🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cuộc Chơi Khởi Nghiệp - William H. Draper III
Ebooks
Nhóm Zalo
William H. Draper III
CUỘC CHƠI KHỞI NGHIỆP
“ĐỂ BẠN TỰ VIẾT NÊN CÂU CHUYỆN CỦA CHÍNH MÌNH!”
WILLIAM H. DRAPER III
Đ
ộc giả và các doanh nhân Việt Nam thân mến, Mặc dù cuốn sách các bạn đang cầm trên tay chứa đựng những câu chuyện liên quan trực tiếp đến các doanh nhân tại
thung lũng Silicon, Mỹ, nhưng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ thấy chúng hữu ích trên hành trình tìm kiếm giấc mơ của mình. Xét về nhiều mặt, các doanh nhân từ mọi nẻo đường trên hành tinh này tìm đến với thung lũng Silicon không có gì khác biệt so với các doanh nhân tại Việt Nam. Họ mang trong mình những đặc điểm nổi bật có thể được tìm thấy ở bất cứ nơi đâu: sự sáng tạo tài tình, động lực không ngừng, khả năng làm việc không mệt mỏi và niềm đam mê khác biệt. Những phẩm chất cao quý đó kết hợp với những nguồn hỗ trợ mạnh mẽ – vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, một chút may mắn và thời cơ thích hợp – có thể biến những ý tưởng, tưởng chừng giản đơn thành những công ty có khả năng thay đổi cục diện thế giới. Tôi may mắn được là một phần trong những câu chuyện này, và tôi mong rằng chúng sẽ đem đến động lực, sự khích lệ và tầm nhìn cho các bạn để các bạn có thể tự viết nên câu chuyện của chính mình.
Chúc bạn thành công!
“KHÁT KHAO LÀM NÊN NHỮNG HUYỀN THOẠI MỚI”
THÂN TRỌNG PHÚC
Nhà quản lý quỹ đầu tư DFJ VinaCapital, liên doanh giữa Draper Fisher Jurvetson (DFJ) tại Mỹ và VinaCapital tại Việt Nam N
hững người yêu công nghệ và khởi nghiệp không ai không biết về các huyền thoại của thung lũng Silicon – những câu chuyện về khả năng biến các ý tưởng thành
hiện thực, làm xoay chuyển cả thế giới. 27 năm trước, tôi – khi đó chỉ là một sinh viên vừa tốt nghiệp và chập chững bước vào Intel, đã may mắn được chứng kiến những huyền thoại này. Chính những câu chuyện ấy đã nhen nhóm trong tôi ngọn lửa khao khát một ngày nào đó có thể góp phần làm nên những huyền thoại mới. Giờ đây, ước mơ đó đã thành hiện thực, nhưng không phải tại thung lũng Silicon mà tại chính Việt Nam, quê hương tôi, không phải với vai trò là người khởi nghiệp mà là nhà quản lý quỹ đầu tư DFJ VinaCapital, liên doanh giữa Draper Fisher Jurvetson (DFJ) tại Mỹ và VinaCapital tại Việt Nam. Vậy động lực nào khiến nhà đầu tư quyết định hỗ trợ người khởi nghiệp? Đâu là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của người khởi nghiệp? Làm thế nào có những ý tưởng “có một không hai” để cho ra đời các sản phẩm và dịch vụ được nhiều người sử dụng? Quan hệ giữa nhà đầu tư và người khởi nghiệp đóng vai trò gì? Câu trả lời cho những câu hỏi trên được kể lại và phân tích kỹ lưỡng qua các câu chuyện huyền thoại mà tôi đã chứng kiến trong cuốn sách “Cuộc chơi khởi nghiệp” của William Draper, người được truyền tụng như là cha đẻ của ngành đầu tư mạo hiểm tại thung lũng Silicon, và cũng là cha của Tim Draper – sáng lập viên quỹ DFJ. Qua cuốn sách này, tôi
đã học được những bài học quý giá, góp phần giúp tôi thành công hơn tại thị trường đầu tư Việt Nam. Đây là cuốn sách không thể thiếu của những ai yêu công nghệ, kinh doanh và đầu tư, đặc biệt dành cho những ai đang ấp ủ và khao khát biến giấc mơ của mình thành hiện thực.
Chúc bạn thành công!
“DOANH NHÂN VÀ NHÀ ĐẦU TƯ SỰ KẾT ĐÔI HOÀN HẢO CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG THAY ĐỔI THẾ GIỚI”
Nguyễn Hồng Trường
Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Ventures Vietnam
Đ
ầu tư mạo hiểm đã không còn là một thuật ngữ quá mới mẻ ở Việt Nam trong vòng một thập kỷ qua khi hàng loạt các công ty khởi nghiệp được các nhà đầu tư mạo hiểm
rót vốn thành công, tạo nên những tên tuổi lớn trong ngành công nghệ và truyền thông như VNG, VCcorp, Vatgia, Goldsun Focus Media, hay YanTV. Tuy nhiên, điều vẫn còn bí ẩn với rất nhiều doanh nhân có lẽ là câu hỏi: Các nhà đầu tư mạo hiểm suy nghĩ và ra quyết định như thế nào, hay nói cách khác, làm thế nào một công ty khởi nghiệp lọt được vào tầm ngắm của những nhà đầu tư đầy kinh nghiệm?
Cuộc chơi khởi nghiệp (The Start-up Game) của William H. Draper III (Bill Draper) mang lại cho độc giả những câu trả lời sâu sắc, giải đáp những thắc mắc của các doanh nhân khởi nghiệp, hơn thế nữa, cuốn sách còn cho chúng ta thấy mối quan hệ nội tại giữa nhà đầu tư mạo hiểm và doanh nhân.
Điểm đặc biệt của cuốn sách trước hết nằm ở tác giả. Bill Draper là một nhà đầu tư mạo hiểm thành công trong một gia đình đặc biệt có 3 thế hệ đều là những nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng, với người cha là Tướng William Draper – nhà đầu tư mạo hiểm đầu tiên của nước Mỹ, và con trai ông, Tim Draper – người sáng lập DFJ Global Network hoạt động đầu tư mạo hiểm trên quy mô toàn cầu. Nhà Draper là một tượng đài sống tại Thung lũng
p ộ ợ g g ạ g g
Silicon và câu chuyện của Bill Draper lý giải vì sao họ có thể làm được những điều phi thường đó.
Nhiều bạn đọc là doanh nhân sẽ nóng lòng muốn tìm hiểu xem những yếu tố nào giúp doanh nghiệp thu hút được vốn đầu tư, những phẩm chất nào ở doanh nhân mà các nhà đầu tư mạo hiểm tìm kiếm, cách thức tiến hành đầu tư cũng như bí quyết đàm phán: bạn sẽ nhanh chóng nhận ra những lời khuyên của Bill không khác nhiều so với lời khuyên của bất cứ nhà đầu tư nào khác, đều tập trung xoay quanh hai nhân tố chính: Con người (bản thân nhà sáng lập cùng đội ngũ của anh ta), và Sản phẩm của mô hình kinh doanh. Điểm khác biệt là ở những câu chuyện phong phú mà Bill sử dụng để diễn giải các khía cạnh khác nhau của hai yếu tố này.
Những câu chuyện của Bill là một sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giữa những câu chuyện khởi nghiệp của chính gia đình ông và sự thay đổi gần một thế kỷ qua trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Câu chuyện đầu tư đôi lúc như đi lạc dòng vào hồi ức của Bill về người cha, trong thời đầu dựng nghiệp, hay những câu chuyện về tầm nhìn và khả năng biến chuyển tình thế của con trai ông, Tim Draper, trong thời kỳ đầu tư mạo hiểm đã trở nên phổ biến. Nó có lúc bị gián đoạn bởi những hồi ức về các nhân vật chính trị đặc biệt mà ông có dịp làm việc trong quá khứ như nhà lãnh đạo Trung Quốc – Đặng Tiểu Bình, Chủ tịch Cu Ba – Fidel Castro, hay câu chuyện về một thập kỷ “biến mất” của chính Bill Draper để tham gia hoạt động trong chính phủ của Tổng thống Reagan. Câu chuyện dài của Bill có quá nhiều các nhân vật, đến và đi, theo một trình tự thời gian phi tuyến tính với cả những thành công lẫn thất bại – vậy thông điệp của ông là gì? Đó chính là điểm tương đồng đặc biệt giữa những con người được ông nhắc đến, cho dù họ là một vĩ nhân chính trị hay một doanh nhân phá sản, họ đều là những nhân vật thay đổi thế giới. Bill phác họa chân dung và mô tả những khía cạnh đặc biệt về tầm nhìn và cách thức thay đổi thế giới của họ: Đó chính là ý nghĩa của đầu tư mạo hiểm và cũng chính là điều Bill
muốn nhắn nhủ với các doanh nhân, nếu họ muốn trở thành doanh nhân thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư mạo hiểm.
Câu chuyện của Bill là một món cocktail với sự pha trộn có chủ ý giữa câu chuyện về thân thế sự nghiệp của chính ông và gia đình của ông, một bài giảng nhiều minh họa về đầu tư mạo hiểm, và một bức tranh có tính cá nhân hóa về lịch sử ngành đầu tư mạo hiểm. Qua đó, người đọc không chỉ thấy các công ty khởi nghiệp ra sao mà còn được thấy chính các quỹ đầu tư khởi nghiệp như thế nào, từ những quỹ do gia đình ông lập ra đến những tên tuổi lớn nhất trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm sau này như Sequoia, Kleiner Perkins hay Greylock. Các nhà đầu tư mạo hiểm ở thung lũng Silicon lại khởi nghiệp lần thứ hai với xu hướng đi ra thế giới, gia đình ông cũng nằm trong số những người tiên phong đó với câu chuyện về Bill Draper, khi đã đến tuổi có thể về hưu, lại bắt tay khởi sự một quỹ đầu tư hoạt động ở thị trường Ấn Độ. Ông đã bỏ lỡ thị trường Trung Quốc khi dành thời gian đánh cược đầu tư vào Ấn Độ, nhưng con trai ông đã kịp quay lại với thị trường này. Bill Draper kết thúc câu chuyện phiêu lưu đa dạng của mình với một lần “khởi nghiệp” đầu tư kiểu khác, đó là tham gia vào công việc từ thiện theo cách của nhà đầu tư: Đầu tư vào những doanh nghiệp xã hội. Một lần nữa, ý nghĩa về những con người thay đổi thế giới lại được thể hiện rất rõ nét, các doanh nhân thành công không nhất thiết là người tạo ra những sản phẩm có giá trị kinh tế khổng lồ, mà hoàn toàn có thể là những người tạo ra cách thức thay đổi cuộc sống của những người nghèo khó và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, đúng như cách nói của David Bornstein: “Các doanh nhân làm thay đổi nền kinh tế, các doanh nhân xã hội làm thay đổi xã hội”.
Doanh nhân và nhà đầu tư – sự kết đôi hoàn hảo của những con người có khả năng làm thay đổi thế giới. Đó chính là điều Bill Draper muốn chia sẻ với độc giả bằng chính câu chuyện cuộc đời mình. Bạn đọc doanh nhân muốn đi tìm sự kết đôi này và muốn
biến sự kết đôi đó trở nên hoàn hảo, thì “Cuộc chơi khởi nghiệp” là cuốn sách sẽ đem lại cho bạn những gợi ý tuyệt vời nhất.
Chúc bạn thành công!
LỜI GIỚI THIỆU
T
hay đổi không chỉ cần thiết cho cuộc sống – thay đổi chính là cuộc sống,” Alvin Toffler, một người theo thuyết vị lai, đã từng kết luận như vậy. Ông tin rằng động lực to
lớn thúc đẩy đổi mới chính là công nghệ, sự ra đời tự nhiên của nó cũng khai sinh cho các công nghệ tiên tiến sau đó.
Máy in của Gutenberg, bóng đèn của Edison, điện thoại của Bell là những ví dụ điển hình cho các phát kiến công nghệ thời kỳ đầu, chính những phát minh vĩ đại này đã làm biến đổi hoàn toàn cách sống, học tập và giao tiếp của con người. Sự ra đời của những công nghệ đột phá này khiến các chuẩn mực xã hội trở nên phong phú hơn và các nhân vật có tầm ảnh hưởng xuất hiện nhiều hơn. Như Henry Ford đã từng nói: “Nếu tôi hỏi mọi người muốn gì, họ trả lời rằng họ muốn những con tuấn mã.” Tài năng của Ford đã “lật ngược” hiện trạng thời bấy giờ và sáng tạo ra một loại phương tiện vận chuyển hoàn toàn mới là ví dụ điển hình cho nguồn năng lượng thúc đẩy cỗ máy đổi mới.
Thay đổi về công nghệ không còn quá mới mẻ. Điều mới mẻ chính là tỷ lệ lũy tiến của những tiến bộ công nghệ, kéo theo sự gia tăng các mối liên kết hay còn được gọi là một xã hội toàn cầu.
Lịch sử đã chỉ ra mối tương quan trực tiếp giữa lượng thông tin trung bình mà một người dân được tiếp cận với quá trình phát triển kinh tế ở đất nước mà họ sinh sống. Ngày càng có nhiều người trên thế giới được tiếp cận với những thông tin mới, các công cụ hỗ trợ vượt trội để giúp họ phối hợp, giao tiếp, hình thành ý tưởng và hòa mình vào dòng chảy mạnh mẽ của suối nguồn tri thức. Có khoảng 3 tỷ lượt tìm kiếm thông qua Google
mỗi ngày, khoảng 500 triệu người sử dụng Facebook cập nhật khoảng 700 trạng thái (status) mỗi giây; khoảng 190 triệu người sử dụng Twitter cập nhật (tweet) 65 triệu lần mỗi ngày; và kể từ khi ra đời vào năm 2003, 250 tỷ phút gọi nội mạng qua Skype miễn phí đã được thực hiện. Đó là những con số tính trong thời điểm hiện tại và khi bạn đọc cuốn sách này, thì tất cả các số liệu ấy đều đang lũy tiến theo giây.
Vì thế, Google, Facebook, Twitter và Skype đều giống nhau ở một điểm, chúng đều làm thay đổi thế giới một cách nhanh chóng. Ngoài ra, chúng còn có một điểm tương đồng rất đặc biệt khác, đó là cả bốn tập đoàn này đều có được sự phát triển như ngày nay, phần lớn nhờ sự “ươm mầm” và “nuôi dưỡng” của các quỹ đầu tư mạo hiểm. Nếu ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm không tồn tại, rất có thể sẽ không có sự xuất hiện của bất cứ doanh nghiệp nào kể trên.
Đương nhiên, đầu tư mạo hiểm không đơn thuần chỉ là vấn đề tài chính. Đó là niềm đam mê và óc sáng tạo kết nối tầm nhìn đột phá của các doanh nhân say mê hiện thực hóa thành công tầm nhìn ấy. Nó là động lực “phù phép” một doanh nghiệp nhỏ lẻ mới thành lập trở thành một tổ chức có thế lực toàn cầu.
Đầu tư mạo hiểm đã chảy trong huyết mạch của gia đình Draper. Tướng William Draper là một nhà đầu tư mạo hiểm người Mỹ tiên phong – người lập ra công ty cổ phần đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên toàn thế giới. Con trai ông, Bill (tác giả của cuốn sách này), người hiện đang có vài trăm thương vụ đầu tư đứng tên mình cũng bắt đầu khởi nghiệp từ năm 1959 trước khi “đầu tư mạo hiểm” được định nghĩa đầy đủ và hiểu biết đúng đắn. Con trai của Bill, Tim, người sáng lập Tập đoàn Draper Fisher Jurvetson và DFJ Global Network, là một trong những nhà đầu tư mạo hiểm tài năng nhất hiện nay. Cả ba thế hệ nhà Draper đã đóng góp một phần không thể thiếu trong việc khai tỏ lĩnh vực đầu tư mạo hiểm hấp dẫn này – một hệ sinh thái doanh nghiệp hoàn toàn mới mẻ.
Cho dù bạn vừa mới thành công hay thất bại ở thung lũng Silicon hoặc đơn giản chỉ muốn biết về những thành bại của họ, thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua cuốn sách hấp dẫn này với các câu chuyện lý thú về ba thế hệ gia đình Draper. Bill thực sự đã làm được một điều tuyệt diệu cho những người đam mê công nghệ và đổi mới như chúng tôi bằng việc ghi chép lại những trải nghiệm của họ. Những câu chuyện của họ xứng đáng được kể lại và được lắng nghe.
Eric Schmidt
CEO kiêm Chủ tịch HĐQT Google
GIỚI THIỆU: BỮA SÁNG Ở NHÀ HÀNG BUCK’S
H
ãy bắt đầu cuộc hành trình lạ thường này ở một nơi thật độc đáo, một điểm đến hoàn toàn trái ngược với vẻ ngoài của nó: Nhà hàng Buck’s – niềm tự hào của mảnh đất
Woodside (với dân số 5.352 người), thuộc khu vực được quy hoạch hợp lý ven thung lũng Silicon, California. “Độc đáo” có thể là từ hơi cường điệu hóa, thế nhưng tôi sẽ cho các bạn thấy Buck’s đã biết tận dụng nét “lạ” đó theo hướng hoàn toàn phá cách như thế nào.
Từ ngoài vào, Buck’s không cho bạn hình dung về những gì đang đón đợi bạn bên trong nhà hàng. Đầu tiên bạn sẽ thấy một chú cá gỗ – Woody – dài hơn 6m nằm “phơi cạn” ở cuối bãi đỗ xe áp sát một rừng cây rậm rạp. Tuy nhiên, Buck’s lại chẳng khác nào một nhà hàng hiện đại nhất nằm trong khu thương xá cao cấp ở bất kỳ một thành phố phía tây nhỏ bé nào thuộc khu vực núi đá vôi nổi tiếng này: Sự phối hợp cách trang trí bằng gỗ với hai mảng màu sáng tối tương phản, các thanh gỗ dài được ghép lại với nhau tạo thành mái hiên ấn tượng phía trên lối đi để bảo vệ hàng lang của nhà hàng chống chọi lại thời tiết xấu – một hiện tượng hiếm gặp ở đây – còn tên của nhà hàng được chạm khắc đơn giản, rõ ràng trên đá khối lớn – một “đặc sản” vốn đã trở thành nét riêng biệt của California. Có lẽ, khiếm khuyết duy nhất của Buck’s là một vài chiếc cột buộc ngựa và một hai cái máng xối nước.
Nhưng khi bước chân vào bên trong nhà hàng thì mọi phán đoán và hồ nghi của bạn đều sẽ tan biến.
Đập vào mắt bạn ngay khi đặt chân vào quán là bức tượng Nữ thần Tự do cao gần bằng người thật: Toàn thân bức tượng có màu xanh xám với chiếc vương miện màu lá có đỉnh nhọn nhưng “nàng” lại đang nắm một ngọn đuốc trông không mấy phù hợp. Nhìn gần hơn, ngọn đuốc chẳng khác nào một cây kem hoa quả sô-cô-la, được tắm trong kem tươi và phô mai nóng. Hôm nay,“Nữ thần Tự do” của quán đột nhiên đeo một chiếc ống nghe lẫn vòng hoa choàng cổ kiểu Hawaii nhưng “thứ đồ trang sức” này chỉ là tạm thời và sẽ sớm được gỡ xuống. Thi thoảng, mọi người còn treo cả áo khoác của mình lên các đỉnh nhọn của chiếc vương miện. (Tôi là một trong số đó.)
Tiếp đến, ánh mắt bạn sẽ lướt qua toàn cảnh không gian bên trong quán, nơi chẳng khác nào khung cảnh sau khi Mad Hatter1 dội thẳng một cơn bão lốc xuống nhà kho của Smithsonian. Đồ quý giá, phế liệu, những bức tranh vô giá lẫn chẳng có giá trị gì choán mọi ngóc ngách của các bức tường và trần nhà. Ở gian chính giữa, một mô hình máy bay hai tầng được gắn cố định trần trong tư thế “sắp hạ cánh”. Ngoài ra, lơ lửng trên trần nhà là một con cá mập báo dài khoảng 2m được “phù phép” thành một chiếc khinh khí cầu có thể điều khiển được. Hai đôi ủng cao bồi – lần lượt được sơn màu xanh, đỏ, hồng và vàng treo lủng lẳng phía trên quầy bar.
Nếu bạn lần tìm thứ gì đó để giảm bớt sự nhức mắt bằng cách hướng ánh nhìn đến hai chiếc thùng trưng bày thấp được làm bằng gỗ ở hai bên cửa ra vào, thì chẳng có gì hay ho cả. Một thùng được dán sơ sài dòng chữ: “THANKS FOR THE MEMORIES” (Cảm ơn vì những ký ức của quý vị), hóa ra lại là một bộ sưu tập những con chip bộ nhớ được sắp xếp tỉ mỉ. Những con chip này được sản xuất bởi tập đoàn sản xuất thiết bị vi mô cải tiến Advanced Micro Devices, một doanh nghiệp được thành lập gần Sunnyvale vào năm 1969 với số vốn ban đầu 100.000 đô-la. Chiếc hộp còn lại đựng mẫu của 12 loại đồ ăn sáng làm từ ngũ cốc – Corn Pops, Cheerios, Cookie Crisp (bánh
giòn)… – được thiết kế và sắp xếp tương xứng với những con chip trưng bày.
Tùy từng lúc, bạn có thể gặp ông chủ của Buck’s, Jamis MacNiven, người đã cùng vợ mình Margaret, thành lập nhà hàng này từ năm 1991 cũng như trang trí và liên tục đổi mới nhà hàng kể từ đó. MacNiven là một người đàn ông lực lưỡng, tốt bụng với mái tóc muối tiêu dài chải bồng ra phía sau. Cởi mở, hòa nhã, hoạt ngôn và nhanh nhẹn, MacNiven là một ứng viên đáng gờm của tôi cho vị trí Doanh nhân Sáng tạo nhất thế giới trong nhiều năm. Ngoài việc là ông chủ nhà hàng, MacNiven cũng là một cây viết và đồng sở hữu một chiếc khinh khí cầu có thể điều khiển được. Ông cũng chính là người đưa ra ý tưởng tổ chức một cuộc đua xe goòng ở thung lũng Silicon, lấy tên Sand Hill Challenge (Thử thách Sand Hill), đây một cuộc tranh tài khéo léo giữa các doanh nhân và nhà đầu tư mạo hiểm nhằm gây quỹ cho các chiến dịch phản đối sử dụng chất có cồn khi đang lái xe cũng như các mục đích từ thiện khác. Nhiều thí sinh tham gia giải đấu – một cuộc đua diễn ra trên đường Sand Hill huyền thoại, nơi các nhà chức trách đồng ý cấm các phương tiện lưu thông trên con đường này trong suốt thời gian diễn ra giải đấu – khá nghiêm túc. (Chiếc xe goòng màu vàng tươi được treo trên trần của nhà hàng Buck’s được Mohr Davidow thiết kế và sử dụng trong một cuộc đua, anh là một trong những nhà đầu tư mạo hiểm thành công nhất thung lũng này. Davidow và đội của mình đã mất 1.100 giờ để chế tạo chiếc xe). Một số thí sinh khác, như MacNiven ghi lại trong cuốn sách độc nhất vô nhị của mình, Breakfast at Buck’s (tạm dịch: Bữa sáng tại nhà hàng Buck’s), chỉ tham gia giải đấu để giải trí:
Draper Fisher Jurvetson luôn được liệt vào đội có ý tưởng siêu việt. DFJ đầu tư vào những ngành khoa học độc đáo, bao gồm công nghệ nano, thế giới của những bộ truyền động siêu nhỏ hoặc hơn thế. Có một năm, cả đội của DFJ trong bộ quần áo phòng thí nghiệm đã dựng nên một chiếc lều bạt và trưng bày những bức ảnh của một chiếc ô tô nano (Nano Car) được chụp
bằng kính hiển vi điện tử. Đó là phương tiện được cho là có độ dài khoảng 1/1.000.000.000 cm và có một “người lái” siêu nhỏ điều khiển chiếc xe này trên “đường đua”. Một chiếc ô tô cơ học lượng tử được gắn động cơ phản lực; có tốc độ siêu nhanh và có thể chạy 10.000 lượt khứ hồi trên “đường đua”. Đội của Tim xuất hiện với một chiếc kẹp nhỏ và Tim Draper chịu trách nhiệm gắp chiếc ô tô và thả nó xuống một thanh nhựa đặt trên đường. Nó đã thu hút được sự chú ý của toàn thể đám đông cũng như tạp chí Small Times, một tạp chí chuyên về động cơ nano. Họ đã đăng bài và hết lời ca tụng nó như thể đó thực sự là một công trình khoa học đầu tiên.
Tôi đã đến Buck’s rất nhiều lần để ăn uống. Tim, con trai tôi cũng vậy, nó là người sáng lập ra quỹ đầu tư Draper Fisher Jurveton, người bảo trợ đáng tự hào của Nano Car và là thế hệ nhà đầu tư mạo hiểm đời thứ ba của gia đình Draper. Câu chuyện của tôi có thể bắt đầu dễ dàng hơn nếu tôi tuyên bố rằng cha tôi – Tướng William Draper Jr., một nhà đầu tư mạo hiểm, cũng đã từng ăn uống ở Buck’s, nhưng nếu thế thì cuốn sách có thể kéo dài vô tận. (Cha tôi mất năm 1974, 17 năm trước khi Buck’s mở cửa). Nhưng bởi cha là người đã ươm mầm cho thung lũng Silicon và vì Buck’s là tinh hoa được chắt lọc từ những nét đặc biệt, độc đáo và hấp dẫn của thung lũng này – mảnh đất nơi những ý tưởng vĩ đại giao thoa với các dòng đầu tư tài chính thông minh – tôi nghĩ cha sẽ luôn ở trong trái tim chúng tôi bất cứ khi nào chúng tôi đến Buck’s.
“Con cá mất”
“Ý tưởng gặp gỡ tiền bạc” chính là lý do tôi nói rằng không thể “trông mặt mà bắt hình dong” “nàng Buck’s” ngay từ lần đầu tiên. Cùng với một vài hồ nước khác ở thung lũng này, Buck’s không chỉ là một nhà hàng với lối trang trí lập dị, kiểu cách, một ông chủ nhà hàng đầy sáng tạo, hay những suất ăn lớn đầy ú ụ. Đó là một nơi “định giá” con người, thách thức các ý tưởng và chốt hạ các thương vụ làm ăn chỉ bằng một cái bắt tay. Buck’s là
nơi các doanh nhân tương lai gặp gỡ những nhà đầu tư mạo hiểm, các “nhà đầu tư thiên thần” gặp gỡ những kẻ “rỗng túi” và các mạng lưới cứ thế mở rộng. Hay nói cách khác đó là nơi các nhà đầu tư tương lai theo đuổi mục tiêu tốt đẹp.
Các nhà đầu tư tương lai theo đuổi mục tiêu tốt đẹp – tiền bạc theo đuổi ý tưởng tiềm năng – là tình huống mà Tim và tôi đối mặt vào trong những ngày cuối đông và đầu xuân năm 1995. Mùa xuân năm 1994, Jerry Yang, 25 tuổi và David Filo, 27 tuổi – hai cựu sinh viên công nghệ điện tử Đại học Stanford, hai nghiên cứu sinh với một đồ án thiết kế mạch điện tích hợp hỗ trợ máy tính – đã nắm được thời cơ của mình. Giáo sư hướng dẫn của họ được nghỉ phép vào thời gian đó của năm, vì thế hai chàng trai này có thêm thời gian rảnh hơn thường lệ như sau này họ viết về mình (với tư cách ở ngôi thứ ba):
Hoàn toàn khác biệt với các thế hệ sinh viên đi trước và thật đáng ca ngợi, David và Jerry không sa đà vào những việc tiêu tốn thời gian vô ích. Họ không tham gia vào vô số các cuộc thi Frisbee (ném đĩa), rèn luyện kỹ năng leo núi trong tòa nhà đá ở khuôn viên Stanford, thành lập câu lạc bộ home-brew (tự ủ bia ở nhà), hoặc tham gia vào các cuộc chạy marathon nước rút. Thay vào đó, họ thích thú với World Wide Web (Mạng lưới toàn cầu), như thể nó đang trở thành điểm nóng nhất và đáng quan tâm nhất trên thế giới.
Cụ thể hơn, Yang và Filo đang sưu tầm một danh sách các website yêu thích của họ. Ngày nay, bất kỳ một học sinh tiểu học nào cũng có thể giải thích câu hỏi “website là gì” và thậm chí chúng còn đưa ra một vài cách định nghĩa khác nhau. Thời bấy giờ, mọi chuyện hoàn toàn khác. Một vài năm trước đây – vào những năm 1990 – chỉ có hơn chục nút mạng2 trong mạng lưới máy tính toàn nước Mỹ được Bộ Quốc phòng phát triển trong nhiều năm – nghiên cứu được tài trợ này nhằm hướng tới việc tạo ra một mạng lưới thông tin liên lạc chống thảm họa. Những nút mạng này đều được đặt ở các cơ quan chính phủ hay
các trường đại học và chỉ những tay hacker tầm cỡ mới có thể tiếp cận được chúng, thế nhưng sự ra đời của “trình duyệt” Mosaic và năm 1993 đã thay đổi hoàn toàn điều đó. Nó cung cấp cho dân mù công nghệ một giao diện người dùng đồ họa để “du hành” trong không gian ảo đầy lý thú này. Cũng vào năm đó, trong khoảng thời gian rảnh này, với đồ án tiến sỹ của mình, Filo đã phát hiện ra trình duyệt Mosaic và bắt đầu tìm kiếm cũng như lưu trữ địa chỉ các website thú vị.
Đầu mùa xuân năm sau, Yang và Filo đã cùng nhau thực hiện ba bước tiến quan trọng hơn. Đầu tiên, họ viết một chương trình phần mềm nhằm tìm kiếm ra các trang mới. Tiếp đến, họ nảy ra ý tưởng về một hệ thống chỉ số hóa – càng ngày càng có nhiều trang mới “chui tọt” vào “tệp” định sẵn – dựa vào đó, họ phát triển các mục lớn, nhỏ và nhỏ hơn. Cuối cùng, họ quyết định chia sẻ miễn phí thành quả của mình với bất cứ ai quan tâm, dựa trên tinh thần tự do và chia sẻ không giới hạn của web. Bởi dữ liệu được lưu trong máy tính của Yang, nên họ đặt tên nó là “Cẩm nang của Jerry về mạng lưới”. Khi nó được mọi người biết đến thì Yang đã đặt lại là “Cẩm nang của David và Jerry về mạng lưới” vì anh cho rằng công trình nghiên cứu này không phải hoàn toàn của riêng mình.
Cái tên quá nhiều chữ đó đã không tồn tại được lâu. Trong quá trình tìm kiếm một cụm từ thay thế đỡ dài dòng hơn, họ đã chợt nghĩ đến cái tên “Yahoo!”, dựa trên tạo hình loài thú mang hình người trong tác phẩm nổi tiếng của Jonathan Swift – Gulliver’s Travels (Gulliver du ký). Dần dần, Phòng máy chủ của khoa Kỹ thuật điện tử trường Đại học Stanford đã không còn đủ chỗ cho họ làm việc sau giờ học nữa vì thế trường đã tặng cho họ một nhà xe lưu động, “căn phòng của họ vô cùng bừa bộn với các thiết bị cuối vương vãi khắp nơi, những hộp pizza lẫn lộn trong đống quần áo bẩn và gậy đánh golf.”
Tháng Tư năm 1994, Yahoo! được tạo ra với hàng trăm trang mạng và nhận về hàng nghìn cú hit mỗi tuần. Vào khoảng
tháng Chín, con số này lên đến 2.000 trang và 50.000 hit mỗi ngày, rồi 10.000 trang và 1 tỷ hit mỗi ngày vào tháng Một năm 1995. Tuy nhiên, cũng trong khoảng thời gian này Đại học Stanford cho rằng “cái thứ gọi là Yahoo! đó” đã tiêu tốn quá nhiều nguồn lực của trường chỉ để duy trì sở thích của hai học viên cao học. Vì thế, Yang và Filo bắt đầu tìm kiếm những nguồn hỗ trợ khác cho dự án kinh doanh mới tạo dựng của mình.
Thực tế, mong muốn chuyển “trụ sở” Yahoo! ra khỏi khuôn viên trường là động lực thúc đẩy Yang và Filo thương mại hóa niềm đam mê công nghệ của mình. Họ có khát vọng đối với những dự án kinh doanh mạo hiểm dựa trên nền tảng web – họ không thể thoát khỏi sức hấp dẫn của các hoạt động kinh doanh – nhưng kế hoạch ban đầu của họ là cung cấp Yahoo! miễn phí và hướng đến số đông. Cả hai đều không được đào tạo về kinh doanh một cách bài bản và hoàn toàn thiếu kinh nghiệm đối với việc này. Vì thế họ đã miễn cưỡng đề nghị một người bạn, Tim Brady – học viên cao học năm hai tại Đại học Harvard – viết một dự án kinh doanh cho Yahoo!.
Kế hoạch của họ hoàn thành vào tháng Ba năm 1995. Nó mô tả một dịch vụ miễn phí dành cho người dùng cuối, với các mục quảng cáo chỉ xuất hiện trên top 5 các trang được truy cập nhiều nhất theo dự tính, kế hoạch sẽ mang lại 4,15 triệu đô-la lợi nhuận tính đến năm 1996 (con số thực tế là 20 triệu đô-la). Filo đã buộc phải đảm nhận vị trí Tổng giám đốc còn Yang là Chủ tịch kiêm Giám đốc Tài chính (CFO) của công ty – thật nực cười bởi cả hai đều cho rằng mình không chuẩn bị tinh thần để điều hành một doanh nghiệp.
Yahoo! chính thức được thành lập vào ngày 5 tháng Ba năm 1995. Một nét đặc trưng khác biệt của cổng thông tin web – được thiết kế gắn liền với cấu trúc trung tâm của nó – chính là khả năng tìm ra địa chỉ nguồn nơi người sử dụng hệ thống truy cập website. Mặc dù Filo và Yang đã nhận thức được chức năng
theo dấu này từ trước như là một cách để cải thiện hiệu suất danh mục tìm kiếm và phân loại thông tin của họ, nhưng những người quan sát tinh tế nhận ra chức năng quan trọng này có thể được sử dụng để bán các quảng cáo có mục đích.
Cuối cùng, khách hàng và các nhà đầu tư tiềm năng bắt đầu chú ý đến họ. Yang và Filo nhận được một lời mời chào trị giá 2 triệu đô-la từ Steve Case của America Online (tập đoàn này từng tuyên bố rằng nếu họ không chịu bán, AOL sẽ đưa ra đề nghị cạnh tranh và nuốt chửng Yahoo!). Các nhà đầu tư mạo hiểm cũng bắt đầu lên đường tới nhà xe lưu động trong khuôn viên Stanford. Trong số họ có Mike Moritz của quỹ đầu tư Sequoia, một đại diện đến từ Draper International LLC (tôi) và một đại diện từ quỹ của gia đình chúng tôi, Draper Associates – Hiệp hội Draper (con trai tôi, Tim).
Thực sự, việc tôi theo đuổi Yahoo! diễn ra rất tình cờ. Robin Richards, đối tác của tôi ở Draper International biết đây là một hiện tượng Internet không thể bỏ qua. Cô ấy đã vào Stanford cùng với Yang và đưa ra những nhận xét bóng gió rằng nhất định cậu ấy sẽ làm nên điều gì đó ấn tượng. Đương nhiên, tôi tin vào nhận định của Robin – lúc đó chúng tôi hợp tác với nhau trong quá trình đặt những nền móng đầu tư mạo hiểm đầu tiên tại thị trường Ấn Độ – vì thế tôi gọi cho Tim và gợi ý nó nên cân nhắc vụ này. Tôi biết rằng mình sẽ tập trung toàn bộ sức lực vào Ấn Độ trong thời gian tới, vì thế tôi chỉ đơn giản là “phím” cho thằng bé một cơ hội mới thú vị.
Tôi giới thiệu Tim với Jerry Yang trong một bữa sáng ở Buck’s vào thứ Tư, và hai cha con tôi đã thực sự rất ngạc nhiên với những gì mình nghe thấy. Quả thực, dù tôi đã từng đầu tư vào một trong những công ty phần mềm đầu tiên trên thế giới nhiều năm trước đây – Activision, nhà phát triển trò chơi mà các cổ đông của Sutter Hill quyết định hỗ trợ vào năm 1979 – nhưng tôi đã xa vùng bờ biển phía Tây này hơn 12 năm vì thế Tim thông hiểu thế giới Internet đang bùng nổ ở nơi đây hơn
tôi. Thứ Bảy tuần tiếp theo, Tim đi xe máy đến nhà xe lưu động để xem bản mẫu và thằng bé ngay lập tức nhận ra rằng vụ này có thể mang về một cú home-run3.
Tim mời hai nghiên cứu sinh tài năng và có tầm nhìn này tới văn phòng của Draper Associates để trình bày trực tiếp và thuyết phục (make a pitch) John Fisher, một cổ đông của công ty, trong thương vụ đầu tư tiềm năng này. “Pitch” không khác gì một lời “chào hàng” trong kinh doanh mà các doanh nhân tiềm năng thử nghiệm và thu hút các nhà đầu tư tiềm năng trong một vụ thỏa thuận. Tôi sẽ nói thêm về những buổi trình bày trực tiếp như thế này và tác dụng của nó trong các chương tiếp theo.
Trong dịp vinh dự được giúp đỡ cậu con trai mình, tôi cũng có mặt trong buổi gặp mặt đặc biệt đó. Trong suốt cuộc gặp mặt, Yang và Filo có vẻ hơi hồi hộp nhưng lại rất tự tin về các kỹ năng chuyên môn. Tôi nhớ Fisher đã bày tỏ thái độ hoài nghi của mình một cách lịch sự về khả năng điều hành doanh nghiệp dựa trên những thiếu sót trầm trọng về kinh nghiệm kinh doanh của hai người họ. Yang và Filo hoàn toàn đồng ý với nhận định đó vì thế họ đề nghị Tim và Fisher gợi ý một ứng viên vào vị trí CEO để dẫn dắt doanh nghiệp vẫn còn non trẻ này.
Có lẽ thái độ này sẽ khiến bạn vô cùng ngạc nhiên: Rằng một cá nhân có ý tưởng nhưng sẵn sàng – thậm chí háo hức – trao toàn quyền quản lý sản phẩm trí tuệ của mình cho một CEO được nhóm các nhà đầu tư đề xuất. Thực tế, chuyện này lúc nào cũng có thể xảy ra, mặc dù đôi khi không phải chờ đến giai đoạn sau trong quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Chuyện này không hề đơn giản. Để tìm được một nhà quản lý tiềm năng, biết nhìn xa trông rộng có thể lèo lái công ty không bao giờ dễ dàng. Tim lướt qua danh sách những ứng viên tiềm năng trong đầu (những mạng lưới này là “thần chú” của các nhà đầu tư mạo hiểm thành công). Tim cố gắng lục lọi trí nhớ của
mình chọn ra một ứng viên vừa có đủ tham vọng để biến Yahoo! từ một ý tưởng thành một hiện tượng, có đủ dũng khí để phiêu lưu với một tầm nhìn mới mẻ trong tương lai.
Tim cho rằng ứng cử viên phù hợp nhất lúc này là một người bạn thân của mình, Jay O’Connor. Jay khoảng 35 tuổi, là một người mát tay trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Cậu ta và tôi đã đến thăm nhà xe lưu động của Yang và Filo trong một buổi chiều nắng đẹp vào những ngày cuối tháng Ba và được trải nghiệm các ứng dụng của Yahoo!, giống như Tim cách đây mấy ngày. Cách bài trí trong nhà xe lưu động chẳng có gì hấp dẫn – lúc đó chúng tôi phải đi vòng qua chiếc xe đạp của Filo, trèo qua tấm ván trượt, đến gần cái màn hình máy tính nhỏ xíu của anh ta để xem có thứ gì trên đó – nhưng thực sự, bản demo thử nghiệm ngắn gọn đến kinh ngạc. Filo đề nghị tôi hỏi bất cứ điều gì tôi muốn vì thế tôi đã đề nghị anh ấy đưa ra mức học phí hiện tại ở Đại học Yale, nơi tôi là một cổ đông. Anh ấy đánh một vài từ khóa và gần như ngay lập tức một giá sách ảo với một số cuốn sách dày có dòng chữ “Đại học Yale” màu xanh và trắng ở gáy hiện trên màn hình máy tính. (Đây là trang chủ đầu tiên của Đại học Yale – vào mùa xuân năm 1995). Sau một vài thao tác nữa trên bàn phím, con số 21.000 đô-la/năm ngay lập tức xuất hiện. Thật kỳ diệu!
Cuối cùng, Jay đã từ chối lời mời về làm việc ở Yahoo! của Tim. (Lúc đó, Tim đưa ra với Jay dự đoán của mình – “Tôi nghĩ rằng anh sẽ kiếm được 10 triệu đô-la nếu anh theo vụ này” – hóa ra con số thực tế còn cao hơn rất nhiều). Jay đã rất thành công ở Intuit trong vai trò là người phát triển phần mềm QuickBooks4 kết hợp với hệ thống quản lý tài chính của các doanh nghiệp nhỏ chiếm ưu thế. Nếu có lúc nào đó Jay nhìn lại, tôi chắc rằng cậu ta sẽ vừa tiếc nuối vừa hân hoan.
Trong hơn một tháng, Yang và Filo tiếp tục thương thảo với các nhà đầu tư tiềm năng đang cạnh tranh nhau, trong đó có Tim. Họ cũng tiếp tục trao đổi với Steve Case của AOL. Cuối cùng, vào
tháng Tư năm 1995, Yahoo! tuyên bố chấp nhận lời đề nghị 1 triệu đô-la đầu tư từ Sequoia, đổi lại công ty đầu tư mạo hiểm này có 25% cổ phần công ty. Việc Sequoia chọn Tim Koogle là CEO cũng là một phần trong thỏa thuận này. Đây là vụ đầu tư đầu tiên của Sequoia trong lĩnh vực dot-com và được Mike Moritz, một người “vô danh” đối với chúng tôi tại thời điểm đó, sắp xếp tới thăm nhà lưu động. Tim gọi cho Sequoia để đàm phán tham gia vào vụ làm ăn này với tư cách đồng chủ đầu tư nhưng Sequoia không muốn giảm cổ phần của mình và đã từ chối Tim (có thể là cả các nhà đầu tư tiềm năng khác nữa).
Yahoo! được cổ phần hóa một năm sau đó, vào ngày 12 tháng Tư năm 1996. Giá cổ phiếu tại phiên giao dịch cuối ngày hôm đó là 33 đô-la, nâng giá trị của Yahoo! lên 850 triệu đô-la. Ít nhất trên giấy tờ, điều đó có nghĩa là Yang và Filo mỗi người có 130 triệu đô-la và với 25% cổ phần, Sequoia nắm giữ 212 triệu đô-la. Đương nhiên, không ai trong số họ bán cổ phần của mình vào thời điểm đó và ngày nay tổng vốn theo giá thị trường của công ty này là trên 20 tỷ đô-la.
Tại sao tôi lại thuật lại chi tiết một câu chuyện dài đến vậy về “một cơ hội đã vụt mất”? Mặc dù mỗi thế hệ trong gia đình Draper đều có rất nhiều các câu chuyện thành công để kể lại. Tại sao tôi lại không nhắc đến chúng? Đó là bởi vì tôi nghĩ câu chuyện về Yahoo! phản ánh nhiều chi tiết chân thực trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm – phần trọng tâm của cuốn sách này. Nó truyền tải thông điệp về niềm đam mê, tâm huyết mà mỗi doanh nhân vĩ đại đặt vào trong các sản phẩm hay dịch vụ của mình. Nó cũng chứa đựng rất nhiều nỗi đau, niềm vui, sự hồi hộp, căng thẳng và niềm hãnh diện mà chúng tôi – các nhà đầu tư mạo hiểm – cảm nhận được khi chốt được một hợp đồng hoặc ra về tay không. Nó khẳng định một thực tế cơ bản không thể chối bỏ rằng trong đầu tư mạo hiểm, bạn sẽ gặp phải cả thất bại lẫn thành công.
Tóm lại, cuốn sách giới thiệu những nhân tố quan trọng mà tôi sẽ đề cập đến trong những chương tiếp theo về quá trình phát triển một bức tranh tổng thể về những điều tạo nên sự tồn tại của các nguồn đầu tư mạo hiểm, những điều trở thành động lực thúc đẩy các doanh nhân cũng như các cách thức họ hỗ trợ và được hỗ trợ bởi những nguồn lực kinh tế to lớn trong nền dân chủ của chúng ta.
1
BA THẾ HỆ
Ngày mai sẽ hướng đến những cánh rừng xanh và đồng cỏ bạt ngàn.
– John Milton
C
húng ta hãy cùng điểm qua một vài câu chuyện của ba thế hệ gia đình Draper để có cái nhìn sâu hơn vào bức tranh nổi bật về đầu tư mạo hiểm và tinh thần doanh
nhân. Tuy nhiên, phải nói rằng mục tiêu của tôi ở chương mở đầu này không phải là nói về lịch sử của gia đình Draper. Thay vào đó, tôi mong muốn giúp bạn đọc hiểu thêm về các câu chuyện cũng như những lời khuyên của tôi.
Những bài học từ chiếc máy pha cà phê của Đức
Mọi người thường hỏi tôi rằng liệu các nhà đầu tư mạo hiểm thường “mạo hiểm” bẩm sinh hay do rèn giũa mà thành. Tôi cho rằng cả hai yếu tố đó đều đúng nhưng chủ yếu là do họ “có công mài sắt có ngày nên kim”.
Vào cuối những năm 1920, 10 năm trước khi cha tôi là Tướng William H. Draper Jr., thành lập công ty đầu tư của mình, ông đã là một nhân viên ngân hàng đầu tư Dillon, Read & Co tại Phố Wall. Gần 10 năm kể từ khi kết thúc cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn kỳ giai đoạn 1920-1922, thị trường chứng khoán dần phất lên. Đảng Cộng hòa có thiên hướng kinh doanh lên cầm quyền từ năm 1921 và họ đã thu về không ít lợi nhuận. Tinh thần lạc quan lan tỏa khắp nơi. Những kẻ làm ăn dương dương tự mãn nói chuyện phiếm với nhau về “điểm kết của chu hạn kinh
doanh” – ám chỉ sẽ không có bất kỳ một cuộc suy thoái kinh tế nào nữa và nền kinh tế chỉ có tăng trưởng mà thôi.
Một ngày năm 1929, trước cuộc khủng hoảng, cha tôi đã bị “con bọ” đầu tư mạo hiểm thời kỳ đầu “chích”. Vào thời điểm đó, ông vừa nhận được một món tiền thưởng lớn, và ông có hai sự lựa chọn. Một là, ông có thể sử dụng số tiền đó để trả tiền cầm cố ngôi nhà mới của gia đình và sau đó nó sẽ thực sự là của chúng tôi. Hai là, ông có thể đầu tư toàn bộ số tiền đó vào một ý tưởng kinh doanh mới mà ông vừa được biết: Một chiếc máy pha cà phê tự động của Đức.
Việc này đã dạy cho chúng tôi một bài học đáng nhớ về đầu tư mạo hiểm: Đừng đầu tư nếu bạn không dám thất bại. Quả thật, “Cái tên nói lên tất cả”, đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Tôi không biết cha đã quyết định ra sao nhưng ông có một công ty khác ở Đức và hẳn là cha đã bị chiếc máy pha cà phê tự động đó “mê hoặc”. Những năm 1920 là thập niên mà các sản phẩm tập trung vào khách hàng được giới thiệu trên toàn thế giới – một phần do quá trình điện khí hóa từng bước tại Mỹ – kéo theo cuộc tranh cãi ngày càng gay cấn về thiết bị tiếp theo không thể thiếu đối với cuộc sống. Và tâm điểm của mùa hè năm 1929 – ngành kinh doanh bùng nổ hay đơn giản là ai đó không thể cho phép mình được quyền “sảy tay”.
Vì thế cha đã quyết định mạo hiểm. Ông đã sử dụng toàn bộ khoản tiền thưởng đó đầu tư vào chiếc máy pha cà phê. Nhưng hóa ra đó lại là một quyết định sai lầm. Hai tháng sau, thị trường chứng khoán sụp đổ, khiến khoản đầu tư cũng “không cánh mà bay”. Tài sản thế chấp của gia đình vẫn đè nặng lên mỗi thành viên chúng tôi và trong nhiều năm, Phố Wall không trao thêm bất cứ khoản tiền thưởng nào nữa. Cha tôi đã phải làm việc quần quật ngày đêm để nuôi sống gia đình trong suốt 10 năm sau đó.
Tôi được sinh ra vào năm 1928, vì thế lúc cha ra quyết định đó, tôi vẫn còn được ẵm ngửa. Càng về sau, tôi càng dần ý thức được rằng trong gia đình Draper, tiền bạc rất eo hẹp. Tôi vẫn nhớ như in trong suốt tuổi thơ của tôi, cha luôn trả lại cửa hàng tất cả những món quà Giáng sinh mà mẹ tôi mua tặng ông bởi ông nghĩ gia đình tôi cần tiền hơn là ông cần một món quà. Cha tôi là một người rất chăm chỉ nhưng trong những năm tháng khó khăn đó, ông luôn phải vắt kiệt sức mình khi cố gắng bám trụ với công việc ở ngân hàng đầu tư trong thời kỳ đen tối nhất của nền kinh tế Mỹ. Một trong những việc của ông – có lẽ là đau lòng nhất – đó là đóng cửa một vài văn phòng của Dillon Read ở ngoại ô New York. Tôi nhớ có nhiều thời kỳ cha đã phải làm việc thâu đêm ở văn phòng. Một lần tôi đến văn phòng của cha tại số 38 đường William vào lúc khuya và nhìn thấy một chiếc bàn bằng gỗ có nắp cuộn được sử dụng làm bàn làm việc kiêm luôn chiếc gối ngủ. Sự nỗ lực không ngừng nghỉ của ông đã được đền đáp xứng đáng. Vào năm 1937, ông được đề bạt lên vị trí phó Tổng giám đốc của Ngân hàng Dillon Read và từ đó những gánh nặng về tài chính của gia đình tôi cũng vơi bớt phần nào.
Ngoài ra có một mối đe dọa khác đeo đẳng cha tôi trong suốt thời kỳ này. Ông đã từng là một người lính trong cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ nhất và là thành viên của Lực lượng Dự bị sau chiến tranh. (Mỗi mùa hè, ông đều rời Dillon Read trong một khoảng thời gian nhất định để phục vụ với tư cách một quân nhân dự bị tại doanh trại quân đội ở Plattsburgh, phía Bắc New York.) Sau đó, ông trở thành Tham mưu trưởng của Sư đoàn 77, và giữ chức vụ này từ năm 1936 đến năm 1940. Vào năm 1940, ông được Tướng George Marshall điều động đến Washington để phục vụ toàn thời gian trong Ủy ban Cố vấn phục vụ công tác tuyển quân dưới thời Tổng thống Roosevelt. Cũng chính từ đây, ông bắt đầu cuộc hành trình hơn 20 năm với hàng loạt các công việc liên quan đến sự nghiệp hành chính công và nhiều công việc đáng chú ý khác trong các lĩnh vực tư nhân cả ở Mỹ lẫn các nước trên thế giới. (Những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp
của cha tôi sẽ thường xuyên xuất hiện trong các chương tiếp theo, bởi chúng là một phần không thể thiếu của cuốn sách.)
Vào năm 1959, cha đã đặt một mốc son trong sự nghiệp kinh doanh của mình. Cùng với những người bạn là Rowan Gaither và Tướng Fred Anderson, ông thành lập Draper Gaither & Anderson: Công ty đầu tư mạo hiểm đầu tiên ở khu bờ Tây này và là công ty hợp doanh hữu hạn đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.
Cha là người có rất nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống, nhân cách và công việc của tôi. Tại sao câu chuyện về chiếc máy pha cà phê vẫn còn mãi trong tâm trí tôi? Bởi cha đã kể đi kể lại và từ đó rút ra bài học cho tôi. Ông muốn tôi học hỏi thêm từ những rủi ro, bao gồm cả việc dám thử thách để có được những bài học về sự thất bại và cố gắng nỗ lực để tạo nên những điều tốt đẹp.
Nhúng chân xuống bùn
“Đầu tư mạo hiểm ư? Nghe có vẻ rủi ro nhỉ? Nếu là anh, tôi sẽ không bao giờ mạo hiểm như thế.”
Clarence Randall, cựu Chủ tịch Tập đoàn thép Inland, đang ngồi ung dung sau chiếc bàn gỗ tối màu rất lớn đặt trên tầng cao nhất tòa nhà mới xây của Tập đoàn tại Loop, thuộc khu trung tâm thương mại và tài chính Chicago, đã nói với tôi như vậy. Quang cảnh hùng vĩ xung quanh nhìn từ văn phòng đó vào một buổi chiều nắng đẹp tháng Sáu năm 1959 đến giờ vẫn hiển hiện trong tâm trí tôi.
Tôi biết thật khó để thuyết phục Randall đồng ý với quyết định rời Inland của mình lúc đó. Tôi đã có rất nhiều cơ hội và cũng gặt hái được nhiều thành công trong suốt 5 năm qua khi làm việc tại đây. Tôi đã tham gia vào chương trình đào tạo kỹ năng quản lý mang tên “Randall’s Rangers” (Các Kỵ binh của Randall) và nhờ đó đầu quân cho tập đoàn này. Mỗi năm, công ty tuyển dụng thêm 5 đến 6 Ranger là những sinh viên tốt nghiệp từ các
ụ g g g g ệp trường đại học hàng đầu nước Mỹ với hy vọng họ sẽ sớm gia nhập vào đội ngũ quản lý hàng đầu tại Inland. Randall đã đầu tư uy tín của mình và rất nhiều các nguồn lực hiếm có ở Inland để mang về thành công cho chương trình này, ông ấy không rời mắt khỏi chúng tôi trong năm đầu tiên hay những năm tiếp theo ở tập đoàn. Cơ hội đã mở ra trước mắt chúng tôi. Sau khi hoàn thành năm đào tạo đầu tiên, tôi được phân công về phòng kinh doanh và sau đó được giao nhiệm vụ quản lý bộ công việc kinh doanh của toàn khu vực Nam Chicago, được coi là khu vực trọng yếu nhất của tập đoàn. Tôi là một trong tổng số 9 chuyên viên kinh doanh của tập đoàn và tự hào được công ty cung cấp xe và nhà riêng.
Đó thực sự là một trải nghiệm lý thú và đáng nhớ. Vợ tôi, Phyllis đang sống ở gần Công viên Highland trong thời gian đó và hai trong số ba đứa con của tôi chào đời trong khoảng thời gian 5 năm tuyệt vời này ở mảnh đất Chicago. Chúng tôi được nuôi dưỡng bởi những giá trị thuần nhất và tinh thần nỗ lực trong công việc – đặc quyền của mảnh đất miền Trung Tây này. Chicago và miền đất này vẫn chiếm một phần trong trái tim tôi – nơi rất nhiều bạn bè thân thiết, nhất là Cathie và Pitch Johnson sinh sống, và chúng tôi vẫn giữ được những mối liên hệ thân tình cho đến ngày nay.
Tôi gặp Pitch vào ngày đầu tiên đi làm ở Inland, Đông Chicago, Indiana – một thành phố công nghiệp bụi bặm – nơi chúng tôi dành những năm tháng không thể nào quên cùng nhau nuôi sống gia đình nhỏ của mình trong một dự án nhà ở cho công nhân. Pitch lớn lên ở Palo Alto, California và tốt nghiệp cao học Stanford. Chúng tôi đều theo học Trường Kinh doanh Harvard và giống như tôi, cậu ấy cũng đã từng làm việc cho một công ty thép khác trước khi đầu quân cho Inland. Cả hai đều là những người ưa thử thách – cậu ấy là đốc công của bộ phận Open Hearth (Lò ngang) còn tôi thuộc nhóm Ranger. Chúng tôi lúc nào cũng như hình với bóng.
Vậy tại sao tôi lại có ý định rời đi? Cha tôi đã gọi điện cho tôi để nói rằng quỹ đầu tư ông mới thành lập đã được thu xếp ổn thỏa, các giấy tờ tài liệu đã được ký kết xong xuôi và đây là thời gian thích hợp để Draper Gaither & Anderson – công ty đầu tư mạo hiểm đầu tiên ở miền Tây này – bước ra từ những giấc mơ.
Ngả người về phía trước một cách bí ẩn như thể KGB6 đang nghe lén câu chuyện của chúng tôi, Randall hạ thấp giọng xuống gần như thì thầm vào tai tôi: “Tôi có một người bạn làm kinh doanh tài chính. Cậu ấy đã sống ở Highland và bị phá sản vì đã mạo hiểm đầu tư vào chứng khoán. Cả gia đình cậu ấy phải rời khỏi thành phố này và không bao giờ có được cuộc sống như xưa nữa. Còn cậu có một công việc đảm bảo và tương lai sẽ thuộc nhóm những nhà quản lý hàng đầu ở một công ty lớn. Hãy để cha cậu làm việc mà ông ấy muốn còn cậu tự lo cho mình đi. Hãy ở lại Chicago tiếp tục công việc của mình và chẳng tội gì phải mua vào người những thứ đầy rẫy rủi ro như đầu tư mạo hiểm.”
Nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Trái tim và khối óc của tôi đã ở California. Tôi khéo léo cảm ơn vì sự hào phóng mà ông dành cho mình trong suốt thời gian qua, đồng thời chính thức cắt đứt mối ràng buộc giữa chúng tôi.
Mặc dù vậy, trước khi rời văn phòng của Randall, tôi quyết định hỏi ông một câu hỏi đã khiến tôi day dứt trong nhiều tháng qua: Tại sao Inland vẫn tiếp tục sản xuất thanh ray xe lửa cho ngành đường sắt trong khi cả tập đoàn đều biết rằng việc làm này chỉ mang về thất bại cho Inland? Randall dường như không lấy làm ngạc nhiên trước câu hỏi đó, đã giải thích cho tôi tính đặc thù của ngành đường sắt đối với an ninh quốc gia và sự tồn vong của nền kinh tế nước Mỹ cũng như tầm quan trọng của việc Inland tiếp tục cung cấp thanh ray cho ngành đường sắt bất chấp lợi nhuận.
“Chúng ta cũng có cắt giảm các thanh ray xe lửa”, ông kết luận, dần tăng âm lượng giọng nói của mình. “Đó là tinh thần yêu nước. Miễn là tôi còn có tầm ảnh hưởng ở Inland thì chúng ta vẫn sẽ tiếp tục đầu tư vào ngành đường sắt.”
Clarence Randall không chỉ là một doanh nhân có tư duy đại chúng mà còn là một nhà lãnh đạo có tầm ảnh hưởng trong một ngành công nghiệp then chốt và ngay sau đó đạt đến giai đoạn thịnh vượng nhất. Đó là thập kỷ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi đất nước tái thiết cơ sở hạ tầng và đáp ứng những nhu cầu bị trì hoãn lâu ngày của người dân thành phố, nhiều người trong số họ đã hy sinh cho cuộc chiến này. Trái tim Randall đã đặt đúng chỗ, và tôi biết mỗi lời nói của ông với tôi đều ẩn chứa niềm tin tuyệt đối.
Tuy thế, kể từ đó, tôi cũng đoán trước được tình hình. Ngành công nghiệp thép của Mỹ đã không chịu cải tổ hay đổi mới và hoàn toàn được hàng rào thuế quan Mỹ che chắn, bảo hộ trước các cuộc cạnh tranh quốc tế. Aluminum, nhựa và các vật liệu thay thế khác đang dần “lấn đất” của thép. Chứng khoán của Inland vào năm 1959 – một năm sau khi tôi rời công ty – chạm mốc cao nhất từ trước tính đến thời điểm đó: 59 đô-la/cổ phiếu. Nhưng đó cũng chính là phút lóe sáng đầu tiên và duy nhất trước khi bị kéo tụt dốc và chạm đáy đồng thời biến thành miếng mồi để một số công ty khác giành quyền kiểm soát. Đến năm 1998, sau hơn 100 năm làm mưa làm gió trên thị trường, Inland đã bị ArcelorMittal, công ty sản xuất thép lớn nhất trên thế giới khi đó thâu tóm.
Trên đường trở về văn phòng, những mối nguy hiểm và cạm bẫy mà Randall đã phác ra lướt qua trong đầu tôi. Nhưng đến thời điểm đó, tôi biết mình và ông ấy không có chung quan điểm và cách nhìn nhận về thế giới. Khi ông ấy thấy cạm bẫy, tôi thấy cơ hội. Đối với Randall, kinh doanh đầu tư tư nhân – thực tế là bất cứ doanh nghiệp đầu tư nào – có nguy cơ rủi ro rất cao. Đối với tôi, đầu tư mạo hiểm vẫn là lĩnh vực còn non trẻ, mới mẻ và
hấp dẫn, đầy rẫy nguy cơ nhưng không thiếu những phần thưởng. Theo quan điểm của Randall thì tôi đã từ bỏ con đường thênh thang là gia nhập vào đội ngũ lãnh đạo – và thậm chí còn có thể trở thành CEO – của một công ty thép được nhà nước bảo hộ và được quản lý tốt nhất nước Mỹ. Theo quan điểm của tôi, con đường đó phía trước còn rất dài, và dường như việc tạo ra một “đại gia đình” các doanh nghiệp mới có ý nghĩa hơn việc chỉ quản lý một tập đoàn già cỗi. Tôi vẫn còn trẻ và biết rằng cho dù ngành đầu tư mạo hiểm không có triển vọng, thì tôi vẫn có thể làm một công việc khác.
Tiếp theo, có lẽ phải kể đến sức quyến rũ của mảnh đất San Francisco. Tôi đã từng nói mình rất yêu Chicago – với nguồn nội lực, kiến trúc, những con người cởi mở và hồn hậu cùng không khí thân thiện và nghiêm túc của mảnh đất này – nhưng San Francisco, trong mắt tôi là một “thành phố trên những ngọn đồi” duyên dáng (thực tế là 7 ngọn đồi). Lần đầu tiên tôi đến với San Francisco là năm 12 tuổi, và khi cố gắng gợi lại miền ký ức của mình về chuyến đi đã rất lâu rồi, thì những kỷ niệm đó cứ ùa về trong tâm trí – hình ảnh một nhà hàng ở bờ biển Barbary hiện ra trước mắt. Thành phố biển xinh đẹp này như đã hớp hồn và cho đến ngày nay những ấn tượng sâu đậm về nó vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ đến tôi.
Triển vọng được làm việc với cha tôi cũng có một sức cuốn hút mãnh liệt. Do tham gia vào Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nên cha thường xuyên phải nhận nhiệm vụ ở Paris và Berlin, rồi ngay sau đó là cương vị Chủ tịch tập đoàn Mexican Light & Power tại Mexico City vì vậy tôi không có nhiều thời gian bên ở cha. Nếu làm việc cho Draper Gaither & Anderson, cha con tôi có thể gặp nhau hàng ngày và tôi sẽ có nhiều cơ hội hiếm có để học hỏi từ một bậc thầy như cha.
Cuối cùng và là điều quan trọng nhất đó là vợ con tôi. Vợ tôi, Phyllis, thực sự xúc động khi sắp được sống gần Đại học Stanford (đến nay, cô ấy vẫn trẻ trung và đam mê khám phá như
thế). Cô ấy vui vẻ tán thành lời đề nghị chuyển cả gia đình về nơi có khí hậu nhiệt đới ấm áp hơn và rất háo hức bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới.
Tôi rời văn phòng vào buổi chiều hôm đó, lòng tràn đầy tự tin về sự lựa chọn của mình khi quyết định chuyển đến Palo Alto và giúp một tay gây dựng Draper Gaither & Anderson. Cho dù có cân nhắc quyết định của mình 1 năm hay 100 năm đi chăng nữa, thì tôi cũng không thể đoán được hành trình dài phía trước. Tôi chuẩn bị được chứng kiến “sự chào đời” của thung lũng Silicon và tham gia vào sự phát triển bùng nổ và thần kỳ chưa từng thấy của nó. Tôi có được chỗ đứng của mình khi gia đình “con lai” của tôi được mảnh đất này – chiếc nôi của các lĩnh vực công nghệ cao, đầu tư mạo hiểm và các hoạt động kinh doanh – đón nhận. Nói đến thung lũng Silicon, chúng ta nghĩ ngay đến sự sáng tạo, tính hiệu quả và sự bùng nổ kinh tế – mảnh đất sản sinh ra những tên tuổi như Apple, Hewlett Packard, Google, Yahoo!, Cisco Systems, Oracle, Genentech, OpenTable, Tesla, Facebook, Twitter và hàng nghìn những công ty vĩ đại khác.
Năm 1950, trung bình thu nhập hàng năm của mỗi hộ gia đình ở Atherton, California – một thành phố nhỏ cách trung tâm San Francisco 45 km về phía Nam, nơi gia đình chúng tôi sinh sống – là 3.857 đô-la. Đến năm 2000, con số này là 200.000 đô-la. Trước khi bắt đầu thiên niên kỷ mới, Atherton là một trong những khu vực thịnh vượng nhất thế giới.
Thung lũng Silicon đã làm được điều đó và chính các nhà đầu tư mạo hiểm đã giúp thung lũng này biến tất cả những điều không thể thành có thể.
Đặt chân đến miền Tây
Đương nhiên, những điều diễn ra trong tương lai không hiển hiện rõ trước mắt tôi và Phyllis trong khi chúng tôi lái chiếc
Chevrolet mui trần mới coóng đến Palo Alto – chiếc xe được mua với mục đích chào đón ánh nắng chan hòa của vùng đất California. Đáng tiếc, chúng tôi đã làm hỏng chốt cài mui, thậm chí trước cả khi vượt qua sông Mississippi. Không biết bằng cách nào mà chúng tôi đóng được nó lại và không dám động vào nó cho đến tận khi biết được giá nhà ở Palo Alto và chắc chắn mình có thể đầu tư thoải mái cho chiếc xe.
Chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình từ Chicago trong tâm trạng rất háo hức và mất 5 ngày để đến được bờ Tây nước Mỹ. Ba nhóc nhà tôi ngồi ở ghế sau vì thế chúng tôi không muốn vội vàng. Hàng ngày trong suốt chuyến đi, chúng tôi rời nhà nghỉ dọc đường vào khoảng 7 giờ sáng, lái xe suốt buổi sáng và tìm nhà nghỉ tiếp theo vào lúc 2 giờ chiều, đồng thời ưu tiên nơi nào có bể bơi. Thật thú vị: Cả gia đình thực hiện một hành trình khám phá đến một vùng đất xinh đẹp và rộng lớn của nước Mỹ mà trước đây chúng tôi chưa bao giờ đặt chân đến.
Khi đến quê hương mới của mình ở Palo Alto – thị trấn của những ngôi trường đại học dường như vẫn còn đang say ngủ với khoảng 25.000 dân – chúng tôi lái xe dọc những con đường rợp bóng cây đến khi tìm được nhà nghỉ Rickey, một điểm dừng chân khang trang do một vài người bạn giới thiệu. Đây là nơi mà phụ huynh của các sinh viên Stanford thường chọn để nghỉ ngơi mỗi lần đến thăm con, là nơi các doanh nhân đi công tác hay khách du lịch dừng chân và là nơi câu lạc bộ Rotary địa phương tụ tập. Quan trọng nhất với chúng tôi là nơi này có bể bơi. Vào một buổi chiều ấm áp những ngày tháng Bảy, gia đình tôi cảm thấy như mình đang được ở thiên đường.
Thời gian đó, Đại học Stanford đã trở thành hơi thở của mảnh đất Palo Alto này. Với lịch sử 50 năm, nó đã trở thành một trường đại học hàng đầu ngang hàng với các trường trong nhóm Ivy League7. Đại học California, Berkeley, cũng là một trường đại học lớn khác ở miền bắc California, nhưng dường như nó còn xa mới đến cầu Vịnh phía đông San Francisco.
Đại học Stanford, thấp thoáng những chiếc xe đạp, một nét rất đặc trưng của ngôi trường này. Khuôn viên trường rộng khoảng 8.180 héc ta, nổi bật với hàng cây số dài những cây cọ, các tòa nhà màu vàng cát đồ sộ với mái kiểu Tây Ban Nha và ấn tượng nhất là một trường đại học kỹ thuật xuất sắc đang phát triển rất mạnh mẽ. Nếu chỉ một người duy nhất được vinh danh trong việc tạo nên thung lũng Silicon này thì người đó chỉ có thể là Fred Terman, phó khoa và sau này là trưởng khoa kỹ thuật của ngôi trường nổi tiếng này. Đương nhiên, thật ngớ ngẩn khi nghĩ thung lũng Silicon được gây dựng nên chỉ nhờ đội ngũ những con người đầy sáng tạo, nhiệt huyết, tài năng và cống hiến hết mình, thế nhưng Terman dường như là một nhân vật hội tụ tất cả các phẩm chất đó. Ông là một trong những người thuyết phục những người còn lại ở Stanford tập trung vào kỹ thuật và đầu tư mọi nguồn lực có thể để tạo dựng nên một Đại học Kỹ thuật Stanford hàng đầu thế giới như hiện nay.
Ngoài ra, vào thời điểm đó, Chủ tịch Whit Griswold của Đại học Yale, người trước đây từng là giáo sư cao học chuyên ngành lịch sử của tôi, đã phá bỏ một trường kỹ thuật khá chất lượng với tư tưởng nền tảng rằng kỹ thuật cũng giống như nha khoa và Yale không phải là một trường thương mại. Liệu New Haven, Connecticut có thể trở thành chiếc nôi của thung lũng Silicon nếu Griswold vẫn là một giáo sư môn lịch sử của tôi trong những năm 1950 thay vì trở thành chủ tịch của trường vào giữa năm học?
Tôi không tin vào điều đó lắm. Có một ấn tượng khác ngoài Đại học Kỹ thuật Stanford thu hút nhiều doanh nhân tiềm năng đến với mảnh đất Palo Alto, California này đó chính là khí hậu. Mặt trời chiếu sáng quanh năm, bầu trời trong xanh, khí hậu khô, độ ẩm thấp vì thế những ngày nóng nhất ở đây cũng vẫn dễ chịu. Ngày nay, hơn 50 năm sau đó, người dân vùng Vịnh này vẫn chết mê loại khí hậu rất đặc trưng của mảnh đất California này.
Draper Gaither & Anderson đã chuẩn bị kỹ càng và việc thành lập công ty ở Palo Alto đã diễn ra suôn sẻ. Công ty luật của Gaither có trụ sở ở San Francisco, Tướng Anderson đóng quân ở căn cứ không quân Travis (bắc California) còn cha tôi khá thông thuộc vùng này bởi ông thường xuyên đi công tác tới đây khi còn làm ở ngân hàng đầu tư Dillon Read với dự án tài trợ xây dựng cầu Vịnh Oakland, San Francisco. Cả ba người đều rất háo hức giúp phó khoa Terman thỏa giấc mơ kết nối những khám phá kỹ thuật vĩ đại của Stanford với các nguồn lực hỗ trợ cũng như nguồn lực tài chính cần thiết nhằm tạo ra các dịch vụ và sản phẩm hàng đầu, đưa chúng đến tay người tiêu dùng thông qua các công ty mới khởi nghiệp ở trong hay gần khuôn viên Stanford. Litton Industries, Varian và Hewlett-Packard đều được hệ sinh thái đầu tiên này hỗ trợ.
Vài đêm sau khi chúng tôi đến Palo Alto, Cathie và Pitch Johnson đáp máy bay từ Chicago đến đây và tổ chức một buổi tiệc đáng nhớ để chào đón chúng tôi với khẩu hiệu: “Chào mừng các bạn đến với Palo Alto”. Do Pitch lớn lên trên mảnh đất này nên cậu ấy có rất nhiều bạn bè và nhiệt tình giới thiệu vợ chồng tôi với nhiều người trong số họ. Sáng hôm sau, trong khi Phyllis và bọn trẻ dành thời gian nghỉ ngơi và tham quan trung tâm thành phố, tôi đã bắt tay ngay vào công việc mới của mình một cách đầy háo hức và vui vẻ.
Tướng Fred Anderson và một vài người khác đã chuyển đến văn phòng tạm thời tại đường Addison. Là người đôn hậu, lạc quan và rất tốt bụng, Fred Anderson khác Clarence Randall “bảo thủ” chẳng khác nào Palo Alto cách xa Chicago vậy. Anderson có một sự nghiệp quân sự lẫy lừng với tư cách là Tư lệnh Đơn vị VIII Bomber Command8 trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ Hai và trở thành khuôn mẫu cho vai diễn của Clark Gable trong bộ phim tái hiện lại cuộc chiến, Twelve O’Clock High (tạm dịch: 12 giờ cao điểm). Mặc dù vậy, ông là một người rất giản dị và cởi mở. Ông khiến tôi thấy thoải mái ngay từ những phút đầu gặp mặt khi kể cho tôi các kế hoạch hấp dẫn mà ông đã chuẩn bị cho
tất cả chúng tôi và rồi gọi những người khác vào để gặp tôi. Cuối cùng, cả nhóm chúng tôi đã quyết định ra ngoài khoảng sân đầy nắng trước văn phòng và tán gẫu đến tận trưa. Anderson vô cùng sôi nổi và hứng khởi khi “thết đãi” chúng tôi bằng những câu chuyện về các cơ hội cũng như rủi ro cao trong lĩnh vực đầu tư này. Ví dụ, ông kể về một vụ đầu tư gần đây – Raychem, công ty mới được thành lập 2 năm, vào năm 1957. Theo quan điểm của Anderson, Raychem – với sản phẩm màng co nhiệt được cấp bằng sáng chế mới – thích hợp đối với hàng nghìn ứng dụng công nghiệp có sử dụng dây điện bọc nhựa – sẽ đạt được những thành công lớn. Nhưng Anderson lại dành phần lớn thời gian để nói về người sáng lập của Raychem, Paul Cook, người ông tin rằng sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tài ba. Cook, như Anderson khẳng định, chắc chắn là một trong số ít doanh nhân sở hữu tài lãnh đạo cần thiết để biến một ý tưởng vĩ đại trở thành một doanh nghiệp tầm cỡ quốc tế.
Như Anderson dự đoán, Raychem đã thực sự gây ra những chấn động lớn trên thị trường. Trong vòng 25 năm sau khi thành lập, doanh nghiệp này đã tăng trưởng trung bình khoảng 25% một năm – một con số đáng kinh ngạc. Tập đoàn Raychem trở thành một trong những nhà sản xuất các chi tiết điện công nghiệp lớn nhất thế giới với hệ thống sản xuất và phân phối, nghiên cứu và phát triển thị trường (R&D) có mặt trên 40 nước trên thế giới với doanh số hàng năm trên 1 tỷ đô-la.
Sau này, tôi cũng được góp sức vào những thành công của Raychem. Một người bạn cũ của Pitch và là bạn mới của tôi, Bill Bowes, lúc đó là cổ đông của Blyth & Co, Blyth đứng ra nhận bao tiêu Raychem và Bill đã động viên tôi đầu tư 1.000 đô-la. Đối với tôi lúc đó, khoản đầu tư này quá lớn nhưng cuối cùng tôi đã chấp nhận đầu tư gấp 10 lần số tiền đó vào thị trường mở này. Mặc dù ngày nay đối với tôi số tiền đó không đáng là bao nhưng tại thời điểm đó, nó bằng tiền lương một năm của tôi.
Có tất cả 5 nhân viên trẻ ở Draper Gaither & Anderson bao gồm cả tôi và chúng tôi đều nhận được mức lương 10.000 đô-la/năm. Đây cũng là mức lương mà tôi nhận được trong năm cuối cùng làm việc tại Inland. Anderson đã hỏi mức lương lúc đó của tôi ở Inland và vì thế cả 5 chúng tôi đều nhận được mức lương như vậy. Một điểm khác biệt nữa đó là đời sống ở Palo Alto không đắt đỏ bằng Chicago vì thế chúng tôi không có kiến nghị gì. Cuối cùng, chúng tôi cũng nhận được tấm vé tham gia vào cuộc chơi hấp dẫn – đầu tư mạo hiểm và được trả mức lương cũng hấp dẫn không kém. Thời gian đó, sau khi đi làm về nhà, tôi không ngừng kể với gia đình mình về công việc mới, những người đồng nghiệp mới của mình và dường như tương lai đang mở ra trước mắt tôi vậy. Phyllis vô cùng phấn khích và đó cũng là cách cả gia đình chúng tôi bắt đầu một cuộc sống mới đầy thú vị ở nơi đây.
Vài ngày sau đó, gia đình tôi chuyển đến một khu nhà nghỉ rẻ hơn – Restwell, thuộc El Camino Real, khu trung tâm thương mại trọng yếu của Palo Alto – và bắt đầu tìm nhà. Không lâu sau đó, chúng tôi tìm được một ngôi nhà trát vữa hai tầng xinh xắn nằm ở góc đường Cowper và Embarcadero; mặc dù đây là căn nhà hiện đại nhất của vợ chồng tôi từ trước đến nay, nhưng điều thực sự gây ấn tượng với Phyllis đó chính là những cây chanh, bơ và hồng quả vàng xung quanh ngôi nhà – một điểm “sang trọng” hiếm có của thành phố đầy gió này.
Bạn bè và những thương vụ làm ăn
Hai trong số ba cổ đông ở Draper Gaither & Anderson mỗi người mời về một cổ đông góp vốn khác và họ đều đồng ý đầu tư 2 triệu đô-la. Bố tôi mời Lazard Frères còn Gaither ký kết hợp tác với gia đình Rockefellers. Anderson đã thuyết phục được một người bạn ở New York và cùng với một số nhà đầu tư khác nữa mang về số vốn lên đến 6 triệu đô-la. (Công ty sẽ sử dụng tiền của mình để đầu tư mạo hiểm với hy vọng thu về lợi nhuận lớn.) Tháng Mười năm 1960, chúng tôi chuyển tới trụ sở mới nằm
trên đường Welch trong khuôn viên Đại học Stanford và thỏa thuận một trong những hợp đồng thuê nhà thời hạn 99 năm đầu tiên phục vụ cho mục đích kinh doanh.
Việc cho thuê đất trong khuôn viên Đại học Stanford có lịch sử thú vị. Vào năm 1885, Leland Stanford đã tặng 8.180 héc ta đất nông nghiệp và trang trại ở Palo Alto để làm khuôn viên của trường đại học được đặt theo tên người con trai đã mất của mình, Leland Stanford Jr. Trong quá trình trao tặng, Stanford đã ghi rõ trong bản thỏa thuận rằng các đời hiệu trưởng của trường sẽ không bao giờ được phép bán bất kỳ một héc ta đất nào. Bởi vì trường chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ – trên thế giới chỉ có Đại học Quốc gia Mát-xcơ-va có khuôn viên lớn hơn – nên các hiệu trưởng đã đưa ra ý tưởng cho thuê đất trong thời hạn 99 năm, nhờ thế trường vẫn giữ được quyền sở hữu đất còn người thuê kiểm soát hiệu quả tài sản của mình. Một trong những trung tâm mua sắm thành công nhất hiện nay cũng thuộc khuôn viên của ngôi trường này và phải đến khách sạn Rosewood mới được xây dựng, Trung tâm Y tế Stanford và con đường Sand Hill huyền thoại – “ngôi nhà” của rất nhiều các công ty đầu tư mạo hiểm quyền lực nhất nước Mỹ, bao gồm Draper Fisher Jurvetson do Tim, con trai tôi thành lập. Ngoài sự phát triển vượt trội này, khoảng 60% đất ở Stanford vẫn là đất “chết” cho đến ngày nay.
Tạp chí BussinessWeek đã đăng một bài báo 2 trang về sự ra đời của Draper Gaither & Anderson. Chúng tôi đúng là công ty duy nhất trong thành phố này tham gia vào cuộc chạy đua đầu tư mạo hiểm và chuẩn bị xuất phát. Trụ sở chính của chúng tôi là ngôi nhà một tầng hiện đại được thiết kế khá độc đáo với các bức tường bằng kính bao quanh để ánh sáng có thể lọt vào mà không cần đèn điện ở tiền sảnh bên ngoài xung quanh mỗi phòng làm việc. Mỗi phòng được mở thông ra một khoảnh sân trong thoáng đãng. Chúng tôi mong muốn công ty của mình sẽ trở thành nguồn hỗ trợ tài chính hữu hiệu đối với các doanh
nhân của California và đã nỗ lực để thực hiện gần như hoàn hảo kế hoạch đó.
Tuy nhiên, chúng tôi nhanh chóng gặp phải thất bại đầu tiên và đó là một thất bại thảm hại. Khi bố tôi và Tướng Anderson quyết định cùng thành lập công ty mới, họ đã chọn Rowan Gaither là cổ đông cấp cao thứ ba bởi sự thông minh xuất chúng, những kinh nghiệm phong phú và nhân cách đáng tin cậy của ông. Gaither đã từng là chủ tịch của Ford Foundation; người sáng lập Tập đoàn Rand và cổ đông cao cấp của Cooley, Crowley & Gaither, công ty luật hàng đầu San Francisco.
Một thời gian ngắn sau khi thành lập Draper Gaither & Anderson (DGA), Gaither được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Ông đến Boston để bắt đầu quá trình hóa trị liệu ở bệnh viện Tổng hợp Massachusetts. Trong chuyến công tác đến Boston, tôi vào viện thăm ông. Gaither đã chỉ tay lên ngực mình và nói rằng : “Bill, hãy cảm nhận nó.” Tôi đến gần, đặt bàn tay mình lên ngực ông và thấy một cục u lớn và rắn như hạt lạc.
Ông mỉm cười khó nhọc. “Tôi cá là nó sắp biến tôi thành người thiên cổ rồi.”
Gaither mất vài tháng sau đó, khi mới chỉ 50 tuổi. Theo tôi, nếu Rowan Gaither còn sống, Draper Gaither & Anderson sẽ trở thành một trong những công ty đầu tư mạo hiểm phát triển vĩ đại nhất từ trước đến nay thay vì chỉ trụ được 7 năm. Gaither là một luật sư có tầm nhìn, có tài tổ chức và thận trọng. Ông có sự ấm áp dễ lan tỏa và một tấm lòng đôn hậu. Gaither là sợi dây kết nối bền chặt, một mảnh nam châm hướng tâm gắn kết mọi thành viên của công ty với nhau.
Sau sự ra đi của Gaither, các thành viên của công ty trở lại với công việc một cách khó khăn. Các doanh nhân đầu tiên được tôi đầu tư ở DGA là Thomas Corbin và Elliot Farnsworth, hai kiến trúc sư trẻ tài năng với một ý tưởng hấp dẫn. Reid Dennis –
nhân vật sau này trở thành một trong những nhà đầu tư mạo hiểm xuất sắc nhất ở thung lũng này – đã khuyên tôi nên xem xét qua công ty mới này. Tôi vốn đã biết rằng Reid là người có con mắt tinh tường. Ông đã đầu tư vào các công ty tư nhân nhỏ với tư cách Fireman’s Fund Insurance Company (Công ty Bảo hiểm Quỹ của Lính cứu hỏa) trong nhiều năm. Nếu Reid thích ý tưởng nào đó thì nó có thể rất có triển vọng.
Trụ sở chính của Corbin Farnsworth được đặt ngay phía cuối con đường ở Palo Alto, vì thế tôi cũng không mất nhiều thời gian để gặp được hai nhà sáng lập này. Thậm chí trong những ngày đầu tiên, tôi vẫn cho rằng địa điểm lý tưởng để có cuộc gặp mặt đầu tiên là tại trụ sở chính của các doanh nhân này. Bạn sẽ được tận mắt chứng kiến họ làm việc cùng với đội ngũ của họ trong chính đại bản doanh. Theo đó, bạn có thể dễ dàng quan sát doanh nhân này và những đồng nghiệp của anh ta hơn, đặc biệt thông qua cách họ giao tiếp với nhau. Những năm gần đây, tôi không còn áp dụng cách này và các cuộc gặp mặt đầu tiên thường diễn ra tại văn phòng của tôi. Cách này hiệu quả hơn, nhưng nó không hẳn là cách tốt nhất.
“Ngài hãy nằm xuống,” Farnsworth nói.
Tôi nằm dài trên một chiếc bàn trong khi anh ta giả vờ lấy một mái chèo lớn đập vào ngực tôi, vừa làm vừa thuật lại các bước mà anh ta đang mô phỏng. Lúc đó tôi không hề biết rằng mình đang được nhìn chiếc máy khử rung tim đầu tiên – một thiết bị sẽ cứu sống được hàng triệu người trong những năm sau đó. Hai ngày sau, tôi đưa Tướng Anderson tới gặp Farnsworth và ông thực sự ấn tượng với cả các doanh nhân lẫn công ty mới thành lập này. Chúng tôi nhanh chóng đi đến thỏa thuận và tôi ký được hợp đồng đầu tư mạo hiểm đầu tiên. Công ty đã rất thành công; sau đó chúng tôi đã bán Corbin Farnsworth lại cho Smith, Kline & French và thu về một khoản lợi nhuận không nhỏ.
Các đồng nghiệp khác ở DGA cũng rất thú vị và chúng tôi phối hợp rất ăn ý. Crawford Cooley, con trai của một cổ đông ở công ty luật Cooley Godward & Gaither, là một thanh niên hài hước, đạo mạo và có quan hệ rất rộng ở San Francisco này. Cậu ấy đã góp phần trong quá trình sản xuất chiếc ti vi màu đầu tiên ở RCA, dù không phải là một kỹ sư được đào tạo chính quy. Sau này, tôi mới biết việc không ai trong chúng tôi thông thạo về kỹ thuật là một sai lầm. Công nghệ là nền tảng của lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và doanh nghiệp nào có được những chuyên gia kỹ thuật sẽ tạo nên sự khác biệt.
Don Lucas là nhân viên trẻ duy nhất có được thư giới thiệu của của Phố Wall. Cậu ta mới 29 tuổi và đã từng rất thành công ở Smith Barney. Tôi vẫn nhớ rõ câu hỏi đầu tiên mà cậu dành cho chúng tôi: “Thế chúng ta sẽ làm gì nếu 6 triệu đô-la đi tong?” Những nhân viên còn lại của chúng tôi đều rất ngạc nhiên trước câu hỏi đó ít nhất vì hai lý do. Thứ nhất, không giống như Lucas, chúng tôi không thường xuyên được tiếp xúc với những con số lớn như ở Phố Wall hay việc 6 triệu đô-la có thể “đi tong”. Thứ hai, do còn trẻ và đầy nhiệt huyết, chúng tôi tin tưởng vào đội ngũ lãnh đạo của công ty và tin rằng viễn cảnh tươi đẹp đang mở ra trước mắt.
Sau khi DGA tan rã, Lucas tiếp tục sự nghiệp đầu tư của mình và rất nổi tiếng bằng cú “hit” lớn với tư cách nhà đầu tư cho Larry Ellison, người sáng lập Oracle. Ngày nay, Oracle có trụ sở chính ở bờ biển Redwood, một “người hàng xóm” có tầm ảnh hưởng giáp với San Francisco. Chúng ta không thể bỏ lỡ trụ sở chính của tập đoàn Oracle: 12 tòa tháp cao và đồ sộ nằm xung quanh một chiếc hồ nhân tạo. Tập đoàn này thực sự là một ngôi sao của thung lũng Silicon và cung cấp các hệ thống phần mềm cho rất nhiều ngành công nghiệp lớn trên toàn thế giới.
Larry Duerig là một đồng nghiệp giữ vai trò quan trọng khác ở DGA. Ông từng làm việc chung với Tướng Anderson một vài năm ở San Francisco. Duerig là một nhà đầu tư lão làng dày dạn
kinh nghiệm, vì thế được trao quyền cổ đông ở DGA. Ông là người có tư duy hiện đại và sự khéo léo trời phú. Larry là một hướng dẫn viên không chính thức, luôn theo dõi và cảnh giác cho 5 nhân viên trẻ chúng tôi không “bị mê hoặc bởi chiếc đồng hồ quả lắc vàng trong tay tên phù thủy có phép thôi miên đang dao động trước mắt” hay là chính các doanh nhân. Tuy nhiên, Duerig nghiện thuốc lá nặng. Khi hứng thú với một vấn đề nào đó, ông sẽ nói nhanh đến mức khiến điếu thuốc lá trong miệng xém gần đến môi. Những tàn thuốc nóng sẽ rơi xuống xung quanh bụng và “đục lỗ” những chiếc áo sơ mi của ông. Larry là một người không bao giờ mất thăng bằng trước những tin xấu và luôn nhạy cảm với những vụ làm ăn sinh lời.
Tom Carey, chàng thanh niên kỳ cục với đôi giày khiêu vũ bọc da kangaroo nhưng lại có một tư duy tài chính nhạy bén, là chuyên viên phân tích của các vụ đầu tư công lẫn tư nhân cho Duerig. Ở chàng thanh niên này có một sự pha trộn kỳ quặc giữa khiếu hài hước đầy miệt thị và sự nhạy cảm tự nhiên. Carey rất hay đùa. Cuối cùng là Bill Symons, kế toán trưởng của chúng tôi – mặc dù lúc đó chức danh này vẫn chưa phổ biến. Symons là một CPA9 được đào tạo chính quy và một trong những công việc quan trọng của cậu ấy là kiểm tra sổ sách của tất cả các công ty mà chúng tôi có ý định đầu tư. Cậu ta là một người khá điềm tĩnh và chính tính cách này đã làm hài lòng các doanh nhân và không bao giờ khiến họ cảm thấy khó chịu khi Symons tiến hành nhiệm vụ điều tra các hoạt động của họ.
Các thương vụ liên tiếp đổ về DGA, và đội ngũ mới nhất của chúng tôi nhận thấy chúng đến từ nhiều nguồn khác nhau. Phần lớn các hoạt động của tôi đều liên quan đến bạn bè của Pitch Johnson và những người bạn của họ. Một số thương vụ tiềm năng khác đến từ các cổ đông, nhân viên và qua giới thiệu. Trong thời gian này, cũng có một cơ hội đặc biệt dành cho tôi và chính Tướng Anderson đã khuyên tôi nên nắm bắt lấy cơ hội hiếm có đó.
“Bill, cậu có muốn đi Hawaii không?”, Anderson hỏi. “Chin Ho là một người đầy tiềm năng và anh ta biết đến chúng ta qua tạp chí BusinessWeek. Chin đang dự định xây dựng một tòa các căn hộ cho thuê ở bờ biển Waikiki.”
“Thực sự đó không phải là dạng căn hộ mà chúng tôi vẫn thường thấy,” Chin sau này nói qua với tôi như vậy trên đường từ sân bay Honolulu trở về. “Chúng là nhà chung cư.”
Tôi vừa đặt chân lên một trong những chiếc máy bay phản lực đầu tiên đến Hawaii. “Nhà chung cư, ý anh là sao?” tôi hỏi.
“À”, anh ta cười khoái trá,“Không có nhiều loại nhà kiểu này. Thực tế thì đây là kế hoạch phát triển nhà chung cư thứ hai trên thế giới. Cái đầu tiên đang được xây dựng ở Arizona và tất cả những thủ tục pháp lý đều đã hoàn thành xong, vì thế chúng tôi chắc chắn rằng, ý tưởng này hoàn toàn khả thi.”
Tòa nhà mới này được đặt tên là Ilikai và được xây dựng ngay bên cạnh khách sạn Hoàng gia Hawaii nằm trên bãi biển Waikiki. Mỗi căn hộ có diện tích khoảng 165m² và có khoảng vài trăm căn như thế. Mỗi căn thuộc quyền sở hữu riêng của từng người nhưng chung ban quản lý, lối vào, sảnh, cầu thang máy, quá trình bảo dưỡng và vận hành với cả tòa nhà. Điểm khác biệt lớn nhất đó là mọi người sẽ mua những căn hộ này thay vì thuê chúng. “Anh sẽ thu về được toàn bộ vốn của DGA ngay lập tức,” Chin nhấn mạnh,“mà không phải chờ có người thuê”.
Tôi nói với Chin rằng điều đó nghe có vẻ hấp dẫn. Chin đưa tôi đến Khách sạn Hoàng gia Hawaii nghỉ ngơi trước khi có một cuộc họp ở văn phòng anh ta vào sáng hôm sau. Sau khi có một chuyến tham quan chóng vánh quanh đảo – tới chi nhánh mới của Ala Moana, trung tâm mua sắm đầu tiên được xây dựng ở Hawaii.
Sau đó, tôi thực sự ấn tượng bởi chuyến đi cùng với Lowell Dillingham, người cao tuổi nhất của một trong 5 gia đình “sở hữu” quần đảo xinh đẹp này. (Một người chỉ cho thuê đất chứ không bán.) Dillingham, Chin và tôi ngồi trên bờ biển vào lúc hoàng hôn và uống mai tais10. Sau đó, họ mời tôi tham dự một bữa tiệc của người bản xứ. Tôi thực sự bị cuốn hút bởi nơi đây giống như một thiên đường. Ngay sau khi trở về nhà, tôi đến Seattle để gặp kiến trúc sư dự án, John Graham Jr., và được xem bản thiết kế mới nhất của cậu ấy cho dự án Seattle Space Needle. Bản thiết kế cho khu nhà Ilikai được phác thảo theo hình chữ Y với hai nhánh chạy ven bờ biển để hầu hết tất cả các phòng của khu chung cư này đều có cửa sổ hướng ra biển.
Tôi thuyết trình về dự án Ilakai cho các cổ đông ở DGA và mọi người đều hứng thú với nó. Mọi chuyện dường như đã ổn thỏa. Tuy nhiên, vào một buổi sáng, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ New York báo tin xấu. “Dick Dilworth muốn nói chuyện trực tiếp với anh,” giọng nữ ở đầu dây bên kia nói.
“Ai cơ?”, tôi hỏi lại. Tôi chưa bao giờ nghe đến ai tên là Dick Dilworth cả.
“Ngài Dilworth là cổ đông của Rockefeller,” giọng nữ đáp,“ông ấy muốn gặp ngài ở New York càng sớm càng tốt.”
Tôi bắt chuyến bay sớm vào ngay ngày hôm sau và lên thẳng tầng cao nhất của trung tâm Rockefeller. Văn phòng của Dilworth thậm chí còn rộng hơn cả phòng của Clarence Randall. Thảm trải cũng như đồ đạc bài trí trong căn phòng vô cùng sang trọng và không khí thật dễ chịu.
Ông ta đùng đùng nổi giận và không hề có ý định mời tôi ngồi xuống. Trong đời mình, tôi cũng đã từng bị la mắng, quát tháo nhưng chưa bao giờ bị mắng mỏ thậm tệ như buổi sáng hôm đó tại văn phòng của J. Richardson Dilworth.
“Chúng tôi có thể mua nhà ở Hawaii,” ông ta nói. “Chúng tôi cũng có thể xây dựng các khách sạn và các căn hộ ở bất cứ đâu trên thế giới này. Chúng tôi không cần anh, một kẻ ngoại đạo đầu tư tiền của chúng tôi vào bất động sản và rồi thu phí, ăn chênh lệch và chuốc về rủi ro. Chúng tôi trở thành cổ đông góp vốn ở DGA vì anh nói với chúng tôi rằng anh sẽ đầu tư vào công nghệ và các doanh nhân làm ăn chính đáng. Chúng tôi không cần anh xuất hiện ở Hawaii. Chúng tôi chỉ cần anh ở Palo Alto – thế là đủ. Bây giờ, hãy ra khỏi đây, và làm việc của anh đi!”
Tôi biết đây không phải là một cuộc khẩu chiến mà mình có thể thắng. Vì thế tôi bước vào và ra khỏi trung tâm Rockefeller chỉ trong vòng 15 phút. Trong một công ty cổ phần như Draper Gaither & Anderson, các cổ đông góp vốn như gia đình Rockefeller không có quyền đưa ra định hướng về việc đầu tư hay từ chối cho các các cổ đông điều hành. Điều này nhằm giúp các cổ đông góp vốn tránh được các rắc rối về thuế và pháp lý. Nó cho phép các cổ đông chính có toàn quyền kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn và quản lý công ty. Nhưng việc một nhân viên trẻ như tôi mang luật pháp ra trong những tình huống như thế này là thiếu khôn ngoan, vì thế tôi vui vẻ trở về nhà vào hôm sau và nhường quyền quyết định cho những người lớn tuổi và có kinh nghiệm hơn.
Không cần phải nói, chúng tôi đã chần chừ trong việc tiếp tục đầu tư vào Ilikai. Lời khuyên từ một cổ đông góp vốn quan trọng, cụ thể là một trong những cổ đông của Rockefeller, bao giờ cũng “nặng ký” hơn những logic kinh doanh thông thường.
Chin Ho không hài lòng, nhất là sau khi nhận được những phản ứng tiêu cực từ DGA đối với dự án. Cuối cùng, đây lại là một vụ đầu tư lớn nhất của DGA trong lịch sử 7 năm hoạt động. Điều đó có nghĩa là Dilworth đã nhầm. Mặc dù tôi đồng tình với quan điểm của ông ấy rằng chúng tôi nên tập trung vào các dự án ở khu vực lân cận – khu vực sau này trở thành một trong những vùng phát triển mạnh mẽ nhất nước Mỹ.
Tóm lại, Ilikai là tòa nhà chọc trời đầu tiên ở bãi biển Waikiki, và trong những năm đầu tiên sau khi xây dựng, nó thống trị vùng trời Honolulu. Ngày nay, Ilikai đã “nhỏ bé” hơn nhiều và nằm lọt thỏm trong những khu phức hợp rộng lớn và đồ sộ ở xung quanh.
Giai đoạn tiếp theo: Draper & Anderson
Vào năm 1962, sau ba năm học về thương mại, tôi quyết định tự tách ra kinh doanh. Đương nhiên tôi rất thích làm việc với cha cũng như với các cổ đông, đồng nghiệp khác, nhưng tôi càng trân trọng và thích thú với kinh nghiệm đầu tiên của mình trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Phương châm của tôi là “mỗi ngày một hợp đồng ở DGA”, và mặc dù đó chỉ là lời nói đùa nhưng trên thực tế, chúng tôi đã đầu tư rất nhiều vào các doanh nghiệp còn non trẻ trong suốt 3 năm qua và thời gian trôi qua thật nhanh.
Mặc dù rất thành công khi đầu tư vào công nghệ và thu về được khoản lợi nhuận khiêm tốn dựa trên số vốn ban đầu khoảng 6 triệu đô-la, nhưng đáng tiếc, DGA chỉ hoạt động được trong vòng 7 năm. Như tôi đã đề cập ở phần trước, Rowan Gaither đã qua đời trong những năm đầu tiên khi công ty vừa mới thành lập. Năm 1964, cha tôi cũng trở lại Washington DC sau 5 năm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm bởi ông quan tâm đến những hậu quả của việc bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển. Tại Washington, ông bắt đầu thành lập Ủy ban Khủng hoảng Dân số (ngày nay là Ủy ban Quốc tế Hành Động vì Dân số), nó đã trở thành tổ chức nghiên cứu và vận động tích cực tập trung vào các vấn đề liên quan đến tình trạng bùng nổ dân số. Với việc hai trong số ba cổ đông cấp cao đã rời đi, DGA buộc phải đóng cửa khi ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm bắt đầu thăng hoa.
Những thành quả của các doanh nhân trẻ, cũng như những người mà tôi đã gặp gỡ, liên hệ và tiếp xúc khi làm việc ở DGA đã
trang bị cho tôi kinh nghiệm vô cùng quý báu – mà tôi không có được ở Inland – để từ đó, tôi áp dụng chúng vào việc cân bằng rủi ro và lợi nhuận trong các thương vụ đầu tư. Dường như tất cả những người đó đều cảm thấy rất thoải mái, tôi biết rằng tôi có thể tự rèn luyện thêm về lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và cũng sẽ trở nên thoải mái như họ.
Khi rời DGA vào năm 1962, cả gia tài của tôi là 25.000 đô-la và tôi đã dùng nó đầu tư vào một công ty đầu tư mạo hiểm mới thành lập. Tôi không có tài sản nào khác ngoài ngôi nhà trị giá 40.000 đô-la, trong đó có 20.000 đô-la tài sản thế chấp. Với số vốn ít ỏi, việc thành lập một công ty đầu tư riêng của bản thân chẳng khác nào bắc thang lên trời. Nhưng cũng vào thời gian này, Al Pyott, một đồng nghiệp cũ ở Inland đã gửi cho tôi một bản phô tô “Bộ luật về các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh nhỏ (SBIC) năm 1958” của Tổng thống Eisenhower. Tôi đã cẩn thận nghiền ngẫm nó và phát hiện ra rằng nếu tôi có 150.000 đô-la và đầu tư vào một “SBIC” thì chính phủ có thể cho tôi vay số tiền lên đến 450.000 đô-la trong vòng 10 năm với mức lãi suất 5% – hay nói cách khác, kinh doanh vay nợ 3-1. Thật tuyệt vời!
Vì thế tôi cần một đối tác – chia sẻ số vốn ban đầu – 75.000 đô la, còn tôi sẽ phải vay thêm 50.000 đô-la để bù vào 25.000 đô-la mình có. Mặc dù cha tôi không chắc chắn về kế hoạch này của tôi và không muốn tôi rời DGA, nhưng ông đã đề nghị giúp tôi một tay.
Trong quá trình tìm kiếm một cổ đông cho một công ty đầu tư mạo hiểm, điều quan trọng là phải tìm được một mảnh ghép hoàn hảo bổ khuyết cho những thiếu sót của bạn. Nhìn chung, tôi cho rằng chúng ta nên tìm một ai đó có khả năng phán đoán tốt, có kinh nghiệm và thành công trong một lĩnh vực kinh doanh khác, một người thân thiện, gần gũi và có tầm nhìn.
Tôi gọi cho người bạn cũ của mình, Pitch Johnson. Tôi thực sự thích thú với việc Pitch có lợi thế là một kỹ sư tốt nghiệp
Stanford. Tôi từng học chuyên ngành lịch sử, và nếu được chọn một cổ đông cùng làm việc với mình, tôi cho rằng người đó nên là một kỹ sư được đào tạo bài bản. Ngoài ra, Pitch là người Palo Alto và bạn bè của anh ấy – những người rất thú vị như Bill Edwards, John Bryan, Reid Dennis và Bill Bowes – đã từng giúp đỡ tôi rất nhiều. Quan trọng nhất, Pitch là người rất thông minh, nhạy cảm, nghiêm túc và tốt bụng. Anh ấy cũng khá hài hước và biết rõ gia đình tôi. Pitch thực sự là một cổ đông lý tưởng.
“Ồ, để tớ suy nghĩ thêm về vụ này đã nhé,” Pitch trả lời tôi qua điện thoại. “Nhưng nghe có vẻ hấp dẫn đấy.”
Tôi gác máy và nói chuyện với Phyllis. “Cậu ấy sẽ đồng ý thôi,” tôi nhủ thầm và vô cùng phấn khích với suy nghĩ đó.
Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau rằng Pitch sẽ đến California để thảo luận thêm về kế hoạch. Vài tuần sau đó, chúng tôi ngồi quây quần quanh bàn ăn nhà tôi, và trong quá trình xem xét các dự án tài chính, chúng tôi càng háo hức hơn. Tôi băn khoăn không biết Pitch có gặp khó khăn trong việc có được 75.000 đô la tiền mặt để đầu tư hay không.
“Tớ tiết kiệm được 25.000 đô-la tiền lương và một khoản đầu tư vào Cessna Aircraft. Tớ sẽ hỏi mượn ngài Holman thêm 50.000 đô-la xem sao.” Pitch nói.
Eugene Holman, cha dượng của Pitch, là cựu Chủ tịch hội đồng quản trị của Tập đoàn Dầu Standard (NJ), sau này đổi tên thành Exxon. Ông Holman đã đồng ý với lời đề nghị của Pitch nhưng không may lại bị đột quỵ một thời gian ngắn sau đó. Công ty của chúng tôi vẫn chưa đi vào hoạt động và khoản vay vẫn chưa được chính thức hóa. Lo lắng và bận tâm đến lời hứa với Pitch, ông Holman gọi thư ký riêng đến bệnh viện và bảo cô ấy,“làm các thủ tục giấy tờ cần thiết cho khoản vay của Pitch và để cậu ấy có thể lấy tiền bất cứ khi nào muốn.” Pitch đã rất cảm động
trước hành động đó và thi thoảng vẫn ngậm ngùi nhắc đến câu chuyện của ông Holman cũng như chữ tín ở người cha dượng ấy.
Vài tuần sau đó, tôi lên đường tới Chicago; Pitch và tôi đã ăn tối cùng nhau ở trung tâm thành phố để bàn bạc chi tiết hơn về công ty mới. Mặc dù chúng tôi có quyền ngang nhau nhưng một trong hai phải trở thành giám đốc của SBIC – một công ty cổ phần hơn là công ty đầu tư – và người còn lại giữ chức vụ phó giám đốc. Trước khi tôi nêu lên vấn đề đó thì Pitch đã cất lời và nói rằng anh ấy nghĩ tôi nên đảm nhiệm vị trí giám đốc vì tôi nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn. Vai trò của chúng tôi vẫn là 50-50, có quyền quyết định và xử lý các vấn đề của công ty như nhau với tư cách các cổ đông bình đẳng. Chúng tôi không bao giờ bất đồng ý kiến một cách nghiêm trọng và thường thu xếp ổn thỏa hầu hết mọi việc.
Pitch và tôi thuê văn phòng một phòng của vài người bạn ở công ty bất động sản, nó nằm trên tầng hai của một khu nhà văn phòng hai tầng thuộc khuôn viên Đại học Stanford, đối diện với trụ sở của Draper Gaither & Anderson. Văn phòng của chúng tôi nằm ở số 780 đường Welch. Tôi không thích tên của con đường này lắm vì công việc làm ăn của chúng tôi phụ thuộc vào việc gây dựng danh tiếng nhờ chữ tín và chẳng hề “welching” (chạy làng) hay lươn lẹo chút nào. Bức tường mặt tiền ở văn phòng của chúng tôi được làm toàn bộ bằng kính vì thế các mẹ của bọn trẻ có thể dừng lại ở bên đường, bấm còi, gọi với lên hoặc vẫy tay chào chúng tôi mỗi lần đi ngang qua Welch.
Đó là hoạt động duy nhất của chúng tôi trong thời gian đầu. Trong khi Draper Gaither & Anderson được nhiều người biết đến, có ảnh hưởng tích cực và những thương vụ làm ăn lớn liên tiếp đổ về thì chúng tôi dường như chỉ giậm chân tại chỗ.
Vì thế chúng tôi quyết chuyển sang chiến dịch kinh doanh lưu động. Chúng tôi thuê hai chiếc Pontiac từ một người bán đồ cũ ở đại lộ Avenue, San Francisco. Với sự tự tin của tuổi trẻ và có
phần mơ hồ, chúng tôi hướng đến các vườn cây ăn quả ở Sunnyvale, Santa Clara và San Joe. Dọc đường, chúng tôi đi ngang qua một tòa nhà có cái tên “hơi công nghệ” và quyết định lái xe thẳng vào bãi đỗ – không lát đá – tiến vào trong tòa nhà và hỏi nhân viên lễ tân ở đây rằng liệu chúng tôi có thể nói chuyện với giám đốc công ty hay không?
“Để tôi xem ông ấy có đây không,” nhân viên lễ tân đáp lại với giọng điệu đều đều. “Các anh làm gì cơ? Đầu tư mạo hiểm ư?”
Ngay sau đó, chúng tôi chạm mặt với một người đàn ông trẻ năng động khoảng tầm tuổi mình ở hành lang.
“Các anh nói các anh làm gì cơ? Đầu tư mạo hiểm ấy hả?”
“Đúng vậy, chúng tôi thường đầu tư các khoản tiền nhỏ vào các công ty tư nhân, hy vọng rằng nguồn vốn đó sẽ sinh lời và chúng tôi sẽ nhận được cổ phần của công ty sau khi giúp họ bằng bất cứ cách nào có thể.”
“Ồ. Sao mấy anh không vào văn phòng tôi để tôi cho các anh biết chúng tôi làm ăn thế nào nhỉ?”
Từ sáng đến tối, ngày này qua ngày khác, Pitch và tôi làm những việc tương tự như thế. Vì vậy, chúng tôi điểm mặt được hầu hết các doanh nghiệp nhỏ ở thung lũng Silicon tương lai này. Trước đó một thời gian khá dài, chúng tôi bắt đầu nhận được các cuộc điện thoại từ cả các doanh nhân tiềm năng lẫn các nhân viên ngân hàng. Qua một cuộc hành trình liên tục, chúng tôi trở nên nổi tiếng và được các doanh nghiệp công nghệ nhỏ trên bán đảo này biết đến và thậm chí cộng đồng ngân hàng đầu tư San Francisco phát hiện ra rằng họ có thể tiết kiệm được một chuyến đi bằng cách gọi cho chúng tôi. Thực tế, hai trong số những nhà đầu tư này, John Bryan và Bill Edwards, đã trả cho chúng tôi 1.000 đô-la một tháng để cho họ hùn vốn trong các vụ làm ăn của chúng tôi. Họ là những người bạn tốt và thật hào phóng nhưng hóa ra họ lại thu được lợi nhuận từ việc làm đó.
p g g ọ ạ ợ ợ ậ ệ Càng về sau, càng có nhiều doanh nhân trực tiếp đến gặp chúng tôi. Một hôm, một người đàn ông xuất hiện trong văn phòng của chúng tôi, đưa cho tôi và Pitch xem một vật dụng bằng nhựa giống như chiếc dĩa để giữ một cuộn chỉ nha khoa. Cả hai chúng tôi trước nay đều chưa từng sử dụng chỉ nha khoa và cũng không biết ai là người làm ra nó cho đến tận khi kế toán của chúng tôi nghe thấy tôi và Pitch nói chuyện về nó.
“Ồ. Tối nào tôi cũng dùng chỉ nha khoa,” nữ nhân viên kế toán nói.
“Tối nào cũng vậy?” Không thể tin được. Bạn có thể học được những điều thú vị khi bạn là một nhà đầu tư mạo hiểm.
Cô ấy mang vật dụng nhỏ đó về nhà và sử dụng nó hàng tối trong vòng một tuần và nói với chúng tôi rằng cô ấy thích nó. Chúng tôi gọi điện cho người phát minh ra nó và đồng ý đầu tư 1.000 đô-la để anh ta mua vé máy bay đến gặp một người bạn của tôi, Wally Abbott, ở Procter & Gamble. Wally lúc đó là phó chủ tịch hội đồng quản trị của Procter & Gamble và mặc dù là một người rất nhạy bén nhưng không biết lý do gì mà anh ấy kết luận rằng P&G không cần thiết phải cấp phép cho vật dụng huyền diệu này. Chúng tôi mất 1.000 đô-la nhưng Pitch và tôi kể từ đó đều sử dụng chỉ nha khoa mỗi ngày.
Khoản đầu tư đầu tiên của chúng tôi ở Draper & Johnson chỉ là 60.000 đô-la – một khoản tiền khá nhỏ, nhưng đó là mức tối đa mà chúng tôi có thể đầu tư vào một doanh nghiệp do các quy định của SBIC. Chúng tôi nói với Joe Giulie, doanh nhân vừa được chúng tôi đầu tư rằng, mặc dù bị giới hạn về mức tiền đầu tư nhưng chúng tôi muốn có được ít nhất 25% cổ phần của Illumitronics, hoặc nếu không chúng tôi sẽ để anh ta đi tìm kiếm cơ hội đầu tư khác. Anh ta thích hợp tác với chúng tôi cũng như chúng tôi ấn tượng với anh ta và các sản phẩm của Illumitronics – vì thế trước đó, chúng tôi đã đến thăm trụ sở của công ty. Guilie là người rất năng động, hòa nhã và nghiêm túc:
Sự kết hợp hiệu quả đối với một nhà điều hành doanh nghiệp nhỏ. Anh ta chế tạo ra một thiết bị kiểm tra trọng lượng của bất kỳ sản phẩm nào – một hộp súp, một hộp xà phòng hoặc một hộp thạch – khi các sản phẩm này vẫn còn đang ở trên băng chuyền. Nếu sản phẩm chưa đủ cân nặng, nó sẽ tự động bị tách ra khỏi băng chuyền mà không làm chậm quy trình sản xuất. Joe có vài khách hàng nhưng cần thêm tiền cho các hoạt động marketing nhằm tận dụng tối đa lợi thế của của vị trí tiên phong trong một thế giới tự động hóa biến đổi không ngừng. Chúng tôi cũng khuyên Giulie thuê một CFO. (Chúng tôi là các nhà xây dựng doanh nghiệp thay vì chỉ là các nhà đầu tư đơn thuần. Chúng tôi nhận thấy Giulie có thể tiến xa hơn nữa nếu như có thêm sự hỗ trợ của các cộng sự.) Cuối cùng, chúng tôi quyết định thuê một CFO đầy tài năng, Hank Riggs, giáo sư tài chính tại Đại học Stanford lúc đó và là hiệu trưởng trường Cao đẳng Harvey Mudd sau này.
Tuy nhiên, Illumitronics cũng giống như nhiều công ty mới thành lập khác chỉ xẹt qua thế giới đầu tư mạo hiểm. Doanh số, lợi nhuận và cơ cấu quản lý của nó đều ổn định nhưng công ty vẫn làm ăn làng nhàng. Doanh nghiệp vẫn có thể duy trì được hoạt động của mình nhưng nó lại là một vụ đầu tư không thành công đối với các nhà đầu tư mạo hiểm và tiềm ẩn rủi ro. Pitch và tôi quyết định bán cổ phần để hoàn vốn. Công bằng mà nói, chúng tôi đã rất vui khi đầu tư vào Illumitronics, giúp đỡ được Giulie và công ty của mình đồng thời có một tình bạn đẹp với Hank. Tất cả chúng tôi đã phá vỡ tảng băng ngăn cách bằng việc thực hiện vụ đầu tư đầu tiên của mình, bạn không thể trở thành người chơi đến tận khi bạn dám đánh cược.
Electroglas là một công ty được Draper & Johnson đầu tư trong thời kỳ đầu. Công ty này do Arthur Lasch thành lập. Lasch là một kỹ sư sáng tạo và thông minh, anh đã dành những năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp để làm việc cho Fairchild Semiconductor – một công ty được đánh giá là mạch nguồn trong công cuộc cải cách thông minh. Lasch chuyên thiết kế lò khuếch tán sử dụng
trong quá trình sản xuất các thiết bị bán dẫn. Nhưng giống như nhiều chuyên gia kỹ thuật tài năng khác, Lasch hoàn toàn không có kỹ năng quản lý và sự nhạy bén kinh doanh, do đó anh cần một CEO để điều hành công ty.
Thật trùng hợp, trong lúc đang tìm hiểu về các kế hoạch của Lasch để thu hút khách hàng, quản lý sổ sách và giảm giá thành, v.v... tôi nhận được một cuộc điện thoại rất thú vị. “Xin chào ngài, tôi là Chuck Gravelle. Tôi muốn đầu tư vào một trong những công ty của ngài. Chúng ta có thể nói chuyện một lát được không?”
Pitch và tôi đồng ý gặp anh ta và ngay sau đó, Chuck xuất hiện ở văn phòng chúng tôi tán gẫu như thể chúng tôi đã là bạn lâu năm vậy. Chuck rất đẹp trai, dáng người dong dỏng cao và cũng tầm tuổi như chúng tôi. Cậu ấy khá cởi mở, tự tin và nhanh chóng gây được thiện cảm và trở thành một trong những người bạn thân nhất của tôi và Pitch.
“Câu chuyện của tôi có hơi khác một chút,” Chuck tâm sự. “Tôi đến từ Minnesota và vừa mới từ chức phó giám đốc marketing của một nhà sản xuất thuyền máy. Đó là một công ty nhỏ do một người làm chủ kiêm điều hành hoạt động và việc kinh doanh chỉ diễn ra trong vùng, cung cấp cho những người sử dụng thuyền máy ở các hồ tại Minnesota. Chủ công ty chi cho tôi 25.000 đô-la/năm để quảng cáo và tôi dùng toàn bộ số tiền đó để đăng quảng cáo nguyên trang trên tạp chí Life.”
Tôi biết rằng cả tôi và Pitch đều có suy nghĩ như nhau lúc này đó là: Gã này có khí phách. Tiếp đến là: Hắn có thể đang khoác lác.
“Thế rồi sao?” tôi hỏi, cố gắng che giấu sự hoài nghi của mình.
“Ồ,” anh ta đáp,“sự thật là tôi cũng kiếm chác được kha khá tiền từ quảng cáo đó và vợ chồng tôi không còn hứng thú với thành phố trung lưu nhỏ bé ở Minnesota nữa. Vì thế, chúng tôi chuyển đến bờ Tây này và giờ thì đang ngồi đây.”
y y g g g y
Anh ta đã gây ấn tượng với chúng tôi ở điểm này. “Ồ, thế nội dung của quảng cáo đó là gì vậy?” tôi hỏi.
Anh ta cười khoái trá. “Tôi đặt một bức ảnh về chiếc thuyền, phiếu đăng ký trở thành nhà cung cấp của công ty cùng với một mẫu đơn đặt hàng có đầy đủ giá cả. Chúng tôi dường như bị ngập lụt với các đơn đặt hàng và mở rộng được mạng lưới cung cấp trên cả nước chỉ sau một đêm.”
“Chuck,” tôi nói và cười lớn,“cậu có muốn điều hành một công ty chuyên kinh doanh lò khuếch tán không?”
Thành lập Sutter Hill Ventures
Pitch Johnson và tôi đầu tư vào hơn 10 công ty trong khoảng thời gian từ năm 1962 đến 1965. Các khoản đầu tư cũng như lợi nhuận thu về của chúng tôi đều không đáng kể nhưng có thể hỗ trợ phần lớn các công ty của mình theo cách này hay cách khác. Kinh nghiệm điều hành của Pitch là vô giá đối với các doanh nhân vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Sau ba năm làm việc cùng nhau, Pitch nói với tôi rằng anh ấy thấy bồn chồn và muốn tìm một công ty để đầu tư và điều hành đồng thời muốn trở thành một “cầu thủ” hơn là “huấn luyện viên”. Tôi buộc phải tìm hướng đi tiếp theo cho mình.
Sutter Hill là một công ty chuyên phát triển các trung tâm mua sắm, không xa trụ sở công ty chúng tôi ở Palo Alto, do Frank Lodato và người anh rể là Greg Peterson thành lập cách đây vài năm. Cả hai đều là sinh viên Stanford và là bạn của chúng tôi. Họ đã gây vốn thông qua “Điều A”, Bộ luật Chứng khoán Mỹ, điều luật chỉ cho phép các doanh nghiệp hoạt động với dưới 100 cổ đông nhưng đó cũng là cách đơn giản để huy động đủ vốn – một vài triệu đô-la – nhằm đưa công ty đi vào hoạt động. Các trung tâm mua sắm của họ đều rất phát triển và có uy tín nhưng Greg và Frank cũng rất hào hứng với việc đa dạng hóa đầu tư. Chúng tôi biết rằng họ đã nộp đơn và nhận được giấy
g g ọ ộp ậ ợ g y phép SBIC để đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ. Họ vừa mới thuê Paul Wythes, đồng môn cao học Stanford của Greg Peterson để hỗ trợ họ thực hiện kế hoạch.
Tôi gọi cho Frank Lodato và nói, “Tôi biết anh và Greg muốn tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và đã thuê người để thực hiện điều đó.”
“Đúng,” Frank đáp lại, “và chúng tôi cũng đã đầu tư được một vài vụ rồi”.
“Ồ, nếu thế chúng ta hợp tác cùng nhau thôi,” tôi gợi ý. “Chúng tôi có nhiều đầu mối đầu tư khả thi nhưng không có máy Xerox và không có lễ tân. Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm còn các anh có nhiều tiền.” Mọi chuyện diễn ra đơn giản như thế và chỉ một vài tuần sau đó chúng tôi bắt tay cộng tác với nhau.
Pitch và tôi trả hết nợ nần và có được một số cổ phiếu trang trải cho công ty mới. Về vấn đề này, mỗi người đều có những quan điểm riêng nhưng chúng tôi vẫn mãi là những người bạn thân. Pitch không bao giờ mua và điều hành một công ty nào nhưng sau đó cậu ấy cũng thành lập một công ty đầu tư mạo hiểm riêng, công ty Quản lý Tài sản (Asset Management Company). Pitch đã thực hiện nhiều vụ đầu tư và thu về nhiều thành công lớn trong đó phải kể đến lần hợp tác với Bill Bowes trong vụ đầu tư vào Amgen – một người khổng lồ trong lĩnh vực thực phẩm chức năng.
Tôi trở thành Tổng Giám đốc của Sutter Hill Capital Company (SBIC), Paul Wythes trở thành Phó Tổng giám đốc và chúng tôi đã cùng nhau xây dựng nên một thương hiệu vững mạnh với cái tên Sutter Hill. Cả Frank Lodato và Greg Peterson đã gợi ý hợp nhất và giữ nguyên tên Draper & Johnson nhưng tôi thích cái tên họ đã nghĩ ra. Thực tế, sau này khi trả hết nợ cho SBIC và bắt đầu điều hành một công ty đầu tư mạo hiểm cổ phần mới, chúng tôi vẫn quyết định giữ tên công ty là Sutter Hill Ventures.
Frank là người đã đưa ra gợi ý về cái tên “Sutter Hill,” và nói với tôi ý tưởng kết nối hình ảnh mỏ vàng của John Sutter (nơi diễn ra cuộc bãi công vàng lớn đầu tiên ở California và cơn sốt vàng năm 1849) với vẻ đẹp của 7 ngọn đồi ở San Francisco.
Sutter Hill làm ăn rất phát đạt, một phần do không gặp phải cạnh tranh. Arthur Rock và cộng sự cũ của mình là Tommy Davis, người sau này thành lập Mayfield, là một công ty đầu tư mạo hiểm thành công khác, đối thủ cạnh tranh duy nhất của Sutter Hill lúc đó ở vùng Vịnh này. Tuy nhiên, khi ngày càng phát triển và mở rộng, chúng tôi đều thấy cơ cấu của SBIC thể hiện những hạn chế cố hữu. Năm 1969, chúng tôi cũng đã đầu tư vào một vài doanh nghiệp khá thành công bao gồm Diablo và Century Data – những công ty sản xuất ổ cứng thời kỳ đầu – và Kasper Instruments, công ty máy khắc hình vi mạch đầu tiên hỗ trợ ngành công nghiệp bán dẫn. Chúng tôi sớm nhận ra rằng uy tín của Sutter Hill đang ngày càng tăng và rằng chúng tôi đang cần thêm vốn nếu muốn đầu tư thêm cho danh tiếng của mình.
“Nếu anh cần thêm tiền, hãy gọi cho tôi,” Charlie Mayer, một người bạn của tôi đã nói vậy khi chúng tôi cùng đạp xe lòng vòng trong khuôn viên Đại học Stanford yên bình. “Công ty của tôi, Société Générale de Belgique muốn đầu tư vào công nghệ và tôi vừa nói với họ về anh,” cậu ấy nói.
Charlie cùng vợ chồng tôi tới thăm địa điểm sau này trở thành “thung lũng Silicon”. Cậu ấy cảm thấy chuyến đi xe đạp đặc biệt đó thật long trọng và thiêng liêng – ít nhất là đến khi chúng tôi trở về con đường không lát đá dẫn vào nhà tôi ở Atherton, nơi chiếc xe của anh ấy bị trượt bánh trong khi Charlie cố gắng thực hiện một cú ngoặt lái đột ngột. Anh ấy ngã chúi vào một đống cát và thét lên đau đớn. Charlie được sinh ra ở Áo, và nói được hai thứ tiếng – cùng với tư duy Phi Beta Kappa11 của mình – anh ấy tuôn ra một tràng chửi thề chủ yếu liên quan đến việc tôi đã
để anh ấy sử dụng một chiếc xe nguy hiểm và vì không lát đá cho lối vào nhà mình.
Ba mươi phút sau đó, những vết trầy xước đã được băng bó lại và chúng tôi cùng ngồi nhâm nhi trà đá trong phòng khách nhà tôi. Anh ấy nhắc lại lời nói của mình trước khi tai nạn: “Đừng quên gọi cho tôi nếu cậu cần tiền nhé.”
Một thời gian ngắn sau đó, tôi buộc phải gọi cho Charlie. Hơn một tháng sau, Max Nokin, chủ tịch của Société Générale de Belgique, lúc đó ngồi đối diện với tôi trong một bữa tiệc chiêu đãi của Viện Nghiên cứu Stanford. Ông nói với tôi rằng sau khi xem xét báo cáo của Charlie, ông rất hứng thú đầu tư vào Sutter Hill. Tuy nhiên khó khăn ở chỗ, ông giải thích, Société là một công ty cổ phần và tất cả các khoản đầu tư của nó đều phải thông qua sự phê duyệt của Genstar, một trong những cổ đông Canada của họ. Vì thế tôi sẽ phải nói chuyện với Genstar.
Do vậy, tôi đã tự tìm đến văn phòng của Genstar, nằm ở tầng cao nhất của cao ốc One Place Ville Marie ở Montreal. Với tư cách là Giám đốc của công ty xây dựng, cung cấp các vật liệu xây dựng và xi-măng lớn nhất Canada – độc quyền các hoạt động của hệ thống tàu kéo Canada ở cả hai bờ biển – Genstar chắc chắn có thừa nguồn lực để đầu tư vào Sutter Hill Ventures. Nhưng liệu họ có tầm nhìn, bản năng dám mạo hiểm và tinh thần nắm bắt cơ hội để tham gia vào lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở khu vực San Francisco này hay không? Tôi vừa hy vọng lại vừa hoài nghi.
Cuộc gặp mặt diễn ra suôn sẻ. “Chúng tôi rất quan tâm và có hứng thú,” Angus MacNaughton, vị Giám đốc năng động, tài năng và trẻ trung của Genstar nói khi chúng tôi ngồi trong văn phòng của ông trên tầng 28 của tòa cao ốc đồ sộ nhất Montreal. “Khi nào tôi có thể đến thăm và có thể ‘bơm căng’ lốp một số ‘chiếc xe’ công nghệ của anh?”
Tôi cười và nói: “Bất cứ khi nào anh muốn nhưng chúng tôi không có ‘lốp’ mà cũng chẳng có ‘bơm’.”
MacNaughton đáp lại, “Ồ, tôi là một người khá cứng nhắc, nhưng tôi muốn tận mắt nhìn thấy những gì các anh đang có và đặc biệt tôi chưa bao giờ đến California. Còn giờ thì hãy đến gặp chủ tịch của chúng tôi nào.” Sau bữa trưa vui vẻ và khá thoải mái với chủ tịch hội đồng quản trị Genstar, tôi có cảm giác rằng, chúng tôi sắp sửa đề được tên Sutter Hill trên bản đồ. Cả hai người đàn ông đều rất nhiệt tình với việc đầu tư. Tất cả những gì chúng tôi phải làm bây giờ là thuyết phục MacNaughton rằng Sutter Hill đang đầu tư chính đáng và có thể thu về lợi nhuận. Tôi nghĩ rằng điều này chẳng khó khăn lắm nếu chuyến đi của anh ta đến California suôn sẻ.
MacNaughton đến California vài tuần sau đó. Sau khi giới thiệu anh ta với một số công ty trong danh mục vốn đầu tư của mình ở khu vực Vịnh, Paul Withes và tôi quyết định đưa anh ta xuống Nam California để giới thiệu một vụ đầu tư có vẻ rất hấp dẫn với chúng tôi. Duplicon do một doanh nhân người Anh thành lập, người có tham vọng đánh bật ông chủ cũ của mình là Xerox khỏi thị trường bằng một chiếc máy copy mới thú vị. Chiếc máy này hứa hẹn sẽ nhanh hơn, rẻ hơn, hiệu quả hơn và có thiết kế mới đẹp hơn.
Háo hức chỉ cho chúng tôi xem chất lượng của chiếc máy, doanh nhân người Anh này nói, “Ngài MacNaughton, ngài có thể cho tôi mượn 1 đô-la được không? Tôi sẽ sao chép nó”. Đến bây giờ, MacNaughton vẫn nhất quyết bảo rằng lúc đó ông đã đưa ra chi phiếu 100 đô-la; còn tôi thì quả quyết rằng đó chỉ là tờ 1 đô-la. Tất cả chúng tôi đều hồi hộp chờ đợi khi chiếc máy được bật lên.
Bất ngờ, toàn bộ chiếc máy bốc lửa cháy khét lẹt và khói tỏa ra mù mịt. Một ai đó – chắc chắn không phải là tôi – đã tỉnh táo vớ lấy chiếc bình cứu hỏa và nhanh chóng dập tắt ngọn lửa. Nhưng
chiếc máy, trong chớp mắt, cùng tờ chi phiếu của MacNaughton đều cuốn theo làn khói!
Tôi biết rằng, thế là hết. Khi đi ra xe ô tô để chuẩn bị về, tôi phân trần,“Angus, anh biết đấy, có những thứ không phải lúc nào cũng như kế hoạch trong đầu tư mạo hiểm. Thực tế, các bản mẫu của những sản phẩm mới hầu như không bao giờ chuẩn xác như thiết kế. Tuy vậy, tôi phải thừa nhận rằng chưa bao giờ nhìn thấy một bản mẫu bốc cháy như thế này.” Với nụ cười rất vô tư, Paul đùa rằng việc nhanh chóng thoát ra khỏi Duplicon sẽ cho chúng tôi thêm thời gian để ăn trưa.
Cuối cùng, các kỹ sư của Duplicon đã thực hiện một số thao tác thay đổi quan trọng trong thiết kế của chiếc máy phô tô và chúng tôi có thể bán công ty để thu lời chỉ một thời gian ngắn sau đó.
MacNaughton không hề nao núng trước rủi ro của chúng tôi. Vài tháng sau, ông đầu tư 10 triệu đô-la – tương đương khoảng 58 triệu đô-la theo tỷ giá hiện nay – vào Sutter Hill Ventures. Thật tuyệt khi mọi chuyện kết thúc tốt đẹp. Chúng tôi nhận được tiền đầu tư. Genstar đã trả hết các khoản nợ của SBIC vì vậy chúng tôi thu được giấy phép SBIC và số cổ phần này được chuyển sang quyền sở hữu của Genstar dù chúng tôi vẫn tiếp điều hành công ty. Ngay sau đó, chúng tôi bắt đầu điều hành công ty cổ phần mới, Sutter Hill Ventures, với 10 triệu đô-la ban đầu từ Genstar.
Genstar sẽ nhận được 80% lợi nhuận khi là cổ đông góp vốn còn chúng tôi nhận được 20% với tư cách cổ đông điều hành. Công ty duy trì mức 35% lợi tức thực tế (IRR) kể từ khi bắt đầu được thành lập vào năm 1965. Theo Angus MacNaughton, mức vốn đầu tư 10 triệu đô-la của Genstar sẽ thu về 1 tỷ đô-la trước khi họ bán cổ phần của mình. Ngày nay, cùng với các nhà đầu tư như Yale, Princeton, Stanford, và MIT, Sutter Hill vẫn tiếp tục là một trong những công ty đầu tư mạo hiểm hàng đầu ở Thung
lũng Silicon này và đã thành lập hàng trăm công ty thành công khác cũng như mang về hàng tỷ đô-la lợi nhuận cho các cổ đông của công ty.
Sáu thương vụ đầu tư đầu tiên của Tim Draper
Năm 1981, Tổng thống Ronald Reagan chỉ định tôi trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ (Ex-Im Bank). Tôi đã không đề cập đến con đường tiếp cận chính trị những ngày đầu của mình – mối duyên cơ ràng buộc tôi với Reagan và các đảng viên Cộng hòa xuất chúng khác nhưng tôi sẽ đề cập đến khoảng thời gian này trong các chương sau.
Tôi không có nhiều thời gian để chuẩn bị bởi việc đó đến quá đột ngột. Tôi nhanh chóng đóng gói hành lý và lên đường. Phyllis sẽ thu xếp công việc và đến ngay sau để ổn định cuộc sống mới – lần này là ở thủ đô. Ngồi trên máy bay chuẩn bị hành trang bắt đầu một chương mới của cuộc đời, tôi bồi hồi nhớ lại quãng thời gian hơn 20 năm cống hiến sức mình trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm. Tôi vô cùng tự hào về Sutter Hill, những thành công mà chúng tôi đã đạt được và cả những người bạn tuyệt vời mà chúng tôi kết giao. Tôi hoàn toàn tự tin rằng Paul Wythes, Len Baker, Dave Anderson và Bill Younger có thể gánh vác công việc và tiếp nối truyền thống thành công cũng như duy trì thương hiệu của công ty.
Sau đó, tôi nghĩ đến con trai mình, Tim. Tôi cảm thấy rất có lỗi. Ôi, con trai, tôi tự nhủ, một nỗi tủi hổ trào dâng. Tôi “bỏ rơi” nó, để nó phải tự mình quản lý Draper Associates mà chẳng hướng dẫn cũng như cho nó bất kỳ một lời khuyên nào. Draper Associates là một quỹ đầu tư nhỏ mang tính chất gia đình với 6 vụ đầu tư của cá nhân tôi. Tính đến thời điểm đó, Tim hầu như không có chút kinh nghiệm nào về đầu tư mạo hiểm và tôi đã đột ngột đẩy nó vào tình huống hoặc là tự bơi hoặc là sẽ chìm.
Chính những điều này đã thổi bùng lên sự tủi hổ lẫn nỗi lo lắng trong tôi. Trước đây tôi luôn nhận được sự ủng hộ cũng như những lời tư vấn từ cha tôi trong những năm đầu tiên mới chập chững vào nghề còn giờ đây tôi thấy mình đang bỏ rơi chính con trai mình.
Nhưng tôi tự nhủ rằng Tim là một thanh niên có năng lực và thông minh hơn người. Tim tốt nghiệp khoa kỹ thuật điện tử Đại học Stanford và tốt nghiệp MBA Harvard, đã từng có kinh nghiệm vài năm làm việc cho Hewlett-Packard và hai năm nữa ở ngân hàng đầu tư Alex. Brown & Sons. Vì vậy có lẽ tôi không nên lo lắng quá. Tim có thể sẽ xuôi được theo dòng thác chưa từng được thám hiểm mang tên “đầu tư mạo hiểm”.
Trong bất cứ tình huống nào, Tim luôn là chính mình. Lịch làm việc của tôi ở Washington dày đặc. Vì thế phải 1 năm rưỡi sau đó – tôi và Phyllis mới có thời gian quay lại California để nghỉ ngơi và hai cha con tôi mới có cơ hội gặp kế toán Morey Greenstein, để xem xét và thảo luận về lợi nhuận của những khoản đầu tư mà Tim đã thực hiện trong suốt thời gian qua ở Draper Associates. Có 6 thương vụ tính đến thời điểm đó. Greenstein đề nghị Tim lần lượt nói sơ qua về tình trạng của từng khoản đầu tư.
Đã hơn 25 năm qua đi nhưng trong tâm trí tôi, hình ảnh Tim chăm chú dán mắt vào cuốn sổ kế toán có ghi tên từng công ty lúc đó không bao giờ có thể phai mờ. Nó chậm chạp lia ngón trỏ đến các dòng. Vừa làm, Tim vừa đọc to tên và tình trạng của mỗi công ty. Theo tôi nhớ thì năm công ty đầu tiên tình trạng là: “sập tiệm”, đang có nguy cơ phá sản, phá sản, hầu như không cứu vãn được, không được tốt lắm.
Ừm, ồ! Tôi tự nhủ.
“Thế còn vụ thứ sáu thì sao, Tim?” Tôi hỏi, cố gắng nén tiếng trống ngực đập liên hồi.
Nó ngước lên và ngừng lại. “Home run!”, Tim tuyên bố, cười toe toét, nụ cười vốn đã trở thành “thương hiệu” riêng của nó. Tim đã mạo hiểm đầu tư vào một số công ty mới và thậm chí năm trong sáu vụ đầu tư thất bại, nhưng vụ thứ sáu – Parametric Technology – đủ “nuôi” những vụ còn lại, thậm chí thêm vài vụ nữa. Parametric Technology hiện nay đang hoạt động rất tốt và thu về khoảng 1 tỷ đô-la lợi nhuận hàng năm.
Trong ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm, nếu chúng ta đạt được 1/10 thành công thì đó là một kết quả không tồi nếu thành công duy nhất đó mang lại giá trị lợi nhuận cao. Tỷ lệ 1/6 thì khá hơn. Kinh nghiệm của Tim cho thấy một người trẻ hoàn toàn có thể thành công trong ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm với một khoản tiền nhỏ, sẵn sàng “gạn đục, khơi trong” để chắt lọc được tinh hoa cuối cùng, chấp nhận rủi ro và “kiểm định” được tiềm năng của các doanh nhân khác nhau. Đó cũng là bằng chứng cho thấy sự may mắn góp một phần không nhỏ trong thành công của mỗi người nhưng câu cách ngôn xuất hiện trong tâm trí lúc này: Cốc mò, cò xơi.
Tôi may mắn được học hành đến nơi đến chốn. May mắn được đặt chân đến thung lũng Silicon trong những ngày đầu tiên của ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm non trẻ. May mắn vì có một người cha vĩ đại. Càng may mắn hơn khi được làm việc với những cổ đông điều hành lẫn cổ đông góp vốn xuất sắc. Và may mắn khi đội ngũ chúng tôi gặp được những doanh nhân mới khởi nghiệp vô cùng tài năng và đặc biệt là chúng tôi có thể hỗ trợ cũng như giúp đỡ lẫn nhau.
May mắn thực sự là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhưng tôi không khuyên bất cứ người trẻ tuổi đam mê nào trở thành một nhà đầu tư mạo hiểm tin tưởng hay đổ thừa cho số phận. Hãy làm việc chăm chỉ, làm việc thông minh và chắc chắn may mắn sẽ gõ cửa. Mỗi chúng ta đều có những tính cách và điểm đặc trưng riêng, tuy nhiên vấn đề là bạn phải làm sao để
phát huy thế mạnh của bản thân hoặc khai thác thế mạnh của người khác.
2
ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐƯỢC TIẾN HÀNH RA SAO?
Bí mật lớn nhất trong cuộc sống đó là không có bí mật nào cả. Cho dù mục tiêu của bạn là gì, bạn có thể đạt được nó nếu bạn đam mê làm việc.
– Oprah Winfrey
T
rong chương này, tôi sẽ đi sâu vào phân tích ngành thương mại đầu tư mạo hiểm đương đại cùng với những điều, theo tôi, là năm khía cạnh quan trọng:
1. Người cấp vốn
2. Đội ngũ doanh nhân
3. “Tiếp thị”, sản phẩm và thị trường
4. Hợp đồng
5. Mối quan hệ
Những độc giả tinh ý chắc hẳn đã ghi chú lại cách tiếp cận tình cờ theo thời gian của tôi trong chương này. Tôi sẽ mô tả các kinh nghiệm của cha tôi và bản thân mình cả trước và sau 10 năm “biến mất” của tôi để dành thời gian cho các sự nghiệp hành chính công. Tôi cũng sẽ nhắc đến những kinh nghiệm của con trai tôi, Tim, một phần vì nó hiểu biết về tình hình hiện nay của ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm hơn tôi. Tuy nhiên, như đã
được chứng minh thì 5 nhân tố được liệt kê ở trên là những nhân tố không đổi trong nhiều thập kỷ.
Trong chương này, bạn đọc sẽ biết đến các quan điểm của tôi theo trình tự thời gian. Đôi khi có những câu chuyện sẽ hấp dẫn hơn nếu nó được nhìn nhận theo quan điểm của nhà đầu tư mạo hiểm; nhưng sẽ khách quan hơn nếu thừa nhận quan điểm của các doanh nhân. Cuối chương, tôi sẽ tổng kết 10 sai lầm có thể tránh được mà các doanh nhân hay mắc phải, và tôi mong muốn danh sách này sẽ mang đến cho bạn đọc một cái nhìn sống động hơn về thế giới dưới góc nhìn của các nhà đầu tư mạo hiểm và phương thức hoạt động của các doanh nhân.
Người cấp vốn
Giả sử bạn là một doanh nhân đang tìm kiếm cách gây quỹ cho doanh nghiệp của mình – quỹ đầu tư mạo hiểm – hoặc chính bạn là một nhà đầu tư mạo hiểm tương lai. Vậy phép bình quân về vốn sẽ được thực hiện ra sao?
Đầu tiên, trước đây, các quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên (chúng ta tạm sử dụng thuật ngữ này) xuất hiện ở New York và là những phương tiện cần thiết để một gia đình giàu có độc nhất – như gia đình Rockefeller hay Whitney – đầu tư các nguồn lực của mình với mong muốn thu được mức lợi nhuận cao hơn bình thường. Kể từ đó, các gia đình này phát hiện ra rằng những khoản lợi nhuận kiểu này chủ yếu có được thông qua khoản đầu tư giai đoạn đầu vào các công ty chưa chính thức xuất hiện trên thị trường cạnh tranh. Khi những công ty mới khởi nghiệp này thực sự đi vào hoạt động, hoặc được “thanh khoản” thành công, thì gia đình Rockerfeller và Whitney có thể thu về lợi nhuận – và vì một lý do nào đó, còn dư để bù lỗ cho những vụ đầu tư mạo hiểm thất bại khác. Một vài trong số những vụ đầu tư này (như Minute Maid và Eastern Airlines) là những cú hit lớn trong khoảng thời gian này.
Ngay sau đó, hàng loạt các công ty đầu tư mạo hiểm theo hình thức gia đình ra đời. American Research & Development có trụ sở ở Boston (ARD) do Tướng Doriot thành lập là công ty đầu tư mạo hiểm tự do đầu tiên (không phải gia đình) ở Mỹ. Một quyết định chiến lược làm đau đầu Doriot và các cộng sự của ông vì nó hạn chế phần lớn những lựa chọn chiến lược của họ. Công ty của cha tôi – Draper Gaither & Anderson – là công ty cổ phần đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên thế giới với các cổ đông điều hành và cổ đông góp vốn. Việc thành lập và điều hành công ty theo hướng này khiến ARD thường xuyên phải đối mặt với những ràng buộc điều tiết và quan trọng hơn tránh được những khó khăn khó lường khi cố gắng định giá cổ phiếu tư nhân cho các cổ đông công.
Ngày nay, tiếp tục có những quỹ đầu tư gia đình sử dụng tài sản tư nhân để rót vốn cho các hoạt động đầu tư mạo hiểm. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau – yếu tố quan trọng nhất dẫn đến việc ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm chao đảo – họ chỉ đầu tư một khoản tiền nhỏ vào các quỹ đầu tư mạo hiểm hàng năm. Ngày nay, tất cả khoản tiền đầu tư này đều từ các công ty cổ phần đầu tư mạo hiểm, thay vì các công ty liên doanh hay các gia đình. Vào năm 1994, ngành công nghiệp này được mở cửa khi bộ luật thay đổi và cho phép các nhà quản lý quỹ hỗ trợ đầu tư vào các công ty cổ phần đầu tư mạo hiểm.
Hình thức cổ phần của các công ty đầu tư mạo hiểm rất đơn giản: Những cổ đông góp vốn đầu tư tiền và các cổ đông điều hành điều hành doanh nghiệp. Hình thức này cũng tương tự như khi các công ty đầu tư mạo hiểm và các doanh nhân thành lập một công ty mới. Các công ty này đầu tư toàn bộ tiền còn các doanh nhân thực hiện hầu hết các công việc.
Draper Gaither & Anderson là một công ty cổ phần trong đó các cổ đông góp vốn – gia đình Rockefeller, công ty dịch vụ tài chính tư nhân Lazard Frères sau này và một vài cá nhân khác – đầu tư tổng số tiền 6 triệu đô-la để đổi lại 60% cổ phần của công ty. Cha
tôi và các cổ đông điều hành khác – Rowan Gaither, Fred Anderson và Larry Duerig – chia nhau 40% “cổ phần” tương ứng với lợi nhuận. Những cổ đông điều hành nhận được một khoản tiền tương ứng với 2,5% của 6 triệu đô-la (khoảng 150.000 đô
la) để trang trải các khoản chi phí gián tiếp của họ (công tác phí).
Đây là cấu trúc được hàng trăm công ty đầu tư mạo hiểm quy mô lớn nhỏ trên thị trường ngày nay áp dụng. Những khoản phí này ở vào khoảng từ 1% đến 2,5% và cổ phần của họ chiếm từ 20% đến 30% nhưng các nguyên tắc đều như nhau. Thật khó tin rằng ngày nay, thậm chí sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm vẫn quản lý hơn 200 tỷ đô-la và nhiều công ty đầu tư mạo hiểm vẫn có hàng trăm triệu đô-la, thậm chí là hàng tỷ đô-la để đầu tư.
Vì những lý do thuế quan, các cổ đông điều hành phải đầu tư ít nhất 1% tổng số tiền gây quỹ cho bất kỳ tổ chức được đề xuất nào với tư cách cổ đông góp vốn. Ngày nay, một câu hỏi đặt ra là liệu các cổ đông điều hành có nên tiếp tục nhận đãi ngộ thuế lãi vốn cho cổ phần lợi nhuận của mình, thay vì thu về mức tỷ suất cao hơn nếu các khoản lợi nhuận này bị đánh thuế như là các khoản thu nhập thường. Tôi tin rằng đãi ngộ thuế lãi vốn có tác dụng rất tốt, thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế cũng như trở thành động lực cho các cá nhân có liên quan.
Khi thành lập Sutter Hill vào năm 1965, chúng tôi đã chấp nhận tỷ lệ ăn chia 80-20 cũng như áp dụng mức phí 2,5% – và ít nhiều vẫn được duy trì ở Sutter Hill cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vẫn có một điểm khác biệt lớn giữa cấu trúc của Sutter Hill Ventures so với cấu trúc của các công ty đầu tư mạo hiểm khác. Sutter Hill được thành lập và hiện nay tiếp tục hoạt động như một “công ty cổ phần cố định”. Điều đó có ý nghĩa gì? Thay vì đề nghị các cổ đông góp vốn đầu tư vào từng giai đoạn (ví dụ, Giai đoạn I, II và III, mỗi giai đoạn kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định, 10 năm chẳng hạn), thì Sutter Hill đánh giá
toàn bộ danh mục đầu tư 4 năm một lần và cho phép các cổ đông góp vốn rút toàn bộ tiền của mình vào thời điểm đó – dưới dạng tiền mặt hoặc cổ phiếu của công ty.
Khi rời Sutter Hill vào năm 1981 để trở thành thành viên trong chính phủ Reagan, tôi nhận về phần cổ phiếu và sau này trở thành cổ đông góp vốn. Hóa ra đó lại là một quyết định đúng đắn vì công ty tiếp tục làm ăn rất phát đạt. 35% lợi nhuận thực tế (IRR) của công ty đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư lớn khác. Như tôi đã từng đề cập thì Tập đoàn Genstar của Canada đã đầu tư toàn bộ số vốn ban đầu cho Sutter Hill. Khi British Tobacco mua Genstar vào giữa thập niên 1980, thì người khổng lồ trong lĩnh vực thuốc lá này cho rằng việc tham gia vào một trò chơi mạo hiểm qua một chi nhánh mới của công ty không còn hấp dẫn. Yale, MIT, Stanford và Princeton lao vào mua cổ phần Sutter Hill từ Genstar. Đã hơn 25 năm trôi qua nhưng cả bốn tổ chức lớn này vẫn là các cổ đông góp vốn của Sutter Hill cho đến ngày nay và tất cả họ đều rất hài lòng với khoản đầu tư của mình.
Cơ cấu cố định trước đây là lý do tại sao Sutter Hill tiếp tục phát triển. Lợi tức của các cổ đông điều hành cũng như các cổ đông góp vốn; lợi tức của các cổ đông trẻ cũng như các cổ đông lâu năm. Ở hầu hết các công ty đầu tư mạo hiểm ngày nay, các khoản đầu tư thường được thực hiện theo từng giai đoạn, trong những khoảng thời gian nhất định. Cơ chế này chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu của các cổ đông góp vốn, những người không thích ý tưởng tổng kết đánh giá 4 năm một lần – như từng được thực hiện ở Sutter Hill – bởi vì họ e rằng như thế là thiếu công bằng. Lý giải cho những hồ nghi đó, tôi cho rằng các cổ đông góp vốn luôn có quyền rút cổ phần của mình hoặc bán nó bất cứ khi nào. Hay nói cách khác, các cổ đông góp vốn không buộc phải chấp nhận bản đánh giá tổng thể của các cổ đông điều hành nếu họ có bất cứ nghi ngờ nào về tính công bằng của quá trình đánh giá đó.
Vì thế điểm bất lợi đối với một doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo giai đoạn (Giai đoạn I, II và III) là gì? Có thể tóm gọn trong tình huống này, đó là xu hướng rút vốn nhanh, chủ yếu do áp lực từ các cổ đông và nhân viên trẻ hơn với mong muốn nhận về cổ phần lớn hơn ở giai đoạn tiếp theo. Ngoài ra, theo luật bình quân, việc kết thúc từng giai đoạn đầu tư có thể ảnh hưởng đến các công ty trong danh mục đầu tư cá nhân. Nói cách khác, khi một công ty trong danh mục đầu tư cần vốn nhiều nhất trong giai đoạn hoạt động thì đã đến ngày đáo hạn của giai đoạn đầu tư này và bị rút cạn vốn.
Trái lại, hệ thống cố định không bao giờ khiến công ty cạn tiền. Các yêu cầu vốn mới của mỗi công ty trong danh mục đầu tư được cân nhắc dựa trên chính giá trị của chúng, khi các công ty này hoạt động theo đúng kế hoạch của họ. Hay nói cách khác, tất cả các công ty thuộc danh mục đầu tư đều được rót vốn từ cùng một nguồn và nguồn này không bao giờ cạn. Sutter Hill sẽ bán cổ phần của mình khi nhận thấy giá cổ phiếu của công ty đạt “đỉnh” trên thị trường hoặc sau khi hợp nhất với một công ty công khác. Nó làm giàu thêmnguồn tài chính của công ty, và mọi người – cả cổ đông góp vốn lẫn cổ đông điều hành, lâu năm hay mới đều nhận về phần lợi nhuận tương xứng. Có một cách đánh giá rất thú vị về hiệu quả của cách thức này đối với thành công của Sutter Hill đó là: Khoảng một nửa các vị trí trong các công ty cổ phần được các cổ đông điều hành nắm giữ, bởi mỗi lần phân chia cổ phần trong nhiều năm qua, thay vì rút tiền ra, họ đầu tư ngược lại doanh nghiệp với tư cách cổ đông góp vốn. Một phiếu cho sự tự tin!
Bạn sẽ thấy những khả năng mang tính “thế hệ” rất thú vị trong từng công ty đầu tư mạo hiểm. Khi thành lập Sutter Hill Ventures, tôi 37 tuổi còn Paul Wythes mới 32 và vì thế Paul nhanh chóng hòa nhập với một nhóm những nhân viên ở nhiều độ tuổi khác nhau trong công ty. Cậu ấy có vẻ giống như một thế hệ khác và chắc chắn đó là một lợi thế. Paul là một kỹ sư cơ khí tốt nghiệp Đại học Princeton và nhận bằng MBA Stanford. Cậu
ấy phối hợp rất ăn ý với tôi: Thoải mái, cởi mở nhưng cũng rất thận trọng khi xử lý tiền bạc. Chuyên môn về kỹ thuật của cậu ấy giúp tôi hiểu rõ hơn về một số sản phẩm mà chúng tôi đầu tư. Sự nhạy bén trong cách nhìn người của cậu ấy bổ khuyết cho tôi, ngoài ra vợ tôi Phyllis và vợ của cậu ấy vẫn giữ được mối quan hệ thân tình từ đó đến nay.
Chúng tôi phải tìm kiếm thêm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, do có quá nhiều các công ty mới đi vào hoạt động cần đầu tư. Paul và tôi cần thêm tiền cũng như các nhân viên có kỹ năng để hỗ trợ công ty. Chúng tôi đều hiểu rằng đầu tư mạo hiểm là một cỗ máy luôn tiến về phía những ý tưởng mới mẻ, các thị trường tiềm năng, các doanh nhân trẻ vì thế chúng tôi muốn tìm kiếm các cổ đông trẻ và có năng lực hơn chúng tôi.
Hai nhân viên được chúng tôi thuê đầu tiên là Len Baker và Dave Anderson, cả hai đều kém Paul 10 tuổi và đều là những cổ đông điều hành của Sutter Hill cho đến ngày nay. Len tốt nghiệp khoa Toán, Đại học Yale và nhận bằng MBA Stanford, là người có tư duy nhạy bén, tài phân tích tài tình, thích trở thành một luật sư và không bao giờ hồ nghi bất cứ điều gì. Cậu ấy là người làm việc chăm chỉ và siêng năng nhất trong số chúng tôi. Thật trùng hợp, cậu ấy tham gia vào Ủy ban Hội thẩm 19 người của Đại học Yale khi tôi hết nhiệm kỳ. Dave là kỹ sư điện tử tốt nghiệp Đại học MIT và MBA Harvard, một chàng thanh niên nhanh nhạy với các công nghệ tiên tiến, một người thân thiện nhưng khá dè dặt, một người đáng tin cậy và trung thành. Dave mang sự ấm áp và thân thiện “chiêu đãi” các doanh nhân khi họ đến với Sutter Hill.
Bốn chúng tôi làm việc cùng nhau hơn 15 năm và bổ khuyết cho những điểm yếu của nhau khá ăn ý. Sự đa dạng về tuổi tác cũng là một “gia vị” quan trọng. Nó giúp chúng tôi thu hút được những tài năng kinh doanh xuất chúng, “sải tay” của mình đến các thị trường mới và làm cho các mối quan hệ của chúng tôi
luôn hiệu quả và dễ chịu. Đến tận bây giờ, chúng tôi vẫn rất hiểu và trân trọng tình cảm của nhau.
Tỷ lệ phân chia cổ phần ban đầu giữa tôi và Paul là 12,5% và 7,5%. Sau một vài năm, tôi để Dave và Len mỗi người giữ 2% cổ phần, và tôi vẫn là cổ đông lớn nhất của công ty, tiếp đến là Paul. Tuy vậy, theo quan điểm của tôi, thì không có sự phân cấp nào dựa trên cổ phần của công ty. Chúng tôi đối xử với nhau rất bình đẳng và các quyết định liên quan đến quyền lợi của công ty đều được thực hiện dễ dàng và thông qua biểu quyết. Thực vậy, Paul và tôi đều “ở ngoài” nhiều hơn – chủ yếu vì chúng tôi đều đã từng là nhân viên kinh doanh và rất yêu thích công việc đó – nhưng mọi vụ đầu tư đều là công sức của tất cả chúng tôi. Chúng tôi sẽ chỉ định một cổ đông để tham gia vào ban điều hành của mỗi công ty mới thành lập, và người đó không nhất thiết phải là người đã mang về vụ đầu tư đó. Quan trọng hơn, khi một công ty trong danh mục đầu tư cần hỗ trợ, tất cả chúng tôi đều góp sức. Tư duy phân tích của Len, tài năng kỹ thuật của Dave, sự hiểu biết toàn diện của Paul và khả năng nhìn người của tôi có thể được kết hợp một cách đầy hiệu quả. Sau khi tôi rời Sutter Hill, nhiều tài năng xuất chúng mới được tuyển dụng vào, và công ty đi theo một mức độ chuyên môn hóa cao hơn – một xu hướng thay đổi trong quá trình phát triển ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm ở thung lũng Silicon này. Nhưng công bằng mà nói, Sutter Hill vẫn chỉ hoạt động theo cách thức như khi tôi vẫn còn làm việc ở đó và vẫn là một trong những công ty hàng đầu về đầu tư mạo hiểm.
Hầu hết các công ty đầu tư mạo hiểm ra đời trong những năm 1960 và 1970 vẫn còn hoạt động. Kleiner Perkins và Sequoia là những công ty thành công nhất – với những thương vụ làm ăn đình đám như Yahoo! và Google – nhưng có rất nhiều các công ty đầu tư mạo hiểm hoạt động ổn định khác như Mayfield, Greylock, NEA, Charles River và Menlo Vetures, các công ty này vẫn tiếp tục đầu tư vào các thương vụ lớn, củng cố nền tảng và
tạo dựng uy tín cũng như danh tiếng của mình trong ngành công nghiệp này.
Danh tiếng thực sự là một vụ đầu tư thành công rất lớn. Điều này hoàn toàn đúng trong kinh doanh nói chung và đối với đầu tư mạo hiểm nói riêng – ở cả mức độ doanh nghiệp lẫn toàn ngành. Danh tiếng của bất kỳ một công ty đầu tư mạo hiểm nào đều cần sự đầu tư về thời gian, sự tập trung công sức và tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro.
Các nhà đầu tư mạo hiểm khôn ngoan – những người gây dựng được chữ “tín” của mình – thường chỉ làm việc bằng những cái bắt tay. Họ sẵn sàng chia sẻ những nguy cơ thất bại tiềm ẩn và không “thừa nước đục thả câu”. Những cá nhân này rất thận trọng, bởi mỗi vụ đầu tư đối với họ phải mang về không những lợi nhuận mà còn cả mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp. Họ cũng cẩn trọng bởi danh tiếng của họ gắn liền với thành công và thất bại của mỗi công ty trong danh mục đầu tư. Thất bại của bất kỳ công ty nào cũng đều có tiềm năng kéo theo sự thất bại của nhiều công ty khác. Bản thân việc này không phải là một vụ đầu tư khôn ngoan. Nhưng các nhà đầu tư mạo hiểm nên phản ứng như thế nào trước những thất bại đó? Họ có bình tĩnh và đoàn kết trong bất cứ tình huống nào dù thành công hay thất bại không? Những lời khuyên có tác dụng với họ chứ? Các mối quan hệ của họ giúp ích được gì chăng? Họ sẽ cố gắng đến cùng? Nếu không làm tốt tất cả những điều đó, họ không thể tồn tại được lâu trong một cộng đồng gắn kết chặt chẽ đến kinh ngạc này.
“Nhà đầu tư thiên thần” và các khoản đầu tư
Cũng có một nguồn quỹ khác mà chúng ta nên tìm hiểu. Ngày nay, có hàng nghìn cá nhân ở thung lũng Silicon hoạt động như các nhà đầu tư mạo hiểm nhưng tách biệt hoàn toàn với bất kỳ công ty chuyên về đầu tư mạo hiểm nào. Họ được biết đến như là các “nhà đầu tư thiên thần”.
Khi tôi mới bắt đầu bước chân vào thế giới đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư thiên thần chỉ xuất hiện ở cánh gà của các nhà hát. Một nhà đầu tư thiên thần có thể đầu tư cho một buổi công chiếu âm nhạc ở Broadway, nhưng không bao giờ quan tâm đến việc hỗ trợ tài chính cho các công ty mới khởi nghiệp. Vào thời điểm đó, một công ty mới thành lập chẳng khác nào một “trường hợp đặc biệt” và có xu hướng chỉ nhận được đầu tư từ bạn bè, người thân, cổ đông của một công ty đầu tư nhỏ, một cá nhân giàu có có tinh thần phiêu lưu còn các nhà đầu tư thiên thần thì không.
Một số nhà đầu tư thiên thần ngày nay hoạt động rất hiệu quả và thi thoảng họ cũng đầu tư vào việc thành lập một công ty mới khởi nghiệp và đưa nó vào hoạt động. Ví dụ, Ron Conway, một “nhà đầu tư thiên thần” nổi tiếng vì có một khoảng thời gian luôn từ chối các doanh nhân trẻ, nhiệt huyết. Anh ta có mối quan hệ rất rộng và luôn đón đầu thông tin về các cơ hội mới trước những người khác. Vụ làm ăn này của Conway bao giờ cũng mở đường cho những vụ tiếp theo. (Điều này hoàn toàn đúng đắn đối với hầu hết các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm như chúng tôi nhưng do một yếu tố nào đó, chuẩn xác với Conway hơn.) Anh ta thường hạn chế mức đầu tư tối đa của mình là 100.000 đô-la trong mỗi khoản đầu tư nhưng lại đầu tư rất nhiều vụ – có thể nhiều hơn bất kỳ một cá nhân nào ở thung lũng Silicon này. Cuối cùng, anh ta xúc tiến các khoản đầu tư của mình một cách nhanh chóng và khiến chúng liên tục sinh lời.
Các nhà đầu tư thiên thần này thường tổ chức những buổi tiệc chiêu đãi và các doanh nhân trẻ được mời đến trình bày trực tiếp trước tất cả mọi người. Việc này là cơ hội cho các doanh nhân trẻ bởi họ sẽ được tiếp xúc với nhiều nhà đầu tư tiềm năng hơn. Đương nhiên, việc làm này cũng rất hữu ích đối với các nhà đầu tư thiên thần bởi họ có cơ hội được trực tiếp lắng nghe quan điểm của người khác trước khi đầu tư.
Internet đã giúp quá trình đầu tư của các nhà đầu tư thiên thần thực tế hơn và làm gia tăng các cơ hội thành công của một nhà đầu tư thiên thần có năng lực. Các nhà đầu tư thiên thần ngày nay có thể lướt qua hàng núi thông tin mà không cần phải ra khỏi văn phòng làm việc. Họ có thể kiểm tra hồ sơ của ứng viên và thu thập thông tin về thị trường. Họ cũng có thể tiếp cận tất cả những người cần liên hệ ngay lập tức để thu thập ý kiến về vấn đề được đưa ra.
Đầu tư theo kiểu thiên thần, một khi được nhìn nhận như sự biến đổi kỳ lạ trong ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm – hơi thở cuối cùng của một kẻ theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Trong nhiều trường hợp, đầu tư theo kiểu thiên thần có thể trở thành phao cứu sinh của một công ty mới thành lập trước khi công ty này thu hút được sự chú ý của các quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp hơn. Không phải tất cả các nhà đầu tư thiên thần đều có tiềm lực và các mối quan hệ rộng như Ron Conway, nhưng tất cả các doanh nhân mới vào nghề đều cần mọi sự giúp đỡ có thể. Đôi khi, một nhà đầu tư thiên thần không giúp ích được nhiều nhưng còn hơn là chẳng có nhà đầu tư thiên thần nào. Tuy nhiên, điều đáng nói là, cho dù các doanh nhân có làm việc với các nhà đầu tư mạo hiểm hay các nhà đầu tư thiên thần, thì chất lượng và uy tín của các nhà đầu tư nhiều lúc quan trọng hơn nhiều so với số tiền mà họ đầu tư.
Các vụ đầu tư chiến lược từ các công ty liên doanh
Rất nhiều công ty mới thành lập gây được quỹ trang trải cho một hoặc hai giai đoạn hoạt động từ các quỹ đầu tư mạo hiểm đều nhận thấy rằng dòng vốn của những vụ đầu tư chiến lược từ các công ty liên doanh – thường tập trung và hiệu quả hơn.
Hình thức cấp vốn này thường không khả dụng đến khi công ty đi vào hoạt động ổn định. Các công ty đầu tư liên doanh thường hứng thú đón đầu một công nghệ, dịch vụ hoặc phương pháp tiếp cận mới có tầm ảnh hưởng đến nền công nghiệp của chính
mình. Lợi nhuận kinh tế trong loại đầu tư này thường có tầm quan trọng thứ yếu. Vì lý do này, cả doanh nhân lẫn nhà đầu tư mạo hiểm đều vui vẻ đón nhận các nhà đầu tư chiến lược – đương nhiên, nếu không việc tiết lộ những bí mật của công ty sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai thành bại của doanh nghiệp.
Các ví dụ về những công ty trong danh mục đầu tư của Draper Richards thu được lợi nhuận từ các đầu tư chiến lược từ trước đến nay bao gồm Kyte (nền tảng video di động và trực tuyến) và Online Anywhere. Telefonica, người khổng lồ trong giới thông tin châu Âu đã đầu tư vào Kyte trong giai đoạn khởi đầu – trên thực tế là trong vòng hai năm “ươm mầm” của chúng tôi. Công nghệ mới của Kyte cho phép video được truyền thẳng vào các đám mây và ngay lập tức được phát đi khắp nơi, thậm chí không qua Internet.
Online Anywhere là một công ty được ba doanh nhân người Ấn Độ thành lập và được Draper Richards và Motorola Ventures hào hứng cấp vốn. Motorola rất hứng thú trong việc đón đầu những đổi mới công nghệ trong ngành công nghiệp viễn thông, vì vậy Motorola đã thành lập một công ty riêng để đầu tư vào các công ty mới thành lập cùng với các nhà đầu tư mạo hiểm.
Khi nghĩ đến Online Anywhere, công ty này khiến tôi bật cười. Sridhar Ranganathan, một trong những người sáng lập công ty này lúc đó đã tiếp cận chúng tôi khi tôi và Robin Richards đang ở Mumbai, Ấn Độ. Anh ta muốn cho chúng tôi thấy một khái niệm cơ bản mới: Anh ta muốn chạy máy tính của chúng tôi trên một chiếc ti vi và không cần dây kết nối. Chúng tôi ngồi xuống, đợi, đợi và đợi. Toàn thành phố bị mất điện – một hiện tượng thường thấy trong giai đoạn này – giữa thập niên 1990. Chúng tôi rất thất vọng khi không thể nhìn thấy buổi “trình diễn” đó bởi tôi và Robin sẽ trở về Mỹ vào sáng hôm sau. Tuy nhiên, Sridhar hứa sẽ cùng đối tác của anh ta đến nhà tôi ở California vào tuần sau đó để trình bày trực tiếp với tôi về vấn đề này.
Như đã hẹn, tuần tiếp theo, đối tác của Sridhar, Anurag xuất hiện trước cửa nhà tôi. Buổi “trình diễn” thật ấn tượng và cho dù ngày nay, công nghệ này đã lạc hậu nhưng tại thời điểm đó, tôi chưa bao giờ nhìn thấy thông tin trên máy tính được chiếu trên màn hình ti vi. Tôi rất háo hức và sẵn sàng đầu tư. Anurag chào tạm biệt chúng tôi và hài lòng ra mặt với phản ứng của tôi đối với bản mẫu của mình. Tuy nhiên, tối hôm đó, tôi bật ti vi lên và thấy màn hình tối đen. Ôi! Tôi sẽ không bao giờ đầu tư vào công ty này, tôi tức tối tự nhủ.
Ngày hôm sau, thợ sửa ti vi đến và sau một vài phút, anh ta đưa tôi một hóa đơn trị giá 40 đô-la. Tôi hỏi người thợ sửa ti vi xem Anurag đã làm gì với cái ti vi của tôi và anh ta đã sửa như thế nào? Anh ta cười và nói rằng Anurag chỉ rút giắc cắm điện và anh ta đã cắm nó lại mà thôi – một cơn khủng hoảng ngắn ngủi khác trong cuộc sống của một người theo học chuyên ngành lịch sử như tôi khi phải xoay xở với thế giới công nghệ phức tạp ngày nay.
Draper Richards, cùng với Motorola đã đầu tư vào công ty này và hóa ra nó mang lại thành công lớn. Vào năm 1999, chúng tôi bán công ty này cho Yahoo! với giá 80 triệu đô-la và họ chỉ thực hiện một thay đổi duy nhất: Đổi tên công ty từ Online Anywhere thành Online Everywhere.
Các khoản vay chuyển đổi
Một dạng khác của giai đoạn cấp vốn “ươm mầm” chính là các khoản vay chuyển đổi. Tôi thấy hình thức này không hề có sức hấp dẫn. Nó hoạt động theo cơ chế sau: Khi các nhà đầu tư mạo hiểm đầu tư vào một công ty mới thành lập, họ sẽ cần nhiều tiền mặt hơn, vì thế họ buộc phải sử dụng đến các khoản vay chuyển đổi từ một ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ này.
Các khoản vay chuyển đổi là một thỏa thuận cho các công ty đầu tư mạo hiểm vay tiền khi các công ty này “cạn vốn” đầu tư.
Các khoản vay chuyển đổi có lãi suất rất cao đồng thời đảm bảo quyền mua cổ phiếu sau này với giá thị trường từ các nhà đầu tư mạo hiểm. Các khoản vay chuyển đổi thường quá sức đối với các công ty và tôi chưa bao giờ đề xuất ý tưởng này. Nếu mọi chuyện không như ý muốn và nhất là việc sử dụng các khoản vay chuyển đổi từ giai đoạn ươm mầm sẽ trở thành gánh nặng lớn đối với công ty đó, theo quan điểm của tôi, thì việc thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm thường hợp lý hơn, ít đắt đỏ hơn và an toàn hơn đối với các doanh nhân trẻ so với việc lựa chọn các khoản các khoản vay chuyển đổi. Khi các quỹ đầu tư mạo hiểm cạn vốn và những nguồn lực thay thế khác như sáp nhập hay bán lại công ty đều không khả thi, thì công ty đã đến lúc đóng cửa. Điều này đòi hỏi việc lên kế hoạch chi tiết và quản lý hiệu quả mà chúng ta sẽ được thảo luận đến trong chương 7.
Đội ngũ
Tôi thường không nói hộ lời cha hay con trai tôi nhưng tôi nghĩ cả ba thế hệ đầu tư mạo hiểm trong gia đình Draper đều đồng ý rằng khi chuẩn bị đầu tư vào một doanh nghiệp mới thành lập, bạn phải chắc chắn mình có một đội ngũ kinh doanh phù hợp. Không điều gì quan trọng hơn điều này. Thực tế, nó là chiếc chìa khóa vàng để dẫn lối đến thành công cho các doanh nghiệp.
Vậy liệu nhà lãnh đạo của công ty có những phẩm chất lãnh đạo cần thiết không? Liệu anh/cô ấy có sự nhạy bén, tư duy phán đoán, uy tín, cam kết, sự cảm thông, động lực, sự chính trực và tinh thần lạc quan không? Đương nhiên là không hội tụ có tất cả những phẩm chất đó, nhưng những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất đều được “trời phú” cho hầu hết những phẩm chất này.
Làm sao để các nhà đầu tư mạo hiểm phát hiện ra rằng họ đã tìm được đúng nhà lãnh đạo mình cần? Trên thực tế, họ thường không phát hiện ra điều này trong những buổi gặp đầu tiên. Tôi thường dành thêm thời gian trong buổi phỏng vấn đầu tiên này để đặt ra nhiều câu hỏi cá nhân. Đương nhiên cũng có cả những
câu hỏi về học vấn. Tại sao anh/chị chọn trường đó? Anh/chị có anh chị em, hay đã lập gia đình chưa? Hiện nay, họ đang làm gì, sở thích và đam mê của họ là gì. Anh/chị có biết…, vân vân và vân vân. Tại sao anh/chị lại tìm đến chúng tôi thay vì rất nhiều nhà đầu tư mạo hiểm xuất chúng khác?
Thế rồi vào giữa buổi nói chuyện tưởng như “tào lao” này, doanh nhân tương lai sẽ đẩy về phía tôi một tập tài liệu dày. “Ồ, vâng,” tôi đáp lại một cách hào hứng. “Kế hoạch kinh doanh! Được rồi, chúng tôi chắc chắn sẽ xem lại nó sau. Còn bây giờ, anh/chị hãy cho tôi biết thêm về đội ngũ tuyệt vời mà anh/chị vừa giới thiệu, họ có gì đặc biệt và anh/chị nghĩ mình sẽ làm được gì cho họ?”
Phong cách của mỗi người sẽ được tiết lộ trong những buổi phỏng vấn như thế này. Tôi luôn thể hiện sự hiếu khách và thân thiện trong lần gặp mặt đầu tiên. Các nhà đầu tư mạo hiểm khác như Arthur Rock lại lựa chọn một chiến thuật khác. Anh ấy sẽ nói rằng: “Xin chào,” và sau đó chẳng làm gì ngoài việc im lặng lắng nghe trong khi đối phương nỗ lực khỏa lấp sự yên ắng lan tỏa do Rock gây ra từ đầu cho đến khi kết thúc cuộc gặp mặt. Nếu đó là một ý tưởng tiềm năng và nếu doanh nhân kia là người tự tin, thì chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng nếu một bài thuyết trình không tốt như mong muốn – với nội dung thiếu hấp dẫn, cách tiếp cận vấn đề thiếu khoa học – thì buổi gặp mặt có thể kết thúc sau 15 phút một cách không thoải mái. Một Rock với vẻ mặt cau có sẽ nói rằng: “Thôi đủ rồi”, và mọi chuyện kết thúc ở đó.
Rock cũng như tôi đều cảm thấy “gia vị” quan trọng nhất ở bất kỳ công ty nào đó là tư duy, tâm huyết và tầm nhìn của người lãnh đạo. Nếu sản phẩm của công ty gặp vấn đề thì một nhà lãnh đạo có tầm nhìn sẽ nảy ra một phương án thay thế mới. Nếu thị trường chao đảo, nhà lãnh đạo sẽ hướng cả đội đến một thị trường tiềm năng khác. Vì thế, không ngạc nhiên khi cả Rock lẫn tôi đều không quan tâm nhiều đến những tiểu tiết của kế hoạch mà thay vào đó là tài năng của nhà lãnh đạo.
Từ khi nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc lựa chọn chính xác nhà lãnh đạo phù hợp, tôi luôn cười khoái trá mỗi khi nghĩ đến cách chúng tôi đã chọn được “nhà lãnh đạo phù hợp nhất” cho Tập đoàn Quantum – một trong những công ty trong danh mục đầu tư thành công nhất của Sutter Hill Ventures – một công ty đã trở thành nhà sản xuất ổ đĩa cứng lớn nhất trên thế giới trước khi bộ phận này của công ty được bán cho Maxtor.
Có những 4 kỹ sư tài năng đến văn phòng của Sutter Hill và đề cập đến chiến lược của mình trong việc thành lập một công ty mới. Tôi đón đầu bằng cách hỏi họ ai sẽ là CEO tiềm năng. Họ nhìn nhau bẽn lẽn và thừa nhận rằng họ vẫn chưa nghĩ về điều đó. Sau đó, một người trong số họ lên tiếng: “Jim, sao anh không đảm nhận vị trí đó đi?” Một người khác hùa vào: “Ồ đúng rồi, Jim, cậu có ít việc phải làm nhất!” James L. Patterson đã điều hành Quantum đến khi tổng doanh thu của tập đoàn này chạm mốc hàng tỷ đô-la. Chúng tôi đã kiểm chứng một phương pháp lựa chọn chính xác CEO phù hợp. Câu chuyện về Quantum thật hài hước và khiến chúng tôi cười suốt trên đường đến ngân hàng.
Nếu buổi gặp gỡ đầu tiên giữa nhà đầu tư mạo hiểm và doanh nhân diễn ra tốt đẹp, các nhà đầu tư có kinh nghiệm sẽ thực sự bắt tay vào công việc. Tuy nhiên, việc kiểm tra năng lực và trình độ chuyên môn của cả đội là một quy trình cần thiết. Những ý kiến của người này thường khái quát thêm về những người có liên quan. Tôi luôn đề nghị một người trong nhóm các doanh nhân giới thiệu cho tôi một người mà tôi nên nói chuyện. Thường thì người đó rất sẵn lòng khi tôi đề nghị như vậy. Cô ấy có thể cảm thấy nặng nề khi kể toàn bộ sự thật về một người trong khi biết rằng tôi cũng có thể hỏi Steve hay Joe về vấn đề đó – và cảm nhận được mong muốn tìm hiểu của tôi.
Các doanh nhân có tỷ lệ thất bại thấp nhất là những người hiểu tường tận lĩnh vực của mình; đã từng điều hành một công ty khác (hoặc làm trưởng bộ phận của một công ty) gần giống với