🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Đời Bất Tử Của Henrietta Lacks Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn CUỘC ĐỜI BẤT TỬ CỦA HENRIETTA LACKS —★— Nguyên tác: The Immortal Life of Henrietta Lacks Tác giả: Rebecca Skloot Dịch giả: Trần Nguyên Thể loại: Hồi Ký Bản quyền: Omega+ NXB: Lao động Năm xuất bản: 2009/Vn2018 —★★★— Ebook: huydatvns https://thuviensach.vn MỘT CUỐN SÁCH VƯỢT NGOÀI NHỮNG MONG ĐỢI — NGUYỄN THỊ THU HUYỀN Thạc sĩ ngành Sinh học Phân tử, Tế bào và Phát triển Đại học California, Santa Barbara Lần đầu khi nhìn thấy tiêu đề của cuốn sách – The Immortal life of Henrietta Lacks (Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks), tôi đã không mua nó. Tôi biết người phụ nữ trên bìa sách vì tấm ảnh này của bà đã xuất hiện tương đối nhiều trên các tạp chí và sách giáo khoa, nhưng tôi không buồn nhớ tên của bà vì cái tên hơi lạ và khó nhớ. Ngoài việc đang sử dụng tế bào của bà, thì bà cũng không liên quan trực tiếp đến những nghiên cứu của tôi, tôi tự nhủ: “Tại sao tôi phải quan tâm đến cuộc đời của người phụ nữ này?” Tuy nhiên, theo thói quen, tôi vẫn lướt qua những trang sách. Và tôi thấy có hình tế bào nhuộm huỳnh quang cùng hình chụp những kỹ thuật viên đang pha môi trường nuôi cấy cho tế bào trong phòng thí nghiệm từ năm 1949. Những bức ảnh khiến tôi tò mò về nội dung cuốn sách, nên tôi đã lật ngược lại phần mục lục, và tiêu đề của các chương như “Sự ra đời của dòng tế bào HeLa”,“Nhà máy HeLa”, hay “Bí mật của sự bất tử” làm tôi bắt đầu cảm thấy thích thú. Hóa ra cuốn sách không tập trung vào cuộc đời riêng tư của Henrietta Lacks như tôi nghĩ, mà còn viết về dòng tế bào HeLa, về nuôi cấy tế bào, về khoa học – thứ duy nhất tôi quan tâm lúc bấy giờ. Mặc dù đã làm nghiên cứu trong ngành sinh học nhiều năm và nuôi cấy tế bào động vật (trong đó có tế bào HeLa) hằng ngày, nhưng tôi không hề biết các tế bào đầu tiên được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm như thế nào và động lực để các nhà khoa học https://thuviensach.vn tiến hành thử nghiệm nuôi cấy tế bào là gì. Những câu hỏi này đã luẩn quẩn trong đầu từ rất lâu nhưng tôi chưa bao giờ thử tìm hiểu. Cuối cùng, tôi quyết định phải đọc cuốn sách này để có câu trả lời. Thế nhưng, vượt ra ý định tìm hiểu về khoa học ban đầu, cuốn sách đã đưa tôi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, cuốn hút không ngừng. Tác giả Rebecca Skloot không chỉ dựng lại những phân cảnh trong cuộc đời của Henrietta Lacks – một người phụ nữ da màu đã mất từ năm 1951 do mắc bệnh ung thư cổ tử cung khi mới 31 tuổi, mà còn dẫn dắt người đọc đến với những câu chuyện trong phòng thí nghiệm – nơi các nhà khoa học đã có những phát hiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Trước khi Henrietta mất, một bác sĩ đã chủ ý cắt lấy một phần khối u của bà để thử nuôi cấy các tế bào ấy trong phòng thí nghiệm. Lúc bấy giờ, hầu hết các tế bào được nuôi cấy trong điều kiện của phòng thí nghiệm đều chết sau một số lần phân chia nhất định, nhưng các tế bào ung thư từ cơ thể của Henrietta thì khác: chúng có khả năng phân chia vô tận. Đây là những tế bào “bất tử” đầu tiên được nuôi cấy thành công và được gọi là các tế bào HeLa. Cho đến tận bây giờ, sau khi Henrietta Lacks đã qua đời gần 70 năm, hàng triệu các nhà nghiên cứu trên thế giới (trong đó có tôi) vẫn đang nuôi cấy và làm thí nghiệm trên những tế bào này. Các tế bào HeLa đã giúp sản xuất vắc-xin bại liệt; giúp khám phá ra số lượng nhiễm sắc thể của con người; đóng góp cho các nghiên cứu về HPV, HIV, ung thư; giúp lập bản đồ gen người; giúp phát triển các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu tế bào; giúp các nhà khoa học tiến hành thử thuốc, hóa chất, bức xạ; giúp tìm hiểu về tác động của bom nguyên tử hay môi trường không trọng lực lên cơ thể con người; và hằng hà sa số những thí nghiệm khác nữa. Tôi tự hỏi nếu không có HeLa thì ngành y sinh học sẽ phát triển theo hướng nào? Mặc dù tế bào HeLa có nhiều đóng góp quan trọng như vậy cho nền khoa học-y học hiện đại và nhiều công ty đã thu được https://thuviensach.vn lợi nhuận khổng lồ từ việc kinh doanh mua bán các tế bào HeLa, nhưng không mấy người biết đến Henrietta Lacks. Gia đình của bà cũng đã không hề biết gì về sự tồn tại của những tế bào này trong một thời gian dài; họ sống trong nghèo đói, cơ cực, thậm chí còn không có khả năng chi trả cho bảo hiểm y tế của mình. Và kể từ khi biết về các tế bào ấy, cuộc sống của họ đã bị xáo trộn. Do tầm hiểu biết khoa học còn hạn hẹp và cũng không ai giải thích rõ ràng cho họ, gia đình Henrietta tưởng tượng bà vẫn còn sống trong các tế bào và những thí nghiệm mà các nhà khoa học đang làm trên tế bào sẽ làm bà bị đau, thậm chí họ nghĩ rằng người ta đang nhân bản vô tính Henrietta. Tác giả cũng đi sâu vào tìm hiểu những vụ kiện tụng, những quy định và những điều luật mới nảy sinh cùng sự phát triển như vũ bão của y học và khoa học kỹ thuật. Tôi cho rằng những luận điểm về đạo đức y học và quyền sở hữu mà tác phẩm đề cập tới rất đáng nhận được sự quan tâm của rất nhiều người Việt Nam, đặc biệt là học sinh, sinh viên, những người làm công tác nghiên cứu, hoặc những người học tập và làm việc trong ngành y và ngành luật. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn sách đã mang đến cho tôi nhiều kiến thức cũng như thấu cảm mà trước đây tôi ít có cơ hội trải nghiệm (qua những cuốn sách hay hoàn cảnh khác). Thông qua câu chuyện được kể, tôi hiểu hơn về cuộc sống và văn hóa của những người da màu. Tôi đã không thể tưởng tượng được những khổ đau mà một người da màu phải trải qua vào thời điểm cách đây chỉ vài thập niên. Tôi đã rơi nước mắt khi đọc về những kì thị mà họ phải chịu đựng, xót xa khi đọc về những thử nghiệm lâm sàng mà các bác sĩ và nhà khoa học đã tiến hành trên cơ thể họ. Từ lúc nào, tôi chìm đắm vào thế giới của những người da màu mà tôi chưa bao giờ quen biết. Và tôi đã quên mất lý do ban đầu tôi bắt đầu đọc cuốn sách. Đây là cuốn sách đầu tiên tôi từng đọc viết về những kiến thức khoa học mà không hề khô khan, nhàm chán. Những câu chuyện được tác giả kết nối với nhau một cách tài tình giữa quá https://thuviensach.vn khứ và hiện tại, giữa khoa học và đời thường, giữa góc nhìn của các nhà khoa học với góc nhìn của công chúng. Không hề có bất kì chi tiết hư cấu nào nhưng câu chuyện vẫn được dẫn dắt một cách lôi cuốn, với nhiều tình tiết li kì và gây xúc động không khác gì một cuốn tiểu thuyết thực thụ. Những điều đó càng làm tôi thêm nể phục tài năng, tâm huyết, sự kiên trì và nỗ lực mà tác giả Rebecca Skloot đã bỏ ra trong suốt 10 năm để hoàn thành được cuốn sách này. Đến nay, tôi không nhớ mình đã tặng cuốn sách này cho bao nhiêu người. Tôi thực sự trông chờ bản tiếng Việt của cuốn sách, và kỳ vọng cuốn sách này sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người ở Việt Nam, như nó đã từng truyền cảm hứng cho tôi: mong muốn trở thành người viết báo khoa học (science writer), cung cấp những thông tin khoa học đến mọi người một cách dễ hiểu nhất. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Tháng 11, 2018. https://thuviensach.vn CUỘC ĐỜI BẤT TỬ CỦA HENRIETTA LACKS – MỘT TUYỆT TÁC KỂ CHUYỆN KHOA HỌC — PHAN VŨ XUÂN HÙNG Giảng viên Sáng lập Đại học Fulbright Việt Nam Tôi đang ngồi cạnh cô ruột tôi (cô Ba) trước khi cô lên bàn phẫu thuật lấy đĩa đệm và hàn thân đốt sống C5-C6 ở cổ. Cô Ba tôi năm nay 64 tuổi, sinh ra và lớn lên ở một vùng quê cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 700 km. Lúc nhỏ cô Ba chỉ học đến lớp hai rồi ở nhà giúp ông bà nội tôi nuôi bố và các chú. Ở bệnh viện, tôi giúp cô Ba xử lý tất cả thủ tục giấy tờ – từ lúc khám, nhập viện cho đến trước ca mổ... Tôi vừa ra ngoài mua nước uống, khi vào đã thấy có người lấy máu cho cô, và không ai giải thích với cô tại sao họ làm vậy. Tôi bất giác tự hỏi, liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô Ba một mình vào bệnh viện. Liệu cô có được tư vấn một cách tận tình trước khi ký những giấy tờ quan trọng, hay trước khi làm một việc gì đó với cơ thể cô. Đây là một bệnh viện tư cấp thành phố khá nổi tiếng, mọi thứ tốt hơn rất nhiều so với những bệnh viện khác ở Việt Nam – về các vấn đề như tiếp đón bệnh nhân, các dịch vụ xét nghiệm, chăm sóc người bệnh và vệ sinh phòng bệnh. Nhưng tôi vẫn đầy băn khoăn về quyền lợi của những người bệnh. Chính hoàn cảnh này khiến tôi nhớ đến cuốn sách The Immortal Life of Henrietta Lacks (Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks) – hiểu thấu hơn bao giờ hết những cảm giác của gia đình Henrietta. Có lẽ, ở một thời điểm nào đó, con, cháu của Henrietta cũng có những băn khoăn tương tự về những gì xảy ra với Henrietta vào những năm 1950, một mình trong phòng bệnh dành cho người da màu, với căn bệnh ung thư cổ tử cung quái ác. https://thuviensach.vn Với tôi, Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks là một tuyệt tác kể chuyện khoa học, lôi cuốn, hồi hộp và… thực sự giá trị. Tác giả cuốn sách, cô Rebecca Skloot, đã mất 10 năm ròng rã thu thập dữ liệu và phỏng vấn hàng trăm người để tái hiện câu chuyện của một tế bào nổi tiếng nhất thế giới, được lấy từ cơ thể của Henrietta Lacks, và được đặt tên là tế bào HeLa. Henrietta Lacks qua đời ở tuổi 31, tế bào HeLa ra đời, sống mãnh liệt và “bất tử”. Tôi đã đọc ngấu nghiến cuốn sách đến nỗi không muốn nghỉ giải lao. Ngay từ đầu, cuốn sách đã gợi lên trong tôi rất nhiều câu hỏi: tại sao lại là Henrietta mà không phải người khác, tại sao nuôi một tế bào bên ngoài lại khó như thế, tại sao lại là tế bào ung thư, tại sao Henrietta không hề hay biết về việc tế bào của mình bị lấy đi nuôi cấy, tại sao lấy tế bào của người ta để kiếm tiền tỷ mà con cái họ vẫn sống trong nghèo khổ,... và nhiều câu hỏi khác về sinh học và y học. Càng đọc tôi càng hiểu sâu thêm về những vấn đề đó. Càng đọc, tôi càng có thêm nhiều câu hỏi khác. Hóa ra, những phát minh đặc biệt quan trọng mà tôi vẫn coi là “đương nhiên” lại có cả một lịch sử khó khăn và ly kỳ ở phía sau. Hóa ra, từ tế bào ung thư lấy từ người phụ nữ ấy, tương lai của ngành y học đã mãi mãi thay đổi. Và hóa ra việc lấy tế bào, nuôi cấy thành công chúng và sử dụng chúng cho khoa học – không phát triển theo một đường thẳng. Xen lẫn với nó là hàng loạt những tranh luận, những cuộc hội thảo, các bài báo, các cuộc kiện tụng; là cảm giác bực bối, tức tối; là nước mắt và cả khổ đau... Đây thực sự không phải là một cuốn sách khoa học bình thường. Tôi đặc biệt ám ảnh với những phân đoạn trong cuộc đời Henrietta Lacks; bức bối, nghẹt thở với những câu chuyện xung quanh gia đình bà. HeLa đã tạo nên một ngành công nghiệp tỷ đô nhưng chồng và con cái bà thì sao? Nhờ cách dẫn dắt chi tiết từ nhiều khía cạnh như kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo đã làm tôi sáng tỏ thêm nhiều điều – như về sự phân biệt đối xử với người da màu ở những năm 1950 diễn ra mọi lúc mọi nơi đến mức người ta cho rằng đó là một việc bình thường, rằng https://thuviensach.vn có nhiều nhà khoa học chỉ chú tâm đến các câu hỏi khoa học mà tuyệt nhiên không quan tâm đến những khía cạnh xã hội khác cũng như thứ được gọi là đạo đức ngành... Đồng thời, tôi cũng học được rằng, khi tôn giáo tín ngưỡng trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống con người, lời giải của họ cho nhiều sự việc hiện tượng xảy ra trong cuộc sống trở nên rất thú vị. Khi gấp cuốn sách lại, tôi đã thấy an ủi phần nào khi biết rằng gia đình của Henrietta đã biết đến sự thật, cho dù chỉ là một phần của sự thật, sau hành trình khám phá nhiều năm với Rebecca. Cuốn sách chính là một câu trả lời tuyệt vời cho những day dứt bao nhiêu năm của con gái Henrietta – vì hơn tất cả, cô muốn biết, mẹ cô là người như thế nào. Tôi muốn nói rằng, dù bạn là ai, dù bạn quan tâm đến lịch sử, y học, xã hội học, văn hóa, tôn giáo hay pháp luật... bạn đều sẽ tìm thấy ở cuốn sách này những điều thực sự có giá trị. Và sau hết, tôi hy vọng bạn đã thưởng thức nó – như một câu chuyện văn chương đẹp đẽ – dù cuốn sách này, không có một tình tiết hư cấu nào. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Việt Nam. https://thuviensach.vn LỜI TÁC GIẢ Đây là một cuốn sách phi hư cấu. Không có cái tên nào bị thay đổi, không có nhân vật nào được thêu dệt, không có sự kiện nào được dàn dựng. Trong lúc viết cuốn sách này, tôi đã thực hiện hàng nghìn giờ phỏng vấn với gia đình và bạn bè của Henrietta Lacks, cũng như với các luật sư, các chuyên gia đạo đức, các nhà khoa học, và các nhà báo đã từng viết về gia đình Lacks. Tôi cũng đã dựa vào lượng lớn ảnh và tài liệu lưu trữ, các nghiên cứu khoa học và lịch sử, cùng nhật ký cá nhân của Deborah Lacks – con gái Henrietta. Tôi đã cố gắng hết sức để ghi nhận và lột tả ngôn từ mà các nhân vật sử dụng khi nói và viết: những đoạn hội thoại được ghi lại theo nguyên bản tiếng địa phương; các đoạn văn trích từ nhật ký và những ghi chép cá nhân được giữ nguyên văn những gì họ đã viết ra. Như lời một trong số các con cháu của Henrietta đã nói với tôi: “Nếu cô trau chuốt cho hoa mỹ và thay đổi những tình tiết trong câu chuyện họ kể, đó là một việc làm không trung thực. Làm vậy chẳng khác nào lấy đi cuộc sống, trải nghiệm, và cả bản thể con người họ”. Rất nhiều chỗ trong cuốn sách, tôi đã mượn từ ngữ mà những người được phỏng vấn đã dùng để miêu tả thế giới và những trải nghiệm của họ. Bằng cách này, tôi đã tái sử dụng ngôn ngữ trong thời đại và hoàn cảnh của các nhân vật, kể cả những từ như da màu. Các thành viên của gia đình Lacks thường gọi Johns Hopkins là “John Hopkin”, và tôi đã giữ nguyên cách nói này trong các mẩu đối thoại của họ. Các câu thoại với ngôi nhân xưng thứ nhất của Deborah Lacks đều được giữ nguyên như lời cô nói, đôi khi có sửa lại cho súc tích và rõ ràng hơn. Henrietta Lacks đã qua đời nhiều thập niên trước khi tôi bắt đầu viết cuốn sách này, vì vậy tôi phải dựa vào các cuộc phỏng https://thuviensach.vn vấn, các hồ sơ pháp lý và bệnh án để tái dựng những phân cảnh trong cuộc đời bà. Ở những phân cảnh đó, cuộc hội thoại hoặc là được suy luận từ các tài liệu viết tay hoặc được trích dẫn nguyên văn theo những gì được thuật lại cho tôi trong cuộc phỏng vấn. Bất cứ khi nào có thể, tôi đều thực hiện những cuộc phỏng vấn với nhiều nguồn tin khác nhau để đảm bảo tính xác thực. Đoạn trích từ bệnh án của Henrietta trong chương 1 là bản tóm tắt dựa trên nhiều ghi chép khác nhau. Từ HeLa, được dùng để chỉ các tế bào nuôi cấy có nguồn gốc từ cổ tử cung của Henrietta Lacks, xuất hiện xuyên suốt cuốn sách. Nó được đọc là heelah (hy-la). Về biên sử: mốc thời gian của các nghiên cứu khoa học được ghi trong cuốn sách này là thời điểm mà nghiên cứu đó được tiến hành, không phải là ngày mà chúng được công bố. Ở một số trường hợp, các ngày này được áng chừng vì không tìm được những ghi chép cụ thể về ngày bắt đầu nghiên cứu đó. Ngoài ra, vì tôi chuyển qua chuyển lại giữa nhiều câu chuyện, hơn nữa các nghiên cứu khoa học kéo dài trong nhiều năm, nên có những đoạn trong cuốn sách này, nhằm giúp người đọc dễ hiểu hơn, tôi đã miêu tả các phát kiến ấy theo trình tự thời gian, mặc dù thực tế chúng diễn ra cùng một thời điểm. Tiểu sử của Henrietta Lacks và các tế bào HeLa làm dấy lên nhiều vấn đề quan trọng về khoa học, đạo đức, chủng tộc, và các tầng lớp trong xã hội. Tôi đã làm hết sức mình để trình bày các vấn đề một cách rõ ràng nhất theo mạch câu chuyện của gia đình Lacks, và tôi cũng chèn thêm một lời bạt để đề cập đến những cuộc tranh luận về đạo đức và pháp luật hiện hành xung quanh quyền sở hữu và nghiên cứu mô. Còn nhiều chuyện phải bàn về tất cả những vấn đề này, nhưng việc đó nằm ngoài phạm vi của cuốn sách, vì vậy, tôi xin dành nó cho các học giả và các chuyên gia trong ngành. Tôi hy vọng độc giả sẽ thông cảm cho những thiếu sót này. Chúng ta không nên nhìn bất kỳ ai như một sự trừu tượng. Thay vào đó, chúng ta phải nhìn thấy bên trong mỗi người một https://thuviensach.vn vũ trụ, với những bí mật, những kho báu, những nỗi thống khổ của riêng nó, cùng với những niềm hân hoan. — ELIE WIESEL Trích "Những Tên Bác Sĩ Quốc Xã và Đạo Luật Nuremberg" https://thuviensach.vn LỜI MỞ ĐẦU NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG BỨC ẢNH Trên bức tường phòng tôi có treo bức ảnh của một người phụ nữ mà tôi chưa từng gặp mặt, mép trái của nó đã bị rách và được gắn lại bằng băng dính. Bà nhìn thẳng vào máy ảnh và mỉm cười, hai tay đặt trên hông, đôi môi tô son đỏ thẫm, y phục được vuốt phẳng phiu. Đó là những năm cuối của thập niên 1940 và bà còn chưa bước sang tuổi 30. Nước da màu nâu sáng của bà láng mịn, cặp mắt vẫn trẻ trung, tinh nghịch, không hề hay biết đến khối u đang lớn dần lên bên trong cơ thể – khối u sẽ khiến năm đứa con của bà mất mẹ, và làm thay đổi tương lai của nền y học. Bên dưới bức ảnh, dòng chữ cho biết tên của bà là “Henrietta Lacks, Helen Lane hay Helen Larson”. Không ai biết người nào đã chụp bức ảnh đó, nhưng nó đã xuất hiện hàng trăm lần trên các tạp chí, những cuốn sách giáo khoa về khoa học, các blog và bức tường của các phòng thí nghiệm. Bà thường được biết đến với cái tên Helen Lane, nhưng thường là bà không có tên. Bà chỉ đơn giản được gọi là HeLa, cái tên được đặt cho dòng tế bào người bất tử đầu tiên trên thế giới – các tế bào của bà, được lấy từ cổ tử cung chỉ vài tháng trước khi bà qua đời. Tên thật của bà là Henrietta Lacks. Tôi đã dành nhiều năm trời chăm chú ngắm nhìn bức ảnh đó, tự hỏi bà đã sống một cuộc đời như thế nào, chuyện gì đã xảy ra với các con của bà, và bà sẽ nghĩ gì nếu biết các tế bào được lấy từ cổ tử cung của mình sẽ sống mãi – hàng nghìn tỷ tế bào được mua bán, đóng gói, và vận chuyển đến các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới. Tôi thử hình dung cảm giác của bà khi biết rằng tế bào của mình được mang theo trong những chuyến du https://thuviensach.vn hành vũ trụ đầu tiên nhằm tìm hiểu những vấn đề có thể xảy ra với tế bào người trong môi trường không trọng lực, hay là khi bà biết chúng đã góp phần không nhỏ vào những tiến bộ quan trọng bậc nhất trong ngành y học như: vắc-xin phòng bệnh bại liệt, hóa trị liệu, nhân bản vô tính, bản đồ gen và phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tôi chắc rằng, cũng như hầu hết chúng ta, bà sẽ vô cùng kinh ngạc khi biết rằng số lượng tế bào HeLa hiện đang được nuôi cấy trong các phòng thí nghiệm nhiều hơn hàng ngàn tỉ số tế bào đã từng sống trong cơ thể bà. Không có cách nào để biết chính xác có bao nhiêu tế bào của Henrietta đang sống ngày nay. Một nhà khoa học ước tính rằng nếu bạn có thể đặt tất cả các tế bào HeLa từng được nuôi cấy lên một cái cân, chúng sẽ nặng khoảng 50 triệu tấn – một con số ngoài sức tưởng tượng, nhất là khi ta biết rằng mỗi tế bào đơn lẻ có trọng lượng không đáng là bao. Một nhà khoa học khác tính rằng nếu bạn có thể xếp liền nhau tất cả các tế bào HeLa từng được nuôi cấy, nó có thể quấn quanh Trái đất ít nhất ba lần, với chiều dài hơn 106 nghìn kilomet. Trong khi đó, chính Henrietta khi còn sống cũng chỉ cao hơn một mét rưỡi một chút. Tôi biết đến tế bào HeLa và người phụ nữ này lần đầu tiên trong lớp sinh học của một trường cao đẳng cộng đồng, vào năm 1988, khi tôi 16 tuổi, 37 năm sau cái chết của bà. Thầy giáo của tôi, Donald Deer, một người đàn ông hói đầu lùn xủn, bước qua bước lại trên bục giảng rồi bật công tắc máy chiếu. Thầy ấy chỉ vào hai sơ đồ được chiếu trên bức tường phía sau. Chúng là các biểu đồ biểu diễn chu kỳ tế bào, nhưng với tôi chúng trông chẳng khác gì một đống hỗn độn có màu neon, những mũi tên, các ô vuông, và các vòng tròn với những từ tôi không hiểu, như “MPF[1] kích hoạt chuỗi phản ứng hoạt hóa protein[2]”. Tôi đã không qua được năm nhất ở một trường phổ thông công lập bình thường vì không bao giờ chịu đến lớp. Tôi chuyển đến một ngôi trường khác, nơi họ dạy môn “Tìm hiểu về Giấc mơ” thay vì môn Sinh học, nên tôi theo học lớp của thầy Deer để lấy tín chỉ, nghĩa là tôi phải ngồi giữa giảng đường đại học ở https://thuviensach.vn tuổi 16, quay cuồng với nào là nguyên phân, nào là các chất ức chế kinase[3]. Tôi hoàn toàn mù tịt. “Chúng em có phải nhớ tất cả những thứ trong biểu đồ đó không ạ?” – một sinh viên la lên. “Có”, Deer trả lời. Bọn tôi phải ghi nhớ các biểu đồ này, và đương nhiên, chúng sẽ có trong bài kiểm tra, nhưng ngay lúc này điều đó không phải vấn đề. Thầy ấy giải thích rằng điều thầy muốn chúng tôi hiểu là các tế bào vô cùng kỳ diệu: có khoảng 100 nghìn tỷ tế bào trong cơ thể chúng ta, mỗi tế bào nhỏ đến nỗi vài nghìn tế bào có thể xếp vừa trong dấu chấm ở cuối câu này. Chúng tạo nên các mô – cơ, xương, máu – rồi các mô đó lại tiếp tục tạo nên các cơ quan trong cơ thể. Dưới kính hiển vi, một tế bào trông như một quả trứng rán: có một lòng trắng (tế bào chất) chứa đầy nước và các protein giúp nuôi dưỡng, và một lòng đỏ (nhân tế bào) lưu giữ tất cả thông tin di truyền khiến bạn là bạn, chứ không phải ai khác. Tế bào chất nhộn nhịp như đường phố New York. Nó chứa đầy các phân tử và các đường dẫn không ngừng vận chuyển các enzyme[4] và các phân tử đường từ bộ phận này đến bộ phận khác của tế bào; đồng thời, bơm nước, chất dinh dưỡng và oxi ra vào tế bào. Các nhà máy tế bào chất nhỏ xíu hoạt động 24/7, tạo ra đường, chất béo, protein và năng lượng để duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống và nuôi dưỡng nhân tế bào. Nhân tế bào là bộ não điều khiển hoạt động của cả tế bào; ở nhân của mỗi tế bào trong cơ thể có một bản sao của toàn thể bộ gen. Bộ gen này chỉ định các tế bào khi nào thì phát triển, khi nào thì phân chia, và đảm bảo rằng từng tế bào làm đúng phần việc của mình, chẳng hạn việc kiểm soát nhịp tim hay giúp bộ não của bạn hiểu được những từ ngữ trong trang sách này. Deer đi đi lại lại trước cả lớp, giảng giải cho chúng tôi về cách mà nguyên phân – quá trình phân chia các tế bào – giúp các phôi thai phát triển thành em bé, và giúp cơ thể của chúng ta tạo ra các tế bào mới để chữa lành vết thương hoặc bổ sung https://thuviensach.vn lượng máu mà cơ thể đã mất. Đó là một quá trình kỳ diệu, thầy ví nó như một vũ điệu hoàn hảo. Thầy nói rằng chỉ cần một sai lầm vô cùng nhỏ ở đâu đó trong quá trình phân bào cũng đủ khiến cho các tế bào tăng sinh vượt kiểm soát. Chỉ cần một enzyme hay một protein hoạt hóa nhầm cũng có thể khiến bạn phải đối mặt với ung thư. Quá trình nguyên phân bị mất kiểm soát là cách để căn bệnh này phát triển. “Chúng ta đã tìm ra điều đó thông qua việc nghiên cứu các tế bào ung thư được nuôi cấy”, Deer giải thích. Thầy ấy mỉm cười và quay lại phía bảng, viết lên đó hai từ in hoa thật lớn: HENRIETTA LACKS. Thầy cho chúng tôi biết rằng Henrietta qua đời vào năm 1951 vì căn bệnh ung thư cổ tử cung quái ác. Trước khi bà mất, bác sĩ phẫu thuật đã lấy mẫu từ khối u của bà và đặt chúng vào một cái đĩa petri[5]. Các nhà khoa học đã tìm cách nuôi cấy tế bào người từ nhiều thập niên, nhưng rồi chúng đều không sống sót được sau một thời gian. Các tế bào của Henrietta thì khác: chúng sản sinh ra một thế hệ tế bào mới cứ sau khoảng 24 giờ đồng hồ, và không bao giờ ngừng lại. Chúng trở thành các tế bào người bất tử đầu tiên được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. “Tính đến thời điểm hiện tại, các tế bào của Henrietta đã sống ngoài cơ thể của bà lâu hơn rất nhiều so với thời gian chúng ở trong cơ thể”, thầy Deer nói. Nếu đến bất kỳ phòng thí nghiệm nuôi cấy tế bào nào trên thế giới, chúng ta đều có thể tìm thấy hàng triệu – thậm chí hàng tỷ – tế bào của Henrietta trong những chiếc lọ nhỏ đang được bảo quản trong tủ đông của họ. Các tế bào của bà là một phần trong nghiên cứu về gen gây ung thư và gen ức chế ung thư; đồng thời, giúp chế tạo các loại thuốc trị herpes[6], ung thư máu, cúm, bệnh máu khó đông và bệnh Parkinson; chúng cũng được dùng trong nghiên cứu về quá trình tiêu hóa đường lactose, các bệnh lây truyền qua https://thuviensach.vn đường tình dục, bệnh viêm ruột thừa, tuổi thọ con người, sự giao phối ở muỗi, và các tác hại ở mức độ tế bào khi làm việc dưới cống rãnh. Bộ nhiễm sắc thể và protein của các tế bào này đã được nghiên cứu vô cùng chi tiết và chính xác đến nỗi các nhà khoa học biết rõ đến từng chân tơ kẽ tóc. Các tế bào của Henrietta đã trở thành đối tượng thí nghiệm cơ bản cũng như chuột lang nhà (guinea pigs) và chuột nhắt. “Các tế bào HeLa là một trong những tiến bộ y học quan trọng nhất trong một trăm năm trở lại đây”, thầy Deer nói. Rồi, như một ý nghĩ nảy ra vào phút chót, thầy Deer nói: “Bà ấy là một phụ nữ da đen”. Thầy xóa tên Henrietta Lacks trên bảng và thổi bụi phấn khỏi tay mình. Tiết học kết thúc. Trong lúc các học sinh khác lũ lượt rời lớp, tôi ngồi đó và nghĩ, Chỉ thế thôi ư? Chẳng lẽ đó là tất cả những gì bọn mình được biết ư? Câu chuyện chắc hẳn còn nhiều hơn thế. Tôi đi theo Deer đến văn phòng của thầy. “Bà ấy từ đâu đến?” – tôi hỏi. “Bà ấy có biết các tế bào của mình đã trở nên quan trọng như vậy không? Bà ấy có con không?” “Ước gì thầy có thể trả lời em”, thầy ấy nói, “nhưng không ai biết gì về bà ấy cả”. Sau buổi học, tôi chạy về nhà và nhảy lên giường cùng cuốn sách giáo khoa sinh học. Tôi tìm từ khóa “nuôi cấy tế bào” trong mục lục và thấy tên bà ở đó, trong một dấu ngoặc đơn nhỏ: Trong môi trường nuôi cấy, các tế bào ung thư có thể phân chia vô hạn, nếu chúng được cung cấp chất dinh dưỡng liên tục, bởi vậy chúng được gọi là “bất tử”. Một ví dụ điển hình là dòng tế bào vẫn liên tục phân chia trong môi trường nuôi cấy kể từ năm 1951. (Các tế bào thuộc dòng này được gọi là tế bào HeLa vì nguồn gốc ban đầu của chúng là khối u được cắt từ người phụ nữ có tên Henrietta Lacks). https://thuviensach.vn Chỉ có chừng đó. Tôi đã lục tìm HeLa trong cuốn bách khoa toàn thư của bố mẹ, rồi trong từ điển của tôi; nhưng không hề có Henrietta. Khi tôi tốt nghiệp phổ thông và học lên đại học ngành sinh học, các tế bào HeLa có mặt ở khắp nơi. Tôi nghe thấy chúng trong lớp mô học, thần kinh học, bệnh học; tôi sử dụng chúng trong các thí nghiệm tìm hiểu về cách các tế bào lân cận giao tiếp với nhau. Nhưng sau thầy Deer, không một ai nhắc đến Henrietta. Khi có chiếc máy tính đầu tiên vào giữa thập niên 1990 và bắt đầu sử dụng Internet, tôi đã tìm kiếm các thông tin về bà, nhưng chỉ tìm được những mẩu tin vụn vặt mơ hồ: hầu hết các trang web đều nói tên của bà là Helen Lane; một số nói bà đã chết vào những năm 1930; số khác nói những năm 1940, 1950, hay thậm chí là những năm 1960. Một số trang nói căn bệnh ung thư buồng trứng đã giết chết bà, số khác nói ung thư vú hoặc ung thư cổ tử cung. Cuối cùng tôi tìm được một vài bài báo về bà trên tạp chí từ những năm 1970. Tạp chí Ebony đã trích lời của chồng Henrietta rằng: “Tất cả những gì tôi còn nhớ là bà ấy đã mắc phải một căn bệnh này, và ngay sau khi bà ấy chết, họ gọi tôi vào văn phòng, muốn xin phép tôi cho họ lấy một mẫu bệnh phẩm gì đó. Tôi quyết định không cho họ làm vậy”. Tờ Jet nói rằng gia đình của Henrietta đã rất tức giận – tức giận vì các tế bào của Henrietta được đem bán với giá 25 đô một ống nghiệm, tức giận vì các bài báo về những tế bào ấy đã được đăng mà không cho họ biết. Bài báo viết: “Hằn sâu trong tâm trí của họ là cảm giác bực bội vì giới khoa học và báo chí đã lợi dụng họ”. Các bài báo đều đăng ảnh của gia đình Henrietta: con trai cả của bà ngồi trước bàn ăn ở Baltimore, đang đọc một cuốn sách giáo khoa về di truyền học. Con trai thứ của bà trong bộ quân phục, mỉm cười và ẵm một đứa bé mới sinh. Nhưng có một bức ảnh nổi bật hơn cả: trong bức ảnh đó, con gái của Henrietta, https://thuviensach.vn Deborah Lacks, được gia đình vây quanh, mọi người đều mỉm cười, vòng tay quàng lấy nhau, ánh mắt rạng rỡ và phấn khởi. Ngoại trừ Deborah. Cô ấy đứng trước, trông có vẻ cô độc, như thể có người đã ghép hình cô vào bức ảnh sau khi chụp. Khi ấy cô 26 tuổi, rất xinh đẹp với mái tóc ngắn màu nâu cùng đôi mắt mèo. Nhưng đôi mắt ấy nhìn trừng trừng vào máy ảnh, nghiêm nghị và cứng nhắc. Dòng chú thích viết rằng khoảng vài tháng trước gia đình của Henrietta mới được biết các tế bào của bà vẫn còn sống, mặc dù tại thời điểm đó, bà đã mất 25 năm. Tất cả các bài báo đều nhắc đến chuyện các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trên các con của Henrietta, nhưng người nhà Lacks có vẻ không biết các nghiên cứu ấy có mục đích gì. Họ nói rằng họ đã được kiểm tra để xem liệu họ có mắc căn bệnh ung thư đã giết Henrietta hay không, nhưng theo lời các phóng viên, các nhà khoa học đã nghiên cứu gia đình Lacks nhằm mục đích tìm hiểu rõ hơn về tế bào của Henrietta. Các bài báo đã trích lời của con trai bà, Lawrence, người muốn giải đáp câu hỏi liệu sự bất tử ở các tế bào của mẹ anh có đồng nghĩa với việc anh ta cũng có thể sống mãi mãi không? Nhưng có một thành viên trong gia đình Henrietta đã luôn giữ im lặng: con gái của Henrietta, Deborah. Trong quá trình học cao học về viết lách, tôi đã luôn có ý định một ngày nào đó sẽ kể câu chuyện của Henrietta. Thậm chí, có lúc tôi còn gọi cho trung tâm hỗ trợ tra cứu danh bạ điện thoại ở Baltimore để tìm chồng của Henrietta, David Lacks, nhưng tên ông ấy không nằm trong danh sách. Tôi đã có ý tưởng viết một cuốn tiểu sử về cả các tế bào lẫn người phụ nữ sở hữu chúng – đồng thời cũng là một người con, một người vợ, và một người mẹ. Khi ấy tôi đã không thể hình dung được rằng cuộc điện thoại đó sẽ đánh dấu bước khởi đầu của hành trình dài cả một thập niên đến các phòng thí nghiệm, bệnh viện, và các viện tâm thần, với một dàn nhân vật gồm những người đoạt giải Nobel, nhân viên tại các cửa hàng tạp hóa, tội phạm hình sự, và một kẻ https://thuviensach.vn lừa đảo chuyên nghiệp. Trong lúc tìm hiểu về lịch sử kỹ thuật nuôi cấy tế bào và cuộc tranh luận đa chiều xung quanh vấn đề đạo đức của việc sử dụng mô cơ thể người trong nghiên cứu, tôi đã từng bị buộc tội có mưu đồ bất chính và bị dồn vào chân tường, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, hay thậm chí có lúc thấy mình như bị phù phép. Về sau, tôi cũng đã được gặp con gái của Henrietta, Deborah, người hóa ra lại là một phụ nữ mạnh mẽ và bền bỉ nhất mà tôi từng được gặp. Chúng tôi đã tạo lập được một mối quan hệ gắn kết sâu sắc, và dần dần, tôi trở thành một nhân vật trong câu chuyện của cô cũng như cô ấy cũng trở thành nhân vật trong câu chuyện của tôi, từ lúc nào không hay. Deborah và tôi có xuất thân từ những hoàn cảnh xã hội rất khác biệt: tôi là một người da trắng theo thuyết bất khả tri ở Tây Bắc Thái Bình Dương, có một nửa gốc Do Thái ở New York, một nửa đạo Tin Lành ở Trung Tây, còn Deborah là một người da màu trung thành với đạo Cơ Đốc đến từ phía Nam. Tôi thường rời đi khi có vấn đề tín ngưỡng xuất hiện trong cuộc trò chuyện vì nó khiến tôi cảm thấy không thoải mái; còn gia đình Deborah lại có xu hướng giảng đạo, chữa lành nhờ niềm tin, và đôi khi là cả bùa ngải. Cô ấy lớn lên ở khu dân cư dành cho người da màu, vốn là nơi nghèo nhất và nguy hiểm nhất trên cả nước; còn tôi lớn lên ở khu trung lưu yên tĩnh, an toàn trong một thành phố chủ yếu là người da trắng, và theo học ở một trường phổ thông chỉ có hai học sinh da màu. Tôi là một nhà báo khoa học, tôi coi tất cả các hiện tượng siêu nhiên là “mê tín dị đoan”; còn Deborah lại tin linh hồn của Henrietta vẫn sống trong các tế bào của bà, kiểm soát cuộc sống của bất kỳ ai vướng vào chúng. Bao gồm cả tôi. “Nếu không cô giải thích thế nào về việc thầy giáo khoa học của cô biết tên thật của bà trong khi tất cả những người khác gọi bà là Helen Lane?” – Deborah nói. “Bà đã tìm cách thu hút sự chú ý của cô”. Lối suy nghĩ đó sẽ được đem ra áp dụng cho mọi thứ trong cuộc sống của tôi: khi tôi kết hôn trong lúc đang viết cuốn sách này, đó là vì Henrietta muốn có người chăm sóc tôi trong lúc tôi làm việc. Khi tôi ly hôn, đó là vì bà thấy anh ta đang làm https://thuviensach.vn cản trở việc viết lách của tôi. Khi một biên tập viên, người đã kiên quyết bảo tôi cắt bỏ câu chuyện về gia đình Lacks ra khỏi cuốn sách, bị thương trong một tai nạn kỳ bí, Deborah nói đó là những gì xảy ra khi bạn khiến Henrietta tức giận. Người nhà Lacks đã thách thức mọi thứ tôi nghĩ là mình biết về niềm tin, khoa học, báo chí, và chủng tộc. Cuối cùng, cuốn sách này là kết quả. Nó không chỉ là câu chuyện về các tế bào HeLa và Henrietta Lacks, mà còn về gia đình của Henrietta – đặc biệt là Deborah – và những khó khăn, những đau khổ họ phải trải qua để chấp nhận sự tồn tại của các tế bào đó, cũng như chấp nhận thứ khoa học đã tạo điều kiện cho sự tồn tại của những tế bào ấy. https://thuviensach.vn LỜI CỦA DEBORAH Khi người ta hỏi – và dường như người ta lúc nào cũng hỏi, đến nỗi tôi không thể thoát khỏi nó – tôi nói: Phải, đúng đấy, mẹ tôi tên là Henrietta Lacks, bà mất năm 1951, John Hopkins đã lấy các tế bào của bà, và các tế bào ấy vẫn còn sống đến ngày hôm nay, vẫn sinh sôi nảy nở, vẫn phát triển và vẫn lan rộng nếu bạn không giữ chúng đông lạnh. Khoa học gọi bà là HeLa và bà có ở trên toàn thế giới, trong các cơ sở y tế, trong tất cả các máy tính và trên mạng Internet khắp mọi nơi. Khi tôi đến gặp bác sĩ để kiểm tra sức khỏe định kỳ, tôi thường nói với họ mẹ tôi là HeLa. Họ đều tỏ ra phấn khích, và nói với tôi những chuyện đại loại như làm thế nào mà các tế bào của bà đã giúp tạo ra thuốc điều trị bệnh huyết áp mà tôi đang uống, thuốc chống trầm cảm, và tất cả các phát kiến khoa học quan trọng đã xảy ra nhờ có bà. Nhưng họ không bao giờ giải thích rõ ràng điều gì cả mà chỉ nói những lời như, Ừ, mẹ của cô đã lên mặt trăng, đã ở trong bom nguyên tử và đã tạo ra vắc-xin bại liệt. Tôi thực sự không biết bà đã làm tất cả những việc đó bằng cách nào, nhưng tôi nghĩ tôi mừng vì bà đã làm vậy, vì điều đó có nghĩa bà đang giúp rất nhiều người. Tôi nghĩ bản thân bà cũng thích điều đó. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn nghĩ chuyện này thật kỳ lạ, nếu các tế bào của mẹ tôi đã làm được nhiều điều cho y học đến vậy, tại sao gia đình bà vẫn không đủ sức để chi trả cho việc đi khám bệnh? Thật quá vô lý. Người ta đã làm giàu từ mẹ tôi trong khi chúng tôi không hề hay biết về việc họ đã lấy đi các tế bào của bà; tính đến thời điểm hiện tại, chúng tôi chưa được nhận một xu. Tôi đã từng rất tức giận vì điều đó, đến nỗi đổ bệnh, thậm chí tôi phải uống thuốc điều trị. Nhưng tôi không còn giữ nó https://thuviensach.vn trong tâm trí mình để tranh đấu nữa. Tôi chỉ muốn biết mẹ tôi là người như thế nào. https://thuviensach.vn PHẦN I SỰ SỐNG https://thuviensach.vn 1 BUỔI KHÁM BỆNH Ngày 29 tháng 1 năm 1951, David Lacks ngồi sau vô-lăng chiếc Buick cũ kỹ của mình và nhìn từng hạt mưa rơi. Anh đỗ xe dưới một gốc sồi cao chót vót bên ngoài Bệnh viện Johns Hopkins cùng ba đứa con – hai đứa vẫn còn quấn tã – và đợi mẹ của chúng, Henrietta. Vài phút trước, Henrietta vừa nhảy khỏi xe, kéo áo trùm qua đầu, và chạy vội vào bệnh viện, đi ngang qua nhà vệ sinh dành cho “người da màu”, nhà vệ sinh duy nhất cô được phép bước vào. Ở tòa nhà kế bên, dưới mái vòm bằng đồng trang nhã là bức tượng Chúa Jesus bằng cẩm thạch, cao hơn ba mét với cánh tay giang rộng, đứng sừng sững tại nơi từng là lối vào chính của Bệnh viện Hopkins. Mỗi lần đến khám ở đây, mọi người trong gia đình của Henrietta đều ghé thăm bức tượng Chúa Jesus, đặt hoa dưới chân Ngài, cầu nguyện, và xoa ngón chân cái của Ngài để cầu may. Nhưng ngày hôm đó, Henrietta đã không dừng lại. Cô đi thẳng vào buồng chờ của phòng khám phụ khoa, một căn phòng rộng rãi, trống trơn, chẳng có gì ngoài những hàng ghế dài có tựa lưng trông như loại ghế băng trong nhà thờ. “Tôi có một cục u trong bụng”, cô nói với lễ tân. “Tôi cần phải gặp bác sĩ”. Khoảng một năm nay, Henrietta đã tâm sự với những người bạn thân nhất của mình rằng cô cảm thấy có điều gì đó không ổn. Một hôm, sau bữa tối, Henrietta ngồi trên giường cùng với hai người chị em họ của mình là Margaret và Sadie, và nói với họ: “Tôi có một cục u trong người”. “Một cái gì cơ?” – Sadie hỏi. https://thuviensach.vn “Một cục u”, Henrietta đáp. “Đau khủng khiếp – khi David muốn làm ‘chuyện ấy’, Chúa nhân từ không còn hiện diện mà chỉ còn những cơn đau”. Khi bắt đầu cảm thấy đau đớn lúc gần gũi chồng, cô đã nghĩ có thể là do cô mới sinh Deborah vài tuần trước, hoặc vì thứ máu xấu mà đôi khi David mang về sau những đêm hoan lạc với người đàn bà khác – loại bệnh mà các bác sĩ thường chữa trị bằng những mũi penicillin và kim loại nặng. Henrietta cầm lấy tay từng người và đặt chúng lên bụng mình, hệt như cách cô từng làm khi Deborah bắt đầu biết đạp trong bụng. “Mọi người có thấy gì không?” Các chị em họ ấn ngón tay lên bụng của cô hết lần này đến lần khác. “Tôi không biết”, Sadie nói. “Có thể chị đang chửa ngoài dạ con – chị biết chuyện đó có thể xảy ra mà”. “Tôi không hề có bầu”, Henrietta nói. “Đó là một cục u”. “Hennie, chị phải đi kiểm tra đi. Chẳng may có chuyện gì xấu xảy ra thì sao?” Nhưng Henrietta đã không đến gặp bác sĩ, và các chị em họ của cô cũng không nói với ai về việc này. Ngày đó, người ta không nói về những vấn đề như bệnh ung thư, nhưng Sadie biết rằng Henrietta giữ kín chuyện này vì cô sợ bác sĩ sẽ cắt tử cung của cô và khiến cô không thể tiếp tục có con nữa. Khoảng một tuần sau khi nói chuyện ấy với các chị em họ, ở tuổi 29, Henrietta phát hiện mình đã mang thai Joe, đứa con thứ năm của cô. Sadie và Margaret nói với Henrietta rằng có lẽ việc mang thai làm cô bị đau. Nhưng Henrietta vẫn khăng khăng phủ nhận. “Tôi thấy đau từ trước khi có bầu”, Henrietta nói với họ. “Đó chắc hẳn phải là một thứ gì khác”. Sau đó, tất cả bọn họ không nhắc gì về cục u ấy nữa, và cũng không ai nói với chồng của Henrietta về việc ấy. Rồi, bốn tháng https://thuviensach.vn g g ệ y g rưỡi sau khi Joseph[7] chào đời, Henrietta vào nhà tắm và nhìn thấy vết máu lốm đốm ở đũng quần lót, mặc dù hôm đó chưa đến kỳ kinh nguyệt. Cô xả nước vào bồn tắm, thả người xuống làn nước ấm, rồi từ từ rạng rộng hai chân. Cô đóng chặt cửa nhà tắm để không ai có thể bước vào, rồi thọc một ngón tay vào cửa mình và xoa xung quanh cổ tử cung cho đến khi tìm thấy thứ mà cô đã biết mình sẽ tìm thấy: một cái bướu cứng, nằm sâu bên trong, như thể có ai đó đã nhét một viên bi vào bên trái cổ tử cung của cô. Henrietta trèo khỏi bồn tắm, lau khô người, và mặc quần áo, rồi nói với chồng: “Anh đưa em đến gặp bác sĩ ngay. Em chưa đến kỳ mà vẫn bị chảy máu”. Vị bác sĩ ở phòng khám địa phương kiểm tra bên trong âm đạo, thấy cục bướu, và cho rằng đó là vết lở loét vì bệnh giang mai. Nhưng kết quả xét nghiệm cho kết quả âm tính với bệnh giang mai, nên ông ta khuyên Henrietta nên đến phòng khám phụ khoa của bệnh viện Johns Hopkins. Hopkins là một trong những bệnh viện hàng đầu ở Mỹ. Nó được xây vào năm 1889 như một bệnh viện thiện nguyện cho những người bệnh nghèo, với diện tích hơn 48.500 m2, tại nơi từng là nghĩa trang và bệnh viện tâm thần ở Đông Baltimore. Các phòng bệnh công lập ở Hopkins lúc nào cũng chật ních bệnh nhân, hầu hết là người da màu và không đủ khả năng chi trả cho các chi phí khám chữa bệnh. David lái xe đưa Henrietta vượt qua quãng đường 30 km để đến đó, không phải vì họ muốn, mà vì đó là bệnh viện lớn duy nhất trong bán kính nhiều kilomet quanh đây chịu chữa trị cho các bệnh nhân da màu. Đây là thời đại của Jim Crow[8] – nếu các bệnh nhân da màu xuất hiện ở những bệnh viện dành riêng cho người da trắng, nhân viên sẽ đuổi họ về, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc họ có thể chết ngay lập tức ở bãi đỗ xe. Thậm chí ở Hopkins, nơi chấp nhận điều trị các bệnh nhân da màu, cũng có phòng khám và vòi nước riêng dành cho người da màu. https://thuviensach.vn Do đó khi gọi Henrietta từ phòng chờ, y tá đã dẫn cô qua một cánh cửa để đến phòng khám dành cho người da màu – một trong số các dãy phòng được ngăn ra bởi các tấm kính trong suốt, cho phép các y tá nhìn xuyên từ phòng này sang phòng khác. Henrietta cởi đồ, khoác lên người chiếc áo choàng cứng màu trắng của bệnh viện, rồi nằm lên chiếc bàn khám bằng gỗ, đợi Howard Jones, bác sĩ phụ khoa trực ngày hôm đó. Jones là một người đàn ông mảnh khảnh, mái tóc hoa râm, và một giọng nói trầm trầm pha chút chất giọng niềm Nam nên nghe nhẹ hơn. Khi ông bước vào phòng khám, Henrietta nói với ông về cục bướu. Trước khi khám cho cô, ông xem qua bệnh án – một phác thảo nhanh về cuộc đời cô, với hàng loạt những căn bệnh chưa được chữa trị: Học hết lớp sáu hoặc lớp bảy; nội trợ, là mẹ của năm đứa con. Mắc chứng khó thở từ nhỏ do viêm họng tái phát nhiều lần và vẹo vách ngăn mũi. Bác sĩ điều trị đã kiến nghị phẫu thuật. Bệnh nhân từ chối. Bệnh nhân bị đau răng gần 5 năm; cuối cùng răng sâu đã được nhổ cùng vài cái khác. Mối lo duy nhất là con gái đầu lòng bị động kinh và không nói được. Gia đình hạnh phúc. Thỉnh thoảng có uống rượu. Chưa từng đi du lịch. Được nuôi dưỡng tốt, có tinh thần hợp tác. Bệnh nhân có chín anh chị em. Một người chết vì tai nạn ôtô, một người khác chết vì bệnh thấp tim, một người bị ngộ độc. Chảy máu âm đạo không lý do và đi tiểu ra máu trong hai lần mang thai gần nhất; bác sĩ điều trị đã kiến nghị làm xét nghiệm tế bào hồng cầu hình liềm. Bệnh nhân từ chối. Ở cùng chồng từ năm 15 tuổi và không có hứng thú với quan hệ tình dục. Bệnh nhân mắc giang mai thần kinh không triệu chứng nhưng ngưng điều trị giang mai, bệnh nhân nói rằng vẫn cảm thấy ổn. Hai tháng trước, sau khi sinh con thứ năm, bệnh nhân đi tiểu ra máu nhiều. Các xét nghiệm cho thấy sự gia tăng hoạt động của các tế bào cổ tử cung. Bác sĩ điều trị đã khuyên đi kiểm tra và giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa để loại trừ khả năng nhiễm trùng hoặc ung thư. Bệnh nhân hủy cuộc hẹn. Một tháng https://thuviensach.vn trước, bệnh nhân xét nghiệm dương tính với lậu. Bệnh nhân được hẹn lại để chữa trị nhưng không có hồi âm. Không có gì ngạc nhiên khi cô đã không quay lại suốt những lần ấy để tái khám. Đối với Henrietta, bước vào Hopkins cũng như đặt chân đến một đất nước xa lạ mà cô không nói tiếng của người bản địa. Cô biết thu hoạch thuốc lá và mổ lợn, nhưng cô chưa bao giờ nghe đến những từ như cổ tử cung hay sinh thiết. Cô đọc và viết không được nhiều, và cô chưa bao giờ được học môn khoa học ở trường. Cô, cũng như hầu hết các bệnh nhân da đen khác, chỉ đến Hopkins khi nghĩ mình không còn sự lựa chọn nào khác. Jones lắng nghe Henrietta miêu tả về triệu chứng chảy máu và cơn đau. Sau này ông viết lại: “Bệnh nhân nói rằng cô ấy biết có điều gì đó không ổn trong cổ tử cung của mình. Khi được hỏi tại sao cô biết, bệnh nhân nói cô cảm thấy như thể có một cái bướu ở đó. Tôi không thực sự hiểu ý của bệnh nhân là gì khi nói vậy, trừ phi cô ấy thực sự đã sờ vào khu vực này”. Henrietta nằm trên bàn khám, chân ghì mạnh xuống kiềng để chân, mắt nhìn lên trần nhà. Và hiển nhiên, Jones đã tìm thấy một cái bướu ở chính nơi mà Henrietta nói. Ông miêu tả nó như một khối u cứng, đã bị bào mòn, có kích cỡ bằng một đồng 25 xu. Nếu cổ tử cung của cô là mặt một chiếc đồng hồ thì khối u nằm ở góc bốn giờ. John đã nhìn thấy cả ngàn trường hợp tổn thương do ung thư cổ tử cung, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy khối u nào như vậy: bóng và tím (như “thạch nho”, ông viết lại sau này), rất nhạy cảm, mỏng manh đến nỗi chỉ cần chạm nhẹ cũng gây chảy máu. Jones cắt một mẫu nhỏ và gửi đến phòng xét nghiệm bệnh học phía cuối hành lang để chẩn đoán. Rồi ông bảo Henrietta về nhà. Không lâu sau đó, Howard Jones ngồi xuống và đọc các ghi chép về Henrietta và các chẩn đoán của cô: “Bệnh sử của bệnh nhân đáng chú ý ở chỗ: cô ấy đã từng sinh con tại bệnh viện này https://thuviensach.vn vào ngày 19 tháng 9 năm 1950”, ông nói. “Nhưng không có ghi chép nào được lưu lại lúc bấy giờ, cũng như lần tái khám vào sáu tuần sau đó, về bất kỳ dấu hiệu bất thường nào xuất hiện ở cổ tử cung của cô”. Nhưng lúc này đây, ba tháng rưỡi sau đó, cô đã mang một khối u phát triển hoàn chỉnh. Hoặc các bác sĩ đã bỏ qua khối u trong những lần khám trước – khả năng này là rất thấp – hoặc khối u đã phát triển với tốc độ kinh hoàng. https://thuviensach.vn 2 CLOVER Henrietta Lacks được sinh ra với cái tên Loretta Pleasant tại Roanoke, Virginia, vào ngày 1 tháng 8 năm 1920. Không ai biết vì sao cô có cái tên Henrietta. Một bà đỡ tên là Fannie đã cắt dây rốn cho Henrietta trong một căn lán nhỏ nằm trong một ngõ cụt nhìn ra nhà ga xe lửa, nơi hàng trăm toa hàng đến và đi mỗi ngày. Henrietta ở trong căn lán ấy cùng bố mẹ và tám anh chị em cho đến năm 1924, khi mẹ của cô, bà Eliza Lacks Pleasant, qua đời trong lúc hạ sinh đứa con thứ mười. Cha của Henrietta, Johnny Pleasant, là một người đàn ông mập mạp và lùn xủn, dáng đi tập tễnh bên chiếc gậy mà ông thường dùng để đánh người khác. Truyện gia đình kể rằng ông đã giết một người người anh em ruột của mình vì dám ve vãn Eliza. Johnny không đủ kiên nhẫn để nuôi con, nên khi Eliza chết, ông đã đưa chúng về Clover, Virginia, nơi gia đình ông vẫn cày xới trên những cánh đồng thuốc lá mà tổ tiên của họ đã làm việc như những nô lệ. Không ai ở Clover có thể nhận nuôi cả 10 đứa trẻ, nên những người họ hàng đã tách chúng ra, đứa ở với ông anh họ này, đứa ở với bà dì kia. Henrietta về sống với ông ngoại, Tommy Lacks. Tommy sống ở nơi thường được gọi là Nhà Chung, một túp lều bốn phòng từng được dùng làm chỗ sinh hoạt cho các nô lệ, với sàn nhà được ghép từ những tấm ván, đèn dầu, và nước từ con lạch được Henrietta kéo lên theo một sườn đồi dài. Nhà Chung được xây trên sườn đồi ấy, nơi những cơn gió thường rít qua các kẽ nứt trên tường. Không khí bên trong lạnh đến nỗi khi có người chết, gia đình họ đặt xác ở tiền sảnh suốt nhiều ngày để mọi người có thể đến viếng. Sau đó, thi thể được đem chôn ở nghĩa trang phía sau. https://thuviensach.vn Ông của Henrietta cũng đang nuôi một đứa cháu khác, một trong số các cô con gái của ông, sau khi sinh xong đã bỏ lại nó trên sàn của Nhà Chung. Tên của đứa trẻ ấy là David Lacks, nhưng mọi người gọi nó là Day, vì với cái giọng nhà quê lè nhè của gia đình Lacks, nhà nghe na ná như nhè, còn David nghe như Day. Cậu Day Trẻ là tên mà gia đình Lacks gọi là đứa con vụng trộm này: một người đàn ông tên Johnny Coleman ghé qua thị trấn; chín tháng sau thì Day chào đời. Một cô chị họ 12 tuổi và một bà đỡ tên là Munchie đã đỡ đẻ Day, trông nó xanh lét như bầu trời trong cơn bão và không hề thở. Một bác sĩ da trắng đến Nhà Chung, đầu đội mũ quả dưa, tay chống gậy, đã viết “chết non” vào giấy chứng sinh của Day, rồi cưỡi cỗ xe độc mã của mình quay về thị trấn, bỏ lại một đám mây bụi màu đỏ phía sau. Munchie đã cầu nguyện khi ông bác sĩ bỏ đi, Chúa nhân từ, con biết Ngài không có ý mang đứa trẻ này đi. Bà tắm cho Day trong một chậu nước ấm, rồi đặt nó lên tấm ga trải giường màu trắng, vừa xoa vừa vỗ lên ngực thằng bé cho đến khi nó hổn hển thở và nước da xanh lét của nó ấm lên rồi chuyển sang màu nâu nhạt. Khi Johnny Pleasant gửi Henrietta đến sống với ông Tommy, cô bé lên bốn còn Day gần chín tuổi. Không ai có thể ngờ rằng cô bé sẽ sống cả phần đời còn lại cùng Day – ban đầu với tư cách một người em họ cùng lớn lên trong ngôi nhà của ông ngoại, và sau đó thành vợ của cậu ta. Khi còn nhỏ, Henrietta và Day thức dậy mỗi sáng vào lúc bốn giờ để vắt sữa bò, rồi cho gà, lợn, và ngựa ăn. Họ chăm sóc cho khu vườn đầy ngô, lạc, và rau xanh, rồi ra cánh đồng thuốc lá cùng các anh chị em họ – Cli, Fred, Sadie, Margaret, và một đám những đứa trẻ khác. Chúng đã dành phần lớn tuổi thơ của mình cúi rạp trên những cánh đồng ấy, trồng thuốc lá trên những luống đất được cày bởi những con la. Cứ mỗi vụ mùa chúng lại hái những chiếc lá to bản khỏi cuống và buộc lại thành những bó nhỏ. Ngón tay của chúng thô ráp và nhớp nhúa https://thuviensach.vn vì nhựa nicotine. Rồi sau đó lũ trẻ sẽ trèo lên trên xà nhà trong kho thuốc lá của ông, treo hết bó này đến bó khác lên đó để sấy khô. Mùa hè đến, chúng lại cầu nguyện cho một cơn bão đến để làm dịu cái nóng như thiêu như đốt. Khi bão về, chúng hò hét và chạy qua những cánh đồng, tranh thủ nhặt đầy những quả chín và quả óc chó bị gió thổi rơi từ trên cây xuống. Cũng như hầu hết trẻ con nhà Lacks, Day không học hết phổ thông. Cậu đã nghỉ học từ lớp bốn vì gia đình cần cậu làm việc đồng áng. Nhưng Henrietta đã học đến lớp sáu. Trong suốt năm học, vào mỗi buổi sáng sau khi chăm sóc vườn tược và đàn gia súc, cô bé lại đi bộ ba cây số – qua trường học của tụi da trắng, nơi lũ trẻ thường ném đá và trêu chọc cô – để đến trường dành cho học sinh da màu. Đây là một căn nhà bằng gỗ trong nông trại, gồm ba phòng, nằm dưới những tán cây cao rợp bóng, với khoảnh sân phía đằng trước – nơi cô Coleman thường bắt các học sinh nam nữ chơi ở hai phía khác nhau. Mỗi khi tan trường và khi không phải đi học, Henrietta lại ra đồng với Day và các anh chị em họ khác. Nếu thời tiết đẹp, khi xong việc, lũ trẻ sẽ chạy thẳng ra “hồ bơi” mà chúng xây mỗi năm bằng cách dùng đá, gậy, bao cát, và bất cứ thứ gì nặng có thể chìm để chặn dòng nước của con lạch phía sau nhà. Chúng ném đá xuống nước để xua đuổi những con rắn nước độc, rồi nhảy ùm xuống từ những cành cây hoặc trượt xuống từ hai bờ đầy bùn. Đêm xuống, chúng đốt lửa bằng những đôi giày cũ để đuổi muỗi, và ngắm sao từ dưới gốc sồi già, nơi chúng treo một sợi thừng để chơi đu quay. Chúng cùng nhau chơi bịt mắt bắt dê, nhảy lò cò, đuổi bắt và nhảy múa hát ca quanh cánh đồng cho đến khi ông Tommy hò hét bắt cả lũ đi ngủ. Hằng đêm, đám anh chị em họ chen chúc nhau trong căn buồng phía trên gian bếp gỗ nhỏ, cách Nhà Chung vài bước chân. Đứa này nằm cạnh đứa kia, kể chuyện về người nông dân trồng thuốc lá không đầu đi lang thang khắp các con phố khi đêm xuống, hay về người đàn ông không mắt sống ở bờ sông, rồi https://thuviensach.vn lăn ra ngủ cho đến khi bà Chloe nhóm bếp bên dưới và đánh thức chúng bằng mùi bánh quy mới nướng thơm lừng. Cứ mỗi tháng một lần vào mùa thu hoạch, ông Tommy sẽ buộc ngựa vào xe sau bữa tối và chuẩn bị sẵn sàng để đi vào thị trấn Nam Boston – thủ phủ của chợ buôn thuốc lá lớn thứ hai trong cả nước, nơi có những cuộc diễu hành quảng cáo thuốc lá, cuộc thi Hoa hậu Thuốc lá, và một bến cảng để tàu thuyền đến thu gom thứ lá khô ấy cho những người hút thuốc trên khắp thế giới. Trước khi rời khỏi nhà, Tommy sẽ bảo lũ trẻ chui vào chiếc giường bằng lá thuốc lá trên xe ngựa, chúng chống cự với cơn buồn ngủ cho đến khi díp mắt lại trong tiếng vó ngựa đều đều. Như các nông dân khác từ khắp vùng Virginia, Tommy Lacks và lũ cháu sẽ đi ngựa suốt đêm để mang nông sản của mình đến Nam Boston, xếp hàng cùng các xe khác lúc bình minh – cỗ xe hàng này nối tiếp cỗ xe hàng khác – chờ tới khi những cánh cửa gỗ khổng lồ màu xanh của nhà kho đấu giá mở ra. Khi đến nơi, Henrietta cùng các anh chị em sẽ giúp ông tháo ngựa ra khỏi xe, đổ ngũ cốc vào máng cho chúng ăn, rồi dỡ thuốc lá xuống sàn gỗ của nhà kho. Người bán đấu giá sẽ đọc liến láu những con số vọng khắp căn phòng rộng lớn có trần nhà cao khoảng 10 mét, đen kịt vì những lớp bụi đã bám nhiều năm. Trong lúc Tommy Lacks đứng bên cạnh số nông sản và cầu mong sẽ bán được giá tốt, thì Henrietta và bọn trẻ chạy quanh những đống thuốc lá, miệng liến thoắng nhại theo người đấu giá. Khi đêm xuống, chúng sẽ giúp Tommy kéo số thuốc lá chưa bán được xuống tầng hầm, rồi ông lại trải những đống lá thành chiếc giường cho lũ trẻ. Các nông dân da trắng ngủ trên tầng, trong những căn phòng riêng; còn nông dân da màu ngủ ở khu vực tối tăm bên dưới nhà kho cùng những con ngựa, con la, và lũ chó, trên nền đất bụi bặm với các dãy chuồng gỗ dành cho gia súc, và hàng núi vỏ chai rượu xếp cao tới tận trần nhà. Đêm tối ở nhà kho là thời gian của rượu chè, cờ bạc, mại dâm, và thậm chí đôi khi là giết người khi những người nông https://thuviensach.vn dân nướng sạch số tiền kiếm được sau vụ mùa. Từ những chiếc giường lá, lũ trẻ nhà Lacks sẽ nhìn chằm chằm lên xà nhà to bằng thân cây trước lúc ngủ thiếp đi giữa tiếng cười nói, tiếng vỏ chai loảng xoảng, và mùi lá thuốc khô. Trời sáng, chúng lại chất lên xe ngựa số thuốc lá chưa bán được và khởi hành chặng đường dài về nhà. Đám trẻ ở lại Clover đều biết rằng mỗi chuyến đi Nam Boston đồng nghĩa với những món thết đãi cho tất cả mọi người – có thể là một miếng pho mát, hoặc một mẩu xúc xích bologna – nên chúng đợi hàng giờ đồng hồ trên Phố Chính để bám theo xe ngựa về Nhà Chung. Phố Chính rộng rãi đầy bụi của Clover chật cứng những chiếc xe Model A[9], và xe hàng do ngựa và la kéo. Ông Snow Già là người đầu tiên trong thị trấn có máy kéo, ông lái nó đến cửa hàng như lái một chiếc ôtô với tờ báo kẹp dưới tay cùng hai con chó săn Cadillac và Dan sủa inh ỏi bên cạnh. Phố Chính có rạp chiếu phim, nhà băng, cửa hàng trang sức, phòng khám, cửa hàng kim khí, và một vài nhà thờ. Mỗi khi đẹp trời, những người đàn ông da trắng mặc quần có dây đeo, đội mũ chóp cao, cầm những điếu xì gà dài – tất cả từ ngài thị trưởng cho đến bác sĩ hay nhân viên nhà xác – sẽ đứng dọc Phố Chính, nhấp từng ngụm whiskey từ những bình đựng nước hoa quả, trò chuyện, hoặc chơi cờ trên mặt thùng gỗ trước cửa hiệu thuốc. Các bà vợ của họ sẽ đứng tán gẫu ở cửa hàng tạp hóa trong lúc con họ ngủ trên mặt quầy thu ngân, gối đầu lên những cuộn vải dài. Henrietta và các anh chị em thường làm thuê cho những người da trắng ấy, nhặt lá thuốc lá với giá 10 xu để có tiền xem những bộ phim cao bồi Buck Jones yêu thích của chúng. Người chủ rạp chiếu những bộ phim đen trắng không tiếng, còn bà vợ chơi dương cầm theo phim. Bà ta chỉ biết một bản nhạc duy nhất, nên bà ấy chơi bản nhạc theo phong cách lễ hội hóa trang vui nhộn trong mọi cảnh phim, kể cả khi các nhân vật bị bắn chết. Lũ trẻ nhà Lacks ngồi trên khu ghế dành cho người da màu, ngay cạnh máy chiếu kêu tành tạch suốt cả bộ phim. https://thuviensach.vn Khi Henrietta và Day lớn hơn, chúng không còn chơi trò bịt mắt bắt dê, thay vào đó là những cuộc đua ngựa trên con đường đất chạy dọc đồn điền thuốc lá của nhà Lacks, giờ được gọi đơn giản là Thị trấn Lacks. Lũ con trai thường giành nhau cưỡi Charlie, con ngựa hồng cao lớn của ông Tommy, có thể đánh bại bất cứ con ngựa nào khác ở Clover. Henrietta và lũ con gái đứng nhìn bên sườn đồi hoặc đằng sau những cỗ xe ngựa chất đầy rơm, nhảy cẫng lên và vỗ tay hò hét khi lũ con trai phi qua trên lưng ngựa. Henrietta thường cổ vũ cho Day, nhưng đôi khi cô cũng cổ vũ cho người anh em họ, Joe Grinnan Khùng của mình. Joe Khùng là cái tên mà Cli dùng để gọi “anh chàng quá khổ” – cao ráo, vạm vỡ, và mạnh mẽ, với nước da tối sậm, cái mũi nhọn, và lông đen phủ khắp đầu, tay, lưng, và cổ, đến nỗi cậu ta phải cạo cả người để khỏi chết nóng mỗi mùa hè. Mọi người gọi cậu ta là Joe Khùng vì cậu ta yêu Henrietta say đắm, cậu ta sẽ làm bất cứ điều gì để thu hút sự chú ý của cô. Henrietta là cô gái xinh xắn nhất ở Thị trấn Lacks, với nụ cười rạng rỡ và đôi mắt hình quả hạnh. Lần đầu tiên Joe Khùng bán mạng vì Henrietta là lúc cậu ta chạy vòng quanh người cô giữa mùa đông khi Henrietta đang trên đường đi học về. Cậu ta đã năn nỉ cô hẹn hò với mình: “Hennie, thôi mà... cho anh một cơ hội đi”. Khi cô bật cười và từ chối, Joe Khùng đã bỏ chạy rồi nhảy thẳng xuống hồ nước đóng băng lạnh cóng, và nhất quyết không ngoi lên cho đến khi cô đồng ý hẹn hò. Tất cả các anh chị em khác đã trêu chọc Joe rằng: “Chắc nó nghĩ nước đá sẽ làm nó nguội bớt, nhưng do quá cuồng Hennie, nó nóng đến mức làm nước đá gần sôi!” Sadie, em ruột của Joe Khùng, đã hét lên với cậu ta: “Anh yêu một đứa con gái đến mức sẵn sàng chết vì nó ư? Dớ dẩn”. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra giữa Henrietta và Joe Khùng, ngoài vài lần hẹn hò và có vài nụ hôn. Tuy nhiên https://thuviensach.vn Henrietta và Day đã ngủ chung một phòng từ khi cô bốn tuổi, nên những gì xảy ra tiếp theo không làm ai ngạc nhiên: Henrietta và Day bắt đầu có con với nhau. Cậu con trai Lawrence của họ chào đời chỉ vài tháng sau sinh nhật lần thứ 14 của Henrietta; em gái cậu, Lucile Elsie Pleasant chào đời bốn năm sau đó. Cả hai đứa nhỏ đều được sinh ra trên sàn Nhà Chung như cha mẹ và ông bà của chúng. Lúc bấy giờ, người ta không dùng những từ như động kinh, thiểu năng trí tuệ, hay giang mai thần kinh để miêu tả tình trạng của Elsie. Đối với người dân ở Thị trấn Lacks, cô bé chỉ đơn giản là ngây ngô, điên điên. Cô bé chào đời quá nhanh, Day thậm chí còn chưa kịp trở lại cùng bà đỡ thì Elsie đã ra khỏi bụng mẹ và va đập xuống sàn. Ai cũng cho rằng có lẽ đó là lý do cô bé có trí tuệ của một đứa trẻ sơ sinh. Cuốn niên giám cũ kỹ đầy bụi ở nhà thờ của Henrietta chứa đầy tên của những người đàn bà có con ngoài giá thú, nhưng vì một lý do nào đó lại không có tên của Henrietta, dù thậm chí có lời đồn khắp Thị trấn Lacks rằng có thể Joe Khùng là cha của một trong số những đứa con của cô. Khi Joe Khùng hay tin Henrietta sắp cưới Day, cậu ta tự đâm vào ngực bằng một con dao bỏ túi cũ kỹ. Cha của Joe thấy cậu ta say khướt nằm trong sân, áo đẫm máu. Ông cố tìm cách cầm máu cho Joe, nhưng cậu ta kháng cự – quẫy đạp và vung tay đấm đá – khiến cho máu càng chảy nhiều hơn. Cuối cùng sau một hồi vật lộn cha của Joe cũng kéo được cậu ta lên xe, trói cậu ta vào cửa, và chở cậu ta đến gặp bác sĩ. Khi Joe trở về, băng bó đầy người, Sadie không ngừng nói: “Tất cả chỉ để ngăn không cho Hennie cưới Day ư?” Tuy nhiên Joe Khùng không phải là người duy nhất tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân này. Chị gái của Henrietta, Gladys, cũng không ngừng nói Henrietta có thể tìm được người tốt hơn Day. Hầu hết những người nhà Lacks khi kể về Henrietta và Day cũng như cuộc sống ban đầu của họ ở Clover, họ đều khiến nó thi vị như một câu chuyện cổ tích. Trừ Gladys. Không ai biết vì sao cô ngăn cản https://thuviensach.vn cuộc hôn nhân ấy. Một số người cho rằng Gladys chỉ ghen tuông vì Henrietta xinh đẹp hơn. Nhưng Gladys lúc nào cũng khăng khăng rằng Day sẽ không phải là một người chồng tốt. Henrietta và Day tổ chức lễ cưới một mình ở nhà mục sư của họ vào ngày 11 tháng 4 năm 1941. Khi đó cô 20 tuổi và Day 25 tuổi. Họ không có tuần trăng mật vì có quá nhiều việc phải làm, và cũng không có tiền để đi du lịch. Đến mùa đông, nước Mỹ có chiến tranh và các công ty thuốc lá cung cấp thuốc lá miễn phí cho binh lính, nên thị trường thuốc lá lúc bấy giờ nở rộ. Tuy nhiên trong khi các nông trường lớn làm ăn phát đạt, các trang trại nhỏ lại gặp khó khăn. Henrietta và Day phải may mắn lắm mới có thể bán đủ số thuốc lá mỗi mùa để nuôi sống cả nhà và gieo giống cho vụ tới. Do vậy sau lễ cưới, Day quay lại với việc cầm cái cán nứt toác của chiếc cày gỗ trong lúc Henrietta theo sau, đẩy chiếc xe cút kít tự chế và gieo hạt thuốc lá vào những cái lỗ vừa được xới trên mặt đất đỏ. Rồi một buổi chiều cuối năm 1941, người anh em họ tên là Fred Garret xuất hiện trên con đường đất cạnh cánh đồng của họ. Anh ta vừa trở về từ Baltimore với chiếc Chevy ‘36 bóng loáng và bộ cánh đắt tiền. Chỉ một năm trước, Fred và em trai Cli vẫn còn là những nông dân trồng thuốc lá ở Clover. Để kiếm thêm tiền, họ đã mở một cửa hàng tiện lợi “dành cho da màu”, nơi hầu hết khách hàng chỉ có thể trả bằng phiếu ghi nợ. Họ cũng mở một hộp đêm xây bằng gạch xỉ than, và Henrietta thường nhảy ở đây, trên sàn nhà bằng đất đỏ. Khách đến đều thả xu vào máy hát tự động và uống RC Cola, nhưng lời lãi chẳng đáng bao nhiêu. Vậy nên cuối cùng Fred đã cầm 3 đô và 25 xu cuối cùng của mình rồi mua vé xe buýt đến phía Bắc tìm một cuộc sống mới. Anh ta, cũng như một số anh em họ khác, tới làm tại nhà máy thép Sparrows Point của công ty thép Bethlehem và sống ở Turner Station, một cộng đồng nhỏ gồm những công nhân da màu trên bán đảo sông Patapsco, cách trung tâm Baltimore khoảng 32 km. https://thuviensach.vn Vào những năm cuối thế kỷ 19, khi Sparrows Point mới đi vào hoạt động, Turner Station chủ yếu là các đầm lầy, nông trang và vài căn nhà lụp xụp được lót những tấm ván để làm đường đi bộ. Khi nhu cầu sử dụng thép gia tăng giữa Thế chiến Thứ nhất, từng dòng người da trắng đã chuyển đến sống ở thị trấn Dundalk gần đó, và các khu dân cư “da màu” của công ty thép Bethlehem đã nhanh chóng bị quá tải, đẩy họ sang Turner Station. Đến những năm đầu Thế chiến Thứ hai, Turner Station đã có vài con đường được lát, một bác sĩ, một cửa hàng tạp hóa, và một người bán nước đá. Nhưng người dân vẫn phải đấu tranh để có nước sinh hoạt, hệ thống cống rãnh, và trường học. Sau đó, vào tháng 12 năm 1941, Nhật Bản đánh bom Trân Châu Cảng, và Turner Station như thể vừa trúng số: nhu cầu sử dụng thép tăng vọt cùng với nhu cầu công nhân. Chính phủ rót tiền vào Turner Station, những dự án xây nhà một hoặc hai tầng bắt đầu mọc lên. Các căn nhà được xây sát vách nhau hoặc đấu lưng với nhau, một số khu có bốn đến năm trăm hộ. Hầu hết những căn nhà được xây bằng gạch, số còn lại được phủ bằng ván amiăng. Một số nhà có sân vườn, còn số khác thì không. Từ trong các căn nhà, bạn có thể nhìn thấy những ánh lửa lập lòe trên các lò luyện kim của Sparrows Point, và khói đỏ từ các ống khói bay lên. Sparrows Point nhanh chóng trở thành nhà máy thép lớn nhất thế giới. Nó sản xuất những cốt thép, dây thép gai, đinh và thép để sản xuất ôtô, tủ lạnh, tàu quân sự. Nó đốt cháy hơn sáu triệu tấn than mỗi năm để làm ra ra tám triệu tấn thép và tạo công ăn việc làm cho hơn 30.000 công nhân. Công ty thép Bethlehem là một mỏ vàng trong thời kỳ nghèo đói, đặc biệt đối với các hộ gia đình da màu từ phía Nam. Tin tức về công ty thép Bethlehem được truyền từ Maryland đến các nông trại ở Virginia và vùng Carolina[10], như một phần của hiện tượng được biết đến dưới cái tên Cuộc Đại di cư, các gia đình da màu lũ lượt kéo từ phía Nam đến Turner Station – Vùng Đất Hứa. https://thuviensach.vn Công việc rất nặng nhọc, đặc biệt đối với người da màu, vốn phải làm các công việc mà người da trắng không đụng tới. Cũng như Fred, các công nhân da màu thường bắt đầu làm việc ở trong thân những con tàu đang đóng dở, họ nhặt bu-lông, đinh tán, và đai ốc khi chúng rơi xuống khỏi tay của những người đang khoan và hàn từ khoảng chục mét ở phía trên. Dần dần các công nhân da màu chuyển đến lò hơi, xúc những xẻng than vào lò luyện nóng rực. Cả ngày họ hít vào khói than và amiăng độc hại, rồi mang chúng về cho vợ con, những người cũng hít phải nó trong lúc giặt rũ quần áo cho cánh đàn ông. Công nhân da màu ở Sparrows Point kiếm khoảng 80 xu mỗi giờ, và thường thì được ít hơn. Công nhân da trắng thì kiếm được nhiều hơn, nhưng Fred không than phiền: 80 xu mỗi giờ là mức lương cao hơn nhiều so với những gì người nhà Lacks từng thấy. Fred đã phát đạt. Và giờ anh trở về Clover để thuyết phục Henrietta và Day cũng nên thử. Sau ngày trở về thị trấn, Fred đã mua cho Day một vé xe buýt đến Baltimore. Họ đã thống nhất rằng Henrietta sẽ ở lại để chăm sóc cho lũ trẻ và trông nom ruộng thuốc lá cho đến khi Day kiếm đủ tiền để mua nhà riêng ở Baltimore và ba vé xe buýt khác đến Baltimore cho mẹ con Henrietta. Vài tháng sau, Fred nhận được thông báo cử anh ra nước ngoài. Trước khi rời đi, Fred đã đưa cho Day tất cả số tiền anh ta dành dụm được và nói rằng, đã đến lúc đưa Henrietta và lũ trẻ đến Turner Station. Không lâu sau, hai tay hai đứa nhỏ, Henrietta bước lên con tàu chạy bằng than từ nhà ga bằng gỗ nhỏ xíu ở cuối Phố Chính của Clover. Cô bỏ lại những cánh đồng thuốc lá đã gắn bó cả tuổi thơ và gốc sồi trăm tuổi đã che bóng cho cô vào những buổi chiều nóng nực. Ở tuổi 21, lần đầu tiên trong đời, Henrietta nhìn chăm chú vào những ngọn đồi uốn lượn và dòng sông mênh mang qua cửa sổ con tàu, hướng đến một cuộc sống mới. https://thuviensach.vn 3 CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ Sau lần khám ở Hopkins, Henrietta quay về với cuộc sống thường nhật, dọn dẹp, giặt giũ và nấu nướng cho Day, bọn trẻ, và những anh chị em họ hàng ghé qua nhà. Vài ngày sau đó, Jones đã nhận được kết quả sinh thiết của cô từ phòng xét nghiệm bệnh học: “Ung thư biểu mô cổ tử cung, giai đoạn 1”. Tất cả các loại ung thư đều bắt nguồn từ sai hỏng trong một tế bào, và được phân loại dựa vào loại tế bào mà chúng bắt nguồn. Hầu hết các loại ung thư cổ tử cung đều thuộc loại ung thư biểu mô, bắt nguồn từ các tế bào biểu bì bao phủ và bảo vệ bề mặt cổ tử cung. Tình cờ, khi Henrietta xuất hiện ở Hopkins và than phiền về việc chảy máu bất thường, Jones và sếp của ông, Richard Wesley TeLinde, đang vướng vào một cuộc tranh luận nảy lửa tầm quốc gia về việc trường hợp nào được coi là ung thư cổ tử cung và cách tốt nhất để điều trị là gì. TeLinde, một trong những chuyên gia hàng đầu về ung thư cổ tử cung của cả nước, là một bác sĩ phẫu thuật bảnh bao, nghiêm nghị, 56 tuổi, đi khập khiễng vì một tai nạn trượt băng hơn một thập niên trước. Mọi người ở Hopkins gọi ông là “Bác Dick”. Ông là người tiên phong trong việc sử dụng estrogen để chữa trị các triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh và có những phát hiện quan trọng đầu tiên về bệnh lạc nội mạc tử cung. Ông cũng đã viết một trong những giáo trình nổi tiếng nhất về phụ khoa lâm sàng. Cuốn sách vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến tận ngày nay, sau 60 năm sau kể từ khi được xuất bản và đã được tái bản 10 lần. Ông nổi tiếng khắp thế giới, đến mức khi vợ của vua Morocco ngã bệnh, nhà vua nhất định chỉ cho phép TeLinde phẫu thuật cho bà. Năm 1951, khi Henrietta đến Hopkins, TeLinde đã phát triển học thuyết về ung thư cổ tử https://thuviensach.vn cung, và nếu chính xác thì có thể cứu sống hàng triệu phụ nữ. Nhưng có rất ít người trong ngành tin lời ông. Ung thư biểu mô cổ tử cung được chia thành hai loại: ung thư biểu mô xâm lấn, loại này sẽ thâm nhập qua bề mặt cổ tử cung; và ung thư biểu mô không xâm lấn, là loại không thâm nhập qua bề mặt. Loại không xâm lấn thường được gọi là “ung thư biểu mô đường tuyết”[11], vì nó phát triển trong một lớp mịn trên bề mặt cổ tử cung, nhưng tên chính thức của nó là ung thư biểu mô tại chỗ, bắt nguồn từ tiếng Latin, có nghĩa “ung thư tại nơi bắt nguồn”. Năm 1951, hầu hết các bác sĩ trong ngành đều đồng ý rằng ung thư biểu mô xâm lấn rất nguy hiểm, gây tử vong, còn ung thư tại chỗ thì không. Bởi vậy, họ chữa trị ung thư xâm lấn một cách triệt để hơn, và thường không quá lo đến ung thư tại chỗ vì cho rằng nó không thể lây lan. TeLinde phản đối – ông tin rằng ung thư tại chỗ chỉ đơn giản là giai đoạn đầu của ung thư xâm lấn, nếu không chữa trị, cuối cùng nó sẽ gây chết người. Vì vậy ông chữa nó một cách triệt để, thường là cắt bỏ cổ tử cung, tử cung (dạ con), và phần lớn âm đạo. Ông cho rằng làm vậy sẽ giảm mạnh số ca tử vong do ung thư cổ tử cung, nhưng những người phản đối ông lại cho rằng làm vậy là thái quá và không cần thiết. Chẩn đoán ung thư biểu mô tại chỗ chỉ khả thi từ năm 1941, khi George Papanicolaou, một nhà nghiên cứu người Hy Lạp, công bố bài nghiên cứu mô tả một loại xét nghiệm mà ông đã phát triển, ngày nay được gọi là Pap Smear[12]. Nó bao gồm việc lấy các tế bào từ cổ tử cung bằng ống hút cong bằng thủy tinh rồi kiểm tra chúng dưới kính hiển vi để xác định xem chúng có những thay đổi tiền ung thư mà TeLinde và một số người khác đã tìm ra nhiều năm trước. Đây là một tiến bộ vượt bậc, vì ngoài cách này không còn cách nào khác để phát hiện ra các tế bào tiền ung thư đó: chúng không gây ra các triệu chứng bệnh lý, cũng không thể sờ hay nhìn thấy bằng mắt thường. Đến khi https://thuviensach.vn bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng, hy vọng chữa khỏi sẽ không còn nhiều. Nhưng với Pap Smear, các bác sĩ có thể phát hiện các tế bào tiền ung thư và thực hiện phẫu thuật cắt bỏ dạ con, làm vậy bệnh ung thư cổ tử cung hầu như sẽ được ngăn chặn hoàn toàn. Hồi đó, mỗi năm có hơn 15.000 phụ nữ chết vì ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung có khả năng làm giảm tới hơn 70% tỷ lệ tử vong, nhưng có hai điều đang gây trở ngại: nhiều phụ nữ – như Henrietta – đơn giản là không chịu làm xét nghiệm; và rồi, ngay cả khi họ được làm xét nghiệm, rất ít bác sĩ biết phân tích kết quả một cách chính xác bởi vì họ không biết các giai đoạn khác nhau của ung thư cổ tử cung trông như thế nào dưới kính hiển vi. Một số người nhầm lẫn viêm nhiễm cổ tử cung với ung thư cổ tử cung và cắt bỏ toàn bộ cơ quan sinh dục của bệnh nhân trong khi tất cả những gì họ cần chỉ là một liều kháng sinh. Một số người khác lại nhầm các thay đổi ác tính với viêm nhiễm, và cho bệnh nhân về nhà với liều kháng sinh để sau đó họ trở lại bệnh viện, sắp chết vì ung thư đã di căn. Và ngay cả khi bác sĩ chẩn đoán chính xác những thay đổi tiền ung thư, họ cũng thường không biết những thay đổi này nên được điều trị như thế nào. TeLinde quyết tâm giảm thiểu đến mức tối đa thứ mà ông gọi là “phẫu thuật cắt bỏ tử cung không thể lý giải” bằng việc soạn thảo tài liệu về những thứ không phải ung thư cổ tử cung và bằng việc thúc ép các bác sĩ phải xác minh lại kết quả xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung với sinh thiết trước khi tiến hành phẫu thuật. Và ông mong muốn chứng minh rằng các bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tại chỗ cần được điều trị một cách triệt để, để nó không chuyển thành dạng xâm lấn. Không lâu trước buổi khám bệnh đầu tiên của Henrietta, TeLinde đã diễn giải luận điểm của mình về ung thư biểu mô tại chỗ trong một cuộc họp lớn giữa các nhà nghiên cứu bệnh học ở Washington, D.C., và khán giả đã la ó đuổi ông khỏi diễn đài. Do vậy, ông trở về Hopkins, lên kế hoạch cho một nghiên để chứng https://thuviensach.vn minh rằng họ đã sai: ông và các nhân viên rà soát lại tất cả bệnh án và kết quả sinh thiết của các bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư cổ tử cung xâm lấn ở Hopkins trong một thập niên qua, để xem có bao nhiêu người ban đầu bị ung thư biểu mô tại chỗ. Như nhiều bác sĩ cùng thời, TeLinde thường dùng bệnh nhân từ bệnh viện công cho nghiên cứu của mình, và thường là các bệnh nhân không hề hay biết. Nhiều nhà khoa học cho rằng vì các bệnh nhân đã được điều trị miễn phí trong các bệnh viện công, nên việc lấy họ làm đối tượng nghiên cứu cũng là điều hợp lý. Như Howard Jones từng viết: “Hopkins, với số lượng bệnh nhân da đen túng quẫn đông đảo, không bao giờ thiếu đối tượng cho nghiên cứu lâm sàng”. Trong nghiên cứu đặc thù này – nghiên cứu lớn nhất từng được thực hiện về mối quan hệ giữa hai loại ung thư cổ tử cung – Jones và TeLinde phát hiện ra rằng 62% phụ nữ mắc ung thư xâm lấn đã từng có kết quả kiểm tra sinh thiết ban đầu là ung thư tại chỗ. Bên cạnh nghiên cứu đó, TeLinde đã nghĩ rằng nếu ông có thể tìm được cách nuôi dưỡng mẫu vật sống từ mô cổ tử cung bình thường và mô của cả hai loại ung thư – một việc chưa từng được thực hiện trước đây – ông có thể so sánh ba loại mô này với nhau. Nếu ông có thể chứng minh rằng ung thư xâm lấn và ung thư tại chỗ có hình dáng và hoạt động tương tự nhau trong phòng thí nghiệm, ông có thể chấm dứt cuộc tranh cãi này, đồng thời chứng minh rằng ông đã luôn đúng và các bác sĩ bỏ ngoài tai lời ông nói đang giết chết bệnh nhân của mình. Chính vì vậy ông đã gọi cho George Gey, trưởng khoa nghiên cứu nuôi cấy mô ở Hopkins. Gey cùng với vợ của mình là Margaret đã dành ba thập niên để nghiên cứu phương pháp nuôi cấy tế bào ung thư ngoài cơ thể, với hy vọng có thể dùng chúng để tìm ra nguyên nhân và cách điều trị bệnh ung thư. Tuy vậy hầu hết các tế bào đều chết khá nhanh, số ít ỏi sống sót được thì hầu như không phát triển. Vợ chồng Gey quyết tâm nuôi cấy những tế bào người bất tử đầu tiên: loại tế bào không ngừng phân chia, tất cả đều bắt nguồn từ https://thuviensach.vn một mẫu ban đầu, các tế bào không ngừng tự bổ sung cho nhau và không bao giờ chết. Tám năm trước, vào năm 1943, nhóm các nhà nghiên cứu của Viện Y tế Quốc gia đã chứng minh điều đó khả thi bằng cách sử dụng các tế bào của chuột. Vợ chồng Gey muốn phát triển tế bào tương tự ở người – họ không quan tâm đó là loại mô nào, miễn sao nó được lấy từ cơ thể người. Gey đã thu thập bất cứ tế bào nào ông có thể tiếp cận được, do vậy ông tự gọi mình là “con kền kền nổi tiếng nhất thế giới, không ngừng ăn các mẫu mô và tế bào người”. Chính vì vậy Gey đã không ngần ngại mà đồng ý ngay khi TeLinde ngỏ lời sẽ cung cấp mô ung thư cổ tử cung cho Gey, để đổi lại việc Gey giúp TeLinde nuôi cấy một số tế bào. TeLinde bắt đầu thu thập mẫu bệnh phẩm từ bất kỳ người phụ nữ nào bước chân vào Hopkins với bệnh ung thư cổ tử cung. Trong số đó có Henrietta. Ngày 5 tháng 2 năm 1951, khi Jones nhận kết quả kiểm tra sinh thiết của Henrietta từ phòng thí nghiệm, ông đã gọi và báo với cô rằng đó là ung thư ác tính. Henrietta đã không kể cho bất kỳ ai những gì Jones nói, và cũng không ai hỏi cô. Cô chỉ đơn giản là tiếp tục sống như chưa từng có chuyện gì xảy ra, đúng như bản tính của cô – chẳng việc gì phải làm mọi người buồn vì một chuyện mà cô có thể tự lo được. Đêm hôm đó Henrietta đã nói với chồng mình: “Day, ngày mai em phải quay lại gặp bác sĩ. Ông ấy muốn làm một số xét nghiệm và kê thuốc cho em”. Sáng hôm sau cô lại bước xuống từ chiếc Buick bên ngoài Hopkins, nói với Day và bọn trẻ không cần phải lo lắng. “Không có gì đáng ngại đâu”, cô nói. “Bác sĩ sẽ chữa khỏi ngay thôi”. Henrietta đi thẳng đến quầy làm thủ tục nhập viện và nói với lễ tân rằng cô đến để điều trị. Sau đó cô ký vào mẫu đơn với dòng chữ Giấy Chấp Nhận Phẫu Thuật ở đầu trang. Trên đó viết: https://thuviensach.vn Tôi đồng ý cho nhân viên của Bệnh viện Johns Hopkins tiến hành mọi phương pháp trị liệu cần thiết và gây mê cục bộ hoặc toàn phần mà họ cảm thấy cần thiết để điều trị cho:........................................ Henrietta viết hoa tên mình vào khoảng trống. Một người làm chứng với chữ viết không thể đọc nổi ký ở cuối đơn, và Henrietta ký ở bên còn lại. Sau đó cô đi cùng y tá xuôi theo hành lang dài dẫn đến khu bệnh dành cho phụ nữ da màu, nơi Howard Jones và một vài bác sĩ da trắng khác tiến hành thực hiện các xét nghiệm, nhiều hơn số xét nghiệm mà cả đời cô đã làm cộng lại. Họ kiểm tra nước tiểu, máu, và phổi của cô. Họ cắm những cái ống vào bàng quang và mũi cô. Vào đêm thứ hai ở bệnh viện, y tá trực đã cho Henrietta ăn tối sớm để sáng hôm sau dạ dày cô sẽ rỗng, phục vụ cho việc gây mê trước khi bác sĩ tiến hành điều trị lần đầu. Khối u của Henrietta là loại xâm lấn, và cũng như các bệnh viện khác trên cả nước, Hopkins điều trị tất cả các loại ung thư cổ tử cung xâm lấn bằng radium, một kim loại phóng xạ màu trắng phát ra ánh sáng xanh kỳ dị. Khi radium được phát hiện lần đầu vào cuối thế kỷ 19, báo chí toàn quốc đã giật tít gọi nó là “một chất thay thế khí ga, điện, và có thể trị bách bệnh”. Những thợ đồng hồ đã cho radium vào sơn khiến mặt đồng hồ phát sáng, và các bác sĩ thì dùng radium dạng bột để trị mọi loại bệnh từ say sóng đến viêm tai. Tuy nhiên radium phá hủy mọi tế bào tiếp xúc với nó, và những bệnh nhân dùng nó để điều trị các bệnh vặt bắt đầu tử vong. Radium tạo ra các đột biến có thể gây ung thư, và nếu dùng ở liều cao, nó thậm chí có thể làm phỏng da người. Tuy vậy, nó đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào ung thư. Hopkins đã sử dụng radium để điều trị ung thư cổ tử cung từ những năm đầu thế kỷ 20, sau khi một bác sĩ phẫu thuật tên là https://thuviensach.vn Howard Kelly đến thăm Marie và Pierrie Curie, vợ chồng người Pháp đã phát hiện ra radium và khả năng phá hủy tế bào ung thư của nó. Không nhận ra sự nguy hiểm khi tiếp xúc với radium, Kelly đã mang theo trong túi áo một lượng radium về Mỹ và thường xuyên đi khắp thế giới để thu thập thêm. Vào những năm 1940, một số nghiên cứu – một trong số chúng được tiến hành bởi Howard Jones, bác sĩ điều trị cho Henrietta – chỉ ra rằng, điều trị ung thư cổ tử cung dạng xâm lấn bằng radium an toàn hơn và mang lại hiệu quả hơn so với phẫu thuật. Buổi sáng khi Henrietta đến điều trị lần đầu, một tài xế taxi đã đến chở một chiếc túi đựng đầy những ống thủy tinh mỏng chứa radium từ một phòng khám bên kia thị trấn. Những chiếc ống được đặt vào từng ngăn riêng biệt bên trong các khoang làm bằng vải bao bố do một người phụ nữ Baltimore khâu bằng tay. Những chiếc bao được gọi là tấm Brack, đặt theo tên một bác sĩ ở Hopkins, người đã phát minh ra chúng và cũng là người giám sát quá trình xạ trị của Henrietta. Brack sau đó đã chết do bệnh ung thư, khả năng cao là vì thường xuyên tiếp xúc với radium. Điều tương tự cũng xảy ra với một bác sĩ nội trú thường đi khắp nơi cùng Kelly và mang radium trong túi áo. Một y tá đặt các tấm Brack lên chiếc khay bằng thép chống gỉ. Một y tá khác đẩy Henrietta vào phòng mổ nhỏ dành riêng cho bệnh nhân da màu trên tầng hai, với những chiếc bàn bằng thép chống gỉ, những bóng đèn sáng choang, và các nhân viên y tế người da trắng mặc áo choàng, đội mũ, đeo khẩu trang, và găng tay màu trắng. Khi Henrietta nằm bất tỉnh trên bàn phẫu thuật giữa phòng, hai chân đặt trên kiềng để chân, bác sĩ phẫu thuật Lawrence Wharton Jr. ngồi lên chiếc ghế đẩu đặt giữa hai chân cô. Ông nhìn vào trong người Henrietta, nới cổ tử cung của cô ra, chuẩn bị cho việc điều trị khối u. Nhưng trước hết – mặc dù không ai nói với Henrietta rằng TeLinde sẽ thu thập mẫu bệnh phẩm hoặc hỏi xem liệu cô có đồng ý hiến tặng hay không – Wharton cầm một con dao sắc và cắt hai mẩu mô to bằng đồng 10 xu từ https://thuviensach.vn cổ tử cung của Henrietta: một mẩu từ khối u, và một mẩu từ phần mô cổ tử cung bình thường gần đó. Rồi ông đặt các mẫu bệnh phẩm này vào một đĩa thủy tinh. Sau khi lấy mẫu, Wharton nhét một chiếc ống chứa đầy radium vào trong cổ tử cung của Henrietta và khâu nó vào vị trí. Rồi ông khâu một tấm radium lên mặt ngoài của cổ tử cung, và đặt một tấm khác tỳ lên tấm đó. Ông nhét vài miếng gạc vào âm đạo để giữ radium ở nguyên vị trí, rồi đặt một ống thông tiểu vào bàng quang để cô có thể tiểu tiện mà không gây trở ngại đến việc điều trị. Khi Wharton xong việc, một y tá đẩy Henrietta về khu phòng bệnh công, và Wharton viết vào bệnh án của cô rằng: “Bệnh nhân đã tiếp nhận quá trình trị liệu tốt và rời phòng mổ trong tình trạng tốt”. Ở một trang khác, ông viết: “Henrietta Lacks... sinh thiết mô cổ tử cung... Mô được đưa cho Tiến sĩ George Gey”. Một bác sĩ nội trú mang cái đĩa chứa hai mẫu bệnh phẩm đến phòng thí nghiệm của George Gey, như nhiều lần trước đó. Gey vẫn cảm thấy hào hứng trước những khoảnh khắc như vậy, nhưng những người khác trong phòng thí nghiệm của ông thì nhìn bệnh mẫu của Henrietta như một thứ gì đó thật buồn tẻ – thứ mới nhất trong hằng hà sa số các mẫu mà các nhà khoa học và các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm đã tìm cách nuôi cấy suốt nhiều năm nhưng vẫn thất bại. Họ đã chắc mẩm rằng các tế bào của Henrietta rồi cũng sẽ chết như các tế bào khác. https://thuviensach.vn 4 SỰ RA ĐỜI CỦA DÒNG TẾ BÀO HELA Cô trợ lý 21 tuổi của Gey, Mary Kubicek, đang ngồi ăn chiếc sandwich salad cá ngừ trên một chiếc bàn đá – vừa là bàn thí nghiệm vừa là bàn nghỉ ngơi. Cô, Margaret và một phụ nữ khác trong phòng thí nghiệm của Gey đã dành vô số giờ đồng hồ ở đó, họ đều búi tóc, đeo những cặp kính mắt mèo giống hệt nhau với gọng kính to bản sẫm màu và tròng mắt dày cộp. Mới nhìn, căn phòng trông như một bếp ăn công nghiệp. Trong đó có những chiếc hộp cà phê bằng thiếc to cỡ bốn lít đựng đầy các dụng cụ và đồ thủy tinh; có bột kem, đường, thìa và các chai soda được đặt trên bàn; các tủ đông cỡ lớn làm bằng kim loại xếp thành một hàng bên tường; và các bồn rửa có đáy sâu mà Gey đã tự tay làm từ những hòn đá ông nhặt ở khu mỏ gần đấy. Tuy nhiên điểm khác biệt là ấm trà của họ đặt ngay cạnh đèn Bunsen[13], và các tủ đông chứa đầy mẫu máu, nhau thai, mẫu bệnh phẩm, và xác chuột chết (cộng thêm ít nhất một con vịt mà Gey đã giữ đông trong phòng thí nghiệm hơn 20 năm sau một chuyến đi săn, vì nó không nhét vừa cái tủ lạnh ở nhà). Gey đã xếp những lồng nhốt thỏ, chuột đồng và chuột lang nhà đang kêu chít chít ở một bên tường; còn những lồng chuột nhắt với cơ thể đầy các khối u thì nằm trên kệ cạnh một chiếc bàn đá mà Mary đang ngồi ăn trưa. Mary luôn nhìn chằm chằm vào chúng trong lúc ăn, kể cả lúc này, khi Gey bước vào phòng thí nghiệm và mang theo các mẫu bệnh phẩm lấy từ cổ tử cung của Henrietta. “Tôi sẽ đặt một mẫu mới vào buồng nuôi cấy của cô nhé”, Gey nói với cô. Mary giả vờ không để ý. Không phải nữa chứ, cô nghĩ, và tiếp tục ăn sandwich. Nó có thể đợi cho đến khi mình ăn xong. https://thuviensach.vn Mary biết cô không nên đợi – cứ mỗi giây qua đi thì khả năng sống sót của các tế bào trong đĩa lại giảm. Nhưng cô đã mệt mỏi với việc nuôi cấy tế bào, mệt mỏi vì phải cắt bỏ các tế bào chết một cách tỉ mẩn như là phải lọc bỏ xương sụn ra khỏi miếng thịt bò nướng, mệt mỏi vì các tế bào chết sau hàng giờ làm việc cực nhọc. Việc gì phải bận tâm cơ chứ? – cô nghĩ. Gey đã thuê Mary vì đôi tay của cô. Khi thầy hướng dẫn giới thiệu Mary đến phỏng vấn ở phòng thí nghiệm của Gey, cô vừa tốt nghiệp đại học ngành sinh lý học. Gey đã bảo Mary cầm cái bút trên bàn lên và viết vài câu. Rồi thì cầm con dao đó lên. Cắt mảnh giấy này. Xoay cái pipet[14] này. Nhiều tháng sau đó Mary mới nhận ra là Gey đang kiểm tra đôi tay của cô, xem xét sự khéo léo và độ chắc chắn, để xem chúng có thể chịu được việc cắt, cạo, gắp và pipet tỉ mẩn hàng giờ đồng hồ hay không. Tính đến thời khắc Henrietta bước vào bệnh viện Hopkins, Mary đang phụ trách phần lớn các mẫu mô của phòng thí nghiệm, và đến khi ấy tất cả các mẫu lấy từ những bệnh nhân của TeLinde đều đã chết sạch. Tại thời điểm đó, có quá nhiều trở ngại để nuôi cấy tế bào thành công. Đầu tiên là không ai biết chính xác chúng cần những chất dinh dưỡng nào để tồn tại, hoặc làm sao để cung cấp dinh dưỡng cho chúng một cách tốt nhất. Nhiều nhà nghiên cứu, bao gồm vợ chồng Gey, đã cố gắng trong nhiều năm để tạo ra một môi trường nuôi cấy tối ưu – một loại dung dịch lỏng dùng để nuôi dưỡng tế bào. George và Margaret không ngừng thêm bớt các thành phần trong công thức Môi trường Nuôi cấy Tế bào Gey để tìm ra công thức cân bằng nhất. Các công thức pha môi trường nghe có vẻ giống như công thức bào chế thuốc của phù thủy: huyết thanh gà, máu từ cuống rốn người, bào thai https://thuviensach.vn bê xay nhuyễn, và các loại muối đặc biệt. George đã lắp một cái chuông và kéo dây từ cửa sổ phòng thí nghiệm đến phòng hộ sinh, để các y tá có thể rung chuông mỗi khi có một đứa trẻ chào đời, và ngay lập tức Margaret hoặc Mary sẽ chạy đến đó để lấy máu dây rốn. Các thành phần khác thì không dễ lấy chút nào: George đến các lò mổ địa phương ít nhất mỗi tuần một lần để thu thập bào thai bò và máu gà. Ông đến đó bằng chiếc Chevy cũ kỹ, gỉ sét của mình, tấm chắn bùn bên trái của nó cọ xuống mặt đường, tóe ra lửa. Trước khi bình minh ló rạng, trong ngôi nhà bằng gỗ ọp ẹp với sàn nhà đầy mùn cưa và tường có nhiều vết nứt lớn, Gey túm lấy chân một con gà đang kêu oang oác, lôi nó ra khỏi lồng, đầu dốc ngược xuống đất, rồi đè nó nằm ngửa lên thớt. Ông túm chân nó bằng một tay rồi dùng khuỷu tay ghì chặt cổ nó xuống mặt gỗ, không cho nó động đậy; một tay còn lại, ông xịt cồn vào ức nó, rồi chọc xi-lanh vào tim nó để lấy máu. Xong việc, ông dựng con gà dậy: “Xin lỗi nhé, anh bạn già”, và đặt nó vào lồng. Lâu lâu khi có con gà lăn ra chết, George mang chúng về nhà để Margaret có thể làm món gà rán cho bữa tối. Cũng như nhiều phương pháp khác trong phòng thí nghiệm, Kỹ thuật Rút máu Gà Gey là do Margaret tạo ra. Bà hoàn thiện phương pháp này từng bước một rồi dạy lại cho Gey, và ghi chép lại các chỉ dẫn chi tiết cho những nhà nghiên cứu muốn học kỹ thuật này. Việc chưa tìm ra môi trường nuôi cấy tối ưu là một trở ngại, nhưng vấn đề lớn nhất mà việc nuôi cấy tế bào gặp phải là sự nhiễm khuẩn. Vi khuẩn và hàng loạt các vi sinh vật khác có thể lây nhiễm vào môi trường nuôi cấy từ tay và hơi thở của người, hay từ các hạt bụi lơ lửng trong không khí, rồi phá hủy chúng. Tuy nhiên Margaret Gey đã được đào tạo như một y tá phẫu thuật, vì thế khử trùng là chuyên môn của bà – đó là điểm mấu chốt để ngăn chặn các nhiễm trùng gây chết người trong phòng mổ. Sau này nhiều người cho rằng kiến thức chuyên môn về phẫu thuật và khử trùng của Margaret là lý do duy nhất khiến https://thuviensach.vn phòng thí nghiệm của Gey có thể nuôi cấy tế bào thành công. Hầu hết các chuyên viên nuôi cấy tế bào, giống như George, là những nhà sinh vật học; họ không biết chút gì về phòng ngừa nhiễm khuẩn. Margaret đã dạy cho George cách giữ cho môi trường nuôi cấy vô trùng, và bà cũng đã đào tạo nhiều kỹ thuật viên, sinh viên cao học, và các nhà khoa học đến phòng thí nghiệm Gey để làm việc hoặc học hỏi. Bà đã thuê một phụ nữ địa phương tên Minnie để làm nhiệm vụ duy nhất là rửa các thiết bị thủy tinh trong phòng thí nghiệm, và bà chỉ cho phép sử dụng một loại xà phòng duy nhất: xà phòng Gold Dust Twins. Khi nghe đồn rằng công ty này có thể sẽ phá sản, Margaret đã đặt mua cả một toa xe lửa chứa đầy loại xà phòng này. Margaret thường đi tuần tra xung quanh phòng thí nghiệm, tay khoanh trước ngực, và nghiêng người nhòm qua vai Minnie trong lúc Minnie đang làm việc, sừng sững cao hơn Minnie cả cái đầu. Nếu Margaret có cười thì cũng không ai nhìn thấy được vì bà lúc nào cũng đeo khẩu trang. Margaret kiểm tra tất cả dụng cụ thủy tinh để xem có vết dơ nào không, và khi tìm thấy – vốn là việc thường xuyên xảy ra – bà sẽ hét: “MINNIE!” lớn đến nỗi Mary phải co rúm người lại. Mary cẩn thận tuân thủ theo các quy tắc của Margeret để tránh làm bà nổi điên. Sau bữa trưa, và trước khi đụng vào các tế bào của Henrietta, Mary trùm kín người bằng một cái áo choàng sạch màu trắng, găng tay, mũ và khẩu trang phẫu thuật, rồi mới bước vào buồng thí nghiệm của mình, một trong bốn căn phòng kín gió mà George đã tự tay xây ở giữa phòng thí nghiệm. Các buồng thí nghiệm này rất nhỏ, mỗi chiều chỉ một mét rưỡi, với cánh cửa được hàn kín như tủ lạnh để ngăn không cho không khí nhiễm khuẩn từ bên ngoài tràn vào. Mary bật hệ thống khử trùng và đứng quan sát từ bên ngoài trong lúc hơi nước nóng tràn vào buồng thí nghiệm và tiêu diệt bất kỳ thứ gì có thể hủy hoại các tế bào. Khi hơi nước tan đi, cô bước vào trong và đóng cửa lại, rồi xịt nước lên sàn bê tông và lau chùi bàn thí nghiệm https://thuviensach.vn của mình với cồn. Không khí bên trong được lọc và dẫn vào nhờ ống thông gió trên trần nhà. Sau khi đã khử trùng buồng thí nghiệm, cô đánh lửa đèn Bunsen và dùng lửa để khử trùng các ống nghiệm và những con dao mổ đã qua sử dụng, vì phòng thí nghiệm Gey không đủ tiền mua dao mới cho mỗi mẫu vật. Sau đó cô mới gắp các mẫu cổ tử cung của Henrietta lên – một tay cầm kẹp, tay còn lại cầm dao – và cẩn thận cắt chúng thành các miếng cỡ một milimet vuông. Cô hút từng miếng lên bằng ống pipet, rồi thả nó lên trên cục máu gà mà cô đã đặt dưới đáy của các ống nghiệm. Cô thêm vài giọt môi trường nuôi cấy vào mỗi ống nghiệm, bịt nắp cao su lại, rồi ghi nhãn đánh dấu từng ống theo cách cô vẫn làm với hầu hết các mẫu tế bào mà họ nuôi cấy: dùng hai chữ cái đầu trong tên và họ của bệnh nhân. Sau khi viết “HeLa”, viết tắt cho Henrietta và Lacks, bằng chữ lớn màu đen lên thân ống nghiệm, Mary đưa chúng đến phòng nuôi cấy mà Gey đã tự chế, giống như mọi thứ khác trong phòng thí nghiệm: tự làm bằng tay và chủ yếu từ những món phế liệu, kỹ năng ông đã học được từ một cuộc sống mà mọi việc phải bắt đầu từ con số 0. George Gey sinh năm 1899, lớn lên ở triền đồi Pittsburgh, nhìn ra một nhà máy thép. Bồ hóng từ các ống khói nhà máy khiến căn nhà nhỏ màu trắng của cha mẹ ông trông như thể nó đã bị thiêu trụi và khiến bầu trời chiều thì trở nên u ám, xám xịt. Mẹ ông làm vườn, và nuôi cả gia đình với thức ăn bà tự nuôi trồng. Khi còn là một đứa trẻ, George thường đi đào mỏ than nhỏ trên ngọn đồi phía sau nhà. Mỗi sáng ông lại bò qua đường hầm ẩm ướt, tay cầm một cái cuốc chim, nhặt đầy những xô than cho gia đình và hàng xóm để sưởi ấm và nấu nướng. Gey đã tự trang trải khi theo học sinh học ở Đại học Pittsburgh bằng cách làm thợ mộc và thợ nề. Ông có thể làm ra hầu hết mọi thứ với giá rẻ hoặc không tốn một xu nào. Vào năm thứ hai ở trường y, ông đã lắp một chiếc kính hiển vi với máy quay để ghi lại hình ảnh của các tế bào sống theo thời gian. https://thuviensach.vn Thiết bị này là một mớ hỗn độn kiểu như Frankenstein[15], bao gồm các bộ phận của kính hiển vi, kính, và thiết bị máy quay 16 milimet mà chỉ có Chúa mới biết nó được lấy từ đâu, cộng với các mảnh kim loại, và các động cơ cũ nhặt từ đống phế liệu của Shapiro[16]. Toàn bộ thiết bị được lắp đặt dưới lòng đất, trong một cái hốc dưới móng của Hopkins, ngay bên dưới nhà xác, và được vây quanh bởi một bức tường dày làm từ gỗ xốp để ngăn không bị rung lắc mỗi khi có xe ôtô chạy qua. Đêm đến, một người đàn ông người Litva, người mà Gey đã thuê làm trợ lý phòng thí nghiệm, ngủ cạnh máy quay trên một chiếc giường nhỏ, lắng nghe tiếng tích tắc đều đều của nó để đảm bảo rằng nó chạy ổn định suốt đêm, và thức dậy mỗi giờ để chỉnh tiêu điểm cho nó. Với chiếc máy quay đó, Gey và người hướng dẫn của mình, Warren Lewis, đã ghi lại sự phát triển của tế bào, một quá trình rất chậm – giống như sự phát triển của một bông hoa – mà mắt thường không thể thấy được. Sau đó họ chiếu đoạn phim ấy ở tốc độ nhanh để có thể quan sát sự phân chia tế bào trên màn ảnh với chuyển động trơn tru liên tục. Gey đã mất tám năm mới học xong trường y vì ông liên tục nghỉ học để đi làm ở công trường và kiếm tiền đóng học phí cho năm tiếp theo. Sau khi tốt nghiệp, ông và Margaret đã xây phòng thí nghiệm đầu tiên của họ ở khu vực dành cho lao công tại Hopkins – họ dành hàng tuần để chăng dây, sơn, lắp đường nước, lắp bàn và tủ, phần lớn đều được chi trả bằng tiền của họ. Margaret là người cẩn thận và kiên định, là trụ cột của phòng thí nghiệm. Gey là một đứa trẻ nghịch ngợm và to xác. Ở nơi làm việc, ông ăn vận bảnh bao, nhưng ở nhà, ông chỉ mặc quần áo bằng vải kaki hay vải annel và đeo dây quần. Ông quanh quẩn trong vườn vào cuối tuần, ăn 12 bắp ngô một lúc, và trữ các thùng đầy những con hàu trong gara để có thể ăn bất kỳ lúc nào ông thích. Ông có thân hình của một hậu vệ nghỉ hưu, với chiều cao 1m94 và nặng 97 kg, lưng của ông cứng và thẳng đứng một cách dị thường vì đã trải qua phẫu thuật nối cột sống để không bị trẹo. Khi cơ sở sản xuất rượu dưới tầng hầm của ông https://thuviensach.vn phát nổ vào một ngày Chủ nhật, khiến gara và con phố ngập trong rượu vang đỏ, Gey chỉ xối chỗ rượu xuống cống thoát nước, vẫy tay với hàng xóm trong lúc họ đang trên đường đến nhà thờ. George là một người mơ mộng, thiếu thận trọng và bốc đồng – ông nhanh chóng bắt tay vào cả chục dự án cùng một lúc; ông chất đầy phòng thí nghiệm và tầng hầm ở nhà với những cỗ máy đang lắp dở dang, các đề tài nghiên cứu chưa hoàn thiện, và hàng đống phế liệu mà chỉ có ông mới hình dung ra công dụng của chúng trong phòng thí nghiệm. Bất cứ khi nào nảy ra một ý tưởng mới, ông sẽ ngồi ngay xuống – dù tại bàn làm việc, bàn ăn, quầy bar, hoặc đằng sau tay lái – gặm điếu xì gà luôn thường trực trên miệng và vẽ nguệch ngoạc những sơ đồ lên giấy ăn hoặc mặt sau của nhãn chai lọ đã bị bóc ra. Đó chính là cách ông đã nghĩ ra kỹ thuật nuôi cấy xoay tròn – sáng chế quan trọng nhất của ông. Kỹ thuật này bao gồm một chiếc trống quay bằng gỗ lớn với nhiều lỗ để đặt các ống nghiệm vào. Cái trống quay xoay như một cỗ máy trộn xi măng 24 tiếng một ngày, xoay thật chậm, đến nỗi nó chỉ xoay được hai vòng trong một tiếng. Đối với Gey, chuyển động xoay tròn là tối quan trọng: ông tin rằng môi trường nuôi cấy cần được chuyển động liên tục, như máu và các chất dịch trong cơ thể, luôn chảy quanh các tế bào, vận chuyển chất thải và các chất dinh dưỡng. Do vậy, cuối cùng, khi Mary cắt xong các mẫu vật lấy từ cổ tử cung của Henrietta và thả chúng vào hàng chục ống nghiệm, cô bước vào phòng nuôi cấy, nhét từng ống nghiệm vào trống quay, và khởi động. Sau đó cô nhìn cỗ máy của Gey từ từ quay tròn một cách chậm chạp. Henrietta ở lại bệnh viện thêm hai ngày để hồi sức sau lần xạ trị radium đầu tiên. Các bác sĩ đã kiểm tra cho cô từ trong ra ngoài, ấn lên bụng của cô, đặt ống thông tiểu mới vào bàng quang, đút ngón tay vào âm đạo và hậu môn, và tiêm vào các https://thuviensach.vn mạch máu. Họ viết vào bệnh án của cô: “Nữ, da màu, 30 tuổi, nằm yên mà không có dấu hiệu bị kiệt sức”, và: “Tối nay bệnh nhân cảm thấy khỏe. Tinh thần ổn định và sẵn sàng để xuất viện”. Trước khi Henrietta rời bệnh viện, một bác sĩ đã đặt chân cô lên kiềng để chân một lần nữa để tháo radium ra. Ông bác sĩ cho cô về nhà và dặn cô phải gọi ngay đến bệnh viện nếu có dấu hiệu bất thường, và phải quay lại để xạ trị lần hai sau hai tuần rưỡi. Mỗi sáng sau khi đưa các tế bào của Henrietta vào nuôi cấy, Mary lại bắt đầu một ngày làm việc với công đoạn tiệt trùng như thường lệ. Cô nhìn vào các ống nghiệm, cười với chính mình và nghĩ, Chẳng có gì xảy ra. Ngạc nhiên chưa. Rồi, hai ngày sau khi Henrietta xuất viện, Mary nhìn thấy thứ gì đó trông như lòng trắng trứng nho nhỏ mọc vòng xung quanh các cục máu đông dưới đáy mỗi ống nghiệm. Các tế bào đang phát triển, nhưng Mary đã không nghĩ nhiều đến nó – lâu lâu các tế bào khác cũng sống sót được trong một thời gian ngắn ở phòng thí nghiệm. Tuy nhiên các tế bào của Henrietta không chỉ sống sót đơn thuần – chúng đang tăng sinh với tốc độ không tưởng. Đến sáng hôm sau chúng đã tăng gấp đôi. Mary chia lượng tế bào trong mỗi ống thành hai phần, cho chúng không gian để tiếp tục phát triển. Không lâu sau cô lại chia chúng thành bốn ống, rồi sáu ống. Và các tế bào của Henrietta lấp đầy bất cứ không gian nào Mary cung cấp cho chúng. Tuy vậy Gey vẫn chưa sẵn sàng để ăn mừng. “Các tế bào có thể chết bất cứ lúc nào”, ông nói với Mary. Nhưng chúng đã không chết. Chúng không ngừng phân chia, khác với bất cứ thứ gì mọi người đã từng thấy, tăng gấp đôi số lượng cứ sau 24 giờ đồng hồ, hàng trăm tế bào này xếp chồng lên hàng trăm tế bào khác, rồi thành cả triệu. “Nhanh như cỏ dại!” Margaret nói. Chúng tăng sinh nhanh hơn 20 lần so với các tế bào bình thường của Henrietta – những tế bào bình thường này chết chỉ sau vài ngày được Mary nuôi cấy. Miễn là có thức ăn https://thuviensach.vn và được giữ ấm, các tế bào ung thư của Henrietta dường như không ngừng sinh trưởng. Không lâu sau, George đã chia sẻ với một vài đồng nghiệp thân thiết nhất của ông rằng ông nghĩ phòng thí nghiệm của mình đã nuôi cấy thành công những tế bào người bất tử đầu tiên. Khi nghe vậy, họ đề nghị: “Tôi có thể lấy một ít tế bào được không?” Và George đồng ý. https://thuviensach.vn 5 “BÓNG ĐEN LAN KHẮP CƠ THỂ” Henrietta không hề biết gì về việc các tế bào của mình đang được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Sau khi xuất viện, cô quay trở lại cuộc sống thường nhật. Vốn chưa từng thích thành phố nên hầu như cứ mỗi dịp cuối tuần cô lại đưa bọn trẻ về Clover, nơi cô đã làm việc trên những cánh đồng thuốc lá và dành nhiều giờ đồng hồ để khuấy sữa làm bơ trên những bậc thang của Nhà Chung. Mặc dù radium thường khiến các bệnh nhân cảm thấy buồn nôn, kiệt sức, và thiếu máu, nhưng không có ghi chép nào nói rằng Henrietta có bất kỳ phản ứng phụ nào, và không ai nhớ cô từng than phiền về việc cảm thấy ốm yếu hay chưa. Khi không ở Clover, Henrietta dành thời gian nấu nướng cho Day, cho lũ trẻ, và cho bất kỳ anh em họ nào ghé qua nhà. Cô làm món bánh tráng miệng nổi tiếng của mình, món rau xanh ninh nhừ, lòng non, và mì Ý thịt viên mà lúc nào cô cũng đặt trên bếp lò để thết đãi mọi người tình cờ ghé qua lúc đói bụng. Khi Day không đi làm ca đêm, anh và Henrietta ở nhà buổi tối, chơi bài và nghe Bennie Smith chơi ghita nhạc blues sau khi bọn trẻ đi ngủ. Vào những đêm Day phải đi làm, Henrietta và Sadie sẽ đợi cho đến khi cánh cửa đóng sập lại, đếm đến 100, rồi nhảy khỏi giường, mặc quần áo khiêu vũ, và lẻn ra ngoài, cẩn thận để không đánh thức lũ trẻ. Ngay khi vừa bước ra ngoài, họ lắc hông và hò hét, chạy qua con phố đến sàn nhảy của quán bar Adams và Twin Pines. “Chúng tôi thường nhảy hết mình”, nhiều năm sau Sadie nói với tôi. “Chúng tôi không thể cưỡng lại được. Họ chơi loại nhạc mà khi nghe thấy, cô không thể ngừng nhún nhảy. Chúng tôi nhảy quanh sàn, lắc lư theo điệu nhạc blues, rồi có người nhét https://thuviensach.vn đồng 25 xu vào máy và nhạc lại nổi lên. Chúa tôi, chúng tôi cứ thế nhảy, và lắc, và xoay người!” Sadie bật cười khúc khích như một thiếu nữ. “Đó là những ngày tháng tươi đẹp”. Và họ đã từng là những quý cô kiều diễm. Henrietta có đôi mắt nâu hạt dẻ, hàm răng trắng đều tăm tắp, và đôi môi căng mọng. Cô là một người phụ nữ cứng cỏi với khuôn mặt chữ điền, eo dày, thấp, đôi chân chắc khỏe, và hai tay rắn chắc vì những cánh đồng thuốc lá và công việc nội trợ. Móng tay của cô được cắt ngắn để bột mì không dính bên dưới mỗi khi nhào bột, nhưng luôn được sơn màu đỏ đậm để cùng tông với màu móng chân. Henrietta dành nhiều giờ đồng hồ để chăm sóc cho móng tay của mình, giũa những chỗ bị xước và phủ lên chúng một lớp sơn mới. Cô thường ngồi trên giường, tay cầm lọ sơn, tóc buộc cao, mặc bộ áo ngủ bằng lụa mà cô yêu thích đến mức cô tự tay giặt nó mỗi đêm. Cô không bao giờ mặc quần dài, và hiếm khi ra khỏi nhà mà không mặc chân váy với áo sơ mi đã được là lượt cẩn thận, xỏ chân vào đôi giày hở ngón nhỏ nhắn, và khẽ uốn chân tóc lên,“như thể chúng đang nhảy về phía khuôn mặt của chị ấy”, Sadie vẫn thường nói. “Hennie khiến cuộc đời bừng lên sức sống – ở bên cạnh chị ấy như là ở bên cạnh niềm vui vậy”, Sadie, nhìn lên trần nhà nói với tôi. “Hennie yêu quý mọi người. Chị ấy là người có thể khơi dậy những điều tốt đẹp ở người khác”. Tuy nhiên có một người mà Henrietta đã không thể khơi dậy được đức tính tốt nào. Đó chính là Ethel, vợ của ông anh họ Galen, vừa chuyển từ Clover đến Turner Station. Và Ethel không ưa gì Henrietta – các chị em họ của cô cho là vì ghen tuông. “Tôi không thể trách cô ta”, nhiều năm sau, Sadie nói với tôi. “Galen, chồng của Ethel, thích Hennie hơn cả Ethel. Chúa ạ, anh ta đã đeo bám Hennie! Bất cứ nơi nào Hennie đến là lại thấy anh ta xuất hiện – anh ta luôn tìm cách đến nhà Hennie mỗi khi Day đi làm. Chúa ơi, Ethel đã ghen – sự thù hằn mà cô ta dành cho https://thuviensach.vn Hennie thật khủng khiếp. Lúc nào cô ta cũng như muốn đánh Hennie”. Bởi vậy Henrietta và Sadie thường cười khúc khích và lẻn ra cửa sau để đến một câu lạc bộ khác mỗi khi Ethel xuất hiện. Khi họ không lẻn ra ngoài, Henrietta, Sadie, và chị gái của Sadie, Margaret dành cả buổi tối của mình ở phòng khách nhà Henrietta, chơi bingo, la hét, và cười đùa trước hũ tiền xu trong lúc các con của Henrietta – Sonny, Deborah, và Joe – chơi với các quân bingo trên thảm dưới gầm bàn. Lawrence đã gần 16 tuổi, lúc nào cũng mải mê với cuộc sống riêng bên ngoài. Nhưng có một đứa trẻ không ở đó: con gái đầu của Henrietta, Elsie. Trước khi Henrietta mắc bệnh, mỗi lần về Clover là cô lại đưa Elsie về cùng. Elsie thường ngồi dưới mái hiên của Nhà Chung, nhìn xa xăm về phía những ngọn đồi và ngắm mặt trời mọc trong lúc Henrietta làm vườn. Cô bé xinh đẹp, yểu điệu và nữ tính như Henrietta, cô được mẹ mặc cho những bộ quần áo tự may có gắn nơ và dành nhiều giờ đồng hồ để tết mái tóc xoăn dài màu nâu của mình. Elsie không bao giờ nói chuyện, cô chỉ kêu như quạ và líu lo như chim trong lúc huơ tay sát mặt. Cô có đôi mắt to màu hạt dẻ, mọi người thường nhìn vào đó và tự hỏi điều gì đang diễn ra bên trong cái đầu xinh xắn ấy. Nhưng cô chỉ nhìn lại họ chằm chằm, không nao núng, đôi mắt đầy ám ảnh với những nỗi sợ và buồn phiền, và chỉ dịu lại khi được Henrietta vỗ về. Đôi khi Elsie băng qua các cánh đồng, đuổi theo những con gà tây hoang hoặc túm đuôi con la và vỗ vào người nó cho đến khi Lawrence kéo cô ra. Anh họ Peter của Henrietta vẫn thường nói Chúa đã mang theo đứa trẻ ấy kể từ khi nó lọt lòng, vì con la không bao giờ làm đau cô bé. Đó là một con la xấu tính đến nỗi nó cấm cảu với không khí như một con chó dại và vung chân đá vào những cơn gió, nhưng dường như nó biết Elsie là một cô bé đặc biệt. Thậm chí khi đã lớn, cô bé vẫn không ngừng ngã sõng soài, đâm vào tường và cửa, và tự làm mình bị bỏng vì lò sưởi. Henrietta đã bắt Day đưa mình và Elsie đến các buổi mộ đạo, để https://thuviensach.vn những người thuyết giáo trong những căn lán có thể đặt tay lên người Elsie và chữa cho cô bé, nhưng điều đó không bao giờ đem lại hiệu quả. Ở Turner Station, đôi khi Elsie lao ra khỏi nhà, chạy giữa đường và gào thét. Đến khi Henrietta mang thai Joe, Elsie đã quá lớn để Henrietta có thể tự mình xoay xở, nhất là với hai đứa bé mới sinh. Các bác sĩ đã khuyên rằng gửi Elsie đi nơi khác là lựa chọn tốt nhất. Nên giờ Elsie đang sống cách nhà họ một tiếng rưỡi đi đường ở phía Nam Baltimore, tại Bệnh viện Bang Crownsville – từng được biết đến dưới cái tên Bệnh viện Tâm thần cho Người Da màu. Các chị em họ vẫn luôn nói rằng một phần trong Henrietta đã chết vào cái ngày họ gửi Elsie đi, rằng để mất cô bé còn tồi tệ hơn bất cứ việc gì khác xảy ra với Henrietta. Giờ đây, đã gần một năm sau, Henrietta vẫn bảo Day hoặc một người họ hàng đưa cô đến Crownsville để ngồi với Elsie mỗi tuần một lần, cô bé thường khóc và bám chặt lấy mẹ trong lúc họ nghịch tóc của nhau. Henrietta rất có duyên với trẻ con – chúng luôn tỏ ra ngoan ngoãn và im lặng mỗi khi có mặt cô. Nhưng ngay khi cô rời khỏi nhà, Lawrence lại giở chứng. Khi thời tiết đẹp, cậu ta lại chạy ra bến tàu cũ ở Turner Station, dù Henrietta đã cấm. Bến tàu đã bị cháy nhiều năm trước, chỉ còn trơ lại những cọc gỗ mà Lawrence và các bạn của cậu ta thích nhảy từ trên đó xuống. Một trong số các con trai của Sadie đã suýt chết đuối ở đó vì đập đầu vào đá. Lawrence thường về nhà với cặp mắt bị nhiễm trùng mà mọi người vẫn đổ rằng tại nguồn nước đã bị ô nhiễm vì Sparrows Point. Cứ mỗi khi Henrietta nghe thấy người ta nói Lawrence đang ở bến tàu, cô lại chạy ra đó, kéo cậu ta lên mà đánh. “Ôi Chúa ơi”, Sadie kể,“Hennie cầm một cây gậy và xuống bến tàu. Phải, Chúa ạ. Chị ấy đã nổi cơn tam bành. Tôi chưa từng thấy chị ấy như vậy”. Đó là lần duy nhất mọi người thấy https://thuviensach.vn Henrietta nổi giận. “Chị ấy thật mạnh mẽ”, Sadie nói thêm. “Không gì có thể khiến Hennie phải sợ”. Suốt một tháng rưỡi, không ai ở Turner Station biết Henrietta ốm. Ung thư là một bệnh dễ giữ kín, vì cô chỉ phải quay lại Hopkins một lần, để tái khám và để điều trị radium lần hai. Khi ấy các bác sĩ đã hứng thú với những gì họ thấy: cổ tử cung của cô hơi đỏ và sưng tấy vì lần trị liệu đầu tiên, nhưng khối u đang teo lại. Tuy nhiên sau đó, cô phải điều trị bằng tia X, nghĩa là cô phải đến Hopkins vào các ngày trong tuần trong vòng một tháng. Để làm được điều đó, cô cần được giúp đỡ: cô sống cách Hopkins 20 phút đi đường, và Day làm ca đêm, nên anh không thể đưa cô về nhà ngay sau khi xạ trị mà phải đến tối muộn. Cô muốn đi bộ đến nhà cô em họ Margaret cách Hopkins chỉ vài khu phố và đợi anh ở đó sau buổi xạ trị. Tuy nhiên trước hết cô phải nói với Margaret và Sadie rằng cô đang bị bệnh. Henrietta nói với các cô em họ của mình về bệnh ung thư tại hội chợ diễn ra ở Turner Station hằng năm. Như thường lệ, ba người bọn họ trèo lên đu quay, và cô đã đợi cho đến khi nó lên cao đến mức họ có thể thấy toàn cảnh Sparrows Point hướng về phía đại dương, rồi đu quay dừng lại và chân họ lắc lư, đu đưa trong khí trời mùa xuân se lạnh. “Các cô còn nhớ lúc chị nói chị có cái cục u ở bụng không?” – cô hỏi. Họ gật đầu. “Thật ra là, chị bị ung thư”, Henrietta nói. “Chị đang điều trị ở John Hopkins”. “Gì cơ?” – Sadie nói, nhìn vào Henrietta và bất chợt cảm thấy chóng mặt, như thể cô chuẩn bị trượt khỏi ghế của chiếc xích đu. “Không có gì đáng ngại”, Henrietta nói. “Chị vẫn ổn”. Và tại thời điểm ấy có vẻ như cô đã đúng. Khối u đã biến mất hoàn toàn sau khi được điều trị radium. Theo những gì các bác sĩ thấy, cổ tử cung của Henrietta đã trở lại bình thường, và họ không tìm thấy bất kỳ khối u nào. Các bác sĩ rất chắc chắn về sự hồi phục của cô, cho nên lúc cô ở bệnh viện để điều trị radium https://thuviensach.vn lần hai, họ đã thực hiện luôn ca phẫu thuật chỉnh hình mũi cho cô, sửa lại vách ngăn bị lệch đã khiến cô bị viêm mũi và đau đầu suốt cả đời. Đó là một bước khởi đầu mới. Việc điều trị bức xạ chỉ là để đảm bảo trong người cô không có tế bào ung thư nào còn sót lại. Tuy nhiên khoảng hai tuần sau lần điều trị radium thứ hai, Henrietta có kinh – máu chảy nhiều và không dừng. Cô vẫn bị chảy máu vào ngày 20 tháng 3, khi Day bắt đầu đưa cô đến Hopkins mỗi buổi sáng để xạ trị. Cô thay áo phẫu thuật và nằm lên bàn khám với một cỗ máy khổng lồ được gắn trên tường phía trên đầu. Một bác sĩ nhét các mảnh chì vào âm hộ của cô để bảo vệ ruột kết và phần dưới của cột sống khỏi bức xạ. Ngày đầu tiên, ông đánh dấu hai chấm đen bằng mực tạm thời lên hai bên bụng của Henrietta, ngay phía trên dạ con. Chúng là mục tiêu, để ông có thể nhắm bức xạ vào cùng một vị trí mỗi ngày, nhưng thay đổi giữa các chấm để tránh không đốt da của cô quá lâu ở một vị trí. Sau mỗi lần điều trị, Henrietta lại thay quần áo của mình và đi bộ vài khu phố đến nhà Margaret, để đợi Day đến đón cô lúc nửa đêm. Trong tuần đầu, cô và Margaret thường ngồi dưới mái hiên chơi bài hoặc chơi bingo, tán gẫu về cánh đàn ông, về các anh chị em, và về bọn trẻ. Tại thời điểm ấy, bức xạ có vẻ chẳng hơn gì là một việc phiền hà. Hiện tượng chảy máu của Henrietta đã dừng, và nếu có cảm thấy mệt mỏi sau những lần điều trị, cô cũng không bao giờ nói ra. Tuy nhiên không hẳn mọi chuyện đều tốt đẹp. Cuối những lần điều trị, Henrietta đã hỏi bác sĩ khi nào mình sẽ bình phục để có thể có thêm một đứa con. Ông đã nói rằng cô sẽ không thể có con nữa – những lần điều trị đã khiến cô bị vô sinh. Cảnh báo bệnh nhân về việc mất khả năng sinh sản trước khi tiến hành điều trị ung thư là việc làm bắt buộc ở Hopkins, đó là việc mà Howard Jones nói ông và TeLinde đã làm với mọi bệnh nhân. Thực tế là, một năm rưỡi trước khi Henrietta đến Hopkins https://thuviensach.vn để điều trị, trong một bài nghiên cứu về thủ thuật cắt bỏ dạ con, TeLinde đã viết: Ảnh hưởng tâm lý của việc cắt bỏ dạ con, đặc biệt đối với giới trẻ, rất đáng để lưu tâm, và nó không nên được thực hiện mà không có sự nhận thức rõ ràng từ phía bệnh nhân... [người] có quyền nhận được lời giải thích đơn giản về các vấn đề... [bao gồm] mất khả năng sinh sản... Nó phải được giải thích cho từng bệnh nhân và cho họ thời gian để hiểu rõ thông tin... Tốt hơn là để họ tự điều chỉnh tâm lý trước khi phẫu thuật còn hơn là tỉnh dậy sau khi gây mê và được biết chuyện đã rồi. Tuy nhiên trong trường hợp này, rõ ràng có điều gì đó bất ổn. Trong bệnh án của Henrietta, một bác sĩ của cô đã viết: “Đã nói với bệnh nhân về việc không thể có con nữa. Bệnh nhân trả lời nếu được biết trước, cô sẽ không chấp nhận điều trị”. Nhưng đến khi Henrietta được biết thì đã quá muộn. Rồi, ba tuần sau khi bắt đầu điều trị bằng tia X, cơ thể của cô như bị đốt cháy từ bên trong, nước tiểu của cô như những mảnh vỡ thủy tinh. Day nói anh bị chảy mủ, chắc hẳn Henrietta đã lây cho anh thứ bệnh mà cô liên tục đến Hopkins để điều trị. “Tôi thì nghĩ ngược lại”, Jones viết trong bệnh án của Henrietta sau khi khám cho cô. “Dù sao thì, bệnh nhân giờ đã bị lậu cấp, bên cạnh tác dụng phụ của xạ trị”. Tuy nhiên, việc Day đi lang chạ chỉ là chuyện nhỏ trong những mối lo của Henrietta. Đoạn đường đến nhà Margaret bắt đầu khiến cô thấy ngày một xa hơn, tất cả những gì Henrietta muốn làm khi đến được đó là ngủ. Một hôm, cô đã suýt ngất khi đi khỏi Hopkins được vài khu phố, cô mất gần một giờ để đi quãng đường hằng ngày ấy. Sau đó, cô bắt đầu đi taxi. Một buổi chiều, khi Henrietta đang nằm trên ghế sofa, cô nhấc áo lên để chỉ cho Margaret và Sadie thấy những gì mà việc điều trị đã gây ra cho cô. Sadie thở gấp: Da từ ngực đến xương https://thuviensach.vn chậu của Henrietta đen như than vì bức xạ. Phần còn lại trên cơ thể cô vẫn giữ nguyên màu cũ – nâu vàng chứ không đen như than. Đôi khi da trở nên sẫm màu vì bức xạ; các bác sĩ gọi nó là “tắm nắng”. “Hennie”, Sadie thì thầm, “họ đã đốt chị đen thui như hắc ín”. Henrietta chỉ gật đầu và nói: “Chúa ạ, như thể bóng đen đang lan khắp cơ thể chị”. https://thuviensach.vn 6 “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG ĐIỆN THOẠI” Mười một năm sau khi được học về Henrietta trong lớp của Deer – vào sinh nhật lần thứ 27 của mình – tôi tình cờ được thấy tập san bao gồm các bài nghiên cứu khoa học từ Hội nghị Chuyên đề Kiểm soát Tế Bào Ung thư HeLa tại Trường Y Morehouse ở Atlanta, một trong những trường đại học dành cho người da màu lâu đời nhất trên cả nước. Hội nghị được tổ chức bởi Roland Pattillo để vinh danh Henrietta. Pattillo là một giáo sư ngành Phụ khoa học ở Morehouse, cũng là một trong những sinh viên người Mỹ gốc Phi hiếm hoi của George Gey. Khi gọi điện cho Roland Pattillo để hỏi xem ông ấy có biết gì về Henrietta không, tôi nói với ông là tôi đang viết một cuốn sách về bà. “Ồ, vậy à?” – ông nói, rồi cười đầy ngụ ý, Ôi cô bé, cô không biết mình đang đâm đầu vào chuyện gì đâu. “Gia đình của Henrietta sẽ không nói chuyện với cô đâu. Họ đã phải trải qua một quãng thời gian tồi tệ với các tế bào HeLa”. “Ông biết gia đình bà ấy ư?” – tôi hỏi. “Ông có thể giới thiệu tôi với họ không?” “Tôi có thể giới thiệu cô với họ, nhưng cô cần phải trả lời tôi một số câu hỏi đã, đầu tiên là ‘Tại sao tôi phải làm vậy?’” Suốt một giờ đồng hồ sau đó, Pattillo đã tra khảo mục đích của tôi. Trong lúc tôi kể cho ông nghe về sự trăn trở của mình với HeLa, ông cằn nhằn và thở dài, thi thoảng thốt lên những tiếng hừm và ờ thì. Cuối cùng, ông nói: “Xin lỗi nếu tôi sai, nhưng cô là người da trắng”. https://thuviensach.vn “Điều đó rõ ràng đến vậy sao?” “Phải”, ông đáp. “Cô biết gì về những người Mỹ gốc Phi và khoa học?” Tôi nói đến nghiên cứu về bệnh giang mai ở Tuskegee như thể tôi đang trình bày một bản báo cáo trong lớp lịch sử: Nghiên cứu này bắt đầu vào những năm 1930, khi các nhà nghiên cứu về Dịch vụ Y tế Công cộng Mỹ ở Viện Tuskegee quyết định tìm hiểu bệnh giang mai gây chết người như thế nào, từ lúc bệnh nhân bị nhiễm bệnh đến lúc tử vong. Họ tập hợp hàng trăm người đàn ông Mỹ gốc Phi mắc bệnh giang mai, rồi quan sát người bệnh này chết một cách từ từ, trong đau đớn, ngay cả sau khi họ nhận ra rằng penicillin có thể chữa được bệnh này. Các đối tượng nghiên cứu không hề thắc mắc gì. Họ là những người nghèo không được học hành, và các nhà nghiên cứu đã đưa ra những ưu đãi như: khám bệnh miễn phí, các bữa ăn nóng hổi, và xe đưa đón vào thị trấn trong những ngày khám bệnh, cộng thêm 50 đô tiền trợ cấp mai táng cho các gia đình khi họ chết. Các nhà nghiên cứu đã chọn những đối tượng da màu bởi vì cũng như nhiều người da trắng khác lúc bấy giờ, họ tin rằng người da màu là “một chủng tộc nổi tiếng ngập ngụa trong bệnh giang mai”. Công chúng đã không biết đến các nghiên cứu Tuskegee cho đến tận những năm 1970, sau khi hàng trăm người tham gia nghiên cứu này đã chết. Tin tức ấy đã lan truyền khắp các cộng đồng người da màu hệt như bệnh giang mai: Các bác sĩ đang làm thí nghiệm trên người da màu, lừa dối họ, và đứng nhìn họ chết. Những tin đồn bắt đầu được phát tán, nói rằng thực ra các bác sĩ đã tiêm bệnh giang mai vào những người đàn ông đó để có thể nghiên cứu. “Còn gì nữa không?” – Pattillo càu nhàu. Tôi nói với ông ấy rằng tôi đã nghe nói về thứ gọi là Cắt bỏ Ruột thừa Mississippi, thực chất là những ca cắt bỏ dạ con của những phụ nữ da màu nghèo đói một cách không cần thiết, để https://thuviensach.vn ngăn không cho họ sinh đẻ, và tạo cơ hội các bác sĩ trẻ thực tập kỹ thuật phẫu thuật này. Và tôi cũng được đọc về tình trạng thiếu kinh phí cho nghiên cứu bệnh thiếu máu hồng cầu liềm, một căn bệnh hầu như chỉ ảnh hưởng đến những người da màu. “Thật trùng hợp vì cô đã gọi lúc này”, ông ấy nói. “Tôi đang có ý định tổ chức cuộc hội thảo HeLa tiếp theo, điện thoại đổ chuông ngay lúc tôi vừa ngồi xuống bàn và gõ dòng chữ Henrietta Lacks trên màn hình”. Cả hai chúng tôi bật cười. Đó hẳn là một điềm báo, có lẽ Henrietta muốn chúng tôi trò chuyện với nhau. “Deborah là con gái út của Henrietta”, ông ấy nói, vẻ chắc nịch. “Cả nhà gọi Deborah là Dale. Giờ cô ấy đã gần 50, vẫn sống ở Baltimore với mấy đứa cháu. Chồng của Henrietta vẫn còn sống. Ông ta khoảng 84 tuổi và vẫn đến khám bệnh ở Johns Hopkins”. Pattillo nói ra điều này như một lời gợi ý. “Cô có biết Henrietta còn một cô con gái bị động kinh không?” – ông ấy hỏi. “Không”. “Cô con gái này đã chết từ năm 15 tuổi, không lâu sau khi Henrietta mất. Deborah là cô con gái duy nhất còn sống”, ông ấy nói. “Mới đây, cô ấy suýt bị đột quỵ bởi sự dày vò với những câu hỏi về cái chết của mẹ mình và các tế bào đó. Tôi sẽ không tiếp tay cho bất kỳ ai định làm cô ấy mệt mỏi nữa”. Tôi mở miệng nói, nhưng ông ấy cắt lời. “Tôi phải đi gặp bệnh nhân ngay”, ông ấy đột ngột nói. “Tôi chưa sẵn sàng để cô liên lạc với gia đình họ. Nhưng tôi nghĩ cô đã thành thật về những mục đích của mình. Chúng ta sẽ tiếp tục trao đổi về chuyện này sau khi tôi suy nghĩ kỹ. Gọi lại cho tôi vào ngày mai”. Sau ba ngày tra hỏi, cuối cùng Pattillo quyết định cho tôi số điện thoại của Deborah. Nhưng trước hết, ông ấy nói rằng có một số việc tôi cần phải biết. Ông ấy hạ giọng và tuôn ra một https://thuviensach.vn tràng về những việc “nên” và “không nên” khi đối mặt với Deborah Lacks: Đừng tỏ ra nóng vội. Hãy thành thật. Đừng thờ ơ, đừng tìm cách ép cô ấy làm việc gì, đừng ra vẻ kẻ cả, cô ấy ghét điều đó. Hãy cảm thông, đừng quên rằng cô ấy đã trải qua rất nhiều chuyện liên quan tới những tế bào này, hãy kiên nhẫn. “Cô sẽ cần điều đó hơn bất kỳ thứ gì khác”, ông ấy kết luận. Vài giây sau khi cúp máy, với danh sách những thứ “nên” và “không nên” của Pattillo trong tay, tôi bấm số của Deborah, rồi đi đi lại lại trong lúc điện thoại đổ chuông. Khi cô ấy thì thào chào, tôi nói một tràng: “Tôi rất mừng vì cô đã trả lời điện thoại, tôi đã muốn nói chuyện với cô nhiều năm nay rồi! Tôi đang viết một cuốn sách về mẹ của cô!” “Hả?” – cô ấy nói. Tôi đã không hề biết rằng Deborah gần như bị điếc – cô ấy chủ yếu nghe bằng cách nhìn môi và không thể hiểu những ai nói nhanh. Tôi hít một hơi thật sâu rồi thử lại, buộc mình phải nói rõ từng từ một. “Xin chào, tên tôi là Rebecca”. “Xin chào” – cô ấy nói, thận trọng nhưng tình cảm. “Tôi rất mừng vì được nói chuyện với cô”. “Mmmhmm” – cô ấy nói, như thể đã nghe câu nói này quá nhiều lần rồi. Tôi nói lại rằng tôi muốn viết một cuốn sách về mẹ cô ấy và tôi thấy ngạc nhiên khi dường như không một ai biết gì về Henrietta mặc dù các tế bào của bà rất quan trọng đối với ngành khoa học. Cô ấy im lặng một hồi lâu, rồi hét lên: “Đúng vậy!” – Cô ấy cười khúc khích và bắt đầu nói chuyện như thể chúng tôi đã biết nhau từ lâu. “Mọi thứ lúc nào cũng chỉ tập trung về các tế bào, https://thuviensach.vn thậm chí không thèm bận tâm đến tên của bà, và liệu HeLa có phải là người hay không. Tạ ơn Chúa! Tôi nghĩ một quyển sách sẽ thật tuyệt!” Đây không phải là những gì tôi đã trông đợi. Tôi sợ nói điều gì đó sẽ khiến cô ấy ngừng trò chuyện, nên tôi chỉ đơn giản đáp: “Tuyệt”. Và đó là từ cuối cùng tôi nói cho đến cuối cuộc trò chuyện. Tôi đã không hỏi một câu nào, chỉ cố gắng ghi chép lại nhanh hết mức có thể. Deborah nhồi nhét thông tin cả một đời người vào cuộc hội thoại 45 phút khó hiểu và hỗn độn, nhảy hết từ chuyện này sang chuyện khác mà không một lời báo trước, không theo thứ tự, từ những năm 1920 đến những năm 1990, từ những câu chuyện về cha cô đến ông, các anh em họ, mẹ, và những người hoàn toàn xa lạ. “Chẳng ai nói gì cả”, cô ấy bảo tôi. “Ý tôi là, quần áo của mẹ tôi ở đâu? Giày của mẹ tôi ở đâu? Tôi biết mẹ có đồng hồ và nhẫn, nhưng bị mất trộm rồi. Đó là sau khi em trai tôi giết thằng đó”. Cô ấy nói về một người đàn ông nhưng cô không kể tên: “Tôi nghĩ hắn không nên ăn trộm bệnh án và kết quả khám nghiệm tử thi của mẹ tôi. Hắn đã đi tù 15 năm ở Alabama. Giờ hắn nói John Hopkin đã giết chết mẹ tôi và lũ bác sĩ da trắng đã làm thí nghiệm trên cơ thể bà vì bà là người da màu”. “Tôi đã suy nhược thần kinh”, cô ấy nói. “Tôi không thể chịu đựng được. Tôi đã bị mất giọng và đang dần nói lại được – tôi suýt bị đột quỵ hai lần trong hai tuần vì tất cả những gì liên quan đến các tế bào của mẹ tôi”. Rồi đột nhiên cô ấy kể về lịch sử gia đình, nói điều gì đó về “Bệnh viện Tâm thần cho Người Da màu” và ông cố của mẹ cô từng là chủ nô lệ. “Tất cả chúng tôi đều là người lai. Một trong số các chị em của mẹ tôi đã đổi quốc tịch thành người Puerto Rico”. Hết lần này đến lần khác, cô ấy nói: “Tôi không thể chịu được nữa”, và “Chúng tôi biết tin ai bây giờ?” Cô ấy nói với tôi rằng, https://thuviensach.vn hơn bất cứ điều gì, cô ấy muốn tìm hiểu về mẹ mình và những gì mà các tế bào của bà đã làm được cho nền khoa học. Cô nói rằng, người ta đã hứa sẽ cho cô biết thông tin cả thập niên rồi nhưng không bao giờ thực hiện. “Tôi phát điên vì nó rồi”. “Cô có biết tôi thực sự muốn gì không? Tôi muốn biết mùi của mẹ tôi như thế nào? Cả đời tôi, tôi chẳng biết gì cả, thậm chí cả những điều nhỏ bé thông thường như bà thích màu gì? Bà có thích khiêu vũ không? Bà có cho tôi bú không? Chúa ạ, tôi muốn biết điều đó. Nhưng không ai nói gì hết”. Cô ấy cười và nói: “Để tôi nói cho cô biết một chuyện, câu chuyện này chưa kết thúc. Cô có việc phải làm đấy, cô gái ạ. Chuyện điên rồ này đủ để viết nên ba cuốn sách đấy!” Sau đó có người bước qua cửa chính nhà cô ấy và Deborah hét thẳng vào ống nghe: “Chào buổi sáng! Tôi có thư à?” Cô ấy có vẻ hoảng loạn vì ý nghĩ ấy. “Ôi Chúa ạ! Ôi không! Thư?!” “Được rồi, cô Rebecca”, cô ấy nói. “Tôi phải đi. Hãy gọi lại cho tôi vào thứ Hai, hứa chứ? Được rồi cưng. Chúa phù hộ cho cô. Tạm biệt”. Cô ấy cúp máy, và tôi bàng hoàng ngồi đó, ống nghe vẫn kẹp trên cổ, điên cuồng viết nguệch ngoạc những dòng ghi chú mà tôi không hiểu, như em trai = sát nhân, thư = tệ, người đàn ông lấy trộm bệnh án của Henrietta, và Bệnh viện Tâm thần cho Người Da màu? Khi tôi gọi lại cho Deborah như đã hứa, cô ấy có vẻ như một người hoàn toàn khác. Giọng của cô ấy đều đều, chán nản, và líu nhíu như thể vừa bị tiêm thuốc mê liều cao. “Không phỏng vấn gì hết”, cô ấy lẩm bẩm, hầu như không thể nghe thấy gì. “Cô đi đi. Các anh em của tôi nói tôi nên tự mình viết sách. Nhưng tôi không phải nhà văn. Xin lỗi”. Tôi tìm cách lên tiếng, nhưng cô ấy cắt lời tôi. “Tôi không thể nói chuyện với cô nữa. Điều duy nhất có thể làm là thuyết phục mấy người đàn ông trong nhà”. Cô ấy cho tôi ba số điện thoại: https://thuviensach.vn của bố cô ấy, của anh cả Lawrence, và số máy nhắn tin của David “con”. “Mọi người gọi anh ấy là Sonny”, cô ấy nói, rồi cúp máy. Tôi đã không nói chuyện lại với cô ấy cho đến gần một năm sau. Tôi bắt đầu gọi cho Deborah, các anh trai của cô, và cha cô mỗi ngày, nhưng họ không trả lời. Cuối cùng, sau vài ngày để lại tin nhắn thoại, có người trả lời ở nhà của Day: một cậu bé nhấc máy nhưng không chào hỏi, chỉ thở vào ống nghe, tiếng nhạc hip-hop dội lại từ đằng sau. Khi tôi hỏi gặp David, cậu bé nói: “Được”, rồi ném điện thoại xuống. “Gọi cụ cố đến đây!” cậu ta hét lên, sau đó là sự im lặng hồi lâu. “Có việc quan trọng. Gọi cụ cố đi!” Không có tiếng trả lời. “Có một cô trong điện thoại”, cậu bé hét lên,“gọi đi…” Cậu bé đầu tiên lại thở vào ống nghe trong lúc cậu bé thứ hai nhấc điện thoại lên từ một đầu dây khác và chào. “Xin chào”, tôi nói. “Tôi có thể nói chuyện với David được không?” “Cô là ai?” – cậu bé hỏi. “Rebecca”, tôi đáp. Cậu ta đưa điện thoại ra khỏi miệng rồi hét: “Gọi cụ cố đi, có một cô gọi điện hỏi về các tế bào của bà cố”. Nhiều năm sau, tôi mới hiểu vì sao mà một cậu bé lại biết lý do tôi gọi điện chỉ vì giọng nói của tôi: những người da trắng chỉ gọi cho David Lacks khi họ muốn điều gì đó liên quan đến các tế bào HeLa. Nhưng lúc bấy giờ tôi không biết tại sao – tôi nghĩ chắc tôi đã nghe nhầm. Một phụ nữ cầm máy: “Xin chào, tôi có thể giúp gì cho cô?” – giọng bà ta sắc lẹm, cộc lốc như thể muốn nói tôi không có thời gian cho chuyện này. https://thuviensach.vn Tôi nói với bà ta rằng tôi muốn nói chuyện với David, và bà ta hỏi tôi là ai. Rebecca, tôi đáp ngắn gọn vì sợ bà ta sẽ cúp máy nếu tôi nói thêm bất kỳ từ gì nữa. “Đợi một chút”. Bà ta thở dài rồi hạ điện thoại xuống. “Đưa điện thoại cho Day”, bà ta nói với một đứa trẻ. “Nói với ông ấy rằng có điện thoại đường dài, có người tên Rebecca gọi hỏi về các tế bào của vợ ông ấy”. Đứa trẻ chộp lấy điện thoại, áp nó vào tai, rồi chạy đi tìm Day. Im lặng một hồi lâu. “Cụ ơi, dậy đi”, đứa trẻ thì thầm. “Có người muốn hỏi về bà cố”. “Ai…” “Dậy đi, có người gọi điện về các tế bào của bà cố”. “Ai? Ở đâu?” “Tế bào của bà cố, trong điện thoại... dậy đi”. “Tế bào của bà ấy ở đâu?” “Đây”, thằng bé nói, đưa điện thoại cho David. “Nghe đây”. “Xin chào, ông có phải là David Lacks?” “Phải”. Tôi xưng tên với ông ấy và bắt đầu giải thích lý do gọi điện đến, nhưng trước khi có thể nói được gì, ông ấy đã thở dài sườn sượt. “Muốn-biết-về-cái-này-hả”, ông ấy lẩm bẩm bằng phương ngữ miền Nam đặc sệt, líu lưỡi như thể ông ta đã bị đột quỵ. “Cô có các tế bào của bà nhà tôi ư?” “Phải”, tôi nói, nghĩ rằng có lẽ ông ấy đang hỏi có phải tôi gọi điện vì các tế bào của vợ ông ấy. https://thuviensach.vn “Thế à?” – ông ta nói, đột nhiên tỉnh táo. “Cô có các tế bào của bà nhà tôi? Bà ấy có biết cô gọi đến?” “Vâng”, tôi đáp, nghĩ rằng có lẽ ông ấy đang hỏi liệu Deborah có biết tôi đang gọi cho ông ấy. “Thế thì để các tế bào của bà ấy nói chuyện với cô và để cho tôi yên”, ông ta cáu. “Tôi chịu đủ với các người rồi”. Và ông ta cúp máy. https://thuviensach.vn 7 CÁI CHẾT VÀ SỰ SỐNG CỦA NUÔI CẤY TẾ BÀO Ngày 10 tháng 4 năm 1951, ba tuần sau khi Henrietta bắt đầu xạ trị, George Gey xuất hiện trên đài WAAM ở Baltimore trong một chương trình đặc biệt về những công trình nghiên cứu của ông. Trong tiếng nhạc nền kịch tính, người dẫn chương trình nói: “Tối nay, chúng ta sẽ biết tại sao các nhà khoa học tin rằng ung thư là thứ có thể chế ngự được”. Máy quay chĩa thẳng vào George đang ngồi ở chiếc bàn đặt cạnh một bức tường treo đầy những bức ảnh tế bào. Mặt ông dài, bảnh bao, với chiếc mũi thẳng, cặp kính nhựa hai tròng màu đen, và bộ ria mép kiểu Charlie Chaplin. Ông ngồi thẳng lưng, bộ vest bằng vải tuýt được là cẩn thận, khăn tay màu trắng cài ở túi ngực, tóc vuốt ngược ra sau bóng lộn. Mắt ông nhìn thẳng vào máy quay, rồi lại hướng ra phía khác, ngón tay gõ nhẹ xuống bàn, mặt không biểu lộ cảm xúc gì. “Các tế bào thường tạo nên cơ thể của chúng ta là những vật thể cực nhỏ, 5.000 tế bào này mới chỉ bằng đầu của một cây kim”, ông ấy nói, hơi lớn giọng và khoa trương. “Các tế bào thường trở thành tế bào ung thư như thế nào vẫn còn là một bí ẩn”. Ông giải thích khái quát cho khán giả về cấu trúc của tế bào và bệnh ung thư bằng cách dùng các biểu đồ và một cây gậy dài bằng gỗ. Ông chiếu những đoạn phim về các tế bào đang di chuyển dọc màn hình, các cạnh của chúng nhích từng chút một vào khoảng trống bên cạnh chúng. Rồi ông phóng to một tế bào ung thư, khả năng cao là HeLa, các cạnh của nó tròn và mịn, cho đến https://thuviensach.vn khi tế bào bắt đầu rung lắc dữ dội, tách ra thành năm tế bào ung thư. Một lúc sau ông nói: “Giờ hãy để tôi cho các bạn xem cái lọ đựng một lượng lớn các tế bào ung thư mà chúng tôi đã nuôi cấy”. Ông cầm chai thủy tinh trong suốt có kích cỡ nửa lít chứa đầy các tế bào của Henrietta và lắc nó trên tay trong lúc giải thích rằng phòng thí nghiệm của ông đang sử dụng các tế bào này để tìm cách ngăn chặn bệnh ung thư. Ông nói: “Từ các nghiên cứu nền tảng như thế này, chúng ta sẽ có thể tìm ra cách phá hủy các tế bào ung thư hoặc tiêu diệt chúng một cách triệt để”. Để điều đó có thể xảy ra, Gey đã gửi các tế bào của Henrietta cho bất kỳ nhà khoa học nào muốn sử dụng chúng để nghiên cứu. Tuy nhiên, vận chuyển các tế bào sống qua đường bưu điện – một cách vận chuyển thông dụng ngày nay – lại chưa có lúc bấy giờ. Thay vào đó, Gey gửi chúng bằng đường hàng không, trong các ống nghiệm với một vài giọt môi trường nuôi cấy, chỉ vừa đủ để giữ cho chúng sống trong một khoảng thời gian ngắn. Đôi khi các phi công hoặc tiếp viên nhét những ống nghiệm vào túi áo của họ, để giữ cho các tế bào ở nhiệt độ cơ thể như lúc chúng được nuôi trong tủ nuôi cấy tế bào[17]. Lúc khác, khi các tế bào bị đặt ở khoang chở hàng, Gey nhét chúng vào những cái lỗ mà ông đã đẽo trên các tảng băng để giữ cho chúng khỏi bị nóng, rồi đặt tảng băng vào thùng bìa cứng chèn mùn cưa để hút nước. Khi các kiện hàng đã sẵn sàng để vận chuyển, Gey sẽ thông báo cho người nhận rằng các tế bào sắp “di căn” đến thành phố của họ, và họ sẽ đứng đợi để lấy ngay, rồi vội vã mang tế bào trở về phòng thí nghiệm của mình. Nếu mọi việc diễn ra thuận lợi, các tế bào sẽ sống sót. Nếu không, Gey sẽ đóng một kiện khác và thử lại một lần nữa. Ông đã gửi các kiện hàng chứa tế bào HeLa đến các nhà nghiên cứu ở Texas, Ấn Độ, New York, Amsterdam, và nhiều nơi khác nữa. Các nhà nghiên cứu đó lại đưa chúng cho nhiều nhà nghiên cứu khác, và cứ thế họ lại tiếp tục đưa chúng cho những https://thuviensach.vn người khác. Các tế bào của Henrietta đã leo lên các ngọn núi ở Chile trong những chiếc túi vắt ngang lưng những con la thồ hàng. Và khi Gey bay từ phòng thí nghiệm này đến phòng thí nghiệm khác, để diễn giải kỹ thuật nuôi cấy của mình và hỗ trợ thiết lập các phòng thí nghiệm mới, ông luôn mang theo một vài ống nghiệm chứa các tế bào của Henrietta trong túi áo ngực. Khi các nhà khoa học đến thăm phòng thí nghiệm của Gey để học hỏi kỹ thuật của ông, ông thường cho họ một hoặc hai ống nghiệm HeLa mang về. Trong những bức thư, Gey và một số đồng nghiệp của ông bắt đầu gọi các tế bào ấy là “những đứa con cưng” của mình. Các tế bào HeLa là thứ vô cùng quý giá bởi vì chúng cho phép các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm mà họ không thể thực hiện trên cơ thể người. Họ cắt các tế bào HeLa ra và cho nó tiếp xúc với vô số các độc tố, phóng xạ, và các bệnh lây nhiễm. Họ đã oanh tạc chúng bằng các loại thuốc, với hy vọng sẽ tìm ra một loại có thể giết chết những tế bào ác tính mà không phá hủy các tế bào khỏe mạnh. Họ nghiên cứu quá trình ức chế miễn dịch và sự phát triển của bệnh ung thư bằng cách tiêm HeLa vào những con chuột bị suy giảm miễn dịch, và đang phát triển các khối u ác tính tương tự của Henrietta. Nếu các tế bào chết trong quá trình thực hiện thí nghiệm thì cũng chẳng thành vấn đề – các nhà nghiên cứu có thể quay lại với nguồn dự trữ HeLa vô hạn và bắt đầu lại. Mặc cho sự lan rộng của HeLa và hàng loạt các nghiên cứu nở rộ theo sau, không hề có bất kỳ một tin tức nào về sự ra đời của dòng tế bào HeLa kỳ diệu này cũng như cách chúng có thể hỗ trợ ngăn chặn bệnh ung thư. Trong lần Gey xuất hiện trên truyền hình, ông đã không nhắc đến Henrietta hay gọi tên các tế bào của bà, nên công chúng không biết gì về HeLa. Thậm chí nếu biết, chắc họ cũng không mấy quan tâm. Suốt nhiều thập niên trước đó, giới truyền thông đã đưa tin rằng nuôi cấy tế bào sẽ cứu thế giới khỏi bệnh tật và biến con người thành bất tử, nhưng đến năm 1951, công chúng không còn tin vào điều đó https://thuviensach.vn nữa. Nuôi cấy tế bào trở nên ít kỳ diệu hơn những thứ diễn ra trong một bộ phim khoa học viễn tưởng kinh dị. Tất cả bắt đầu vào ngày 17 tháng 1 năm 1912, khi Alexis Carrel, một bác sĩ phẫu thuật người Pháp ở Viện Rockefeller, đã nuôi thành công “tim gà bất tử”. Các nhà khoa học đã tìm cách nuôi tế bào sống từ trước thế kỷ 20, nhưng các mẫu vật của họ luôn chết. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã tin rằng giữ cho các mô sống bên ngoài cơ thể là một việc bất khả thi. Nhưng Carrel quyết tâm chứng minh rằng họ đã sai. Ở tuổi 39, ông đã phát minh ra kỹ thuật đầu tiên để khâu các mạch máu và đã sử dụng kỹ thuật này để thực hiện giải phẫu bắc cầu mạch vành và phát triển các phương pháp cấy ghép nội tạng. Ông hy vọng một ngày không xa sẽ có thể nuôi toàn bộ nội tạng trong phòng thí nghiệm, lấp đầy các căn hầm khổng lồ với phổi, gan, thận, và các mô mà ông có thể gửi qua đường bưu điện để thực hiện cấy ghép. Như bước đầu tiên, ông đã đưa một mẩu mô tim gà vào nuôi cấy. Thí nghiệm đã thành công trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người. Những tế bào tim ấy vẫn tiếp tục đập như thể nó vẫn còn ở trong cơ thể của con gà. Nhiều tháng sau, Carrel đã giành giải Nobel vì kỹ thuật khâu nối mạch máu và các cống hiến của ông trong việc ghép tạng, và ngay lập tức ông trở thành người nổi tiếng. Giải thưởng Nobel ấy không liên quan gì đến tim gà, nhưng các bài báo viết về giải thưởng của ông lại lồng ghép các tế bào tim gà bất tử với việc cấy ghép nội tạng, và đột nhiên nghe như thể ông đã tìm thấy suối nguồn của tuổi trẻ. Tiêu đề các bài báo trên khắp thế giới đã viết: PHÉP MÀU MỚI CỦA CARREL MỞ ĐƯỜNG CHO VIỆC ĐẨY LÙI TUỔI GIÀ!... CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐÃ NUÔI CẤY TIM GÀ BẤT TỬ... Ả Ế Ả https://thuviensach.vn PHẢI CHĂNG CÁI CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI Các nhà khoa học cho rằng các tế bào tim gà của Carrel là một trong những bước tiến quan trọng nhất của thế kỷ, và rằng nuôi cấy tế bào sẽ vén màn bí mật đằng sau mọi thứ, từ việc ăn uống và giới tính đến “âm nhạc của Bach, những bài thơ của Milton, [và] sự lỗi lạc của Michelangelo”. Carrel là đấng cứu thế của khoa học. Các tạp chí đã gọi môi trường nuôi cấy của ông là “tiên đan của tuổi trẻ” và cho rằng tắm trong nó có thể khiến người ta trở thành bất tử. Tuy nhiên Carrel không hứng thú với sự bất tử dành cho đám đông. Ông là một người theo thuyết ưu sinh: ghép tạng và kéo dài sự sống là cách để duy trì chủng tộc người da trắng thượng đẳng, mà theo ông thì những người thượng đẳng này đang bị vấy bẩn bởi lũ người thấp kém hơn, ngu đần hơn, như là những người nghèo, những người không được học hành, và những người không phải người da trắng. Ông mơ đến một cuộc sống vĩnh cửu của những người mà ông cho là xứng đáng, và cái chết hoặc việc buộc triệt sản là thứ dành cho tất cả những người còn lại. Ông thậm chí còn khen ngợi Hitler vì “các biện pháp mạnh” mà hắn đã thực hiện cho lý tưởng đó. Tính lập dị của Carrel đã lan vào cơn mê loạn của truyền thông về các công trình của ông. Ông là một người đàn ông Pháp mập mạp có tật nói nhanh với cặp mắt bị loạn sắc tố – một mắt màu nâu, mắt còn lại màu xanh da trời – ông hiếm khi ra ngoài mà không đội mũ phẫu thuật của mình. Ông đã mù quáng khi tin rằng ánh sáng có thể giết chết các tế bào nuôi cấy, nên phòng thí nghiệm của ông trông như một tấm ảnh âm bản của tổ chức Ku Klux Klan[18], nơi các kỹ thuật viên làm việc trong những bộ áo chùng dài màu đen, đầu đội mũ trùm màu đen che kín mặt chỉ để hở đôi mắt. Họ ngồi trên những chiếc ghế đẩu đen, bên cạnh những chiếc bàn đen trong căn phòng không có bóng nắng đổ xuống sàn nhà, trần và bốn bức tường https://thuviensach.vn được sơn đen kịt. Ánh sáng duy nhất là từ cửa sổ áp mái bám đầy bụi. Ông là một người thần bí tin vào thần giao cách cảm và khả năng nhìn thấu những thứ vô hình, và ông nghĩ sẽ khả thi để con người sống đến vài thế kỷ bằng cách sử dụng kỹ thuật tạm ngừng sự sống. Cuối cùng ông đã biến căn hộ của mình thành một giáo đường, bắt đầu thuyết giảng về những phép màu y học, và nói với các phóng viên rằng ông mơ ước được chuyển đến Nam Mỹ và trở thành một kẻ độc tài. Các nhà khoa học khác tách dần khỏi ông, phê phán ông vì đã tỏ ra phi khoa học, nhưng phần lớn người Mỹ da trắng đã tôn thờ các ý tưởng của ông và coi ông như một thiên tài và một người dẫn lối linh hồn. Reader’s Digest đã cho đăng các loạt bài do Carrel viết để khuyên phụ nữ rằng “người chồng không nên bị kích thích hoạt động tình dục bởi người vợ có ham muốn quá mạnh”, vì tình dục làm kiệt quệ trí óc. Trong cuốn sách bán chạy nhất của ông, Man, the Unknown (Đàn ông, Điều chưa biết), ông đã kiến nghị sửa đổi những gì mà ông tin là “một sai sót” trong Hiến pháp Hoa Kỳ khi hứa hẹn sự bình đẳng cho tất cả mọi người. “Những kẻ kém thông minh và những thiên tài không nên được bình đẳng trước pháp luật”, ông đã viết. “Những kẻ ngốc, những kẻ đần độn, những người bị đầu óc phân tán, không thể tập trung, không thể cố gắng, không có quyền được học lên cao”. Sách của ông đã bán được hơn hai triệu bản và được dịch sang 20 thứ tiếng. Hàng nghìn người đã đến dự các buổi diễn thuyết của Carrel, đôi khi phải cần đến cảnh sát có trang bị vũ trang chống bạo loạn để giữ trật tự khi các tòa nhà chật kín người đến dự và những người hâm mộ bị từ chối cho vào. Xuyên suốt tất cả những chuyện đó, báo giới và công chúng vẫn bị ám ảnh với tim gà bất tử của Carrel. Mỗi năm vào ngày đầu năm mới, tờ New York World Telegram lại gọi cho Carrel để kiểm tra các tế bào; và trong suốt nhiều thập niên, cứ đến ngày 17 tháng 1 hằng năm, Carrel và các trợ lý của ông lại xếp hàng trong những bộ áo vest đen và hát “Chúc mừng Sinh nhật” cho https://thuviensach.vn