🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Đời Tôi Một Trăm Giờ Với Fidel Castro
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
CUỘC ĐỜI TÔI
Một trăm giờ với Fidel Castro
(HỒI KÝ QUA LỜI KỂ)
Người dịch: ĐỖ TUẤN ANH - HOÀNG MẠNH HIỂN
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TẤN - 2008 Số trang: 960
Kích thước: 16 x 24 cm
Thực hiện ebook: hoi_ls
(www.e-thuvien.com)
Một trăm giờ với Fidel
1
TUỔI THƠ CỦA MỘT LÃNH TỤ
https://thuviensach.vn
2
SỰ XU,T HIỆN CỦA MỘT NGƯỜI NỔI LOẠN 3
THAM GIA CHÍNH TRỊ
4
TẤN CÔNG TRẠI LÍNH MONCADA
5
NỀN TẢNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG
6
“LỊCH SỬ SẼ BÀO CHỮA CHO TÔI”
7
CHE GUEVARA
8
TRONG VÙNG NÚI SIERRA MAESTRA
9
NHỮNG BÀI HỌC TỪ MỘT CUỘC CHIẾN TRANH DU KÍCH 10
CÁCH MẠNG: NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN,
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẦU TIÊN
11
NHỮNG ÂM MƯU BẮT ĐẦU
12
VỊNH CON LỢN/ PLAYA GIRÓN
13
“KHỦNG HOẢNG TÊN LỬA CUBA” THÁNG 10 NĂM 1962 14
CÁI CHẾT CỦA CHE GUEVARA
15
CUBA VÀ CHÂU PHI
16
CUỘC KHỦNG HOẢNG DI CƯ
17
https://thuviensach.vn
SỰ SỤP ĐỔ CỦA LIÊN XÔ
VỤ OCHOA VÀ ÁN TỬ HÌNH
19
CUBA VÀ LÀN SÓNG TOÀN CẦU HÓA TỰ DO MỚI 20
CHUYẾN THĂM CỦA TỔNG THỐNG JIMMY CARTER 21
VỤ BẮT GIỮ BỌN NỔI LOẠN THÁNG 3 NĂM 2003
22
VỤ CƯỚP MÁY BAY THÁNG 4 NĂM 2003
23
CUBA VÀ TÂY BAN NHA
24
FIDEL VÀ NƯỚC PHÁP
25
CUBA VÀ CHÂU MỸ LA-TINH
CUBA NGAY NAY
27
TỔNG KẾT VỀ MỘT CUỘC ĐỜI VÀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG 28
SAU FIDEL SẼ LÀ GÌ ?
NHỮNG MỐC THỜI GIAN CHÍNH TRONG CUỘC ĐỜI CỦA FIDEL CASTRO VÀ CÁCH MẠNG CUBA (1926 — 2007)
https://thuviensach.vn
Một trăm giờ với Fidel
Lúc đó là hai giờ sáng, và chúng tôi đã nói chuyện liên tục suốt nhiều giờ không nghỉ. Chúng tôi ngồi trong văn phòng riêng của ông ở Palacio de la Revolución (Dinh Cách mạng), một căn phòng giản dị, rộng thênh thang với trần cao và những ô cửa sổ lớn gắn rèm sáng màu nhìn ra một ban công rộng, đứng từ đó có thể nhìn thấy một trong những đại lộ chính của thủ đô Havana. Một tủ sách khổng lồ kê sát tường, và trước giá sách là một chiếc bàn làm việc dài, chất nặng sách và tài liệu. Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp. Đặt giữa những cuốn sách trên tủ và trên những chiếc bàn nhỏ kê hai đầu trường kỷ là một bức tượng đồng bán thân của “Vị Tông đồ của Tự do” José Marti [1], một bức tượng của Simón Bolivar, rồi tượng của Antonio José de Sucre [2], và tượng bán thân của Abraham Lincoln. Trong một góc phòng là tác phẩm điêu khắc mang phong cách hiện đại của chàng Hiệp sĩ Don Quixote đang cưỡi trên con tuấn mã gầy giơ xương Rocinante của mình. Và trên các bức tường, bên cạnh một bức chân dung sơn dầu khổ lớn của Camilo Cienfuegos, một trong những trợ thủ đắc lực nhất của Castro trong căn cứ Sierra Maestra, là ba tài liệu được lồng khung: một lá thư viết tay của Simón Bolivar, một bức ảnh chụp nhà văn Mỹ Ernest Hemingway đang giơ cao một con cá kiếm to bự với dòng ký tặng (Tặng Tiến sĩ Fidel Castro - Chúc anh câu được một con như thế này trong cái giếng ở Cojímar. Để kỷ niệm tình bạn, Ernest Hemingway), và một bức ảnh cha ông, Angel Castro, khi mới từ xứ Galicia (Tây Ban Nha) đặt chân lên đất Cuba năm 1895.
Ngồi trước mặt tôi - cao lớn, vững chãi và vạm vỡ, với bộ râu quai nón gần như bạc trắng, vẫn mặc bộ quân phục màu xanh ôliu quen thuộc không một cuống huân chương hay bất cứ thứ đồ trang trí nào khác, và nhất là không một dấu hiệu mệt mỏi nào sau ngần ấy thời gian nói chuyện liên
https://thuviensach.vn
tục - Fidel trả lời bình tĩnh, nhiều khi bằng một giọng nói khẽ đến mức gần như chỉ còn là một tiếng thì thầm, rất khó nghe. Đó là thời điểm cuối tháng Giêng năm 2003, và chúng tôi đang bắt đầu đợt đầu tiên của không biết bao nhiêu cuộc trò chuyện dài không ngừng nghỉ đã đưa tôi quay lại Cuba nhiều lần suốt những tháng sau đó, đến tận tháng 12 năm 2005.
Ý tưởng về cuộc trò chuyện như thế này đã hình thành từ trước đó một năm, vào tháng 2 năm 2002. Khi đó tôi đến Havana để thực hiện một bài giảng tại Hội chợ Sách Havana. Joseph Stigliz, người từng giành giải Nobel về Kinh tế năm 2001, cũng có mặt tại đây. Fidel đã giới thiệu tôi với ông bằng câu: “Ông ấy là một nhà kinh tế học, một công dâ, nhưng là người cấp tiến nhất mà tôi từng biết. Đứng cạnh ông ấy tôi chỉ là một người theo đường lối ôn hòa”. Fidel và tôi bắt đầu nói vẻ toàn cầu hóa tự do mới và về Diễn đàn Xã hội Thế giới ở Porto Alegre mà tôi mới tham dự. Fidel muốn biết tất cả về sự kiện đó - những chủ đề đã được thảo luận, những hội thảo, các đại biểu tham dự, những dự báo... ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với phong trào toàn cầu hóa mới này: “Một thế hệ nổi loạn mới đã xuất hiện”, ông nói, “trong đó có rất nhiều người Mỹ. Họ đang sử dụng những phương pháp đấu tranh mới và khiến những tên đế quốc trên thế giới phải run rẩy. Tư tưởng còn quan trọng hơn vũ khí. Ngoại trừ bạo lực, còn thì tất cả các lập luận và quan điểm đều nên được sử dụng để chống lại toàn cầu hóa”.
Như mọi khi, những ý tưởng cứ thế trào ra như một dòng sông hối hả trong đầu Fidel. Stiglitz và tôi ngẩn ngơ nghe ông nói. Ông có cái nhìn rất toàn diện và sâu sắc về toàn cầu hóa, những hậu quả của nó và cách kiểm soát chúng; những nhận xét của ông, vừa sắc sảo vừa hiện đại, là minh chứng hùng hồn nhất cho những phẩm chất siêu việt mà các nhà sử học vẫn đánh giá cao ở ông: đó là cảm quan chiến lược, khả năng “đọc” một tình huống cụ thể, cùng khả năng phân tích nhanh nhạy. Bên cạnh những phẩm chất đó là vốn kinh nghiệm tích lũy suốt bao nhiêu năm lãnh đạo đất nước, kháng chiến và chiến đấu.
Trong khi lắng nghe ông nói, tôi chợt nhận ra rằng thật bất công khi những thế hệ trẻ ngày nay hầu như không biết gì về cuộc đời và sự nghiệp
https://thuviensach.vn
của ông và đáng buồn rằng, vô tình là nạn nhân của chiến dịch tuyên truyền chống Castro, rất nhiều người châu Âu mặc dù phản đối toàn cầu hóa tự do, đặc biệt là các thanh niên, lại coi ông như một tàn dư của Chiến tranh lạnh, một nhà lãnh đạo còn sót lại của một giai đoạn lịch sử đã hết thời, một người không còn đóng góp gì đáng kể cho những cuộc đấu tranh của thế kỷ 21
Ngay cả ngày nay, và ngay cả trong những thành trì của cánh tả trên thế giới, rất nhiều người phê phán, hoài nghi, hoặc thậm chí thẳng thừng phản đối chế độ do Castro lãnh đạo tại Havana. Và mặc dù trên khắp châu Mỹ la tinh Cách mạng Cuba vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng nhiệt thành cho những phong trào xã hội cánh tả và rất nhiều trí thức, thì tại châu Âu nó lại là một chủ đề gây tranh cãi. Trong thực tế, ngày càng khó tìm được người - dù ủng hộ hay phản đối cách mạng Cuba đi nữa - khi được yêu cầu khái quát về Castro và những năm tháng lãnh đạo của ông, có thể đưa ra một quan điểm khách quan và đúng đắn nhất.
Trước đó tôi đã xuất bản một cuốn sách ngắn về những cuộc trò chuyện với Subcomandante (Phó Tư lệnh) Marcos, nhà lãnh tụ lãng mạn và xuất chúng của lực lượng Zapatista [3] ở Mêhicô. Fidel cũng đã đọc cuốn sách này và nhận xét rằng nó khá thú vị. Tôi đề xuất rằng ông và tôi cũng làm một việc tương tự, nhưng với quy mô lớn hơn. Ông chưa bao giờ viết hồi ký, và gần như chắc chắn ông sẽ không bao giờ viết, vì thiếu thời gian. Do vậy, đề xuất của tôi sẽ là một kiểu hồi ký phỏng vấn, mặc dù có hình thức là một cuộc trò chuyện; đó sẽ là di chúc chính trị của Fidel Castro, một bản tổng kết bằng lời của chính Fidel Castro về cuộc đời ông ở tuổi tám mươi và sau hơn nửa thế kỷ kể từ cuộc tấn công vào trại lính Moncada ở Santiago de Cuba năm 1953 - thời điểm mà nhiều người coi là dấu mốc đánh dấu sự xuất hiện trước công chúng của Fidel.
Rất hiếm người có vinh dự được đi vào những trang lịch sử và huyền thoại ngay từ khi còn sống. Fidel là một người như vậy. Ông là “vĩ nhân” cuối cùng trên chính trường quốc tế. Ông thuộc về thế hệ của những lãnh tụ vĩ đại - Nelson Mandela, Hồ Chí Minh, Patrice Lumumba, Amílcar Cabral,
https://thuviensach.vn
Che Guevara, Carlos Marighela [4], Camilo Tores [5], Mehdi Ben Barka [6] - những người, để theo đuổi lý tưởng về lẽ phải của mình, đã tham gia vào hoạt động chính trị trong những năm sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Họ cũng là những người hy vọng thay đổi một thế giới bất công và phân biệt, một thế giới bị phân cực trong Chiến tranh lạnh, giữa Liên Xô và Mỹ. Giống như hàng nghìn người tiến bộ và trí thức lỗi lạc trên thế giới, thế hệ đó đã hoàn toàn tin tưởng rằng Chủ nghĩa cộng sản sẽ hứa hẹn một tương lai tốt đẹp và tươi sáng hơn, và mọi bất công, phân biệt chủng tộc và nghèo đới sẽ bị quét sạch khỏi bề mặt trái đất này chỉ trong vài thập kỷ.
Vào thời gian đó - tại Việt Nam, Algeri, Guinea-Bissau, trên hơn một nửa hành tinh - những dân tộc bị áp bức đã đứng lên. Hồi đó, hầu hết nhân loại vẫn còn rên xiết dưới sự áp bức nhục nhã của chủ nghĩa thực dân. Hầu như toàn bộ châu Phi và phần lớn châu Á vẫn còn nằm dưới ách cai trị của các nước thực dân phương Tây già cỗi. Trong khi ấy, những dân tộc ở Mỹ la tinh, dù về lý thuyết đã độc lập được hơn 150 năm, vẫn đang chịu sự bóc lột của những nhóm người thiểu số có đặc quyền và thường nằm dưới ách nô dịch của nhà độc tài tàn bạo (Batista ở Cuba, Trujilo ở Cộng hòa Dominica. Duvalier ở Haiti, Somoza ở Nicaragoa. Ydigoras ở Guatemala [7], Pérez Jimenez ở Venezuela [8], Stroessner ở Paraguay...), những kẻ được Washington hậu thuẫn đặt lên vị trí lãnh đạo.
Fidel khẽ mỉười khi nghe lời đề nghị của tôi, như thể ông lấy làm thích thú trước ý tưởng đó. Ông nhìn tôi với ánh mắt tinh nghịch, và hỏi tôi với chút giễu cợt, “Ông thực sự muốn lãng phí thời gian nói chuyện với tôi à? Chẳng nhẽ ông không còn việc gì quan trọng hơn để làm hay sao?”. Tất nhiên là tôi nói tôi thực sự muốn, và không, tôi không còn việc gì quan trọng hơn thế. Có đến hàng chục nhà báo trên khắp thế giới, trong đó có cả những nhà báo nổi tiếng và uy nhất, đã dành bao nhiêu năm trời chờ đợi cơ hội được nói chuyện với Fidel. Đối với một nhà báo chuyên nghiệp, liệu còn có cuộc phỏng vấn nào quan trọng hơn cuộc phỏng vấn này - với một người được đánh giá là một trong những nhân vật quan trọng nhất trên thế
https://thuviensach.vn
giới trong vòng sáu thập kỷ qua? Chẳng phải Castro chính là nguyên thủ quốc gia nắm quyền lâu nhất trên thế giới hiện nay [9]? Để so sánh, chúng ta nên nhớ rằng cũng đúng ngày Fidel, khi ấy mới ba mươi hai tuổi, vào Havana trong chiến thắng sau khi đánh bại quân đội của Batista - ngày 8 tháng 1 năm 1959 - Tướng Charles de Gaulle tuyên thệ nhậm chức tổng thống đầu tiên của nền Đệ ngũ Cộng hòa tại Pháp.
Fidel Castro đã phải đương đầu với không dưới mười đời tổng thống Mỹ (Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon, Ford, Carter, Reagan, Bush cha, Clinton và bây giờ là Bush con), ông đã có mối quan hệ cá nhân và thậm chí là bạn bè thân thiết với nhiều lãnh tụ quan trọng nhất trên thế giới từ sau năm 1945 (Nehru, Nasser, Tito, Khrushev, Olof Palme [10], Willy Brandt, Ben Bella, Boumedienne [11], Arafat, Indira Gandhi, Salvador Allende, Brezhnev, Gorbachev, Mitterand, Giang Trạch Dân, Giáo hoàng John Paul II, Vua Tây Ban Nha Juan Carlos, Nelson Mandela...), ông còn quen biết nhiều trí thức, nghệ sĩ và nhân vật nổi tiếng trong thời đại của chúng ta (Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Ernest Hemingway, Graham Greene, Arthur Miller, Pablo Neruda, Jorge Amado, Oswado Guayasamin, Henri Cartier-Bresson, Oscar Niemeyer, Julio Cortazar, Jose Saramago, Gabriel García Marquez, Claudio Abbado, Yves-Jaccques Cousteau, Harry Belafonte, Angela Davis, Jesse Jackson, Danielle Mitterand, Costa-Gavras, Gerard Depardieu, Danny Glover, Robert Redford, Jack Nicholson, Steven Spielberg, Eduardo Gale[12], Diego Maradona, Oliver Stone, Noam Chomsky và nhiều, rất nhiều người khác).
Dưới sự lãnh đạo của Fidel, đất nước Cuba bé nhỏ (với diện tích 100.000 km vuông và dân số khoảng 11 triệu người) đã theo đuổi một đường lối ngoại giao cực kỳ mạnh mẽ, với tác động vô cùng sâu rộng - hòn đảo này đã hiên ngang đứng vững bên cạnh nước Mỹ, bất chấp những nỗ lực của lãnh đạo siêu cường này trong việc lật đổ hay ám sát Fidel, và thậm chí là đẩy Cách mạng đi chệch hướng.
https://thuviensach.vn
Tháng 10 năm 1962, một cuộc Chiến tranh Thế giới thứ ba đã suýt xảy ra khi chính phủ Mỹ kịch liệt phản đối việc Liên Xô triển khai các tên lửa hạt nhân tại Cuba - những quả tên lửa có chức năng hàng đầu là bảo vệ hòn đảo này và ngăn ngừa một cuộc xâm lược thứ hai giống như cuộc tấn công từng được thực hiện năm 1961 tại Vịnh Con Lợn với sự hậu thuẫn trắng trợn của quân đội Mỹ, nhưng cuộc xâm lược lần thứ hai sẽ do chính quân đội Mỹ thực hiện, với mục tiêu là lật đổ Chính phủ Cuba.
Từ năm 1960, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến kinh tế chống Cuba, và bất chấp sự phản đối ngày càng mạnh mẽ của Liên hợp quốc [13], đã đơn phương áp đặt lệnh cấm vận thương mại cực kỳ nguy hại lên đất nước nhỏ bé này, một lệnh cấm vận được củng cố vào những năm 90 của thế kỷ trước với Đạo luật Helms-Burton và Tu chính án Torricelli và mới đây lại được chính phủ Bush tăng cường thêm vào tháng 5 năm 2004 [14]. Lệnh cấm vận này đã hủy hoại sự phát triển bình thường của Cuba và góp phần làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế và tài chính vốn đã mong manh của đất nước này [15], với những hậu quả khốc liệt đối với người dân Cuba.
Mỹ cũng đã theo đuổi một cuộc chiến tranh truyền thông và ý thức hệ không ngừng nghỉ chống lại Havana, với những đài phát sóng đầy quyền lực - như Radio Marti và TV Marti - được bố trí tại Florida và phủ kín hòn đảo này với những luận điệu tuyên truyền giống như thời Chiến tranh lạnh. Chính quyền Mỹ, thường thông qua những mặt trận như Quỹ Tài trợ Quốc gia vì Dân chủ (NED), một tổ chức phi chính phủ do Ronald Reagan lập ra năm 1983, để tài trợ tiền cho các nhóm hải ngoại truyền bá các luận điệu thù địch chống Cuba [16].
Ví dụ, theo Associated Press, năm 2005 NED đã cung cấp 2,4 triệu USD cho các tổ chức hoạt động tại châu Âu nhằm làm thay đổi chế độ tại Cuba. Ngoài ra còn có Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID), vốn phụ thuộc hoàn toàn vào chính phủ Mỹ và từ năm 1996 đến nay đã chuyển hơn 65 triệu USD cho các lực lượng chống Fidel Castro hoạt động chủ yếu tại Florida. Tháng 5 năm 2004, chính quyền Bush đã thành lập một quỹ bổ
https://thuviensach.vn
sung trị giá 80 triệu USD dành riêng cho việc tăng cường viện trợ cho các nhóm này [17]. Hàng chục nhà báo trên thế giới được trả tiền để truyền tải các thông tin sai lạc về Cuba [18].
Một phần khoản tiền này được sử dụng để tài trợ cho các tổ chức khủng bố thù địch với chính phủ Cuba - trong đó phải kể đến Alpha 66 và Omega 7. Những tổ chức này có trụ sở ở Florida, nơi chúng bố trí các trại huấn luyện và thường xuyên tung các nhóm biệt kích có vũ trang để thực hiện những vụ đánh bom và phá hoại, tất cả đều có sự đồng lõa trắng trợn của chính quyền Mỹ. Trong vòng 40 năm qua đã có hơn 3500 người Cuba chết vì các cuộc tấn công khủng bố, với hơn 2000 người bị tàn tật vĩnh viễn - nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác - và cho đến nay hậu quả của những hoạt động khủng bố đó vẫn còn đè nặng lên đất nước này [19].
Năm 2005, ngang nhiên chà đạp lên chủ quyền quốc gia của Cuba - dưới chiêu bài hòn đảo này là “vấn đề nội bộ” của Mỹ - Washington đã trắng trợn bổ nhiệm chức danh “Điều phối viên phụ trách Chuyển đổi chế độ ở Cuba” cho một nhân vật tên là Cabeb McCarry, một người từng đảm đương nhiệm vụ này tại Afghanistan.
Ngày 10 tháng 6 năm 2006, Ủy ban Hỗ trợ Cuba Tự do, do Ngoại trưởng Condoleeza Rice và Bộ trưởng thưong mại Mỹ Carlos Guitierrez làm đồng chủ tịch, đã trình lên Tổng thống Mỹ một bản báo cáo với kiến nghị cần làm tất cả những gì có thể để “chiến lược duy trì chế độ của Castro sẽ thất bại” [20]. Tài liệu này cho biết tổng lượng tiền mà Mỹ đã gửi viện trợ cho những đồng minh của mình ở Cuba - những người mà nhà văn Ernest Hemingway, trong một văn cảnh hoàn toàn khác, đã gọi là “thê đội năm” [21]- lên đến 68,2 triệu USD, và khẳng định số tiền này được gửi trực tiếp tới “những người bất đồng chính kiến”, phục vụ cho công tác huấn luyện, mua sắm trang thiết bị và nhu yếu phẩm cần thiết.
Đây là một âm mưu không thể nào chối cãi được của một siêu cường nhằm gây mất ổn định tình hình của một nước nhỏ . Chủ tịch Quốc hội
https://thuviensach.vn
Cuba, Ricardo Alarcón, đã nói, “chừng nào chính sách này còn được duy trì, thì những người Cuba thông đồng với Mỹ, nhận tiền của Mỹ;... tôi không hề biết quốc gia nào lại không coi đó là một hành động tội ác”. Và ông đã hoàn toàn chính xác khi gọi đó là một tội ác nếu chúng ta biết trong bản báo cáo đó phía Mỹ đã viết gì: Vì những lý do an ninh và để bảo đảm tính hiệu quả, một số kiến nghị được xếp riêng vào một phụ lục tuyệt mật riêng biệt.
Bất chấp những đòn tấn công dai dẳng của Mỹ và hơn 600 âm mưu ám sát nhằm vào Fidel Castro, Cuba vẫn chưa bao giờ đáp trả bằng bạo lực. Suốt 48 năm trời, không hề có bất kỳ hành động bạo lực nào do Cuba khuyến khích hay tài trợ xảy ra tại Mỹ. Ngược lại - Castro còn ra một tuyên bố sau khi xảy ra những cuộc tấn công khủng bố vào New York và Washington ngày 11 tháng 9 năm 2001 rằng “thái độ thù địch của nước Mỹ đối với Cuba cũng không vì thế mà làm giảm đi nỗi thương cảm sâu sắc mà chúng tôi dành cho những nạn nhân của các vụ tấn công này... Chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố rằng cho dù quan hệ của Cuba với chính quyền Washinton có như thế nào chăng nữa, sẽ không bao giờ có kẻ nào từ Cuba bước ra để thực hiện một vụ tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ”. Và để nhấn mạnh, Castro đã nói thêm, “Tôi sẵn sàng để họ cắt cụt bàn tay mình nếu họ tìm thấy bất kỳ lời nào có nội dung miệt thị hoặc xúc phạm nhân dân Mỹ. Chúng tôi sẽ chẳng hơn gì những kẻ cuồng tín ngu xuẩn nếu chúng tôi đi trách cứ nhân dân Mỹ vì sự khác biệt giữa hai chính phủ chúng ta”.
Để chống lại sự thù địch không ngừng nhắm vào Cuba từ bên ngoài, ở trong nước Chính phủ Cuba đã kiên định đường lối đoàn kết, thống nhất tuyệt đối. Cuba vẫn luôn duy trì nguyên tắc một đảng chính trị duy nhất, và đã rất mạnh tay trừng phạt bất kỳ sự chống đối hoặc khác biệt nào về quan điểm, áp dụng đúng theo phương châm của Thánh Ignatius Loyola: “Trong một pháo đài bị bao vây, mọi sự bất đồng đều là phản quốc”. Do đó, bản năm 2006 của Tổ chức Ân xá quốc tế về nhân quyền đã lên án quan điểm của Chính phủ Cuba về các quyền tự do cơ bản (tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự do đi lại) và khuyến cáo cả thế giới rằng “vẫn còn gần 70 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ trong các nhà tù Cuba”. Cho dù thong tin đó có
https://thuviensach.vn
chính xác hay không thì đây cũng là một thực tế mà Cuba khó cỏ thể biện minh một cách thỏa đáng. Cả với án tử hình cũng vậy, trong khi hình phạt này đã bị hủy bỏ ở hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới (trừ Mỹ và Nhật Bản). Không một ai tin vào dân chủ lại tán thành sự tồn tại của những tù nhân lương tâm và việc duy trì án tử hình [22].
Tuy nhiên, những báo cáo gay gắt này của Tổ chức Ân xá quốc tế cũng không hề đưa ra bất kỳ cáo buộc nào việc có tình trạng tra tấn tù nhân tại Cuba, hoặc “sự mất tích”, thủ tiêu các nhà báo, hay các vụ ám sát chính trị, cũng như việc cảnh sát đánh đập người biểu tình. Cũng chưa bao giờ có một cuộc bạo loạn nào chống lại chế độ do Castro lãnh đạo - trong suốt hơn 50 năm qua của cuộc Cách mạng. Mặc dù vậy, những bản báo cáo đó cũng cho biết tại một số quốc gia trong khu vực nằm dưới sự theo dõi của báo chí và công luận - Guatemala, Honduras, El Salvador, Cộng hòa Dominica, thậm chí cả Mêhicô, đó là chưa kể đến Colômbia [23], - phụ nữ, các thành viên công đoàn, thành viên các đảng đối lập với chính phủ, phóng viên, linh mục, chánh án, thị trưởng, và lãnh đạo các hội dân sự vẫn liên tiếp bị giết hại một cách trắng trợn, và tất cả những sự vi phạm nhân quyền dã man đó cũng ít nhận được sự quan tâm và lên án của giới truyền thông quốc tế hơn.
Bên cạnh đó cũng phải bổ sung một thực tế rằng những quốc gia này, vốn nằm trong danh sách những nước nghèo nhất trên thế giới, đang phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ nghiêm trọng: quyền lợi kinh tế, văn hóa và xã hội của hàng triệu ngư̖ị vi phạm thường xuyên; tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao đến mức đáng hổ thẹn; tuổi thọ thấp; nghèo đói; vô gia cư; thất nghiệp; chăm sóc y tế thiếu thốn; nạn ăn xin, trẻ đường phố, và những khu ổ chuột; nghiện ngập và buôn bán ma túy; tỷ lệ tội phạm cao; và đủ các loại tệ nạn xã hội khác... tất cả những hiện tượng này không hề tồn tại tại Cuba.
Ngay cả chuyện tôn sùng cá nhân cũng vậy. Mặc dù gương mặt Fidel thường xuyên xuất hiện trên báo chí, trên truyền hình và trên đường phố, nhưng hoàn toàn không có bức chân dung chính thức nào, cũng như không hề có tượng đài, đồng xu, đại lộ hay công trình, đài tưởng niệm nào dành
https://thuviensach.vn
riêng cho Fidel Castro, hay bất kỳ lãnh đạo nào của Cách mạng đang còn sống.
Bất chấp sự chống phá không ngừng nghỉ từ bên ngoài, đất nước nhỏ bé này vẫn kiên cường giữ vững chủ quyền và đã đạt được những thành tựu cực kỳ đáng ngưỡng mộ trong lĩnh vực phát triển con người: xóa bổ sự phân biệt sắc tộc, giải phóng phụ nữ, xóa mù chữ, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh [24], nâng cao dân trí... Trong lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nghiên cứu y học và thể thao, Cuba đã đạt được những thành tựu mà nhiều quốc gia phát triển cũng phải ghen tỵ [25].
Cuba tiếp tục là một trong những quốc gia có chính sách ngoại giao năng động nhất trên thế giới. Trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, nước này đã ủng hộ các phong trào kháng chiến có vũ trang ở một số quốc gia Trung Mỹ (E1 Salvador, Guatemala, Nicaragua) và Nam Mỹ (Colombia, Venezuela, Bolivia, Argentina). Lực lượng vũ trang Cuba, được gửi đi khắp nơi trên thế giới, đã tham gia trong những chiến dịch quân sự có ảnh hưởng quan trọng, đặc biệt là trong những cuộc chiến tại Ethiopia và Angola. Trong thực tế, can thiệp của lực lượng vũ trang Cuba vào Angola đã góp phần đánh bại những sư đoàn thiện thiến của Cộng hòa Nam Phi và rõ ràng là đã thúc đẩy sự sụp đổ của chế độ phân biệt chủng tộc a-pác-thai ở Nam Phi và giúp Nelson Mandela được phóng thích, cựu tổng thống Nam Phi đã không bao giờ quên tình bạn với Fidel Castro và món nợ của ông đối với Cách mạng Cuba.
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Cuba đã đóng vai trò lãnh đạo trong Phong trào Không liên kết và phát động một chiến dịch quốc tế sâu rộng nhằm từ chối việc thanh toán nợ nước ngoài của các quốc gia Mỹ latinh. Trong bối cảnh hỗn loạn của hệ thống xã hội chủ nghĩa sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu năm 1991, Cách mạng Cuba đã trải qua những năm tháng vô cùng gian khổ, một giai đoạn được gọi là “thời kỳ đặc biệt”, nhưng cuối cùng Cuba đã vượt qua, trước sự sững sờ của kẻ thù.
Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Cuba không còn phụ thuộc vào bất kỳ một cường quốc nào - không phải Tây Ban Nha, Mỹ hay Liên Xô.
https://thuviensach.vn
Cuối cùng thì cũng hoàn toàn độc lập, đất nước này bắt đầu một đời sống chính trị thứ hai - đứng về bên tả của phong trào cánh tả quốc tế, gắn bó chặt chẽ với tất cả các phong trào và lực lượng tiến bộ quốc tế, và là một phần trong cuộc tấn công quy mô lớn chống lại chủ nghĩa tự do mới và toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh địa chính trị như vậy, nhờ vào những thành tựu của mình và bất chấp những tồn tại không nhỏ (những khó khăn về kinh tế, bộ máy hành chính quan liêu, nạn tham nhũng lan tràn ở cấp cơ sở, sự khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, thiếu thốn thức ăn và nhu yếu phẩm, thiếu năng lượng, thiếu rất nhiều phương tiện giao thông công cộng và cá nhân, các vấn đề về nhà ở, chế độ tem phiếu, và sự hạn chế một số quyền nhất định), Cách mạng Cuba vẫn luôn là nguồn cổ vũ lớn lao cho hàng triệu người bị áp bức trên hành tinh này.
Mhoàn toàn không có ý định “xuất khẩu” mô hình chính trị-xã hội của mình, tại nhiều nơi trên thế giới vẫn có vô số con người bị áp bức đang đấu tranh và nhiều khi phải hy sinh vì những mục tiêu xã hội giống như những gì mà Cách mạng Cuba đã giành được. Điều này đặc biệt chính xác ở châu Mỹ latinh, nơi mà sự đoàn kết với Cuba và sức hút từ hình ảnh Fidel Castro chưa bao giờ mạnh mẽ hơn thế.
Từ sau chiến thắng vang dội trong bầu cử của Hugo Chavez tại Venezuela tháng 12 năm 1998 đến tháng 12 năm 2006, trên khắp lục địa này đã có rất nhiều ứng cử viên cánh tả giành thắng lợi trong các cuộc tổng tuyển cử một cách dân chủ: Nestor Kirchner ở Argentina, Lula da Silva ở Brazil, Tabaré Vazquez ở Uruguay, Martin Torrijos ở Panama, René Préval ở Haiti, Michelle Bachelet ở Chile, Evo Morales ở Bolivia, Daniel Ortega ở Nicaragua và Rafael Correa ở Ecuador. Tại các nước khác, chỉ có những âm mưu gian lận phiếu mới ngăn được các ứng cử viên cánh tả giành chiến thắng - như trường hợp đã xảy ra vào tháng 7 năm 2006 tại Mêhicô với việc Andrés Lopez Obrador thất bại vì kém đối thủ 0,56% số phiếu [26].
Tình hình này tại châu Mỹ latinh được đánh giá là hoàn toàn chưa có tiền lệ. Chỉ mới cách đây chưa lâu, với những lý do khác nhau, chỉ cần một
https://thuviensach.vn
cuộc đảo chính quân sự (gần đây nhất là xảy ra ngày 11 tháng 4 năm 2002 tại Venezuela chống lại Tổng thống Hugo Chavez) hoặc một sự can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ (mới đây nhất là vào tháng 12 năm 1989 tại Panama nhằm lật đổ Tổng thống Manuel Noriegal) là có thể chấm dứt bất kỳ nỗ lực cải cách kinh tế và xã hội nào, bất chấp sự ủng hộ của đại đa số người dân trong nước. Chúng ta phải nhớ rằng các lãnh đạo được bầu lên bằng con đường dân chủ như Jacobo Arbenz tại Guatemala, Joao Goulart ở Brazil, Juan Bosch ở Cộng hòa Dominica và Salvador Allende ở Chile, bốn trong những trường hợp nổi tiếng nhất, đều bị lật đổ (lần lượt vào các năm 1954, 1964, 1965, và 1973) sau những cuộc đảo chính quân sự do Mỹ hậu thuẫn đểnỗ lực cải cách triệt để trong các xã hội quá bất bình đẳng - những nỗ lực cải cách có thể ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ (trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, kéo dài từ 1947 đến 1989) và đã tạo ra một sự dịch chuyển của các liên minh mà Washington hoàn toàn không có ý định cho phép hình thành.
Trong bối cảnh địa chính trị thời kỳ đó, mô hình thử nghiệm duy nhất mang màu sắc cánh tả vẫn còn trụ vững được chính là Cuba. Nhưng tất cả chúng ta đều chứng kiến cái giá mà đất nước này đã phải trả. Những áp lực và sự chống phá đã buộc Cuba phải gồng mình lên một cách khấc nghiệt nhất, và, để thoát khỏi sự cô lập về chính trị cũng như âm mưu bóp nghẹt về kinh tế do Mỹ áp đặt, phải dành hết ưu tiên cao nhất trong suốt hơn hai mươi năm cho một liên minh đặc biệt với Liên Xô xa xôi - sự sụp đổ đột ngột của siêu cường này tháng 12 năm 1991 đã gây cho Cuba những khó khăn tưởng như không thể vượt qua. Vì vậy, ngoại trừ trường hợp của Cuba, tất cả những nỗ lực nhằm thay đổi cơ cấu sở hữu hoặc hướng tới một hệ thống phân phối tài sản bình đẳng hơn ở châu Mỹ la tinh đều bị bóp chết một cách tàn bạo...cho đến tận cách đây vài năm.
Tại sao một điều mà nước Mỹ không cho phép suốt hàng thập kỷ qua giờ đây lại được chấp nhận? Tại sao một làn sóng đỏ (hoặc ít nhất cũng là hồng) lại có thể quét qua ngần đấy quốc gia Mỹ la tinh mà không bị cấm cản như trước kia? Điều gì đã thay đổi? Trước hết, chúng ta phải nhận ra một lý do cực kỳ thuyết phục: sự thất bại, trên khắp châu Mỹ latinh của các
https://thuviensach.vn
mô hình thử nghiệm theo đường lối tự do mới trong những năm 90 của thế kỷ trước. Tại nhiều quốc gia, những chính sách này đã dẫn đến những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng và tệ hại: quá trình tư nhân hóa ồ ạt đã dẫn đến việc bán tống bán tháo tài sản quốc gia với giá rẻ mạt; tham nhũng tràn lan; nạn vơ vét trắng trợn trên quy mô quốc gia; sự bần cùng hóa của tầng lớp lao động và trung lưu; và sự hủy hoại của toàn b các ngành công nghiệp. Cuối cùng, và có lẽ cũng là hoàn toàn dễ hiểu, người dân đã đứng lên đấu tranh. Tại Venezuela, Bolivia, Ecuador, Peru và cả ở Argentina, các cuộc bạo loạn của người dân đã lật đổ ghế của những tổng thống được bầu lên một cách dân chủ nhưng lại tưởng nhầm rằng một khi giành chiến thắng trong tổng tuyển cử họ có thể làm gì tùy thích trong suốt nhiệm kỳ của mình - thậm chí cuối cùng còn phản bội cả cương lĩnh và nhân dân của chính mình.
Vì vậy, những cuộc biểu tình khổng lồ tại Argentina tháng 12 năm 2001, dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ tổng thống Fernando de la Rua, và đặc biệt là thất bại thảm hại của chính sách tự do mới trong giai đoạn 1989- 1999 của Tổng thống Carlos Menem, xét theo góc độ nào đó, có thể được so sánh với sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm 1989 tại châu Âu: sự phủ nhận cuối cùng của một mô hình giáo điều, kiêu ngạo và không được lòng dân.
Một lý do cơ bản khác: từ sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991 và nhất là sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, những toan tính địa chính trị cơ bản của nước Mỹ, vốn được coi là “bố già” (theo đúng nghĩa của giới mafia) tại khu vực mà Mỹ coi là “sân sau” của mình, đã chuyển sang Trung và Cận Đông, những nơi vừa có dầu vừa có kẻ thù hiện tại của Mỹ. Sự thay đổi trọng tâm này đã cho phép xuất hiện một loạt các mô hình cánh tả tại châu Mỹ latinh, và rõ ràng là đã thành công trong việc ngăn ngừa không cho người hàng xóm khổng lồ phương bắc dìm chết từ trong trứng nước như trước kia. Đây là một cơ hội lý tưởng cho Havana trong việc phát triển các đồng minh mới nổi trong khu vực thông qua những thỏa thuận về kinh tế, chính trị với các đối tác này, đặc biệt là với Venezuela của Tổng thống Hugo Chavez. Chúng ta cần nhớ rằng tại Hội nghị Thượng đỉnh Mercosur ở
https://thuviensach.vn
Cordoba, Argentina năm 2001, Fidel Castro đã ký một hiệp định thương mại quan trọng với các quốc gia thành viên của tố chức này, trong đó có cả Brazil và Argentina. Đây không chỉ là thách thức công khai đối với lệnh cấm vận của Mỹ mà còn là minh cng cho sự ủng hộ của các nước Nam Mỹ đối với đất nước nhỏ bé suốt nửa thế kỷ qua đã kiên cường bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình trước sự chống phá của siêu cường lớn nhất hành tinh.
Điều gì sẽ xảy ra khi Chủ tịch Fidel Castro qua đời - vì những nguyên nhân tự nhiên? Hiển nhiên là sẽ có những thay đổi nhất định, vì không ai trong bộ máy quyền lực của Cuba (cả bên Chính phủ, Đảng, cũng như lực lượng vũ trang) có được quyền lực như của Castro - một quyền lực giúp ông có được vai trò bằng bốn người khác: nhà tư tưởng, tư lệnh vũ trang [27], người sáng lập và nhà chiến lược cách mạng trong suốt 50 năm qua. Một số nhà phân tích dự đoán rằng hệ thống hiện tại sẽ nhanh chóng sụp đổ, hoặc bị lật đổ, như đã xảy ra ở Đông Âu sau khi Bức tường Berlin bị phá bỏ. Họ đã sai. Họ cũng chỉ là nạn nhân của ảo tưởng hão huyền vẫn luôn ám ảnh trong đầu những nhà tân bảo thủ Mỹ, những người tự huyễn hoặc mình rằng tất cả những chế độ chuyên chính, không có ngoại lệ, đều chỉ là những vỏ rỗng sẽ nhanh chóng tan tành sau cú huých đầu tiên. Chúng ta cần nhớ rằng chính lối suy nghĩ ảo tưởng này đã khiến Mỹ sa lầy tại Afghanistan và Irắc. Rất ít khả năng chúng ta sẽ chứng kiến tại Cuba xảy ra một sự chuyển đổi giống như ở Đông Âu trước kia, nơi một mô hình bị áp đặt từ bên ngoài vào và không nhận được sự ủng hộ của đại đa số người dân, đã sụp đổ tan tành trong một thời gian ngắn.
Ngày 31 tháng 7 năm 2006 có thể xem như bằng chứng thuyết phục cho nhận định này. Ngày hôm đó, sau một ca phẫu thuật phức tạp vì “xuất huyết đường ruột”, Fidel Castro, lần đầu tiên kể từ năm 1959, và cũng chỉ là “tạm thời”, đã chuyển giao tất cả quyền lực và trách nhiệm cho một nhóm gồm bảy quan chức chính phủ do Rául Castro đứng đN[28]. Nhiều kẻ thù của ông đã vội vàng tuyên bố chế độ tại Cuba sắp sụp đổ đến nơi và dự báo về một sự nổi dậy của người dân. Quỹ Quốc gia Cuba - Mỹ ngay lập tức đã
https://thuviensach.vn
kêu gọi một “cuộc nổi dậy cả về dân sự và quân sự” để lật đổ chế độ. Và vào ngày 2 tháng 8, George W. Bush cũng kêu gọi một cuộc nổi dậy, ông ta đã truyền thông điệp của mình vào hòn đảo: “Chúng tôi ủng hộ các bạn trong nỗ lực thành lập một chính phủ quá độ hưởng tới nền dân chủ” và đe dọa sẽ trừng trị những người ủng hộ Cách mạng phản đối một “Cuba tự do”. Nhưng ngày tháng cứ thế trôi qua và đến cuối tháng 12, tất cả các nhà quan sát đều nhận định rằng cuộc sống vẫn tiếp diễn bình thường trên đất nước Cuba. (Ngày 19/02/2008 vừa qua Fidel Castro đã tuyên bố rút lui khỏi cương vị Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng tư lệnh Quân đội Cuba, chuyển giao quyền lực cho em trai mình là Rául Castro - ND).
Mặc dù những đối thủ của ông thấy thật khó tin, sự thật là đại đa số người dân Cuba (mặc dù không phải là tất cả) đều trung thành với Cách mạng. Đó là lòng trung thành được xây dựng trên tình yêu nước - một tình yêu, không giống như những gì đã xảy ra ở các quốc gia cộng sản Đông Âu, bắt nguồn từ cuộc đấu tranh lịch sử của hòn đảo này trước những âm mưu thôn tính của Mỹ.
Cho dù những người gièm pha ông có thích hay không, Fidel Castro vẫn có một vị trí xứng đáng trong ngôi đền vĩnh cửu tôn vinh những vĩ nhân đã đấu tranh kiên cường nhất vì công bằng xã hội và tình đoàn kết vĩ đại đối với những dân tộc bị áp bức. Như Frei Betto, nhà thần học Thiên Chúa giáo người Brazil và cựu cố vấn của Tổng thống Lula, đã nói, “Fidel Castro không chỉ giải phóng tổ quốc mình khỏi cái đói, mà còn khỏi cái dốt, tội phạm và nạn ăn xin, và sự quụy trước chủ nghĩa đế quốc”.
Vì tất cả những lý do đó - bất chấp sự bất bình của tôi trong tháng 3 và tháng 4 năm 2003 trước những án tù quá nặng dành cho các phần tử bất đồng chính kiến ôn hòa và án tử hình dành cho ba đối tượng cướp tàu - tôi cũng không thể không nghĩ rằng thật bất công khi Fidel Castro, một lãnh tụ xuất chúng bị báo chí phương Tây phê phán và lên án gay gắt, lại không có cơ hội giải thích mọi chuyện theo quan điểm của mình, và trực tiếp đưa ra những tuyên bố về cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông.
Fidel Castro là một nhà hùng biện sung sức nhưng lại có rất ít những cuộc phỏng vấn dài, và trong suốt 50 năm qua mới chỉ có bốn cuộc trò
https://thuviensach.vn
chuyện như vậy được xuất bản: hai cuộc với Gianni Miná, một với Frei Betto và một với nhà văn, cựu Bộ trưởng người Nicaragua là Tomas Borge. Sau gần một năm chờ đợi, tôi nhận được thông báo ông đã đồng ý chấp nhận lời đề nghị của tôi, và ông sẽ có cuộc trò chuyện dài thứ năm, để rồi hóa ra đây lại là cuộc trò chuyện dài nhất và toàn diện nhất từ trước đến nay.
Tôi tự chuẩn bị rất công phu, như thể tôi chuẩn bị tham gia vào một cuộc thi marathôn. Tôi đọc đi đọc lại hàng chục cuốn sách, bài viết rồi báo cáo và tham khảo rất nhiều bạn bè, trong đó có nhiều người biết rõ hơn tôi về lịch sử phức tạp, những giai đoạn thắng lợi và thoái trào của Cách mạng Cuba, để có thể giúp tôi những gợi ý, những chủ đề cần xoáy sâu, đánh giá kỹ hơn. Chính nhờ họ mà tôi đã có thêm những câu hỏi phù hợp để đặt ra với Fidel Castro trong cuốn sách phỏng vấn này.
Cuốn sách này thuộc thể loại hỗn hợp giữa hồi ký và phỏng vấn, vừa mang tính cổ điển - giống như cuốn Những cuộc trò chuyện với Eckermann của Goethe xuất bản năm 1835 [29]- vừa mang tính hiện đại, vì những kỹ thuật ghi âm hiện nay giúp cho loại hình phỏng vấn này trở nên phổ biến hơn thể xếp đồng thời cuốn sách này vào thể loại “báo chí” và “chính luận”. Báo chí bởi vì phỏng vấn là một trong những thể loại báo chí hành nghề của một phóng viên, mặc dù đây là thể loại mới mẻ hơn mọi người vẫn nghĩ: cuộc phỏng vấn hiện đại đầu tiên, giữa Horace Greely và lãnh tụ giáo phái Mormon Brigham Young được công bố trên tờ New York Times ngày 20 tháng 8 năm 1859. Và chính luận là bởi vì quy mô và chiều sâu của một cuốn sách sẽ giúp cho cuộc phỏng vấn bỏ đi được những yếu điểm thong thường là vẻ sắp đặt, cũng như tốc độ và sự ăn xổi vốn có của phát thanh, truyền hình và internet hiện đại.
Thời gian, đối với một cuốn sách, sẽ có diễn tiến chậm hơn, và vị thế của nó cũng khác - và xét theo góc độ này, điều đó sẽ cho phép người được phỏng vấn đọc lại những tuyên bố của mình, sửa đổi và hiệu đính, bổ sung những chi tiết bị quên mất, và thêm thắt những thông tin cần thiết. Một khi không bị ràng buộc với yêu cầu bức thiết vẻ “trực tiếp và độc quyền”, người
https://thuviensach.vn
phỏng vấn có thể sắp xếp các câu hỏi, tổ chức chúng thật hợp lý sao cho cuộc trò chuyện có nhịp điệu và tính xuyên suốt. Trong trường hợp này, tôi còn muốn cuộc phỏng vấn là một cuốn sách về lịch sử đương đại, và mong muốn đó đã khiến tôi bổ sung vào các tuyên bố của Chủ tịch Cuba rất nhiều những chi tiết và chú giải nhằm góp phần làm rõ bối cảnh, cung cấp thông tin về các nhân vật chính trị, văn hóa và lịch sử mà Castro và tôi dề cập đến, cũng như nhắc lại các sự kiện lịch sử; tôi còn thiết lập cả một bảng niên giám với những chi tiết so sánh rất hữu ích về thời gian và địa lý.
Trước khi chúng tôi ngồi xuống làm việc giữa không khí tĩnh lặng và hơi u ám trong văn phòng riêng của Fidel - vì phần đó của cuộc phỏng vấn đã được ghi hình cho một cuốn phim tài liệu [30]- tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn một chút về nhân vật của chúng ta, gần gũi với ông hơn, quan sát ông trong công việc hàng ngày, giải quyết những vấn đ̓ quốc gia đại sự và cuộc sống riêng. Cho đến lúc đó, tôi mói chỉ nói chuyện với Fidel trong những lần gặp gỡ ngắn ngủi vì công việc, xoay quanh những chủ đề rất cụ thể cho các câu truyện mà tôi đang thực hiện tại hòn đảo này hoặc khi tôi đang tham gia một cuộc hội thảo hay sự kiện nào đó ở đây, ví dụ như Hội chợ sách La Havana, ông đồng ý với đề nghị đó, và mời tôi tham gia cùng ông tham gia một số chuyến đi trong vài ngày, cả trong Cuba (tới Santiago, Holgúin) và ra nước ngoài (tới Ecuador).
Trong suốt thời gian đó - trên chiếc xe công của ông, một chiếc Mercedes màu đen bọc thép nặng nề sản xuất từ những năm 1980, với một khẩu súng máy gắn trên sàn xe; trong chiếc chuyên cơ chủ tịch, một chiếc Ilyusin 11-18 cổ lỗ sỹ của Liên Xô đã ngừng sản xuất từ năm 1970; hoặc đi bộ, ăn trưa hay ăn tối - chúng tôi liên tục trao đổi về các chủ đề thời sự, những trải nghiệm của ông trong quá khứ, những mối quan tâm trong hiện tại, tất cả các chủ đề có thể, và không dùng máy ghi âm. Sau đó tôi sẽ sắp xếp lại nội dung các cuộc trò chuyện đó trong sổ ghi chép của mình từ trí nhớ, vì chúng tôi đã thống nhất rằng ông sẽ đọc lại và thay đổi những câu trả lời của mình trước khi cho xuất bản.
https://thuviensach.vn
Những gì tôi phát hiện trong thời gian đó là một Fidel đời thường, có thể nói là ngượng nghịu, một người đàn ông lịch sự và niềm nở luôn tôn trọng và quan tâm tới người tiếp chuyện mình, ông nói chuyện với sự nhiệt tình và sôi nổi, nhưng vẫn giữ được nét kiểu cách và những cử chỉ của một tác phong lịch lãm cổ xưa đã giúp ông được xưng tụng là “quý ông Tây Ban Nha cuối cùng”, ông luôn quan tâm lắng nghe người khác, coi họ như những con người - đặc biệt là với những ngưòi ông làm việc cùng, các nhân viên và đội bảo vệ - và ông không bao giờ cao giọng. Tôi chưa bao giờ nghe thấy ông ra lệnh. Tuy vậy, cho dù đang ở đâu, ông cũng luôn khẳng định được quyền lực tuyệt đối của mình - đó chính là sức mạnh trong tính cách lãnh tụ của ông. Nơi nào có ông, ở đó chỉ có một tiếng nói: của ông. Ông ra tất cả các quyết định, từ lớn đến nhỏ. Mặc dù ông tham khảo ý ki của các lãnh đạo khác trong Đảng và Chính phủ một cách rất tôn trọng và “chuyên nghiệp”, nhưng cuối cùng vẫn là Fidel quyết định. Không một ai trong bộ máy lãnh đạo xung quanh Fidel, kể từ khi Che Guevara hy sinh, có được tầm trí tuệ sánh ngang với ông. Về khía cạnh này, ông khiến chúng ta có cảm giác ông là người cô đơn, không có bạn bè thân thiết, không có người ngang hàng về mặt trí tuệ.
Theo như những gì tôi thấy từ trước đến nay, ông là một lãnh tụ sống rất khiêm tốn, giản dị, trong những điều kiện phải gọi là khắc khổ: hoàn toàn không có gì là xa hoa, sang trọng; những vật dụng thường ngày chỉ ở mức tối thiểu; thức ăn đạm bạc, lành mạnh và toàn là thức ăn chay. Cuộc sống của ông giống như của một quân nhân - tu sĩ. Hầu hết kẻ thù của ông đều phải thừa nhận rằng ông là một rất ít các nguyên thủ quốc gia không hề lợi dụng địa vị của mình để làm giàu cho cá nhân.
Trung bình mỗi đêm ông ngủ khoảng bốn giờ đồng hồ, và thỉnh thoảng nghỉ trưa khoảng một hoặc hai tiếng. Ngày làm việc của ông, cả bảy ngày trong tuần, thường kết thúc vào lúc 5-6 giờ sáng, khi bình minh bắt đầu hé rạng. Đã hơn một lần ông phải gián đoạn cuộc trò chuyện của chúng tôi vào lúc 2-3 giờ sáng vì, vẫn mỉm cười tươi tỉnh dù mệt mỏi, ông phải tham dự “một cuộc họp quan trọng”... Một hành trình, một chặng đường từ nơi này sang nơi khác, một cuộc họp, một chuyến thăm, một buổi xuất hiện
https://thuviensach.vn
trước nhân dân cứ thế liên tiếp diễn ra hết sự kiện này đến sự kiện khác, với tốc độ chóng mặt. Các trợ lý của ông - tất cả đều là những người trẻ tuổi và giỏi giang - ai nấy đều mệt bã người sau mỗi ngày làm việc. Họ hầu như ngủ gật khi đang đứng vì kiệt sức, không sao theo kịp nổi ông già tám mươi tuổi không gì đánh gục nổi kia.
Fidel lúc nào cũng yêu cầu phải có các bản ghi chép, báo cáo, điện tín, thông tin cập nhập tình hình trong nước và quốc tế, tóm tắt các bản tin trên truyền hình và phát thanh, kết quả của các cuộc trưng cầu dân ý trong nước, ông thường xuyên nhận hoặc những cuộc gọi qua điện thoại di động mà thư ký riêng của ông, Carlitos Valenciaga luôn mang theo... ông là người lúc nào cũng khát khao tìm hiểu, không bao giờ ngừng suy nghĩ, trăn trở và huy động trí tuệ của đội- ngũ cố vấn đến mức cao nhất. Luôn luôn sẵn sàng hành động, chỉ huy Ban Tham mưu của mình - đội ngũ những trợ lý của ông - chuẩn bị tinh thần tham gia vào những cuộc chiến mới mỗi ngày. Luôn sẵn sàng thực hiện lại cuộc Cách mạng với tinh thần tươi mới, ngày nào cũng thế. Không có gì xa lạ với ông hơn là các giáo điều, nguyên tắc, quy định, “khuôn mẫu” và những sự thật đã được phơi bày. Ông là tất cả những gì điển hình cho một nhà lãnh tụ chống sự giáo điều: Ngay từ trong bản năng ông đã là người luôn phá vỡ mọi rào cản - một người luôn lật đổ, chống lại những gì xưa cũ, độc đoán - hay nói một cách chính xác ông là một người nổi loạn.
Thật thú vị khi được quan sát Fidel Castro hành động - chẳng khác gì được chứng kiến chính trị không ngừng chuyển động. Lúc nào cũng tràn trề ý tưởng, suy nghĩ về những điều tưởng chừng như không thể suy nghĩ, tưởng tượng về những gì không ai tưởng tượng nổi, với một sức sáng tạo mà chúng ta chỉ có thể gọi là thiên tài. Theo nghĩa này, có thể nói rằng ông là một nhà sáng tạo chính trị, như những nhà sáng tạo khác trong các lĩnh vực hội họa hoặc âm nhạc. Không có ý tưởng nào của ông lại không phải là một ý tưởng vĩ đại, và sự táo bạo trong tư duy của ông phải nói là vô tiền khoáng hậu.
Một khi đã thảo luận và thông qua kế hoạch nào đó, không trở ngại nào có thể khiến ông lùi bước. Giống như de Gaulle từng nói, “Tòa Thị
https://thuviensach.vn
chính sẽ đứng vững”. Đó cũng là cách suy nghĩ của Fidel Castro. Tất cả đều như một câu ngạn ngữ Tây Ban Nha đã nói: un fait accomli - dicho y hecho, “Nói được, làm được”, ông nhiệt thành tin tưởng vào những gì mình đang làm, và lòng nhiệt thành của ông không chỉ khiến người khác tin vào điều đó mà còn thúc giục họ hành động. Đó chính là điều mà chúng ta gọi là sức hút của một lãnh tụ. Ông thường nói. “Chính tư tưởng sẽ làm chuyển hóa thế giới, giống nhưụ lao động chuyển hóa vật chất”.
Trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng về sức khỏe bản thân trong tháng 7 năm 2006, Castro, bất chấp tuổi tác của mình, vẫn là một người đàn ông có vóc dáng vô cùng ấn tượng - cao 1,85m, vạm vỡ, khỏe mạnh. Từ vị Tư lệnh toát lên một sức hút mạnh mẽ với rất nhiều những vị khách mà ông đón tiếp, chủ yếu là những vị khách từ nước ngoài đến thăm, giống như các ngôi sao điện ảnh luôn biết cách làm thế nào để khai thác sức hút không thể phủ nhận đó.
Thông thái và hoa mỹ, Fidel Castro có một nhu cầu mang tính bản năng luôn thôi thúc ông phải giao tiếp với công chúng, ông biết rõ rằng một trong những phẩm chất chủ yếu của mình chính là khả năng hùng biện - thuyết phục và tạo niềm tin cho người nghe, ông giỏi hơn bất kỳ ai khác trong việc thu hút sự chú ý của người nghe, giữ chặt họ bằng sức mạnh của mình, quy phục họ, khiến họ như bị thôi miên, trước khi làm họ tự nổ tung trong những tràng hưỏng ứng nhiệt liệt vì phấn khích. Không có gì ngoạn mục và sinh động hơn cảnh Fidel Castro diễn thuyết. Bao giờ cũng đứng, thân hình lắc lư, bàn tay thường nắm chặt lấy micrô, giọng nói sang sảng như sấm, ánh mắt gắn chặt vào đám đông, đột nhiên ông ngừng lại... rồi giơ hai tay lên như một chàng cowboy đang thuần hóa ngựa hoang, giơ ngón trỏ ra và chỉ thẳng vào đám đông đang sững sờ kinh ngạc. Tất cả hoàn toàn đúng như những gì nhà văn Tây Ban Nha Gregorio Maranon đã nói, “một nhà hùng biện vĩ đại trước đám đông phải là người làm chủ được những cử chỉ của một nhà thuần phục sư tử”.
Nhà văn Gabriel García Marquez, người hiểu Fidel Castro rất rõ, đã miêu tả cách ông diễn thuyết trước đám đông như sau: “Bao giờ ông cũng bắt đầu nói rất nhỏ, rất khó nghe, lời lẽ rời rạc, lộn xộn, nhưng ông có thể
https://thuviensach.vn
tận dụng bất kỳ một tia sáng le lói, một đốm lửa nào, để đặt nền tảng cho những gì sắp nói, từng chút từng chút một, cho đến khi bất thình lình ông nổ tung - và hoàn toàn kiểm soát người nghe. Đó chính là nguồn gây cảm hứng mãnh liệt, một sức hến người nghe phải ngỡ ngàng, choáng ngợp và không sao cưỡng lại nổi mà chỉ những ai chưa từng chứng kiến hoặc sống qua trải nghiệm huy hoàng đó mới đủ sức hoài nghi”.
Tài nghệ bậc thầy về nghệ thuật hùng biện của ông phải nói là phi phàm, như nhiều học giả đã phải thừa nhận, ở đây tôi không nói đến những bài diễn thuyết trước công chúng mà tất cả chúng ta đều biết, mà chỉ là những cuộc đàm luận giản dị sau một bữa tối nhẹ nhàng. Một dòng thác tuôn trào những từ ngữ rất đỗi bình dị nhưng lại có tác động cực kỳ sâu sắc. Một tràng dồn dập của ngôn từ đi kèm với những cử chỉ và động tác rất nhịp nhàng mà ông luôn thể hiện với hai bàn tay đầy tính biểu tượng của mình.
Ngày 01 tháng 12 năm 2006, tại Havana, Rodrigo Borja, cựu tổng thống Ecuador, đã kể với tôi rằng một lần nói chuyện với Tổng thống Pháp khi đó là Francois Mitterand, Borja đã hỏi ông ta, “Xin hỏi lãnh tụ chính trị nào mà ông biết đã gây cho ông ấn tượng sâu sắc nhất?” Và Mitterand đã trả lời, “Tôi sẽ nói tên ba người: de Gaulle, Gorbachev và Fidel Castro”. “Tại sao lại là Castro?” Borja ngạc nhiên. “Vì khả năng nhìn thấu tương lai và cảm quan về lịch sử của ông ấy”, Mitterand nói.
Và sự thật đúng là như vậy: Fidel có một cảm quan sâu sắc vẻ bản thân mình trong lịch sử, cùng với đó là sự nhạy cảm cực kỳ tinh tế về tất cả những gì liên quan đến bản sắc dân tộc của Cuba. Ông luôn trích dẫn José Marti, người anh hùng dân tộc của Cuba, người mà ông đọc và nghiên cứu đi nghiên cứu lại nhiều hơn bất kỳ nhân vật nào trong phong trào xã hội chủ nghĩa và lao động. Trong thực tế, chính Marti là nguồn cảm hứng chủ yếu cho tư tưởng của ông. Bên cạnh đó, ông cũng luôn say mê tìm hiểu khoa học và những thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học. Bao giờ ông cũng phấn khích trước sự tiến bộ của y học, trước khả năng chữa bệnh cho trẻ em ngày càng tốt hơn - tất cả trẻ em trên thế giới. Và sự thật là hàng nghìn bác
https://thuviensach.vn
sĩ Cuba đang có mặt tại nhiều quốc gia nghèo nhất trên thế giới để chăm sóc sức khỏe cho những người nghèo.
Luôn sôi sục một tình yêu đầy nhân văn và tinh thần đoàn kết quốc tế, ông có một giấc mơ đã được ông nói đến cả nghìn lần: Đó là mang được sức khỏe và kiến thức, y tế và giáo dục, đến mọi nơi trên hành tinh này. Liệu đó có phải là một giấc mơ bất khả thi? Một điều quan trọng phải nhắc đến là nhân vật văn học được Castro yêu thích nhất chính là chàng Hiệp sĩ Don Quixote. Hầu hết những ai từng trò chuyện với Castro, và thậm chí là cả những kẻ thù của ông, cũng đều thừa nhận rằng ông là một con người luôn theo đuổi những tham vọng cao quý, xuất phát từ khát khao về công bằng và bình đẳng. Phẩm chất này ở ông, điều làm chúng ta nhớ tới lời của Che Guevara: “Một cuộc cách mạng vĩ đại chỉ có thể được thổi bùng lên từ một tình yêu vĩ đại”, đã gây ấn tượng cực kỳ mạnh mẽ đối với đạo diễn nổi tiếng người Mỹ Oliver Stone. Vị đạo diễn này đã nói, “Castro là một trong những trí tuệ lỗi lạc nhất trên thế giới; ông là người cuối cùng trong thế hệ của mình và là một Don Quixote. Tôi ngưỡng mộ cuộc Cách mạng của ông, niềm tin của ông vào chính mình và sự trung thực của ông”.
Castro thích sự rõ ràng, chính xác, chuẩn mực và đúng giờ. Cho dù đang nói về bất kỳ chủ đề nào, ông cũng thực hiện những phép tính toán học với tốc độ chóng mặt. Fidel không chấp nhận những gì xấp xỉ hay gần đúng. Ông nhớ rõ cả những chi tiết nhỏ nhất. Trong những cuộc trò chuyện của chúng tôi, nhà sử học xuất chúng Pedro Alvarez Tabío thường ở bên cạnh Castro, giúp đỡ ông mỗi khi cần thiết để có những chi tiết chính xác nhất, như ngày, tháng, tên, tình hình cụ thể... Nhiều khi sự đòi hỏi cao độ về tính chính xác của Fidel xoay quanh ngay chính quá khứ của ông (“Tôi đến Sibonet lúc mấy giờ vào cái đêm trước khi tấn công Moncada ấy nhỉ?” “Vào giờ đó, giờ đó, thưa Tư lệnh”, Pedro trả lời); đôi khi lại liên quan đến một khía cạnh ngoài lề nào đó của sự kiện xảy ra đã lâu (“ của vị Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Bolivia người không chịu giúp Che là gì?” “Là thế, là thế”, Pedro nói). Như vậy là bên cạnh Fidel luôn có một bộ nhớ thứ hai, và Pedro, giống như Fidel, cũng làm tôi kinh ngạc.
https://thuviensach.vn
Trí nhớ của Fidel phong phú và chi tiết đến nỗi dường như nhiều lúc nó ngăn ông suy nghĩ một cách tổng hợp. Những suy nghĩ của ông phân nhánh, tất cả đều liên quan tới nhau, hết nhánh này sang nhánh khác như một mạng lưới dày đặc. Quá trình theo đuổi một chủ đề nào đó thường dẫn dắt ông qua một loạt những ý tưởng liên quan, qua một loạt những hồi tưởng về một nhân vật, một tình huống cụ thể nào đó, trước khi gợi lên một chủ đề khác song hành, và một chủ đề khác, lại đến một chủ đề nữa, chủ đề nữa, cho đến khi chúng tôi đi rất xa khỏi vấn đề cốt lõi - xa đến nỗi trong giây lát người đối thoại bất giác e sợ rằng ông đã đi chệch hướng. Nhưng chỉ sau một thoáng Fidel đã quay lại lối đi ban đầu.
Không một lần nào trong suốt hơn một trăm giờ trò chuyện của chúng tôi mà Fidel đặt ra giói hạn về các câu hỏi hoặc các chủ đề mà chúng tôi có thể trao đổi. Ông không bao giờ yêu cầu tôi phải cho ông biết trước danh sách những câu hỏi hoặc các chủ đề mà sẽ được đề cập, mặc dù nếu ông làm vậy thì cũng là điều hết sức bình thường trong một dự án kỳ công như thế này. Ông biết - trước đó chúng tôi đã thảo luận về vấn đề này - rằng tôi muốn đề cập tới tất cả, không có bất kỳ ngoại lệ nào, trong danh sách dài dằng dặc những lời chỉ trích, phê phán và nhận xét dè dặt mà kẻ thù cũng như một số bạn bè của Cách mạng Cuba đã đặt ra. Bản thân cũng là một trí thức, ông không hề e ngại việc tranh luận. Ngược lại, ông còn cần đến tranh luận, đòi hỏi phải tranh luận, và khuyến khích tranh luận. Lúc nào ông cũng sẵn sàng “tranh biện”, và với bất kỳ ai. Với hàng tấn lập luận. Và với một tài nghệ bậc thầy về nghệ thuật hùng biện. Với sự tôn trọng và tế nhị cao nhất dành cho người đối thoại, ông là một đối thủ luchiến đáng gờm - với kiến thức vô cùng uyên bác - mà chỉ những kẻ có ác tâm và lòng thù hận mới có thể phủ nhận.
Nếu như có bất kỳ câu hỏi hoặc chủ đề nào còn thiếu trong cuốn sách này, thì sự thiếu sót đó hoàn toàn xuất phát từ năng lực hạn chế của tôi trên cương vị một người phỏng vấn, chứ tuyệt nhiên không có chuyện Castro từ chối nói về vấn đề này vấn đề nọ trong suốt sự nghiệp chính trị trường kỳ của ông. Bên cạnh đó, độc giả cần biết rằng có nhiều đoạn hội thoại lại trở thành độc thoại, vì có sự chênh lệch về trí tuệ giữa người đặt câu hỏi và
https://thuviensach.vn
người trả lời. Trong những cuộc trò chuyện này, hoàn toàn không có mục đích luận chiến hay tranh cãi - người nhà báo là tôi không đứng về bên nào - mà chỉ là thể hiện “quan điểm cá nhân” về sự nghiệp và tiểu sử chính trị của một con người huyền thoại đã trở thành một phần của lịch sử.
Tôi chưa bao giờ có cảm tình với những người phỏng vấn tự cao tự đại lúc nào cũng chỉ chăm chăm tấn công người đối thoại của mình và luôn háo hức chứng minh rằng họ thông minh hơn, giỏi giang hơn và chuẩn bị tốt hơn người mà họ đang phỏng vấn. Loại nhà báo đó không bao giờ biết lắng nghe người được phỏng vấn, mà chỉ liên tục ngắt lời để cuối cùng người đọc cũng phải bực mình. Tôi cũng không thích những người coi phỏng vấn là một cuộc thẩm vấn trong đồn cảnh sát, ngồi bên này bàn là một viên cảnh sát còn người phạm tội ngồi bên kia, hoặc như một mối quan hệ phán xét giữa một quan tòa khắc nghiệt với một bị cáo đang ăn năn hối cải. Đối với loại phỏng vấn này, trước hết báo chí là một “phiên tòa” - thậm chí nhiều khi còn là một phiên xử kín - đứng trên tất cả các tòa án khác.
Ngoài ra cũng còn một khái niệm bất lương và hèn hạ khác coi phỏng vấn là một thể loại cho phép người phỏng vấn đâm sau lưng người được phỏng vấn, dưới chiêu bài “tự do báo chí” và “bảo đảm tính khách quan” (đại diện cho một khái niệm lệch lạc về tự do báo chí), và cho phép người phỏng vấn làm tất cả những gì anh thích với các tuyên bố của người được phỏng vấn: giữ đoạn này, cắt đoạn kia, đưa một tuyên bố nào đó ra khỏi văn cảnh ban đầu, bỏ bớt các chi tiết, cắt đi những lời giải thích bối cảnh và để lại những tuyên bố “ngang xương”, và nhất là không bao giờ cho phép người được phỏng vấn đọc lại những phát biểu của chính mình trước khi xuất bản.
Một trong các mục tiêu mà tôi đặt ra cho những cuộc trò chuyện với Fidel Castro là cho phép một trong những nhân vật bị công kích dữ dội nhất trên thế giới trong vòng nửa thế kỷ qua, và cũng là một trong những người bị kiểm duyệt chặt chẽ nhất, cất lên tiếng nói của mình, đưa ra lời phản biện của chính mình trước cả thế giới. Chắc chắn là có một số người tin rằng lòng dũng cảm báo chí là phải phục tùng theo “sự kiểm duyệt của đám đông”, nghĩa là chỉ cần cẩu thả lặp lại những “chân lý” và luận điệu mà giới
https://thuviensach.vn
truyền thông vẫn đồng thanh rêu rao suốt hơn năm mươi năm qua. Giống như phương pháp huấn luyện phản xạ có điều kiện của giáo sư sinh vật học nổi tiếng người Nga Pavlov, tại nhiều nước chỉ đơn giản là nhắc đến cái tên “Cuba” là đã gọi lên những tràng luận điệu xưa cũ, được nhai đi nhai lại, những lời lẽ được lặp lại đến mức phát ngán theo đúng nguyên tắc của Goebbel, trùm tuyên truyền của Hitler, rằng chỉ cần lặp đi lặp lại một tuyên bố nào đó là sẽ đến lúc người nghe tin vào tuyên bố đó. Không ai chịu mất công kiểm tra lại phiên bản độc nhất và một chiều đó mà nhiều kẻ vẫn rêu rao là kết quả của những “tiết lộ bí mật”, hoặc thậm chí là “quá trình điều tra”.
Một mục tiêu khác của cuốn sách này cố gắng dỡ bỏ “bức màn bí ẩn về Fidel Castro”. Làm thế nào mà cậu bé sinh ra ở vùng nông thôn hẻo lánh - trong một gia đình có bố mẹ giàu có nhưng hầu như không được học hành và bảo thủ - rồi theo học trong những trường Công giáo dành cho giới thượng lưu do các thầy giáo dòng Tên ủng hộ chế độ độc tài của Franco giảng dạy,chàng thanh niên sánh vai cùng con cháu của giới đại tư sản trong các giảng đường trường luật, cuối cùng lại trở thành một trong những nhà cách mạng vĩ đại nhất trong nửa sau của thế kỷ 20?
Và tôi cũng muốn tìm hiểu chân dung của một Fidel giữa đời thường đằng sau tấm áo giáp là một nhà lãnh đạo với vô số trách nhiệm quốc gia đại sự - xuất phát từ niềm tin của tôi rằng một người có thể che giấu được tính cách thật sự trong một cuộc phỏng vấn kéo dài mười phút hoặc một vài giờ, nhưng trong một cuộc phỏng vấn kéo dài như cuộc phỏng vấn của chúng tôi không ai có thể làm như vậy. Trong suốt hơn một trăm giờ, đến một lúc nào đó, người được phỏng vấn, dù muốn hay không, cũng sẽ bộc lộ tâm hồn mình, đánh rơi cái mặt nạ và phơi bày bản chất và con người thực sự của mình, ở đây độc giả có thể nhận ra điều đó.
Những buổi làm việc dài đằng đẵng với Fidel Castro trong suốt tháng giêng, tháng 2, và rồi tháng 5 năm 2003 đã giúp tôi hoàn thành bản thảo đầu tiên của cuốn sách. Nhưng nhiều tháng trôi qua và cuốn sách vẫn chưa thể sẵn sàng xuất bản. Trong khi đó tại Cuba, cũng như ở khắp nơi trên thế giới, cuộc sống vẫn không ngừng diễn ra sôi động. Khoảng cách giữa những chủ
https://thuviensach.vn
đề mà chúng tôi đã thảo luận và những vấn đề mói vừa xuất hiện (cuộc chiến ở Irắc, tình hình mới ở Mỹ latinh, nạn tham nhũng lan tràn ở Cuba, việc Fidel bị gẫy xương đầu gối ở Santa Clara) ngày một rộng hơn. Do đó, mùa thu năm 2004, tôi quay lại Havana và gặp Fidel lần nữa, để chúng tôi có thể trò chuyện kỹ hơn về một số chủ đề mà chúng tôi đã đề cập đến trước đó. Sau đó, cuối cùng là cuối năm 2005, những cuộc trò chuyện bổ sung dài không kém này đã giúp chúng tôi hoàn thành cuốn sách đúng thời hạn.
Để trả lời, hay nói đúng hơn là bổ sung cho một câu trả lời, cho những câu hỏi nhất định, nhiều lần Castro đã đề nghị tôi nghiên cứu một số bài phát biểu mới nhất của ông, có lẽ vì cảm thấy thật vô nghĩa khi phải nhắc đi nhắc lại những gì ông đã nói. Và ông ủy quyền cho tôi, với sự giúp đỡ của Pedro Alvarez Tabío, giới thiệu những đoạn trích dẫn từ các bài phát biểu và tuyên bố này vào trong bản thảo cuốn sách về cuộc phỏng vấn của chúng tôi. Ông muốn dùng những ngôn từ của chính mình, và cũng là tự nhiên khi ông muốn thấy chúng xuất hiện lại ở đây trong cuốn sách hiển nhiên được coi là “nhìn lại” cuộc đời và tư tưởng của mình - những bổ sung này sẽ giúp cuốn sách có được sự tươi mới và theo kịp diễn biến của tình hình.
Cuối cùng, chúng tôi cùng nhất trí quyết định sẽ bổ sung những dòng chú giải để cung cấp cho người đọc những thông tin mới và diễn giải diễn tiến của một số chủ đề mà chúng tôi đã đề cập trong suốt cuộc phỏng vấn. Tôi đã giới thiệu những dòng chú giải “cập nhật” này ở những nơi tôi cảm thấy cần thiết nhất giúp độc giả hiểu được các sự kiện.
Tôi cũng xin khẳng định rằng trong thâm tâm tôi chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ chúng tôi nên đề cập về cuộc sống riêng tư của Castro, về vợ và các con ông.
Fidel Castro đã hứa với tôi rằng ông sẽ đọc lại tất cả những câu trả lời của mình, nhưng những nhiệm vụ nặng nề của một nguyên thủ quốc gia đã khiến ông không thể làm được việc đó, vì vậy bản in đầu tiên của cuốn sách này đã được phát hành tại Tây Ban Nha vào tháng 4 năm 2006, và tại Cuba sau đó một tháng trong khi bản thân Fidel chưa có cơ hội đọc lại.
https://thuviensach.vn
Nhưng Tư lệnh vẫn muốn giữ lời hứa của mình, vì vậy ông đã tự gánh lấy trách nhiệm đọc lại và sửa đổi những câu trả lời của mình sau khi cuốn sách đã được xuất bản - và khi đó ông quyết định, đúng như thói quen của mình, sẽ dành toàn bộ thời gian và công sức cho nhiệm vụ đó. Vậy là ông đã bổ sung việc đọc lại cuốn sạch một cách tỉ mỉ, kỹ càng vào danh sách những công việc quan trọng hàng ngày, giảm bớt thời gian nghỉ ngơi vốn đã ngắn ngủi của mình, tất cả là nhằm tăng thêm tính chính xác của cuốn sách, thêm câu này, câu kia, thay đổi lối diễn đạt sao cho phù hợp với văn viết hơn. Thậm chí ông còn liên lạc với một số nhân vật được đề cập đến trong những cuộc trò chuyện của chúng tôi để xác minh lại những gì ông nói về họ có đúng hay không. Một số nhân vật này - ví dụ như Rául Castro và Hugo Chavez - đã cung cấp thêm cho ông những thông tin và chi tiết thú vị mà ông bổ sung vào phần trả lời của mình.
Tất cả những ai tiếp xúc với Fidel Castro trong những tháng 6, tháng 7 năm 2006, và nhất là những người trợ lý gần gũi nhất của ông, đều nhấn mạnh việc ông đã toàn tâm toàn ý đến dường nào cho quá trình đọc lại này, đây là điều một lần nữa khẳng định sự cầu toàn đến mức cực đoan của ông. Thậm chí một số người còn cho rằng chính công việc bận rộn này, cùng với quá trình làm việc vất vả trước đó vài ngày - xung quanh khoảng thời gian ông tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Mercosur tại Cordoba, Argentina, đã càng làm ông thêm căng thẳng và dẫn đến việc ngày 26 tháng 7 năm 2006 ông bị viêm đường ruột cấp và xuất huyết như tất cả chúng ta đều biết.
Trong những ngày đầu tiên của tháng 8, sau một ca phẫu thuật phức tạp, trên giường bệnh, Castro lại cầm cuốn sách lên và bắt đầu đọc lại những chương cuối cùng. Chính ông đã nói với nhà văn người Argentina Miguel Bonasso, “Tôi không ngừng chỉnh sửa cuốn sách này ngay cả trong những thời khắc tồi tệ nhất. Tôi muốn làm cho xong vì tôi không thể biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa”.
Vì vậy ấn bản mà bạn đang cầm trên tay lúc này đã được chỉnh sửa hoàn toàn, bổ sung và do chính tay Fidel Castro hoàn thành sau khi tự mình đọc lại xong cuốn sách vào cuối tháng 11 năm 2006.
https://thuviensach.vn
Vậy có những khác biệt gì đáng kể giữa ấn bản đầu tiên bằng tiếng Tây Ban Nha và ấn bản này (cũng bằng tiếng Tây Ban Nha)? Cả một chương mới đã được thêm vào, Chương 24, “Fidel và nước Pháp”, ban đầu chương này không có trong bản đầu tiên vì khi đó nó chưa hoàn thành. Đó chính là chương cuối cùng mà Fidel đã đọc lại, sửa chữa và hoàn chỉnh. Tuyệt đại đa số những gì mà Castro chỉnh sửa - sẽ có ngày nào đó các nhà sử học liệt kê được danh sách dài bất tận đó - xoay quanh văn phong của các câu trả lời và diễn giải một cách cụ thể, chính xác hơn các chi tiết và nội dung miêu tả, đặc biệt là trong chương 8, “Trong dãy núi Sierra Maestra”, trong đó bối cảnh được làm rõ nhưng không hề làm thay đổi nội dung.
Tuy nhiên, có bốn lần Castro muốn bổ sung những nhận xét quan trọng; tôi cảm thấy những nhận xét đó đã giúp cuốn sách trở nên phong phú hơn rất nhiều. Trong chương đầu tiên, ông đã làm sâu thêm đáng kể những lời đánh giá về mẹ mình, bà Lina. Trước đó Castro, một người vô cùng khiêm tốn và dè dặt, chưa bao giờ phát biểu công khai và đầy đủ như thế về mẹ ông. Trong chương 13, ông đã bổ sung những lá thư quan trọng giữa ông và Nikita Khrushchev trong giai đoạn “Khủng hoảng tên lửa Cuba” tháng 10 năm 1962. Những lá thư này không hẳn là hoàn toàn mới, nhưng chúng cũng là những tài liệu mà chỉ có một số rất ít chuyên gia từng được xem qua. Chương 25, “Châu Mỹ Latinh”, có lẽ là phần có nhiều thay đổi nhất. Cụ thể là phần Castro nói về những hành động của mình trong khi cuộc đảo chính chống Tổng thống Hugo Chavez tại Venezuela ngày 11 tháng 4 năm 2002 đang lan rộng. Với những chi tiết đó - những chi tiết hoàn toàn mới và chưa từng được biết đến, đặc biệt là biên bản ghi lại những cuộc trò chuyện qua điện thoại với một số quan chức quân sự cao cấp trung thành với Tổng thống Hugo Chavez - chương này có thể được xem là một tài liệu lịch sử đặc biệt quan trọng.
Cuối cùng, trong chương 26 về cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, lần đầu tiên Fidel Castro đã cho công bố hai lá thư riêng ông gửi cho Saddam Hussein, thúc giục nhà lãnh đạo Irắc rút quân khỏi Cô-oét.
Có một lần, Castro đã “kiểm duyệt” tuyên bố đầu tiên của mình. Đây cũng là tuyên bố liên quan đN Saddam Hussein, và cũng ở trong chương
https://thuviensach.vn
26. Trong ấn bản đầu tiên bằng tiếng Tây Ban Nha của cuốn sách này, trước câu hỏi “Ông nghĩ gì về Saddam Hussein?” Castro đã trả lời: “Biết nói thế nào nhỉ?... Một thảm họa. Một chiến lược gia lầm lỗi. Tàn bạo với chính người dân của mình”. Những từ này đã được xóa đi trong bản thảo mà Castro gửi đi xuất bản. Tại sao? Cá nhân tôi giải thích như thế này: khi Fidel lần đầu tiên đưa ra nhặn xét đó với tôi, tháng 5 năm 2003, sau khi quân Mỹ vào chiếm Baghdad, Saddam Hussein vẫn còn là một người tự do, và người ta thậm chí còn bắt đầu tin tưởng rằng ông ta đang lãnh đạo một cuộc kháng chiến có vũ trang. Khi phán xét một người còn nguyên vũ khí trong tay, Fidel không hè che giấu thái độ của mình đối với nhà lãnh đạo Irắc: “Một chiến lược gia lầm lỗi. Tàn bạo với chính người dân của mình”. Nhưng sau ba năm rưỡi, khi Saddam chỉ còn là một tù nhân của Mỹ, bị kết án tử hình sắp bị đưa lên giá treo cổ, Castro bèn rút lại những gì ông đã nói. Con người ta thường không bao giờ nghiêm khắc phán xét một người đang sa cơ lỡ vận, cho dù kẻ đó có gây ra những gì chăng nữa.
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin, sự biến mất của Liên Xô và thất bại lịch sử của hệ thống xã hội chủ nghĩa dường như không làm thay đổi giấc mơ của Fidel Castro về việc xây dựng thành công ở đất nước mình một xã hội hoàn toàn mới - ít bất công hơn, y tế và giáo dục tốt hơn, không còn tư hữu và phân biệt, với một nền văn hóa tiên tiến, đại diện cho toàn thế giới. Và mối quan hệ đồng minh chặt chẽ với Venezuela và Tổng thống Hugo Chavez, Bolivia và Evo Morales, và những quốc gia Mỹ Latinh khác càng củng cố thêm niềm tin trong ông.
Trong giai đoạn mùa đông của cuộc đời và với tình trạng sức khỏe giảm sút, không còn trực, tiếp nắm giữ quyền lực, ông vẫn tràn trề quyết tâm bảo vệ cuộc cách mạng năng lượng, bảo vệ môi trường, chống toàn cầu hóa tự do mói và nạn tham nhũng trong nước, ông vẫn đứng trong chiến hào, nơi đầu chiến tuyến, chỉ huy trận chiến của những tư tưởng mà ông theo đuổi - những tư tưởng mà chắc chắn không có ai h bất kỳ điều gì có thể làm ông từ bỏ.
Ignacio Ramonet
Paris, 31 tháng 12 năm 2005
https://thuviensach.vn
Limeil-Brévannes, 31 tháng 12 năm 2006
https://thuviensach.vn
TUỔI THƠ CỦA MỘT LÃNH TỤ
Thời thơ ấu ở Birán - Don Anglel - Batey -Mẹ của Fidel - Sống trong nhà thầy giáo - Colegio de La Salle - Tiếng vọng của cuộc chiến ở Tây Ban Nha - Nhũng tu sĩ dòng Tên ở Colegio de Dolores
Gốc rễ lịch sử có vai trò rất quan trọng, và xét theo khía cạnh này, tôi muốn hỏi ông: ông sinh ra trong một gia đình khá giả, ông theo học tại những trường học tôn giáo dành cho giới thượng lưu, ông còn học luật Và với nền tảng giáo dục đó, lẽ ra ông phải lả một lãnh tụ bảo thủ chứ?
Hoàn toàn đúng là có thể, bởi vì một con người không hoàn toàn làm chủ số phận của chính mình. Con người phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh, khó khăn và sự đấu tranh không ngừng nghỉ. Các vấn đề và sự việc dần dần sẽ tạc nên con người anh ta, giống như một cái máy tiện gọt một phôi kim loại. Một nhà cách mạng không phải do bẩm sinh mà thành, tôi dám nói như vậy.
Vậy nhà cách mạng trong ông đã như thế nào?
Tôi đã tự rèn luyện bản thân thành một người cách mạng. Lúc nào tôi cũng suy nghĩ về những yếu tố tác động tới điều đó. Bắt đầu là nơi tôi sinh ra, giữa một vùng quê hẻo lánh, trong một điền trang lớn.
Ông có thể tả lại nơi ông sinh ra không?
Tôi sinh ra trong một trang trại. Nằm ở phía bắc tỉnh Oriente cũ, cách không xa Vịnh Nipe, gần trung tâm trồng mía Marcané [31]. Tên trang trại là Birán. Đó không hẳn là một thị trấn, thậm chí gọi là làng cũng không đúng - chỉ lèo tèo vài nóc nhà. Nhà của gia đình tôi ở đó, dọc theo Camino Real, con đường đất lầy lội chạy từ thủ phủ tỉnh về phía nam. Đưòng sá thời đó toàn là đường đất. Người ta đi lại trên lưng ngựa hoặc xe bò kéo. Chưa hề có phương tiện cơ giới, thậm chí cả điện cũng không có. Khi tôi còn nhỏ, chúng tôi thắp sáng trong nhà bằng nến sáp hoặc đèn dầu.
https://thuviensach.vn
Ông còn nhớ ngôi nhà nơi ông sinh ra không?
Đó là một ngôi nhà được xây dựng theo phong cách kiến trúc Tây Ban Nha, hay xứ Galicia thì đúng hơn. Tôi phải nhắc lại là bố tôi là một người Tây Ban Nha, xứ Galicia, xuất thân từ làng Láncara, tỉnh Lugo, con trai của những người campesinos (nông dân) nghèo. Và ở Galicia, người dân có tập quán nhốt gia súc bên dưới nhà ở. Nhà tôi cũng mang phong cách kiến trúc Galicia đó, vì nó được xây trên những cột gỗ cao, như kiểu nhà sàn. Những chiếc cột này cao khoảng 2m, đúng như những ngôi nhà thường thấy ở Galicia. Tôi còn nhớ là năm tôi lên ba hay bốn gì đó, đã thấy lũ bò ngủ dưới sàn nhà. Chúng được nhốt vào đó khi trời tối và ngủ ở đó suốt đêm. Lũ bò cũng được buộc ở đây chờ vắt sữa. Cũng giống như ở Galicia, dưói sàn nhà còn có cả một cái chuồng nhỏ nuôi lợn và gà - hầu như lúc nào cũng có gà, vịt, gà mái Nhật, gà Tâ và thậm chí cả vài con ngỗng.
Tôi đã tới thăm Birán. Và tôi cũng đã nhìn thấy ngôi nhà nơi ông sinh ra và, đúng như ông nói, ngôi nhà có kiến trúc rất độc đáo. Đó là một ngôi nhà gỗ. Những cây cột được làm từ gỗ rất cứng, được gọi là gỗ caguairán, sau đó sàn nhà được cất trên những cây gỗ này. Như tôi hình dung thì ban đầu ngôi nhà có hình vuông. Sau đó nó được cơi nới: thêm một phòng làm việc ở góc nhà. Rồi lại được mở rộng tiếp để làm khu nhà tắm, một phòng để thức ăn, một phòng ăn và một gian bếp. Một thời gian sau phía trên của khoảng không hình vuông của ngôi nhà ban đầu lại có thêm một tầng nữa, nhỏ hơn, mà chúng tôi gọi là “Mirado” (ban công). Và đó chính là nơi tôi đã chào đời, ngày 13 tháng 8 năm 1926, vào lúc hai giờ sáng, mọi người vẫn kể vậy.
Trong khung cảnh đó, ngay từ khi còn là một cậu bé tôi đã sống giữa cảnh sắc và công việc của vùng nông thôn - cây cối, mía, chim chóc, côn trùng...
Điều đặc biệt ở Birán là ở chỗ ai cũng cảm thấy rất rõ chất kinh doanh rất mạnh mẽ của cha ông, Don Angel.
Ông là một con người có ý chí và nghị lực rất mạnh mẽ. Ông đã phải nỗ lực rất nhiều để tự học đọc, học viết. Một điều rõ ràng là ông rất năng
https://thuviensach.vn
động - ông đi lại rất nhiều, một mẫu người hành động không mệt mỏi, và ông có tài tổ chức bẩm sinh.
Bố ông đã đến Cuba trong hoàn cảnh như thế nào?
Bố tôi là con trai của những người campesinos; những người cùng khổ. Khi tôi về thăm xứ Galicia năm 1992, tôi đã đến Láncara, thị trấn mà bố tôi đã từng sống, và tôi còn thấy cả ngôi nhà nơi ông đã được sinh ra. Đó là một ngôi nhà bé xíu, dài 8m, rộng khoảng 7m. Tòa nhà được xây bằng đá loại vật liệu rất sẵn có trong vùng và thường được những nông dân nghèo xứ Galicia dùng để xây nhà. Cả gia đình đã sống chen chúc trong ngôi nhà nhỏ bé và cũ kỹ đó, và tôi nghĩ chắc là cả vật nuôi nữa. Giường ngủ và bếp kê chung trong một phòng. Hoàn toàn không có vườn, cũng chẳng có sân. Các gia đình canh tác trên những mảnh đất riêng biệt nằm rải rác trên cánh đồng.
Khi bố tôi còn rất trẻ, 16 hay 17 tuổi gì đó, ông đã phải đăng lính vào quân đội Tây Ban Nha, khi ông đã hơn 20 tuổi ông đến Cuba trong Chiến tranh Độc lập lần thứ hai, bắt đầu từ năm 1895. Không ai biết chính xác ông đã tới đây như thế nào, trong những hoàn cảnh ra sao. Sau khi tôi đã đủ lớn để tìm hiểu, tôi lại không bao giờ nói về những vấn đề này với bố tôi. Thỉnh thoảng khi ngồi với bạn bè quanh bàn ăn ông hay kể chuyện này chuyện nọ, chị gái tôi, Angelita, và Ramón, người anh thứ hai - cả hai đều còn sống - có thể là họ biết gì đó, vì họ nói chuyện với ông nhiều hơn tôi. Sau này, khi tôi đến Havana học và tham gia vào các hoạt động cách mạng, tổ chức cuộc tấn công vào trại lính Moncada, vào tù, và sau đó là cuộc viễn chinh Granma, thì ở nhà các em trai và em gái tôi, như Rául, nhỏ hơn tôi khoảng gần 5 tuổi, cả Emma và Juana, cũng thỉnh thoảng nói chuyện với bố tôi, và có lẽ thời gian đó ông đã kể vài câu chuyện, nhưng tôi không có mặt ở nhà nên cũng không biết được.
Qua các em mình tôi biết vài điều, và nhiều khả năng thì bố tôi là một trong những cậu bé con nhà nghèo xứ Galicia phải nhận tiền để đi lính thay cho một người nhà giàu. Và điều rất rõ ràng là bố tôi là một trong các con em của nông dân nghèo phải đăng lính theo cách đó. Ông biết những cuộc chiến thời đó như thế nào rồi đấy.
https://thuviensach.vn
Đăng lính bằng cách rút thăm, và người giầu có thể thuê người nghèo đi lính, hoặc ra trận, thay mình [32].
Vâng đúng là như ông nói; có rất nhiều trường hợp một người nhà giàu được lệnh phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc phải ra trận, thế là anh ta bèn bỏ ra ít tiền thuê một người nghèo túng nào đó đi lính thay mình, một người đang phải sống lay lắt trên một mảnh đất còm hoặc làm thuê cuốc mướn.
Bố tôi được phái tới đây trên cương vị một người lính Tây Ban Nha, và ông đóng quân ở vùng đất trống mới khai phá giữa Júcaro và Moron. Những khoảng đất trống mới khai phá trong rừng nơi xây dựng căn cứ này sau này lại được chính những người Cuba khởi nghĩa sử dụng. Họ đến đó từ Oriente dưới sự chỉ huy của Maceo và Maximo Gómez [33], ngay sau khi Marti qua đời.
Mục tiêu khi đó là phải vượt qua vùng đất trống nơi xây dựng căn cứ - một nhiệm vụ rất khó khăn. Đó là một phòng tuyến chạy theo trục Bắc - Nam, ở phần hẹp nhất giữa hòn đảo, dài khoảng vài km. Có lẽ phải đến gần 100km từ Moron ở phía Bắc đến Jucaro, một thành phố cảng ở bờ biển phía Nam. Tôi biết là bố tôi đóng quân dọc theo tuyến đó, nhưng tôi không nghĩ là ông vẫn còn ở căn cứ khi Maceo đi qua. Những người Cuba đã liên tục qua đó, hoặc xa hơn về phía bắc, họ tới một nơi được gọi là Turiguanó, một hòn đảo nối với Morón bằng một vùng đầm lầy rộng mênh mông. Đấy, bố tôi đã đóng quân ở đâu đó trên tuyến đường này. Đó là tất cả những gì tôi biết; có thể các em tôi sẽ biết nhiều hơn.
Ông không còn nhớ bất kỳ cuộc trò chuyện nào với bố mình về chủ đề này sao?
Một lần tôi nghe ông nói đôi chút về chuyện này, khi tôi đang trên đường tới khu trại của các công nhân lao động ở Pinares de Mayarí, vì tôi chẳng bao giờ thích ở nhà. Nhà tượng trưng cho độc đoán, và điều đó làm tôi tức phát điên, tinh thần nổi loạn trong tôi đầu trỗi dậy.
Vậy ngay từ hồi trẻ ông đã là một người nổi loạn?
https://thuviensach.vn
Tôi có nhiều lý do để trở nên như vậy. Khi phải đối mặt với chế độ độc đoán kiểu Tây Ban Nha, và nhất là kiểu ra lệnh mang đặc nét Tây Ban Nha ấy... có thể gọi là sự khệnh khạng, quyền thế nói chung... Tôi không thích sự độc đoán, bởi vì thời đó có rất nhiều hình phạt bằng đòn roi, một cái tát vào mặt hoặc phải ăn quật bằng dây lưng - lúc nào cũng có nguy cơ phải xơi đòn nhừ tử, mặc dù dần dần chúng tôi cũng học được cách tự vệ.
Bố ông là một người độc đoán?
Ông hơi cục tính. Nhưng ông không thể nào trở thành một người giàu có và có tài sản nếu như không có cá tính mạnh mẽ - ngay từ khi còn trẻ đã phải đi lính, xa gia đình và quê hương, khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng; không một xu dính túi, không gia đình, là người đầu tiên trong gia đình biết đọc, biết viết, chỉ bằng nỗ lực của bản thân. Như hầu hết những người nhập cư Galicia khác, ông là một người rất khiêm tốn và cần cù, với một tinh thần luôn nhún nhường. Tuy vậy ông vẫn rất cá tính và tràn đầy quyết tâm. Nhưng ông chưa bao giờ tỏ ra nghiệt ngã. Ông không bao giờ nói “không” với bất kỳ ai đến tìm kiếm sự giúp đỡ. Lúc nào ông cũng sẵn sàng lắng nghe, sẵn sàng chìa một tay với người gặp khó khăn. Bản thân ông cũng đã trải qua những ngày thiếu thốn khi còn bé. Tôi biết ông mồ côi mẹ ngay từ rất sớm - 11 tuổi; ông nội tôi lấy vợ khác và, vâng, tuổi thơ của bố tôi chỉ toàn là đau khổ và nước mắt. Nhưng ông có những phẩm chất cao quý của một người dân vùng Galicia: tốt bụng, hiếu khách và hào phóng.
Có rất nhiều câu chuyện về sự hào hiệp, cũng như lòng tốt bụng của ông. Một người với trái tim rộng lượng luôn giúp đỡ bạn bè, những người lao động, những ngư̖ gặp khó khăn. Thỉnh thoảng ông cũng càu nhàu, rên rẩm, nhưng ông không bao giờ để ai phải ra về tay không. Trong những thời kỳ khó khăn [34], sau khi hết mùa thu hoạch và còn rất ít việc làm, thường có người sẽ tìm đến ông và nói, “Các con tôi đang đói... chúng tôi chẳng còn gì, tôi cần công việc”. Hồi đó có một hệ thống được gọi là ajuste[35]: “Anh phát quang mảnh đất này với ngần này tiền”. Hệ thống ajuste này là một cách để các chủ đất ở Cuba giảm bớt chi phí; thực chất nó là một họp đồng với một gia đình hoặc một lao động trong việc làm sạch một cánh
https://thuviensach.vn
đồng mía, và bạn sẽ trả cho anh ta ngần đó, ngần đó cho một caballería hoặc một rozas. Họ chưa dùng đơn vị ha như bây giờ. Tôi nghĩ là một caballería tương đương khoảng 18 rozas[36]. Mỗi quốc gia Trung Mỹ và Nam Mỹ đều có đơn vị đo lường khác nhau. Thật may là sau đó xuất hiện hệ mét, hình như cùng thời với Cách mạng Pháp thì phải. Như tôi đã nói, bao giờ cũng có một hợp đồng: “Được rồi, 20 pesos, tôi sẽ ajustar[37] cái này cho anh”. Bố tôi bao giờ cũng tìm ra một cánh đồng mới nào đó cần phát quang hoặc một công việc vô thưởng, vô phạt nào đó để tạo công ăn việc làm cho người khác, kể cả khi việc đó không mang lại chút lợi ích tài chính nào cho ông. Tôi nhận ra điều đó khi tôi đã lớn hơn, và trong thời gian nghỉ hè tôi làm việc trong văn phòng. Tại đó tôi thường xuất các lệnh mua hàng cho các công nhân để họ có thể nhận hàng hóa từ các cửa hàng ngay cả khi họ thất nghiệp. Bố tôi là một người cao thượng và tốt bụng.
Sau Chiến tranh Độc lập, năm 1898, bố ông đã quyết định ở lại Cuba
Không, ông được đưa về Tây Ban Nha sau chiến tranh, năm 1898, nhưng rõ ràng là ông thích ở Cuba hơn, vì vậy, cùng với nhiều người đồng hương Galicia khác, ông đã quay lại Cuba ngay sau đó một năm. Có tài liệu ghi rằng ông đặt chân lên cảng Havana tháng 12 năm 1899. Không một xu dính túi và hoàn toàn không có ai thân thích, ông bắt tay vào làm việc. Tôi không biết làm thế nào mà cuối cùng ông lại định cư ở những tỉnh miền đông. Đó là thời kỳ những đồn điền mênh mông của người Mỹ còn trải rộng xuyên qua các cánh rừng gỗ cứng, những cánh rừng bị triệt phá để lấy đất và làm chất đốt cho các lò nấu đường - cũng chính loại gỗ cứng tuyệt hảo dùng để xây dựng Dinh El Escorial, và nhiều công trình kiến trúc cũng như tàu thuyền khác, như chiếc Santisima Trinidad đồ sộ, chiến hạm lớn nhất và mạnh nhất thời đó đã được đóng ở Havana rồi bị đắm trong một cơn bão sau khi được người Anh sử dụng trong trận Trafalgar khét tiếng năm 1805.
Người Mỹ đã thuê nhân công chặt phá hết cây cối lấy đất mở đồn điền trồng mía. Nơi nào mà trước đó có rừng thì đất đai bao giờ cũng cực kỳ màu mỡ; những vụ thu hoạch đầu tiên đều rất bội thu.
https://thuviensach.vn
Và bố ông cũng làm việc cho người Mỹ?
Bố tôi bắt đầu làm việc ở tỉnh Oriente như một người làm thuê bình thường cho Công ty Hoa quả Mỹ, công ty này có các đồn điền ở phía Bắc của tỉnh. Sau đó ông tổ chức ra một đội lao động và chỉ huy nhóm công nhân này làm thuê cho công ty của Mỹ. Tôi nghĩ là đã có lúc bố tôi có - tôi đã nghe nói đến chuyện này một lần - đến 300 nhân công, và nhờ thế ông bắt đầu có tiền, ông có năng khiếu tổ chức bẩm sinh. Nhưng ông không biết đọc, biết viết; ông tự học, dần dần, nhưng không hề dễ dàng chút nào. Ông khởi nghiệp với một công ty nhỏ chuyên khai phá rừng để trồng mía hoặc sản xuất củi đốt cho các lò nấu đường. Và bằng cách đó ông bắt đầu có của ăn của để nhờ việc tổ chức đội thợ làm thuê đó, tôi nghĩ hầu hết những người này là người nhập cư, chủ yếu là người Tây Ban Nha và những người ở các đảo xung quanh, như Haiti và Jamaica.
Cuối cũng thì bố ông có được bao nhiêu đất cả thảy?
Cuối cùng ông mua được khoảng 900ha, tương đương với hơn 2000 acre. Ngoài diện tích đất do mình sở hữu, ông còn thuê thêm vài nghìn ha nữa của hai viên Tướng Cuba đã tham gia Chiến tranh Độc lập - giờ thì chẳng ai biết làm thế nào mà họ có ngần ấy đất. Những khu rừng thông bạt ngàn, hầu hết là rừng nguyên sinh. Vùng đất đó trải dài qua những ngọn núi và thung lũng, qua cả một bình nguyên cao khoảng 550m, một bình nguyên rộng lớn thông mọc phủ kín, một khu rừng hoàn toàn tự nhiên. Bố tôi đã cho chặt hạ những khu rừng thông ở Mayarí. 17 chiếc xe tải chất đầy gỗ thông ra khỏi rừng mỗi ngày ba chuyến. Thu nhập từ gỗ, cùng với mía và gia súc, là rất lớn, bởi vì ông còn sở hữu những mảnh đất khác, hầu hết là đồng bằng, nhưng cũng có vài mảnh đất đồi. Tóm lại tất cả là khoảng 10.000 ha.
Một diện tích đất cực kỳ rộng lớn.
Nếu tính tổng cộng lại, thì bố tôi sở hữu không dưới 11.000 ha, cả đất do ông sở hữu và đất thuê lại.
Một con số cực lớn.
Đúng là rất lớn. Tôi có thể kể với ông câu chuyện này vì thật sự là xét theo những điều kiện đó, phải nói rằng tôi sinh ra trong một gia đình còn
https://thuviensach.vn
hơn cả khá giả. Với quy mô như thế thì phải nói là cực kỳ khá giả mới đúng. Tôi muốn nói là tôi hoàn toàn không có gì tỏ ra tự kiêu vì điều đó cả, nhưng sự thật là như thế - tôi chỉ muốn diễn tả mọi việc thậtVậy ông là con của nhà triệu phú.
Hừm, không hẳn là một triệu phú. Chưa có ai từng nói rằng bố tôi là một triệu phú cả. Thời kỳ đó, triệu phú là một điều gì đó thật khủng khiếp - một triệu phú phải là người thực sự, thực sự, có rất nhiều tiền. Ví dụ, một triệu phú, vào thời mà một đô la là cả một khoản tiền lớn và trung bình một công nhân làm việc cật lực cũng chỉ được một đô la một ngày, phải có gấp một triệu lần mức lương trung bình đó. Tài sản của bố tôi không thể lớn tới mức đó được. Không thể gọi bố tôi là một triệu phú, mặc dù ông cũng rất giàu có và có một nền tảng tài chính vững vàng. Ngay cả trong một xã hội nghèo đói và lạc hậu như vậy mà anh em chúng tôi vẫn được chăm chút như con nhà thượng lưu. Tôi có thể bảo đảm với ông rằng hồi đó rất nhiều người cư xử lễ độ với chúng tôi, hoàn toàn chỉ vì lòng kính nể, mặc dù chúng tôi không mấy khi nhận ra điều đó.
Ở Birán, bố ông không chỉ xây một ngôi nhà, mà dần dần dọc theo đường Camino Real ấy, bố ông còn cho xây cả những ngôi nhà khác - một xưởng làm bánh, một quán trọ, một quán rượu, trường học, nhà ở cho những công nhân người Haiti... Một thị trấn nhỏ thực sự.
Thật ra thì chỗ chúng tôi sống chẳng có thị trấn nào cả, chỉ lơ thơ vài ngôi nhà. Đó có thể là nơi mà ông gọi là một batey [38]. Khi tôi còn nhỏ, chuồng bò ở ngay dưới sàn nhà. Sau này, một chuồng bò mới được xây cách nhà khoảng 30m, và ngay phía trước nhà có một lò rèn chuyên bán và sửa chữa dụng cụ, lưỡi cày đủ loại. Và ngay sát đó là một lò mổ nhỏ được xây thêm. Rồi cách đó khoảng 30m nữa, theo hướng khác, là xưởng làm bánh, cách đó không xa là một trường tiểu học, một ngôi trường nhỏ của Chính phủ. Ngoài ra, bên vệ đường còn có một cửa hàng bách hóa với một nhà kho dự trữ nhu yếu phẩm, toàn những đồ khô và có thể để lâu năm, phía đối diện là bưu điện và trạm điện tín. Không xa nơi đó là vài ngôi nhà xây tạm bợ kiểu trại lính, những túp lều nền đất phủ lá dừa dành cho các
https://thuviensach.vn
công nhân là người Haiti nhập cư sống trong những hoàn cảnh hết sức tồi tàn; họ trồng rồi thu hoạch mía, công việc chủ yếu trong trang trại. Gần nhà chính là một vườn cam lớn nơi tự tay bố tôi xén tỉa với một cặp kéo xén cành to bự; một khu vườn rộng khoảng 12-14ha, trồng đủ các loại hoa quả, có khi chỉ một hai cây nhưng cũng có khi trồng thành mảng lớn; có cả chuối lá, đu đủ, dừa, mãng cầu xiêm, na [39], mỗi thứ một chút. Ngoài ra còn có cả ba vườn nuôi ong lớn với khoảng 40 tổ cho chúng tôi thu hoạch rất nhiều mật. Ngay cả bây giờ tôi cũng có thể nhắm mắt đi lại trong vườn cam đó - tôi biết tất cả các loại cây được trồng ở đó; tôi lấy móng tay bóc vỏ cam, và suốt cả mùa hè rồi lễ Giáng sinh tôi đều ở ngoài vườn suốt ngày. Không ai ăn cam nhiều bằng tôi khi đó.
Và còn có cả một sân đấu gà rất lớn. Hồi đó ở trang trại có tổ chúc đấu gà không?
Có. Cách nhà khoảng 100m, cũng nằm dọc bên đường, là sân đấu gà mà ông vừa nói tới. Đó là nơi mà chủ nhật nào trong mùa thu hoạch mía, và cả Giáng Sinh cũng như năm mới, thứ 7 và chủ nhật trong lễ Phục Sinh, sẽ có các trận đấu gà. Ở nông thôn thì chỉ có môn thể thao đó thôi.
Một hình thức giải trí địa phương.
Đúng, bởi vì thật ra có rất ít các hoạt động giải trí. Mọi người chơi cờ domino, chơi bài; bố tôi, khi còn là một anh lính trẻ, rất mê chơi bài; và chắc chắn ông là một người chơi bài rất giỏi. Và tôi nhớ là từ năm tôi lên ba, trong nhà tôi còn có một cái máy quay đĩa quay tay, một chiếc RCA Victor (chính xác là Victorla) chơi nhạc. Thậm chí trong khi còn chưa ai có radio, thì bố tôi là người duy nhất có radio, và khi tôi đã lớn lắm rồi - khoảng 7 hay 8 tuổi gì đó. Không! Phải lớn hơn! Chắc chắn là khi đó tôi phải 12 tuổi rồi, vì đúng vào giai đoạn 1936-1937, cuộc Nội chiến Tãy Ban Nha vừaổ ra, khi đó chúng tôi có 1 chiếc radio và một chiếc máy phát điện nhỏ, một chiếc mô tơ chạy khoảng hai tiếng mỗi ngày. Nó nạp điện cho vài “cục tích điện”, ngày đấy chúng tôi gọi là ác quy - và hầu như ngày nào cũng phải rót nước mưa cho nó.
Và tất cả những cái đó đều thuộc về bố ông?
https://thuviensach.vn
Trừ bưu điện và ngôi trường nhỏ là của Chính phủ, còn lại đều thuộc sở hữu của gia đình tôi. Khi tôi chào đời, năm 1926, bố tôi đã tích cóp được tài sản đáng kể, và ông đã là một chủ đất khá giàu có. Don Angel, “Don Angel Castro”, mọi người đều gọi ông như vậy, người rất được trọng vọng và có quyền lực trong vùng, giữa cái thời còn gần như phong kiến đó. Đó là lý do tại sao tôi nói với ông rằng tôi thật sự là con trai của một gia đình địa chủ; bố tôi đã mua thêm đất từng chút, từng chút một trong suốt bao nhiêu năm ròng.
Hãy kể cho tôi nghe về mẹ ông.
Tên bà là Lina. Bà là người Cuba, sinh trưởng ở tỉnh Pinar del Río, ở mạn tây của hòn đảo. Gốc gia đình bà là ở quần đảo Canary. Bà cũng xuất thân từ tầng lớp campesino, gia đình bà rất nghèo khổ. Ông ngoại tôi là một người đánh xe, ông chở mía bằng xe bò kéo. Sau đó họ chuyển tới vùng Birán, mẹ tôi khi đó mới 13-14 tuổi, đã tới đây cùng bố mẹ và các anh chị em từ Camaguey, sau khi đi tàu từ Pinar del Río, để tìm kiếm vận may. Họ thực hiện hành trình rất dài bằng xe bò, đầu tiên là tới Guaro, rồi cuối cùng là Birán.
Mẹ tôi hầu như mù chữ hoàn toàn, và, cũng giống như bố tôi, sau này bà tự mình học đọc, học viết. Cũng với nỗ lực và quyết tâm rất lớn. Tôi chưa bao giờ nghe mẹ tôi kể là bà từng được đi học. Bà tự học hoàn toàn. Một người phụ nữ cực kỳ chăm chỉ, và không có gì lọt qua được mắt bà. Bà là đầu bếp, thầy thuốc, và là người chăm lo cho tất cả chúng tôi - bà làm tất mọi thứ khi chúng tôi cần, và lúc nào bà cũng sẵn sàng chìa một bờ vai cho chúng tôi dựa, và lắng nghe chúng tôi giãi bày những khó khăn nếu có. Tuy nhiên mẹ không bao giờ chiều hư chúng tôi; bà rất khắt khe trong chuyện dọn dẹp ngăn nắp, sạch sẽ và tiết kiệm. Có thể nói mẹ tôi là một người “lo xa” đối với tất cả những công việc hàng ngày bên trong cũng như bên ngoài ngôi nhà; bà là nhà kinh tế của gia đình. Không ai hiểu làm thế nào bà có đủ thời gian cho tất cả những gì bà làm; chẳng bao giờ thấy mẹ tôi ngồi xuống, tôi không bao giờ thấy mẹ tôi nghỉ ngơi trọn một ngày.
Bà đã sinh ra bảy người con, tất cả bảy anh chị em chúng tôi đều chào đời trong ngôi nhà đó, mặc dù lần nào cũng phải có một bà đỡ giúp bà sinh
https://thuviensach.vn
hạ chúng tôi. Hồi đó thì chẳng lấy đâu ra bác sĩ - bác sĩ hoàn toàn là một điều xa xỉ ở vùng nông thôn hẻo lánh như vậy.
Không ai làm việc vất vả bằng mẹ tôi để cho các con được đến trường; bà muốn chúng tôi có những gì mà bà chưa bao giờ có. Tôi có thể bảo đảm rằng nếu không nhờ bà thì tôi - một người rất ham mê học hỏi - cũng sẽ gần như thất học. Mặc dù rất ít khi thể hiện, nhưng mẹ tôi là người yêu thương các con hết mực. Bà là một phụ nữ mạnh mẽ, can đảm và lúc nào cũng hy sinh cho chồng con. Lúc nào bà cũng vững vàng, kiên định trước những khó khăn và cả những phiền não mà chúng tôi vô tình gây ra. Bà không bao giờ tỏ ra bất bình vì cuộc cải cách ruộng đất, việc phân chia lại đất đai mà bà yêu như máu thịt.
Mẹ tôi là người cực kỳ ngoan đạo, trung thành với niềm tin tôn giáo của mình, đây là điều mà tôi luôn tôn trọng. Bằng cách nào đó bà tìm thấy niềm an ủi trong chính nỗi vất vả của một người mẹ, và bà cũng chấp nhận vai trò của mình là người mẹ của Cách mạng mà bà đã phải chịu đựng rất nhiều khó khăn, khổ ải, cho dù, chỉ là một người nông dân nghèo, thấp kém, bà hoàn toàn chẳng biết gì về lịch sử nhân loại và những nguyên nhân sâu xa của các sự kiện mà bà đã trải qua ở Cuba cũng như trên thế giới.
Bà qua đời ngày 6 tháng 8 năm 1963, ba năm rưỡi sau khi Cách mạng thành công.
Vậy bố ông qua đời khi nào?
Bố tôi qua đời sớm hơn. Vì ông hơn mẹ tôi vài tuổi, ông qua đời ngày 21 tháng 10 năm 1956. Hai tháng sau khi tôi tròn ba mươi tuổi, và hai tháng trước khi chúng tôi từ Mêhicô trở về với đoàn viễn chinh Granma. Bố ông có nói được thổ ngữ xứ Galicia không?
Có, nhưng ông không bao giờ dùng.
Ông có bao giờ nghe thấy bố mình dùng thổ ngữ đó không? Vài lần tôi nghe thấy ông dùng một số từ bằng thổ ngữ Galicia. Vì trong vùng cũng có những người Galicia khác, và có thể là bó tôi đã nói chuyện với họ bằng thổ ngữ Galicia, có lẽ vậy. Nhưng cũng có những người Tây Ban Nha ở các tỉnh xung quanh; ví dụ như những người xứ Asturia chẳng hạn, họ không nói thổ ngữ Galicia. Rõ ràng là những người gốc
https://thuviensach.vn
Galicia đã điều chỉnh sang tiếng Tây Ban Nha, họ có thể nói thành thạo, tất nhiên là như thế giao tiếp sẽ dễ dàng hon, hơn nữa cũng không thể nào dùng thổ ngữ Galicia với người Cuba được, vì chẳng ai hiểu được. Với công nhân, họ phải dùng tiếng Tây Ban Nha - với tất cả mọi người, thậm chí là với người yêu hoặc vợ họ cũng phải dùng tiếng Tây Ban Nha, vì những người đó đâu có biết tiếng Galicia, vì vậy nói chung tôi hầu như không mấy khi nghe thấy bố tôi nói tiếng Galicia cả.
Khi cuộc Nội chiến Tây Ban Nha xảy ra thì hình như ông lên mười tuổi thì phải.
Thật ra thì cũng chưa tròn mười tuổi. Tôi sinh ngày 13 tháng 8 năm 1926, còn cuộc Nội chiến Tây Ban Nha nổ ra ngày 18 tháng 7 năm 1936. Nên chính xác thì tôi mới được chín tuổi mười một tháng; tất nhiên là khi đó tôi đã biết đọc, biết viết.
Ông có nhớ gì về việc bố ông cảm thấy lo lắng hay bất an khi nói về cuộc chiến tranh đó, hay ông ấy có nói gì về Nội chiến Tây Ban Nha không?
Nhóm 12-14 người Tây Ban Nha sống và làm việc ở Birán cũng chia làm hai phe.
Những người Tây Ban Nha mà bố ông thường gặp hay đến nhà ông à?
Những người Tây Ban Nha làm cho ông đủ các thứ việc, hoặc có khi chỉ là công nhân bình thường. Có một người gốc Asturia làm thủ thư, và được học hành rất tốt. Ông ấy thường khoe là ông ấy nói được nhiều thứ tiếng, và tôi hầu như tin ông ấy hoàn toàn, vì ông ấy... khi chúng tôi có radio trong nhà và mỗi khi có bản tin hoặc chưong trình phát bằng tiếng Anh hoặc tiếng Đức, ông ấy lại dịch ngay, ông ấy cón biết cả tiếng latinh và viết những câu chữ latinh bằng kiểu Gothic rất đẹp. Con người Asturia nhỏ bé đó - tôi nói là nhỏ bé vì ông ấy rất thấp bé - chắc chắn là thông thái hơn bất kỳ ai trong vùng, ông ấy được học hành đầy đủ và có kiến thức tổng quát hơn. Ông ấy còn biết về lịch sử Hy Lạp, ông ấy thưòng nói về Demosthenes; ông ấy là người đầu tiên nói cho tôi biết về Demosthenes, nhà hùng biện vĩ đại thời Hy Lạp cổ, và cả giai thoại Demosthenes phải
https://thuviensach.vn
ngậm sỏi để chữa tật nói lắp. Chính cái ông người Asturia đó đã kể với tôi chuyện này và nhiều chuyện khác.
Khi cuộc chiến nổ ra, nhóm người đó và còn vài người nữa, đã đứng về phe nổi loạn - hồi đó những người chống lại nền Cộng hòa được gọi là quân phiến loạn.
Tức là phe Franquistas?
Đúng. Và còn một nhóm khác ủng hộ những người Cộng hòa. Họ là những công nhân trong trang trại, nhiều người còn không biết đọc hay biết viếtCuba tên là Valero - người phụ trách trạm điện tín và bưu điện, ông ta là một người Cộng hòa, như hầu hết người lao động khác. Trong nhóm lao động có một người làm bếp, vì trước đó công việc của ông ta trong trang trại là chăm sóc đàn gia súc, nhưng không hiểu sao cuối cùng ông ta bị thấp khớp đến nỗi hầu như không thể nào đi lại nổi, cuối cùng họ để ông ta làm người nấu ăn. Mặc dù hoàn toàn tôn trọng ông, và bản thân tôi cũng rất quý ông ấy, nhưng tôi cũng phải nói rằng ông ấy nấu ăn rất dở, ít nhất thì trong nhà tôi mọi ngưòí kêu ca rất nhiều về cấc món ăn do ông ấy nấu. Tên ông ấy là García; ông ấy hoàn toàn mù chữ.
Mù chữ?
Đúng vậy. Tôi có thể bảo đảm với ông là hồi tôi còn nhỏ ở Birán chỉ có chưa đến 20% số người dân trong vũng biết chữ, và ngay cả những người này đọc, viết cũng khó khăn. Rất hiếm người được học đến lớp sáu. Chính tại đó tôi hiểu được những khó khăn vất vả mà một người mù chữ phải chịu đựng. Không ai có thể hình dung nổi. Một người mù chữ là gì? Anh ta là người đứng dưới cùng trong bậc thang xã hội, người phải nhờ bạn viết hộ thư gửi cho người yêu. Ở Birán, những người không biết đọc, biết viết, phải nhờ những người biết chữ viết thư hộ cho người phụ nữ mà họ đang theo đuổi, đại loại như vậy. Nhưng không phải là họ đọc cho người kia viết - nói cho cô ấy thế này thế kia - hay đêm qua anh chàng mơ thấy cô nàng và rằng anh ta không ăn không ngủ được vì nhung nhớ, đại loại như vậy, mà người mù chữ sẽ bảo với người biết đọc, biết viết rằng, “Không, không, anh cứ viết tất cả những gì anh nghĩ là tôi nên viết cho cô ấy” để
https://thuviensach.vn
chiếm được cảm tình của người con gái! Tôi không hề cường điệu đâu. Tôi đã sống ở một thời kỳ mà mọi chuyện là như vậy đấy.
Cá nhân ông còn nhớ gì về những cuộc tranh luận xoay quanh Nội chiến Tây Ban Nha
Năm 1936, tôi được gửi vào trường học nội trú ở Santiago de Cuba, và mùa hè năm đó, khi chiến tranh nổ ra, tôi đang về nhà ở Birán nghỉ hè; và vào thời gian đó chắc tôi được khoảng, tôi cũng không biết nữa, gần mười tuổi gì đó, tôi cũng không nhớ là tôi đã học xong lớp hai chưa...
Vậy chuyện gì xảy ra ư? Khi tôi từ Santiago về Birán để nghỉ hè, vì tôi đã biết đọc biết viết, Manuel García, người đầu bếp đi tập tễnh, người đàn ông chăm chỉ đang sống ở một ngôi nhà nhỏ gần bưu điện - Manuel García chạy lại bên tôi và nhờ tôi đọc báo cho ông ta nghe. Ông ta là một người ủng hộ phe Cộng hòa cực kỳ nhiệt thành - tôi chỉ muốn cho ông biết tinh thần chung của giai cấp đó là thế, tôi cũng thường tự hỏi tại sao ông ta lại là một người Cộng hòa cuồng nhiệt như vậy, và rất phản đối giáo hội, tôi chỉ muốn trình bày sự thật - và thế là tôi đọc báo cho ông ấy nghe và nói cho ông ấy biết tình hình ở Tây Ban Nha. Chính qua đó mà tôi biết về cuộc chiến, trước khi tôi tròn mười tuổi. Tôi đọc khá nhiều báo cho ông ấy nghe. Tôi nhớ là một trong những tờ báo được chuyển về Birán khi đó có tên gọi là Information, và cả những tờ khác, như El Mundo, El Pais, và El Diario de Cuba, nhưng tờ báo chủ yếu ở vùng này là Diario de la Marina.
Đó là một tờ báo của Thủ đô Havana.
Không, không, không phải là báo Havana - nó được phát hành khắp cả nước. Ngay từ thời Chiến tranh Độc lập nó đã là một tờ báo thân Tây Ban Nha và là tờ cực hữu nhất trong số những tờ báo từng có ở Cuba trước khi Cách mạng thành công. Nó có cả một phụ trang toàn ảnh, thường phát hành vào số Chủ nhật. Một tờ báo rất nổi tiếng, vởi cơ man nào là trang quảng cáo, dày cộp, và nó được đưa đến ngôi nhà nhỏ bằng gỗ của García còn tôi thì đến đó đọc cho ông ấy nghe. Tôi đọc từ trang đầu đến trang cuối. Hồi đó quân chống Cộng hòa được gọi là quân “phiến loạn” - nhưng nghe như khen thì đúng hơn.
Đó là những kẻ đứng về phe Franco.
https://thuviensach.vn
Và còn được gọi là phe “Quốc gia”. Phe bèn kia thì được gọi là “bọn đỏ”, hoặc một cách miệt thị là “tiểu quỷ đỏ”, nhưng đôi khi tờ báo này cũng gọi họ rất tử tế là “những người Cộng hòa”. Đó là tờ báo chủ yếu xuất hiện ở Birán - có thể nói là tờ nặng nhất, dầy nhất, với đủ các loại thông tin, giấy tốt, lại có nhiều trang quảng cáo nữa. Phải mất mấy tiếng liền tôi mới đọc xong cho García nghe. Mặc dù thỉnh thoảng cũng có vài tờ báo khác được đưa tới, nhưng tờ có nhiều tin tức về chiến tranh Tây Ban Nha nhất vẫn là tờ Diario de la Marina.
Tôi nhớ như in cuộc chiến tranh đó, ngay từ đầu. Ví dụ như tôi còn nhớ cả sự kiện những người lính Cộng hòa chiếm Teruel.
Và mặt trận Ebro?
Mặt trận Ebro là sau này, gần kết thúc.
Còn trận Madrid?
Vâng, Madrid bị phong tỏa. Những đòn chí mạng mà phe Cộng hòa giáng cho bọn lính của Mussolini tại Guadalajara khi họ tiến về Madrid, và, như tôi vừa nói, khi phe Cộng hòa tấn công và chiếm được Teruel. Và cuộc phản công của Tướng Mola để giành lại thành phố, cùng những tin khác liên quan đến người dân ở Burgos, khi đó là Thủ đô của phe Franquista. Tên của cái pháo đài mà phe Franquistas bị bao vây là gì ấy nhỉ?
Pháo đài Alcazar, ở Toledo.
Pháo đài Alcazar. Tôi đã đọc tất c về trận đánh pháo đài Alcazar ở Toledo cho García nghe, và thực sự là tôi cũng đứng về phe ông ấy! Thậm chí tôi còn tìm đủ mọi cách để ông ấy phấn chấn hơn. Tôi thường nói, “Nhưng nghe này, nghe này, trận đánh ở Teruel đang rất thuận lợi” - tôi còn nhớ là tôi đã nói - “Không sao đâu, chú xem họ đã giành được những gì này; xem này, họ đang chiến đấu ở chỗ này, chỗ này, và cả chỗ này nữa”. Tất cả những thông tin nào có lợi cho lực lượng Cộng hòa là tôi lại đọc hết cho ông nghe. Tình hình thời đó ở Birán là như vậy, đúng như những gì tôi đang kể với ông.
Bố ông có ủng hộ bên nào không, hay ông ấy không quan tâm? Không, bố tôi phản đối phe Cộng hòa.
Phản đối phe Cộng hòa?
https://thuviensach.vn
Đúng vậy, và cả những người khác cũng thế - cả người thủ thư gốc Asturia và vài người khác nữa. Tôi nghĩ là đa số những người Tây Ban Nha ở Birán đều có quan điểm như vậy, chống phe Cộng hòa. Nhưng cũng còn một nhóm khác, nhóm có García và một vài người Tây Ban Nha, và Valero, cái ông người Cuba phụ trách bưu điện, tất cả đều là người ủng hộ Cộng hòa đến tận lúc chết. Và thỉnh thoảng hai nhóm lại chơi cờ domino cùng nhau - hai bên hai hệ tư tưởng đấu nhau.
Một cuộc chiến domino.
Cả những người ủng hộ và phản đối phe Cộng hòa đều ngồi lại cùng nhau. Hai bên dường như hoán đổi cho nhau trong những ván domino nảy lửa. Hơi giống như trong Don Camilo, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Gureschi [40], giữa vị linh mục và người cộng sản. Khi tôi được nghỉ, hoặc là nghỉ hè hoặc nghỉ Giáng sinh, tôi đều ở nhà khoảng hai tuần, và cả tuần nghỉ trước lễ Phục sinh nữa. Tôi không biết là khi tôi học thì ai đọc báo cho García nữa. Ông ấy lại không có radio - b là người duy nhất có một cái.
Vậy là nhờ ông Manuel Garcia đó mà chắc chắn ông đã theo dõi rất sát tình hình cuộc Nội chiến Tây Ban Nha.
Đúng vậy. Đó lã lý do tại sao tôi nhớ rõ cuộc Nội chiến đến thế, giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ II, khi những tư tưởng cộng hòa và tư tưởng “dân chủ” phương Tây - tôi xin đặt từ “dân chủ” trong dấu ngoặc kép - đang phải đối mặt với những tư tưởng diệt chủng, bá quyền và đế quốc kiểu Đức Quốc xã. “(Tôi nhớ rõ) những gì xảy ra tại Tây Ban Nha khi đó và tại sao phe Cộng hòa thất bại. Tại sao những nước tự xưng là “dân chủ” phương Tây lại có thái độ “không can thiệp” trong khi Mussolini và Hitler can thiệp ngay từ đầu?”. Tất cả những điều đó nghĩa là gì? Điều đó đã góp phần dẫn đến Chiến tranh Thế giới thứ II.
Những trận đánh đầu tiên nổ ra chính tại Tây Ban Nha, và ở đó bạn có thể tìm thấy cả những người cánh tả và cánh hữu, được gọi là những người “Quốc gia” do Hitler và Mussolini hậu thuẫn, rồi cả những người Cộng hòa Tây Ban Nha, phe tả trộn lẫn với “chế độ dân chủ”, mặc dù đó là lực lượng tiến bộ hơn người ta hình dung lúc đó, công bằng hơn, được ủng
https://thuviensach.vn
hộ nhiều hơn, bởi vì những người Cộng hòa Tây Ban Nha đã đấu tranh để bảo vệ cho tư tưởng tiến bộ trong một xã hội còn gần như phong kiến, một xã hội hoàn toàn chưa được công nghiệp hóa, còn sống chủ yếu nhờ nguồn thu nhập bóc lột từ các thuộc địa của mình. Phải nói rằng người Tây Ban Nha là một dân tộc có tính đấu tranh rất cao.
Tại đó, hai phe đã xung đột và bắn lẫn nhau - thậm chí cả các linh mục cũng bị hành hình. Có một số linh mục ủng hộ phe Cộng hòa và một số linh mục - có lẽ là đa số - ủng hộ phe nổi loạn hoặc Quốc gia, tức là lực lượng Franquistas. Vào khi đó, các giáo viên Tây Ban Nha ở trường tôi, tại Santiago, đã nói rất nhiều về cuộc Nội chiến. Xét theo quan điểmtrị thì họ là những người Quốc gia, chúng ta có thể gọi một cách chính xác hơn họ là những người Franquistas - tất cả họ đều thế, không hề có ngoại lệ. Họ bàn tán rất nhiều về sự khủng khiếp của chiến tranh - về những người Quốc gia, thậm chí là cả linh mục bị đưa ra xử bắn. Nhưng họ lại chẳng hề nói gì về những người Cộng hòa bị xử bắn cả. Vì cuộc Nội chiến Tây Ban Nha cực kỳ, cực kỳ đẫm máu, và cả hai phía đều áp dụng chính sách mono dura - bàn tay sắt.
Tôi nhớ là sau khi chiến tranh qua đi, một thầy giáo của tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện rất dài về số tù nhân thuộc phe Cộng hòa bị đưa ra xử bắn tại Tây Ban Nha khi cuộc Nội chiến kết thúc. Hồi đó tôi đang học ở Colegio de Belén, một trường học cũng do những linh mục dòng Tên điều hành ở Havana, và Cha Llorente - ông đã từng làm cứu thương trong chiến tranh - đã kể cho tôi nghe về chuyện sau khi chiến tranh kết thúc hàng chục nghìn người - không ai biết chính xác là bao nhiêu - đã bị xử bắn như thế nào, và ông được phân công vào đội cứu thương với nhiệm vụ kiểm tra các nạn nhân xem họ còn sống hay đã chết trước khi mang đi chôn, ông thường kể cho tôi tất cả những chi tiết mà ông từng chứng kiến. Tất cả đã gây cho ông một ấn tượng khủng khiếp. Có một số giáo chức Công giáo và Thiên Chúa giáo nói chung đứng về phía Cộng hòa, rất ít.
Trên đây là những ký ức của tôi trong giai đoạn đó. Tất nhiên từ đó đến nay tôi đã đọc và nghiên cứu nhiều hơn về chủ đề này, nhưng tôi muốn kể cho ông nghe những gì tôi biết hồi đó.
https://thuviensach.vn
Trận Ebro diễn ra vào năm 1938, nếu tôi nhớ không lầm. Đó là cuộc tấn công cuối cùng của phía Cộng hòa... Đã có nhiều bộ phim về sự kiện này, cả nhiều cuốn sách nữa. Nhưng từ khi tôi mới chỉ khoảng mười tuổi, qua báo chí, tôi đã tự mình thấy được mọi chuyện diễn ra như thế nào.
Ông có nghĩ rằng sự quan tâm đến cuộc Nội chiến ở Tây Ban Nha, ngay từ khi ông còn là một cậu bé như vậy, đã có ảnh hưởng đến sự phát triển của ông không?
Ồ, có chứ. Tầm quan trọng của bối cảnh quốc tế. Nhưng hồi bé con trai ai chẳng thích chiến tranh. Như tất cả mọi người, tôi cũng rất thích phim ảnh, về miền Tây, và hơn nữa tin chúng là thật.
Mặc dù hồi đó các bộ phim đều mang tính phân biệt chủng tộc, rất kỳ thị người da đỏ đúng không?
Chúng tôi tin tất cả những gì các chàng cao bồi làm trong phim. Ý tôi là khi tôi còn là một cậu bé. Sau này, khi lớn lên, gần như trưởng thành, tôi xem chúng như những bộ phim hài - gã cao bồi này giáng cho gã đứng bên kia quầy bar một cú móc nặng như búa tạ, rồi những chai rượu whisky đỏ như máu, tôi nhớ rõ tất cả những chi tiết đó. Những khẩu côn xoay không bao giờ hết đạn, trừ khi cốt truyện bắt chúng cần phải hết đạn đúng lúc đó. Hồi đó chưa có súng máy, nhưng có vô số, vô số cảnh bắn nhau như vãi đạn, và khi ai đó đang bị truy đuổi trên lưng ngựa và hết đạn để bắn trả, anh ta sẽ vươn người lên và túm lấy một cành cây trước mắt.
Bọn con trai chúng tôi đứa nào cũng xem những bộ phim đó. Thật sự thì ngay từ khi mới ra đời các cậu bé đã được làm quen với bạo lực... Do đó khi đọc những tin tức về chiến tranh - làm sao tôi có thể hình dung nổi tất cả những điều xảy ra trên thế giới sau này!
Và sau đó là Chiến tranh thế giới thứ II.
Tôi còn nhớ chính ngày chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ - ngày 1 tháng 9 năm 1939. Hồi đó tôi đã lớn hơn một chút, khoảng 13 tuổi gì đó, và tôi đã đọc tất cả những gì liên quan đến cuộc chiến này: việc chiếm lại vùng Ruhr, sáp nhập nước Áo, chiếm đóng Sudetenland, Hòa ước Molotove Ribbentrop, xâm lược Ba Lan. Tôi chưa hoàn toàn nhận thức được ý nghĩa của các sự kiện, nhưng dần dần khi mọi chuyện diễn ra tôi đã hiểu về chúng
https://thuviensach.vn
hơn.i có thể nhớ những trận đánh quan trọng và các sự kiện xảy ra từ khi Chiến tranh Thế giới thứ II bắt đầu, từ năm 1939 đến năm 1945, khi những quả bom nguyên tử đầu tiên được thả xuống Nhật Bản. Tôi có thể nói rất nhiều về chủ đề này, bởi vì tôi vẫn luôn quan tâm đến nó. Nhưng thậm chí ngay từ trước đó, đã có một cuộc chiến khác ở Ethiopia, khi tôi mới bắt đầu tới trường.
Ông còn nhớ cả cuộc chiến ở Ethiopia?
Vâng, thời ấy người ta còn mua được những cái bánh quy nhỏ có kèm theo quân bài sưu tập về cuộc chiến đó. Nó được gọi là “những người Ý ở Abyssinia”.
Nó được gọi là “Chiến tranh Abyssinia”[41] .
Đúng vậy, hồi đó người ta gọi nó là “Chiến tranh Abyssinia”. Bọn tôi hay đi mua những chiếc bánh bích quy - bọn trẻ con ấy mà - có các quân bài sưu tập về chiến tranh, chỉ trừ có mười hay mười hai cái hầu như không bao giờ xuất hiện. Tôi nghĩ là những quân bài đó thật ra chẳng bao giờ được in cả, người ta cứ làm vậy để bọn trẻ con nài nỉ bố mẹ mua bích quy đến phá sản, khi nào sở hữu được những quân bài đó thì thôi.
Tôi gần như trở thành một chuyên gia về cuộc chiến ở Abyssinia thông qua việc sưu tập và chơi những quán bài đó. Khi ấy tôi đang ở Colegio de La Salle, tại Santiago de Cuba, và tôi học được cách chơi với những quân bài bán kèm với bánh quy; ta chỉ cần dựa chúng vào tường như thế này, dùng ngón tay cái giữ mép quân bài và búng mạnh để chúng liệng đi. Quân bài nào khi rơi xuống mà nằm trên quân bài khác sẽ thắng, và ta có thể giữ lại... Tôi đã học cách đánh dấu trên tường, kiểm tra gió, và tất cả các thủ thuật đại loại - nói chung là tôi chơi ckỹ thuật hẳn hoi, và hình như cũng khá là hiệu quả. Có Chúa mới biết là cuối cùng tôi có bao nhiêu quân bài.
Tôi vẫn còn nhớ màu sắc và hình ảnh trên những quân bài đó... Đứa trẻ nào cũng cố gắng sưu tập cho trọn bộ, nhưng cuối cùng chẳng ai làm được.
Bao giờ cũng thiếu vài quân?
https://thuviensach.vn
Có nhiều quân bài thật ra không bao giờ được in cả, để dụ dỗ trẻ con mua càng nhiều càng tốt, ông biết đấy, kiểu làm ăn của Chủ nghĩa tư bản mà... Tôi nhớ là tôi không hề thấy một bộ sưu tập trọn vẹn nào.
Một hôm có cậu bạn lại gần tôi và khoe là cậu ta có một album rất đẹp về Napoleon Bonaparte. Đó không chỉ là những quân bài trao đổi in trên bìa carton mỏng: những bức vẽ mà cậu ta có được in trên giấy khác, trông rất sắc nét và tinh tế, giống như ảnh thật vậy, và lại là một bộ sưu tập trọn vẹn nữa chứ... Tôi vẫn còn đang để bộ sưu tập này đâu đó. Eusebio Leal [42] mới nhìn thấy nó cách đây không lâu mà. Cậu bạn đó đề nghị đổi tập album cho tôi để lấy những quân bài mà tôi có về chiến tranh Abyssinia. Tôi nhận lời ngay lập tức - tập album đó quả là một báu vật.
Vậy rõ ràng là khi đó ông rất quan tâm đến chiến tranh [43]. Ông phải thấy là ngay chính Kinh thánh cũng đề cập đến rất nhiều sự kiện bi thảm, những cuộc chiến đẫm máu. Ngay từ lớp một, trong môn Lịch sử Thần thánh - hồi ấy ở trường tôi họ gọi môn Lịch sử như thế đấy - chúng tôi đã học về sự trừng phạt Babylon, sự nô dịch của những người Do Thái, sự tích vượt qua Biển Đỏ, Joshua và những cây kèn của ông đã hạ những bức tường thành Jericho như thế nào, Samson và sức mạnh vô đ̔ có thể dùng tay không phá tan một ngôi đền, những Bộ Luật, con bê vàng được tôn thờ như một thần tượng... Tôi đã sử dụng hình ảnh đó trong bài Lịch sủ sẽ bào chữa cho tôi, để thể hiện tư tưởng triết học Xã hội chủ nghĩa. Tôi nói, “Chúng tôi không tin vào những con bê vàng”. Đó là khi tôi tự bào chữa cho mình sau khi tấn công vào trại lính Moncada tại Santiago de Cuba. Hồi đó là năm 1953, và giờ thì chúng ta đang ở đây, nói chuyện về năm 1936. Vào thời gian đó, như tôi nói, tôi mói khoảng mười tuổi.
Nhưng cuộc chiến tranh ở Abyssinia xảy ra trước Nội chiến Tây Ban Nha - thậm chí khi ấy ông còn nhỏ hơn nữa.
Ông nói đúng, cuộc chiến Abyssinia diễn ra sớm hơn một chút. Tôi nghĩ chắc năm đó tôi đang học lớp hai ở Colegio de La Salle. Chắc khi ấy tôi lên chín tuổi thì phải. Nói thật với ông, chính vì quan tâm đến cuộc chiến tranh đó mà tôi đã có một bộ sưu tập hình ảnh về Napoleon, bộ sưu
https://thuviensach.vn
tập này được nhà sử học trong thành phố, người đó cũng biết mọi thứ và tôi cũng thường chia sẻ những câu chuyện của mìrìh, đánh giá rất cao. Màu vàng nhạt của những quân bài khiến tôi nghĩ đó chính là những quân bài mà tôi đã chơi suốt bao năm qua, ngắm nghía không chán mắt những hình ảnh đó và hình dung ra các trận đánh nổi tiếng. Ví dụ như trận Arcole, khi đúng vào thời điểm quyết định nhất Napoleon đã cầm lấy lá cờ băng qua cầu và hô lớn, “Hãy đi theo vị tướng của các người!” Hình ảnh đó gây ấn tượng mạnh mẽ cho bất kỳ cậu bé nào. Còn phải kể đến trận Austerlitz và tất cả những trận đánh khác. Những chương chính trong cuộc đời của Napoleon đều hiện ra qua những hình vẽ. Tất nhiên đó là một nguồn giải trí cực kỳ thú vị, và tôi phát điên lên với vị hoàng đế đó, cũng như tôi phát điên lên vì Hannibal, về Alexander Đại đế và những nhân vật nổi tiếng khác mà các cuốn sách giáo khoa lịch sử ở trường tiểu học viết rất nhiều. Hồi đó, tôi chỉ ước giá như Hannibal chiếm được thành Rome - có lẽ bởi vì sự táo bạo của ông khi dùng voi vượt qua dãy An-pơ, hoặc có thể vì ông là người đứng ở thế yếu. Tôi cũng thích những người Spác-tác và sự kiện họ bảo vệ cổng Thermopylae chỉ với 300 dũng sĩ. Và nói thật với ông, giờ đây tôi tự an ủi mình rằng bộ album về Napoleon của tôi còn giá trị gấp vạn lần bất kỳ bộ phim về Miền Tây hoang dã nào.
Vậy là ông thích các vị tướng, những chiến binh dũng mãnh. Con trai ai cũng thế cả. Như tôi nói, tất cả bắt nguồn từ môn Lịch sử. Trong Kinh Cựu ước cũng đầy chiến tranh và các phần hấp dẫn khác: chiếc thuyền của Noah, cơn Đại hồng thủy, bốn mươi ngày mưa liên tiếp... Thậm chí trong phần Genesis còn nói rằng sau trận đại hồng thủy, Noah đã trồng một giàn nho và làm rượu vang, ông đã uống hơi quá chén và một người con trai của ông đã cười nhạo cha mình nên Noah đã nguyền rủa anh ta! Ông nguyền rủa anh ta trở thành một người nô lệ da đen [44]! Đó là một trong những chi tiết trong Kinh Thánh mà có lẽ bản thân Nhà thờ cũng thấy là cần phải sửa lại, bởi vì nếu không người ta sẽ nghĩ việc người da đen là sự nguyền rủa của Chúa trời... Và việc phải là một người phụ nữ cũng là một lời nguyền rủa, một sự trừng phạt dành cho người phạm tội tổ tông.
https://thuviensach.vn
Ông muốn đề nghị Nhà thờ Công giáo sửa lại điều đó?
Hừm, thật ra tôi không hề yêu cầu Nhà thờ phải thay đổi hay sửa chữa lại những gì thuộc về tín ngưỡng. Nhưng chính cố Giáo hoàng John Paul II, một người dũng cảm và đầy quyết tâm, đã nói rằng thuyết tiến hóa không có gì mâu thuẫn với thuyết sáng thế.
Thỉnh thoảng tôi có trao đổi với các hồng y và giám mục về chủ đề này. Vẫn là hai điểm tôi vừa nói đến. Tôi tin là với sự khôn ngoan của một thể chế đã tồn tại hơn 2000 năm qua, lẽ ra họ phải đóng góp về lý tưởng bình đẳng cho phụ nữ, cần giải phóng cho phụ nữ khỏi cái án đã kết tội họ là nguồn gốc gây ra mọi nỗi khổ cho thế gian này, và rũ bỏ tư tưởng rằng người da đen là sự trừng phạt của Chúa chỉ vì một người con trai của Noah đã giễu cợt cha mình.
Chính ông cũng đã nổi loạn chống lại cha mình, đúng không? À, thật ra tôi không hề nổi loạn chống lại cha mình, khó có thể làm vậy được, vì ông là một người có trái tim cao thượng. Tôi chỉ nổi loạn chống lại sự độc đoán.
Ông không thể chịu nổi sự độc đoán.
Chuyện này có cả một lịch sử lâu dài. Nó không chỉ nổ bùng ra khi tôi khoảng mười hay mười hai tuổi, bởi vì tôi đã bắt đầu trở thành một người nổi loạn từ trước đó rất lâu, có lẽ phải từ sáu hay bảy tuổi gì đó.
Còn những kỷ niệm nào đáng nhớ khác về thời thơ ấu của ông ở Birán?
Tôi còn nhớ rất nhiều chuyện. Và chắc chắn trong đó có nhiều kỷ niệm đã tác động đến tôi rất mạnh mẽ. Nhưng có điều lạ là chuyện chết chóc không hề ghi dấu ấn gì đáng kể đến thời thơ ấu của tôi, mặc dù tôi có mất một người thân là dì Antonia, người qua đời khi sinh con, lúc tôi lên ba tuổi. Tôi còn nhớ không khí buồn bã trong gia đình tôi, cảm giác bi kịch nặng nề của người lớn. Dì là em gái mẹ tôi và kết hôn với một người Tây Ban Nha làm việc cùng cha tôi ở Birán - chú ấy là quản lý một khu vực trồng mía ờ đó. Tên chú ấy là Soto. Tôi nhớ là chúng tôi đã đi bộ dọc theo một con đường đất lầy lội giữa cánh đồng mía, những người phụ nữ khóc lóc mãi, cho đến khi chúng tôi đến một ngôi nhà gỗ nhỏ. Tôi nhớ chuyện
https://thuviensach.vn
đó, nhưng chắc chắn nó không gây được ấn tượng gì mạnh mẽ cho tôi cả vì tôi không hiểu những gì đang diễn ra, tôi hoàn toàn không ý thức gì về cái chết
Tôi còn nhớ cả lần đầu tiên tôi nhìn thấy một đoàn tàu hỏa. Tất cả những gì liên quan đến chiếc đầu máy hơi nước nó thật ấn tượng - từ những chiếc bánh cho đến tiếng động cơ ồn ào, sức mạnh, tiếng còi rúc. Tàu hỏa tới để đưa mía về các nhà máy xử lý. Và hồi đó tôi cứ tưởng chúng là những con quái vật trong cổ tích.
Hồi còn học phổ thông, chắc là khi ấy khoảng bảy hay tám tuổi gì đó, tôi còn nhớ là nghe thấy mọi người nói chuyện về chuyến bay của Barberán và Collar [45]. Hồi đó ở Birán, mọi người thường nói, “Barberán và Collar đã bay tới đây” - họ lại nói hai phi công Tây Ban Nha đã bay qua Đại Tây Dương và đang trên đường tới Mêhicô. Cuối hành trình, hoàn toàn không có tin tức gì của Barberán và Collar cả. Đến tận bây giờ mọi người vẫn còn tranh cãi xem liệu có phải máy bay của họ đã bị rơi hay không, và rơi ở vùng biển giữa Pinar del Río và Mêhicô hay ở Yucatán hoặc noi nào khác. Nhưng tóm lại là không ai nghe nói gì đến họ cả, hai người đàn ông dám bay qua Đại Tây Dương trong một chiếc máy bay sơ khai khi mà ngành hàng không vẫn còn đang trong giai đoạn trứng nước. Họ đã bỏ mạng trong một chiếc máy bay mà tôi không rõ là chở được bao nhiêu nhiên liệu, vì đó là điều duy nhất họ có thể làm hồi đó. Họ cất cánh - quả thật là liều lĩnh khi dám vượt qua Đại Tày Dương - họ cất cánh từ Tây Ban Nha, và tới Cuba; sau đó họ lại cất cánh, nhắm tới Mêhicô, nhưng họ đã không thành công.
Ngay từ khi còn bé xíu tôi đã chứng kiến những trận siêu bão, lốc xoáy. Những trận cuồng phong trong cơn bão, vòi rồng, gió táp khủng khiếp. Thậm chí có lần tôi còn cảm thấy động đất khi tôi mới lên năm hay sáu tuổi gì đó [46]. Ngôi nhà của chúng tôi bắt đầu rung chuyển dữ dội; tất cả đều chao đảo. ít nhiều thì tất cả những hiện tượng tự nhiên đó đều tác động đến tôi.
Vậy còn những yếu tố nào mà ông đánh giá là đã ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của mình?
https://thuviensach.vn
Một chút đặc quyền và một chút may mắn. Tôi là con trai của một chủ đất, chứ không phải cháu nội. Nếu tôi mà là cháu nội trong một gia đình giàu có thì có lẽ tôi đã được sinh ra... tôi đã có một tuổi thơ hoàn toàn quý tộc, và tất cả bạn bè cũng như quá trình nuôi dưỡng thời thơ ấu của tôi sẽ gắn liền với một cám giác về sự ưu việt của mình so với người khác. Nhưng trong thực tế, nơi tôi sinh ra ai cũng nghèo - cùng trang lứa với tôi là con cái của những công nhân trong trang trại và những nông dân cùng khổ khác. Gia đình tôi, nhất là gia đình bên ngoại, cũng rất nghèo, và nhiều anh em họ của bố tôi, từ Galicia đến, và cả gia đình bố tôi ở Galicia còn nghèo hơn thế.
Rõ ràng là điều có ảnh hưởng lớn nhất chính là nơi tôi sinh ra, tôi sống với những con người có xuất thân thấp kém nhất. Tôi nhớ những người thất nghiệp xếp thành hàng dài gần những cánh đồng mía, mà không có ai mang cho họ một hớp nước, một miếng bánh hay bữa trưa nào cả, cũng chẳng ai cho họ nơi che mưa, che nắng, hoặc phương tiện đi lại gì hết. Và tôi không thể nào quên hình ảnh những đứa trẻ đi chân đất. Tất cả những đứa trẻ mà tôi chơi cùng ở Birán, tất cả những đứa trẻ mà tôi lớn lên cùng, chạy nhảy chơi đùa, ở khắp trong vùng, đều nghèo, rất nghèo. Một số đứa nghèo đến nỗi tới bữa trưa tôi lại phải mang cả một bát lớn những thức ăn còn lại của nhà mình ra cho chúng. Tôi thường đi cùng chúng đến bờ sông, cưỡi ngựa hoặc đi bộ, cả lũ chó nhà tôi nữa, chơi trò ném thia lia, bắn chim - một trò thật kinh khủng, nhưng đứa trẻ nào cũng có súng cao su. Nhưng bên cạnh đó, ở Santiago và sau này là ở Havana, tôi còn chơi cả với con cái những gia đình giàu có; chắc chắn là có rất nhiều con nhà chủ trang trại.
Vậy là ông sống cùng với họ.
Đó là con cái của những gia đình có tiền của. Và tất nhiên là tôi kết bạn với họ, chúng tôi chơi cùng, chơi thể thao với nhau, và đủ mọi trò khác. Nhưng chính xác thì tôi không “sống” cùng với họ trong những khu thượng lưu.
Tại trường học, chúng tôi có nhiều thứ trong đầu, chủ yếu là thể thao và học hành, dã ngoại và những chuyện đại loại thế. Tôi choi rất nhiều môn thể thao, và leo núi nữa, hai sở thích lớn nhất. Những người điều hành trường Colegio de La Salle còn có một trang trại ở Santiago, trên một bán
https://thuviensach.vn
đảo mà bây giờ chúng tôi có một nhà máy đường - tên trang trại là Renté. Có cả một bãi biển để bơi; họ đã khoanh bãi biển lại bằng những thân cây dừa, vì đó là một vịnh nhỏ mà, để tạo một khu vực an toàn, vì xung quanh có rất nhiều cá mập, một mối nguy hiểm thực sự, mặc dù không đến nỗi như người ta vẫn nghĩ. Có cả cầu nhảy - bậc thứ nhất, bậc thứ hai, bậc thứ ba... lẽ ra tôi phải là một vận động viên nhảy cầu rồi mói phải, vì tôi nhớ là lần đầu tiên tôi ra đó, tôi đã nhảy xuống từ cầu cao nhất, gần như thách thức những đứa còn lại, ông biết đấy - Có ai dám nhảy từ trên cao như thế này xuống không nào? Và thế là tôi nhảy ùm một cái - mà cũng phải nói là ơn Chúa, chân tôi xuống trước, chứ đầu mà xuống trước thì cũng dở. Cầu nhảy cũng khá cao, nhưng tôi nhảy mà hoàn toàn không lăn tăn gì cả.
Hồi đó ông đã biết bơi rồi chứ?
Tôi biết bơi từ rất sớm, tôi không nhớ là từ năm lên mấy tuổi nữa, tôi đã bơi trong bể và trên sông ở Birán, với những đứa bạn mà tôi vẫn luôn chơi đùa cùng.
Ông muốn nói đến những người bạn, nhũng cậu bé nghèo xuất thân hèn kém?
Đúng, với những người bạn đó. Tôi không hề nhiễm phải văn hóa tư sản. Thật ra bố tôi chỉ là một chủ đất nhà quê. Bố mẹ tôi không mấy khi ra ngoài thăm viếng mọi cũng có rất ít khách khứa. Họ không có lối sinh hoạt và cung cách của một gia đình thượng lưu. Lúc nào họ cũng làm việc luôn chân, luôn tay. Và chúng tôi chỉ tiếp xúc với những người gần đó, quanh vùng Birán.
Trong số những người bạn mà ông chơi cùng, có ai là người da đen không?
Trong gia đình, tôi không bao giờ bị cấm là “Không được chơi với thằng này, thằng kia!”. Không bao giờ. Tôi thường đến những túp lều của người nghèo, những khu lều lán của người Haiti và về nhà tôi cũng bị mắng, nhưng không phải vì lý do phân biệt vị thế xã hội - mà chỉ là vì lý do sức khỏe, vì tôi hay tới đó ăn ngô rang với họ. Bố mẹ tôi thường dọa tống tôi vào Guanajay, một trại cải tạo ở phía tây Havana.
Dành cho những đứa trẻ cứng đầu cứng cổ?
https://thuviensach.vn
Bố mẹ tôi thường bảo, “Chúng ta sẽ gửi con vào Guanajay nếu con còn ăn ngô rang với những người Haiti đó!” Họ dọa như thế mấy lần liền - tất nhiên là vì nhiều lý do khác nhau. Khi tôi bắt đầu nhận thức về thế giới, trong thâm tâm tôi luôn cho rằng ngôi trường tốt nhất mà tôi từng theo học chính là thời thơ ấu sống giữa vùng nông thôn nơi tôi sinh ra. Nông thôn chính là tự do.
Sau này, vì tôi là con trong một gia đình giàu có, tôi lại trở thành nạn nhân của sự bóc lột.
Nạn nhân của sự bóc lột?
Bóc lột.
Theo nghĩa nào cơ?
Rất đơn giản, tôi sẽ giải thích cho ông biết. Không gian thơ ấu của tôi là ngôi trường công ở Birán. Tôi có một chị gái và một anh trai, Angelita và Ramón, đã theo học ở trường đó, và mặc dù chưa đến tuổi đ tôi cũng được đưa tới đó và họ xếp cho tôi một cái bàn ngay phía trên của phòng học. Hồi đó trong lớp có khoảng 25 học sinh, đa phần đều là con em của những gia đình rất nghèo. Tôi vẫn còn nhớ những ngày đó. Tôi không biết tôi đã học đọc, học viết như thế nào, có lẽ là bằng cách bắt chước những đứa trẻ khác, vì họ xếp tôi ngồi ngay bàn đầu.
Khi đó tôi nhớ là, tôi nghĩ là khoảng năm 1930 thì phải...
Nghĩa là ông mói lên 4 tuổi.
Bốn tuổi. Tôi học đọc và nguệch ngoạc viết vài chữ bằng cách nhìn những học sinh khác, và bắt chước theo những gì giáo viên viết bằng phấn trên bảng - và tôi cũng có nhiều trò nghịch ngợm, đúng như con trai của một người chủ đất. Cô giáo lúc nào cũng tới nhà chúng tôi, cô ăn cùng với gia đình. Còn ở trường thì vẫn ăn phạt như thường, thỉnh thoảng là một cái tát hoặc vụt bằng thước kẻ, như tôi còn nhớ. Thậm chí có lần tôi còn phải quỳ, và họ còn đặt vài đồng xu như thế này trong bàn tay xòe ra của học sinh - tất nhiên là không phải họ bắt chúng tôi quỳ như thế suốt ba tiếng đồng hồ, nhưng thậm chí, nhiều lúc họ còn bắt chúng tôi quỳ trên lớp đất rải những hạt ngô.
Bắt học sinh quỳ lên đó?
https://thuviensach.vn
Ồ, đúng thế. Tối còn nhớ như in tất cả những trò “tra tấn” trong trường học đó, mặc dù không phải ngày nào cũng xảy ra. Thật ra đó cũng chi là những biện pháp để khiến chúng tôi phải sợ.
Nói một cách thẳng căng thì đó đúng là tra trấn.
Ngay từ hồi đó tôi đã rất ương bướng rồi, bởi vì, hừm! thật ra có nhiều chuyện rất dài. Nếu ông muốn, tôi sẽ kể cho ông một số chuyện. Tôi sẽ cho ông biết những gì đã khiến tôi trở thành một người nổi loạn. Tôi tự thấy trong tôi nhu cầu rất bức thiết là giải quyết những vấn đề từ khi còn rất nhỏ, và điều đó giúp tôi nhận thức được về sự bất công cũng như những gì đang xảy ra trong thế giới quanh mình. Nhưng thôi, chúng ta sẽ không nói tới điều đó làm gì, chắc ông sẽ không thấy cần quan tâm đâu.
Ồ không, tôi rất quan tâm mà.
Nếu lúc nào ông quan tâm, tôi sẽ kể cho ông nghe một số chuyện. Nhưng tôi sẽ nói thêm về những nhân tố mà theo quan điểm của tôi là chúng ta vẫn đang bàn đến: đó là điều gì đã khiến tôi trở thành một nhà Cách mạng? Những nhân tố nào có ảnh hưởng đến cuộc đời tôi, cho dù xuất thân của tôi là một gia đình chủ đất, và mặc dù trẻ con thường rất ích kỷ và hời hợt, ít người để ý gì đến địa vị xã hội của mình?
Vậy ông là học sinh nhà giàu duy nhất trong ngôi trường nhỏ ở Birán?
Tôi là người duy nhất, tất nhiên là trừ các anh chị tôi, những người lớn tuổi hơn một chút. Trong trường hồi đó không có ai gọi là dư dả một chút, hoặc là chủ sở hữu của thứ gì đáng kể. Bố mẹ chúng đều là những lao động công nhật, những người lính canh, hoặc có khi chỉ sở hữu một mảnh đất bé tí. Học sinh ở đó tất thảy đều là con của những người cực kỳ nghèo khổ.
Vậy đó có phải lý do bố mẹ ông quyết định gửi ông tới Santiago, để ông có thể giao du với những đứa trẻ thuộc tầng lớp xã hội khác? Không, tôi không nghĩ là bố mẹ tôi đã nghĩ thế. Bố mẹ tôi đã làm gì với tôi à? Năm tôi lên sáu, họ gửi tôi tới Santiago de Cuba, với lý do, mà chủ yếu do cô giáo nghĩ ra, rằng tôi là “một cậu bé cực kỳ thông minh”. Bố mẹ tôi đã quyết định nhờ người giáo viên ở Birán, tên là Eufrasia Feliu, đưa
https://thuviensach.vn
chị gái cả của chúng tôi, Angelita, hơn tôi ba tuổi bốn tháng, tới nhà cô ấy ở Santiago. Nếu hồi đó tôi lên sáu thì chị ấy cũng phải 9 hay 10 tuổi gì đó. Và thế là chị ấy được đưới Santiago, bố mẹ tôi cũng tống tôi đi cùng: sẽ rất tốt cho muchachito (thằng nhóc) nếu nó cũng đến Santiago, để học hành tốt hơn trong nhà của cô giáo. Ý tưởng đó khiến tôi vô cùng phấn chấn - tôi rất tò mò nơi đó như thế nào, và thế là tôi lên đường không kịp suy nghĩ gì cả.
Santiago đã tạo ra được ấn tuợng như thế nào đối với ông, một cậu bé vừa từ nông thôn ra?
Thời đó Santiago vẫn chỉ là một thành phố rất nhỏ, nếu so với chính nó bây giờ, nhưng ấn tượng mà nó tạo ra với tôi phải nói là cực kỳ to lớn. Trong mắt tôi nó là một thành phố khổng lồ. Một ấn tượng rất mạnh mẽ, giống như năm tôi lên 16 tuổi và lân đầu tiên nhìn thấy Havana, thủ đô của nước Cộng hòa. Tại Havana này, tôi đã thấy những ngôi nhà rất to, những tòa nhà 4-5 tầng mà đối với tôi là rất vĩ đại. Thành phố Santiago mà tôi biết trước đó chỉ toàn những ngôi nhà nhỏ, một tầng, những tòa nhà nhiều tầng là rất hiếm hoi. Vì thế khi tôi tới Havana, nó cũng tạo cho tôi một ấn tượng hết sức mạnh mẽ.
Nhưng cũng phải nói là khi tôi tới Santiago năm lên sáu tuối, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy đại dương. Tôi đến từ vùng nông thôn, giữa khu đồi núi nằm sâu trong đất liền. Và giờ đây lần đầu tiên tôi được nhìn thấy biển qua cửa vịnh Santiago, tôi đã bàng hoàng không nói lên lời.
Ngôi nhà của cô giáo ông ở Santiago trông thế nào?
Đó là một ngôi nhà gỗ trên đồi Intendente, thuộc hạt El Tívoli, một hạt tương đối nghèo... Và đó là một ngôi nhà chật chội, ẩm thấp, trong đó có một phòng khách bé tí xíu kê một chiếc đàn piano, hai phòng ngủ, một phòng tắm, và hàng hiên trông ra dãy núi Sierra Maestra rất đẹp và, ngay s đó, Vịnh Santiago.
Ngôi nhà nhỏ, với mái nhà và các bức tường bằng ván gỗ bạc phếch, thủng dột lỗ chỗ, trông ra một quảng trường nhỏ, thật ra chỉ là một bãi đất trống, chẳng có cây cối gì. Bên cạnh là một dãy nhà một phòng. Rồi ở khu tiếp theo có một cửa hàng bách hóa nhỏ bán kẹo dừa, nấu bằng đường nâu. Trước cửa ngôi nhà, phía bên kia quảng trường, tôi nhớ là có một ngôi nhà
https://thuviensach.vn
rất lớn thuộc về Yidi, Yidi người Ma-rốc, họ vẫn gọi ông ta thế, một người vô cùng giàu có. Và phía sau ngôi nhà là một “học viện”, hồi đó người ta gọi thế, nhưng thật ra chỉ là một trường trung học. Tôi đã trải qua những ngày rất quan trọng ở đây. Tôi nhớ là ngôi trường đó có thời gian bị binh lính chiếm đóng, vì các sinh viên đều nổi dậy chống Machado [47]. Tôi còn nhớ một chi tiết mà tôi đã chứng kiến tại trường trung học này khi nó đang bị chiếm đóng - bọn lính lấy báng súng đánh túi bụi một người dân; tôi nghĩ có lẽ ông ta đã nói gì đó với bọn chúng. Tôi nhớ những cảnh đó rất rõ, bởi vì chúng tôi sống ngay bên cạnh và chứng kiến tất cả.
Không khí căng thẳng bao trùm khắp nơi; bọn lính giữ tất cả những người đi qua. Người thợ máy ở Bírán, tên ông ta là Antonia, cũng bị chúng bắt vào thời gian đó. Sau này tôi mới biết là ông ta bị bắt vì chúng nghi ông ta là Cộng sản. Tôi nhớ là vợ ông ta vào tù thăm chồng và đưa tôi đi cùng, dù tôi còn bé tí. Nhà tù ở cuối phố Alameda ở Santiago, một nơi tối tăm và u ám, với những bức tường mốc meo, hôi hám và bẩn thỉu. Tôi vẫn còn rùng mình khi nhớ lại những tên cai ngục, những song sắt, ánh mắt của những người tù...
Trong ngôi nhà nhỏ ở Santiago nơi tôi sống, cứ trời mưa là lại bị dột và tất cả đều ướt nhoét. Trong nhà trời còn mưa hơn cả bên ngoài. Mọi người phải lấy hết cả xô và chậu ra để hứng nước. Trong nhà ẩm ướt khủng khiếp. Tôi và chị gái tôi đã ở đó. Ông ố già của cô giáo sống trong một căn phòng nhỏ với chiếc giường cũ ọp ẹp, tên ông ấy là Nestor thì phải, còn phòng bên là chị gái của cô giáo, tên là Belén, một nghệ sĩ piano. Cô ấy là một nghệ sĩ piano và là một người tao nhã, vậy mà chẳng có lấy một học sinh nào cả.
Ở đó có điện không?
Có, hồi đó có điện rồi, nhưng cũng chẳng mấy khi dùng đến. Ngôi nhà chủ yếu được thắp sáng bằng đèn dầu, có lẽ vì dầu rẻ hơn. Vậy là có tất cả bao nhiêu người sống trong ngôi nhà đó? Ban đầu là có ba chị em gái, tôi nghĩ bố mẹ họ là người Haiti; tôi không chắc là ba chị em họ học ở Pháp hay ở Haiti. Họ là người lai (giữa
https://thuviensach.vn
người Tây Ban Nha, hoặc Bồ Đào Nha, với thổ dân châu Mỹ - ND). Một người là giáo viên tiểu học, một người là giáo viên dạy piano, người còn lại bác sĩ, nhưng khi chúng tôi đến thì cô ấy vừa mới qua đời. Hai chị em cô giáo tôi sống cùng cha mình, Nestor, vợ ông ấy cũng mất lâu rồi. Sau đó có thêm chị em tôi - vậy là có năm người, tính cả cô giáo, bình thường cô vẫn dạy ở Birán và chỉ về nhà vào kỳ nghỉ. Sau đó còn có một cô gái nông dân nghèo, una guajirita[48], tên là Esmerida được đưa vào làm người giúp việc, cô ấy chẳng bao giờ được trả công một xu nào cả. Vậy là thành sáu người. Về sau, anh thứ hai của tôi là Ramón đến, tôi thuyết phục anh ấy ở lại, có nghĩa là có tới 7 người mỗi khi cô giáo về nhà. Và cả 5 hay 6 hay 7 người chúng tôi ăn ở cùng một cantinita[49].
Đó là vào thời kỳ nào nhỉ?
Đó là giai đoạn độc tài của Machado, mà người ta gọi là Machadato. Hồi đó nạn đói lan khắp cả nước. Machado bị lật đổ, chủ yếu là vì nạn đói, vì tình hình khi ấy thật tồi tệ, ngoài khủng hoảng kinh tế bắt đầu diễn ra từ năm 1929, Mỹ còn áp đặt lên đất nước chúng tôi một thỏa thuận thương mại ngay từ những năm đầu tiên của nền cộng hòa phụ thuộc - thỏa thuận này cấm chúng tôi không được sản xuất nhiều thứ, và thay vào đó phải nhập chúng từ Mỹ sang.
Mặc dù khi đó Mỹ mua đường của chúng tôi, nhưng khi khủng hoảng năm 1929 xảy ra họ cũng áp đặt thuế nhập khẩu rất cao đối với mặt hàng này. Khiến cho lượng đường được xuất khẩu của Cuba khi đó rất hạn chế, trong khi giá bán đã xuống đến mức thấp nhất. Tóm lại là nền kinh tế khi ấy cực kỳ tồi tệ, nạn đói lan tràn khắp Cuba.
Đó là thời kỳ khủng hoảng kinh tế đi kèm với đàn áp chính trị. Machado đã bắt đầu nhiệm kỳ của mình với mức độ ủng hộ nhất định của người dân vì những chính sách mang hơi hướng dân tộc mà ông ta thực hiện, và ông ta còn cho xây dựng những công trình công cộng, một số nhà máy, nhưng dù thế nào đi nữa ông ta vẫn là một nhà độc tài, và chỉ sau một thời gian ngắn chế độ của ông ta trở nên khát máu. Một trong những ví dụ tiêu biểu là sự đàn áp đối với sinh viên. Mà cụ thể là trường hợp của Julio
https://thuviensach.vn
Antonia Mella, người đã sáng lập Mặt trận Sinh viên Đại học (FEU) và Đảng Cộng sản, khi mới, như tôi nhớ, hai mươi hai mốt tuổi gì đó [50]. Mella là một biểu tượng cho các sinh viên, công nhân và nhân dân nói chung, noi theo. Sau này ông đã bị ám sát ở Mêhicô theo lệnh của Machado.
Mella là một thanh niên cực kỳ xuất chúng và trưởng thành sớm, một trong những nhân vật nổi bật sau Marti. Thậm chí ông còn nói về việc thành lập một “đại học công nhân”, một ý tưởng tuyệt vời. Vào thời kỳ đó, các sinh viên thường tới trường đại học để nghe ông nói về lịch sử và những vị anh hùng của mình. Tất nhiên ở thời điểm đó, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại vừa mới diễn ra thành công, năm 1917, và Mella, rõ ràng là chịu ảnh hưởng của tinh thần cấp tiến của cuộc cách mạng đó, đã sáng lập nên Đảng Cộng sản. Mella cũng chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Marti nữa. Mella là một người rất tán thành Marti và nhiệt thành ủng hộ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Chắc chắn đó là những yếu tố tác động rất lớn đến việc ông cùng với Carlos Balino, một người Mác xít và cũng là bạn chiến đấu của Marti, thành lập nên Đảng Cộng sản đầu tiên ở Cuba.
Machado bị lật đổ năm 1933, đúng không?
Đúng vậy. Machado bị lật đổ trong cuộc nổi dậy năm 1933, vào tháng 8, và sau đó, vào tháng 9, thì nổ ra cuộc “Binh biến của các hạ sĩ quan”. Năm đó tôi vừa mới lên bảy tuổi. Vụ binh biến của các trung sĩ ban đầu chỉ tỏ ra là hành động nổi loạn chống lại các sĩ quan thân tín của Machado. Vì vậy vào thời điểm đó, mọi người đều nổi dậy từ khắp các tổ chức bí mật khác nhau, một số trong đó là những tổ chức cánh tả, trong khi những tổ chức ít nhiều chịu ảnh hưởng của các tư tưởng cánh hữu, thậm chí là cả những tư tưởng phát xít của Mussolini, tóm lại là mỗi thứ một ít.
Trong khuôn khổ cộng đồng các trường đại học, có nhiều sinh viên - họ đã thành lập cả một Tổng hội - những người đã từng tham gia đấu tranh chống chế độ độc tài, phải chịu sự đàn áp rất dã man, thậm chí cả những giáo sư rất nổi tiếng cũng tham gia phong trào. Và trong một nhóm hoạt động tích cực như vậy có Giáo sư Sinh vật học Ramón Grau San Martin
https://thuviensach.vn
[51], người được đề cử và cuối cùng đã trở thành Tổng thống Cuba. Trong Chính phủ của ông này, được thành lập sau phong trào ngày 4 tháng 9, ba tuần sau sự sụp đổ của Machado, Antonio Guiteras [52] đ được cử giữ chức Quốc vụ khanh. Guiteras là một thanh niên can đảm và táo bạo từng tham gia cuộc nổi dậy, người đã chỉ huy đánh chiếm một doanh trại quân đội ở San Luis, tỉnh Oriente, và luôn kiên định con đường đấu tranh vũ trang chống chế độ độc tài của Machado.
Antonio Guiteras
Guiteras kiên trì hành động theo luật pháp, ông tịch thu cho sung công Công ty điện thoại và những doanh nghiệp khác của Mỹ, một hành động chưa từng thấy ở Cuba, ông còn thông qua những luật quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các tập đoàn, hiệp hội, quy định ngày làm việc 8 tiếng - một loạt những biện pháp tiến bộ rất đặc trưng của Chính phủ thời kỳ đó.
Một trong những biện pháp như vậy, mặc dù xuất phát từ ý tưởng rất tốt nhưng hóa ra lại không hoàn toàn thỏa đáng, mang tên Đạo luật Ưu tiên Lao động trong nước, cuối cùng đã dẫn tới hệ quả là rất nhiều người Haiti đã bị trục xuất thô bạo ra khỏi Cuba, mặc dù đây không phải mục đích chính của đạo luật này. Chính phủ mới, với thành viên mạnh mẽ nhất, kiên định và có nhiều ảnh hưởng nhất chính là Antonia Guiteras, đã thông qua Đạo luật Ưu tiên lao động trong nước nhằm bảo vệ những người công nhân Cuba không bị giới chủ người Tây Ban Nha tại Cuba đuổi việc để lấy chỗ cho người thân từ Tây Ban Nha sang.
Ban đầu đó là một Chính phủ gồm năm nhà lãnh đạo, về sau quyền lực được chuyển giao tập trung vào Giáo sư Grau San Martin khi ông này lên làm Tổng thống. Chính phủ kéo dài được ba tháng, trùng với thời gian đạo luật trên và một số luật khác có lợi cho nhân dân Cuba được thông qua, nhưng sau đó người Mỹ, thông qua Đại sứ Mỹ tại Cuba là Summer Welles, đã bắt đầu hậu thuẫn Batista, bất chấp thực tế rằng Tổng thống Mỹ khi đó không phải ai khác mà chính là Franklin Delano Roosevelt, người đang thúc đẩy “chính sách láng giềng tốtchâu Mỹ Latinh.
https://thuviensach.vn
Bất chấp đặc điểm và bản chất của hệ thống chính trị tại (Mỹ) - quốc gia khi đó đang trở thành một nước đế quốc hùng mạnh, cùng với Anh và Pháp, mặc dù đang bị sa lầy vào một cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô toàn thế giới khiến người dân Mỹ phải chịu ảnh hưởng rất nặng nề - cá nhân tôi vẫn nghĩ rằng Roosevelt là một trong những chính khách vĩ đại nhất mà quốc gia láng giềng phía bắc của chúng tôi từng có. Ngay từ hồi còn là học sinh trung học tôi đã rất yêu quý và ngưỡng mộ ông ấy. Một vị Tổng thống tàn tật. Giọng nói trầm ấm của ông ấy trong các bài phát biểu thật sự đi vào lòng người.
Roosevelt, người có thể đã rất ngưỡng mộ tinh thần quả cảm và sôi nổi của nhân dân Cuba, và rõ ràng là rất muốn củng cố quan hệ tốt hơn với châu Mỹ Latinh vì nhiều lý do trong đó một phần là vì ông nhận ra tương lai bất ổn của thế giới trước viễn cảnh Hitler lên nắm quyền, đã có công trong việc ngừng áp dụng Tu chính án Platt [53]và đã đề xuất xây dựng thỏa thuận có tên gọi Hiệp ước Hay-Quesada, theo đó Mỹ trao trả lại cho Cuba đảo Isla de Pinos - tức đảo Isla de Juventud ngày nay - mà hồi đó đã bị chiếm đóng và tương lai của hòn đảo chưa được xác định một cách rõ ràng [54].
Vậy là khi đó hòn đảo đã bị quân đội Mỹ chiếm đóng?
Mỹ đã chiếm đóng đảo Isla de Pinos từ năm 1898.
Vậy là Chính phủ Cộng hòa Cuba khi đó không hề quản lý hòn đảo?
Không. Nó đã thuộc về quyền sở hữu của người Mỹ kể từ khi Tu chính án Platt được thông qua. Nên sau đó phải nói là nó được Cuba thu hồi, nhưuantánamo hiện vẫn thuộc về người Mỹ. Tu chính án Platt cho phép Mỹ, theo quy định của Luật Hiến pháp, có quyền can thiệp vào tất cả các vấn đề nội bộ của Cuba.
Tu chính án đó được ký năm 1902.
Tôi nhớ là nó được áp dụng từ năm 1901 và mãi đến năm 1934 mói bị bãi bỏ; tôi không nhớ ngày chính xác.
https://thuviensach.vn
Như tôi đã nói Chính phủ Guiteras chỉ tồn tại trong vòng có ba tháng. Sau đó, vào năm 1934, Fulgencio Batista đã quét họ ra khỏi bộ máy quyền lực. Antonio Guiteras bị ám sát năm 1935, khi ông tìm cách sang Mêhicô để chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống Batista, giống như Mella đã làm trước đó và chúng tôi sẽ làm sau này.
Trong giai đoạn của Chính phủ Cách mạng năm 1933 vẫn có một số cuộc giao tranh, vài cuộc xung đột và giao tranh, một cuộc xảy ra ngay tại khách sạn Nacional ở Havana, nơi mà một nhóm sĩ quan quân đội ủng hộ chế độ Machado bị lật đổ trước đó chọn làm nơi cố thủ, trong số này có những tên được huấn luyện rất bài bản, những thiện xạ thực thụ. Cuối cùng toàn bộ số này đều bị các binh lính dưới quyền lực lượng hạ sĩ quan tiêu diệt, nhưng trước đó thì chúng chống cự rất quyết liệt.
Còn phải kể đến lực lượng ABC, một nhóm trước đó từng chống Machado, nhóm này có quan điểm cực kỳ phát xít, họ đã khởi xướng một cuộc nổi dậy, chiếm đóng các đồn cảnh sát, tham gia giao tranh chỗ này chỗ kia, và cuộc đọ súng cuối cùng diễn ra ở ngay pháo đài cũ tại Atares. Tất cả đều nhằm chống lại Chính phủ tiến bộ và chống lại những luật mà Guiteras khởi xướng.
Batista đã giành được quyền kiểm soát toàn bộ quân đội. Cuối cùng nó lại trở thành quân đội của riêng ông ta. Sau đó, dưới sức ép của Đại sứ Mỹ, ông ta phải rời bỏ Chính phủ và bổ nhiệm một Tổng thống khác. Batista được thăng lên quân hàm Đại tá, những hạ sĩ quan khác được Batista phong quân h Trung tá, không có quân hàm Tướng. Một số sĩ quan cấp thấp khác và tất cả các hạ sĩ quan đều được Batista phong lên Trung úy, Đại úy, comandante, Trung tá... Theo tôi nhớ thì chỉ có một Đại tá duy nhất, là người đứng đầu quân đội, Fulgencio Batista.
Sự kiện này diễn ra năm 1934. Batista nắm quyền khoảng bảy năm, cho đến khi một Đại hội đồng lập hiến được thành lập năm 1940. Suốt thời gian đó, tôi ở Santiago, ban đầu là ở nhà cô giáo, sau đó là tại Colegio de La Salle, và sau chuyển đến Colegio de Dolores, với các thầy giáo dòng Tên. Tới năm 1942 thì tôi chuyển đến trường Colegio de Belén ở Havana, đây cũng là một trường học dòng Tên, mà tôi đã nói với ông, một ngôi trường
https://thuviensach.vn
nổi tiếng là tốt nhất nước. Tôi tốt nghiệp phổ thông tại trường Belén năm 1945.
Đó là những gì tôi có thể chia sẻ với ông về những năm tháng đầu tiên trong cuộc đời mình.
https://thuviensach.vn
SỰ XUẤT HIỆN CỦA MỘT NGƯỜI NỔI LOẠN
Những hành động nổi loạn đầu tiên - “Ngôi nhà đói khát” - Không khí chính trị -Sự độc tài của Machado và Batista - Trong khó khăn - Havana - Colegio de Belén
Khi đó những năm tháng hình thành nhân cách của ông lại trùng với hai giai đoạn bi thảm: thời kỳ độc tài đầu tiên của Fulgencio Batista, và Chiến tranh thế giới thứ I
Rõ ràng là tất cả những yếu tố đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự giáo dục và hình thành nhân cách của tôi, và đặc biệt là đối với sự hình thành cũng như phát triển của các lực lượng chính trị và cách mạng (khắp nơi trên thế giới). Bởi vì về cuối những năm 30 của thế kỷ 20, khái niệm “Mặt trận bình dân” đã xuất hiện. Nhưng lúc này tôi chưa muốn nói về điều đó.
Việc học hành của ông tại nhà cô giáo khi ấy nh thế nào? Họ chẳng dạy dỗ gì tôi cả, tôi không bao giờ được học một bài nào. Họ cũng chẳng đưa tôi đến trường học nào hết. Tôi cứ ở đó thôi. Thậm chí trong nhà còn không có cái đài nào. Thứ duy nhất tôi được nghe là tiếng đàn piano, suốt ngày đồ, rê, mi, pha, son, la, si, bang, bang, bang. Ông có hình dung được không, mấy tiếng một ngày phải nghe tiếng đàn piano đó? Kể cũng lạ là cuối cùng tôi lại không trở thành nhạc sĩ.
Theo sắp xếp ban đầu thì người chị của cô giáo tôi, người dạy piano ấy, sẽ dạy tôi chương trình lớp một và tiểu học; trong thực tế tôi chẳng được học hành gì cả. Ông bạn ạ, nếu tôi mà bắt đầu câu chuyện đó thì có lẽ chẳng bao giờ kể xong cả. Nếu ông muốn thì để sau tôi sẽ kể cho ông nghe, và tôi sẽ cho ông biết tôi đã được học cộng, trừ, nhân, chia như thế nào, chính xác là hoàn toàn tự học, từ mặt sau của một cái bảng tập viết, một quyển vở học sinh có bìa đỏ, và mặt sau là các bảng cộng, trừ, nhân, chia in sẵn. Tôi tự ngồi học một mình, học thuộc lòng những gì in trên đó, vậy đó, đó là cách
https://thuviensach.vn
tôi bắt đầu môn số học; và cũng là tất cả những gì tôi được học. Vì thậm chí cả những cái cơ bản đó họ cũng có dạy cho tôi đâu. Ở nhà cô giáo khi ấy, học có nghĩa là tôi tự ngồi xuống bàn và học thuộc những cái bảng ở mặt sau một quyển sách bài tập. Sự thật là tôi đã bỏ phí hai năm liền trong ngôi nhà đó.
Khi đó ông còn bé, nên chắc hẳn ông đã rất nhớ
Bố mẹ đã gửi tôi tới một nơi mà hầu như tôi chẳng được học hành gì cả, rồi còn phải trải qua đủ các loại khó khăn. Tôi còn bị bỏ đói, lúc nào cũng thấy đói ngấu, mà không hề biết rằng đó là do đói, tôi chỉ nghĩ là vì mình ăn ngon miệng quá.
Thật không thể tin nổi.
Có nhiều chuyện hệ trọng đã xảy ra. Đó chính là nơi tôi đã nổi loạn lần đầu tiên, từ rất sớm, có lẽ khi ấy tôi mói chỉ lên tám tuổi. Đến lúc đó tôi không còn sống ở nơi tôi học nữa, vì câu chuyện này có hai phần...
Với những gì phải trải qua, ông có thấy oán trách bố mẹ không? Không, tôi yêu quý bố mẹ, hoặc ít nhất cũng luôn kính trọng họ, cả bố và mẹ tôi. Nhưng tôi bày tỏ tình cảm với mẹ nhiều hơn, đó cũng là chuyện thường tình, con cái thường gần gũi mẹ.
Cho dù họ đã gửi ông vào trường nội trú với cô giáo đó ở Santiago? Trường nội trú ư? Như thế đâu phải là đến trường! Trong thực tế tôi bị tống đi lưu đày, trong cảnh đói khát, đến nỗi không phân biệt nổi cơn đói và cảm giác ngon miệng nữa.
Ông oán trách ai về điều đó?
Thực sự tôi không thể oán trách bố mẹ mình, hay bất kỳ ai. Nói thực lòng thì ban đầu tôi không biết những gì đang diễn ra trong thế giới quanh mình. Tôi chưa thể hiểu và đánh giá được hoàn cảnh. Tất cả những gì tôi biết là đang rất hạnh phúc ở Birán và rồi đùng một cái họ đưa tôi tới một nơi hoàn toàn xa lạ, xa gia đình, xa nhà, xa vùng quê mà tôi yêu quý. Để phải chịu cảch đối xử tàn tệ của những người không phải họ hàng, ruột thịt của tôi.
Ông có bạn chơi chứ?
https://thuviensach.vn
Có, cũng may là tôi có một người bạn tên là Gabrielito, Gabrielito Palau. Bố mẹ cậu ta là chủ một vài cơ sở kinh doanh gì đó, cho nên vẻ mặt tài chính họ có vẻ khá giả hơn, cả gia đình họ sống trong một ngôi nhà khá tươm tất nằm ngay bên cạnh Quảng trường. Cậu ấy và tôi cùng với một vài người bạn khác thường chơi đùa tại đó, trên những hè phố gần Quảng trường. Cậu ta sống ở đó một thời gian dài, mãi cho tới tận sau khi Cách mạng thành công, làm việc trong Đài Truyền hình. Và như tôi biết thì ngay đến tận lúc này cậu ấy vẫn còn làm việc trong ngành truyền hình thì phải. Đã lâu lắm rồi tôi không biết tin tức gì của người bạn đó.
Nhưng ngoài những lúc chơi đùa đó ra, khoảng thời gian còn lại thật khó khăn. Và chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã trở nên phát ốm với cuộc sống đó, ngôi nhà đó, gia đình đó, cùng những quy tắc của họ. Đó hoàn toàn là phản ứng mang tính bản năng của một con thú nhỏ bị đối xử tàn tệ.
Những quy tắc như thế nào?
Gia đình đó có cung cách giáo dục theo kiểu Pháp. Họ nói tiếng Pháp rất chuẩn, và nói chung thì họ đều được giáo dục rất bài bản. Ngay từ khi mói đến họ đã dạy cho tôi tất cả những quy tắc ấy, những quy tắc xã giao. Nào là phải nói năng lịch sự, không được nói cao giọng, không được nói trống không. Thỉnh thoảng họ cũng cho tôi vài cái phát vào mông để uốn nắn tôi theo ý họ. Và nếu tôi không ngoan, họ dọa sẽ tống tôi vào sống trong trường, tức là trường Colegio de La Salle, noi mà cuối cùng tôi cũng được đưa vào học lớp một. Xét đi xét lại thì họ đã khiến tôi bỏ phí mất hai năm đầu tiên đi học. Ngày nay mà ở tuổi đó thì trẻ em ở Cuba đã phải học lớp ba rồi.
Vậy nói theo cách nào đó thì ông từng là một đứa bé bị ngược đãi. Đúng, mọi chuyện thật kinh khủng. Trong những tháng đầu tiên, thậm chí tôi còn phải tự khâu lấy giầy của mình, ông có thể tưởng tượng cảnh tôi đã bị họ mắng nhiếc tàn tệ vì tôi làm gãy một cái kim - chỉ là kim khâu vải bình thường thôi chứ không phải kim khâu da... Giầy của tôi bị há mõm vì sứt chỉ một bên. Trông nó như sắp toác hẳn ra đến nơi. Nên tôi tìm cách khâu lại, và cũng không phải là lần đầu tiên. Tôi dùng loại chỉ khâu bình thường, tất nhiên là quá mảnh, nhưng không thể kiếm đâu ra chỉ to hơn. Tôi
https://thuviensach.vn
gặp rắc rối chính vì việc đó. Tôi chưa bao giờ quen đi chân đất cả, thể là tôi nghĩ rất tự nhiên rằng tôi phải khâu lại đôi giầy sắp hỏng. Tôi không nhớ là cuộc cãi vã đó diễn ra như thế nào nữa. Nhưng cuối cùng thì cũng đâu vào đấy.
Tất nhiên tôi không hề muốn cường điệu hóa sự việc làm gì - đó cũng không hoàn toàn là một trại tập trung. Hơn nữa hoàn cảnh của họ cũng rất đáng thông cảm: gia đình cô giáo rất nghèo. Họ chủ yếu sống bằng lương của cô ấy; và đó là tất cả những gì họ có. Mà Chính phủ thời đó nhiều khi còn không trả lương cho giáo viên nữa cơ. Tất nhiên, thực tế đó khiến cuộc sống của họ trở nên rất bấp bênh và họ cũng chẳng có hơi đâu mà quan tâm nhiều đến một đứa bé như tôi. Ngay cả việc tiêu từng xu nhỏ thôi cũng là một vấn đề sống còn trong gia đình đó.
Ông nói là hồi ở đó ông thường xuyên bị đói.
Đúng là ở đó lúc nào tôi cũng đói. Hồi còn ở Birán, lúc nào bố mẹ tôi cũng ép tôi ăn, còn ở Santiago tôi thấy thèm ăn khủng khiếp. Đột nhiên tôi phát hiện ra là ăn cơm rất ngon, và thỉnh thoảng họ còn phải độn cả khoai lang vào trong cơm, hoặc là một chút picadillo [55]- tôi cũng không thể nhớ là có bao giờ tôi được ăn bánh mì không nữa - nhưng lúc nào cũng vậy, vẫn chỉ có ngần ấy thức ăn ít ỏi, ngày này sang ngày khác, cho sáu bảy người, ăn trong cả bữa trưa đến bữa tối - thức ăn được mang tới từ bữa trưa. Thức ăn được mang đến từ nhà của một trong những người anh chị em họ của cô giáo người mà họ gọi là Cosita, “Bé bự”, hay “Bé yêu” gì đó. Trong khi bà ta béo ục ịch, tôi không biết tại sao họ lại gọi bà ấy là Cosita; có một điều rõ ràng là một mình bà ấy ăn hết thức ăn của tất cả những người khác. Việc nấu nướng được thực hiện tại nhà bà ấy, và một người chị em họ khác, tên là Marcial - có ai mà quên nổi cái tên đó chứ! - sẽ mang đến một cái catinita nhỏ, trong đó sẽ bao gồm một ít cơm, ít đậu, khoai lang, chuối, và họa hoằn lắm có một ít picadillo, như tôi đã nói, rồi chia cho tất cả mọi người. Tôi nhớ là tôi phải hì hục dùng cạnh dĩa để vét nốt hạt cơm cuối cùng trên đĩa của mình.
https://thuviensach.vn
Nếu mọi chuyện quả thật là khủng khiếp như vậy, thì tại sao anh trai ông, Ramón, lại cũng được đua tới ngôi nhà đó?
Bởi vì một hôm Ramón xuất hiện ở Santiago, tôi cũng không biết tại sao nữa, và anh ấy mang cho tôi một cái túi nhỏ bằng da để đựng tiền xu, trong đó có vài đồng peseta (mỗi peseta là hai mươi xu), và đồng reale (mỗi đồng là mười xu), vài đồng năm xu, và thậm chí cả một đồng một xu. Vào thời đó, một que kem [56] giá một xu , một chiếc kẹo dừa, một xu. Tôi luôn ghen tị với những đứa tré khác - trẻ con đứa nào chẳng ích kỷ như vậy - vì những đứa trẻ hàng xóm của tôi khi ấy, dù rất nghèo, nhưng vẫn có hai ba xu trong túi. Nhưng vì những người đang nuôi dạy tôi khi ấy lại áp dụng cách nuôi dạy kiểu Pháp rất cứng nhắc - đùng một cái tôi được dạy theo lối Pháp mà cô giáo và chị gái cô ấy vẫn được thụ hưởng, rồi họ giải thích với tôi rằng đòi hỏi hay xin xỏ này nọ là một hành động rất xấu. Bọn trẻ hàng xóm biết tôi phải tuân thủ ngặt nghèo những quy định đó, và tôi không được hỏi xin bất kỳ thứ gì, vì vậy mỗi khi đứa nào trong bọn chúng mà có một que kem hay chiếc kẹoiền nào đó, nếu tôi chỉ cần hỏi xin được cắn một miếng thôi là chúng cũng chạy đi mách tội tôi với cô giáo và chị cô ấy.
Tôi nhớ một hôm tôi hỏi xin chị cô giáo một xu - thật ra cô ấy là người tốt, rất tốt là khác, nhưng nghèo túng quá. Tôi không bao giờ quên là cô ấy đã bực bội, cáu kỉnh với tôi đến mức khi cô ấy quát lên rằng, “Cô đã cho cháu 82 xu rồi còn gì!”. Đúng là như vậy thật, và cô ấy nhất định không chịu cho thêm - và thế là từ đó trở đi tôi không bao giờ dám hỏi xin cô ấy một xu nào nữa.
Khi Ramón đến thăm tôi vài tháng sau đó, với tất cả khoản vốn liếng mà anh ấy có trong chiếc túi, một chiếc túi đựng đầy tiền xu, tôi đã coi đó như một kho báu kếch sù - tôi hình dung ngay ra cảnh chúng được chuyển thành kem và kẹo! - thế là tôi thuyết phục anh ấy ở lại, cố làm anh ấy tin rằng ở đây chúng tôi có rất nhiều trò vui. Và thực tế là khi làm như vậy, tôi càng khiến cho tình cảnh nghèo đói trong ngôi nhà đó thêm trầm trọng, bởi vì lại có thêm một miệng ăn nữa cho cái món catinita.
https://thuviensach.vn
Mãi về sau tôi mói hiểu rõ hơn tình cảnh trong gia đình đó (tất nhiên là cảnh túng bấn, đói kém). Đó là chuyện xảy ra một năm sau hay đại loại thế, vì tình cờ một hôm bố mẹ tôi phát hiện ra chuyện bọn tôi đang sống như thế nào.
Nghĩa là trước đó bố mẹ ông không hề biết những gì anh chị em ông đang phải trải qua?
Một hôm bố tôi tới thăm; đúng lúc tôi vừa mới bị lên sởi hay một loại bệnh gì đó - tóc tai thì rậm rạp, vì thậm chí họ còn chẳng bao giờ cho anh chị em tôi đi cắt tóc; tôi gầy như một cái cào, ông có thể hình dung được là bố tôi không tài nào nhận ra con trai mình nữa! Họ thanh minh với bố tôi rằng đó là vì tôi đang bị bệnh sởi.
Rồi một hôm khác, đến lượt mẹ tôi tới thăm - lúc này thì cô giáo, chị và bố cô ấy đã chuyển sang ngôi nhà khác, bởi vì tình hình có vẻ sáng sủa hơn đôi chút, lúc này có ba họ anh chị em chúng tôi ở trong nhà cả thảy, nên mỗi tháng họ nhận được 120 peso - và mẹ tôi phát hiện ra là cả ba chúng tôi đều gày gò đến mức gần như chết đói đến nơi. Ngay hôm ấy bà đưa chúng tôi ra khỏi nhà và tới quán ăn cà phê sang trọng nhất trong thành phố - bọn tôi ngấu nghiến liếm sạch từng cái kem một trong quán cà phê đó. La Nuviola, tên quán là như vậy. Lúc đó đang là mùa xoài chín; mẹ mua cho bọn tôi một túi xoài, loại nhỏ ấy, mà người ta gọi là “xoài Toledo”, ngon tuyệt, và chỉ trong mười phút, túi xoài đã hết veo, cả kem cũng không còn, chúng tôi ăn sạch sành sanh. Hôm sau bà đưa chúng tôi về Birán.
Gần đây khi nói chuyện với chị gái Angelita của mình về những ngày khốn khổ ấy, tôi vẫn còn trách chị ấy. Hồi đó chị ấy đã biết đọc biết viết - tại sao chị ấy không viết thư về nhà cho bố mẹ chúng tôi biết những gì mà hồi đó tôi còn chưa hiểu được? Tôi đến từ vùng nông thôn, từ những cánh đồng Birán. Hồi đó Birán chẳng khác gì một thiên đường thừa múa và bố mẹ phải đe nẹt mãi mới bắt được chúng tôi ăn: “Ăn súp đi, ăn thịt đi, ăn cái kia đi”. Và sau cả một ngày hết ăn cái này, cái kia, tức là những món ăn trong tủ chạn ở gia đình chúng tôi ấy, khi đêm xuống lúc tất cả ngồi quanh bàn ăn, họ lại bắt chúng tôi ăn tiếp. Lẽ ra chị ấy phải viết thư cho bố mẹ tôi biết những gì đang xảy ra, nên tôi đã trách mắng chị ấy khá gay gắt vì đã
https://thuviensach.vn
không làm như vậy. Nhưng rồi chị ấy cũng giải thích lý do tại sao chị ấy không làm thế. “Nguyên nhân là vì chị không được phép gửi những lá thư chị viết đi; họ đã chặn chúng lại”, chị ấy nói.
Vào thời điểm ấy, với ba học sinh ăn ở trong nhà, mỗi người bốn mươi peso, chắc chắn đó phải là một công việc làm ăn khấm khá. Đúng thế, khi ấy - tôi không nhớ ngày tháng chính xác - nhưng tình cảnh của họ đã được cải thiện hơn rất nhiều. Ba anh chị em chúng tôi ở Birán đến - mỗi người đóng bốn mươi peso một tháng - vị chi tất cả là 120 peso. Như vậy là tương đương với hơn 3000 đô la ở bất kquốc gia thuộc Thế giới thứ ba nào. Ngoài ra còn phải kể đến sự xuất hiện của viên lãnh sự người Haiti - ông ta kết hôn với cô giáo dạy piano... Nên nói chung là mọi việc trở nên vô cùng sáng sủa.
Vì thế tất nhiên là cô giáo tôi cũng dành dụm được chút tiền, thậm chí cô ấy còn sang Mỹ du lịch, đi tham quan thác Niagara hẳn hoi. Cô ấy mang về mấy lá cờ bé xíu làm quà kỷ niệm. Thật kinh khủng! Ông không hình dung nổi những giờ dài dằng dặc tôi phải ngồi nghe cô ấy nói về thác Niagara. Chắc chắn hồi đó tôi phải ghét những câu chuyện đó lắm, vì hết thác Niagara thế này lại Niagara thế kia, vẫn những câu chuyện đó kể đi kể lại - hoàn toàn trái ngược với bài thơ đó của Heredita, “Ngợi ca Niagara” [57]. Tôi ngán thác Niagara đến tận cổ khi cô giáo quay về - vì ngoài khoản tiền không nhỏ trang trải cho chuyến đi, cô ấy còn mua bao nhiêu là đồ đạc, những thứ mà chúng tôi phải nhịn đói để cô ấy có tiền mua.
Tôi đang kể cho ông nghe tất cả những chuyện đó một cách rõ ràng và trung thực... Có nghĩa chính tại nơi ấy vào thời điểm đó, trong chúng tôi đã hình thành tư tưởng nổi loạn.
Ông nổi loạn chống lại cô giáo?
Khi tôi quay về Birán, tức khi mẹ giải cứu chúng tôi khỏi nơi ấy, lần đầu tiên tôi nhận thức được về tội ác của cái gia đình đó, bởi vì ai cũng thấy là cả ba chúng tôi đã bị bóc lột và bỏ đói tàn tệ, và chúng tôi quay về nhà - nơi chúng tôi đã xiết bao nhớ nhung và khát khao được quay về - như những kẻ thù không đội trời chung vời người giáo viên đó, ngày thường tới
https://thuviensach.vn
nhà chúng tôi ăn trưa và bao giờ cô ta cũng phải chọn những miếng thịt gà ngon nhất trên bàn... Và khi mẹ đưa ba anh chị em chúng tôi về nhà ở Birán, đang là thời gian diễn ra năm học, nên cô giáo cũng đang ở đó giảng bài. Thế là Ramón và tôi đã lên kế hoạch cho hành động đNu tiên chống lại cô ta.
Nổi loạn.
Không, cũng không hẳn là một hành động nổi loạn. Có thể nói đó là hành động trả thù đầu tiên của chúng tôi, và được thực hiện với một khẩu súng cao su. Trả thù, thật ra là chúng tôi đã tạo ra thật nhiều tiếng ồn, vì ngôi trường đó được lợp mái tôn, những tấm tôn tráng kẽm rất phổ biến ở những nước nghèo. Khi đó trời đang sắp tối. Trước đó chúng tôi đã kỳ công làm những cây súng từ chạc ổi và dây cao su. Cạnh đó có một lò làm bánh nên chúng tôi đã ăn trộm tất cả củi đốt lò để làm công sự chiến đấu, gọi là một pháo đài cũng được, rồi sau đó hai anh em tiến hành một trận oanh tạc kéo dài suốt nửa tiếng đồng hồ... cũng có thể là không lâu đến thế, có thể là trong một khoảng thời gian ngắn hơn, nhưng tóm lại là cực kỳ sảng khoái đối với tôi! Những viên sỏi thi nhau đập trên mái tôn... Ngay khi hai ba viên đang đập lên mái tôn thì đã có hai ba viên khác bay sẵn trên không trung - chúng tôi tự khẳng định mình là những chuyên gia trong lĩnh vực này. Ông không thể hình dung nổi tiếng la hét hoảng loạn và giận dữ của cô giáo mà chúng tôi nghe thấy trong suốt trận oanh tạc đó. Ông phải nhớ là nhà của cô giáo ở ngay trong ngôi trường đó... Phải nói rằng chúng tôi là những tên tiểu quỷ báo thù ghê rợn!
Nhưng có điều chúng tôi không thể ngờ rằng, sau đó bố mẹ chúng tôi đã hòa giải với cô giáo và tôi lại bị tống tới nhà cô ấy ở Santiago. Nhưng lần này chỉ có tôi là phải chịu vận đen: Ramón ở lại Birán. Bệnh hen đã cứu anh ấy.
Không thể tin đuợc! Chắc là ông đang nói đùa!
Tôi nói nghiêm túc mà, nhưng lần này không còn cảnh đói khát nữa - cảnh chúng tôi bị bỏ đói trước đó đã tạo ra một vụ bê bối quá sức chịu đựng. Nhưng dù thế nào thì quãng thời gian ở nhà cô giáo vẫn là hoàn toàn lãng phí. Tôi lại mất thêm nhiều tháng sống dặt dẹo ở đó, vì tôi vẫn chẳng
https://thuviensach.vn
có việc gì mà làm, chỉ lang thang,ạ vật quanh nhà và tự mình học bảng cửu chương, ngày nào cũng vậy. Mãi đến tháng Giêng họ mới cho tôi đi học lớp một, học lớp ban ngày ở Colegio de La Salle. Lần đầu tiên trong đời tôi bắt đầu được đi học thực sự.
Đến lúc này, giai đoạn chuyển tiếp sau sự sụp đổ của Machado, những hành động của Batista, đã diễn ra, và điều tôi nhớ nhất về thời kỳ này là cuộc đình công lớn vào tháng 3 năm 1935. Phía sau nhà cô giáo là một trường cấp hai, hay còn gọi là “instituto de segunda ensenanza”, tại đây có cả các lớp trung học phổ thông. Ngôi trường đã bị quân đội chiếm đóng - chính là nơi tôi chứng kiến rất nhiều vụ đàn áp dã man. Hai mươi mốt năm sau, những người campaneros trong Phong trào ngày 26 tháng 7 [58] đã tấn công nó, đúng vào ngày 30 tháng 11 năm 1956, khi chúng tôi từ Mêhicô trở về, và đổ bộ lên một nơi gần Las Coloradas.
Vẫn là ngôi trường đó?
Đúng vậy, vẫn tòa nhà đó, cho dù khi ấy nó không còn là một trường học nữa mà người ta đã biến nó thành một doanh trại quân đội hoặc một đồn cảnh sát gì đó khi Batista quay lại nắm quyền. Năm 1956, tại đó có một đồn cảnh sát. Còn vào thời kỳ tôi còn là một học sinh tiểu học, nó vẫn là một instituto de segunda ensenanza, nhưng ngay sau đó, nó đã bị chuyển thành doanh trại quân đội hoặc đồn cảnh sát, khi tôi còn sống trong nhà cô giáo. Binh lính lúc nào cũng lảng vảng xung quanh; họ “phong tỏa” ngôi trường. Tôi biết rằng vào ngày 30 tháng 11 năm 1956 những người tham gia trong phong trào ngày 26 tháng 7, dưới sự lãnh đạo của Frank Pais [59] ở tỉnh Oriente, đã tấn công vào đó. Họ muốn phối hợp hành động của mình với việc đổ bộ của chúng tôi; họ tính toán ngày tháng và thời điểm, và vào ngày 30 tháng 11 họ đã tấn công. Nhưng cuối cùng cuộc tấn công lại diễn ra sớm hơn cuộc đổ bộ hai ngày. Chúng tôi bị chậm mất bốn mươi tám giờ đồng hồ vì biển động, thuyền trục trặc rồi đủ cc lý do khác, và thế là họ tấn công vào ngày 30 tháng 11 mà theo tính toán của họ cũng là ngày tàu Granma cập bờ. Tôi thì không muốn những hành động đó xảy ra đồng thời, tôi muốn cuộc đổ bộ diễn ra trước.
https://thuviensach.vn
Ông còn giữ lại những kỷ niệm nào về thời gian đó?
À, quãng thời gian đó, ngay trước khi tôi đến trường, một mối quan hệ lãng mạn đã diễn ra giữa chị gái của cô giáo (người dạy piano) và viên Lãnh sự người Haiti. Họ là một cặp rất đẹp đôi, những người Mestizo [60] nói tiếng Pháp cực chuẩn. Và thế là trong ngôi nhà xuất hiện một nhân vật mới: viên Lãnh sự người Haiti, tên ông ta là Louis Hibert. Tình hình chung bắt đầu có thay đổi. Cả gia đình chuyển sang một ngôi nhà khác, ngay bên cạnh đó - ngôi nhà này thì khang trang, mái nhà không còn bị dột khi trời mưa nữa, và cũng rộng rãi hơn. Điều quan trọng nữa là không còn cảnh đói khát nữa, vì thu nhập của cả nhà đã tăng lên, như tôi nói. Có lẽ cô giáo đã nhận được lương của Chính phủ. Vả lại người chị gái đã kết hôn với viên Lãnh sự Haiti, ông ta cũng có lương ổn định, thức ăn cũng khá hơn một chút, mặc dù, mà thôi...
Chính những người trong gia đình đó đã đưa tôi tới một Thánh đường ở Santiago và rửa tội cho tôi, vì trước đó họ vẫn gọi tôi là “thằng Do Thái” - cách họ gọi chung những người chưa rửa tội. Tất nhiên sau này tôi biết là cái biệt hiệu “thằng Do Thái” đó xuất phát từ sự kỳ thị về tôn giáo, kỳ thị Do Thái. Khi đó mọi người cứ gọi tôi là “thằng Do Thái” còn tôi chẳng hiểu tại sao cả. Ông có thể hình dung ra sự kỳ thị tôn giáo thời đó.
Trước đó ông chưa đuợc rửa tội sao?
Chưa, tôi chỉ đượửa tội sau khi lên tám tuổi. Vấn đề là ở chỗ trong khi bố mẹ tôi cứ chờ đợi đến dịp có đủ cả ba người: một nhà triệu phú, - một người bạn của cha tôi và đã được chọn làm cha đỡ đầu cho tôi - vị linh mục và tôi, thì đã rất nhiều năm trôi qua. Trong khi các anh chị tôi đã là con đỡ đầu, ahijados, như người ta vẫn gọi, của một người chú hay người dì nào đó; còn tôi cứ trùng trình mãi mà gần tám tuổi vẫn chưa được rửa tội. Kỳ thực là họ đang chờ đợi nhà triệu phú sẽ là cha đỡ đầu của tôi, tên ông ta là Fidel Pino Santos. Tên tôi được đặt theo tên của nhà triệu phú này, nên tôi chẳng có gì là tự hào cả. Tôi sinh ngày 13 tháng 8, còn ngày của Thánh Fidel là ngày 24 tháng 4[61]- Thánh Fidel xứ Sigmaringen. Về sau tôi
https://thuviensach.vn
mới biết được rằng ông ta là ai [62]- ngày 13 tháng 8 là ngày của Thánh Hipólito Casiano [63], nhưng tôi lại được mang tên của người sẽ là cha đỡ đầu của mình, một người giàu có, rất giàu có là khác - người thỉnh thoảng vẫn tới nhà chúng tôi ở vùng nông thôn Birán.
Trong khi người cha đỡ đầu thực sự của ông lại là viên Lãnh sự Haiti?
Đúng vậy. Viên Lãnh sự Haiti cưới cô giáo dạy piano, chị của cô giáo tôi. Cả hai người này đóng vai trò là cha và mẹ đỡ đầu trong lễ rửa tội của tôi. Tôi còn nhớ là một hôm người cha đỡ đầu của tôi, viên Lãnh sự Haiti, đã đưa tôi đi tham quan một con tàu chở khách rất đồ sộ, tàu La Salle - con tàu có đến hai ống khói liền, một con tàu chở khách xuyên Đại Tây Dương, bên trên chất đầy những người Haiti chen chúc nhau như cá hộp. Họ là những người bị trục xuất ra khỏi Cuba theo Đạo luật Ưu tiên Lao động trong nước mà tôi đã nói với ông. Vậy là tôi đã chứng kiến từ những người Haiti sống trong những ngôi nhà ổ chuột tồi tàn nơi tôi thường nướng ngô trong bếp than cho tới những người chen chúc trên con tàu xuyên đại dương sang trọng đó, những người bị trục xuất khỏi Cuba để trở về đối mặt với những khó khăn khủng khiếp ở đất nước họ - một nơi thậm chí còn nghèo hơn cả Cuba. Họ bị tống ra khỏi một cuộc sống cùng khổ và nghèo đói để rơi vào cuộc sống khác còn tồi tệ hơn nhiều.
Họ bị trục xuất khỏi Cuba thật sao?
Đúng vậy. Trong những năm bùng nổ của ngành công nghiệp mía đường, có đến hàng chục nghìn người đã tới đây góp phần trồng, canh tác và thu hoạch mía. Họ làm việc trên những đồng mía quần quật như nô lệ, chịu rất nhiều hy sinh, trong khi đồng lương thì rẻ mạt. Tôi tin là những nô lệ trong thế kỷ 19 cũng còn có điều kiện tốt hơn là những người Haiti khi đó. Những người nô lệ dù sao cũng còn là tài sản của một người chủ, người chủ đó sẽ chăm sóc họ như người ta chăm sóc con vật nuôi của mình. Người chủ sẽ chăm sóc sức khỏe con vật, cho nó ăn, nhưng những nhà tư bản thì đâu có đếm xỉa gì đến sức khỏe của những người công nhân được coi là tự do, chứ đừng nói đến chuyện cho họ ăn uống đầy đủ.
https://thuviensach.vn