🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn PHẦN THỨ NHẤT https://thuviensach.vn I Vụ Án Ngân Hàng Trung Ương Không có mấy trọng tội khêu gợi được lòng tò mò của dân chúng như cuộc tấn công ăn cướp táo bạo, nổi tiếng dưới cái tên “Vụ cướp Ngân hàng Trung ương”. Vụ án đã xảy ra ở chi nhánh DK thuộc Ngân hàng Trung ương, cạnh thị trường chứng khoán Luân Đôn, mà bấy giờ ông Lewis Robert Buxton đang phụ trách. Chi nhánh đặt trong một sảnh lớn, được ngăn ra thành những phần không bằng nhau bởi chiếc bàn gỗ sồi dài. Bên trái cửa vào, sau chấn song sắt là nơi nhận phát tiền, ăn thông với gian làm việc của nhân viên bằng một cửa lớn ngay ngoài chấn song. Bên phải, cuối chiếc bàn gỗ sồi là cánh cửa tự khép, cho phép đi từ khu khách đợi vào gian làm việc của các nhân viên. Sâu bên trong nữa là văn phòng của giám đốc chi nhánh. Một hành lang chạy suốt từ gian của các nhân viên ra tiền sảnh của ngôi nhà... Một bên, tiền sảnh đi ngang qua trước mặt người gác cửa. Bên kia, ở chỗ cầu thang chính, nó tiếp giáp với cửa ra vào có hai cánh bằng kính, chắn lối xuống tầng hầm và lên cầu thang phụ. Khung cảnh nơi xảy ra tấn thảm kịch bí ẩn đó là thế. Vào lúc 5 giờ kém 20 phút, khi tấn thảm kịch bắt đầu, năm nhân viên đang làm những việc thường ngày. Viên thủ quỹ ngồi đếm tiền sau song sắt. Tổng số tiền mặt thu được trong ngày hôm ấy rất lớn: 72.079 bảng, 2 silinh và 4 penxơ. Hai mươi phút nữa chi nhánh sẽ đóng cửa và các nhân viên có thể ra về sau một ngày lao động. Lúc ấy cửa mở và một người bước vào. Hắn đưa mắt liếc nhanh văn phòng, xoay nửa người lại và giơ tay phải lên, chắc là để ra hiệu cho đồng https://thuviensach.vn bọn đang đứng trên vỉa hè. Ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón tay giữa của hắn diễn tả rõ ràng con số 3. Sau khi ra hiệu, hắn đóng cửa lại rồi bước vào giữa văn phòng và xếp hàng sau một người khách, tỏ ý chờ người nọ làm xong việc và ra về. Một trong hai nhân viên rỗi việc đứng lên hỏi: — Ngài cần gì, thưa ngài? — Cám ơn ông – gã mới vào trả lời, – tôi đợi cũng được. Anh nhân viên ngồi xuống, tiếp tục công việc của mình. Gã đàn ông chờ đợi và không ai chú ý đến hắn cả. Tuy nhiên, bề ngoài của hắn rất lạ. Đó là một người cao to, khỏe mạnh. Căn cứ vào chiều rộng của đôi vai thì biết hắn có sức mạnh phi thường. Bộ râu màu vàng tuyệt mỹ viền quanh khuôn mặt ngăm ngăm đen, không thể đoán ra địa vị xã hội của hắn vì chiếc áo khoác dài đã che lấp hết quần áo. Khi một khách hàng xong việc, gã mặc áo khoác dài đứng vào chỗ của ông ta và bắt đầu nói chuyện với nhân viên. Lúc ấy ông khách kia đã mở cửa bước ra khỏi chi nhánh. Cánh cửa khép lại từ từ, để cho nhân vật thứ hai, lạ kỳ như tên thứ nhất, bước vào. Hắn giống hệt tên thứ nhất: cũng cao to như thế, cũng có đôi vai rộng bấy nhiêu, cũng bộ râu vàng bao quanh khuôn mặt rám nắng, cũng chiếc áo dài phủ kín quần áo. Nhân vật thứ hai hành động y như kẻ giống gã. Hắn kiên nhẫn đứng đợi sau hai người khách hàng còn đứng bên bàn viết. Rồi sau khi đến lượt, hắn bắt chuyện với nhân viên rỗi việc, lúc đó người khách hàng kia đã bước ra phố. Như lần trước cánh cửa lại mở ra ngay. Người thứ ba bước vào, đứng xếp hàng sau ba người khách đầu, hắn cao trung bình, vai rộng và vạm vỡ, mặt đỏ và bộ râu đen. Hắn vừa khác lại vừa giống hai tên vào trước. Cuối cùng, khi người khách sau cùng trong số ba vị khách còn lưu lại trong chi nhánh xong việc và rời chỗ thì cửa mở ra cho hai người cùng vào. Họ vận áo măng tô dài. Bộ râu rậm điểm tô cho khuôn mặt đỏ của họ. Họ tiến vào cũng không bình thường: người cao hơn đi trước và vừa mới bước qua khỏi cửa, hắn đã dừng lại để che cho đồng bọn của hắn. Tên kia giả vờ bị vướng vào quả nắm ở cửa rồi làm gì đó rất bí ẩn, việc xảy ra chỉ trong khoảnh khắc và cửa đóng lại ngay, nhưng nắm cửa phía bên ngoài đã https://thuviensach.vn biến mất. Như vậy, không một ai ngoài phố có thể vào văn phòng được nữa. Ngoài ra, trên cửa còn xuất hiện một bản thông báo: Chi nhánh đã đóng cửa. Các nhân viên không hề hay biết rằng họ đã bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hai nhân viên rỗi việc bước vội về phía những người mới đến. Người sau bắt chuyện. Trong khi đó, người khách cao hơn muốn được trao đổi với ông giám đốc chi nhánh vài việc. — Để tôi xem ông ấy có ở đây không đã, – một nhân viên nói. Anh ta biến đi trong giây lát rồi trở lại ngay. — Xin mời ngài vào đi! – anh nhân viên đề nghị và mở cánh cửa tự khép ở chỗ cuối chiếc bàn. Người mặc áo măng tô bước vào phòng làm việc của ông giám đốc. Lúc đó anh nhân viên đóng cửa lại và trở về chỗ làm việc của mình. Chuyện gì đã xảy ra giữa ông giám đốc và người khách hàng của ông ta? Về sau các nhân viên của chi nhánh quả quyết rằng họ không hay biết gì về màn kịch diễn ra bên trong cánh cửa đã đóng kín đó. Chỉ có một điều chắc chắn là chưa đầy hai phút sau, cánh cửa lại mở ra và người mặc áo măng tô hiện ra nơi ngưỡng cửa. Hắn nói bằng giọng hoàn toàn bình tĩnh: — Mời... Ngài giám đốc muốn nói chuyện với thủ quỹ. — Vâng, thưa ông – một nhân viên rỗi việc đáp. Anh ta quay lại gọi to: – Store, giám đốc gọi anh. — Tôi đi ngay đây – viên thủ quỹ trả lời. Với tính cẩn thận vốn có của những người làm nghề thủ quỹ, ông ta bỏ chiếc cặp và ba cái bị đựng toàn bộ số tiền giấy và xu vào tủ sắt chống cháy, đóng tủ và sập cửa sổ xuống. Ông ta bước ra ngoài cửa chấn song, cẩn thận đóng nó lại rồi bước về phòng thủ trưởng. Người khách đang đứng đợi ông tránh ra một bên và vào theo. Khi đã vào bên trong phòng làm việc của giám đốc, Store bối rối vì căn phòng trống không. Nhưng ông không có đủ thời gian để lý giải: hai bàn tay rắn như thép đã thộp lấy cổ họng của ông. Ông định vùng vẫy, la hét song vô https://thuviensach.vn ích vì đôi bàn tay sát nhân cứ siết chặt mãi cho tới khi ông ngã vật xuống tấm thảm, bất tỉnh nhân sự. Không một tiếng động nào phát ra từ hành động tấn công dữ tợn này. Ở gian lớn, các nhân viên vẫn thản nhiên tiếp tục công việc: Bốn nhân viên đang tiếp mấy người khách đứng bên kia bàn, còn nhân viên thứ năm lo tính toán. Tên mặc áo măng tô lau mồ hôi trán rồi cúi xuống người nạn nhân. Hắn nhanh nhẹn trói và bịt miệng ông ta lại. Xong việc, hắn hé cửa và liếc mắt vào gian lớn. Hài lòng với điều mới kiểm tra, hắn bật ho như thể báo cho bốn gã khách đến sau phải chú ý rồi đẩy cửa ra. Đó chắc chắn là tín hiệu đã được quy ước trước cho một màn kịch hết sức quái gở. Tên mặc áo măng tô nhảy một bước dài vào gian lớn, hùng hổ bổ nhào xuống anh nhân viên tính toán đơn độc và bóp cổ anh ta không thương xót. Gã khách đứng ở cuối bàn vọt qua cánh cửa nhỏ và quật ngã anh nhân viên đứng trước mặt hắn. Hai trong số ba khách hàng khác thì vươn tay qua bàn nắm cổ những người tiếp chuyện với mình và dộng đầu họ xuống mặt bàn gỗ sồi rất dã man. Tên thấp người còn lại thì nhảy lên bàn chộp cổ đối thủ. Không một tiếng kêu. Sự việc xảy ra không quá ba mươi giây. Việc hành hung chấm dứt. Các nạn nhân ngất xỉu. Kế hoạch tấn công được vạch ra rất tỉ mỉ. Bọn cướp rút ngay đồ nghề trong túi ra. Chúng nhét bông vào miệng các nhân viên ngân hàng và bịt lại, dù rằng việc này rất nguy hiểm cho tính mạng của họ. Chúng trói tay họ ra sau lưng, cột chặt chân và quấn dây thép quanh thân thể họ. Mọi việc làm xong trong nháy mắt. Năm tên cùng đứng lên. — Rèm che! – Gã đã yêu cầu gặp ông giám đốc ra lệnh. Có lẽ, hắn là tên chỉ huy. Ba tên cướp lao ngay đến chỗ tay quay cửa kính. Tấm bịt cửa bắt đầu buông xuống và từ từ làm dịu đi tiếng ồn ào từ ngoài phố vọng vào. https://thuviensach.vn Bọn cướp bắt đầu lục soát két sắt. Các giấy tờ quan trọng, cổ phiếu và công trái bị vứt bừa bãi khắp sàn nhà. Giấy bạc và vàng được chia thành năm phần – theo số lượng bọn cướp. — Gượm đã! – tên cầm đầu lên tiếng – Bọn ta thỏa thuận với nhau mấy việc. Khi tao ra, chúng mày phải ở lại đây. Sau đó, – hắn nói tiếp và chỉ vào cái hành lang thông sâu vào gian phòng. – chúng mày ra bằng đường này. Thằng nào ra cuối cùng sẽ vặn khóa cửa hai vòng rồi quẳng chìa khóa xuống cống. – Hắn chỉ vào phòng làm việc của viên giám đốc: – Chúng mày không được quên thằng cù lần đó. Chúng mày nhớ lệnh của tao chưa? — Nhớ, nhớ ạ! – bọn kia trả lời hắn. – Đại ca cứ yên tâm! — Chúng mày cứ quẳng áo khoác vào xó nhà. Thây kệ cho bọn chó tìm thấy mấy cái áo này. Điều quan trọng là chúng nó sẽ không còn nhìn thấy áo khoác trên người bọn ta nữa. Bọn ta sẽ gặp nhau ở chỗ mà chúng mày đã biết... Thôi tẩu đi! 5 giờ 30, ông Lasone, kiểm soát viên của ngân hàng, gọi điện đến chi nhánh DK nhưng không có ai trả lời ông, vì bọn cướp đã giật đứt ống nói mất rồi. Chúng sợ chuông điện thoại réo dài làm cho những người ở gần đấy chú ý. Ông kiểm soát viên hài lòng vì có dịp quở trách cô điện thoại viên. Nhưng thời gian cứ trôi nên ông lại thử gọi một lần nữa. Vẫn vô tích sự như lần trước. Trạm điện thoại quả quyết rằng chi nhánh không trả lời. Ông kiểm soát viên phái cậu loong toong của ngân hàng đến xem tại sao chi nhánh không trả lời. 6 giờ 30, cậu loong toong trở về báo rằng chi nhánh đã đóng cửa và không có ai ở bên trong. Ông kiểm soát viên ngạc nhiên vì hôm đó là một trong những ngày cuối tháng, mà đôi khi nhân viên phải làm việc đến tận 9 giờ tối. Tức thì, ông gọi điện đi khắp nơi. Gần 8 giờ, với sự giúp đỡ của một anh thợ nguội được mời đến, đội cảnh sát đặc biệt mới mở được cửa của chi nhánh DK. Bạn đọc đã biết người ta tìm thấy những gì trong đó. Công tác điều tra được tiến hành ngay. Rất may, không một nhân viên nào của chi nhánh thiệt mạng. Họ nằm bất tỉnh khi mọi người đến cứu. https://thuviensach.vn Sau hồi lâu chăm sóc, người ta đã làm cho họ tỉnh lại. Song họ chỉ có thể cung cấp được những tin tức hết sức nghèo nàn: Năm người có râu, mặc áo khoác dài và măng tô đã tấn công và quật ngã họ. Họ không biết gì hơn. Chẳng thể nghi ngờ về lòng thành khẩn của họ. Trong góc phòng còn có năm chiếc áo khoác như thể bọn tội phạm muốn để lại vết tích của chúng. Hơn nữa, mấy chiếc áo được các thám tử giỏi nhất sở cảnh sát thủ đô xem xét kỹ lưỡng nhưng không cung cấp cho cuộc điều tra một manh mối nào. Áo may bằng loại vải thông thường. Không có nhãn hiệu của thợ may hay cửa hàng. Viên dự thẩm không biết gì hơn. Ông ta hoài công tra hỏi mấy nhân chứng. Không thể moi được gì từ họ. Nhân chứng quan trọng cuối cùng là người gác cửa. Cửa ra vào chi nhánh bị khóa lại ở bên trong, vì vậy bọn tội phạm đã thoát ra qua tiền sảnh và người gác cửa nhất định phải trông thấy bọn chúng. Nhưng hôm ấy, ông ta không nhận thấy điều gì khả nghi cả. Sau một hồi vắt óc, ông ta mới nêu ra được tên của bốn người thuê nhà đã đi qua tiền sảnh mấy phút trước hoặc sau khi xảy ra vụ án. Họ bị hỏi cung ngay. Thì ra họ là những người rất mực trung thực và ra ngoài để ăn chiều. Ông gác cửa còn nói về một người bán than. Anh ta mang một cái bao tải to, đến vào khoảng 7 giờ 30, trước khi cảnh sát xuất hiện một lúc. Ông gác cửa chú ý đến anh ta chỉ vì thường thường người ta không mang than đến vào giờ đó. Anh ta khẩn khoản xin gặp người thuê nhà ở tầng năm đến mức ông gác cửa phải để cho anh vào và chỉ cầu thang phụ cho đi. Người bán than đi lên, nhưng 15 phút sau đã trở xuống, mang theo cái bao tải của mình. Khi ông gác cửa hỏi thì anh ta nói là bị nhầm địa chỉ. Anh ta nói bằng cái giọng ngắt quãng của người mang vác nặng lên tầng năm. Ra đến ngoài đường, anh ta đặt cái bao tải lên xe ba gác và thong thả kéo đi. — Thế ông có biết – viên dự thẩm hỏi – người bán than ấy của cửa hàng nào không? Ông gác cửa không biết. Viên dự thẩm đã hỏi cung người thuê nhà ở tầng năm. Anh chàng bán than quả có gọi cửa phụ lúc gần 7 giờ 30. Cô hầu nói anh ta bị nhầm và anh https://thuviensach.vn ta bỏ đi luôn mà không hề nài nỉ đòi mở cửa. Song chứng cứ về điểm này không khớp với nhau vì cô hầu ở tầng năm tuyên bố rằng anh ta không mang theo cái bao nào cả. — Anh ta đã để cái bao dưới nhà khi leo lên tầng năm – viên dự thẩm lý giải. Rồi sau té ra rằng lời giải thích ấy không đúng vì người ta đã tìm thấy than dưới tầng hầm. Rõ ràng người bán than bí ẩn đã dốc sạch cái bao mang than ra đó. Nhưng anh ta đã mang đi cái gì, vì theo lời khai của ông gác cửa thì lúc bỏ đi, cái bao vẫn to, nặng như lúc anh ta đến? — Chúng ta tạm thời gác việc này lại, – viên dự thẩm kết luận, ông không muốn giải quyết vấn đề vượt quá sức mình. – Nội vụ sẽ được làm sáng tỏ vào ngày mai, – ông đang lần theo dấu vết mà ông cho là quan trọng nhất và không muốn mình bị chệch hướng. Quả thật, tất cả nhân viên của chi nhánh đều có mặt đông đủ. Nhưng nhân vật quan trọng nhất, ông giám đốc Lewis Robert Buxton lại biến đâu mất. Các nhân viên không thể giải thích được việc này. Kết luận tự nó đã hình thành: nếu như đã tin rằng chi nhánh bị năm tên cướp thay hình đổi dạng tấn công thì cũng phải tin rằng bọn chúng có tay trong và kẻ đồng lõa ấy chính là viên giám đốc. Đó là lý do tại sao chưa điều tra xong mọi chi tiết mà đã có lệnh bắt giữ Lewis Robert Buxton, giám đốc chi nhánh DK thuộc Ngân hàng Trung ương. Đặc điểm nhân dạng của ông ta đã được thông báo đi khắp nơi. Kẻ bị truy nã chưa thể rời khỏi nước Anh. Chắc chắn hắn sẽ bị bắt ngay trong nước hoặc ở bến cảng. Tự an ủi lòng mình bằng viễn cảnh êm ái đó, viên dự thẩm và các thám tử về nghỉ. Đêm ấy, có năm người rám nắng, số còn để râu, số đã cạo, từ tàu tốc hành Luân Đôn bước xuống ga Southampton. Sau khi đã bốc dỡ mấy bao hàng và một thùng to, nặng, họ thuê một cỗ xe ngựa chở tất cả ra cảng. Ở đó có một chiếc tàu thủy đang nhả khói dày đặc chờ họ bên bờ. 4 giờ sáng, triều lên. Khi cả thành phố Southampton còn đang yên giấc và chưa hề hay biết tý gì về vụ cướp ở chi nhánh DK thì con tàu đã rời cảng, https://thuviensach.vn chạy ngang qua đập chắn sóng ra khơi. Nó chở đầy các loại hàng hóa vô hại đến cảng Cotonou ở Dahomey. Vào giờ sớm sủa đó, sau khi đã tạm hoãn cuộc điều tra, cảnh sát đang tận hưởng những giây phút nghỉ ngơi chính đáng. Buổi sáng, cuộc điều tra được tiếp tục, song như mọi người đã biết, nó không mang lại kết quả nào. Ngày lại ngày cứ trôi qua mà năm tên cướp vẫn biệt vô âm tín. Không tìm ra cả Lewis Robert Buxton. Không một tia sáng nào có thể rọi vào bóng đen huyền bí. Kiệt sức, người ta chấm dứt vụ án. Câu chuyện tiếp theo sẽ phơi bày toàn bộ điều bí ẩn đó. Bạn đọc có quyền hỏi rằng nó có thể vẽ nên những điều bất ngờ và kỳ lạ hơn chăng? https://thuviensach.vn II Đoàn Thị Sát Conakry, thủ đô của xứ Guinée thuộc Pháp, là một thành phố rất đáng yêu. Đó là khu dân cư lớn nhất trên bờ biển. Ở đấy có nhiều người da trắng, nhất là người Pháp và người Anh. Nhưng vào lúc xảy ra các sự kiện làm nên cốt chuyện này, nơi ấy chưa đạt tới mức hưng thịnh và chỉ là một khu cư ngụ lớn mà thôi. 27 tháng Mười một là ngày hội ở Conakry. Theo lời mời của viên toàn quyền Henrry Valdonne, dân chúng đã tụ tập trên bờ biển, chuẩn bị chào đón nồng nhiệt các vị khách tiếng tăm sẽ vào bờ từ chiếc tàu Touat. Các nhân vật có thế lực làm xôn xao cả thành phố Conakry là thành viên của đoàn thị sát được chính quyền trung ương cử đi nghiên cứu vùng Soudan, còn gọi là “Thòng lọng Niger”. Mấy tháng trước, khi thảo luận về các vấn đề thuộc địa, Viện dân biểu đã chia thành hai phe bằng nhau về mặt số lượng, do hai đối thủ không khoan nhượng cầm đầu. Một người tên là Barsac, một người tên là Baudrières. Barsac đẫy đà, bụng hơi phệ, có bộ râu dài đen mịn. Ông là người miền Nam, xứ Provence, vui tính, khả ái và có giọng nói oang oang. Ông được trời phú cho nếu như không phải là tài hùng biện thì ít ra cũng là thói dài dòng văn tự. Baudrières là đại biểu của một tỉnh ở miền Bắc, gầy gò, vụng về, có khuôn mặt khô khan và bộ râu mép thưa thớt điểm tô cho đôi môi mỏng. Ông kín đáo và trông có vẻ buồn. Từ lâu cả hai vị dân biểu này đã hiến thân cho các vấn đề thuộc địa và cả hai đều rất có uy tín. Nhưng các lập luận kiên tâm của họ rất ít khi đưa đến những kết luận giống nhau. Nếu Barsac trình bày quan điểm của mình về một vấn đề nào đó thì Baudrières sẽ nói ngược lại là cái chắc. https://thuviensach.vn Lần này Barsac và Baudrières không nhân nhượng nhau một ly và cuộc tranh luận của họ kéo dài không thôi. Cuộc tranh cãi bắt đầu khi Barsac đưa ra dự luật về việc cần tổ chức năm khu dân biểu cho Sénégambie, Thượng Guinée và phần Soudan thuộc Pháp nằm ở phía Tây sông Niger và về việc trao cho người da đen quyền bầu cử và ứng cử. Như mọi lần, Baudrières lập tức hăng hái chống lại đề nghị của Barsac và hai vị dân biểu đối lập đã dẫn ra cả lô những bằng chứng để chống lại nhau. Dựa vào chứng cứ của các nhà thám hiểm quân sự và dân sự, Barsac tuyên bố rằng người da đen đã đạt tới một trình độ văn minh khá cao. Ông còn nói thêm rằng xóa bỏ chế độ nô lệ hẳn còn quá ít mà còn phải trao cho các dân tộc bị nô lệ các quyền như của những người đi chinh phục và giữa tiếng vỗ tay ầm ĩ của một nhóm dân biểu, ông đã nói những từ cao đẹp: “Tự do, bình đẳng và bác ái”. Ngược lại, Baudrières bảo rằng dân da đen vẫn còn rất man rợ nên không thể trao quyền bầu cử cho họ được. Ông nói thêm: vô luận thế nào đi nữa cũng không thể tiến hành cuộc thí nghiệm nguy hiểm đó và nên tăng cường số quân chiếm đóng vì có dấu hiệu bất an, phải đề phòng phiến loạn ở các vùng ấy. Cũng như đối thủ, ông đã viện dẫn ý kiến của các nhà thám hiểm. Trong phần kết luận, ông yêu cầu phải có đội quân viễn chinh mới và với nhiệt tình yêu nước, ông tuyên bố rằng những phần đất chiếm được bằng xương máu của người Pháp là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nhóm dân biểu khác lại vỗ tay phản đối ông. Bộ trưởng thuộc địa không biết phải đứng về phía diễn giả nhiệt thành nào. Tin tức về làn sóng công phẫn và các vụ cướp bóc ở vùng Thòng lọng Niger và Sénégambie làm ông lo ngại. Không hiểu sao dân cư bỏ đi cả làng, đã xuất hiện những lời đồn đại khó hiểu về một quốc gia độc lập nào đó đang bắt đầu hình thành tại một vùng xa lạ ở châu Phi. Cuộc tranh cãi đang tiếp tục thì có một dân biểu vì quá mệt mỏi đã kêu to lên giữa cảnh ồn ào: — Nếu họ không thể thống nhất ý kiến với nhau được thì mặc cho họ tự đi xem xét lấy! https://thuviensach.vn Lời đề nghị có kết quả. Người ta chấp thuận ngay và đề nghị Bộ thuộc địa tổ chức một đoàn đi nghiên cứu vùng Thòng lọng Niger. Căn cứ vào báo cáo của đoàn này, Viện dân biểu sẽ ra quyết định dứt khoát. Việc bầu trưởng đoàn thị sát lại càng khó khăn hơn và cả hai lần bầu, Barsac và Baudrières đều có số phiếu ngang nhau. Phải chấm dứt cuộc bầu báng này thôi. — Thây kệ, chúng ta cử cả hai! – Một dân biểu hay giễu cợt hét to. Cả Viện dân biểu nhiệt liệt ủng hộ ý kiến này. Chắc Viện đã coi đây như là dịp để Viện khỏi phải nghe tranh luận về thuộc địa trong vài tháng. Barsac và Baudrières cùng được đắc cử và phải nhờ đến tuổi tác mới quyết định được ai trong số hai người đó sẽ cầm đầu đoàn thị sát. Ưu thế thuộc về Barsac. Ông lớn tuổi hơn Baudrières ba ngày. Baudrières rất bực mình nhưng phải cam chịu với vai trò trợ lý. Chính phủ đưa thêm vào danh sách đoàn một số người nữa, tuy không nổi bằng nhưng có lẽ hữu ích hơn. Khi đến Conakry, đoàn đã có bảy thành viên, kể cả Barsac và Baudrières. Bác sĩ Châtonnay, nhà y học trứ danh, nổi bật lên trong số người nọ. Ông cao hơn 1,7m. Mái tóc xoăn bạc tô điểm cho diện mạo vui tươi, dù ông mới năm mươi tuổi nhưng bộ ria mép rậm của ông đã trắng như tuyết. Bác sĩ Châtonnay là người tuyệt diệu, nhạy cảm, vui vẻ và cười nói ồn ào với bất kỳ nguyên cớ nào. Còn có Isidore Tassin, phóng viên Hội địa lý, một con người nhỏ thó, khô khan, quyết đoán và say mê nghiên cứu địa lý. Ba người còn lại của đoàn là Poncin, Quirieu và Heyrieux, quan chức của các bộ. Họ là những người hết sức bình thường. Ngoài số thành viên chính thức đó ra, tham gia đoàn còn có người thứ tám, tóc vàng, trông có vẻ nhiệt tình và cương quyết, tên là Amédée Florence, phóng viên của báo Expansion française. Đó là những người đã bước lên bờ từ chiếc tàu Touat vào ngày 27 tháng Mười một. Tại bến cảng, ông toàn quyền Valdonne cùng với thị trưởng thành phố Conakry đã long trọng chào mừng các vị khách. Ông toàn quyền phát biểu https://thuviensach.vn ngắn gọn nhưng rất đạt. Barsac đáp từ. Sau đó họ cùng về phủ toàn quyền. Ở đấy, trong ba ngày, các thành viên của đoàn sẽ phải thảo cho xong lộ trình chi tiết. Khu vực nằm trong dự luật của Barsac rộng hơn một triệu rưỡi km vuông, gần gấp ba lần diện tích nước Pháp. Trên đường đi, đoàn sẽ chia nhỏ để mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Sau khi ra khỏi Conakry, trước tiên đoàn sẽ đến Kankan, băng qua Ouossou, Timbo – trung tâm quan trọng của Fouta-Djalon Nam và Kouroussa – một trạm phát điện ở Niger, gần nguồn của con sông ấy. Từ Kankan, họ sẽ băng qua Forabokourou, Tiola, Ouassoulou và Kénédougou để đến Sikasso – thành phố chính của xứ có cùng tên. Ở Sikasso, cách biển một nghìn một trăm km, đoàn sẽ chia làm hai. Một nhóm do Baudrières dẫn đầu sẽ đi về hướng Nam, đến Conggo và tới thủ đô Conggo sau khi đã vượt qua Sitardougou, Niambouambo và các khu dân cư lớn nhỏ khác. Từ Conggo họ sẽ tới Baoulé để cuối cùng, đến được bờ biển Ngà tại Gran – Batxan. Nhóm kia sẽ cùng với Barsac tiếp tục đi về hướng đông, qua Ouagadougou đến Niger, tại Saye, sau đó họ đi dọc sông, cắt ngang Mossi và cuối cùng xuyên qua Gourma và Borgou kết thúc chuyến đi ở Cotonou trên bờ Dahomey. Tính thêm những chặng đường vòng và số thời gian bắt buộc phải đi chậm thì thấy trước chuyến đi của nhóm một sẽ kéo dài không dưới tám tháng và chuyến đi của nhóm hai phải mất từ mười đến mười hai tháng. Cùng khởi hành từ Conakry vào ngày 1 tháng Mười hai, Baudrières sẽ không thể đến Gran – Batxan trước ngày 1 tháng Mười năm sau được. Như vậy, chuyến đi sẽ dài ngày. Ngày 30 tháng Mười một, trước khi lên đường, Barsac bị mệt vì đã dạo chơi dưới trời nắng gắt ở Conakry. Ông trở về phòng của mình. Khi ông đang ngồi quạt khoan khoái thì cậu cần vụ vào báo rằng có hai người xin gặp. — Ai thế? – Barsac hỏi. Cậu cần vụ làm cử chỉ tỏ ý không biết. https://thuviensach.vn — Cho họ vào – Barsac nói. Đồng hồ chỉ sáu giờ. Nếu để ý đến sự khác nhau về kinh độ, thì đó chính là thời điểm bắt đầu cuộc tấn công ăn cướp ở chi nhánh DK thuộc Ngân hàng Trung ương mà đã được miêu tả trong chương thứ nhất. Khách là một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi, đi cùng với một cô gái chừng hai mươi – hai lăm tuổi. Họ được đưa vào căn phòng, nơi Barsac đang tĩnh dưỡng. Người đàn ông rất cao. Đôi chân dài thuỗng của ông đỡ lấy tấm thân ngắn, kết thúc ở chỗ có cái cổ cao giơ xương làm trụ cho cái đầu vươn thẳng. Ông ta có cặp mắt lanh lợi, cái mũi to và đôi môi dày, không hiểu thứ dao gì đã diệt sạch râu ria trên đôi môi ấy. Hai mai tóc và vành tóc quăn màu hung đỏ viền quanh phần dưới của chiếc sọ hói bóng. Bức chân dung này miễn cho chúng ta phải nói rằng ông ta không đẹp, nhưng cái mã xấu xí của ông ta thật dễ thương: những chiếc răng to lộ rõ tấm chân tình và trong đôi mắt thì ánh lên lòng nhân từ nhí nhảnh. Theo sau ông ta là một cô gái có dáng người thanh cao, thắt đáy lưng ong, khuôn miệng xinh tươi, cái mũi dọc dừa, đôi mắt to và mái tóc đen mượt. Nàng là mỹ nhân tuyệt thế. Barsac mời khách ngồi. Người đàn ông cất tiếng nói: — Xin ngài dân biểu hãy thứ lỗi cho chúng tôi vì đã làm phiền ngài và cho phép chúng tôi được tự giới thiệu. Tôi tên là Agénor de Saint-Bérain, chủ nhà, độc thân và là công dân của thành phố Renno. – Sau khi kể xong địa vị xã hội của mình, Agénor de Saint-Bérain thoáng ngừng rồi tiếp tục giới thiệu: – Đây là cô Jane Mornas, dì của tôi. — Dì của ông? – Barsac hỏi lại. — Vâng, cô Mornas đúng thực là dì của tôi. – Agénor de Saint-Bérain xác nhận. Lúc ấy nụ cười vui vẻ hé nở trên đôi môi của cô gái... Khuôn mặt tuyệt đẹp, chỉ có một nhược điểm duy nhất là hơi quá nghiêm nghị của nàng rạng rỡ lên ngay. — Ông de Saint-Bérain. – nàng giải thích bằng giọng tiếng Anh thanh thoát, – tính theo dòng họ thì là cháu của tôi và không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để giải thích thứ bậc trong dòng họ của chúng tôi. https://thuviensach.vn — Điều đó làm cho tôi trẻ lại – ông cháu trai ngắt lời. — Nhưng, – Jane Mornas nói tiếp – một khi đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và quyền hợp pháp của mình đã được xác lập thì ông ta đồng ý đổi vai trở thành chú Agénor như trong gia đình chúng tôi vẫn gọi từ lúc tôi mới lọt lòng. — Vì như vậy hợp với tuổi tác của tôi hơn, – ông vừa chú, vừa cháu giải thích. – Nhưng thưa ngài dân biểu, cho phép tôi được trình bày mục đích đến đây của chúng tôi. Cô Mornas và tôi là những nhà nghiên cứu. Bà dì cũng là cô cháu của tôi đây là nhà thám hiểm gan dạ, còn tôi là cậu cháu – ông chú tốt bụng đã bị cô ấy rủ rê đến cái xứ sở xa xôi này. Chúng tôi có ý định đi sâu vào nội địa để liều mình tìm kiếm những cảm xúc và cảnh tượng mới lạ. Công việc chuẩn bị của chúng tôi đã xong. Chúng tôi sắp sửa lên đường thì được biết là đoàn thị sát của ngài sẽ khởi hành theo đường chúng tôi đi. Tôi đã nói với cô Mornas rằng cho dù xứ sở này có yên ổn như thế nào đi chăng nữa thì tôi vẫn nghĩ là chúng tôi nên sát nhập với đoàn, nếu đoàn chấp thuận. Chúng tôi đến đây xin ngài cho phép được đi cùng với các ngài. — Về nguyên tắc, tôi không thấy có gì bất tiện cả – Barsac trả lời – nhưng ông và cô hiểu cho, tôi phải trao đổi với các đồng sự của tôi. — Dĩ nhiên rồi. – Saint-Bérain tán thành. — Có thể – Barsac nêu giả thiết – họ ngại sự có mặt của phụ nữ trong đoàn sẽ làm chậm bước tiến của chúng tôi và bất tiện cho việc thực hiện chương trình... Trong trường hợp này... — Hãy bảo họ đừng ngại! – Agénor phản đối. – Cô Mornas là một thanh niên thực thụ. Chính cô ấy sẽ đề nghị các ngài hãy coi cô ấy như một đồng sự. — Tất nhiên rồi – Jane Mornas xác nhận. – Tôi xin nói thêm, về mặt vật chất, chúng tôi sẽ không phải là gánh nặng cho các ngài đâu. Chúng tôi có ngựa, có phu khuân vác và thậm chí chúng tôi đã thuê được cả người dẫn đường và phiên dịch – hai người Bambara cựu xạ thủ Sénégal. Ngài thấy đấy, ngài có thể thu nhận chúng tôi mà không phải lo lắng gì. https://thuviensach.vn — Nếu vậy, quả thật... - Barsac bộc bạch. – Tôi sẽ trao đổi với các đồng sự ngay tối nay và nếu họ đồng ý thì coi như xong. Tôi có thể trả lời dứt khoát cho ông và cô ở đâu? — Ngày mai lúc khởi hành, vì bất luận thế nào chúng tôi cũng rời khỏi Conakry vào ngày mai. Khách chia tay. Barsac đã nói lại với các đồng sự của mình về lời đề nghị của họ. Nó được chấp nhận một cách suôn sẻ và đoàn thị sát Barsac có thêm hai thành viên mới. Giờ thì đoàn có mười người, không kể số phu khuân vác và đội hộ tống. https://thuviensach.vn III Huân Tước Buxton Glenor Trước khi xảy ra chuyện này, nhiều năm đã kịp trôi qua mà huân tước Buxton vẫn không đi đâu hết. Cánh cửa của lâu đài Glenor, nơi ông đang sống, ở trung tâm nước Anh, gần thành phố nhỏ Uttoxeter, không hề mở cửa để đón khách, còn mấy cái cửa sổ ở phòng riêng của ông thì đóng im ỉm. Buxton tự giam hãm mình vì một chuyện bi thảm làm hoen ố danh dự gia đình ông và phá nát cuộc đời ông. Sáu mươi năm trước, trước lúc xảy ra những sự kiện vừa được kể trên, huân tước Buxton từ ghế nhà trường quân sự bước ngay vào đời, sau khi đã được thừa hưởng của cải, tước vị và vinh quang của cha anh. Hai mươi hai tuổi, Edward Alan Buxton cưới một cô gái xuất thân từ một gia đình danh giá nhất nước Anh làm vợ. Một năm sau ngày cưới, một cô con gái đã chào đời. Việc này làm cho Edward Buxton thất vọng và ông bắt đầu sốt ruột mong đợi đứa con thứ hai. Mãi hai mươi năm sau, bà Buxton mới tặng được cho ông một đứa con trai như ước muốn, đặt tên là George. Hầu như đúng vào thời gian ấy, cô con gái đầu lòng của ông, sau khi lấy nhà quý tộc người Pháp de Saint-Bérain, đã sinh ra cậu Agénor. Năm năm nữa trôi qua và huân tước Glenor có thêm cậu con trai thứ hai – Lewis Robert, mà ba mươi lăm năm sau số phận đã dành cho cậu cái vai đau đớn đến thế trong tấn thảm kịch ở Ngân hàng Trung ương. Việc sinh ra cậu đã phải trả giá bằng chính cuộc sống của người mẹ và huân tước Buxton vĩnh viễn mất đi người phụ nữ đã làm bạn với ông trong suốt một phần tư thế kỷ. Huân tước Buxton đau khổ, tuyệt vọng, từ bỏ mọi ý đồ danh vọng và mặc dù còn khá trẻ, ông rời bỏ hạm đội, nơi ông đã phục vụ từ ngày tốt nghiệp https://thuviensach.vn trường quân sự. Nhiều năm ông sống biệt lập, rồi thời gian làm vơi đi nỗi đau buồn. Sau những năm tháng sống cô đơn, huân tước Buxton quyết định khôi phục lại tổ ấm gia đình đã bị phá vỡ: ông lấy bà góa Marguerite Ferney, trước có chồng là bạn của ông trong quân ngũ. Thay của hồi môn, bà đem về cho ông cậu con trai mười sáu tuổi William. Nhưng số phận đã quyết để cho huân tước Glenor một mình đi nốt quãng đời còn lại: Mấy năm sau, đứa con gái thứ tư, tên là Jane ra đời và ông lại góa vợ. Bấy giờ huân tước Glenor đã sáu mươi tuổi. Vào tuổi ấy, ông không còn nghĩ đến việc xây dựng gia đình nữa mà chỉ lo làm tròn bổn phận của người cha. Nếu không tính cô con gái đầu, bà de Saint-Bérain, – vì từ lâu ông đã không phải lo, thì ông còn bốn đứa con. Đứa lớn nhất vừa tròn hai mươi tuổi. Đó là William Ferney. Ông không phân biệt nó với ba đứa con ruột của mình. Song kiếp đời đầy rẫy những chuyện nhẫn tâm và ông đã linh cảm biết được nỗi đau mà so với nó, nỗi khổ trước đây dường như quá nhẹ nhàng. William Ferney, con trai riêng của người vợ kế quá cố được ông yêu quý như con đẻ, đã gây ra cho ông những điều phiền muộn đầu tiên. Kín mồm, kín miệng, hay ngang ngạnh, giả dối, con người trẻ tuổi này không hề đáp lại sự trìu mến của mọi người dành cho hắn và hắn cứ thui thủi một mình trong cái gia đình đã rộng lòng, rộng cửa đón hắn như thế. Hắn thờ ơ với tất cả những cử chỉ âu yếm của mọi người đối với hắn, mọi người càng gần gũi với hắn bao nhiêu, hắn lại càng thù ghét bấy nhiêu. Ngay từ ngày đầu cùng mẹ bước vào lâu đài Glenor, hắn đã nuôi dưỡng trong lòng mối ghen ghét độc địa đối với George và Lewis – những người thừa kế của huân tước Buxton, những người có lúc sẽ trở nên giàu có. Mối hận thù đó càng tăng lên khi Jane, cô em gái trong bụng mẹ hắn ra đời bởi vì cô ấy cũng sẽ được chia phần cái gia tài mà hắn bị gạt ra một bên hoặc do lòng hảo tâm của gia đình hắn chỉ được một phần ít ỏi. Khi mẹ hắn, người duy nhất có thể tìm đường đến với cõi lòng chật hẹp đó, qua đời, thì không gì có thể chế ngự được mối hận thù. Hắn càng xa lánh gia đình và https://thuviensach.vn sống biệt lập. Chỉ có những vụ tai tiếng thường xuyên mới cho phép đoán biết bí mật của cuộc sống đó. Hóa ra William đã giao du với đám thanh niên hư hỏng nhất mà chỉ mình hắn mới có thể kiếm ra. Chẳng bao lâu xuất hiện các món nợ. Đầu tiên huân tước còn trả cho, nhưng sau thì thôi. Tuy buộc phải sống bằng số tiền ít ỏi, William Ferney vẫn không thay đổi lối sống. Một thời gian dài, không ai biết hắn kiếm đâu ra tiền, nhưng có một lần lâu đài Glenor nhận được một kỳ phiếu với số tiền lớn, ký giả chữ ký của huân tước Buxton. Huân tước trả nợ mà không nói lời nào, song ông đã đuổi kẻ tội phạm ra khỏi lâu đài, sau khi vẫn cấp cho hắn một khoản tiền kha khá. William Ferney rời lâu đài Glenor và trốn biệt. Những gì đã xảy ra với hắn, huân tước Buxton không rõ. May thay, trong khi con trai của người khác gây cho ông khổ tâm bao nhiêu thì mấy đứa con đẻ làm cho ông vui lòng bấy nhiêu. George, con trai lớn, tiếp tục truyền thống của gia đình, đã đỗ thủ khoa trường Ascott và không sợ hiểm nguy, gia nhập quân đội thuộc địa để được đi chu du. Huân tước Buxton rất lấy làm tiếc là người con trai thứ hai, Lewis, tỏ ra ít có khiếu quân sự, song trong các lĩnh vực còn lại khác nó xứng đáng với lòng yêu thương của ông. Đó là một cậu bé ngoan, có khuôn phép và đứng đắn. Cuộc sống của bọn trẻ cứ trôi qua đều đều. Thiên bẩm về nghề giao dịch hình thành rõ rệt ở Lewis. Anh vào làm việc ở Ngân hàng Trung ương. Ở đấy người ta đánh giá anh rất cao và đoán rằng sẽ có lúc anh trở thành người đứng đầu cái nhiệm sở to lớn ấy. Trong khi đó George đã đi từ thuộc địa này sang thuộc địa khác gần giống như một vị anh hùng và thăng quan tiến chức bằng đường gươm, mũi kiếm. Đúng vào lúc huân tước nghĩ rằng ông đã đoạn tuyệt với số kiếp cay nghiệt thì một nỗi bất hạnh còn khủng khiếp hơn những gì ông đã phải chịu đựng trước đó, đổ sập xuống đầu ông. Lần này, danh dự trong sạch của dòng họ Glenor mãi mãi bị bôi nhọ. George Buxton, con trai lớn của huân tước Glenor, tạm thời được tách ra khỏi biên chế của đơn vị, đi phục vụ cho một đoàn nghiên cứu lớn. Trong https://thuviensach.vn hai năm cầm đầu đội quân bán chính qui do đoàn tuyển dụng, anh đã dọc ngang xứ sở của người Achantis. Rồi bỗng nhiên có tin con trai của huân tước là kẻ cầm đầu một băng cướp. Tin truyền như sấm. Báo chí đã kể tỉ mỉ về tội trạng của đại úy Buxton và bọn người phiêu lưu của y, về những vụ cướp bóc, tống tiền, về những hành động tàn bạo của bọn chúng và về sự trừng phạt sau đó. Đội quân được phái đi tiễu trừ băng cướp đã truy lùng bọn chúng ráo riết. Đại úy Buxton bị bật ra khỏi toán cướp, dạt đến vùng thuộc Pháp và cuối cùng bị đuổi kịp ở gần làng Koubo, dưới chân núi Hombori, hắn bị bắn chết ngay từ loạt đạn đầu. Người ta còn nhớ nỗi lo ngại làm chấn động nước Anh khi nó được biết về cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc đó. Rồi sau, mối lo âu lắng dịu và chiếc khăn liệm lãng quên đã phủ lên thân xác của những người đã chết. Nhưng có một ngôi nhà mà ở đó ký ức về một tên trong bọn chúng còn lưu mãi. Đó là ngôi nhà của huân tước Buxton. Người thủy thủ già khi ấy đã gần bảy mươi lăm tuổi, vừa bị tổn thương trong tình cảm đối với con vừa bị tổn thương danh dự – là thứ đối với ông còn quý giá hơn nữa, ông vẫn không hề quỵ xuống trước ngón đòn, chỉ có nét mặt nhợt nhạt là nói lên được nỗi khổ của ông. Không hỏi lấy một câu về sự kiện quá sức chịu đựng ấy, ông giam mình trong cô đơn và im lặng kiêu hãnh. Từ đó ông không đi dạo chơi hằng ngày như trước nữa. Đóng cửa ở nhà, không tiếp bất cứ ai, kể cả bạn bè thân thiết nhất, ông sống biệt lập, hầu như bất động, câm lặng, cô đơn. Cô đơn ư? Không hẳn như vậy. Bên ông còn có ba người nữa. Nhờ tấm lòng tôn kính ông mà họ đã có được sức chịu đựng cuộc sinh tồn khủng khiếp với pho tượng sống, với dấu hiệu còn giữ được nghị lực của một mạng sống nhưng đã tự giam mình trong cảnh im lặng vĩnh hằng. Trước tiên, đó là người con trai thứ hai, Lewis Robert Buxton, hằng tuần vào ngày không phải làm việc ở Ngân hàng Trung ương, anh về nghỉ tại lâu đài. Kế đó là cháu ông, Agénor de Saint-Bérain, anh định làm cho ngôi nhà ảm đạm như tu viện vui lên bằng tiếng cười hiền hậu của mình. Agénor de https://thuviensach.vn Saint-Bérain là con người tuyệt diệu, hay giúp đỡ, làm ơn, có trái tim nhạy cảm và lòng thủy chung sắt đá. Anh có ba điểm khác người: đãng trí kỳ lạ, say mê câu cá và cuối cùng là không ưa phụ nữ. Là chủ một cơ ngơi to lớn do cha mẹ chết đi để lại, anh đã từ giã nước Pháp ngay sau khi có tin đầu tiên về tấn thảm kịch làm ông ngoại của anh đau buồn và anh về sống trong dinh thự cạnh lâu đài, có con sông nhỏ chảy qua. Agénor thường buông câu xuống đó, say mê đến mức không thể hiểu nổi. Quả thật, tiêu tốn ngần ấy đam mê cho cách tiêu khiển đó để làm gì cơ chứ một khi anh luôn nghĩ về những điều khác và dù tất cả cá trên thế gian này có thể kéo tới cắn mồi thì anh vẫn chẳng buồn để ý đến cái phao? Hơn nữa nếu có chú cá chép hay cá bống nào ngang ngạnh hơn chàng câu cá đãng trí mà tự móc mình vào lưỡi câu thì Agénor đa cảm không chần chừ tháo ra và quẳng ngay chú cá nọ xuống nước. Một người tốt, như chúng tôi đã nói; nhưng thái độ thiếu thiệu cảm của anh đối với phụ nữ hẳn là định kiến rồi. Anh gán cho họ mọi thói hư tất xấu. “Lừa lọc, phản bội, dối trá và xa xỉ” – anh thường tuyên bố về họ như vậy. Mối ác cảm đối với phụ nữ của anh chỉ có một ngoại lệ duy nhất. Người được hưởng đặc ân đó là Jane Buxton, con gái út của huân tước Glenor, nên cũng là dì của Agénor nhưng là dì út, kém anh gần hai mươi tuổi và anh biết dì từ lúc “bà” còn nhỏ xíu. Anh đã tập cho dì biết đi và trở thành người đỡ đầu của dì khi vị huân tước bất hạnh xa lánh mọi người. Anh yêu thương bà dì như một người cha và bà dì cũng đáp lại như thế. Nói chung, đó là một ông thầy, nhưng là người thầy đã làm mọi điều mà cô học trò mong muốn. Họ gắn bó với nhau. Cùng dạo bộ trong rừng hay cưỡi ngựa, bơi thuyền, săn bắn và chơi bất cứ món thể thao nào. Điều đó khiến cho cậu cháu lớn tuổi đã nói về bà dì nhỏ tuổi được giáo dục theo kiểu con trai như thế này: “Rồi cô ấy sẽ thành đàn ông cho mà coi!”. Jane Buxton là người thứ ba săn sóc vị huân tước già và chở che cho tuổi già buồn khổ của ông bằng tấm lòng hiền mẫu. Nàng sẵn sàng chết đi để được nhìn thấy nụ cười của ông. Phải đem lại, dù chút ít hạnh phúc cho tâm https://thuviensach.vn hồn khô héo của cha – ý nghĩ ấy cứ bám riết lấy nàng. Đó là mục đích duy nhất chi phối mọi ý nghĩ, hành động của nàng. Lúc anh trai bị giết, nàng thấy cha khóc nhiều cho thanh danh của mình hơn là cho kết cục bi thảm của đứa con bị trừng trị đích đáng. Trái lại, nàng không khóc. Nàng không thờ ơ trước cái chết của người anh thương yêu trìu mến và trước vết nhơ mà hành động tội lỗi của anh trai đã bôi lên danh dự của gia đình. Nhưng khi ấy, cùng với khổ đau, lòng nàng đã phẫn nộ. Sao Lewis và cha dễ dàng tin vào điều ô nhục của George như thế? Sao họ lại có thể coi tất cả những lời buộc tội từ nước ngoài gửi về là đã được minh chứng? Những lời đồn đại và những bản báo cáo chưa được kiểm tra thì có nghĩa gì đâu? Khác với họ, nàng tin mãnh liệt vào sự vô tội của anh trai. Vào lúc không còn tin tức gì về người anh đã chết thì nàng vẫn tưởng nhớ đến anh và niềm tin vào anh của nàng không bao giờ tắt. Thời gian chỉ khắc họa thêm những cảm nghĩ ban đầu của Jane Buxton. Theo ngày tháng, niềm tin vào sự vô tội của anh trai càng trở nên mãnh liệt ở nàng dù nàng không thể lấy gì để chứng minh. Cuối cùng thì cái phút giây ấy – mấy năm sau khi xảy ra tấn thảm kịch – đã đến. Lần đầu tiên, nàng dám phá tan bầu không khí im lặng như tờ mà tất cả những người cư ngụ trong lâu đài đã âm thầm dùng nó chôn chặt chuyện đau thương xảy ra ở Koubo. — Chú đấy à? – hôm ấy nàng đã hỏi Agénor de SaintBérain. Agénor thường gọi Jane bằng cháu khi nàng phong cho anh chức chú. Việc này vẫn hay xảy ra. Nhưng không... Nếu như ông chú nọ tìm cách quở trách cô cháu gái dễ thương của mình, hoặc định chống lại ý muốn của cô thì cô sẽ lấy lại thứ bậc mà dòng họ đã cho cô và tuyên bố với cháu mình rằng: anh cần phải kính trọng người bề trên. Mỗi lần thấy chuyện không xuôi, ông cháu im ngay rồi vội vàng dỗ dành bà dì tôn kính của mình. — Chú đấy ư? – Jane đã hỏi hôm đó. — Đúng thế, cháu yêu, – Angieno trả lời. Anh đang cặm cụi đọc cuốn sách dày viết về nghệ thuật câu cá bằng cần câu. — Cháu muốn nói chuyện với chú về George. https://thuviensach.vn Agénor ngạc nhiên, đặt cuốn sách xuống. — Về George? – anh nhắc lại, hơi bối rối. – Về George nào? — Về anh George của cháu. – Jane điềm tĩnh giải thích thêm. Agénor tái mặt. — Nhưng cháu đã biết. – anh không tán thành, giọng run run, – là không được phép nói đến vấn đề đó và cái tên ấy không được nói ra ở đây. Jane gật đầu đồng ý. — Không sao, – nàng thản nhiên nói. – chú hãy nói chuyện với cháu về George đi nào. — Cháu bảo phải nói về cái gì cơ chứ? — Về mọi điều. Về toàn bộ chuyện ấy. — Không đời nào! Jane nhíu cặp lông mày. — Này, cháu! – Nàng cất giọng đe dọa. Như vậy cũng đủ rồi. — Thế! Thế! – Agénor lầu bầu, bắt đầu kể câu chuyện thương tâm. Jane im lặng lắng nghe và khi anh kể xong, nàng không hỏi câu nào. Agénor tưởng mọi việc đã kết thúc nên thở phào nhẹ nhõm. Anh đã nhầm. Mấy hôm sau, Jane tiếp tục thực hiện ý định. — Chú đấy à? – Nàng lại hỏi như trước. — Đúng thế, cháu yêu, – Agénor trả lời như cách đây vài bữa. — Nhưng nếu George vô tội thì sao? Agénor tỏ vẻ không hiểu. — Vô tội – anh nhắc lại. – Than ôi, làm gì có chút nghi ngờ nào trong chuyện này hả cô bé đáng thương của chú. Hành động phản bội và cái chết của cậu George là những sự kiện lịch sử có quá nhiều chứng cứ. — Chứng cứ nào? – Jane hỏi. Agénor kể lại câu chuyện. Anh dẫn ra những bài báo, những bản báo cáo chính thức mà không một ai bác bỏ. Cuối cùng, anh viện dẫn vào sự vắng mặt của George – bằng chứng hùng hồn nhất về cái chết của anh ta. — Chết, thì cứ cho là như thế đi. – Jane đáp lại. – Nhưng còn phản bội? https://thuviensach.vn — Cái kia là hậu quả của cái này, – Agénor nói, anh lúng túng vì nàng ngang bướng đến thế. Nàng còn bướng bỉnh hơn anh tưởng. Bắt đầu từ ngày đó, nàng thường trở lại với cái đề tài nặng nề, giày vò anh bằng những câu hỏi mà từ đó dễ dàng rút ra kết luận: Nàng vẫn giữ trọn niềm tin sắt đá vào sự vô tội của anh mình. Sau nhiều lần tranh cãi, dì cháu thừa nhận với nhau là George vô tội và Agénor de Saint-Bérain không dám bài bác bà dì của anh nữa. Thêm vào đó, ý kiến của Jane đã tác động mạnh đến tư tưởng của anh. Nếu như anh chưa hoàn toàn tin vào sự vô tội của viên đại úy phản loạn thì ít nhất cũng đã bị dao động khi nghĩ rằng George có lỗi... Mấy năm sau, niềm tin mãnh liệt của Jane càng được củng cố, nhưng chỉ trên cảm tính hơn là trên lý trí. Tranh thủ được sự ủng hộ của người cháu, nàng có đạt được vài điều song như vậy hẳn còn ít. Tuyên bố George vô tội để làm gì nếu không chứng minh được điều đó? Sau một thời gian dài suy xét kỹ càng, nàng cảm thấy là mình đã tìm ra phương sách. — Tất nhiên, – nàng đã nói với Agénor vào một ngày rất đẹp trời, – việc chú cháu ta tin George vô tội là chưa đủ. Cần phải có chứng cứ, chú hiểu không, chú thân yêu. Không có bằng chứng thì không ai tin chúng ta cả, cho dù chúng ta có thể kêu rêu đến bao nhiêu đi nữa rằng George vô tội. — Điều ấy thì rõ quá rồi, cô bé đáng thương của tôi ạ. — Trong lúc chính cha cháu tin vào những lời đồn đại mà không rõ căn nguyên, trong lúc cụ chết dần chết mòn vì đau khổ và xấu hổ trước mắt chúng ta mà không kiểm tra lại những chuyện đơm đặt ghê tởm đó, trong lúc cụ nghe thấy những lời buộc tội con trai mình mà không hét to lên: “Các người nói láo! George không có khả năng gây ra tội ác như thế!”, thì chúng ta làm sao có thể thuyết phục được những người khác, một khi không cho họ thấy những bằng chứng không thể chối cãi về sự vô tội của anh cháu. — Điều ấy rõ như ban ngày, – Agénor vuốt vuốt cái cằm, tán thành. — Nhưng những chứng cứ ấy... tìm ở đâu? — Cố nhiên là không phải ở đây. https://thuviensach.vn Jane ngừng lại rồi nói khẽ: — Ở chỗ khác, có thể... — Ở chỗ khác? Chỗ nào vậy, cháu yêu? — Ở chỗ đã xảy ra chuyện thương tâm đó. Ở Koubo. — Ở Koubo? — Vâng, ở Koubo. Mộ của George nằm ở đó vì anh ấy chết ở đó cơ mà; và nếu thế thì sẽ biết được anh ấy đã bị chết như thế nào. Phải tìm cho ra những người trong cuộc. George đã chỉ huy một đội quân đông người. Không thể có chuyện là tất cả bọn họ đã biến mất hết. Phải thẩm vấn các nhân chứng và qua họ lần ra sự thật. Jane càng nói thì mặt nàng càng ngời sáng, giọng nàng run run. — Cháu nói phải! – Agénor thốt lên, vô tình sa vào bẫy. Jane trở nên hoạt bát: — Một khi cháu đã đúng, – nàng nói, – thì chúng ta hãy đi thôi! — Đi đâu? – Agénor ngớ người hỏi. — Đi Koubo, chú ạ! — Đi Koubo? Cháu định đi Koubo với ma quỷ nào thế? Jane vòng hai tay ôm lấy cổ Agénor. — Với chú, ông chú hiền lành của cháu ạ, – nàng âu yếm thỏ thẻ. — Với tôi?! Agénor gỡ tay nàng ra. Lần này anh giận thực sự. — Cô điên mất rồi! – Anh tuyên bố rồi định bỏ đi. — Không hẳn thế đâu, – Jane nói lại và cản đường không cho anh đi. – Chú sẽ không đi Koubo thật sao? Chẳng lẽ chú không thích những chuyến đi du lịch? — Tôi ghét cay, ghét đắng các chuyến đi ấy. Phải có mặt trên tàu vào giờ qui định – điều đó quá sức chịu đựng của tôi. — Thế câu cá, chú cũng ghét phải không nào? — Câu cá à? Tôi không thấy... — Chú biết gì về món cá rán câu được ở sông Niger? Món này đặc sắc lắm nhé. Cá bống ở sông Niger to như cá mập, cá chép thì y như cá ngừ. Điều đó không quyến rũ chú sao? https://thuviensach.vn — Tôi không bảo không... tuy nhiên... — Khi câu cá, chú sẽ tiến hành điều tra, dò hỏi thổ dân... — Bằng thứ ngôn ngữ nào? – Agénor giễu cợt cắt ngang. – Tôi không nghĩ là họ nói được tiếng Anh. — Ấy đấy, – Jane thản nhiên nói, – tốt hơn hết là hãy nói với họ bằng tiếng Bambara. — Bằng tiếng Bambara? Chẳng lẽ tôi biết tiếng Bambara? — Vậy chú phải học. — Vào độ tuổi của tôi? — Cháu đã học xong tiếng Bambara, mà cháu là dì của chú đấy nhé! — Cô! Cô nói được tiếng Bambara? — Đúng thế. Chú nghe đây: “Dji lokho a bé na”. — Cô nói bậy bạ gì thế? — Câu ấy có nghĩa: “Tôi bị khát”. Đây nữa: “I dou, nono I mita”. — Thú thật... no no... mita... Nghĩa là: “Hãy vào đi, bạn sẽ được uống sữa”. Lại còn: “Koukho bé na, Kounou ouarara uté a man doumouni”. Chú không đoán ra được đâu! Dịch là: “Tôi đói lắm, tôi không được ăn gì từ chiều qua”. — Phải học hết mấy thứ đó sao? — Vâng, và không được bỏ phí thì giờ vì sắp tới ngày lên đường rồi đó. — Ngày lên đường nào? Nhưng tôi có đi đâu! Lại thế nữa cơ đấy! Không, tôi sẽ không tán dóc với các thổ dân của cô đâu. Rõ ràng, Jane đã từ bỏ ý định thuyết phục anh. — Vậy thì tôi đi một mình. – Nàng nói, giọng rầu rầu. — Một mình, – Angieno kinh ngạc nói – cô muốn đi một mình. — Buộc phải thế vì chú không muốn đi với tôi. – Jane nói tỉnh khô. — Nhưng đó là hành động điên rồ, quẫn trí, rối loạn tinh thần! – Agénor hét to lên rồi bỏ chạy và đóng sầm cửa lại. Nhưng sáng hôm sau, khi anh muốn gặp lại Jane thì người ta nói với anh rằng nàng không tiếp và mấy ngày sau cũng vậy. Agénor không chịu nổi trò chơi ấy. Bốn ngày sau anh đầu hàng. Jane có tấm lòng khoan dung, không trách móc anh. https://thuviensach.vn — Trước tiên, chú hãy học tiếng, – nàng nói rồi hôn vào hai má của anh. Từ đó Agénor chỉ lo miệt mài học tiếng Bambara. Trước ngày lên đường, Jane phải xin phép cha. Nàng được ông cụ cho đi dễ hơn nàng tưởng. Nàng chỉ vừa nói rằng nàng muốn đi du lịch một chuyến thì ông cụ đã ra hiệu đồng ý rồi lại đắm mình vào nỗi buồn của ông. Xong việc này, Jane và Agénor bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi. Họ quyết định đến Liverpool, từ đó đáp con tàu The Ceres tới châu Phi. Ý định ban đầu của họ là đến xứ Gambie thuộc Anh. Nhưng trong thời gian lưu lại ở Saint-Louis, sau khi được biết Conakry đang chờ đón đoàn thị sát của Pháp và hành trình của đoàn này giống với hành trình của mình, họ quyết định nhập đoàn. Cuối tháng Tám họ đã gởi hành lý đi Liverpool và ngày 2 tháng Mười, hai người ăn sáng lần cuối trong phòng ăn lớn của lâu đài Glenor (huân tước Buxton không bao giờ bước ra khỏi phòng riêng của ông). Bữa ăn cuối cùng đó buồn tẻ và lặng thinh. Jane Buxton nghĩ rằng có thể nàng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy tòa lâu đài, chiếc nôi của tuổi thơ và thời niên thiếu của nàng, còn nếu nàng trở về được thì chắc chắn người cha già nua sẽ không thể giang tay ôm nàng vào lòng được nữa. Tuy nhiên, vì cha, nàng vẫn thực hiện chuyến đi đầy khó khăn và nguy hiểm này. Nàng muốn khôi phục danh dự của gia đình, đem lại dù chỉ là một chút vui tươi cho tâm hồn trống trải của ông. Sắp đến giờ phải ra đi, Jane xin cha cho phép tạm biệt người. Nàng và Agénor được đưa vào phòng ông cụ. Ông ngồi bên chiếc cửa sổ cao trông ra phía cánh đồng mắt nhìn đăm đăm về nơi xa xăm như thể ông đang đợi bóng ai. Ai? George, đứa con trai phản bội của ông ư? Nghe tiếng chân con gái bước vào, ông khẽ quay đầu lại và cái nhìn đờ đẫn của ông sáng lên, nhưng khuôn mặt vẫn giữ nguyên vẻ bất động thường ngày. — Thưa cha con đi! – Jane lắp bắp, cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra. Huân tước không trả lời. Ông đứng lên, chìa tay về phía con gái rồi âu yếm kéo con vào lòng và hôn lên trán con. https://thuviensach.vn Sợ mình sẽ òa khóc, Jane vùng chạy ra ngoài. Ông lão nắm lấy tay de Saint-Bérain, siết chặt và như có ý yêu cầu che chở, ông chỉ tay về phía cửa Jane mới vừa ra. — Ông hãy tin ở cháu, – Agénor lúng búng trong miệng. Lập tức huân tước Buxton ngồi vào chỗ cũ và lại đưa mắt nhìn xa xăm về phía cánh đồng. Chiếc xe ngựa đang đợi những người đi du lịch trong sân lâu đài để đưa họ ra ga đi Utocxeto. — Đi đâu? – Agénor theo thói quen, anh bối rối vì cảnh tượng vừa rồi nên quên mất lý do họ phải từ giã lâu đài Glenor. Jane chỉ nhún vai. Họ khởi hành. Nhưng vừa đi được khoảng năm trăm mét thì de Saint-Bérain bỗng kích động lạ thường. Anh không thể nói nên lời, anh thở hổn hển. — Cần câu, mấy cái cần câu của tôi! – Anh kêu lên thống thiết. Đành phải trở lại lâu đài để tìm mấy chiếc cần câu trứ danh mà nhà đi câu đãng trí đã bỏ quên. Mất khoảng một phần tư giờ vì việc này. Khi họ đến ga, đoàn tàu đã đứng trên sân. Các nhà đi du lịch vừa kịp bước lên tàu và Agénor tự hào nói: — Đây là lần thứ hai trong đời, chú không bị trễ tàu đấy. Jane bất giác mỉm cười và hai dòng nước mắt chảy trên gò má. Chuyến đi đưa hai nhà nghiên cứu đến với những điều bất ngờ kỳ lạ đã bắt đầu như thế đấy. Liệu Jane có chấp nhận nó không, nếu nàng biết trước được rằng chuyện gì sẽ xảy ra trong lúc vắng nàng? Nàng có từ bỏ người cha bất hạnh mà ra đi nếu nàng đoán biết được đòn gì lại giáng xuống đầu ông, trong khi nàng liều mình đi cứu ông ra khỏi nỗi tuyệt vọng? Nhưng không có gì báo trước cho Jane biết về bi kịch sẽ xảy ra ở chi nhánh Ngân hàng Trung ương và về lời buộc tội nhục nhã đổ lên đầu anh Lewis của nàng. Nàng định giúp cha, nhưng lại từ biệt ông đúng vào lúc sự chăm sóc của nàng đối với ông là cần thiết hơn bao giờ hết. Tin Lewis Robert Buxton mất tích, do một người đầy tớ quá sốt sắng mang về, đến tai huân tước Glenor vào buổi sáng, sau ngày xảy ra vụ cướp ở chi nhánh DK, tức là ngày 1 tháng Mười hai. Ông bị sốc như bị nện bằng dùi cui. Con người mực thước, hậu sinh của bao vị anh hùng hết lòng tôn thờ https://thuviensach.vn danh dự đó hiểu rằng hai người con trai của ông một đứa là phản bội, một đứa là ăn cắp. Ông lão bất hạnh bật rên khe khẽ, đưa hai tay bụm lấy cổ họng rồi ngã xuống chiếc sàn lát ván như một khối vô sinh. Mọi người chạy đến đỡ ông dậy. Người ta hết sức săn sóc ông khi ông chưa mở được mắt. Từ nay ánh mắt ông là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ cuộc sống chưa nỡ từ bỏ trái tim đã chịu nhiều đau khổ. Thân ông bị liệt và mãi mãi bất động. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để xóa hết nỗi cay nghiệt của cuộc đời. Trong cái cơ thể vĩnh viễn bất động ấy còn có một khối óc minh mẫn. Huân tước Buxton vô giác, câm lặng và liệt giường, liệt chiếu vẫn cứ suy nghĩ! Và nếu chú ý đến sai phân kinh độ, đúng vào lúc người cha của Jane Buxton ngã xuống bất tỉnh thì nàng đặt chân lên bàn đạp, cưỡi ngựa vượt qua chiếc cầu nối liền Conakry với lục địa, bắt đầu cuộc hành trình, thực hiện những bước đi đầu tiên trong rừng rậm châu Phi huyền bí. https://thuviensach.vn IV Bài Báo Gửi Về Expansion Française Ngày 1 tháng Giêng, độc giả của tờ Expansion Française đã được thưởng thức bài báo sau đây của Amédée Florence. ĐOÀN THỊ SÁT BARSAC (Bài của phóng viên đặc biệt của chúng tôi gởi về) Trong rừng rậm ngày 1 tháng Mười hai. Như trong bức thư cuối cùng tôi đã viết cho các bạn, đoàn thị sát Barsac sẽ phải xuất phát hôm nay, vào lúc sáu giờ sáng. Mọi thứ đều đã chuẩn bị xong khi có hai người tự nguyện gia nhập đoàn. Một trong hai người đó là một thiếu nữ đẹp tuyệt trần, người Pháp, được nuôi dạy ở Anh nên nói tiếng Anh tuyệt vời. Tên cô là Jane Mornas. Người thứ hai là chú của cô ta, nếu như anh không phải là cháu của cô nọ vì tôi chưa thể hiểu được mối quan hệ họ hàng của họ. Anh tên là Agénor de Saint-Bérain. Đó là một con người kỳ quặc. Tính đãng trí của anh đã trở thành huyền thoại ở Conakry và tôi hy vọng rằng nó sẽ mang lại cho chúng ta không ít những phút giây vui nhộn. Cô Mornas và de Saint-Bérain đi du lịch để tiêu khiển. Họ có hai người đầy tớ da đen, là những cựu xạ thủ Sénégal, làm công việc dẫn đường và phiên dịch, mặc dù hai du khách của chúng tôi nói được kha khá tiếng Bambara và mấy thứ tiếng châu Phi khác. Thế là năm giờ rưỡi sáng ngày 1 tháng Mười Hai, chúng tôi đã tập trung đông đủ trên quảng trường lớn ở Conakry, cạnh dinh toàn quyền. Sự thận trọng sơ đẳng nhất cũng đòi hỏi phải có một đội vũ trang tháp tùng đoàn và Barsac phải công nhận điều đó là cần thiết: đại úy Marcenay cùng hai trăm kỵ sĩ đi hộ tống chúng tôi. Sáu giờ, đoàn xe ngựa xếp hàng theo sự hướng dẫn của một người da đen đã mấy lần đi từ Conakry đến Sikasso. Tên của anh là Moriliré. Đó là một https://thuviensach.vn chàng trai khỏe mạnh, trạc ba mươi tuổi, mặc quần cộc và áo khoác của lính bộ binh thuộc địa cũ, trên có cầu vai sờn bẩn. Chân trần, còn đầu thì đội chiếc mũ vải gai từng có màu trắng một thời. Mũ cắm lông chim ba màu rất đẹp. Đoàn xe chúng tôi gồm năm mươi con lừa, do hai mươi lăm mục phu điều khiển và năm mươi phu khuân vác, mười người trong bọn họ là do cô Mornas thuê mướn. Các kỵ sĩ của đại úy Marcenay đứng thành hai hàng dọc theo đoàn xe. Đúng sáu giờ lệnh phát ra. Lá cờ ba màu được kéo lên trên dinh thự và từ trên ban công, ông toàn quyền vẫy chào chúng tôi lần cuối. Tiếng kèn đồng và tiếng trống của đội bộ binh thuộc địa đóng tại Conakry vang lên. Chúng tôi bỏ mũ ra: phút nghiêm trang. Mặt trời lên và những tia nắng đầu tiên hớn hở chiếu sáng đường chúng tôi đi. Bên kia chiếc cầu nối liền Conakry với đất liền là đoạn đầu của con đường rất tốt, rộng từ năm đến sáu mét, chặng đường đưa chúng tôi đến Timbo dài bốn trăm km. Nghĩa là chúng tôi có thể không phải lo gặp trắc trở gì trên đường tới Timbo. Thời tiết tốt, nhiệt độ bóng râm khoảng mười bảy độ và những trận mưa rào không thể đe dọa được chúng tôi: mùa mưa đã qua rồi. Tiến lên! Mọi việc sẽ tốt đẹp trong cái thế giới tốt đẹp này! Gần mười giờ, trời nắng gắt, đại úy Marcenay ra lệnh dừng lại. Chúng tôi đã đi cách xa Conakry hai mươi km, vậy là rất tốt. Lúc năm giờ chiều, sau khi đã ăn uống và nghỉ ngơi, chúng tôi lại lên đường và khoảng chín giờ tối thì hạ trại nghỉ đêm. Đó là chương trình hàng ngày. Tôi sẽ không đề cập đến nó nữa vì không có ý định quấy nhiễu độc giả bằng những chi tiết nhỏ nhặt của chuyến đi. Tôi sẽ chỉ ghi lại những sự kiện thú vị mà thôi. Moriliré trông nom bếp dã chiến. Cùng với Tchoumouki và Tongané – hai đầy tớ của cô Mornas – anh ta sẽ làm cơm cho chúng tôi ăn bởi vì chúng tôi đã thỏa thuận với nhau là phải tiết kiệm đồ hộp và lương thực mang từ châu Âu sang, đề phòng trường hợp không kiếm ra thức ăn tươi sống. https://thuviensach.vn Bữa ăn sáng đầu tiên của chúng tôi rất ngon. Bạn hãy tự đánh giá lấy: thức ăn gồm có thịt cừu rán với tạp pí lù, bánh ga tô làm bằng bột ngô, vả, chuối và cơm dừa, đồ uống là nước sạch lấy từ con suối chảy qua ngay đấy, còn rượu cất từ nguyên liệu của cây cọ thì dành cho những ai ham thích. Chúng tôi dừng chân và căng lều nghỉ đêm giữa rừng rậm. Tuy nhiên chỗ ấy không hoàn toàn vắng vẻ. Bên phải con đường có một túp lều của thổ dân, còn bên trái chúng tôi là một lều khác có người ở. Cô Mornas đang thu xếp chỗ ngủ trong lều bạt thì Moriliré báo cho cô biết rằng thiếu nữ da đen, đầy tớ của một điền chủ da đen đang đi vắng, mời cô vào nghỉ trong căn nhà sạch sẽ, thậm chí có cả một vật rất khó tin là chiếc đi-văng Âu chính cống nữa cơ đấy! Cô Mornas nhận lời và chúng tôi long trọng đưa tiễn cô đến nơi nghỉ mới. Người hầu gái đang đợi chúng tôi. Đó là một cô bé, tuổi chừng mười lăm. Thấy chúng tôi đến, cô ta bước ra đón. Chúng tôi rất ngạc nhiên vì cô ta nói tiếng Pháp khá đúng. — Em, – cô bé da đen nói với Mornas, – được giáo dục ở trường Pháp, đã hầu hạ cho một bà da trắng có chồng là sĩ quan, rồi về làng khi xảy ra đánh nhau dữ dội và bị bắt làm nô lệ. Em biết sắp đặt giường chiếu như phụ nữ da trắng. Chị sẽ rất hài lòng cho coi. Cô bé âu yếm nắm tay Mornas dẫn vào nhà. Chúng tôi hài lòng ra về vì cô bạn đường của chúng tôi đã được thu xếp một cách chu đáo. Nhưng cả cô lẫn chúng tôi đều chưa kịp chợp mắt. Không đầy nửa giờ sau, cô Mornas đã cầu cứu chúng tôi. Chúng tôi chạy đến và nhờ ánh đuốc, chúng tôi nhìn thấy một cảnh tượng thật bất ngờ. Cô hầu gái da đen đang nằm thẳng cẳng dưới đất, gần ngưỡng cửa. Lưng cô bé đầy những vết máu. Cô bé bất hạnh đang khóc tức tưởi. Đứng trước cô, bảo vệ cho cô là Mornas, còn ở đằng xa là lão da đen tệ hại đang nhăn nhó mặt mày, tay vẫn cầm cái roi. — Các ngài xem, – cô Mornas nói. – Tôi vừa mới đặt lưng xuống giường. Malik, tên của cô bé da đen – một cái tên hay đấy chứ? – đang quạt cho tôi và tôi bắt đầu thiếp đi thì lão chủ súc sinh của cô bé đột nhiên trở về. Thấy tôi, hắn điên tiết lên, lôi cô bé đáng thương ra đánh để dạy cho cô bé biết hậu quả của việc dám đưa người da trắng vào nhà của hắn như thế nào. https://thuviensach.vn — Phong với chả tục! – Baudrières càu nhàu. Ông nói đúng, cái ông Baudrières vui tính ấy, nhưng lại không đúng khi ông thừa cơ tỏ vẻ hùng biện thốt ra mấy lời hoa mỹ sau đây: — Chúng đấy, thưa các ngài, cái bọn man rợ mà các ngài muốn biến thành những cử tri yêu chuộng hòa bình! Có lẽ ông tưởng mình đang đứng trên diễn đàn. Barsac giật nảy người như bị kiến đốt. Ông rướn thẳng lên rồi đáp, giọng khô khan: — Ngài hãy nói với những ai chưa bao giờ nhìn thấy người Pháp đánh phụ nữ! Ông Barsac cũng đúng. Lẽ nào chúng tôi lại phải chứng kiến một cuộc đấu khẩu? Không, Baudrières không trả đũa. Barsac quay lại phía gã da đen đang cầm roi. — Cô bé này sẽ không ở lại với ông nữa, – ông nói – Chúng tôi sẽ đem cô ấy đi theo. Gã da đen phản đối vì cô bé đó là nô lệ của hắn. — Tôi sẽ mua lại cô bé nô lệ của ông, – Barsac nói – Bao nhiêu? Hoan hô ông Barsac! Ý định thật là tuyệt! Gã da đen thấy có dịp vớ bở nên đã bình tĩnh lại. Gã đòi một con lừa, một khẩu súng và năm mươi franc. — Năm mươi roi thì có! – Đại úy đáp lại. – Mi hoàn toàn xứng đáng với số roi đó. Họ bắt đầu mặc cả. Cuối cùng, tên bợm chịu nhường cô hầu gái để lấy một khẩu súng hỏa mai cũ kỹ, một mảnh vải và hai mươi lăm franc. Trong khi mọi người còn đang tranh cãi thì cô Mornas đã đỡ Malik dậy và băng bó các vết thương cho cô bé. Đến lúc việc mua bán đã xong, cô dẫn cô bé về trại của chúng tôi, mặc cho cô bé chiếc áo blu trắng và nói, sau khi đã đặt vào tay cô bé mấy đồng bạc: — Em không phải làm nô lệ nữa. Tôi cho em tự do đi đâu thì đi. Nhưng Malik òa lên khóc nức nở; cô không còn ai thân thích trên đời, cô không biết đi đâu và cô cũng không muốn xa “người phụ nữ da trắng tốt bụng đến thế”: cô bé muốn làm con sen cho cô Mornas. https://thuviensach.vn — Giữ cô bé lại đi cháu, – Saint-Bérain bàn vào. – Dĩ nhiên, cô bé sẽ có ích cho cháu đấy. Cô ta sẽ đỡ đần cho cháu trăm nghìn việc vặt mà người phụ nữ nào cũng cần. Cô Mornas vui lòng tán thành ý kiến này còn hơn cả ý muốn của cô. Khỏi phải nói, cô Mornas không còn định tìm kiếm lòng mến khách của thổ dân nữa. Mọi người đã dựng lều cho cô và chẳng có gì làm xáo động giấc ngủ của cô nữa. Ngày đầu tiên của chúng tôi là thế. Amédée Florence https://thuviensach.vn V Bài Báo Thứ Hai Của Amédée Florence Bài báo thứ hai của Amédée Florence đăng trên tờ Expansion Française vào ngày 18 tháng Giêng. ĐOÀN THỊ SÁT BARSAC (Bài của phóng viên đặc biệt của chúng tôi gởi về) Daouhérik, ngày 16 tháng Mười hai. Từ lúc tôi viết lá thư cuối cùng dưới ánh đèn heo hắt trong rừng rậm vào tối hôm chúng tôi khởi hành, thì cuộc hành trình vẫn tiếp tục, không có gì đặc biệt. Ngày 2 tháng Mười hai chúng tôi nhổ trại lúc năm giờ sáng và lại lên đường. Chúng tôi phải dỡ hàng trên lưng một con lừa xuống và xếp qua mấy con khác để cho Malik cưỡi. Cô bé da đen có vẻ như đã quên những đau khổ vừa qua, cô luôn miệng cười. Đúng là một người hạnh phúc. Chúng tôi tiếp tục đi dễ dàng và yên ổn. Giả sử không có màu da đen của những người đi bên cạnh chúng tôi và sự đơn điệu của phong cảnh thì có thể nghĩ rằng chúng tôi chưa ra khỏi nước Pháp. Phong cảnh chẳng đẹp chút nào: chúng tôi đang vượt qua một vùng bằng phẳng hay chỉ hơi nhấp nhô, có mấy ngọn đồi ở phía bắc và trong tầm mắt của mình, chúng tôi chỉ nhìn thấy toàn cây cối cằn cỗi – đám nọ chen đám kia, cao từ hai đến ba mét, được gọi là “lùm, bụi”. Dân chúng nhìn chúng tôi với thái độ niềm nở và trông họ hiền lành. Ông trưởng đoàn đi vào các xóm nghèo xơ xác, chuyện trò khá lâu với dân làng. Tôi xem lại nhật ký và không thấy có gì thú vị trong đó cho đến ngày 6 tháng Mười hai. Tối hôm đó chúng tôi hạ trại gần làng Oualia. Đến giờ, tôi về lều để ngủ. Tôi thấy Saint-Bérain đã cởi bỏ hết quần áo mặc ngoài đang ở đấy. Áo quần https://thuviensach.vn của anh mỗi nơi một chiếc. Giường chiếu tươm tất. Có lẽ, Saint-Bérain định ngủ lại chỗ tôi. Tôi dừng bước và lặng ngắm vị khách đường đột của mình. Saint-Bérain không hề tỏ ra ngạc nhiên khi trông thấy tôi. Nói chung, anh không ngạc nhiên bao giờ. Anh rất lo lắng, lục tìm khắp nơi và quẳng các thứ trong vali của tôi ra đất. Nhưng anh không tìm thấy thứ mình cần. Việc đó khiến anh tức điên cả người. Anh đến bên tôi và tuyên bố một cách rất tự tin: — Tôi chúa ghét những kẻ đãng trí. Bọn chúng thật bỉ ổi! Tôi đồng tình ngay. — Bỉ ổi thật! Nhưng chuyện gì đã xảy ra với anh thế, anh Saint-Bérain? — Anh biết không? – Saint-Bérain trả lời, – Tôi không thể tìm thấy bộ đồ ngủ của tôi. Tôi chắc gã Tchoumouki sâu bọ kia đã bỏ quên nó ở chỗ nghỉ chân đêm qua. Tếu thật đấy! Tôi gợi ý: — Thế nếu nó không có trong vali của người khác? — Của tôi... — Nhưng mà vali này là của tôi đấy, anh bạn thân mến ạ, cả chiếc lều mến khách này cũng... Saint-Bérain mở to mắt ngạc nhiên. Biết mình nhầm, anh vơ vội số quần áo bị vứt bừa bãi rồi bỏ chạy như thể có bọn ăn thịt người đang đuổi riết theo anh. Tôi gieo người xuống giường, cười lăn lóc. Tối ngày 7 tháng Mười hai, tình cờ lều của tôi dựng cạnh lều của cô Mornas. Tôi đi nằm và nghe thấy tiếng chuyện trò bên cạnh. Thay vì phải bịt tai lại, thì tôi lắng nghe: đó là yếu điểm của tôi. Cô Mornas đang hỏi Tongané, anh nọ trả lời bằng thứ tiếng Anh mà tôi phải sửa lại cho độc giả dễ hiểu. Câu chuyện chắc đã bắt đầu trước đó. Cô Mornas đang gạn hỏi về quãng đời trước đây của anh ta. Cô hỏi: — Sao anh, một người Achantis... Ra thế! Tongané không phải là người Bambara, tôi chưa hề nghĩ như vậy. —... lại thành xạ thủ Sénégal? Anh đã nói cho tôi biết điều ấy khi tôi thuê anh nhưng giờ tôi quên mất rồi. Tôi có cảm giác là cô Mornas không thật lòng. https://thuviensach.vn Tongané trả lời: — Chuyện ấy xảy ra sau vụ Buxton... Buxton? Cái tên này có nói với tôi điều gì đó. Nhưng điều gì? Tôi vừa tiếp tục lắng nghe vừa lục lọi trong trí nhớ. — Anh có biết tại sao họ bắn không? – cô Mornas hỏi. — Bởi vì đại úy Buxton đã cướp bóc và bắn giết mọi người. — Đúng thế không? — Thưa, rất đúng ạ. Chúng tôi đã đốt làng, giết người da đen nghèo khổ, giết phụ nữ và trẻ em... — Và chính đại úy Buxton đã ra lệnh thực hiện tất cả những tội ác đó? – cô Mornas gạn hỏi, giọng không thay đổi. — Không ạ, – Tongané trả lời. – Chúng tôi không nhìn thấy đại úy bao giờ. Ông không bước ra khỏi lều từ ngày có một người da trắng đến. Ông da trắng đó nhân danh đại úy ra lệnh cho chúng tôi. — Ông ta, cái ông da trắng ấy, ở chỗ các anh có lâu không? — Rất lâu ạ. Năm, sáu tháng, mà cũng có thể lâu hơn nữa. — Bọn anh gặp ông ấy ở đâu? — Trong rừng. — Và đại úy Buxton đã dễ dàng thu nhận ông ta? — Họ không rời nhau nửa bước cho đến ngày đại úy không thể bước ra khỏi lều của mình. — Và chắc là những hành động tội ác bắt đầu từ hôm đó? Tongané ngập ngừng. — Tôi không biết, – anh thú nhận. — Thế còn ông da trắng kia? – Cô Mornas hỏi. – Anh có nhớ tên ông ta không? Tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng vào làm át đi tiếng nói của Tongané. Tôi không biết anh đã trả lời những gì. Rốt cuộc thì điều ấy cũng không quan trọng. Đó chẳng qua chỉ là một câu chuyện cũ không làm tôi bận tâm. Cô Mornas lại hỏi: — Sau khi lính Anh bắn vào bọn anh, chuyện gì đã xảy ra với anh? https://thuviensach.vn — Tôi đã nói cho tiểu thư biết lúc tiểu thư thuê tôi ở Dakar đấy thôi. – Anh trả lời. – Tôi và những người khác rất sợ và đã bỏ chạy vào rừng. Lát sau, tôi quay lại chỗ bắn nhau, nhưng không thấy ai. Ở đấy toàn là xác chết. Tôi đã chôn cất các bạn hữu, chôn luôn cả thủ lĩnh, đại úy Buxton nữa. Tôi nghe thấy tiếng reo bị nén xuống. — Sau đó, – Tongané tiếp tục, – tôi lang thang từ làng này sang làng khác và đến sông Niger. Tôi ngược dòng trên một chiếc thuyền ăn cắp được và cuối cùng thì đến Tombouctou, người ta thuê tôi làm xạ thủ, rồi khi người ta sa thải, tôi đi Sénégal, nơi tiểu thư đã gặp tôi. Sau hồi lâu im lặng, cô Mornas hỏi: — Vậy đại úy Buxton đã chết? — Vâng, thưa tiểu thư. — Và anh đã chôn cất ông ta? — Vâng, thưa tiểu thư. — Anh biết mộ ông ta ở chỗ nào chứ? Tongané cười. — Rất rõ ạ, – anh nói, – Nhắm mắt tôi cũng đến đó được. Lại im lặng rồi tôi nghe thấy: — Chúc anh ngủ ngon, Tongané. — Chúc tiểu thư ngon giấc. – Anh da đen đáp lại. Anh ra khỏi lều và đi xa dần. Tôi nằm ngay xuống để ngủ, nhưng vừa mới tắt đèn thì ký ức đã trỗi dậy trong tôi. “Buxton? Khỉ thật, phải đâu ta không biết con người này! Đầu óc của ta đâu rồi?! Vậy là ta đã bỏ mất một thiên phóng sự hấp dẫn!” Hồi ấy tôi đang làm cho tờ Diderot và đã đề nghị ông chủ bút cử tôi đến nơi xảy ra vụ án viên đại úy – thổ phỉ với tư cách là một phóng viên. Mấy tháng liền, ông ta từ chối, sợ tốn kém. Cuối cùng, khi ông ta đồng ý thì đã quá muộn màng. Lúc lên tàu ở Bordeaux, tôi được biết đại úy Buxton đã chết. Song tất cả những chuyện đó đã cũ rồi và nếu bạn có hỏi tôi đã kể ra cuộc nói chuyện lạ lùng của Tongané và cô tiểu thư của anh ta để làm gì thì tôi https://thuviensach.vn xin trả lời: thú thật, chính tôi cũng không biết nữa. *** Timbo là trung tâm lớn đầu tiên mà chúng tôi gặp. Chúng tôi lưu lại ở đấy hai ngày, ngày 13 và 14 tháng Mười hai, vì súc vật cần được nghỉ ngơi. Hôm sau, sau ngày chúng tôi đến – tức là ngày 14 tháng Mười hai, chúng tôi rất lo lắng cho người dẫn đường của mình: suốt ngày chúng tôi đã hoài công tìm kiếm anh ta, Moriliré biến mất. Xin các bạn hãy yên tâm: ngày 15 tháng Mười hai, vào lúc sắp lên đường, anh ta đã có mặt ở vị trí của mình và đến khi chúng tôi thức dậy, anh ta còn kịp phân phát không ít những đòn roi để số phu khuân vác không thể nghi ngờ gì về sự hiện diện của anh ta. Bị Barsac lục vấn, anh chàng ngang ngạnh đáp rằng hôm qua anh ta không hề bỏ trại. Khuyết điểm không lớn lắm, hoàn toàn có thể tha thứ cho Moriliré vì anh ta đã đi chơi trong lúc rảnh rỗi và chuyện này được quên đi ngay. Từ Timbo trở đi, con đường cứ hẹp dần thành một đường mòn. Giờ đây chúng tôi đã trở thành những nhà thám hiểm thực thụ. Cả địa hình cũng thay đổi: không còn bằng phẳng nữa. Dốc ngược dốc xuôi kế tiếp nhau. Ra khỏi Timbo, chúng tôi trèo lên một quả đồi cao, rồi tụt xuống, vượt qua một khoảng đất bằng và lại bắt đầu leo lên làng Daouhériko, nơi chúng tôi dự định sẽ nghỉ đêm. Người và súc vật đã được nghỉ ngơi thoải mái nên đoàn đi nhanh hơn mọi lần và chỉ mới sáu giờ chiều chúng tôi đã đến làng. Chúng tôi được đón tiếp hết sức nồng nhiệt: Chính chủ làng đã đến tặng quà cho chúng tôi. Barsac phát biểu cảm ơn, dân làng đáp lại bằng những tiếng reo hò hoan hỉ. Baudrières lắc đầu ngờ vực. Chủ làng mời chúng tôi vào nghỉ trong những căn nhà tốt nhất, còn cô bạn đường của chúng tôi thì được ông đề nghị tận hưởng lòng mến khách ngay tại nhà riêng của ông. Chúng tôi vô cùng cảm động trước sự đón tiếp đầy nhiệt tình đó và trong khi chúng tôi đã vội hình dung ra cuộc hành trình tiếp theo qua cặp kính màu hồng thì Malik bước đến bên Mornas và nói nhanh cho cô ấy nghe, bằng một giọng rất khẽ: https://thuviensach.vn — Xin tiểu thư đừng đi! Nếu không tiểu thư sẽ bị chết đấy! Cô Mornas sửng sốt đưa mắt nhìn cô bé da đen. Lẽ dĩ nhiên là tôi cũng đã nghe được lời của cô bé bởi đó là bổn phận của bất kỳ một anh phóng viên có lòng tự trọng nào. Và cả đại úy Marcenay cũng nghe thấy mặc dù đó không phải là nghề của anh. Sau một thoáng suy nghĩ, anh hạ lệnh lập trại. Tôi rút ra kết luận là chúng tôi sẽ được bảo vệ chu đáo. Biện pháp phòng ngừa ấy đã buộc tôi phải ngẫm nghĩ. Đại úy là người rất am hiểu xứ sở của người da đen. Chẳng lẽ anh mà cũng tin vào mối nguy hiểm do Malik vừa báo hay sao? https://thuviensach.vn VI Bài Báo Thứ Ba Của Amédée Florence Tờ Expansion française đăng tải bài thứ ba của phóng viên đặc biệt của mình vào ngày 5 tháng Hai. Vì những lý do mà độc giả sẽ được biết thì đây là bài báo cuối cùng của anh phóng viên tháo vát nọ gửi cho tòa soạn. Do đó, độc giả của Expansion française trong một thời gian dài không thể nào đoán ra bí ẩn ở đoạn cuối của bài báo của Amédée Florence, phải đến chuyện sau nữa điều bí ẩn ấy mới được giải thích đầy đủ. ĐOÀN THỊ SÁT BARSAC (Bài của phóng viên đặc biệt của chúng tôi) Kankan ngày 24 tháng Mười hai. Chúng tôi đến đây sáng hôm qua và sẽ đi tiếp vào ngày mai, ngày lễ Chúa Giáng sinh. Trong bài báo vừa rồi, tôi đã kể cho các bạn nghe về việc Malik báo trước cho cô Mornas đề phòng. Đại úy Marcenay đã ra những mệnh lệnh mà tình huống đòi hỏi. Barsac không nén được cơn tức giận. - Ông đại úy, ai có quyền ra lệnh ở đây? Tại sao ông không hỏi ý kiến của tôi mà đã ra lệnh đóng trại ngoài đồng, thay vì phải trọ lại trong dân? Đại úy trả lời, giọng tỉnh khô: — Tôi được biết có âm mưu chống lại chúng ta. — Mưu với mô! – Barsac thốt lên một cách giễu cợt. – Thật là quá quắt! — Xin ngài hãy bình tĩnh và nghe tôi nói đây, – cô Mornas nói. – Tôi vừa mới nói chuyện với Malik xong. Chính cô bé đã báo cho ông Marcenay biết về âm mưu đó. Ngài đã từng được nghe nói về doung-kono chưa? Barsac lắc đầu. — Tôi biết, – bác sĩ Châtonnay đến gần, cắt ngang. – Đó là một loại thuốc rất độc, có đặc tính là làm cho nạn nhân của nó chết sau một tuần. https://thuviensach.vn — Người ta định hại chúng ta bằng cách ấy đấy, – cô Mornas nói. – Malik đã nghe trộm được câu chuyện của chủ làng Daouhériko với mấy chủ nhà kế bên. Dolo Saron, tên của một chủ nhà, cần phải đón tiếp nồng nhiệt chúng ta và mời một số người trong chúng ta vào ở nhà của hắn, còn số khác thì sẽ ở nhà của đồng bọn hắn. Chúng ta sẽ được thết đãi các món ăn, thức uống đặc sản mà chúng ta không tiện từ chối. Đồng thời, bọn chúng sẽ chuốc rượu cho binh lính của chúng ta say mèm. Sáng ngày chúng ta lại lên đường, không hay biết gì, và mấy ngày sau mới cảm thấy tác dụng của thuốc độc. Bạn đọc có thể thấy chuyện này đã làm cho chúng tôi lo lắng đến mức nào. Barsac bị choáng váng. Ngày 16 tháng Mười hai, chúng tôi thức dậy từ lúc tờ mờ sáng. Khi rời Daouhériko, tôi nhận thấy Tchoumouki, đầy tớ thứ hai của cô Mornas, không đi ở phía sau nữa mà đang đi chung với Moriliré. Nghĩa là, anh ta đã cãi nhau với Tongané? Tchoumouki và Moriliré nói chuyện với nhau như đôi bạn thân nhất trần đời. Thế đã sao? Càng tốt! Hình như Tongané không hề hối tiếc về việc đã cãi nhau với bạn. Anh đang chuyện trò với Malik và có vẻ rất vui. Sau làng Bagareya là bưng, và tiếp đến là đồng bằng kéo dài tới cận Kankan. Chúng tôi đến đó hôm qua. 23 tháng Mười hai. Chúng tôi đến Kankan chậm mất mười hai giờ vì Moriliré lại đào tẩu: anh ta bỏ trốn vào ngày 22, trong lần nghỉ chân giữa trưa. Chúng tôi buộc phải đợi anh ta đến tận sáng ngày hôm sau, khi ấy người dẫn đường của chúng tôi mới trở về vị trí của mình và dẫn đoàn đi như thể không có chuyện gì xảy ra. Lần này anh ta không thể phủ nhận sự vắng mặt của mình. Và Moriliré cũng không quanh co. Anh ta giải thích rằng phải trở lại chỗ nghỉ chân trước đó để lấy mấy tấm bản đồ của đại úy Marcenay bị anh ta bỏ quên. Đại úy mắng nhiếc anh ta thậm tệ, và chuyện kết thúc ở đó. Tôi sẽ không nhắc đến sự kiện này nếu như SaintBérain không định phóng đại nó lên. Đêm ấy SaintBérain bị mất ngủ, anh ta như có trông thấy người dẫn đường của chúng tôi trở về, và hết sức bí mật, anh báo cho đại úy Marcenay biết rằng Moriliré đã trở về không phải từ hướng Tây, mà là từ hướng Đông, hướng Kankan, hướng chúng tôi đang đi tới, thế nên anh ta https://thuviensach.vn không thể tìm đồ gì bị bỏ quên ở đó được. Như vậy người dẫn đường của chúng tôi đã nói dối. Loại tin như thế có lẽ đã được lưu ý nếu như nó không phát ra từ cửa miệng của Saint-Bérain. Song lại chính anh đã nói ra! Anh đãng trí đến mức có thể nhầm hướng tây với hướng đông. Thôi, chúng ta hãy trở lại câu chuyện bị bỏ dở. Chúng tôi, gồm cô Mornas, Barsac, Saint-Bérain và tôi, dưới sự hướng dẫn của Tchoumouki và Moriliré đã đi dạo chơi ở Kankan. Mấy ngày trước đó, Moriliré không ngừng làm cho chúng tôi phát ngán lên khi anh ta tán dương tài nghệ của một pháp sư có cái tên Kéniélala đang sống ở Kankan. Chúng tôi chỉ cười và cùng nhau khước từ lời mời đến thăm ông ta. Thế rồi, khi chúng tôi đang dạo chơi ở Kankan, Moriliré và Tchoumouki đã dừng chân ngay trước căn nhà của Kéniélala nổi tiếng. Họ lại khuyên chúng tôi nên ghé thăm vị pháp sư và nài nỉ cho đến lúc chúng tôi không thể không làm cho họ vui lòng được. Chúng tôi bước vào căn nhà xấu xí, bẩn thỉu. Kéniélala đang đứng giữa nhà. Sau khi chào hỏi, vị pháp sư nọ ngồi xuống chiếu và mời chúng tôi ngồi xuống theo. Lão bốc một nhúm cát mịn, dùng phất trần rắc xuống theo hình rẻ quạt. Lão hỏi xin chúng tôi mười hai hạt hồ đào – sáu hạt đỏ, sáu hạt trắng – và nói lầm bầm mấy câu thật khó hiểu vừa quẳng chúng lên lớp cát như quăng bài, sau đó lão làm mấy động tác rất kỳ quái như thể phù phép cho chúng. Cuối cùng, lão thận trọng nhặt mấy hạt hồ đào lên và chìa bàn tay dơ dáy ra để chúng tôi đặt tiền công vào đó. Bây giờ chúng tôi chỉ việc hỏi. Lão khoái chí và sẵn sàng phán bảo. Lão bắt đầu từ tôi, tôi hỏi lão về số phận của thứ tôi quý nhất trên đời – Những bài báo tôi gởi cho các bạn. — Sắp tới, – Lão nói với tôi bằng tiếng Ả-rập – không ai còn nhận được tin của thân chủ nữa. Lạ thế đấy! Nhưng pháp sư có nói “sắp tới”, nghĩa là tôi có thể yên tâm với bức thư này. Kéniélala quay sang Saint-Bérain. https://thuviensach.vn — Thân chủ, – lão đoán cho anh, – sẽ bị thương, vết thương làm cho thân chủ không thể ngồi được. Đến lượt cô Mornas. — Thân chủ sẽ bị giáng một đòn vào tim, – Kéniélala nói. Ái chà! Khôn thật! Các bạn thấy đấy, lão không nói rõ vết thương về thể chất hay tinh thần. Tôi thiên về giả thiết thứ hai. Chắc cô Mornas cũng hiểu nhà tiên tri như tôi, bởi vì mặt cô đỏ lên. Tôi xin cam đoan là cô đang nghĩ đến đại úy Marcenay. Lão già im lặng rồi nhìn Barsac với vẻ hăm dọa. Rõ ràng là chúng tôi đang đứng trước lời tiên đoán quan trọng nhất. Lão phán: — Quá Sikasso một đoạn, tôi thấy có người da trắng, đối với các thân chủ, điều đó có nghĩa là nô lệ hoặc là chết. Lão vui ra mặt. — Người da trắng? – Cô Mornas nhắc lại. – chắc thầy muốn nói: người da đen? — Tôi nói: người da trắng, – Kéniélala trịnh trọng khẳng định. – Đừng đi quá Sikasso, bằng không các thân chủ sẽ bị bắt làm nô lệ hoặc bị giết chết. Lúc ăn trưa, tất cả chúng tôi, kể cả ông Baudrières nhút nhát, đều đem chuyện ấy ra mà giễu cợt, sau đó mọi người đều không còn nghĩ đến chuyện ấy nữa. Nhưng tôi vẫn cứ nghĩ và nghĩ rất nghiêm túc. Cuối cùng, khi nằm xuống ngủ, tôi đã đi đến kết luận là... người ta muốn đe dọa chúng tôi. Ai đe dọa? Và vì sao? Ai thì tôi không biết. Còn vì sao thì hẳn để buộc chúng tôi phải từ bỏ chuyến đi của mình. Chúng tôi đang làm cho ai đó phải bận tâm và người đó không muốn chúng tôi đi quá Sikasso. Moriliré đồng lõa với bọn định cản đường chúng tôi. Việc hắn cứ khăng khăng muốn dẫn chúng tôi đến chỗ Kéniélala rất đáng ngờ và có thể nghĩ rằng hắn đã bị mua chuộc. Kết luận của tôi là thế. Đúng hay sai, hồi sau sẽ rõ. Cứ sống khắc biết. Amédée Florence https://thuviensach.vn TRONG RỪNG RẬM, CÁCH KANKAN MỘT NGÀY ĐƯỜNG. NGÀY 26 THÁNG MƯỜI HAI. Tôi viết thêm mấy dòng này vào bức thư đã viết ngày hôm kia. Tchoumouki có nhiệm vụ chuyển nó đến cho các bạn. Chuyện xảy ra hồi hôm rất lạ. Rời Kankan sáng qua và sau hai chặng đường dài, tính chung khoảng ba mươi km, chúng tôi hạ trại ngoài đồng. Cả trại đã ngủ. Giữa đêm, thình lình chúng tôi bị đánh thức dậy bởi một thứ tiếng động rất lạ mà không ai trong chúng tôi có thể giải thích nổi. Nó giống như tiếng ù ù khủng khiếp của máy hơi nước hay đúng hơn là tiếng vo vo của côn trùng, nhưng là thứ côn trùng khổng lồ, to bằng con voi. Theo lời của lính gác thì tiếng động khác thường ấy bắt đầu nổi lên ở hướng Tây. Đầu tiên nó rất yếu, sau lớn dần. Lúc chúng tôi chạy ra khỏi lều, nó đạt tới mức tối đa. Lạ nhất là nó vọng đến chỗ chúng tôi từ trên không trung, từ trên trời xuống. Chúng tôi giương mắt nhìn một cách vô ích. Không thể thấy được gì vì mây đen dày đặc đã che hết mặt trăng và đêm tối như bưng. Trong khi chúng tôi hoài công căng mắt xuyên màn đêm thì tiếng ù ù chuyển về hướng Đông, nhỏ dần rồi tắt lịm... Song trước khi nó tắt hẳn, chúng tôi lại nghe thấy tiếng động khác, từ hướng Tây vọng lại. Giống như lần trước, nó lớn dần, đạt tới mức tối đa rồi nhỏ dần và mất hút ở hướng Đông. Cả trại khiếp sợ. Phu khuân vác nằm úp mặt xuống đất. Tất cả chúng tôi quây quần bên đại úy Marcenay. Tchoumouki và Tongané cũng có mặt ở đấy. Tôi không thấy Moriliré đâu cả. Chắc hắn đang nằm run sợ ở đâu đấy thôi. Tiếng ầm ầm khủng khiếp nổi lên, gia tăng rồi tắt lịm năm lần. Sau đó đêm khuya đã trở lại với vẻ tĩnh mịch thường khi của nó và trôi qua bình yên. Sáng sớm, lúc chúng tôi bắt đầu tập họp đội ngũ thì những người da đen hoảng sợ một mực không chịu đi. Mãi sau, đại úy Marcenay mới khuyên bảo được họ và chúng tôi lên đường, chậm mất ba tiếng đồng hồ. https://thuviensach.vn Sự kiện huyền bí đêm đó dĩ nhiên đã choán hết tâm trí của mọi người, nhưng không một ai có thể giải thích được. Dần dần họ chuyển sang nói những chuyện khác. Chúng tôi đã đi được gần hai mươi km thì bỗng nhiên đại úy Marcenay đang đi phía trước, nhìn thấy mặt đất bị rạch thành những đường như vết bánh xe dài khoảng năm trăm mét, chạy từ Tây sang Đông. Các vết ấy sâu gần một tấc ở hướng Tây rồi nông dần về hướng Đông. Có chừng mười vết, chia làm năm cặp. Chúng có liên quan gì đến tiếng động đêm ấy? Đầu tiên chúng tôi định trả lời là không. Nhưng hướng của chúng là từ Tây sang Đông, số lượng lại trùng hợp: năm cặp vết bánh xe, năm lần nổi lên tiếng động ầm ầm. Vậy là sao? Tôi không biết. Amédée Florence https://thuviensach.vn VII Ở Sikasso Đoàn thị sát Barsac đến Sikasso ngày 12 tháng Giêng. Trong sáu tuần lễ, tính trung bình mỗi ngày đi được hai mươi lăm km, đoàn đã vượt qua chặng đường dài một nghìn một trăm km, từ bờ biển tới thủ đô Keneduga cổ kính này. Expansion française không còn nhận được bài viết của Amédée Florence nữa và chúng ta chẳng thể nào biết được gì về cuộc hành trình nếu như không có cuốn nhật ký mà hằng ngày anh phóng viên lanh lợi đó đã dùng để ghi lại những điều nhận xét và quan sát được. Tác giả câu chuyện này đang để nó ở trước mặt của mình và khi cần sẽ trích dẫn thoải mái. Tại Sikasso, nếu độc giả chưa quên, đoàn thị sát Barsac phải chia làm đôi. Một nhóm, dưới sự lãnh đạo của chính Barsac, sẽ đi về hướng Đông, qua Ouagadougou – thủ đô của Mossi và quay ra biển, qua Borgou đến Dahomey, nhóm thứ hai, do Baudrières dẫn đầu sẽ xuống miền Nam và tiến thẳng đến GrandBassam. Thành phố Sikasso, cũng như tất cả các điểm dân cư khác ở xứ này có tường thành bao quanh. Tường cao hơn sáu mét và dưới chân dày hơn tám mét. Quân đồn trú của Pháp ở Sikasso gồm ba đại đội. Các sĩ quan trẻ đã hân hoan chào đón đoàn thị sát Barsac. Họ tổ chức tiếp đón các vị khách quý một cách long trọng. Hôm sau, đoàn tiến hành chia hai. Cùng đi với Baudrières có Heyrieux và Quirieu – theo sự phân công và Tassin – theo nguyện vọng riêng của ông. Poncin và bác sĩ Châtonnay gia nhập nhóm của Barsac. Amédée Florence cùng đi với họ vì hành trình của nhóm này dài hơn nên anh sẽ có nhiều tài liệu để viết. https://thuviensach.vn Đại úy Marcenay được lệnh chuyển một trăm chiến sĩ của mình sang cho đội bảo vệ Baudrières, đặt dưới quyền chỉ huy của một viên trung úy lấy từ đội quân trú phòng Sikasso, còn anh và số binh lính còn lại phải đi cùng với Barsac. Anh là người quen tuân theo kỷ luật nhưng vẫn rất lo lắng và buồn rầu tự hỏi: không biết Jane Mornas và Saint-Bérain sẽ đi với nhóm nào? Anh đã thở phào nhẹ nhõm lúc thiếu nữ tuyên bố rằng nàng sẽ đi cùng với Barsac. Và rồi viên đại úy của chúng tôi vô cùng thất vọng khi nghe Jane nói thêm rằng nàng và Saint-Bérain sẽ ở lại với nhóm của ông dân biểu miền Nam khả kính không bao lâu và sẽ chia tay với ông sau một vài chặng để tiếp tục cuộc thám hiểm của mình lên phía Bắc. Mười con lừa, năm mục phu và mười phu khuân vác của Jane Mornas và Saint-Bérain dĩ nhiên là phải theo chủ của chúng. Số mục phu, phu khuân vác và súc vật thồ hàng còn lại được chia ra thành hai phần không đều nhau: số nhiều hơn sẽ đi với nhóm có chặng đường dài hơn, tức là với nhóm của Barsac và anh chàng Moriliré cũng cùng đi với nhóm này. Nhưng đến lúc thực hiện phương án đó thì Moriliré cương quyết từ chối, chẳng có lý lẽ nào thuyết phục được anh ta. Anh ta nói rằng anh ta chỉ được thuê đến Sikasso thôi và không có gì trên thế gian này có thể bắt anh ta đi tiếp được. Mọi người nói mãi, anh ta mới đồng ý đi dẫn đường cho nhóm của Baudrières. Vừa thu xếp xong việc ấy thì đã xuất hiện một khó khăn mới, từ phía các mục phu và phu khuân vác. Họ đồng lòng không chịu đi quá Sikasso. Đề nghị, hứa hẹn, đe dọa – hết thảy đều vô hiệu. Người ta bắt đầu đi tìm người dẫn đường mới và bọn đầy tớ khác. Không phải tốn nhiều công sức để thuê đầy tớ, nhưng phải mất mấy ngày mới tìm được người dẫn đường ở địa phương tỏ ra tương đối đáng tin cậy. Đó là chàng da đen Bala Konéré. Morilere lập tức thay đổi thái độ. Từ chỗ thờ ơ, thậm chí còn giễu cợt với việc tìm kiếm không kết quả của các ông chủ, anh ta thay đổi ngay lập trường khi công việc tìm kiếm đã thành công. Anh ta tha thiết xin Barsac thứ lỗi cho tính ương ngạnh của mình, nói rằng do sợ nên đã không chịu đi và xin được tiếp tục tháp tùng đoàn đến Ouagadougou và Dahomey. Sự chống https://thuviensach.vn đối của đám phu khuân vác cũng tan biến, họ nói rằng họ sẵn sàng đi theo người dẫn đường của mình đến bất cứ nơi nào. Việc đồng tâm đột ngột này chứng tỏ Moriliré là kẻ có lỗi duy nhất trong cuộc đình công bất ngờ và người ta đã thoáng có ý nghĩ nên từ chối đề nghị muộn màng của anh ta. Nhưng sử dụng số phu từng trải và người dẫn đường – thổ dân của xứ sắp đi qua là một việc hữu ích, vì vậy người ta đã nhắm mắt trước những mánh khóe của Moriliré. Tất cả những vụ lộn xộn và thay đổi đó ngốn mất khá nhiều thời gian. Baudrières và Barsac đến Sikasso ngày 12 tháng Giêng mà mãi tới ngày 21 mới rời khỏi nó được. Barsac và Baudrières bắt tay nhau rất cảm động. Hai nhóm cùng khởi hành, mỗi nhóm đi theo hướng của mình. Baudrières đi về hướng Nam, Barsac, Poncin, bác sĩ Châtonnay, Amédée Florence, Jane Mornas và Saint Bérain cùng một trăm kỵ sĩ dưới quyền chỉ huy của đại úy Marcenay rẽ trái và mất hút ở hướng Đông. Song số phận rất khác nhau đã dành cho hai nhóm gần giống như nhau đó. Trong khi Baudrières thực thi nhiệm vụ của mình một cách bình yên thì Barsac và các bạn của ông lại gặp những sự kiện hết sức kỳ lạ và khủng khiếp. Và đó chính là lý do tại sao từ đây câu chuyện sẽ bỏ qua những chi tiết nhỏ nhặt trong chuyến đi xuôi chèo mát mái của Baudrières và chỉ gắn liền với nhóm đi về hướng Đông, và với sự hướng dẫn của Moriliré, họ đang tiến sâu vào xứ sở của người da đen. https://thuviensach.vn VIII Moriliré (trích nhật ký của Amédée Florence) NGÀY 22 THÁNG GIÊNG. Hai ngày đã trôi qua từ khi chúng tôi rời Sikasso, và tôi có cảm tưởng là công việc không được ổn. Hình như tinh thần của những người đầy tớ bị giảm sút: mục phu chỉ chờ có dịp là xao nhãng, còn phu khuân vác thì có vẻ mau mệt hơn và luôn mồm đòi được nghỉ chân. Có thể, đó là do tôi tưởng tượng ra và bị những lời tiên đoán của Kéniélala ám ảnh. Quả thật, những lời tiên đoán mà tôi hầu như đã quên đi ấy lại có chút ít trọng lượng kể từ lúc chúng tôi rời khỏi Sikasso và đội hộ tống chỉ còn một nửa. NGÀY 24 THÁNG GIÊNG. Buổi tối, chúng tôi đến Kafélé. Bốn ngày đi được năm mươi km. Mười hai km một ngày – Một kỷ lục không đến nỗi nào. NGÀY 31 THÁNG GIÊNG. Ấy thế mà kỷ lục đó đã bị phá! Chúng tôi phải mất sáu ngày để vượt qua 50 km tiếp theo. Tổng cộng: một trăm km đi trong mười ngày! Chúng tôi đang ở làng Kokoro nhỏ bé. Ba hôm trước, sau khi rời làng Ngana – họa có quỷ mới bịa ra được những cái tên như thế?! – Chúng tôi đã xuống cái thung lũng mà hiện giờ đang đi. Núi ở các hướng Tây, Bắc và Nam. Trước mặt chúng tôi là hướng Đông, là bình nguyên. Họa vô đơn chí, chúng tôi đã phải lưu lại ở Kokoro một thời gian. Không phải vì bị ép buộc mà vì ông chủ làng Pintié–Ba nhiệt tình của chúng tôi. Vào đêm hôm chúng tôi đến gần làng, chúng tôi đã gặp một đám đông những người da đen đang gào thét. Dưới ánh đuốc, chúng tôi đếm được có ít nhất tám trăm người và hình như thái độ của họ không thân thiện cho lắm. Lần đầu tiên chúng tôi gặp một kiểu đón tiếp như thế nên có hơi ngạc nhiên. https://thuviensach.vn Đại úy Marcenay ra lệnh cho binh lính của anh mở nắp các thùng đựng vũ khí nhưng không lấy súng ra. Đại úy còn chần chừ. Lúc ấy con ngựa của Saint-Bérain hoảng sợ vì tiếng la hét đã lồng lên. Saint-Bérain bị bắn ra khỏi yên, chúi đầu rơi thẳng vào đám dân da đen. Bọn họ gào lên rất hung dữ và lao vào anh bạn bất hạnh của chúng tôi. Khi đó... ...Khi đó, cô Mornas thúc ngựa lao thẳng vào đám đông lập tức thu hút sự chú ý về phía mình. Nữ kỵ sĩ dũng cảm của chúng tôi bị bao vây. Hai mươi ngọn thương nhằm thẳng vào người cô... — Manto! – Cô nói to với những người đang xông đến. – Ntéa bé souba. (Đứng yên! Ta là tiên nữ.) Vừa nói cô vừa rút cây đèn pin ra và bật cho nó sáng nhấp nháy. Mọi việc trở nên êm dịu, và quanh cô là vòng vây đầy kính nể. Ông Pintié–Ba kể trên bước ra khoảng giữa. Ông định phát biểu – đó là cái tật của tất cả những nhà cầm quyền trên trái đất. Nhưng cô Mornas yêu cầu ông im lặng: cô đang vội đến cứu Saint-Bérain, anh vẫn nằm bất động từ lúc bị ngã. Theo kết luận của bác sĩ Châtonnay thì Saint-Bérain đã bị thương. Người anh đầy máu. Anh không may rơi đúng vào hòn đá sắc cạnh, vết thương khá lớn, ở dưới thắt lưng một chút. Khi ấy tôi nghĩ: một trong những điều tiên đoán của Kéniélala đã thành sự thật. Tôi lạnh cả xương sống, lo cho số phận các bài báo của tôi. Khi bác sĩ Châtonnay lấy túi đựng đồ nghề ra rửa và băng bó vết thương cho Saint-Bérain thì những người da đen ngắm nhìn ông với vẻ hết sức ngạc nhiên. Trong lúc công việc chạy chữa đang tiến hành, cô Mornas cho phép ông Pintié–Ba được nói. Ông đến gần và hỏi bằng tiếng Bambara là tại sao toubab (toubab tức là Saint-Bérain) cầm vũ khí tấn công họ. Cô Mornas bác bỏ điều đó. Nhưng ông chủ làng vẫn cứ không tin, ông chỉ vào ống đựng cần câu đeo trước ngực SaintBérain. Mọi người phải giải thích cho ông. Song vô ích. Để làm cho ông tin, buộc phải tháo nắp, mở ống và lấy cho ông xem mấy chiếc cần câu. Đôi mắt của Pintié–Ba lộ rõ lòng thèm muốn. Hai tay ông chìa về hướng cái ống sáng lóng lánh. Như đứa trẻ quen được nuông chiều, ông nài nỉ, xin https://thuviensach.vn xỏ và đòi hỏi. Saint-Bérain tức mình không cho. Cô Mornas muốn củng cố bầu không khí hòa hoãn vừa được thiết lập nên đã cố gắng thuyết phục anh, nhưng không được. Cuối cùng, cô nổi giận. — Cháu với chiếc thế đấy! – Cô nói, giọng cay nghiệt, và chiếu thẳng đèn pin vào mặt chàng câu cá bướng bỉnh. Saint-Bérain nhượng bộ ngay và anh đưa cái ống đựng cần câu cho Pintié–Ba, ông này coi kết quả đó là do sức mạnh huyền bí của cây đèn và uy lực của cô tiên. Sau khi chiếm được của quý, lão vô công rồi nghề trở nên điên loạn. Lão nhảy một điệu rất quái đản, sau đó theo lệnh của lão, dân làng đã đem vũ khí cất hết đi. Pintié–Ba mời chúng tôi vào làng nghỉ bao lâu tùy thích. NGÀY 2 THÁNG HAI. Chúng tôi vẫn còn ở Kokoro vì vết thương của Saint-Bérain. Ông vừa chú vừa cháu đó (tôi mạnh dạn gọi anh như thế) chưa thể cỡi ngựa được. NGÀY 3 THÁNG HAI. Lại vẫn Kokoro. Rầu thật! NGÀY 4 THÁNG HAI, sáu giờ sáng. Cuối cùng, chúng tôi cũng ra đi. Buổi tối cùng ngày, do nhầm đường, chúng tôi lại có mặt ở Kokoro. Sáng sớm, chúng tôi chia tay với dân làng. Đoàn xuất phát, đi nhưng không được bao nhiêu. Đi chậm hơn cả trước lúc đến Kokoro. Lúc thì phu khuân vác tụt hậu – đành phải dừng lại chờ, lúc thì hàng thồ trên lưng lừa rơi xuống đất – buộc phải sắp xếp lại. Cứ thế hoài. Đến mười giờ, chúng tôi vẫn chưa đi được lấy sáu km. Tôi khâm phục đức tính kiên nhẫn của đại úy Marcenay. Anh tỉnh bơ đương đầu với âm mưu thầm lặng. Vào lúc xuất phát đi chặng buổi chiều đã xuất hiện trò hề mới: Moriliré tuyên bố rằng hắn nhầm đường. Cô Mornas hội ý với mấy tay dẫn đường. Tchoumouki ủng hộ ý kiến của Moriliré. Trái lại, Tongané khẳng định chúng tôi đang đi đúng hướng. Chúng tôi không thông thạo đường sá nên chẳng biết tin ai. Chúng tôi lưỡng lự hồi lâu rồi tán thành ý kiến của đa số là phải quay trở lại. Bấy giờ chúng tôi đi nhanh kinh khủng. Phu khuân vác không cảm thấy mệt nữa, hành lý được buộc chặt trên lưng lừa. Trong một giờ chúng tôi đi https://thuviensach.vn được một quãng đường mà ban sáng phải đi mất bốn giờ và chưa tối, chúng tôi đã về tới chỗ đóng trại cũ, gần Kokoro. NGÀY 6 THÁNG HAI. Hôm qua, 5 tháng Hai, chúng tôi đã xuất phát dễ dàng và rất lạ là theo đúng con đường mà chúng tôi đã không chịu đi. Moriliré nói rằng sau khi suy nghĩ kỹ càng thì hắn thấy hắn bị nhầm vào buổi chiều chứ không phải vào buổi sáng. Tchoumouki lại hùa theo hắn. Tôi nghĩ là hai tên này mưu phản chúng tôi. Hôm ấy đã xảy ra hai vụ việc nghiêm trọng. Trong chặng đi buổi sáng, một con lừa đột ngột lăn đùng ra đất. Mọi người định đỡ nó dậy nhưng nó đã chết. Dĩ nhiên, có thể đó là cái chết bình thường. Song thú thật tôi có nghĩ đến doung-kono và các loại độc dược khác của xứ sở này. Buổi chiều xảy ra sự việc thứ hai: một phu khuân vác biến mất. Hắn bị làm sao? Không ai biết cả. Đại úy Marcenay giật giật sợi ria mép. Tôi thấy anh lo lắng. Tối lại có chuyện bất ngờ: một số phu da đen say rượu. Ai đã chuốc rượu cho bọn họ? Đại úy đến bên Barsac đúng vào lúc tôi đang trao đổi tình hình với ông. Bác sĩ Châtonnay, Poncin, cô Mornas, Saint-Bérain cũng đến. Chúng tôi họp hội đồng quân sự. Đại úy trình bày vắn tắt các vụ việc và kết tội Moriliré trong mọi chuyện. Anh đề nghị phải tra hỏi tên dẫn đường phản trắc và cưỡng chế hắn. Mỗi người lính sẽ đi kèm một phu khuân vác, bắt đi cho kỳ được. Barsac không tán thành. Saint-Bérain càng không đồng ý. Hỏi cung Moriliré – tức là báo cho hắn biết trước hắn đã bị lộ. Hơn nữa chúng tôi không có bằng chứng gì để buộc tội hắn và thậm chí chúng tôi không biết hắn phản bội chúng tôi với mục đích gì. Moriliré sẽ phủ nhận hết tất cả và chúng tôi không thể bác bỏ lại hắn. Thế còn việc ép phu khuân vác phải đi? Biết làm sao một khi bọn họ cứ ì ra và chịu trận? Chúng tôi quyết định im lặng, kiên nhẫn chịu đựng và theo dõi sát sao Moriliré. NGÀY 7 THÁNG HAI có tin mới. Đêm qua chẳng yên tĩnh chút nào. Chúng tôi đã không thể xuất phát vào giờ như trước và chỉ đi được có một chặng, chặng buổi chiều. https://thuviensach.vn Tôi xin tóm lược các sự kiện để qua đó các bạn thấy rằng đôi khi tính đãng trí cũng hữu ích lắm chứ. Hôm qua chúng tôi đã quyết định theo sát Moriliré. Chúng tôi không để lộ cho lính bảo vệ biết nỗi lo của mình, quyết định thay nhau thức canh. Chúng tôi chia đêm ra thành sáu phiên gác bằng nhau rồi rút thăm. Thứ tự như thế này: Cô Mornas, Barsac, đại úy Marcenay, tôi, Saint-Bérain và Poncin. Một giờ khuya, tôi thay ca cho đại úy Marcenay. Anh nói với tôi là mọi việc đều tốt đẹp và chỉ cho tôi thấy Moriliré đang đắp chăn nằm ngủ cách chỗ chúng tôi ngồi không bao xa. Ánh trăng rằm soi rõ bộ mặt màu đen và chiếc chăn trắng của tên láu cá đó. Phiên trực bắt đầu một cách yên tĩnh. Nhưng gần một rưỡi thì hình như có tiếng ù ù – thứ tiếng động đã làm cho chúng tôi cuống cuồng vào cái đêm đầu tiên sau khi rời khỏi Kankan. Tiếng động vọng đến từ hướng Đông, song xa tới mức đến bây giờ tôi vẫn không dám tin chắc là nó có thật hay không. Hai giờ mười lăm phút, tôi bàn giao ca trực cho Saint-Bérain rồi đi nằm. Tôi không thể chợp mắt nên trở dậy định ra ngoài lều thức luôn tới sáng. Đúng lúc ấy tôi lại nghe thấy tiếng ù ù, nhỏ đến nỗi có thể tưởng là mình nghe nhầm. Tôi lao ra ngoài, vểnh tai lắng nghe... Chẳng có gì! Nó như cơn gió thoảng, nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt lịm không biết từ lúc nào ở hướng Đông. Tôi quyết định đi tìm Saint-Bérain. Lạ thay! Saint-Bérain không có ở chỗ gác. Tôi chắc anh chàng lẩm cẩm đã quên nhiệm vụ của mình và bỏ đi làm việc khác. Chỉ mong sao Moriliré không lợi dụng cơ hội này. Tôi xin xác nhận là Moriliré chưa bỏ trốn, hắn đang nằm ngủ say sưa trên mặt đất. Tôi còn nhìn thấy cái bản mặt đen thui và tấm chăn trắng của hắn. Tôi yên tâm đi tìm Saint-Bérain. Tôi biết phải tìm anh ở đâu vì gần trại có một con sông nhỏ. Tôi đi thẳng ra bờ sông và thấy một bóng người đang ở giữa dòng. Nhưng làm sao anh có thể ra xa bờ đến thế? Chẳng lẽ anh biết cách đi trên mặt nước? https://thuviensach.vn Hóa ra, Saint-Bérain đã kết mấy khúc gỗ lại thành bè và dùng một cành cây dài đẩy bè ra xa bờ mấy mét. Anh neo bè lại đó, sau khi đã cột nó vào một hòn đá lớn thả xuống sông. Anh sáng trí lạ. Tôi chạy đến bên bờ sông và khẽ gọi: — Saint-Bérain! — Tôi đây! – bóng người dưới sông trả lời. — Anh làm gì thế hả Saint-Bérain? Tôi nghe thấy tiếng cười dễ dãi, rồi bóng đen trả lời: - Tôi đánh cá trộm, anh bạn thân mến ạ! Tôi tưởng mình đang mơ. Sao lại có chuyện đánh cá trộm ở Soudan? Tôi chưa từng nghe ai nói việc đánh bắt cá ở đây phải tuân theo luật lệ nào đó. Tôi nhắc lại: — Anh đánh cá trộm? Anh không giễu tôi chứ? — Đúng vậy, – Saint-Bérain trả lời, – vì tôi đang đánh cá bằng lưới vào ban đêm mà. Việc này bị nghiêm cấm đấy. Ý nghĩ đó làm anh ta khoái chí. Đồ quỷ! Hắn nhạo báng tôi! — Thế còn Moriliré? – Tôi tức giận hỏi. Giữa đêm khuya thanh vắng vang lên một câu chửi rất tục mà ngòi bút của tôi không muốn ghi lại, sau đó bóng đen chuyển động và Saint-Bérain nhảy lên bờ. Anh thở dốc, đi vội về chỗ gác mà anh không được quyền rời bước. May thay, Moriliré vẫn còn đang nằm ngủ. Tôi dám quả quyết rằng hắn không hề trở mình từ lúc tôi thức dậy. Saint-Bérain cũng thấy thế. — Anh làm tôi hết hồn! – Anh than. Lúc ấy, chúng tôi nghe tiếng động mạnh ngoài sông. Xin thề là có người đang bị chết đuối. Chúng tôi chạy về phía bờ sông và quả thật, có cái gì đó đen thui đang giãy giụa dưới sông. — Một gã da đen, – Saint-Bérain nói. Anh nhảy xuống bè, gỡ cho gã da đen và kéo hắn lên bờ rồi giải thích cho tôi: https://thuviensach.vn — Hắn bị mắc vào chiếc lưới tôi đã bỏ quên. Nhưng không biết hắn làm cái quái gì ở đây thế? Chúng tôi cúi xuống người nạn nhân và buộc miệng thốt lên: — Moriliré? Vâng, đúng là Moriliré, trần truồng, ướt như chuột lột và bị sặc nước gần chết. Rõ ràng là tên dẫn đường đã trốn trại, bơi qua sông, thơ thẩn ngoài đồng và lúc về bị sa vào lưới mà Saint-Bérain đã bỏ quên theo mệnh trời. Giả sử không có tính đãng trí quý giá của anh thì có lẽ, chúng tôi sẽ không bao giờ biết được cuộc du ngoạn của tên phản bội. Rồi tôi chợt nghĩ: Thế còn tên Moriliré đang yên giấc dưới trăng? Tôi chạy đến chỗ hắn và xốc hắn dậy. Cừ lắm! Tôi đã phải nghĩ như thế vì tấm chăn trong tay tôi trống trơn. Còn cái mặt đen là một khúc gỗ được đặt dưới chiếc mũ gắn lông chim. Lần này tên đê tiện bị bắt quả tang. Phải bắt hắn thú tội mới được. Tôi chạy trở lại chỗ Saint-Bérain và tên tù của anh. Hình như tên nọ đã tỉnh. Thình lình hắn bật dậy, lao ra sông như có ý muốn tắm một lần nữa. Song Moriliré đã tính quá tồi: SaintBérain đã thộp được cườm tay của hắn. Saint Bérain không đẹp bằng thần Apollon nhưng lại mạnh như Hercule. Miếng nắm của anh thật khủng khiếp, cứ trông thân hình co rúm và bộ mặt nhăn nhó của kẻ bị bắt thì biết. Chưa đầy một phút Moriliré đã đầu hàng. Hắn quỳ xuống van xin. Đúng lúc ấy, có một vật gì đó rơi ra khỏi tay hắn. Tôi cúi xuống nhặt lên. Rủi thay, vì chúng tôi không đề phòng nên Moriliré liều mình, nhoài người về phía tôi, dùng cánh tay không bị nắm giữ giật lấy vật ấy rồi tọng vô mồm. Saint-Bérain buộc miệng chửi. Tôi nhảy đến chụp lấy cổ họng của Moriliré. Anh bạn đồng hành của tôi cũng đang dùng tay kia bóp cổ hắn. Moriliré ngắc ngoải, phải nhả cái vật kia ra, nhưng than ôi, hắn chỉ nhả ra có một nửa: hắn đã dùng hai hàm răng cứng như thép cắn đứt đôi cái vật đáng ngờ, một nửa đã chui tọt xuống dạ dày của hắn. Tôi xem vật vừa giật được: đó là một mẩu giấy có chữ viết. Tôi đi tìm đại úy Marcenay. Việc đầu tiên của đại úy là nhốt tên Moriliré đang bị trói vào lều. Anh bố trí bốn người lính canh xung quanh và ra những https://thuviensach.vn chỉ thị rất nghiêm ngặt. Lúc đó cả ba chúng tôi đi về lều của đại úy, nóng ruột muốn biết nội dung của mảnh giấy. Các chữ cái Ả-rập hiện ra dưới ánh đèn. Đại úy là người giỏi tiếng Ả-rập, anh có thể dễ dàng đọc được các dòng chữ ấy nếu như tờ giấy còn nguyên vẹn. Nhưng chúng tôi chỉ có một mảnh nên rất khó hiểu và càng không thể giải nổi dưới ánh đèn lờ mờ. Đành phải chờ trời sáng. Đến sáng, chúng tôi mới biết là không thể đọc được. Song, có lẽ, vì không còn hy vọng đánh lừa chúng tôi được nữa, Moriliré sẽ đoái công chuộc tội mà khai báo tội lỗi và giúp chúng tôi dịch ra đầy đủ những gì ghi trong tờ giấy ấy. Chúng tôi tiến về phía lều giam, dừng lại ở cửa ra vào và hết sức ngạc nhiên: mấy đoạn dây trói phạm nhân bị vứt bừa bãi trên mặt đất, căn lều trống trơn. https://thuviensach.vn IX Mệnh Lệnh Cao Hơn Tất Cả (trích nhật ký của Amédée Florence) VẪN NGÀY HÔM ĐÓ. Vậy là chúng tôi nhìn thấy căn lều trống không. Moriliré biến mất. Đại úy Marcenay vô cùng bực tức, anh tra hỏi mấy người lính gác. Nhưng các chàng trai đáng thương đó cũng chỉ ngạc nhiên như anh. Họ nói rằng họ không hề bỏ gác và không nghe thấy bất cứ một tiếng động khả nghi nào. Chúng tôi trở lại lều giam và bấy giờ mới phát hiện ra một lỗ thủng trên nóc. Phía trên lỗ thủng là một cành cây to. Sự việc trở nên dễ hiểu. Moriliré đã tháo được dây, do trói không kỹ rồi leo lên trụ chống giữa lều và bỏ trốn. Đuổi theo hắn chăng? Vô nghĩa! Hắn tẩu đã được một giờ rồi, vả lại trong rừng rậm làm sao kiếm ra người? Gần một giờ sau, tất cả chúng tôi đều tập trung ở lều của Barsac. Đại úy trao lại cho chúng tôi mảnh giấy bí ẩn có ghi mấy dòng chữ sau đây: Mansa a man grigni toubaboul Mémou nimbé mando kafa batak manaéta sofa A okata. Batou i a kafolo. Mansa a bé Thực tình tôi chẳng thể nào hiểu được những câu rối rắm này! Mảnh giấy được chuyển từ tay người này sang người khác. Hình như cô Mornas và Saint-Bérain có hiểu chút ít gì đó. Tôi ngạc nhiên trước sự uyên bác của họ. Barsac và Poncin cũng chỉ biết như tôi mà thôi. — Các chữ cuối của dòng thứ nhất và dòng thứ hai không đầy đủ, – đại úy Marcenay giải thích cho chúng tôi. – Phải đọc chữ cuối dòng đầu là toubaboulengo tức là “mấy người Âu”, còn chữ cuối dòng thứ hai là kafama, có nghĩa “còn”. Nếu bổ sung như vậy, ta có bản dịch: “Ông chủ (hoặc quốc vương) không muốn những người Âu...bởi vì chúng còn đi...Thư sẽ do một sĩ quan mang đến...Người đó sẽ ra lệnh. Phải nghe https://thuviensach.vn lời...mày đã bắt đầu. Ông chủ (hay quốc vương)...”. Không rõ lắm. Tuy nhiên, đại úy Marcenay giải thích thêm: — Đoạn đầu của mệnh đề thì dễ hiểu thôi. Có một ông chủ hay một quốc vương không muốn chúng ta làm điều gì đó. Đoạn thứ hai nói về việc ấy. Hắn không muốn chúng ta tiến sâu vào xứ sở của người da đen. Rõ ràng là đoạn hai bắt đầu trình bày cái kế hoạch mà chúng ta không được biết. Hai dòng tiếp theo khó hiểu hơn “Một sĩ quan sẽ mang thư đến”. – câu này không mách bảo cho chúng ta điều gì, dòng thứ tư là mệnh lệnh gửi cho Moriliré, nhưng chúng ta không biết “người đó”, cái người sẽ ra lệnh, là ai. Còn mấy chữ cuối cùng thì không có nghĩa gì đối với chúng ta. Chúng tôi nhìn nhau thất vọng. Barsac kết luận: — Từ những vụ việc mà chúng ta đã chứng kiến cho tới giờ phút này, kể cả những việc mới xảy ra hôm nay, có thể rút ra những kết luận sau đây: thứ nhất, tên dẫn đường đã phản bội chúng ta và làm việc cho một kẻ thù thứ ba nào đó, không rõ vì lý do gì, kẻ này đang tìm cách cản phá cuộc hành trình của chúng ta; thứ hai, kẻ giấu mặt có những quyền lực nhất định bởi vì hắn có thể bố trí cho chúng ta một tên dẫn đường theo ý của hắn ở Conakry; thứ ba, quyền lực ấy không lớn lắm vì cho tới nay, để đạt được mục đích hắn chỉ nghĩ ra toàn là những trò trẻ con. Tôi nhận xét: — Xin lỗi ngài dân biểu! Kẻ giấu mặt đó có ý đồ khác kia! Và tôi kể cho đám thính giả khả kính nghe những suy nghĩ của mình về thuốc độc doung-kono và về mấy lời tiên đoán của Kéniélala. — Nhưng nhận xét tinh tế của ông Florence – Barsac tiếp luôn, – chỉ càng khẳng định ý kiến của tôi. Tôi vẫn nghĩ kẻ thù của chúng ta, cho dù hắn có là gì đi nữa, cũng không đáng sợ lắm đâu, nếu không hắn đã dùng những biện pháp nghiêm trọng hơn để chống lại chúng ta rồi. Thái độ bảo thủ của Barsac làm tôi ngạc nhiên. Tại sao ông không lợi dụng cơ hội để hủy bỏ chuyến đi chắc chắn là rất nguy hiểm này?! Dù gì đi nữa, chúng tôi cũng cần có người dẫn đường. Cô Mornas đề nghị lấy người của cô vì họ biết đường. Để quyết định vấn đề này, cần phải so sánh giữa Tchoumouki và Tongané. https://thuviensach.vn Tôi không ưa điệu bộ của Tchoumouki. Hắn quả quyết với chúng tôi rằng có thể trông cậy vào hắn, song hắn có vẻ lúng túng và khi hắn nói, tôi không thể nắm bắt cái nhìn giảo hoạt của hắn. Theo tôi, hắn chẳng hơn gì Moriliré. Trái lại, Tongané rất thật thà. Anh nắm vững đường đi lối lại và có thể dẫn chúng tôi đi đâu tùy thích. Chàng trai này gây được ấn tượng tốt. Anh có giọng nói cởi mở, cái nhìn thẳng thắn. Từ giờ phút này tôi bắt đầu tin Tongané và không tin Tchoumouki nữa. Hai người dẫn đường mới đang nói chuyện với phu khuân vác. Họ thông báo chính thức rằng Moriliré đã bị cá sấu ăn thịt và họ sẽ thay Moriliré chỉ huy đám phu khuân vác. Sau thời gian nghỉ ngơi, chúng tôi lên đường. NGÀY 3 THÁNG HAI. Không có Moriliré nhưng mọi việc vẫn y như cũ. Có Tchoumouki và Tongané dẫn đường, chúng tôi vẫn không đi nhanh hơn. Hai ngày rưỡi mới đi được có ba mươi km. Quá tệ. Chúng tôi đang đi trong thung lũng được bắt đầu từ làng Kokoro. Thung lũng trải rộng, chỉ ở bên phải chúng tôi, hướng Nam là núi. NGÀY 12 THÁNG HAI. Nó bắt đầu làm tôi bực mình. Buổi chiều, lúc sáu giờ, bỗng nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng ù ù ấy. Hôm nay, nó lại vọng đến từ hướng Đông. Rất nhỏ nhưng đủ để không thể bị nhầm. Mọi người đều ngẩng mặt lên nhìn. Bầu trời quang đãng, nhưng chúng tôi không thấy được gì. Thật ra, có một ngọn đồi cao che khuất đúng hướng Đông. Tôi đi vội lên đỉnh đồi. Trong lúc tôi đang trèo lên đồi thì tiếng động gia tăng một chút rồi tắt đi đột ngột và khi tôi lên tới đỉnh thì không còn gì làm xáo động bầu không khí yên tĩnh nữa. Trước mắt tôi là bình nguyên phủ đầy những bụi cây rậm rạp. Tôi phí công đưa mắt nhìn về phía chân trời: bình nguyên hoang vắng. Tôi ở lại đỉnh đồi cho tới khuya. Bóng đêm sâu thẳm bao trùm lên cánh đồng. Có lưu lại nữa cũng vô ích, tôi xuống đồi. Tôi đi chưa được nửa đồi thì tiếng động lại nổi lên. Quả thật, có thể phát điên lên vì chuyện đó. Tiếng động phát ra cũng đột ngột như khi nó tắt, sau đó nhỏ dần như thể chuyển xa về hướng Đông. Mấy phút sau lại yên tĩnh. NGÀY 13 THÁNG HAI. Hôm nay được nghỉ. Mọi người đều làm việc riêng của mình. Tôi dành phần lớn thời gian để viết nốt bài báo, dựa vào https://thuviensach.vn những điều ghi chép được trong mấy ngày qua. Viết xong, tôi cho gọi Tchoumouki phụ trách thư báo lại chỗ tôi. Tchoumouki không đến. Tôi phái một người lính đi tìm. Nửa giờ sau, anh ta trở về và nói là không tìm thấy hắn. Tôi thân chinh đi tìm và cũng không kết quả. Tchoumouki đã biến mất nên tôi phải từ bỏ ý định gửi bài báo đi. NGÀY 14 THÁNG HAI. Sáng nay có chuyện bất ngờ. Gần tám giờ, sau khi đã mất đi một phần buổi sáng vào việc tìm kiếm vô hiệu quả Tchoumouki, chúng tôi quyết định lên đường, thì ở phía Tây xuất hiện một toán đông kỵ sĩ, đang tiến về chỗ chúng tôi. Trong nháy mắt, đội hộ tống của chúng tôi đã triển khai đội hình chiến đấu. Song mọi hành động đề phòng đều thừa. Chúng tôi nhận ra quân phục của Pháp. Toán quân lạ đến gần. Tôi thấy có hai mươi kỵ sĩ da đen và ba người Âu – hai trung sĩ và một trung úy. Một trung sĩ của chúng tôi được phái ra đón những người mới đến. Viên trung úy đi đến bên đại úy Marcenay. Vẳng đến tai tôi những lời trò chuyện của họ: — Ông là đại úy Marcenay? — Vâng, tôi đây, ông trung úy... — Trung úy Lacour, Trung đoàn bộ binh 72, hiện là chỉ huy đội kỵ binh tình nguyện Soudan. Tôi từ Bamako đến, thưa đại úy, và đuổi theo các ông từ Sikasso, tôi không gặp các ông ở đó và vì bị trễ mất mấy ngày. — Để làm gì? — Phong thư này sẽ giải thích điều đó, thưa đại úy. Đại úy Marcenay cầm lấy bức thư. Lúc anh đọc, tôi thấy mặt anh lộ vẻ ngạc nhiên và thất vọng. — Thôi được, ông trung úy, – anh nói, – để tôi báo cho ngài Barsac và những người đồng hành của ông ấy biết về việc này. Viên trung úy gật đầu... Đại úy ra lệnh cho binh lính của anh và đi lại chỗ chúng tôi. — Tôi xin báo cho ngài một tin rất bất ngờ, ngài dân biểu ạ, – anh nói với Barsac. – Tôi phải chia tay với ngài. — Thế nghĩa là sao, hả ông đại úy? – Barsac hỏi. https://thuviensach.vn — Thưa ngài dân biểu, nghĩa là tôi được lệnh phải đến Tombouctou. — Không thể như thế được; – Barsac bực mình thốt lên. — Nhưng đúng như vậy đấy ạ, – đại úy trả lời. – Xin ngài hãy đọc. Anh trao phong thư cho ngài Barsac. Trưởng đoàn thị sát đưa mắt lướt nhanh, vẻ rất tức giận, rồi đưa cho chúng tôi xem, ông muốn chúng tôi chứng kiến sự việc láo xược đối với ông. Tôi tìm cách đọc sau cùng để có điều kiện chép lại. Lá thư thế này: Cộng hòa Pháp Tư lệnh – toàn quyền Sénégal Quân khu Bamako Lệnh cho đại úy Marcenay và binh sĩ hành quân cấp tốc đến Ségou Sikoro, từ đó đi bằng đường sông Niger tới Tombouctou và thuộc quyền chỉ huy của tư lệnh thành phố này. Bỏ ngựa lại ở Ségou-Sikoro để nuôi dưỡng. Trung úy Lacour trung đoàn bộ binh thuộc địa 72, chỉ huy đội kỵ binh gồm hai mươi lính tình nguyện Soudan, sẽ thuộc quyền điều khiển của ngài dân biểu Barsac – trưởng đoàn thị sát của Viện dân biểu ở vùng “Thòng lọng Niger” (nhóm thứ nhất). Trung úy sẽ hộ tống ngài dân biểu đến điểm tập kết. Đại tá, tư lệnh quân khu Bamako Saint-Auban Trong khi tôi chép lấy chép để thì Barsac vẫn tiếp tục trút cơn thịnh nộ: — Thật chưa từng thấy! Họ cho chúng ta có hai mươi người bảo vệ! Mà lại đúng vào lúc chúng ta ngày càng gặp nhiều khó khăn. Không, việc này không xong như vậy đâu! Khi nào về tới Paris, chúng ta sẽ biết Viện Dân biểu có tán thành cách đối xử đối với đại biểu của Viện như thế hay không. — Còn bây giờ thì đành phải tuân lệnh, – Đại úy Marcenay nói, anh không giấu được nỗi buồn rầu. Barsac kéo đại úy ra xa, nhưng đôi tai phóng viên của tôi vẫn nghe rõ: — Ngộ nhỡ đây là lệnh giả thì sao, đại úy? – Barsac thì thầm với anh. — Lệnh giả! – Anh nhắc lại. – Ngài đã nghĩ quá sâu, thưa ngài dân biểu. Rất tiếc là không có gì để nghi ngờ cả. Thư được bảo đảm bằng con dấu chính thức, hơn nữa, tôi đã từng nghe phục vụ dưới quyền chỉ huy của đại tá Saint-Auban nên tôi biết rất rõ chữ ký của ông ta. https://thuviensach.vn Buồn bực nên thường lắm chuyện. Song dù sao tôi vẫn thấy ngài Barsac đã nghĩ quá xa. May mà trung úy Lacour không nghe thấy. Barsac không tìm ra lời đáp nên im lặng. — Xin phép ngài dân biểu cho tôi được giới thiệu ông trung úy với ngài, – đại úy nói, – và chia tay với các ngài. Barsac đồng ý và việc giới thiệu đã diễn ra. — Chắc ông trung úy có biết, – lúc ấy Barsac hỏi, – nguyên nhân dẫn đến cái lệnh ông mang tới cho chúng tôi? — Dĩ nhiên rồi, thưa ngài dân biểu, – viên trung úy trả lời. – Dân xứ Aouelimmiden bất bình, đe dọa các tuyến giao thông của ta. Cần phải tăng cường cho đồn binh Tombouctou. Đại tá điều động những đơn vị thuộc quyền của ông ấy. — Thế còn chúng tôi? – ông trưởng đoàn phản đối. – Cắt giảm đội hộ tống chúng tôi như thế có khôn ngoan lắm không? Trung úy Lacour mỉm cười: — Chẳng có gì bất tiện cả. Khu vực này tuyệt đối yên ổn. — Bộ trưởng Bộ thuộc địa đã nói tại Viện dân biểu và ông toàn quyền Conakry cũng đã xác nhận, là hai bên bờ sông Niger rất bất an. — Đó là trước đây, – trung úy Lacour vừa cười vừa trả lời. Đại úy Marcenay bước đến. — Xin phép ngài dân biểu cho tôi được chia tay với ngài, – anh nói. — Sao? Nhanh vậy ư?! – Barsac thốt lên. — Vâng ạ, – đại úy trả lời. – Tôi phải đi Ségou-Sikoro và Tombouctou ngay, không được chậm trễ giờ nào. — Ông đại úy hãy thi hành mệnh lệnh, – Barsac nhượng bộ, chìa tay ra bắt, nỗi xúc động của ông đã dặn chặt cơn tức giận, – và ông hãy tin rằng ông mang theo mình những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Không ai trong chúng ta có thể quên được những ngày đã sống bên nhau và tôi tin rằng tôi đang thay mặt cho tất cả mọi người bày tỏ lòng biết ơn đối với ông vì ông đã cảnh giác bảo vệ và trung thành tuyệt đối với chúng tôi. — Xin cám ơn ngài dân biểu, – đại úy đáp lại, anh cảm động thật sự. https://thuviensach.vn Anh lần lượt từ biệt với từng người trong bọn chúng tôi và tất nhiên sau cùng là với cô Mornas. Tôi lén nhìn họ. Nhưng mọi việc diễn ra hết sức bình thường. — Tạm biệt tiểu thư, – đại úy nói. — Tạm biệt đại úy, – cô Mornas đáp lại. Không còn gì hơn nữa. Song đối với chúng tôi, những người trong cuộc thì những lời nói đơn giản ấy lại có cái ý mà chúng thường không có. Chúng tôi hiểu rằng những lời nói ấy chẳng khác gì một lời hẹn ước chính thức của đôi bên. Đại úy cũng hiểu như thế vì gương mặt của anh rạng rỡ hẳn lên. Anh cầm lấy tay cô Mornas, kính cẩn hôn rồi bước đi, anh nhảy lên lưng ngựa và đứng vào đầu hàng quân của mình. Anh vẫy chào chúng tôi lần cuối, sau đó giơ gươm lên và đoàn quân xuất phát, đi nước kiệu nhanh. Chúng tôi vô cùng lo lắng đưa mắt tiễn họ. Vài phút sau họ đã khuất dạng. Thế là chúng tôi phải ở lại với trung úy Lacour, với hai viên hạ sĩ và hai mươi lính tình nguyện của anh ta mà một giờ trước đây chúng tôi không hề ngờ đến sự tồn sinh của họ. Tôi liếc mắt nhìn đội hộ tống mới và rợn cả người: họ có cái dáng dấp của những người tôi không muốn gặp trong góc tối chút nào. https://thuviensach.vn X Đội Hộ Tống Mới (trích nhật ký của Amédée Florence) TỐI HÔM ĐÓ. Không, tôi không muốn gặp họ trong góc tối chút nào, vậy mà tôi đang phải ở lại với họ trong rừng rậm, nguy hiểm hết chỗ nói. Ồ, hình như tôi lại nghĩ lan man mất rồi. Việc tưởng tượng ra một trò đùa xấu xa và khắc họa nên những tên cướp có phải chuyện đùa không, trong khi rõ ràng bên cạnh chúng tôi là những người lính bình thường nhất? Còn lá thư, đúng là của đại tá Saint-Auban chứ? Thú thật, lá thư đã làm tôi bối rối và chẳng có gì có thể xóa đi cái ấn tượng mà đội hộ tống mới và viên chỉ huy của nó đã gây ra cho tôi. Trước hết, có một chi tiết làm cho tôi vô cùng ngạc nhiên. Rất lạ là số người này, kể cả mấy viên hạ sĩ đều dính đầy bụi đường, như thể họ đã đuổi theo chúng tôi mười lăm ngày rồi, thế mà viên chỉ huy của họ lại hoàn toàn đỏm dáng. Áo quần sạch sẽ, giày da bóng lộn, râu ria được cắt tỉa tử tế. Có thể nghĩ rằng trung úy Lacour đang đi duyệt binh. Trong rừng rậm hiếm khi có được sự trang nhã như thế. Trung úy Lacour là người nhỏ con và tôi có cảm tưởng anh ta rất khó tính. Mắt màu xanh nhạt, không tỏ vẻ thân thiện chút nào. Anh ta trầm lặng và thích lẻ loi. Buổi chiều, anh ta ra khỏi lều của mình có hai lần và chỉ để kiểm tra đội hộ tống. Suốt ngày tôi không gặp cô Mornas. Không thấy cả Tchoumouki nên bài báo của tôi vẫn còn nằm trong túi của tôi. NGÀY 15 THÁNG MƯỜI HAI. Buổi sáng, tôi không thấy mọi người chuẩn bị để đi. Tongané nói cho tôi biết là hôm nay chúng tôi sẽ không đi. Hôm qua đã nghỉ, hôm nay lại không đi, lạ thật. https://thuviensach.vn Tình cờ gặp trung úy Lacour, anh ta vẫn thẳng thớm và tao nhã không sai một ly. Tôi hỏi anh ta về lý do trì hoãn. — Lệnh của Barsac, – anh ta trả lời cộc lốc. Chỉ có ba tiếng, một cái cúi đầu chào theo kiểu nhà binh và quay gót bỏ đi. Trung úy Lacour không thuộc loại người biết cách tiếp chuyện. Chẳng lẽ ông trưởng đoàn không chịu tiếp tục cuộc hành trình với một đội hộ tống đã bị giảm đi năm lần hay sao? Điều này khêu gợi tính tò mò của tôi. Song nó cũng làm cho tôi lo lắng vì quyết định như thế có thể chấm dứt bài phóng sự vừa mới bắt đầu gây được ấn tượng mạnh mẽ. Gần mười giờ tôi thấy Barsac. Ông đang đi dạo, bước những bước dài, tay chắp sau lưng, mắt nhìn xuống đất và hình như không được vui. Điều này không ngăn cản được tôi, tôi quyết định phỏng vấn ông. Ngài Barsac không giận. Ông dừng bước, lặng nhìn tôi hồi lâu rồi nói: — Ông Florence ạ, mấy ngày trước đây ông đã hỏi tôi câu hỏi ấy. Tôi đã không trả lời. Hôm nay, tôi nói cho ông biết rằng chính tôi cũng không biết phải trả lời với ông như thế nào đây. — Nghĩa là, ngài chưa có quyết định gì cả, phải thế không ạ, ngài dân biểu? — Hoàn toàn chưa. Tôi đang suy nghĩ, thăm dò, cân nhắc mọi điều thuận, nghịch... Ông im lặng rồi bỗng nói: – Nhưng tại sao chúng ta không cùng bàn bạc với nhau nhỉ? Ông là người thực tế, sáng suốt (Xin cám ơn ngài Barsac!) Ông sẽ cho tôi những lời khuyên đấy chứ? Tôi gật đầu. — Tôi xin sẵn lòng, thưa ngài dân biểu. Và tôi kể cho Barsac nghe những nhận xét của mình về đội hộ tống và viên chỉ huy của nó. Cuối cùng tôi dè dặt đưa ra giả thiết: nếu những người ấy không phải là lính thật sự thì có thể, bọn họ đang phục vụ cho kẻ thù giấu mặt của chúng tôi. Barsac cười hô hố. — Cứ như trong tiểu thuyết ấy! – ông thốt lên. – Ông có óc tưởng tượng tuyệt vời, ông Florence ạ! — Dù sao... – tôi nói, cảm thấy mình bị xúc phạm. https://thuviensach.vn — Ở đây không có “dù sao”. Ở đây chỉ có sự thật. Trước hết, đó là tờ lệnh có chữ ký. — Có thể, lệnh giả. — Không, – Barsac phản đối, – vì đại úy Marcenay đã xác nhận lệnh thật và đã chấp hành không do dự. — Nó có thể bị đánh cắp... — Lại tiểu thuyết! Ông hãy nói xem, làm sao có thể thay đổi đội hộ tống thật? Theo giả thiết này, cần phải có sẵn một toán quân khác, đủ đông để, thứ nhất, diệt hết những người lính thật, ông hiểu cho – diệt sạch sành sanh! – và thứ hai, sau khi đoạt được tờ lệnh, sẽ thay đội thật bằng đội giả, hoàn toàn giống đội thật và phải làm trong khi không ai có thể biết gì về biên chế của đội hộ tống mới, thậm chí cũng chẳng biết là đại tá Saint-Auban sẽ phái đội ấy đi. Không một ai trong số lính của Lacour bị thương, tức là đám quân đó phải rất đông vì những người lính chân chính sẽ không bao giờ để mình bị giết mà không kháng cự. Ông còn muốn nói rằng sự hiện diện của toán quân đông người như thế sẽ không bị phát hiện, rằng những lời đồn đại về một trận đụng độ không đến được tai chúng ta trong khi tin tức ở rừng truyền từ làng nọ sang làng kia nhanh như điện tín hay sao? Mặc sức tưởng tượng, bạn sẽ vấp phải những vấn đề phi thực tế như vậy đó! Barsac nói đúng: tờ lệnh không bị đánh cắp. Tôi rụt rè rút lui ý kiến vì quả thật, đã bị dao động. — Dù sao, trung úy Lacour... — Ồ! Ông ta hết sức lịch sự! – Barsac mỉm cười thốt ra. – Ông ta rất chăm chút đến bản thân và quần áo. Nhưng điều đó đâu có phải là tội lỗi. Tôi cố lần cuối. — Bộ quân phục hoàn toàn mới, lạ lắm... — Vì một bộ khác đang nằm trong vali của trung úy, – Barsac giải thích, ông có khả năng trả lời được mọi vấn đề. – Ông Lacour đã kịp ăn mặc chỉnh tề trước khi đến trình diện với chúng ta. Vả lại hôm qua, sau bữa ăn trưa, tôi đã trò chuyện khá lâu với trung úy Lacour. Đó là một người khả ái, tuy có hơi quá ham muốn ăn diện. Lịch lãm, được giáo dục chu đáo, thậm chí còn khả kính nữa kia... https://thuviensach.vn Tôi hỏi: — Trung úy không thấy có gì bất tiện nếu chúng ta tiếp tục chuyến đi trong những điều kiện như vậy hay sao? — Không. — Tuy nhiên, ngài đang dao động, thưa ngài dân biểu. — Tôi không dao động, – Barsac tuyên bố, ông tự bắt buộc mình phải tin vào lời nói của mình. – Mai chúng ta sẽ đi. Buổi chiều, tôi đi dạo. Tongané đi cùng, anh cưỡi con ngựa của Tchoumouki vì nó tốt hơn ngựa của anh. Chúng tôi đi kiệu nhỏ trên đồng. Đột nhiên Tongané nói: — Hay thật. Tchoumouki đã bỏ trốn. Tchoumouki là tên phản bội ti tiện. — Sao? Tchoumouki cũng phản chúng ta à? Tôi làm bộ ngạc nhiên. — Anh muốn nói: Moriliré? — Moriliré xấu, – Tongané hào hứng nói, nhưng Tchoumouki cũng giống như Moriliré thôi. Hắn đã nói với dân phu da đen: “Đi nguy hiểm lắm!”. Hắn đã cho họ nhiều dolo toubab[1], nhiều bạc, nhiều vàng. Moriliré và Tchoumouki có vàng? Thật khó tin. — Anh muốn nói rằng bọn chúng đã cho dân phu Cauri[2] để lôi kéo họ? — Không phải Cauri, – Tongané quả quyết. – nhiều vàng, – và anh còn nói thêm một chi tiết làm tôi bàng hoàng, nhiều vàng của Anh. — Thế anh biết tiền vàng của Anh à, Tongané? — Vâng, – anh đáp. – Tôi là người Achantis. Tôi biết livchterlignes. Tôi hiểu Tongané đã dùng tiếng dân tộc của anh để gọi đồng bảng Anh như thế. Vàng – tiền vàng của Anh! – nằm trong tay của Tchoumouki và Moriliré. Tôi bị bối rối. Tất nhiên, tôi phải làm ra vẻ những điều thông báo của anh không quan trọng chút nào. — Anh là chàng trai rất dễ mến, Tongané ạ! – tôi nói với anh, – nếu anh đã biết rõ livchterlignes như thế thì xin anh hãy nhận lấy đồng tiền vàng có quốc huy của Cộng hòa Pháp này. https://thuviensach.vn — Một nước cộng hòa tốt! – Tongané vui sướng reo lên khi tung đồng tiền lên không trung, anh đón bắt nó đang rơi xuống và bỏ vào chiếc túi trên yên ngựa. Tức thì mặt anh lộ rõ nỗi ngạc nhiên: tay anh kéo ra một cuộn giấy lớn. Tôi la lên và giật lấy cuộn giấy mà tôi biết rất rõ. Những bài báo của tôi! Những bài báo không dễ gì có được của tôi vẫn còn nằm trong chiếc túi của tên vô lại Tchoumouki! Tôi mở ra xem. Hỡi ôi! Tất cả các bài báo, từ bài thứ năm, vẫn còn đây. Giờ thì mọi người ở tờ Expansion française đang lên án tôi nghiêm khắc biết chừng nào! Tôi bị sỉ nhục và mãi mãi không còn thanh danh nữa! Trong khi tôi đang bần thần vì những ý nghĩ đau buồn thì cuộc dạo chơi vẫn tiếp tục. Cách trại gần sáu km, tôi bỗng dưng dừng lại. Sát đường, trên một khoảng trống có chiều rộng bảy mét, chiều dài gần năm mươi mét, đám cỏ cao đã bị giẫm nát, thậm chí đôi chỗ như bị lưỡi hái cắt trụi. Và chính ở chỗ trơ trụi nhất của khoảng trống, tôi nhận ra hai vết bánh xe, giống như những vết bánh xe mà tôi đã trông thấy ở cạnh Kankan. Tự dưng tôi liên hệ hai bánh xe này với tiếng động ù ù đã nghe ba ngày trước. Ở Kankan chúng tôi cũng đã từng nghe thấy tiếng ù ù lạ tai trước khi phát hiện ra những dấu vết bí ẩn đó trên mặt đất. Giữa các hiện tượng: tiếng động ù ù, những vết bánh xe và lão Kéniélala ở Kankan, có mối liên hệ nào không? Ở đây, tôi không thấy có mối liên hệ nào cả. Nhưng nhất định phải có. Khi nhìn thấy mấy rãnh xẻ bí ẩn, trong tiềm thức của tôi hiện lên hình ảnh xấu xí của lão phù thủy da đen. Tôi bỗng nhận ra rằng trong bốn điều tiên đoán của lão thì ba điều đã được thực hiện. Và thế là tôi, một mình với người bạn da đen giữa nơi hoang vắng mênh mông, rợn cả người. Trong những hoàn cảnh như vậy có thể tha thứ cho trạng thái đó lắm chứ. Nhưng nỗi lo sợ không kéo dài. Điểm yếu của tôi là hiếu kỳ. Trên đường về tôi đã cố gắng đoán cho ra những điều bí ẩn làm tôi bực mình. Việc này thu hút tôi tới mức tôi không còn trông thấy gì ở xung quanh. Đến gần trại, Tongané nói ngay, không rào trước đón sau: — Toulatigui[3] không tốt. Một kẻ a dua đê tiện! https://thuviensach.vn — Đúng! – tôi đáp, không suy nghĩ. NGÀY 17 THÁNG HAI. Hôm nay chúng tôi đi được một chặng đường dài, còn dài hơn ngày hôm qua. Năm mươi km đi trong hai ngày! Tchoumouki không xuất hiện – rõ đồ tráo trở! Dưới sự điều khiển của một mình Tongané, mục phu và phu khuân vác của chúng tôi đã làm nên những điều kỳ diệu. Hai ngày nay, nỗi lo sợ của chúng tôi vơi đi rất nhiều. Đội hộ tống của chúng tôi thực thi chính xác chức phận của mình, vả lại, những việc ấy cũng không có gì khó khăn cho lắm. Không thể chê vào đâu được. Tuy nhiên... có mấy sự kiện. Chuyện ấy xảy ra sáng nay, lúc gần chín giờ. Khi đi ngang qua một làng nhỏ hoàn toàn hoang vắng, chúng tôi nghe thấy tiếng rên rỉ trong một túp lều. Theo lệnh của Barsac, đội hộ tống dừng lại, bác sĩ Châtonnay cùng trung úy Lacour và hai người lính bước vào lều. Dĩ nhiên, cánh nhà báo, tức là tôi cũng nhót theo họ. Cảnh tượng thật hãi hùng! Hai người chết, một người bị thương. Hai cái xác, một đàn ông và một đàn bà, méo mó thảm hại. Vì trong lều tối quá nên bác sĩ bảo hai người lính khiêng người bị thương ra ngoài trời. Đó là một cụ già da đen. Ông lão bị thương ở vai và vết thương của ông trông rất ghê. Xương đòn gánh lòi cả ra ngoài. NGÀY 18 THÁNG HAI. Tin giờ chót, miễn bình luận. Đội hộ tống của chúng tôi đã bỏ trốn. Ba hoặc bốn giờ trước đây, khi thức dậy, chúng tôi đã không nhìn thấy đội hộ tống. Nó đã bốc hơi hồi đêm và cùng với nó, tất cả bọn phu khuân vác, mục phu, không trừ một tên, cũng bay mất luôn. Các bạn có hiểu không? Trung úy Lacour, hai viên hạ sĩ và toàn bộ đội hộ tống gồm hai mươi tên đã bỏ đi, không phải để dạo chơi rồi về ăn sáng. Chúng đã ra đi, ra đi mãi mãi. Thế là chỉ còn lại có chúng tôi, giữa rừng rậm, với bầy ngựa, với vũ khí cá nhân, với ba mươi sáu con lừa, với số lượng lương thực đủ ăn trong năm ngày và Tongané. A ha! Tôi đã muốn phiêu lưu cơ mà! https://thuviensach.vn XI Làm Gì? Khi các thành viên của đoàn Barsac thức dậy vào sáng ngày 18 tháng Hai và không thấy đội hộ tống cùng số phu đâu cả, thì họ lặng người đi. Việc bọn chúng đồng lòng phản bội đoàn bất ngờ đến nỗi một hồi lâu họ vẫn không chịu tin vào điều đó. Amédée Florence đã đánh thức các bạn đồng hành. Tất cả mọi người lập tức xúm xít bên nhau, ta thán. Trước khi bàn tính chuyện tương lai, họ ngạc nhiên với cái hiện tại. Họ đang nói chuyện ồn ào thì từ cánh rừng bên cạnh vẳng lại tiếng kêu rên. Saint-Bérain, Amédée Florence và bác sĩ Châtonnay chạy đi và nhìn thấy Tongané đang bị trói, bị bịt miệng và bị thương bên sườn trái. Họ cởi trói cho Tongané, hồi sức, băng bó vết thương và lục vấn anh. Tongané kể hết mọi điều anh biết về những việc vừa mới xảy ra. Cuộc chạy trốn xảy ra khoảng từ một đến hai giờ đêm. Tongané bị tiếng động lạ đánh thức, anh ngạc nhiên khi nhìn thấy bọn lính bảo vệ đang cưỡi ngựa ở cách xa trại một quãng. Dưới sự chỉ huy của trung úy Lacour và hai hạ sĩ, bọn đầy tớ đang lui cui làm việc gì đó. Tongané tò mò muốn biết nên đã trở dậy và không đề phòng gì cả, tiến thẳng tới chỗ bọn chúng... Anh không đến nơi được. Giữa đường, có hai tên đã lao vào người anh. Thoáng một cái, anh đã bị quật ngã, bị trói và bị nhét giẻ vào miệng. Khi ngã, anh còn kịp nhận thấy bọn da đen đang vác mấy bao hàng. Hai tên tấn công Tongané đã lùi ra xa khi trung úy Lacour đến bên bọn chúng và hỏi nhát gừng: — Xong chưa? — Rồi ạ – một tên trả lời. Tongané nhận ra gã hạ sĩ. Im lặng. Tongané cảm thấy bọn chúng cúi xuống sờ nắn người anh. https://thuviensach.vn — Chúng mày điên mất rồi, thật đấy! – viên trung úy nói – Chúng mày đã để cho một chàng trai cừ khôi biết quá nhiều sống sót. Robert, đâm cho thằng vô lại này một nhát. Mệnh lệnh được thi hành ngay, nhưng Tongané đã kịp xoay người nên lưỡi lê chỉ xuyên qua sườn của anh thôi. Trong bóng đêm, Lacour và hai tên trợ thủ của y bị mắc lừa: lưỡi lê dính đầy máu và người dẫn đường tinh khôn thở hắt ra như thể đang từ giã cõi đời, rồi nín thở. Ba tên bỏ đi và Tongané không nghe thấy gì nữa. Lát sau, anh bị ngất. Qua chuyện này đủ biết việc phản bội đã được trù tính và chuẩn bị từ lâu rồi. Trước hết họ cần phải điểm lại tình hình. Họ còn một tá súng lục, bảy khẩu súng trường, trong đó sáu khẩu là súng săn với đầy đủ cơ số đạn, bảy con ngựa, ba mươi sáu con lừa, và gần một trăm năm mươi kilô hàng hóa và lương ăn trong bốn ngày. Như vậy, vũ khí và phương tiện đi lại không thiếu. Về lương ăn thì không đáng lo: như trước, họ có thể kiếm mua ở các hàng. Họ quyết định bán lừa vì khi thiếu người điều khiển có kinh nghiệm, chúng có thể trở thành gánh nặng thật sự. Jane Mornas và Saint-Bérain đi thương lượng với dân làng. Họ được đón tiếp rất nồng nhiệt và chiếm được tình cảm của chủ làng bằng những món quà tặng. Nhờ chủ làng, mỗi con lừa bán được mười nghìn Cauri (gần ba mươi franc). Tổng số tiền này đủ đảm bảo cuộc sống cho các thành viên của đoàn và trả lương cho năm người phu khuân vác trong hai mươi ngày. Công việc mua bán ngốn hết mấy ngày và đến chiều ngày 22 tháng Hai mới xong. Tới lúc đó, vết thương của Tongané cũng đã bắt đầu kéo da non. Sáng ngày 23 tháng Hai, họ đặt sáu chiếc ghế xếp theo hình tròn, ở giữa trải mấy tấm bản đồ. Cuộc hội ý bắt đầu. — Tôi xin tuyên bố khai mạc phiên họp, – Barsac nói theo thói quen. – Ai muốn phát biểu? Mọi người len lén nhìn nhau mỉm cười. Amédée Florence đáp liền: — Chúng tôi sẽ phát biểu sau ngài, thưa ngài chủ tọa. - Tùy các vị, – Barsac đồng ý, không hề tỏ vẻ ngạc nhiên với chức vụ chủ tọa đó. – Chúng ta sẽ thảo luận tình hình. Chúng ta bị đội hộ tống bỏ rơi, song chúng ta có vũ https://thuviensach.vn khí, có hàng hóa để trao đổi và đang ở giữa Soudan, cách Conakry chừng một nghìn bốn trăm km. Các vị đã biết là chúng ta định đi tiếp, nhưng có lẽ tình hình mới sẽ đòi hỏi phải có những quyết định mới. Theo tôi, chúng ta cần đến một vị trí nào đó của Pháp và ở đấy sẽ bình tĩnh quyết định xem nên làm gì tiếp theo. Mọi người đều nhất trí. — Chúng ta phải cố gắng đến được sông Niger, – Barsac vừa xem bản đồ vừa nói. – Có nên đi qua Ouagadougou và Nadiango để đến Saye hay không? Sau khi chiếm được Tombouctou, các đơn vị tiền tiêu của quân ta tiến về phía hạ lưu của con sông. Thú thật tôi không biết bây giờ họ đã đến được Saye chưa, nhưng có thể đã đến, chắc là phải thế. Nếu như chúng ta nhận được đội hộ tống khác thì phương án này có ưu điểm là phù hợp với kế hoạch của chúng ta. — Ý kiến rất hay, – bác sĩ Châtonnay tán thành. – Nhưng còn phải giải quyết vấn đề cụ thể hơn. Chúng ta chỉ nên quay trở lại nếu như không về hướng biển thì ít ra là về Sikasso, từ chỗ chúng ta đây đến đó có hai trăm km. Ở đấy chúng ta sẽ tìm đến những người đồng bào đã nồng nhiệt đón tiếp chúng ta. Ở đấy chúng ta sẽ quyết định xem có nên đi Bamako hay không hoặc tốt hơn là lên Ségou-Sikoro. — Ông bác sĩ nói rất đúng, – Florence đồng tình. – Đó là giải pháp thông minh nhất. — Tuy nhiên, tôi đề nghị các vị hãy suy nghĩ thêm chút nữa, – Barsac cất tiếng nói sau một hồi ngẫm nghĩ, – vì việc trở lại Sikasso có nghĩa là từ bỏ, dù chỉ tạm thời, cái mục đích mà tôi đã đặt ra cho bản thân mình. Nhưng, thưa các vị, nghĩa vụ là trên hết... — Chúng tôi hiểu rõ nỗi lo của ngài, thưa ngài Barsac, – Florence cắt ngang, – song cũng có những trường hợp nghĩa vụ là sự thận trọng. — Còn phải tranh luận, – Barsac phản đối, – xem cái nào đúng trong trường hợp nào. Đội hộ tống của chúng ta, quả thật đã đào ngũ, nhưng nếu tưởng tượng ra những mối nguy hiểm đe dọa chúng ta thì chỉ tổ uổng công mà thôi. Các vị hãy nghĩ coi, đội hộ tống giả đó, thay vì bỏ trốn có thể dễ dàng tiêu diệt hết chúng ta! Nhưng nó đã không làm! Hơn nữa, nó còn để lại https://thuviensach.vn cho chúng ta lương thực, vũ khí, đạn dược, ngựa, và một số hàng hóa. Hành động như thế không đáng sợ lắm đâu. — Nhưng còn Tongané,– bác sĩ Châtonnay nhẹ nhàng phản đối. — Tongané là người da đen, – Barsac đáp lại, – mà đối với một số người thì mạng sống của dân da đen không đáng gì cả. — Ngài Barsac nói rất đúng, – Florence xen vào, – vâng, quả thực bọn chúng đã nhẹ tay đối với chúng ta. Đúng là cho đến giờ phút này bọn chúng chưa muốn giết chúng ta. Tôi nói: đến giờ phút này thôi bởi vì kẻ thù giấu mặt của chúng ta có thể sẽ sử dụng những đòn tấn công hiệu quả hơn nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo hướng mà chúng không thích. Vết thương của Tongané cho thấy những kẻ khó chịu với chúng ta đang ra tay trừng trị. — Đúng đấy, – ông bác sĩ ủng hộ. Tất cả đều lặng thinh. Barsac đang cân nhắc. — Tôi nghiêng về ý kiến của bác sĩ Châtonnay, – ông nói, – và tán thành trở lại Sikasso, với cái đích cuối cùng là Ségou-Sikoro. — Xin lỗi ngài chủ tọa, – Amédée Florence cắt ngang. – Nếu ngài cho phép, tôi xin có một nhận xét thế này: Chúng ta thông qua quyết định mà không hỏi ý kiến của cô Mornas và ông Saint-Bérain. Ý kiến nhận xét rất có cơ sở. Jane Mornas và SaintBérain đã im lặng lắng nghe tranh luận, không tham gia phát biểu gì cả. — Ông Florence nói đúng, – Barsac thừa nhận và hướng về phía Jane Mornas. – Tôi đề nghị tiểu thư cho biết ý kiến. — Xin cám ơn ngài, – Jane Mornas bình tĩnh trả lời, nhưng chúng tôi không có quyền tham dự vào cuộc thảo luận không liên quan đến mình. — Không liên quan tới các bạn? Sao thế hả tiểu thư? Hình như tất cả chúng ta đang bước chung dưới một ngọn cờ cơ mà. — Hoàn toàn không, thưa ngài Barsac, – Jane Mornas trả lời. – Nếu vì hoàn cảnh mà các ngài từ bỏ mục đích của mình thì chúng tôi vẫn có ý định tiếp tục con đường của chúng tôi. — Các bạn vẫn quyết tâm đến Gao? — Hơn bất cứ lúc nào. — Đi một mình? Không cần hộ tống? https://thuviensach.vn — Chúng tôi đã không dự định đến đó cùng với đội hộ tống. — Không có cả phu khuân vác nữa à? — Chúng tôi sẽ tìm phu khuân vác khác. Nếu như không được thì sẽ đi một mình. — Bất chấp cả sự thù địch mà chúng ta chưa rõ nguyên nhân, song nó rành rành ra đó hay sao? — Bất chấp, vả lại tôi có cảm tưởng là nó nhằm chống lại các ngài cơ. — Làm sao mà biết được điều ấy khi chúng ta đi cùng đường với nhau? Dù sao đi nữa tôi vẫn cứ lo rằng kẻ thù bí ẩn của chúng tôi sẽ tấn công vào chính các bạn nếu các bạn cứ đi một mình tới Niger. — Nếu vậy, chúng tôi sẽ không sợ nó. — Nhưng đó là sự điên rồ! – Barsac kêu lên. – Chúng tôi sẽ không để cho tiểu thư hành động nông nổi như thế chỉ cốt để thỏa mãn tính đỏng đảnh của tiểu thư. Jane Mornas thoáng dao động, rồi nàng buồn rầu nói lại: — Tiếc thay, đó không phải là tính đỏng đảnh, đó là bổn phận. Barsac, bác sĩ Châtonnay và Amédée Florence nhìn Jane Mornas với vẻ chăm chú và ngạc nhiên. Jane Mornas lại cất tiếng nói: — Xin các ngài hãy thứ lỗi cho tôi, tôi đã lừa dối các ngài. Ông Saint Bérain đã nói tên thật của mình cho các ngài biết, ông ấy đúng là người Pháp, như các ngài. Tôi thì lại tự giới thiệu với các ngài dưới một cái tên giả và dân tộc khác. Tôi là người Anh, tên là Jane Buxton, con gái của huân tước Buxton, em gái của đại úy George Buxton. Hài cốt người anh bất hạnh của tôi được chôn ở Koubo. Tôi cần phải đến đó và chỉ có ở đó tôi mới có thể hoàn tất cái công việc mà tôi đã dự định. Lúc ấy Jane Buxton – tên của nàng được phục hồi từ đây – đã kể về tấn thảm kịch ở Koubo, về những lời buộc tội George Buxton, về cái chết của người anh, về nỗi xấu hổ và tuyệt vọng của huân tước Glenor. Nàng kể rằng nàng muốn khôi phục danh dự của anh trai, gột rửa vết nhơ đã làm hoen ố thanh danh gia đình và đem lại sự yên tĩnh cho ông cụ đang phải sống trong cô đơn, sầu thảm. https://thuviensach.vn Tất cả thính giả đều xúc động sâu sắc. Họ khâm phục người thiếu nữ mà không một mối nguy hiểm nào có thể ngăn cản được nhiệt tình cao cả này của nàng. — Cô Buxton, – Amédée Florence nói khá gay gắt khi nàng vừa dứt lời, – cho phép tôi được trách mắng cô. — Trách mắng tôi? – Jane ngạc nhiên, không ngờ câu chuyện của mình lại dẫn đến kết cục hoàn toàn khác như thế. — Vâng, trách mắng và trách mắng thậm tệ nữa kia! Cô có ý nghĩ lạ lùng và xấu xa biết bao về người Pháp nói chung và về Amédée Florence này nói riêng! — Ông muốn nói gì, ông Florence? – Jane Buxton lúng túng nói khẽ. — Còn nói gì nữa! – Anh phóng viên phẫn nộ. – Cô tưởng Amédée Florence sẽ cho phép cô dạo chơi chốc lát ở Koubo mà không có anh ta đi theo đấy phỏng? — Ồ, ông Florence! – Jane không tán thành với vẻ cảm động. — Hay ho nhỉ? – Amédée Florence tiếp tục, vẫn chưa nguôi giận. – Ích kỷ ơi là ích kỷ! — Tôi không thấy... – Jane mỉm cười định nói. — Để tôi nói nốt, – Florence nghiêm mặt cắt ngang, – Cô quên rằng tôi là nhà báo, là một phóng viên. Thế cô có biết ông chủ bút của tôi sẽ nói với tôi những gì không khi ông ấy biết rằng tôi đã bỏ lỡ thiên phóng sự giật gân về vụ án Buxton? Hở! Ông ta sẽ nói với tôi: “Anh bạn Florence tầm thường ạ, anh chỉ là một con lừa mà thôi!”. Và ông ta sẽ tống cổ tôi ra cửa ngay tức khắc. Nhưng tôi lại quý chỗ làm việc của mình. Vậy nên tôi sẽ đi cùng cô. — Ồ, ông Florence! – Jane lại lặp lại, nàng vô cùng cảm động. Nàng bắt tay con người khả ái và dũng cảm, rồi hai giọt lệ lớn trào ra từ đôi mắt nàng. — Còn tôi, cô Buxton, cô sẽ nhận cả tôi nữa chứ? – Bác sĩ Châtonnay bỗng hỏi. — Ông ư, ông bác sĩ? — Tất nhiên là tôi. Một chuyến đi như thế không thể thiếu người thầy thuốc được. Một khi các bạn đã cất bước đến chỗ mà người ta có thể băm https://thuviensach.vn vằm các bạn ra thành từng mảnh thì tôi phải có mặt ở đó để khâu chúng lại. — Ồ, ông bác sĩ! – Jane lặp lại. Nhưng nàng xúc động biết bao khi nghe giọng nói đầy vẻ giận dữ của Barsac. — Thế còn tôi? Tôi không thấy người nào có ý định hỏi ý kiến của tôi cả là sao? Barsac nổi xung bởi vì ông cũng muốn nhập đoàn với cô Buxton. Ông đã định nhất cử lưỡng tiện vì đường đi của cô gái hầu như trùng với đường đi của ông và sự xốc nổi trong hành động đã được biện minh bằng mục đích cao cả. Florence và bác sĩ Châtonnay đã phỗng tay trên sáng kiến đó của ông, những việc như thế thường rất khó chịu. — Tôi không nói ông Florence, – ông Barsac tiếp tục. – Ông ấy là người tự do. Nhưng còn ông, ông bác sĩ, ông là thành viên chính thức của đoàn thị sát mà tôi là trưởng đoàn. Thế ra ông muốn đào ngũ phải không? — Xin ngài hãy tin rằng, thưa ngài Barsac... – ông bác sĩ nói khẽ, ông chưa hề nghĩ đến khía cạnh này của vấn đề. — Chẳng lẽ ông có quyền quyết định chúng ta sẽ đi đâu sao? Và việc của ông là dạy cho tôi một bài học đấy à? — Xin ngài hãy tin, ngài Barsac ạ... – ông bác sĩ đáng thương định nói chen vào. — Không, ông bác sĩ ạ, không, tôi không cho phép, – Barsac phản đối, giọng của ông càng trở nên gay gắt. – Và các vị hãy nhớ cho: tôi, thủ trưởng đầy trọng trách của chuyến đi đến Niger, không tán thành dự án của các vị. Trái lại, nếu thấy rằng người dẫn đường độc nhất còn lại với chúng ta là do cô Buxton thuê và thuộc quyền sử dụng của cô ấy, nếu thấy rằng chúng ta không thể chuyện trò với thổ dân trong điều kiện không có sự giúp đỡ của cô Buxton và ông Saint-Bérain – những người duy nhất trong chúng ta có thể nói được tiếng Bambara, thì tôi muốn, tôi định, tôi ra lệnh... Giọng của Barsac vang động, ông khéo léo dừng lại một chút rồi kết thúc bằng một giọng rất đỗi bình thường. —...tất cả chúng ta sẽ đi Niger, ngang qua Koubo. — Sao cơ, thưa ngài Barsac? – Jane nói khẽ, sợ mình hiểu nhầm. https://thuviensach.vn