện ra như một nhân vật chính trong việc thực hiện chương trình của bọn Quốc Xã dành để giải quyết vấn đề dân Do thái vốn đã được gọi một các văn vẻ là “Giải pháp cuối cùng”. Đối với dân Do thái, giải pháp cuối cùng là sự chết chóc.
Có một điều hơi lạ là chính phía khởi tố chứ không phải là bên biện hộ, đã đưa ra các nhân chứng chính về quá trình hoạt động của Adolf Eichmann. Khi chứng cứ đầy đủ, các luật sư của nhiều bị cáo đã chụp ngay sự may mắn bất ngờ này để trình bày Eichmann như là kẻ duy nhất chịu trách nhiệm.
Một trong những lần gây sôi nổi nhất của vụ kiện ở Nuremberg là lúc người chứng đầu tiên đứng ra xác nhận và tường thuật vai trò chính yếu của Eichmann trong chương trình tiêu diệt dân tộc Do thái. Người đó chính là Dieter Wisliceny, đại úy SS. Việc cung khai của ông cũng đáng sợ và nặng nề hơn vì ông ta đã đưa ra những gì mình đã biết trong nội bộ. Ông ta là người Phổ. Một đảng viên Quốc xã chính cống. Ông làm việc cùng một sở với Eichmann, ban IV B4 của R.S.H.A với tư cách là một trong những phụ tá của Eichmann, và đã từng là đại diện của ông ta tại Slovaquie, tại Hy lạp và tại Hung gia lợi trong việc thực hiện “Giải pháp cuối cùng”.
Trong thời gian đó, Wisliceny chờ ra tòa ở Bratislava vì họ tố cáo là tội phạm chiến tranh, và đã được đưa đặc biệt từ Slovaquie đến làm chứng tại Nuremberg. Tôi đã đích than đến gặp ông ta mười tháng sau, khi đó ông vừa bị kết án tử hình và đang chờ ngày hành quyết. Ông bị treo cổ vài tuần lễ sau đó. Tôi phỏng vấn ông tại văn phòng làm việc của viên thiếu tá nhà
https://thuviensach.vn
lao chính ở Bratislava. Trong buổi nói chuyện này, ông hoàn toàn xác nhận bản cung khai hồi tháng giêng trước tòa án quốc tế và đã đi sâu vào chi tiết hơn nữa. Ông tiết lộ một tin rất đặc sắc và tôi đã chuyển lại cho giới chức có thẩm quyền ở Vien hai ngày sau đó. Khác hẳn các bị cáo ở Nuremberg, Wisliceny quả quyết Eichmann vẫn còn sống. Ông nhấn mạnh chứng cớ của ông, trên sự quen biết cá nhân về con người, trên sự việc ông ta biết Eichmann đã sắp đặt cẩn thận mọi thứ để bảo toàn tương lai, và ông tin chắc Eichmann không có đủ can đảm để tự sát. Wisliceny tuyên bố muốn ghi lại sự việc này trên giấy. Tôi đưa cây viết của tôi và ông ta ghi vấn đề này.
Sự tin tưởng của ông về sự kiện Eichmann vẫn còn sống đã bảo đảm thêm tính chất xác thực của việc làm chính của ông. Vì trong tất cả những người lãnh đạo Quốc xã bị đưa ra pháp luật, chỉ có riêng ông chắc chắn những lời nói của mình sẽ đến tận tai hay nằm dưới mắt của Eichmann. Ông không nói đến một người đã chết mà người ta có thể nói nhiều việc không sợ có phản ứng. Ông ta biết những gì mình tuyên bố có thể mình sẽ bị đối chứng với Eichmann nếu ông ta vẫn còn sống và vừa bị bắt. Và ông ta đã đoán chắc với tôi là cuối cùng Eichmann sẽ bị bắt.
Ngày 3 tháng giêng năm 1946 là ngày sôi động mạnh khi Wisliceny đứng trước vành móng ngựa ở Nuremberg. Việc làm chứng của ông chấm dứt bằng một màn kịch bi thảm làm cho mọi người bàng hoàng…
Wisliceny đứng trước vành móng ngựa, dáng cao lớn, tóc vàng, mấy tháng trong lao xá làm ông ta ốm hẳn đi. Vị Chánh án cho ông tuyên thệ. Sau đó trung tá Smith W.Brookhart Jr, phụ tá thẩm phán của Hoa-kỳ bắt đầu lấy khẩu cung:
Trung tá Brookhart: - Anh bao nhiêu tuổi?
Wisliceny: - Ba mươi tư tuổi.
https://thuviensach.vn
B. – Sanh tại đâu?
W. – Tôi sanh tại Regulowken, miền Đông Phổ.
B. – Anh đã là đảng viên Đảng Quốc Xã?
W. – Phải.
B. – Anh thuộc lực lượng SS?
W. – Phải, từ năm 1934.
B. – Anh lên cấp bậc nào?
W. – Năm 1940, tôi được thăng nhiệm đại úy SS.
B. – Anh có biết Adolf Eichmann không?
W. – Có, tôi biết Adolf Eichmann từ năm 1934.
B. – Anh biết hắn ta trong trường hợp nào?
W. – Chúng tôi vào cơ quan SS gần như một lượt. Cho đến năm 1937, chúng tôi đã làm cùng sở.
B. – Anh biết tường tận về cá nhân Eichmann?
W. – Chúng tôi rất thân nhau, thường xưng hô mày tao với nhau, và tôi cũng biết rất rõ về gia quyến của ông ta.
B. – Hắn giữ chức vụ gì?
W. – Tại Cục An ninh Quốc gia (R.S.H.A.), Eichmann làm trưởng ban của Amt IV, cơ quan Gestapo.
B. – Nhiệm vụ của hắn ta là gì?
https://thuviensach.vn
W. – Ban này lo vấn đề Do thái của R.S.H.A. Eichmann được ủy quyền đặc biệt của Đại tướng (Gruppenfuhrer) Muller, chỉ huy trưởng của Amt IV và của tư lệnh Cảnh sát đặc biệt. Ông ta chịu trách nhiệm đặc biệt về cái mà người ta gọi là giải pháp của vấn đề Do thái tại Đức và tại các quốc gia bị Đức chiếm đóng.
B. – Trong hoạt động liên quan đến Do thái, có những giai đoạn nào khác biệt nhau không?
W. – Có.
B. – Anh có thể phỏng định các thời kỳ và xác định các loại hoạt động khác nhau cho Tòa được biết không?
W. – Được. Đến năm 1940, chính sách chung của Ban là giải quyết vấn đề Do thái tại Đức và các vùng bị Đức chiếm đóng bằng một cuộc di dân có tổ chức. Sau năm này là thời kỳ thứ hai, gồm việc tập trung tất cả các người Do thái tại Ba lan và tất cả các vùng bị Đức chiếm đóng tại miền Đông vào các Ghetto (xóm riêng Do thái). Thời kỳ này kéo dài đến khoảng năm 1942. Giai đoạn thứ ba là thời kỳ người ta gọi là ” Giải pháp cuối cùng” của vấn đề Do thái, có nghĩa là sự tận diệt có tổ chức chủng tộc Do thái; thời kỳ này kéo dài đến tháng 10 năm 1944, lúc mà Himmler ra lệnh ngừng tiêu diệt họ.
(Đến đây, phiên tòa đình chỉ).
B. – Anh bắt đầu cộng tác với Ban Amt IV của R.S.H.A. từ lúc nào?. (Câu hỏi này có một lầm lẫn. Đúng ra là Ban IV B 4).
W. – Vào năm 1940. Tình cờ tôi gặp Eichmann.
B. – Anh đã giữ những chức vụ gì?
W. – Eichmann đề nghị tôi đi Bratislava với tư cách cố vấn cho vấn đề Do thái bên cạnh chính phủ Slovaquie.
https://thuviensach.vn
B. – Anh giữ chức vụ này trong bao lâu?
W. – Tôi đã ở Bratislava đến mùa xuân năm 1943; Kế đó gần một năm ở Hy lạp và về sau, từ tháng ba năm 1944 đến tháng chạp năm 1944, tôi làm việc với Eichmann tại Hung Gia lợi. Tôi rời sở của Eichmann vào tháng giêng năm 1945.
B. – Trong thời gian hoạt động, anh có bao giờ nghe nói đến một lệnh nào đòi hỏi sự tiêu diệt tất cả người Do thái không.
W. – Có, tôi được Eichmann cho biết lệnh này lần đầu tiên vào mùa hè năm 1942.
B. – Anh hãy kể cho Tòa biết các trường hợp và nguyên lai của lệnh này?
W. – Mùa xuân năm 1942, khoảng 17.000 người Do thái được đưa từ Slovaquie đến Ba lan dưới hình thức nhân công. Đây là một thỏa hiệp với chính phủ Slovaquie.
Tháng tư hoặc đầu tháng năm 1942. Eichmann nói với tôi rằng từ nay về sau, nhiều gia đình có thể được đưa trọn sang Ba Lan. Eichmann đích thân tới Bratislava vào tháng năm 1942 và bàn cả vấn đề với các nhân vật có thẩm quyền bởi chính phủ Slovaquie. Ông ta đến thăm Bộ trưởng Mach và giáo sư Tuka, ông này đang giữ chức vụ Thủ tướng. Lúc đó ông ta cam kết với chính phủ Slovaquie, rằng những người Do thái sẽ được đối xử nhân đạo trong các ghetto ở Ba lan, như ý muốn của chính phủ Slovaquie. Tiếp sau sự đảm bảo đó, khoảng 35.000 người Do thái đưa từ Slovaquie đến Ba lan. Trong khi đó các cấp lãnh đạo Slovaquie cố gắng mọi cách để các người Do thái được đối đã tử tế thật sự; Họ đặc biệt tìm các giúp đỡ những người Do thái đã cải sang Thiên Chúa giáo. Thủ tướng Tuka đã khẩn khoản mời tôi đến gặp ông và tỏ ý mong ước một phái đoàn Slovaquie được phép đến các vùng người Do thái Slovaquie bị chuyển đến. Tôi chuyển lời thỉnh
https://thuviensach.vn
nguyện này đến Eichmann, và kèm theo đó chính phủ Slovaquie cũng có gửi một văn thư về vấn đề này cho ông ta. Lúc đó, Eichmann chỉ trả lời một cách hững hờ.
“Cuối tháng bảy hay đầu tháng tám, tôi đến gặp Eichmann tại Bá Linh và một lần nữa van nài ông chấp thuận lời thỉnh cầu của chính phủ Slovaquie. Tôi nêu cho ông ta biết những lời đồn tại ngoại quốc trong đó có tin đồn tất cả người Do thái ở Ba lan đều bị giết chết. Tôi còn cho ông ta biết chính Đức Giáo hoàng cũng đã can thiệp giúp họ với chính quyền Slovaquie. Tôi lưu ý hãy đề phòng cách hành động này nếu có thật, sẽ rất tai hại cho uy tín của Đức quốc với ngoại quốc. Viện các lý do đó, tôi yêu cầu ông chấp thuận cuộc viếng thăm này. Sau một lúc bàn cãi, Eichmann bảo với tôi lời yêu cầu này tuyệt đối không làm sao có thể thỏa mãn được. Tôi hỏi tại sao. Ông ta bảo với tôi rằng phần lớn những người Do thái đó đã không còn sống nữa. Tôi hỏi ai cho những chỉ thị như vậy và ông ta ám chỉ một mệnh lệnh của Himmler. Tôi liền yêu cầu cho xem bản chỉ thị đó vì tôi không thể tưởng tượng được có một lệnh như vậy trên giấy tờ. Ông ta….”
B. – Lúc ấy anh ở đâu? Lần họp ấy với Eichmann anh ở đâu?
W. – Buổi họp ấy đã diễn ra tại Bá Linh, số 116 đường Kurfurstenstrasse, trong văn phòng của Eichmann.
B. – Anh hãy tiếp tục trả lời câu hỏi trước.
W. – Eichmann bảo có thể cho tôi xem tờ chỉ thị đó nếu việc ấy làm tôi yên tâm. Ông ta lấy một xấp giấy trong tủ sắt, lật các trang giấy và đưa cho tôi xem một bức thư của Himmler gửi cho Tư lệnh Cảnh sát đặc biệt và cho cơ quan SD. Nội dung bức thư như sau: “Fuhrer đã ban hành giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do thái; Tư lệnh Cảnh sát đặc biệt, cơ quan SD và Thanh tra các trại tập trung được giao phó nhiệm vụ thi hành giải pháp cuối cùng này. Tất cả người Do thái, đàn ông và đàn bà, còn sức làm việc được tạm thời miễn chịu giải pháp cuối cùng này và bị đưa đi phục dịch tại các trại
https://thuviensach.vn
tập trung. Bức thư do chính Himmler ký tên. Tôi không thể lầm lẫn được vì tôi biết rõ chữ ký của ông ta”
B. – Chỉ thị này có mang dấu bảo đảm nào không?
W. – Có in chữ “mật”.
B. – Anh có thể phỏng đoán ngày tháng của chỉ thị này không? W. – Chỉ thị có từ tháng 4 năm 1942.
B. – Do ai ký?
W. – Chính tay Himmler.
B. – Và anh đã quan sát kỹ tờ chỉ thị này tại văn phòng của Eichmann? W. – Phải, Eichmann đưa tờ chỉ thị cho tôi và chính tôi đã đọc.
B. – Anh có nêu thắc mắc gì về ý nghĩa của câu: ” Giải pháp cuối cùng” dùng trong tờ chỉ thị ấy không?
W. – Eichmann đã giải thích cho tôi ý nghĩa của câu đó. Ông ta bảo đây là việc tiêu diệt có tổ chức giống dân Do thái tại các vùng lãnh thổ ở phía Đông, được ám chỉ dưới thành ngữ ” Giải pháp cuối cùng”. Trong những lần bàn luận sau đó về đề mục này, vẫn những tiếng ” Giải pháp cuối cùng” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
B. – Anh có nói gì với Eichmann về những quyền lực do lệnh này đưa đến cho hắn ta không?
W. – Eichmann bảo chính ông ta được ủy quyền thi hành mệnh lệnh này trong Cục An ninh (R.S.H.A.). Với mục đích này, ông nhận nơi vị Tư lệnh Cảnh sát đặc biệt tất cả mọi quyền hạn, ông chịu trách nhiệm thi hành trực tiếp về việc thi hành lệnh trên.
https://thuviensach.vn
B. – Anh có bình luận gì với Eichmann về các quyền hạn đó không?
W. – Có, vì tôi thấy rõ lệnh này có nghĩa là đưa hàng triệu người đến cái chết. Cho nên tôi đã nói với Eichmann: “Cầu trời cho các kẻ thù chúng ta đừng bao giờ có cơ hội làm như vậy đối với dân tộc Đức”. Và Eichmann trả lời tôi là không nên quá đa cảm; đó là lệnh của Fuhrer, và phải thi hành.
B. – Anh có biết lệnh này vẫn có hiệu lực và nằm dưới quyền kiểm soát của cơ quan Eichmann không?
W. – Có.
B. – Bao nhiêu lâu?
W. – Lệnh ấy có hiệu lực đến tháng 10 năm 1944. Lúc đó Himmler ban ra một phản lệnh để ngăn chặn sự tiêu diệt dân Do thái.
B. – Ai là chỉ huy trưởng của cơ quan Reichssicherheitshauptamt (R.S.H.A.) lúc lệnh này được ban ra lần đầu tiên?
W. – Hình như là Heydrich (Heydrich bị ám sát chết tại Prague vào tháng 5 năm 1942 và được Kaltenbrunner thay thế)
B. – Chương trình đưa ra do lệnh này có hiệu lực mạnh dưới thời Kaltenbrunner không?
W. – Có. Chẳng có một sự thay đổi nào.
B. – Anh đã từng có dịp nghiên cứu kỹ các hồ sơ trong văn phòng của Eichmann không?
W. – Có, rất thường. Tôi biết ông ta sắp đặt thật tỉ mỉ các hồ sơ liên quan đến công việc của mình. Ông là một viên chức hoàn toàn về mọi mặt, ông ghi ngay vào hồ sơ tất cả các cuộc nói chuyện với cấp chỉ huy. Ông thường nói với tôi rằng, đối với ông, vấn đề quan trọng nhất là được các
https://thuviensach.vn
người ấy che chở bất cứ lúc nào. Bản thân ông trốn tránh mọi trách nhiệm và lúc nào cũng cẩn thận nấp sau thượng cấp, như Muller và Kaltenbrunner chẳng hạn, khi nói đến trách nhiệm hành vi của mình.
B. – Bây giờ nếu chúng ta bàn đến các xứ mà các biện pháp chống Do thái đã được thực hiện, anh có thể cho biết trong những xứ nào anh đã đích thân biết được có các chiến dịch như vậy?
W. – Trước tiên, tôi biết tất cả các biện pháp đã được thực hiện ở Slovaquie. Tôi cũng được biết cuộc di tản người Do thái ở Hy lạp và ở Hung gia lợi. Thêm nữa, tôi cũng biết được biện pháp đã được áp dụng tại Bảo gia lợi và Croatie. Dĩ nhiên là tôi nghe nói đến những cuộc chuẩn bị tại các nước khác, nhưng không thể biết tường tận
B. – Trong trường hợp xứ Slovaquie, anh đã nói về 17.000 người Do thái được đặc biệt chọn lựa để đem đi. Anh có thể cho Tòa biết những biện pháp nào đã được áp dụng sau đó đối với người Do thái tại xứ này?
W. – Trước đây tôi đã nói là sau 17.000 công nhân ấy thì 35.000 người Do thái nữa được đưa đi, trong đó có nhiều gia đình nguyên vẹn.
B. – Việc gì đã xảy ra cho 35.000 người Do thái đã được gửi tới Ba lan ấy?
W. – Họ đã được đối đãi đúng như theo chỉ thị mà Eichmann đã cho tôi xem hồi tháng 8 năm 1942. Một số được giữ lại vì có khả năng làm việc. Còn những kẻ khác thì bị giết.
B. – Anh làm như thế nào để biết được chuyện ấy?
W. – Bởi Eichmann, và dĩ nhiên, bởi Hoess trong những lần đàm luận tại Hung gia lợi.
B. – Tỉ lệ các người Do thái còn sống là bao nhiêu?
https://thuviensach.vn
W. – Thời đó , trong một buổi nói chuyện với Eichmann có tôi tham dự, Hoess đã cho biết con số những người Do thái còn sống sót và bị đem đi phục dịch vào khoảng từ 25 đến 30 phần trăm.
B. – Nếu chúng ta đi từ các sự kiện xảy ra tại Hy lạp, xin anh trình bày cho Tòa biết các sự kiện tiếp theo theo thứ tự thời gian?
W. – Tháng giêng năm 1943, Eichmann gọi tôi tới Bá linh và thông báo là tôi sẽ phải đến Salonique để mang đến đấy một giải pháp cho vấn đề Do thái với sự phối hợp của Bộ chỉ huy quân sự Đức tại Macedoine. Người đại diện thường trực của Eichmann, viên thiếu tá SS Rolf Gunther, đã đến Salonique trước rồi. Chuyến đi của tôi được dự định vào khoảng tháng hai; cuối tháng giêng Eichmann cho biết ông ta đã giao phó cho viên đại úy SS Brunner việc thực hiện kỹ thuật của tất cả mọi chiến dịch tại Hy lạp, và ông ta sẽ cùng đi với tôi đến Salonique. Brunner không thuộc quyền tôi, Tháng hai chúng tôi đến Salonique và tiếp xúc với Bộ chỉ huy quân sự tại đó.
B. – Anh tiếp xúc với ai tại Bộ chỉ huy quân sự?
W. – Với bác sĩ Merten, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự, và viên Tư lệnh các lực lượng mặt trận Salonique-Biển Egee.
B. – Kế hoạch được trù liệu với bác sĩ Merten và các biện pháp nào đã được áp dụng.
W. – Tại Salonique, trước hết người Do thái bị tập trung lại trong một vài khu xóm trong thành phố. Tại Salonique có khoảng 50.000 người Do thái Tây ban nha. Đầu tháng ba, sau khi thực hiện xong lệnh tập trung, một bức điện văn của Eichmann gửi đến cho Brunner ra lệnh di tản tức khắc tất cả những người Do thái tại Salonique và Macedoine đến Auschwitz. Với tờ lệnh trong tay, Brunner và tôi tới Bộ chỉ huy quân sự, nơi đây không thắc mắc gì, và các công cuộc chuẩn bị và các biện pháp cần thiết đã được đề ra và thi hành. Brunner đích thân chỉ huy tất công việc tại Salonique. Những
https://thuviensach.vn
chuyến xe lửa di tản được trưng dụng nơi Bộ chỉ huy Tiếp vận Quân đội. Brunner chỉ có việc nêu số toa xe cần thiết và chỉ định chắc chắn giờ giấc cần dùng các toa xe ấy.
B. – Có nhóm công nhân Do thái nào được giữ lại ở Hy lạp theo yêu cầu của Tiến sĩ Merten hoặc của Bộ chỉ huy quân sự không?
W. – Bộ chỉ huy quân sự có xin 3.000 người Do thái để dùng vào các công việc dọc đường xe lửa, sự yêu cầu này được chấp thuận. Sau khi tất cả các công việc được hoàn tất, những người Do thái ấy được trả lại cho Brunner và cũng như bao người khác, họ bị gửi đi Auschwitz.
B. – Tất cả có bao nhiêu người Do thái được gom lại và đày đi khỏi Hy lạp?
W. – Có hơn 50.000. Tôi tính có khoảng 54.000 người được di tản khỏi Salonique và Macedoine.
B. – Anh căn cứ con số đó vào đâu?
W. – Chính mắt tôi đọc bản tường trình đầy đủ của Brunner gửi cho Eichmann về việc di tản.
B. – Các chuyến di chuyển từ Hy lạp về đâu?
W. – Đều về Auschwitz.
B. – Và sau cùng người ta làm gì những người Do thái từ Hy lạp được đưa đến Auschwitz.?
W. – Tất cả, không trừ một ai, đều được dành cho giải pháp gọi là cuối cùng.
B. – Trong thời gian tập hợp, những người Do thái có bị bắt buộc tự sinh kế hàng ngày không?
https://thuviensach.vn
W. – Có. Tiền bạc của người Do thái bị tịch thu và bỏ vào trương mục công cộng tại Ngân hàng Hy lạp. Sau khi họ đã bị di tản khỏi Salonique. Bộ chỉ huy Quân sự đã chiếm lấy trương mục này. Có khoảng hai trăm tám mươi triệu tiền Hy lạp.
B. – Anh muốn nói gì khi nói người Do thái bị đưa tới Auschwitz đã chịu ”giải pháp cuối cùng”?
W. – Tôi muốn nói đến cái mà Eichmann đã giải thích cho tôi dưới danh từ ” giải pháp cuối cùng”, có nghĩa là họ sẽ bị tiêu diệt. Theo những gì tôi được biết trong các cuộc bàn luận với ông ta, cuộc tiêu diệt này diễn ra trong các phòng hơi ngạt và xác chết được thiêu hủy trong lò thiêu
B. – Nếu ngài Chánh án muốn, nhân chứng sẵn sàng cung khai về các hành động ở Hung gia lợi, liên quan đến khoảng 500.000 người Do thái. (Quay lại nhân chứng:). Về những sự việc liên quan đến các hoạt động tại Hung gia lợi, anh có thể mô tả vắn tắt các công cuộc chuẩn bị đã được đề ra tại đó và sự tham dự của anh trong các biện pháp đó?
W. – Sau khi quân Đức tiến vào đất Hung gia lợi, Eichmann đích thân tới đó với một bộ tham mưu hùng hậu. Theo lệnh bộ Tư lệnh Cảnh sát đặc biệt, tôi được biệt phái tới bộ tham mưu của Eichmann. Eichmann bắt đầu các hoạt động của ông ta tại Hung gia lợi vào cuối tháng 3 năm 1944. Ông tiếp xúc với nhân viên chánh phủ Hung, thời đó đặc biệt với hai Tổng trưởng Endre và Von Baky. Quyết định đầu tiên của Eichmann với sự hợp tác của các nhà lãnh đạo Hung gia lợi ấy là tập trung người Do thái Hung gia lợi vào các nơi ấn định sẵn. Quyết định này được áp dụng từng vùng, bắt đầu tại Ruthenie và Trancylvanie. Hoạt động này bắt đầu vào trung tuần tháng 4 năm 1944.
“Tại Ruthenie, hơn 200.000 người Do thái đã bị các biện pháp ấy chiếu cố đến. Hậu quả là không làm sao kham nổi công việc tiếp tế lương thực và chỗ trú ngụ tại các tỉnh nhỏ và thị xã thôn quê nơi tập trung dân Do thái.
https://thuviensach.vn
Đứng trước tình trạng đó, Eichmann đề nghị người Hung chuyển vận dân Do thái tới Auschwitz và các trại tập trung khác. Tuy nhiên ông ta đòi hỏi phải có một đơn yêu cầu về việc này, do chính phủ Hung hoặc do một thành phần của chính phủ này. Đơn ấy đã được Tổng trưởng Von Baky thực hiện, việc di tản do cảnh sát Hung phụ trách.
Eichmann ủy nhiệm tôi làm sĩ quan liên lạc cạnh trung tá Ferency, người được Bộ trưởng Nội vụ Hung giao phó đảm trách việc này. Việc di tản những người Do thái ra khỏi Hung bắt đầu vào tháng năm năm 1944 và diễn tiến từng vùng một, đầu tiên tại Ruthenie, kế đó là Trancylvanie, Hung gia lợi miền Bắc, miền Nam và miền Tây”.
B. – Trong thời gian tập trung người Do thái ở Hung gia lợi, có những cuộc tiếp xúc nào – nếu có – giữa ủy ban Phân phối về vấn đề Do thái và đại diện của Eichmann?
W. – Ủy ban Phân phối cố gắng liên lạc với Eichmann và thử giúp đỡ cho số phận người Do thái Hung gia lợi. Chính tôi dàn xếp tổ chức cuộc tiếp xúc ấy với Eichmann, vì tôi muốn tìm ra một phương cách nào để che chở nửa triệu người Do thái Hung gia lợi khỏi các biện pháp đã được áp dụng rồi. Ủy ban Phân phối đề nghị cho Eichmann vài sự dâng hiến và bù lại, họ yêu cầu để dân Do thái được ở lại đất Hung. Các sự dâng hiến ấy thuộc về tài chánh. Eichmann bắt buộc phải chuyển lên Himmler một cách miễn cưỡng. Do đó, Himmler giao phó cho một đại tá tên là Becher các việc thương lượng về sai. Becher thương lượng với Bác sĩ Kastner, đại biểu của Ủy ban Phân phối. Nhưng Eichmann, ngay từ đầu, đã cố ý phá hỏng các cuộc thương lượng ấy. Ông ta tìm cách đặt chúng tôi trước sự việc đã rồi, ngay từ khi chưa có kết quả cụ thể nào đạt tới, nói cách khác, ông ta đã tìm cách chở người Do thái đến Auschwitz càng nhiều càng tốt.
B. – Có những bản thông cáo chính thức nào được gửi về Bá linh về các việc điều động liên quan đến 450.000 người Do thái ra khỏi đất Hung không?
https://thuviensach.vn
W. – Có, lúc khởi hành mỗi chuyến áp tải, Bá linh được thông báo bằng máy điện báo, và thỉnh thoảng, Eichmann lại gửi một bản báo cả đầy đủ về cơ quan R.S.H.A. và lên Bộ Tư lệnh Cảnh sát đặc biệt.
B. – Cái gì đã xảy đến cho 450.000 người Do thái mà anh vừa nói đến?
W. – Tất cả đều bị đưa đến Auschwitz và giao cho “giải pháp cuối cùng”.
B. – Anh muốn nói họ đã bị giết chết?
W. – Phải, ngoại trừ có lẽ từ 25 đến 30 phần trăm được sử dụng vào việc lao tác. Ở đây tôi xin nhắc lại buổi bàn luận mà tôi đã có đề cập tới giữa Hoess và Eichmann tại Budapest.
B. – Tóm lại, tại Hy lạp, Hung gia lợi và Tiệp khắc, có khoảng bao nhiêu người Do thái phải chịu các biện pháp của Mật vụ và của cơ quan SD?
W. – Tại Slovaquie có khoảng 66.000 người; tại Hy lạp khoảng 64.000, và tại Hung gia lợi hơn nửa triệu.
B. – Còn tại Croatie và Bảo gia lợi, bao nhiêu người Do thái đã bị xâm hại như thế?
W. – Theo sự hiểu biết của tôi, thì có khoảng 10.000 người tại Bảo gia lợi, còn tại Croatie, tôi chỉ biết có chừng 3.000 người Do thái đã được đưa từ Agram đến Auschwitz trong mùa hè năm 1942.
B. – Theo sự hiểu biết của anh thì bao nhiêu người Do thái tất cả đã bị buộc phải chịu ”giải pháp cuối cùng”, nghĩa là đã bị giết chết.
W. – Tôi khó mà xác định được con số chính xác. Tôi chỉ có thể căn cứ vào buổi đàm luận giữa Hoess và Eichmann tại Vienne để phỏng định,
https://thuviensach.vn
Eichmann bảo chỉ có một số rất nhỏ trong số người đã được đưa từ Hy lạp đến Auschwitz là còn có khả năng làm việc. Người Do thái ở Slovaquie và Hung gia lợi khoảng 20 tới 30 phần trăm có khả năng làm việc được. Do đó tôi thật khó đưa ra một tổng số chắc chắn.
B. – Trong những cuộc họp gặp gỡ giữa anh với những chuyên gia khác về vấn đề Do thái và với Eichmann, anh có thu nhập được tin gì về tổng số người Do thái đã bị giết do chương trình ấy không?
W. – Chính Eichmann thường bảo ít nhất cũng khoảng 4 triệu. Cũng có lúc ông nói đến con số 5 triệu. Theo sự nhận xét của tôi, thì ít nhất có khoảng 4 triệu người đã bị giao cho “giải pháp cuối cùng”! Bao nhiêu người thực sự còn sống sót? Tôi không có đủ khả năng để trả lời.
B. – Anh gặp Eichmann lần chót hồi nào?
W. – Tôi gặp ông ta lần chót tại Bá linh, khoảng cuối tháng hai năm 1945. Và lúc đó, ông ta bảo, nếu trận chiến này bị thua, ông ta sẽ tự tử.
B. – Lúc đó hắn ta có nói gì với anh về con số người Do thái đã bị giết chết không?
W. – Có, ông ta biểu lộ điều ấy với một nét mặt đặc biệt cầu thị. Ông bảo sẽ nhảy cỡn lên trong mồ vì vui sướng bởi ý tưởng mang 5 triệu người Do thái trong lương tâm sẽ là một nguồn năng thỏa mãn phi thường cho ông ta.
Không khí im lặng bao trùm Tòa án, bi đát và xao xuyến khi Wisliceny thốt ra những lời cuối cùng này. Ý nghĩa càng thấm thía hơn vì giọng nói bình dị. Anh ta chỉ thuật lại những sự kiện. Đó là những gì Eichmann đã nói với anh ta.
Cùng với việc giải phóng nước Đức và các lãnh thổ bị chiếm đóng của các quân đội Đồng Minh, một loạt tin tức khủng khiếp đã tràn ngập thế
https://thuviensach.vn
giới. Bọn Quốc xã đã ám sát, hủy hoại và ngược đãi. Hàng triệu chữ được đăng trên báo chí và tập san, phụ thêm với hình ảnh của các trại tập trung là lò thiêu xác. Các rạp chiếu bóng trình chiếu những phim thời sự về các nỗi thống khổ ấy. Tuy nhiên, rất nhiều người vẫn dửng dưng trước những thiên phóng sự ấy. Những kẻ thành thật thường không hiểu nổi những sự tàn bạo to lớn vừa được phát giác như vậy. Những người khác lại tưởng đấy là sự tuyên truyền khi nhớ đến những chuyện tàn ác thời Đệ nhất Thế chiến. Dầu sao, họ nói, các câu chuyện này cũng là của các dân quân kháng chiến, các người đã đánh bại bọn Nazi (đảng viên quốc xã Đức).
Nhưng ở đây, trước Tòa án Nuremberg, một người vừa ra trước vành móng ngựa, anh ta lại là một đảng viên Quốc xã chính cống. Chính anh ta đã dự phần vào các biện pháp chống Do thái với chức vụ quan trọng, ít nhất cũng tại ba Quốc gia trong số các quốc gia bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Và anh ta đã xác nhận một cách chi tiết các khám phá của Đồng minh về cách cư xử của bọn Nazi. Lời chứng của anh ta gây xúc động mạnh, vừa do các sự việc anh ta thuật lại, vừa do các bằng chứng anh đưa ra về trách nhiệm của Eichmann trong việc chuẩn bị và thi hành các kế hoạch sát nhân.
Tiếp theo đó, một người ra trước vành móng ngựa, người này có lẽ đã thấy – thấy tận mắt – nhiều vụ ám sát hơn ai hết trên cõi đời này. Anh ta cũng vậy, cũng như Wisliceny, có thể cung khai một lượt, vừa tính chất của tội ác và về sự đồng lõa của Eichmann. Anh ta chính là viên trưởng trại tận diệt Auschwitz, trong khoảng thời gian từ 1 tháng 5 năm 1940 đến mồng 1 tháng 12 năm 1943, khoảng thời gian có khoảng hai triệu rưỡi người bị giết và năm trăm ngàn người khác bị chết vì thiếu thốn và bệnh tật. Đây cũng là một lời khai của một đảng viên Quốc Xã về các biến cố mà anh ta đã tham dự. Đó chính là Rudolf Franz Ferdinand Hoess.
Trong bản cung được biên thảo ra sau khi tuyên thệ ngày 5 tháng 4 năm 1946, và được trình trước Tòa án Nuremberg, Hoess nói:
*1 Tôi bốn mươi sáu tuổi.
https://thuviensach.vn
*2 Tôi liên tục có chân trong thành phần ban quản trị các trại tập trung từ năm 1934. Trước tiên, tôi phục vụ tại trại Dachau tới năm 1938; Kế đó làm phụ tá cho viên trưởng trại Sachsenhausen từ năm 1938 đến ngày 1 tháng 5 năm 1940, ngày tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng trại Auschwitz (1 tháng 5 năm 1940 đến 1 tháng 12 năm 1943). Tôi điều khiển trại Auschwitz đến ngày 1 tháng 12 năm 1943, và tôi ước lượng ít ra cũng vào khoảng 2.500.000 nạn nhân đã bị hành hình và bị tiêu diệt bằng hơi ngạt và thiêu sống, non nửa triệu người nữa đã bị gục ngã vì thiếu thốn và bệnh tật, tổng cộng khoảng ba triệu người chết. Con số này tiêu biểu khoảng 70 hoặc 80 phần trăm trên tổng số người bị đầy đến trại Auschwitz, số còn lại bị sử dụng vào các công việc khổ sai tại các cơ sở kỹ nghệ của trại. Trong số người đã bị hành quyết, có khoảng 20.000 tù binh chiến tranh Nga sô (rút từ các trại tù binh bởi cơ quan Gestapo) bị áp tải đến trại Auschwitz bằng xe của quân đội bởi các sĩ quan và binh sĩ của quân đội chính qui. Số nạn nhân còn lại gồm 100.000 người Do thái Đức, và một số lớn, phần đông người Do thái thuốc các quốc gia Hòa Lan, Pháp, Ba lan, Hung gia lợi, Tiệp khắc, Hy lạp và nhiều nước khác. Chỉ riêng người Do thái Hung gia lợi, chúng tôi cũng đã hành quyết 200.000 vào mùa hè năm 1944.
*3 Trước khi cơ quan R.S.H.A., trong đó có Ban Amt IV B4 của Eichmann được thành lập. Cơ quan Cảnh sát Đặc biệt Quốc gia (Gestapo) và Sở Cảnh sát hình sự đã được ủy nhiệm công việc bắt bớ, giam cầm tại các trại tập trung, trừng phạt và hành quyết. Sau khi Cơ quan R.S.H.A. được tổ chức, tất cả các hoạt động ấy được đảm nhiệm theo các mệnh lệnh do Heydrich, chỉ huy trưởng quan R.S.H.A. ký tên. Khi Kaltenbrunner thay thế Heydrich, các lệnh này do Kaltenbrunner ký hoặc do Muller, người cầm đầu Cơ quan Gestapo, với tư cách phụ tá của Kaltenbrunner.
*4 Các vụ hành quyết tập thể bằng hơi ngạt bắt đầu từ mùa hè năm 1941 và kéo dài đến mùa thu năm 1944. Chính tôi đích thân giám sát các vụ hành quyết ở Auschwitz đến ngày 1 tháng 12 năm 1943, và về sau nhờ giữ chức
https://thuviensach.vn
vụ Thanh tra các trại tập trung, tôi biết những cuộc hành quyết tập thể vẫn tiếp tục như trước. Tất cả những vụ hành quyết tập thể được thực hiện dưới trách nhiệm trực tiếp của Cơ quan R.S.H.A., nơi đây ra chỉ thị cho tôi thi hành.
Tại Cơ quan R.S.H.A., ai là người trực tiếp chịu trách nhiệm về các mệnh lệnh tận diệt ấy?
Khi Hoess cung khai trước Tòa án Nuremberg ngày 15 tháng 4 năm 1946, hắn đã bị Tiến sĩ Kauffmann, luật sư của Kaltenbrunner, quan thầy của Eichmann chất vấn về điểm này. Và đây là những gì hắn nói về Eichmann, trong cuộc trao đổi ngắn ngủi ấy.
Kauffmann: Lời khai của ông sẽ có một ảnh hưởng rất là quan trọng. Có lẽ ông là người duy nhất có thể soi sáng vài cục diện còn bị giấu giếm và nêu tên những kẻ nào đã ra lệnh tận diệt chủng tộc Do thái tại Âu Châu. Ngoài ra ông còn là người duy nhất có thể xác định những lệnh ấy đã được thi hành ra sao và những cuộc hành quyết đã được giữ bí mật như thế nào, bằng cách nào. Từ năm 1940, có đúng là ông chỉ huy trại Auschwitz không?
Hoess: Đúng.
Kauffmann: Và trong thời gian nầy, hàng trăm ngàn người tại đây bị đưa vào cõi chết. Đúng vậy không?
Hoess: Đúng vậy.
Kauffmann: Có đúng là một người mang tên là Eichmann, là người duy nhất có thẩm quyền, tổ chức việc tập trung những người này lại không?
Hoess: Đúng
Kauffmann: Đàn ông, đàn bà, trẻ con?
https://thuviensach.vn
Hoess: Phải.
Lời khai có tuyên thệ của Hoess trước đó mười ngày, cũng đã giải trích nguyên từ: “Giải pháp cuối cùng” và nói rõ nó được chuyển thành sự tàn sát thật sự như thế nào. Hắn ta nói:
*6. “Giải pháp cuối cùng” của vấn đề Do thái có nghĩa là sự tận diệt toàn diện tất cả người Do thái tại Âu Châu.
Tháng sáu năm 1941, tôi được lệnh thiết lập các phương tiện tàn sát tại trại Auschwitz. Lúc đó đã có 3 trại tận diệt khác là Belzek, Treblinka và Wolzek. Các trại này được đặt dưới sự điều khiển của Einsatzkommando của Cảnh sát Đặc biệt và Cơ quan S.D. Tôi đến thăm trại Treblinka để biết qua cách thức thực hiện việc tàn sát. Viên chỉ huy trưởng trại Treblinka cho tôi biết ông ta đã thanh toán 80.000 người Do thái trong 6 tháng; ông ta được chính thức giao phó cho việc thanh toán dân Do thái ở Ghetto Varsovie. Ông dùng oxyde de carbone, và tôi thấy các phương tiện của ông không hiệu nghiệm cho lắm. Cho nên, khi tôi thiết lập các cơ sở tại trại Auschwitz, tôi dùng chất Cyclon B, đó là chất acide prussicque kết tinh mà chúng tôi cho vào các phòng hành quyết qua một lỗ nhỏ. Cần từ ba đến mười lăm phút, tùy theo tình trạng không khí, để giết chết các người trong phòng hành quyết. Chúng tôi nhận thấy họ chết khi họ ngừng la hét. Thường thường chúng tôi chờ khoảng nửa giờ sau mới mở cửa và đem xác ra. Sau khi xác được đem ra, các toán đặc biệt lột nhẫn và răng vàng của xác chết.
*7. Một tiến bộ khác so với trại Treblinka là việc xây các phòng hơi ngạt để tiếp nhận 2.000 người một lượt, trong khi đó ở trại Treblinka chỉ có 10 phòng và mỗi phòng chỉ chứa được 200 người. Chúng tôi lựa chọn các nạn nhân như sau:
Chúng tôi có tại trại Auschwitz hai bác sĩ SS thường trực để đón các chuyến tù binh vừa được chở đến. Chúng tôi bắt khám các tù binh diễu
https://thuviensach.vn
hành trước một trong hai viên bác sĩ, và ông quyết định ngay lập tức trong khi họ đi ngang qua. Những người còn khả năng làm việc được đưa vào trại. Những người khác được đưa ngay qua khu tận diệt. Trẻ con dĩ nhiên là luôn luôn bị giết vì không đủ sức làm việc. Cũng một tiến bộ khác nữa mà chúng tôi đã thực hiện được, so với trại Treblinka, là tại Treblinka các nạn nhân hầu như lúc nào cũng biết trước họ sắp bị giết và tại Auschwitz chúng tôi đã cố gắng đánh lừa để họ tưởng là được đưa đi sát trùng. Dĩ nhiên, họ thường đoán được ý định thật sự của chúng tôi và vì đó đôi khi chúng tôi đã gặp khó khăn vì tù nhân toan nổi loạn. Thường có những người đàn bà giấu con họ dưới áo, nhưng, nhất định khi chúng tôi phát giác ra trẻ con, chúng tôi đã đưa ngay chúng đi giết. Người ta đã yêu cầu chúng tôi thực hiện các vụ tàn sát ấy một cách kín đáo, Nhưng dĩ nhiên mùi hôi thúi ô uế của các xác chết bị đốt liên miên đã lan rộng ra khắp vùng và dân chúng các vùng phụ cận đều biết là những vụ tiêu diệt người đang diễn ra tại trại Auschwitz.
*8. Thỉnh thoảng, chúng tôi tiếp nhận những người tù đặc biệt do cơ quan Gestapo tại địa phương chuyển đến. Các bác sĩ SS giết họ bằng cách chích độc chất benzine. Các bác sĩ này được lệnh thảo các chứng thư khai tử bình thường, có thể ghi mọi lý do từ trần.
*9. Thỉnh thoảng, chúng tôi làm các cuộc thí nghiệm y khoa trên thân thể các nữ tù nhân, nhất là việc làm tiệt đường sinh sản và các cuộc thí nghiệm liên quan đến bệnh ung thư. Phần lớn những người chết trong các cuộc thí nghiệm này đã bị cơ quan Gestapo lên án tử hình rồi.
Eichmann có biết việc gì sẽ xảy ra đến cho những kẻ mà hắn gửi đến trại tập trung chăng? Chẳng những biết rõ mà thôi, hắn còn bàn luận với viên trưởng trại Auschwitz về các phương pháp nữa. Đây, những gì viên trưởng trại nói về vấn đề này tại Nuremberg:
Kauffmann: Có đúng là năm 1941, ông được lệnh đến Bá linh để gặp Himmler tại đó không?
https://thuviensach.vn
Hoess: Phải. Mùa hè năm 1941, tôi được Reichsfuhrer SS Himmler gọi đến Bá linh để nhận lệnh riêng. Ông nói với tôi đại khái như sau (Tôi không nhớ đúng từng tiếng một) rằng Fuhrer đã ra lệnh thực hiện “Giải pháp cuối cùng” cho vấn đề Do thái. Chúng tôi, các đoàn viên SS, phải thi hành lệnh này.
Kauffmann: Anh đã gặp Eichmann lúc nào?
Hoess: Tôi đã gặp Eichmann khoảng bốn tuần sau khi nhận lệnh của Himmler. Ông ta đến Auschwitz để bàn với tôi các chi tiết của việc thi hành lệnh ấy. Như Himmler đã nói với tôi, ông đã chỉ thị cho Eichmann bàn với tôi về vấn đề ấy và tôi phải nhận nơi ông ta các chỉ thị về sau đó.
Kauffmann: Himmler có thanh tra các trại và có xem xét việc tiêu diệt người Do thái không?
Hoess: Có, Himmler viếng trại năm 1942 và theo dõi từng chi tiết một cuộc tiêu diệt từ đầu đến cuối.
Kauffmann: Eichmann cũng vậy chứ?
Hoess: Eichmann đến Auschwitz rất thường và biết tường tận các vụ tàn sát.
Một người bạn cao cấp khác của Eichmann tại cơ quan R.S.H.A. cung khai tại Nurember về chương trình tận diệt của bọn Nazi và vai trò của Eichmann trong công việc này. Đó là tiến sĩ Wilhelm Hoettl thiếu tá SS, phó trưởng toán của Amt IV của cơ quan an ninh trung ương. Lời khai sau khi tuyên thệ của ông ta tại Nurember, ngày 26 tháng 11 năm 1945, nói:
“Cuối tháng 8 năm 1944, tôi có một buổi nói chuyện với viên Trung tá SS Adolf Eichmann, mà tôi quan hệ từ năm 1938. Cuộc đàm thoại diễn ra tại nhà riêng của tôi ở Budapest. Theo chỗ tôi được biết, lúc đó Eichmann làm trưởng một ban ở Amt IV (Gestapo) thuộc cơ quan R.S.H.A.; và ngoài
https://thuviensach.vn
ra, ông ta đã nhận được lệnh của Himmler gom bắt dân Do thái tại Âu châu và lưu đày họ sang Đức Quốc. Eichmann lúc đó rất lo ngại việc Lỗ ma ni rút khỏi cuộc chiến. Ông ta tìm đến tôi để lấy tin tức về tình hình quân sự mà tôi được Bộ chiến tranh Hung gia lợi và vị tư lệnh lực lượng Waffen tại Hung thông báo mỗi ngày. Ông tỏ vẻ tin chắc Đức đã bại trận và riêng cá nhân ông thì không còn một cơ may nào nữa cả. Ông biết mình sẽ bị phe Đồng minh xem như một trong những tội phạm chiến tranh chính yếu vì lương tâm ông ta đang bị nhiều triệu mạng người Do thái đè nặng. Tôi hỏi ông ta bao nhiêu, ông ta trả lời, mặc dù con số là một bí mật của Quốc gia, nhưng ông ta cũng vẫn nói với tôi vì, với cương vị là một sử gia, tôi sẽ chú ý đến vấn đề này, và vì, đúng ra, ông ta sẽ không trở về sau chuyến công tác ở Lỗ ma ni nữa. Trước đó ít lâu, ông ta có làm một bả tường trình lên Himmler, ông này muốn biết con số chính xác người Do thái bị tiêu diệt. Từ các tài liệu này ông đưa ra các kết quả sau đây: khoảng bốn triệu người Do thái đã bị giết trong các trại tập trung, trong khi hai triệu người Do thái khác đã chết, phần lớn bị các toán công tác của Cảnh sát Đặc biệt bắn bỏ trong cuộc viễn chinh đánh Nga sô.
Himmler không hài lòng về bản phúc trình ấy, vì theo ý ông ta, số người Do thái bị giết phải tên sáu triệu. Himmler tuyên bố sẽ gửi đến cho Eichmann một nhân viên phòng Thống kê của ông ta để làm một bản báo cáo mới, trong đó con số sẽ được điều chỉnh chính xác hơn.
Tôi có lý do để tin rằng tài liệu này do Eichmann cho biết là chính xác, vì trong tất cả những người bị dính líu, ông ta là người biết rõ nhất con số người Do thái bị giết hại. Vả lại, chính ông ta đã – “nộp” – nếu tôi có thể nói như thế - người Do thái cho việc tiêu diệt qua trung gian các nhân viên đặc biệt của ông ta, và do đó, ông ta biết rõ con số chính xác: mặt khác với tư cách là Trưởng Ban Amt IV của R.S.H.A.; cơ quan cũng chịu trách nhiệm về các vấn đề Do thái, chắc chắn ông ta biết rõ hơn ai hết con số người Do thái đã bị tàn sát.”
https://thuviensach.vn
Qua Hoess, chúng ta đã biết bằng cách nào bốn triệu người Do thái đã bị giết chết trong các trại tập trung. Còn hai triệu người khác đã bị giết tại các nước Đông Âu, ngay trong địa phương họ ở bằng các phương pháp tận diệt nào?
Trong cuộc viễn chinh đánh Nga Sô của Đức, bọn Nazi đã lập ra các toán đặc biệt gọi là Einsatzgruppe, các toán này có nhiệm vụ đi theo các đoàn quân Đức và tàn sát các người Do thái trong các vùng mà quân đội đã xâm chiếm. Đây là các đoạn được trích ra trong bản cung khai của một trong các trưởng toán đặc biệt đó, Otto Ohlendorf, tên này đã tạm thời rời bỏ chức vụ Trưởng ban Amt III của R.S.H.A. hồi tháng 6 năm 1941 đặc biệt để chỉ huy Einsatz gruppe D. Hắn ta nói:
“Tháng 6 năm 1941, tôi được Himmler chỉ định cầm đầu một trong những toán được huấn luyện đặc biệt lúc đó để đi theo các bộ đội Đức trong cuộc viễn chinh đánh Nga Sô. Himmler đã cho biết là một phần lớn nhiệm vụ của chúng tôi là tiêu diệt dân Do thái gồm đàn bà, đàn ông và trẻ nít.
Tôi làm trưởng toán Einsatz gruppe D tại khu vực phía nam, và trong một năm, toán này đã thanh toán khoảng 90.000 người đàn ông, đàn bà và trẻ con. Phần lớn là người Do thái.
Đơn vị vào một thành phố hoặc một làng và ra lệnh các nhà tai mắt Do thái tập hợp tất cả các người Do thái lại vì các nhu cầu khẩn yếu của việc tụ tập thành đoàn. Người ta bắt họ nộp các đồ vật quí giá cho các cấp chỉ huy của đơn vị và một lúc trước khi cuộc hành quyết bắt đầu, lột bỏ quần áo. Đàn ông, đàn bà và trẻ con được dẫn đến nơi hành quyết, thường là một hố chống chiến xa mà người ta đã đào sâu thêm. Ở đó họ bị bắn trong tư thế quỳ hay đứng và xác của họ bị đẩy xuống hố. Tại toán D, tôi không bao giờ cho phép từng cá nhân bắn riêng, mà ra lệnh nhiều người bắn cùng một lúc để tránh gây trách nhiệm trực tiếp. Các cấp chỉ huy các đơn vị hoặc các người được chỉ định đặc biệt cũng phải bắn phát súng ân huệ cho những nạn nhân không chết ngay. Trong các cuộc bàn luận với những người chỉ
https://thuviensach.vn
huy trưởng của các đơn vị khác, tôi được biết có vài người kéo nạn nhân nằm dài dưới đất để bắn một phát súng vào gáy. Tôi không tán đồng các phương pháp đó.
Mùa xuân năm 1942, chúng tôi nhận được các xe hơi ngạt do Cảnh sát Đặc biệt và cơ quan SD tại Bá linh gửi đến. Các xe này được đưa đến từ Ban Amt II của cơ quan R.S.H.A. Người chịu trách nhiệm đoàn xe của toán tôi là Becher. Chúng tôi đã nhận được lệnh dùng các xe này để hành quyết đàn bà và trẻ con. Khi một đơn vị đã gom đủ một số nạn nhân, một xe liền được gửi đến để thanh toán họ. Những xe tương tự đậu bên cạnh các trại tạm trú. Chúng tôi nói với các nạn nhân rằng họ sắp được định cư lại từng nhóm và do đó họ phải lên xe. Sau đó các cánh cửa đóng lại và hơi ngạt được đưa vào trong ngay khi xe rồ máy. Các nạn nhân chết trong 10 hoặc 15 phút sau. Kế đó chúng tôi chở họ đến nơi chôn.
Tôi có xem bản phúc trình của Stahlecker (tài liệu L-180) liên quan đến Einsatzgruppe A, trong đó ông ta đã xác nhận là toán của ông đã giết 135.000 người Do thái và cộng sản trong thời gian bốn tháng đầu của chương trình. Tôi biết rõ Stahlecker, và theo ý tôi tài liệu ấy rất chính xác. (Tài liệu 2273-PS đệ trình lên Tòa án Nuremberg cho thấy Einsatzgruppe A đã xác nhận sau đó rằng cuộc hành quyết đến thời gian này là 229.052 người Do thái tại các vùng ven biển Baltique).
Người ta có cho tôi coi lá thư của Becher viết cho Rauff, trưởng ban kỹ thuật tại Amt II về việc dùng các loại xe hơi ngạt này; tôi biết rõ cá nhân hai người này. Và theo tôi lá thư ấy là một tài liệu xác thực.
Song song với hoạt động của các lực lượng đặc biệt ấy mà kết quả là cái chết của nhiều trăm ngàn người, bọn Quốc Xã theo đuổi kế hoạch ba điểm để tiêu diệt các cộng đồng Do thái còn lại, rải rác trong lãnh thổ Ba lan, trong các quốc gia vùng ven biển Baltique và trong phần đất Nga do quân đội Đức chiếm đóng. Kế hoạch gồm có di tản, gom lại và tiêu diệt.
https://thuviensach.vn
Trong giai đoạn đầu, người Do thái bị tước đoạt nhà cửa, tiệm buôn, văn phòng, việc làm, tiền bạc và việc tiếp tế, rồi họ bị đưa về các trung tâm tập hợp.
Tại các ghetto (xóm riêng) ấy, họ bị cô lập hẳn với nhóm quần chúng còn lại. Việc này cho bọn Đức quốc xã một vùng mục tiêu chắc chắn.
Như vậy, chúng có thể đưa người Do thái đến các trại tận diệt, hoặc tiêu diệt họ tại chỗ.
Người ta thấy một ghi chú đầy đủ về cách sắp đặt Giai đoạn I trong bản phúc trình ngày 13 tháng 8 năm 1941 do viên Cao ủy toàn quyền Đức tại các nước vùng biển Baltique và Bạch Nga gởi lên ông Tổng trưởng đặc trách các vùng lãnh thổ chiếm đóng ở miền Đông. Bản phúc trình mang tựa đề “Các chỉ đạo dự liệu cho việc đối đãi với người Do thái” và đóng dấu “mật”. Các điều khoản liên quan đến vấn đề chúng ta đang đề cập đến như sau:
“Các Đặc ủy toàn quyền sẽ ban hành tức khắc các biện pháp sau đây, ngay khi, hoặc trong trường hợp cơ quan hành chính dân sự sẽ được thiết lập trong các vùng ấy:
A- Người Do thái bắt buộc phải đi khai báo, tên họ, phái, tuổi và địa chỉ. Ngoài ra các bản kê khai của các cộng đồng Do thái và những lời khai báo của các thân hào bản xứ đáng tin cậy sẽ được dùng làm căn bản cho việc kiểm tra dân số ấy.
B- Người Do thái bắt buộc phải tự phân biệt mình một cách rõ ràng bằng một ngôi sao sáu cánh đường kính mười phân, gắn bên ngực trái và giữa lưng.
C- Người Do thái bị cấm:
1* Thay đổi thành phố, nơi cư ngụ khi chưa có phép của nhà chức trách
https://thuviensach.vn
2* Sử dụng lề đường, các phương tiện chuyên chở công cộng (xe lửa, xe điện, xe buýt, tàu, xe ngựa) và xe hơi
3* Sử dụng các trang trí công cộng và các tiện nghi dành cho công chúng (nơi nghỉ mát, hồ tắm, công viên, đồng cỏ, sân chơi và sân vận động.
4* Lui tới các rạp hát, rạp chiếu bóng, thư viện và bảo tàng viện. 5* Lui tới bất cứ trường học nào
6* Làm sở hữu chủ các xe hơi và các máy thu thanh.
7* Thực hiện các việc cúng tế Kosher.
D- Các y sĩ và nha sĩ Do thái chỉ được chữa trị hoặc giúp đỡ các bệnh nhân Do thái. Các dược sĩ Do thái được phép hành nghề chiếu theo nhu cầu, nhưng chỉ trong phạm vi các ghetto hoặc các trại tập trung
E- Các qui định sau đây sẽ được áp dụng trong việc sử dụng tài sản của người Do thái.
1* - Khải lược: Tài sản của dân chúng Do thái bị tịch thu và giữ lại. Những sở hữu chủ Do thái hợp pháp trước đây, bắt đầu từ lúc tịch thu thì không còn quyền sử dụng tài sản của họ nữa. Những vụ chuyển nhượng hợp pháp phạm đến qui định này bị coi như vô giá trị và không có.
2* - Khai báo bắt buộc: Tất cả mọi tài sản của dân chúng Do thái phải được khai báo
3* - Giao nạp bắt buộc: Tài sản Do thái phải được giao nạp theo lời yêu cầu đặc biệt. Lời yêu cầu có thể được thực hiện theo thông cáo chung hoặc theo lệnh gởi cho các cá nhân đã được định rõ. Các Đặc ủy toàn quyền ra thông cáo hạ lệnh giao nạp ngay tức khắc các tài sản sau đây:
a/ Tiền tệ bản xứ và ngoại quốc
https://thuviensach.vn
b/ Các khế ước và giao kèo thuộc về tài chính đủ loại (văn khế, hối phiếu, thương phiếu, văn tự nợ, chi phiếu hoặc trương mục tiết kiệm).
c/ Tất cả những đồ vật có giá trị (vàng và bạc, mọi thứ kim loại quí giá khác, nữ trang, ngọc quí….
Những biện pháp khác sau đây được áp dụng bằng mọi cách có thể được, tùy theo tình trạng từng địa phương, đặc biệt là tình trạng kinh tế:
a/ Người Do thái phải được di tản khỏi các vùng quê.
b/ Người Do thái phải rút ra khỏi các ngành thương mãi, nhất là các ngành về sản xuất nông nghiệp và các thứ thực phẩm khác.
c/ Người Do thái bị cấm cư ngụ tại các trạm nghỉ mát, các thành phố dưỡng bệnh và các địa phương quan trọng về kinh tế, quân sự và tôn giáo
d/ Người Do thái phải được tập trung, càng nhiều càng tốt trong các thành phố hoặc các khu phố mà dân chúng đa số là người Do thái. Các ghetto phải được thiết lập tại đây và người Do thái bị cấm rời khỏi các ghetto này. Bên trong các ghetto này, người Do thái chỉ nhận được một số lượng thực phẩm mà phần dân chúng còn lại có thể không cần dùng đến, nhưng không bao giờ được lớn hơn số lượng tối cần thiết cho một cuộc dinh dưỡng đơn giản. Để đảm bảo việc cô lập toàn diện các ghetto đối với bên ngoài, một lực lượng cảnh sát hỗ trợ sẽ được thành lập từ các thành phần bản xứ, trong trường hợp có thể được.
Đó là kế hoạch. Nó đã được thực hiện ra làm sao?
Một cuộc mô tả tượng trưng trong các phương pháp đã được áp dụng thuộc bản phúc trình của viên trung tướng SS và cảnh sát Katzmann, ngày 30 tháng 6 năm 1943, gửi cho “Viên Tư lệnh SS của Cảnh sát thuộc địa phận Galicie”, tướng Kruger, về vấn đề di tản 434.329 người Do thái. Bản
https://thuviensach.vn
phúc trình mang tựa đề: “Giải pháp về vấn đề Do thái”. Đây là và đoạn được trích ra:
“Tôi nhận thấy, ngoài những người Do thái sống trong các trại tập trung dưới sự kiểm soát của viên tư lệnh SS và Cảnh sát, quận hạt Galicie đã hoàn toàn giết hết người Do Thái.
Những người Do thái hãy còn bị bắt từng nhóm nhỏ, được đối xử đặc biệt bởi các chi đội chuyên môn của cảnh sát và hiến binh.
Đến ngày 27 tháng 6 năm 1943, tổng cộng 434.329 người Do thái đã được di tản.
Vẫn còn những trại tập trung cho người Do thái, chứa tổng cộng 21.156 người Do thái. Con số này đang được liên tục giảm bớt.
Cùng với việc di tản, chúng tôi đã thực hiện việc tịch thu các tài sản Do thái. Nhũng số lượng rất quan trọng đã được tịch thu: Tiếp theo đó là một bản kê khai chi tiết – ngoài những bất động sản và hàng vải – các của cải của người Do thái bị tịch thu. Các đồ vật được ghi bằng sức nặng và lên đến nhiều trăm ngàn ki lô. Gồm có những đồng tiền vàng (97.581 ki lô), vòng đeo cổ, nhẫn, hột trai, răng vàng, đồ bằng bạc, các hộp đựng thuốc lá, trâm cài, đồng hồ, bongta, máy ảnh, bút máy, các bộ sưu tập tem thư, áo lông và một số lượng lớn các ngân phiếu và ngoại tệ”.
Kế đó, viên tướng kể lại công việc đã được thực hiện như thế nào:
“Trong khi các hành động này được thực hiện, những sự khó khăn đã xảy ra, vì người Do thái đã tìm mọi cách để thoát mọi cuộc di tản. Không những họ chỉ tìm cách trốn thoát mà thôi, mà họ còn lẩn trốn trong tất cả mọi nơi có thể tưởng tượng được: ống khói và ngay cả trong các ống cống. Họ lập các rào cản trong các đường hầm, trong các hầm rượu để biến thành chỗ trú ẩn, trong các nơi ẩn nấp được thực hiện một cách khéo léo dưới mái nhà, và tại các nơi chứa đồ, bên trong đồ đạc …
https://thuviensach.vn
Số người Do thái trong khu vực càng giảm đi thì sự chống cự càng tăng. Vũ khí đủ loại, nhất là do Ý đại lợi chế tạo, được họ dùng để tự vệ. Những vũ khí này được mua lại của những binh sĩ Ý trấn đóng trong vùng bằng những số tiền Ba lan to tát.
Những lô cốt dưới mặt đất bị khám phá; các lối đi vào được che đậy một cách thật khéo, có khi đưa đến một căn nhà có nhiều phòng, có khi đưa tới các khoảng đất trống. Thường khi cửa vào hẹp đến nỗi chỉ vừa một người trườn vào mà thôi. Lối vào được che giấu hay đến nỗi những người không biết rành địa phương không thể nào khám phá ra được.
Trong thời gian di tản, chúng tôi còn khám phá ra rằng, những người Do Thái, hơn lúc nào hết, cố tìm cách trốn thoát ra ngoại quốc. Những người Do thái này có những món tiền rất lớn, nữ trang và giấy tờ giả. Họ dùng đủ mọi cách để đạt được mục đích và họ thường liên lạc với các phần tử của những đoàn quân Đức và Đồng minh để yêu cầu những người này đưa họ đến biên giới hoặc xa hơn nữa, trong các xe nhà binh. Bù lại, họ biếu những món tiền rất lớn, đến khoảng 5.000 tiền Ba lan, hoặc nhiều hơn nữa cho mỗi người. Mặc dù trong nhiều trường hợp, các quân nhân thuộc các quân đội ngoại quốc, đặc biệt là Hung gia lợi, đồng lòng với họ, nhưng Cảnh sát Đặc biệt, trong đa số trường hợp, đã được thông báo kịp thời bởi các mật báo viên và đã có thể đưa ra các biện pháp ngăn chặn cần thiết, để bắt những người Do Thái và tịch thu tiền bạc của họ. Để ví dụ, đây là sự mô tả của vài trường hợp.
Tiếp theo đó, ông tướng kể lại, với một vẻ sảng khoái thấy rõ, những người Do thái cố gắng vượt biên giới đã bị bắt lại và bắn bỏ như thế nào. Ông tiếp:
Cuộc di tản đã kết thúc, các hoạt động ít quan trọng hơn, nhưng vẫn còn cần thiết vẫn được thực hiện để lùng bắt những người Do thái còn lẩn trốn.
https://thuviensach.vn
Vì càng ngày càng có nhiều báo cáo cho chúng tôi biết rằng người Do thái võ trang mỗi ngày một mạnh hơn, cho nên vào hạ tuần tháng 6 năm 1943, chúng tôi đã bắt đầu một chiến dịch mới tại tất cả các khu vực của Galicie, với ý định áp dụng những biện pháp thật gắt gao để dẹp tan sự côn đồ Do thái. Chúng tôi đã phải hành động một cách tàn bạo ngay từ đầu để tránh được những tổn thất về phía chúng tôi, chúng tôi đã phải phá nổ tung hoặc đốt cháy nhiều căn nhà. Và nhờ vậy chúng tôi đã bắt được khoảng 20.000 người Do thái thay vì với con số 12.000 mà chúng tôi đã ghi nhận. Chúng tôi đã phải moi ra ít nhất 3.000 xác chết từ đủ mọi nơi ẩn nấp, họ đã tự sát bằng cách uống thuốc độc.
Mặc dù tất cả các cảnh sát viên SS phải chịu trách nhiệm nặng nề của công việc trong thời gian có các chiến dịch này, tinh thần vẫn thật cao và đáng khen từ ngày đầu đến ngày cuối.
Chỉ nhờ ở tinh thần trách nhiệm của mỗi vị chỉ huy và nhân viên mà chúng tôi đã chiến thắng Vết Lở này trong một thời gian thật ngắn như vậy.
Khi Giai đoạn Một và Hai kết thúc và những người Do thái đã bị nhốt trong các ghetto rồi thì Gia đoạn Ba – Giai đoạn tiêu diệt họ - được phát động. Đôi khi, quân Đức Quốc xã quyết định giết họ ngay tại chỗ thay vì đưa họ đến các trại tập trung. Trong trường hợp đó thường xảy ra khi dân chúng tại địa phương đồng chống Do thái và chấp nhận hợp tác, và vì khi các đoàn thể Do thái quá yếu để đưa ra một sức kháng cự hữu hiệu.
Đây là một câu chuyện mà một người chứng đã thấy tận mắt, kể lại trước Tòa án Nuremberg. Người chứng này là một nhà thầu xây cất đã có dịp đi ngang qua Dubno, ở Ukraina, trong thời kỳ đó:
“Tôi ký tên dưới đây là Herman Friedrich Graebe, khai trình sau khi tuyên thệ sự việc như sau:
https://thuviensach.vn
Từ tháng 9 năm 1941, đến tháng giêng năm 1944, tôi là kỹ sư giám đốc chi nhánh Sdolbunov, ở Ukraina, của hãng thầu xây cất Josef Jung tai Solingen. Với chức vụ này, tôi có phận sự đi thăm các công trường của công ty tôi. Do khế ước ký kết với công binh kiến tạo, công ty của tôi được đặt xây những kho lưu trữ lúa mì trên phi trường cũ của Dubno.
Ngày 5 tháng 10 năm 1942, khi tôi đến viếng văn phòng của tôi ở Dubno, viên đốc công Hubert Moennikes nói với tôi rằng, trong vùng phụ cận công trường, những người Do thái tại Dubno đã bị xử bắn và xác bị quẳng vào ba hố lớn, mỗi hố khoảng 30 thước chiều dài và sâu ba thước. Một ngàn năm trăm người đã bị giết mỗi ngày. Vì ông ta đã chứng kiến các vụ xử bắn, nên ông ta hãy còn hốt hoảng.
Ngay lúc ấy, tôi và Moennikes cùng đến công trường và tôi thấy gần đó từng đống đất lớn, khoảng 30 thước dài và 2 thước cao. Nhiều chiếc xe vận tải đậu bên cạnh. Những dân quân Ukraina trang bị vũ khí lùa các người trong các xe vận tải xuống dưới sự kiểm soát của một tên SS. Vài tên ở lại giữ xe, số còn lại dẫn các người ấy đến miệng hố. Tất cả những người mà họ đưa đến đều đó mang một ngôi sao vàng đúng như đã qui định trước và sau lưng áo, và nhờ thế họ đã có thể nhận ra chính là người Do thái.
Moennikes và tôi đến thẳng các hố. Không một ai ngăn cản chúng tôi cả. Tôi nghe có tiếng súng nổ từ phía sau một trong các đống đất. Đám người bị lùa từ các xe vận tải xuống – đàn ông, đàn bà, trẻ con đủ mọi lứa tuổi – phải cởi bỏ quần áo ra theo lệnh của một tên SS, tay ve vẩy cây roi, để quần áo của họ tại một chỗ đã được ấn định, chia thành từng đống giầy, quần áo và quần áo lót. Tôi thấy một đống giầy cao như núi, khoảng 800 đến 1.000 đôi, những đống lớn quần áo. Không la, không khóc, những người này cởi bỏ quần áo, tụ hợp này thành từng nhóm gia đình, ôm hôn nhau, nói những lời vĩnh biệt nhau và chờ dấu hiệu của một tên SS khác đứng bên cạnh hố, cũng cầm trên tay một cây roi.
https://thuviensach.vn
Trong mười lăm phút đứng cạnh hố, tôi không nghe thấy một lời than vãn hoặc một lời cầu xin. Tôi thấy một gia đình gồm tám người, một người đàn ông và một người đàn bà, cả hai khoảng năm mươi tuổi, với các con của họ khoảng một tuổi, tám tuổi và mười tuổi, và hai cô con gái lớn hơn khoảng hai mươi và hai mươi bốn tuổi. Một bà già tóc bạc ẵm trên tay đứa bé một tuổi, khe khẽ hát ru nó và nói đùa với nó. Đứa bé nói bập bẹ vẻ thích thú. Cặp vợ chồng nhìn nó đầy nước mắt. Người cha nắm tay một đứa con trai khoảng tám tuổi và âu yếm nói chuyện với nó; đứa nhỏ cố cầm nước mắt. Người cha đưa ngón tay chỉ lên trời vuốt đầu nó và có vẻ như đang cắt nghĩa cho nó nghe một điều gì. Ngay lúc đó, tên SS đứng cạnh hố la lên một điều gì với bạn của hắn. Tên này đếm chừng hai mươi người và ra lệnh cho họ bước ra sau đống đất . Trong số có gia đình mà tôi vừa nói đến.
Tôi luôn luôn nhớ đến một cô gái mảnh khảnh, với mái tóc đen huyền, khi đi ngang qua tôi, đã tự chỉ vào mình và nói “hai mươi ba tuổi”. Tôi đi vòng qua đống đất và đứng trước một đống thây người khủng khiếp. Trong đó xác người chồng chất lên nhau, nhìn xuống người ta chỉ thấy đầu của họ mà thôi. Hầu hết đều có máu chảy từ đầu xuống vai. Vài người hãy còn nhúc nhích. Vài người khác đưa cánh tay lên và đầu ngọ nguậy để cho biết mình còn sống. Chiếc hố đã đầy đến hai phần ba rồi. Tôi ước lượng ít ra nó chứa cũng khoảng 1.000 người.
Nhìn xuống dưới hố, tôi thấy những thân người co rúm lại và những chiếc đầu im lìm trên các thân xác nằm dài trước đó. Máu chảy ra từ cổ. Tôi ngạc nhiên sao người ta lại không bảo chúng tôi tránh ra chỗ khác, nhưng tôi nhận thấy cách tôi không bao xa có hai ba người lính gác. Nhóm tử tội kế tiếp đã đến gần.
Khi bỏ đi, và lúc vòng qua đống đất, tôi lại thấy một chiếc xe vận tải khác chở đầy người tới nơi. Lần này chiếc xe chở những người đau yếu, bệnh tật. Một bà già gầy còm với cặp giò da bọc xương, được những người khác, đã trần truồng, cởi quần áo cho, trong khi hai người đỡ bà ta. Người
https://thuviensach.vn
đàn bà này có vẻ như bị tê liệt. Những người khác khiêng bà ta qua phía bên kia đống đất. Tôi và Moennikes bỏ đi và trở về Dubno bằng xe hơi.”
Cũng người này, Graebe, đã thuật lại cho Tòa án Nuremberg, dựa theo những gì ông ta đã thấy tận mắt, phương pháp thứ hai được bọn SS dùng để thực hiện Giai đoạn Ba, việc di chuyển từ các ghetto đến trại tử thần. Graebe đi ngang qua một trong các chi nhánh của công ty, tại Rowno, ở Ukraina, khi một chiến dịch được tung ra chống người Do thái và ông đã thành công trong việc cứu thoát vài người mà ông ta yêu cầu trả về như là những nhân viên của công ty ông trong một kỹ nghệ chiến tranh chính yếu. Ông ta nói:
“Đêm ngày 13 tháng 7 năm 1942, tất cả những người cư ngụ trong ghetto ở Rowno, còn được khoảng 5.000 người Do thái, bị thanh toán.
Ngoài những người Ba lan, Đức và Ukraina, tôi còn sử dụng thêm cho cơ sở ở Rowno khoảng 100 người Do thái gốc Sdolbunov, Ostrop và Mysotch. Đàn ông trú ngụ trong một ngôi nhà ở số 5 đường Bahnhofstrasse, bên trong ghetto, và đàn bà trong một căn nhà tại góc đường Deutschestrasse.
Tối hôm đó, tôi tới Rowno bằng xe hơi và đứng đợi, với Fritz Einsporn, trước căn nhà ở đường Bahnhofstrasse nơi những công nhân Do thái của công ty tôi trú ngụ. Sau 22 giờ một chút, ghetto bị bao vây bởi một phân đội hùng hậu SS và dân quân Ukraina. Những chiếc đèn hình vòng cung, được thiết trí trong ghetto và chung quanh, được đốt sang lên. Những toán từ bốn đến mười tên SS và dân quân vào trong hoặc tìm cách vào trong các căn nhà. Nơi nào cửa lớn và cửa sổ đóng kín và nơi nào những người cư ngụ không mở cửa thì bọn SS và dân quân dùng những cây đà nhỏ bằng sắt phá cửa xông vào. Dân chúng bị lôi bừa ra đường, dù cho có mặc quần áo hay không. Phần đông những người Do thái đã từ chối rời nhà và chống cự lại, bọn SS phải dùng vũ lực.
https://thuviensach.vn
Cuối cùng chúng vẫn thành công trong việc dọn sạch các căn nhà bằng những đường roi, những cú đấm và báng súng. Những người bị tống khứ mau đến nỗi nhiều đứa trẻ bị bỏ rơi lại. Ngoài đường, những người đàn bà gọi con họ, và những đứa trẻ gọi cha mẹ chúng. Sự việc này không ngăn cản được bọn SS lôi kéo họ đi như chạy, vừa đánh đập họ, cho đến nơi chiếc xe lửa chở hàng hóa đang chờ đợi họ. Người ta chất đầy toa này đến toa khác, những tiếng la hét của đàn bà và trẻ con, và những tiếng roi, tiếng súng vang dội không ngớt.
Nhiều gia đình hoặc nhiều nhóm người cố thủ trong các kiến trúc thật chắc chắn mà những cửa lớn không thể nào bị phá tung ra được, bọn SS sử dụng lựu đạn. Vì ghetto ở cạnh các đường xe lửa, những người Do thái trẻ tuổi cố trốn thoát bằng cách vượt qua các con đường ấy. Các con đường xe lửa này ở ngoài vòng ánh sáng, và tại đây bọn SS tung các trái sáng.
Suốt đêm, những người ấy bị đánh đập, rượt đuổi, bị gây thương tích, đi thành hàng trên các con đường được rọi sáng. Những người đàn bà ôm con chết trong tay, những đứa trẻ lôi xác cha mẹ chúng bằng cánh tay hoặc chân về các toa xe lửa. Những tiếng la “mở cửa” không ngớt trong ghetto.
Khoảng 6 giờ sáng , tôi bỏ Einsporn và nhiều nhân công Đức đã tìm đến chúng tôi lúc ấy lại, và lảng đi một lúc. Tôi nghĩ rằng sự nguy hiểm lớn nhất đã qua và tôi có thể mạo hiểm, một lúc sau khi tôi rời đó, những dân quân Ukraina đã phá được một con đường nhỏ đi vào bên trong ngôi nhà số 5 đường Bahnhofstrasse và dẫn ra được 7 người Do Thái mà họ đưa đến điểm tập hợp ở bên trong ghetto. Khi tôi trở lại, tôi đã thành công trong việc làm cho vài người khỏi bị dẫn đi và đến điểm tập hợp để cứu bảy người kia.
Tôi thấy hàng chục xác chết đủ mọi lớp tuổi trên các đường phố mà tôi phải đi qua. Cửa lớn của các căn nhà mở toang, các cửa sổ bị phá sập. Đường phố rải rác quần áo, giày dép, vớ, áo veste, nón, áo manteaux… Trên thềm một căn nhà, một đứa bé chưa đầy một tuổi nằm đó, sọ bể nát,
https://thuviensach.vn
máu và óc văng tung tóe trên tường và phủ mặt đất chung quanh đứa bé. Nó chỉ mặc một áo sơ mi nhỏ.
Viên thiếu tá SS Pruetz đi qua đi lại dọc theo một hàng từ tám mươi đến một trăm người đàn ông Do thái ngồi chồm hổm dưới đất. Ông ta cầm trong tay một cái roi lớn. Tôi tiến về ông ta, trình cái giấy phép của Stabsleiter Beck và yêu cầu ông ta trả lại tôi bảy người đàn ông mà tôi đã nhận ra được trong đám người ngồi xổm. Pruetz nổi cơn thịnh nộ về sự nhượng bộ của Beck, và không làm sao thuyết phục được ông ta thả bảy người ấy. Bàn tay ông ta quét một vòng khu đó và la lớn rằng không một kẻ đang hiện diện nào được rời khỏi nơi đó. Mặc dù cơn thịnh nộ của ông ta đối với Beck, ông ta ra lệnh cho tôi đem những người còn ở trong ngôi nhà số 5 đường Bahnhofstrasse rời khỏi Rowno trước tám giờ sáng.
Khi rời thiếu tá Pruetz, tôi thấy một chiếc xe ngựa của nông trại Ukraina đang tiến về ga xe lửa chở đầy xác chết mà tay chân đã cứng đờ lòi ra bên ngoài.
Tôi đưa bảy mươi bốn người Do Thái còn lại lẩn trốn trong ngôi nhà đi Sdolbunov”.
Có những trường hợp thi hành giai đoạn Ba đòi hỏi nhiều thì giờ và gặp nhiều khó khăn hơn. Sự việc này xảy ra về sau, khi những người Do thái đã manh nha biết được cách thức mà những nhóm khác đã bị thanh toán và họ không tin những câu chuyện của bọn Đức quốc xã nữa, khi bọn này nói đưa họ đến công trường hoặc đến các trại trừ chí rận. việc này cũng xảy ra trong các ghetto có rất đông người Do Thái và nơi người ta có đủ thì giờ để tổ chức việc kháng cự. Người Do thái biết rõ rằng họ không thể nào thắng được, rằng sự kết thúc không tránh khỏi vì ưu thế dữ dội về vũ khí của quân Đức quốc xã, nhưng họ vẫn cương quyết tự vệ.
Ghetto ở Varsovie là một thí dụ rõ rệt. Chúng ta lại có ở đây bản tường thuật của chính bọn Quốc xã từ sự kháng cự của Do thái cho đến lúc bị di
https://thuviensach.vn
tản về trại tận diệt Treblinka và hoạt động quân sự tiếp theo đó. Điều đó đã kết thúc bằng sự phá hủy hoàn toàn cả ghetto và cái chết của tất cả những người cư ngụ trong đó, hoặc trong lúc đánh nhau hoặc tại trại tận diệt Treblinka.
Bản trần thuật này được trình cho tòa án Nuremberg. Đó là bản phúc trình cá nhân của người đã điều khiển các cuộc hành quân, viên tướng SS Stroop, tư lệnh SS và cảnh sát của Varsovie. Bản phúc trình mang tựa đề: “Ghetto tại Varsovie không còn nữa”.
Ông ta viết: “Tôi đích thân đến Varsovie ngày 17 tháng 4 năm 1943 và nắm quyền chỉ huy chiến dịch ngày 19 tháng 4 năm 1943, lúc 8 giờ chính chiến dịch đã khởi sự cùng ngày ấy lúc 6 giờ sáng.
Trước lúc mở màn chiến dịch rộng lớn, vành đai ghetto cũ đã bị ngăn chặn bằng hang rào chướng ngại vật bên ngoài với mục đích ngăn chặn người Do thái tràn ra. Vòng rào này được duy trì tại chỗ từ đầu đến cuối chiến dịch, ban đêm nó được đặc biệt tăng cường.
“Khi chúng tôi tràn vào ghetto lần đầu tiên, bọn Do thái và bọn vô lại Ba-lan đã thành công trong việc đẩy lui những đơn vị tham chiến, gồm các chiến xa và xe bọc thép, bằng một cuộc tập trung hỏa lực dữ dội. Khi tôi ra lệnh tấn công lần thứ hai vào khoảng 8 giờ, tôi phân tán các đơn vị thành từng hành lang riêng biệt và giao cho họ công việc tẩy sạch toàn thể ghetto, mỗi đơn vị trong vùng trách nhiệm của mình. Mặc dù có sự bắn phá, chúng tôi thành công trong việc tẩy trừ ấy, từng khu vực một đúng theo kế hoạch của chúng tôi. Địch quân bị bắt buộc rút lui từ các mái nhà và các cao điểm xuống từng sâu dưới đất, các hầm núp và ống cống. Để ngăn chặn họ trốn thoát theo đường ống cống, hệ thống cống rãnh được bít lại bên dưới ghetto và làm cho đầy nước, nhưng người Do thái phá tan kế hoạch của chúng tôi bằng cách làm nổ tung các cửa cống. Vào khoảng cuối ngày đầu tiên, chúng tôi đụng phải một sức kháng cự khá mạnh, nhưng nó đã bị đập tan mau lẹ bởi một trong những toán quân đặc biệt của chúng tôi. Trong các cuộc điều
https://thuviensach.vn
động về sau đó, chúng tôi thành công trong việc bắt họ tháo lui khỏi các nơi cố thủ, các ổ hỏa lực…, và chiếm đóng trong các ngày 20 và 21 tháng 4, phần lớn còn lại của ghetto, đến độ việc kháng cự còn tồn tại bên trong các khu vực không còn tính cách quan trọng nữa.
Sau vài hôm, rõ ràng người Do Thái không còn ý định tập hợp lại nữa, nhung họ đã nhất quyết chống cự với tất cả sức lực bằng cách sử dụng tất cả các loại vũ khí mà họ có trong tay. Các toán chiến đấu được thành lập dưới sự chỉ huy của các đảng viên Bôn-sê-vích người Ba-lan, họ được võ trang và mua bằng bất cứ giá nào, vũ khí mà họ có thể kiếm được.
Sức kháng cự của bọn Do thái và bọn vô lại Ba-lan chỉ có thể bị bẻ gãy bằng cách sử dụng lien tục tất cả các lực lượng và tất cả mọi sức mạnh của chúng tôi ngày cũng như đêm. Ngày 23 tháng 4 năm 1943, ông Reichsfuhrer SS (Himmler) ra lệnh kết thúc với một lực lượng hùng hậu và kiên trì nhất trong việc tẩy sạch ghetto tại Varsovie. Cho nên tôi quyết định phá hủy toàn thể nơi cư ngụ Do Thái bằng cách thiêu hủy tất cả các khu, kể cả các dinh thự cạnh xưởng chế tạo vũ khí. Từng nhóm chung cư được di tản một cách có hệ thống và bị thiêu hủy sau đó. Bấy giờ bọn Do thái chui ra khỏi các chỗ ẩn núp. Thường thì chúng ở lại trong các ngôi nhà đang bốc cháy cho đến lúc vì sợ bị thiêu sống, chúng mới chọn việc nhảy từ các tầng lầu xuống sau khi quăng xuống đất nệm và mền. Nhà cửa bị thiêu hủy, chúng còn cố gắng bò qua các đường phố hướng về các khu nhà chưa bị thiêu hủy hoặc mới bị cháy xém một phần. Ban đêm họ thường thay đổi chỗ ẩn núp, len lỏi trong các đống gạch đổ nát của những ngôi nhà bị thiêu rụi, và ẩn ở đó cho đến khi các nhóm tuần tiễu của chúng tôi khám phá ra họ.
Việc ẩn nấp trong các ống cống không còn dễ dàng nữa sau tuần lễ đầu tiên. Ở ngoài đường chúng tôi thường nghe thấy những tiếng nói vang dội phát lên từ các miệng cống. Các binh sĩ thuộc lực lượng Waffen SS, các Cảnh sát viên và binh sĩ Công binh của Quân đội can đảm nhảy xuống các lỗ cống ấy để kéo bọn Do thái lên và họ thường hay bị liểng xiểng khi nhảy
https://thuviensach.vn
xuống phải các xác chết hoặc được đón tiếp bằng những phát súng. Luôn luôn họ phải dùng đến đèn khói để tống cổ bọn Do thái ra. Một hôm, chúng tôi mở 183 miệng cống, và vào một lúc đã định trước, chúng tôi thả các đèn khói xuống, điều đó đã đưa đến kết quả là làm cho bọn vô lại trốn chạy vì chúng tưởng là hơi ngạt cho đến trung tâm của ghetto cũ và ở đó người ta đã thành công trong việc bắt họ chui ra. Vô số người Do thái bị tiêu diệt trong các ống cống và các nơi ẩn trốn mà chúng tôi đã phá cho nổ tung.
Chỉ nhờ vào sự làm việc liên tục và không biết mệt mỏi của tất cả những người tham dự vào chiến dịch này mà chúng tôi đã thành công trong việc bắt tổng cộng được 56.065 người Do thái, mà việc tiêu diệt đã được chứng minh. Thêm vào con số này là những người đã bị chết trong các vụ nổ và vụ cháy, nhưng số này không thể xác định một cách chắc chắn được.
Cuộc hành quân qui mô đã kết thúc vào ngày 16 tháng 5 năm 1943, ngày mà chúng tôi phá nổ ngôi nhà thờ Do Thái tại Varsovie, lúc 20 giờ 15”.
Tướng Stroop rất lấy làm sung sướng về bản báo cáo của mình nên đã cho sao lại trên một loại giấy dày và tốt, đóng bìa da và gửi đến Himmler. Tướng Alfred Jodl, quân nhân nhà nghề, có mặt trong số các bị cáo tại Nuremberg và nghe lời chứng này lần thứ hai, nhắc lại bình phẩm của ông khi được thấy bản phúc trình của Stroop lần đầu tiên: “Con heo SS bẩn thỉu phách lối! Tưởng tượng viết ra một bản phúc trình khoác lác dày 75 trang, về một cuộc hành quân nhỏ của bọn sát nhân, trong khi cuộc chiến đấu do quân sĩ đương đầu với một đội quân trang bị đầy đủ chỉ chiếm có một vài trang giấy…”
Trong các tài liệu được trình trước Tòa án Nuremberg, có những bản tin tường thuật do Stroop gửi đến Tổng hành dinh ở Cracovie để báo cáo, từng ngày một, về sự tiến triển của các hoạt động chống ghetto ở Varsovie. Sau đây là ba bản tiêu biểu:
https://thuviensach.vn
“22 tháng 4 năm 1943. Sự kiện chúng tôi đốt cháy các khu nhà đưa đến kết quả là, những người Do Thái mà chúng tôi không thể tìm thấy được mặc dù đã có nhiều cuộc lục soát, đã rời khỏi nơi trú ẩn của họ dưới mái nhà, trong các hầm rượu và nhiều chỗ khác, và họ xuất hiện ở bên ngoài các khu nhà để tránh ngọn lửa. Trọn nhiều gia đình đã làm mồi cho ngọn lửa và nhảy qua cửa sổ, hoặc cố tuột xuống bằng những tấm vải trải giường nối lại với nhau. Chúng tôi đã sẵn sàng các biện pháp cho nên những người Do thái này, cũng như những người Do thái còn ở lại, đã bị thanh toán ngay tức khắc. Suốt đêm, nhiều tiếng súng được bắn ra tại các khu nhà phải được giải tỏa. Chúng tôi không bị một thiệt hại nào trong các lực lượng bao vây, 5.300 người Do Thái đã được di tản.
24 tháng 4 năm 1943. Lúc 18 giờ 15, một toán trinh sát xông vào một ngôi nhà đã bị bao vây và khám phá thấy bên trong một số lớn người Do thái. Vì vài tên trong bọn chúng chống cự nên tôi ra lệnh thiêu hủy cả ngôi nhà. Chỉ khi những ngôi nhà ven đường và các căn nhà phụ của chúng bị đốt cháy, bọn Do thái, mà một số đã làm mồi cho ngọn lửa, mới chịu bò ra. Một số khác thử cứu vãn mạng sống của mình bằng cách nhảy xuống đường từ các cửa sổ và các sân thượng, sau khi đã quăng xuống đất giường chiếu, mùng mền… Nhiều lần liên tiếp, chúng tôi nhận thấy bọn Do thái và bọn vô lại, thà bị thiêu sống đã thường chạy trở lại nhảy vào lửa còn hơn là để bị rơi vào tay chúng tôi. Thường thường họ tiếp tục bắn về phía chúng tôi cho đến khi cuộc hành quân kết thúc; vì thế cho nên các chiến sĩ công binh đã phải được bảo vệ bằng những khẩu đại liên, lúc đêm xuống, khi họ tràn vào một ngôi nhà nhà xi măng đã được phòng thủ kiên cố.
Ngày 7 tháng 5 năm 1943. Hôm nay chúng tôi phá nổ tung khu nhà bằng xi măng mà chúng tôi không thể tiêu hủy được. Công việc này cho chúng tôi thấy rằng làm nổ tung một khu nhà là một công việc lâu dài và đòi hỏi nhiều số lượng lớn chất nổ. Giải pháp tốt nhất và độc nhất để tiễu trừ bọn Do thái vẫn là tiêu hủy”.
https://thuviensach.vn
Đó là những cách thức tiêu diệt khác nhau.
Tất cả những người Do thái đã bị sát hại không phải đều bị giết chỉ do lệnh của Adolf Eichmann. Theo các sự kiện cung khai tại tòa án Nuremberg, hình như đã chứng minh rằng, cơ quan của Eichmann chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ trên một phần trong tổng số người bị sát hại mà thôi: những triệu người chết trong các trại tập trung. Tại Nuremberg, không có gì chứng minh rằng Eichmann có lien quan đến cái chết của những kẻ khác, mặc dù người ta có thể đổ lên đầu ông ta số đông những người Do thái đã bị chết trong thời gian di tản. Nhưng vì Eichmann không có mặt tại ghế bị cáo ở Nuremberg, thành ra người ta tìm các bằng chứng để buộc tội ông ta một cách dễ dàng về vấn đề này. Những trách nhiệm của ông ta chỉ được người ta phát giác ra trong thời gian chuẩn bị hồ sơ của những nhà lãnh đạo Đức quốc xã đã bị bắt. Các bằng chứng đầy đủ để buộc tội Eichmann chỉ được chuẩn bị mười lăm năm sau đó.
Bảng kế hoạch của Đức quốc xã về việc tiêu diệt người Do thái và về vai trò của Eichmann trong việc thực hiện kế hoạch này cho đến bây giờ đã được căn cứ trên những lời khai của chính bọn Đức quốc xã. Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu các hồ sơ và phỏng vấn những người sống sót từ các trại tập trung, từ các vụ tàn sát trong các ghetto, tôi thường nghe được những câu chuyện đau xót và ghê rợn hơn tất cả mọi câu chuyện đã được thuật lại cho đến bây giờ. Nhưng tôi không có ý định trình bày những câu chuyện đó nơi đây. Dù cho tôi có làm việc này thì lịch sử của những năm thê thảm đó cũng sẽ chẳng được đầy đủ. Những khoảng trống chỉ có thể được bù đắp bằng một tuyển tập về khổ nhục hình của sáu triệu người Do thái đã bị thảm sát. Và tôi nghĩ tốt hơn nên nhường lời cho chính bọn Đức quốc xã.
Nhưng tôi nghĩ rằng nên thêm vào lời chứng của hai người Do thái đã có dịp gặp Adolf Eichmann và đã có chuyện tính toán với ông ta, và cũng do họ mà những vị lãnh đạo của Cơ quan đặc trách Do thái cho Palestine đã
https://thuviensach.vn
từng nghe nói đến Eichmann rất lâu trước khi tên ông ta được đề cập đến trước tòa án Nuremberg. Hai người Do thái đó là Bác sĩ Rudolf Kastner và ông Joel Brand, thành viên của Ủy ban Do thái Hung gia lợi, họ đã cố thử thương lượng với Eichmann tại Budapest năm 1941 trong một cố gắng cuối cùng để cứu dân tộc họ.
Kastner là một nhân vật bi thảm. Lãnh tụ của Phong trào Do thái tự trị Hung gia lợi, các biến cố đã thúc đẩy ông ta làm dại diện cho cộng đồng Do thái khi quân Đức chiếm Hung gia lợi vào tháng ba năm 1941. Theo gót các đoàn quân Đức, có “ Biệt đội” của Cảnh sát Đặc biệt Đức với nhiệm vụ thanh toán người Do thái. Cơ quan này do chính Adolf Eichmann tổ chức và lãnh đạo. các cộng sự viên chính yếu của ông ta là Wisliceny và trung tá Hermann Krumey. Ngày 3 tháng 4, Kastner được gọi đến văn phòng của Eichmann lần đầu tiên, và từ đó cho đến khi cuộc chiếm đóng kết thúc, ông ta cố gắng đảo lộn chính sách lưu đày của Eichmann. Về phần tôi, tôi tin chắc rằng Kastner đã thành công trong việc cứu thoát được nhiều người Do thái. Nhưng trên con số tổng cộng gần 800.000, thì có chừng 550.000 người Do thái Hung gia lợi đã bị tiêu diệt.
Sau chiến tranh, Kastner đến Israel. Năm 1953, ông ta là nạn nhân của một vu khống lớn lao, theo đó những liên lạc của ông ta với Eichmann đã được coi như ngang với một vụ hợp tác. Việc kết tội này đã do những phần tử sống sót của các gia đình đã bị tiêu diệt đưa ra – làm như Kastner là thủ phạm vì đã không có thể cứu được họ - nhưng việc này đã được làm cân bằng lại bởi những người đã được cứu thoát do tài thương lượng khéo léo của ông ta. Ông đưa người vu cáo ông ta ra trước Tòa án và tên tuổi Kastner đã được bạch hóa.
Nhưng vì đã có một cơn khích động tột độ trong thời gian vụ kiện diễn tiến đến nỗi một người đàn ông mà tinh thần hơi bất bình thường có theo dõi vụ kiện, đã đề quyết trong thâm tâm mình rằng Kastner có tội. Một đêm, vài tháng sau đó, con người cuồng tín ấy đã bắn xả vào ông khi ông
https://thuviensach.vn
rời tòa soạn tờ báo để đi về nhà. Kastner chết vài ngày sau. Một trong các tờ báo tại Israel đã nói Kastner như là “nạn nhân cuối cùng của Eichmann”.
Sau khi Hung gia lợi được giải phóng, Kastner đã có thể cho biết rõ ngọn nguồn vai trò của riêng cá nhân Eichmann trong việc tiêu diệt đoàn thể Do thái quan trọng cuối cùng đã bị rơi vào tay bọn Quốc xã: Những người Do thái Hung gia lợi. Quân Đức đến ngày 19 tháng 3, Eichmann thiết lập cơ sở của ông ta cũng ngày hôm đó. Ngày 28 tháng 4, cuộc lưu đầy đầu tiên đã diễn ra: 1.500 người Do thái bị đưa sang Auschwitz để tiêu diệt tại đó. Đầu tháng sáu, Eichmann nói với Kastner: “Sẽ không một người Do thái bị đày nào sống sót trở về”.
Cho đến ngày 27 tháng sáu, đã có 475.000 người Do thái bị đày đi. (Cần so sánh với bản cung khai của Hoess, viên trưởng trại Auschwitz, theo đó đã có 400.000 người Do thái bị tiêu diệt tại trại của ông trong mùa hè năm 1944). Các vụ lưu đày đã được thực hiện dưới sự điều khiển trực tiếp của chính Eichmann.
Như Kastner đã nói trước Tòa án Nuremberg: “Các trưởng trại tử thần chỉ dùng hơi ngạt theo lệnh trực tiếp hoặc gián tiếp của Eichmann. Viên sĩ quan của IV B (Ban của Eichmann tại R.S.H.A) chỉ huy các cuộc lưu đày từ mọi xứ, có quyền chỉ định chuyến xe lửa có phải đến một trại tiêu diệt hay không, và cách đối xử dành cho các tù nhân trong suốt cuộc hành trình. Các chỉ thị thường do những hạ sĩ quan SS hộ tống đoàn xe lửa đem theo. Những chữ “A” hoặc “M” được ghi trên tập chỉ thị mang theo đoàn xe chỉ Ausch-witz hay Madjanek: điều đó là có nghĩa các hành khách sẽ phải bị thanh toán bằng hơi ngạt”.
Kastner cũng đã kể lại đề nghị không thể tưởng tượng được “Máu đổi lấy xe tải” mà Eichmann đã đưa ra với một đồng nghiệp của Kastner tại Ủy ban Do thái Joel Brand. Đây là những gì do chính Brand đã viết về buổi hội đàm của ông ta trong quyển Luật sư của kẻ đã chết:
https://thuviensach.vn
Ngày 25 tháng 4 năm 1944, tôi được đưa đến Tổng hành dinh SS tại khách sạn Majestic ở Budapest, để gặp trung tá Eichmann. Ông ta đứng lên đón tiếp tôi và nói:
“Tôi nghĩ rằng ông đã biết tôi là ai. Tôi đã được giao phó các hành động tại Đức, Ba lan và Tiệp khắc. Bây giờ đến lượt Hung gia lợi. Tôi đã được biết về ông và về các người Hung nói chung và tôi đã kiểm điểm khả năng của ông về việc kết thúc một cuộc trao đổi. Bây giờ, tôi sẵn sàng bán cho ông một triệu người Do thái. Không trọn lô đâu: ông không thể nào gom góp đủ số tiền. Nhưng cho một triệu người, ông có thể làm được. Máu đổi lấy tiền, tiền đổi lấy máu. Ông có thể chọn những người Do thái này tại bất cứ quốc gia nào, tại tất cả mọi nơi mà ông tìm thấy họ. Ở Hung, Ba lan, các thị trấn ở miền Đông, ông có thể chọn lấy họ tại Terezin hoặc tại Oswiecin (các trại tập trung), mọi chỗ nào các ông thích. Ông muốn cứ những ai? Những người đàn ông còn cường tráng? Những người đàn ba còn có mang được? Những kẻ già nua? Trẻ nít? Ông hãy ngồi xuống và nói cho tôi biết”
Vài ngày sau, trong một buổi gặp gỡ mới, Eichmann cho Brand biết rằng tiền không còn giúp ích gì được cho người Đức nữa. cái mà họ muốn, đó là những chiếc xe vận tải. Ông ta nói thêm: “Cứ một trăm người Do thái, ông sẽ nộp cho tôi một chiếc xe vận tải quân sự. Cho một triệu người Do thái, tổng cộng là 10.000 chiếc xe”. Ông ta nói sẽ cho tập hợp người Do thái tại Auschwitz để đợi và nếu các xe vận tải không được giao, “tất cả họ sẽ bị cho vào phòng hơi ngạt”.
Cuộc mua bán này không đi đến đâu cả, dù Eichmann đã sắp đặt một chuyến đi Thổ nhĩ kỳ cho Band trên một phi cơ thư tín của Đức, để Brand có thể bắt liên lạc với Cơ quan Đặc trách về Do thái và ngẫu nhiên, với các đại diện của Đồng minh. Nếu người ta không biết gì khác về Eichmann, thì chỉ riêng khả năng đảm bảo chuyến đi của một người Do thái trên một phi cơ chính thức của Chính phủ trong thời chiến cũng đủ cho thấy quyền hạn rộng lớn của ông ta. Trong một thời kỳ mà không một người Do thái nào
https://thuviensach.vn
được xê dịch trong một xứ bị chiếm đóng – ngoài việc bị bắt buộc và về hướng các trại tập trung – Eichmann đã có thể làm được cho Brand một thông hành Đức và đưa ông ta ra khỏi xứ.
Kastner và Brand đã làm đủ mọi thứ để được Eichmann đảm bảo là các vụ lưu đày sẽ được đình chỉ, ít ra cũng đến lúc người ta biết được các cuộc thương lượng tại Thổ nhĩ kỳ có thành công hay không, nhưng các cuộc lưu đày vẫn tiếp tục như trước.
Điều quan trọng đối với chúng ta trong các cuộc hội đàm của Kastner và Brand với Eichmann là chúng cho ta thấy rõ quyền hành mà ông ta nắm giữ trên sinh mạng của người Do thái. Ông ta có thể, như ông ta đã nói, hoặc gửi họ đến các phòng hơi ngạt, hoặc để cho họ sống. Ông ta đã chọn cái chết. Lệnh tử hình ấy đã xâm hại đến người Do thái, Ba lan, Nga, Lỗ ma ni, Hung gia lợi, Pháp, Tiệp khắc, Đức, Áo, Lituanie, Lettonie, Hoaf lan, Bỉ, Nam tư, Hy lạp, Ý và bảo gia lợi. Cuối năm 1939, tổng số người Do thái tại 16 quốc gia này gồm 8.250.000 người. Khi chiến tranh chấm dứt, hơn 6 triệu người trong họ đã bị giết.
Các kết quả không xa mấy các mục tiêu của cuộc hội nghị ở Wannsee. Cuộc hội nghị này được triệu tập vào ngày 20 tháng giêng năm 1942 bởi tướng SS Heydrich, chỉ huy trưởng Cơ quan R.S.H.A… để thiết lập các kế hoạch mới cho “Giải pháp cuối cùng của vấn đề Do thái”. Eichmann dĩ nhiên là có mặt. Con số người Do thái phải tận diệt được ấn định là mười một triệu, vì người ta đã tính luôn các đoàn thể Do thái tại các quốc gia như Anh, Phần lan, Ái nhĩ lan, Bồ đào nha, Thụy sĩ, Thụy điển và Thổ nhĩ kỳ. Nhưng Đức quốc đã không xâm chiếm được các lãnh thổ này và một phần rất lớn của nước Nga còn ở rất xa tầm tay của các đoàn quân Đức quốc xã. Và vì thế cho nên người Do thái tại Âu châu đã không bị thanh toán hết. Nhưng Heydrich và Eichmann đã làm việc với mọi cố gắng. Sáu triệu người đã bị giết đã tiêu biểu cho hơn 73% dân số Do thái bị đặt vào “Giải pháp cuối cùng”.
https://thuviensach.vn
Yigal, Gad và Dov đã khảo chứng tỉ mỉ về cách thức mà hàng triệu anh em của họ đã bị giết và về vai trò của Eichmann trong chiến dịch vĩ đại này. Họ đã hiểu tại sao Eichmann đã trốn chạy sau khi triều đại Đức quốc xã sụp đỏ và tại sao hắn ta đã tìm cách ẩn trốn một cách tuyệt vọng. Chính vì điều này mà Yigal và các bạn hữu của anh đã nhất quyết tìm cho ra hắn ta và bắt buộc hắn ta phải trả lời về các hành vi của mình. Chính vì việc đó mà họ có mặt tại Buenos Aires. Và bây giờ họ đã tìm ra hắn ta. Và bây giờ họ đã chắc chắn một cách tuyệt đối rằng con mồi của họ đích thị là Adolf Eichmann.
https://thuviensach.vn
3. Con người và cơ quan của Eichmann
Adolf Eichmann sinh tại Đức năm 1906 - ở Solingen, miền Rhénanie. Khi hắn ta được chín tuổi, gia đình hắn ta rời về Áo và cư ngụ tại Linz, thành phố mà Eichmann vẫn thường gọi là Linz-sur-Danube. Chính tại Linz, như Eichmann đã nói, hắn ta đã theo bậc tiểu học, kế đó là bốn năm trung học, sau cùng là hai năm tại Trường Cao đẳng Điện khí kỹ thuật và chế tạo kim loại. Hắn đã bắt buộc bỏ dở việc học và đi làm vì không tiền.
Trong một phiếu lý lịch xưa cũ chính hắn ta đã ghi lúc rời nhà trường, hắn vào làm nhân viên cho Công ty Elektrobau của Áo tại Linz-sur-Danube.
Chính trong thời gian này những nỗi ấm ức bất bình của hắn ta đã bắt đầu có những quy mô của một căn bệnh thần kinh suy nhược thực sự, chẳng bao lâu chứng bệnh thần kinh này tìm được lỗi thoát trong sự gia nhập của hắn ta vào Đảng Quốc Xã, với tâm trạng một người Đức xa quê hương, hắn ta càng thấm thía sự đau khổ hơn về cuộc bại trận của Đức vào năm 1918. Và hắn ta càng nung nấu nỗi khổ hơn nữa vì trong thâm tâm thấy gia đình có lỗi khi rời khỏi đất nước trong thời kỳ chinh chiến. Sự việc hắn ta bị bắt buộc phải đi làm thay vì tiếp tục con đường học vấn, luôn luôn nhắc nhở hắn ta rằng nước Đức đã bại trận và càng làm tăng thêm các nỗi ẩn uất của hắn ta. Cho nên khi được hai mươi lăm tuổi, hắn ta như một trái chín mùi để rơi vào tay bọn Quốc Xã.
Hắn ta gia nhập Đảng Quốc Xã ngày 1 tháng tư năm 1932 và nhận được số hiệu 899895. Lúc đó Áo là một quốc gia độc lập. Đảng Quốc Xã muốn xáp nhập Áo vào Đức quốc là một đảng phản quốc gia (antinational) mà các thành phần đã bị xem như là những gián điệp và tay sai của một cường quốc ngoại bang.
Cùng ngày, hắn ta gia nhập lực lượng SS, nhưng, theo vài hồ sơ, hình như hắn ta chưa chính thức tuyên thệ trước tháng mười một. Hắn có hiệu
https://thuviensach.vn
SS 45326, Lực lượng SS (Schutzstaffeln) hợp thành một đoàn thể tinh nhuệ với đồng phục đen mà Hitler đã thành lập để chấp hành các phần việc mà ông ta không thể tin cậy vào các toán xung kích SA (Sturmabteilung), bọn áo nâu ồn ào. Nhóm SS sẽ trở thành lực lượng chủ yếu trong nước Đức Quốc Xã và các lãnh thổ bị chiếm đóng. Ngay từ năm 1932, Eichmann đã có đủ óc phán đoán để hiểu rằng, nếu muốn đồng hội đồng thuyền với thế giới Quốc Xã, thì chiếc xe SS chính là chiếc xe nên đi.
Trong một bản phúc trình cá nhân vắn tắt do chính tay hắn ta viết ngày mùng 6 tháng mười một 1934, hắn ta nói: Tháng tám 1933, tôi phải rời Áo quốc và đến doanh trại của đoàn Lê dương Áo tại Lechfeld, ở Đức. Từ tháng chín 1933 đến tháng giêng 1934, tôi làm việc tại sở liên lạc SS tại Passau. Tháng giêng, tôi được chuyển sang trung tâm SS Áo của cơ quan Hỗ trợ Việc làm tại Dachau, và tôi lưu lại đây đến tháng mười cùng năm. Từ đó, tôi phục tại vụ tổng hành dinh của cơ quan S.D. tại Bá linh, số 102 đường Wilhelmstrasse. S.D. là chữ tắt của Sicherheitsdienst cơ quan An ninh Quốc xã, cơ quan điều khiển tất cả mọi hoạt động chống Do thái.
Trong một bản lý lịch viết tay đề ngày 19 tháng bảy 1937, hắn ta đã nâng cha mình lên hàng Giám đốc Công ty Xe Điện và Điện lực tại Linz nơi hắn ta đã chỉ từng là một nhân viên. Cái khuynh hướng nâng cao lại địa vị xã hội là một trong các nét nổi bật trong tất cả các tài liệu cá nhân của Eichmann.
Trong cùng bản lý lịch ấy, hắn đảo ngược thứ tự của các tình cảnh của mình, và tuyên bố: Tôi làm đại diện cho Công ty Áo Elektrobau từ năm 1925 đến 1927. Tôi đã tự ý rời bỏ chức vụ này; hãng Vacnum Oil Company tại Vienne giao phó cho tôi chức vụ đại diện giao tế tại Haute Aurtriche. Tôi đã làm việc cho công ty nầy đến tháng 6 năm 1933 tại vùng Haute Autriche – Salzbourg và miền Bắc Tyrol. Bấy giờ tôi mất sở vì thuộc thành phần của Đảng Quốc Xã Áo. Tôi đã được Lãnh sự Đức tại Linz-sur-Danube, Dirk
https://thuviensach.vn
Von Lagen, cấp một giấy chứng nhận về trường hợp này, mà bản phụ được nộp kèm theo hồ sơ cá nhân của tôi tại Tổng hành dinh cơ quan S.D.
Ngày 21 tháng ba 1935, hắn ta thành hôn với Vera Liebl, sinh ngày 9 tháng tư 1909 trong vùng nói tiếng Đức của quốc gia Tiệp Khắc, vùng Sudètes và sau trở thành đối tượng của các tham vọng của Hitler. Bà ta đã được gọi là Veronica trong vài tài liệu. Cưới được bà ta không phải là việc dễ dàng. Phải có sự đồng ý của Đảng Quốc Xã. Eichmann xin phép ngày 21 tháng mười 1934 trên một đơn chính thức gởi tới Tổng hành dinh của S.D. nơi hắn ta đã bắt đầu làm việc. Theo thường lệ, đơn xin loại nầy phải được kèm theo một bản giải thích do chính tay người xin viết. Sau những lý lịch về chính mình, Eichmann đã viết:
"Ngày 15 tháng 8 năm 1931, tôi có đính hôn với con gái một địa chủ người Đức vùng Bohème ở Mlade, gần Bohm, Budweis. Tôi định thành hôn vào mùa hè năm 1933, nhưng không thể thực hiện được vì trong thời gian đó tôi đang theo học khóa huấn luyện tại trại Lechfeld, và chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi sẽ có mặt tại Áo vào khoảng mùa thu năm 1933. (Việc này có lẽ ám chỉ mộng ước nắm chính quyền tại Áo quốc của Đảng Quốc Xã vào thời gian nầy). Dự định thành hôn của chúng tôi được dời từ tháng nầy sang tháng khác, vì chúng tôi vẫn hằng mong mỏi thế nào cũng có một quyết định trong vấn đề nước Áo. Dù riêng cá nhân tôi không gặp khó khăn đối với chính quyền địa phương, trong thời gian lui tới Tiệp khắc (nhất là những năm 1933 và 1934), vị hôn thê của tôi và gia đình gặp phải khó khăn vì lý do người ta biết nàng đã đính hôn với một đoàn viên S.S.
• Do đó tôi trân trọng quí vị yêu cầu chấp nhận việc thành hôn của tôi.
• Tôi thỉnh cầu quí vị cứu xét sự việc, vì lý do tình hình chính trị, tôi không thể nào nộp đủ tất cả các giấy tờ cần thiết tại Bộ Chủng tộc và Cư dân:
https://thuviensach.vn
• Giấy y chứng của vị hôn thê tôi. Để khỏi gây thêm phiền phức cho gia đình nàng, vị hôn thê tôi không thể đến nước Đức trong lúc này để được y sĩ khám nghiệm và trở về gia đình sau đó. Các nhà hữu trách Tiệp khắc, đã ngờ vực sâu, sẽ thừa dịp gây thêm khó khăn cho gia đình nàng.
• Giấy chứng nhận do hai người chứng về hạnh kiểm của vị hôn thê. Cha mẹ tôi là những người duy nhất biết rõ vị hôn thê của tôi, và họ đang sống tại Áo. Tôi tha thiết thỉnh cầu quí vị tránh gởi bảng câu hỏi đến họ vì lý do thư tín của họ bị kiểm duyệt và việc này có thể gây những phiền phức mới từ chính quyền Áo vì họ biết không sót một cái gì về hoạt động của tôi, tại Linz-sur-Danube, cũng như tại sở liên lạc SS ở Passau.
• Vì lý do trên nên tôi kính xin quí vị chấp nhận những bản cung khai có tuyên thệ kèm sau:
1. – Ba tấm ảnh của hôn thê tôi
2. – Một giấy y chứng của hôn thê tôi.
3. – Phiếu lý lịch của hôn thê tôi.
4. – Giấy rửa tội của hôn thê tôi.
5. – Bảng kê khai gia tộc của hôn thê tôi.
và những giấy tờ như trên về cá nhân tôi.”
Adolf Eichmann
Hắn ta kèm thêm một tờ khai tuyên thệ xác nhận vị hôn thê của mình thuộc dòng giống Aryen.
Hình như hắn ta đã để rất nhiều thì giờ vào việc điền vào các giấy tờ và hãnh diện về ý tưởng mình thành hôn với thành phần địa vị xã hội cao hơn. Vì trong phụ bản của tờ đơn, ông thêm rằng gia đình Liebl thược dòng dõi
https://thuviensach.vn
một gia đình địa chủ kỳ cựu tại Đức, có danh giá ở miền Nam Bohème. Vị hôn thê tôi đã vào trường nội trú Đức tại Bud-weis sau khi rời bậc tiểu học.
Bằng chứng đẹp nhất mà hắn ta chưa bao giờ nhận được từ cấp chỉ huy là văn kiện đề ngày 17 tháng chín 1937. Khá kỳ quặc ở chỗ là do chính Dieter Wisliceny ký tên, Wisliceny lúc đó là Thiếu úy SS, còn Eichmann là trung sĩ nhất. Họ kết thúc binh nghiệp trong cùng lực lượng ấy với Wisliceny đại úy, và Eichmann trung úy.
Wisliceny đã viết:
• Diện mạo nòi giống: Aryen miền Bắc Âu.
• Hạnh kiểm: Đứng đắn trong việc làm, nhiều lương tâm nghề nghiệp, bạn tốt.
• Ý chí: Dứt khoát và cương quyết.
• Học thức: Trình độ học thức phổ thông đầy đủ.
• Thiện chí: Trên trung bình.
• Thông minh: Tốt.
• Tư tưởng quốc xã: Eichmann là một đảng viên Quốc Xã đích thực.
• Tư cách: Rất tốt trong công vụ. Đời tư hoàn toàn không có gì đáng chê trách.
• Huấn luyện: Có huy chương thể thao SA. Chỉ đạt được huy chương thể thao SS vào năm 1938, vì bị gãy một cánh tay trong lúc thi hành công vụ.
• Có xứng đáng được thăng trật không? Có.
https://thuviensach.vn
Nhiều tác giả đã lấy làm lạ là tại sao Eichmann đã “chỉ” là một trung tá thôi, trong lúc đó hắn ta lại được giao phó các chiến dịch quá vĩ đại như vậy ngay trong cơ quan khủng khiếp S.D. Thật ra, từ lúc hắn ta gia nhập phục vụ Đảng Quốc Xã, việc thăng quân tiến chức của hắn ta trong lực lượng SS đã rất nhanh chóng đối với một người không được đào tạo kỹ càng về quân sự và những chức vụ quan trọng nhất đều thuộc vùng hậu tuyến chứ không trong một đơn vị tác chiến. Đối với một người như vậy, chức trung tá là một cấp bậc cao và là một phần thưởng đáng chú ý về những công việc có hiệu quả trong cuộc tổ chức các vụ ám sát tập thể. Một năm rưỡi sau khi gia nhập lực lượng SS, hắn ta được nâng cấp bậc tương đương với trung sĩ; sáu tháng sau, trung sĩ nhất; một năm sau, thượng sĩ; năm 1936, thượng sĩ nhất; năm 1937, thiếu úy; 1938, trung úy; 1939, đại úy; 1940, thiếu tá; 1941, trung tá. Cấp bậc này trong SS, gọi là Obersturm-bannfuhrer.
Có hai lời đồn về Eichmann: ông ta sinh tại Palestine, và biết nói tiếng Hebrew và yiddish (Do Thái cổ). Cả hai đều vô căn cứ. Lời đồn đại thứ nhất bắt nguồn từ một cuộc viếng thăm xứ Palestine. Thời đó tại Sarona, ngoại ô Tel Aviv có một khu đoàn người Đức. Bọn này phần đông đều là tay chân đắc lực của Đảng Quốc Xã. Và thật ra cũng đã có những liên lạc mật thiết giữa bọn Quốc Xã và ông Mufti ở Jerusalem từ những năm trước chiến tranh, trong khi ông Mufti đứng đầu nhóm Ả-Rập ở Palestine đang chống đối ra mặt với người Do Thái. Người ta biết là Eichmann có đến Palestine một thời gian trong tư cách là đại diện của cơ quan S.D. trong lúc có những vụ lộn xộn giữa Do Thái và Ả-Rập, để phối trí các hoạt động chống Do Tháo. Nhưng chỉ sau khi Eichmann bị bắt và sau khi khám phá vài tài liệu, người ta mới biết được chắc chắn rằng hắn ta chỉ đã ở Palestine có 48 tiếng đồng hồ. Hắn ta có ý định lưu lại đó lâu hơn, nhưng hắn ta đã bị chính quyền uy trị Anh trục xuất như là một điệp viên Đức. Điều đó đã xảy ra trong những ngày 2 và 3 tháng 10 năm 1937.
Tiếng đồn kế đó là Eichmann nói rành rẽ tiếng yiddish và Hebrew càng ngày càng lan rộng sau vụ Anschluss (vụ sát nhập Áo vào nước Đức) năm
https://thuviensach.vn
1938, khi hắn ta trông coi sở di dân Do thái tại Vienne. Lúc đó hắn ta gặp gỡ những đại diện của các đoàn thể Do thái tại Áo và qua trung gian những người nầy, hắn ta truyền các mệnh lệnh trục xuất. Với những người nầy, ông dùng với vẻ thành thạo những danh xưng bằng tiếng yiddish hoặc Hebrew của các tổ chức và đoàn thể thanh niên Do thái và Do thái theo phong trào tự trị. Khi, từ môi tên Quốc Xã tàn bạo nầy, thốt ra một cách dễ dàng những tiếng bí truyền như “He-chalutz”. Hắn ta đã gây ra cảm giác – và đó là điều Eichmann muốn – là hắn ta đã thông hiểu rộng rãi các ngữ vựng, trong khi thật sự các tiếng ấy là tất cả vốn liếng ngữ học của hắn ta. Tóm lại, về yiddish, hắn ta chỉ biết những tiếng tương tự với tiếng Đức. Còn về Hebrew, hắn ta hầu như hoàn toàn mù tịt.
Là một đảng viên Quốc xã băng sai nồng nhiệt, Adolf Eichmann đã nghĩ về người Do thái theo các tư tưởng mẫu của Đảng đưa ra và nung nấu một lòng thù hận người Do thái như Fuhrer Adolf Hitler của hắn ta. Hắn ta đã cùng các bạn tham dự những cuộc tấn công nhỏ vào người Do thái trên các đường phố và những cuộc gào thét kết thúc bằng cuộc bạo hành chống Do thái. Nhưng chẳng có gì đặc biệt để có thể chỉ định hắn ta đảm trách những trách nhiệm to lớn trong tương lai của một kế hoạch đã đưa đến việc tàn sát sáu triệu người Do thái. Chính sự chó nhảy bàn độc tình cờ đã đẩy hắn ta lên những nấc thang cao nhất để biến hắn ta thành người chỉ huy thi hành chương trình tận diệt.
May mắn đã đến với hắn ta năm 1934, và hắn ta chụp ngay cơ hội để khai thác. Ngày 1 tháng 10 năm ấy, với cấp bậc trung sĩ SS, sau một thời gian huấn luyện thường và các công việc văn phòng chẳng mấy sáng sủa tại Passau và Dachau, hắn ta được thuyên chuyển đến Bá linh, tại Bảo tàng viện Do thái một cơ sở tuyên truyền hoạt động tại Tổng hành dinh của S.D. Tháng chín năm 1939, S.D. cơ quan An ninh phải hiệp nhất với S. P., Cảnh sát đặc biệt, để trở thành Cơ quan R.S.H.A. (Reichssicher-heitahauptamt), và thật sự đó là một tổ chức dữ dội.
https://thuviensach.vn
Trên một phiếu ghi hiện có trong hồ sơ của Israel (Quốc gia Do thái), một sĩ quan cao cấp đã nói về Eichmann rằng hắn ta được chú ý nhờ trí thông minh lanh lợi và lương tâm nghề nghiệp. Thực sự, hắn ta đã cho thấy “sự khôn lanh” lúc đến tổng hành dinh của cơ quan An ninh tại Bá linh, bằng cách nhận ra nơi đây là chỗ cần phải bám cứng nếu muốn sử dụng quyền lực. Và thực sự hắn ta đã ở lại Cơ quan An ninh cho đến lúc chót, hắn ta cũng tỏ ra thông minh bằng cách rút tỉa những gì tốt nhất do những chức vụ của mình tại “Bảo tàng viện Do thái”, vì những chức vụ nầy tiêu biểu hy vọng thăng tiến tốt nhất của hắn ta. Hắn ta suy tính rất xác đáng rằng mình không có một phẩm định đặc biệt nào có thể mang đến sự thăng tiến mau lẹ trong đảng cấp quốc xã. Hắn ta hãy còn quá trẻ để có thể làm một trong những đồng chí hoạt động thuở hàn vi của Hitler. Không có học lức cao để có ưu thế trên những kẻ cùng thời. Không có khiếu đặc biệt về chỉ huy và cũng chẳng có cấp bậc trong lãnh vực quân sự. Và cũng không lấy gì làm xuất sắc ở trại huấn luyện. Vả lại, sau khi được huấn luyện, sự việc hắn ta được bổ nhiệm làm việc tại văn phòng thay vì giữ một chức vụ chỉ huy hoặc làm tại một trung tâm huấn luyện cao đẳng quân sự, là một điềm gần như không mấy thuận lợi. Hắn ta không có vẻ gì là một chiến sĩ oai hùng và không thể rạng rỡ bên bọn báo danh của Đảng. Lúc được bổ dụng tại “Bảo tàng viện Do thái”, hắn ta coi việc đó như là một điều sỉ nhục, nhưng rồi trí thông minh và tham vọng lại phục hồi và hắn ta bỗng nhiên cảm thấy mình đang đi đúng đường.
Hắn ta có chân trong Đảng khá lâu để đủ biết rằng đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa Quốc Xã không chỉ là sự thù ghét Do thái suông mà chính là sự biến đổi sự thù ghét ấy. từ một luồng nhỏ tâm tưởng thụ động thành một dòng thác lũ hoạt động tích cực. Có vài lý thuyết của Đảng đã lập ra một lý thuyết ngụy-khoa-học của chủ nghĩa quốc xã về chủng tộc. Nhưng ít người trong Đảng có kiến thức thực sự về người Do thái. Đám đông đảng viên không cần tìm hiểu sâu xa hơn ý tưởng đơn giản là mình thù ghét Do thái. Vì vậy cho nên, tại Bảo tàng viện Do thái, viên trung sĩ SS Adolf Eichmann có một cơ hội tuyệt diệu để trở thành chuyên gia một ngành quan
https://thuviensach.vn
trọng bậc nhất của bọn quốc xã mà việc cạnh tranh rất yếu ớt: vấn đề Do thái.
Tại cơ quan Tuyên truyền chống Do thái nầy, Eichmann không những chỉ làm quen với những thứ sách bài Do thái thường hoặc thứ giả hiệu hiền nhiên như các quyền Nghi Thức Thánh hiền trên núi Sion. Hắn ta cũng góp nhặt một số kiến thức về tôn giáo Do thái, các phong tục Do thái và những phong trào chính trị và Quốc gia Do thái, với mục đích để dễ dàng làm sai lệch và biến tính cho quyền lợi của chủ nghĩa Quốc Xã. Hắn ta đã có những bậc tiền bối nổi tiếng. Sự bài Do thái của Nga, nhận thức “sự hủy báng giống nòi” đê tiện, đã khởi đầu bằng cách nghiên cứu sách nghi thức Do thái, kế đó làm sai lệch nó đi. Kết quả đưa đến những vụ tàn sát nhiều ngàn người Do thái Nga trong suốt thế kỉ XIX. Tên Nga nầy đã được biết, lễ Passover, ngày lễ Dot hái ăn mừng sự kết thúc việc tù đày người Do thái tại Ai Cập, tục lệ là tuyên đọc rõ ràng sách Exode vừa uống bốn chung rượu vang. Điều mà hắn ta thấy là thượng sách là phao tin đồn trong đám dân quê dốt nát rằng những người Do thái đã uống những chung “máu dân Công giáo” trong dịp lễ đó. Việc sau đó diễn biến một cách tự động. Thường thường để cho chuyện hoang đường dễ tin hơn, bọn bài Do thái đã hay bắt cóc một đứa trẻ công giáo vài hôm trước ngày về Passover và rêu rao lên rằng nó đã bị những người Do thái trong xứ sát hại để lấy máu.
Eichmann đã tìm cách khám phá những cơ hội tương tự để bóp méo các sự việc. Đối với hắn ta, người Do thái là kẻ thù và phương châm của hắn ta trở thành: “Hắn biết rõ kẻ thù của anh”. Hắn ta bắt đầu công việc tìm hiểu người Do thái do chính mình đã đặt ra. Hắn ta không dừng lại lâu trên Lịch sử Do thái, để ý nhiều hơn đến thời hiện đại, đến cách tổ chức cộng đồng Do thái tại Đức, đến những cơ quan tôn giáo và các hệ phái khác nhau của phong trào Do thái Tự trị. Hắn ta nhận được ấn phẩm, và nghiên cứu kỹ càng các báo và tập chí của họ.
https://thuviensach.vn
Ba năm sau, hắn ta được bổ niệm làm trưởng phòng của hắn ta tại cơ quan an ninh với tư cách là chuyên viên đầu tiên về vấn đề Do thái và được thăng cấp tương đương với cấp thiếu úy – Untersturmfuhrer SS. Đây là việc thăng cấp mau nhất trong tất cả các người đương thời với hắn ta. Chắc chắn là hắn ta đã “thông minh” trong việc chọn lựa hoạt động của mình.
Bấy giờ sự nghiệp của hắn ta bắt đầu được khởi phát. Thật sự hắn ta là chuyên gia mà các ý kiến về điều khiển các hoạt động bài Do thái. Eichmann không viết các luận đề triết lý về Do thái, nhưng hắn ta biết con số người Do thái tại mỗi thị trấn, tên những người cầm đầu của mỗi cộng đồng, những dịch vụ do Do thái tổ chức, những hoạt động của các đoàn thể Do thái vào các phong trào Do thái Tự trị. Có sẵn các tin tức thực tiễn ấy, cơ quan có thể định ngay các hành động trưng dụng, trục xuất và bắt bớ của mình.
Địa vị của Eichmann giờ đây đã vững chắc, nhưng nếu hắn ta cung cấp các tin tức, thì chính các người khác đã quyết định khai thác các tin tức ấy. Bước đầu chức nghiệp quản trị trực tiếp các vấn đề Do thái của hắn ta đã đến mười tháng sau đó. Với vụ Anschluss và việc chiếm đóng nước Áo của Hitler. Eichmann được gửi đến Vienne như là đại diện của cơ quan an ninh để điều khiển cái cơ sở được đặt một cái tên khá đẹp là “Cơ quan Di dân Do thái Trung ương”. Hắn ta nhậm chức ngày 1 tháng tám năm 1938 và hăng hái bắt đầu ngay tức khắc công việc quét sạch người Do thái khỏi Áo quốc. Vài tháng sau viên thanh tra Cảnh sát đặc biệt tại Vienne, khi đề nghị thăng thưởng Eichmann, đã có thể viết như sau: “Đương sự làm việc giỏi, hăng hái và có nhiều sáng kiến, có khiếu trong công việc độc lập đặc biệt về vấn đề tổ chức. Đây là một chuyên viên có tiếng, đương sự hiện là Trưởng Cơ quan Di dân Do thái Trung ương và chịu trách nhiệm tổng quát về việc di dân Do thái”.
Việc “vận dụng” có hiệu quả các người Do thái tại Áo quốc đã tự động biến hắn ta thành một ứng cử viên điều khiển các chiến dịch tương tự tại
https://thuviensach.vn
Tiệp khắc sau khi quân Quốc xã chiếm đóng nước này. Và hắn ta lưu lại Prague cho đến cuối năm 1939.
Cũng trong lúc đó, nước Ba lan đã bị xâm chiếm và tầm hoạt động bài Do thái đã tăng lên một cách đáng kể do sự cưỡng đoạt của Đức trên Cộng đồng Do thái rất quan trọng tại xứ này. Người ta kêu gọi đến chuyên viên già kinh nghiệm và đáng tin cậy, người tổ chức khéo léo công việc phân phối dân Do thái. Vào tháng giêng năm 1940, Adolf Eichmann được bổ nhiệm về Tổng hành dinh Cơ quan R.S.H.A., ở Bá linh, như là người chịu trách nhiệm của Sở đặc trách về các vấn đề Do thái của cơ quan Getstapo. Hắn ta có nhiệm vụ áp dụng chính sách Quốc xã đối với người Do thái tại Đức và tại tất cả các lãnh thổ bị Đức chiếm đóng. Văn phòng của Eichmann trở thành Bộ chỉ huy việc thực hiện kế hoạch chính – “Giải pháp cuối cùng của vấn đề Do thái. Và, từ trung tâm này, chiếm hết một khu nhà bốn tầng tại số 116 đường Kurfurtenstrasse, Eichmann, đã giăng một màn lưới nhện vĩ đại, nơi mà các người Do thái của 16 nước đã phải bị tóm trong thời gian bốn năm sau đó trước khi bị lưu đày và bị tàn sát.
Trên bảng phân công, cơ quan của Eichmann đã được đặt trong bóng tối một cách cố ý. Thật vậy, những danh từ kín đáo cũng đã được chọn lựa để che đậy những việc làm khủng khiếp của bọn Quốc Xã, chẳng hạn như – “Giải pháp cuối cùng” cho việc tận diệt, “Đối xử Đặc biệt” cho hình phạt phải vào phòng hơi ngạt,”Hành động” cho các cuộc thảm sát tại chỗ, cũng như cơ quan của Eichmann được gọi một cách đơn giản là Ban “IV B 4 của R.S.H.A.”
R.S.H.A., Cơ quan An ninh Trung ương của Đức Quốc Xã được tổ chức thành bảy ban mà mỗi ban được chỉ định bằng danh từ Đức Amt, có nghĩ là Nha và bằng một con số La mã. Như vậy Ban một của R.S.H.A., lo về việc huấn luyện, đào tạo, về nhân viên và về tổ chức, mang tên là Amt I. Ban bốn được gọi là Amt IV. Nhưng Amt IV cũng được biết dưới một cái tên đã có tiếng tăm khủng khiếp trên toàn thế giới: Cơ quan Getstapo. Nhiệm vụ
https://thuviensach.vn
của nó tại R.S.H.A. đã được chính thức định nghĩa như “Điều tra chống lại những kẻ đối nghịch”. Sở của Eichmann trực thuộc cơ quan Getstapo.
Amt IV gồm bảy nhóm, mỗi nhóm được chỉ định bằng một chữ: Amt IV A, Amt IV B… Eichmann ở tại Amt IV B.
Amt IV B lại được chia thành nhiều phân bộ, mỗi phân bộ được định bằng những con số đơn giản: IV B 1, IV B 2… Eichmann đứng đầu IV B 4, cơ sở lo về các vấn đề Do thái tại cơ quan Getstapo.
Cơ quan Getstapo, Amt IV là ngành có uy quyền bậc nhất của R.S.H.A.. Phân bộ IV B 4 là cơ sở có uy quyền nhất của cơ quan Getstapo.
Getstapo là chữ viết tắt của Geheime Staats-polizei; Cảnh sát Bí mật Quốc gia. Đó là tên của nó khi được Goering thành lập tại Phổ năm 1933. Nhưng dưới thời Himmler và Heydrich, nó trở thành một công cụ mạnh mẽ của bọn SS và cuối cùng trong tư cách là một bộ phận của cơ quan R.S.H.A., nó đã trở thành theo từ ngữ của William L.Shirey, trong một tác phẩm của ông L’ascencion et la chute du Troisième Reich, một tai họa “với quyền sinh sát trên mọi người dân Đức”.
Vào khoảng giữa các năm 30, Tòa án Hành chính Tối cao của Phổ đã tuyên cáo các chỉ thị và hành động của cơ quan Getstapo khỏi phải chịu sự tái thẩm của Tòa án. Cơ quan Getstapo được hưởng qui chế này cho đến lúc kết cuộc. Việc này có nghĩa là lời nói của cơ quan Getstapo cũng như của Hitler, là luật lệ. Những mệnh lệnh của Eichmann, đến từ một sở của cơ quan Getstapo cũng là luật.
Trong một bản tài liệu được trình bày như Tài liệu 1852-PS tại Tòa án Nuremberg mang tên là “Cơ cấu của Cảnh sát Đức”, R.S.H.A. được coi như là đã được trực tiếp kiểm soát qua cơ quan Getstapo tất cả các hệ thống Cảnh sát tại Đức và tại các lãnh thổ chiếm đóng, kể cả Cảnh sát An ninh, Cảnh sát Hình sự và Cảnh sát Biên phòng. Một thí dụ được lấy một cách
https://thuviensach.vn
ngẫu nhiên trên bảng này cho thấy cơ quan Getstapo có thể ra lệnh cho: Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của SS và Cảnh sát; Các Thanh tra của Cảnh sát Đặc biệt (S.P.) và cá Sở An ninh (S.D.); Các Thanh tra Cảnh sát thường; Các phòng của Sở An ninh; Các phòng của Cảnh sát Quốc gia; Các phòng và các đồn của Cảnh sát Biên phòng; Các phòng của Cảnh sát Hình sự. Trong lãnh vực An ninh và Cảnh sát, cơ quan R.S.H.A. cũng có thể đưa chỉ thị cho các vị Toàn quyền Đức tại các lãnh thổ bị chiếm đóng.
Đó là quyền lực, chắc chắn là như vậy. Adolf Eichmann có thể dựa vào hệ thống quyền lực này cho việc thi hành các mệnh lệnh của hắn ta. Bộ máy đầy uy quyền này bao trùm toàn cõi nước Đức và các lãnh thổ chiếm đóng thuộc quyền sử dụng của hắn ta.
Đó là điều đã làm cho việc tận diệt rất nhiều người Do thái đã có thể thực hiện trong một thời gian tương đối ngắn như thế. Một lệnh duy nhất phát ra từ IV B 4 của Eichmann có thể được truyền đạt đến tất cả các nhà hữu trách trong tất cả các vùng có Đức Quốc xã kiểm soát. Nó được sự chuẩn y và sự tán đồng của cơ quan Getstapo. Hiện nay tại Israel (Quốc gia Do thái) có nhiều tài liệu cho thấy lệnh này đã được truyền đi đến các cấp thẩm quyền nào và mức độ uy quyền của chúng như thế nào. Các tiêu đè và các đoạn đề mục của vài văn kiện thâu lượm được đã cống hiến một hình ảnh quí báu về cách hoạt động của Eichmann và cơ quan của hắn ta.
Đây là một bưu điệp khẩn do Eichmann ký tên và gửi đi từ Bá linh ngày 31 tháng giêng năm 1942. Nó nằm trong các hồ sơ tại Dusseldorf.
Reichssicherheitschauptamt IV B 4 – 2093/42g(391).
MẬT
“Gởi: Tất cả các Đồn Cảnh sát trong nội địa Đức quốc, kể cả trong vùng Sudètes
Bộ tư lệnh Cảnh sát Vienne.
https://thuviensach.vn
Cơ quan Di dân Do thái Trung ương, Vienne.
(Gởi đặc biệt cho Các Thanh tra S.D. và S.P. tại Đức quốc. Các Thanh tra S.D. và S.P. tại Vienne.)
ĐỀ MỤC VỀ VIỆC DI TẢN NHỮNG NGƯỜI DO THÁI
“Việc di tản những người Do thái được thực hiện trong thời gian gần đây tại nhiều vùng tượng trưng cho bước đầu của giải pháp cuối cùng về vấn đề Do thái tại Đức quốc, các thị trấn Miền Đông và vùng Bảo hộ Bohême – Moravie…”
Tiếp theo là các chỉ thị chi tiết về cách thức phân loại người Do thái theo tuổi tác và phái nam nữ, cách thức tập trung họ lại và chuẩn bị áp tải họ!
Người ta có thể chú ý tới việc phổ biến chỉ thị này và địa vị cao của những người nhận lệnh. Như thế một công tác rộng lớn có thể thực hiện được cùng một lúc.
Một bức Công điện đề ngày 10 tháng tư, đóng dấu MẬT và ký tên Eichmann được gửi đến: Các Bộ chỉ huy Cảnh sát Trung ương tại Vienne, Prague, Bá linh, Hambourg, Brunn, Franfort, Dusseldorf, Hanovre, Munster, Cologne, Breslau, Cassel, Dortmund, Osnabruck, Stuttgart, Nuremberg, Kiel: Các Thanh tra Cảnh sát S.D. và Cơ quan Di dân Do thái Trung ương tại Vienne Prague, Brunn; và các Thanh tra S.D. tại Dantzig.
ĐỀ MỤC VỀ VIỆC DI TẢN NHỮNG NGƯỜI DO THÁI Về di tản những người Do thái tại…. Minsk,.. Riga.
Sự phổ biến rộng lớn này được dùng cho việc thi hành nhất tề chính sách tổng quát, nhưng cũng để thực hiện các chi tiết và thanh toán những đoàn thể đã được xác định. Thí dụ một công điện do Eichmann ký và đề
https://thuviensach.vn
ngày 18 tháng tư năm 1942 tại Bá linh gửi đến Dusseldorf, ghi: “ Về việc di tản người Do thái tại Jzbica, gần Lublin. Ngày áp tải Do thái tại Jzbica đã được ấn định là ngày 22 tháng tư năm 1942”.
Người ta có thể tìm thấy một ví dụ tốt của công việc tham mưu chi tiết và hoàn hảo của sở IV B 4 trong bức điện sau đây đề ngày 3 tháng sáu năm 1942, từ Bá linh:
Nơi nhận: Dusseldorf, Coblence, Cologne và Aix-la Chapelle HỎA TỐC – MẬT.
“Về việc di tản người Do thái về miền Đông
Về việc chở người Do thái về miền Đông. Hỏa xa Quốc gia sẽ cung cấp chuyến xe đặc biệt SDA22 cho ngày 15 tháng sáu năm 1942 từ Coblence, về Jzbica gần Lublin. Cuộc chuyên chở này sẽ gồm có Coblence với 450 người Do thái (kể cả những người bệnh thần kinh của Bệnh viện tâm trí tại Bendorf-sur-le-Rhin); Aix 144 người Do thái; Cologne: 318 người và Dusseldorf có 154 người.
Chuyến xe lửa đặc biệt BA 22 khởi hành ngày 13 tháng sáu năm 1942 vào lúc 2 giờ 8 phút từ Coblence-Lutzel và sẽ chạy ngang qua Cologne lúc 3 giờ 50 và Dusseldorf lúc 5 giờ. Những người Do thái tại Aix-la Chapelle sẽ được chở đến Cologne bằng chuyến xe lửa thường lệ do sự sắp xếp đặc biệt của Sở Hỏa xa Quốc gia. Bộ chỉ huy Cảnh sát tại Dusseldorf được ủy nhiệm việc thông báo cuộc khởi hành về việc chuyên chở toàn bộ. Chúng tôi sẽ gửi đến quí vị những mẫu ấn chỉ cần thiết cho việc khai báo tài sản … Ký tên: Eichmann.
Đôi khi, các cuộc liên lạc tỏ ra rất là tế nhị giữa những nhà hữu trách chiếm đóng Đức và nhà cầm quyền lệ thuộc địa phương – như chính phủ Vichy tại Pháp. Eichmann có một đường dây liên lạc trực tiếp với Bộ ngoại giao Đức để hỏi ý kiến trước khi bắt đầu một hành động chống Do thái. Văn
https://thuviensach.vn
thư khẩn sau đây, đề ngày 9 tháng ba năm 1942 tại Bá linh, được gửi đến Bộ ngoại giao cho viên Cố vấn Tòa Công sứ Rademacher:
Đề mục: việc di tản 1000 người Do thái tại Pháp.
Tham chiếu: Cuộc hội kiến giữa Ngài và chúng tôi ngày 6 tháng ba năm 1942
Chúng tôi có ý định chuyển đến trại tập trung Auschwitz vùng Haute Silésie, 1000 người Do thái đã bị bắt trong các cuộc trả đũa tại Ba lê tiếp theo sau các cuộc tấn công vào các thành phần Quân lực Đức ngày 12 tháng 12 năm 1941.
Sự việc này liên quan đến những người Do thái thuộc quốc tịch Pháp và cũng như những người Do thái không quốc tịch. Việc chuyên chở 1000 người Do thái này, hiện đang bị giam giữ tại một trại tập trung ở Compiègne sẽ diễn ra ngày 23 tháng ba năm 1942 bằng chuyến xe lửa đặc biệt.
Xin Ngài vui lòng cho chúng tôi biết xem công việc này có gặp trở ngại nào không. Eichmann.
Hai ngày sau, một văn thư cũng gởi đến ông Rademacher tham chiếu vào bức Công điện trước và nói thêm rằng ngoài 1000 người Do thái tại Compiègne, 5000 người Do thái khác đã làm cho các nhà hữu trách chú ý và phải được chuyển đến trại tận diệt Auschwitz. Eichmann lại hỏi có trở ngại gì không
Người ta có thể nghĩ rằng người chỉ huy cơ quan có trách nhiệm về chương trình giết người vĩ đại như thế sẽ không bao giờ bận tâm đến những tiểu tiết hoặc đến cá nhân những nạn nhân.. Nhưng tính kỹ lưỡng của Adolf Eichmann và sự hăng hái thực hiện toàn vẹn chính sách của hắn ta đã đưa hắn ta đến việc truy lùng và trừ khử tất cả những người Do thái trong tầm móng vuốt của hắn ta. Đây là một văn thư ngắn mà tôi trưng ra nguyên văn
https://thuviensach.vn
và có liên quan đến một người Do thái Lỗ ma ni có tiếng. Hình như người Do thái này đã kết thúc một cuộc dàn xếp tại chỗ để rời khỏi xứ và như vậy khỏi bị gởi đến trại tận diệt. Sự việc đến tai Eichmann. Đây là phản ứng của ông ta.
IV B 4 – 4538/43
Bá linh SW68, 2 tháng 6 năm 1943
KHẨN
Bộ Ngoại giao
Cố vấn Công sứ Von Thadden
Bá linh W8
Wilhelmstr. 74-76
Đề mục: Việc di trú của tên Do thái Max Auschnitt, công dân Lỗ ma ni, ngụ tại Bucarest
Tham chiếu: Văn thư ngày 28 tháng 5 năm 1943 Inl. II 4370
Vấn đề về liên quan đến việc trên đây, tôi hân hạnh yêu cầu bức điện văn sau đây được gửi đến sứ quán Đức tại Bucarest cho viên Hauptsturmfuhrer SS Richter:
Yêu cầu dùng tất cả phương tiện sẵn có để ngăn ngừa việc di cư của tên Do thái Max Auschnitt, cư ngụ tại Bucarest , và chuẩn bị đưa hắn ta vào các biện pháp chung đang diễn tiến chống Do thái.
Tôi mong được cho biết kết quả.
Ký tên: Eichmann
https://thuviensach.vn
Văn thư này về mọi phương diện cho thấy rõ tánh tình của Eichmann hơn các văn thư khác mang chữ ký của hắn ta. Nó cho thấy hắn ta không phải chỉ là một công chức bình thường hành sự theo lệnh của thượng cấp. Văn thư chỉ rất rõ hắn ta liên tục lùng bắt người Do thái, tham dự vào cuộc theo đuổi một cách hăng hái và nhiệt thành, lúc nào cũng rình mò để tránh từng sơ sót nhỏ trong các bẫy rập mà hắn ta giương ra. Với Adolf Eichmann đứng đầu ban IV B 4 của cơ quan Gestapo, không một người Do thái nào có thể trốn thoát.
https://thuviensach.vn