🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Tặng Nathan https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn LỜI MỞ ĐẦU Bí ẩn Nathan Fawles (báo Le Soir - ngày 4 tháng Ba 2017) Vắng bóng trên văn đàn suốt gần hai chục năm qua, tác giả cuốn Loreleï Strange huyền thoại vẫn thực sự mê hoặc độc giả ở mọi lứa tuổi. Sau khi lui về ở ẩn trên một hòn đảo thuộc Địa Trung Hải, nhà văn nhất quyết từ chối mọi lời mời mọc của giới truyền thông. Sau đây là cuộc điều tra về kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont. Người ta gọi đó là hiệu ứng Streisand: càng tìm cách che giấu bao nhiêu, bạn càng thu hút sự tò mò bấy nhiêu. Kể từ khi đột ngột rút khỏi thế giới văn chương vào năm ba mươi lăm tuổi, Nathan Fawles là nạn nhân của cơ chế tai ác này. Cuộc sống của nhà văn người Mỹ lai Pháp này như được một vầng hào quang huyền ảo bao quanh và làm nảy sinh hàng loạt chuyện ngồi lê đôi mách cùng những lời đồn thổi suốt hai thập kỷ qua. Fawles sinh năm 1964 tai New York, cha là người Mỹ, mẹ là người Pháp, tuổi thơ của ông diễn ra trọn vẹn tại Paris và ông chỉ quay trở lại Mỹ để hoàn thành việc học, trước tiên là tại Học viện Phillips, sau đó là tại Đại học Yale. Tốt nghiệp chuyên ngành Luật và Khoa học Chính trị nhưng sau đó ông lại dốc hết sức mình cho sự nghiệp nhân đạo, với vài năm làm việc trên thực địa cho tổ chức Hành động chống lại nạn đói và Bác sĩ không biên giới, nhất là tại Salvador, Armenia và Kurdistan. Văn sĩ thành công Năm 1993, Nathan Fawles quay trở lại New York và xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Loreleï Strange, hành trình đầu đời của một nữ https://thuviensach.vn thiếu niên bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần. Thành công không đến ngay tức khắc, nhưng chỉ sau vài tháng, nhờ những thông tin truyền miệng - đặc biệt trong giới độc giả trẻ - cuốn tiểu thuyết đã vươn lên đứng đầu danh sách sách bán chạy. Hai năm sau, với cuốn sách thứ hai nhan đề Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn tiểu thuyết hợp xướng uyên bác dày ngót ngàn trang, Nathan Fawles đã đoạt giải Pulitzer và nổi lên như một trong những giọng văn độc đáo nhất của văn đàn Mỹ. Cuối năm 1997, lần đầu tiên tiểu thuyết gia khiến giới văn chương sửng sốt. Sau khi định cư ở Paris, ông xuất bản cuốn sách mới của mình trực tiếp bằng tiếng Pháp. Những kẻ bị sét đánh là một câu chuyện tình đau thương đến xé lòng, nhưng cũng là một suy tưởng về nỗi đau trước cái chết, cuộc sống nội tâm và quyền năng của viết lách. Chính vào dịp này, công chúng Pháp đã thực sự khám phá ra ông, đặc biệt khi ông tham gia một ấn bản đặc biệt của Nồi hầm văn hóa cùng Salman Rushdie, Umberto Eco và Mario Vargas Llosa. Chương trình hồi tháng Mười một năm 1998 này chính là hoạt động truyền thông áp chót của ông. Quả nhiên, bảy tháng sau, khi vừa bước sang tuổi ba mươi lăm, Fawles đã thông báo việc mình quyết định ngừng viết hẳn trong cuộc trả lời phỏng vấn đầy sắc bén với hãng thông tấn AFP. Kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont Kể từ ngày đó, nhà văn vẫn giữ vững quan điểm của mình. Sống trong căn nhà riêng tại đảo Beaumont, Fawles không còn công bố bất kỳ bản thảo nào dù ngắn nhất, cũng không đồng ý trả lời phỏng vấn bất cứ phóng viên nào. Ông còn từ chối mọi đề xuất chuyển thể các tiểu thuyết của mình sang lĩnh vực điện ảnh hoặc truyền hình (mới đây Netflix và Amazon tiếp tục thất bại trong phi vụ này, bất chấp những đề xuất tài chính vô cùng hấp dẫn, theo như lời họ). Chẳng mấy chốc là tròn hai chục năm, sự im lặng chát chúa của “kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont” không ngừng nuôi dưỡng những ảo tưởng. Tại sao Nathan Fawles lại chọn cách tự nguyện rời xa thế giới như vậy khi mới ba mươi lăm tuổi, lại đang ở tột đỉnh vinh quang? https://thuviensach.vn “Làm gì có bí ẩn Nathan Fawles, Jasper Van Wyck, người bấy lâu vẫn là đại diện của nhà văn cam đoan. Chẳng có bí mật nào để khám phá đâu. Đơn giản là Nathan đã chuyển sang làm việc khác. Anh ấy đã ngừng hẳn việc viết lách và đoạn tuyệt với giới xuất bản.” Khi được hỏi về cuộc sống thường nhật của nhà văn, Van Wyck vẫn tỏ ra mập mờ: “Theo như tôi được biết, Nathan đang chuyên chú vào những mối quan tâm riêng.” Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình Để chận đứng mọi trông mong của độc giả, người đại diện này nói rõ rằng tác giả “không còn viết một dòng nào nữa từ hai chục năm nay” và tỏ ra dứt khoát: “Nếu Loreleï Strange thường xuyên được so sánh với Bắt trẻ đồng xanh, thì Fawles lại không như Salinger: trong nhà anh ấy không có két sắt chứa đầy bản thảo. Cũng sẽ không bao giờ có cuốn tiểu thuyết mới nào ký tên Nathan Fawles. Ngay cả sau khi anh ấy qua đời. Đó là điều chắc chắn.” Một lời cảnh báo chẳng đời nào làm nản lòng những kẻ tò mò tìm hiểu thêm. Năm tháng trôi qua, nhiều độc giả lẫn phóng viên đã lên đường tìm tới tận đảo Beaumont để lảng vảng rình mò quanh nhà Fawles. Họ luôn thấy cửa nhà im ỉm đóng. Dân trên đảo dường như cũng sinh nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên tại một nơi mà thậm chí từ trước khi nhà văn chuyển tới sinh sống, câu châm ngôn Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình đã được nâng tầm thành khẩu hiệu. “Tòa thị chính không chia sẻ danh tính cư dân, bất kể nổi tiếng hay không,” viên trợ giúp thị trưởng chỉ nhấn mạnh như vậy. Hiếm người dân đảo nào đồng ý nói về nhà văn. Những người chấp nhận trả lời chúng tôi coi sự hiện diện của tác giả cuốn Loreleï Strange trên đất của họ là chuyện rất đỗi bình thường. “Nathan Fawles không ở ru rú trong nhà mà cũng chẳng co rúm người, Yvonne Sicard, vợ của bác sĩ duy nhất trên đảo, cam đoan. Chúng tôi thường xuyên gặp ông ấy ngồi sau vô lăng chiếc Mini Moke khi tới Ed’s Corner, siêu thị duy nhất của thành phố, để mua sắm.” Nhà văn cũng thường xuyên tới quán rượu trên đảo, “nhất là khi có buổi tiếp phát các trận đấu của đội Olympique Marseille,” chủ quán rượu nói rõ. Một trong những khách quen của quán https://thuviensach.vn nhận xét “Nathan không phải kiểu người cục cằn thô lỗ như báo chí đôi khi miêu tả. Đó đúng ra là một tay đáng mến thông thạo bộ môn túc cầu và chuộng rượu whisky Nhật.” Chủ đề trò chuyện duy nhất có thể khiến nhà văn nổi cáu: “Nếu anh cố gắng mắc nối tới những cuốn sách Fawles viết hoặc tới văn chương, rốt cuộc ông ấy sẽ rời khỏi phòng.” Một khoảng trống trong văn chương Về phần các đồng nghiệp của Fawles, ta thấy nhiều người phục tùng ông vô điều kiện. Thí dụ như Tom Boyd, vốn luôn dành cho ông lòng ngưỡng mộ vô bờ bến. “Tôi nợ Fawles một vài trong số cảm xúc đẹp nhất có được từ việc đọc nên hiển nhiên, ông ấy thuộc số những nhà văn mà tôi mắc nợ.” tác giả Bộ ba thiên sứ cả quyết. Lại thêm ý kiến của Thomas Degalais cho rằng Fawles đang xây dựng ba cuốn sách hết sức khác biệt thành một tác phẩm độc đáo sẽ làm nên lịch sử. “Dĩ nhiên, tôi cũng như tất cả mọi người đều tiếc nuối khi ông ấy rút khỏi văn đàn, tiểu thuyết gia người Pháp bày tỏ. Thời đại chúng ta thấy nhớ giọng văn ông ấy. Tôi mong Nathan quay lại đấu trường bằng cách viết một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng tôi nghĩ chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra.” Quả nhiên, có thể là vậy, nhưng đừng quên rằng Fawles đã chọn câu nói sau trong Vua Lear làm tiểu dẫn cho cuốn tiểu thuyết sau cùng của mình: “Chính những ngôi sao, những ngôi sao trên cao vời vợi kia, đang chi phối cuộc sống của chúng ta.” Jean-Michel Dubois NHÀ VĂN KHÔNG VIẾT NỮA Nhà xuất bản Calmann-Lévy Số 21 phố Montparnasse 75006 Paris Số định danh: 379529 Ông Raphaël Bataille Số 75 đại lộ Aristide-Briand 92120 Montrouge https://thuviensach.vn Paris, ngày 28 tháng Năm năm 2018 Thưa ông, Chúng tôi đã nhận được bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh cao của ông, và xin cảm ơn ông vì đã tin tưởng Nhà xuất bản chúng tôi. Bản thảo của ông đã được ban thẩm định của chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng thật đáng tiếc, bản thảo không phù hợp với dạng tác phẩm mà chúng tôi hiện đang tìm kiếm. Chúng tôi chúc ông sớm tìm ra một nhà xuất bản cho bản thảo này. Trân trọng, Ban thư ký văn học TB: bản thảo của ông vẫn được lưu tại chỗ chúng tôi trong vòng một tháng nữa. Vậy trong trường hợp muốn nhận lại bản thảo này qua đường bưu điện, làm ơn gửi cho chúng tôi một phong bì dán sẵn tem. https://thuviensach.vn 1 Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn, đó là sở hữu một cặp mông rắn chắc. Dany LAFERRIERE Thứ Ba ngày 11 tháng chín năm 2018 1. Gió thổi khiến những cánh buồm đập phành phạch dưới vòm trời chói chang. Quá một giờ chiều đôi chút, chiếc thuyền buồm đã rời bờ biển xứ Var và lúc này đang lướt với vận tốc năm hải lý trên giờ nhằm hướng đảo Beaumont. Tôi ngồi cạnh người lái, gần phòng điều khiển, ngây ngất với bầu không khí ngoài khơi đầy hứa hẹn, mải miết ngắm làn bụi vàng rực lấp lánh trên Địa Trung Hải. Vừa sáng nay thôi, tôi bỏ lại căn hộ một phòng của mình ở Paris để bắt chuyến tàu TGV lúc 6 giờ tới Avignon. Tại thành phố của các Giáo hoàng, tôi bắt xe buýt tới tận Hyères, rồi bắt taxi đến bến cảng nhỏ thuộc Saint Julien-les- Roses, bến cảng duy nhất có phà tới đảo Beaumont. Vì một lần muộn tàu không biết lần thứ bao nhiêu của hãng Đường Sắt Quốc gia Pháp, tôi đã tới muộn năm phút và trễ chuyến phà duy nhất lúc giữa ngày. Trong lúc tôi kéo va li lang thang trên bến cảng, thuyền trưởng của một chiếc thuyền buồm kiểu Hà Lan đang chuẩn bị lên đường ra đảo đón khách đã rộng lòng hảo tâm mời tôi cùng đi. https://thuviensach.vn Tôi vừa tròn hai mươi tư tuổi và cuộc sống riêng đang ở vào một thời điểm phức tạp. Hai năm trước, tuy tốt nghiệp một trường thương mại tại Paris nhưng tôi không tìm công việc liên quan đến chuyên ngành mình được đào tạo. Tôi chỉ theo học chuyên ngành đó để cha mẹ yên tâm chứ bản thân không muốn một cuộc sống suốt ngày dính đến quản trị, marketing hay tài chính. Hai năm trở lại đây, tuy phải loay hoay xoay xở bằng những công việc lặt vặt để trang trải tiền thuê nhà nhưng tôi vẫn dốc toàn bộ năng lượng sáng tạo cho việc hoàn thành cuốn tiểu thuyết Sự rụt rè của những đỉnh cao, vừa bị chừng chục nhà xuất bản từ chối. Tôi đã ghim tất cả những thư từ chối đó lên tấm bảng treo bên trên bàn viết. Mỗi lần găm một cây ghim lên bề mặt gỗ bàn, tôi lại có cảm giác đang cắm nó vào tim mình, bởi đam mê dành cho viết văn lớn bao nhiêu thì nỗi muộn phiền trong tôi cũng chồng chất bấy nhiêu. May mắn thay, tâm trạng buồn bã ấy không bao giờ kéo dài quá lâu. Cho đến thời điểm hiện tại, tôi vẫn luôn thuyết phục được bản thân rằng những thất bại này chỉ là một trạm chờ dẫn tới thành công. Để vững tin, tôi bám víu vào những tấm gương lừng lấy. Stephen King vẫn thường nhắc đi nhắc lại rằng ba mươi nhà xuất bản đã từ chối Carrie. Phân nửa các nhà xuất bản tại London từng thấy tập đầu tiên của Harry Potter “lê thê dài dòng đối với trẻ em”. Trước khi trở thành cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng bán chạy nhất thế giới. Xứ cát của Frank Herbert đã bị loại khoảng hai chục lần. Về phần Francis Scott Fitzgerald, hình như ông đã dùng một trăm hai mươi hai lá thư từ chối các truyện ngắn mà ông gửi đăng tạp chí để giăng khắp bốn mặt tường thư phòng riêng. 2. Nhưng phương pháp Coué(1) này bắt đầu bộc lộ giới hạn. Bất chấp toàn bộ ý chí cá nhân, tôi vẫn khó lòng viết lách trở lại. Không phải hội chứng trang giấy trắng hay việc thiếu ý tưởng khiến tôi tê liệt. Mà chính là cái cảm giác hết sức nguy hại rằng mình không còn tiến bộ được trong viết lách. Cảm giác không rõ mình đang đi tới đâu. Có lẽ tôi cần một cách nhìn nhận mới mẻ về công việc của mình. Một sự hiện diện vừa bao dung vừa https://thuviensach.vn không khoan nhượng. Hồi đầu năm, tôi đã đăng ký một khóa Creative Writing do một nhà xuất bản uy tín tổ chức. Tuy nuôi nhiều hy vọng với trại sáng tác này, tôi vẫn nhanh chóng vỡ mộng. Nhà văn dẫn dắt trại sáng tác - Bernard Dufy, một tiểu thuyết gia từng có thời hoàng kim hồi thập niên 1990 - tự giới thiệu về bản thân như một thợ kim hoàn về văn phong - theo đúng câu từ của ông ta. “Toàn bộ tác phẩm của các bạn phải dựa trên ngôn ngữ chứ không phải dựa trên câu chuyện, ông ta lúc nào cũng lải nhải như vậy. Câu chuyện ở đó chỉ nhằm phục vụ ngôn ngữ. Một cuốn sách không thể có mục đích nào khác ngoài nghiên cứu về hình thức, nhịp điệu, sự hài hòa. Tính độc đáo khả dĩ duy nhất nằm chính ở đó, bởi lẽ, kể từ Shakespeare, mọi câu chuyện đều đã được viết ra rồi.” Khoản tiền 1.000 euro mà tôi tiêu tốn cho bài học viết lách này - trong ba buổi mỗi buổi bốn giờ đồng hồ - đã khiến tôi phát cáu và nhẵn túi. Có lẽ Dufy nói đúng, nhưng cá nhân tôi nghĩ chính xác điều ngược lại: văn phong không phải một mục đích tự thân. Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là biết lôi cuốn độc giả bằng một câu chuyện hay. Một câu chuyện có khả năng bứt độc giả khỏi cuộc sống riêng để phóng chiếu họ vào giữa sự riêng tư và sự thật về các nhân vật. Văn phong chỉ là phương tiện phân bổ câu chuyện và giúp câu chuyện trở nên cuốn hút. Thực ra, tôi hoàn toàn không quan tâm đến lời khuyên của một nhà văn thuộc trường phái kinh viện như Dufy. Có lẽ lời khuyên duy nhất tôi muốn tiếp nhận, lời khuyên duy nhất đủ tầm quan trọng đối với tôi là lời khuyên từ thần tượng bấy lâu của tôi: Nathan Fawles, nhà văn tôi ưa thích nhất. Tôi khám phá ra những cuốn sách của ông vào cuối thời niên thiếu, khi Fawles đã gác bút từ lâu. Những kẻ bị sét đánh, cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông, là do Diane Laborie, cô bạn gái năm cuối trung học, tặng cho tôi làm quà chia tay. Cuốn tiểu thuyết ấy đã khiến tôi rúng động nhiều hơn việc mất đi một tình yêu chưa hẳn đúng nghĩa tình yêu. Tôi đã đọc luôn cả hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông: Loreleï Strange và Một thành phố nhỏ ở Mỹ. Kể từ đó, tôi không còn đọc được gì gây kích thích như thế nữa. https://thuviensach.vn Tôi thấy dường như bằng lối viết độc đáo của riêng ông, Fawles đang trực tiếp nói chuyện với tôi. Những cuốn tiểu thuyết của ông linh hoạt, sống động, mãnh liệt. Vốn chưa từng coi ai là thần tượng, ấy thế mà tôi đã đọc đi đọc lại những cuốn sách ông viết, bởi chúng nói cho tối nghe về chính tôi, về mối quan hệ với những người khác, về những gian truân khi lèo lái đời mình, vì tính dễ tổn thương của con người và cuộc sống bấp bênh của chúng ta. Chúng tiếp thêm cho tôi sức mạnh và nhân khao khát viết trong tôi lên gấp bội. Những năm tiếp theo sau khi Nathan Fawles gác bút, các tác giả khác đã cố gắng lựa theo phong cách của ông, mô phỏng thế giới của ông, bê nguyên xi cách ông xây dựng một câu chuyện hay bắt chước năng lực cảm giác ở ông. Nhưng đối với tôi, không ai có thế bén gót ông. Chỉ có một Nathan Fawles duy nhất. Dù mến mộ ông hay không, người ta vẫn buộc phải thừa nhận rằng Fawles là một tác giả đặc biệt. Dù tình cờ đọc khi không biết tên các giả, cũng chỉ cần lướt qua một trang trong số các cuốn sách của ông là đủ để biết rằng chính ông đã viết nên trang sách ấy. Và tôi vẫn luôn nghĩ dấu hiệu đích thực của tài năng nằm ở đó. Tôi cũng vậy, tôi phân tích kỹ lưỡng các tiểu thuyết của ông để thử tìm ra những bí mật, rồi tôi nuôi tham vọng được tiếp xúc với ông. Mặc dù không chút hy vọng về cơ may nhận được hồi âm dẫu chỉ một lần, tôi vẫn nhiều bận viết cho ông thông qua nhà xuất bản của ông tại Pháp cũng như người đại diện của ông tại Mỹ. Tôi cũng đã gửi cho ông bản thảo của tôi. Thế rồi, cách đây mười ngày, trên bản tin gửi đi từ trang web chính thức của đảo Beaumont, tôi phát hiện ra một thông báo tuyển dụng. La Rose Écarlate(2) hiệu sách nhỏ trên đảo, cần tuyển một nhân viên. Tôi đã trực tiếp ứng tuyển bằng cách gửi mail cho chủ hiệu sách, và ngay ngày hôm ấy, Grégoire Audibert, chủ hiệu sách, đã gọi Facetime cho tôi để thông báo rằng ông chấp nhận hồ sơ ứng tuyển của tôi. Đây chỉ là vị trí làm tạm trong ba tháng. Mức lương không cao, nhưng Audibert đảm bảo cho tôi chỗ ở và hai bữa ăn mỗi ngày tại Fort de Café, một trong những nhà hàng gần quảng trường làng. https://thuviensach.vn Tôi mừng vì có được công việc này, theo những gì tôi ngỡ hiểu được qua lời ông chủ hiệu sách, tôi sẽ có thời gian viết lách trong một khung cảnh gợi nhiều cảm hứng. Và điều này thì tôi dám chắc, công việc mới sẽ mang đến cho tôi cơ hội gặp gỡ Nathan Fawles. 3. Một thao tác của người lái khiến chiếc thuyền buồm giảm tốc độ. - Đất liền, thẳng phía trước! ông ta hét lên, đoạn hất cằm về phía hòn đảo nổi bật phía chân trời. Nằm cách bờ biển xứ Var bốn mươi lăm phút đi tàu, đảo Beaumont trông giống một mảnh trăng lưỡi liềm. Một cung tròn chừng mười lăm cây số bề dài và sáu cây số bề rộng. Hòn đảo luôn được giới thiệu như một hộp nữ trang hoang dã và được bảo tồn. Một trong những viên ngọc của Địa Trung Hải, nơi xen kẽ nào những vũng vịnh nhỏ nước màu lam ngọc, nào những vũng bờ đá, rừng thông và bãi biển cát mịn. Côte d’Azur vĩnh cửu, không khách du lịch, không bê tông hay ô nhiễm. Mười ngày trở lại đây, tôi dành toàn bộ thời gian tra cứu tài liệu thu thập được về hòn đảo. Kể từ 1955, Beaumont thuộc về một gia đình bí ẩn gồm các nhà công nghiệp người Ý, gia đình Gallinari, bước sang đầu thập niên 1960, họ đã đầu tư những khoản tiền khổng lổ vào việc quy hoạch hòn đảo, tiến hành những công trình dẫn nước và đào đắp đất quy mô lớn, đồng thời gây dựng từ con số 0 một trong những bến cảng du thuyền đầu tiên trên bờ biển này. Theo năm tháng, hòn đảo vẫn tiếp tục phát triển theo một đường lối rõ ràng: không bao giờ hy sinh hạnh phúc của dân đảo vì một tính hiện đại mạo xưng. Và đối với dân đảo, mối đe dọa có hai khuôn mặt được xác định rõ: bọn đầu cơ và du khách. Để hạn chế việc xây cất, Hội đồng đảo đã thông qua một quy tắc đơn giản: cố định tổng số công tơ nước. Một chiến lược sao chép những gì thành phố nhỏ Bolinas thuộc bang California đã làm từ lâu. Kết quả, từ ba mươi năm nay, dân số luôn xấp xỉ một ngàn năm trăm người. Ở Beaumont không có văn phòng môi giới bất động sản: một phần tài sản được chuyển https://thuviensach.vn giao trong nội bộ gia đình, và phần còn lại qua chỉ định bổ sung; Du lịch trên đảo được kìm hãm nhờ chế độ kiểm soát đầy cảnh giác việc kết nối với lục địa. Giữa mùa cao điểm cũng như giữa mùa đông, một con tàu duy nhất - con tàu Táo Bạo trứ danh, mà người ta tạm gọi là “phà” - thực hiện mỗi ngày ba chuyến khứ hồi, lúc 8 giờ, 12h30 và 19 giờ từ bến Beaumont về bến Saint-Julien-les-Roses, chỉ vậy thôi chứ không hơn. Mọi thứ được tiến hành theo kiểu cũ: không giữ chỗ trước và luôn ưu tiên cư dân. Nói cho chính xác, Beaumont không thù nghịch với việc du khách tìm đến, nhưng ở đó không có gì được dự kiến dành cho họ. Hòn đảo có cả thảy ba quán cà phê, hai nhà hàng và một quán rượu. Không có khách sạn và phòng trọ trong nhà dân cũng rất hiếm. Nhưng càng khuyên can mọi người đừng đến thì nơi chốn này càng nhuốm thêm màu huyền bí và trở thành một địa điểm nổi tiếng. Bên cạnh dân địa phương sinh sống quanh năm trên đảo còn có các cư dân giàu sụ sở hữu tại đây những nhà nghỉ cuối tuần. Qua nhiều thập kỷ, các nhà công nghiệp và một số nghệ sĩ vẫn mê mẩn khung cảnh hấp dẫn điền viên và thanh bình này. Một chủ doanh nghiệp công nghệ cao và đôi ba nhân vật nổi tiếng trong ngành công nghiệp rượu vang đã thành công trong việc mua lại các biệt thự. Nhưng, bất kể nổi tiếng ra sao hay giàu có đến mức nào, mọi người đều tỏ ra kín đáo. Cộng đồng dân đảo không hẹp hòi trong việc dung nạp các thành viên mới, với điều kiện các thành viên này chấp nhận những giá trị từ cổ chí kim đã tạo nên hồn phách Beaumont. Và chàng, những người mới đến này thường tỏ ra quyết liệt hơn cả trong việc bảo vệ hòn đảo đã tiếp nhận họ. Cái cộng đồng khép kín ấy dù sao cũng gây ra nhiều chỉ trích - thậm chí gây phẫn nộ cho những ai bị loại trừ khỏi đó. Đầu thập niên 1980, chính phủ xã hội chủ nghĩa đã chớm có ý định chuộc lại Beaumont - chính thức là để xếp hạng địa điểm, nhưng trên thực tế là để chấm dứt tình trạng bất tuân thủ của đảo. Tiếp theo đó, một làn sóng phản đối ồ ạt đã buộc chính phủ phải rút lui. Kể từ thời kỳ đó, chính quyền đành chấp nhận một điều: đảo Beaumont là một nơi đặc biệt. Và đúng là nó tồn tại, cách bờ biển xứ Var https://thuviensach.vn vài sải cáp, một thiên đường nhỏ được tắm đẫm bởi những làn nước trong vắt như pha lê. Một mảnh Pháp không hẳn là Pháp. 4. Đặt chân lên đất liền, tôi kéo va li trên bến tàu lát gạch. Cảng du thuyền không lớn lắm, nhưng được quy hoạch hợp lý, náo nhiệt và đầy quyến rũ. Thành phố nhỏ trải rộng xung quanh vịnh, có phần giống một giảng đường bậc thang: các tầng nhà rực rỡ màu sắc lấp lánh dưới vòm trời ánh thép. Ánh sáng chói lóa và cách bố trí của chúng nhắc tôi nhớ tới hòn đảo Hydra ở Hy Lạp mà thời niên thiếu tôi đã cùng cha mẹ tham quan, nhưng lát sau, trong lúc lang thang tản bộ qua các ngõ hẻm hẹp và dốc, tôi lại thấy như mình đang ở nước Ý của thập niên 1960. Sau nữa, khi đã lên cao, lần đầu tiên tôi nhìn thấy bãi biển cùng những cồn cát trắng, và tôi nghĩ đến những khoảng cát mênh mông ở Massachusetts. Trong lần tiếp xúc đầu tiên với hòn đảo - trong khi bánh vali kêu vang lên trên nền đá lát của những trục đường lớn dẫn tới trung tâm thành phố tôi hiểu rằng tính chất đặc biệt và ma lực của Beaumont nằm ngay trong tập hợp khó nắm bắt này. Beaumont là một chốn muôn hình vạn trạng như tắc kè hoa, một địa điểm độc nhất vô nhị và không thể xếp hạng mà muốn phân tích hay giải thích cũng đành vô vọng. Tôi nhanh chóng tới được quảng trường trung tâm. Lần này, với dáng dấp một ngôi làng xứ Provence, nơi đây dường như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Giono. Quảng trường Martyrs là trung tâm đầu não của Beaumont. Một bãi đất rộng rợp bóng cây, viền quanh là một tháp đồng hồ, một đài tưởng niệm vong linh những người đã khuất, một đài phun nước róc rách và một sân chơi bi sắt. Nép dưới những lùm nho, hai nhà hàng của đảo nằm sát vách nhau: Un Saint Jean Hiver(3) và Fort de Café(4). Nơi sân hiên quán thứ hai, tôi nhận ra vóc dáng gầy đét cửa Grégoire Audibert đang ăn nốt món atisô xốt tiêu. Nom ông giống một thầy giáo tiểu học trường phái cũ: chòm râu cằm muối tiêu, áo gi lê ngắn, áo vest dài bằng vải lanh nhàu nhĩ. https://thuviensach.vn Ông chủ hiệu sách cũng đã nhận ra tôi, liền trang trọng mời tôi ngồi cùng bàn, gọi cho tôi một ly nước chanh như thể tôi mới mười hai tuổi. - Tôi chẳng thà báo cho cậu biết ngay: đến cuối năm tôi sẽ đóng cửa hiệu sách, ông thông báo cho tôi không hề rào trước đón sau. - Thế là thế nào? - Chính vì lý do này mà tôi tìm một nhân viên đấy: để sắp xếp sách vở, đôi chút về kế toán và một cuộc kiểm kê vĩ đại sau cùng. - Ông xác định đóng hẳn cửa hiệu sao? Ông gật đầu đoạn dùng miếng bánh mì vét nốt chút dầu ô liu còn sót lại. - Nhưng tại sao chứ? - Không cầm cự được nữa chứ sao. Hoạt động chỗ tôi sụt giảm liên tục theo năm tháng và sẽ không ổn thỏa hơn được. Rốt cuộc, cậu thừa biết tình hình rồi đấy: chính quyền công lặng lẽ để những gã khổng lổ Mạng, vốn không trả thuế má gì cho nước Pháp, mặc sức phát triển hưng thịnh. Ông chủ hiệu sách thở dài, trầm ngâm tư lự vài giây rồi nói thêm, nửa cam chịu số phận nửa, khiêu khích: - Với lại, chúng ta hãy thực tế lên: tại sao phải tự chuốc khổ vào thân để tới một hiệu sách trong khi cậu có thể đặt giao một cuốn sách tới tận nhà mình chỉ bằng ba nhát bấm trên iPhone kia chứ! - Có đầy lý do mà! Ông đã thử tìm người mua lại hiệu sách chưa? Audibert nhún vai. - Chẳng ai buồn quan tâm đến chuyện đó đâu. Ngày nay, chẳng gì sinh lời kém như sách vở. Tiệm của tôi không phải hiệu sách đầu tiên đóng cửa, càng không phải hiệu sách cuối cùng. Ông dốc phần rượu vang còn lại trong chiếc bình nhỏ vào ly rồi uống một hơi cạn sạch. - Để tôi dẫn cậu đi thăm La Rose Écarlate, ông nói đoạn gấp khăn ăn lại rồi đứng dậy. https://thuviensach.vn Tôi theo bước ông băng qua quảng trường đến tận hiệu sách. Quầy kính trông thảm đạm muốn chết, trên đó bày những cuốn sách hẳn đã phủ bụi từ nhiều tháng nay. Audibert đẩy cửa rồi tránh sang một bên để nhường lối cho tôi. Khung cảnh bên trong hiệu sách cũng thảm thê không kém. Màn trướng giăng mắc khiến nơi đây không còn chút ánh sáng. Các tầng giá bằng gỗ hồ đào dĩ nhiên trông rất đẹp, nhưng trên đó chỉ trưng những cuốn sách tham khảo vô cùng kinh điển, sắc sảo, thậm chí là bày cho oai. Văn hóa với những gì kinh viện nhất của nó. Giống như đang bắt đầu xác định tính cách nhân vật, trong một thoáng, tôi hình dung Audibert sẽ lên cơn trụy tim nếu người ta buộc ông phải bán sách khoa học giả tưởng, kỳ ảo hay manga. - Tôi sẽ cho cậu xem phòng riêng của cậu, ông nói rồi chỉ một cầu thang gỗ ở cuối tiệm. Ông chủ hiệu sách có căn hộ riêng trên tầng hai. Chỗ của tôi là ở tầng ba: căn hộ một phòng áp mái trải hết chiều dài. Khi mở những ô cửa lửng kêu kẽo kẹt, tôi vừa ngạc nhiên vừa vui sướng vì phát hiện thấy một ban công sân thượng trông ra quảng trường. Tầm nhìn ra biển đẹp đến ngoạn mục vực dậy tinh thần tôi đôi chút. Một mê cung những ngõ hẻm uốn lượn giữa những công trình màu hoàng thổ xây bằng đá đã phủ đầy rêu mốc trước khi dẫn ra đến bờ biển. Xếp dọn đồ đạc xong, tôi xuống hiệu sách gặp Audibert để biết ông thực sự chờ đợi gì ở tôi. - Wifi hoạt động không ổn lắm, ông vừa cảnh báo vừa bật chiếc máy tính để bàn cũ kỹ. Phải thường xuyên khởi động lại modem để trên gác. Trong lúc chờ chiếc máy tính thức dậy, ông chủ hiệu sách cắm một bếp điện nhỏ rồi đổ đầy bình chứa của chiếc ấm pha cà phê moka. - Một tách cà phê nhé? - Rất sẵn lòng ạ. Trong khi ông pha cho chúng tôi hai tách cà phê, tôi tha thẩn đi khắp hiệu sách. Trên tấm bảng gỗ bẩn đằng sau bàn viết có ghim những trang https://thuviensach.vn nhất cũ kỹ của tờ Livres Hebdo ra từ thời Romain Gary vẫn còn viết (tôi chỉ nói hơi quá một chút thôi…). Tôi những muốn mở toang mấy tấm rèm, gỡ những tấm thảm màu tía sờn mòn, cải tổ lại toàn bộ các kệ giá và bàn trưng bày sách. Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, Audibert lên tiếng: - La Rose Ecarlate có từ năm 1967. Bây giờ hiệu sách trông vớ vẩn thế thôi chứ ngày xưa, đây là một tổ chức đúng nghĩa. Nhiều tác giả, cả người Pháp lẫn ngoại quốc, từng tới đây giao lưu hoặc ký tặng sách. Ông lấy từ ngăn kéo ra một cuốn sổ mạ vàng bìa da rồi đưa cho tôi như muốn giục tôi lật xem. Nhìn những bức ảnh chụp, quả nhiên tôi nhận ra Michel Tournier, J.M.G. Le Clézio, Françoise Sagan, Jean d’Ormesson, John Irving, John Le Carré và… Nathan Fawles. - Ông sẽ đóng cửa hiệu sách thật ư? - Không luyến tiếc, ông khẳng định. Mọi người không còn đọc sách nữa, là vậy đấy. Tôi chỉnh lại: - Có lẽ mọi người đọc kiểu khác chăng, nhưng họ vẫn đọc mà. Audibert vặn nút tắt bếp để ngắt tiếng rít của chiếc ấm pha cà phê kiểu Ý. - Rốt cuộc, cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi đấy. Tôi không nói với cậu về giải trí mà về văn học đích thực. Dĩ nhiên rồi, cái thứ “văn học đích thực” trứ danh ấy… Với những người như Audibert, luôn có một thời điểm để cụm từ này - hoặc cụm “nhà văn đích thực” - lại được mang ra tranh luận. Thế mà tôi chưa từng cho bất cứ ai cái quyền bảo tôi nên đọc cái gì hay không. Vì tôi thấy dường như cái cung cách tự phong cho mình chức thẩm phán để quyết định cái gì là văn học và cái gì không này thật tự phụ vô chừng. - Cậu có biết nhiều độc giả đúng nghĩa xung quanh mình không? ông chủ hiệu sách bỗng hăng lên. Tôi đang nói với cậu về những độc giả thông tuệ https://thuviensach.vn dành một khoảng thời gian đáng kể cho việc đọc những cuốn sách nghiêm túc ấy. Không đợi tôi trả lời, ông tiếp tục bốc hỏa: - Nói thẳng giữa chúng ta với nhau nhé, ở Pháp còn lại bao nhiêu độc giả đúng nghĩa đây? Mười nghìn? Năm nghìn? Có lẽ ít hơn đấy. - Tôi thấy ông hơi bi quan. - Không đâu, không hề! Cần phải thừa nhận chuyện này: chúng ta đang bước vào một hoang mạc văn học. Ngày nay, tất cả mọi người đều muốn trở thành nhà văn và không còn ai đọc sách nữa. Để thoát khỏi cuộc trò chuyện, tôi chỉ cho ông thấy bức ảnh chụp Fawles dán trong album. - Nathan Fawles này, ông quen ông ấy sao? Audibert nhíu mày, môi bĩu ra vẻ nghi hoặc. - Đôi chút. Rốt cuộc, nếu chỉ chừng ấy thôi đã là quen biết Nathan Fawles… Ông rót cho tôi một tách cà phê đậm đặc như mực viết. - Fawles tới đây vào năm 1995 hay 1996 gì đó để ký tặng sách, đó là lần đầu tiên ông ấy đặt chân lên đảo. Ông ấy đã lập tức phải lòng nó. Thậm chí chính tôi đã giúp ông ấy mua nhà, căn biệt thự Nam Thập Tự. Nhưng sau đó, mối quan hệ giữa chúng tôi trở nên gần như không tồn tại. - Thi thoảng ông ấy vẫn tới hiệu sách chứ ạ? - Không, không bao giờ. - Nếu tôi tới gặp Fawles, ông có nghĩ ông ấy sẽ đồng ý ký tặng tôi một cuốn sách không? Audibert lắc đầu thở dài: - Tôi thực lòng khuyên cậu quên cái ý tưởng đó đi: đấy là cách tốt nhất để cậu lãnh một phát súng. PHỎNG VẤN NATHAN FAWLES DO HÃNG THÔNG TẤN AFP THỰC HIỆN https://thuviensach.vn AFP - ngày 12 tháng Sáu năm 1999 (trích đoạn) Anh khẳng định với chúng tôi rằng ở tuổi ba mươi lăm, đang tột đỉnh vinh quang, thì anh đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp tiểu thuyết gia của mình sao? Đúng thế, tôi đã hoàn toàn kết thúc sự nghiệp ấy rồi. Tôi viết văn nghiêm túc từ mười năm nay. Suốt mười năm đó sáng nào tôi cũng ngồi rịt trên ghế, mắt dán vào bàn phím. Tôi không muốn cuộc sống đó nữa. Anh đã quyết định dứt khoát? Đúng vậy. Nghệ thuật thì dài mà cuộc đời thì ngắn. Thế mà vừa năm ngoái, anh vẫn thông báo mình đang viết một cuốn tiểu thuyết mới có nhan đề tạm là Một mùa hè hất khả chiến bại… Dự án đó không vượt qua được giai đoạn phác thảo và tôi đã từ bỏ luôn rồi. Anh nhắn nhủ điều gì đến đông đảo độc giả đang chờ đợi tác phẩm tiếp theo của anh? Nhắn rằng họ hãy thôi chờ đợi. Tôi sẽ không viết sách nữa. Họ hãy đọc các tác giả khác. Có thiếu gì đâu. Viết văn có khó không? Có, nhưng chắc chắn không khó bằng nhiều công việc khác. Điểm phức tạp và cội nguồn âu lo nằm ở phương diện phi lý của việc viết: không phải vì bạn đã viết ba cuốn tiểu thuyết thì bạn sẽ biết viết cuốn thứ tư. Không có phương pháp, quy tắc, lộ trình có định hướng. Mỗi lần bạn bắt tay vào viết một cuốn tiểu thuyết mới, luôn là một cú nhảy vào nơi chưa biết. Chính xác thì anh biết làm gì ngoài viết văn? Có vẻ như tôi nấu món ragu bê rất ngon. Anh có nghĩ những cuốn tiểu thuyết của mình sẽ được truyền lại cho đời sau không? Tôi rất hy vọng là không. Văn học có thể đóng vai trò gì trong xã hội đương đại? https://thuviensach.vn Tôi chưa bao giờ tự đặt ra cho mình câu hỏi này và hôm nay tôi cũng không có ý định bắt đầu làm vậy. Anh cũng đã quyết định sẽ không trả lời phỏng vấn nữa? Tôi đã trả lời phỏng vấn quá nhiều rồi… Đây là một sự trui rèn xuyên tạc không có ý nghĩa gì nhiều, ngoại trừ việc quảng bá. Thường xuyên nhất - nếu không muốn nói là lúc nào cũng vậy -, những lời lẽ của bạn được thuật lại một cách thiếu chính xác, bị cắt xén, lệch hẳn khỏi ngữ cảnh. Tôi đã tìm kiếm trong vô vọng mà không vừa lòng chút nào với việc “giải thích” các tiểu thuyết mình viết, và càng không hài lòng với việc trả lời những câu hỏi liên quan đến ưu tiên chính trị hay cuộc sống riêng tư của bản thân. Thế nhưng biết về tiểu sử của các nhà văn mà ta ngưỡng mộ lại cho phép hiểu đúng hơn những gì họ viết… Đồng quan điểm với Margaret Atwood, tôi nghĩ rằng muốn gặp gỡ một nhà văn vì ta yêu thích cuốn sách anh ta viết cũng giống như muốn gặp một con ngỗng vì ta yêu thích món gan ngỗng. Nhưng không phải chính đáng sao nếu muốn hỏi một nhà văn về ý nghĩa công việc của anh ta? Không, việc này không chính đáng. Mối quan hệ duy nhất với nhà văn có thể chấp nhận được, đó là đọc anh ta. https://thuviensach.vn 2 Học cách viết Nghiệp nhà văn khiến nghiệp nài ngựa hiện ra như một vị trí ổn định. John STEINBECK Một tuần sau Thứ Ba ngày 18 tháng chín năm 2018 1. Đầu cúi thấp, hai bàn tay quặp chặt ghi đông, tôi đạp dấn những cú pê đan cuối cùng để lên tới đỉnh ở đầu Đông hòn đảo. Tôi đổ mồ hôi hột. Chiếc xe đạp tôi thuê dường như nặng cả tấn và chiếc ba lô tôi đeo như cứa vào vai tôi. Tôi không cần đợi lâu, đến lượt tôi phải lòng Beaumont. Đã tám ngày kể từ khi sống ở đây, tôi tranh thủ những lúc rảnh rỗi để khảo sát khắp đảo và tập quen địa hình. Hiện tại, tôi gần như thuộc lòng bờ biển phía Bắc của Beaumont, ở đó có bến cảng, phố chính và những bãi biển đẹp nhất. Lổn nhổn toàn vách và mỏm đá, bờ biển phía Nam khó tiếp cận hơn, hoang dã hơn, nhưng đẹp không kém. Tôi mới chỉ mạo hiểm lai vãng tới đó một lần duy nhất, trên bán đảo Sainte-Sophie, để nhìn thấy tu viện cùng tên, nơi vẫn còn sinh sống chừng hai chục tu sĩ dòng thánh Benedict. Ở phía ngược lại, mũi Safranier nơi lúc này tôi đang tới không nằm trên Strada Principale(5) con đường dài chừng bốn chục cây số chạy vòng quanh https://thuviensach.vn đảo. Để đến được đấy, phải vượt qua bãi biển cuối cùng ở phía Bắc - bãi Vịnh Bạc - rồi đi tiếp hai cây số nữa trên con đường đất hẹp nằm giữa rừng thông. Theo những lời chỉ dẫn mà tôi lượm lặt được trong tuần, lối vào khu đất của Nathan Fawles nằm ở cuối con đường vốn rất hợp với cái tên ngộ nghĩnh là đường mòn của những nhà thực vật học này. Khi rốt cuộc cũng tới nơi, tôi chỉ thấy một cánh cổng nhôm lồng khít trong bức tường bao cao ngất bằng phiến thạch. Không có hộp thư cũng chẳng có bất kỳ ghi chú nào về tên chủ sở hữu. Về lý thuyết, ngôi nhà mang tên Nam Thập Tự, nhưng cái tên này chẳng được thể hiện ở bất cứ đâu. Duy chỉ có vài tấm biển nồng nhiệt chào đón bạn: Nhà riêng, Cấm vào, Chó dữ, Khu vực có camera giám sát… Thậm chí còn chẳng có cách nào để bấm chuông hay thông báo về sự hiện diện của mình. Thông điệp hết sức rõ ràng: “Bất kể bạn là ai, bạn cũng không được chào đón.” Tôi bỏ xe đạp lại rồi men theo chân tường bao. Đến một lúc, khu rừng nhường chỗ cho một khoảng cây bụi um tùm những thạch thảo, sim và oải hương dại. Sau năm trăm mét, tôi ra tới một vách đá dốc thẳng xuống biển. Bất chấp nguy cơ ngã tan xương, tôi trượt trên những mỏm đá cho tới khi tìm thấy một điểm tựa. Tôi khó nhọc đi dọc một vách đá mà rốt cuộc tôi cũng có thể vắt chân bước qua ở chỗ vách bớt dốc hơn. Vượt qua chướng ngại ấy, tôi tiếp tục đi theo bờ biển chừng năm chục mét nữa, rồi sau khi vòng qua một khối đá, rốt cuộc tôi cũng trông thấy nó: nhà của Nathan Fawles. Được xây trên sườn vách đá, căn biệt thự như được tạc trong đá. Theo truyền thống vĩ đại của kiến trúc hiện đại, đó là một hình hộp được kẻ sọc bằng những tấm lát bê tông cốt thép để thô kiểu tháo ván khuôn. Ba tầng nhà sừng sững, các sân hiên được xây bên sườn nhà và đảm bảo lưu thông bằng một cầu thang đá dẫn thẳng ra biển. Khối móng nhà dường như liền với vách đá. Nhà được bố trí một loạt cửa sổ kính liền, giống như trên một chiếc tàu chở khách. Cánh cửa chính vừa cao vừa rộng giúp người ta đoán https://thuviensach.vn ra nó được dùng làm kho chứa tàu. Phía trước nhà là một ụ nổi bằng gỗ, cuối ụ có buộc một chiếc thuyền máy vỏ gỗ bóng loáng. Trong khi tiếp tục thận trọng tiến lên trên các mỏm đá, tôi ngỡ trông thấy một bóng người đang di chuyển trên sân hiên. Có thể nào đó chính là Fawles không nhỉ? Tôi khum tay che phía trên mắt để cố nhìn cho rõ bóng người. Đó là bóng một người đàn ông đang… tì một khẩu súng trên vai. 2. Tôi vừa kịp lao vào nấp đằng sau một mỏm đá thì một phát súng vang rền không trung. Phía sau tôi, cách chừng bốn năm mét, tác động của viên đạn làm bắn ra nhưng manh vỡ sắc nhọn nổ lốp đốp bên tai tôi. Tôi ở đó, lả đi chừng hơn một phút. Tim đập thình thịch. Toàn bộ cơ thể tôi run rẩy và một tia mồ hôi chảy dọc sống lưng. Audibert không nói dối. Fawles đã hoàn toàn phát điên và thẳng tay nã đạn vào những vị khách không mời dám lai vãng tới lãnh địa của ông. Tôi vẫn nằm ẹp xuống đất; không dám thở nữa. Sau hành động cảnh báo đầu tiên này, tiếng gọi của lý trí thét bảo tôi nên vắt chân lên cổ mà cháo chạy ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi quyết định không chùn bước. Trái lại, tôi nhỏm dậy và lại tiếp tục tiến về phía ngôi nhà. Lúc này Fawles đã xuống tầng dưới, trên phiến đá lát được đắp vun nhô cao hơn hẳn các mỏm đá. Phát đạn thứ hai trúng một thân cây đã bị gió quật đổ. Súc gỗ nổ tung thành những chùm gỗ chết sượt qua mặt tôi. Tôi chưa bao giờ sợ đến thế. Tôi ngoan cố, gần như bất chấp bản thân, vẫn cứ nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác. Nathan Fawles, tác giả những cuốn tiểu thuyết mà tôi xiết bao mến mộ, không thể là một kẻ sát nhân tiềm tàng được. Để thức tỉnh tôi hiệu quả hơn, phát đạn thứ ba làm bụi bay tung lên chỉ cách đôi giày Converse tôi đi năm mươi phân. Chẳng bao lâu, tôi chỉ còn cách Fawles vài mét. - Biến đi! Ngươi đang xâm phạm lãnh địa riêng đấy! ông lớn tiếng từ trên phiến đá. - Đó không phải là lý do để nã súng vào tôi như vậy! - Với ta thì đó chính là lý do! https://thuviensach.vn Mặt trời rọi thẳng vào mắt tôi. Bóng Fawles nổi bật trong ánh ngược sáng, không thể nhìn thấy rõ mặt ông. Tầm vóc trung bình nhưng hình thể rắn chắc, ông đội mũ cói rộng vành và đeo kính râm ánh phản chiếu phớt xanh. Nhất là, ông vẫn chĩa súng về phía tôi, sẵn sàng nhả đạn. - Ngươi đến đây làm quái gì thế? - Tôi đến gặp ông, ông Fawles ạ. Tôi cởi ba lô đang đeo ra để lấy ra tập bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh cao. - Tôi tên là Raphaël Bataille, Tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi mong ông đọc nó rồi góp ý giúp tôi. - Ta cóc quan tâm đến cuốn tiểu thuyết của ngươi. Và chẳng điều gì cho phép ngươi tìm tới nhà ta quấy rầy cả. - Tôi quá sức tôn trọng ông, đâu thể quấy rầy ông được. - Thế nhưng đó lại là điều ngươi đang làm đấy. Nếu thực sự tôn trọng ta thì hãy tôn trọng cả quyền không bị làm phiền của ta đi. Một con chó tuyệt đẹp - giống golden retriever lông vàng óng - chạy tới chỗ Fawles đang đứng trên sân hiên rồi sủa về phía tôi. - Tại sao ngươi vẫn tiếp tục tiến bước trong khi ta đang nhắm bắn ngươi nhỉ? - Tôi biết là ông sẽ không giết tôi đâu. - Tại sao? - Vì ông đã viết Loreleï Strange và Những kẻ bị sét đánh. Vẫn lóa mắt vì sấp bóng, tôi nghe thấy ông cười gằn. - Nếu ngươi tin rằng các nhà văn sở hữu những phẩm chất đạo đức mà họ gán cho các nhân vật của mình thì ngươi thực sự ngây thơ. Thậm chí còn hơi ngu ngốc. - Ông nghe này, tôi chỉ muốn nghe lời khuyên của ông thôi. Để cải thiện trình độ viết lách của mình. https://thuviensach.vn - Những lời khuyên ư? Nhưng chẳng bao giờ có lời khuyên nào khiến một nhà văn tốt hơn cả! Nếu có được ba xu óc phán đoán thì có lẽ ngươi đã ngộ ra điều ấy. - Quan tâm đến người khác đôi chút cũng không gây hại cho ai mà. - Chẳng ai có thể dạy ngươi viết cả. Đó là thứ mà ngươi phải tự mình học lấy. Vẻ trầm ngâm, Fawles bớt đề phòng trong giây lát, xoa đầu con chó trước khi nói tiếp: - Được rồi, nếu muốn một lời khuyên thì ngươi có nó rồi đấy. Giờ thì xéo đi. - Tôi có thể để bản thảo của tôi lại cho ông được không? tôi hỏi đoạn lấy từ trong ba lô ra tập giấy rời đã được đóng thành quyển. - Không, ta sẽ không đọc đâu. Không có chút cơ may nào đâu. - Chết tiệt thật, ông chẳng rộng lượng chút nào! - Vẫn với cái giá đó, tuy nhiên ta sẽ cho ngươi một lời khuyên khác: hãy làm gì khác với cuộc đời mình chứ đừng mong trở thành nhà văn. - Bố mẹ tôi lúc nào chẳng nói với tôi như thế. - Chà chà, điều đó chứng tỏ họ đỡ ngốc hơn ngươi. 3. Một cơn gió bỗng kéo thốc một con sóng tới tận mỏm đá nơi tôi đang đứng. Để tránh nó, tôi leo lên một cụm đá khác, điều này khiến tôi càng lại gần nhà văn hơn. Ông lại giương khẩu súng nạp đạn kiểu bơm đang kẹp dưới vai lên. Một khẩu Remington Wingmaster càng kép nòng có rãnh, như đôi khi ta vẫn thấy trong các phim cổ, dù khẩu súng đã được định dạng là súng săn. - Mà ngươi tên gì ấy nhỉ? ông hỏi khi con sóng đá ào qua. - Raphaël, Raphaël Bataille. - Và ngươi bao nhiêu tuổi? - Hai mươi tư ạ. https://thuviensach.vn - Ngươi muốn viết văn từ khi nào thế? - Vốn dĩ xưa nay rồi ạ. Tôi chỉ quan tâm đến việc đó thôi. Tranh thủ lúc ông chú ý, tôi bắt đầu một màn độc thoại hòng giải thích từ ngày bé, việc đọc sách và viết văn đã là những chiếc phao cứu sinh giúp tôi chịu đựng sự tầm thường và phi lý của thế giới như thế nào. Nhờ sách vở, tôi đã tự xây cho mình một thành trì bên trong ra sao, cái thành trì mà… - Ngươi còn lải nhải những điều sáo rỗng đó lâu không? ông ngắt lời tôi. - Đó không phải là những điều sáo rỗng, tôi tự ái phản đối rồi cất lại tập bản thảo vào ba lô. - Giá như hôm nay bằng tuổi ngươi, ta sẽ có những tham vọng khác chứ không muốn trở thành nhà văn. - Tại sao vậy? - Bởi lẽ cuộc sống của một nhà văn là thứ kém mê hoặc nhất trấn đời, Fawles thở dài. Ngươi sống một đời như xác sống, cô độc và tách biệt với những người khác. Cả ngày ngươi mặc nguyên bộ pyjama và hủy hoại đôi mắt mình trước một màn hình, chén pizza nguội ngắt trong lúc trò chuyện với những nhân vật tưởng tượng rốt cuộc sẽ khiến ngươi phát điên. Ngươi mất nhiều đêm đổ mồ hôi sôi nước mắt để viết ra một câu mà ba phần tư lượng độc giả ít ỏi của ngươi thậm chí còn không để ý. Làm nhà văn là thế đấy. - Suy cho cùng, đâu phải chỉ có thế… Fawles tiếp tục nói như thế không nghe thấy gì: - Và điều tệ hại nhất, đó là rốt cuộc ngươi trở nên nghiện cuộc sống thối tha đó bởi lẽ ngươi ảo tưởng rằng với cây bút và bàn phím của mình, ngươi đang trở thành một đấng tạo hóa, có thể vá víu thực tại. - Với ông, nói ra điều này thì dễ thôi. Ông có mọi thứ rồi mà. - Ta có cái gì chứ? - Hàng triệu độc giả, danh tiếng, tiền bạc, những giải thưởng văn chương, những cô gái sẵn sàng lên giường cùng ông. https://thuviensach.vn - Nói thẳng nhé, nếu ngươi viết vì tiền hay vì gái thì hãy chọn một hoạt động khác đi. - Ông hiểu tôi muốn nói gì mà. - Không. Và thậm chí ta còn không biết tại sao ta lại đôi co với ngươi. - Tôi để lại cho ông bản thảo của tôi. Fawles phản đối, nhưng không để mất thời gian, tôi quăng ba lô về phía sân hiên nơi ông đang đứng. Bị bất ngờ, nhà văn cố né người để tránh va chạm. Bàn chân phải bị trượt lôi ông ngã xuống một tảng đá. Ông cố nén một tiếng kêu, tìm cách đứng dậy ngay và buột miệng rủa: - Thổ tả thật. Mắt cá chân của ta! - Tôi ngại quá. Tôi sẽ giúp ông. - Chớ lại gần! Nếu muốn giúp ta, ngươi hãy biến đi càng xa càng tốt và đừng bao giờ quay trở lại! Ông nhặt lại vũ khí rồi ngắm bắn tôi. Lần này, tôi không còn nghi ngờ khả năng Fawles xử bắn tôi tại trận nữa. Tôi quay ngoắt rồi chạy trốn, trượt trên những mỏm đá, dùng hết tay này đến tay kia bám víu, không mấy quan tâm đến việc giữ gìn thể diện nữa, hòng thoát khỏi trận lôi đình của nhà văn. Vừa rời đi, tôi vừa thắc mắc làm thế nào mà ngày hôm nay Nathan Fawles lại có thể trình bày bài diễn văn bất đắc chí đó. Tôi từng đọc nhiều bài phỏng vấn ông thời điểm trước năm 1999. Trước khi rút khỏi văn đàn, Fawles luôn sẵn sàng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Ông vẫn luôn dùng những lời lẽ ân cần, thể hiện tình yêu với việc đọc và viết. Điều gì có thể khiến cho ông thay đổi như vậy? Tại sao một người đàn ông đang ở tột đỉnh vinh quang lại đột ngột buông bỏ tất cả những gì mình thích làm, tất cả những gì xây dựng nên và nuôi dưỡng bản thân ông ta, để tự giam mình trong nỗi cô đơn? Trong cuộc sống của Fawles, điều gì đã đảo lộn đến mức ông từ bỏ tất cả những thứ đó? Một cơn trầm cảm nặng? Một cái tang? Một căn bệnh? Trước giờ chưa ai trả lời https://thuviensach.vn được những câu hỏi này. Điều gì đó mách bảo tôi rằng, nếu có thể khám phá bí ẩn Nathan Fawles, tôi cũng sẽ thực hiện được ước mơ xuất bản một cuốn sách. Quay trở lại khu rừng, tôi cưỡi lên xe đạp để tìm lại đường về thành phố. Ngày của tôi xem ra đã trôi qua hiệu quả. Có lẽ Fawles không đưa ra bài học về viết văn như tôi hằng mong đợi, nhưng ông còn làm tốt hơn thế: ông đã mang đến cho tôi một đề tài tiểu thuyết tuyệt vời và năng lượng mà tôi cần để bắt đầu viết nó. https://thuviensach.vn 3 Danh sách đồ cần mua của các nhà văn Tôi không thuộc đám nhà văn tồi luôn khẳng định chỉ viết cho bản thán. Tất cả những gì một tác giả viết cho bản thân, đó là các danh sách đồ cần mua, mà họ có thể vứt đi khi đã mua xong. Những thứ còn lại (…) đều là thông điệp gửi tới ai đó khác. Umberto ECO Ba tuần sau Thứ Hai ngày 8 tháng Mười năm 2018 1. Nathan Fawles đang bồn chồn không yên. Nửa nằm nửa ngồi trên ghế bành với bàn chân bó bột thẳng đuỗn đặt trên trường kỷ lót vải bông, ông cảm thấy bối rối. Con chó của ông, Bronco - sinh vật duy nhất quan trọng với ông trên đời -, đã biệt tăm từ hai ngày nay. Thi thoảng chú chó giống golden retriever vẫn biến mất, nhưng chỉ một đến hai giờ đồng hồ chứ chưa bao giờ hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa: chú ta đã gặp phải chuyện gì đó. Một vụ tai nạn, một vết thương, một vụ bắt cóc. Đêm hôm trước, Nathan đã gọi điện cho Jasper Van Wyck, tay đại diện người New York - mối liên hệ chính của ông với thế giới và thứ gần giống với một người bạn nhất -, để xin một lời khuyên. Jasper đề xuất gọi cho tất cả những người bán hàng tại Beaumont. Ông ta cũng đã yêu cầu một trong các thành viên thuộc ê kíp của mình soạn một tờ bướm treo thưởng 1.000 https://thuviensach.vn euro cho ai tìm lại được chú chó, rồi gửi tờ bướm đó qua thư điện tử cho toàn ê kíp. Giờ thì chỉ còn phải chờ đợi và chắp tay cầu nguyện nữa thôi. Nathan thở dài nhìn mắt cá chân bó bột. Ông thèm một ly whisky dẫu còn chưa đến 11 giờ trưa. Chỉ tại thằng nhóc Raphaël Bataille ngu ngốc đó mà ông phải ru rú trong nhà đã hai mươi ngày nay. Ban đầu, ông cứ nghĩ chỉ bị bong gân nhẹ và ông sẽ khỏi với một túi đá chườm trên khớp cùng vài viên paracetamol. Nhưng hôm sau ngày thằng nhóc đột nhập, khi thức dậy, ông đã hiểu rằng mọi việc sẽ phức tạp hơn rất nhiều. Không chỉ mắt cá chân của ông chẳng hết sưng mà ông còn không lê nổi bước nào mà không rú lên vì đau. Ông buộc phải quyết định gọi cho Jean-Louis Sicard, vị bác sĩ duy nhất ở Beaumont. Một kẻ kỳ quặc suốt ba mươi năm nay vẫn đi khắp hang cùng ngõ hẻm trên đảo bằng chiếc xe gắn máy cũ kỹ. Chẩn đoán của Sicard không mấy lạc quan. Các dây chằng ở mắt cá chân bị đứt, lớp bao khớp bị rách và một sợi gân bị tổn thương nặng. Sicard lệnh cho ông nghỉ ngơi hoàn toàn. Nhất là bác sĩ đã bó bột chân ông lên tận đầu gối và từ ba tuần nay, chỗ bó ấy khiến ông hoàn toàn phát điên. Fawles chống nạng đi vòng vòng như một con sư tử bị nhốt trong chuồng, và ông phải ngốn thuốc chống đông máu để phòng ngừa. May thay, chưa đầy hai mươi tư giờ nữa, ông sẽ được giải thoát. Sáng nay, từ tinh mơ, chính ông, người vốn hiếm khi dùng điện thoại, đã phải miễn cưỡng gọi cho vị bác sĩ già để chắc chắn rằng ông ta không quên cuộc hẹn giữa họ. Fawles thậm chí còn có gắng mời Sicard đến trong ngày, nhưng nỗ lực của ông đã thất bại. 2. Tiếng chuông điện thoại gắn tường kéo Fawles ra khỏi cơn ngủ lịm. Nhà văn không có điện thoại di động hay địa chỉ mail, cả máy tính cá nhân cũng không, chỉ đúng một chiếc điện thoại có ống nghe cũ kỹ bằng nhựa bakelite gắn cố định vào một cột gỗ chịu lực phân tách không gian giữa phòng khách và phòng bếp. Fawles chỉ sử dụng chiếc điện thoại này để gọi đi, ông https://thuviensach.vn không bao giờ đích thân trả lời các cuộc gọi đến mà để hộp thư thoại ở tầng trên hoạt động. Tuy nhiên, hôm nay, việc chú chó mất tích đã khiến ông vi phạm những thói quen của mình. Ông đứng dậy rồi chống nạng lê ra tận chỗ treo điện thoại. Là Jasper Van Wyck. - Tôi có một tin tuyệt vời đây, Nathan: người ta tìm thấy Bronco rồi! Fawles cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng tận. - Nó ổn chứ? - Rất ổn, người đại diện của ông cam đoan. - Người ta tìm thấy nó ở đâu vây? - Một cô gái đã nhìn thấy nó trên đường, về phía bán đảo Sainte-Sophie, và đưa nó về tiệm Ed’s Corner. - Anh đã bảo Ed dẫn Bronco về cho tôi chưa? - Cô gái nài nỉ muốn tự mình làm việc đó. Nathan cảm thấy sộc lên mùi gài bẫy. Bán đảo nam tận đầu kia Beaumont, ở hướng ngược lại với mũi Safranier. Biết đâu người phụ nữ này bắt cóc con chó hòng tiếp cận ông thì sao nhỉ? Hồi đầu thập niên 1980, nữ phóng viên Betty Eppes đã đánh lừa Salinger bằng cách nói dối danh tính bản thân và biến cuộc trò chuyện tầm thường mà cô ta có được với ông thành một bài phỏng vấn rồi chào bán cho các tờ báo ở Mỹ. - Người phụ nữ này chính xác là ai vậy? - Mathilde Monney. Một người Thụy Sĩ, tôi nghĩ vậy, đang nghỉ hè trên đảo. Cô ta thuê bed & breakfast gần tu viện dòng thánh Benedict. Cô ta là phóng viên của tờ Thời đại tại Genève. Fawles thở dài. Hẳn không thể là cô chủ tiệm hoa, bà chủ hàng thịt, không thể là một nữ y tá hay một cô nàng phi công thương mại… Mà cứ phải là một nữ phóng viên. - Bỏ qua đi, Jasper, tôi có dự cảm chẳng lành với vụ này. https://thuviensach.vn Ông nắm chặt tay rồi đấm vào cây cột gỗ. Ông cần con chó, và Bronco cần ông, nhưng ông không thể lái ô tô đi đón nó được. Đây không phải lý do để mắc bẫy. Nữ phóng viên của tờ Thời đại… Ông nhớ đến một nam phóng viên của tờ báo này xưa kia từng phỏng vấn ông tại New York. Một gã ra cái vẻ am hiểu nhưng thực tình chẳng biết chút gì về tiểu thuyết. Có lẽ đó là những kẻ tệ hại nhất: lũ phóng viên phê bình sách của bạn như đúng rồi trong khi chẳng hiểu gì về nó. - Có lẽ việc cô ta là phóng viên chỉ đơn giản là một sự tình cờ, Jasper gợi ý. - Một sự tình cờ ư? Anh ngốc thật hay anh coi thường tôi đấy? - Nghe này, không có gì phải lo lắng cả, Nathan ạ. Anh chấp nhận cho cô ta đến Nam Tháp Tự, anh nhận lại con chó rồi lập tức đuổi cô ta ra ngoài. Một tay cầm ống nghe, Fawles xoa mắt bằng tay kia để cho mình thêm vài giây suy nghĩ. Ông cảm thấy mình dễ bị tổn thương với cái mắt cá chân bó bột và ghét cái cảm giác phải trải qua một tình huống mà ông không làm chủ được. - Thôi được, tuy thế ông vẫn nhượng bộ. Anh gọi lại cho cô ta đi, gọi lại cho cái cô Mathilde Monney đó. Nói cô ta hãy qua vào đầu giờ chiều rồi chỉ đường để cô ta tới đây. 3. Buổi trưa. Tôi vừa bán được một cuốn manga Khu phố xa xăm, kiệt tác của Taniguchi, sau hai mươi phút hùng biện và tôi vẫn nở nụ cười trên môi. Trong vòng chưa đầy một tháng, tôi đã khiến hiệu sách thay đổi. Đây không phải sự lột xác hoàn toàn mà là một loạt thay đổi đáng kể: không gian sáng sủa và thoáng đãng hơn, sự đón tiếp niềm nở và bớt phần cau có. Thậm chí tôi còn moi được từ Audibert quyền đặt mua vài cuốn sách tham khảo khuyến khích trốn thoát nhiều hơn suy tưởng. Những dấu hiệu nhỏ đều đi theo cùng một hướng: chữ nghĩa cũng có thể là một thú vui. Tôi phải thừa nhận ông chủ hiệu sách đã có công để tôi được tự do hành động. Ông để tôi được yên ổn tuyệt đối và không thường xuyên có mặt https://thuviensach.vn trong cửa tiệm, chỉ rời khỏi căn hộ riêng trên tầng hai để ra quảng trường uống vài ly. Trong lúc miệt mài tính toán, tôi nhận ra ông đã bôi đen bức tranh toàn cảnh. Tình cảnh của hiệu sách còn xa mới tới mức thảm họa. Audibert là chủ sở hữu ngôi nhà và giống như nhiều người buôn bán ở Beaumont, ông nhận một khoản trợ cấp hào phóng từ Công ty cổ phần Gallinari, chủ nhân hòn đảo. Với đôi chút thiện chí và không ít năng động, ta có thể trả lại cho hiệu sách toàn bộ sự hiển hách và thậm chí mời các tác giả quay trở lại đây, tôi đang mơ như vậy. - Raphaël? Peter McFarlane, chủ tiệm bánh trên quảng trường, vừa thò đầu vào hiệu sách. Đó là một người Scotland dễ mến hai mươi lăm năm về trước đã rời một hòn đảo này để tới một hòn đảo khác. Tiệm bánh của ông nổi tiếng nhờ món bánh hành và bánh hoa cam kem tươi. Nó mang tên Bread Pit(6) nhằm tôn vinh một truyền thống có phần tức cười và khác xa phương diện sang chảnh của Beaumont, một truyền thống mà dường như ai nấy đều hết sức gắn bó: đặt cho mỗi cửa hàng một cái tên dựa trên quy tắc chơi chữ. Chỉ duy có vài kẻ tẻ nhạt như Ed mới không chịu làm theo cách này. - Cậu sang dùng rượu khai vị không? Peter rủ tôi. Ngày nào cũng có ai đó mời tôi dự nghi lễ uống rượu khai vị. Chính ngọ là mọi người ngồi vào bàn trên các sân hiên để nhấm nháp rượu anis hay một ly Terra dei Pini, loại vang trắng làm nên niềm tự hào của đảo. Ban đầu, tôi thấy vụ này dân dã quá, nhưng rồi tôi nhập cuộc hết sức nhanh chóng. Mọi người ở Beaumont ai nấy đều quen biết nhau. Dù đi đâu, bạn cũng luôn gặp một gương mặt thân quen để chuyện trò dăm câu ba điều. Mọi người thong thả sống và trò chuyện cùng nhau, và đối với tôi, kẻ đã quen sống trong sự buồn tẻ vô vị, hung hăng và ô nhiễm của Paris, thì đây là thứ gì đó mới mẻ. Tôi ngồi cùng bàn với Peter trên sân hiên quán Fleurs du Malt(7) Ra vẻ dửng dưng, tôi nhìn những gương mặt xung quanh mình để tìm một cô gái tóc vàng. Một khách hàng của hiệu sách mà tôi gặp hôm trước. Tên cô là Mathilde Monney. Cô đang nghỉ hè tại Beaumont, thuê phòng trong một https://thuviensach.vn ngôi nhà gần tu viện dòng thánh Benedict. Cô đã mua cả ba cuốn tiểu thuyết của Nathan Fawles trong hiệu sách của tôi, mặc dù cô khẳng định là đã đọc cả rồi. Thông minh, hài hước, rạng rỡ. Chúng tôi đã thảo luận hai mươi phút và tôi vẫn ngất ngây chưa hồi tỉnh được. Kể từ đó, ý nghĩ gặp lại cô cứ phi nước kiệu trong đầu tôi. Điểm đen duy nhất của những tuần gần đây, đó là tôi viết ít. Dự án của tôi về bí ẩn Nathan Fawles- mà tôi đã đặt tên là Cuộc sống bí mật của các nhà văn - hầu như không tiến triển. Tôi thiếu chất liệu và đề tài vượt quá khả năng của tôi. Tôi đã gửi nhiều thư điện tử cho Jasper Van Wyck, người đại diện của Fawles, và dĩ nhiên không nhận được chút hồi âm nào, tôi cũng hỏi han dân đảo, nhưng không ai cung cấp thêm thông tin gì ngoài những điều tôi đã biết. - Câu chuyện khùng điên này là gì vậy? Audibert hỏi khi đến chỗ chúng tôi, tay cầm một ly vang hồng. Ông chủ hiệu sách có vẻ lo lắng. Từ mười phút nay, một tin đồn điên rồ lan truyền khắp quảng trường nơi càng lúc càng nhiều người đổ về. Hai người đi dạo dân Hà Lan vừa phát hiện một cái xác tại bãi biển Tristana, bãi biển độc nhất vô nhị của bờ biển phía Tây Nam hòn đảo. Nơi đó tuyệt đẹp, nhưng nguy hiểm. Năm 1990 đã có hai thiếu niên thiệt mạng trong lúc chơi gần các vách đá. Tai nạn ấy khiến dân đảo chấn thương tâm lý. Ngoài những nhóm nhỏ đang thảo luận sôi nổi, tôi nhận ra Ange Agostini, một trong những cảnh sát viên của thành phố, đang rời quảng trường. Theo bản năng, tôi đi theo ông qua những ngõ nhỏ và bắt kịp ông đúng lúc ông đến chỗ chiếc xe ba bánh đỗ gần bến cảng. - Ông đến bãi biển Tristana phải không? Tôi đi cùng được chứ? Agostini ngoái nhìn, hơi ngạc nhiên khi thấy tôi đi theo. Đó là một người đàn ông cao lớn, hói đầu. Một người dân đảo Corse dễ mến, fan cứng của tiểu thuyết trinh thám và anh em nhà Cohen, tôi đã giúp ông khám phá những tác phẩm của Simenon mà tôi thích nhất: Những kẻ tự sát, Người đàn ông nhìn những chuyến tàu qua, Căn phòng màu xanh… - Nếu cậu muốn thì lên xe đi, người đàn ông đảo Corse nhún vai đáp. https://thuviensach.vn Với tốc độ chừng ba mươi đến bốn mươi cây số giờ, chiếc xe ba bánh hiệu Piaggio bò lết trên Strada Principale. Agostini có vẻ lo lắng. Những tin nhắn ông nhận được trên điện thoại di động rất đáng ngại và khiến người ta nghĩ rằng đây là án mạng thì đúng hơn là tai nạn. - Thật không tưởng tượng nổi, ông lẩm bẩm, không thể có án mạng ở Beaumont được. Tôi hiểu ý ông. Ở Beaumont không có tội phạm thực sự. Gần như không có vụ tấn công nào và cực ít trộm cắp. Cảm giác an toàn đến mức mọi người thường để chìa khóa cắm nguyên trên cửa ra vào hay để xe nôi cùng em bé bên ngoài các cửa hàng. Cảnh sát địa phương chỉ có chừng bốn năm người và phần chính trong công việc của họ là trò chuyện với dân chúng, đi tuần và thông báo về những chuông báo động bị hỏng. 4. Con đường khó nhọc men theo bờ biển nơi địa hình hiểm trở. Phải mất hơn hai mươi phút, chiếc xe ba bánh mới tới được bãi biển Tristana. Ở một khúc quanh, đôi khi người ta đoán biết hơn là nhìn thấy những căn biệt thự rộng lớn màu trắng khuất sau hàng héc ta rừng thông. Rồi cảnh vật bỗng nhiên thay đổi hẳn để nhường chỗ cho một bình nguyên hoang vắng nhô cao trên bãi cát đen. Ở chốn này, Beaumont giống Iceland hơn là Porquerolles. - Cái quái gì vậy? Chân tì chân ga - xuôi dốc và trên đường thẳng, chiếc mô tô ba bánh hẳn phải đạt tốc độ gần bốn mươi lăm cây sổ giờ -, Ange Agostini chỉ tay vào khoảng chục chiếc xe hơi đang án ngữ trên đường. Khi lại gần hơn, tình hình trở nên sáng rõ. Khu vực này đã bị lực lượng cảnh sát tới từ lục địa bao vây hoàn toàn. Agostini đỗ xe lại bên vệ đường rồi rảo bước ven khu vực có chăng dải băng nhựa. Tôi không hiểu gì hết. Vì sao chừng đó người, rõ ràng là người bên cảnh sát tư pháp Toulon, nhưng có cả xe của cảnh sát pháp y - có thể triển khai nhanh đến thế trên phần bờ biển hiểm trở này? Ba chiếc xe in đồ hình này ở đâu ra? Tại sao không ai nhìn thấy chúng đổ bộ vào bến cảng? https://thuviensach.vn Tôi chen vào đám người hiếu kỳ và dỏng tai nghe mọi cuộc trò chuyện. Dần dà, tôi có thể lập lại sơ lược kịch bản buổi sáng. Vào khoảng 8 giờ sáng, một cặp sinh viên người Hà Lan cắm trại nơi hoang dã đã phát hiện xác một phụ nữ. Họ lập tức liên lạc với sở cảnh sát Toulon, sở đã xin được giấy phép sử dụng thủy phi cơ của hải quan để cử một hạm đội cảnh sát và ba chiếc xe hơi tới đảo. Để kín đáo hơn, cảnh sát đã trực tiếp hạ cánh xuống Phiến Saragota, cách đây chừng chục cây số. Đi xa thêm một chút, tôi gặp lại Agostini trên một gò đất nhỏ ven đường. Ông có vẻ vừa chán ngán vừa hơi tủi nhục vì không thể tiếp cận hiện trường tội ác. - Có biết nạn nhân là ai không ạ? tôi hỏi. - Chưa, nhưng người ta nghĩ đó không phải dân trên đảo. - Tại sao cảnh sát lại đến đông và nhanh vậy nhỉ? Tại sao họ không báo trước với ai hết? Người đàn ông đảo Corse lơ đễnh nhìn điện thoại di động: - Đó là vì tính chất của tội ác. Và những bức ảnh do hai thanh niên kia gửi. - Hai người Hà Lan đó đã chụp ảnh sao? Agostini gật đầu. - Chúng được phát tán vài phút trên twitter trước khi bị thu hồi. Nhưng vẫn còn những bản chụp lại màn hình. - Tôi xem được không? - Thật lòng tôi khuyên cậu không nên xem, đó không phải cảnh tượng dành cho người bán sách đâu. - Không sao! Rất có thể tôi cũng nhìn thấy chúng lướt qua trên giao diện Twitter cá nhân mà. - Tùy cậu thôi. Ông đưa điện thoại cho tôi và những gì thấy được trên đó khiến tôi buồn nôn. Là xác một phụ nữ. Khó lòng đoán tuổi người đó bởi lẽ khuôn mặt cô dường như đã biến dạng vì những vết thương. Tôi cố gắng nuốt nước bọt, https://thuviensach.vn nhưng cổ họng tôi như tê liệt trước hình ảnh ghê rợn này. Cái xác, khỏa thân, như bị đóng đinh vào thân một cây bạch đàn khổng lồ. Tôi zoom trên màn hình cảm ứng. Thứ ghim chặt người phụ nữ vào thân cây không phải đinh mà là những cái đục gỗ hoặc dụng cụ đẽo đá, chúng làm vỡ xương cổ và cắm sâu vào da thịt cô. 5. Ngồi sau vô lăng chiếc bán tải mui trần, Mathilde Monney xuyên qua khu rừng trải dài tới tận mũi Safranier. Ở đằng sau xe, Bronco vừa ngắm nhìn cảnh vật vừa sủa ăng ẳng. Thời tiết đẹp. Mùi gió phơn vùng biển trộn lẫn với mùi bạch đàn và bạc hà Âu. Những ánh phản chiếu màu nâu ánh vàng của mặt trời mùa thu rọi xuyên qua những tán thông lọng và sồi lam. Đến trước bức tường bao phiến thạch, Mathilde xuống xe rồi làm theo chỉ dẫn của Jasper Van Wyck. Gần cổng chính bằng nhôm, đằng sau một viên đá sẫm hơn những viên khác, có chiếc điện thoại nội bộ được ngụy trang. Mathilde bấm chuông để thông báo mình đã tới. Cánh cổng kêu lách tách rồi mở ra. Cô đánh liều lái xe tiến vào bên trong khuôn viên hoang sơ rộng lớn. Một con đường đất chạy xuyên dưới gốc những cây thân gỗ. Cù tùng, dương mai và nguyệt quế mọc san sát nhau. Rồi con đường quanh co trên một con dốc đứng và biển đột nhiên xuất hiện cùng lúc với ngôi nhà của Fawles: một khối xây có dạng hình học, bằng đá hoàng thổ, kính và bê tông. Cô vừa đỗ chiếc bán tải cạnh chiếc xe hẳn là của nhà văn - một chiếc Mini Moke màu rằn ri với vô lăng và bảng điều khiển bằng gỗ sơn - thì chú chó giống golden retriever đá nhảy khỏi xe để chạy ùa tới chỗ chủ nó đang chờ trước cửa nhà. Nhà văn chống nạng, vui mừng khôn xiết khi gặp lại bạn đồng hành. Mathilde bước tới. Trước đó cô hình dung mình sẽ đối diện một kiểu người ăn lông ở lỗ: một lão già thô lỗ cục cằn, quần áo tả tơi với mái tóc dài và bộ râu quai nón hai chục phân. Nhưng người đàn ông đang đứng trước mặt cô https://thuviensach.vn râu cạo tinh tươm. Ông để tóc ngắn, mặc sơ mi thể thao vải lanh màu xanh da trời tiệp với màu mắt và quần dài vải toan. - Mathilde Monney, cô tự giới thiệu đoạn chìa tay cho ông bắt. - Cảm ơn vì đã đưa Bronco về với tôi. Cô gãi đầu chú chó. - Dẫu sao cũng rất vui khi chứng kiến màn hội ngộ của các vị. Mathilde chỉ vào chiếc nạng và phần mắt cá chân bó bột. - Tôi hy vọng chuyên này không quá nghiêm trọng. Fawles lắc đầu. - Ngày mai, nó sẽ chỉ còn là một kỷ niệm tệ hại. Cô ngập ngừng, rồi: - Chắc ông không còn nhớ nữa, nhưng chúng ta đã từng gặp nhau. Ông lùi lại một bước, nghi hoặc. - Tôi không nghĩ thế. - Có đấy, cách đây lâu rồi. - Vào dịp nào vậy? - Tôi để ông đoán thử xem. 6. Fawles biết ràng, sau này, ông hẳn sẽ tự nhủ lẽ ra mình nên dừng mọi chuyện lại ở chính khoảnh khắc đó. Đơn giản là nói cái câu như ông đã giao hẹn với Van Wyck, “cảm ơn và tạm biệt”, rồi lui vào bên trong nhà. Thay vì thế, ông im bặt. Ông đứng trân ra trước cửa nhà, gần như bị Mathilde Monney thôi miên. Cô mặc váy liền thân ngắn họa tiết lưới cải hoa, áo khoác da dáng ngắn và đi đôi xăng đan cao gót với phần dây mảnh lượn vòng quanh rồi thắt nút trên dây chằng ở mắt cá chân. Ông sẽ không diễn lại đoạn đầu cuốn Giáo dục tình cảm - “Đây giống như một sự hiện hình” -, nhưng trong một khoảnh khắc dài ông để mình chuếnh choáng trước cái không-biết-gọi-là-gì của sự nhạy cảm, cương nghị và khí chất thái dương đang toát ra từ người phụ nữ trẻ. https://thuviensach.vn Đó là một cơn say có kiểm soát, một cơn say cuồng đẹp đẽ mà ông đồng lòng, một liều nhỏ tóc vàng hoe, ánh sáng ấm nóng giống như một cánh đồng lúa mì. Ông không nghi ngờ lấy một giây là mình có thể kiểm soát diễn biến mọi việc hay chấm dứt chỉ bằng cách búng tay và khi nào thì ông thấy trò mê hoặc này nên kết thúc. - Tờ bướm có hứa sẽ thưởng 1.000 euro, nhưng tôi tin mình chỉ cần một tách trà mát lạnh, Mathilde mỉm cười. Fawles tránh đôi mắt màu xanh lục của người đối thoại, đoạn nhẹ nhàng giải thích rằng vì không thể tự di chuyển nên lâu nay ông không đi mua đồ được, thành thử tủ bếp nhà ông đang trống rỗng. - Một cốc nước cũng được, cô nằn nì. Trời nóng quá. Thường thì ông đủ khả năng xét đoán mọi người theo bản năng. Những ấn tượng ban đầu của ông thường chuẩn xác. Tuy nhiên, trong trường hợp này, ông hơi lạc lối, đan xen những cảm xúc trái ngược. Một tín hiệu báo nguy đã phát ra trong đầu ông để nhắc ông nên cảnh giác với Mathilde. Nhưng làm thế nào để kháng cự lời hứa hẹn bí ẩn và khó nắm bắt mà cô mang trong mình đây? Một quầng sáng lan tỏa, dịu êm như mặt trời tháng Mười. - Cô vào đi, rốt cuộc ông cũng nhượng bộ. 7. Xanh rợn ngợp đến cuối chân trời. Mathilde kinh ngạc với ánh sáng bao trùm bên trong căn nhà. Cửa ra vào dẫn thẳng đến phòng khách nối dài bởi phòng ăn và phòng bếp. Ba phòng này được lắp những ô cửa kính rộng mênh mông trông ra biển và đem lại cảm giác lênh đênh trên những con sóng. Trong khi Fawles sang phòng bếp rót nước cho cả hai người, Mathilde đắm mình vào không gian kỳ ảo. Ở đây cô cảm thấy dễ chịu, được ru theo tiếng sóng dồi. Các ô cửa bằng vách gạch xóa bỏ không gian giữa phần bên trong nhà và sân thượng, tạo ra cảm giác mất phương hướng dễ chịu, đến độ bạn không còn biết rõ liệu mình https://thuviensach.vn đang ở bên trong hay bên ngoài. Giữa phòng khách, một lò sưởi treo thu hút ánh nhìn, cầu thang mở bằng bê tông láng bóng dẫn lên tầng trên. Mathilde đã hình dung nơi này giống như một căn nhà tồi tàn tăm tối, nhưng cả ở điểm này nữa, cô cũng đã sai hoàn toàn. Fawles không tới đảo Beaumont để tự chôn mình, mà ngược lại, để đương đầu với trời, biển và gió. - Tôi có thể ngó qua sân hiên được không? cô hỏi khi Fawles đưa cô cốc nước. Nhà văn không đáp, chỉ đi cùng vị khách trên những tấm lát bằng đá phiến đem lại cảm giác đang tiến về phía khoảng không. Khi lại gần mép sân, Mathilde bị chóng mặt. Ở độ cao này, cô mới hiểu rõ hơn kiến trúc ngôi nhà. Tựa vào vách đá, ngôi nhà chia thành ba tầng, sân hiên cô đang đứng được bố trí ở tầng giữa. Những tấm lát bằng bê tông được đặt trên những thanh mút chìa đỡ bao lơn, luân phiên giữa nền và mái. Mathilde hơi cúi xuống để dõi theo cầu thang bằng đá dẫn tới tấm lát tầng dưới. Phía trước cô là một ụ nổi cho phép đi thẳng ra biển và dùng làm điểm neo đậu cho một chiếc thuyền Riva Aquarama tuyệt đẹp với khung gỗ bóng loáng cùng những bộ phận bằng thép crôm sáng chói dưới nắng. - Người ta thực sự có cảm giác đang đứng trên boong tàu. - Ừm, Fawles ôn tồn đáp, một con tàu chẳng đi tới đâu mà hầu như luôn ở lại bến cảng. Trong vài phút, họ mặc sức nói chuyện trên trời dưới biển. Rồi Fawles cùng cô quay trở lại bên trong nhà, và Mathilde, dạo bước như trong viện bảo tàng, lại gần một tầng giá bên trên có bày chiếc máy chữ. - Tôi cứ nghĩ ông không còn viết nữa, cô hỏi đoạn hất cằm chỉ về phía chiếc máy. Fawles lướt nhẹ tay trên những đường cong của chiếc máy - một mẫu xinh xẻo màu xanh hạnh nhân chất liệu nhựa bakelite hiệu Olivetti. - Nó ở đây chỉ để làm cảnh thôi. Vả lại, thậm chí không còn trục lăn mực nữa, ông nói rồi ấn lên các phím. Mà cô biết đấy, từ thời tôi đã có máy tính https://thuviensach.vn xách tay rồi mà. - Vậy ra không phải ông đã dùng nó để viết những… - Không. Cô nhìn ông vẻ thách thức. - Tôi chắc chắn là ông vẫn còn viết. - Cô nhầm rồi. Tôi không còn viết một câu nào nữa, kể cả chú thích trong một cuốn sách hay một cái danh sách ngắn ngủn những đồ cần mua. - Tôi chẳng tin. Người ta không đùng một cái hôm trước hôm sau ngưng luôn một hoạt động từng cấu thành nên cuộc sống của mình và… Mệt mỏi, Fawles ngắt lời cô: - Đã có lúc, tôi nghĩ cô không giống những người khác và sẽ không đề cập đến chủ đề này, nhưng tôi đã nhầm. Cô đang tiến hành một cuộc điều tra, có phải không? Cô là một phóng viên tới đây để viết bài về bí ẩn Nathan Fawles cho tờ báo tầm thường của cô chăng? - Không, tôi hứa với ông là không. Nhà văn chỉ cho cô thấy cửa ra vào. - Giờ thì cô đi đi. Tôi không thể ngăn cản mọi người trù tính mọi chuyện, nhưng bí ẩn Fawles chính xác là chẳng có bí ẩn gì hết, cô hiểu chứ? Và cô có thể viết điều nay trên tờ báo của cô. Mathilde không nhúc nhích một li. Fawles không thay đổi nhiều kể từ khi cô gặp ông trước đây. Ông vẫn như cô hằng nhớ: ân cần, dễ gần, nhưng thẳng thắn. Rồi cô nhận ra mình thực sự đã không dự kiến khả năng này: rằng Fawles vẫn luôn là Fawles. - Nói riêng giữa chúng ta với nhau nhé, ông không nhớ công việc đó sao? - Nhớ việc ngồi mười tiếng mỗi ngày trước màn hình máy tính ư? Không. Tôi thà dành mười tiếng đó để đi dạo cùng chó cưng trong rừng hoặc trên bãi biển. - Tôi vẫn không tin. https://thuviensach.vn Fawles lắc đầu thở dài. - Hãy thôi đưa thói đa sầu đa cảm vào toàn bộ chuyện này đi. Đó chỉ là những cuốn sách thôi mà. - Chỉ là những cuốn sách thôi sao? Ông mà cũng nói thế ư? - Ừm, và nói riêng giữa chúng ta với nhau nhé, đó lại còn là những cuốn sách được đánh giá quá cao. Mathilde tiếp tục hỏi: - Còn bây giờ, ông làm gì để qua ngày? - Tôi ngẫm nghĩ, uống rượu, nấu nướng, uống rượu, bơi, rồi lại uống rượu, đi dạo miên man, tôi… - Ông có đọc sách không? - Thi thoảng dăm ba cuốn trinh thám và sách về lịch sử hội hoa hoặc thiên văn. Tôi đọc lại vài cuốn kinh điển, nhưng toàn bộ chuyện này đâu có quan trọng. - Tại sao lại không chứ? - Hành tinh này đã trở thành một lò lửa lớn, nhiều phần quan trọng của thế giới đang tắm trong máu lửa, người ta bỏ phiếu bầu cho những kẻ điên cuồng hung hãn và u mê trước các mạng xã hội. Thế giới rệu rã từ khắp mọi nơi, vậy nên… - Tôi không thấy mối liên quan. - Vậy nên tôi nghĩ có những thứ quan trọng hơn là biết nguyên do tại sao Nathan Fawles ngừng viết từ hai chục năm nay. - Các độc giả vẫn tiếp tục đọc ông. - Cô muốn gì chứ, tôi không thể ngăn họ làm vậy. Vả lại, cô biết rất rõ rằng thành công này dựa trên một sự hiểu nhầm. Chính Duras đã nói vậy, không phải sao? Hoặc có lẽ là Malraux. Vượt quá ba mươi nghìn bản, đó là một sự hiểu lầm… - Độc giả của ông cũng viết cho ông chứ? https://thuviensach.vn - Có vẻ như vậy. Người đại diện của tôi bảo ông ấy nhận được nhiều thư từ gửi đích danh tôi. - Ông có đọc những thư đó không? - Cô đùa hay sao thế? - Tại sao? - Bởi vì chúng không khiến tôi quan tâm. Với tư cách độc giả, tôi sẽ không bao giờ này ra ý định viết cho một tác giả có tác phẩm mà tôi đánh giá cao. Thực lòng mà nói, cô có hình dung mình sẽ viết thư cho James Joyce vì thích cuốn Finnegans Wake không? - Không. Trước hết vì tôi không bao giờ có thể đọc quá mười trang cuốn sách đó, sau nữa là vì James Joyce hẳn đã qua đời từ bốn mươi năm trước khi tôi sinh ra. Fawles lắc đầu. - Cô nghe này, cảm ơn vì đã trả con chó của tôi về đây, nhưng tốt hơn hết là cô đi ngay cho. - Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Ông đi ra cùng Mathilde rồi tiễn cô đến tận xe. Cô nói tạm biệt chú chó nhưng không nói gì với Fawles. Ông nhìn Mathilde thao tác, vừa bị thôi miên bởi các cử chỉ duyên dáng của cô vừa hài lòng vì rũ bỏ được cô. Tuy nhiên, đúng lúc cô chuẩn bị tăng tốc, ông vẫn tranh thủ cửa cánh xe còn mở hòng cố gắng dập tắt tín hiệu báo động nho nhỏ vẫn đang vang dội trong đầu mình: - Ban nãy cô có nói chúng ta đã từng gặp nhau cách đây lâu rồi. Là gặp ở đâu vậy? Đôi mắt xanh lục của cô nhìn thẳng vào mắt ông. - Mùa xuân năm 1998 tại Paris. Bấy giờ tôi mười bốn tuổi. Ông đã tới gặp gỡ các bệnh nhi của Nhà thiếu niên. Thậm chí ông còn ký tặng tôi một cuốn Loreleï Strange. Một ấn bản đặc biệt bằng tiếng Anh. Fawles vẫn không chút phản ứng, như thể chuyện này không gợi ra bất cứ điều gì trong ông, hoặc giả chỉ gợi ra một ký ức vô cùng xa xăm. https://thuviensach.vn - Tôi đã đọc Loreleï Strange, Mathilde nói tiếp. Nó đã giúp tôi rất nhiều. Và tôi chưa bao giờ có cảm giác đó là một cuốn sách được đánh giá quá cao, những gì tôi hiểu được thông qua việc đọc nó cũng không giống với bất kỳ sự hiểu nhầm nào cả. Toulon, ngày 8 tháng Mươi 2018 SƯ ĐOÀN “HOẠT ĐỘNG QUỐC GIA TRÊN BIỂN” Thông tư số 287/2018 Về việc thiết lập một khu vực cấm lưu thông tạm thời trên biển và các hoạt động hàng hải về phía và xung quanh đảo Beaumont (Var). Phó Đô đốc hạm đội Édouard Lefébure tỉnh trưởng đường biển Địa Trung Hải Căn cứ các điều 131-13-1 và R610-5 của Luật Hình sự, Căn cứ Luật Vận tải, đặc biệt là các điều L5242-1 và L5242-2, Căn cứ sắc lệnh số 2007-1167 ra ngày 2 tháng Tám năm 2007 sửa đổi, liên quan đến giấy phép điều khiển và đào tạo lái du thuyền gắn động cơ, Căn cứ sắc lệnh số 2004-112 ra ngày 6 tháng Hai năm 2004 liên quan đến tổ chức hoạt động Quốc gia trên biển. Xem xét việc mở một cuộc điều tra hình sự sau khi phát hiện một xác chết trên đảo Beaumont, tại địa điểm có tên Bãi biển Tristana, Xem xét sự cần thiết phải dành cho các lực lượng an ninh thời gian tiến hành điều tra trên đảo, Xem xét sự cần thiết phải bảo toàn các yếu tố bằng chứng, qua đó cho phép tìm ra sự thật. QUYẾT ĐỊNH Điều 1: Thiết lập, ở ngoài khơi tỉnh Var, một khu vực cấm lưu thông và thực hiện tất cả các hoạt động hàng hải trong bán kính 500 mét xung quanh và vuông góc các bờ của đảo Beaumont, bao gồm các hoạt động chuyên chở người xuất phát từ đảo và tới đảo, kể từ khi công bố Thông tư này. https://thuviensach.vn Điều 2: Các điều khoản của Thông tư này không áp dụng với tàu thủy và máy móc hàng hải hoạt động trong khuôn khổ công tác của dịch vụ công. Điều 3: Mọi vi phạm liên quan đến Thông tư này, cũng như đến các quyết định được đưa ra nhằm áp dụng Thông tư này, đều khiến đối tượng vi phạm bị truy tố, chịu hình phạt và xử phạt hành chính theo quy định tại các điều từ L5242-1 đến L5242-6-1 của Luật Vận tải và điều R610-5 của Luật Hình sự. Điều 4: Trưởng ban quản lý lãnh thổ và biển của tỉnh Var, các sĩ quan và viên chức có thẩm quyền trong lĩnh vực cảnh sát biển, tùy theo mức độ liên quan, có trách nhiệm chấp hành Thông tư này. Thông tư này sẽ được công bố trong tuyển tập các văn bản hành chính của tỉnh bờ biển Địa Trung Hải. Tỉnh trưởng bờ biển Địa Trung Hải, Édouard Lefébure https://thuviensach.vn 4 Phỏng vấn một nhà văn 1) Người phỏng vấn hỏi bạn những câu thú vị đối với anh ta, không thú vị với bạn. 2) Trong những câu trả lời của bạn, anh ta chỉ sử dụng những câu anh ta cho là phù hợp. 3) Anh ta diễn giải những câu trả lời đó bằng từ vựng của anh ta, theo lối suy nghĩ của anh ta. Milan KUNDERA Thứ Ba ngày 9 tháng Mười 2018 1. Từ ngày sống ở Beaumont, tôi đã hình thành thói quen thức dậy cùng mặt trời. Sau một chầu tắm nhanh dưới vòi sen, tôi sẽ đi gặp Audibert, ông thường dùng bữa sáng trên quảng trường thành phố tại sân hiên Fort de Café hoặc Fleurs du Malt. Tính nết ông chủ hiệu sách khá thất thường. Khi thì lầm lì ít nói và khép kín, lúc lại hoạt ngôn và hay chuyện. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ là ông khá quý mến tôi. Dẫu sao cũng đủ để mời tôi ngồi cùng bàn với ông mỗi sáng và mời tôi một tách trà cùng những lát bánh mì nướng phết mứt quả vả. Được bán cho du khách với giá trên trời, các loại mứt quả của tiệm Mẹ Françoise, hữu cơ hơn cả hữu cơ, nấu bằng vạc rồi thì vân vân và vân vân, là một trong những bảo vật của đảo. - Ngày mới tốt lành, ông Audibert. https://thuviensach.vn Ông chủ hiệu sách rời mắt khỏi tờ báo rồi chào đón tôi bằng một tiếng lầu bầu lo lắng. Từ hôm qua, dân chúng trên đảo sống trong cảm giác bàng hoàng chấn động. Việc phát hiện ra cái xác phụ nữ bị đóng đinh trên cây bạch đàn lâu đời nhất đảo khiến dân chúng xáo trộn. Kể từ thời điểm đó, tôi biết thêm một thông tin: qua hàng thập kỷ, cái cây được đặt biệt danh là Bất Tử này đã trở thành biểu tượng cho sự thống nhất của đảo. Cảnh tượng kia không thể là kết quả của sự tình cờ và bối cảnh xung quanh cái chết của nạn nhân khiến mọi người ai nấy đều choáng váng. Nhưng điều khiến dân chúng bấn loạn hơn nữa, đó là tỉnh trưởng đã quyết định thiết lập lệnh phong tỏa đảo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra. Tàu chở khách bị giữ lại cảng Saint-Julien- les-Roses, các tuần phòng bờ biển nhận lệnh tuần tra và chặn tàu tư nhân định vượt biển theo chiều này hoặc chiều kia. Cụ thể, không một ai có thể rời khỏi đảo hay đặt chân lên đảo. Biện pháp mà phía đất liền áp đặt này khiến mọi cư dân đảo Beaumont, trước nay vốn không chấp nhận mất quyền kiểm soát số phận tập thể của mình, vô cùng bực dọc. - Tội ác này chính là một đòn chí mạng giáng xuống đảo, Audibert cáu tiết gấp tờ Var-Matin lại. Đó là số ra ngày hôm trước, số buổi tối, tới trên chuyến phà cuối cùng được phép. Trong lúc ngồi xuống, tôi liếc qua trang nhất bị chắn ngang bởi dòng tít “Hòn đảo Đen tối”. Một cú nháy mắt kín đáo với Hergé(8). - Chúng ta hãy chờ xem cuộc điều tra sẽ đi tới đâu. - Cậu muốn nó đi tới đâu kia chứ! ông chủ hiệu sách thốt lên. Một phụ nữ bị tra tấn đến chết rồi bị đóng đinh lên cây Bất Tử. Điều này có nghĩa là có một kẻ điên đang tự do trên đảo! Toi nhăn mặt vì biết rằng dĩ nhiên Audibert không nhầm. Tôi ngấu nghiến lát bánh mì phết trong lúc đọc lướt qua bài báo nhưng không biết thêm được gì nhiều từ đó, rồi lấy điện thoại di động ra để tìm kiếm những tin tức mới mẻ hơn. Hôm qua tôi đã phát hiện ra tài khoản Twitter của một người có tên Laurent Lafaury, một nhà báo ở Paris hiện đang có mặt tại Beaumont để https://thuviensach.vn thăm mẹ. Người này không phải một tay lão luyện trong nghề. Anh ta từng làm việc vài năm cho website của các báo L’Obs và Marianne trước khi trở thành community manager(9) cho một tập đoàn truyền thanh. Lịch sử tài khoản của anh ta là một thí dụ hoàn hảo về những gì tệ hại nhất mà cái được gọi là nghề báo 2.0 có thể sản xuất ra: những chủ đề tục tĩu, những nhan đề phóng đại, các xung đột, những lời kêu gọi xử hội đồng, mấy truyện cười ba xu, tweet đi tweet lại một cách có hệ thống những video đáng sợ và tất cả những gì có khả năng hạ thấp lý trí, ve vuốt những bản năng tệ hại nhất, dung dưỡng nỗi sợ hãi và ảo tưởng. Một kẻ nhỏ mọn chuyên truyền bá thông tin sai lệch và những luận đề sặc mùi thuyết âm mưu, nhưng luôn núp kỹ sau màn hình máy tính. Sau lệnh phong tỏa, nay Lafaury có ưu thế là “phóng viên” duy nhất có mặt trên đảo. Và kể từ vài giờ nay, hắn đã lợi dụng tình huống đó: hắn xuất hiện như phóng viên tường thuật trực tiếp trên bản tin truyền hình của kênh France 2 và người ta nhìn thấy ảnh hắn trên tất cả các kênh tin tức. - Thằng khốn hèn hạ! Khi tiểu sử gã phóng viên hiển thị trên màn hình điện thoại của tôi, Audibert bắt đầu rủa xả hắn không tiếc lời. Hôm qua, trên kênh 20 Heures, Lafaury đã thành công trong việc cùng lúc bóng gió rằng toàn thể dân đảo đang che giấu những bí mật đáng hổ thẹn đằng sau “lớp tường cao của những ngôi biệt thự sang trọng”, và rằng luật im lặng sẽ không bao giờ bị vi phạm ở nơi đây bởi lẽ gia đình Gallinari, những bố già Corleone thứ thiệt, đang thống trị bằng đồng tiền và nỗi sợ hãi. Nếu tiếp tục theo cách này, Laurent Lafaury chẳng mấy chốc sẽ trở thành kẻ bị khinh ghét nhất Beaumont. Dân đảo khó mà tiếp nhận được việc hòn đảo xuất hiện trên truyền thông trong bối cảnh thảm thê như vậy, bởi nhu cầu về một cuộc sống kín đáo đã ăn sâu bám rễ trong gen họ suốt nhiều năm qua. Trên Twitter, gã kia còn khiến tình hình tồi tệ thêm bằng cách công bố những thông tin riêng - có vẻ đáng tin cậy - mà hẳn là phía cảnh sát hay các luật gia đã mách cho hắn. Tôi phản đối cái nguyên tắc núp dưới vỏ bọc thông https://thuviensach.vn tin để làm vẩn đục tính bảo mật của các cuộc điều tra, nhưng tôi cũng khá tò mò để tạm dẹp sự phẫn nộ của mình sang một bên. Đoạn tweet gần nhất của Lafaury cách đây chưa đầy nửa giờ. Đó là một đường link dẫn sang blog của hắn. Tôi nhấp chuột để truy cập một bài viết có mục đích tổng hợp các diễn tiến mới nhất của cuộc điều tra. Theo thông tin của tay phóng viên, nạn nhân vẫn đang trong quá trình chờ nhận dạng. Dù là tin vịt hay không thì bài viết vẫn kết thúc bằng một tin riêng sốt dẻo: vào thời điểm người phụ nữ bất hạnh bị đóng đinh vào thân cây bạch đàn cổ thụ đó, xác cô ta đã bị đông lạnh! Quả nhiên, vậy thì rất có thể cô ta đã chết từ nhiều tuần trước. Tôi phải đọc câu này đến lần thứ hai để chắc chắn hiểu đúng ý nghĩa của nó. Audibert, trước đó đã đứng dậy để đọc lướt bài báo qua vai tôi, bèn buông phịch người xuống ghế, buồn bã. Trong khi thức dậy, đảo Beaumont vừa ngã vào một thực tại khác. 2. Nathan Fawles thức giấc trong tâm trạng vui vẻ, đã lâu ông không có được tâm trạng này. Đêm qua ông đi ngủ muộn còn giờ thì thong thả dùng bữa sáng. Sau đó, ông ở lại sân hiên hơn một giờ đồng hồ để vừa hút thuốc vừa nghe những đĩa than cổ của Glenn Gould(10). Đến bản thứ năm, ông thắc mắc hầu như thành tiếng là tâm trạng vui sướng này từ đâu mà ra. Ông kháng cự một lúc trước khi thừa nhận rằng điều duy nhất có thể giải thích được tâm trạng này là ký ức về Mathilde Monney. Phảng phất trong không trung là đôi chút sự hiện diện của cô. Một nét rạng ngời, một chất thơ tươi sáng, một hương thơm điểm xuyết. Cái gì đó thoáng qua và khó lòng nắm bắt chẳng bao lâu nữa sẽ tan biến, ông biết điều ấy, nhưng vẫn muốn thưởng thức đến tận giọt cuối cùng. Khoảng 11 giờ, tâm trạng ông bắt đầu thay đổi. Nối tiếp tâm thái nhẹ nhàng khi tỉnh giấc là việc ý thức được rằng chắc hẳn ông sẽ không bao giờ gặp lại Mathilde. Ý thức được rằng, dù có nói gì chăng nữa, đôi khi ông vẫn bị nỗi cô đơn đè nặng. Rồi vào khoảng giữa trưa, ông quyết định chấm dứt mấy cái trò trẻ con này, sự hăng tiết tuổi mới lớn này, mà thay vào đó là https://thuviensach.vn lấy làm mừng vì tránh xa được cô gái ấy. Ông không nên suy sụp. Ông không có quyền làm vậy. Tuy nhiên, ông cho phép mình tua lại trong tâm thức cuốn phim về cuộc gặp gỡ giữa họ. Một điểm khiến ông tò mò. Một chi tiết không hẳn là một chi tiết và ông cần phải xác minh. Ông gọi tới Manhattan để gặp Jasper Van Wyck. Sau nhiều hồi chuông, người đại diện văn học trả lời ông bằng một giọng ngái ngủ. Ở New York lúc này mới là 6 giờ sáng và Jasper vẫn đang vùi mình trên giường. Trước tiên, Fawles nhờ ông ta tìm giúp các bài báo mà Mathilde Monney đã viết cho tờ Thời đại trong những năm gần đây. - Chính xác thì anh đang tìm kiếm điều gì vậy? - Tôi không biết. Tất cả những gì anh thấy có thể có mối liên hệ xa gần nào đó với tôi hoặc các tác phẩm của tôi. - Nhất trí, nhưng chuyện này sẽ mất chút thời gian đấy. Còn gì khác nữa không? - Tôi muốn anh lần lại dấu vết người phụ nữ quản lý thư viện số của Nhà thiếu niên năm 1998. - Đó là gì vậy? - Một cơ sở y tế dành cho thiếu niên thuộc bệnh viện Cochin. - Anh biết bà ta tên gì không, người thủ thư anh bảo ấy? - Không, tôi không nhớ nữa. Anh có thể bắt đầu ngay bây giờ không? - Nhất trí. Tôi sẽ gọi lại cho anh ngay khi tìm ra thứ gì đó. Fawles gác máy rồi sang bếp để pha cho mình một tách cà phê. Trong lúc nhấm nháp tách expresso, ông cố gắng triệu hồi ký ức. Nằm gần Port Royal, Nhà thiếu niên chuyên chăm sóc các bệnh nhân đặc biệt mắc các chứng rối loạn dinh dưỡng, trầm cảm, sợ trường học, lo âu. Một số thiếu niên nằm viện toàn thời gian, số khác nằm viện ban ngày. Fawles từng tới đó vài ba lần để diễn thuyết trước các bệnh nhân, phần lớn là nữ. Một hội thảo, một trò chơi hỏi-đáp cũng như dẫn dắt một trại sáng tác nhỏ. Ông không còn nhớ những cái tên cũng như những khuôn mặt, nhưng vẫn giữ một ấn tượng tổng thể hết sức tích cực. Các nữ độc giả chăm chú, một cuộc https://thuviensach.vn thảo luận bổ ích và những câu hỏi thường khá chuẩn xác. Ông đang uống nốt tách cà phê thì điện thoại đổ chuông. Jasper đã hết sức khẩn trương. - Nhờ có LinkedIn, tôi đã dễ dàng tìm lại được người phụ nữ quản lý thư viện số. Bà ta tên là Sabina Benoit. - Đúng thế, giờ thì tôi nhớ ra rồi. - Bà ta ở lại Nhà thiếu niên tới tận năm 2012. Sau đó, bà ta làm việc ở tỉnh trong hệ thống Thư viện cho đại chúng. Theo những thông tin mới nhất sẵn có trên mạng, hiện bà ta đang ở Dordogne, thành phố Trélissac. Anh có muốn số điện thoại không? Fawles ghi lại thông tin liên hệ rồi gọi luôn cho Sabina Benoit. Bà thủ thư vừa kinh ngạc vừa vui mừng khi nghe thấy giọng ông trên điện thoại. Fawles nhớ dáng người bà hơn là khuôn mặt. Một phụ nữ tóc ngắn màu nâu cao lớn năng động và có sự thân tình dễ lây. Ông đã gặp bà tại Hội sách Paris và bị thuyết phục trước để xuất tới nói chuyên viết lách với các nữ bệnh nhân của bà. - Tôi đang viết hồi ký, ông mở lời. Nên có lẽ tôi cần một… - Hồi ký của ông ư? Ông thực sự nghĩ là tôi sẽ tin ông sao, Nathan? bà ngắt lời ông rồi cười vang. Nói cho cùng, thẳng thắn vẫn cứ là tốt nhất. - Tôi đang tìm kiếm thông tin về một bệnh nhân nữ của Nhà thiếu niên. Một cô gái có lẽ đã từng tham dự một trong những cuộc hội thảo do tôi chủ trì. Một cô Mathilde Monney nào đó. - Cái tên này không gợi nhắc tôi điều gì cả, Sabina đáp sau một giây suy nghĩ. Nhưng vì già rồi nên trí nhớ tôi ngày càng kém. - Tất cả chúng ta đều có phần như vậy mà. Tôi đang tìm hiểu xem Mathilde Monney phải nhập viện vì lý do gì. - Tôi không còn tiếp cận được dạng thông tin kiểu này nữa, và cho dù… - Thôi nào, Sabina, dĩ nhiên bà vẫn còn giữ những mối liên hệ. Hãy làm điều này vì tôi, làm ơn giúp tôi. Việc hệ trọng đấy. - Toi sẽ cố gắng, nhưng tôi không hứa trước điều gì đâu nhé. https://thuviensach.vn Fawles gác máy rồi đi lục lọi trong thư phòng. Mất hồi lâu ông mới tìm ra một cuốn Loreleï Strange. Đó là một ấn bản đặc biệt. Ấn bản đầu tiên được bày bán tại hiệu sách vào mùa thu năm 1993. Ông dùng lòng bàn tay lau bụi trên bìa sách. Bìa sách là bức tranh ông yêu thích, Nghệ sĩ nhào lộn đứng trên quả bóng, một bức họa tuyệt đẹp của Picasso thời kỳ Hồng. Bản thân Fawles vào thời đó đã pha gian bìa sách này khi chế ra một bức tranh cắt dán rồi trình lên nhà xuất bản. Vì không mấy tin tưởng vào cuốn sách nên ông ta để mặc cho ông làm vậy. Số lượng phát hành lần đầu của Loreleï không vượt quá năm nghìn bản. Cuốn sách ít được báo chí nhắc đến và không thể nói rằng các chủ hiệu sách đã đặc biệt bênh vực nó, dẫu rốt cuộc họ cũng đi theo trào lưu. Cuốn sách chỉ được cứu vớt nhờ độc giả nhiệt tình truyền miệng nhau. Thường là những cô bé thời ấy như Mathilde Monney, họ nhận ra mình trong nhân vật chính. Cần phải nói rằng câu chuyện trong cuốn sách rất thích hợp. Nó kể lại những cuộc gặp gỡ của Loreleï, một nữ bệnh nhân trẻ điều trị nội trú tại bệnh viện tâm thần, trong khoảng thời gian một dịp cuối tuần. Bối cảnh này là cái cớ để đặc tả một loạt các nhân vật sống trong bệnh viện. Dần dà, cuốn tiểu thuyết leo lên các bảng xếp hạng sách bán chạy, đạt tới vị trí “hiện tượng văn chương” đáng thèm muốn. Những người ban đầu vốn xem thường ông liền vội vàng bắt kịp chuyến tàu đông. Cuốn sách thu hút cả thanh niên, người cao tuổi, trí thức, giáo viên, học sinh, những người đọc nhiều, những người không đọc. Tất cả mọi người bắt đầu đưa ra một quan điểm về Loreleï Strange và người ta gán cho cuốn sách những thứ mà nó không hề nói. Vậy đấy, sự hiểu lầm vĩ đại. Theo năm tháng, phong trào mở rộng và Loreleï đã trở thành một dạng kinh điển của văn học đại chúng. Người ta viết luận văn về nó, người ta thấy nó trong các hiệu sách và sân bay cũng nhiều như trong các books corners của siêu thị. Thậm chí đôi khi ở cả quầy dành cho thể loại phát triển cá nhân, điều này khiến tác giả cuốn sách phẫn nộ. Vì điều gì phải đến đã đến: thậm chí trước cả khi ngừng viết, Fawles đã bắt đầu ghét bỏ cuốn tiểu thuyết của mình và không thế chịu nổi mỗi khi nghe nhắc đến Loreleï Strange, bởi ông có cảm giác mình đã trở thành tù nhân của nó. https://thuviensach.vn Tiếng chuông cổng kéo nhà văn ra khỏi dòng hồi ức. Ông cất cuốn sách vào chỗ cũ rồi nhìn lên màn hình hệ thống camera giám sát. Bác sĩ Sicard rốt cuộc cũng tới để tháo bột cho ông. Suýt thì ông quên! Sắp được giải thoát rồi. 3. Vụ án mạng ở bãi biển Tristana. Các khách hàng của hiệu sách, các du khách, các cư dân đảo đang ngang qua quảng trưởng: tất cả chỉ bàn về việc đó. Từ đầu giờ chiều đến giờ, tôi đã trông thấy nhiều kẻ hiếu kỳ tại La Rose Ecarlate. Không mấy người là khách hàng thực sự, ai bước vào hiệu sách cũng đều chuyện phiếm với nhau một chút, vài người muốn xua đi cảm giác kinh hãi, số khác muốn thỏa mãn bản tính tò mò bệnh hoạn. Tôi đã mở chiếc MacBook của mình trên quầy tiếp đón. Kết nối Internet của hiệu sách khá nhanh nhưng thường xuyên lag, mỗi lần như vậy tôi lại phải chạy lên gác để khởi động lại modem. Trình duyệt web mở sẵn tài khoản twitter của Laurent Lafaury, người vừa mới đây đã cập nhật blog riêng. Theo những thông tin hắn đưa ra; cảnh sát đã nhận dạng được nạn nhân. Đó là một phụ nữ ba mươi tám tuổi tên là Apolline Chapuis, kinh doanh rượu vang, sống tại khu phố Charttons ở Bordeaux. Những lời chứng đầu tiên xác nhận sự hiện diện của cô ta tại bến tàu Saint-Julien-les-Roses ngày 20 tháng Tám vừa qua. Một số hành khách đã gặp cô ta trên chuyến phà ngày hôm đó, nhưng các điều tra viên vẫn đang tìm hiểu xem cô ta tới đảo nhằm mục đích gì. Một trong những giả thiết của họ là ai đó đã dụ Apolline Chapuis tới Beaumont, rồi giam cầm cô ta trước khi sát hại và bảo quản xác cô ta trong một phòng lạnh hoặc một tủ đông. Bài viết của tay nhà báo kết thúc bằng một lời đồn đại điên rồ: khám xét trên quy mô lớn tất cả các ngôi nhà trên đảo để tìm ra nơi giam giữ nạn nhân. Tôi tra tờ lịch bưu chính - với minh họa là chân dung Arthur Rimbaud của Carjat - mà Audibert treo đằng sau màn hình máy tính để bàn. https://thuviensach.vn Nếu các nguồn tin của tay nhà báo là đáng tin cây, thì Apolline Chapuis đã đặt chân lên đảo trước tôi ba tuần. Thời điểm cuối tháng Tám, khi một cơn mưa như đại hồng thủy trút xuống Địa Trung Hải. Tôi máy móc gõ tên cô trên công cụ tìm kiếm. Sau vài cú nhấp chuột, tôi tìm ra website công ty của Apolline Chapuis. Chính xác thì người phụ nữ trẻ không phải “thương gia rượu vang” như Lafaury đã viết. Chapuis quả có làm việc trong lĩnh vực rượu vang, nhưng chuyên ngành của cô đúng ra là thương mại và marketing. Hết sức năng nổ trên thị trường quốc tế, công ty nhỏ của cô chuyên bán các loại vang nổi tiếng cho nhà hàng khách sạn cũng như thiết kế các hầm rượu kiểu chìa khóa trao tay cho các cá nhân giàu có. Mục Chúng tôi là ai? trên website có nêu lý lịch vắn tắt của nữ thành viên sáng lập này và ghi lại những chặng lớn của hành trình của cô. Sinh trưởng tại Paris trong một gia đình sở hữu cổ phiếu của nhiều đồng nho ở Bordeaux, thạc sĩ “Luật về cây nho và rượu vang” tại đại học Bordeaux-IV, rồi một tấm bằng cấp quốc gia về chuyên gia khoa rượu vang (DNO) do Viện nghiên cứu cao cấp về nông học quốc gia của Montpellier cấp. Tiếp đó, Apolline từng làm việc tại London và Hongkong trước khi lập ra công ty tư vấn nhỏ của riêng mình. Bức ảnh đen trắng chụp cô cho thấy một hình thể duyên dáng - đối với ai thích những cô gái tóc vàng hoe cao to có gương mặt phảng phất buồn. Apolline tới đảo này làm gì nhỉ? Vì công việc chăng? Có thế như vậy lắm. Cây nho được du nhập vào Beaumont đã lâu lắm rồi. Giống như ở Porquerolles, mục đích ban đầu của việc trồng nho là để loại cây này đóng vai trò chắn lửa trong trường hợp xảy ra hỏa hoạn. Ngày nay, nhiều khu vực trồng nho trên đảo trông giống hệt những bờ biển xứ Provence. Cơ sở khai thác lớn nhất - cơ sở làm nên niềm tự hào và danh tiếng của Beaumont - là Gallinari. Đầu những năm 2000, chi nhánh tại Corse của dòng họ này đã trồng những giống nho hiếm trên một vùng đất sét và đá vôi. Nếu ban đầu tất cả mọi người đều cho họ là điên, thì từ đó trở đi loại vang trắng của họ - Terra dei Pini trứ danh, với hai mươi nghìn chai sản xuất mỗi năm - đã tạo dựng được danh tiếng lẫy lừng và xuất hiện trên thực đơn của những https://thuviensach.vn nhà hàng lớn nhất thế giới. Từ khi tới đây, tôi đã có nhiều dịp nếm rượu nectar. Đó là thứ vang trắng ngọt dịu, thanh và còn đượm mùi quả, rồi đọng lại ở vị hoa và cam bergamot. Toàn bộ quy trình sản xuất tuân thủ chuẩn hữu cơ và tận dụng khí hậu ôn hòa của đảo. Tôi dán mắt vào màn hình máy tính để đọc lại bài viết của Lafaury. Lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mình là nhà điều tra ở bên trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám đúng nghĩa. Và, giống như mỗi lần trải nghiệm điều gì đó thú vị, tôi lại muốn kết tinh trải nghiệm đó qua việc viết một cuốn tiểu thuyết. Chưa gì, những hình ảnh đáng lo ngại và bí hiểm đã bắt đầu thành hình trong đầu tôi: một hòn đảo ngoài khơi Địa Trung Hải bị tê liệt bởi lệnh phong tỏa, xác chết bị đông lạnh của một phụ nữ trẻ, một nhà văn nổi tiếng giam mình trong nhà riêng từ hai chục năm nay… Tôi mở một file văn bản mới trên máy tính rồi bắt đầu gõ những dòng đầu tiên: Chương 1. Thứ Ba ngày 11 tháng Chín 2018 Gió thổi khiến những cánh buồm đập phành phạch dưới vòm trời chói chang. Quá một giờ chiều đôi chút, chiếc thuyền buồm đã rời bờ biển xứ Var và lúc này đang lướt với tốc độ năm hải lý trên giờ nhằm hướng đảo Beaumont. Tôi ngồi cạnh người lái, gần phòng điều khiển, ngây ngất với bầu không khí ngoài khơi đầy hứa hẹn, mải miết ngắm làn bụi vàng rực lấp lánh trên Địa Trung Hải. 4. Mặt trời lặn sau đường chân trời, rạch bầu trời bằng những vệt màu cam. Fawles khó nhọc lê bước suốt quãng đường về sau buổi đi dạo cùng chú chó. Ông những muốn khoe mẽ bằng cách lờ đi những lời khuyên răn của bác sĩ. Ngay khi Sicard giải thoát ông khỏi chỗ bó bột, ông vội vàng ra ngoài cùng Bronco, không mang theo gậy chống cũng chẳng hề cần trọng chút nào. Và lúc này, ông đang phải trả một cái giá đầy cay đắng : ông thở hồng hộc, mắt cá chân cứng đờ và toàn bộ cơ bắp đau nhức. https://thuviensach.vn Vừa về đến phòng khách, Fawles liền thả phịch người xuống trường kỷ kê nhìn ra biến rồi nuốt chửng một viên thuốc chống viêm. Ông nhắm mắt một lát để hồi sức trong khi chú chó giống golden retriever liếm hai bàn tay ông. Ông gần như thiếp ngủ thì tiếng chuông cổng chính vang lên khiến ông nhỏm dậy. Nhà văn vịn vào thành trường kỷ để đứng lên rồi tập tễnh bước ra tận hệ thống video giám sát. Gương mặt rạng rỡ của Mathilde Monney xuất hiện trên màn hình. Nathan đờ người. Người phụ nữ này làm gì ở đây nhỉ? Trong tâm trí ông, chuyến thăm mới này cùng lúc vang lên như một tia hy vọng và một lời đe dọa. Mathilde Monney hẳn phải có mưu đồ gì đó khi quay trở lại gặp ông. Làm gì đây? Không trả lời chăng? Đó là giải pháp tránh xa nguy hiểm trong ngắn hạn, nhưng không cho phép xác định bản chất của nguy hiểm. Fawles mở khóa cổng chính mà thậm chí không nói qua điện thoại nội bộ. Tim ông đã thôi đập dồn, và khi nỗi kinh ngạc qua đi, ông quyết tâm tháo gỡ tình huống. Ông đủ tầm để đối đầu Mathilde. Ông phải thuyết phục cô từ bỏ ý định chõ mũi vào chuyện của người khác, và đó là điều ông sẽ làm. Nhưng theo cách mềm dẻo. Giống như hôm trước, ông ra ngoài chờ cô trên ngưỡng cửa. Tựa người vào khung cửa, Bronco đứng bên chân, ông nhìn chiếc xe bán tải làm bốc tung những đám bụi trong lúc tiến lại gần. Cô gái dừng xe trước thềm nhà rồi kéo phanh tay. Cô đóng sập cửa xe rồi đứng đối diện ông một lát. Cô mặc váy liền ngắn tay in hoa, bên trong là áo cổ lọ dệt kim. Những tia nắng cuối ngày sáng lên trên lớp da của đôi bốt cao gót màu mù tạt. Trông ánh mắt cô đang nhìn ông, Fawles có hai điều tin chắc. Điều thứ nhất: Mathilde Monney không tình cờ, có mặt trên đảo. Cô đến Beaumont chỉ nhằm khám phá bí mật của ông. Điều thứ hai: Mathilde không hề có chút ý niệm nào về bí mật ấy. - Tôi thấy là ông đã được tháo bột! Ông có thể tới giúp tôi chứ? cô lên tiếng rồi bắt đầu đỡ đống túi giấy chất chồng sau xe xuống. https://thuviensach.vn - Cái gì vậy? - Tôi đã đi mua đồ cho ông. Tủ bếp của ông rỗng tuếch, hôm qua ông chẳng nói với tôi thế còn gì. Fawles không nhúc nhích. - Tôi không cần người giúp việc nhà. Tôi hoàn toàn có thể tự mình mua sắm. Từ chỗ ông đang đứng, Fawles ngửi thấy mùi nước hoa của Mathilde. Những làn hương kết tinh từ bạc hà, cam quýt và vải sạch, trộn lẫn với hương rừng. - Ồ! Ông đừng nghĩ đây là sự phục vụ miễn phí. Tôi chỉ muốn làm sáng tỏ câu chuyện này thôi. Thôi được rồi, ông giúp tôi hay là không nào? - Câu chuyện nào? Fawles vừa hỏi vừa uể oải tóm lấy những chiếc túi còn lại. - Câu chuyện về món ragu thịt bê ấy. Fawles ngỡ mình nghe nhầm, nhưng Mathilde nói rõ thêm: - Trong lần trả lời phỏng vấn sau cùng, ông khoe mình biết nấu món ragu đó tuyệt ngon. Thật trùng khớp, tôi mê món đó lắm! - Tôi cứ nghĩ cô là người ăn chay. - Không hề. Tôi đã mua cho ông tất cả nguyên liệu rồi đây. Ông chẳng còn bất cứ lý do nào để không mời tôi ăn tối nữa. Fawles hiểu là cô không đùa. Ông không dự trù tình huống này, nhưng ông tự thuyết phục rằng mình sẽ kiểm soát được trò chơi và ra hiệu cho Mathilde vào nhà. Tự nhiên như thể đang ở nhà mình, người phụ nữ trẻ để đống túi lên bàn phòng khách, treo áo khoác lên móc rồi khui một chai Corona đoạn lặng lẽ bước ra sân hiên, vừa nhấm nháp bia vừa ngắm cảnh hoàng hôn. Còn lại một mình trong bếp, Fawles xếp sắp thực phẩm và bắt đầu bận rộn bếp núc với một vẻ uể oải giả tạo. https://thuviensach.vn Câu chuyện về món ragu ấy thật là một điều dại dột. Một câu dí dỏm mà ông tuôn ra để trả lời câu hỏi của phóng viên. Khi bị hỏi về cuộc sống riêng tư, ông thưởng áp dụng châm ngôn của Italo Calvino: không trả lời hoặc bịa. Nhưng ông không né tránh. Ông chọn ra các nguyên liệu mình cần rồi cất những nguyên liệu khác đi, càng ít dồn trọng tâm vào bên cẳng chân bị đau càng tốt. Ông tìm thấy trong ngăn tủ bếp một chiếc nồi đa năng với lớp đáy tráng men mà đã nhiều năm ông không còn dùng đến rồi cho dầu ô liu vào đun nóng. Rồi ông lấy ra một cái thớt và bắt đầu chặt nhỏ phần sau đùi và chân giò bê, thái hành và mùi rồi trộn với thịt đang chuyển màu vàng ruộm. Ông thêm một thìa bột và một cốc to vang trắng trước khi giội nước dùng nóng lên toàn bộ nguyên liệu. Giờ thì phải ninh nhỏ lửa hỗn hợp này trong vòng hơn một giờ đồng hồ, ông nhớ là vậy. Ông liếc qua các phòng khác. Ngày đã tàn và Mathilde đã quay vào bên trong nhà để sưởi ấm. Cô đặt một chiếc đĩa than cũ của nhóm Yardbirds lên mâm quay rồi lục lọi trong thư phòng. Fawles chọn một chai Saint-Julien dưới hầm rượu vang tiếp sau tủ lạnh, thong thả rót rượu vào bình chuyên dụng trước khi quay trở ra phòng khách gặp Mathilde. - Nhà ông không ấm lắm nhỉ, cô nhận xét. Tôi sẽ không phản đối một ngọn lửa nhỏ đâu. - Tùy cô thôi. Fawles tiến về phía giá treo kim loại dùng làm giá đựng củi. Ông gom những cành nhỏ và mấy khúc củi lại rồi nhóm một ngọn lửa trong lò sưởi treo lơ lửng ở vị trí trung tâm căn phòng. Tiếp tục đi thơ thẩn, Mathilde mở hé chiếc rương treo cố định trên tường cạnh giá trữ củi sưởi và phát hiện ra khẩu súng săn kiểu bơm mà ông cất trong đó. - Vậy ra đây không phải một truyền thuyết: đúng là ông bắn vào những người đến quấy rầy ông sao? - Đúng, và cô hãy thấy là mình may mắn vì đã thoát được vụ đó. https://thuviensach.vn Cô chăm chú quan sát khẩu súng. Phần báng và thân súng làm bằng gỗ hồ đào đánh xi, nòng súng bằng thép nhẵn bóng. Giữa những tia phản chiếu phơn phớt xanh của thân súng, giữa những đường lượn trang trí, là một dạng mặt quỷ Lucifer đang nhìn cô với vẻ dọa nạt. - Đây là quỷ sứ sao? cô hỏi. - Không, đấy là Kuçedra: một con rồng cái có sừng trong văn hóa dân gian Albani. - Thú vị thật. Ông lướt tay trên vai cô để đẩy cô xa khỏi những giá treo rồi kéo cô lại gần lò sưởi và rót mời cô một ly vang. Họ cụng ly rồi lặng lẽ thưởng thức rượu Saint-Julien. - Một chai Gruaud Larose 1982, ông tiếp đãi tôi trọng thị đấy, cô tán thưởng. Cô ngồi trên ghế bành da gần trường kỷ, châm một điếu thuốc rồi chơi đùa cùng Bronco. Fawles quay vào bếp, kiểm tra món ragu thịt trắng rồi cho thêm vào đó nấm và những quả ô liu bỏ hạt. Ông nấu cơm, bày hai chiếc đĩa cùng thìa dĩa trong phòng ăn. Đến công đoạn nấu sau cùng, ông thêm nước ép một quả chanh trộn với một lòng đỏ trứng vào món thịt. - Vào bàn thôi! ông hô đoạn bê món ăn ra. Trước khi đến chỗ ông, cô đặt lên mâm quay một chiếc đĩa than khác: nhạc phim Khẩu súng cổ. Fawles nhìn cô búng ngón tay theo nhịp giai điệu của François de Roubaix trong khi Bronco xoắn xuýt lấy cô. Cảnh tượng thật đẹp. Mathilde thật đẹp. Buông thả theo khoảnh khắc hẳn cũng dễ thôi nhưng ông biết rằng toàn bộ chuyện này chỉ là một trò thao túng giữa hai người, kẻ này đinh ninh mình thao túng được kẻ kia. Fawles e rằng trò chơi sẽ để lại hậu quả khôn lường. Ông đã liều lĩnh dẫn sói vào chuồng cừu. Chưa ai từng ở gần đến thế cái bí mật mà ông che giấu từ hai chục năm nay. Món ragu thành công mỹ mãn. Nói gì thì nói, họ cũng đã ăn rất ngon miệng. Fawles đã đánh mất thói quen trò chuyện nhiều, nhưng bữa tối vẫn vui nhờ sự hóm hỉnh và hào hứng của Mathilde, cô luôn có những giả thiết https://thuviensach.vn về mọi việc. Rồi, đến một thời điểm, điều gì đó chợt thay đổi trong ánh mắt cô. Ánh lấp lánh vẫn luôn ở đó, nhưng nó trang nghiêm hơn, ít tươi cười hơn. - Vì đúng dịp sinh nhật ông nên tôi có mang tới tặng ông một món quà. - Tôi sinh tháng Sáu mà, hôm nay không hẳn là sinh nhật tôi. - Tôi tặng hơi sớm một chút, hoặc muộn, có gì nghiêm trọng đâu. Thứ này sẽ khiến ông hài lòng với tư cách tiểu thuyết gia. - Tôi đâu còn là tiểu thuyết gia nữa. - Tôi thấy dường như tiểu thuyết gia cũng giống như tổng thống vậy. Đó là một danh hiệu mà người ta giữ lại, ngay cả khi chẳng còn tại vị nữa. - Vấn đề đó còn phải bàn nhiều, nhưng tại sao lại không nhỉ. Cô tấn công ông trên một mặt trận khác. - Các tiểu thuyết gia là những kẻ dối trá vĩ đại nhất trong lịch sử, không phải sao? - Không phải, đó là các chính trị gia. Và các sử gia. Và các phóng viên. Nhưng không phải các tiểu thuyết gia. - Thế mà có đấy! Khi mạo nhận đang kể lại cuộc sống trong tiểu thuyết của các người, các người đã dối trá. Cuộc sống quá phức tạp nên không thể đưa vào phương trình hay giam cầm nó trong những trang sách. Nó mạnh mẽ hơn Toán hay hư cấu. Tiểu thuyết là hư cấu. Còn hư cấu, về mặt kỹ thuật mà nói đó là dối trá. - Hoàn toàn ngược lại chứ. Philip Roth đã tìm ra công thức chính xác: “Tiểu thuyết cung cấp cho người sáng tạo ra nó một lời nói dối để thông qua đó anh ta diễn đạt sự thật khó nói của bản thân.” - Đúng thế, nhưng… Bỗng nhiên, Fawles cảm thấy chán ngấy. - Tối nay chúng ta sẽ không giải quyết vấn đề đó. Quà cho tôi là gì vậy? - Tôi cứ nghĩ ông không muốn nhận quà. - Cô đúng là một kẻ cực kỳ phiền phức! https://thuviensach.vn - Món quà của tôi, đó là một câu chuyện. - Câu chuyện nào? Ly rượu vang trên tay, Mathilde đứng dậy, rời khỏi bàn ăn để quay lại ngồi vào ghế bành. - Tôi sẽ kể cho ông nghe một câu chuyện. Và khi tôi kể xong, ông sẽ không thể làm gì khác ngoài việc ngồi vào sau chiếc máy chữ kia và bắt đầu viết văn trở lại. Fawles lắc đầu. - Thậm chí cả trong mơ cũng không. - Chúng ta cá cược nhé? - Chúng ta không cá cược gì hết. - Ông sợ sao? - Dẫu sao cũng không phải sợ cô. Không có bất kỳ lý do nào buộc tôi viết văn trở lại và tôi không nghĩ câu chuyện cô kể sẽ thay đổi vấn đề đó. - Bởi vì câu chuyện này liên quan đến ông. Và bởi vì đó là một câu chuyện phải biết đoạn kết của nó. - Tôi không chắc là mình muốn nghe nó đâu. - Dẫu sao tôi cũng sẽ kể cho ông nghe. Không nhúc nhích khỏi ghế bành, cô chìa chiếc ly rỗng về phía Fawles. Ông cầm chai Saint-Julien, đứng dậy để rót đầy ly của Mathilde rồi buông mình xuống trường kỷ. Ông hiểu rằng những chuyện nghiêm túc đang bắt đầu và toàn bộ chuyện còn lại chỉ là những lời ba hoa phù phiếm. Một khúc dạo đầu cho cuộc chạm trán thực sự giữa họ. - Câu chuyện bắt đầu ở châu Đại Dương vào đầu những năm 2000, Mathilde cất giọng. Một cặp đôi trẻ người gốc Paris, Apolline Chapuis và Karim Amrani, vừa đặt chân tới Hawaii, sau mười lăm giờ bay, để nghỉ hè tại đó. https://thuviensach.vn 5 Cô gái mang câu chuyện Không đau đớn nào lớn bằng việc phải mang trong mình một câu chuyện không được kể ra. Zora Neale HURSTON 2000 Câu chuyện bắt đầu ở châu Đại Dương vào đầu những năm 2000. Một cặp vợ chồng trẻ người Paris, Apolline Chapuis và Karim Amrani, đặt chân tới Hawaii sau mười lăm giờ bay, để nghỉ hè tại đó một tuần. Vừa tới nơi, họ liền vét sạch chiếc tủ lạnh nhỏ trong phòng khách sạn rồi chìm vào một giấc ngủ sâu. Ngày hôm sau rồi ngày kế tiếp, họ tận hưởng trọn vẹn vẻ quyến rũ của hòn đảo thuộc núi lửa Maui. Họ thực hiện những chuyến viễn du trong khung cảnh thiên nhiên được bảo tồn, chiêm ngưỡng những con thác nhỏ và những khoảng không gian phủ đầy hoa trong lúc hút cần. Họ làm tình trên những bãi biển cát mịn rồi thuê một chiếc tàu tư nhân để quan sát lũ cá voi ngoài khơi Lahaina. Ngày thứ ba, họ đang mải miết theo học một khóa lặn dưới đáy biển thì chiếc máy ảnh của họ rớt xuống đại dương. Hai thợ lặn dày dạn kinh nghiệm kèm cặp họ đã cố gắng tìm lại chiếc máy ảnh mà không được. Apolline và Karim đành cam chịu: họ đã mất toàn bộ ảnh chụp trong kỳ nghỉ. Tối ngày hôm ấy, sau hơn chục ly cocktail tại một trong vô số quán bar bãi biển, họ đã quên khuấy chuyện đó. https://thuviensach.vn 2015 Nhưng cuộc đời luôn ẩn chứa vô số bất ngờ. Nhiều năm sau, trong lúc chạy thể dục dọc bờ biển Vịnh Cát Trắng thuộc vùng Khẩn Đinh phía Nam Đài Loan, nghĩa là cách đó chín nghìn cây số, Eleanor Farago, một nữ doanh nhân người Mỹ, chợt nhìn thấy một vật mắc kẹt trong rặng đá ngầm. Bấy giờ đang là mùa xuân năm 2015. Lúc bảy giờ sáng. Bà Farago, vốn làm việc cho một chuỗi khách sạn quốc tế, đang dạo một vòng châu Á để thăm vài cơ sở của tập đoàn. Buổi sáng cuối cùng trong quãng thời gian lưu lại đó, trước khi lên máy bay về New York, bà đã đi chạy ở “Cát Trắng”, một dạng Côte d’Azur của địa phương. Bao quanh là đồi núi, bãi biển có cát mịn vàng óng, làn nước trong veo, nhưng cũng có vài rặng đá ngầm chìm sâu dưới biển. Eleanor phát hiện ra đồ vật bí hiểm kia chính tại đó. Bà chạy tới tận nơi, leo qua hai tảng đá, cúi xuống để gỡ nó ra. Đó là chiếc túi chống thấm đựng một chiếc máy ảnh hiệu PowerShot của hãng Canon. Bấy giờ bà còn chưa biết - mà nói đúng ra, bà sẽ không bao giờ biết được điều này -, nhưng chiếc máy ảnh của hai thanh niên người Pháp đã trôi dạt suốt mười lăm năm, theo những chướng ngại vật và dòng chảy, qua quãng đường gần mười ngàn cây số. Người phụ nữ Mỹ tò mò cầm món đồ đó lên rồi khi về đến khách sạn, bà cát nó vào một túi vải trong hành lý xách tay. Vài giờ sau, bà lên máy bay tại sân bay Đài Bắc. Cất cánh lúc 12h35, chuyến bay Delta Airlines của bà quá cảnh tại San Francisco rồi hạ cánh xuống New York, sân bay JFK, lúc 23h08, nghĩa là trễ ba tiếng so với dự kiến. Mệt nhoài và vội về nhà, Eleanor Farago để quên nhiều đồ trong khoang chứa hành lý đối diện ghế bà ngồi, trong số đó có chiếc máy ảnh kia. E kíp phụ trách dọn dẹp máy bay thu hồi cái túi rồi giao nộp cho bộ phận phụ trách đồ tìm thấy tại sân bay JFK. Ba tuần sau, một nam nhân viên của bộ phận này phát hiện trong đó có vé máy bay của bà Farago. Sau khi đối chiếu dữ liệu, anh ta để lại cho bà một tin nhắn trên hộp thư thoại cũng như mộc bức thư điện tử mà Eleanor Farago không bao giờ hồi âm. https://thuviensach.vn Theo trình tự quy chuẩn, bộ phận tiếp nhận đồ tìm thấy giữ chiếc máy ảnh trong chín mươi ngày. Sau thời hạn này, nó được bán lại cùng với hàng nghìn đồ vật khác cho một công ty ở Alabama vốn chuyên mua lại hành lý vô thừa nhận của các công ty Mỹ từ nhiều thập kỷ nay. * Đầu thu năm 2015, chiếc máy ảnh được bày trên kệ của Unclaimed Baggage Center: trung tâm của những hành lý vô thừa nhận. Nơi này không giống bất kỳ nơi nào khác. Mọi chuyện bắt đầu tự thập niên 1970, tại Scottsboro, một thành phố nhỏ thuộc hạt Jackson, cách Atlanta hai trăm cây số vế phía Bắc. Một công ty gia đình khiêm tốn đã nảy ra ý tưởng ký hợp đồng với các hãng hàng không để bán lại các hành lý thất lạc mà chủ nhân không xuất hiện. Thương vụ thành công đến nỗi theo năm tháng, việc kinh doanh đã trở thành một thiết chế thực sự. Năm 2015, các kho của Unclaimed Baggage Center mở rộng trên gần bốn nghìn mét vuông. Hơn bảy nghìn đồ vật mới được chuyển tới mỗi ngày bằng đầu kéo xe moóc từ các sân bay khác nhau trên đất Mỹ tới tận thị trấn nhỏ hẻo lánh giữa nơi gầm trời này. Những kẻ hiếu kỳ đổ về từ khắp chốn và thậm chí còn vượt qua cả biên giới nước Mỹ: kể từ đó, mỗi năm có cả triệu khách tham quan tìm tới nơi đây, nơi vừa: giống một siêu thị giảm giá lại vừa giống một bảo tàng những món đồ hiếm. Cả bốn tầng nhà ngồn ngộn những quần áo, máy vi tính, máy tính bảng, tai nghe, nhạc cụ, đồng hồ đeo tay. Một bảo tàng nhỏ thậm chí đã được lập nên ngay trong cửa hàng này để trưng bày những món đồ lạ lùng nhất lượm lặt được theo năm tháng: một cây vĩ cầm Ý có từ thế kỷ XVIII, một chiếc mặt nạ người chết Ai Cập, một viên kim cương 5,8 carat, thậm chí cả một bình đựng tro cốt người quá cố… Vậy là chiếc Canon PowerShot của chúng ta đã hạ cánh trên kệ trưng bày của cửa hàng kỳ lạ này. Nó ở lại đó, bên trong túi chống nước, nằm chất đống cùng những chiếc máy ảnh khác, từ tháng Chín 2015 đến tháng Mười hai 2017. 2017 https://thuviensach.vn Trong kỳ nghỉ Giáng sinh năm đó, Scottie Malone, bốn mươi tư tuổi, cùng con gái là Billie, mười một tuổi, hai cư dân của Scottsboro, lang thang trên những lối đi của Unclaimed Baggage Center. Mức giá được áp dụng trong cửa hàng đôi khi chỉ bằng một phần năm giá đồ mới, còn Scottie thì chẳng giàu có gì cho cam. Anh quản lý một ga ra trên con đường dẫn tới hồ Guntersville và nhận sửa chữa cả ô tô lẫn tàu thuyền. Từ khi vợ anh bỏ đi, anh cố gắng nuôi dạy con gái tốt nhất có thể. Ba năm trước, Julia đã một đi không trở lại vào một ngày mùa đông. Tối hôm ấy, khi về tới nhà, anh tìm thấy trên bàn bếp một mẩu giấy nhắn lạnh lùng thông báo cho anh biết tin. Chuyện này khiến anh đau lòng, dĩ nhiên - và nỗi đau vẫn còn dai dẳng tới tận hôm nay -, nhưng anh không hề bất ngờ. Nói đúng ra, anh vẫn luôn biết rằng một ngày nào đó vợ mình sẽ bỏ đi. Đâu đó trên một trong những trang của cuốn sách định mệnh có viết rằng những đóa hồng quá đẹp luôn sống cùng nỗi ám ảnh mình sắp héo tàn. Và đôi khi nỗi e sợ này khiến chúng phạm phải những hành động không thể vãn hồi. - Con muốn quà Giáng sinh là một hộp màu được không bố, Billie hỏi. Scottie gật đầu thay vì nói đồng ý. Hai bố con lên tầng trên cùng nới có gian hàng sách cũng như mọi thứ liên quan đến văn phòng phẩm. Họ lục lọi hơn mười lăm phút và tìm được một hộp mầu bột xinh xắn, những cây phấn màu dầu cùng hai bức toan trắng cỡ nhỏ. Niềm vui của con gái khiến Scottie thấy ấm lòng. Anh tự cho phép mình tiêu một khoản: một bản Thi sĩ của Michael Connelly hạ giá còn 0,99 đô. Chính Julia đã từng tiết lộ với anh quyền năng thần diệu của việc đọc. Chính cô là người suốt quãng thời gian dài đã khuyên anh đọc những đầu sách có khả năng khiến anh thích thú: truyện trinh thám, tiểu thuyết lịch sử và phiêu lưu. Dĩ nhiên không phải lúc nào ta cũng nhập tâm được vào câu chuyện, nhưng khi ta tìm thấy cuốn sách phù hợp, cuốn sách được tạo ra cho ta, cuốn sách mà ta tận hưởng từng chi tiết, từng mẩu đối thoại, từng suy nghĩ của các nhân vật, thì đó chính là cuộc đào thoát vĩ đại. Đúng thế, điều đó thực sự tốt hơn mọi thứ. Hơn Netflix, hơn những trận đấu bóng rổ của đội Hawks, và hơn tất cả https://thuviensach.vn những video ngu ngốc đang lưu hành trên mạng và biến bạn thành xác sống. Hai bố con đang xếp hàng ở quầy thu ngân thì Scottie bỗng phát hiện ra một cái giỏ trong đó dồn đống những món hàng thanh lý. Anh lục tung chiếc giỏ lớn có mắt lưới to đùng đó rồi moi ra được một bao vải căng phồng giữa vô số những món đồ thập cẩm. Bên trong bao vải là một chiếc máy ảnh compact kiểu cổ có giá 4,99 đô. Ngẫm nghĩ một lát, Scottie buông xuôi trước cám dỗ. Anh thích sửa chữa lặt vặt và vá víu tất cả những gì có trong tay. Mỗi lần như thế là một thử thách mà anh gán cho mình nghĩa vụ phải vượt qua. Bởi lẽ, mỗi khi phục hồi hoạt động cho các đồ vật cũ kỹ hỏng hóc, anh lại có cảm giác đang sửa chữa phần nào cuộc đời mình. * Về đến nhà, Scottie và Billie quyết định thỏa thuận rằng, mặc dù hôm đó mới là thứ Bảy ngày 23 tháng Mười hai, họ vẫn sẽ tặng quà cho nhau mà không cần chờ đến ngày Giáng sinh. Như vậy, họ sẽ có trọn vẹn dịp cuối tuần để tận hưởng món quà, vì thứ Hai Scottie còn phải tới ga ra làm việc. Năm đó trời lạnh. Scottie pha cho con gái một tách sô cô la nóng với những viên kẹo dẻo mini bồng bềnh như đám rêu trên bề mặt. Billie bật nhạc rồi dành cả buổi chiều để vẽ trong khi bố cô bé vừa đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám mới mua vừa nhấm từng ngụm nhỏ bia tươi. Chỉ tối đến - khi Billie bắt tay vào chuẩn bị món mì ống phô mai - thì Scottie mới mở bao vải đựng chiếc máy ảnh. Nhìn tình trạng lớp vỏ chống thấm, anh đoán chừng chiếc máy ảnh đã bị ngâm trong nước nhiều năm ròng. Anh cần một con dao có răng cưa để rạch lớp bảo vệ. Chiếc máy ảnh không còn hoạt động nữa, nhưng sau nhiêu nỗ lực, anh đã lấy được thẻ nhớ ra, có vẻ như chiếc thẻ không bị hư hại. Anh kết nối thẻ nhớ với máy tính cá nhân và sao chép được những bức ảnh lưu trong đó. Scottie săm soi loạt ảnh với đôi chút hưng phấn. Cảm giác được thâm nhập chốn riêng tư của những cá nhân mà anh không quen biết vừa khiến anh thấy mất tự nhiên lại vừa khơi gợi sự tò mò trong anh. Có khoảng bốn mươi bức ảnh. Những bức cuối cùng cho thấy một cặp đôi trẻ tuổi hư đốn https://thuviensach.vn trong một khung cảnh tựa thiên đường: bãi biển, làn nước màu lam ngọc, thiên nhiên um tùm tươi tốt, những bức ảnh chụp đủ loại cá rực rỡ sắc màu dưới nước. Có một bức ảnh chụp cặp đôi tạo dáng trước một khách sạn. Bức ảnh được chụp nhanh và cẩu thả, máy ảnh giơ cao phía trên đầu, một bức selfie đi trước thời đại với hậu cảnh là Aumakua Hotel. Sau vài cú nhấp chuột, Scottie đã tìm ra khách sạn này trên Internet: một khách sạn hạng sang ở Hawaii. Chắc hẳn chiếc máy ảnh này đã bị thất lạc, có lẽ nó bị rơi xuống biển. Scottie gãi đầu. Trong thẻ nhớ còn lưu những bức ảnh khác. Nhãn thời gian chỉ ra rằng chúng được chụp vài tuần trước những bức chụp tại Hawaii, nhưng lại không khớp với những bức ảnh đầu tiên. Trên đó là những con người khác, chắc chắn là tại một đất nước khác và trong một bối cảnh khác. Chiếc máy ảnh này từng thuộc về ai nhỉ? Thắc mắc đến đây, Scottie rời màn hình máy tính để ra ăn tối. Như anh đã hứa với con gái, hai cha con dành trọn buổi tối để xem “những bộ phim Giáng sinh nhát ma” - hôm đó là Lũ yêu quái Gremlins và Ác mộng trước Giáng sinh. Ngồi trước màn hình ti vi, Scottie tiếp tục suy nghĩ những gì anh vừa phát hiện ra. Anh uống thêm một chai bia, rồi một chai nữa, và thiếp đi trên trường kỷ. * Ngày hôm sau khi anh tỉnh dậy thì đã gần 10 giờ. Hơi ngượng vì đã ngủ lâu đến thế, anh phát hiện con gái đang chuyên tâm “làm việc” trước màn hình máy tính. - Bố có muốn con pha cho bố một tách cà phê không ạ? - Con biết mình không được phép tự ý dùng Internet mà! anh mắng con. Bất bình, Billie nhún vai rồi dằn dỗi đi sang bếp. Scottie nhìn thấy trên bàn làm việc, cạnh máy tính, một tờ giấy cũ gấp lại, giống một chiếc vé máy bay điện tử. - Con tìm thấy thứ này ở đâu vậy? https://thuviensach.vn - Trong cái túi vải nhỏ ạ, Billie nghếch mũi lên đáp. Scottie nheo mắt đọc thông tin ghi trên tấm vé. Đó là chuyến bay của hãng Delta Airlines xuất phát từ Đài Bắc ngày 12 tháng Năm 2015 tới New York. Nữ hành khách có tên Eleanor Farago. Scottie gãi đầu gãi tai, càng lúc anh càng không hiểu vấn đề là gì. - Con thì biết thừa đã xảy ra chuyện gì rồi nhé, con đã kịp suy nghĩ về chuyện đó trong khi bố ngủ khi như một con sóc chuột! Billie khẳng định vẻ đắc thắng. Cô bé ngồi vào trước máy tính, mở bản đồ địa cầu vừa tải xuống từ Internet. Rồi cô bé dùng một cây bút chỉ một vùng đất nhỏ giữa Thái Bình Dương. - Chiếc máy ảnh đã bị một cặp đôi lặn biển làm mất tại Hawaii vào năm 2000, cô bé vừa bắt đầu vừa cho lướt qua màn hình những bức ảnh chụp gần thời điểm hiện tại nhất. - Đến đây thì bố con ta cùng quan điểm, bố cô bé vừa tán thành vừa đeo kính vào. https://thuviensach.vn Billie chỉ tấm vé máy bay đoạn vạch một mũi tên dài xuyên qua đại dương, từ Hawaii đến Đài Loan. - Rồi chiếc máy ảnh bị cuốn theo các dòng chảy, trôi dạt tới tận bờ biển Đài Loan, nơi nó được người phụ nữ này, bà Fagaro, tìm thấy vào năm 2015. - Sau đó, người này đã bỏ quên nó trên chuyến bay quay trở lại Mỹ chăng? - Vâng, Billie gật đầu đáp. Vì chính vì thế mà nó lọt vào tay bố con ta. Cô bé chăm chú hoàn thành tấm giản đồ của mình bằng một mũi tên khác kéo dài tới New York, rồi bằng một dài gạch nối kéo dài đến tận thành phố nhỏ nơi họ sống. Scottie ấn tượng mạnh với khả năng suy diễn của con gái. Billie đã tái lập một phiên bản gần như đầy đủ của tấm hình ghép. Mặc dù một phần bí ẩn vẫn còn đó: - Theo con thì những người xuất hiện trên những bức ảnh đầu tiên là ai? - Con không biết, nhưng con nghĩ họ là người Pháp. - Sao lại thế? - Quạ các khung cửa sổ, ta có thể thấy những mái nhà Paris, Billie đáp ngay. Và đằng kia, chính là tháp Eiffel. - Bố cứ nghĩ tháp Eiffel ở Las Vegas chứ nhỉ. - Bố này nữa! - Bố đùa thôi, Scottie gật đấu đáp, cùng lúc nhớ lại có lần anh từng hứa với Julia là sẽ đưa cô tới Paris, và lời hứa này đã mai một dần theo những ngày, những tuần, những tháng, những năm khiến cuộc sống thường nhật cùn mòn đi. Anh vẫn săm soi hết ảnh Paris lại tới ảnh ở Hawaii. Dù không biết tại sao, nhưng anh như bị thôi miên bởi loạt hình ảnh liên tiếp này. Như thể ẩn giấu đằng sau hai lớp cảnh ấy là một thảm kịch âm ỉ. Như thể trong đó có một bí ẩn cần khám phá, xứng tầm những tình tiết có trong đống sách trinh thám mà anh vẫn thường ngấu nghiến. https://thuviensach.vn Anh có thể làm gì với những bức ảnh này đây? chẳng có bất kỳ lý do nào để anh giao chúng cho cảnh sát, tuy thế, một giọng nói nội tâm khe khẽ vẫn nhắn nhủ rằng anh cần phải cho ai đó xem chúng. Có lẽ là cho một phóng viên chăng? Và ưu tiên một phóng viên Pháp. Nhưng Scottie lại không nói được từ tiếng Pháp nào. Anh cảm ơn con gái vừa đưa anh một tách cà phê đen. Rồi cả hai bố con ngồi vào trước màn hình máy tính. Trong giờ tiếp theo, sau khi ra sức mò mẫm và gõ các từ khóa vào công cụ tìm kiếm, họ đã tìm ra đối tượng phù hợp với hồ sơ được xác định từ trước: một nữ nhà báo người Pháp từng học tập tại New York và lấy bằng Thạc sĩ Khoa học của đại học Columbia. Sau đó cô quay trở lại châu Âu và hiện đang làm việc cho một tờ nhật báo Thụy Sĩ. Billie tìm ra địa chỉ mail của cô trên trang web của tờ báo kia, rồi ông bố và cô con gái cùng thảo một bức thư điện tử để giải thích khám phá cùng cảm tưởng của họ khi đối diện một bí ẩn. Để củng cố cho lời lẽ trong thư, họ gửi kèm một số bức ảnh chọn lọc. Rồi họ gửi thông điệp của mình đi như thả một lá thư trong chai xuống biển. Nữ phóng viên đó tên là Mathilde Monney. THIÊN THẦN TÓC VÀNG Trích đoạn chương trình Nước xuýt văn hóa Phát sóng trên kênh France 2 ngày 20 tháng Mười một năm 1998 (Một bối cảnh sang trọng và tối giản: rèm màu kem xếp nếp, những cây cột kiểu cổ, kệ sách ảo trông như được tạc vào đá cẩm thạch. Khách mời ngồi trên những chiếc ghế bành da màu đen quây quanh một chiếc bàn thấp. Bernard Pivot mặc áo vest vải tweed, đeo cặp kính hình bán nguyệt, mỗi lần đặt câu hỏi lại liếc qua những tờ phiếu giấy Bristol.) Bernard Pivot: Chúng ta đã trễ giờ quá rồi Nathan Fawles ạ, nhưng trước khi trả sóng, tôi vẫn muốn anh trả lời bảng câu hỏi truyền thống của chương trình. Câu hỏi đầu tiên: từ ưa thích của anh là gì? Nathan Fawles: Ánh sáng! https://thuviensach.vn Pivot: Từ anh ghét? Fawles: Thói nhìn trộm, xấu cả về ý nghĩa lẫn âm điệu. Pivot: Chất gây nghiện ưa thích của anh? Fawles: Whisky Nhật Bản. Đặc biệt là loại Bara No Niwa mà nhà máy sản xuất đã bị phá hủy trong thập niên 1980 và… Pivot: Thôi nào! Thôi nào! Chúng ta không thể quảng cáo một nhãn rượu trên sóng truyền hình đại chúng được! Câu hỏi tiếp theo: âm thanh, tiếng động mà anh thích? Fawles: Sự im lặng. Pivot: Âm thanh, tiếng động mà anh ghét? Fawles: Sự im lặng. Pivot: A ha! Câu chửi thề, rủa xả hoặc báng bổ anh thích nhất? Fawles: Lũ ngu đần. Pivot: Câu đó không được văn vẻ cho lắm nhỉ! Fawles: Tôi chẳng bao giờ biết cái gì là ‘văn vẻ” và cái gì không. Raymond Queneau chẳng hạn, đã sử dụng từ này trọng cuốn Những bài tập phong cách. “Sau một quãng thời gian chờ đời ngột ngạt dưới cái nắng khốn kiếp, rốt cuộc tôi cũng leo lên một chiếc xe khách bẩn thỉu nơi một lũ ngu đần đang ngồi sát vào nhau.” Pivot: Đàn ông hay phụ nữ để minh họa cho một tờ tiền mới? Fawles: Alexandre Dumas, người đã kiếm được nhiều trước khi mất tất cả, và người nhắc nhở một cách thích đáng rằng tiền là tên đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ tồi. Pivot: Anh thích được tái sinh thành cây thân cỏ, cây thân gỗ hay động vật? Fawles: Một chú chó, bởi chúng thường nhiều tính người hơn cả con người. Anh biết câu chuyện về chú chó của Levinas chứ? Pivot: Không, nhưng anh sẽ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đó vào một lần khác. Câu hỏi sau cùng, nếu Chúa Trời tồn tại, anh muốn nghe thấy Ngài nói gì với chính anh sau khi anh chết hả Nathan Fawles? https://thuviensach.vn Fawles: “Con đã không hoàn hảo, Fawles ạ… Nhưng ta cũng không nốt!” Pivot: Cảm ơn anh vì đã tới, chúc tất cả quý vị buổi tối tốt lành và hẹn gặp lại vào tuần sau. (Nhạc nền phần giới thiệu, cuối chương trình: Đêm có ngàn mắt, Sonny Rollins diễn tấu bằng kèn saxophone.) https://thuviensach.vn 6 Kỳ nghỉ của nhà văn Một nhà văn không bao giờ có kỳ nghỉ. Đối với một nhà văn, cuộc sống chính là viết, hoặc nghĩ đến chuyện viết. Eugène IONESCO Thứ Tư ngày 10 tháng Mười 2018 1. Ngày vẫn chưa rạng. Fawles thận trọng bước xuống từng bậc cầu thang, chú chó theo bén gót. Trong phòng ăn, chiếc bàn gỗ mộc vẫn ngổn ngang đồ thừa từ bữa ăn hôm trước. Mí mắt nặng trĩu và tâm trí mù mờ, nhà văn dọn dẹp căn phòng bằng những động tác máy móc, đi tới đi lui giữa phòng khách và bếp. Dọn xong, ông cho Bronco ăn uống rồi pha một bình lớn cà phê. Sau cái đêm vừa trải qua, ông những muốn có thể tự tiêm cho mình một liều cafein vào tĩnh mạch để đi xuyên qua màn sương mù nơi ông đang lạc lối. Cầm chiếc cốc nóng bỏng trên tay, Fawles ra sân hiên đứng mà thốt rùng mình. Những vệt hồng cẩm chướng di động đang tan loãng vào màu xanh thẫm của tấm voan trời. Gió mistral(11) đã thổi suốt đêm và đang tiếp tục quét qua bờ biển. Không khí khô và lạnh, như thể trong vài giờ, thời tiết đã chuyển từ hè sang đông mà không có sự chuyển tiếp. Nhà văn kéo khóa chiếc áo pull cho kín cổ rồi ngồi xuống bên chiếc bàn kê trong một góc kín https://thuviensach.vn của sân hiên. Một tổ kén nhỏ, khuất gió và quét vôi trắng, dùng làm sân trong. Vẻ trầm ngâm, Nathan tua lại bộ phim dựa trên câu chuyện của Mathilde rồi cố gắng ghép nối các mẩu theo một trật tự cố kết chặt chẽ. Vậy là nữ phóng viên đã nhận được mail liên hệ từ một gã nhà quê vùng Alabama, trước đó người này đã tậu một chiếc máy ảnh cũ trong một siêu thị chuyên bán lại những món đồ bị bỏ quên trên máy bay. Chiếc máy ảnh có lẽ đã bị hai du khách người Pháp đánh rơi xuống Thái Bình Dương từ năm 2000 và mười lăm năm sau, nó được tìm thấy trên một bãi biển tại Đài Loan. Nó chứa nhiều bức ảnh mà theo Mathilde ám chỉ, rất có thể che giấu một thảm kịch. - Vậy có gì trên những tấm ảnh ấy? Fawles đã hỏi như thế khi người phụ nữ trẻ dừng kể. Cô nhìn ông chòng chọc bằng ánh mắt sáng long lanh. - Tối nay chỉ có vậy thôi, Nathan. Ngày mai ông sẽ được nghe phần tiếp theo của câu chuyện, chúng ta hẹn nhau buổi chiều tại vũng bờ đá Rặng Thông nhé? Thoạt tiên ông còn nghĩ cô đùa, nhưng cô nàng đã uống cạn ly Saint Julien rồi đứng dậy rời khỏi ghế bành. - Cô giỡn mặt tôi đấy hả? Cô đã mặc lại chiếc áo da dáng ngắn, vơ chùm chìa khóa ô tô để trên khay ở lối vào rồi gãi nhẹ đầu Bronco. - Cảm ơn vì món ragu và rượu vang. Ông chưa từng nghĩ tới chuyện mở nhà hàng sao? Tôi chắc chắn ông sẽ thành công vang dội đấy. Rồi cô rời ngôi nhà với vẻ kiêu căng phách lối mà không chịu nói gì thêm. Ngày mai ông sẽ được nghe phần tiếp theo của câu chuyện… Câu nói ấy khiến ông giận điên. Cô ta tự cho mình là ai chứ, cái ả Seherazade giả hiệu này? Cô ta muốn tạo ra phút chờ đợi hồi hộp nho nhỏ, thách thức tiểu thuyết gia trên chính lãnh địa riêng của ông, chứng minh https://thuviensach.vn cho ông thấy cô ta cũng có khả năng khiến những kẻ lắng nghe câu chuyện cô ta kể phải thao thức trắng đêm. Đồ khốn tinh tướng… Fawles nuốt ực ngụm cà phê cuối cùng rồi cố gắng trấn tĩnh lại. Bản trường ca Odyssée về chiếc máy ảnh kỹ thuật số kia còn hơn cả thú vị. Nó có tiềm năng tiểu thuyết nhất định, mặc dù ngay lúc này ông không rõ lắm là nó có thể dẫn dắt tới đâu. Nhất là, ông không hiểu tại sao Mathilde lại khẳng định câu chuyện này có liên quan tới ông, chính ông? Ông chưa từng đặt chân tới cả Hawaii lẫn Đài Loan, lại càng chưa tới Alabama. Nếu câu chuyện có liên quan tới ông, vậy thì chỉ có thể là liên quan thông qua nội dung các bức ảnh, nhưng trong số những cái tên cô ta đã nêu - Apolline Chapuis và Karim Amrani - chẳng cái tên nào gợi nhắc ông điều gì. Tuy nhiên, ông cảm nhận rõ rằng toàn bộ chuyện này không hề vô thưởng vô phạt. Đằng sau màn diễn ấy đang ngầm ẩn điều gì đó nghiêm trọng hơn một trò quyến rũ văn chương đơn giản. Cô gái này tìm kiếm gì nhỉ, mẹ kiếp? Dẫu sao thì trước mắt, cô ta cũng đã thành công, bởi đêm qua ông không sao chợp mắt nổi. Ông cảm thấy mình mắc bẫy như một gã lính mới. Tệ hơn nữa: ông đang phản ứng chính xác như cô ta trông đợi. Khốn kiếp… Ông không thể bằng lòng với việc cam chịu hoàn cảnh nữa rồi. Ông phải hành động, tìm hiểu thêm về cô gái này trước khi cái bẫy cô ta giăng chụp xuống ông. Nét mặt căng thẳng, Nathan xoa hai bàn tay lạnh buốt vào nhau. Muốn điều tra thật sự, nhưng ông không có chút ý tưởng nào về cách thức tiến hành. Không có Internet nên ông chẳng thế tìm kiếm nếu cứ ru rú trong nhà, và mắt cá chân cứng đờ, sưng phồng, đau nhức của ông đã trở thành một bất lợi thực thụ. Thêm một lần nữa, phản xạ đầu tiên của ông là gọi điện cho Jasper Van Wyck. Nhưng Jasper đang ở xa. Cậu ta có thể tiến hành vài tìm kiếm trên mạng cho ông, nhưng không phải cánh tay đắc lực trong cuộc phản công Mathilde. Fawles có nghĩ tới nghĩ lui cũng vô ích, ông buộc phải thừa nhận mình không thể giải quyết vấn đề chỉ bằng cách nhờ cậy. Ông cần ai đó tháo vát, sẵn sàng đương đầu với hiểm nguy. Ai đó ủng hộ sự nghiệp của ông và không đặt ra ngàn lẻ một câu hỏi. https://thuviensach.vn Một cái tên hiện ra trong tâm trí ông. Ông rời khỏi ghế, quay vào trong phòng khách để gọi điện. 2. Tôi nằm co ro trên giường, tứ chi run lập cập. Hẳn là nhiệt độ đã sụt mười độ so với ngày hôm qua. Lúc đi nằm, tôi đã nghĩ đến việc bật lò sưởi gang trong phòng mình, nhưng nó vẫn lạnh ngắt một cách tuyệt vọng. Cuộn tròn trong chăn, tôi nhác thấy ngày đang lên qua cửa sổ nhưng khó khăn lắm tôi mới ra được khỏi giường, lần đầu tiên kể từ khi ở đây. Việc phát hiện ra xác của Apolline Chapuis và lệnh phong tỏa do tỉnh ban hành đã khiến Beaumont biến đổi. Chỉ trong chưa đầy hai ngày, thiên đường Địa Trung Hải bé nhỏ bỗng nhiên biến thành một hiện trường vụ án khổng lồ. Chấm hết sự thân thiện, những ly rượu khai vị vui vẻ, nét hiền lành ngây thơ quen thuộc của dân đảo. Ngay đến thời tiết ấm áp cũng vội vã ra đi. Kể từ đây, bầu không khí ngờ vực bao trùm khắp nơi. Và hôm nay, áp lực lại tăng thêm một bậc khi một tuần san quốc gia giật tít “Những bí ẩn đen tối của đảo Beaumont” trên trang bìa. Như thường thấy trong dạng hồ sơ được dàn dựng vội vàng này, chẳng có gì là thật. Những bài báo là một mớ thông tin không được kiểm chứng và những cắt cúp đánh lừa chỉ cung cấp những nhan đề và tiêu đề mang tính chèo kéo. Beaumont xuất hiện khi thì như hòn đảo của các triệu phú - nếu không muốn nói là các tỷ phú -, lúc lại như sào huyệt của những kẻ chủ trương độc lập ngoan cố mà nếu đặt cạnh nhau thì các thành viên của Mặt trận Giải phóng Quốc gia FLNC-Canal lịch sử chẳng khác nào lũ gấu bông Bisounour. Gia đình Gallinari, những chủ sở hữu người Ý hết sức kín tiếng, cũng là chủ đề nuôi ảo tưởng. Mọi chuyện xảy ra như thể cần phải có thảm kịch kia để toàn thể nước Pháp phát hiện ra sự tồn tại của vùng đất này. Về phần các phóng viên nước ngoài, họ chẳng có gì để ganh tị và cả họ nữa, họ cũng thích thú tiếp sức cho những tin đồn kỳ cục nhất. Sau đó, các cơ quan báo đài sao chép lại của nhau, đồng thời bóp méo thêm đôi chút những thông tin ban đầu, rồi trút toàn bô những thứ đó vào chiếc máy xay vĩ đại của các mạng xã hội để cho ra một thứ hồ đồ vừa dối trá vừa vô nghĩa, chỉ còn chức https://thuviensach.vn